CAO THỊ HÀ - hcma.vn · ... CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY ... Năng...

171
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH CAO THn©ng cao n¨ng lùc t- duy lý luËn cho ®éi ngò gi¶ng viªn c¸c tr-êng ®μo t¹o, båi d-ìng c¸n bé, c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay LUN ÁN TIN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHNGHĨA DUY VT BIN CHNG VÀ CHNGHĨA DUY VT LCH SMã s: 62 22 03 02 Người hướng dn khoa hc: 1. GS.TS. TRN THÀNH 2. TS. MAI THTHANH HÀ NI - 2017

Transcript of CAO THỊ HÀ - hcma.vn · ... CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY ... Năng...

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

CAO THỊ HÀ

n©ng cao n¨ng lùc t­ duy lý luËn cho ®éi ngò gi¶ng viªn c¸c tr­êng ®µo t¹o, båi d­ìng

c¸n bé, c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. TRẦN THÀNH

2. TS. MAI THỊ THANH

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Cao Thị Hà

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5 1.1. Năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó đối với đội ngũ cán bộ,

giảng viên 5 1.2. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, giảng viên ở nước

ta hiện nay 11 1.3. Giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, giảng viên 27 1.4. Khái quát kết quả các công trình khoa học có liên quan và những

hướng chính luận án cần tiếp tục nghiên cứu 30

Chương 2: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN 36

2.1. Năng lực tư duy lý luận - khái niệm và các đặc trưng cơ bản 36 2.2. Vai trò và nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam 52

Chương 3: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 78

3.1. Thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức 78

3.2. Nguyên nhân của thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức 103

Chương 4: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 117

4.1. Nhóm giải pháp tuyển chọn, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức 117

4.2. Nhóm giải pháp tạo môi trường đòi hỏi giảng viên phải nâng cao năng lực tư duy lý luận 132

4.3. Nhóm giải pháp khuyến khích giảng viên tự nâng cao năng lực tư duy lý luận 146

KẾT LUẬN 153 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 155 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC : Cán bộ, công chức

CBGD : Cán bộ giáo dục

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

ĐTBD : Đào tạo bồi dưỡng

ĐTBDCBCC : Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

GV : Giảng viên

HCQG : Hành chính Quốc gia

LLCT : Lý luận chính trị

NCKH : Nghiên cứu khoa học

NLTDLL : Năng lực tư duy lý luận

TD : Tư duy

TDLL : Tư duy lý luận

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Định mức thời gian hàng năm của mỗi giảng viên 63

Bảng 3.1: Cơ cấu giới tính đội ngũ giảng viên năm 2016 81

Bảng 3.2: Cơ cấu ngành đào tạo của đội ngũ giảng viên 82

Bảng 3.3: So sánh ngạch giảng viên năm 2016 của các Trường 87

Bảng 3.4: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của 03

Trường theo tiêu chuẩn giảng viên 88

Bảng 3.5: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của 03

Trường theo tiêu chuẩn giảng viên chính 89

Bảng 3.6: Cơ cấu thành phần chính trị của giảng viên 92

Bảng 3.7: Trình độ lý luận chính trị của giảng viên năm 2016 93

Bảng 3.8: Cơ cấu độ tuổi đội ngũ giảng viên năm 2016 96

Bảng 3.9: Sản phẩm sáng tạo của giảng viên từ năm 2013-2016 99

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1: Số lượng và trình độ giảng viên một số trường 59

Biểu đồ 3.1: Số lượng và trình độ giảng viên Học viện Hành chính

quốc gia 83

Biểu đồ 3.2: Học hàm, học vị giảng viên Học viện Hành chính

Quốc gia 84

Biểu đồ 3.3: Học vị giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức Bộ Nội vụ năm 2012 đến năm 2016 84

Biểu đồ 3.4: Học hàm, học vị giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê

Hồng Phong năm 2012 đến năm 2016 85

Biểu đồ 3.5: Trình độ lý luận chính trị giảng viên Học viện Hành

chính Quốc gia, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức Bộ Nội vụ, Trường Đào tạo cán bộ Lê

Hồng Phong 94

Biểu đồ 3.6: So sánh tỉ lệ độ tuổi giảng viên giữa 03 Trường 97

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể

đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực

ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề xuất cụ thể, sắc bén, sáng tạo, thiết

thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn

của con người. Sự phát triển của năng lực tư duy lý luận (NLTDLL) là kết quả

tổng hợp của sự tương tác giữa nhiều nhân tố, trong đó, mỗi nhân tố giữ vị trí

không ngang bằng nhau, song chúng đều góp phần quy định sự tồn tại, phát

triển của NLTDLL.

Năng lực tư duy lý luận có vai trò quan trọng trong nhận thức và hoạt

động thực tiễn, đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên; là vũ khí sắc bén trong

hoạt động giảng dạy, NCKH của đội ngũ giảng viên. Năng lực ấy thể hiện ở

khả năng nắm bắt bản chất, linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước trong mối quan hệ với nhiệm vụ của họ, khả năng nắm bắt thực tiễn và

xác định phương hướng, giải pháp tối ưu để giải quyết các vấn đề nảy sinh

trong thực tiễn, trong thực thi nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, năng lực tư duy

lý luận (TDLL) của đội ngũ giảng viên là giá trị định hướng cho hoạt động

nhận thức, hoạt động thực tiễn của họ. Cùng với việc nắm vững lý luận cách

mạng, đội ngũ giảng viên còn phải biết vận dụng, cụ thể hoá hệ thống lý luận

đó trong các bài giảng của mình cho có chất lượng.

Trong Báo cáo Chính trị và Báo cáo Công tác xây dựng Đảng của Văn

kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá XI, XII, vấn đề xây dựng và nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) đã trình bày khá sâu sắc và toàn

diện. Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến

lược cán bộ từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cải cách nền

hành chính triệt để, từ một nền hành chính quản lý truyền thống sang một nền

2

hành chính dịch vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, với sự hoạt động

hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính Nhà nước thông suốt từ trung ương

tới cơ sở không thể tách rời sự đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (ĐTBDCBCC). Giảng viên là lực chính yếu

để đẩy mạnh và tạo sự chuyển biến sâu sắc trong công tác ĐTBDCBCC, do

đó việc làm cần thiết, có tính then chốt là phải phát triển và nâng cao chất

lượng đội ngũ giảng viên tại các cơ sở ĐTBDCBCC về lực lượng (số lượng),

về phẩm chất - đạo đức và tri thức - năng lực (chất lượng).

Trong những năm qua, việc nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

các trường ĐTBDCBCC đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: việc vận

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào bài giảng đã thường xuyên

thực hiện. Tuy nhiên, giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD)

CBCC được tuyển dụng với các chuyên ngành đào tạo khác nhau, số lượng

giảng viên chưa qua đào tạo về lý luận chính trị (LLCT) còn nhiều. Do đó,

trong các bài giảng của giảng viên của đội ngũ này cũng còn một số hạn chế:

Đó là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, chủ quan, kinh nghiệm thực

tiễn ... Với vị trí đặc thù là giảng viên trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, đối tượng học viên là những người đã làm việc trong các cơ quan

nhà nước, đã có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Do vậy, để đáp ứng chất lượng

giảng dạy thì đỏi hỏi đội ngũ giảng viên cần phải có trình độ và năng lực tư duy

lý luận, nhất định mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Vì vậy, việc nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC là vấn đề hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu đề tài: "Nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" sẽ đóng góp lý luận, phương

pháp luận, phương hướng và những giải pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ

giảng viên đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức, có tâm huyết, đủ năng lực

3

đảm đương nhiệm vụ đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác

ĐTBDCBCC, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC có trình độ, năng lực và

chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách hành

chính, hoàn thành thắng lợi mục tiêu chiến lược cán bộ của đất nước trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là việc làm rất cần thiết.

Luận án không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa thực tiễn hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ NLTDLL và phân tích thực trạng nâng cao NLTDLL đối

với đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC, từ đó đề xuất các giải pháp chủ

yếu nâng cao NLTDLL cho đội ngũ này ở nước ta hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan tình hình nghiên cứu về NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay.

- Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

các Trường ĐTBD CBCC.

- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng nâng cao NLTDLL cho đội ngũ

giảng viên các Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng

viên các trường ĐTBD CBCC trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án chỉ đi vào nghiên cứu về nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng

viên các Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án chỉ tập trung khảo sát NLTDLL cho đội ngũ giảng viên tại các

cơ sở đào tạo, bồi dưỡng: Học viện Hành chính Quốc gia; Trường ĐTBD

CBCC, Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội từ năm

4

2012 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, của ngành và các tài liệu khoa học có liên quan

đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng

một số các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: Phương pháp điều tra xã

hội học, thống kê, so sánh, thu thập và xử lý thông tin.

5. Những đóng góp về khoa học của luận án

Luận án góp phần làm rõ quan niệm về NLTDLL và nâng cao

NLTDLL của giảng viên các Trường ĐTBD CBCC; đặc điểm, nội dung, tiêu

chí đánh giá NLTDLL của giảng viên Trường ĐTBD CBCC; phân tích, đánh

giá thực trạng về NLTDLL của giảng viên các Trường ĐTBD CBCC giai

đoạn từ 2012-2016, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện

nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây

dựng, hoạch định chiến lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên các

Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án gồm 4 chương, 11 tiết.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỘI

NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN

Ở Việt Nam, vấn đề về tư duy, TDLL và vai trò của TDLL nói chung

và đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên nói riêng đã được nhiều lãnh đạo Đảng,

Nhà nước, quân đội và các ngành khoa học, các nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu; đặc biệt từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đến nay.

Nhiều công trình khoa học, tạp chí, luận án, kỉ yếu hội thảo khoa học lĩnh vực

này đã được công bố, xuất bản thành sách. Điển hình trong đó là các cuốn

sách, công trình khoa học:

- "Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua thực tiễn Việt Nam"

của Nguyễn Đức Tài [84] đã phân tích quan niệm tư duy, TDLL; biện giải

TDLL - hình thức phản ánh cao nhất hiện thực khách quan bởi bộ óc con

người và làm rõ quan niệm về đổi mới TDLL về xã hội chủ nghĩa (XHCN),

tính tất yếu của việc đổi mới TDLL về XHCN. Theo tác giả, đổi mới TDLL

về chủ nghĩa xã hội (CNXH) là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối

TD kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, siêu hình về CNXH; loại bỏ những

quan điểm, nhận thức sai trái, lạc hậu, lỗi thời; là sự đổi mới kiến thức, tri

thức về XHCN và hình thành những quan niệm, nhận thức mới về CNXH và

con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trong Chương 2, tác giả đã phân tích việc

đổi mới TDLL của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH theo 05 nội

dung: nhận thức lại về CNXH và mô hình CNXH ở nước ta; đổi mới TDLL

về kiểu quá độ đi lên CNXH ở nước ta; đổi mới TDLL về lĩnh vực kinh tế;

đổi mới TDLL trong lĩnh vực xã hội và văn hóa; đổi mới TDLL của Đảng ta

trong lĩnh vực chính trị. Chương 3, đã làm rõ những vấn đề đặt ra phải tiếp

tục đổi mới và nâng cao trình độ TDLL, đó là: từ tình hình đổi mới của đất

6

nước, các xu thế phát triển của thế giới, những vấn đề đặt ra trong hoạt động

nghiên cứu lý luận; đồng thời, đề xuất một số phương hướng tiếp tục đổi mới

và nâng cao trình độ TDLL của Đảng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới ở

Việt Nam; cụ thể: (i) Tiếp tục đổi mới và nâng cao nhận thức về chủ nghĩa

Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; (ii) Coi trọng công tác tổng kết thực

tiễn; (iii) Đổi mới và nâng cao trình độ TDLL đối với đội ngũ cán bộ làm

công tác tư tưởng, lý luận và NCKH; theo đó: nâng cao phương pháp TD

khoa học và giữ vững lập trường chính trị; thể chế hóa quyền tự do tư tưởng,

tự do sáng tạo trong công tác lý luận, xây dựng và thực hiện quy chế bảo đảm

dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm

xã hội...; xác lập và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận khoa học và

chính trị; xây dựng và thể chế hóa cơ chế quản lý công tác lý luận, NCKH;

quan tâm đến những điều kiện vật chất, chăm lo đời sống của đội ngũ cán bộ

(xây dựng chế độ lương bậc, chế độ đãi ngộ thích đáng cho những người làm

công tác lý luận, NCKH...).

- "Vai trò của triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt

Nam hiện nay" của Lê Văn Quang [74] đã khẳng định: trong hàng loạt nhân tố

tạo nên sự thành công của quá trình đổi mới TDLL ở Việt Nam, triết học

Mác-Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện

nay, triết học Mác-Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ

nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng

Cộng sản và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có

liên quan chặt chẽ đến đổi mới TDLL; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương

pháp để TD đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên

cơ sở đó, tác giả cho rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học mácxít

và không ngừng hoàn thiện phương pháp TD có ý nghĩa vô cùng to lớn trong

đổi mới nhận thức, đổi mới TDLL. Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự

nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới TDLL nói riêng ở nước ta là

7

giữ vững độc lập dân tộc và CNXH. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là hệ thống

lý luận và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới. Chức năng thế giới quan

và chức năng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ

Chí Minh đã được các các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa

chọn để vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới của Việt Nam. Những người có

trọng trách trong đổi mới TDLL của Đảng, của dân tộc đã nhận thức đúng đắn

giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học thuyết triết học

Mác - Lênin nói riêng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó là bước đi đầu

tiên để có được những đổi mới TDLL một cách đúng đắn, cách mạng và khoa

học. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trang bị cho Đảng Cộng

sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam nhận thức đúng đắn các vấn đề thời đại có

quan hệ chặt chẽ đến đổi mới TDLL. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh là cơ sở lý luận để TD đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng

Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt; đây là thành công đáng ghi nhận

trong đổi mới TDLL của chúng ta trong suốt hơn 30 năm qua. Sự tiến bộ về

điều kiện vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân trong quá trình đổi mới đất

nước đã làm cho trình độ dân trí có sự chuyển biến về chất và nâng cao TDLL

phát triển lên tầm cao mới. Các ý tưởng đổi mới đất nước, con người và tổ

chức thực hiện sự đổi mới ở Việt Nam theo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc

và phát triển XHCN nhất thiết phải có TDLL, trong đó TD triết học là chìa

khoá phương pháp luận khoa học. Từ những thành công của chúng ta trong

hơn 30 năm đổi mới vừa qua, có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Mác-Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng đối với tiến

trình đổi mới TDLL ở Việt Nam.

- "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự nghiệp đổi mới của

Đảng ta" của Trần Sỹ Phán [69] đã nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa và

tầm quan trọng của TDLL trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta lấy đổi

8

mới TDLL làm khâu "đột phá" cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới của mình. Đổi

mới trên cơ sở kế thừa, kế thừa trên cơ sở đổi mới. Đó là biện chứng của sự

phát triển nói chung, của TDLL nói riêng. Với ý nghĩa đó, đổi mới TD không

có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những

quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng CNXH, phủ nhận đường lối đúng

đắn đã được Đảng ta lựa chon và dân tộc ta, nhân dân ta thống nhất đi theo.

Về nguyên tắc, đổi mới không làm thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục

tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn. Muốn đổi mới tư duy, đòi hỏi Đảng ta

phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,

kế thừa di sản tinh thần quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm mà

các đảng cộng sản anh em đạt được. Trong đó việc vận dụng sáng tạo phép

biện chứng duy vật mácxít có ý nghĩa quan trọng vì đó là cơ sở lý luận, là nền

tảng cho đổi mới TDLL. Để đổi mới tư duy một cách có hiệu quả, tác giả

nhấn mạnh, cần phải tạo ra những điều kiện xã hội thuận lợi cho quá trình đổi

mới đó; tạo bầu không khí dân chủ trong xã hội, nhất là trong sinh hoạt Đảng,

trong NCKH, nghiên cứu lý luận; tôn trọng lẽ phải, tôn trọng chân lý theo tinh

thần: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật; tiến hành tự

phê bình và phê bình một cách thường xuyên và nghiêm túc... Như vậy, mới

khắc phục được những yếu kém, tính chất trì trệ, bảo thủ, lạc hậu về TDLL.

- "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay"

của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [34] đã phân tích tác động của

tình hình thế giới và trong nước tới công cuộc đổi mới, làm rõ thời cơ, thách

thức và những đặc điểm chủ yếu của đổi mới ở Việt Nam, luận chứng đổi mới

để phát triển là một quyết sách chiến lược của Đảng. Các tác giả đề cập một

cách hệ thống về vai trò của lý luận và TDLL đối với công cuộc đổi mới;

phân tích TDLL của Đảng về CNXH và xây dựng CNXH thời kỳ đổi mới,

nhất là trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Làm rõ đổi mới TDLL của Đảng

9

trên các lĩnh vực, từ mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế

đến các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng con người, quốc phòng,

an ninh và đối ngoại. Đánh giá tổng quát ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm

của quá trình đổi mới của TDLL của Đảng từ năm 1986 đến nay; nêu lên

phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và hoàn thiện lý luận trong

giai đoạn hiện nay. Công trình khoa học này, khẳng định vai trò to lớn của

TDLL đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới đất nước.

Nó sẽ được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các lực lượng phát huy hơn

nữa nhằm đem lại nhiều thành quả cách mạng trong giai đoạn mới.

- "Vai trò của tư duy lý luận đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ

giảng viên trẻ" của Vũ Văn Ban [2] đã đi sâu phân tích làm rõ vai trò của

TDLL đối với việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên trẻ trong các

Học viện, Trường sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trên 03 nội dung sau:

Thứ nhất, giúp họ ngày càng nhận thức thấu đáo tri thức khoa học chuyên

ngành và các khoa học khác; Thứ hai, giúp họ có điều kiện tìm tòi, lựa chọn

phương pháp giảng dạy hiệu quả; Thứ ba, giúp họ thực hiện tốt nhiệm vụ

NCKH và các nhiệm vụ khác... Qua đó, các nhà quản lý cũng như người

giảng viên trẻ nhận thức rõ vấn đề này để có những biện pháp thích hợp bồi

dưỡng, rèn luyện và phát huy vai trò của TDLL, làm cơ sở cho nâng cao chất

lượng giảng dạy và NCKH, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Theo tác giả, TDLL là TD ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ là khái niệm,

phạm trù, phán đoán, suy luận hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm

ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, từ đó định hướng, hướng dẫn

hoạt động thực tiễn của con người và sáng tạo tri thức mới.

Những năm gần đây, các quan điểm, chủ trương phát triển giáo dục của

Đảng đều đề cao vai trò của đội ngũ những người làm công tác giáo dục, xem

đó là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục. Là một bộ phận cấu thành

đội ngũ nhà giáo, đội ngũ giảng viên trẻ là lực lượng kế cận, là những tri thức

10

mới vào nghề, với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, đội ngũ này đang ra sức tu

dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn lên làm chủ tri thức khoa học, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, do tuổi đời và tuổi nghề còn ít, sự tích luỹ tri thức

và kinh nghiệm chưa nhiều nên trình độ và năng lực sư phạm của họ còn hạn

chế. Trước sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng đang đặt ra nhu cầu tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, trong đó có sự tham gia đóng góp

tích cực của đội ngũ giảng viên trẻ. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng

viên trẻ một cách nhanh chóng, hiệu quả, trước hết phải quan tâm bồi dưỡng,

rèn luyện và phát huy vai trò to lớn TDLL của họ vì: (i) TDLL giúp cho đội

ngũ giảng viên trẻ ngày càng nhận thức thấu đáo tri thức khoa học chuyên

ngành và các khoa học khác; (ii) TDLL giúp người giảng viên trẻ có điều kiện

tìm tòi, lựa chọn phương pháp giảng dạy hiệu quả; (iii) TDLL giúp cho giảng

viên trẻ thực hiện tốt nhiệm vụ NCKH và các nhiệm vụ khác; (iv) TDLL là

điều kiện để người giảng viên trẻ tiếp tục học tập, rèn luyện nâng cao hơn nữa

phương pháp TD biện chứng duy vật; (v) TDLL là cơ sở giúp cho đội ngũ

giảng viên trẻ rèn luyện để ngày càng hoàn thiện phẩm chất, nhân cách sư

phạm.... Từ những phân tích trên cho thấy, TDLL có một vai trò hết sức to

lớn. Do đó, để nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên trẻ cần phải quan

tâm bồi dưỡng, rèn luyện và nâng cao năng lực TDLL của họ.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác

- Lê nin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [94] nhận định:

vai trò của NLTDLL với công tác giảng dạy lý luận Mác-Lênin là đảm bảo

cho người cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin tiếp tục nghiên cứu sâu, nhận

thức thấu đáo những nội dung khoa học, bản chất cách mạng và sáng tạo của

chủ nghĩa Mác-Lênin; tự nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn phương pháp giảng

dạy tối ưu; thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ LLCT cũng

như trình độ TDLL; thường xuyên học tập, rèn luyện phương pháp TD khoa

học, phương pháp TD biện chứng duy vật là cơ sở cho việc rèn luyện phẩm

11

chất chính trị, đạo đức, tác phong của nhà sư phạm... Luận án đã đánh giá

thực trạng NLTDLL của đội ngũ cán bộ giáo dục lý luận Mác-Lênin ở các

Trường Chính trị, biểu hiện yếu kém về NLTDLL, như: tốt nghiệp đại học

cách đây hàng chục năm, phương pháp dạy và học vẫn dựa vào quyền uy sư

phạm và nhồi nhét kiến thức; chưa được cập nhật những tri thức mới; nhiều

CBGD phân định chưa rõ ràng giữa TD chính trị với TDLL; năng lực TD

logic biện chứng còn hạn chế... Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của các hạn

chế, tác giả đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao NLTDLL cho

giảng viên lý luận Mác-Lênin ở các Trường Chính trị tỉnh là: Học tập, trau dồi

phương pháp TD biện chứng duy vật; Từng bước chuẩn hóa đội ngũ CBGD

lý luận Mác - Lênin theo hướng kết hợp hài hòa giữa năng lực, trình độ

chuyên môn với phẩm chất, đạo đức cách mạng; Tiếp tục đổi mới và hoàn

thiện chính sách đối với CBGD lý luận Mác-Lênin.

1.2. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ, GIẢNG

VIÊN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

- "Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị cấp trung

đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Dũng [20] đã

đưa ra quan niệm: NLTDLL của một chủ thể nhất định là tổng hòa các yếu tố

chủ quan của chủ thể trong quá trình TD phản ánh chân thực và nhạy bén hiện

thực khách quan đáp ứng yêu cầu của hoạt động này, từ đó tạo ra khả năng

đánh giá và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của chủ thể làm cho những hoạt động

đó đạt được hiệu quả cao. Phát triển NLTDLL là kết quả tổng hợp của sự

tương tác giữa nhiều yếu tố, trong đó mỗi yếu tố giữ vị trí không ngang bằng

nhau, song chúng đều góp phần quy định sự tồn tại, phát triển của năng lực

TDLL. Tác giả đã luận giải để tạo nên NLTDLL của mỗi con người gồm 03

nhóm yếu tố; cụ thể: Một là, những yếu tố tạo ra cơ sở cho sự hình thành và

phát triển NLTDLL là: các tri thức nguồn, tư chất của chủ thể tư duy; Hai là,

những yếu tố nội tại của NLTDLL, gồm: năng lực ghi nhớ, lưu giữ những

12

phạm trù, quy luật, quan điểm lý luận; năng lực tái hiện những vấn đề lý luận

đã ghi nhớ, lưu giữ...; sự nhanh nhạy, tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phát

hiện mâu thuẫn, những vấn đề mới của thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện lý

luận; khả năng tiếp nhận sâu sắc và chuyển hóa những vấn đề lý luận thành

kiến thức, niềm tin của chủ thể tư duy; Ba là, những yếu tố góp phần tạo ra

chất lượng, hiệu quả của NLTDLL: nắm vững lý luận một cách cơ bản, hệ

thống và chuyên sâu; sự vận dụng sáng tạo lý luận vào nâng cao hoạt động

hiệu quả thực tiễn; khả năng phê phán và tự phê phán.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng NLTDLL của cán bộ chính trị cấp trung

đoàn và những yêu cầu đặt ra hiện nay, tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ

yếu phát triển NLTDLL của cán bộ chính trị cấp trung đoàn như sau: Hoàn

thiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng để có phẩm chất năng lực toàn

diện; Tăng cường rèn luyện NLTDLL thông qua hoạt động lãnh đạo, chỉ huy

ở đơn vị; Xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện là môi trường xã hội trực

tiếp phát huy NLTDLL.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay" của Dương Minh Đức [28] đã khẳng định

sức mạnh trí tuệ của con người có cơ sở nền tảng của nó là TDLL - tổng hợp

các phẩm chất trí tuệ của chủ thể, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức

nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những

đề xuất cụ thể, sắc bén, sáng tạo, thiết thực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Theo tác giả, vai trò

của NLTDLL đối với đội ngũ cán bộ, lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có thể khái

quát qua những nội dung sau: (i) Nâng cao khả năng nhận thức sâu sắc bản

chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tiếp thu những tri

thức khoa học; (ii) Nâng cao năng lực nhận thức thực tiễn và vận dụng sáng

tạo lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

13

nước trong việc đề ra những nghị quyết, chủ trương, chính sách cụ thể trên địa

bàn tỉnh; (iii) Nâng cao năng lực xử lý thông tin để trên cơ sở đó đưa ra được

các quyết định đúng đắn, chính xác, kịp thời phù hợp với thực tiễn của tỉnh;

(iv) Nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp cán

bộ cấp dưới và quần chúng nhân dân để tạo thành phong trào cách mạng sâu

rộng trên địa bàn tỉnh; (v) Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn; (vi) Nâng cao

năng lực dự báo, định hướng trong hoạt động lãnh đạo của họ.

Về thực trạng năng lực TDLL, tác giả xác định thực trạng năng lực

TDLL của cán bộ này là đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ

ngày càng cao với trình độ và khả năng đáp ứng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt

ở đây nhiều mặt chưa ngang tầm, nhất là về năng lực TDLL. Để khắc phục

hạn chế trên, Luận án đưa ra 03 nguyên tắc nhằm nâng cao năng lực TDLL

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng bằng Bắc Bộ là:

phải từng bước gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí cho cán

bộ, đảng viên trên địa bàn; nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ;

kết hợp chặt chẽ với việc tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng... Đồng

thời, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng bằng Bắc Bộ: Trau dồi và rèn luyện

phương pháp TD biện chứng duy vật; tăng cường tổng kết thực tiễn; tiếp tục đổi

mới công tác đào tạo, bố trí, sử dụng đãi ngộ cán bộ và phát huy tính tích cực,

chủ động, sáng tạo...; thực hiện dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác

- Lê nin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [94] đã phân tích

TDLL và NLTDLL; theo tác giả: NLTDLL là sự phát triển cao của năng lực

TD con người; NLTDLL không chỉ được biểu hiện ở sự hiểu biết lý luận mà

còn ở phương pháp tiếp cận thực tiễn. Về yếu tố ảnh hưởng tới NLTDLL,

theo tác giả đó là tác động về mặt sinh học và tác động về mặt xã hội. Về

NLTDLL trong công tác giảng dạy lý luận Mác-Lê nin, theo tác giả, công tác

14

giảng dạy lý luận Mác-Lê nin nhằm góp phần hình thành thế giới quan và

phương pháp luận khoa học cho người học; chuyển hóa kiến thức thành niềm

tin khoa học, lý tưởng cách mạng; xây dựng cho người học khả năng vận

dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn; giúp cho người học hình thành

phẩm chất chính trị, đạo đức của mình.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay" của Nguyễn Đức Quyền [80] cho rằng:

NLTDLL có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hoá lý luận thành

mục tiêu, phương hướng, giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề một cách có

hiệu quả; NLTDLL vừa bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của thực tại khách

quan, vừa bị ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan của chủ thể nhận thức. Cán

bộ chủ chốt cấp huyện là những người đứng đầu các tổ chức chính trị, xã hội,

các phòng, ban của huyện, NLTDLL của đội ngũ cán bộ này ở nước ta hiện

nay có nhiều nét đặc trưng. Ngoài lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện đường

lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp huyện là những người phát hiện, khái quát những khả năng sáng tạo,

những nhân tố mới từ cơ sở, từ nhân dân để góp phần xây dựng đường lối,

chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, người cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp huyện nhất thiết phải có NLTDLL và để có NLTDLL, đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp huyện phải thường xuyên nâng cao trình độ hiểu biết về

mọi mặt, khoa học và thực tiễn, đặc biệt là phải có sự hiểu biết sâu sắc về lý

luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng.

Vai trò của NLTDLL đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp huyện được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau: (i)

NLTDLL giúp người cán bộ chủ chốt cấp huyện nâng cao nhận thức về chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và khả năng

tiếp nhận những tri thức khoa học khác; (ii) NLTDLL giúp cho người cán bộ

15

chủ chốt cấp huyện nâng cao khả năng nhận thức thực tiễn và vận dụng sáng

tạo lý luận, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước để đề ra những nghị

quyết, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển

toàn diện trên địa bàn huyện; NLTDLL giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện nâng cao khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, tổng kết thực

tiễn, tìm ra nguyên nhân của thành công và thất bại, rút ra bài học kinh

nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo. Ngoài ra,

NLTDLL còn giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp huyện hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ, đạt kết quả tối ưu, luôn chủ động trong việc đề xuất và thực hiện kế

hoạch, chương trình hành động. Tuy nhiên, NLTDLL của đội ngũ này cũng

còn một số hạn chế, đó là: bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, chủ quan,

TD lôgic yếu; một phần đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện còn mang nặng lối

TD theo đường mòn, duy ý chí trong suy nghĩ và hành động, có tâm lý ngại

thay đổi, ngại va chạm và khi gặp khó khăn thì thường đổ lỗi cho khách quan,

nhanh chóng quay lại cách làm cũ; lấy các mong muốn cá nhân áp đặt cho

thực tế, lấy nhu cầu, nguyện vọng chủ quan thay cho khả năng hiện thực, lấy

ý muốn, ý chí của người lãnh đạo làm điểm xuất phát, bất chấp quy luật khách

quan... Từ thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và NLTDLL của họ,

tác giả nêu một số nguyên tắc cơ bản để nâng cao NLTDLL cho đội ngũ cán

bộ này: (1) Nâng cao NLTDLL phải xuất phát từ thực tiễn, phải gắn với quá

trình tổng kết thực tiễn trên địa bàn người cán bộ chủ chốt phụ trách. (2) Nâng

cao NLTDLL phải gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. (3)

Nâng cao NLTDLL cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện phải gắn với nâng

cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của họ và nâng cao

trình độ dân trí cộng đồng. (4) Phải gắn việc nâng cao NLTDLL với việc giải

quyết nhiệm vụ chính trị ở địa phương là phát triển kinh tế - xã hội mà người

cán bộ chủ chốt trực tiếp phụ trách. (5) Nâng cao NLTDLL cho đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp huyện phải gắn liền với việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách

16

mạng.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp huyện người dân tộc thiểu số Tây Nguyên" của Nguyễn Văn Lý [46] đã

đưa ra quan niệm NLTDLL như sau: NLTDLL là tổng hợp các phẩm chất trí

tuệ của chủ thể TD đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn, kịp thời

những vấn đề nảy sinh ở trình độ lý luận và đóng vai trò đặc biệt quan trọng

trong hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp với những yêu cầu cụ

thể khác nhau. Đề tài đã khẳng định, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

huyện người dân tộc thiểu số, NLTDLL giúp họ nhận thức bản chất cách

mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các tri thức

khoa học khác để có các quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, phù hợp với

thực tế của địa phương, giúp họ nâng cao khả năng tổ chức quần chúng và cán

bộ cấp dưới thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Trong Chương 2, về

thực trạng và yêu cầu nâng cao NLTDLL cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; đề tài trình bày đặc điểm

tự nhiên và xã hội của Tây Nguyên ảnh hưởng đến NLTDLL của đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số, từ đó đi sâu phân tích

thực trạng NLTDLL của đội ngũ cán bộ này cả về những ưu điểm: sự nhạy

cảm chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng trong nhận thức và hoạt động

thực tiễn; có nhiều kinh nghiệm, có thế mạnh về TD thực hành trong việc vận

dụng đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên vào thực tế cấp huyện; biết

tổng kết việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước một cách có khoa học và bước đầu dự báo được sự phát triển

của địa phương; và những hạn chế, bất cập: TD còn mang tính kinh nghiệm,

cảm tính; trong chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chương trình công tác còn

có biểu hiện của bệnh giáo điều, máy móc, giản đơn; TD lôgic còn yếu, trình

độ khái quát hóa, trừu tượng hóa chưa cao; năng lực tổ chức thực tiễn, khả

17

năng áp dụng lý luận vào thực tiễn còn hạn chế, đồng thời chỉ ra nguyên nhân,

những vấn đề đặt ra.

Từ thực trạng NLTDLL và yêu cầu của việc nâng cao NLTDLL để

nâng cao cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu

số ở Tây Nguyên, đề tài đã đưa ra 6 giải pháp: (i) Đẩy mạnh phát triển kinh tế

xã hội nhằm tạo tiền đề vật chất cho việc nâng cao NLTDLL của đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số; (ii) Tích cực đào tạo,

bồi dưỡng, nâng cao trình độ các mặt, nhất là trình độ LLCT - hành chính, rèn

luyện TD biện chứng duy vật cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người

dân tộc thiểu số; (iii) Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn; (iv) Tăng cường rèn luyện

đạo đức cách mạng, chú trọng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh; (v) Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng phát huy dân

chủ trong hoạt động thực tiễn; (vi) Chú trọng công tác cán bộ, nhất là hoàn

thiện chính sách đối với cán bộ người dân tộc thiểu số để tạo động lực khuyến

khích cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nâng cao NLTDLL.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay" của Nguyễn Đức Quyền [80] đã đưa ra quan

niệm: NLTDLL là khả năng dư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn

vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát

triển; đó là khả năng TD khoa học, sáng tạo trong sử dụng các quan niệm,

phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem

lại những tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, logic và có hệ

thống... phù hợp với quy luật khách quan của sự tồn tại và vận động của hiện

thực. Luận án đã phân tích, làm rõ 03 yếu tố ảnh hưởng đến NLTDLL, là: đặc

tính bẩm sinh của con người; quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện; môi

trường kinh tế-xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học xã hội; hoạt động thực tiễn;

nhu cầu và lợi ích. Về vai trò của NLTDLL đối với hoạt động lãnh đạo, quản

lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, Luận án đã luận giải theo 04 vấn

18

đề: năng lực xác lập tri thức; năng lực xác lập quan hệ giữa các tri thức; năng

lực hiện thực hóa tri thức; năng lực phát triển tri thức. Trong phần thực trạng

của Luận án tác giả đã đánh giá, trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn đã được quan tâm, tăng cường về số lượng và

nâng cao về chất lượng; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, LLCT, quản lý nhà

nước được nâng lên; được đào tạo cơ bản và được rèn luyện, trưởng thành;

công tác quy hoạch, phát triển được quan tâm và thực hiện đào tạo, bồi dưỡng

theo tiêu chuẩn phù hợp với chức danh. Về NLTDLL, Luận án chỉ rõ những

ưu điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn có thế mạnh

về kinh nghiệm lãnh đạo thực tiễn; có năng lực nhất định trong vận dụng

đường lối đổi mới của Đảng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và có khả năng

dự báo... Tuy nhiên, NLTDLL của đội ngũ cán bộ này vẫn còn một số hạn chế

như: TD logic yếu; còn một số cán bộ có biểu hiện của bệnh giáo điều, dập

khuôn, máy móc; việc dự báo chưa theo kịp thực tế, xử lý thông tin thiếu nhạy

bén, kịp thời, chính xác; chưa coi trọng đúng mức khâu tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn...

Qua phân tích nguyên nhân hạn chế NLTDLL của đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn, Luận án đưa ra một số giải pháp là: tiếp tục

đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội tạo bước chuyển biến tích cực đời sống vật

chất, văn hóa cho cán bộ và cộng đồng, là tiền đề để nâng cao TDLL cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện; Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán

bộ, coi trọng các khâu trong công tác cán bộ trên cơ sở chuẩn hóa đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp huyện; Tăng cường ĐTBD cán bộ, đổi mới nội dung, phương

pháp giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng, trình độ, NLTDLL và năng lực

hoạt động thực tiễn; Thường xuyên học tập, nghiên cứu tiếp thu lý luận Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trau dồi phẩm chất, rèn luyện phương pháp

TD biện chứng duy vật; Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn và đổi mới

phương pháp tổng kết thực tiễn; gắn lý luận với thực tiễn; thực hiện dân chủ

19

trong lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện.

- "Nâng cao năng lực NCKH và tiếp cận thực tế của giảng viên: cách

tiếp cận và giải pháp" của Nguyễn Xuân Minh [62] đã đưa ra một số quan

niệm về năng lực, một số khung nghiên cứu năng lực và từ các cách tiếp cận

khác nhau, tác giả cho rằng: năng lực là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ

năng, thái độ để hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể trong một điều kiện công

việc vụ thể. Theo tác giả, hoạt động NCKH và tiếp cận thực tiễn của giảng

viên phụ thuộc rất lớn vào hai nhóm yếu tố chính: năng lực của bản thân

giảng viên và các yếu tố thuộc môi trường nghiên cứu. Thứ nhất, năng lực

nghiên cứu và tiếp cận thực tiễn phụ thuộc vào: nhận thức của giảng viên về

tầm quan trọng, sự cần thiết và nỗ lực dành thời gian, tâm huyết cho hoạt

động NCKH và tiếp cận thực tiễn; Kiến thức chuyên môn để có thể hoàn

thành nhiệm vụ nghiên cứu hoặc tiếp cận thực tiễn, cập nhật các vấn đề mới

trong lĩnh vực nghiên cứu; Kỹ năng nghiên cứu và tiếp cận thực tiễn với các

kỹ năng liên quan như: kỹ năng tiếp cận vấn đề, kỹ năng tiếp cận nguồn thông

tin, kỹ năng thiết lập quan hệ, kỹ năng tổ chức triển khai hoạt động nghiên

cứu và thâm nhập thực tiễn. Thứ hai, môi trường nghiên cứu bao gồm các yếu

tố: Điều kiện hỗ trợ triển khai hoạt động NCKH, bao gồm các yếu tố như thời

gian, kinh phí, chương trình phần mềm, máy tính, hỗ trợ về thủ tục; quy trình

triển khai, khả năng thành lập các nhóm nghiên cứu; Ghi nhận, liên quan đến

các hình thức thưởng, khích lệ khi giảng viên hoàn thành nhiệm vụ nghiên

cứu hay đi thực tế; Khai thác, việc đưa kết quả nghiên cứu hay tổng kết những

thực tiễn mới có ý nghĩa khích lệ giảng viên trong việc tập trung công sức cho

các hoạt động có nhiều giá trị gia tăng.

Bài viết đã khái quát tình hình NCKH và tiếp cận thực tiễn của giảng

viên tại Cơ sở II (Trường Đại học Ngoại thương), cho thấy: giảng viên tại Cơ

sở II đã bắt đầu quan tâm và đầu tư vào việc viết sách tham khảo, chuyên

khảo và thực hiện đề tài khoa học các cấp; từ năm 2005-2011 có 9 đề tài khoa

20

học, 5 cuốn sách chuyên khảo, 357 bài viết công bố tại hội thảo khoa học, 29

bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành... Nhưng chỉ do một số

giảng viên nhất định tham gia; chưa thu hút sự quan tâm và tham gia rộng rãi

của giảng viên ở tất cả các bộ môn; số bài viết tham gia hội thảo cấp trường

hoặc cấp cơ sở còn chiếm tỷ lệ lớn, chưa nhiều bài viết tham gia hội nhập cấp

quốc gia hoặc quốc tế. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường

năng lực nghiên cứu và tiếp cận thực tế của giảng viên tại Cơ sở II, trong đó

giải pháp đối với giảng viên là: bố trí thời gian hợp lý cho công tác NCKH và

tiếp cận thực tế; thường xuyên nghiên cứu các bài viết khoa học của đồng

nghiệp, nắm vứng quy trình và yêu cầu thực hiện nghiên cứu đề tài khoa học

các cấp; Rèn luyện sự say mê đối với khoa học; chủ động tạo ra các quan hệ

xã hội để có thông tin phục vụ cho NCKH và tiếp cận thực tế; luôn nỗ lực

hướng tới các ngạch giảng viên cao hơn; Tích cực tìm và thành lập các nhóm

nghiên cứu để khai thác thế mạnh bổ sung nhằm tăng cường hiệu quả học hỏi

kinh nghiệm, giao lưu chia sẻ và có điều kiện hoàn thành việc NCKH và tiếp

cận thực tế.

- "Nâng cao tri thức chính trị của đội ngũ giảng viên ở Trường Chính

trị tỉnh Nghệ An" của Trần Duy Rô Nin [68] đã cho rằng: để thực hiện được

yêu cầu đó phải không ngừng nâng cao tri thức chính trị, trước hết là cho đội

ngũ giảng viên của Trường chính trị. Bởi vì, đội ngũ giảng viên này có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc ĐTBD nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,

HĐH ở địa phương, cơ sở. Trước những yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới

đất nước về chiều sâu, thời cơ và thách thức đan xen nhau trong xu thế toàn

cầu hoá, hội nhập và hợp tác, tình hình chính trị - xã hội đang diễn biến nhanh

chóng, phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, thì việc nâng cao tri

thức chính trị cho đội ngũ giảng viên các Trường chính trị nói chung, đội ngũ

giảng viên Trường chính trị Nghệ An hiện nay nói riêng là yêu cầu bức thiết

và cấp bách hơn lúc nào hết. Hiện nay, 100% giảng viên của Trường đều có

21

trình độ đại học, cơ bản đã đạt trình độ thạc sĩ, phải nói rằng đây là ưu điểm

nổi trội của đội ngũ giảng viên của nhà trường. Tuy nhiên cũng phải thừa

nhận rằng vẫn còn một số ít giảng viên kiến thức chưa rộng và thiếu chiều

sâu. Kinh nghiệm chính trị của hầu hết đội ngũ giảng viên trong trường là rất

cơ bản, có bản lĩnh chính trị, đặc biệt là rất tự tin trong quá trình xử lý kỹ

năng sư phạm. Tuy nhiên, cũng còn không ít giảng viên, chủ yếu là giảng viên

trẻ chưa trải qua thực tiễn cuộc sống phức tạp, cho nên tính mẫn cảm cũng

như độ nhạy bén trong xử lý tình huống sư phạm còn rất lúng túng. Sự hấp

dẫn trong các bài giảng thông qua nghệ thuật diễn giảng còn thiếu, còn yếu…

Hạn chế về tri thức chính trị, ảnh hưởng không nhỏ tới chuyên môn giảng dạy

của đội ngũ giảng viên, đó là hạn chế trong hoạt động NCKH, tổng kết thực

tiễn. Biểu hiện, việc triển khai các đề tài khoa học thường chậm so với kế

hoạch đặt ra. Chất lượng của một số đề tài mới chỉ dừng lại ở mức đạt yêu

cầu. Việc đưa kết quả nghiên cứu các đề tài vào ứng dụng còn rất lúng túng,

hiệu quả chưa cao. Hoạt động nghiên cứu thực tế còn thiếu tính chủ động. Suy

cho cùng, mọi hậu quả đều có nguyên nhân của nó trong đó nguyên nhân chủ

quan có ý nghĩa quyết định, đó là do năng lực trình độ của một số giảng viên

còn hạn chế cả về lý luận, thực tiễn, khả năng sư phạm chưa cao và sự kém

hiểu biết về tri thức chính trị, về năng lực lãnh đạo, quản lý chuyên môn.

Xuất phát từ thực tế đó, việc nâng cao trình độ tri thức chính trị cho đội

ngũ giảng viên Trường chính trị tỉnh Nghệ An hiện nay là rất cần thiết, là tất

yếu khách quan, vừa có ý nghĩa quyết định vừa mang tính cấp bách, vừa

mang tính cơ bản lâu dài. Cụ thể là: Trường có kế hoạch tạo nguồn giảng viên

lâu dài cho các khoa chuyên môn, đảm bảo đúng ngành, đúng nghề. Tiếp tục

đánh giá, lựa chọn, bố trí, kiện toàn, củng cố đội ngũ giảng viên đủ về số

lượng, mạnh về chất lượng. Từng bước cải tiến việc hội giảng bằng cách

giảng viên không chọn bài giảng cụ thể, tăng cường thao giảng cấp khoa,

đánh giá và báo cáo hội đồng khoa học nhà trường để có hướng sử dụng giảng

22

viên chính xác. Khuyến khích giảng viên tích cực tham gia NCKH, tổng kết

thực tiễn phục vụ giảng dạy, đa dạng hoá các hoạt động khoa học, nâng cao năng

lực TD độc lập của từng giảng viên. Xây dựng kế hoạch hợp lý để hàng năm đội

ngũ giảng viên đi nghiên cứu thực tế cơ sở, kiểm tra kiến thức lý luận, bổ sung

kiến thức thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn. Có chế độ kiểm tra thường xuyên

giảng viên thực hiện bài giảng về nội dung, thái độ và trách nhiệm, phương pháp

trong giảng dạy. Củng cố và tăng cường bộ phận tư liệu, thư viện vì đây là nơi

cung cấp nguồn thông tin cơ bản cho hoạt động chuyên môn.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các Học

viện, Trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam" của Vũ Văn Ban [3] đã

làm rõ khái niệm: Nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ trong các học viện,

trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là quá trình tác động tích cực, tự

giác của các chủ thể làm cho tư chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo, tri thức khoa

học, kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp TD khoa học của họ không ngừng

được bổ sung, hoàn thiện; giúp họ có khả năng nhận thức ở trình độ lý luận và

vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn giảng dạy, NCKH cũng như thực hiện

các hoạt động khác đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người

giảng viên trong các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. Trên cơ sở

nghiên cứu TDLL, tác giả làm sáng tỏ NLTDLL của giảng viên trẻ trong các

học viện, trường sĩ quan quân đội và thực chất vấn đề nâng cao NLTDLL của

họ là quá trình từng bước tạo ra sự chuyển biến về chất các yếu tố như: tư

chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo, tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn và kĩ

năng sử dụng phương pháp TD khoa học, giúp cho giảng viên trẻ có khả năng

nhận thức ở trình độ lý luận và vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn giảng

dạy, NCKH, cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác mang lại hiệu quả cao,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người giảng viên trong các học viện, trường sĩ

quan quân đội hiện nay. Qua đó, tác giả khái quát những yếu tố tác động đến

quá trình nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan

23

quân đội hiện nay là: phụ thuộc vào chất lượng đào tạo nguồn giảng viên trẻ;

chịu sự quy định bởi môi trường hoạt động quân sự; tính chất, nhiệm vụ sư

phạm quân sự và yếu tố bẩm sinh di truyền và sự nỗ lực, tích cực học tập, rèn

luyện của họ.

Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế cho thấy, xu hướng phát triển

NLTDLL của giảng viên trẻ là tốt, đúng định hướng, chứa đựng một tiềm năng

lớn, cho phép nâng cao có hiệu quả vào những năm tiếp theo, nếu được tiếp tục

đào tạo và bồi dưỡng tốt, tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề bất cập có tính chất

mâu thuẫn của quá trình nâng cao năng lực ấy của giảng viên trẻ hiện nay. Để

quá trình nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ đạt hiệu quả, tác giả xác định

yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tác động, biến đổi thành những

điều kiện khách quan có lợi và phát huy nhân tố chủ quan của các chủ thể tham

gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ.

Những yêu cầu cơ bản là: (i) Nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ đáp ứng yêu

cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục - đào tạo của đất nước và đáp ứng

yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại;

(ii) Nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ phải bám sát thực tiễn hoạt động sư

phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, thực tiễn của đất nước và thời đại;

(iii) Nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ hiện nay phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục bằng nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp,

toàn diện và có kế hoạch. Những yêu cầu này được cụ thể hóa bằng ba nhóm

giải pháp cơ bản: Một là, nhóm giải pháp về chủ thể nâng cao NLTDLL của

giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội; Hai là, nhóm giải

pháp liên quan tới phương thức nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ trong các

học viện, trường sĩ quan quân đội; Ba là, nhóm giải pháp liên quan tới điều kiện

để nâng cao NLTDLL của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân

đội hiện nay.

- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên lý luận chính trị ở

24

Việt Nam hiện nay - Một vài khuyến nghị" của nhiều tác giả [67] đã trình bày

quan niệm NLTDLL: NLTDLL là một trong những phạm trù quan trọng của

nhận thức luận; đó là khả năng TD về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn,

nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển;

là khả năng TD khoa học, sáng tạo trong sử dụng các quan niệm, phạm trù để

phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, đem lại những tri

thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với

quy luật khách quan của hiện thực. Bên cạnh đó, NLTDLL còn có sức mạnh

đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng,

giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao.

NLTDLL còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập

quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. NLTDLL là:

Tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận

thức nhạy bén, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, từ đó, có những

đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Về vai trò NLTDLL đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên LLCT,

bài viết cho rằng: Giảng dạy các môn LLCT không thể chỉ dừng lại ở những

nguyên lý lý luận thuần túy, kiến thức sách vở... mà quan trọng hơn là phải

biết vận dụng, đối chiếu những kiến thức ấy với thực tiễn phức tạp, đa chiều

cạnh; biết tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm. Đồng thời

nhấn mạnh, NLTDLL phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước tiên là yếu tố bẩm

sinh của cá thể cụ thể như cấu tạo của hệ thần kinh, gen...; trong phát triển

NLTDLL, giáo dục, đào tạo, học tập, rèn luyện một cách tự giác có vai trò

quyết định; môi trường kinh tế xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội

là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến NLTDLL của con người. Hoạt

động thực tiễn cũng là một trong yếu tố cơ bản quyết định NLTDLL của con

người, thông qua hoạt động thực tiễn, NLTDLL, khả năng xác lập tri thức và

25

đối tượng hóa tri thức của con người được hình thành, được trau dồi, phát

triển. Xét một cách khái quát, những yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ, tác động

bổ sung, tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng tác động đến NLTDLL của

con người nói chung, của giảng viên LLCT nói riêng. Nếu những yếu tố ấy

cùng tác động đến NLTDLL theo chiều tích cực sẽ có tác dụng phát triển

NLTDLL nhanh chóng; ngược lại, sự tác động không thuận chiều giữa các

yếu tố sẽ làm cho NLTDLL thui chột.

Năng lực TDLL là công cụ sắc bén trong hoạt động giảng dạy của

giảng viên LLCT. Để nâng cao NLTDLL của giảng viên LLCT chính trị ở

Việt Nam, cần: Thứ nhất, tạo điều kiện cho giảng viên LLCT tiếp xúc với

thực tiễn xã hội và khoa học; Thứ hai, nâng cao ý thức tự bồi dưỡng, tự đào

tạo của giảng viên LLCT; Thứ ba, nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa

học, tri thức ngoài chuyên ngành cho giảng viên LLCT; Thứ tư, tạo động lực

khuyến khích giảng viên LLCT không ngừng nâng cao NLTDLL.

- "Nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay" của Ma Phúc Dự [22] đã thống kê khá đầy đủ

các quan niệm liên quan đến NLTDLL và cho rằng: NLTDLL là tổng hợp các

phẩm chất trí tuệ của chủ thể nhất định, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức

đúng đắn bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng ở trình độ lý luận nhạy

bén, sáng tạo và có những dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. NLTDLL có

nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau; ở mỗi người lại mạng về

một loại hình TD riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau. Luận án đã

phân tích 5 yếu tố (như các công trình đã nêu ở trên) ảnh hướng đến nâng cao

NLTDLL và khẳng định, ý tưởng nâng cao NLTDLL chủ yếu là nhằm nắm

bắt bản chất sâu xa của sự vật, biến chúng thành tri thức lý luận, trên cơ sở đó

mà hình thành được các cách thức, phương pháp tối ưu cho hoạt động thực

tiễn. Đặc biệt, trong Chương 1 Luận án đưa ra một số "Tiêu chí" đánh giá cụ

26

thể về NLTDLL của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số gồm: trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ; đề ra hoặc tham mưu những nghị quyết, chủ trương

đúng đắn, kịp thời; khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo chỉ thị, nghị quyết

vào hoạt động thực tiễn; có năng lực điều hành, tổ chức thực hiện hiệu quả

các nhiệm vụ chính trị được giao; có khả năng tổng kết thực tiễn, phát triển lý

luận ở trình độ cao hơn.

Phần thực trạng, luận án phân tích chỉ ra những ưu điểm về NLTDLL

của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang là có bản lĩnh

chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực

tiễn, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh;

đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; luôn vượt qua

khó khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, động

viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện

thắng lợi sự nghiệp cách mạng của tỉnh. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ này còn

biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định, như vẫn còn một bộ phận cán

bộ người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền thống; khi xử

lý công việc còn máy móc, chưa tổng kết kinh nghiệm thành lý luận; khả năng

dự báo, đánh giá tình hình và nắm bắt thông tin chưa nhạy bén, chưa kịp thời.

Nguyên nhân xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang

tính phổ biến mà đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng

có những nguyên nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào

người dân tộc thiểu số sinh sống.

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, đổi mới TD

nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh

Tuyên Quang phải phát huy được những ưu điểm, tích cực và khắc phục được

những yếu kém, hạn chế trong NLTDLL, Luận án đã đưa ra những giải pháp

sau: (i) Không ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tạo bước chuyển

27

biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, trình độ dân trí cho đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số; (ii) Thường xuyên tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số được ĐTBD chuyên môn, nghiệp vụ và nâng cao trình

độ LLCT; (iii) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ, coi trọng các

khâu tuyển dụng, thu hút cán bộ, trong đó đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số; (iv) Tiếp tục duy trì các chế độ đãi ngộ đối với đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Để nâng cao NLTDLL cho đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân

đội ngũ cán bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn

luyện không ngừng nâng cao NLTDLL; phải có cơ chế khuyến khích học tập,

trau dồi, tự vươn lên của cán bộ và cơ chế, chính sách kịp thời tạo niềm tin,

phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang.

1.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN

BỘ, GIẢNG VIÊN - "Giải pháp nâng cao năng lực tư duy biện chứng, chống bệnh giáo

điều, bệnh kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí" của Trần Văn Phòng [72] đã

phân tích thực trạng bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí

hiện nay, làm rõ nguyên nhân của tình trạng này. Để khắc phục tình trạng

trên, tác giả đưa ra một số giải pháp cụ thể để chống bệnh giáo điều, bệnh

kinh nghiệm chủ quan duy ý chí thông qua việc nâng cao NLTDLL đó là

nâng cao trình độ lý luận, trình độ hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên; phải quán triệt tốt các yêu

cầu của quan điểm thực tiễn thông qua việc tăng cường tổ chức thực tiễn, phát

triển lý luận, phải dựa vào thực tiễn, tránh suy diễn một cách chủ quan tự

biện, phải theo sát sự biến đổi thực tiễn của đất nước, của thế giới; tiến hành

thường xuyên tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, phát triển lý luận; phải

tôn trọng thực tiễn, lắng nghe và tôn trọng tiếng nói từ thực tiễn, từ cuộc sống,

28

lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để đánh giá nhận thức, để kiểm tra tính đúng đắn

của lý luận.

- "Nâng cao năng lực thực tiễn - Giải pháp tăng cường chất lượng

giảng viên ĐTBD" của Vũ Thanh Xuân [103] đã biện giải rõ về năng lực thực

tiễn là đòi hỏi khách quan đối với đội ngũ giảng viên ĐTBD, cụ thể: xuất phát

từ đặc trưng của hoạt động ĐTBD, từ nhu cầu thực tế của người học, từ "sự

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành" và từ thực trạng

năng lực thực tiễn của đội ngũ giảng viên ĐTBD. Theo tác giả, công tác

ĐTBD đội ngũ giảng viên thường xuyên được quan tâm, đội ngũ giảng viên

các cơ sở ĐTBD đã được nâng cao về chất lượng chuyên môn và phương

pháp sư phạm. Tuy nhiên, năng lực thực tiễn của đội ngũ giảng viên còn hạn

chế, số giảng viên trẻ chiếm tỷ lệ lớn nhưng đa số còn thiếu kinh nghiệm thực

tiễn để áp dụng vào thực tế giảng dạy… Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ

yếu là do thiếu sự gắn kết giữa các cơ sở ĐTBD với các cơ quan sử dụng

CBCCVC, thiếu chương trình, kế hoạch ĐTBD giảng viên thông qua hoạt

động thực tiễn hàng năm cũng như thiếu sự chủ động tự ĐTBD của các cơ sở

ĐTBD. Qua phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên ĐTBD, tác giả

đã đưa ra một số giải pháp sau: (1) Thống nhất nhận thức về tầm quan trọng

và yêu cầu của việc nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ giảng viên

ĐTBD. (2) Cần có quy định về tiêu chuẩn kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn

đối với giảng viên ĐTBD. (3) Xây dựng chương trình, kế hoạch ĐTBD thông

qua hoạt động thực tiễn. (4) Xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đủ

mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy việc nâng cao năng lực thực tiễn cho giảng viên.

- "Nghiên cứu các giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

mới" của Nguyễn Tiến Đạo [27] đã làm rõ quan niệm, vai trò, công tác xây

dựng và phát triển đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC; Quan điểm

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về

29

xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên. Trong đó làm rõ về tiêu chuẩn và

03 nhiệm vụ của giảng viên, đó là: nhiệm vụ NCKH; quản lý ĐTBD, nhiệm

vụ học tập, đặc biệt là việc học tập nâng cao trình độ. Đề tài cũng phân tích rõ

những điểm khác biệt cơ bản của đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC

với đội ngũ giảng viên các trường đại học, học viện khác. Trên cơ đó, đề tài

đã đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ,

làm rõ trình độ, kết quả ĐTBD đội ngũ giảng viên; những hạn chế, nguyên

nhân của hạn chế. Trên cơ sở phương hướng đã đưa ra đề tài đề xuất một số

giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC; cụ

thể là: Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả của công tác lãnh đạo của Đảng ủy,

Ban Giám hiệu nhà trường; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu

của nhà trường; thực hiện chế độ nghiên cứu thực tế và yêu cầu bắt buộc đối

với giảng viên cơ hữu của trường đi thực tế ở cơ sở; đổi mới nội dung,

chương trình và tài liệu bồi dưỡng, đổi mới phương pháp giảng dạy. Trong

các giải pháp mà đề tài đưa ra đã nhấn mạnh: phải có chế độ ưu đãi cho đội

ngũ giảng viên trong học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, để đội ngũ giảng

viên không ngừng rèn luyện, học tập tăng cường năng lực nghiên cứu và

giảng dạy; đồng thời kết hợp với việc đi nghiên cứu thực tế, đảm bảo thời

gian nghiên cứu thực tế hàng năm; kết quả nghiên cứu thực tế phải được vận

dụng phù hợp, thiết thực vào giảng dạy và được tích lũy để góp phần nâng cao

kiến thức cho giảng viên.

- "Phát triển đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới nhân lực ngành Nội vụ" của Vũ

Thanh Xuân [105] đã phân tích cụ thể các nội dung phát triển và các yếu tố

ảnh hưởng đến việc phát triển đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC;

đánh giá về chất lượng, trình độ đội ngũ giảng viên, nhìn chung trình độ đào

tạo của giảng viên các Trường ĐTBD CBCC của Bộ Nội vụ khá cao; nhưng

đánh giá theo góc độ NCKH thì còn hạn chế, có 33,5% giảng viên có khả

30

năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu

giảng dạy môn học, tài liệu tham khảo phục vụ cho ĐTBD; còn 18,1% giảng

viên chưa có đề án hoặc đề tài NCKH cấp khoa, trường được công nhận và áp

dụng có kết quả trong chuyên môn... Có nhiều nguyên nhân, một trong những

nguyên nhân cơ bản là do một số giảng viên ít cập nhật thường xuyên kiến

thức mới, phương pháp giảng dạy hiện đại, ngại tham gia NCKH... Đề tài đã

đưa ra giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC đáp

ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới về nhân lực ngành Nội vụ; cụ thể: xây dựng

khung năng lực giảng viên, với những tiêu chuẩn về nâng cao NLTDLL, gồm:

năng lực nhận thức và TD đổi mới; NLTDLL; năng lực hoạt động thực tiễn...

Tăng cường kiểm tra, xếp loại giảng viên theo tiêu chuẩn, nhiệm vụ, khung

năng lực giảng viên; và đổi mới công tác ĐTBD đội ngũ giảng viên theo tiêu

chuẩn, nhiệm vụ, khung năng lực giảng viên ĐTBD... đáp ứng được yêu cầu

trong tình hình mới...

1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN

QUAN VÀ NHỮNG HƯỚNG CHÍNH LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.4.1. Khái quát chung

Tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu,

đây là những công trình khoa học có ý nghĩa đối với các cơ quan nghiên cứu

và giúp cho việc hoạch định các chương trình, chính sách nâng cao năng lực

TDLL. Bước đầu, tác giả luận án khái quát chung về những thành tựu cơ bản

của các công trình khoa học trên như sau:

Một là, dù tiếp cận dưới góc độ lý luận hay thực tiễn, các công trình

khoa học trên đã nghiên cứu, phản ánh nhiều góc độ khác nhau một cách khá

toàn diện về TDLL, NLTDLL; phân biệt, so sánh sự khác nhau về chất giữa

TDLL với tư duy kinh nghiệm thông qua các đặc trưng của nó. Đồng thời,

làm rõ quan niệm về đổi mới, phát triển NLTDLL và nâng cao NLTDLL đối

với đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên các trường chính trị tỉnh, học

31

viện, trường sĩ quan quân đội và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, cấp tỉnh

ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Hai là, đã phân tích vai trò, nguyên tắc của việc đổi mới, nâng cao

TDLL; đặc biệt là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện, cấp tỉnh và

hoạt động giảng dạy của giảng viên LLCT.Trong đó, đối với đội ngũ giảng

viên, vai trò NLTDLL tập trung vào 03 nội dung chính là: giúp cho họ nhận

thức thấu đáo tri thức khoa học chuyên ngành và các khoa học khác; có điều

kiện tìm tòi, lựa chọn phương pháp giảng dạy hiệu quả và thực hiện tốt nhiệm

vụ NCKH. Đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý các công trình đã luận giải vai

trò của NLTDLL giúp cho đối tượng này có năng lực xác lập tri thức, xác lập

quan hệ giữa các tri thức; năng lực thực hiện hóa tri thức và năng lực phát

triển tri thức. Các công trình đã phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến NLTDLL

đội ngũ cán bộ, giảng viên, gồm yếu tố cơ bản là: đặc tính bẩm sinh của con

người; quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện; môi trường kinh tế xã hội, nền tảng

văn hóa, khoa học xã hội; hoạt động thực tiễn và nhu cầu và lợi ích.

Ba là, trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò của TDLL, một số công trình

đã luận giải rõ quan niệm, vai trò, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ

giảng viên các cơ sở đào tạo; quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên. Đặc biệt là phân tích

rõ những điểm khác biệt cơ bản của đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC

với đội ngũ giảng viên các trường đại học, học viện và các yếu tố ảnh hưởng

đến việc phát triển đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC.

Bốn là, phần lớn các công trình đã nghiên cứu, đánh giá về thực trạng

NLTDLL đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, cấp tỉnh; đội ngũ giảng viên trẻ;

đội ngũ giảng viên LLCT tại Trường Chính trị tỉnh và Học viện, Trường sỹ

quan QĐND Việt Nam..., chỉ rõ ưu điểm, thành tựu, hạn chế và những

nguyên nhân trong việc nâng cao NLTDLL, qua đó đi đến khẳng định sự hạn

chế, yếu kém của NLTDLL làm cho cán bộ, giảng viên không có cách tiếp

32

cận, nhìn nhận mới, không đủ năng lực khoa học, năng lực chuyên môn và sẽ

không thể cập nhật kiến thức, không thể phân tích, đánh giá, phản biện về sự

biến đổi, vận động của thực tiễn; đồng thời, không thể có những luận giải

đúng đắn, phù hợp và thuyết phục trong hoạt động quản lý, điều hành hay

giảng dạy. Một số công trình cũng chỉ ra thực trạng đội ngũ giảng viên các

Trường ĐTBD CBCC hiện nay vẫn còn những hạn chế về TDLL, chưa thực

sự nhận thức thấu đáo tri thức khoa học, chưa làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu

khoa để có điều kiện thiết kế, xây dựng chương trình ĐTBD, biên soạn giáo

trình và lựa chọn phương pháp giảng dạy hiệu quả.

Năm là, tùy vào cách tiếp cận khác nhau, tác giả của những công trình

đã nêu phương hướng và bàn về những điều kiện cơ bản hình thành, phát triển

NLTDLL, quan điểm và định hướng của Đảng, Nhà nước về đổi mới

NLTDLL ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chỉ rõ những thuận

lợi, khó khăn trong đổi mới, nâng cao NLTDLL ở Việt Nam. Đây là cơ sở

khoa học, là căn cứ để xem xét, đánh giá đúng đặc điểm, tình hình, yêu cầu

đòi hỏi đối với đối tượng này. Từ đó đề xuất phương hướng và đưa ra những

giải pháp cơ bản nâng cao NLTDLL cho đối tượng nghiên cứu nhằm giúp cho

chủ thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trong hệ thống giải pháp đó có

những giải pháp quan trọng, tạo ra sự chuyển chiến mạnh mẽ về NLTDLL

của các đối tượng nghiên cứu. Cũng có giải pháp tác động trực tiếp làm

chuyển biến các yếu tố, bộ phận cấu thành NLTDLL. Có những giải pháp tác

động đến môi trường phát triển NLTDLL... qua đó tạo thành sức mạnh tổng

hợp nhằm nâng cao NLTDLL cho đối ngũ cán bộ, đảng viên và giảng viên.

Kết quả nghiên cứu của các công trình là tài liệu có giá trị tham khảo

hữu ích được tác giả luận án kế thừa, tiếp thu và tiếp tục làm sâu sắc thêm về

lý luận, thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa NLTDLL cho đội ngũ

giảng viên các Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay.

1.4.2. Những định hướng chính cần tiếp tục nghiên cứu

33

Mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu về NLTDLL, về nâng cao

NLTDLL và xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên. Song ở tầm vĩ

mô, các công trình khoa học nghiên cứu đã đề cập vẫn chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và dưới góc độ triết học về nâng cao

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Từ tổng quan các

công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án đã gợi mở cho tác giả luận

án những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án:

Về lý luận, quan niệm, đặc trưng, vai trò NLTDLL của đội ngũ giảng

viên Trường ĐTBD CBCC còn là mảng trống, cần được nghiên cứu luận giải

thấu đáo. Vì vậy, vấn đề lý luận đặt ra trong luận án cần tiếp tục giải quyết,

làm rõ NLTDLL của đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC; nội dung

nâng cao NLTDLL và những yếu tố tác động đến việc nâng cao NLTDLL cho

đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC.

Về thực tiễn, các công trình khoa học trên được các nhà khoa học

nghiên cứu, phân tích khá sâu về thực trạng TDLL, NLTDLL đối với đội ngũ

cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh; giảng viên

trẻ trong các học viên, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ; cán bộ chủ chốt cấp huyện...

nhưng việc khảo sát và đánh giá thực trạng về nâng cao NLTDLL của đội ngũ

giảng viên các Trường ĐTBD CBCC hiện nay chưa được làm rõ. Do đó, khảo

sát thực trạng, phân tích và chỉ rõ nguyên nhân, khái quát những vấn đề bất

cập cần giải quyết để nâng cao NLTDLL của đội ngũ giảng viên các Trường

ĐTBD CBCC hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm cung cấp cơ sở

thực tiễn cho việc bổ sung, hoàn thiện năng lực, phẩm chất của họ. Qua đó

đánh giá việc thực hiện chính sách đối với đội ngũ giảng viên các Trường

ĐTBD CBCC một cách thiết thực và hiệu quả.

Về quan điểm và giải pháp, các công trình khoa học trên đã đề cập đến

những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hoặc phát triển năng

lực tư duy, NLTDLL hoặc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ

34

(các cấp); giảng viên, giảng viên LLCT... nhưng chưa công trình nào trực tiếp

bàn về phương hướng và giải pháp nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

các Trường ĐTBD CBCC. Do đó, luận án tiếp tục giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra

thông qua việc đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao

NLTDLL của đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay.

Những mảng trống được đặt ra ở trên, tác giả tiếp tục nghiên cứu làm

sáng tỏ trong đề tài luận án.

Kết luận chương 1

Tiếp cận tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án từ những

công trình nghiên cứu lý luận hay thực tiễn về NLTDLL đối với các đối tượng

trong xã hội, đến các công trình nghiên cứu NLTDLL của đội ngũ giảng viên,

có cập nhật những công trình khoa học mới được công bố gần đây cho thấy

các tác giả đã đững vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng để xem xét ở những góc độ khác

nhau về một số nội dung cơ bản như: quan điểm về tư duy lý luận, NLTDLL;

quan niệm về đổi mới, phát triển NLTDLL cho đội ngũ CBCC, giảng viên

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; luận giải rõ vai trò, đặc trưng của

TDLL trong công tác xây dựng Đảng và sự cần thiết nâng cao năng lực tư duy

của đối tượng nghiên cứu; thực trạng, nguyên nhân, yêu cầu, quan điểm và

giải pháp nâng cao NLTDLL đối với một số đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, cho

đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản,

có hệ thống dưới góc độ triết học về vấn đề "Nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt

Nam hiện nay". Do đó, việc lựa chọn hướng nghiên cứu của tác giả là hoàn toàn

mới, không trùng lặp với các công trình NCKH đã công bố.

Những kết quả nghiên cứu trên đã có những đóng góp lớn cả về lý luận

và thực tiễn nhằm phát triển, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, giảng

viên, giảng viên trẻ; cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; cán bộ chủ chốt cấp

35

huyện... nói chung và đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC nói riêng.

Làm cơ sở rèn luyện phẩm chất, tư cách, năng lực chuyên môn và kỹ năng

giảng dạy góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức chuyên nghiệp, hiện đại. Kết quả nghiên cứu của các công

trình đã trực tiếp giúp cho tác giả định hình về phương pháp tiếp cận, triển

khai một vấn đề khoa học theo phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đây là những

tài liệu tham khảo, bài học giá trị, quý báu đối với tác giả trong NCKH.

36

Chương 2

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ

GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN

2.1. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN - KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG

CƠ BẢN

2.1.1. Thực chất tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận

2.1.1.1. Tư duy lý luận

Tư duy lý luận là trình độ cao của của quá trình nhận thức; đó là quá

trình nhận thức khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực, sáng tạo.

Nó có tính gián tiếp và gắn liền với ngôn ngữ; hướng sâu vào nhận thức bản

chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng bởi chủ thể nhận

thức trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Theo cách tiếp cận

khác nhau, có các cách phân loại tư duy khác nhau. Về phương pháp tư duy,

có tư duy biện chứng và tư duy siêu hình; về loại hình tư duy, có tư duy logic,

tư duy hình tượng, tư duy tiền khoa học và tư duy khoa học; về lĩnh vực, có tư

duy triết học, tư duy toán học, tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy văn hóa,

nghệ thuật; về cấp độ tư duy, có tư duy kinh nghiệm và TDLL... Tư duy kinh

nghiệm là trình độ tư duy mới chỉ dừng lại ở việc mô tả những thuộc tính, đặc

điểm, những mối liên hệ và quan hệ của các sự vật, hiện tượng nhiều hơn là đi

sâu phân tích và khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của các sự vật hiện

tượng. Chủ thể tư duy thường tin vào kinh nghiệm của mình và lấy đó làm

chuẩn mực, rất ít tiếp thu kinh nghiệm của người khác, cái mới ở bên ngoài và

áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm của người khác không có chọn lọc,

cân nhắc điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Tư duy kinh nghiệm như là một trình

độ tất yếu phải trải qua trong quá trình phát triển tư duy con người. Chúng ta

cần coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh

37

nghiệm đó. Song hoạt động thực tiễn xã hội luôn vận động, biến đổi phong

phú, đa dạng và phức tạp, đặt ra những yêu cầu mà trình độ tư duy kinh

nghiệm không đáp ứng được đã làm xuất hiện TDLL.

Xét về bản chất của TDLL người ta thường đối lập nó với tư duy kinh

nghiệm. Tư duy kinh nghiệm là một trình độ tư duy của con người, nó thể

hiện năng lực trừu tượng hoá của trí tuệ con người, nhưng còn ở trình độ thấp,

chủ yếu là duy cảm. Bằng tư duy kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn, cuộc

sống người ta cũng có thể rút ra được những kết luận khá chính xác về sự vật,

hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát được những mối liên hệ căn bản

giữa các sự vật, hiện tượng. Do đó, có thể nói rằng tư duy kinh nghiệm là tư

duy tiền khoa học, tiền lý luận.

Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy cụ thể, thiết thực của những người ít

hoặc không am hiểu về lý luận, khoa học; của các thế hệ trong các dân tộc

chưa trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa duy lý chưa phát triển tư duy lý

luận khoa học. Tư duy kinh nghiệm hướng vào những cái cụ thể, nhưng cái cụ

thể ở đây là cái cụ thể trực quan, cảm tính, vụn vặt. Kết quả của nhận thức là

cụ thể, nhưng là cụ thể chưa vươn cao hơn cái cụ thể cảm tính là bao và dĩ

nhiên là chưa phải cái cụ thể trong tư duy theo đúng nghĩa khoa học và đầy đủ

của nó. Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy, suy nghĩ chủ yếu dựa trên kinh

nghiệm cả về nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được sử dụng trong

tư duy, lập luận chỉ là những tri thức kinh nghiệm rất hạn chế: hời hợt, giản đơn,

vụn vặt, đơn nhất, nhưng lại được coi như là cái chung, cái phổ biến, cái bản

chất, cái quy luật. Còn về phương pháp và các thao tác của tư duy thì dựa trên

những nếp suy nghĩ quen thuộc, những lối mòn được hình thành một cách tự

phát, vừa cứng nhắc, vừa không khoa học, không lôgíc. Tư duy dừng lại ở trình

độ đó không những không thể nói đến sự sáng tạo, thậm chí còn sai lầm.

Tư duy lý luận (được hiểu theo nghĩa là cái "phủ định biện chứng" của

tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận

38

thức khoa học. Tri thức lý luận là tri thức được hình thành trên cơ sở khái

quát tri thức kinh nghiệm nhờ sức mạnh của sự trừu tượng hoá và khái quát

hoá của tư duy. Tri thức lý luận là những quá trình tri thức mang tính gián tiếp

và khái quát cao do nó đã qua rất nhiều bước trung gian hoá, trừu tượng hoá.

Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất , trong những mối liên hệ

bên trong mang tính qui luật của nó. Tri thức lý luận là tri thức được hệ thống

hoá nên nó đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể bao quát, đầy đủ và toàn vẹn

về đối tượng phản ánh, nó đã tái tạo lại đối tượng như ban đầu song là ở cấp

độ bản chất bên trong của chính sự vật, hiện tượng. Dựa trên một loại tri thức

có rất nhiều "ưu trội" đó, tư duy lý luận đã giúp cho nhận thức của con người

trở thành nhận thức lý luận đích thực khi nhận thức ấy "đem qui sự vận động

bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự"

[51]. Và do đó tư duy lý luận không những chỉ ra những phương hướng mới

cho hoạt động thực tiễn của con người mà còn làm cho hoạt động đó mang

tính chủ động, tự giác và sáng tạo hơn.

Tư duy lý luận không chỉ tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn tư duy

bằng phương pháp khoa học. Lý luận chứa đựng trong nó khả năng trở thành

phương pháp, nhưng bản thân lý luận tự nó chưa phải là phương pháp. Lý

luận là lập trường, quan điểm, nguyên lý, qui luật, nhưng phương pháp lại là

hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực, yêu cầu, thao tác được rút ra từ

những tri thức lý luận để điều chỉnh hoạt động của con người nhằm đạt được

những mục đích nhất định. Nếu tư duy kinh nghiệm các phương pháp và các

thao tác lôgíc được hình thành một cách tự phát, dựa trên những nếp nghĩ

quen thuộc hoặc dựa trên những tri thức kinh nghiệm thì trong tư duy lý luận

các phương pháp được hình thành dựa trên những tri thức lý luận và được

nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác. Tư duy lý luận chân chính,

khoa học, hiện đại đó là tư duy lý luận mác-xít. Về thực chất, tư duy lý luận

mác-xít là tư duy biện chứng duy vật - một loại hình tư duy được hình thành

39

trên cơ sở đúc kết những tri thức tinh tuý nhất của khoa học, nó là sản phẩm

của sự kết tinh tư duy nhân loại và bao chứa trong đó hai thành tố, hai hạt

nhân cơ bản và hợp lý của khoa học hiện đại là: duy vật và biện chứng. Hạt

nhân của tư duy lý luận mác xít là tư duy triết học mác- xít. Triết học ở bất cứ

thời đại nào cũng đều là kết tinh của trí tuệ nhân loại. Tư duy triết học mác-xít

có 5 đặc trưng cơ bản sau: Một là, tính trừu tượng - khái quát cao; Hai là, tính

chỉnh thể - bao quát cao; Ba là, tính khoa học (tính chân lý); Bốn là, tính gợi

mở - sáng tạo; Năm là, tính phê phán (tính cách mạng). So với tư duy của các

khoa học khác, tư duy triết học bao giờ cũng đạt đến trình độ cao nhất về mặt

trừu tượng - khái quát. Sở dĩ nó đạt đến trình độ trừu tượng - khái quát cao

nhất bởi lẽ triết học chính là khái quát của sự khái quát (khoa học cụ thể đã là

một sự khái quát hóa mà triết học lại được khái quát từ khoa học), nó là kết

tinh từ sự kết tinh, do đó nó mang tính trừu tượng cao nhất, sâu sắc nhất: nhìn

sự vật đúng như bản chất vốn có của nó. Khi đạt đến mức trừu tượng - khái

quát cao nhất thì đồng thời tư duy triết học cũng mang tính chỉnh thể - bao

quát nhất. Điều đó thể hiện qua các phạm trù triết học - những công cụ,

phương tiện hoạt động chủ yếu của tư duy triết học. Những phạm trù triết học

là những phạm trù rộng nhất, bao quát nhất, nếu muốn hiểu nó thì không thể

qui vào phạm trù khác nào đó rộng hơn để nhận thức mà chỉ có duy nhất

thông qua các phạm trù đối lập với nó để hiểu về nó.

Sự khái quát của tư duy triết học mác-xít là khái quát khoa học mang

tính chân lý, bởi vì nó không phải là sự tư biện chủ quan mà chính là phản

ánh của hiện thực khách quan. Thêm vào đó, tư duy triết học mác-xít chỉ có

thể có được khi nó được đúc kết lên từ sự khái quát những thành tựu của khoa

học (tự nhiên - xã hội - nhân văn). Khi được hình thành trên cơ sở khái quát

những thành tựu của các khoa học cụ thể, tư duy triết học mác-xít, tự nó đã

mang tính phổ quát, tính chung nhất. Hơn nữa từ những tri thức khoa học

mang tính chân lý có trước ấy mà tư duy triết học mác-xít sẽ đưa ra những giả

40

thuyết khoa học, những gợi mở, tiên đoán khoa học và nhờ đó khoa học lại có

những định hướng mới, những dự báo mới để khoa học lấy đó làm"đích" mới

cho sự vận động và phát triển của mình. Và tính gợi mở sáng tạo này của tư

duy triết học mác-xít được thể hiện cụ thể, sinh động, rõ ràng, điển hình nhất

trong tiên đoán khoa học mà Lênin đưa ra trong "Chủ nghĩa duy vật và chủ

nghĩa kinh nghiệm phê phán": "Điện tử cũng vô tận như nguyên tử, tự nhiên

là vô tận nhưng nó lại tồn tại một cách vô tận" [40, tr.323].

Khi đã tự khẳng định mình là khoa học, là chân lý luôn mang tính gợi

mở sáng tạo, tư duy triết học mác-xít lại có được tính chất mới: tính chất phê

phán với ba cấp độ: phê phán, tự phê phán và phản phê phán. Phê phán là cấp

độ tư duy lý luận mác-xít đi vào nghiên cứu nhìn nhận, mổ xẻ, phán đoán về

sự vật nhằm tìm ra bản chất chung nhất, mối liên hệ chung nhất, những qui

luật chung nhất đang chi phối chúng. Tự phê phán là cấp độ cao hơn khi tư

duy lý luận mác-xít tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân mình, vạch ra những

cái hợp lý và chưa hợp lý, cái khoa học và chưa khoa học ở mình để từ đó đưa

ra những biện pháp, con đường tự khắc phục. Tự phê phán là tư duy lý luận

mác-xít biết tự bảo vệ mình, biết đấu tranh chống lại những luận điệu phản

diện của nó, biết chỉ ra những cái sai, những mâu thuẫn nội tại của các loại tư

duy phi logic, phản khoa học khác. Tính phê phán này làm cho tư duy lý luận

mác-xít thể hiện rõ nhất bản chất cách mạng của mình. Chính nhờ những đặc

trưng được trình bày trên làm cho tư duy triết học mác-xít, thứ nhất, là hình

thức tư duy cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại; thứ hai, nó có thể đóng

được vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất

cho mọi loại hình tư duy; thứ ba, những đặc trưng này làm cho tư duy triết

học mác-xít có được không chỉ và không phải chủ yếu là ở sự thuyết minh,

chứng minh mà căn bản là ở sự phát hiện, phát minh.

Nói về điều này, Ph.Ăngghen đã khẳng định: "trí tuệ con người tìm

thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều điều kỳ diệu hơn

41

nữa, do đó làm tăng thêm quyền lực của mình đối với tự nhiên" [49, tr.720].

TDLL được đề cập ở đây là TDLL khoa học, hạt nhân của nó là phương pháp

tư duy biện chứng duy vật, phản ánh đối tượng mang tính chỉnh thể, toàn

diện, sâu sắc ở tầm bản chất, quy luật. Giá trị của TDLL chủ yếu là ở sự

chuyển biến cả về phương pháp và trình độ tư duy, từ chỗ chưa khoa học,

chưa đúng đắn đạt đến trình độ khoa học và đúng đắn. C. Mác đã đánh giá rất

cao khả năng trừu tượng hóa của tư duy: "...khi phân tích những hình thái

kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những phản ứng hóa học

được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó" [52, tr.16]. Sức sống

bền vững của TDLL không chỉ ở chỗ xác lập những khái niệm, quan điểm mới

mà trước hết và chủ yếu là sự chuyển biến của phương pháp tư duy, từ chỗ chưa

khoa học đến trình độ khoa học. Thực tế đã cho thấy, TDLL ngày càng đóng vai

trò quan trọng trong sự phát triển của các khoa học cũng như thực tiễn xã hội.

Vai trò của TDLL, Ph.Ăngghen chỉ rõ: "một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh

cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận" [50, tr.489].

Dù người ta có tỏ ý khinh thường mọi TDLL như thế nào đi nữa,

nhưng không có TDLL thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự

kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được

mối liên hệ giữa hai sự kiện đó... sự khinh thường lý luận là con

đường đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa,

tức là suy nghĩ sai [50, tr.508].

Từ những đặc trưng trên có thể hiểu: TDLL là tư duy ở cấp độ nhận

thức cao nhất của con người, có vai trò quan trọng trong nhận thức và trong

chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người; được thực hiện dựa trên nguyên

tắc phương pháp luận biện chứng duy vật và các thao tác tư duy lôgic để nắm

bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại

tiềm ẩn trong khách thể nhận thức, từ đó có thể tạo ra những mô hình lý luận

phù hợp với hiện thực khách quan chỉ đạo thực tiễn ngày càng có hiệu quả.

42

2.1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và các đặc trưng cơ bản của nó

Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt, năng lực "là phẩm chất, trình độ, khả

năng của con người", [99] thì "năng lực" gồm hai nghĩa: Một là, năng lực là

khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động

nào đó; Hai là, năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả

năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. GS.VS Phạm

Minh Hạc đưa ra quan điểm về năng lực như sau: năng lực là những đặc điểm

tâm lý cá biệt, tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ của

việc tác động vào đối tượng lao động. Tâm lý học quan niệm, năng lực là "tập

hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện

bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một số hoạt động nhất định".

Theo xã hội học, năng lực được hiểu là tài năng của con người; tài năng này

kết hợp với phẩm chất đạo đức tạo nên nhân cách của con người - tài và đức...

Cấu thành năng lực vừa có yếu tố thuộc về cái vốn có, bẩm sinh, tiềm

ẩn bên trong chủ thể, vừa có các yếu tố là sản phẩm của quá trình học tập,

nghiên cứu, rèn luyện, phấn đấu không mệt mỏi trong hoạt động thực tiễn của

từng chủ thể, giúp họ đạt kết quả cao ở từng lĩnh vực nhất định. Từ những

quan niệm trên, có thể khái quát năng lực là khả năng dưới dạng vật chất hoặc

tinh thần của một cá nhân hoặc một tổ chức người để thực hiện một hoạt động

nào đó nhằm làm cho hoạt động đạt được hiệu quả cao; và nói đến năng lực

là nói tới hoạt động của con người, gắn với con người.

Lý luận, là hệ thống những tri thức được khái quát từ tri thức kinh

nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính

quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ

thống những nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận có vai trò định hướng, dự

báo cho hoạt động thực tiễn. Lý luận là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực

khách quan thông qua hoạt động thực tiễn, nó biểu hiện bằng nhiều hình thức

khác nhau, trong đó, cốt lõi của lý luận là các quy luật. Lý luận là sản phẩm

43

của sự phản ánh hiện thực khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn. Khi

hiện thực khách quan biến đổi, phát triển thì lý luận cũng biến đổi theo. Sự

biến đổi của lý luận phụ thuộc vào sự phát triển của NLTDLL.

Năng lực tư duy, cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và được

xem như một sản phẩm, một sức mạnh thật sự của con người, là đặc trưng

riêng và là sức mạnh của con người để sáng tạo, phát triển và vận dụng tri

thức vào cuộc sống. Năng lực tư duy thể hiện khả năng lựa chọn các vấn đề

liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định.

Năng lực tư duy, gồm: khả năng lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp,

các hình thức tư duy; khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội dung

và phương pháp tư duy để phát hiện vấn đề và có phương án xử lý tốt vấn đề

đó. Năng lực tư duy có thể tách ra ít nhất là hai mặt: Thứ nhất, hệ thống các

yếu tố chủ quan tạo nên khả năng tuy duy của chủ thể, bao gồm: sự tích lũy

vốn tri thức, vốn kinh nghiệm, trình độ nắm vững và sử dụng ngôn ngữ cũng

như phương pháp tư duy; thái độ, quan điểm, lập trường, tình cảm, ý chí và

các yếu tố tâm sinh lý khác có liên quan đến quá trình tư duy. Thứ hai, các

yếu tố trên tự chúng chưa thể tạo thành quá trình tư duy của chủ thể, quá trình

đó chỉ được thực hiện do yêu cầu của hoạt động nhận thức cũng như hoạt

động thực tiễn của chủ thể, trong các điều kiện tương ứng sẽ biến thành một quá

trình suy nghĩ để phản ánh bản chất, quy luật của khách thể nhận thức. Do vậy,

năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ của con người đáp ứng yêu

cầu nhận thức thế giới và đảm bảo cho hoạt động sáng tạo. Năng lực đó được

biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành động; kết quả xử lý thông tin và

nhất là kết quả hoạt động; phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau của năng lực

tư duy. Bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ và trên

cơ sở phẩm chất trí tuệ ấy có nhận thức và hành động sáng tạo.

Năng lực tư duy lý luận, là một vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong quá trình đổi mới tư duy ở nước ta thời

44

gian qua. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: NLTDLL, là khả năng tư duy về

những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh

thể của sự tồn tại, vận động và phát triển; đó là khả năng tư duy khoa học,

sáng tạo trong sử dụng các khái niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng

hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá nhằm đem lại những tri thức mới mang

tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và có hệ thống..., phù hợp với quy luật

khách quan của hiện thực. NLTDLL có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống,

cụ thể hoá lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp khả thi để giải

quyết các vấn đề của cuộc sống một cách có hiệu quả. NLTDLL vừa bị ảnh

hưởng bởi các điều kiện của thực tại khách quan, vừa bị ảnh hưởng bởi các

nhân tố chủ quan của chủ thể nhận thức. Chẳng hạn, vào năng lực bẩm sinh,

vào quá trình giáo dục đào tạo, vào trình độ nhận thức, vào năng lực hoạt

động thực tiễn của mỗi người, vào môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn

hoá, khoa học của xã hội, v.v..

Năng lực TDLL của một chủ thể nhất định là tổng hòa những yếu tố tạo

nên khả năng TDLL của chủ thể và không chỉ biểu hiện trong quá trình nhận

thức mà còn biểu hiện cả phương hướng, biện pháp hành động, kết quả xử lý

thông tin, kết quả hoạt động thực tiễn. Tuy có nhiều cách hiểu và diễn đạt

khác nhau, nhưng các tác giả đều thống nhất ở những điểm cơ bản về

NLTDLL: Thứ nhất, NLTDLL phụ thuộc vào chủ thể tư duy, tổng hợp những

yếu tố chủ quan của chủ thể như phẩm chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo tri thức

khoa học, kinh nghiệm thực tiễn. Thứ hai, NLTDLL là những khả năng sử

dụng nội dung, hình thức, phương pháp, thao tác TD khoa học nhằm đáp ứng

sự nhận thức ở trình độ lý luận và sáng tạo ra tri thức mới. Thứ ba, NLTDLL

là khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào hoạt động thực tiễn mang lại

hiệu quả, đồng thời có khả năng dự báo khoa học.

Trên cơ sở các quan điểm trên, có thể hiểu một cách đầy đủ và toàn

diện về NLTDLL như sau: NLTDLL là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của

45

chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn hiện thực

ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề xuất cụ thể, sắc bén, sáng tạo, thiết thực

góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của

con người. Sự phát triển của NLTDLL là kết quả tổng hợp của sự tương tác giữa

nhiều nhân tố, trong đó, mối nhân tố giữ vị trí không ngang bằng nhau, song

chúng đều góp phần quy định sự tồn tại, phát triển của NLTDLL.

Các đặc trưng cơ bản của NLTDLL: Thứ nhất, năng lực khám phá, nắm

bắt, tái tạo hiện thực ở trình độ lý luận. Khi nói đến quá trình này, trong tác

phẩm, Bút ký triết học Lênin đã dẫn ra luận điểm của Hêghen:

... Vì muốn nhận thức chân lý về tồn tại tự nó và vì nó là gì, nên tri

thức không ngừng lại (không ngừng lại nhận biết) ở cái trực tiếp và

ở các quy định của nó, mà tự mở cho mình một con đường (nhận

biết) thông qua (nhận biết) cái trực tiếp, với giả thuyết rằng ở bên

kia (do Hê ghen viết nghiêng) cái tồn tại ấy, có một cái gì khác với

bản thân tồn tại, rằng hậu trường ấy là chân lý của tồn tại. Nhận thức

ấy là một tri thức gián tiếp, vì nó không trực tiếp nằm ở bản chất và

trong bản chất, mà là nó bắt đầu từ cái gì khác, từ tồn tại, và nó phải

trải qua một con đường dự bị, con đường vượt qua tồn tại, hay nói

đúng hơn là xâm nhập vào tồn tại [42, tr.136-137].

Xét kỹ hơn theo nghĩa này tư duy bao chứa trong nó bốn quá trình khác

nhau: Một là, quá trình xâm nhập, nắm bắt hiện thực khách quan (quá trình

thu thập thông tin); Hai là, trên cơ sở những dữ liệu thông tin có đượcvề sự

vật, tư duy đi vào phân loại, so sánh rồi phân tích, tổng hợp để đi đến tìm mối

liên hệ và quan hệ giữa chúng. Đây chính là quá trình xử lý thông tin của tư

duy lý luận. Ba là, khi đã có những tri thức tổng hợp nhất định về hiện thực

khách quan, tư duy lý luận dùng các thao tác trừu tượng hoá, khái quát hoá,

hệ thống hoá, tích hợp hoá để có được hình ảnh về cái cụ thể trong hiện thực

khách quan, song đây là cái cụ thể ở cấp độ bản chất của nó, cái cụ thể trong

46

tư duy. Đây là quá trình tái tạo lại hiện thực khách quan. Bốn là, khi có hình

ảnh về hiện thực khách quan ở cấp độ bản chất của nó, chủ thể tư duy sử dụng

nó như là công cụ, phương tiện (phương pháp luận và phương pháp) để giúp

hoạt động thực tiễn của con người đạt mục đích (cải tạo hiện thực) nhanh hơn

và có hiệu quả hơn. Đây có thể nói là quá trình cải tạo hiện thực của tư duy lý

luận thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Các quá trình trên của

NLTDLL trên thực tế không tách rời nhau, cô lập nhau mà chúng đan xen,

xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau, bổ sung và làm tiền đề cho nhau làm cho tư

duy lý luận vận động gần tới khách thể nghiên cứu. Nhờ NLTDLL, làm cho

hoạt động của con người có căn cứ, có cơ sở chính xác, giúp cho hoạt động

của họ trở lên tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo và hiệu quả;

Thứ hai, năng lực sử dụng TDLL như là phong cách, phương pháp hoạt

động nhận thức và thực tiễn. Đây chính là cách nhìn nhận, đánh giá vốn có

của TDLL khi phản ánh tái tạo hiện thực khách quan. TDLL theo nghĩa này

thường được hiểu thông qua các cặp đối lập của nó: đó là tư duy biện chứng

đối lập với tư duy siêu hình, là tư duy logic đối lập với tư duy phi logic, là tư

duy khoa học đối lập với tư duy phi khoa học, là tư duy duy lý đối lập với tư

duy duy ý chí v.v... Nhận thức của NLTDLL phải dựa vào thực tiễn kiểm

nghiệm, qua đó mới phản ánh được tính chính xác, tính đúng đắn của lý

thuyết khoa học. NLTDLL xuất phát từ thực tiễn và trở về với thực tiễn, có

vậy NLTDLL mới phát huy được vai trò to lớn của mình để chỉ đạo, hướng

dẫn hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả. Hay nói cách khác, NLTDLL có

sự thống nhất với thực tiễn, nó được thể hiện thông qua hoạt động của chủ thể

nhận thức có khả năng dùng sức mạnh của NLTDLL để nắm bắt bản chất,

quy luật vận động của thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động và biến đổi, nên

nhiệm vụ đặt ra cho NLTDLL phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn,

xuất phát từ thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn, hướng dẫn và chỉ đạo hoạt

động thực tiễn mang lại hiệu quả.

47

Cấu trúc của NLTDLL bao gồm các yếu tố cấu thành:

Thứ nhất, năng lực nhận thức về TDLL và chuyên môn, học vấn. Năng

lực này đòi hỏi chủ thể phải có kiến thức về lý luận chính trị như nắm bắt

được những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

có kiến thức chuyên môn phù hợp và chuyên sâu, có khả năng nắm bắt đầy

đủ, sâu sắc về sự vật hiện tượng. Năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ đòi hỏi

chủ thể phải được đào tạo về học vấn và chuyên môn phù hợp với môi trường

và vị trí của chủ thể tư duy. Năng lực này giúp cho chủ thể nâng cao không

ngừng rèn luyện về bản lĩnh chính trị và chuyên môn, học vấn để đáp ứng yêu

cầu ngày càng cao cho nhu cầu phát triển của xã hội.

Thứ hai, năng lực vận dụng nhuần nhuyễn TDLL vào nhận thức và hoạt

động thực tiễn.

Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được những

mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ

hơn. Muốn nhận thức, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh,

phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa. Đây là năng lực xem

xét sự vật trong mối liên hệ ảnh hưởng, ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái

vận động, biến đổi không ngừng. Năng lực này giúp cho con người có được

sự hiểu biết sâu sắc và nhận thức đúng đắn về sự vật hiện tượng khách quan,

từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả, phát huy và kế thừa có chọn

lọc, sáng tạo những tri thức vào thực tiễn, có khả năng tiếp cận đúng, kịp thời

quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm ,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước cho phù hợp với bối

cảnh, yêu cầu và nhiệm vụ mới. Nhờ có năng lực này của quá trình nhận thức

mà chủ thể có thể tác động trở lại thực tiễn, hành động góp phần làm biến đổi

thực tiễn thông qua hoạt động của con người.

48

Thứ ba, năng lực về tinh thần, thái độ của chủ thể tư duy.

Toàn cầu hóa và hội nhập là đặc trưng cơ bản của thời đại ngày nay,

không một quốc gia nào đứng ngoài cuộc mà có thể phát triển được. Do vậy

trong bối cảnh đó sẽ không tránh khỏi những thời cơ và thách thức. Năng lực

này rèn luyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, không giao động trước mọi khó

khăn, cám dỗ. Vì vậy, đòi hỏi chủ thể không ngừng nâng cao trình độ về

LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, giữ gìn bản

lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, uy tín, có trách nhiệm thì sẽ có hành

động đúng, có thể vững vàng trước mọi khó khăn thử thách để hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao.

2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận

2.1.2.1. Các nhân tố thuộc về tư chất của chủ thể tư duy

Ph.Ăngghen đã viết: "TDLL chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng

năng lực của người ta mà có thôi" [50, tr.487]. Như vậy, bất kỳ một quá trình

tư duy nào cũng cần có sự hoàn thiện và phát triển những tư chất của chủ thể

tư duy như yếu tố bẩm sinh, di truyền của từng người. Những yếu tố này đóng

vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu, sự thông minh, trí nhớ, khả năng

trực giác, nhạy cảm... Sau đó là những yếu tố về sự minh mẫn của bộ óc, sự

nhạy cảm của các cơ quan cảm giác, sự cường tráng về thể lực, sự cân bằng

về tâm sinh lý... là tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ và NLTDLL.

2.1.2.2. Quá trình đào tạo và tự đào tạo, rèn luyện

Quá trình đào tạo, tự đào tạo, rèn luyện nâng cao trình độ tri thức, trí

tuệ, ảnh hưởng trực tiếp, đóng vai trò quyết định đến NLTDLL và đòi hỏi chủ

thể phải thường xuyên được đào tạo, tự đào tạo, tự rèn luyện trong thực tiễn

để nâng cao trình độ tri thức toàn diện, đặc biệt là những tri thức về quy tắc,

phương pháp, quy luật của tư duy. Quá trình này mang lại cho con người

không chỉ nội dung tri thức mà cả những phương pháp tư duy khoa học.

Thông qua đó, năng lực tư duy nói chung, NLTDLL nói riêng được trau rồi,

49

rèn luyện củng cố, phát triển. Đó chính là nền tảng, là cơ sở để con người mài

dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy nhạy bén, sáng tạo. Nếu bị

hạn chế về tri thức, trí tuệ thì khó mà nâng cao được NLTDLL. Trình độ, vốn

tri thức, văn hóa là một thành tố quan trọng tạo nên nền tảng của NLTDLL.

Không có tri thức, văn hóa khó có thể có NLTDLL thực sự. Tất nhiên là có

trình độ tri thức, văn hóa cao chưa hẳn đã có năng lực tư duy phát triển; cần

có sự tích lũy vốn tri thức, văn hóa càng nhiều, càng cao thì điều đó chứng tỏ

một năng lực tư duy nhất định của chủ thể.

2.1.2.3. Môi trường kinh tế - xã hội, chính trị xã hội

Môi trường kinh tế - xã hội, chính trị xã hội, văn hóa, khoa học của xã

hội ảnh hưởng quan trọng đến NLTDLL của con người. C.Mác đã chỉ rõ "con

người là sản phẩm của hoàn cảnh", hoàn cảnh kinh tế - xã hội sẽ sản sinh ra

con người. Sự phát triển về NLTDLL phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã

hội, trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Nó bao gồm toàn bộ những

điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan trực tiếp đến đời sống, đến quá trình

học tập, rèn luyện và công tác của chủ thể. Do đó, NLTDLL chịu sự chi phối

chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học và trình độ văn hóa xã hội. Nền

tảng văn hóa, với sức mạnh cuốn hút của cái chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh

mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù của mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm

nền tảng tâm sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng với sự

phát triển của khoa học, NLTDLL cũng có quá trình phát sinh, phát triển của

mình. Khi đánh giá về sự phát triển của NLTDLL, Ăngghen nhận xét: "TDLL

của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch

sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó

có một nội dung rất khác nhau" [50, tr.487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với mỗi

giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng

có những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học

công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự phát triển nhanh chóng

50

của các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc nâng cao NLTDLL lại càng

gắn liền với sự phát triển của khoa học. Vì vậy, nâng cao NLTDLL trước hết

phải nâng cao trình độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt

là phương pháp tư duy biện chứng.

2.1.2.4. Hoạt động thực tiễn

Hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới TDLL của

con người. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là hoạt động

vật chất - cảm tính, mang tính lịch sử xã hội, có mục đích của con người

nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Ăng ghen khẳng định: "chính việc người ta

biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự

nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người và trí tuệ con

người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" [50,

tr.720]. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà

bằng hoạt động thực tiễn. Qua hoạt động thực tiễn mà con người có được

những hiểu biết, những tri thức về hiện thực khách quan và phát triển những

năng lực của chủ thể. Như vậy, thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý

luận. Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật

làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Không có thực tiễn thì

không thể có nhận thức. Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận

thức phải trả lời. Chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải

quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn còn là nơi rèn

luyện giác quan của con người các cơ quan giác quan được rèn luyện, sẽ tạo

ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn. Những tri thức,

kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực

tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá

trị của tri thức - kết quả của nhận thức. Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà

vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa thành tích thì nhận thức sớm

muộn sẽ mất phương hướng. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai

51

của nhận thức, lý luận, là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Sự phát triển

liên tục, không ngừng của thực tiễn luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi

con người phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện quy luật vận động, phát triển

của sự vật, hình thành những phương thức, nội dung mới trong năng lực tư

duy hướng về việc phát hiện và giải quyết các vấn đề theo yêu cầu của thực

tiễn. Hơn nữa, chính thực tiễn là cơ sở để điều chỉnh phương pháp tư duy của

con người ngày càng khoa học, hiệu quả hơn.

2.1.2.5. Nhu cầu và lợi ích

Nhu cầu và lợi ích là yếu tố hình thành thái độ, động cơ trong mọi hoạt

động của con người, trong đó có hoạt động rèn luyện để hình thành và phát

triển NLTDLL. Hoạt động của con người là những hoạt động có mục đích cụ

thể, phương tiện cụ thể tại một địa điểm cụ thể, bao giờ cũng nhằm theo đuổi

những mục đích nhất định và cái chi phối mục đích hoạt động của con người

là nhu cầu và lợi ích. Xét một cách toàn diện, mọi hoạt động của con người dù

là trực tiếp hay gián tiếp tác động, cải tạo và làm cải biến tự nhiên hay xã hội

thì mục đích cuối cùng cũng là nhằm đạt được một lợi ích nhất định về vật

chất hoặc tinh thần. Trích theo V.I.Lênin, Hêghen đã viết "những lợi ích thúc

đẩy đời sống của các dân tộc và các cá nhân" [42, tr.98]. Như vậy, chi phối

mục đích hoạt động của con người là lợi ích. Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng

thường xuyên và trực tiếp đến ý thức, động cơ hoạt động thực tiễn, học tập và

rèn luyện để nâng cao NLTDLL. Người có động cơ không trong sáng, trong hoạt

động, học tập, rèn luyện chỉ vì lợi ích cá nhân, trước mắt, lợi ích cục bộ... thì khó

có thể rèn luyện được NLTDLL sắc bén. Hoặc có được NLTDLL tốt, nhưng

người đó có động cơ không trong sáng như Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng

người đó cũng chỉ là: người có tài mà không có đức cũng trở thành vô dụng.

2.1.2.6. Các yếu tố của tồn tại xã hội

Các yếu tố của tồn tại xã hội nói chung sẽ ảnh hưởng đến tư duy của cả

cộng đồng và từng cá nhân nói riêng. Xu thế hội nhập, hợp tác toàn cầu hóa,

52

quốc tế hóa bùng nổ thông tin trong thời đại hiện nay là một trong những yếu

tố có tác động không nhỏ đến TDLL. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị

trường của nước ta là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội

nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau,

theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế

giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng

quốc gia. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi

nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình

độ phát triển. Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách

thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là

NLTDLL của chủ thể nhận thức. Yếu tố khách quan này đặt ra yêu cầu, phát

triển tư duy để có nhận thức mới cho phù hợp với điều kiện phát triển.

Những yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ, bổ

sung nhau tác động đến NLTDLL của chủ thể. Nếu những yếu tố trong hệ

thống ấy cùng tác động đến NLTDLL theo một chiều hướng tích cực sẽ có tác

dụng phát triển NLTDL nhanh chóng hơn hoặc ngược lại.

2.2. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM

2.2.1. Đặc trưng của đội ngũ giảng viên trong các trường đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ công chức

2.2.1.1. Thực chất của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ở trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Theo Từ điển tiếng Việt, "đào tạo" là "làm cho trở thành người có năng

lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [99]. Một số quan niệm khác cho rằng

đào tạo được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm

hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, thái độ…

để hoàn thành nhân cách cho một cá nhân, tạo điều kiện cho họ có thể vào đời

53

hành nghề có năng suất và hiệu quả. Đào tạo được xem như một quá trình

giúp cho người được đào tạo trở thành người có năng lực theo những yêu cầu,

tiêu chuẩn nhất định. Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm

2010 của Chính phủ về ĐTBD công chức thì: "Đào tạo là quá trình truyền

thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp

học, bậc học" [16]. Với khái niệm này, quá trình đào tạo gắn liền với thời gian

đào tạo tại trường học qua từng cấp học, bậc học.

Bồi dưỡng, theo Từ điển tiếng Việt, "Bồi dưỡng là tăng thêm năng lực

hoặc phẩm chất" [99]. Một số quan niệm cho rằng bồi dưỡng là quá trình đào

tạo lại, nhằm bổ sung, mở rộng, nâng cao kiến thức kỹ năng nghề nghiệp,

trang bị thêm cho con người tri thức mới, cập nhật cả những kỹ năng, phương

pháp hành động; quá trình liên tục nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức,

kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực nói chung trên cơ sở mặt bằng kiến

thức đã có, đã được đào tạo trước đó. Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày

05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ đã khái niệm về bồi dưỡng cán bộ, công

chức như sau: "Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức,

kỹ năng làm việc" [16]. Khái niệm này chỉ ra hoạt động bồi dưỡng gắn liền

với trang bị kiến thức, kỹ năng vận dụng những kiến thức chung nhất ở một

môi trường công việc cụ thể.

Đào tạo, bồi dưỡng, có nhiều quan niệm giải thích cụm từ này. Từ điển

Hành chính của Tô Tử Hạ chỉ rõ: "ĐTBD là hoạt động của cơ quan quản lý

CBCC, của cơ sở ĐTBD nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng làm việc theo

tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch chức vụ, chức danh" [29]. Cụm từ ĐTBD

được sử dụng rộng rãi và được dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật

của Nhà nước, các văn bản của Đảng.

Khi nói về sự cần thiết phải đổi mới công tác ĐTBD CBCC, Nghị

quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X (về đẩy mạnh

CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước) đã yêu cầu:

54

Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình ĐTBD CBCC

sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình

thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua ĐTBD

chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống

nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải

quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế

đào tạo tiền công vụ và ĐTBD trong công vụ theo định kỳ bắt buộc

hàng năm; thực hiện chế độ ĐTBD trước khi bổ nhiệm [24].

Luật Cán bộ, công chức (Điều 25, 47, 48, 49, 63) [76] đã khái niệm

ĐTBD là việc cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc.

Đối với các nước, hoạt động của các cơ quan nhằm cập nhật kiến thức, trang

bị kỹ năng, phương pháp làm việc cho đội ngũ công chức được diễn đạt bằng

khái niệm trang bị - huấn luyện. Theo tác giả, có thể hiểu ĐTBD theo hai

cách: Một là, ĐTBD vừa thực hiện những nhiệm vụ của giáo dục quốc dân -

tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; vừa

tổ chức cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc cho

CBCC; Hai là, ĐTBD là một thuật ngữ không tách rời, là hoạt động thường

xuyên của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng CBCC nhằm cập nhật kiến

thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc...cho CBCC.

Mô hình cơ sở ĐTBD CBCC: Cơ sở ĐTBD CBCC là đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ hoặc trực thuộc Tỉnh ủy, Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh; được thành lập theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền

ở Trung ương, có tư cách pháp nhân, có vai trò quan trọng đối với công tác

ĐTBD cho CBCC thuộc Bộ, ngành và địa phương.

Cơ sở ĐTBD CBCC trực thuộc Bộ, ngành hiện nay gồm: Học viện,

Trường hoặc Trung tâm ĐTBD CBCC. Tiền thân các Học viện là các Trường

hoặc Trung tâm ĐTBD CBCC của Bộ, ngành sau sát nhập với một số Trung

tâm nghiên cứu, quản lý của Bộ, ngành thành Học viện, như: Học Viện Tư

55

pháp trực thuộc Bộ Tư pháp; Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị trực

thuộc Bộ Xây dựng; Trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo trực thuộc

Bộ Giáo dục và đào tạo; Học viện Dân tộc trực thuộc Ủy ban Dân tộc...

Cơ sở ĐTBD CBCC trực thuộc Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương phần lớn là Trường Chính trị. Các Trường

này có nhiệm vụ ĐTBD về lý luận chính trị, đường lối, chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước; thực hiện

triển khai dịch vụ khoa học và công nghệ; nghiên cứu và tư vấn về chính sách

cho các cấp quản lý của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; hợp tác, liên

kết đào tạo, NCKH với các cơ sở giáo dục đại học trong và ngoài nước.

Nội dung và đối tượng ĐTBD: Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày

05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ: Nội dung ĐTBD ở trong nước, gồm: Lý

luận chính trị; Chuyên môn, nghiệp vụ; Kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ

năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành; tin học, ngoại ngữ, tiếng dân

tộc; Nội dung bồi dưỡng ở ngoài nước, gồm: Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng

quản lý hành chính nhà nước và quản lý chuyên ngành; Kiến thức, kinh

nghiệm hội nhập quốc tế.

Đối tượng ĐTBD của cơ sở ĐTBD CBCC có sự khác biệt với đối

tượng người học tại các trường chuyên nghiệp. Học viên của các cơ sở ĐTBD

CBCC là những CBCC đã có thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc.

Đối tượng này có những nét đặc thù riêng biệt so với các đối tượng khác trong

giáo dục, như: học viên tham gia khóa ĐTBD đều là những người trưởng

thành về mặt xã hội; có quan niệm, cách làm, nếp sống được hình thành tương

đối vững chắc, là những người có đủ tư cách giải quyết những việc thuộc

chức năng, nhiệm vụ của mình, có tư duy. Họ có thể là những người đã tốt

nghiệp đại học, có kinh nghiệm thực tiễn về mặt chuyên môn và quản lý nhà

nước hoặc được bổ nhiệm, đề bạt, giữ một chức vụ cụ thể trong một tổ chức,

một cơ quan… Quá trình ĐTBD không phải trang bị những kiến thức cơ bản,

56

cơ sở hay chuyên ngành mà là một hệ thống kỹ năng; khả năng vận dụng và giải

quyết các tình huống cụ thể. Đó là quá trình tiếp thu kiến thức một cách sáng tạo,

có phê phán ở trình độ cao những hiểu biết và những kỹ năng về nghề.

Hình thức và thời gian ĐTBD: Hình thức ĐTBD chủ yếu được phân

loại theo các hình thức sau: (1) Phân loại theo cách thức triệu tập học viên,

gồm: ĐTBD dưới hình thức tập trung hoặc tại chức, từ xa... (2) Phân loại

theo thời gian, gồm: đào tạo dài hạn, trung hạn và ngắn hạn (theo yêu cầu

và hàm lượng của khóa học); thông thường những khóa đào tạo có cấp

bằng được gọi là dài hạn, như đào tạo cử nhân chính trị hay thạc sỹ hành

chính (từ 02 năm trở lên); những khóa bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức

danh CBCC thường gọi là trung hạn (trên dưới 3 tháng); các khóa bồi

dưỡng cập nhật nâng cao là các khóa ngắn hạn từ 2-3 ngày hoặc 1 tuần. (3)

Phân loại theo mục đích, gồm: ĐTBD tiền công vụ; ĐTBD theo tiêu chuẩn

chức danh, tiêu chuẩn ngạch; chuyên ngành; chứng chỉ hành nghề; có yếu

tố nước ngoài và ở nước ngoài. Cách phân loại trên, có xem xét các hình

thức ĐTBD thường gặp trong hình thức như ĐTBD thông qua hội thảo, tham

quan, tổng kết rút kinh nghiệm.

Về thời gian ĐTBD được quy định cụ thể đối với từng loại chương

trình ĐTBD: (i) Chương trình ĐTBD theo tiêu chuẩn ngạch thực hiện trong

thời gian tối đa là 08 tuần; gồm: ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, chuyên

viên chính, chuyên viên cao cấp (và tương đương); (ii) Chương trình ĐTBD

theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý thực hiện trong thời gian tối đa là

04 tuần; bao gồm: lãnh đạo cấp phòng, cấp sở, cấp vụ, thứ trưởng (và tương

đương); (iii) Chương trình ĐTBD kiến thức, kỹ năng chuyên ngành thực hiện

trong thời gian tối đa là 02 tuần, bao gồm: theo tiêu chuẩn chuyên ngành; cập

nhật theo vị trí việc làm… CBCC tham gia ĐTBD được cấp văn bằng hoặc

chứng chỉ, chứng nhận. Bằng, chứng chỉ và chứng nhận của CBCC học các

chương trình ĐTBD không phải là do Bộ giáo dục và đào tạo mà là chứng

57

nhận của các cơ sở đào tạo trên nguyên tắc phân cấp của Chính phủ và các cơ

quan quản lý có thẩm quyền.

Chương trình, giáo trình, tài liệu và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục

vụ giảng dạy, học tập. Chương trình, giáo trình, tài liệu: là một trong những

yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động ĐTBD CBCC chất lượng, hiệu

quả. Sự phù hợp của chương trình ĐTBD gắn với sứ mạng và mục tiêu

ĐTBD. Chương trình phải được thiết kế có tỷ lệ hợp lý giữa lý thuyết và thực

hành và dễ áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại. Nội dung chương trình

phải thiết thực, phù hợp với đối tượng theo các vùng, miền khác nhau sẽ giúp

cho học viên tích cực học tập để nâng cao kiến thức, năng lực công tác và

phát huy được vào công việc hàng ngày. Giáo trình, tài liệu không những là

tài liệu học tập mà còn là cẩm nang để CBCC tra cứu khi cần thiết... Hiện

nay, theo quy định của Chính phủ, một chương trình, giáo trình, tài liệu

ĐTBD phải do Bộ Nội vụ tổ chức xây dựng, thẩm định và ban hành. Các cơ sở

ĐTBD tổ chức các khóa ĐTBD theo nội dung chương trình đã được phê duyệt.

Việc sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng sẽ có tác dụng

thiết thực đến nâng cao chất lượng ĐTBD. Việc phân bổ thời gian cho các

chuyên đề phải cân đối, phù hợp với từng đối tượng và thời gian khóa học.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập phải được quy

hoạch hợp lý, có đầy đủ hội trường, phòng học, thư viện, ký túc xá, phòng

làm việc và các khu hoạt động khác phục vụ cho hoạt động dạy và học.

Đảm bảo việc sử dụng vệ sinh, an toàn, đủ ánh sáng, thông gió, đầy đủ

trang thiết bị cần thiết phục vụ cho giảng dạy theo phương pháp mới… Đây

là những điều kiện đảm bảo để cơ sở ĐTBD chủ động chiêu sinh nhưng

cũng là những điều kiện cần thiết cho cả quá trình tổ chức hoạt động

ĐTBD. Môi trường làm việc, học tập, năng lực tổ chức ĐTBD của cơ sở

ĐTBD tốt, điều kiện cơ sở vật chất hiện đại có tác động tích cực tới hoạt

động ĐTBD CBCC và ngược lại.

58

2.2.1.2. Cơ cấu, tiêu chuẩn của đội ngũ giảng viên các trường đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Về cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Theo Luật giáo

dục Đại học: giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có thân nhân rõ

ràng; có phẩm chất đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt

trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định. Trình độ chuẩn của giảng

viên là: có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp

vụ sư phạm đối với giảng viên giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sỹ

trở lên đối với giảng viên giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sỹ...

[78]. Theo Nghị định 125/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2011 quy định

về Trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,

lực lượng vũ trang nhân dân: "Nhà giáo của trường ĐTBD thuộc đội ngũ nhà

giáo trong hệ thống giáo dục quốc dân phải đảm bảo tiêu chuẩn và thực hiện

nhiệm vụ theo quy định của Luật Giáo dục" [18].

Đội ngũ giảng viên là một trong những yếu tố quan trọng quyết định

đến công tác ĐTBD cũng như thương hiệu, vị thế của Trường. Theo kết quả

điều tra tại 38 Trường ĐTBD CBCC trong cả nước của Đề tài khoa học cấp

Bộ - Bộ Nội vụ (2011) của tác giả Nguyễn Hữu Tám thì cơ cấu trình độ tiến

sĩ, thạc sĩ, cử nhân lần lượt là 2.1% - 64.1% - 51.8% [83].

Qua khảo sát một số Trường ĐTBD của bộ, ngành và Trường Chính trị

tỉnh, đội ngũ giảng viên của các Trường có trình độ trên đại học chiếm từ 80-

95% tổng số giảng viên. Tỉ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ dưới 10%. Như: tại

Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh có 12 giảng viên có trình độ tiến sĩ,

chiếm tỉ lệ (18,5%); Trường Bồi dưỡng cán bộ Bộ Tài chính có 08 giảng viên

có trình độ tiến sĩ chiếm 9%; các trường khác chỉ có từ 2 hoặc 3 giảng viên có

trình độ tiến sĩ. Số giảng viên có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư còn ít, chiếm

tỉ lệ dưới 3%. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều giảng viên của các trường đang

làm nghiên cứu sinh, như: Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ có 14 giảng

59

viên; Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong có 15 giảng viên đang học

nghiên cứu sinh (Biểu đồ 2.1).

Đơn vị tính: Người

59

74

4533

67

35

28

2 0 312

611

25

72

38

8

25 29

82

Tr. CB quảnlý GTVT

Tr.BDCB Tàichính

Tr.ĐTCB LêHồng Phong

Tr. CTTNghệ An

Tr.ĐTBDkiểm sátTP.HCM

HVCBTP.HCM

Tr.ĐTBDCBCC BNV

TS G.viên Tiến sĩ Thạc sĩ

Biểu đồ 2.1: Số lượng và trình độ giảng viên một số trường

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Theo kết quả khảo sát một số Trường, tỷ lệ giảng viên được đào tạo

chuyên ngành Luật (18.8%) và Hành chính công (33%) còn ít bởi đây là

những chuyên môn chủ yếu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các trường về bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và ĐTBD chức vụ lãnh đạo, quản lý các

cấp, trong khi 26,7% chuyên ngành kinh tế là quá nhiều bởi đây không phải là

những trường đào tạo về kinh tế. Do vậy, cần phải xây dựng một cơ cấu về

ngành đào tạo hợp lý hơn, tăng cường đội ngũ giảng viên với các chuyên

ngành như luật, hành chính công, quản lý nhà nước, chính trị học, tổ chức nhà

nước… nhằm đảm bảo sự cân đối cơ cấu ngành đào tạo của giảng viên góp

phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.

Về độ tuổi, thành phần chính trị cũng là nhân tố ảnh hưởng đến NLTDLL

của đội ngũ giảng viên. Hiện nay, độ tuổi giảng viên nữ ở độ tuổi từ 41 - 50 tuổi

và giảng viên nam từ 46- 55 tuổi chiếm chủ yếu (trên 40%). Ví dụ: Học viện Cán

bộ TP. Hồ Chí Minh có 67 giảng viên, trong đó có 17 giảng viên trẻ (tỷ lệ 25,4

%); trong 5 năm tới, số giảng viên nghỉ hưu theo chế độ là 24 người (tỷ lệ

60

35,8%). Cơ cấu giới trong đội ngũ giảng viên nhiều Trường ĐTBD chưa hợp lý,

có Trường tỷ lệ nữ cao, chiếm trên 65% tổng số giảng viên của Trường. Theo

nghiên cứu của các chuyên gia, nếu cơ cấu là 45% nam và 55% nữ là hợp lý, bởi

khó có cơ cấu 50-50, hơn nữa nghề giảng dạy thường phù hợp với nữ, giảng viên

nữ có thế mạnh chuyên cần, ham học hỏi, bình tĩnh, nhẹ nhàng, yêu nghề… Bên

cạnh đó, GV nữ còn có những hạn chế như nhút nhát, trách nhiệm gia đình lớn

và đôi khi là hạn chế về thể lực, sức khỏe, nhất là đi giảng dạy xa Trường. Để có

đội ngũ giảng viên mạnh, các trường cần phải có sự điều chỉnh cơ cấu giới cho

cân bằng, hợp lý hơn đang là một yêu cầu rất cần thiết.

Về tiêu chuẩn đội ngũ giảng viên trường ĐTBD [14], được quy định tại

Thông tư liên tịch 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06 tháng 6 năm 2011

của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo; cụ thể:

Tiêu chuẩn chung: Trung thành với Tổ quốc Việt Nam XHCN; Phẩm

chất chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh; Đạt chuẩn về trình độ

đào tạo chuyên môn từ đại học trở lên quy định theo chức danh, phù hợp với

chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy; Có trình độ lý luận chính trị, quản lý

nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

được giao; Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; Lý lịch bản thân rõ ràng,

đáp ứng yêu cầu về chính trị. Tùy vào điều kiện thực tiễn của các trường

ĐTBD CBCC vận dụng thành những tiêu chuẩn cụ thể cho đơn vị mình.

Tiêu chuẩn cụ thể:

Giảng viên: có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm trở lên hoặc có bằng

tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy

và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; trình độ ngoại ngữ B trở lên;

tin học trình độ B trở lên; trình độ trung cấp lý luận chính trị - hành chính

hoặc trung cấp lý luận chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà

nước theo quy định.

Giảng viên chính: có bằng thạc sỹ phù hợp sỹ chuyên môn, chuyên ngành

61

giảng dạy; ngoại ngữ trình độ C; có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch,

chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu giảng dạy, tài liệu tham khảo phục vụ

ĐTBD; có đề án hoặc đề tài NCKH được cấp khoa hoặc cơ sở ĐTBD áp dụng

có kết quả trong chuyên môn; có trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính

hoặc cao cấp chính trị và chứng chỉ bồi dưỡng quản lý nhà nước theo quy định.

Giảng viên cao cấp: có bằng tiến sĩ; bằng ngoại ngữ trình độ C, tin học

trình độ C trở lên; có đề án hoặc đề tài NCKH sáng tạo cấp tỉnh hoặc cấp bộ

ngành trở lên được Hội đồng khoa học công nhận và đưa vào áp dụng có hiệu

quả, có trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc cao cấp chính trị

và chứng chỉ bồi dưỡng quản lý nhà nước theo quy định.

Trên thực tế, một số cơ sở ĐTBD đã chú trọng tiêu chuẩn của giảng

viên ngay từ khâu tuyển dụng đầu vào của nhà trường: giảng viên có trình độ

Thạc sỹ trở lên, và có trình độ chuyên môn vững, có thâm niên trong giảng

dạy. Từ những tiêu chí trên, giảng viên đã trải qua khâu tuyển chọn về chuyên

ngành đào tạo, khả năng sư phạm, xem xét quá trình học tập, tu dưỡng tại các

trường đại học làm căn cứ phân bổ biên chế vào các Khoa, được sự giúp đỡ

của Ban chi ủy, Ban giám hiệu, các chuyên gia cao cấp, các đồng nghiệp, các

giảng viên lớp trước có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong thực

tế giảng dạy, các viên chức, giảng viên có điều kiện được tiếp cận, được học

hỏi kinh nghiệm, được tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn để

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của nhà trường.

2.2.1.3. Nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Một là, nhiệm vụ giảng dạy. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, giảng viên

phải nghiên cứu nắm vững mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp

giảng dạy, vị trí, yêu cầu của môn học và các chuyên đề được phân công

giảng dạy, các quy chế kiểm tra, thi, đánh giá kết quả học tập của học viên;

xây dựng kế hoạch giảng dạy, đề cương môn học, bài giảng và thiết kế các tài

62

liệu, cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy. Giảng bài, hướng dẫn học viên kỹ

năng tự học tập, nghiên cứu, thảo luận khoa học, tham gia các hoạt động thực

tế, viết tiểu luận, thực tập tốt nghiệp, xây dựng đề cương và viết khóa luận tốt

nghiệp. Tìm hiểu trình độ, kiến thức và hiểu biết của học viên, thường xuyên

cập nhật thông tin để xử lý, bổ sung, hoàn chỉnh, cải tiến nội dung, kế hoạch,

phương pháp giảng dạy và cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy. Thực hiện

đánh giá kết quả học tập của học viên và hướng dẫn học viên đánh giá hoạt

động giảng dạy. Dự giờ và tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy của các

giảng viên khác theo quy định của cơ sở ĐTBD.

Hai là, nhiệm vụ NCKH và công nghệ: Chủ trì hoặc tham gia thực hiện

các chương trình, đề án, đề tài NCKH, phát triển công nghệ được phân công

và có kết quả cụ thể được Hội đồng khoa học đánh giá đạt yêu cầu trở lên.

NCKH và công nghệ để xây dựng chương trình ĐTBD; tham gia xây dựng

chương trình, biên soạn tài liệu giảng dạy, tài liệu tham khảo phục vụ công tác

ĐTBD; cải tiến phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá môn học,

chuyên đề thuộc nội dung chương trình ĐTBD được phân công giảng dạy.

Viết các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học, viết các chuyên đề, báo cáo

khoa học tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học được phân công. Tham

gia các hoạt động hợp tác quốc tế về NCKH, công nghệ và các hoạt động

khoa học khác khi được phân công...

Ba là, nhiệm vụ tham gia công tác quản lý ĐTBD, NCKH, công tác

đảng, đoàn thể và các hoạt động khác: tham gia xây dựng, triển khai, giám sát

việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập của cơ sở ĐTBD; làm các công tác

khác như: Chiêu sinh, tuyển sinh, chủ nhiệm lớp, chỉ đạo thực tập, phụ trách

phòng thí nghiệm, quản lý khoa, phòng, bộ môn; quản lý khoa học công nghệ;

công tác đảng, đoàn thể, các hoạt động xã hội tại cơ sở ĐTBD và công tác

khác khi được cấp có thẩm quyền giao.

Bốn là, nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ: học tập, bồi

63

dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, LLCT, QLNN, ngoại ngữ, tin học,

phương pháp giảng dạy để tăng cường năng lực công tác đáp ứng yêu cầu đổi

mới và nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC là nhiệm vụ thường xuyên. GV có

trách nhiệm thực hiện khi được cơ sở ĐTBD xem xét cử đi ĐTBD để có các

trình độ chuyên môn, học vị đạt chuẩn hoặc cao hơn chuẩn đối với các chức

danh đang giữ, bảo đảm tiêu chuẩn khi được bổ nhiệm vào các chức danh

mới. Về thời gian làm việc và định mức thời gian làm việc của giảng viên

được quy định tại Thông tư liên tịch 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06

tháng 6 năm 2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó, thời

gian làm việc của giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp theo chế

độ tuần làm việc 40 giờ, tổng quỹ thời gian làm việc hàng năm là 1.760 giờ.

Định mức thời gian làm việc hàng năm theo từng nhiệm vụ, đối với mỗi chức

danh giảng viên cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Định mức thời gian hàng năm của mỗi giảng viên

Chức danh

Nhiệm vụ

Giờ giảng

dạy

Giờ nghiên

cứu

Giờ h.động chuyên

môn, nhiệm vụ khác

Giảng viên 900 400 460

Giảng viên chính 900 500 360

Giảng viên cao cấp 900 600 260

Nguồn: [14]

2.2.2. Vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của đội

ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Từ cách tiếp cận về năng lực, NLTDLL có thể quan niệm: NLTDLL

cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC là tổng hợp, thống nhất biện

chứng những giá trị, những phẩm chất của chủ thể như tư chất trí tuệ, phẩm

chất sáng tạo, trí thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp tư duy

khoa học…; tạo cho họ khả năng nhận thức ở trình độ lý luận và vận dụng tri

64

thức lý luận vào thực tiễn giảng dạy, NCKH đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của

các trường ĐTBD CBCC. Vai trò NLTDLL đối với hoạt động của đội ngũ

giảng viên các trường ĐTBD CBCC, gồm:

2.2.2.1. Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên trường đào

tạo, bồi dưỡng không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ

Muốn giảng dạy tốt, đòi hỏi giảng viên trường ĐTBD CBCC phải

thường xuyên nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ. Đặc biệt việc nâng cao trình độ lý luận thực sự đóng vai trò quan trọng

trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm, đường lối của Ðảng, làm cho hệ tư tưởng của Ðảng, lý tưởng

XHCN, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh

hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đây

là một yêu cầu khách quan, nhiệm vụ của họ là phải biến những tri thức khoa

học thành tri thức thường trực của bản thân. Để làm được việc phải nhờ tới

các thao tác tư duy. Bằng sự phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng

hóa, hệ thống hoá những khái niệm, phạm trù thuộc các lĩnh vực đời sống xã

hội, từ đó nhận thức nhanh hơn, đúng đắn hơn, sâu sắc hơn lý luận chính trị,

chuyên môn nghiệp vụ, tri thức khoa học chuyên ngành... Nếu không có khả

năng tư duy, đặc biệt là TDLL, giảng viên các trường ĐTBD không thể phản ánh

một cách kịp thời, chính xác các sự kiện, hiện tượng xã hội nảy sinh để trên cơ

sở đó bổ sung, phát triển lý luận, đề xuất những hướng giải quyết đúng đắn, tất

yếu, dẫn tới chất lượng và hiệu quả giảng dạy sẽ không cao. Năng lực TDLL tuy

có yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu vẫn là sản phẩm của lịch sử xã hội, sản phẩm

của quá trình học tập, rèn luyện của mỗi người. Nhờ có năng lực TDLL, giảng

viên mới có thể nhận thức thấu đáo tri thức khoa học, giải quyết các tình huống

mới nảy sinh, từ đó có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy của mình. Mặt

khác, khi đã nắm được bản chất của tri thức khoa học, năng lực TDLL của người

65

giảng viên sẽ được nâng lên một trình độ mới.

2.2.2.2. Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên các trường

đào tạo, bồi dưỡng rèn luyện và không ngừng nâng cao phương pháp đào

tạo, bồi dưỡng

Chất lượng của ĐTBD phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ

quan. Trong đó, phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC có vai trò rất quan trọng. Thực tế cho thấy, phương pháp

ĐTBD rất đa dạng, phong phú; không tồn tại một hệ phương pháp chung, sẵn

có và bất biến nào cho mọi môn học hay mọi quá trình giảng dạy. Giảng viên

các trường ĐTBD CBCC phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để truyền

thụ kiến thức đến cho người học một cách hiệu quả nhất. Vận dụng linh hoạt,

sáng tạo những thao tác cơ bản của TDLL để xây dựng đề cương, soạn giáo

án, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin hiện đại thiết kế bài giảng; căn

cứ vào nội dung kiến thức, chương trình môn học, chuyên đề, đối tượng đào

tạo cụ thể, cơ sở vật chất đảm bảo... GV lựa chọn phương pháp giảng dạy phù

hợp, làm cho bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn, giúp cho người học tiếp

thu kiến thức dễ dàng, không nên cứng nhắc khi sử dụng các phương pháp

giảng dạy.

Năng lực TDLL giúp giảng viên các trường ĐTBD CBCC trang bị có

hệ thống kỹ năng giảng dạy, NCKH, cách tiếp cận thực tiễn để thu hút được

sự quan tâm của học viên đối với vấn đề mình truyền đạt. Đồng thời, giúp cho

giảng viên có tư duy phát hiện những vấn đề mới và không ngừng nâng cao

bản lĩnh nghề nghiệp, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp trong ĐTBD,

gợi mở, kích thích sự tìm tòi, óc sáng tạo học viên. Bên cạnh đó, NLTDLL

còn giúp đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC không chỉ dừng lại ở

việc truyền thụ kiến thức cho người học, mà còn thể hiện rõ ở các hình thức

sau giảng như: trao đổi, thảo luận, định hướng, hướng dẫn học viên tự học, tự

nghiên cứu để tiếp tục tích luỹ tri thức, phát triển tư duy và vận dụng một

66

cách có hiệu quả kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn.

2.2.2.3. Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách sư phạm

Nghiên cứu khoa học là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của người giảng

viên. Để NCKH, giảng viên các trường ĐTBD CBCC phải tích lũy đủ một

lượng kiến thức, có trải nghiệm thực tiễn và có phương pháp tư duy khoa học

thì mới có thể thực hiện được. Nếu chỉ có tri thức và kinh nghiệm không thôi

thì chưa đủ, vì hoạt động của người giảng viên là hoạt động của tư duy ở trình

độ cao. Khi NLTDLL cao thì khả năng thực hiện các thao tác tư duy khoa học

dễ dàng, sản phẩm tư duy đem lại có giá trị cao, vì vậy chất lượng và hiệu quả

hoạt động NCKH cũng như các nhiệm vụ khác ngày càng tốt hơn.

Trong ĐTBD CBCC không chỉ dạy kiến thức, kỹ năng, mà cao hơn là dạy

đạo lý, nhân cách… vì vậy, có những đòi hỏi nghiêm ngặt không chỉ về trình độ

tri thức mà còn đòi hỏi rất cao về phẩm chất đạo đức, phương pháp, tác phong sư

phạm của người giảng viên. Để đạt được điều này, đòi hỏi đội ngũ giảng viên các

trường ĐTBD CBCC phải trải qua một quá trình tích lũy liên tục cùng với một

phương pháp tu dưỡng, rèn luyện khoa học do NLTDLL của chính họ đem lại.

NLTDLL đã cụ thể hoá những mục tiêu, năng lực kiến thức chuyên môn, phẩm

chất đạo đức, năng lực sư phạm... thành những nội dung công việc hàng ngày,

giúp đội ngũ giảng viên có những biện pháp, cách thức tiến hành tu dưỡng, rèn

luyện hiệu quả để nhanh chóng hoàn thiện đầy đủ phẩm chất cần thiết của người

giảng viên. Khi NLTDLL được nâng cao, giúp cho họ tiếp tục hoàn thiện phẩm

chất, nhân cách sư phạm. Cứ như vậy, quá trình này diễn ra một cách biện chứng

giúp cho người giảng viên không ngừng trưởng thành hơn về mọi mặt.

2.2.2.4. Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng tiếp thu và chuyển tải chương trình đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của đối tượng

Bất cứ một giảng viên các trường ĐTBD CBCC nào cũng cần phải

67

thường xuyên cập nhật thông tin về đường lối, chính sách mới của Đảng và

Chính phủ về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc tế. NLTDLL giúp cho họ cập

nhật, bổ sung thông tin kịp thời, phù hợp và xây dựng thành kiến thức, kỹ

năng, năng lực mới cho bản thân trong nghiên cứu, giảng dạy.

Khi NLTDLL cao có vai trò to lớn giúp cho giảng viên các trường

ĐTBD CBCC không dừng lại ở việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, năng

lực NCKH... mà còn giúp cho đội ngũ giảng viên tiến hành các hoạt động thu

thập xử lý thông tin, xây dựng thành tri thức khoa học mới dưới dạng những

khái niệm, suy luận hoặc giả thuyết, lý thuyết, lý luận khoa học mới, phản ánh

khách thể nhận thức một các chính xác hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn. Qua đó

phát huy được vai trò chủ động tích cực của giảng viên trong việc thiết kế đề

cương, soạn giáo án, ứng dụng công nghệ thông tin, tiến hành giảng bài,

NCKH, hướng dẫn học viên học tập, nghiên cứu, cập nhật, bổ sung kiến thức

một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu ĐTBD của đối tượng.

2.2.2.5. Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên trường đào

tạo, bồi dưỡng học tập, rèn luyện nâng cao hơn nữa phương pháp tư duy

biện chứng duy vật

Để có được phương pháp tư duy biện chứng duy vật, giảng viên các

trường ĐTBD CBCC phải có một trình độ và NLTDLL nhất định. Bởi vì,

NLTDLL vốn là lý luận của phương pháp tư duy biện chứng. Lý luận này chỉ

ra cách thức, biện pháp, quy tắc tiến hành các thao tác tư duy. Phương pháp tư

duy khoa học được xây dựng dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật và phép

biện chứng duy vật. Khi có NLTDLL thì việc kết hợp giữa thế giới quan khoa

học và phép biện chứng duy vật để tạo thành phương pháp tư duy khoa học sẽ

dễ dàng. Việc thực hiện các thao tác tư duy khoa học được tiến hành một cách

nhanh chóng, chuẩn xác để tạo ra tri thức mới. Bên cạnh đó, nhờ có năng lực

TDLL sẽ giúp cho giáo viên các trường ĐTBD CBCC tiếp tục học tập, làm

giàu hơn vốn kiến thức và kinh nghiệm bản thân - nguồn chất liệu phong phú

68

cung cấp cho việc thực hiện các thao tác tư duy khoa học thuận lợi. Như vậy,

có thể khẳng định năng lực TDLL là cơ sở trang bị lý luận về phương pháp tư

duy và cung cấp chất liệu cho người giảng viên thực hiện các thao tác tư duy

khoa học. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, mang lại hiệu quả cao sẽ lại tiếp

tục động viên đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC tích cực rèn luyện,

nâng cao hơn nữa phương pháp tư duy biện chứng.

2.2.3. Nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng

viên trường các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Theo quan niệm của tác giả: Nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

trong các trường ĐTBD CBCC là quá trình tác động tích cực của các chủ thể và

sự tự giác, chủ động của các giảng viên làm cho các yếu tố cấu thành NLTDLL

của đội ngũ giảng viên không ngừng được bổ sung, hoàn thiện; giúp giảng viên

trong các trường ĐTBC CBCC thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình.

Nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC là

quá trình tác động mang tính tích cực, tự giác của chủ thể, được thể hiện ở

tính có mục đích, có nội dung, có biện pháp tác động một cách chủ động, sáng

tạo, phù hợp quy luật làm cho NLTDLL của giảng viên ngày càng được nâng

cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy trong các trường ĐTBD CBCC.

Mục đích nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC nhằm chuyển biến các yếu tố cấu thành NLTDLL của giảng viên lên

một tầm cao mới.

Chủ thể nâng cao, bao gồm: Một là, Ban giám hiệu là các chủ thể lãnh

đạo có vai trò quyết định việc ra chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên, có tác động tích cực, mạnh mẽ đến nhận thức,

trách nhiệm và hoạt động của các chủ thể khác trong quá trình nâng cao

NLTDLL cho giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Hai là, Lãnh đạo các

Khoa/Phòng là chủ thể quản lý, điều hành, có vai trò xác lập kế hoạch, tổ chức,

quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động nâng cao NLTDLL cho giảng viên các

69

trường ĐTBD CBCC, đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ giữa các khâu, các bước,

tạo thành sức mạnh tổng hợp thúc đẩy qúa trình đó diễn ra chất lượng và hiệu

quả. Ba là, các tổ chức (Chi bộ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ, Hội đồng

khoa học…) là các chủ thể tác động, tác động trực tiếp tạo ra môi trường, điều

kiện thuận lợi cho việc bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao NLTDLL và những phẩm

chất cần thiết trong nhân cách của đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC.

Thứ tư, chủ thể tự nâng cao NLTDLL, chính là bản thân giảng viên…. Trong

quá trình nâng cao NLTDLL, giảng viên vừa với tư cách là đối tượng được tiếp

nhận những tác động của các chủ thể khác, vừa với tư cách là một chủ thể đặc

biệt - tự chuyển hóa những tác động của các chủ thể khác thành động lực bên

trong thúc đẩy NLTDLL của mình phát triển lên một tầm cao mới.

Nội dung nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC, dưới góc độ tiếp cận của triết học và đặc thù của đội ngũ giảng

viên này, gồm 03 nội dung cơ bản sau: Nâng cao trình độ TDLL và chuyên

môn nghiệp vụ; Nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp

biện chứng trong nhận thức và thực tiễn; Nâng cao ý thức, thái độ phát triển

nghề nghiệp, phát triển bản thân của chính đội ngũ giảng viên. Để làm rõ các

nội dung này, Luận án đã xây dựng "Tiêu chí đánh giá NLTDLL cho đội ngũ

giảng viên các trường ĐTBD CBCC" làm công cụ, thước đo đánh giá, nhận

biết NLTDLL cho đội ngũ giảng viên này.

Dựa trên quan điểm NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC được đánh giá khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vừa định

lượng, vừa định tính, lấy định lượng để định tính; xem xét toàn diện, tổng hợp

tất cả các yếu tố có thể đo, định lượng được để định tính rõ ràng, đầy đủ

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC.

2.2.3.1. Nâng cao trình độ tư duy lý luận và chuyên môn nghiệp vụ

cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Đối với giảng viên các trường ĐTBD CBCC, việc chuẩn hóa, nâng

70

chuẩn đào tạo là đặc điểm lao động sư phạm, là một trong những yếu tố cơ

bản của nghề dạy học. Sự lạc hậu nhanh chóng của kiến thức so với sự phát

triển của tri thức khoa học, sự thay đổi của chế độ, chính sách... đòi hỏi giảng

viên trường ĐTBD CBCC phải thường xuyên cập nhật. Giảng viên là người sở

hữu tri thức và truyền lại cho học viên qua giảng dạy, nhưng tri thức được cho

là bất động nhưng nó là cái luôn thay đổi và không ngừng phát triển; những

điều được biết hôm nay không bao giờ giống điều sẽ được biết ngày mai. Yêu

cầu nâng cao nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên các

trường ĐTBD CBCC là một trong những nội dung quan trọng nhằm nâng cao

chất lượng đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC, chất lượng giảng dạy,

đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển nguồn nhân lực.

Việc nâng cao nhận thức TDLL, kiến thức lý luận chính trị, chuyên môn

để nắm bắt, truyền tải đến đối tượng ĐTBD, đòi hỏi phải có năng lực, phẩm chất

và chuyên môn nhất định. Từ đó cho thấy, giảng viên các trường ĐTBD CBCC

phải có tri thức về môn học, năng lực nắm bắt thông tin chính trị - xã hội nhạy

bén, chính xác; có NLTDLL để tổng kết thực tiễn vận dụng, đối chiếu những

kiến thức ấy với thực tiễn phức tạp, đa chiều cạnh áp dụng vào giảng dạy, đúc rút

ra bài học kinh nghiệm. Nếu giảng viên các trường ĐTBD CBCC không có cách

tiếp cận, nhìn nhận mới, không đủ lý luận, năng lực khoa học, chuyên môn và

NLTDLL, sẽ không cập nhật kiến thức, không thể phân tích, đánh giá, phản biện

về sự biến đổi, vận động của thực tiễn, không thể có những luận giải đúng đắn,

phù hợp và thuyết phục trong hoạt động ĐTBD.

Thực tiễn cho thấy rằng, người có xu hướng nâng cao trình độ LLCT,

chuyên môn, NCKH, kỹ năng... và tích cực tham gia hoạt động thực tiễn nhiều

thì càng có nhiều cơ hội phát triển năng lực và NLTDLL. Điều này thể hiện ý

chí phấn đấu, ý thức rèn luyện vươn lên; ở tấm lòng trung thực trong việc phát

triển lý luận, tinh thần tổng kết kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm thực tiễn trở

thành lý luận, bảo vệ lý luận… Đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo để

71

phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, đem lại những tri

thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với

tính quy luật khách quan của hiện thực. Từ đó có thể thấy, NLTDLL là một

trong những công cụ sắc bén trong hoạt động giảng dạy của giảng viên các

trường ĐTBD CBCC, giúp cho họ: đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý

luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề

của cuộc sống có hiệu quả cao; tạo khả năng xác lập tri thức, xác lập quan hệ

giữa các tri thức và đối tượng hóa tri thức. Nói một cách khái quát, nâng cao

nhận thức về TDLL cho giảng viên các trường ĐTBD CBCC là tổng hợp các

phẩm chất trí tuệ của đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện,

nhận thức nhạy bén, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, từ đó, có

những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn trong giảng dạy.

Lý luận chính trị là những môn khoa học xã hội có tính trừu tượng hóa,

khái quát hoá cao, xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau, nhằm phát hiện

những quy luật vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, đem lại cho

con người "hình ảnh chân thật của đối tượng", nhờ đó mà con người có thể cải

tạo thế giới theo yêu cầu và mục đích của mình. LLCT có tính hệ thống, chính

xác và lôgic chặt chẽ, phản ánh chính xác sự vật hiện tượng như nó đã tồn tại,

vận động và phát triển, có tác dụng tích cực đối với hoạt động thực tiễn của

con người, làm cho "trí tuệ" con người phát triển, làm tăng thêm quyền lực của

con người đối với tự nhiên. Nâng cao nhận thức về LLCT cho đội ngũ giảng

viên các trường ĐTBD CBCC, giúp cho giảng viên không thể chỉ dừng lại ở

những nguyên lý lý luận thuần túy, kiến thức sách vở... mà quan trọng hơn là

phải biết vận dụng, đối chiếu những kiến thức ấy với thực tiễn phức tạp, đa

chiều cạnh; biết tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm. Điểm

đặc biệt của nâng cao nhận thức LLCT là rất nhạy cảm với mọi sự đổi thay

của môi trường xã hội, chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội. Mọi

sự biến đổi của đất nước cũng như quốc tế đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến

72

nhận thức về LLCT. Thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển

nhưng không theo một khuôn mẫu định sẵn hay một con đường thẳng tắp, mà

quanh co, khúc khuỷu. Khi giảng viên các trường ĐTBD CBCC có trình độ

LLCT cao sẽ truyền tải những nội dung thông tin có định hướng - những

nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan

điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong điều

kiện cả lý luận và thực tiễn hiện đang còn rất nhiều vấn đề chưa được giải

quyết thấu đáo, khoa học, đầy đủ...

Nội dung đánh giá việc nâng cao trình độ TDLL và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC; có thể đánh giá

theo 02 tiêu chí; Một là, tiêu chí đánh giá trình độ chuyên môn, học vấn; Hai

là, tiêu chí đánh giá trình độ LLCT. Cụ thể:

Tiêu chí đánh giá trình độ chuyên môn, học vấn của giảng viên là việc

đánh giá trình độ kiến thức, kỹ năng thực hiện trong giảng dạy. Trước hết, cần

đánh giá lĩnh vực, chuyên ngành đào tạo của giảng viên để xem mức độ phù

hợp, đảm bảo với chức năng nhiệm vụ của trường. Ngoài ra, tiêu chí này

không chỉ đánh giá bằng cấp chuyên môn được đào tạo mà còn là kết quả hoàn

thành nhiệm vụ chuyên môn, ở uy tín trong công tác chuyên môn. Mức độ

kiến thức của giảng viên các trường ĐTBD CBCC được xác định bằng các bậc

học cụ thể trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Tiêu chí đánh giá trình độ LLCT của giảng viên, tiêu chí này đánh giá

mức độ hiểu biết về chính trị của giảng viên các trường ĐTBD CBCC, là mức

độ hiểu biết về LLCT, theo 3 mức: sơ cấp, trung cấp, cao cấp; trình độ LLCT

là cơ sở để tạo nên phẩm chất chính trị của người giảng viên, không có trình

độ LLCT nhất định người giảng viên không thể có giác ngộ lý tưởng cộng sản,

có bản lĩnh chính trị vững vàng.

2.2.3.2. Nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn

Đây là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ảnh hưởng, ràng

73

buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư

duy mềm dẻo, linh hoạt. Việc nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn

phương pháp biện chứng cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC

trong nhận thức và thực tiễn có một ý nghĩa quan trọng. Cụ thể:

Giúp giảng viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hành động;

đòi hỏi giảng viên cần nhận thức sự vật phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa

các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác

động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối

liên hệ gián tiếp. Phải biết phân biệt từng mối liên hệ, chú ý tới mối liên hệ

bên trong, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ bản chất của

sự vật. Trong hoạt động giảng dạy, giảng viên phải sử dụng đồng bộ các biện

pháp, các phương tiện khác nhau kết hợp với "kinh nghiệm giảng dạy" để tác

động vào đối tượng (là CBCC) nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó,

nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng còn giúp

giảng viên ngoài việc có quan điểm phát triển trong nhận thức, hành động còn

nâng cao "phẩm chất sáng tạo" cho bản thân. Quan điểm phát triển đòi hỏi

giảng viên không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, còn phải thấy rõ

khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy được những

biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Giảng viên biết

phân chia quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn, từ đó có cách

tác động, nhận diện và phê phán nhận thức và hành động phù hợp.

Mặt khác, nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp

biện chứng sẽ giúp giảng viên rèn luyện phương pháp biện chứng qua nghiên

cứu các mối quan hệ biện chứng; quy luật cơ bản của phép biện chứng duy

vật, giúp giảng viên hiểu sâu sắc và nhận thức đúng đắn bản chất, mâu thuẫn

của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả; phát huy, kế thừa có

chọn lọc, sáng tạo những cái vốn có của tinh hoa, kết quả đã được công

nhận… Đồng thời, giúp cho giảng viên đúc kết được kinh nghiệm, nâng cao

74

sức sáng tạo và khả năng vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ biện chứng với

kinh nghiệm, nhận thức lý luận và học tập phương pháp nhận thức khoa học,

như: phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm, phương pháp xây dựng và

phát triển lý thuyết khoa học (phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch

sử và lôgíc, từ trừu tượng đến cụ thể…).

Nội dung đánh giá việc nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn; có thể đánh giá theo 02 tiêu chí: Một là, tiêu chí đánh giá kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên; Hai là, tiêu chí đánh giá phẩm chất sáng tạo của giảng viên.

Tiêu chí đánh giá kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên, là một trong những tiêu chí làm rõ khả năng của giảng viên các trường ĐTBD CBCC trong vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn, làm nên hiệu quả trong giảng dạy là kinh nghiệm, phục vụ tốt sự đa dạng của các phong cách học tập, các kinh nghiệm sống. Khi giảng viên có kinh nghiệm trong giảng dạy, thì ngoài việc bổ sung cho học viên kiến thức về lý luận và thực tiễn, còn giúp cho học viên hiểu sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời có được những phương án giải quyết triệt để, khoa học đối với những tình huống về chuyên môn, nghiệp vụ mà học viên vướng mắc trong quá trình thực thi công vụ... Kinh nghiệm của giảng viên có thể đánh giá qua: học hàm, học vị, tuổi đời, thời gian tham gia giảng dạy, tham gia NCKH và trải nghiệm thực tiễn...

Tiêu chí đánh giá phẩm chất sáng tạo của giảng viên. Nhà nghiên cứu Phan Dũng cho rằng: "Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kì cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi" [21]. Khi năng lực sáng tạo của giảng viên được phát huy, với hàm lượng trí tuệ cao mới có những sản phẩm, bài giảng chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của đối tượng học tập. Tiêu chí này là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn của giảng viên các Trường ĐTBD CBCC; qua đó làm cơ sở đưa ra phương hướng phát huy, tạo ra cái mới có giá

75

trị giải quyết vấn đề đặt ra một cách hiệu quả. Việc đánh giá này, dựa trên các sản phẩm sáng tạo của giảng viên, như: thực hiện các đề tài, đề án; các công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học...

2.2.3.3. Nâng cao ý thức, thái độ phát triển nghề nghiệp, phát triển bản thân của chính đội ngũ giảng viên

Đây là biện pháp quan trọng hơn cả bởi thuộc về chủ quan đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Chỉ khi bản thân đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC có ý thức phát triển nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách và xác định được mục tiêu trong công việc thì lúc đó các biện pháp khác mới phát huy được hiệu quả, quá trình nâng cao chất lượng của chính họ mới đạt mục tiêu như mong muốn.

Ý thức phát triển nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên trường ĐTBD CBCC không chỉ dừng lại ở việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực nghề nghiệp mà cần mở rộng cả ở việc lập kế hoạch tự học tập, học tập suốt đời, chủ động trong công tác NCKH. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC cần chủ động tham gia học tập, trau dồi, bồi dưỡng các kỹ năng mềm: công nghệ thông tin, ngoại ngữ, làm việc nhóm... Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như ngày nay, ngoại ngữ và tin học có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, nghiên cứu. Giảng viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ để có thể tiếp cận với các nguồn tài liệu phong phú trên thế giới, tự học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, ngoại ngữ và tin học cũng giúp họ có cơ hội và khả năng tham gia nhiều loại hình đào tạo, trong đó có e-training, e-learning (đào tạo - học tập trực tuyến, tích hợp phương tiện truyền thông, năng động, sáng tạo). Nội dung đánh giá việc nâng cao ý thức, thái độ phát triển nghề nghiệp, phát triển bản thân của chính đội ngũ giảng viên; có thể đánh giá theo 03 tiêu chí, cụ thể: Một là, tiêu chí đánh giá giảng viên tự mình đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc giảng dạy; Hai là, tiêu chí đánh giá việc thiết lập các mục tiêu, sự gắn bó chặt chẽ giữa các chương trình, chuyên đề ĐTBD và việc học tập của CBCC; Ba là, tiêu chí đánh giá khả năng nắm bắt, đánh giá

76

và tổng kết thực tiễn thông qua các nội dung sau: Tiêu chí đánh giá giảng viên tự mình đáp ứng các tiêu chuẩn cao của

việc giảng dạy, việc giảng viên đáp ứng được tiêu chuẩn cao trong giảng dạy

sẽ giúp cho học viên đáp ứng các tiêu chuẩn cao của các hoạt động trí tuệ mà

chúng đòi hỏi những sự tận tâm cao độ về thời gian và sự chú ý.

Tiêu chí đánh giá việc thiết lập các mục tiêu, sự gắn bó chặt chẽ giữa

các chương trình, chuyên đề ĐTBD và việc học tập của CBCC. Tiêu chí sẽ

làm rõ nội dung, giáo trình, tài liệu tham khảo, tình huống... của giảng viên có

mục tiêu rõ ràng, cụ thể không; cấu trúc hợp lý không, và có thiết kế để đáp

ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng của đào tạo chương trình, chuyên đề

ĐTBD và việc học tập của CBCC.

Tiêu chí đánh giá khả năng nắm bắt, đánh giá và tổng kết thực tiễn.

Tiêu chí đánh giá đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC về khả năng

nắm bắt, đánh giá và tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân của thành công và

thất bại, đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và

thực tiễn trong giảng dạy.

Các tiêu chí đánh giá NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC trên có quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau, tạo thành một

hệ tiêu chí thống nhất. Để đánh giá đúng NLTDLL cho đội ngũ giảng viên

trường ĐTBD CBCC cần xem xét đầy đủ các tiêu chí đó, cách đánh giá phải

thật sự khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vừa định lượng, vừa định tính,

lấy định lượng để định tính; xem xét toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố có

thể đo đạc, định lượng được để định tính rõ ràng, đầy đủ về NLTDLL cho đội

ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC.

Kết luận chương 2

Năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC là

tổng hợp thống nhất biện chứng những giá trị, những phẩm chất của chủ thể

77

như tư chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo, tri thức khoa học, kinh nghiệm thực

tiễn, phương pháp tư duy khoa học…; tạo cho họ khả năng nhận thức ở trình

độ lý luận và vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn giảng dạy, NCKH đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ của các trường ĐTBD CBCC. Vì vậy, nâng cao năng

lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC là yêu cầu khách

quan, thường xuyên, là nội dung cốt lõi trong xây dựng đội ngũ giảng viên

các trường ĐTBD CBCC.

Thực chất nâng cao NLTDLL đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC là quá trình tạo ra cho họ sự chuyển biến về khả năng nhận thức ở

trình độ lý luận và vận dụng trí thức lý luận vào thực tiễn giảng dạy, NCKH

cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác mang lại hiệu quả. Nâng cao năng lực

TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC cần có sự tác động

tích cực của các chủ thể, sự tự giác, chủ động của giảng viên và chịu sự tác

động bởi các nhân tố khách quan, chủ quan và thể hiện rõ nét trong nhận thức,

hoạt động sư phạm có tính mục đích, có tính thực tiễn và tính khoa học cao.

Để nhận biết được điều này, cần có những tiêu chí đánh giá NLTDLL các

điều kiện, đặc trưng, các chỉ số định tính, định lượng để làm căn cứ nhận biết,

hay là thước đo làm cơ sở để xem xét, kiểm tra NLTDLL cho đội ngũ giảng

viên các trường ĐTBD CBCC.

Việc nhận thức đúng thực chất, những yếu tố tác động cũng như đánh

giá chính xác quá trình nâng cao NLTDLL cho giảng viên các trường ĐTBD

CBCC là cơ sở lý luận quan trọng để đánh giá thực chất và những vấn đề đặt

ra; đồng thời, đề xuất quan điểm giải pháp phù hợp làm cho quá trình này

diễn ra một cách nhanh chóng, kịp thời nâng cao chất lượng đội ngũ giảng

viên các trường ĐTBD CBCC, góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC ở

các trường ĐTBD CBCC hiện nay.

78

Chương 3

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ

GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ

NGUYÊN NHÂN

3.1. THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ

GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

Trên cơ sở nội dung nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các

trường ĐTBD CBCC và các tiêu chí đánh giá năng lực TDLL đối với giảng

viên trường ĐTBD CBCC được xây dựng, thực trạng nâng cao năng lực

TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC được đánh giá thông

qua số liệu khảo sát tại 03 trường: Học viện Hành chính Quốc gia; Trường

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ; và Trường Đào tạo cán bộ

Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội.

3.1.1. Việc nâng cao trình độ tư duy lý luận và chuyên môn nghiệp vụ

cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

3.1.1.1. Về trình độ chuyên môn, học vấn của giảng viên

Học viện Hành chính Quốc gia, được được thành lập ngày 29/5/1959.

Hiện nay, là trung tâm quốc gia ĐTBD lãnh đạo quản lý chủ chốt, trung, cao

cấp, công chức hành chính, công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các

đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, cán bộ khoa học chính trị

và hành chính của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Học

viện Hành chính Quốc gia (HCQG) là trung tâm quốc gia NCKH lý luận Mác

- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối của Đảng và chính

sách, pháp luật của Nhà nước, nghiên cứu về các khoa học chính trị. Ngoài

trung tâm Học viện HCQG đặt trụ sở tại Hà nội, hiện có 25 ban, khoa, trung

tâm, viện, phòng trực thuộc, 03 cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh, miền Trung,

79

Tây Nguyên với tổng số 856 công chức, viên chức, người lao động; trong đó

giảng viên cơ hữu là 365 giảng người; gồm 112 giảng viên nam, chiếm tỉ lệ

30,7%; 253 giảng viên nữ, chiếm tỉ lệ 69,3%.

Về trình độ chuyên môn đào tạo, giảng viên Học viện HCQG được đào

tạo chuyên ngành tương đối hợp lý so với đặc thù của Trường; cụ thể: 107

giảng viên chuyên ngành kinh tế, chiếm tỷ lệ là 29,3%; 64 giảng viên có

chuyên ngành Luật, chiếm tỷ lệ 17,7%; 120 giảng viên chuyên ngành hành

chính công, chiếm tỷ lệ 32,6%; 26 giảng viên chuyên ngành quản lý giáo dục,

chiếm tỷ lệ 7,2%; và 47 giảng viên chuyên ngành khác, chiếm 12%. Tuy

nhiên, vẫn còn một số giảng viên khi được tuyển dụng còn chưa đáp ứng

được yêu cầu. Đây chính là kết quả của nhiều năm xây dựng và phát triển đội

ngũ giảng viên, biểu hiện ra về mặt lượng kết quả của công tác giáo dục,

ĐTBD đối với đội ngũ giảng viên, đồng thời nó cũng tạo được lợi thế về trình

độ giảng viên của các trường ĐTBD so với các trường khác.

Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ, tiền thân là Trung tâm ĐTBD CBCC

- Bộ Nội vụ. Ngày 23/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định

37/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi Khoản 24, Điều 3 Nghị định 48/2008/NĐ-CP

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ,

theo đó Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ ra đời. Ngày 28/6/2011, Bộ trưởng

Bộ Nội vụ đã ký ban hành Quyết định số 1292/QĐ-BNV quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường. Ngày 25/1/2016, Bộ

trưởng Bộ Nội vụ đã ký ban hành Quyết định 66/QĐ-BNV quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường thay thế Quyết định

1292/QĐ-BNV với 04 khoa, 04 phòng, 03 trung tâm, 02 cơ sở tại miền Trung

và miền Nam. Hiện nay, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ là đơn vị sự nghiệp

phục vụ chức năng QLNN của Bộ Nội vụ. Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ

hiện có 35 giảng viên; trong đó: 14 giảng viên nam, chiếm tỉ lệ 40% và 21

giảng viên nữ, chiếm tỉ lệ 60 %. Như vậy, cơ cấu về giới tính Trường ĐTBD

80

CBCC- Bộ Nội vụ tương đối phù hợp so với Học viện HCQG (có tỉ lệ giảng

viên nữ hơi cao).

Về trình độ chuyên môn đào tạo của giảng viên Trường ĐTBD CBCC

Bộ Nội vụ được đào tạo chuyên ngành chưa hợp lý so với nhiệm vụ ĐTBD

của Trường. Trong 35 giảng viên của Trường: 10 giảng viên có chuyên ngành

Luật, chiếm tỷ lệ 28,6%; 12 giảng viên chuyên ngành hành chính công, chiếm

tỷ lệ 34,3%; 10 giảng viên chuyên ngành quản lý giáo dục, chiếm tỷ lệ 28,6%;

và 03 giảng viên chuyên ngành khác, chiếm 8,5%.

Giảng viên được đào tạo chuyên ngành Luật, quản lý giáo dục và hành

chính công của Trường có tỷ lệ khá đồng đều. Tuy nhiên, hiện nay Trường

chưa có giảng viên được đào tạo chuyên ngành kinh tế, đây là một trong

những hạn chế của Trường trong công tác tuyển dụng giảng viên.

Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội, trực thuộc

UBND Thành phố Hà Nội, chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn toàn diện của

UBND Thành phố; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn của Thành

ủy Hà Nội và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trường ra đời cùng

với sự phát triển của Đảng bộ và nhân dân Thủ đô qua các thời kỳ. Theo

Quyết định số 48/QĐ-UBND ngày 02/8/2008 của UBND Thành phố Hà Nội,

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong có vị trí, chức năng, nhiệm vụ: Đào tạo cán bộ

lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở

cấp cơ sở, xã, phường, thị trấn; cán bộ lãnh đạo (và cán bộ nguồn) các phòng,

ban quận, huyện, sở, ban, ngành cấp Thành phố; Bồi dưỡng ngắn hạn các đối

tượng trên về LLCT, kiến thức nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, quản lý

hành chính nhà nước…

Ngoài ra, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong còn mở các lớp tại chức tại

trường, tại trung tâm BDCT các quận, huyện, thị xã và các cơ quan, đơn vị

thuộc các sở, ngành nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày một tăng và đa dạng

của xã hội. Trường luôn coi trọng chất lượng đội ngũ giảng viên, tạo ra sự

81

đồng bộ từng bước nâng cao trình độ về TDLL cho đội ngũ giảng viên. Hiện

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong, có 74 giảng viên; trong đó: 29 giảng viên

nam, chiếm tỉ lệ 39% và 41 giảng viên nữ, chiếm tỉ lệ 61 %. Như vậy, cơ cấu

về giới tính của giảng viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong chưa phù hợp, tỉ lệ

giảng viên nữ hơi cao.

Về trình độ chuyên môn đào tạo của giảng viên Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong được đào tạo chuyên ngành chưa hợp lý so với nhiệm vụ ĐTBD

của Trường. Trong 74 giảng viên của Trường: 10 giảng viên có chuyên ngành

kinh tế, chiếm 13,5%; 13 giảng viên có chuyên ngành Luật, chiếm tỷ lệ

17,5%; 05 giảng viên chuyên ngành hành chính công, chiếm tỷ lệ 6,9%; 46

giảng viên chuyên ngành khác, chiếm 62,1%. Tỷ lệ giảng viên được đào tạo

các chuyên ngành khác của Trường ĐTCB Lê Hồng Phong cao; tuy nhiên,

Trường chưa có giảng viên được đào tạo chuyên ngành quản lý giáo dục.

Từ kết quả khảo sát về cơ cấu giới tính và cơ cấu ngành đào tạo của

Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong cho thấy: Tỷ lệ về giới tính của đội ngũ giáo viên chênh lệnh khá

cao, số lượng giảng viên nữ của các Trường ĐTBD CBCC thường gần gấp

đôi số lượng giảng viên nam, trong 03 Trường thì Học viện HCQG có đội ngũ

giảng viên nữ là cao nhất, chiếm tỷ lệ là 69,3% (Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Cơ cấu giới tính đội ngũ giảng viên năm 2016

Cơ cấu giới Nam Nữ

TT Đơn vị Tổng

số GV

Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

1 Học viện HCQG 350 112 30,7 253 69,3

2 Trường ĐTBD CBCC BNV 35 14 40 21 60,0

3 Trường ĐTCB Lê Hồng Phong 74 29 30,91 45 60,09

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

82

Đặc thù của các Trường ĐTBD CBCC là thường xuyên mở lớp theo

yêu cầu của đối tác, phần lớn các lớp ĐTBD này được tổ chức trên địa bàn

huyện, có nhiều huyện thuộc diện vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại khó

khăn...; đối tượng ĐTBD chủ yếu là cán bộ lãnh đạo cấp xã, cấp huyện hoặc

cán bộ lãnh đạo các cơ quan chuyên môn của huyện, của tỉnh, có kinh nghiệm

thực tiễn và đã được ĐTBD theo các mô hình, hình thức khác nhau. Với số

lượng giảng viên nữ như trên sẽ là một trong những khó khăn, hạn chế trong

việc tham gia giảng dạy ở cơ sở cũng như việc chia sẻ, nắm bắt tâm lý, truyền

tải kiến thức tới học viên.

Bảng 3.2: Cơ cấu ngành đào tạo của đội ngũ giảng viên Chuyên môn đào tạo

Kinh tế Luật HCC QLGD Khác

TT

Đơn vị

Tổng

số

GV Số

lượng (người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ

(%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ

(%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ

(%)

Số lượng (người)

Tỷ lệ (%)

1 Học viện HCQG 365 107 29.2 64 17.7 120 32.6 26 7.2 47 14

2 Trường ĐTBD

CBCC BNV

35

0

0

10

28.6

12

34.3

10

28.6

3

8.5

3 Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong 74 10 13.5 13 17.5 5 6.9 0 0 46 62.1

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Qua Bảng 3.2 có thể thấy, công tác tuyển dụng giảng viên còn bất cập.

Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ chưa có giảng viên chuyên ngành kinh tế,

đội ngũ giảng viên đào tạo chuyên ngành hành chính công chiếm tỷ lệ cao

(34,3%). Trường chưa có giảng viên được đào tạo chuyên ngành quản lý giáo

dục, các chuyên ngành khác (kỹ thuật, chính trị học, tôn giáo, ngôn ngữ, văn

thư lưu trữ...) chiếm tỷ lệ cao 62,1%. Trên thực tế, tuy các trường có đặc điểm

khác nhau, các ngành đào tạo phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của

ngành... nhưng cần có quy hoạch cân đối, đa dạng ngành hoặc tăng cường liên

83

kết để bảo đảm nhu cầu ĐTBD hiện nay của CBCC, nhất là trong điều kiện

đẩy mạnh việc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước.

Thời gian qua, các Trường ĐTBD CBCC không ngừng phát triển, nhất

là trình độ chuyên môn, học vấn của đội ngũ giảng viên (Biểu đồ 3.1).

Đơn vị tính: người

3 3 3 3 219 21 23 23 23

47 51 54 54 54

212237

256285

305

24 24 23 23 20

8599 90 91 95

Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

GS.TS PGS.TS Tiến sĩ Thạc sĩ GV cao cấp GV chính

Biểu đồ 3.1: Số lượng và trình độ giảng viên Học viện Hành chính quốc gia

Nguồn: [35; 36].

Năm 2012, GV Học viện HCQG có trình độ như sau: Giáo sư: 03 người, Phó giáo sư: 19 người, Tiến sĩ: 47 người, giảng viên có trình độ chuyên viên cao cấp: 24 người, số lượng giảng viên có trình độ thạc sỹ: 212 người. Năm 2016, Giáo sư: 02 người, giảm 01 người (do nghỉ hưu); Phó giáo sư: 26 người (tăng 02 người); Tiến sĩ: 66 người (tăng 19 người); giảng viên có trình độ chuyên viên cao cấp: 20 người (giảm 04 người); đặc biệt là số lượng giảng viên có trình độ thạc sĩ: 256 người (tăng nhanh so với năm 2012 là 44 người).

Tính tỷ lệ về trình độ cho thấy: tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ so với tổng số giảng viên của Học viện chiếm tỷ lệ cao, đạt 83,56%; giảng viên có học hàm giáo sư, phó giáo sư chiếm tỷ lệ còn khiêm tốn (giáo sư là 1.1%; phó giáo sư là 6,30%). Tuy nhiên, số lượng giảng viên chính còn hạn chế, chiếm tỷ lệ khoảng 26%; số giảng viên còn chiếm tỉ lệ cao (69%) (Biểu đồ 3.2).

84

Cử nhân; 9,86% Giáo sư; 1,10% PGS; 6,30%Tiến sĩ; 6,57%

Thạc sĩ; 83,56%

Biểu đồ 3.2: Học hàm, học vị giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia

Nguồn: [95].

Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ, trong 5 năm (2012-2016), số lượng giảng viên của Trường được bổ sung đáng kể (Biểu đồ 3.3)

Đơn vị tính: người

36 35

48

3127

47

3430

26

3 3 3

282626

3 34

Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Giảng viên Tiến sĩ Thạc sĩ GV chính

Biểu đồ 3.3: Học vị giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Bộ Nội vụ năm 2012 đến năm 2016

Nguồn: [95]. Năm 2012, số lượng giảng viên của Trường là 26 người đến năm 2016

là 35 người (tăng 09 người). Số giảng viên có trình độ tiến sĩ năm 2016 tăng

so với năm 2012 là 05 người, so với năm 2015 là 04 người; số thạc sỹ năm

2016 giảm 04 người tương ứng với số giảng viên là tiến sĩ tăng năm 2016,

85

hiện tại Trường có 14 giảng viên đang làm nghiên cứu sinh. Số lượng giảng

viên chính năm 2016: 07 người, tăng so với năm 2015 là 03 người, tăng so

với năm 2012 là 16 người. Trường chưa có giảng viên cao cấp, học hàm giáo

sư, phó giáo sư. Ngoài ra, Trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng khá

đông, có trình độ chuyên môn cao, khoảng 143 giảng viên; trong 108 giảng

viên thỉnh giảng có: 15 giáo sư, phó giáo sư chiếm 3,9%; 61 Tiến sĩ, chiếm

56,5%; 12 Thạc sĩ, chiếm 11,2%; 6 Chuyên viên cao cấp, chiếm 5,5%; 14

lãnh đạo cấp bộ, cấp vụ, chiếm 12,9% và 35 giảng viên cơ hữu (02 Tiến sĩ,

chiếm 8,6%; 33 Thạc sĩ, chiếm 91,4%). Trường ĐTCB Lê Hồng Phong (Biểu đồ 3.4). Từ 2012 đến 2016,

Trường không có giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư; năm 2012,

giảng viên có học vị tiến sĩ là 04 người, thạc sĩ là 47, cử nhân là 23 người.

Đơn vị tính: người

4

47

3

26

3

51

2

23

3

57

2

24

3

62

1

23

2

67

1

20

Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Tiến sĩ Thạc sĩ GVCC GVC

Biểu đồ 3.4: Học hàm, học vị giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng

Phong năm 2012 đến năm 2016

Nguồn: [96].

Năm 2013, giảng viên có học vị tiến sĩ là 03 người, thạc sĩ là 51 người,

cử nhân là 16 người. Năm 2014, giảng viên có học vị tiến sĩ là 03 người, thạc

sĩ là 57 người, cử nhân là 16 người, tăng 02 giảng viên. Năm 2015, giảng viên

có học vị tiến sĩ là 03 người, thạc sĩ là 62 người, cử nhân là 16 người. Năm

86

2016, có 01 giảng viên chuyển công tác, tổng số giảng viên của Trường là 74

người; có 02 giảng viên là tiến sĩ, 67 giảng viên là thạc sĩ và số lượng giảng

viên có trình độ QLNN trình độ GV cao cấp là 01 người, GV chính 20 người.

Ngoài ra, Trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng khá đông và có trình độ

chuyên môn cao.

Theo kết quả điều tra qua 38 trường ĐTBD CBCC tại đề tài khoa học

cấp bộ năm 2011 của tác giả Nguyễn Hữu Tám thì cơ cấu trình độ tiến sĩ, thạc

sĩ, cử nhân lần lượt là 2,1% - 64,1% - 51.8%. So sánh hai mốc thời gian giữa

kết quả điều tra của Đề tài khoa học cấp bộ năm 2011 và kết quả tổng hợp

khảo sát ở 3 Trường có tỷ lệ 0,7% Giáo sư; 5,7% Phó Giáo sư, Tiến sĩ;

14,3%; 72% Thạc sĩ thì đây là một cơ cấu lý tưởng của nhiều Trường mong

muốn và có thể khẳng định cơ cấu trình độ của đội ngũ giảng viên 03 Trường

là tương đối cao, là mục tiêu phấn đấu của nhiều trường. Hiện nay, trước yêu

cầu ngày càng cao của đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC và mục

tiêu đến năm 2020 phải đạt cơ cấu từ 90-100% có trình độ thạc sĩ.

Đánh giá trình độ giảng viên theo ngạch bậc hiện hưởng thì Học viện

HCQG có tỷ lệ giảng viên hưởng ngạch GVCC cao nhất (5,4%); Trường

ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ chưa có giảng viên hưởng ngạch GVCC, Trường

ĐTCB Lê Hồng Phong có 01 giảng viên hưởng ngạch GVCC. Về giảng viên

chính, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong có tỷ lệ cao nhất 27% (20 GVC); kế

tiếp là Học viện HCQG là 26,2%, Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ thấp

nhất tỷ lệ giảng viên hưởng ngạch GVC là 20%. Với tỷ lệ GVC còn hạn chế,

trong khi đối tượng tham gia ĐTBD của nhiều lớp chủ yếu là lãnh đạo, có

trình độ trên đại học hoặc đang hưởng lương ngạch bậc chuyên viên chính và

tương đương, nên việc bố trí giảng viên giảng dạy phù hợp với đối tượng này

nhiều khi khó khăn, một số GVC phải tham gia giảng dạy nhiều lớp trong một

thời gian, trong khi số lượng giảng viên hưởng ngạch giảng viên và tương

đương đông không bố trí giảng dạy thay thế được (Bảng 3.3).

87

Bảng 3.3: So sánh ngạch giảng viên năm 2016 của các Trường

Đơn vị tính: người Ngạch giảng viên

TT Tên trường T.số

GV

(người)

GVCC

(người)

Tỷ lệ

(%)

GVC

(người)

Tỷ lệ

(%)

GV

(người)

Tỷ lệ

(%)

1 Học viện HCQG 365 20 5,4 95 26,2 250 68,4

2 Trường ĐTBD

CBCC Bộ Nội vụ

35 0 0 7 20,0 28 80,0

3 Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong

74 01 1,3 20 27,0 53 71,7

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Phân tích cụ thể từng Trường, thì cơ cấu trên vẫn còn những hạn chế

nhất định. Học viện HCQG với tư cách là "Trung tâm quốc gia về ĐTBD đội

ngũ CBCC và NCKH hành chính của đất nước", đối tượng người học là

những nhà lãnh đạo, quản lý, những người có trình độ cao và dày dặn kinh

nghiệm. Trường lại có đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ về hành chính thì cơ cấu trên

còn chưa hợp lý, với tỷ lệ 0,7% GS và 5,7% PGS.TS. Trong khi vẫn còn 7,9%

giảng viên có trình độ cử nhân thì đòi hỏi Học viện HCQG cần phải tiếp tục

phấn đấu để nâng dần tỉ lệ giảng viên có trình độ GS, PSG.TS cũng như giảm

tỉ lệ giảng viên có trình độ cử nhân, tiến tới không còn giảng viên có trình độ

cử nhân thì Học viện HCQG mới có cơ cấu trình độ giảng viên đáp ứng được

tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ có cơ cấu trình độ thạc sỹ cao

(100%), tiêu chuẩn của nhà trường tuyển dụng và chuyển ngạch đối với đội

ngũ giảng viên phải có trình độ đào tạo thạc sỹ trở lên, vượt xa so với mặt

bằng của nhiều trường hiện nay nhưng lại có cơ cấu trình độ tiến sĩ thấp

(8.6%), trong khi chưa có giảng viên nào có học hàm Giáo sư, Phó giáo sư...

hay giảng viên cao cấp, đây có thể coi là hạn chế lớn của cơ cấu trình độ đội

88

ngũ giảng viên. Cơ cấu trình độ tiến sĩ trở lên thấp thể hiện trình độ đội ngũ

giảng viên, đồng thời phản ánh sự thiếu hụt về kinh nghiệm của đội ngũ giảng

viên và đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các trường trong việc thực hiện mục

tiêu đến năm 2020 có 25% giảng viên có trình độ tiến sĩ.

Qua khảo sát cho thấy, hàng năm đội ngũ giảng viên của Học viện

HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong

được ĐTBD theo tiêu chuẩn đối với từng ngach giảng viên cho thấy kết quả

tương đối cao về trình độ chuyên môn, LLCT, kiến thức QLNN, tin học và

ngoại ngữ (Bảng 3.4).

Bảng 3.4: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của 03 Trường

theo tiêu chuẩn giảng viên Mức độ đánh giá

Có Không Tiêu

chuẩn giảng viên

Nội dung đào tạo Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

Có bằng tốt nghiệp ĐH trở lên phù hợp

với chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy 346 86.5 54 13.5

Có trình độ ngoại ngữ B (A2) trở lên 382 95.5 18 4.5

Có trình độ tin học B trở lên 375 93.7 25 6.3

Có trình độ trung cấp lý luận chính trị

hoặc tương đương 347 86.7 53 13.3

Trình

độ theo

tiêu

chuẩn

giảng

viên Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức

QLNN ngạch chuyên viên 395 98.7 5 1.3

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Việc nâng cao nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ theo tiêu chuẩn đối

với đội ngũ giảng viên: Trình độ ngoại ngữ B (A2) trở lên đạt 95.5%; Trình

độ tin học B trở lên đạt 93.7%; Trình độ trung cấp LLCT hoặc tương đương

86.7%; Bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên 98.7%.

89

Việc nâng cao nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ và đánh giá theo

tiêu chuẩn đối với đội ngũ giảng viên chính (Bảng 3.5):

Bảng 3.5: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của 03 Trường

theo tiêu chuẩn giảng viên chính

Mức độ đánh giá Có Không

Tiêu chuẩn giảng viên

Nội dung đào tạo Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

Số lượng

(người)

Tỷ lệ (%)

Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy

355 88.7 45 11.3

Có trình độ ngoại ngữ C (B1) trở lên 389 97.3 11 2.7 Có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu giảng dạy môn học, tài liệu tham khảo phục vụ ĐTBD

215 53.7 185 46.3

Có đề án hoặc đề tài NCKH được cấp khoa, trường công nhận và được áp dụng có kết quả trong chuyên môn

286 71.5 114 28.5

Trình độ CC LLCT (tương đương) 96 24.0 304 76.0

Trình độ

theo tiêu

chuẩn giảng viên

chính

Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên chính

381 95.2 19 4.8

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Đội ngũ giảng viên chính có trình độ thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên

môn, nghiệp vụ giảng dạy đạt 88.7%; Có trình độ ngoại ngữ C (B1) trở lên

đạt 97.3%;

Có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên

soạn tài liệu giảng dạy môn học, tài liệu tham khảo phục vụ ĐTBD 53.7%;

Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên chính 95.2%.

Có đề án hoặc đề tài NCKH được cấp khoa, trường công nhận và được

áp dụng có kết quả trong chuyên môn đạt 71.5%;

90

Tuy nhiên, số giảng viên chính chưa được đào tạo cao cấp LLCT hoặc

tương đương còn chiếm tỉ lệ khá cao (76%); số GVC có khả năng thiết kế,

xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu giảng dạy môn

học, tài liệu tham khảo phục vụ ĐTBD mới đạt xấp xỉ 50%; số giảng viên

chính chưa có đề án hoặc đề tài NCKH được cấp khoa, trường công nhận gần

30%... Vì vậy, các trường cần có kế hoạch phù hợp để tăng cường ĐTBD cho

đội ngũ giảng viên này theo đúng tiêu chuẩn quy định.

Theo Thông tư liên tịch số 06 của Bộ Nội vụ - Giáo dục và Đào tạo thì

giảng viên chính phải có trình độ từ thạc sĩ trở lên cùng với các tiêu chí về

trình độ LLCT, QLNN, tin học, ngoại ngữ, khả năng thiết kế chương trình, kế

hoạch, NCKH... đối chiếu với kết quả khảo sát trên thì thực trạng trình độ của

giảng viên hai trường là tương đối cao, đặc biệt là tiêu chí về kiến thức QLNN

với 95.2%. Nếu xét theo sự so sánh giữa trình độ chuyên môn của giảng viên

(trên 90% là thạc sĩ) và trình độ LLCT (24% có trình độ cao cấp LLCT) với số

lượng giảng viên đã được bổ nhiệm vào ngạch giảng viên chính là gần 24% thì

đây là một tỷ lệ không tương xứng. Đây là một bài toán đặt ra trong việc chuẩn

hóa đội ngũ giảng viên theo yêu cầu, nhiệm vụ cũng như phát triển đội ngũ giảng

viên đến năm 2020 của Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ,

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong cũng như các Trường ĐTBD CBCC khác.

Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên không phải

là của riêng các trường ĐTBD CBCC, mà là yêu cầu xuất phát từ thực tế giáo

dục đào tạo của bất cứ một quốc gia nào và ở bất cứ giai đoạn nào. Các chế

độ, chính sách đối với giảng viên là một trong những yếu tố quyết định đến

việc tạo môi trường kích thích đội ngũ giảng viên nâng cao NLTDLL. Việc

thực hiện chế độ chính sách đối với giảng viên vừa là trách nhiệm của ngành

giáo dục, cơ quan chủ quản và quan trọng nhất chính bản thân các trường

ĐTBD CBCC, vừa tạo điều kiện để thu hút giảng viên nhất là giảng viên có

trình độ và kinh nghiệm giảng dạy. Để thu hút được những giảng viên dạy

91

giỏi, có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm

giảng dạy là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi phải có cơ chế, chính sách hấp

dẫn của các trường ĐTBD CBCC.

3.1.1.2. Về trình độ lý luận chính trị của giảng viên

Quá trình rèn luyện năng lực nhận thức lý luận của đội ngũ giảng viên

là nhân tố quyết định trong việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực

TDLL của họ. Hiện nay, phần lớn đội ngũ giảng viên Học viện HCQG và

Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong được đào

tạo, rèn luyện và thử thách qua thực tiễn và đã được giáo dục những phẩm

chất tốt đẹp của dân tộc cho nên đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững

vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật,

có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực sáng tạo trong công tác, từng bước đổi

mới tư duy, phương thức làm việc, bám sát thực tiễn.

Cơ cấu về thành phần chính trị là một trong những yếu tố ảnh hưởng

trực tiếp đến NLTDLL của đội ngũ giảng viên. Theo số liệu khảo sát, hiện

nay Học viện HCQG có 76,2% giảng viên là đảng viên; Trường ĐTBD

CBCC Bộ Nội vụ 88,6% giảng viên là đảng viên; Trường ĐTCB Lê Hồng

Phong 100% giảng viên là đảng viên. Tỉ lệ này, thể hiện sự quan tâm của cấp

ủy các trường, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự phát triển trong nhận thức và

trách nhiệm phấn đấu của giảng viên để được đứng trong hàng ngũ của Đảng

Cộng sản Việt Nam, nắm được đầy đủ những nội dung căn bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó có điều kiện thuận lợi khi nghiên

cứu đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ nhiệm

vụ giảng dạy. Đồng thời, cũng đóng góp nhiều hơn, tạo sức mạnh cho các

trường trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của từng trường. Để đạt được

những thành tích đó, cấp ủy Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội

vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong đã quán triệt sâu sắc trong toàn thể cán

92

bộ, đảng viên về những nhiệm vụ chính trị quan trọng được giao. Quán triệt

và triển khai thực hiện Nghị quyết các cấp tới toàn thể cán bộ và giảng viên;

giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các

quan điểm mới của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh trong đội ngũ giảng viên (Bảng 3.6)

Trình độ LLCT là một trong những tiền đề không thể thiếu để giảng

viên nâng cao NLTDLL, tất nhiên không phải cứ có trình độ lý luận là có

NLTDLL. Nhờ có NLTDLL nhất định nên giảng viên nắm bắt sâu sắc bản

chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Cho nên

có sự nhạy cảm chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng. Khả năng đó được

nâng lên thành năng lực định hướng chính trị đúng đắn trong hoạt động nhận

thức và giảng dạy của giảng viên.

Bảng 3.6: Cơ cấu thành phần chính trị của giảng viên

Thành phần chính trị

TT Đơn vị

Tổng

số GV

(người)

Đảng

viên

(người)

Tỉ lệ (%)

1 Học viện HCQG 365 278 76,2

2 Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ 35 31 88.6

3 Trường ĐTCB Lê Hồng Phong 74 74 100

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Mặt khác, qua đó giảng viên có được những quyết định đúng đắn, kịp

thời, chính xác trong quá trình giảng dạy và hoạt động chuyên môn, đề xuất

được các phương án tối ưu trong thực hiện các quyết định có hiệu quả.

93

Bảng 3.7: Trình độ lý luận chính trị của giảng viên năm 2016

Đơn vị tính: người

Trung cấp LLCT

(tương đương)

Cao cấp LLCT

(tương đương) TT

Đơn vị

Tổng

số GV

Chưa

đ.tạo

LLCT Đã học Đang học Đã học Đang học

1 Học viện HCQG 365 48 130 26 85 76

2 Trường ĐTBD

CBCC Bộ Nội vụ 35 8 9 2 16 0

3 Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong 74 3 38 0 33 0

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Trong những năm qua, các trường ĐTCB CC đã chú trọng ĐTBD nâng

cao trình độ LLCT cho đội ngũ giảng viên. Nhà trường đã cử các giảng viên

tham gia các lớp học tập nâng cao trình độ LLCT tại Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Phân viện I của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

và tại Học viện HCQG. Khảo sát tại Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC

Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong (Bảng 3.7) cho thấy:

Tỷ lệ giảng viên chưa được đào tạo LLCT: Trường ĐTBD CBCC Bộ

Nội vụ chiếm tỷ lệ cao nhất (25,71%); tiếp đến là Học viện HCQG chiếm

13,15%; Trường ĐTCB Lê Hồng Phong chỉ có 4,05%.

Tỷ lệ giảng viên đã học và đang học trung cấp LLCT (và tương

đương): Trường ĐTCB Lê Hồng Phong là 51,35% có tỷ lệ cao nhất; tiếp đến

là Học viện HCQG là 34,61%; Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ là 31,42%.

Tỷ lệ giảng viên đã học và đang học cao cấp LLCT (và tương đương)

03 Trường có tỷ lệ tương đối đồng đều; cụ thể: Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội

vụ là 45,71% có tỷ lệ giảng viên đã học và đang học LLCT cao nhất; Trường

ĐTCB Lê Hồng Phong là 44,6% và Học viện HCQG là 44,1%.

94

Đang học CC LLCT: 76 GV

Đã học CC LLCT: 134 GV

Đang học TC LLCT: 28 GV

Đã học TC LLCT: 279 GV

Chưa đào tạo LLCT: 59 GV

Biểu đồ 3.5: Trình độ lý luận chính trị giảng viên Học viện Hành chính

Quốc gia, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Bộ Nội vụ,

Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Như vậy, tổng hợp số liệu tại 03 Trường (Biểu đồ 3.5): hiện có 59

giảng viên chưa qua đào tạo về LLCT chiếm 12,45% trên tổng số giảng viên

của 03 Trường; số giảng viên đã học xong LLCT (trung cấp và cao cấp) là

311 người, chiếm tỷ lệ 65,61%; số giảng viên đang học LLTC (trung cấp và

cao cấp) là 104 người, chiếm tỷ lệ 21,94%. Tuy nhiên, nếu như so sánh con số

này với các Trường đại học và Trường Cao đẳng thì số giảng viên có nhu cầu

tự thân nâng cao trình độ lý LLCT vượt trội hơn hẳn.

3.1.2. Việc nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương

pháp biện chứng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn

3.1.2.1. Về kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên

Theo điều tra, khảo sát tại Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC - Bộ

Nội vụ, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong thấy các Trường có đội ngũ giảng dạy

tham gia giảng dạy lâu năm, có kinh nghiệm trong giảng dạy, gắn lý luận với

thực tiễn, cập nhật kịp thời thông tin kinh tế-xã hội, thực tiễn của thế giới, của

đất nước, của địa phương, của các đối tượng học viên; qua đó làm bài giảng

sinh động, giàu sức thuyết phục. Các giảng viên đã tự liên hệ trong bài giảng

95

và giúp cho học viên thấy được sự thể hiện trong thực tế cuộc sống hoặc gợi

mở, đàm thoại với học viên, dẫn ra những thực tiễn của địa phương, đất nước,

từ đó khái quát làm sáng tỏ về mặt lý luận.

Thực tế cho thấy, kinh nghiệm của giảng viên chủ yếu phụ thuộc vào

kinh nghiệm, năng lực tổ chức quản lý, giảng dạy, hoạt động bồi dưỡng của

đội ngũ giảng viên lâu năm của khoa, bộ môn và của Trường. Học viện

HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong đã

tăng cường đẩy mạnh sự phối hợp, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm trong đội

ngũ giảng viên của Nhà trường, ngoài việc bổ sung, hỗ trợ những kiến thức

chuyên môn, kỹ năng, phương pháp sư phạm các giảng viên lâu năm, có kinh

nghiệm còn chia sẻ, truyền đạt những kiến thức khoa học mới, kiến thức và

phương pháp tư duy khoa học (logic học, triết học, NCKH...) và vốn kinh

nghiệm thực tiễn sư phạm về ĐTBD, kinh nghiệm thực tiễn hoạt động ĐTBD.

Nhiều nhà nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục đào tạo đã nhận định, giảng

viên trên 40 - 50 tuổi có mức thành thạo rất cao, tích cực tham gia hoạt động

xây dựng chương trình ĐTBD, chuyên đề, đề cương môn học, viết giáo trình.

Họ là nhóm người có kinh nghiệm nhất trong việc tìm hiểu nhu cầu người học

đối với ngành học. Kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn phong phú, thông qua

việc thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, nghiên cứu

thực tế, nhất là đã giảng dạy từ 15 - 20 năm ở cơ sở. Nhóm tuổi dưới 30 và từ

30- 40 tuổi, kinh nghiệm giảng dạy chênh lệch khá cao so với nhóm tuổi từ

trên 40 đến 50; rất ít trong số giảng viên trẻ được tham gia khóa học xây dựng

giáo án hay kế hoạch bài giảng mà chủ yếu học từ những giảng viên có kinh

nghiệm, vì vậy họ còn thiếu tự tin về hiệu quả trong giảng dạy (Bảng 3.8).

96

Bảng 3.8: Cơ cấu độ tuổi đội ngũ giảng viên năm 2016

Cơ cấu độ tuổi

Dưới 30 31-40 41-50 51-60 Trên 60 T

T

Đơn vị

Tổng

số GV SL

(người)

Tỷ lệ

(%) SL

(người)

Tỷ lệ

(%) SL

(người)

Tỷ lệ

(%) SL

(người)

Tỷ lệ

(%) SL

(người)

Tỷ lệ

(%)

1 Học viện HCQG 365 25 6.8 56 15.3 173 47.3 86 23.6 15 7

2 Trường ĐTBD

CBCC BNV 35 5 14.3 13 37.1 11 31.5 6 17.1 0 0

3 Trường ĐTCH

Lê Hồng Phong 74 0 0 20 27.1 33 44.5 17 22.9 4 5.5

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Học viện HCQG, giảng viên có độ tuổi từ 41 đến 50 chiếm tỷ lệ cao

(chiếm 47,3%). Đây là độ tuổi có nhiều kinh nghiệm, đang hăng hái và nhiệt

huyết, dễ dàng tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, tỉ lệ

giảng viên dưới 30 tuổi thấp Học viên HCQG, chiếm 6,8%; tỉ lệ giảng viên độ

tuổi từ 51- 60 khá cao; độ tuổi trên 60 là 15 giảng viên, chiếm tỷ lệ 7%.

Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ có độ tuổi dưới 30 chiếm 14,3%; độ tuổi từ

31- 40 chiếm 37,1%; độ tuổi từ 41- 50 chiếm 31,5%; độ tuổi từ 51-60 chiếm

17,1%. Từ kết quả trên cho thấy độ tuổi giảng viên Trường ĐTBD CBCC Bộ

Nội vụ từ 31- 40 tuổi và từ 41- 50 tuổi chiếm tỷ lệ 68,8% trên tổng số giảng

viên của Trường; như vậy, cơ cấu tuổi giảng viên của Trường ĐTBD CBCC

Bộ Nội vụ đã được trẻ hóa, đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực trẻ kế cận

trong tương lai. Trường ĐTCB Lê Hồng Phong, trong đội ngũ giảng viên

chưa có giảng viên có độ tuổi dưới 30; giảng viên có độ tuổi từ 31- 40 chiếm

27,1%; độ tuổi từ 41- 50 có tỷ lệ khá cao, chiếm 44,5%; độ tuổi từ 51-60

chiếm 22,9%; độ tuối trên 60 chiếm tỷ lệ 5,5%. Do vậy, các Nhà trường cũng

cần có chiến lược phát triển nguồn nhận lực trẻ kế cận trong tương lai. So

sánh cơ cấu tuổi giảng viên của Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ

97

Nội vụ, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong; giảng viên Học viện HCQG, độ tuổi

từ 41 đến 50 chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 47,3%) (Biểu đồ 3.6).

17,1%7%

23,6%

6,8% 15,3%

47,3%

0%

14,3%

37,1%

31,5%

5,5%

44,5%

0%

44,5%

27,1%

Dưới 30 tuổi 31-40 tuổi 41-40 tuổi 51-60 tuổi > 60 tuổi

Học viện HCQG Tr.ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ Tr.ĐTCB Lê Hồng Phong

Biểu đồ 3.6: So sánh tỉ lệ độ tuổi giảng viên giữa 03 Trường

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Với đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, Học viện HCQG đã xây

dựng được một hệ thống chương trình, giáo trình đồ sộ phục vụ cho công tác

giảng dạy và ĐTBD CBCC theo ngạch, chức danh cũng như đào tạo chính

quy đội ngũ kế cận, tạo nguồn cho bộ máy Nhà nước với trình độ cử nhân,

thạc sỹ, tiến sỹ về hành chính và QLNN. Sự đa dạng về loại hình và cấp độ

ĐTBD ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập của CBCC và hệ thống chính trị.

Đây cũng là nét đặc thù rất riêng của Học viện HCQG, góp phần đưa Học

viện trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều thế hệ học viên, sinh viên.

Tại Biểu đồ 3.6 cũng cho thấy, lực lượng giảng viên trẻ dưới 30 tuổi và

từ 31 đến 40 tuổi tại Học viện HCQG là 15,3%, Trường ĐTBD CBCC Bộ

Nội vụ là 37,1%. Ngoài việc tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ

giảng viên lớn tuổi của Trường, bước đầu hình thành năng lực tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn, từng bước hoàn thiện nội dung chương trình ĐTBD, giúp

cho hoạt động giảng dạy mở ra với nhiều loại hình ĐTBD, ngày càng sát với

thực tế, nâng cao chất lượng ĐTBD, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi thực tiễn.

98

3.1.2.2. Về phẩm chất sáng tạo của giảng viên

Phần lớn giảng viên Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội

vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong trước khi thi tuyển, tuyển dụng đều

là học viên, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi, xuất sắc ở các cơ sở đào

tạo hoặc là những giảng viên dạy khá, giỏi có kinh nghiệm từ các cơ sở

đào tạo khác. Cơ bản tư chất trí tuệ và phẩm chất sáng tạo đã được rèn

luyện, trau dồi từ khi còn là sinh viên hay giảng viên ở các cơ sở đào tạo

khác. Khi trở thành giảng viên các Trường ĐTBD lại được tiếp tục bổ

sung, phát triển và hoàn thiện hơn. Tư chất trí tuệ và phẩm chất sáng tạo

của giảng viên được nâng lên theo thời gian công tác, giảng dạy, được

thông qua việc chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức khoa học, sự trưởng

thành trong hoạt động thực tiễn sư phạm, sự NCKH và thực hiện tốt các

nhiệm vụ được giao.

Hàng năm, bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy theo quy định, đội ngũ giảng

viên của Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ và Trường

ĐTCB Lê Hồng Phong còn phải hoàn thành nhiệm vụ NCKH. Phần lớn các

giảng viên tận tình tham gia hướng dẫn, giúp đỡ học viên làm đề tài khoa học,

viết chuyên đề khoa học, làm khóa luận và luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến

sĩ... Bên cạnh đó, các trường ĐTBD CBCC đã tăng cường hoạt động thực tiễn

nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên bằng nhiều hình thức, như:

NCKH, hội thảo, tọa đàm hoặc khảo sát học tập thực tế tại các nước có nên

giáo dục đào tạo tiên tiến, nâng cao tính thực tiễn của các bài giảng phục vụ

thiết thực hoạt động ĐTBD CBCC. Đây là điều kiện để đội ngũ giảng viên có

cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận phương pháp giảng dạy của các

chuyên gia cao cấp trong nước và quốc tế…

Tại Bảng 3.9 dưới đây, tổng số đề tài NCKH, các buổi tổ chức cho

giảng viên hội thảo khoa học và nghiên cứu thực tế của Học viên HCQG cao

nhất trong 03 Trường. Tính trung bình sản phẩm trên tổng số lượng giảng

99

viên thì Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ tỷ lệ sản phẩm cao nhất trong 03

Trường: 0,88 đề tài NCKH/giảng viên/5năm; Trường ĐTCB Lê Hồng Phong:

0,36 đề tài NCKH/giảng viên/5năm; Học viên HCQG có tỉ lệ thấp nhất: 0,31

đề tài NCKH/giảng viên/5năm.

Bảng 3.9: Sản phẩm sáng tạo của giảng viên từ năm 2013-2016

Sản phẩm S

TT Tên trường Đề tài NCKH

(công trình) Hội thảo khoa

học (buổi)

1 Học viện HCQG 109 50

2 Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ 31 32

3 Trường ĐTCB Lê Hồng Phong 27 25

Nguồn: [35; 36; 95; 96].

Từ phân tích tỷ lệ sản phẩm của giảng viên trong 5 năm cho thấy: việc

tham gia NCKH, tham gia hội thảo của giảng viên Trường ĐTBD CBCC còn

thấp, phần nào sẽ ảnh hưởng đến sự sáng tạo của giảng viên. Ngoài các hoạt

động trên, giảng viên các Trường còn tham gia tích cực viết bài chuyên đề,

NCKH trên các tạp chí của Trường như: Tạp chí Quản lý nhà nước (Học viện

HCQG), Nội san đào tạo cán bộ (Trường ĐTCB Lê Hồng Phong), Đặc san

nghiên cứu ĐTBD công chức (Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội).

3.1.3. Việc nâng cao ý thức, thái độ phát triển nghề nghiệp, phát

triển bản thân của chính đội ngũ giảng viên

3.1.3.1. Việc giảng viên tự mình đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc

giảng dạy

Hiện nay, các Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ,

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong luôn tăng cường việc nâng cao nhận thức về

trình độ, kiến thức tư duy biện chứng, LLCT, chuyên môn nghiệp vụ. Đến

100

nay, về cơ bản giảng viên các Trường ĐTBD CBCC được đào tạo, rèn luyện

và thử thách qua thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo

đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực sáng

tạo trong công tác, từng bước đổi mới tư duy, phương thức làm việc, bám sát

thực tiễn đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc giảng dạy. Đồng thời, nắm

vững và đầy đủ những nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, qua đó có điều kiện thuận lợi khi nghiên cứu đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật Nhà nước phục vụ nhiệm vụ giảng dạy, tạo sức

mạnh cho Trường trong thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Ý thức tự

giác rèn luyện năng lực của đội ngũ giảng viên đã được nâng cao. Đại đa số

giảng viên của 03 Trường đã sử dụng thời gian và có kế hoạch để nâng cao

vốn kiến thức chung và kiến thức chuyên môn của mình; tích cực, chủ động

lĩnh hội từ quá trình triển khai, quán triệt học tập nghị quyết của Đảng, chức

năng, nhiệm vụ của nhà trường, từ các phương tiện thông tin đại chúng và

thông qua các sách báo, ấn phẩm khác... nhằm cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo

lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

đối với chuyên ngành mà mình giảng dạy.

Bên cạnh đó, các giảng viên cũng chủ động đề xuất với Lãnh đạo Nhà

trường cử học các khóa đào tạo, hội thảo chuyên môn nhằm rèn luyện phẩm

chất chính trị, đạo đức, thái độ, sự nhiệt tình trong giảng dạy và tinh thần

trách nhiệm đối với học viên; bổ sung và tăng cường sự hiểu biết và kiến thức

về chuyên đề để đáp ứng được mục tiêu, kế hoạch khóa học đặt ra. Các giảng

viên luôn đổi mới phương pháp giảng dạy, khả năng, cách thức truyền đạt

kiến thức đến học viên; áp dụng các phương pháp tích cực, phát huy tính tích

cực và chủ động của học viên. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên tích tham gia

một số chương trình ĐTBD có yếu tố nước ngoài, có sự tham gia giảng dạy

của các chuyên gia nước ngoài, tạo điều kiện để hoạt động ĐTBD của bản

thân từng bước nâng cao chất lượng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

101

Qua khảo sát thấy: 40% giảng viên cho rằng tự học tập để phát triển tài

năng; 60% cho rằng là do tiền lương và thu nhập; 53,7% giảng viên cho rằng

để có khả năng thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn

tài liệu giảng dạy, tham khảo đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc giảng dạy.

Đây là một vấn đề mà các Trường ĐTBD CBCC đặc biệt lưu ý, nếu giảng

viên tự mình đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc giảng dạy thì công tác

ĐTBC sẽ thực hiện hiệu quả cao hơn.

3.1.3.2. Việc thiết lập các mục tiêu, sự gắn bó chặt chẽ giữa các chương

trình, chuyên đề đào tạo, bồi dưỡng và việc học tập của cán bộ, công chức

Công cuộc CCHC ở Việt Nam nhằm hướng tới việc thay đổi trạng thái

của cơ chế hành chính hiện hành, làm cho nó phù hợp với yêu cầu của thời kỳ

phát triển mới của đất nước. Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội

vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong đã thiết lập tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa

các chương trình, chuyên đề ĐTBD ngày một sát hơn, phù hợp với yêu cầu

thực tiễn hoạt động công vụ của CBCC. Nhận thức rõ và chính xác về các loại

chương trình ĐTBD CBCC; phân biệt giữa các chương trình bồi dưỡng theo

ngạch, chức danh lãnh đạo, quản lý, tiêu chuẩn chuyên ngành, vị trí việc

làm… để thiết kế phù hợp với mục tiêu của từng loại hình ĐTBD. Thu hút đội

ngũ chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý có trình độ, kinh nghiệm tham gia

xây dựng chương trình, với mục đích trang bị tri thức học viên, giúp học viên

vận dụng những tri thức ấy vào chỉ đạo hoạt động cải tạo hiện thực một cách

linh động, sáng tạo, có hiệu quả cao nhất. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng

việc thẩm định các chương trình, chuyên đề ĐTBD CBCC. Việc thẩm định

chương trình, chuyên đề ĐTBD CBCC được thực hiện khá bài bản, với sự

tham gia của nhiều chuyên gia, nhà quản lý có trình độ, kinh nghiệm.

Việc xây dựng chương trình, chuyên đề cũng luôn được gắn kết với

phương pháp dạy học tích cực, giáo án soạn đúng theo quy định giáo án mẫu;

giảng viên chuẩn bị và phân chia thời gian một cách khoa học trong việc sử

102

dụng hệ thống các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt góp phần

chuyển tải nội dung bài giảng đến người học tốt nhất. Sau mỗi khóa ĐTBD,

các trường thường xuyên thực hiện việc đánh giá sau ĐTBD, trong đó có

đánh giá chất lượng các chương trình đã xây dựng và đang triển khai thực

hiện để giải quyết những vướng mắc, bất cập và điều chỉnh các chương trình

ĐTBD khi thấy cần thiết.

3.1.3.3. Về khả năng nắm bắt, đánh giá và tổng kết thực tiễn

Hàng năm, các trường ĐTBD CBCC đã phối hợp với các đơn vị thuộc

Bộ nắm bắt chất lượng đội ngũ CBCC sau khi tham gia ĐTBD tại Trường;

trong quá trình ĐTBD sử dụng phiếu đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng

viên sau mỗi môn học hay chuyên đề... để nhà trường cũng như giảng viên kịp

thời điều chỉnh, hoàn chỉnh nội dung chương trình ĐTBD, phương pháp giảng

dạy, phong cách truyền đạt kiến thức nhằm đáp ứng cao nhất yêu cầu đòi hỏi

của thực tế. Định kỳ Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong tổ chức các đoàn giảng viên tham gia công tác

nghiên cứu thực tế hay tổ chức đưa học viên các lớp ĐTBD đi thực tế tại các

đơn vị cơ sở...; đây là dịp tốt để giảng viên tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm

thực tiễn phong phú, nhằm giúp cho hoạt động giảng dạy của giảng viên ngày

càng sát thực tế, chất lượng ĐTBD không ngừng nâng lên.

Trong giai đoạn 2012 - 2016, Học viện HCQG đã tổ chức hơn 50 đoàn

đi khảo sát thực tế (10 đoàn/năm); Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ tổ chức

hơn 20 đoàn đi khảo sát thực tế (04 đoàn/năm); Trường ĐTCB Lê Hồng

Phong tổ chức 32 đoàn (6,3 đoàn/năm). Ngoài ra, các Khoa, Phòng, Trung

tâm của các trường chủ trì tổ chức hội thảo/chuyên đề về kỹ năng giảng dạy

chuyên sâu, mời giảng viên chuyên môn có kinh nghiệm trao đổi, chia sẻ

cùng các giảng viên của trường. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và

phòng ban trong việc tổ chức, thực hiện, theo dõi và đánh giá các hoạt động

hội thảo, chuyên đề nâng cao kỹ năng giảng dạy. Tạo cơ hội cho các giảng

103

viên tham gia các dự án trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng lực

chuyên môn gắn với NCKH và tiếp cận phương pháp giảng dạy tích cực.

Từ những hoạt động khảo sát, điều tra, hội thảo, đi thực tế phục vụ cho

hoạt động NCKH nhằm giải đáp các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn ĐTBD

đang đặt ra, vì thế năng lực tổng kết thực tiễn được bổ sung và phát triển lý

luận khoa học của giảng viên trong Trường ngày càng được nâng lên. Ngoài

ra, Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong đã mở rộng giao lưu quốc tế đã tạo ra những cơ hội học hỏi kinh

nghiệm, cách làm, cách nghĩ mới; tạo cơ hội để đội ngũ giảng viên của có

điều kiện giao lưu, thăm quan, tìm hiểu kinh nghiệm các Trường ĐTBD

CBCC, hoặc được đào tạo tại nước ngoài vừa để nâng cao trình độ khoa học

kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và quan trọng hơn cả là

học tập được phong cách tư duy mới... đã tạo môi trường kích thích đội ngũ

giảng viên nâng cao NLTDLL.

3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ

DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI

DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 3.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho đội ngũ giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và chiến lược phát triển nguồn nhân

lực với những thành tựu quan trọng vừa tác động đến nhận thức, tư duy vừa

đặt ra những yêu cầu đổi mới về NLTDLL cho đội ngũ giảng viên nói chung

và đội ngũ giảng viên trường ĐTBD CBCC nói riêng. Nguyên nhân, đầu tiên

nói đến là công tác cán bộ và đặc biệt là công tác ĐTBD đội ngũ giảng viên

đã có nhiều đổi mới, giúp các trường ĐTBD CBCC tuyển dụng được đội ngũ

giảng viên có trình độ và năng lực; công tác đào tạo, đào tạo lại được chú

trọng, góp phần nâng cao năng lực tư duy, kiến thức văn hóa, trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ và trình độ LLCT cho đội ngũ giảng viên. Một nguyên nhân

104

quan trọng, đó là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng,

Ban Giám hiệu đối với việc nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên của

nhà trường. Điều này được thể hiện rõ trong việc đề ra chủ trương, biện pháp

triển khai thực hiện trong tuyển dụng và đào tạo, đào tạo lại trong chiến lược

phát triển và kế hoạch hàng năm của nhà trường.

Các tổ chức, bộ phận chức năng trong trường đã làm tốt công tác tham

mưu giúp cho cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch và

triển khai thực hiện kế hoạch ĐTBD đối với đội ngũ giảng viên một cách

nghiêm túc. Tạo môi trường thuận lợi về cơ chế, chính sách, cơ sở hạ tầng

trong công tác ĐTBD, đồng thời điều kiện tốt nhất cho đội ngũ giảng viên

được phát triển năng lực của mình, tích cực tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao

trình độ kiến thức, NLTDLL, phương pháp, tác phong sư phạm...

Một nguyên nhân quan trọng nữa là sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ

giảng viên trường các ĐTBD CBCC trong khắc phục khó khắn, vươn lên

hoàn thiện các yếu tố cấu thành năng lực tư duy; chủ động sắp xếp thời gian

hợp lý để vừa hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, vừa chủ động tự học tập, tự bồi

dưỡng, tham gia NCKH, hội thảo và các buổi khảo sát, đi thực tế tích lũy kinh

nghiệm, trau dồi phương pháp tư duy khoa học, rèn luyện kỹ năng sư phạm,

phẩm chất sáng tạo, tôi luyện bản lĩnh và các phẩm chất khác thông qua hoạt

động thực tiễn. Điều này phản ánh thái độ, trách nhiệm đối với công việc, tinh

thần vươn lên hoàn thiện bản thân trong cuộc sống. Sự nỗ lực cố gắng của

giảng viên các trường ĐTBD CBCC cũng chính là nguyên nhân cơ bản của

những thành tựu về nâng cao NLTDLL của chính bản thận họ.

Bên cạnh đó, phải nói đến những nguyên nhân khách quan của những

thành tựu nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC, đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, khoa học kỹ

thuật đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC phải không ngừng học tập, tu dưỡng để lĩnh hội tri thức, tiếp thu khoa

105

học công nghệ mới và vận dụng sáng tạo những thành tựu đó vào NCKH,

giảng dạy đem lại hiệu qủa cao.

Quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có

lĩnh vực ĐTBD đòi hỏi sự đổi mới, nỗ lực của các trường ĐTBD CBCC mà

đội ngũ giảng viên là nhân tố chịu tác động nhiều nhất. Đây chính là cơ hội để

nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC, đồng thời

cũng là thách thức đối với các trường ĐTBD CBCC và đội ngũ giảng viên của

nhà trường phải tự đổi mới, tự hoàn thiện để đáp ứng quá trình hội nhập ngày

càng sâu rộng

3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

3.2.2.1. Nguyên nhân của thực trạng nâng cao trình độ tư duy lý

luận và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức

Từ thực trạng cho thấy, một trong hạn chế trong việc nâng cao trình độ

TDLL và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC hiện nay do ngành, lĩnh vực đào tạo của đội ngũ giảng viên chưa phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ của trường nguyên nhân chính là do nguồn tuyển

chọn giảng viên và hoạt động đào tạo, đào tạo lại cho giảng viên các trường

ĐTBD CBCC.

Công tác tuyển chọn hay tuyển dụng là khâu đầu tiên có tính quyết định

đến chất lượng nguồn nhân lực của một cơ quan, tổ chức. Việc tuyển chọn,

tuyển dụng giảng viên các trường ĐTBD CBCC trong thời gian qua còn khá

nhiều bất cập, phương thức tuyển dụng chủ yếu được thực hiện bằng hình

thức xét tuyển và chuyển công tác, một số trường do công tác tuyển dụng đội

ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo còn chưa phù hợp với yêu cầu. Một số

trường tuyển dụng giảng viên là sinh viên mới tốt nghiệp các trường đại học

được nhận về làm hợp đồng từ 5 đến 10 năm, sau đó tổ chức xét tuyển hoặc

106

thi tuyển vào vị trí giảng viên. Tuyển dụng giảng viên mới tốt nghiệp đại học

có cả ưu điểm và hạn chế song hành. Ưu điểm là có thể đáp ứng được sự kế

thừa về thế hệ giáo viên, tránh hụt hẫng, phát huy được tính năng động, nhiệt

tình, sáng tạo, nhạy bén của sức trẻ. Hạn chế có thể dễ dàng nhận thấy ở đội

ngũ giảng viên trẻ đó là thiếu các kiến thức chuyên ngành và kinh nghiệm

thực tiễn, về trình độ LLCT thì hầu hết giảng viên trẻ chưa được qua những

lớp ĐTBD, có chăng chỉ được xét tương đương trung cấp LLCT đối với

những chuyên ngành đại học đặc thù theo quy định chứ chưa được cấp bằng.

Nhưng nếu tiếp nhận giảng viên chuyển công tác từ nơi khác về thì có thể bắt

tay ngay vào công việc vì họ đã có kinh nghiệm thực tiễn, lập trường tư tưởng

vững vàng, tuy nhiên, cũng phải mất thời gian để làm quen với môi trường

công tác mới, một cản trở nữa với đội ngũ này là do tuổi tác, hoặc chuyên

ngành đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của nhà trường. Tuy nhiên, mấy năm

gần đây do chính sách tinh giản biên chế nên hầu hết trong công tác tuyển

dụng đội ngũ giảng viên các trường đều không tổ chức thi tuyển và tuyển

dụng giảng viên. Số lượng giảng viên các trường thay đổi chủ yếu là do đến

tuổi nghỉ chế độ hoặc chuyển công tác từ trường này sang trường khác, cũng

ảnh hưởng đến cơ cấu đội ngũ giảng viên.

Để tạo nguồn giảng viên có năng lực, trình độ chuyên môn, các trường

ĐTBD CBCC đều đưa ra nhiều giải pháp để xây dựng, thu hút, phát triển đội

ngũ giảng viên. Nhiều trường đưa ra những chính sách khuyến khích về vật

chất như hỗ trợ, ưu đãi về lương, thưởng, hỗ trợ khuyến khích học tập nâng

cao trình độ cho giảng viên trẻ,… Mặc dù các trường đã rất nỗ lực, nhưng

hiện tại quy mô đội ngũ giảng viên vẫn còn khiêm tốn so với tốc độ tăng quy

mô đào tạo; việc tuyển dụng giảng viên, nhất là giảng viên có trình độ cao của

các trường ĐTBD CBCC gặp rất nhiều khó khăn. Công tác đào tạo cũng

nguồn cũng nhiều trở ngại, do kinh phí ngân sách nhà nước cấp rất hạn chế...

Nhìn vào số liệu phân tích trên thấy, trong 5 năm (từ 2012 đến 2016), tổng số

107

giảng viên 03 Trường tăng giảm không đáng kể, có Trường không tuyển chọn

được hoặc đào tạo được cán bộ có trình độ cao vào làm giảng viên; như

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong, từ 2012 đến 2016 trường không tuyển dụng

hay đào tạo được giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư; số lượng

giảng viên cao cấp, giảng viên chính hay giảng viên có trình độ tiến sĩ (trừ

Học viện HCQG), các Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê

Hồng Phong cũng gần tuyển chọn và đào tạo được.

Nguyên nhân chính ở đây là chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ

giảng viên ở các trường ĐTBD CBCC chưa được cụ thể hóa thành các quy

hoạch, kế hoạch của trường. Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giảng viên

nói chung và giảng viên trường ĐTBD CBCC nói riêng chưa bảo đảm. Cơ

chế, chính sách thu hút, tạo nguồn giảng viên phụ thuộc vào nguồn kinh phí,

trong khi đó, các trường chỉ được nhà nước cấp ngân sách lại khiêm tốn. Biện

pháp thu hút giảng viên bằng trả lương cao tại các trường ĐTBD CBCC là

vấn đề khá tế nhị, khó có thể trả lương cho một giảng viên mới tuyển chọn về

trường cao hơn lương một giảng viên đã có thâm niên cống hiến cho trường

hàng chục năm. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ giảng viên, khung tiêu chí đánh giá

giảng viên chưa được ban hành thống nhất, rõ ràng nên chưa đánh giá, phân

loại chính xác được chất lượng đội ngũ giảng viên. Chưa xây dựng được hệ

thống tiêu chuẩn cho từng loại trường ĐTBD CBCC ở trung ương và địa

phương, dẫn đến khó khăn trong việc tuyển dụng giảng viên.

Hoạt động đào tạo và đào tạo lại. nhà trường, đặc biệt là Ban Giám

hiệu trường ĐTBD CBCC thường xuyên quan tâm chú trọng đầu tư cho hoạt

động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giảng viên. Đã có các chế độ, chính sách

hỗ trợ và động viên giảng viên trong Trường đẩy mạnh việc nâng cao trình độ

LLCT, trình độ chuyên môn, học vấn, nghiệp vụ sư phạm, QLNN, ngoại ngữ,

tin học và đặc biệt là các kỹ năng, phương pháp NCKH... Nhiều trường đã

thành lập Quỹ khuyến học, có quy định khá rõ ràng cụ thể về đối tượng, tiêu

108

chuẩn, chế độ được hưởng. Từ đó đã nâng cao được ý thức tự giác chủ động

học tập nâng cao NLTDLL của từng giảng viên trong trường. Các trường

cũng chú trọng xây dựng được tiến trình đào tạo và đào tạo lại, có kế hoạch

thực hiện cụ thể cho các chương trình, từ đó giúp hoàn thiện được công tác

ĐTBD đội ngũ giảng viên của nhà trường.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội

ngũ giảng viên còn không ít hạn chế, yếu kém, như: nội dung, chương trình

đào tạo và đào tạo cho đội ngũ giảng viên chưa gắn với nâng cao chất lượng,

chậm được đổi mới, bổ sung hay cập nhật kịp thời; chưa đáp ứng yêu cầu

nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức,

phong cách lãnh đạo, quản lý đối với giảng viên. Do những hạn chế nêu trên,

nên mặc dù số lượng giảng viên được ĐTBD về LLCT rất lớn, như Trường

ĐTCB Lê Hồng Phong tỷ lệ giảng viên đã học, đang học trung cấp LLCT và

tương đương là 51,35%; tỷ lệ giảng viên đã học và đang học cao cấp LLCT và

tương đương của Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ là 45,71%; Trường ĐTCB

Lê Hồng Phong là 44,6%; Học viện HCQG là 44,1%. Tuy nhiên, do chưa có

những hình thức, biện pháp phù hợp hướng vào nâng cao NLTDLL của từng

đối tượng học viên, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triến nhất định. Vì vậy,

trình độ giảng viên vẫn còn không ít hạn chế, biểu hiện như thiếu kiến thức

chuyên môn cần thiết, yếu về lý luận, ít thực tiễn, hạn chế về trình độ, năng

lực QLNN …; có tình trạng vừa thừa vừa thiếu, không đồng bộ giữa các

khoa, phòng, các lĩnh vực; tác phong, phong cách làm việc còn mang nặng

tính hành chính, nặng về tư tưởng bao cấp, bình quân chủ nghĩa, thiếu tầm

nhìn xa,... Cũng còn một số giảng viên, vì kém lý luận, thiếu thực tiễn nên

không truyền tải đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước, kiến thức mới, dẫn đến lúng túng trong xử lý các tình

huống, thiếu tinh thần sáng tạo và không có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xử

lý, giải quyết công việc.

109

Thực tế này diễn ra phổ biến, đặc biệt là đối với giảng viên những môn

chung hay nhóm ngành có ít giảng viên có học hàm, học vị hoặc ngạch bậc

chưa phù hợp đối với đối tượng học viên là lãnh đạo quản lý ... do đó, có

những giảng viên phải tham gia giảng gấp 2 đến 3 số giờ chuẩn quy định, tình

trạng quá tải giờ dạy diễn ra liên tục trong thời gian dài khiến cho rất nhiều

giảng viên không còn thời gian dành cho học tập nâng cao TDLL, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được một cách thường xuyên các

kiến thức, kỹ năng mới khiến cho nội dung bài giảng của họ nghèo nàn, lạc

hậu và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Một nguyên nhân nữa là do chính bản thân đội ngũ cán bộ giảng viên

chưa thật sự cố gắng, nỗ lực tham gia. Bệnh kinh nghiệm, giáo điều vẫn còn

tồn tại và có ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận giảng viên. Một số giảng

viên ngại tiếp cận những thông tin, chính sách chế độ mới, không chịu khó

trau dồi kiến thức, công nghệ thông tin.

3.2.2.2. Nguyên nhân về khả năng vận dụng nhận thức và cao ý thức

phát triển nghề nghiệp, bản thân của chính đội ngũ giảng viên

Ý thức tự giác nâng cao của bản thân đội ngũ cán bộ, giảng viên là biện

pháp quan trọng hơn cả bởi thuộc về chủ quan của đội ngũ giảng viên. Chỉ khi

bản thân đội ngũ giảng viên có ý thức phát triển nghề nghiệp, hoàn thiện nhân

cách và xác định được mục tiêu trong công việc thì lúc đó các biện pháp khác

mới phát huy được hiệu quả, quá trình nâng cao chất lượng của chính họ mới

đạt mục tiêu như mong muốn. Ý thức phát triển nghề nghiệp không chỉ dừng

lại ở việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực nghề nghiệp mà cần mở

rộng cả ở việc lập kế hoạch tự học tập, học tập suốt đời, chủ động trong công

tác NCKH. Đội ngũ giảng viên cần chủ động tham gia học tập, trau dồi, bồi

dưỡng các kỹ năng mềm: công nghệ thông tin, ngoại ngữ, làm việc nhóm...

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như ngày nay, ngoại ngữ và tin

học có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học

110

tập, nghiên cứu. Giảng viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ để có thể tiếp

cận với các nguồn tài liệu phong phú trên thế giới, tự học tập và nghiên cứu,

tham gia nhiều loại hình đào tạo, (đào tạo - học tập trực tuyến, tích hợp

phương tiện truyền thông, năng động, sáng tạo).

Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB

Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội luôn quan tâm, tạo điều kiện để đội ngũ

giảng viên phát triển, nâng cao năng lực tự học tập, tự nghiên cứu phù hợp với

năng lực tư duy của mỗi người. Hiện nay, đại đa số giảng viên của 03 trường

đã sử dụng thời gian, kế hoạch để nâng cao vốn kiến thức chung và kiến thức

chuyên môn của mình. Qua khảo sát tại 03 trường thấy: Khi hỏi về động cơ tự

học tập của đội ngũ giảng viên có 57% trả lời để được đề bạt, bổ nhiệm, để

phát triển lâu dài; Khi được hỏi về những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình

thành đạt của đội ngũ giảng viên thì có 48% giảng viên trả lời là do học vấn

đào tạo cơ bản, 52% cho rằng do có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn; 40%

giảng viên cho rằng học tập phát triển tài năng, còn 60% cho rằng là do tiền

lương và thu nhập; 46,3% giảng viên không có khả năng thiết kế, xây dựng kế

hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu giảng dậy, tài liệu tham khảo

phục vụ cho đào tạo bồi dưỡng thì đây là một vấn đề mà các trường phải đặc

biệt chú ý. Chỉ với 53,7% giảng viên đạt tiêu chí này thì mới chỉ đạt trên trung

bình theo tiêu chuẩn giảng viên chính, đây lại là một trong những nội dung

thể hiện NLTDLL của giảng viên. Nếu giảng viên có NLTDLL tốt thì việc

thiết kế, xây dựng kế hoạch, chương trình ĐTBD và biên soạn tài liệu giảng

dậy, tài liệu tham khảo phục vụ cho đào tạo bồi dưỡng sẽ được thực hiện một

cách hiệu quả cao. Nguyên nhân hạn chế tự giác nâng cao ý thức tự giác rèn

luyện NLTDLL, nâng cao tri thức của một số giảng viên do chưa được xác

định đúng đắn, ý thức tự giác học tập chưa cao, một mặt do điều kiện kinh tế

khó khăn... dẫn đến tình trạng buông suôi trước sự tác động tiêu cực của hoàn

cảnh, của nền kinh tế thị trường. Một nguyên nhân khác còn do bệnh kinh

111

nghiệm làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tự giác rèn luyện, học tập của đội

ngũ giảng viên trường ĐTBD CBCC, nó biểu hiện ra là khuynh hướng kinh

nghiệm hóa lý luận, tiếp thu lý luận bằng kinh nghiệm và giảng dạy lý luận,

thực tiễn bằng kinh nghiệm cá nhân.

Tư chất trí tuệ và phẩm chất sáng tạo của giảng viên Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ và Trường ĐTCB Lê Hồng Phong luôn được các chủ thể và bản thân giảng viên quan tâm nâng cao. Về cơ bản, những phẩm chất này của đa số giảng viên hiện nay đã có sự chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những phẩm chất này ở một ít giảng viên chuyển biến chậm. Theo kết quả khảo sát và phân tích ở phần trên cho thấy: Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ trung bình 0,88 đề tài NCKH/giảng viên/5năm; Trường ĐTCB Lê Hồng Phong là 0,36 đề tài NCKH/giảng viên/5năm; Học viện HCQG là 0,31 đề tài NCKH/giảng viên/5năm. Như vậy, năng lực sáng tạo, tham gia nghiên cứu các đề tài, công trình khoa học của đội ngũ giảng viên 03 trường cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định; các sáng kiến kinh nghiệm, sáng kiến cải tiến khoa học còn ít, phần lớn ở cấp cơ sở, chưa mạnh dạn đầu tư nghiên cứu.

Nguyên nhân, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo trong bồi dưỡng, rèn luyện chưa cao. Còn thái độ trông chờ, ỷ lại vào tổ chức hoặc lãnh đạo quan tâm chứ chưa thực sự tìm tòi, sáng tạo trong việc chủ động xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, hình thức và phương pháp nâng cao trình độ, kỹ năng cho chính bản thân mình. Cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia NCKH thông qua khen thưởng về vật chất và tinh thần để tôn vinh những cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH, có kết quả nghiên cứu nổi bật hay công bố bài báo khoa học trên tạp chí quốc tế... hay xây dựng môi trường NCKH đa dạng, rộng khắp tại các trường chưa hiệu quả.

3.2.2.3. Nguyên nhân của việc tạo môi trường để nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên

Chế độ, chính sách đối với giảng viên là một trong những yếu tố quyết

định đến tạo môi trường kích thích đội ngũ giảng viên nâng cao NLTDLL, nó

112

sẽ tạo điều kiện để thu hút giảng viên nhất là giảng viên có trình độ và kinh

nghiệm giảng dạy. Để thu hút được những giảng viên dạy giỏi, có trình độ

chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm giảng dạy đòi hỏi

phải có cơ chế, chính sách hấp dẫn của các Trường ĐTBD CBCC. Học viện

HCQG, Trường ĐTBD CBCC - Bộ Nội vụ, Trường ĐTCB Lê Hồng Phong,

trong những năm qua luôn quan tâm tạo ra môi trường phát triển và kích

thích, động viên nâng cao NLTDLL, đã có những cơ chế, chính sách tuyển

dụng, quản lý, sử dụng, đãi ngộ đối với giảng viên, chú trọng công tác đào tạo

và đào tạo lại, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công

tác giảng dạy. Thường xuyên quan tâm, lắng nghe, nắm bắt tâm tư nguyện

vọng và kịp thời giải quyết những đề xuất, kiến nghị của đội ngũ giảng viên.

Đặc biệt, Học viện HCQG, Trường ĐTBD CBCC Bộ Nội vụ, Trường ĐTCB

Lê Hồng Phong đã ban hành một số văn bản khuyến khích giảng viên đi đào

tạo và đào tạo lại nâng cao trình độ, như: đề bạt, bổ nhiệm, phụ cấp trách

nhiệm, chế độ bảo hiểm, khám chữa bệnh, phục hồi sức khỏe; chính sách

khen thưởng giảng viên thi đỗ và bảo vệ thành công thạc sĩ, tiến sĩ; thưởng

cho giảng viên nếu bảo vệ thành công tiến sĩ trước thời hạn, đưa công tác

ĐTBD và tự ĐTBD vào công tác thi đua, khen thưởng hàng năm; thực hiện

cơ chế thanh toán tiền vượt giờ cho giảng viên kịp thời, nhanh gọn, có chính

sách ưu tiên đối với giảng viên có học hàm, học vị cao;… Mở rộng giao lưu

quốc tế đã tạo ra những cơ hội học hỏi kinh nghiệm, cách làm, cách nghĩ mới,

có điều kiện giao lưu, thăm quan, tìm hiểu kinh nghiệm các trường ĐTBD

CBCC trong nước. Hoặc được đào tạo tại nước ngoài vừa để nâng cao trình

độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và quan

trọng hơn cả là học tập được phong cách tư duy mới... đã tạo môi trường kích

thích đội ngũ giảng viên nâng cao NLTDLL.

Tuy nhiên, các chiến lược, đề án phát triển đội ngũ giảng viên của các

trường vẫn chưa phải là chiến lược mang tính lâu dài, phát triển bền vững.

113

Việc thực hiện tổng kết, đánh giá về tổ chức bộ máy, quản lý giảng dạy, học

tập và quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, rút ra những bài học

kinh nghiệm hay khắc phục những hạn chế trong nhận thức về vai trò, tầm

quan trọng nâng cao NLTDLL của đội ngũ giảng viên chưa xác thực, đôi khi

còn mamg tính hình thức. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý, giảng viên trên cơ sở cơ cấu, số lượng, chất lượng, cũng như việc xây

dựng kế hoạch bố trí đội ngũ giảng viên đi thực tế, tổng kết thực tiễn (dự các

cuộc hội thảo khoa học trong nước, ngoài nước) mở rộng tầm hiểu biết và

nhận thức chưa đi đôi với việc ĐTBD nâng cao trình độ lý luận, kiến thức

thực tiễn, chưa thực sự có chiều sâu. Đồng thời, việc đẩy mạnh phong trào thi

đua đổi mới phương pháp dạy học, NCKH, tăng cường kiểm tra việc biên

soạn giáo án, tổ chức hội thảo khoa học, thi giảng viên giỏi… chưa được tổ

chức thường xuyên và chú trọng.

Một trong những nguyên nhân quan trọng về hạn chế của công tác

ĐTBD đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng đổi mới và hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng là: các chủ thể tham gia chức thực sự nắm vững đặc điểm, chất

lượng nguồn giảng viên ở các trường ĐTBD CBCC nên việc xác định mục

tiêu, nội dung, hình thức, biện pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng, nâng cao phẩm

chất này cho các đối tượng giảng viên đạt hiệu quả thấp. Phần lớn các trường

ĐTBD CBCC cũng chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn hóa giảng viên theo

chuẩn khung năng lực, chế độ tự học, tự bồi dưỡng, quy định chế độ thời gian

đi học tập, bồi dưỡng trong quá trình công tác; việc sơ kết, tổng kết, đánh giá

kế hoạch ĐTBD đã đề ra để có kế hoạch ĐTBD tiếp theo chưa được quan tâm

triệt để. Hệ thống hội trường, phòng họp và phòng tiếp khách, phòng làm

việc, phòng tư liệu - thư viện phần nào đã đáp ứng yêu cầu của giảng viên.

Nhưng hệ thống các phòng chức năng tại một số trường còn thiếu, hệ thống

trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và các điều kiện hỗ trợ giảng dạy học chưa thật

sự đáp ứng được điều kiện giảng dạy trong giai đoạn đổi mới và hội nhập

114

quốc tế; do đòi hỏi phải có nguồn kinh phí lớn mới cải tạo, nâng cấp và đầu tư

mua sắm được. Phòng làm việc, nghiên cứu độc lập, thảo luận nhóm hay tài

liệu, sách chuyên ngành biên soạn kiến thức hạn chế; sách tham khảo cho

giảng viên cũng thiếu và lạc hậu nhiều so với thực tế ngoài xã hội đã ảnh

hưởng đến quá trình ĐTBD, nghiên cứu của giảng viên.

Việc tạo môi trường kích thích đội ngũ giảng viên nâng cao năng lực

TDLL cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Những cơ chế, chính sách, sự

đãi ngộ đó vẫn chưa thỏa đáng cả về vật chất và tinh thần, thu nhập của giảng

viên vẫn chỉ ở mức trung bình của xã hội. Các khoản thu nhập ngoài lương

(nếu có) như vượt giờ, ngày nhà giáo chủ yếu có ý nghĩa động viên tinh thần,

giá trị vật chất thấp. Nhưng để trở thành giảng viên có trình độ, họ phải học

tập, NCKH vất vả, tốn kém, phải rèn luyện để có các phẩm chất và năng lực

nhiều người bình thường không có. Thực tế cho thấy giảng viên các trường

ĐTBD CBCC là những người có thu nhập thấp, đời sống gặp khó khăn, tiện

nghi làm việc và sinh hoạt ở mức độ trung bình, thậm chí có những giảng viên

còn khó khăn. Vì thế, nhiều giảng viên không yên tâm công tác, ít say mê với

nghề, tìm cách chuyển sang những đơn vị công tác khác có thu nhập cao khi

có điều kiện. Một số giảng viên sau khi được cử đi đào tạo không muốn quay

lại trường làm việc tiếp.

Một nguyên nhân nhằm thu hút giảng viên trường ĐTBD CBCC gắn

bó, tích cực học tập nâng cao trình độ để công hiến là chế độ phụ cấp giảng

dạy chưa hợp lý. Các Trường Chính trị tỉnh thì phụ cấp giảng dạy đối với

giảng viên là 45%, trong khi đối với các Trường ĐTBD CBCC chỉ là 25%

trong khi đặc thù công việc là như nhau. Nhưng dây là chính sách chung nên

rất khó cho các trường trong giải quyết bất cập để thỏa đáng cho giảng viên.

Việc tổ chức hội thi giảng viên dậy giỏi của các trường tiến hành không

thường xuyên, định kỳ nên đôi khi tạo cho giảng viên tâm lý an phận, ít phấn

đấu, cạnh tranh. Có trường nếu tổ chức thì giảng viên tham gia rất miễn

115

cưỡng, mang tính hình thức, không đầu tư thời gian và công sức cho việc rèn

luyện để đạt kết quả cao trong các hội thi. Có những giảng viên lại tham gia

mang tính thời vụ, như trường hợp giảng viên đó chuẩn bị đủ điều kiện để xét

chuyển giảng viên chính thì cố gắng tham gia để có điểm cộng.

Trong xu thế toàn cầu hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã

hội trong đó có lĩnh vực khoa học, giáo dục, mở rộng hợp tác quốc tế là một

trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.

Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế, đội ngũ giảng viên cập nhật kiến thức,

kỹ năng mới trong nghiên cứu, giảng dạy; đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật

thông qua các dự án hợp tác, tiết kiệm được kinh phí đào tạo, nghiên cứu.

Việc mở rộng quan hệ hợp tác với những nước có trình độ đào tạo tiên tiến

trên thế giới sẽ giúp các trường ĐTBD CBCC nâng cao chất lượng và uy tín

trên bình diện khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, việc phối hợp, thắt chặt mối

quan hệ hợp tác giữa các trường ĐTBD CBCC với các trường đại học, viện

nghiên cứu ở các quốc gia và tổ chức quốc tế. Việc tổ chức các đoàn giảng

viên nghiên cứu thực tế, trao đổi kinh nghiệm, giao lưu học thuật với các cơ

sở ĐTBD ở các nước có nhiều thành tựu và kinh nghiệm trong phát triển kinh

tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ. Hay việc mời chuyên gia khoa học, học giả

quốc tế trong một số lĩnh vực khoa học liên quan đến chuyên môn của giảng

viên trường ĐTBD CBCC đến tập huấn, giảng chuyên đề hoặc bồi dưỡng về

đổi mới chương trình, tài liệu dạy - học, phương pháp dạy - học tích cực, nâng

cao trình độ ngoại ngữ cho giảng viên... ngày một khó khăn, nguyên nhân chủ

yếu do cơ chế, chính sách tiết kiệm giảm chi phí hành chính, kinh phí ngân

sách nhà nước cấp hạn hẹp, việc huy động các nguồn lực khác cũng rất khó

khăn và phụ thuộc.

Kết luận chương 3

Nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC

có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm bồi dưỡng đội ngũ giảng viên kế cận có

116

đủ phẩm chất, NLTDLL đáp ứng được nhiệm vụ ĐTBD CBCC của các cơ

quan, đơn vị, các bộ, ngành, địa phương. Thời gian gia, NLTDLL cho đội ngũ

giảng viên các Trường ĐTBD CBCC đã được các chủ thể quan tâm, vì thể

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên này không ngừng tăng lên, giúp họ có khả

năng nhận thức các vấn đề về lý luận cũng như thực tiền của công tác ĐTBC

CBCC ở trình độ lý luận và vận dụng hiệu quả tri thức lý luận vào nhiệm vụ

giảng dạy, NCKH.

Trên cơ sở nội dung đánh giá NLTDLL của giảng viên trường ĐTBD

CBCC có thể thấy NLTDLL của đội ngũ giảng viên này vẫn còn một số tồn

tại, hạn chế; đó là sự chuyển biến về năng lực nhận thức ở trình độ lý luận

cũng như khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp tư duy biện chứng,

năng lực tri thức lý luận, kinh nghiệm thực tiễn vào giảng dạy, NCKH của

một bộ phận giảng viên còn chậm, ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả hoàn

thành nhiệm vụ của họ. Điều này phản ánh khách quan sự thiếu hụt, hạn chế

về một số mảng, lĩnh vực kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn của giảng

viên các Trường ĐTBD CBCC. Những kết quả đạt được và hạn chế do nhiều

nguyên nhân, trong đó nguyên nhân về cơ chế, chính sách, nguồn lực và tự

bản thân của đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD là chủ yếu.

Nâng cao NLTDLL của đội ngũ giảng viên trong các trường ĐTBD

CBCC hiện nay đang đặt ra những bất cập và những mâu thuẫn nhất định đòi

hỏi các chủ thể tham gia cần nghiên cứu, giải quyết. Vấn đề đặt ra là phải

nâng cao trình độ nhận thức, ý thức, trách nhiệm và năng lực tổ chức hoạt

động nâng cao NLTDLL của đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nội dung, chương trình, hình thức và biện pháp

ĐTBD, rèn luyện, nâng cao NLTDLL cho giảng viên, bảo đảm tốt các điều

kiện phục vụ quá trình nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC hiện nay.

117

Chương 4

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI

DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. NHÓM GIẢI PHÁP TUYỂN CHỌN, ĐÀO TẠO, ĐÀO TẠO LẠI ĐỘI NGŨ

GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

4.1.1. Giải pháp tuyển chọn đội ngũ giảng viên các trường đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức

Việc đổi mới nội dung hay áp dụng phương pháp dạy học "hiện đại",

vai trò của người thầy là quan trọng nhất. Muốn có được những học trò giỏi,

trước tiên phải có những người thầy xuất sắc. Chất lượng ĐTBD CBCC phụ

thuộc rất nhiều vào tính tích cực trong giảng dạy của giảng viên, thể hiện ở

lòng say mê với hoạt động giảng dạy, sự chủ động, sáng tạo, ham học hỏi, tìm

kiếm tri thức nhằm tổ chức thực hiện hoạt động giảng dạy, qua đó làm cho bài

giảng có chất lượng cao, hấp dẫn và nâng cao tinh thần, trách nhiệm của giảng

viên, kích thích được học viên học tập, lôi cuốn được đồng nghiệp hăng hái

làm việc… từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả ĐTBD. Vì vậy, công tác

tuyển chọn giảng viên trường ĐTBD CBCC có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong việc nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC.

Các trường ĐTBD CBCC cần quan tâm thu hút, tuyển chọn và tạo điều

kiện cho những người tốt nghiệp sau đại học ở trong và ngoài nước đạt loại

giỏi... để làm cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và quản lý. Cần có chính sách hỗ

trợ, thu hút giảng viên, như học thạc sĩ được nhà trường hỗ trợ học phí; học

tiến sĩ, ngoài học phí, người học còn được hỗ trợ kinh phí bảo vệ tốt nghiệp.

Người có học vị tiến sĩ về trường được bố trí chỗ làm việc, trang bị thiết bị,

cấp máy tính xách tay; những người trình độ cao được sắp xếp công việc phù

hợp như bố trí đề tài NCKH, chuyên đề khoa học; hướng dẫn sinh viên, cao

118

học... Thực tế hiện nay, giảng viên các Trường ĐTBD CBCC có những điểm

khác biệt bởi đối tượng người học phần lớn đã có kinh nghiệm công tác

chuyên môn hoặc đang là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, các Trường

ĐTBD CBCC cần xây dựng chiến lược phát triển về nguồn giảng viên:

Một là, giảng viên được tuyển dụng (tuyển chọn) từ giảng viên có học

hàm, học vị: thạc sỹ, tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư đang giảng dạy, nghiên cứu

các chuyên ngành sư phạm, kỹ thuật, kinh tế, tâm lý học, triết học, giáo dục

học, văn hóa... ở các học viện, các trường đại học, cao đẳng.

Hai là, giảng viên được tuyển chọn từ những từ các nhà quản lý giáo

dục thực đã và đang được đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ chuyên ngành trong và nước

ngoài. Những CBCC có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đang công tác trong ngành.

Ba là, giảng viên được mời từ những nhà lãnh đạo, chuyên gia có kinh

nghiệm đã, đang công tác trong các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội.

Năm là, các giảng viên ở các trung tâm ĐTBD các tỉnh, thành phố...

trực tiếp đảm nhiệm việc ĐTBD CBCC. Việc tuyển dụng đi đôi cam kết tạo

điều kiện cho giảng viên được đi đào tạo sau đại học.

Sáu là, có chính sách ký hợp đồng sau khi nghỉ hưu với các giảng viên

học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên cao cấp

4.1.2. Giải pháp đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Nâng cao năng lực tư duy biện chứng, LLCT giúp cho giảng viên

trường ĐTBD CBCC có khả năng nhận thức sâu sắc và giải quyết thành công

những vấn đề của thực tiễn đặt ra. Vì vậy, tăng cường học tập, trau rồi

phương pháp tư duy biện chứng duy vật là một trong những giải pháp cơ bản

và quan trọng nhất để nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các trường

ĐTBD CBCC. Trong quá trình đào tạo đại học, người giảng viên (không

thuộc chuyên ngành khoa học Mác - Lênin) được học lịch sử triết học rất sơ

sài, nếu giảng viên được cử đi học trung cấp lý luận và cao cấp LLCT thì

119

trong chương trình đó cũng không có môn học lịch sử triết. Thực tế cho thấy,

nếu con người biết học tập những kinh nghiệm lịch sử thì hoạt động lý luận

cũng như thực tiễn sẽ tránh được những vòng vo không cần thiết. Nghiên cứu

lịch sử triết học cũng chính là nghiên cứu lịch sử phát triển của tư duy, sẽ giúp

con người học tập, rèn luyện và trau rồi phương pháp tư duy khoa học, qua

đây phát triển năng lực và trình độ của người giảng viên. Qua nghiên cứu,

giảng viên trường ĐTBD CBCC có thể vận dụng sáng tạo vào những môn

học mình được phân công giảng dạy một cách linh hoạt, mềm dẻo và phù

hợp. Việc nắm vững những tri thức khoa học là cơ sở quan trọng để rèn luyện

phương pháp tư duy biện chứng nhằm nâng cao NLTDLL. Thông qua quá

trình giảng dạy và học tập, giảng viên trường ĐTBD CBCC sẽ có điều kiện

tốt nhất để tiếp thu hệ thống tri thức triết học Mác - Lênin. Những tri thức

triết học này nếu được giảng viên trường ĐTBD CBCC nắm vững và vận

dụng nhuần nhuyễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn sẽ góp phần quan

trọng đặc biệt vào việc phát triển NLTDLL.

Khi đề cập đến vai trò của triết học đối với việc rèn luyện NLTDLL,

Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của

khoa học thì phải biết vươn lên tầm cao của TDLL. Nhưng TDLL lại chỉ là

một đặc tính bẩm sinh mới ở dạng khả năng mà thôi. Muốn rèn luyện và phát

triển khả năng ấy thì không có cách nào tốt hơn là nghiên cứu triết học thời

trước" [50, tr.487]. Thực tiễn đã chứng minh, nếu coi nhẹ việc học tập, nghiên

cứu hệ thống lý luận Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng,

hoặc là học tập, nghiên cứu theo lối chủ quan, tùy tiện, giáo điều, chắp vá thì

sẽ không thể nắm được bản chất khoa học, sáng tạo, linh hồn sống của

phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Những nhận định của Ăngghen cho

đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa. Đồng thời với học triết học và lịch

sử triết học, người giảng viên cũng phải chú ý đến các ngành khoa học có liên

quan như lôgíc học. Vốn là một khoa học về tư duy, lôgíc học nghiên cứu

120

những hình thức và quy luật định hình, tồn tại và phát triển của tư duy cũng

như các quy tắc của hoạt động sản sinh tri thức là phép suy luận. Thực tế cho

thấy, người ta khó có thể có được một phương pháp tư duy khoa học nếu

không nghiên cứu lôgíc học. Những kiến thức về lôgíc học hình thức và lôgíc

học biện chứng không chỉ trực tiếp hình thành tư duy chính xác, mà quan

trọng hơn là tạo ra một năng lực tư duy biện chứng. Ngoài ra, giảng viên

trường ĐTBD CBCC cần trang bị những kiến thức về tâm lý giáo dục. Mặc

dù ở một số trường đại học có đưa môn tâm lý học vào giảng dạy, nhưng nội

dung còn sơ sài, mới dừng lại ở phần tâm lý học đại cương, phần tâm lý học

chuyên ngành cho người làm công tác giảng dạy có rất ít hoặc chưa có. Trong

quá trình tác nghiệp, giảng viên trường ĐTBD CBCC không chỉ cần có những

tri thức về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa… cũng rất cần

những hiểu biết về tâm lý học.

Nâng cao năng lực tư duy biện chứng thông qua việc học tập để nắm

được bản chất của phương pháp tư duy biện chứng thì bên cạnh việc trang bị

những kiến thức cơ bản về văn hóa - xã hội nói chung thì thường xuyên học

tập, nghiên cứu các môn học Mác - Lênin, các môn khoa học khác có liên

quan như lôgíc học, tâm lý học.. là một điều kiện để qua đó giúp giảng viên

trường ĐTBD CBCC nâng cao NLTDLL. Để thực sự có được phương pháp

tư duy biện chứng duy vật thì người giảng viên trường ĐTBD CBCC cũng

cần đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn. Tổng kết thực

tiễn là phương thức cơ bản gắn lý luận với thực tiễn, gắn hoạt động nhận thức,

tư duy với hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội. Căn cứ để phát triển lý

luận chính là thực tiễn. Lý luận bám rễ trong thực tiễn và chỉ có thường xuyên

tổng kết thực tiễn thì mới phát hiện và khái quát thành lý luận. Chúng ta chỉ

đạo tổng kết thực tiễn bằng TDLL khoa học và thông qua tổng kết thực tiễn

khái quát lý luận mà nâng cao hơn nữa năng lực và trình độ TDLL. Tổng kết

thực tiễn là quá trình vận dụng TDLL để phân tích, đánh giá thực tiễn, khái

121

quát lý luận để chỉ đạo thực tiễn. Tổng kết thực tiễn không phải là việc làm

đơn giản, không phải là sự liệt kê các sự kiện riêng lẻ để đưa ra những nhận

xét và đánh giá chủ quan, tùy tiện. Tổng kết thực tiễn phải xuất phát từ một

phương pháp tư duy biện chứng, nhìn nhận sự vật theo một quan điểm toàn

diện: vừa thấy mặt này nhưng không bỏ qua mặt kia, vừa phân tích mặt chủ

yếu nhưng không thể bỏ qua mặt thứ yếu của sự biến đổi.

Thực tiễn cần lý luận để soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo định hướng cho

mọi hoạt động, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn

và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh chủ quan, duy

ý chí. Thực tiễn luôn phát triển không ngừng đòi hỏi lý luận cũng phải biến

đổi, phát triển để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Thông qua hoạt

động thực tiễn sẽ cho phép giảng viên trường ĐTBD CBCC có cái nhìn biện

chứng, khoa học hơn, tạo nên niềm tin, củng cố, trau rồi, rèn luyện và phát

triển NLTDLL của giảng viên. Tổng kết thực tiễn giúp giảng viên phát hiện

những vấn đề, những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn và thông qua đó vận

dụng sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận.

Nếu như quá trình học tập ở trường có vai trò hết sức quan trọng đối với

việc hình thành phương pháp tư duy thì nghiên cứu thực tiễn tại các cơ quan nhà

nước, tại địa phương trong và ngoài nước… lại có ý nghĩa quyết định đối với

việc tu dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy của giảng viên, điều ấy tạo điều

kiện gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, tạo cầu nối giữa lý luận và thực tiễn. Điều

này có tác dụng tích cực, trực tiếp nâng cao nâng cao NLTDLL và tư duy thực

tiễn của giảng viên. Sở dĩ như vậy là vì phương pháp tư duy dù có khoa học đến

đâu thì tự nó cũng không quyết định được nội dung, kết quả của tư duy. Được

học tập, trang bị phương pháp tư duy khoa học là một chuyện, nhưng mỗi người

có biến nó thành phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy của mình hay

không lại là chuyện khác. Trên thực tế, cùng những người học tập, được trang bị

một phương pháp tư duy như nhau, nhưng khả năng nhận thức, kết quả tư duy

122

lại rất khác nhau. Điều ấy chứng tỏ, ngoài việc được học tập, nghiên cứu về

phương pháp tư duy khoa học, năng lực và trình độ TDLL của con người còn

phụ thuộc vào đặc tính bẩm sinh (dù chỉ là một phần nhỏ) và quá trình tu dưỡng,

rèn luyện của mỗi con người (có vai trò quyết định). Chính tổng kết thực tiễn là

một trong những cách thức, biện pháp rèn luyện phương pháp tư duy rất tốt, qua

đó giúp nâng cao năng lực tư duy biện chứng và năng lực TDLL cho người

giảng viên Trường ĐTBD CBCC.

Với tư cách là nhà giáo dục, giảng viên nói chung và giảng viên các

trường ĐTBD CBCC phải có phương pháp sư phạm tốt, năng lực và trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên cũng được thể hiện đậm nét ở phương

pháp sư phạm. Nó đòi hỏi sự thống nhất hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa

tư tưởng và khả năng diễn đạt tư tưởng, hay nói đơn giản là sự thống nhất

giữa ý nghĩ và lời nói. Tất nhiên, giữa tư duy và ngôn ngữ thể hiện, trong mỗi

con người bình thường, cơ bản là thống nhất, đồng nhất, nhưng không phải là

không có sự khác biệt, độ "lệch pha" nhất định, thậm chí là mâu thuẫn với

nhau. Trên thực tế, không ít người có năng lực tư duy trừu tượng, có khả năng

NCKH, nhưng lại không có khả năng diễn đạt tư tưởng bằng lời nói một cách

rõ ràng, không có khả năng thuyết phục người khác, không có năng khiếu sư

phạm. Ngược lại, có những người có tài diễn thuyết, nói năng hoạt bát và bay

bướm, nhưng năng lực tư duy khoa học rất hạn chế. Mặt khác, nghề sư phạm

không chỉ đòi hỏi người giảng viên phải diễn đạt một cách rõ ràng, chính xác,

ngắn gọn, xúc tích những tri thức khoa học trong phạm vi môn học, mà còn

phải truyền đạt đến người học những nội dung đó một cách cảm xúc, hấp dẫn.

Có như vậy mới thu hút được sự chú ý và gây hứng thú cho người học hoạt

động giảng dạy mới thực sự có chất lượng và hiệu quả cao.

4.1.2.1. Đối với đội ngũ giảng viên cơ hữu

Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên về chuyên môn, nghiệp vụ

phải căn cứ vào mục tiêu ĐTBD CBCC. Có nghĩa là căn cứ vào đối tượng

123

người học để trang bị, cập nhật, nâng cao phẩm chất, kiến thức, kỹ năng cho

đội ngũ giảng viên cơ hữu. Đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng cập nhật kiến

thức cho giảng viên cơ hữu của các trường ĐTBD CBCC với mục tiêu cơ bản

là nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ LLCT, năng lực giảng dạy, nghiên

của khoa học và các hoạt động khác qua đó góp phần nâng cao NLTDLL đáp

ứng tiêu chuẩn, nhiệm vụ, khung năng lực giảng viên đáp ứng yêu cầu nâng

cao chất lượng giảng viên và chất lượng ĐTBD. Việc ĐTBD phải nhằm thiết

thực phục vụ cho chính công tác giảng dạy, NCKH và các hoạt động khác của

giảng viên. Trong bối cảnh hiện nay, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng

viên phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm. Quan niệm về vị trí

việc làm còn rất khác nhau trong đội ngũ CCVC nói chung, thậm chí nhiều

người còn chưa phân biệt rõ việc làm và vị trí việc làm: Việc làm là công việc

thường xuyên, liên tục, ổn định lâu dài theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan,

tổ chức, còn vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu

ngạch CCVC để xác định chỉ tiêu hàng năm và bố trí CCVC trong cơ quan, tổ

chức. Theo đó mỗi vị trí việc làm có thể có nhiều người, có thể một người

hoặc thậm chí dưới một người làm việc. Như vậy, biên chế và cơ cấu CCVC

do vị trí việc làm quy định.

Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm là nhiệm vụ còn hết sức mới,

bên cạnh những thuận lợi là không ít khó khăn trở ngại cả trong nhận thức thể

chế và triển khai thực hiện. Vì vậy, muốn triển khai ĐTBD theo vị trí việc

làm có hiệu quả, cần phải có nhận thức đúng về mục đích, vai trò, đặc điểm,

yêu cầu của ĐTBD theo vị trí việc làm trước hết trong đội ngũ giảng viên cơ

hữu của nhà trường. Nhằm nâng cao nhận thức và xác định rõ trách nhiệm của

mình trong triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên ĐTBD phải

nhìn nhận rõ quan hệ giữa ĐTBD theo vị trí việc làm với các hình thức ĐTBD

khác. Để nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên về vị trí việc làm và

ĐTBD theo vị trí việc làm, các cơ sở ĐTBD ngoài việc cập nhật hệ thống các

124

văn bản của Đảng và Nhà nước có liên quan phải đẩy mạnh công tác NCKH,

tổ chức các hội thảo, hội nghị tạo diễn đàn nghiên cứu và trao đổi kinh

nghiệm cho giảng viên ở trong và ngoài nước, giúp giảng viên vừa nâng cao

nhận thức mà còn chuẩn bị tốt kiến thức, kỹ năng khi tiến hành giảng dạy.

Từ thực trạng đội ngũ giảng viên ĐTBD bên cạnh những mặt mạnh vẫn còn những hạn chế như chưa có chiến lược xây dựng đội ngũ giảng viên dài hơi, tỷ lệ học hàm, học vị chưa cân đối, năng lực thực tiễn còn hạn chế, ĐTBD theo vị trí việc làm còn hết sức mới mẻ với nhiều nét đặc trưng cả về số lượng và chất lượng. Cần phải tích cực ĐTBD để đội ngũ giảng viên có đủ các điều kiện cả về nhận thức, kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sẵn sàng đảm nhận nhiệm vụ ĐTBD nói chung và ĐTBD theo vị trí việc làm.

Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên phải gắn với điều kiện thực tiễn hiện nay, trên nguyên tắc làm việc gì thì học việc đó, thiếu cái gì thì học bù cái đó, học để phụng sự tổ quốc, nhân dân, cách mạng. Học không phải chỉ cho riêng mình mà cho cả đội ngũ, không bao giờ được hài lòng với lượng tri thức sẵn có của bản thân. Việc ĐTBD giảng viên phải được tiến hành linh hoạt với nhiều biện pháp đồng bộ như: động viên, khuyến khích, hành chính, kinh tế… phải được quản lý và thực hiện một cách khoa học, đảm bảo chặt chẽ các khâu tư phân tích nhu cầu ĐTBD, đến khâu lập kế hoạch, khâu triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá công tác ĐTBD. ĐTBD giảng viên nhằm hướng tới chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, vì vậy nội dung đào tạo bồi dưỡng phải bao gồm: LLCT, kiến thức QLNN, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy hiện đại, phương pháp NCKH, tin học, ngoại ngữ, hội nhập quốc tế, đào tạo ở trong nước và nước ngoài.

Thứ nhất, ĐTBD giảng viên nâng cao nhận thức chính trị thông qua học tập hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước (đây là một giải pháp cơ bản để nâng cao NLTDLL, tư duy biện chứng cho đội ngũ giảng viên đã được phân tích ở giải pháp trên).

125

Thứ hai, ĐTBD giảng viên về chuyên môn, nghiệp vụ: giảng viên phải

có trình độ chuyên môn sâu, rộng, phù hợp với nhiệm vụ được giao, do đó cần

được ĐTBD nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật kiến thức mới, kiến thức

chuyên ngành, kiến thức thực tế phù hợp với từng đối tượng học viên, giúp

giảng viên nâng cao nhận thức, phát triển các kỹ năng sư phạm, tích lũy, cập

nhật, bổ sung kịp thời những kinh nghiệm thực tế, kiến thức tiên tiến mới đưa

vào áp dụng trong giảng dạy. Bên cạnh đó, giảng viên phải thường xuyên bồi

dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm để nâng cao chất lượng giảng dạy.

Thứ ba, đào tạo giảng viên đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đối với giảng

viên ở các khoa, bộ môn theo kế hoạch được ban hành kèm theo Quyết định

1216/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch

phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Với mục tiêu đến năm

2020 có 100% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ, trong đó 25% trở lên trình độ

tiến sĩ, các trường cần có kế hoạch, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện về cả thời

gian, tinh thần và vật chất để giảng viên tích cực tham gia các khóa đào tạo.

Có thể áp dụng hình thức đào tạo vừa học, vừa làm để giảm thiểu sự thiếu hụt

giảng viên. Các trường nên đặt ra yêu cầu phải có trình độ thạc sĩ trở lên trong

tiêu chuẩn dự tuyển giảng viên để tránh trường hợp thiếu hụt giảng viên.

Thứ tư, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc bồi dưỡng ngoại ngữ, công

nghệ thông tin cho giảng viên là rất cần thiết, giúp giảng viên xây dựng giáo

án điện tử, quản lý giáo án bài giảng, tài liệu dạy học trên máy tính, khai thác

triệt để tiện ích của các phương tiện dạy học hiện đại trong quá trình tổ chức

giảng dạy trên lớp; khai thác tốt hệ thống thông tin, tư liệu của thư viện điện tử

(nếu có). Các trường cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên

tích cực tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng sử dụng phương tiện

và ứng dụng tin học vào hoạt động giảng dạy, NCKH cho bản thân.

Thứ năm, ĐTBD giảng viên về năng lực công tác, năng lực công tác

của giảng viên biểu hiện trong kỹ năng tổ chức các hoạt động giảng dạy, kỹ

126

năng nhận thức và giải quyết các tình huống trong giảng dạy và giáo dục tổ

chức hoạt động giáo dục như: học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt tập thể, tổ chức đi nghiên

cứu thực tế, tham gia công tác Đảng, đoàn thể.

Để thực hiện có hiệu quả công tác ĐTBD nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên cần thực hiện các bước sau:

Bước 1: Phải làm thay đổi nhận thức giảng viên về công tác ĐTBD

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giảng viên. Người giảng viên giỏi

phải tự giác học tập thường xuyên, học suốt đời, tránh tư tưởng chạy theo

thành tích, bằng cấp. ĐTBD xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người

giảng viên đứng trên bục giảng hiện nay và tương lai sau này.

Bước 2: Phân tích thực trạng đội ngũ giảng viên để làm rõ: họ đang ở

trình độ nào? Điểm mạnh, điểm yếu của từng giảng viên là gì? Phải ĐTBD

cái gì, hình thức ĐTBD như thế nào?

Bước 3: Xây dựng kế hoạch: căn cứ nhu cầu thực tế về ĐTBD của

giảng viên các trường, căn cứ chương trình công tác chung của các trường,

căn cứ khả năng tài chính cho phép, các trường xây dựng kế hoạch ĐTBD

hàng năm bao gồm: mục tiêu, yêu cầu, đối tượng, nội dung, hình thức, thời

gian, kinh phí, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan làm cơ sở cho

việc thực hiện công tác ĐTBD giảng viên.

Bước 4: Xác định đối tượng, nội dung, hình thức ĐTBD: xác định đối

tượng ĐTBD căn cứ vào quy định của Nghị định 18/NĐ-CP ngày 05/3/2010

của Chính phủ về ĐTBD công chức, viên chức, Thông tư 19/2014/TT-BNV

ngày 04/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định, hướng dẫn công tác

ĐTBD viên chức và các quy định của từng trường. Trên cơ sở đối tượng để

xác định nội dung, hình thức, phương pháp ĐTBD cho phù hợp.

Bước 5: Kinh phí cho ĐTBD giảng viên: Kinh phí cho ĐTBD giảng

viên bao gồm tiền học phí, các khoản phụ cấp ăn, nghỉ, đi lại, tài liệu, kinh phí

127

nghiên cứu thực tế… Kinh phí cho ĐTBD giảng viên phải được thực hiện

theo Nghị định số 18/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐTBD công

chức, viên chức; Thông tư số 03 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn thực

hiện Nghị định 18; Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21/9/2010 của Bộ

Tài chính Quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân

sách nhà nước dành cho công tác ĐTBD CBCC.

Bước 6: Kiểm tra, đánh giá, sử dụng kết quả sau ĐTBD. Đây là nhiệm

vụ rất quan trọng, đó không chỉ đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý mà còn

đảm bảo tính nghiêm túc và hiệu quả của công tác ĐTBD, tránh bệnh thành

tích, hình thức, lãnh phí trong ĐTBD.

Như chúng ta đều biết quá trình ĐTBD đối với một số môn học, chẳng

hạn như văn học, sử học hay vật lý, hóa học…do đặc điểm của đối tượng

nghiên cứu mà khả năng thu hút, thuyết phục người học khá dễ dàng. Nhưng

đối với các môn thuộc các chương trình ĐTBD CBCC thì khả năng ấy là khó

hơn rất nhiều. Đây cũng là một trong những tác nhân khách quan góp phần

gây ra tình trạng người học không hứng thú với các môn học thuộc các

chương trình ĐTBD CBCC. Để giảng dạy tốt, ngoài trình độ chuyên môn,

NLTDLL phát triển, giảng viên còn cần có một năng khiếu nhất định, kết hợp

với quá trình học tập và rèn luyện lâu dài, dày công để có được một phương

pháp sư phạm đạt tới trình độ nghệ thuật. Thực trạng về phương pháp giảng

dạy của giảng viên các trường ĐTBD CBCC hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu

kém, thậm chí có giảng viên còn chưa được đào tạo về phương pháp giảng

dạy. Tất nhiên, không phải máy móc cho rằng chỉ cần được học tập về

phương pháp giảng dạy là mọi giảng viên đều có ngay phương pháp giảng

dạy tốt. Nhưng rõ ràng là, phải được học tập thì giảng viên mới có được

những kiến thức cơ bản, trên cơ sở ấy mà tu dưỡng, rèn luyện để có được một

phương pháp giảng dạy thực sự khoa học. Do vậy, trên cơ sở rà soát những

giảng viên có nhu cầu, các trường ĐTBD CBCC cần mở ngay các lớp tập

128

huấn về phương pháp giảng dạy; các cơ sở đào tạo đại học và sau đại học cần

phải đưa phương pháp giảng dạy vào khung chương trình đào tạo.

Trên cơ sở yêu cầu về khung năng lực của giảng viên các trường

ĐTBD CBCC phải có trình đội chuyên môn sâu, rộng, có kiến thức thực tiễn

phù hợp với nhiệm vụ được giao. Do đó, cần có giải pháp ĐTBD, cập nhật

những kiến thức mới, kiến thức chuyên ngành, giúp cho đội ngũ giảng viên

nâng cao nhận thức, phát triển các kỹ năng phương pháp sư phạm, tích lũy,

cập nhật, bổ sung kịp thời nâng cao chất lượng giảng dạy. Với tinh thần trách

nhiệm và danh dự nghề nghiệp của mình, mỗi giảng viên cần nhận rõ ý nghĩa,

tầm quan trọng của trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực NCKH, phương

pháp giảng dạy. Nếu giảng dạy có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương

pháp tốt, sẽ gây hứng thú cho người học và có tác động tích cực đối với bản

thân mình. Trong trạng thái hưng phấn, hoạt động thần kinh được kích thích

mạnh, năng lực tư duy được huy động tới mức tối đa, giảng viên không chỉ

dạy tốt hơn, mà nhiều khi còn xuất hiện những ý tưởng, những phát hiện mới.

Đồng thời, coi hoạt động giảng dạy là điều kiện khách quan, môi trường thuận

lợi để người giảng viên rèn luyện NLTDLL của mình, kết hợp hài hòa giữa

hoạt động giảng dạy với hoạt động NCKH là biện pháp quan trọng để nâng

cao NLTDLL.

Một điều hiển nhiên là giảng viên trường ĐTBD CBCC có tích cực

tham gia NCKH thì mới hiểu thấu đáo những nội dung khoa học của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lấy đó làm nền tảng tư tưởng và

kim chỉ nam cho hành động của mình. Trên cơ sở ấy mà quán triệt sâu sắc

mọi chủ dường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Tham gia

NCKH, giảng viên mới theo sát thực tiễn, phát hiện những vấn đề do cuộc

sống đặt ra, từ đó tìm ra phương án giải quyết hợp lý, khoa học và hiệu quả.

Như vậy, NCKH cũng chính là cụ thể hóa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận

và thực tiễn, làm tư duy giảng viên càng thêm năng động, sáng tạo và phát

129

triển không ngừng, hoạt động chuyên môn của họ ngày càng chất lượng và

hiệu quả hơn. Mặt khác, hoạt động NCKH, về thực chất là tiến hành hàng loạt

các thao tác tư duy, từ thu thập và xử lý thông tin đến quá trình so sánh, phân

tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… nhằm tìm kiếm tri thức mới.

Do đó, NCKH là cách thức cực kỳ quan trọng để trau dồi TDLL, là biện pháp

hữu hiệu nhất để không ngừng nâng cao NLTDLL cho giảng viên.

Từ những phân tích trên, ta thấy, giảng viên các trường ĐTBD CBCC

cần phải có học vấn sâu, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, năng lực thực tiễn,

NLTDLL phát triển cao và phương pháp giảng dạy tốt. Và điều quan trọng là

người giảng viên phải có phẩm chất đạo đức và nhiệt tình cách mạng, ủng hộ

và tích cực tham gia công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đó

là lòng yêu nghề, tâm huyết với công việc giảng dạy, nghiên cứu; lao động

không ngại gian khổ, khiêm tốn, thật thà, trung thực, giản dị; là sự tôn trọng,

quý mến học viên giành cho mình; là đức tính cần kiệm, liêm, chính, chí công

vô tư mà Bác Hồ đã dạy để xứng đáng là tấm gương về đạo đức, lối sống đối

với học viên. Bởi giảng dạy chính trị, đòi hỏi giữa lời nói, việc làm phải hài

hòa, phải đi đôi. Nói và làm phải đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới có

nhiều biến đổi, cùng với sự hạn chế, yếu kém nhất định trong QLNN, tình

trạng tham nhũng, lãng phí trong nước...là điều kiện cho những luận điệu

xuyên tạc chống phá Chủ nghĩa Mác-Lê nin, chống phá thành quả cách mạng

của Đảng ta. Giảng viên các trường ĐTBD CBCC phải vững vàng, kiên định

lập trường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng

học tập, tổng kết thực tiễn, phải có kiến thức đủ sức phản bác, chống lại

những luận điệu xuyên tạc, mơ hồ, hoài nghi, bảo vệ sự đúng đắn của Chủ

nghĩa Mác-Lênin. Thực tế cho thấy, nếu có trình độ học vấn uyên bác, giỏi

chuyên môn nghiệp vụ mà không có đạo đức và lương tâm nghề nghiệp,

không có ý chí và tính cảm cách mạng thì người cán bộ rất dễ sa ngã vào chủ

130

nghĩa cá nhân, cơ hội, ích kỷ, thậm chí trở thành phản bội, đi ngược lại với lợi

ích của nhân dân, chống lại sự nghiệp cách mạng XHCN.

Đi đôi với học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ

LLCT, giảng viên trường ĐTBD CBCC phải không ngững tu dưỡng, rèn

luyện đạo đức, lối sống như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, người giảng

viên cách mạng "có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi

đến mấy dạy trẻ con cũng hỏng", "phải có chính trị trước rồi có chuyên môn,

chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng... Đức

phải có tài" [55]. Tài và đức là điều kiện quyết định lên uy tín, sức mạnh của

con người, là tấm gương sáng có sức cảm hóa, giáo dục mọi người. Tài và

đức rất quan trọng đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, càng đặc biệt hơn

đối với người phương Đông như Việt Nam. Trong Thư gửi đồng chí Pê-tơ-

rốp, Tổng thư ký Đông phương bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nói

chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm

gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Mọi cử chỉ, lời

nói, hành vi, thái độ, việc làm của đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD

CBCC đều tác động trực tiếp tới chất lượng giáo dục cán bộ, học viên [53].

Do đó, giảng viên các trường ĐTBD CBCC phải tích cực phấn đấu, rèn luyện

trở thành người thực sự có cả tài và đức. Có như vậy, học mới đủ khả năng và

uy tín thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của người giảng viên cách mạng trong

thời kỳ mới.

Như vậy, từng bước chuẩn hóa đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD

CBCC theo hướng kết hợp hài hòa giữa năng lực và trình độ chuyên môn với

phẩm chất đạo đức cách mạng là hết sức quan trọng và cấp bách. Để điều này

thực sự là một giải pháp cơ bản nhằm nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng

viên, ngoài việc định hướng tư tưởng và nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học

tập và rèn luyện mọi mặt của mỗi giảng viên, cần có sự quan tâm thiết thực

của cơ quan quản lý, sử dụng giảng viên.

131

4.1.2.2. Đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là bộ phận không thể thiếu và hết sức

quan trọng đối với các cơ sở ĐTBD. Do vậy, xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh

giảng phải luôn được coi trọng và quan tâm từ chủ trương cho đến chính sách

của các cơ sở ĐTBD. Quyết định số 1374 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ:

"Xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là giải pháp quan trọng để nâng cao

chất lượng ĐTBD" [88]. Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng gồm công chức lãnh

đạo quản lý, CCVC chuyên môn từ chuyên viên chính trở lên của bộ, ngành, địa

phương có trình độ chuyên môn sâu, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú; giảng

viên có kiến thức, năng lực và học hàm, học vị cao của các cơ sở đào tạo thuộc

hệ thống giáo dục quốc dân và các cơ sở ĐTBD có uy tín. Họ có những thế

mạnh về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, nắm vững và cập nhập các chủ

trương, chính sách, chế độ hiện hành của Đảng và Nhà nước, nhiệt tình trách

nhiệm trong việc tham gia ĐTBD CCVC. Do vậy đội ngũ này sẽ giúp cho các

trường bổ sung về số lượng, cân đối về cơ cấu, nâng cao chất lượng giảng viên

nói chung và nhất là đảm nhiệm ĐTBD theo vị trí việc làm hiện nay. Song

không phải tất cả đội ngũ này đều được đào tạo qua các chuyên ngành sư phạm,

nên có hạn chế nhất định khi giảng dạy trên lớp, đặc biệt là khi ứng dụng các

phương pháp giảng dạy tích cực. Mặt khác, do đặc thù của đội ngũ giảng viên

thỉnh giảng phần nhiều là lãnh đạo của các cơ quan đơn vị nên thường bận nhiều

việc đột xuất, có thể ảnh hưởng đến kế hoạch giảng dạy của các trường rơi vào

thể bị động khi giảng lịch bị thay đổi đột xuất không theo kế hoạch.

Vì vậy để xây dựng được đội ngũ giảng viên thỉnh giảng có chất lượng,

các cơ sở ĐTBD cần phải coi trọng yếu tố chất lượng, nắm chắc được chuyên

môn của họ thông qua lý lịch khoa học, hiểu được thế mạnh và sở trường của

từng người, trên cơ sở nhu cầu thực tế của cơ sở để thu hút họ đồng thời phải

có chính sách phù hợp, thông thoáng để họ yên tâm làm việc, tạo điều kiện

cho họ phát huy năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn vào hoạt

động ĐTBD cả về xây dựng chương trình, tài liệu, NCKH, bồi dưỡng giảng

132

viên và tham gia giảng dạy. Giảng viên thỉnh giảng của các cơ sở ĐTBD chủ

yếu là những nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo, những chuyên gia trong

các lĩnh vực hoạt động, họ vừa có nghiệp vụ chuyên sâu, vừa có kinh nghiệm

thực tiễn, do vậy khai thác chất xám cả về lý luận và năng lực thực tế của họ

là hết sức quan trọng và hiệu quả cho việc xây dựng đội ngũ giảng viên nói

chung và nâng cao kiến thức, kinh nghiệm thực tế cho giảng viên nói riêng.

Chính vì vậy xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đủ mạnh là giải pháp

mang tầm chiến lược không chỉ cho mục tiêu phát triển đội ngũ giảng viên mà

còn góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD.

Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng với thế mạnh của mình có thể tham gia

vào việc xây dựng chương trình, tài liệu ĐTBD, tham gia giảng dạy, NCKH

và bồi dưỡng cho giảng viên. Những kỹ năng tác nghiệp, những kinh nghiệm

thành bại, những tình huống thường gặp và phương pháp ứng xử cùng với

những trải nghiệm từ cuộc sống thực tiễn là những thứ mà giảng viên thỉnh

giảng có nhưng lại là những thứ mà đội ngũ giảng viên cơ hữu đang cần và

đang thiếu, vì vậy sự bổ sung cho nhau là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cần

phải có chính sách sử dụng phù hợp để đội ngũ giảng viên thỉnh giảng gắn kết

với cơ sở các ĐTBD, hòa mình vào mọi hoạt động và tích cực chia sẻ kinh

nghiệm góp phần nâng cao năng lực thực tiễn. Các trường ĐTBD CBCC cần

có giải pháp phối hợp với trường Đại học sư phạm mở các lớp tập huấn hoặc

các buổi hội thảo khoa học về phương pháp giảng dạy cho đội ngũ CBCC,

viên chức mời đội ngũ giảng viên thỉnh giảng tham gia, nhằm mục đích nâng

cao chất lượng giảng viên thỉnh giảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.

4.2. NHÓM GIẢI PHÁP TẠO MÔI TRƯỜNG ĐÒI HỎI GIẢNG VIÊN PHẢI

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

4.2.1. Giải pháp về chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên

Trước đòi hỏi của thực tiễn đổi mới đất nước cũng như yêu cầu đổi mới

công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế,

133

chính sách là một giải pháp không thể thiếu để góp phần nâng cao NLTDLL

cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Về lý luận cũng như trên

thực tế, cơ chế quản lý và chính sách cán bộ như thế nào thì sẽ trực tiếp tạo ra

những mẫu người cán bộ như thế. Với cơ chế quản lý hành chính tập trung,

quan liêu bao cấp sẽ không thể có cơ sở hiện thực để hình thành nên những

cán bộ hăng say học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết,

năng lực tư duy của mình. Cho nên, trong xu hướng hiện nay, chúng ta cần

tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ

theo hướng khuyến khích mọi người thường xuyên phấn đấu, học tập và rèn

luyện để không ngừng nâng cao trình độ. Nếu như thiếu sự quan tâm chung

của cộng đồng, xã hội thì năng lực tư duy, trình độ nhận thức của các thành

viên trong xã hội nói chung và đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC

nói riêng khó mà phát triển được, và như thế tức là trình độ lý luận cũng như

NLTDLL cũng không thể nâng lên được. Chính sách đãi ngộ có tầm ảnh

hưởng quan trọng đặc biệt đối với việc xây dựng đội ngũ giảng viên các

trường ĐTBD CBCC. Đó là đòn bẩy, là động lực trực tiếp đối với việc nâng

cao NLTDLL cho đội ngũ cán bộ này. Chúng ta có thể khẳng định rằng,

những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao NLTDLL có đưa lại

hiệu quả hay không và mức độ đến đâu, tùy thuộc rất nhiều vào chế độ đãi

ngộ của Đảng, Nhà nước và trực tiếp các trường đối với họ.

Đảng, Nhà nước và các trường cần có sự quan tâm hơn nữa về lợi ích

vật chất và tinh thần của giảng viên. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện trong

chế độ tiền lương, phụ cấp nghề nghiệp, hình thức khen thưởng… có như vậy

mới tạo ra sự thống nhất hài hòa giữa các yếu tố: say mê lý tưởng, say mê

nghề nghiệp, đảm bảo lợi ích cho mỗi giảng viên, để động viên, khuyến khích

họ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Theo quy

định, chế độ chính sách của giảng viên bao gồm tiền lương và các khoản phụ

cấp giảng viên, lương tăng thêm hàng tháng theo Nghị định số: 43/2006/NĐ-

134

CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ (quy định quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với

đơn vị sự nghiệp công lập), tiền vượt giờ, các khoản hỗ trợ khác… chế độ nghỉ

hè, phép, thăm quan nghỉ mát, nghỉ ốm, chế độ ĐTBD trong và ngoài nước, quy

hoạch, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật… Nghị định số 16/2015/NĐ-CP qui định

cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Chế độ, chính sách hợp lý tạo

động lực cho đội ngũ giảng viên phát triển bao gồm việc đảm bảo cho giảng

viên có cuộc sống vật chất, tinh thần phù hợp, có môi trường văn hóa lành

mạnh… ở đó giảng viên được cống hiến và phát huy năng lực, khả năng của

mình một cách cao nhất.

Trên cơ sở các điều kiện, cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính của đơn vị,

dựa trên các văn bản hướng dẫn các trường đã đưa ra các quy định nội bộ

nhằm động viên khuyến khích cán bộ, giảng viên tích cực học tập, nâng cao

trình độ để góp phân nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Ngoài những

chế độ chính sách chung của Nhà nước, các cơ sở ĐTBD cần có qui định

thêm về chế độ, chính sách nhằm khuyến khích đội ngũ giảng viên nâng cao

trình độ chuyên môn, trình độ tư duy lý luận, yêu nghề như:

- Quy định về tiêu chuẩn đối với cán bộ, giảng viên.

- Quy định về việc quản lý cán bộ, giảng viên trong giờ làm việc.

- Quy định về việc hỗ trợ vật chất cho cán bộ, giảng viên đi học bồi

dưỡng, sau đại học.

Đây là những quy định hết sức cần thiết và kịp thời để cho tất cả giảng

viên nói riêng và tập thể cán bộ, giảng viên cùng nhìn nhận, tự đánh giá bản

thân và từ đó đưa ra kế hoạch tự nâng cao trình độ cho bản thân cá nhân mình.

Trong các quy định này cũng đã làm rõ hơn về các điều kiện đãi ngộ về

cơ sở vật chất đối với từng đối tượng. Chính những nội dung vừa mang tính

bắt buộc vừa mang tính công khai đã tạo không khí thoải mái, yên tâm về tư

tưởng cho đội ngũ giảng viên có nhu cầu đi học. Các quy định về công tác

135

quản lý mới đối với cán bộ, giảng viên đã phần nào tạo cơ chế thoáng cho họ.

Giảng viên không còn bị quản lý theo cơ chế hành chính mà quản lý theo chất

lượng giờ giảng, hiệu quả trong công việc. Đối với đội ngũ giảng viên cũng

rất quan tâm đến cơ chế phân phối thu nhập hợp lý, công bằng, minh bạch, kết

hợp với những chính sách đãi ngộ, tôn vinh khác để họ không ngừng nâng cao

trình độ và tâm huyết giảng dạy, sáng tạo ra những sản phẩm tri thức hữu

dụng. Qua khảo sát số liệu thực tiễn cho thấy kết quả giảng viên rất thoải mái

tinh thần khi biết công khai, rõ ràng các chế độ, chính sách như: Tiền học phí,

tiền tài liệu, tiền sinh hoạt phí với từng đối tượng... cho nên đã tích cực tham

gia đăng ký đi thi và học sau đại học. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nhà

trường vẫn tiếp tục kiểm tra, đánh giá các văn bản để tiếp tục hoàn hiện, đồng

thời ban hành các văn bản mới nhất là với đội ngũ giảng viên.

Trong điều kiện hiện nay chất lượng đội ngũ giảng viên còn nhiều bất

cập, các trường ĐTBD CBCC cần chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách thu

hút, trọng dụng giảng viên tài năng từ nhiều nguồn khác nhau; Kết nối tạo

dựng quan hệ hợp tác và có chế độ chính sách đặc biệt với những giảng viên

giữ những cương vị lãnh đạo, quản lý, chuyên gia đầu ngành, các nhà chuyên

môn giỏi chuyển công tác về hoặc cộng tác lâu dài với các trường ĐTBD. Để

làm được điều đó, trước hết, các trường ĐTBDCBCC phải đảm bảo lương và

mọi chế độ khác theo quy định cho giảng viên.

Thứ nhất, đẩy mạnh xây dựng chương trình, tài liệu, tham gia các đề

án, dự án và tổ chức các hoạt động ĐTBD phù hợp với các chức năng, nhiệm

vụ của các trường và chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giảng viên nhằm tạo

công ăn việc làm, để tăng nguồn thu sự nghiệp đảm bảo lương tăng thêm hàng

tháng và các chế độ phúc lợi khác;

Thứ hai, thực hiện cơ chế hỗ trợ giảng dạy trên cơ sở chất lượng giờ

giảng và học hàm, học vị; quan tâm đến cơ sở vật chất, đảm bảo các điều

kiện, phương tiện làm việc, giảng dạy, NCKH cho giảng viên. Bên cạnh đó,

136

các trường phải quan tâm, chăm lo đến đời sống tinh thần xây dựng môi

trường giáo dục lành mạnh, xây dựng văn hóa nhà trường;

Thứ ba, nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, tri thức ngoài chuyên ngành cho giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Hầu hết các giảng viên chủ yếu mới có các kiến thức chuyên ngành, còn thiếu những kiến thức cơ bản của các ngành khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên. Vì vậy, phải có kế hoạch ĐTBD nâng cao những tri thức khoa học ngoài chuyên ngành cho giảng viên. Các đợt tập huấn, các khóa học ngắn ngày, các lớp bồi dưỡng… là cơ hội tốt trong nâng cao tổng thể tri thức, nhận thức cho giảng viên các trường ĐTBD CBCC.

Thứ tư, cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tăng cường các phương tiện vui chơi giải trí, các điều kiện sinh hoạt văn hóa, văn nghệ - thể dục thể thao cho cán bộ, giảng viên nhà trường;

Thứ năm, duy trì thường xuyên các sinh hoạt lành mạnh nhằm xây dựng môi trường giáo dục, phòng chống các tệ nạn xã hội trong nhà trường;

Thứ sáu, quan tâm đến đời sống cá nhân của từng thành viên trong nhà trường, làm cho mọi người biết chia sẻ với nhau những vui buồn, khó khăn thuận lợi cả trong công việc chuyên môn và sinh hoạt gia đình;

Thứ bảy, xây dựng và giữ gìn cho nhà trường đạt các chuẩn mực của một cơ quan văn hóa, một môi trường giáo dục lành mạnh;

Thứ tám, có chính sách thu hút nhân tài thông qua chính sách ưu đãi đối với giảng viên, trong bổ nhiệm và trong ĐTBD. Thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ các hoạt động của nhà trường, kịp thời thông tin đến giảng viên tình hình chính trị trong và ngoài nước, thực tế nhà trường để giảng viên hiểu rõ thực trạng những khó khăn, thuận lợi của nhà trường, tạo sự đồng thuận trong toàn trường để triển khai thực hiện công tác phát triển giảng viên và phát triển nhà trường;

Thứ chín, duy trì và thực hiện tốt các phong trào thi đua trong nhà

trường, nhất là phong trào thi đua "dạy tốt - học tốt", khắc phục bệnh thành

137

tích trong ĐTBD. Thông qua chế độ sơ, tổng kết, các ngày lễ lớn trong năm

để kịp thời biểu dương, khen thưởng những điển hình tiên tiến, những giảng

viên có thành tích cao trong giảng dạy và NCKH. Quan tâm đến đời sống cá

nhân của từng thành viên trong nhà trường. Có chính sách thu hút nhân tài từ

nơi khác đến thông qua chính sách ưu đãi giảng viên trong bổ nhiệm cán bộ,

ĐTBD, trong phát triển Đảng.

Như vậy, trước những đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong giai đoạn

hiện nay, cũng như yêu cầu cải cách công tác giáo dục và đào tạo, chúng ta

cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý và chế độ, chính

sách đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD. Điều quan trọng là phải có hệ

thống chính sách cụ thể, được thể chế hóa về mặt Nhà nước để tạo điều kiện

cho những biện pháp cụ thể trên được thực thi trên thực tế. Làm được như

vậy, chúng ta mới xây dựng được một đội ngũ giảng viên vừa có năng lực,

trình độ chuyên môn, vừa có phẩm chất, đạo đức cách mạng, để có thể đáp

ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác ĐTBD.

4.2.2. Giải pháp về đảm bảo điều kiện vật chất, trang thiết bị công

sở cho đội ngũ giảng viên

Việc trang bị các điều kiện vật chất, trang thiết bị cho các Trường

ĐTBD CBCC cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Một là, phải thích hợp

với từng loại công việc: điều này đảm bảo các phương tiện được trang bị sẽ

giúp cho việc thực hiện các công việc được tiến hành thuận lợi và có hiệu quả

cao hơn. Hai là, tiết kiệm các phương tiện được trang bị thích hợp với yêu

cầu sử dụng, chú trọng đến hiệu suất sử dụng, tránh xu hướng phô trương,

lãng phí. Ba là, phải góp phần tạo ra môi trường văn hóa cho cơ quan, trang

thiết bị phải đảm bảo các yêu cầu về tính thẩm mỹ, phù hợp với tính chất công

việc, giúp giảng viên cảm thấy thoải mái khi làm việc. Bốn là, không ngừng

đổi mới và hiện đại hóa để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của công cuộc cải

cách hành chính và sự phát triển của xã hội.

138

Muốn thực hiện tốt các yêu cầu trên cần phải xem xét các điều kiện cụ

thể của cơ quan. Việc trang bị cần phải dựa trên các văn bản quy định của nhà

nước và nhu cầu thực tế của công việc, trang thiết bị hiện có của cơ quan,

năng lực sử dụng của cán bộ giảng viên và khả năng tài chính của đơn vị.

Ngoài ra, việc bố trí phương thức sử dụng trang thiết bị công sở cũng ảnh

hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng các thiết bị đó. Một điều quan trọng trong

quá trình sử dụng các phương tiện, thiết bị là phải có cơ chế kiểm soát việc sử

dụng, kiểm tra tình trạng thiết bị và đánh giá hiệu quả hoạt động. Từ đó người

lãnh đạo có những quyết định để đảm bảo có đầy đủ phương tiện phục vụ

công việc cũng như sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm chi phí duy trì hoạt động

của các trang thiết bị đó.

Môi trường là nơi diễn ra các hoạt động của con người. Sự tương quan

rất chặt chẽ giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội được phản ánh

trong quá trình hoạt động của con người. Con người có thể chủ động tích cực,

tự giác, tận dụng các yếu tố thuận lợi của môi trường; mặt khác khắc phục yếu

tố không thuận lợi để quá trình hoạt động thực tiễn của mình có hiệu quả. Chủ

nghĩa Mác - Lênin khẳng định, con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đến

lượt mình con người có thể cải tạo hoàn cảnh. Theo nghĩa này, hoạt động của

giảng viên không tách rời ảnh hưởng của môi trường xã hội, mà ngược lại,

hoạt động của đội ngũ giảng viên còn tác động trở lại nhằm cải tạo môi

trường xã hội. Do vậy, môi trường sống và hoạt động thuận lợi sẽ tạo ra

những điều kiện tốt nhất cho giảng viên giảng dạy, NCKH. Sự tác động qua

lại giữa môi trường với hoạt động của giảng viên là tất yếu, khách quan, phản

ánh sự ràng buộc, chi phối lẫn nhau. Bất cứ sự thay đổi nào của bộ phận này

cũng ảnh hưởng tới bộ phận kia. Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều, cả

tạo thuận lợi và gây ra khó khăn. Môi trường xã hội hoạt động thực tiễn của

đơn vị cơ sở có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi hay khó khăn trong phát

triển NLTDLL của giảng viên, cũng như quy định mục đích, phương thức và

139

hiệu quả của hoạt động đó. Vì vậy, để nâng cao NLTDLL của giảng viên thì

người giảng viên đó cần biết tận dụng những ưu thế thực tiễn cơ sở cũng như

khắc phục những hạn chế có thể có để ngày càng đem lại tính hiệu quả cao

của quá trình phát triển NLTDLL được thể hiện ở việc hoàn thành vai trò,

nhiệm vụ của mình. Sự tác động của môi trường tới phẩm chất, năng lực của

giảng viên các trường ĐTBD CBCC diễn ra theo hai xu hướng thuận và

nghịch. Môi trường đơn vị khoa của giảng viên và nhà trường tích cực, lành

mạnh sẽ thúc đẩy phẩm chất nhân cách giảng viên ngày càng hoàn thiện. Đến

lượt mình, sự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách người giảng viên có tác dụng

cải tạo lại môi trường, làm lành mạnh, trong sạch môi trường đó hơn, cứ như

vậy sẽ tạo điều kiện cho các trường ĐTBD CBCC và giảng viên ngày càng

phát triển vững mạnh. Ngược lại, môi trường không tốt, vẩn đục sẽ triệt tiêu

tính tích cực, cố gắng học tập, rèn luyện và hoàn thành tốt nhiệm vụ của giảng

viên; làm nảy nở và lây lan những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất ở

cán bộ, đảng viên, giảng viên trong các trường ĐTBD CBCC. Vì vậy, nâng

cao NLTDLL cho giảng viên trường ĐTBD CBCC phải gắn chặt với xây

dựng môi trường sư phạm tốt và thường xuyên, kiên quyết đấu tranh loại bỏ

những yếu tố tiêu cực không khí ở khoa giảng viên và nhà trường.

Môi trường của giảng viên các trường ĐTBD CBCC vững mạnh bao

gồm tổng hợp nhiều lĩnh vực được biểu hiện tập trung ở sự nhận thức sâu sắc

và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, là sự phối hợp nhịp

nhàng, có hiệu quả giữa các khoa, phòng, các bộ phận trong thực hiện nhiệm

vụ trọng tâm của nhà trường; mọi hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa, mất dân

chủ bị phê phán, tẩy chay, ngăn chặn và đi đến loại bỏ; khuyến khích và tạo

điều kiện để mọi người phát huy hết khả năng công tác; là nơi giáo dục, rèn

luyện, nuôi dưỡng và phát triển tài năng của mỗi người. Môi trường tốt để cho

giảng viên phát triển về năng lực chuyên môn, đặc biệt năng lực duy lý luận

khi cả tập thể nhà trường là một tổ chức chiến đấu, các hiện tượng tiêu cực bị

140

lên án và từng bước loại trừ, có bầu không khí tranh luận dân chủ, được tự do

bày tỏ quan điểm, kể cả những điều trái quan điểm chính thống trên các diễn

đàn khoa học mà không sợ "quy kết" chính trị, miễn là nói đúng chỗ, đúng

lúc, đúng đối tượng, có dẫn chứng và lập luận chặt chẽ; là nơi tôn trọng và

khuyến khích giảng viên phát triển, không dung nạp thái độ bàng quan, vô

trách nhiệm, "kê kích" những người tích cực. Đây là tranh luận khoa học, qua

đó phân tích, tìm tòi, khám phá những vấn đề mới và đúng đắn, khắc phục

những thiếu sót, sai lầm.

Những năm qua, các trường ĐTBD CBCC đã tạo môi trường xây dựng

giá trị văn hóa nhà trường và xác định đây là một trong những yếu tố quan

trọng để bồi dưỡng, giáo dục, phát triển giảng viên, giúp họ hoàn thành nhiệm

vụ, tham gia đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm sai trái. Nét nổi bật

là phong trào thi đua "dạy tốt - học tốt", xây dựng môi trường văn hóa mới,

xây dựng văn hóa công sở, xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh,

toàn diện… đã cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần

cho giảng viên, tạo nhiều chuyển biến tích cực cho học tập, rèn luyện nâng

cao trình độ mọi mặt, nâng cao NLTDLL của giảng viên. Tuy nhiên, môi

trường này còn nhiều yếu tố ảnh hưởng không tốt tới quá trình giáo dục - đào

tạo, nâng cao năng lực của giảng viên. Chất lượng giáo dục nâng cao nhận

thức tư tưởng, ý thức trách nhiệm cho các đối tượng ở nhà trường còn nhiều

nội dung chưa sâu sắc, toàn diện. Công tác tư tưởng để đẩy lùi các hiện tượng

gian lận trong thi, kiểm tra chưa tích cực, chậm khắc phục tình trạng trung

bình chủ nghĩa, còn không ít giảng viên và học viên thiếu động cơ đúng đắn

trong dạy và học. Một số nội dung phong trào thi đua chưa đạt đến độ sâu cần

thiết, tạo ra những bước chuyển căn bản ở tất cả các khoa, phòng trong các

trường. Việc chỉ đạo công tác đảng của các trường đôi lúc còn chưa tốt, chưa

thật nhạy bén trước những vấn đề mới nảy sinh, còn thiếu những biện pháp

hiệu quả để chuyển biến cơ bản bên trong các lực lượng, đặc biệt là với giảng

141

viên và học viên. Bản lĩnh chính trị ở một số giảng viên còn chưa thật vững

vàng, kiên định, còn một số người có biểu hiện lối sống cơ hội, thực dụng, vi

phạm kỷ luật. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy đảng

chưa cao, còn có biểu hiện thiếu đoàn kết, mất dân chủ… Tất cả tình hình trên

đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả nâng cao NLTDLL cho giảng viên

trường ĐTBD CBCC. Các yếu tố môi trường xã hội trực tiếp tác động đối với

quá trình phát triển và nâng cao NLTDLL có vai trò không ngang bằng nhau.

Vấn đề đặt ra cho sự lựa chọn giải pháp hợp lý là phát hiện ra các yếu tố cơ

bản trong các yếu tố tác động tới NLTDLL để có thái độ ứng xử đúng đắn.

Trong hàng loạt các yếu tố tác động trực tiếp của môi trường, cần chú ý tới

một số yếu tố sau:

Trước hết là tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và ban

giám hiệu các trường ĐTBD CBCC đối với việc nâng cao NLTDLL cho giảng

viên. Đây là nhân tố quyết định sự thắng lợi các nhiệm vụ chính trị. Nâng cao

năng lực TDLL cho giảng viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường

xuyên góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giảng dạy và NCKH

của nhà trường. Đây là một trong những nội dung lãnh đạo của các cấp ủy đảng,

từ đảng ủy nhà trường cho tới các chi ủy, chi bộ các đơn vị, khoa giảng viên. Sự

chỉ đạo của các cấp ủy đảng này sẽ vạch ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động

của giảng viên, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng cho việc hoàn

thành nhiệm vụ chuyên môn và nâng cao NLTDLL của giảng viên.

Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và Ban giám

hiệu các trường ĐTBD CBCC đối với việc nâng cao NLTDLL cho giảng

viên, mỗi thành viên và tổ chức cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, tạo sự thống nhất trong nhận

thức và hành động. Sự thống nhất đó tạo ra những điểm đột phá, có ý nghĩa

quan trọng làm chuyển biến mọi tổ chức và cá nhân thành viên trong trường,

tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường.

142

Thực tiễn những trường ĐTBD CBCC có nhiều thành tích giáo dục - đào tạo,

NCKH và nâng cao NLTDLL của giảng viên cho thấy có sự thống nhất về

nhận thức và chỉ đạo tập trung của cấp ủy đảng về các hoạt động này. Đưa nội

dung NLTDLL cho giảng viên vào trong các nghị quyết, chương trình, kế

hoạch của các cấp ủy đảng nhà trường coi đó là một trong những nhiệm vụ

quan trọng cần thực hiện đầy đủ. Các nghị quyết này cần được bàn bạc dân

chủ, được quán triệt và triển khai tới giảng viên các khoa, phòng, tổ bộ môn.

NLTDLL của giảng viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phẩm chất, năng lực

của giảng viên, vào nhận thức tư tưởng, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận

chính trị, điều kiện sinh hoạt vật chất… Vì vậy, công tác lãnh đạo phải rất

toàn diện, bao quát và cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, nhịp nhàng của hệ

thống, cũng như từng bộ phận của nhà trường. Để cho nghị quyết trở thành

hiện thực, các cấp ủy đảng, ban giám hiệu nhà trường phải thường xuyên

kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, lệch

lạc và phát huy những thành tích đã đạt được, gắn việc nâng cao trình độ

TDLL với việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Xây dựng tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của trường trong thực

hiện nhiệm vụ chính trị. Từ đó, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng

viên theo yêu cầu vững vàng về chính trị, tiên phong về trí tuệ, trong sáng về

đạo đức và lối sống, chặt chẽ về nguyên tắc, củng cố nguyên tắc tập trung dân

chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách và giữ vững đoàn kết, thống nhất

trong nhà trường. Đổi mới sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng, liên hệ chặt chẽ với

quần chúng, sinh hoạt phải phong phú về nội dung, không cứng nhắc về tổ

chức, thật sự sống động, bổ ích; chủ động nâng cao chất lượng đảng viên. Mọi

biểu hiện sơ cứng, công thức dẫn đến nghèo nàn về nội dung và hình thức cần

được khắc phục trong sinh hoạt đảng ở đơn vị cơ sở.

Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, người giảng viên các

trường ĐTBD CBCC không có tri thức toàn diện, lập trường vững vàng và có

143

định hướng của Đảng thì rất dễ xảy ra tình trạng nhiễu thông tin hoặc lẫn lộn

phải trái, trắng đen trong các thông tin. Hiện nay, công tác thu thập, xử lý

thông tin ở các trường ĐTBD CBCC đã có nhiều cố gắng, tiến bộ, song vẫn

còn chưa thật hiệu quả. Để làm tốt vấn đề này cần, các trường ĐTBD CBCC:

Phải có những điều kiện đặc biệt, có chế độ quản lý nghiêm ngặt nhưng phải

đảm bảo đầy đủ, đúng đắn và kịp thời; các thông tin đó cần được phổ biến

rộng rãi, kịp thời và đầy đủ cho cán bộ, giảng viên theo quy định. Giảng viên

phải là một trong những đối tượng được ưu tiên đặc biệt tiếp xúc với các

thông tin phản diện, đầy đủ, hệ thống, phong phú, kịp thời với thủ tục tiện lợi;

các thông tin đúng, đủ, kịp thời cung cấp cơ sở dữ liệu cho giảng viên các

Trường ĐTBD CBCC xem xét, đánh giá, kết luận, chỉ đạo hoạt động thực

tiễn. Thiếu thông tin hoặc thông tin lệch lạc, không định hướng dễ làm cho

việc đánh giá, chỉ đạo hoạt động sai, gây ảnh hưởng xấu tới kết quả giáo dục,

đào tạo, tới nâng cao NLTDLL. Tuy nhiên, giảng viên các trường ĐTBD

CBCC đã quen với cách tiếp cận thông tin, đọc sách, báo qua mạng internet,

có rất nhiều thông tin trên mạng internet ở những trang Web (kể cả chính thức

và không chính thức) thiếu tính chính xác, tính khoa học, tính đảng, gây nhiễu

loạn thông tin cho người tiếp cận. Giải pháp cho việc này là:

Thứ nhất, trường ĐTBD CBCC cần cung cấp cho các khoa giảng viên

ở Trường thêm nhiều chủng loại sách báo, tạp chí chuyên ngành; Tăng cường

đầu tư sách báo cho thư viện của trường, tạo điều kiện tốt nhất để thu hút,

phục vụ giảng viên;

Thứ hai, trường ĐTBD CBCC thường xuyên tổ chức các buổi tổng kết

thông tin tư liệu cho cán bộ, giảng viên và học viên; nên lấy ý kiến từ phía

giảng viên để sưu tầm, mua sắm tài liệu, sách báo thiết thực phục vụ đắc lực

cho giảng dạy, NCKH, nâng cao trình độ TDLL.

Thứ ba, tăng cường giao lưu, liên kết với các viện nghiên cứu, các nhà

trường, các trung tâm để trao đổi thông tin tư liệu; hướng NCKH vào giải

144

quyết những vấn đề lý luận - thực tiễn cơ bản, cấp bách; thành lập thư viện

điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào thư viện để dễ dàng quản

lý, khai thác và sử dụng; qua đó mở mang tri thức, bồi dưỡng giảng viên, làm

cơ sở để nâng cao NLTDLL cho giảng viên trường ĐTBD CBCC.

4.2.3. Môi trường dân chủ trong đội ngũ giảng viên ở các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Không khí dân chủ, tinh thần đoàn kết, kỷ luật của tập thể cán bộ,

giảng viên nhà trường là điều kiện tốt nhất để phát huy khả năng hiện thực

nâng cao NLTDLL cho giảng viên trong quá trình tác nghiệp. Để hoàn thành

nhiệm vụ chuyên môn và các nhiệm vụ khác, giảng viên phải tuyệt đối trung

thành mọi nội quy, quy chế của nhà trường, của khoa, phòng. Không khí dân

chủ, tinh thần kỷ luật tạo nên sức mạnh bền vững trong thực hiện nhiệm vụ

chính trị của giảng viên. Ý nghĩa của xây dựng không khí dân chủ, tinh thần

kỷ luật là tạo điều kiện tốt nhất cho giảng viên xây dựng mối quan hệ giữa

đồng chí, đồng nghiệp, giữa lãnh đạo và nhân viên, giữa giảng viên và học

viên một cách tốt đẹp. Chính ở môi trường dân chủ, kỷ luật đó nhân tố con

người được phát huy một cách tích cực và chủ động hơn; mối quan hệ giữa cá

nhân và tổ chức, giữa cá nhân và tập thể được giải quyết hài hòa hơn. Trong

điều kiện đó, con người nói chung, giảng viên các trường ĐTBD CBCC nói

riêng có điều kiện thể hiện và khẳng định được những phẩm chất, năng lực

của mình. Tính công khai, các quy chế dân chủ ở nhà trường tạo điều kiện cho

xây dựng tình đoàn kết, sự tin tưởng và sự quan tâm đến nhau. NLTDLL của

người giảng viên xét về cấu trúc thì nó gắn liền với đặc điểm cá nhân, được

trải nghiệm với hoạt động thực tiễn và gắn với vị trí, vai trò của mình trong

thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Những đặc điểm cá nhân đó được phát triển,

nuôi dưỡng tốt nhất trong môi trường tập thể có dân chủ, công bằng, công

minh, quan tâm đến con người và liên kết con người bởi hệ thống chuẩn mực

giá trị tích cực và tiến bộ. Vì vậy, xây dựng được không khí dân chủ thực sự,

145

tinh thần đoàn kết, kỷ luật trong nhà trường là mảnh đất ươm mầm tư duy và

TDLL một cách tích cực và hiệu quả nhất.

Phải nói rằng hơn lúc nào hết, yêu cầu về dân chủ và công bằng xã hội

trong khuôn khổ được pháp luật bảo đảm, được mọi người chấp nhận đang là

vấn đề cấp bách. Nó thực sự là động lực mạnh mẽ kích thích tính tích cực và

năng lực sáng tạo của con ngời, đặc biệt là với các hoạt động sáng tạo và đòi

hỏi trình độ trí tuệ cao như giảng viên của trường ĐTBD CBCC. Vì vậy, cần

mở rộng dân chủ không chỉ trong của trường ĐTBD CBCC mà trong cả các

lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa giảng viên các trường

đào tạo CBCC với môi trường dân chủ, kỷ luật thể hiện trên hai phương diện:

Với tư cách là cá nhân, mỗi giảng viên được làm việc trong bầu không

khí dân chủ, tinh thần kỷ luật của nhà trường hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển

hệ thống phẩm chất, năng lực, trong đó có NLTDLL.

Với tư cách là giảng viên, người giảng viên góp phần đặc biệt quan

trọng trong xây dựng không khí dân chủ, tinh thần kỷ luật ở khoa, phòng,

trường mình công tác và lớp học giảng viên đó giảng dạy.

Để nâng cao hơn nữa vai trò của không khí dân chủ, tinh thần đoàn két,

kỷ luật trong nhà trường qua đó nâng cao NLTDLL của giảng viên các trường

ĐTBD CBCC cần thực hiện một số vấn đề sau:

- Giáo dục tinh thần đoàn kết, kỷ luật và kiến thức về dân chủ trong

toàn thể nhà trường một cách thường xuyên và sâu sắc. Đó vừa là trách nhiệm

vừa là nghĩa vụ đối với mỗi giảng viên.

- Phát huy dân chủ, đề cao kỷ luật phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ với

thực tế hoạt động nhiệm vụ của người giảng viên. Dân chủ, đoàn kết và kỷ

luật phải trở thành một thể thống nhất và góp phần tích cực, trực tiếp xây

dựng con người, xây dựng nhà trường. Đây là bài học của thực tế cần được

vận dụng, tổng hợp, khái quát, phân tích sâu sắc để làm tốt hơn trên thực tế,

thúc đẩy vai trò dân chủ, kỷ luật, tạo thành sức mạnh đoàn kết toàn trường.

146

- Là lực lượng nòng cốt của các trường ĐTBD CBCC, mỗi giảng viên

luôn phải ý thức đến việc chăm lo lợi ích, đời sống vật chất, tinh thần của cán

bộ, giảng viên và học viên, giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong trường.

Vấn đề sâu xa của việc xây dựng, rèn luyện tinh thần dân chủ, kỷ luật và đoàn

kết trong nhà trường, cũng như mục đích chính của việc nâng cao NLTDLL

cho giảng viên các trường ĐTBD CBCC là đem lại những lợi ích vật chất và

tinh thần cho mỗi giảng viên, cán bộ và học viên nhà trường. 4.3. NHÓM GIẢI PHÁP KHUYẾN KHÍCH GIẢNG VIÊN TỰ NÂNG CAO

NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

4.3.1. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc

khuyến khích giảng viên tự nâng cao năng lực tư duy lý luận

Đây là giải pháp quan trọng có yếu tố quyết định tới việc nâng cao

năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC, vì đây là giải

pháp tạo ra cơ sở, điều kiện khách quan thuận lợi cho giảng viên chủ động,

tích cực, tự giác để nâng cao NLTDLL của bản thân

Thứ nhất, Đảng ủy, tập thể Ban giám hiệu cần tiếp tục nâng cao năng

lực lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất thực hiện nhiệm vụ chính trị của

Trường, tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng

giảng dạy, NCKH, chất lượng đội ngũ giảng viên và NLTDLL của giảng viên

trong Trường theo đúng yêu cầu, định hướng và mục tiêu, phương hướng, nội

dung đã đề ra.

Thứ hai, các cơ quan chức năng trong trường ĐTBD CBCC làm tốt

công tác tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám hiệu về công tác chuyên môn;

chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch đã được phê duyệt. Tuyển

dụng, bố trí sắp xếp và luân phiên nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất, trang

thiết bị cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên tích cực tham gia hoạt

động thực tiễn. Xây dựng kế hoạch ĐTBC giảng viên, NCKH, hội thảo, hoạt

động ngoại khóa đảm bảo tính khoa học, thiết thực hiệu quả.

147

Thứ ba, các tổ chức đoàn thể, hoạt động theo đúng chức năng nhiệm

vụ, tăng cường vai trò, trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động, tập hợp, lôi

cuốn các lực lượng tham gia và tổ chức phong trào thi đua, phong trào dạy tốt,

học tốt hướng tới các hoạt động nâng cao năng lực, kỹ năng, NCKH của giảng

viên. Có kế hoạch, chương trình hành động thiết thực hiệu quả để phát huy

dân chủ, tinh thần sáng tạo của giảng viên trong Trường.

Thứ tư, các khoa, phòng, trung tâm là đơn vị trực tiếp quản lý, giáo

dục, bồi dưỡng, giám sát, kiểm tra việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng

viên, cần phải quản lý toàn diện mọi mặt công tác, nắm chặt chất lượng đội

ngũ giảng viên; đánh giá đúng trinh độ, năng lực chuyên môn, sở trường,

năng khiếu, mạnh mạnh, mặt yếu của từng giảng viên. Chủ động xây dựng kế

hoạch, xác định nội dung cụ thể để ĐTBD, nâng cao phẩm chất, NLTDLL đội

ngũ giảng viên của đơn vị

Ngoài ra, cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của cấp

ủy, chính quyền trong việc tự đào tạo, rèn luyện nâng cao NLTDLL, trình độ

chuyên môn, học vấn cũng như các phẩm chất khác của giảng viên.

4.3.2. Tạo điều kiện cho giảng viên tiếp xúc với thực tiễn và khoa học Thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học tác động trực tiếp đến

quá trình học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của giảng viên

trường ĐTBD CBCC. Thực tiễn là hoạt động sáng tạo của con người tác động

vào thế giới khách quan, nhằm cải tạo nó, phục vụ cho lợi ích của mình, vì

vậy, hoạt động này hết sức phong phú, đa dạng. Tạo điều kiện cho giảng viên

trường ĐTBD CBCC thâm nhập thực tiễn, lấy thực tiễn soi chiếu, phân tích

làm sâu thêm, củng cố chắc chắn thêm những kiến thức đã có; đồng thời, khai

thác, tiếp thu những kinh nghiệm, những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn chính là

cách thức nâng cao NLTDLL của giảng viên trường ĐTBD CBCC một cách

trực tiếp nhất. Những tri thức có được từ thực tiễn "muôn màu, muôn vẻ" là

"nguồn nguyên liệu" quan trọng, tăng chất lượng cho các bài giảng, làm cho

các bài giảng có ý nghĩa, giá trị sâu sắc hơn, mài sắc thêm năng lực TDLL.

148

4.3.3. Nâng cao ý thức tự bồi dưỡng, tự đào tạo của giảng viên

Kiến thức, kỹ năng, phương pháp mà học viên được học trong trường

ĐTBD CBCC là hết sức quý báu, song đó mới chỉ những kiến thức chuyên

môn, nghiệp vụ mang tính cơ bản, làm cơ sở cho sự tự vận động, tiến bộ trong

nghề nghiệp sau này. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng, các

kiến thức, tri thức không ngừng sinh sôi, phát triển. Để thực hiện tốt nhiệm vụ

của giảng viên, mỗi giảng viên trường ĐTBD CBCC phải tiếp tục tự đào tạo,

tự bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, cập nhật tri thức,

tiếp thu các chương trình và phương pháp giảng dạy mới, đáp ứng yêu cầu đổi

mới của xã hội, của chính cá nhân. Trong quá trình tự học, tự đào tạo, mỗi

giảng viên phải luôn ý thức đặt trọng tâm vào rèn luyện tư duy, rèn luyện

phương pháp, cập nhật tri thức mới, cập nhật những phương pháp giảng dạy,

nghiên cứu mới, xây dựng phong cách tư duy khoa học và độc lập… Giảng

viên LLCT cần chú trọng rèn luyện phương pháp, kỹ năng, trên cơ sở đề cao

tính sáng tạo, trong đó chú ý đến hai kỹ năng căn bản - kỹ năng sư phạm và

kỹ năng NCKH, đi kèm với ngoại ngữ, tin học, hình thành nên hệ thống kỹ

năng, khả năng chiếm lĩnh tri thức khoa học.

4.3.4. Khuyến khích giảng viên tự nâng cao trình độ học vấn, trình

độ khoa học, tri thức ngoài chuyên ngành

Hầu hết các giảng viên trường ĐTBD CBCC chủ yếu mới có các kiến

thức chuyên ngành của ngành mình, còn thiếu những kiến thức cơ bản của các

của các ngành, lĩnh vực ngoài ngành mình. Vì vậy, phải có kế hoạch ĐTBD

nâng cao những tri thức khoa học ngoài chuyên ngành cho giảng viên trường

ĐTBD CBCC thông qua các đợt tập huấn, các khóa học ngắn ngày, các lớp

bồi dưỡng… là cơ hội tốt trong nâng cao tổng thể tri thức, nhận thức cho

giảng viên trường ĐTBD CBCC.

Các trường ĐTBD CBCC cần tổ chức các khóa học, các lớp ĐTBD

phải được thực hiện trên nguyên tắc phù hợp, kịp thời, có phân loại nhằm đáp

149

ứng các nhu cầu khác nhau của các nhóm đối tượng, tránh ĐTBD đồng loạt, ồ

ạt, bình quân. Cần vận dụng nhiều hình thức bồi dưỡng phù hợp với hoàn

cảnh và điều kiện của giảng viên Trường ĐTBD CBCC.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế chính sách khuyến khích giảng viên trường

ĐTBD CBCC thường xuyên NCKH. NCKH là hoạt động trí óc ở trình độ

cao, có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy năng lực sáng tạo, năng lực

tư duy lý luận, là con đường ngắn nhất để nâng cao năng lực chuyên môn.

Giảng viên trường ĐTBD CBCC vừa phải là nhà sư phạm, vừa phải là nhà

khoa học, gắn NCKH với giảng dạy, làm cho NCKH trở thành đòn bẩy trong

nâng cao năng lực tư duy, chất lượng giảng dạy, vì thế, cần đặt ra yêu cầu xây

dựng chương trình NCKH cụ thể đối với giảng viên. Để NCKH của giảng

viên trường ĐTBD CBCC không hình thức, sát thực, nhà trường cần định

hướng NCKH của giảng viên trường ĐTBD CBCC một cách hợp lý, hướng

đến những vấn đề lý luận, thực tiễn còn nhiều vướng mắc, hoặc giữa lý luận

và thực tiễn còn có mâu thuẫn.

4.3.5. Tạo động lực khuyến khích giảng viên không ngừng nâng

cao năng lực tư duy lý luận

Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định

nào đó về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu. Khi được đáp ứng đầy

đủ những nhu cầu lợi ích chính đáng, giảng viên sẽ có động lực to lớn thúc

đẩy để bằng mọi hình thức, tự cố gắng vươn lên để nâng cao trình độ năng lực

trí tuệ, NLTDLL của mình. Vì thế, cần có chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh

thần phù hợp cho giảng viên Trường ĐTBD CBCC, để họ tích cực học tập,

rèn luyện, nâng cao trình độ, nâng cao NLTDLL. Bố trí, sử dụng giảng viên

trường ĐTBD CBCC phải trên tinh thần công bằng, tin tưởng, tạo điều kiện,

đánh giá khách quan và coi trọng năng lực sáng tạo thật sự về chuyên môn

nghiệp vụ. Cần đãi ngộ đúng công sức và tài năng với tinh thần ưu đãi và tôn

vinh nghề dạy học.

150

4.3.6. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng nâng cao năng lực tư duy lý luận

Để có được tầm cao trí tuệ, đòi hỏi giảng viên các trường ĐTBD

CBCC không những có trình độ kiến thức khoa học chuyên môn giỏi, lượng

kiến thức và kinh nghiệm sự phạm cần thiết, phương pháp tư duy biện chứng

mà cần có LLCT và một lượng kiến thức xã hội vững chắc thì mới có khả

năng TDLL trong giảng dạy. Trong các chương trình, tài liệu ĐTBD đội ngũ

giảng viên hiện nay, thời lượng, nội dung chưa đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn, gây khó khăn trong việc hình thành và phát triển NLTDLL của giảng

viên trường ĐTBD CBCC. Vì vậy, thế Bộ Giáo dục và đào tạo cần tiếp tục

nghiên cứu điều chỉnh, cập nhật bổ sung các môn khoa học, lịch sử triết học,

logic học, phương pháp NCKH… vào nội dung chương trình ĐTBD. Có tiêu

chí phân loại, tiêu chuẩn đối với từng đối tượng giảng để có cơ sở, căn cứ xác

định rõ những nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng nâng cao các yếu tố

cấu thành NLTDLL cho giảng viên các trường ĐTBC CBCC phù hợp, tránh

chồng chéo, lãng phí không cần thiết.

4.3.7. Phát huy và nâng cao tính tích cực, tính tự giác của bản thân

đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dướng cán bộ, công chức trong nâng cao năng lực chuyên môn, rèn luyện nhân cách

Tinh thần trách nhiệm của giảng viên các trường ĐTBD CBCC không

chỉ xuất phát từ ý thức nghĩa vụ, mà còn từ niềm tin và sự say mê nghề

nghiệp, từ tình cảm gắn bó, trân trọng với nghề nghiệp, từ lòng khát khao

muốn truyền đạt tri thức, niềm tin của mình đến với người học. Cần xây dựng

củng cố môi trường công tác lành mạnh, tạo động lực cho giảng viên các

trường ĐTBD CBCC an tâm phấn đấu, không ngừng vươn lên. Tăng cường

nhận thức cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC về sự cần thiết

của việc hình thành, củng cố những phẩm chất, tính cách cần có của giảng

viên các trường ĐTBD CBCC phù hợp với đặc thù của hoạt động giáo dục mà

họ thực hiện.

151

Phải coi việc xây dựng kế hoạch ĐTBD nâng cao trình độ, năng lực

chuyên môn cho đội ngũ giảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.

Chú trọng nâng cao nhận thức của các giảng viên các trường ĐTBD CBCC về

vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất

lượng cao cho đất nước nói chung và mỗi bộ, ngành, địa phương trong giai

đoạn cách mạng mới, cũng như trách nhiệm kế thừa, phát huy sự nghiệp vẻ

vang của thế hệ đi trước. Mỗi giảng viên các trường ĐTBD CBCC cố gắng tự

giác rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ vè mọi mặt để trở thành những

giảng viên các trường ĐTBD CBCC giỏi, là tấm gương sáng đối với học viên.

Kết luận chương 4

Nâng cao NLTDLL là vấn đề cơ bản, cấp thiết nhằm nâng cao chất

lượng đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC. Để nâng cao NLTDLL

của giảng viên các trường ĐTBD CBCC được thuận lợi và hiệu quả cần phải

thực hiện tốt các nhóm giải pháp cơ bản mà luận án đã đưa ra.

Trong hệ thống giải pháp luận án đã đề cấp, nhóm giải pháp tuyển

chọn, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD cán bộ, công

chức là một trong những giải pháp quan trọng nhất, nó cấu thành đội ngũ

giảng viên và quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động nâng cao

NLTDLL của giảng viên các trường ĐTBD CBCC; được diễn ra trong suốt

quá trình học tập, công tác tại nhà trường trên cương vị là giảng viên và cũng

là học viên khi tham gia ĐTBD. Nhóm giải pháp này đã bổ sung những mảng

kiến thức mà giảng viên các trường ĐTBD CBCC đang thiếu hụt, cần nâng

cao về trình độ kiến thức, kinh nghiệm. Nhóm giải pháp tạo môi trường đòi

hỏi giảng viên phải nâng cao năng lực tư duy lý luận cũng rất quan trọng

không thể thiếu được, đây là những giải pháp nhằm tạo cơ sở, điều kiện khách

quan thuận lợi cho việc nâng cao các yếu tố cấu thành năng lực của giảng

viên trường ĐTBD CBCC được diễn ra thuận lợi và nhanh chóng; tạo sự tâm

152

huyết, gắn bó, tận tâm của giảng viên với nghề nghiệp, đối với việc tự ĐTBD

nâng cao NLTDLL. Nhóm giải pháp khuyến khích giảng viên tự nâng cao

năng lực tư duy lý luận làm rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc

nâng cao NLTDLLcho giảng viên; đồng thời, có tác động mạnh mẽ, thúc đẩy

giảng viên các trường ĐTBC CBCC tích cực, chủ động nâng cao ý thức tự bồi

dưỡng, tự đào tạo để không ngừng nâng cao NLTDLL.

Mỗi một nhóm giải pháp có một vị trí, vai trò khác nhau, nhưng có

mối liên hệ mật thiết với nhau, không thể thiếu được, Vì vậy, phải tiến hành

các giải pháp đồng bộ, tránh xem nhẹ hoặc coi trọng hay tuyệt đối hóa một

nhóm giải pháp nào. Việc tiến hành song song các giải pháp sẽ tạo ra sức

mạnh tổng hợp để nâng cao NLTDLL của đội ngũ giảng viên trong các

trường ĐTBD CBCC hiện nay.

153

KẾT LUẬN

Tư duy lý luận có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cho

đội ngũ giảng viên, đặc biệt là giảng viên các trường ĐTBD CBCC. TDLL về

thực chất, đó là TD biện chứng duy vật khoa học - một hình thái TD được

hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức

khoa học mà loài người đã đạt được từ xưa cho đến nay và luôn luôn được

vận dụng một cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để không

ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển.TDLL là hình thức cao nhất của tư

duy, nó chính là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp,

mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các thao tác TD để nắm bắt các

mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn

trong khách thể nhận thức. Luận án "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện

nay" đã làm rõ một số nội dung sau:

Một là, luận án đã hệ thống hóa lý luận về NLTDLL và vai trò của đội

ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam như: hoạt động ĐTBD

CBCC và đặc điểm của đội ngũ giảng viên trường ĐTBDCBCC; Vai trò, nội

dung nâng cao TDLL đối với đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD CBCC.

Hai là, tác giả đã phân tích thực trạng NLTDLL của đội ngũ giảng viên

các Trường ĐTBD CBCC ở Việt Nam (cụ thể là Học viện HCQG, Trường

ĐTBDCBCC Bộ Nội vụ, Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong Hà Nội);

đánh giá khách quan ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân về thực trạng TDLL của

đội ngũ giảng viên ở Việt Nam hiện nay.

Ba là, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao

NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC ở Việt nam hiện

nay như: 1) Nhóm giải pháp tuyển chọn, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng

viên các Trường ĐTBD cán bộ, công chức; 2) Nhóm giải pháp tạo môi trường

154

đòi hỏi giảng viên phải nâng cao năng lực tư duy lý luận; 3) Nhóm giải pháp

khuyến khích giảng viên tự nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Trong rất nhiều nỗ lực lý luận và thực tiễn, chiến lược cụ thể góp phần

nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC

hiện nay ở Việt Nam là rất cần thiết. Chính vì vậy, nghiên cứu này đã trình

bày lý luận về NLTDLL và vai trò của đội ngũ giảng viên Trường ĐTBD

CBCC; phân tích thực trạng NLTDLL của đội ngũ giảng viên các Trường

ĐTBD CBCC ở Việt Nam hiện nay; đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu

nhằm nâng cao NLTDLL cho đội ngũ giảng viên các Trường ĐTBD CBCC ở

Việt Nam hiện nay

Nghiên cứu đã thu thập, phân tích, xử lý thông tin để kiểm chứng các

giả thuyết nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, NLTDLL có vai trò quan trọng

trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các Trường ĐTBD

CBCC; giúp đội ngũ giảng viên nâng cao chất lượng bài giảng, nâng cao năng

lực TD kinh nghiệm đối với mỗi giảng viên.

Để có được các kết quả nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu,

nghiên cứu sinh đã vận dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương

pháp khảo cứu tài liệu, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát và

phân tích dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBDCBCC còn

có những vấn đề liên quan nhất định nhưng không phải là trọng tâm của

nghiên cứu này, có thể cần được tiếp tục nghiên cứu thêm như: Tư duy kinh

nghiệm cho đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC; Vai trò của TDLL

đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐTBD CBCC;....

155

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

1. Cao Thị Hà (2013), "Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ

giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay", Tạp chí

Dân vận, (4/37).

2. Cao Thị Hà (2013), "Một số giải pháp phát triển năng lực giảng viên đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức", Tạp chí Lao động và

xã hội, (455).

3. Cao Thị Hà (2016), "Xây dựng cơ cấu đội ngũ giảng viên hợp lý góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức",

Tạp chí Cộng sản, (113).

4. Cao Thị Hà (2016), "Một số giải pháp hoàn thiện cơ cấu đội ngũ giảng

viên đào tạo cán bộ, công chức", Tạp chí Lao động và xã hội, (537).

156

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn An (1998), "Tiếp tục đổi mới chỉnh đốn Đảng, làm tốt quy

hoạch cán bộ là nhiệm vụ trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về

tổ chức trong năm 1998", Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.13-15.

2. Vũ Văn Ban (2013), "Vai trò của tư duy lý luận đối với việc nâng cao

chất lượng đội ngũ giảng viên trẻ", Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (01), tr.19-21.

3. Vũ Văn Ban (2015), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các Học viện, Trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận", Tạp

chí Thông tin lý luận, (6), tr.54-62.

5. Nguyễn Trọng Bảo (Chủ biên) (1996), Gia đình, nhà trường, xã hội với

việc phát triển, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Đức Bình (1988), "Nguyên nhân của thực trạng tư duy", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.28.

7. Nguyễn Đức Bình (1992), "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.7.

8. Nguyễn Đức Bình (1996), "Phấn đấu vươn lên ngang tầm những nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời buổi mới", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.3-6.

9. Bộ Nội vụ (2001), Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội.

10. Bộ Nội vụ và Ngân hàng Phát triển Châu Á (2005), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội.

157

11. Bộ Nội vụ và Ngân hàng Phát triển Châu Á (2006), Giám sát và đánh giá trong đào tạo cán bộ, công chức - kinh nghiệm quốc tế và bài học choViệt Nam, Kỷ yếu Hội Thảo quốc tế, Nha Trang.

12. Bộ Nội vụ và Ngân hàng Phát triển Châu Á (2007), Giám sát và đánh giá trong đào tạo cán bộ, công chức, Kỷ yếu Hội Thảo quốc tế, Hạ Long, Quảng Ninh.

13. Bộ Nội vụ (2010), Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.

14. Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06 - 6 - 2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.

15. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21 - 9 - 2010 của Bộ Tài chính Quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.

16. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 16/6/2010 của Chính phủ quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.

17. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011của Chính phủ ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.

18. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị định số 125/2011/NĐ-CP ngày 30/12/2011 của Chính phủ quy định về trường của cơ quan nhà nước; tổ chức chính trị xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, Hà Nội.

158

19. Hoàng Văn Chức (2012), Phát triển năng lực giảng viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

20. Nguyễn Văn Dũng (2001), Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị cấp trung đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

21. Phan Dũng (Chủ biên) (2012), Thế giới bên trong con người sáng tạo, Nxb Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.

22. Ma Phúc Dự (2016), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

27. Nguyễn Tiến Đạo (Chủ nhiệm) (2014), Nghiên cứu các giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ, Hà Nội.

28. Dương Minh Đức (2005), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

159

29. Tô Tử Hạ (Chủ biên) (2003), Từ điển Hành chính, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Hàm (2012), Mấy suy nghĩ về phát triển đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

31. Nguyễn Hữu Hải (2012), Kinh nghiệm đào tạo - Bồi dưỡng công chức tại một số quốc gia trên thế giới, Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

32. Đàm Bích Hiên (2012), "Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thông qua việc đánh giá chất lượng giảng viên". Nội san - Nghiên cứu Đào tạo, (01), tr.10-13.

33. Ngô Trung Hòa (2012), Xây dựng chỉ số đo lường hiệu quả công việc (KPI xác định năng lực đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng), Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

34. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Học viện Hành chính Quốc gia (2014), 55 năm xây dựng phát triển, , Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

36. Học viện Hành chính Quốc gia (2016), Báo cáo tổng kết năm (2012 - 2016), Hà Nội.

37. Đinh Thế Huynh (Chủ biên) (2016), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), Các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

160

39. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Thực trạng tư duy lý luận của lãnh đạo quản lý nước ta hiện nay. Trong quá trình học tập phong cách tư duy Hồ

Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

41. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

42. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

43. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

44. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Năng lực tư duy trong quá trình đổi mới tư

duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.47-51.

45. Nguyễn Ngọc Long (1998), "Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều, đổi

mới tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.53-55.

46. Nguyễn Văn Lý (2009), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số Tây

Nguyên, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Khu vực III,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

47. C.Mác - Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

48. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

49. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

50. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

51. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 25, phần 1, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

52. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 29, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

161

56. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Hồ Chí Minh (2010), Về đạo đức cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Nguyễn Xuân Minh (2010), Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và tiếp cận thực tế của Giảng viên: cách tiếp cận và giải pháp, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.

63. Nguyễn Thị Nga (2007), Vấn đề khắc phục sự lạc hậu của ý thức xã hội

ở nước ta hiện nay. Thực trạng đổi mới với đổi mới triết học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Dương Thị Thuý Nga (2006), Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo

trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

65. Lê Hữu Nghĩa (1998), "Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của

cán bộ ta", Tạp chí Triết học, (2), tr.17-18.

66. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

67. Nhiều tác giả (2015), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên lý

luận chính trị ở Việt Nam hiện nay-Một vài khuyến nghị, Nxb Chính

trị Hành chính, Hà Nội.

68. Trần Duy Rô Nin (2014), "Nâng cao tri thức chính trị của đội ngũ giảng

viên ở Trường Chính trị tỉnh Nghệ An", tại trang http://www.truong

chinhtrina.gov.vn, [truy cập ngày 07/10/2016].

69. Trần Sỹ Phán (2010), Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự

nghiệp đổi mới của Đảng ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Hoàng Phê (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

162

71. Trần Văn Phòng (Chủ biên) (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Trần Văn Phòng (2007), "Giải pháp nâng cao năng lực tư duy biện chứng, chống bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí", Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.25-28.

73. Vũ Thị Hoài Phương (2012), Một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ giảng viên ngành Nội vụ đến năm 2020, Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

74. Lê Văn Quang (2006), "Vai trò của triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (8), tr.35-38.

75. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục, Hà Nội.

76. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ, công chức, Hà Nội.

77. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Hà Nội.

78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Giáo dục Đại học, Hà Nội.

79. Nguyễn Đức Quyền (2005), "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (3).

80. Nguyễn Đức Quyền (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

81. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Phạm Thanh Sơn (2001), Xây dựng đội ngũ tri thức khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

163

83. Nguyễn Hữu Tám (Chủ nhiệm) (2011), Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đáp ứng yêu cầu cải

cải cách hành chính, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ, Hà Nội.

84. Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua

thực tiễn Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

85. Trần Thành (Chủ biên) (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hồ Bá Thâm (1994), "Bàn về tư duy", Tạp chí Triết học, (2), tr.26-28.

87. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp xã hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

89. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày

04/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.

90. Thiều Huy Thuật (2013), Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ, Hà Nội.

91. Nguyễn Thị Kim Thư (2006), Một số quan điểm và mô hình về giảng dạy hiệu quả ở bậc đại học, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

92. Nguyễn Thị Tình (2010), Tính tích cực giảng dạy của giảng viên đại học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

93. Nguyễn Đình Trãi (1999), "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin

ở các trường chính trị tỉnh hiện nay", Tạp chí Triết học, (1), tr.50.

164

94. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

giảng dạy lý luận Mác - Lê nin ở các trường Chính trị tỉnh, Luận án

tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

95. Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ (2016), Báo

cáo tổng kết (2012- 2016), Hà Nội.

96. Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội (2016), Báo

cáo tổng kết (2012- 2016), Hà Nội.

97. Trần Anh Tuấn (2012), Vài ý kiến về xây dựng đội ngũ giảng viên

Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Kỷ yếu

Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức -

Bộ Nội vụ, Hà Nội.

98. Vũ Văn Viên (1992), "Rèn luyện nâng cao năng lực tư duy khoa học cho

sinh viên, học sinh", Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp,

(2), tr.11-13.

99. Viện Ngôn ngữ học (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

100. Nguyễn Thế Vịnh (2012), Những thuận lợi, khó khăn trong việc phát

triển đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng Bộ, Ngành Nội vụ, Kỷ

yếu Hội nghị khoa học, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

101. Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và Ban quản lý Dự án ADB,

Bộ Nội vụ (2004), Khảo sát nhu cầu đào tạo của đội ngũ giảng viên

quản lý nhà nước tại Việt Nam, Hà Nội.

102. Ngô Đình Xây (1990), "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở

nước ta", Tạp chí Triết học, (4), tr.32-36.

103. Vũ Thanh Xuân (2010), Nâng cao năng lực thực tiễn - Giải pháp tăng

cường chất lượng giảng viên đào tạo, bồi dưỡng, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học cấp trường - Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ, công

chức, Bộ Nội vụ, Hà Nội.

165

104. Vũ Thanh Xuân (2012), Cơ sở khoa học của việc đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm đối với công chức ngành Nội vụ, Đề tài nghiên

cứu khoa học cấp Bộ - Bộ Nội vụ, Hà Nội.

105. Vũ Thanh Xuân (2015), Phát triển đội ngũ giảng viên các Trường đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới nhân lực ngành Nội vụ, Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại

học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.