thảo luận tcc

47
Tài chính công – Nhóm 7 STT Họ và tên sinh viên Phân công công việc Tự đánh giá Nhóm trưởng đánh giá Ký tên 1 Nguyễn Thị Phượng Các giải pháp của Chính phủ về khắc phục những khuyết tật của thị trường; Tổng hợp Word 2 Nguyễn Thị Thắm Phân Tích Đánh Giá Chi Tiêu Công 3 Trần Thị Phương Thuyết trình 4 Vũ Mai Phương Khái niệm, đặc điểm, [Type text] Page 1

description

Đánh giá chi tiêu công là một trong các hoạt động quan trọng nhằm xác định kết quả cũng như các mặt hạn chế trong quản lý chi tiêu công của Chính phủ. Thông qua đánh giá chi tiêu công, Chính phủ sẽ có thêm căn cứ để xây dựng chính sách cũng như chương trình hành động đúng đắn hơn, mang lại hiệu quả cao hơn, đặc biệt là xử lý tốt hơn mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm nghèo và hội nhập quốc tế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm sẽ đi sâu và khai thác đề tài: “ Trong Quá Trình Đánh Giá Phân Tích Chi Tiêu Công, Chính Phủ Đã Sử Dụng Những Hinhg Thức Can Thiệp Nào? Liên Hệ Những Hình Thức Can Thiệp Đó Trong Việc Cung Ứng Các Hàng Hóa Dịch Vụ Công Của Chính Phủ Việt Nam Hiện Nay.”

Transcript of thảo luận tcc

Page 1: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

STT Họ và tên Mã sinh viên

Phân công công việc

Tự đánh giá

Nhóm trưởng đánh giá

Ký tên

1 Nguyễn Thị PhượngCác giải pháp của Chính phủ về khắc phục những khuyết tật của thị trường; Tổng hợp Word

2 Nguyễn Thị Thắm Phân Tích Đánh Giá Chi Tiêu Công

3 Trần Thị Phương Thuyết trình

4Vũ Mai Phương Khái niệm,

đặc điểm, và vai trò của chi tiêu công

5Lê Văn Tâm Các hình

thức can thiệp của Chính phủ Việt Nam trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công hiện nay

6Nguyễn Mạnh Thắng Một số

hình thức can thiệp của các

Page 1

Page 2: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

nước trên Thế Giới

7 Vũ Thị Thu Phương Các hình thức can thiệp của Chính phủ đến chi tiêu công

8 Trần Thị Thắm Làm slide

9 Đào Thị Son Dự toán chi tiêu công năm 2015 ở Việt Nam

Nhóm Trưởng

Page 2

Page 3: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

MỤC LỤC

Page 3

Page 4: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

LỜI MỞ ĐẦU

Đánh giá chi tiêu công là một trong các hoạt động quan trọng nhằm xác định kết quả cũng như các mặt hạn chế trong quản lý chi tiêu công của Chính phủ. Thông qua đánh giá chi tiêu công, Chính phủ sẽ có thêm căn cứ để xây dựng chính sách cũng như chương trình hành động đúng đắn hơn, mang lại hiệu quả cao hơn, đặc biệt là xử lý tốt hơn mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm nghèo và hội nhập quốc tế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm sẽ đi sâu và khai thác đề tài: “ Trong Quá Trình Đánh Giá Phân Tích Chi Tiêu Công, Chính Phủ Đã Sử Dụng Những Hinhg Thức Can Thiệp Nào? Liên Hệ Những Hình Thức Can Thiệp Đó Trong Việc Cung Ứng Các Hàng Hóa Dịch Vụ Công Của Chính Phủ Việt Nam Hiện Nay.”

Page 4

Page 5: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Chương 1. Những Vấn Đề Lý Luận Chung Về Chi Tiêu Công.

1.1 Khái niệm, đặc điểm, và vai trò của chi tiêu công

1.1.1 Khái niệm chi tiêu công

Quan sát hiện tượng bên ngoài của Tài chính công có thể khái niệm: Chi tiêu công là khoản chi tiêu của các cấp chính quyền , các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp được kiểm sát và tài trợ bởi chính phủ.

Về mặt bản chất: Chi tiêu công là quá trình phân phối và sử dụng quỹ tài chính công nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

Chi tiêu công phản ánh giá trị của các loại hàng hóa mà chính phủ mua vào để qua đó cung cấp các loại hàng hóa công cho xã hội nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước.

Chi tiêu công thể hiện các khoản chi của NSNN hàng năm đã được Quốc Hội thông qua.

1.1.2 Đặc điểm của chi tiêu công.

+ Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia.

Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế - xã hội của Nhà nước và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó Nhà nước đã cung cấp một lượng hàng hóa khổng lồ cho nền kinh tế.

+ Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện.

Các khoản chi tiêu công do chính quyền Nhà nước các cấp đảm nhận theo nội dung đã được qui định trong phân cấp quản lý NSNN và các khoản chi tiêu công này nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, các cấp của cơ quan quyền lực Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ của các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị , xã hội của quốc gia.

+ Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng

Chi tiêu công tương ứng với các đơn đặt hàng của Chính phủ về mua hàng hóa dịch vụ nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Đông thời đó cũng là những

Page 5

Page 6: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

khoản chi cần thiết, phát sinh tương đối ổn định như: chi lương cho viên chức bộ máy Nhà nước, chi hàng hóa, dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dung công cộng của các tầng lớp dân cư.

+ Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công

Điều này được quyết định bởi những chức năng tổng hợp về kinh tế- xã hội của Nhà nước

1.1.3 Vai trò của chi tiêu công

Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Chính phủ được biểu hiện rõ nét qua tính chất chi tiêu công . Thực tế nền kinh tế thị trường hiện đại đã khẳng định chi tiêu công là nhằm cung ứng những hàng hóa công mà ở đó chính khu vực kinh tế tư nhân bị thất bại; hay nói cách khác, kinh tế thị trường đã hình thành rõ ràng quy luật là hàng hóa công và sự cung ứng nó là thuộc về trách nhiệm tối cao mà Chính phủ phải đầu tư thỏa đáng . Đối với những nền kinh tế đang chuyển đổi, Chính phủ phải tiến hành đẩy mạnh chính sách thị trường hóa các quan hệ tài chính của chi tiêu công, một mặt là nhằm cải thiện tính minh bạch, rõ ràng về tài chính và điều chỉnh lại chức năng quản lý sao cho phù hợp với cơ chế thị trường; mặt khác là để tối ưu hóa sự phân bổ chi tiêu công trong sự gắn kết với khuôn khổ giới hạn về nguồn lực tài chính.

+ Chi tiêu công có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư của khu vực tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Vai trò này được thể hiện rõ nét thông qua các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, như: đường xá, bến cảng ,sân bay, điện, kênh, đập.. Khi cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển thì các ngành kinh tế của khu vực mới có điều kiện để phát triển theo. Cơ sở hạ tầng giao thông phải luôn đi trước một bước trong việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế.

Ở bất kỳ giai đoạn nào, để cho nền kinh tế phát triển cân đối thì giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế phải được duy trì theo một cơ cấu hợp lí và do vậy cần phải có “cú hích” sự đầu tư trọn gói ban đầu của Chính phủ vào các ngành công nghệ mới , công nghệ mũi nhọn thuộc bề nổi nhưng không thu hút được vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân. Sự đầu tư của Chính phủ vào những lĩnh vực ưu tiên này sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển hay công nghiệp hóa cho phần còn lại của nền kinh tế. Phối hợp với chính sách đầu tư trọn gói là chính sách hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ cho các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau.

Page 6

Page 7: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Sự hỗ trợ của Chính phủ thường tập trung vào các lĩnh vực quan trọng nhằm bù đắp các thua thiệt của các doanh nghiệp phải hoạt động theo chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mặt khác, sự hỗ trợ của Chính phủ về nguồn nhân lực thông qua chính sách phát triển hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học,… đã góp phần rất quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước

+ Chi tiêu công góp phần điều chỉnh chu kì kinh tế.

Hoạt động chi tiêu công của Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tổng cầu xã hội phát triển. Chính phủ đã tiêu dùng một khối lượng hàng hóa to lớn trong quá trình vận hành bộ máy hoạt động của mình từ đó hình thành nên một thị trường đặc biệt. Trên góc độ này mà nói, thị trường chính phủ trở thành công cụ kinh tế quan trọng của Chính phủ nhằm tích cực tái tạo lại cân bằng của thị trường hàng hóa khi bị mất cân đối bằng cách tác động vào các quan hệ cung cầu thông qua tăng hay giảm mức độ chi tiêu công ở thị trường này.

+ Chi tiêu công góp phần tái phân phối thu nhập xã hội giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội.

Về mặt xã hội, tài chính công góp phần điều tiết công bằng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư bằng cả hai công cụ là thuế và chi tiêu công. Trong khi thuế là công cụ mang tính chất động viên nguồn thu cho NSNN, thì chi tiêu công mang tính chất chuyển giao thu nhập đến những người có thu nhập thấp thông qua các khoản chi an ninh xã hội, chi cho chương trình giải quyết việc làm…nhằm tạo ra sự công bằng xã hội.

1.2 Phân Tích Đánh Giá Chi Tiêu Công

1.2.1 Mục đích của phân tích đánh giá chi tiêu công

Chi tiêu công phản ánh sự phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công của Nhà nước. Về cơ bản đánh giá chi tiêu công là việc đánh giá công tác hoạch định chính sách của ngân hàng và xây dựng thể chế. Nó là một công cụ chủ yếu trong việc phân tích các vấn đề của khu vực công và lý giải tại sao khu vực công cần thiết phải tài trợ cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Mục đích cơ bản của đánh giá chi tiêu công là giúp cho Chính phủ sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính công thông qua ưu tiên hóa các khoản chi tiêu nhằm đem lại lợi ích thiết thực vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội.

1.2.2 Quy trình và nội dung phân tích đánh giá chi tiêu công

- Về tổng thể, đánh giá chi tiêu công là một quá trình phân tích trên 2 khía cạnh:

Page 7

Page 8: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

+ Mặt định tính: Lựa chọn những loại hàng hóa công mà Chính phủ nên cung cấp cho xã hội.

+ Mặt định lượng: Xem xét chi phí bỏ ra để cung cấp hàng hóa công và lợi ích mà hàng hóa công mang lại.

- Về chi tiết, quá trình đánh giá chi tiêu công được tiến hành theo các bước:+ Bước 1: Phân tích chương trình chi tiêu công

Chương trình là cơ sở định hướng để thực hiện chi tiêu công. Chi tiêu công theo chương trình sẽ giúp cho Chính phủ tập trung dứt khoát vào sự lựa chọn trong số các chương trình có tính cạnh tranh. Bước phân tích này phải làm rõ các vấn đề cơ bản sau:

• Chương trình chi tiêu công tạo ra hàng hóa gì? Có thực sự cần thiết hay không?• Lợi ích của nó mang lại cho địa phương, vùng hay cả quốc gia?• Nó có đáp ứng đại đa số nguyện vọng của người dân hay không?

+ Bước 2: Phân tích thất bại của thị trường

Nội dung phân tích cần tập trung vào gắn kết nhu cầu chi tiêu để thực hiện chương trình với một hoặc nhiều thất bại của thị trường như:

• Thất bại của cạnh tranh mà nguyên nhân là do sự hình thành các công ty độc quyền và kéo theo là sự độc quyền trong việc định giá sẽ gây ra các tổn thất về phúc lợi xã hội.

• Sự thiếu hụt hàng hóa công là một trong những yếu tố gây ra sự thất bại thị trường. Thị trường không thể cung cấp hoặc nếu có cung cấp thì cũng không thể cung cấp đầy đủ hàng hóa công thuần túy cho xã hội.

• Yếu tố ngoại lai mà là ngoại lai tiêu cực cũng là một trong những thất bại của thị trường. Một khi ngoại lai tiêu cực xuất hiện sẽ làm cho việc phân bổ các nguồn lực của thị trường không hiệu quả. Vì các cá nhân không chịu toàn bộ các chi phí của các ngoại lai tiêu cực mà họ gây ra, nên họ tham gia vào nhiều hoạt động gây ra yếu tố ngoại lai tiêu cực.

• Thị trường không hoàn hảo, nghĩa là thị trường không chỉ thất bại trong việc cung cấp không đầy đủ khối lượng hàng hóa công mà còn thất bại trong cung ứng một số hàng hóa tư cho dù chi phí cung cấp thấp hơn giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả. Nguyên nhân là do người sản xuất và kể cả người tiêu dùng thiếu thông tin hoàn hảo về thị trường nên dẫn đến tình trạng mức cung và cầu ở dưới mức sản lượng tối ưu.

+ Bước 3: Xác định những hình thức can thiệp của Chính phủ.

Khi đã xác định những thất bại của thị trường thì Chính phủ sẽ thực hiện chính sách can thiệp và khắc phục khuyết tật của thị trường. Có 3 cách thức can thiệp:

Page 8

Page 9: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

• Chính phủ tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó.• Thực hiện đánh thuế và trợ cấp nhằm không khuyến khích hoặc khuyến khích khu

vực tư sản xuất và cung cấp hàng hóa công.• Phối hợp cả 2 biện pháp trên:o Nếu như Chính phủ quyết định chịu trách nhiệm sản xuất và cung cấp thì Chính

phủ phải quyết định phương thức phân bổ sản phẩm, quyết định giá cả phân phối: theo giá thị trường hoặc ngang bằng chi phí sản xuất, hoặc thấp hơn chi phí hoặc cung cấp tự do không phải trả tiền.

o Còn nếu hàng hóa để khu vực tư nhân cung cấp, thì Chính phủ phải quyết định xem xét nên: ký hợp đồng trực tiếp để mua hàng hóa đó và giữ quyền quyết định phân bổ, hay trợ cấp cho các nhà sản xuất, hay trợ cấp cho người tiêu dùng.

+ Bước 4: Đánh giá tính hiệu quả.

Bước này Chính phủ tiến hành phân tích hiệu quả của chi tiêu công xét trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Trong quá trình phân tích cần chỉ rõ tác động:

• Tác động của chi tiêu công đến khu vực tư nhân. Sự phản ứng của khu vực tư đối với chính sách chi tiêu công có thể tích cực hoặc tiêu cực. Nếu là phản ứng tiêu cực sẽ làm suy giảm phúc lợi xã hội, cho nên Chính phủ nên điều chỉnh chính sách chi tiêu công của mình.

• Tác động đến thu nhập và thay thế. Đối với mỗi chương trình chi tiêu công của Chính phủ, việc phân biệt tác động thay thế và tác động thu nhập là rất hữu dụng trong hoạch định chính sách chi tiêu. Khi chương trình chi tiêu của Chính phủ làm cho các cá nhân giảm tiêu dùng một loại hàng hóa nào đó và thay thế một loại hàng hóa khác, gọi là tác động thay thế. Còn khi chương trình chi tiêu của Chính phủ làm cho các cá nhân có lợi hơn nhưng không làm thay đổi giá cả hàng hóa mà họ mua thì gọi là tác động thu nhập.

• Tác động đến phân phối. Trong mỗi chương trình chi tiêu của Chính phủ, có thể có nhiều đối tượng hưởng lợi ở những mức độ khác nhau, nhưng không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định được chính xác. Tuy vậy, khi đánh giá tác động về phân phối cần quan tâm hơn đến việc nâng cao thu nhập cho những tầng lớp dân cư có thu nhập thấp trong xã hội.

+ Bước 5: Xác định quy mô chi tiêu công và tôn trọng kỉ luật tài chính.

• Yêu cầu giới hạn tổng chi tiêu phải được thiết lập dựa vào các chi tiêu tổng thể vĩ mô như: quy mô GDP, tỷ suất thu/GDP, sự gia tăng chi hàng năm trong tổng GDP, tỷ lệ nợ/GDP, tỷ lệ tiết kiệm đầu tư/GDP, mức độ thâm hụt cán cân thanh toán... giới hạn tổng chi tiêu ngân sách Nhà nước phải được tăng cường trong suốt quá

Page 9

Page 10: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

trình thực hiện ngân sách Nhà nước và được duy trì, giữ vững ổn định trong dài hạn.

• Yêu cầu chi ngân sách Nhà nước phải được thiết lập một cách độc lập và trước khi ra quyết định chi tiêu từng phần.

+ Bước 6: Lựa chọn các mục tiêu của chính sách chi tiêu công.

Do nguồn lực có giới hạn nên trong mỗi chương trình chi tiêu của mình Chính phủ cùng một lúc khó hướng tới đạt nhiều mục tiêu. Vì vậy, cần phải lựa chọn, sắp xếp thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là mục tiêu công bằng và hiệu quả. Chính phủ phải xây dựng các thể chế để hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách chiến lược hợp lý. Cụ thể:

• Bộ máy hành chính phải có năng lực quản lý để dẫn dắt đất nước và giải trình thích đáng về quyết định chính sách.

• Cần thiết phải có một diễn đàn để các quyết định đưa ra được ràng buộc bởi nguồn lực hiện hữu trong trung hạn và trong đó các chính sách phải cạnh tranh với nhau về ý tưởng và nguồn tài trợ.

• Các bộ, ngành và chủ quản có quyền quyết định đưa các chương trình vào trong quá trình soạn lập ngân sách.

• Đối với các quốc gia mà nguồn viện trợ giữ vai trò quan trọng, thì công tác quản lý viện trợ phải tiếp cận toàn diện và chặt chẽ. Những ưu tiên của chiến lược phát triển sẽ là cơ sở để định hướng các quyết định có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng nguồn viện trợ.

1.3 Các hình thức can thiệp của Chính phủ đến chi tiêu công

1.3.1 Tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó.

Chi tiêu công là một phạm trù tài chính gắn liền với chức năng quản lý của Nhà nước và có liên quan đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Hiệu quả quản lý chi tiêu công đặt ra trong bối cảnh là nguồn lực tài chính của mỗi quốc gia đều có hạn, nhưng làm thế nào để thỏa mãn tốt những nhu cầu cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu quản lí kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. Thời gian qua Nhà nước đã nỗ lực để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, điều này được thể hiện bằng việc Nhà nước đã xây dựng khuôn khổ pháp lý về chi tiêu công, cải thiện tính minh bạch về chi ngân sách, hoàn thiện cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước.

Qủa thực là không thể phủ nhận được vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục,….Ví dụ như giáo dục là một ví dụ chứng tỏ vai trò quan trọng của Nhà nước. Điều đó phân biệt giáo dục khác với những hàng hóa

Page 10

Page 11: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

thông thường ở chỗ, Nhà nước đầu tư một lượng ngân sách hàng chục tỉ đồng hàng năm vào giáo dục mà không cần bồi hoàn lại cho ngân sách, và khoản tiền chi cho giáo dục đó là phục vụ chung cho tất cả đối tượng từ học sinh đến sinh viên mà không phải chi riêng cho một cá nhân nào. Các hàng hóa như vậy được gọi là hàng hóa công cộng. Chính vì vậy mà Chính phủ được coi là người tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa.

1.3.2 Thực hiện đánh thuế và trợ cấp nhằm khuyến khích hoặc không khuyến khích khu vực tư nhân sản xuất và cung cấp hàng hóa công.

Hàng hóa dịch vụ công không nhất thiết phải do Chính phủ cung cấp mà có thể do khu vực tư nhân cung cấp đảm bảo theo định hướng của Nhà nước thì Nhà nước sẽ dùng biện pháp này. Khu vực tư nhân kinh doanh chủ yếu là vì mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, lĩnh vực hàng hóa có khả năng mang lại lợi nhuận cao sẽ thu hút họ, trong đó có cả hàng hóa dịch vụ công. Nhưng không phải lúc nào hàng hóa dịch vụ công cung cấp cũng theo định hướng của Nhà nước. Tùy theo mỗi giai đoạn, tình hình phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước có những mục tiêu khác nhau và cung cấp dịch vụ công cũng yêu cầu khác nhau. Khi một lĩnh vực nào đó mà nhà nước muốn hạn chế khu vực tư nhân đầu tư cung cấp dịch vụ công, Nhà nước sẽ thực hiện đánh thuế.

Ngược lại, Nhà nước sẽ trợ cấp cho lĩnh vực thiếu hàng hóa dịch vụ công mà Nhà nước khuyến khích khu vực tư nhân cung cấp. Vì hàng hóa dịch vụ công không giống như hàng hóa dịch vụ tư, việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công lâu thu hồi vốn kinh doanh, vốn kinh doanh thường phải thu hồi trong một thời gian dài nên việc cung cấp một số hàng hóa dịch vụ công ít hấp dẫn đối với khu vực tư nhân. Vì vậy, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện ưu tiên thuận lợi cho khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công đó.

1.3.3 Phối hợp cả hai hình thức trên

Hàng hóa dịch vụ công cũng có thể do cả Chính phủ lẫn khu vực tư nhân cung cấp. Nếu như Chính phủ quyết định chịu trách nhiệm sản xuất và cung cấp thì Chính phủ phải quyết định phương thức phân bổ sản phẩm. Chính phủ quyết định giá cả phân phối: theo giá thị trường hoặc ngang bằng chi phí sản xuất, hoặc thấp hơn chi phí hoặc cung cấp tự do không phải trả tiền.

Còn nếu hàng hóa để cho khu vực tư nhân cung cấp, thì Chính phủ phải quyết định xem xét nên; ký hợp đồng trực tiếp để mua hàng hóa đó và giữ quyền quyết định phân bổ hay trợ cấp cho người tiêu dùng. Điều này để đảm bảo hàng hóa dịch vụ công được cung cấp cho xã hội một cách có hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo thực hiện theo đúng các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể bị

Page 11

Page 12: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

loại trừ ngày càng bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế có thể ngăn chặn dễ hơn.

Page 12

Page 13: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Chương 2. Liên Hệ Thực Tiễn Về Chi Tiêu Công

2.1 Dự toán chi tiêu công năm 2015 ở Việt Nam

Dự toán chi NSNN năm 2015 là 1.147,1 nghìn tỷ đồng, trong đó:

CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Đơn vị : Tỷ đồng

Stt

Nội dung chiDự toán2014

Ước thực hiện2014

Dự toán2015

CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1,006,700

1,070,400

1,147,100

I Chi đầu tư phát triển 163,000 169,100 195,000

II Chi trả nợ và viện trợ 120,000 120,000 150,000

1 Chi trả nợ 118,750 118,750 148,470

2 Chi viện trợ 1,250 1,250 1,530

III Chi phát triển các sự nghiệp KT- XH, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính

704,400 717,500 767,000

Trong đó:

1 Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề 174,481 176,639 184,070

2 Chi Y tế 60,290 60,732 67,030

3 Chi dân số và kế hoạch hoá gia đình 547 547 590

4 Chi khoa học, công nghệ 7,680 7,680 9,790

5 Chi văn hoá, thông tin 5,690 5,755 6,080

6 Chi phát thanh, truyền hình, thông tấn 3,090 3,143 3,490

7 Chi thể dục thể thao 2,260 2,291 2,450

8 Chi lương hưu và bảo đảm xã hội 107,653 110,360 112,600

9 Chi sự nghiệp kinh tế 68,231 72,980 67,940

10 Chi quản lý hành chính 98,545 98,904 121,912

Page 13

Page 14: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

11 Chi trợ giá mặt hàng chính sách 1,810 1,870 1,920

IV Chi thực hiện cải cách tiền lương 10,000

V Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính 100 100 100

VI Dự phòng 19,200 25,000

2.2 Các hình thức can thiệp của Chính phủ Việt Nam trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công hiện nay

2.2.1 Chính phủ tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó

Chi tiêu công là một phạm trù tài chính gắn liền với chức năng quản lý của Nhà nước và có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Hiệu quả quản lý chi tiêu công được đặt ra trong bối cảnh là nguồn lực tài chính của mỗi quốc gia có sự giới hạn nhất định, nhưng làm thế nào để thỏa mãn tốt những nhu cầu cần thiết nhằm đạt các mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước đã làm nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công.

Điều này được biểu hiện bằng việc Nhà nước đã xây dựng khuôn khổ pháp lý về quản lý chi ngân sách; cải thiện tính minh bạch chi ngân sách; hoàn thiện cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước.

Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng từng cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện những khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thế của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.

Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vục như: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền...Ví dụ như là quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước. Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thê nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một

Page 14

Page 15: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.

Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế. Một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ôn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.

- Hàng hóa công cộng

Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên

Không thê loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên góc độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thê loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.

Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chắng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính

Page 15

Page 16: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.

- Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy.

Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc phòng, ngoại giao, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên đê phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.

Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thế định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thế loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thế đặt các trạm thu phí đê hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.

- Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương.

Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v...

Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công dân địa phương. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v...

Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thê được hưởng lợi ích do tri thức đem lại.

2.2.2 Thực hiện đánh thuế và trợ cấp.

Thực tế ở các nước phát triển cho thấy nếu nhà nước giữ vai trò chi phối trong cung ứng dịch vụ công thì hiệu quả sẽ không cao, nhưng nếu không có nhà nước cũng sẽ thất bại. Mặc dù có những hạn chế nhất định, trên một số lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cụ

Page 16

Page 17: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

thể, song thực tế cho thấy rằng chỉ có nhà nước mới có đủ khả năng cung ứng các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ công cộng mà không thể tư nhân nào cũng có thể không vì lợi nhuận mà đảm nhận, và việc đảm nhận tốt vai trò này của Nhà nước là điều kiện cho sự phát triên bền vững của xã hội.

Ở Việt Nam, cho đến nay nhà nước vẫn là chủ thể chủ yếu trong cung cấp dịch vụ công.. Trong xu thế hội nhập, với mục tiêu xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân” thì việc nhà nước cung cấp các dịch vụ công ( DVC) phục vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững là điều tất yếu. Tuy nhiên, xuất phát từ thực trạng cung ứng DVC hiện nay cho thấy, vai trò của Nhà nước trong cung cấp DVC là hết sức quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà khu vực tư nhân vẫn chưa đủ mạnh để có thể đảm nhận được những lĩnh vực thiết yếu.

Chính sách quốc phòng: việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với máy vi tính hay nhà ở: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực đế sản xuất máy bay chiến đấu phản lực.

Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều nàv được coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế đê chi cho quốc phòng.

Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thê kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả bằng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền

Page 17

Page 18: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

hình, các chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các chương trình này.

Chính sách giáo dục của nhà nước. Khi bạn đến với trường học của mình, bạn đang tìm kiếm cách cải thiện cho chính mình và gia đình chứ không cần thiết phải cải thiện cho cả một cộng đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng cao học vấn của bạn đã trở thành một thành viên hữu ích và được đào tạo cao hơn trong cộng đồng của bạn. Bạn hiện giờ có những kỹ năng mới và đã xây dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ hội và việc làm cho những người khác.

Như vậy, học vấn của bạn đã làm lợi cho những người khác, điều này khác với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Giáo dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh cho một quốc gia do những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng suất hơn, và chắc chắn là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá nhân không phải chi tiêu vào việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn đề xã hội khác, cũng như tăng mức độ kỳ năng, tính linh hoạt và năng suất của lực lượng lao động.

Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích ngoại sinh đáng kể hoặc lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc trợ cấp hoặc khuyến khích tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các lợi ích ngoại sinh đó có thể được tính bằng giá cả thị trường và sản lượng đầu ra của các sản phấm đó. Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dư thừa một số hàng hóa nhất định thì việc tồn tại lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dưới mức cầu các hàng hóa và dịch vụ khác.

Ví dụ :

Hiện nay, thuế TTĐB đang được căn cứ vào số chỗ ngồi: dưới 5 chỗ chịu thuế suất 50%, từ 6 - 15 chỗ là 30% và từ 16 - 24 chỗ là 15% điều này chứng tỏ là Nhà nước khuyến khích và tạo ưu đãi hơn cho việc tiêu thụ xe ôtô có nhiều chỗ ngồi.

Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu và trợ cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại sinh đáng kể. Chúng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. 1 đặc điểm xuyên suốt của hàng hóa công. Nó hoạt động để cung cấp lợi ích cho mọi người. Tất cả mọi người đều có được lợi ích như nhau.

Page 18

Page 19: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

- Khu vực tư cung cấp hàng hóa công

Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng: Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn.

Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thê được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra.. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá.

Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.

Tuy vậy khu vực tư nhân có thể cung cấp hàng hóa công mà trước đây người ta cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện.

Công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học đạt giải Nobel Elinor Ostrom cho thấy người ta rất giỏi sử dụng những hoạt động mang tính chất xã hội hóa đê giải quyết những vấn đề mà các sách giáo khoa kinh tế cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện.

Cung cấp các “hàng hóa công” (như là hệ thống thủy lợi cho một cộng đồng nông thôn) thường hứa hẹn đủ lợi ích đê có thê tạo ra tính sáng tạo của những người mà - nếu được trao đủ tự do và sự đảm bảo về quyền lợi thì có thể xác định rõ ràng cách thức hợp tác với nhau đế cung cấp các hàng hóa đó. Sự hợp tác này thường được thực hiện dưới những hình thái khác nhau mà chúng ta có thê thấy trên thị trường giống như những hàng hóa đặc trưng của khu vực tư nhân (giầy dép chẳng hạn).

Page 19

Page 20: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Theo cách tiếp cận tương tự, các học giả khác sau nhiều năm đã phát hiện ra vô số những ví dụ trong lịch sử về việc khu vực tư nhân đã cung cấp thành công những “hàng hóa công”. Đôi khi là các công ty tư nhân thực hiện việc này đế tìm kiểm những lợi nhuận được tính bằng tiền, một số các trường họp khác là do người dân hợp tác đê có được những lợi ích chung trong thực tế, chỉ có điều là chúng không được quy ra tiền hoặc được trao đôi trên các thị trường truyền thống.

Việc phát hiện những ví dụ như vậy thường làm các nhà kinh tế học đặc trưng - những người mà tư duy của họ thường bị đóng khung trong những mô hình tương tác kinh tế sai lầm - ngạc nhiên.

Có lẽ một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất là về việc người ta phát hành ra tiền tệ tư nhân (hay “hoạt động ngân hàng tự do”). F. A. Hayek, George Selgin, và người bạn đồng môn của tôi tại George Mason University là Larry White đã đi đến kết luận rằng không chỉ những gì tương tự tiền đều có khả năng được khu vực tư nhân cung cấp mà trên thực tế chúng đã được khu vực tư nhân cung cấp - đặc biệt là khoảng thời gian từ 1716 đến 1844 tại Scotland về đường xá.

Với các đường cao tốc giới hạn việc tham gia thì không có vấn đề gì. Những nhà xây dựng đường cao tốc tư nhân có thể dựng các trạm soát vé tại đầu đường và cuối đường để thu phí việc sử dụng đường của họ. Không một kẻ lậu vé nào có thể làm hỏng những nỗ lực thu phí từ những khách hàng sẵn lòng chi trả.

Tuy nhiên các khu phố thì lại khác. Thực hiện việc thu phí tại các ngã tư quả là một điều bất tiện khủng khiếp.

- Các hình thức hợp tác công - tư:

+ Giữa hai thái cực nhà nước hay tư nhân đứng ra làm toàn bộ, các hình thức còn lại, dù ít hay nhiều đều có sự tham gia của cả hai khu vực. Có năm hình thức họp tác công - tư phổ biến trên thế giới:

Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao (thường là thông qua đấu giá) cho tư nhân vận hành và khai thác.

Thứ hai, hơi khác với nhượng quyền khai thác, ở mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (Design- Build - Finance - Operate hay DBFO), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.

Page 20

Page 21: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao (Build - Operate - Transfer hay BOT) là mô hình mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyến giao toàn bộ cho nhà nước. Mô hình này khá phố biến ở Việt Nam.

Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO), quyền sở hữu cơ sở hạ tầng được chuyển giao ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong, nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình.

Cuối cùng là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành (Build - Own - Operate hay BOO). Ớ mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới.

Trong hầu hết các dự án cơ sở hạ tầng (CSHT) công cộng (trừ mô hình BOO), việc sở hữu tư nhân chỉ có tính chất tượng trưng. Ví dụ, một cây cầu thuộc sở hữu của doanh nghiệp BOT, nhưng khi không có người sử dụng thì doanh nghiệp BOT hầu như không thế làm gì đó đối với cây cầu. Thêm vào đó, trong nhiều trường họp rất khó xác định dự án được thực hiện theo cách thức nào nhất là cách 2, 3 và 4.

Nguồn thu để trang trải các khoản chi phí đầu tư và vận hành chủ yếu từ: (1) thu phí người sử dụng đối với những dự án có thế thu phí như giao thông chắng hạn và/hoặc (2) nhà nước trả cho các công ty vận hành khi thuê họ thực hiện một số loại hình dịch vụ không có nguồn thu như quản lý nhà tù hay vệ sinh các bệnh viện chẳng hạn hay các dự án có nguồn thu không đủ bù đắp chi phí. Đối với các dự án có thu phí người sử dụng thì nhà nước là người quyết định mức giá.

+ Công ty dự án

Việc đầu tư các CSHT công thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn nên ít doanh nghiệp đủ tiền để đầu tư toàn bộ. Hơn thế, nếu rủi ro xảy ra mà không thu hồi nợ được sẽ làm cả doanh nghiệp phá sản. Do vậy, để giảm thiểu rủi ro, các dự án CSHT lớn thường được đầu tư theo phương thức tài trợ dự án. Theo mô hình này, một công ty dự án sẽ được thành lập và các nhà đầu tư (chủ sở hữu công ty) chỉ bỏ ra một phần vốn rất nhỏ, phần còn lại chủ yếu là vay nợ. Ví dụ, một dự án có vốn đầu tư 1 tỉ đô la, nhưng vốn chủ sở hữu chi 50 triệu đô la là điều bình thường.

Các công ty dự án đa phần thuộc sở hữu tư nhân, nhưng trong một số trường hợp chúng được thành lập theo mô hình liên doanh với nhà nước. Ngoài ra, có một mô hình đặc biệt là hợp tác công - công (public - public partnership). Theo mô hình này, đối tượng

Page 21

Page 22: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

đứng ra thành lập công ty dự án là các doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước. Dự án BOT cầu đường Bình Triệu II do Tông công ty Xây dựng công trình giao thông 5 làm chủ đầu tư trước đây là một dự án dạng này. Ưu và nhược điểm của mô hình theo phân tích của Ngân hàng Phát triển Châu Á trong quyển Public-Private Partnership Handbook (tạm dịch là sổ tay hướng dẫn mô hình hợp tác công - tư), xuất bản năm 2008, ba động cơ để áp dụng mô hình PPP là thu hút vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực có sẵn, và tạo ra động cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình.

Nhìn từ góc độ nhà nước, ưu điểm lớn nhất của hợp tác công - tư là giảm được gánh nặng cũng như rủi ro đối với ngân sách. Ví dụ, đối với một dự án BOT, các nhà đầu tư tư nhân phải chịu hoàn toàn gánh nặng tài chính cũng như rủi ro về vận hành.

Hơn thế, mô hình PPP giúp giải quyết được vấn đề kém hiệu quả. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch có khả năng sẽ được cải thiện.

Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Trong nhiều trường hợp việc thiết kế cơ chế tài chính và cơ chế phân chia trách nhiệm, xác định mức thu phí hay phần trợ cấp của nhà nước là vô cùng phức tạp. Hơn thế, mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân cũng là một vấn đề. Vì một mục tiêu nào đó (ví dụ muốn có một khu đất hay dự án khác) mà nhà đầu tư tư nhân vẽ ra những dự án mà sau khi xây dựng rất ít, thậm chí không có người sử dụng là điều hoàn toàn có thế xảy ra.

Với mô tả ở trên, mô hình ppp trên thực tế đã có mặt ở Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Ví dụ, dự án đô thị mới Phú Mỹ Hưng được thực hiện theo cách kết họp giữa BOT và đổi đất lấy hạ tầng. Đây có thể xem là dự án theo mô hình họp tác công - tư cũng như đổi đất lấy hạ tầng thành công nhất Việt Nam. Nếu so sánh với nhiều khu đất cũng như tài nguyên khác được giao cho các nhà đầu tư tư nhân mà Nhà nước gần như không thu được gì, thì ở dự án này, Nhà nước đã thu được: khoảng 60% lợi ích tài chính từ dự án, một con đường hiện đại và một mô hình đô thị kiểu mẫu.

Ngoài ra, có thể kể đến nhiều dự án họp tác công - tư khác đã và đang được triển khai từ thập niên 1990 đến nay như: BOT cầu cỏ May, BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang được thực hiện theo phương thức BOO.

Tóm lại, PPP hay hợp tác công - tư không phải là mô hình mới ở Việt Nam. Mô hình này có thể góp phần vào việc xây dựng các CSHT hay cung cấp dịch vụ công cộng, nhưng không nên kỳ vọng nó sẽ là chiếc đũa thần để giải quyết nút thắt CSHT ở Việt

Page 22

Page 23: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Nam. Thực ra, một trong những nguyên nhân gây ra thiếu hụt và quá tải CSHT ở Việt Nam là do không ít công trình đã được xây dựng hoặc là không hiệu quả (rất ít người sử dụng), hoặc là quá đắt, hoặc là cả hai.

Page 23

Page 24: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

2.2.3 Phối hợp cả hai biện pháp trên

Ưu diểm của hệ thống kinh tế thi trường là rõ ràng, thể hiện ở chỗ thông qua các hoạt động cạnh tranh trên thị trường,các nhà sản xuất tìm mọi cách để phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực có hiệu quả của các nguồn lực của nền kinh tế để theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Người tiêu dùng được tự do thỏa mãn tối đa lợi ích của mình trên giới hạn nguồn lực của họ. Như vậy, thị trường là “bàn tay vô hình”dẫn dắt đến chỗ đạt được lợi ích cho mọi người.

Thế nhưng chúng ta cũng không quên rằng đôi khi “bàn tay vô hình” đó cũng dẫn nền kinh tế đi lầm đường lạc lối.

Nó có những khuyết tật không thế tránh khỏi đó là:

• Các yếu tố ngoại lai.• Thiếu hàng hóa công.• Sự gia tăng về quyền lực độc quyền.• Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư.• Thông tin thị trường lệch lạc.

Sự can thiệp của chính phủ sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định nhằm tối đa hiệu quả kinh tế đảm bảo định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường.

a. Sự gia tăng độc quvền.

Thị trường độc quyền là cấu trúc thị trường của một ngành kinh doanh mà trong đó chỉ có một người bán (doanh nghiệp, công ty ) duy nhất. Độc quyền cung cấp một loại sản phẩm duy nhất (không có sản phẩm thay thế gần đúng). Công ty duy nhất đó gọi là công ty độc quyền và sản lượng sản phẩm nó chiếm toàn bộ sản phẩm của ngành kinh doanh.

Những ngành công nghiệp điện lực, cấp nước, thông tin liên lạc, giao thông công cộng... thường có cấu trúc thị trường độc quyền.

Các công ty độc quyền ít có động cơ cải tiến, đổi mới vì nó không chịu sức ép cạnh tranh thường xuyên như trong điều kiện thị trường cạnh tranh, làm chậm sự phát triển của xã hội. Đối với các doanh nghiệp thì “tối đa hóa lợi nhuận” được đặt lên trên hết, với các doanh nghiệp độc quyền cũng vậy, do không có ai cạnh tranh nên số lượng sản phẩm và mức giá đem ra của các doanh nghiệp này khiến cho “ lợi nhuận” thu vào là lớn nhất.

Page 24

Page 25: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Nên điều tất yếu là người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu. Nhà nước có giải quyết nhưng vấn đề này còn lỏng lẻo, quản lí còn chưa chặt. Ngoài ra các doanh nghiệp lớn thường bắt tay nhau để thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao,nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khổng chế việc thâm nhập vào thị trường của các công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ ,điều khiển thị trường,cùng nhau độc quyền thị trường thị trường đó.

Ví dụ về ngành điện chính phủ chỉ định tập đoàn điện lực độc quyền sản xuất. Sự độc quyền của EVN trong ngành điện trước nay luôn là vấn đề gây tranh cãi. Nó được cho là nguyên nhân của việc kinh doanh không hiệu quả cũng như chất lượng dịch vụ kém của tập đoàn này.

Tình trạng cắt điện luân phiên thường xuyên đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và sinh hoạt của các hộ dân. Dựa trên nguyên nhân này, ý kiến về việc cải tổ ngành điện lực theo hướng chia nhỏ EVN được đưa ra với mục đích tạo sự cạnh tranh mang tính thị trường, từ đó tạo nguồn cung cấp điện ổn định.

Trong các năm gần đây, giá điện tăng liên tục và hậu quả phải gánh chịu là người tiêu dùng. Tháng 3 năm 2010 Nhà nước đã ra quyết định tăng giá điện thêm 15% trong khi nền kinh tế Việt Nam cũng như thế giới vừa bước qua khủng hoảng.

Tình hình giao thông ở Hà Nội hiện nay cũng là những vấn đề được mọi người quan tâm khá nhiều. Mặc dù được chính phủ quan tâm nhiều nhưng tình trạng tắc đường xảy ra như cơm bữa làm ảnh hương rất nhiều tới cuộc sống của nhân dân, “rối như tơ vò” là những từ có thê diễn đạt khá chính xác giao thông của Hà Nội. Để cải thiện tình hình giao thông chính phủ đã giao cho Xí nghiệp xe bus Thăng Long trực thuộc Tổng công ty vận tải Hà Nội thực hiện cung cấp vận tải xe bus phục vụ cho việc đi lại của nhân dân. Theo đó mỗi người dân sẽ được trợ cấp khi di chuyển bằng xe bus,người dân chỉ phải trả 3000đ/l lượt xe. Chính phủ thực hiện việc trợ cấp cho mỗi người dân là 2000đ/lượt xe.

Để giảm bớt tình trạng độc quyền chính phủ có những hình thức can thiệp

+ Đánh thuế: thuế đánh vào các công ty độc quyền gần như là một phương thức luật định ở nhiều quốc gia.

Chính phủ đánh thuế vào các công ty đê thu bớt phần lợi nhuận siêu ngạch của công ty độc quyền ,như vậy sẽ hạn chế bớt quyền lực của công ty độc quyền.

Chính phủ dùng những nguồn thu thuế của những công ty độc quyền để đầu tư phát triển các công trình công cộng cung cấp cho dân chúng.

Page 25

Page 26: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Điều tiết giá cả và sản lượng của các công ty độc quyền :chính phủ áp dụng các biện pháp này đối với các công ty độc quyền trong những ngành phục vụ công cộng như ngành: ngành điện,cung cấp nước sạch,thông tin liên lạc,giao thông công cộng,ngân hàng, bảo hiểm... Giá điều tiết nhỏ hơn giá cân bằng của công ty, với giá này công ty không có lợi nhuận trên trung bình nhưng vẫn có lợi nhuận bình thường. Sản lượng điều tiết lớn hơn sản lượng cân bằng của công ty.

Xác lập quyền sở hữu của chính phủ: trong một số ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Chính phủ thường lập ra các công ty độc quyền hoạt động trong những ngành đó. Chính những hình thức sở hữu nhà nước mà chính phủ dễ dàng điều tiết và kiểm soát các công ty độc quyền này hơn.

Ban hành luật lệ chống độc quyền: nhiều quốc gia chính phủ ban hành những luật lệ đê điều tiết và kiếm soát các công ty. Những luật lệ này cho phép các cơ quan pháp luật và cơ quan quản lí Nhà nước giám sát về giá cả, sản lượng, và việc gia nhập hoặc rời bỏ một số ngành công nghiệp nhất là các ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Mục tiêu hàng đầu của luật chống độc quyền là xúc tiến một nền kinh tế có tính cạnh tranh, bằng cách cấm các hoạt động hạn chế hay có thể hạn chế sự cạnh tranh và bằng cách giới hạn những hình thức cấu trúc thị trường có thê chấp nhận được.

+ Thiếu hàng hóa công cộng.

Hàng hóa công cộng là những hàng hóa do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu ,các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Hàng hóa công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Điều này có nghĩa là tiêu dùng của một người không phải giảm số lượng hay chất lượng của hàng hóa đã có sẵn cho những người tiêu dùng khác.

Một đặc điểm quan trọng của dịch vụ công cộng là tính cộng đồng. Tính cộng đồng ở đây có thể hiêu theo hai nghĩa:dịch vụ này là dịch vụ có thể dùng chung do đó nó liên quan đến công đồng người tiêu dùng, cộng đồng dân cư. Phần lớn các dịch vụ công cộng là những dịch vụ chung liên quan đến những nhu cầu cơ bản, thiết yểu của đời sống cộng động dân cư, mọi người đều có quyền tiếp cận, hưởng thụ, và bình đẳng trong tiếp cận như: chăm sóc sức khỏe, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và thể dục thể thao... Chính do đặc điểm này người ta thường xác định dịch vụ công cộng là một lĩnh vực chính sách. Hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng đều thuộc danh mục kiếm soát của Nhà nước.

Page 26

Page 27: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

2.3. Một số hình thức can thiệp của các nước trên Thế Giới.

Một số nước như: Indonesia, Saudi Arabia và Iran thực hiện chính sách trợ cấp nhiên liệu cho người dân. Và đồng thời đây cũng là ba nước đang thực hiện trợ cấp xăng dầu lớn nhất trên thế giới.

Ở một số nước diễn ra quá trình xây dựng hình thức sở hữu hóa Nhà nước (công hữu hóa) ở một số ngành mà tư nhân không làm hoặc không quan tâm vì ít lợi nhuận, nhưng cần thiết cho đời sống kinh tế xã hội (như ngành khai thác than đá ở Anh). Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện đại còn có quá trình công hữu hóa, chứ không phải chỉ có qúa trình tư nhân hóa các hình thức sở hữu. Ở Pháp trong thời gian gần đây, khu vực thuộc sở hữu hóa Nhà nước chiếm 13% GNP, hơn 30% tổng số vốn đầu tư trong nước, ở các nước đang phát triển Đông Nam Á (Indonesia, Singapore, Thái Lan, Malaysia) khu vực thuộc sở hữu Nhà nước có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nhất là trong các ngành công nghiệp nặng.

Nhà nước trực tiếp đầu tư vào các công trình công cộng, kết cấu hạ tầng như cầu đường, bến cảng, hệ thống thoát nước… ( Anh, Pháp, Đức, Nhật). Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư cho tư nhân (Xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm tín dụng cho tư nhân…).

Ở một số nước, Nhà nước chú ý về tiền lương, trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội (nhất là ở các nước Châu Âu mà điển hình là Thụy Điển, Nhà nước phúc lợi pháp: Quy định mức lương tối thiểu).

Ở nhiều nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo một sân chơi đồng nhất, cơ hội ngang nhau giữa các thành viên trong nền kinh tế thị trường (Mỹ - Đức – Pháp).

Tại Anh, chi tiêu công cho giáo dục được thực hiện bằng cách hỗ trợ học phí trực tiếp đến các sinh viên.

Chương3: Các giải pháp của Chính phủ về khắc phục những khuyết tật của thị trường

Đầu tư cho dịch vụ công cộng thường khó thu hồi vốn qua các quan hệ thị trường thông thường , do đặc tính loại trừ của dịch vụ công cộng, việc thu phí dịch vụ công cộng là rất khó khăn, ngoài ra do phần lớn các dịch vụ công cộng đều là các dịch vụ cơ bản thiết yếu đổi với đời sống nhân dân, thuộc phạm trù phúc lợi công cộng, phạm trù chính sách. Vì vậy, các nhà đầu tư tư nhân thường ngại bỏ vốn đầu quan hệ thị trường thông thường.

Vấn đề với hàng hóa công cộng là không cá nhân nào có động lực để chi trả cho hàng hóa công cộng. Do nó không có hiệu quả và luôn không khả thi, để ngăn chặn mọi người không tiêu dùng một hàng hóa công cộng, mọi người có thể tiếp tục sử dụng nó

Page 27

Page 28: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

thậm chí cho dù họ không trả tiền. Trong tình huống như vậy mồi người có động cơ trở thành “người hưởng thụ miễn phí” và để những người khác trả tiền công cộng. Tất nhiên vấn đề là hàng hóa sẽ vừa không đủ cung cấp cho thị trường nên hàng hóa công cộng sẽ thiếu.

Tuy nhiên hiện nay chính phủ đã áp dụng một số biện pháp giải quyết vấn đề này.

Chính phủ cố sửa chữa những khuyết tật này của thị trường bằng việc cung cấp hoặc trợ cấp cho việc sản xuất hàng hóa công cộng. Ngoài ra xã hội hóa dịch vụ công cộng cũng là giải pháp mang tính hiệu quả cao .v

Xã hội hóa dịch vụ công cộng là quá trình mở rộng trách nhiệm của một hay một số thành phần xã hội thành trách nhiệm của nhiều thành phần xã hội hay của toàn xã hội trong việc đảm bảo cung cấp dịch vụ hàng hóa công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng nhằm hai mục tiêu lớn:thứ nhất phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo các dịch vụ công cộng mà trước hết là sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thê dục thê thao; thứ hai tạo điều kiện để toàn xã hội đặc biệt là các đối tượng chính sách và người nghèo được thụ hưởng dịch vụ công cộng.

Xã hội hóa dịch vụ công cộng không chỉ đơn thuần là huy động nguồn lực vật chất,nguồn lực tài chính của xã hội. Quan trọng hơn là phát huy được trí lực và tinh thần trách nhiệm của xã hội đóng góp cho sự nghiệp chung nhằm phát triên về số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng.

Trong xã hội hóa việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội là một nội dung rất quan trọng vì nhiều lẽ:

o Phát triên dịch vụ công cộng là sự nghiệp của toàn dân cho nên cần huy động nguồn lực trong dân và doanh nghiệp đê phát triên các dịch vụ công cộng.

o Nhu cầu về dịch vụ ngày càng cao, ngày càng phong phú và đa dạng, nếu chỉ dựa vào các đơn vị công lập thì không thê nào đáp ứng được.

o Tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở ngoài công lập với các cơ sở công lập nhằmtư theo các nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng.

Chủ trương xã hội hóa dịch vụ công cộng có ý nghĩa về nhiều mặt, tạo thêm nguồn kinh phí cần thiết cho sự phát triên các dịch vụ công cộng phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thực hiện tốt hon công bằng xã hội, xóa bao cấp tràn lan, chi phí của các đơn vị dịch vụ công cộng không chỉ do ngân sách Nhà nước gánh vác, mà còn có phần thu từ những người được hưởng dịch vụ và từ cộng đồng, xóa bỏ các khoản thu không chính thức không minh bạch đang tồn tại khá phô biển và nặng nề đối với những người hưởng dịch vụ công cộng đi liền với sự phân phối không công bằng trong nội bộ các đơn

Page 28

Page 29: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

vị làm dịch vụ, ngăn ngừa các hiện tượng trái đạo đức nghề nghiệp, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công cộng.

Page 29

Page 30: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

KẾT LUẬN

Xét cho cùng, Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hội về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ công, kể cả các dịch vụ công được thực hiện bởi các công ty tư nhân hay các tổ chức kinh tế xã hội. Trong khi đó, đối với các công ty tư nhân, các tổ chức, cá nhân đảm nhận các dịch vụ công, lợi ích của chính bản thân họ không phải bao giờ cũng thống nhất vì lợi ích của nhà nước, của xã hội. Vì vậy, Nhà nuwocs phải tạo cơ chế để các tác nhân bên ngoài Nhà nước khi đảm nhận các dịch vụ công thực hiện mục tiêu xã hội. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ công để đánh giá hoạt động của các đơn vị cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các đơn vị cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ sở này. Nhà nước cần định hướng phát triển đối với khu vực tư nhân, hướng khu vực tư nhân vào những lĩnh vực mà tư nhân hoạt động hiệu quả, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằng không ngừng cải tiến việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Điều cốt lõi là Nhà nước phải cân nhắc, tính toán và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của Nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ công.

Page 30

Page 31: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Tài liệu tham khảo

1. http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-danh-gia-phan-tich-chi-tieu-cong-lien-he- nhung-hinh-thuc-can-thiep-trong-viec-cung-ung-hang-hoa-dich-vu-cong-cua-11822/

2. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-va-cach-giai- quyet-boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-56378/

3. http://text.123doc.org/document/1413832-trong-qua-trinh-danh-gia-phan-tich-chi- tieu-cong-chinh-phu-da-su-dung-nhung-hinh-thuc-can-thiep-nao-lien-he-nhung-hinh-thuc-can-thiep-do-trong-viec-cung-ung-cac-hang-hoa-dich-vu-cong-cua-chinh-phu-viet-nam-hien-nay.htm

4. http://123doc.org/doc_search_title/1153427-nhung-kho-khan-trong-qua-trinh- danh-gia-cong-viec-docx.htm

Page 31

Page 32: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – tự do – hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 7 (lần 1)

Địa điểm: sân thư viện

Thời gian họp: 9h-10h ngày 20/4/2015

Thành phần tham gia:

1. Nguyễn Thị Phượng2. Nguyễn Thị Thắm3. Trần Thị Phương4. Vũ Mai Phương5. Lê Văn Tâm6. Nguyễn Mạnh Thắng7. Vũ Thị Thu Phương8. Trần Thị Thắm9. Đào Thị Son

Vắng mặt: 0

Nội dung họp: xây dựng đề cương bài thảo luận và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.

Nhóm trưởng Thư kí

Nguyễn Thị Phượng Đào Thị Son

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – tự do – hạnh phúc

Page 32

Page 33: thảo luận tcc

Tài chính công – Nhóm 7

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 7 (lần 2)

Địa điểm: sân thư viện

Thời gian họp: 9h-10h ngày 26/04/2014

Thành phần tham gia:

1. Nguyễn Thị Phượng2. Nguyễn Thị Thắm3. Trần Thị Phương4. Vũ Mai Phương5. Lê Văn Tâm6. Nguyễn Mạnh Thắng7. Vũ Thị Thu Phương8. Trần Thị Thắm9. Đào Thị Son

Vắng mặt: 0

Nội dung họp: tập hợp bài của các thành viên, chỉnh sửa những thiếu xót dựa vào ý kiến đóng góp của các thành viên để tạo thành bài hoàn chỉnh.

Nhóm trưởng Thư kí

Nguyễn Thị Phượng Đào Thị Son

Page 33