HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN...

27
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 HÀ NỘI – 2017

Transcript of HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN...

Page 1: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 62 22 03 15

HÀ NỘI – 2017

Page 2: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

Luận án được hoàn thành tại

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học :

1. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà

2. TS. Trần Thị Nhẫn

Phản biện 1: ……………………………………………

……………………………………………

Phản biện 2: ……………………………………………

……………………………………………

Phản biện 3: ……………………………………………

……………………………………………

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện

họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia

- Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Page 3: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối ngoại là hoạt động quan trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thời kỳ Đảng lãnh đạo đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 là giai

đoạn hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng góp phần to lớn

vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Những chủ trương, đường lối

đối ngoại, các đối sách của Đảng trong quan hệ đối ngoại thời kỳ này

cho thấy sự tài tình, nhạy bén của Đảng đối với mỗi một đối tượng riêng.

Những hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1930-1945 được

tiến hành trong bối cảnh Đảng chưa phải đảng cầm quyền. Để vượt qua

trở ngại này, Đảng đã linh hoạt sử dụng nhiều danh nghĩa khác nhau: khi

liên hệ với các tổ chức cộng sản thì dùng chính danh Đảng, còn khi giao

thiệp với các nước tư bản trong khối Đồng minh thì dưới danh nghĩa mặt

trận chống phát xít. Xét đến hoàn cảnh khó khăn mà Đảng phải đương

đầu, những thành công trong hoạt động đối ngoại mà Đảng đạt được thời

kỳ này càng có ý nghĩa to lớn.

Từ việc phân tích các chủ trương, chính sách đúng đắn, cách ứng xử

phù hợp của Đảng trong hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945

để đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, có thể hiểu rõ hơn hoạt động

đối ngoại phong phú để vượt qua khó khăn thử thách của Đảng trong

thời kỳ lịch sử đầy biến động và quan trọng nhưng còn ít được nghiên

cứu, tìm hiểu này. Qua đó, có thể rút ra những kinh nghiệm cần thiết về

đối ngoại trong xu thế hội nhập toàn cầu của Việt Nam ngày nay.

Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Hoạt động đối

ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945” làm đề tài nghiên cứu

luân an tiên si chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ quá trình nhận thức và đường lối của Đảng về công tác đối

ngoại cũng như những tình huống đối ngoại tiêu biểu của Đảng từ 1930

đến 1945, trên cơ cở đó, góp phần làm sáng tỏ hoạt động đối ngoại của

Đảng, rút ra những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm về đối ngoại của

Đảng từ 1930 đến 1945.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Page 4: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

2

- Phân tích, đánh giá bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trong

thời kỳ 1930-1945.

- Làm rõ những chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đối

ngoại và hoạt động đối ngoại từ 1930 đến tháng 8-1945.

- Đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công

tác đối ngoại, đánh giá những thành tựu, hạn chế, đúc rút một số kinh

nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại từ năm 1930

đến năm 1945.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đối ngoại của Đảng

từ 1930 đến 1945.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: hoạt động đối ngoại của Đảng và Nguyễn Ái Quốc

với các đối tượng dưới danh nghĩa của Đảng hoặc danh nghĩa khác.

- Về không gian: chủ yếu hoạt động đối ngoại của Đảng diễn ra ở

Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, một số sự kiện diễn ra ở Đông Nam Á

và một số nước khác… - Về thời gian: từ đầu năm 1930 đến tháng 8-1945.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác đối ngoại. Luận án cũng

kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu đi trước về những

vấn đề liên quan đến nội dung của luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận

của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ

yếu là phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp,

so sánh,... để nghiên cứu.

4.3. Nguồn tài liệu

- Văn kiện Đảng là nguồn tài liệu quan trọng được khai thác khi

nghiên cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử hoạt động đối ngoại

của Đảng nói riêng.

- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh: Một số tác

Page 5: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

3

phẩm quan trọng và tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và

các Tổng Bí thư về đường lối, chủ trương của Đảng từ năm 1930 đến

thang 8-1945.

- Các tư liệu khác về:

+ Các công trình luận án, luận văn, bài báo đã công bố về đề tài.

+ Tư liệu về các hội nghị quốc tế, quan điểm của chính trị gia các

nước, văn kiện của chính phủ các nước.

+ Khối báo chí đương thời phát hành từ năm 1941 đến năm 1945,

gồm báo chí bí mật như Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập, Cứu

quốc…

+ Các tài liệu nghiên cứu: ảnh, bưu thiếp, thẻ tham dự hội nghị…

(một số được đưa vào phụ lục luận án).

5. Đóng góp mới của luận án

- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học về quá trình định hình

đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Từ đó, thấy

rõ sự phát triển, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo thực hiện công

tác đối ngoại của Đảng.

- Phân tích, góp phần làm sáng tỏ những hoạt động đối ngoại của

ĐCSĐD với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. Góp

phần khẳng định đường lối và hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng tạo

của Đảng trong giai đoạn lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.

- Góp phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động đối

ngoại của Đảng giai đoạn này, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử bổ

ích có thể áp dụng trong quá trình lãnh đạo của Đảng về đối ngoại

sau này.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, luận án gồm 4 chương và 9 tiết.

Page 6: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH

NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử

Đảng liên quan đến đề tài

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chung của lịch sử

Đảng mà trong đó có đề cập đến hoạt động đối ngoại ở các khía cạnh

khác nhau. Có thể kể đến: “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ

khảo” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương; “Tiến lên

dưới lá cờ của Đảng”, “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt

Nam” (2 tập) “Cách mạng Tháng Tám” của Trường Chinh; “Một vài

đặc điểm của cách mạng Việt Nam”, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng,

vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi

mới”,“Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam”, của Lê Duẩn.

1.1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu quan hệ đối

ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng liên quan đến đề tài

Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 là một

phần được nêu trong những công trình nghiên cứu về đường lối và

hoạt động đối ngoại của Đảng các giai đoạn khác, tiêu biểu như:

“Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-2012”, của Đinh

Xuân Lý; “Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)” của

GS.Vũ Dương Ninh; Luận án Tiến sỹ Lịch sử “Đảng lãnh đạo hoạt

động đối ngoại thời kỳ 1945-1946” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung...

Nhiều hơn là các công trình nghiên cứu mối quan hệ đối ngoại

với một đối tượng nhất định:“Quốc tế cộng sản với Việt Nam” của

A.A. Xô-cô-lốp; “Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nghĩa vụ

quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945” của Nguyễn

Trọng Phúc; “Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí Minh và

Đờ Gôn trong thế giới có chiến tranh” của Stein Tønnesson; “Ý

nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với thắng lợi

Page 7: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

5

của cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt

Nam”của M. L. Titapenco; “OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh bất

ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật” của Dixee R.

Bartholomew-Feis; Luận án Tiến sỹ lịch sử “Quan hệ Nhật-Pháp và

vấn đề Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai 1939-

1945” của TS. Trần Văn La; Các tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí

Minh như: “Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận Việt

Minh” và “Thông điệp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam gửi Liên

hiệp quốc tháng 8-1945” của Phạm Xanh...

1.1.3. Những công trình nghiên cứu về hoạt động của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài

Những tư tưởng hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh đã được

nhiều công trình đề cập đến: Luận án Tiến sỹ lịch sử “Hoạt động đối

ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954” của TS. Đặng

Văn Thái; “Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh ” của Đinh

Xuân Lý; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” của Học

viện Quan hệ Quốc tế; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại

giao” của Vũ Khoan; “Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (1931-1933)-tư

liệu và hình ảnh” do Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với Nxb Chính

trị Quốc gia sưu tầm;…

Ngoài ra, có nhiều công trình của các tác giả nước ngoài nghiên

cứu cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, trong đó ít nhiều đề cập

đến mối liên hệ giữa Đảng, Hồ Chí Minh với quốc tế, chẳng hạn như:

“Đồng chí Hồ Chí Minh” của E. Cô-bê-lép; “Hô Chi Minh- A life

(Hồ Chí Minh- một cuộc đời)” của William J. Duiker; “Ho Chi Minh

- The missing years (Hồ Chí Minh - Những năm tháng lưu lạc)” của

Sophie Quinn-Judge;…

1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Các công trình khoa học nghiên cứu về đường lối đối ngoại và

hoạt động đối ngoại của Đảng ngày càng tăng về số lượng, chất

lượng với nhiều cách tiếp cận, giải quyết vấn đề khác nhau.

1.2.1. Những công trình khoa học, bài viết về hoạt động đối

ngoại của Đảng để đưa đất nước đến độc lập, tự do khá phong phú,

đa dạng về cách tiếp cận, về các mối quan hệ quốc tế. Các công trình

Page 8: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

6

đã bước đầu đề cập đến việc quán triệt, lãnh đạo tổ chức thực hiện

hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945, nêu lên

những nội dung đối ngoại, một số kết quả đạt được và những tồn tại

hạn chế. Tuy nhiên, cho đến nay, còn thiếu những công trình khoa

học nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống quá trình

hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945.

1.2.2. Trong những công trình đã công bố, còn nhiều ý kiến đánh

giá khác nhau về các sự kiện, nhân vật lịch sử; có những đánh giá,

nhận định chưa có sức thuyết phục, chưa xác đáng. Dù vậy, các công

trình đã tập hợp được nhiều tư liệu có liên quan, cung cấp những luận

cứ khoa học, những gợi mở quan trọng cho việc tiếp cận, nghiên cứu

đề tài luận án một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

Kết quả khảo cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài

Luận án cho thấy, nghiên cứu sinh cần tiếp tục giải quyết các vấn đề:

- Làm rõ hơn quá trình nhận thức và chủ trương, đường lối lãnh

đạo của Đảng về hoạt động đối ngoại giai đoạn 1930-1945.

- Làm rõ các hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1930-

1945, trong đó có các nhà cách mạng Việt Nam. Từ đó, làm sáng tỏ

đường lối đối ngoại mà Đảng và các nhà cách mạng Việt Nam đã áp

dụng với những đối tượng khác nhau.

- Làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của đường lối đối ngoại, hoạt

động đối ngoại của Đảng đối với thành quả của Cách mạng Tháng

Tám năm 1945.

- Nhận xét, đánh giá và đúc kết những kinh nghiệm rút ra từ hoạt

động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1930 – 1945, có thể tham khảo phục

vụ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay.

Page 9: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

7

Chương 2

ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI

TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939

2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1935

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

2.1.1.1. Tình hình thế giới

Hoạt động sôi nổi của Quốc tế cộng sản những năm 1920-1930

nhằm thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân

tộc trên thế giới phát triển. Năm 1929, kinh tế thế giới lâm vào khủng

hoảng, ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình kinh tế, xã hội của các nước

tư bản chủ nghĩa. Giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa hình thành

hai khối đối lập. Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn

nhưng kéo dài. Pháp đẩy sức ép kinh tế, tài chính và những bất ổn cơ

bản trong xã hội đến các nước thuộc địa, đặc biệt là Đông Dương.

2.1.1.2. Tình hình trong nước

Nền kinh tế Việt Nam gánh thêm hậu quả của khủng hoảng ở

“chính quốc”, càng suy sụp hơn bao giờ hết. Thực dân Pháp thi hành

chính sách khủng bố trắng tàn bạo. Người dân Việt Nam phải chịu

đựng sư áp bức bóc lột, mong muốn đấu tranh giành độc lập.

Giai đoạn này, tư tưởng vô sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin dần

trở thành tư tưởng chủ đạo. Với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam tháng 2-1930, lần đầu tiên, Việt Nam có một tổ chức Đảng

vững vàng về chính trị, đúng đắn về đường lối để dẫn dắt toàn dân

tộc trên con đường tìm kiếm độc lập tự do.

2.1.2. Sự ra đời của Đảng năm 1930 và bước đầu xác định

đường lối đối ngoại của Đảng

Nhờ sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, tư tưởng Mác-

Lênin được truyền bá về Việt Nam. Cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở

Việt Nam lần lượt thành lập ba tổ chức cộng sản, sau đó hợp nhất

thành một đảng cộng sản duy nhất trong cả nước.

Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng đã họp từ ngày 6 tháng 1 đến

ngày 7 tháng 2 năm 1930 ở bán đảo Cửu Long (Hồng Kông), do

Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Tại Hội nghị, các đại biểu nhất trí tán thành

Page 10: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

8

hợp nhất, thành lập một chính đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản

Việt Nam, thông qua các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt,

Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng...

Về mặt đối ngoại, Sách lược vắn tắt xác định cách mạng Việt

Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nên cần phải liên kết với

cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới.

Sau đó, Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc tế cộng sản, viết

thư gửi các tổ chức quốc tế để giới thiệu về Đảng Cộng sản Việt Nam

mới được thành lập và đề nghị thiết lập mối quan hệ, sự giúp đỡ lẫn

nhau trong đấu tranh cách mạng.

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ

ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hồng Kông. Hội nghị thông qua

Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận

cương Chính trị, Điều lệ các tổ chức quần chúng; đổi tên Đảng Cộng

sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

So với Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, Luận cương

Chính trị có chỗ khác biệt, nhất là trong sách lược tập hợp lực lượng

cách mạng trong nước. Song cả văn kiện tháng 2-1930 và tháng 10-

1930 đều nhất quán trong việc xác định những nhân tố chủ yếu hình

thành đường lối quốc tế của cách mạng Việt Nam nên nhiệm vụ cốt

yếu của cách mạng tư sản dân quyền được xác định trong Luận

cương vẫn là ủng hộ Liên bang Xôviết; liên kết với giai cấp vô sản

toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa,…

2.1.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1935

Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo quần chúng công

nông làm nên cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết

Nghệ-Tĩnh. Để đáp trả, thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố trắng,.

Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với Quốc tế cộng sản, Quốc tế Nông

dân... giúp đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Từ năm

1930 đến năm 1935, Quốc tế Cộng sản nhiều lần ra chỉ thị cho Đảng,

nhất là về mặt tổ chức, và Đảng đều nghiêm túc tuân thủ. Đầu năm

1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế

cộng sản về việc tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng

Page 11: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

9

3-1934, theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của

Đảng được thành lập.

Quốc tế Cộng sản cũng là cầu nối giúp Đảng liên hệ với các

Đảng Cộng sản anh em. Đảng Cộng sản Đông Dương và các Đảng

Cộng sản anh em cũng trao đổi thư từ, thể hiện sự ủng hộ lẫn nhau,

đoàn kết vì phong trào cách mạng thế giới.

Đặc biệt, Đảng Cộng sản Pháp đã có nhiều hoạt động giúp đỡ

Đảng ta như công bố bản Chương trình hành động của Đảng Cộng

sản Đông Dương trên báo chí ở Pháp và ra Lời kêu gọi Vì sự nghiệp

giải phóng Đông Dương (7-1932); thành lập Ủy ban vận động tòa án

ân xá tù chính trị Đông Dương (9-3-1933); ủng hộ cách mạng Đông

Dương tại các phiên họp của Hạ nghị viện Pháp (3-1933).

Ở Lào, trước năm 1930, chưa có tổ chức cách mạng quần chúng,

nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Lào ra đời

và ngày càng lan rộng. Xứ ủy Lào thành lập vào tháng 9-1934.

Thời kỳ này, vai trò của Nguyễn Ái Quốc không được phát huy

mạnh mẽ như trước: bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam (6-

1931 đến 1-1933); vấp phải một số nghi vấn trong Quốc tế cộng sản;

bị cho là mang nặng tư tưởng chủ nghĩa dân tộc. Dù vậy, Người vẫn

đặc biệt quan tâm đến phong trào cách mạng trong nước và quốc tế

và luôn mong muốn được hòa mình vào dòng chảy cách mạng.

Tháng 7-1935, Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương gồm

3 người sang tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản ở

Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc chỉ được tham gia với tư cách là đại biểu

tư vấn. Tại phiên họp bế mạc, Đại hội chuẩn y Nghị quyết của Hội

nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản chính thức công

nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ của Quốc tế cộng

sản và bầu đồng chí Tổng Bí thư Lê Hồng Phong làm Ủy viên Ban

Chấp hành Quốc tế cộng sản.

2.2.HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO VỊ THẾ CỦA ĐẢNG, ĐOÀN

KẾT VỚI CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐẤU TRANH VÌ HÒA BÌNH

DÂN CHỦ TỪ NĂM 1936 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

2.2.1.1. Tình hình thế giới

Page 12: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

10

Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với

nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế cộng sản và phát

động chiến tranh chia lại thế giới.

Đại hội VII Quốc tế cộng sản (tháng 7-1935) xác định kẻ thù

nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.

Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít ngày càng mạnh mẽ.

Tháng 4-1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi trong

cuộc bầu cử Quốc hội, tạo ảnh hưởng tích cực tới phong trào dân chủ

Đông Dương những năm 1936-1939.

2.2.1.2. Tình hình trong nước

Do hậu quả của khủng hoảng kinh tế mà thế lực cầm quyền phản

động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột. Đời sống của đại đa số

nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm áo

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong thời gian này, Chính phủ Pháp cử phái đoàn sang điều tra

tình hình Đông Dương, cử Toàn quyền mới, ân xá tù chính trị, nới

rộng quyền tự do báo chí… Một loạt động thái này đã khiến cho cao

trào đấu tranh dân chủ bùng lên sôi nổi.

2.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1936 đến tháng 8

năm 1939

Cùng thực tiễn tình hình cách mạng, những năm 1936-1939,

theo chủ trương chuyển hướng chiến lược do Đại hội lần thứ VII

Quốc tế Cộng sản đề ra, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến

được Đảng cụ thể hóa bằng nhiệm vụ: chống phát xít, chống phản

động thuộc địa, đòi tự do dân chủ. Trong quá trình thực hiện những

nhiệm vụ này, Đảng luôn chú trọng việc báo cáo, nhận chỉ thị từ

Quốc tế cộng sản cũng như sự giúp đỡ từ các Đảng Cộng sản, phong

trào tiến bộ của các nước anh em.

Trong khi hoạt động, nhất là sau các Hội nghị, Hội nghị mở

rộng, Ban Chấp hành hoặc Ban Chỉ huy ở ngoài thường gửi báo cáo

đến Quốc tế cộng sản về tình hình công tác, xin ý kiến chỉ đạo về tổ

chức, đề nghị cấp kinh phí, yêu cầu gửi sinh viên đi đào tạo ở nước

ngoài,… (7-1936, 9-1937, 4-1938,…)

Page 13: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

11

Trong giai đoạn này, hoạt động đối ngoại của Đảng chủ yếu với

Chính phủ và các Đảng của nước Pháp, nêu rõ quan điểm, mục tiêu đấu

tranh của Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam; kêu gọi sự ủng hộ

trong phong trào đấu tranh chống phát xít, đòi hòa bình, dân chủ. Đảng đã

gửi thư cho Chính phủ, Mặt trận Nhân dân Pháp (3-10-1936, 8-1937) kêu

gọi chấm dứt chế độ khủng bố, đề nghị cho các tổ chức cách mạng được

hoạt động hợp pháp, yêu cầu tiến hành cải cách dân chủ ở Đông Dương.

Đảng chủ trương ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp và Chính phủ

Bơ-lum, xem họ là người bạn của nhân dân Đông Dương. Đảng kêu

gọi quần chúng đoàn kết với các tổ chức của người Pháp là thành

phần của Mặt trận nhân dân Pháp; vận động kiều dân các nước tham

gia Đông Dương Đại hội và Mặt trận nhân dân Đông Dương, đoàn

kết đấu tranh cho tự do, cơm áo và hoà bình, chống chủ nghĩa phát

xít, chống chiến tranh đế quốc.

Trước những đòi hỏi hợp lý của nhân dân và từ tình hình thực tế

tại Đông Dương, nhằm xoa dịu dư luận phản đối từ Mặt trận Nhân dân

Pháp, Chính phủ Pháp buộc phải ban hành tại thuộc địa một số quyền

tự do dân chủ hạn chế. Trong năm 1937, nhân dịp đại diện Quốc hội

Pháp Gôđa sang Đông Dương tìm hiểu tình hình và Bre-vi-e nhậm

chức Toàn quyền Đông Dương, nhiều hoạt động của quần chúng và các

tổ chức xã hội diễn ra mạnh mẽ. Người dân biểu tình đòi chính quyền

Pháp ở Đông Dương tiến hành những cải cách cho phù hợp với việc

Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc.

Ngoài ra, Đảng tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực, như:

Tham gia các hoạt động trong phong trào đấu tranh dân chủ từ 1936-

1938; Phối hợp với Đảng Xã hội Pháp tổ chức các cuộc sinh hoạt quần

chúng nhân ngày 1-5, tổ chức Hội chợ quyên góp giúp nạn nhân chiến

tranh ở Trung Quốc, phối hợp với tổ chức dân chủ của người Pháp tổ

chức các hoạt động quốc tế trên đất Đông Dương…

Trong năm 1938, Đảng đã mở cuộc vận động ủng hộ nhân dân

Trung Quốc kháng chiến chống phát xít Nhật, tạo ra phong trào ở

nhiều địa phương trong cả nước. Phong trào ủng hộ nhân dân Trung

Quốc kháng Nhật thể hiện tình đoàn kết quốc tế cao cả, tinh thần yêu

Page 14: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

12

chuộng hòa bình chống chiến tranh phát xít của nhân dân ta, góp

phần nâng cao uy tín của Đảng ở Đông Nam Á và thế giới.

Từ cuối năm 1938, tình hình quốc tế và trong nước nhiều bất lợi,

Đảng rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng. Ngày

29-10-1938, Đảng ra Tuyên ngôn đối với thời cuộc, cho thấy nhãn

quan chính trị sắc bén trước tình hình thế giới, tình hình Đông Dương

và thể hiện rõ lập trường quan điểm của Đảng.

Cuối năm 1938, sau một thời gian nghiên cứu, học tập tại Liên

Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc. Người viết nhiều bài báo

ủng hộ cách mạng Trung Quốc và có ý kiến sâu sắc đối với phong

trào cách mạng Việt Nam, đăng trên tuần báo Notre Voix.

Tiểu kết chương 2

Từ năm 1930 đến năm 1939 là thời gian đường lối đối ngoại của

Đảng được hình thành. Dù là một Đảng non trẻ, mới ra đời, bị thực dân

Pháp đàn áp, khủng bố nặng nề nhưng Đảng Cộng sản Đông Dương đã

dần từng bước xây dựng mối quan hệ với Quốc tế cộng sản và các

Đảng Cộng sản khác.

Những chủ trương, đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng

thời kỳ 1930-1939 bước đầu định hình rõ nét đường lối đối ngoại của

Đảng; thể hiện sự sáng suốt và linh hoạt trước bối cảnh, tình hình,

đặc biệt là trước mỗi đối tượng đối ngoại mà Đảng thực hiện. Qua

việc ngày càng chủ động phát triển các mối quan hệ, có thể thấy từng

bước trưởng thành trong đối ngoại của Đảng. Đó là cơ sở để Đảng

tiếp tục vận dụng, phát triển trong hoạt động đối ngoại giai đoạn

1939-1945.

Chương 3

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ

THÁNG 9 NĂM 1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945

3.1. HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC

3.1.1. Hoàn cảnh quốc tế

Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Khối Trục theo chủ nghĩa phát

xít (Đức, Ý, Nhật Bản) và phe Đồng minh (nhiều quốc gia, trong đó

các nước giữ vai trò chính yếu là Liên Xô, Anh, Mỹ và Pháp) diễn ra

Page 15: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

13

từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, gồm nhiều mặt trận. Trong đó, ngoài mặt

trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế

giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động đến số phận của Việt Nam,

là mặt trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu

Á-Thái Bình Dương. Trong chiến tranh, năm 1943, Quốc tế cộng sản

- tổ chức lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh

hưởng không nhỏ tới hoạt động của các Đảng Cộng sản trên thế giới.

3.1.2. Hoàn cảnh trong nước

Trong chiến tranh, Đông Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột

ghê gớm và từ tháng 9-1940 trở thành căn cứ quân sự cho Nhật.

Nhân dân phải chịu thêm một tầng áp bức, vô cùng khổ cực. Ngày 9-

3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trực tiếp cai trị ở Đông Dương.

Cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào kháng Nhật cứu nước

sục sôi, chỉ đợi thời cơ vùng dậy. Ngày 12-8-1945, được tin Nhật

hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương họp quyết

định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa. Ngày 13-8, Trung ương

Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn

quốc, ra Lệnh khởi nghĩa. Nhân dân cả nước nổi dậy giành chính

quyền. Đến cuối tháng 8, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta dưới

sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi hoàn toàn.

3.2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC VÀ

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ THÁNG 9 NĂM

1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945

3.2.1. Chủ trương về đối ngoại của Đảng

Để ứng phó với tình hình thế giới và trong nước luôn biến đổi

nhanh chóng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ

sáu (ngày 6-11-1939) và thứ bảy (ngày 6 đến 9-11-1940). Nhìn

chung, đường lối đối ngoại của Đảng qua hai hội nghị đều thống nhất

ở hai nội dung: đấu tranh chống đế quốc xâm lược và liên hệ, ủng hộ

phong trào cách mạng thế giới.

3.2.1.1. Đấu tranh chống đế quốc xâm lược

Trước khi Nhật vào, Đảng xác định đế quốc Pháp là kẻ thù mà

cách mạng phải đánh bại để giành độc lập. Đảng cũng dự báo nguy

cơ Pháp và Nhật hợp tác với nhau.

Page 16: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

14

Từ khi Nhật vào Đông Dương, Đảng nhận rõ bản chất của đế

quốc Pháp và Nhật khi chúng hợp tác với nhau cũng như chỉ ra mâu

thuẫn ngầm giữa hai đế quốc sẽ khiến chúng không thể mãi hòa hoãn.

Bất kỳ kẻ thù là Nhật hay Pháp, hay là cả hai, Đảng đều xác định chỉ

có dân tộc Đông Dương mới giải thoát được Đông Dương. Đảng còn

thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế vận động nhân dân

chống lại chính sách của Pháp và Nhật.

3.2.1.2. Liên hệ, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khẳng định tầm

quan trọng của việc liên lạc với các lực lượng cách mạng toàn thế

giới, coi phong trào cách mạng thế giới là chỗ dựa cũng như tuyên

truyền ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng. Với Lào và Campuchia,

Nghị quyết nêu ra việc thi hành quyền dân tộc tự quyết ở một Đông

Dương hoàn toàn độc lập.

Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy, bên cạnh việc chủ trương

liên minh với Liên Xô và ủng hộ Liên Xô, còn đặc biệt nhấn mạnh

ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

Đến Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD

xác định trong cuộc cách mạng Đông Dương, lực lượng phản cách

mạng là hai đối tượng: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay

sai của chúng; 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó” [42,

tr.118]. Xác định đúng kẻ thù có ý nghĩa lớn trong đường lối cách

mạng giải phóng dân tộc và thể hiện cách mạng Việt Nam là một bộ

phận của lực lượng dân chủ thế giới chống phát xít:

“Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế

giới và giai đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát xít. Bởi

vì Pháp – Nhật hiện nay là một bộ phận đế quốc xâm lược và là một

bộ phận phát xít thế giới.” [42, tr.114].

Về công tác đối ngoại (ngoại giao), chính phủ đó sẽ:

“1. Hủy bỏ tất cả mọi hiệp ước mà Pháp đã ký với bất kỳ nước nào;

...4. Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản

trên thế giới” [42, tr.150-151].

Để thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi Pháp - Nhật, Việt Minh hiệu triệu

nhân dân với khẩu hiệu hành động là “phản Pháp - kháng Nhật - liên

Page 17: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

15

Hoa - độc lập” [42, tr.123]. Xác định và phân biệt rõ nhân dân lao động

các nước và kẻ thù cần đánh đuổi (chỉ có phát xít). Từ việc Hội nghị lần

thứ tám xác định phát xít Nhật- Pháp là kẻ thù của phong trào cách mạng

giải phóng dân tộc ở Đông Dương, Đảng và Mặt trận Việt Minh hiệu

triệu nhân dân “đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”.

3.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến

tháng 3 năm 1945

3.2.2.1. Hoạt động đấu tranh chống đế quốc xâm lược

Thực hiện đường lối chống đế quốc xâm lược đề ra trong Nghị

quyết Trung ương sáu, bảy, đảng bộ các nơi tích cực lãnh đạo nhân dân

chống giặc, tiêu biểu là khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), khởi nghĩa

Nam Kỳ (23-11-1940). Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng

Sơn, quân Pháp trên đường thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn.

Đảng bộ Bắc Sơn lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của tàn quân

Pháp để tự vũ trang cho mình, giải tán chính quyền địch và thành lập

chính quyền cách mạng (27-9-1940). Đội du kích Bắc Sơn được thành

lập và lớn dần. Sau đó, Nhật thỏa hiệp để Pháp quay lại. Cuộc khởi

nghĩa Bắc Sơn thất bại, nhưng để lại những bài học quý về khởi nghĩa

vũ trang. Tháng 10-1940, quân Xiêm, được phát xít Nhật xúi giục, gây

xung đột dọc biên giới với Lào và Cam-pu-chia. Chiến tranh với Xiêm

nổ ra, thực dân Pháp bắt binh lính Việt Nam ra trận làm bia đỡ đạn.

Nhân dân Nam Kỳ bí mật liên lạc với Đảng bộ Nam Kỳ. Trước tình

thế cấp bách, Đảng bộ Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa dù chưa có sự

đồng ý của Trung ương. Nhận thấy thời cơ chưa chín muồi, Trung

ương Đảng ra lệnh hoãn, nhưng cán bộ truyền lệnh bị Pháp bắt nên

Nam Kỳ vẫn tiến hành khởi nghĩa. Khởi nghĩa thất bại dưới sự đàn áp

khốc liệt của thực dân, nhưng đây là cuộc khởi nghĩa rộng và mạnh mẽ

nhất so với các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp trước đó, để lại

những bài học quý báu để thực hiện Cách mạng Tháng Tám 1945.

3.2.2.2. Tranh thủ mối quan hệ với Trung Quốc

Trở lại Trung Quốc từ đầu tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc vừa

hoạt động ở các tỉnh biên giới sát Việt Nam vửa tìm cách về nước.

Tận dụng danh nghĩa hợp pháp của Việt Nam độc lập đồng minh

hội (Việt Minh) do chí sĩ yêu nước Hồ Học Lãm thành lập, Nguyễn Ái

Page 18: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

16

Quốc bước đầu gây dựng quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch.

Người cũng xác định mục tiêu chủ yếu là để chúng tạo điều kiện,

không cản trở công việc của ta; về bản chất quân Quốc dân Đảng vẫn

là kẻ thù, dù có vào Việt Nam để đánh Nhật cũng chỉ là đồng minh

tạm thời. Cuối năm 1940, Người còn viết báo đăng trên Cứu

vong nhật báo (Trung Quốc) để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân

Trung Quốc với cách mạng Việt Nam. Nhờ các mối quan hệ với

Trung Quốc, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc.

Sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ tám

Trung ương Đảng tại Pắc Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến 19-5-1941.

Hội nghị đề ra những phương hướng lớn về đường lối và hoạt động đối

ngoại. Sau đó, căn cứ tình hình thực tế, Đảng liên tục linh hoạt ứng biến

đề ra hoạt động đối ngoại đúng đắn, góp phần vào cuộc đấu tranh chống

chủ nghĩa phát xít, ủng hộ Liên bang Xôviết, và liên hiệp có điều kiện với

Trung Hoa dân quốc và Anh-Mỹ.

3.2.2.3. Đấu tranh chống phát xít Nhật – Pháp

Hội nghị lần thứ tám xác định phát xít Nhật- Pháp là kẻ thù của

phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương. Đảng và Mặt

trận Việt Minh hiệu triệu nhân dân đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp,

Nhật. Đảng nhận ra xu hướng Đờ Gôn trong những người Pháp ở Đông

Dương và tinh thần chống Nhật trong Hoa kiều nên đề ra đường lối liên

minh với các đảng phái chống phát xít của người ngoại quốc ở Đông

Dương, thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương.

3.2.2.4. Liên hệ, ủng hộ Liên bang Xôviết và phong trào cách

mạng thế giới

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám và nhiều văn kiện sau đó,

Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống lại

phát xít của Liên Xô. Đảng đưa ra nhiều biện pháp thiết thực để ủng

hộ Liên Xô như tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu lý do cần

ủng hộ, phổ biến khẩu hiệu bằng nhiều hình thức, quyên góp.

Tháng 6-1943, Quốc tế cộng sản tự giải thể. Nhất trí với chủ

trương của Quốc tế cộng sản, ngày 1-6-1943, Trung ương Đảng Cộng

sản Đông Dương ra thông cáo Đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống

phát xít xâm lược, vừa thông báo chính thức với các đảng viên, vừa

Page 19: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

17

thể hiện quan điểm của Đảng về sự kiện này. Sau khi chỉ ra sự đúng

đắn trong quyết định tự giải tán của Quốc tế cộng sản, Đảng khẳng

định mục đích, tôn chỉ của Đảng không thay đổi, Đảng vẫn đứng

vững, mọi đường lối đối ngoại của Đảng vẫn như cũ.

3.2.2.5. Liên hiệp có điều kiện với Trung Hoa dân quốc và Mỹ, Anh

Với vấn đề “Hoa quân nhập Việt”, Đảng xác định phương

châm chiến thuật là liên minh với quân Tưởng đánh Nhật - Pháp

theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”. Chuẩn bị cho tình thế “Hoa

quân nhập Việt”, Đảng có những chỉ đạo cụ thể. Đối với quân Anh -

Mỹ, Đảng xác định cùng họ nhân nhượng liên hiệp có điều kiện. Nếu

họ chịu giúp cách mạng Đông Dương, thì có thể để cho họ hưởng một

phần quyền lợi ở Đông Dương; nhưng nếu họ giúp đế quốc Pháp khôi

phục lại chính quyền ở Đông Dương, Đảng phải cương quyết cự tuyệt

và tiếp tục chiến đấu giành quyền độc lập.

Ngày 13-8-1942, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc liên hệ

với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Quốc dân Đảng Trung

Quốc, các lực lượng cách mạng người Việt Nam và Đồng minh, nhằm

tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. Không may, đến phố Túc Vinh,

Thiên Bảo, Quảng Tây thì Người bị quân Quốc dân Đảng bắt.

3.2.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945 đến

tháng 8 năm 1945

3.2.3.1. Quan điểm của các nước Đồng minh về vấn đề Việt Nam

* Quan điểm của Pháp

“Chính phủ Pháp tự do” của Đờ Gôn không ngừng tuyên bố ý

định khôi phục chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương.

* Quan điểm của các nước Đồng minh khác

Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven chủ trương thiết lập chế độ thác quản

để trao dần nền độc lập cho các nước Đông Dương và được Xit-ta-lin

tán thành. Tổng thống Trung Hoa Dân quốc Tưởng Giới Thạch

hưởng ứng nhưng với âm mưu một mình chiếm Đông Dương. Thủ

tướng Anh Sớc-Sin phản đối vì lo ngại nếu Việt Nam độc lập, thì các

thuộc địa của Anh ở châu Á cũng vùng lên đòi độc lập. Anh hứa giúp

đỡ Pháp khi quân đội Anh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.

Ngày 12-4-1945, Tổng thống Ru-dơ-ven qua đời, Tổng thống

Page 20: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

18

Tru-man không phản đối việc Pháp trở lại Đông Dương. Liên Xô sau

khi ký Hiệp ước Liên minh trong chiến tranh chống chủ nghĩa phát

xít và tương trợ sau chiến tranh giữa Liên Xô và Pháp (12-1944) giữ

thái độ im lặng. Sự thay đổi thái độ của các nước lớn đã để ngỏ cửa

cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.

3.2.3.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945

đến tháng 8 năm 1945

* Với Nhật

Phát xít Nhật dần trở thành đối tượng đấu tranh chính của Đảng

và Mặt trận Việt Minh. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trở

thành kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương.

Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng nhận thấy thời cơ đã đến, phải

tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Do chênh lệch lực lượng, Đảng

dùng lực lượng quần chúng cách mạng tạo ra khí thế cách mạng áp

đảo để giành chính quyền. Mặt khác, gửi tối hậu thư, ra điều kiện

buộc Nhật nằm yên và trao vũ khí để được an toàn tính mạng. Cách

làm vừa cương quyết, vừa mềm dẻo này đã giúp cách mạng tránh

được nhiều thương vong, thu được kết quả quan trọng là giành được

chính quyền trong thời gian ngắn.

* Với Pháp

Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, vị trí của Pháp trong sách lược

đối ngoại của Đảng đã có thay đổi đáng kể. Đảng nêu ra cần sẵn sàng

liên minh với những người Pháp chống Nhật.

* Với lực lượng Đồng minh

Chủ trương của Đảng là cần sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng

minh bằng cách biểu tình, lập dân quân cùng chiến đấu, mở rộng

chiến tranh du kích; đồng thời, lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung Quốc

- Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn.

Hồ Chí Minh thông qua những người Mỹ có mặt ở Tân Trào giao

thiệp với Pháp nhằm làm cho người Mỹ thấy thiện chí của Việt Minh

muốn tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Đông Dương sau chiến

tranh, đồng thời, thăm dò thái độ của các nước đối với Việt Nam.

Nhận ra ý đồ của Pháp vẫn là không để Đông Dương được độc lập,

phía Việt Nam tỏ thái độ cương quyết.

Page 21: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

19

* Với chính quyền Tưởng Giới Thạch

Ngày 10-9-1943, Trương Phát Khuê mời Hồ Chí Minh tham gia

Ban trù bị của Đại hội toàn quốc của Việt Cách. Để được tự do, Hồ

Chí Minh đã nhận lời. Cuối tháng 3-1944, Hội nghị đại biểu hải

ngoại Việt Cách họp kín tại Liễu Châu do Trương Phát Khuê chủ trì.

Sau cuộc họp, Tưởng Giới Thạch chấp nhận để Đảng Cộng sản

Đông Dương và Việt Minh trong Mặt trận liên minh Trung-Việt

chống chủ nghĩa phát xít. Tướng Trương Phát Khuê ghi nhận uy tín

và những đóng góp của Hồ Chí Minh trong việc liên kết các lực

lượng quốc tế chống phát xít đang có mặt trên địa bàn của ông ta.

Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh cũng không hề

ảo tưởng về “thiện chí” của chính phủ Tưởng với Việt Nam. Người

tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng Quốc dân Đảng, nhưng cũng biết

những âm mưu, nguy cơ của kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”.

* Với Mỹ

Cuối năm 1944, Việt Minh cứu một Trung úy phi công Mỹ thoát

khỏi vòng vây của Nhật-Pháp. Hồ Chí Minh đưa viên phi công về

Trung Quốc cho Mỹ. Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt

Minh là ủng hộ Đồng minh chống phát xít Nhật. Phía Mỹ cảm ơn

Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể. Người Mỹ cung cấp

cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống căn

cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để ta chuyển về.

Đội tình báo Con Nai của Mỹ nhảy dù xuống Tân Trào, huấn luyện các

kỹ năng quân sự cho 40 người trong đội quân du kích Việt Minh.

Việt Minh cung cấp cho Mỹ những tài liệu về quân đội Nhật, giúp

tìm những người Mỹ đang lẩn trốn và giúp thành lập một hệ thống

radio suốt từ Hà Nội vào Sài Gòn. Khi ta giành được chính quyền

ngày 19-8-1945, người Mỹ đã có đoàn đến Hà Nội vào 22-8, giúp ta

tiếp xúc với Pháp nhưng không đạt kết quả.

* Với Anh

Để chống phát xít Nhật, Anh cũng đã xây dựng một đội tình báo

người Đông Dương gồm 7 người được chọn trong những chính trị

phạm Đông Dương bị đi đày ở Ma-đa-gát-xca, đưa đến Ấn Độ để

huấn luyện sử dụng điện đài và nhảy dù. Đó đều là những chiến sĩ

Page 22: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

20

cộng sản mong muốn tận dụng cơ hội để về nước tiếp tục phụng sự

Đảng. Các đồng chí tận dụng các kỹ năng đã được huấn luyện, vừa

tranh thủ sự giúp đỡ của Anh để có thêm hàng tiếp tế, vừa cung cấp

cho tình báo Anh những thông tin đã được phía ta “kiểm duyệt”.

* Với phong trào cách mạng các nước xung quanh

Do gặp nhiều trở ngại, phải đến cuối năm 1944, Mặt trận Việt

Minh mới từng bước mở rộng liên lạc với phong trào dân tộc chống

phát xít Nhật ở một số nước như Miến Điện, Mã Lai, Philíppin, Thái

Lan, Inđônêxia... Ở Thái Lan, Việt Minh cùng với các lực lượng yêu

nước chống Nhật lập khu căn cứ chung ở Phu Khan. Tại đây, Việt

Minh đã huấn luyện quân đội, lập kho vũ khí và tiếp nhận viện trợ vũ

khí từ lực lượng Đồng minh.

Ở Lào, từ năm 1943, “Ban vận động Việt kiều Lào - Thái” được

thành lập và tiến hành gây dựng cơ sở trên địa bàn Lào. Đầu 1945,

“Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào”, một chi nhánh của

Mặt trận Việt Minh, được thành lập. Cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi

ở Việt Nam đã đập tan bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật và

thực dân Pháp ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi

nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào. Ở Campuchia, trước khi

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cán bộ cộng sản Việt Nam bắt

đầu có những hoạt động nhỏ lẻ. Ban Vận động Việt kiều cũng được

thành lập trong cộng đồng Việt kiều Campuchia. Tuy vậy, hoạt động

của Đảng ở Campuchia không thu được nhiều kết quả như ở Lào.

Tiểu kết

Từ 1939, đặc biệt là từ 1941 đến 1945 là những năm hoạt động đối

ngoại của Đảng đạt những kết quả khá quan trọng. Với đường lối đối

ngoại tổng quát: đoàn kết các Đảng Cộng sản các nước, chống chủ

nghĩa đế quốc, đối ngoại của Đảng dần đi vào cụ thể chính sách với

từng quốc gia, phân tích và có đối sách với các đối tượng khác nhau.

Đảng đã thành công trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát

xít, ủng hộ Liên Xô, liên hiệp với Mỹ và Trung Quốc,... Thời kỳ này

cũng đánh dấu hoạt động đối ngoại năng động của Hồ Chí Minh.

Những thành tựu đối ngoại của Đảng trong thời kỳ này đã góp phần to

lớn trong việc tạo nên điều kiện thuận lợi để tổng khởi nghĩa nổ ra và

Page 23: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

21

thắng lợi vào tháng 8-1945 và là tiền đề trực tiếp cho hoạt động ngoại

giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Chương 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

4.1.1. Thành tựu

4.1.1.1. Hình thành đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình

thực tiễn phức tạp

Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 diễn

ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp. Trong tình

hình đó, Đảng đã đưa ra được những đường lối đối ngoại sáng tạo, hợp

lý, hình thành do yêu cầu của thực tiễn đấu tranh cách mạng, dựa trên

kinh nghiệm hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và căn cứ vào

quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.

4.1.1.2. Tạo dựng vị trí của Đảng Cộng sản Đông Dương trong

phong trào cộng sản quốc tế

Từ khi ra đời, Đảng đã nhận thức rõ rằng Đảng là một bộ phận

của phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới. Với sự hoạt

động tích cực của Đảng viên, trong đó có vai trò lớn của Hồ Chí

Minh, Đảng dần trưởng thành và được công nhận là một chi bộ độc

lập của Quốc tế cộng sản, giành được sự đồng tình ủng hộ của nhân

dân thế giới đối với Việt Nam, cũng như đóng góp vào sự nghiệp

cách mạng chung của thế giới.

4.1.1.3. Ngày càng mở rộng đối tượng hợp tác và thu được hiệu quả

Khi mới thành lập, đối tượng hợp tác của Đảng hầu như chỉ có

Quốc tế cộng sản và các Đảng cộng sản khác. Sau đó, căn cứ vào thực

tiễn, Đảng dần mở rộng đối tượng, tìm cách thiết lập quan hệ với

Quốc dân Đảng Trung Hoa, với Đồng minh Mỹ và những người

Pháp, Anh chống phát xít. Đặc biệt với Pháp, Đảng đã rất linh hoạt,

có thái độ và hành động phù hợp với từng thời điểm, từng hoàn cảnh.

Đảng cũng thiết lập được quan hệ đối ngoại bước đầu với nhiều

nước trên thế giới, trong đó có các nước thuộc địa và phụ thuộc để

cùng đoàn kết chống ngoại xâm, tăng cường tình đoàn kết với nhân

dân Lào và Campuchia và tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của nhân

Page 24: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

22

dân tiến bộ trên thế giới.

4.1.1.4. Góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của

dân tộc Việt Nam

Hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ này đã đóng góp nhất định

vào thành công của Cách mạng Tháng Tám:

Quốc tế cộng sản đã giúp Đảng đào tạo cán bộ, chỉ dẫn về đường

lối và giúp đỡ tài chính. Báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô và Pháp

đã nhiều lần đăng tin, bài ủng hộ cách mạng Đông Dương. Cơ sở

cách mạng ở các huyện vùng biên thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung

Quốc) là nơi cán bộ và nhân dân ta tạm lánh khi bị khủng bố trắng.

Giao thiệp ban đầu với Mỹ mang lại những lợi ích thiết thực: Mỹ

cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men và huấn luyện các

kỹ năng quân sự cho lực lượng vũ trang Việt Minh.

Trong thời gian Nhật - Pháp cùng thống trị Đông Dương, đường lối

đối ngoại tập trung vào từng đối tượng cụ thể đã tận dụng mâu thuẫn sẵn

có để chia rẽ quan hệ Nhật và Pháp.

Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng sử dụng phương

pháp điều đình, thương lượng giành chính quyền từ quân đội Nhật, làm

giảm đáng kể những tổn thất của ta.

4.1.2. Hạn chế

Hạn chế lớn nhất là thiếu hụt nguồn nhân lực hoạt động trong

lĩnh vực đối ngoại. Đảng mới thành lập, số lượng Đảng viên ít, số

Đảng viên có chất lượng có thể tham gia hoạt động đối ngoại càng ít

hơn. Thêm nữa, Đảng thường xuyên phải đối diện với sự khủng bố

của thực dân Pháp và tay sai, khiến các cơ quan lãnh đạo của Đảng,

liên tục bị truy lùng và đánh phá, hao hụt nhân lực.

Bên cạnh đó, Đảng chưa thành lập bất kỳ cơ quan chuyên trách

nào về đối ngoại của Đảng nên việc tiếp nhận các thông tin, tạo cơ

hội tiếp xúc trực tiếp từ bên ngoài còn hạn chế.

Ngoài ra, việc tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với phong trào

đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam cũng còn hạn chế.

Về đối tượng quan hệ đối ngoại, Đảng hướng đến nhiều đối

tượng nhưng lại chưa xác định đối tượng nào cần đặc biệt ưu tiên.

Việc này phần nào hạn chế mong muốn hợp tác của các nước khác

Page 25: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

23

với ta, cũng thể hiện sự thiếu kinh nghiệm đối ngoại của Đảng.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

- Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác đối ngoại.

- Xác định đường lối đối ngoại phù hợp tình hình thời cuộc.

- Nhận thức rõ bạn thù, chủ động, sáng tạo để mở rộng quan hệ

đối ngoại.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động đối ngoại.

- Nhận thức rõ động cơ và sự ứng xử của các nước lớn trước vận

mệnh của các nước nhỏ như Việt Nam.

- Nhận thức nội lực quyết định đối ngoại, đối ngoại phục vụ đối

nội.

Tiểu kết

Trong 15 năm đầu tiên lãnh đạo nhân dân đi đến Cách mạng

Tháng Tám thành công, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa, Đảng đạt được những thành tựu đáng kể trên mặt trận đối ngoại,

nhưng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Kết quả hoạt động đối

ngoại thời kỳ 1930-1945 đã để lại nhiều bài học quý giá cho sau này.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình hình thế giới có nhiều

diễn biến phức tạp, những bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động

đối ngoại các thời kỳ , trong đó có thời kỳ 1930-1945, tiếp tục được

Đảng kế thừa, bổ sung, phát triển toàn diện, sâu sắc hơn. Báo cáo

chính trị tại Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đã chỉ ra quan

điểm, chủ trương, định hướng hoạt động đối ngoại theo phương châm

chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải

pháp hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp xu hướng quốc tế và điều

kiện thực tiễn của nước ta, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn

Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam.

Page 26: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

24

KẾT LUẬN

Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc

lập nên những kì tích vẻ vang, giành độc lập cho đất nước. Đạt được

các kết quả vĩ đại ấy, một phần quan trọng là nhờ Đảng biết phát huy

vai trò to lớn của hoạt động đối ngoại. Chưa có chính quyền, cơ bản

phải hoạt động bí mật, Đảng cố gắng tận dụng mọi thời cơ, tranh thủ

mọi yếu tố quốc tế, nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho cách mạng

Việt Nam. Quan điểm liên minh với các lực lượng quốc tế mà Đảng

nêu ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên thực chất là luận điểm có

tính chất chiến lược cho cả một thời kỳ cách mạng lâu dài.

Những năm đầu thành lập, hoạt động đối ngoại của Đảng mới

chỉ dừng ở việc nghiêm chỉnh thực hiện chỉ thị của Quốc tế cộng sản

và lấy hoạt động thực tiễn để tự khẳng định vai trò của một Đảng

Mácxit- Lênin nít mới ra đời ở Đông Dương. Từ 1936 trở đi, Đảng

dần tranh thủ phát triển các mối quan hệ với các Đảng anh em, đẩy

mạnh tuyên truyền ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt động đối ngoại của Đảng

và nhân dân ta đã có sự phát triển mạnh mẽ. Thông qua Mặt trận Việt

Minh, Đảng không những thực hiện ủng hộ Liên Xô, ủng hộ nhân

dân Trung Quốc kháng Nhật, mà ủng hộ mọi lực lượng chống chủ

nghĩa phát xít, kể cả Mỹ, cả Pháp Đờ Gôn.

Những thành công của hoạt động đối ngoại 1930-1945 là kết quả

tất yếu của việc nắm chắc các nguyên lí của Chủ nghĩa Mác- Lênin,

bám sát thực tiễn, hết sức sáng tạo và cách mạng. Thành công đó

cũng gắn với công lao gây dựng và lãnh đạo của Hồ Chí Minh.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, ngoại giao cần có sự sáng

tạo trên cơ sở những kinh nghiệm đã đúc kết từ nhiều năm của Đảng

để góp phần đưa đất nước ngày càng phát triển, đa dạng, đa phương

hóa quan hệ, hội nhập khu vực và thế giới, mở rộng và nâng cao vai

trò và vị thế quốc tế của nước ta, tạo môi trường quốc tế thuận lợi

cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa. Những kinh nghiệm về đối ngoại của Đảng những năm 1930

đến 1945 vẫn còn giá trị mãi đến ngày nay.

Page 27: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1930 …hcma.vn/Uploads/2017/8/6/TOM TAT LUAN AN NGUYEN THI HUYEN...của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

25

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Huyền Trang (2009), “Về hoạt động của Nguyễn Ái

Quốc ở Thái Lan và Lào”, Tạp chí Lịch sử Đảng (6).

2. Nguyễn Thị Huyền Trang (2015), “Tuyên ngôn độc lập-sự khẳng

định mạnh mẽ về chủ quyền dân tộc”, Đặc san Thông tin tư

liệu (48).

3. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng,

sự gắn kết của tình thân”, Đặc san Thông tin tư liệu (50).

4. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh với Hồ Tùng Mậu

trong cách mạng Việt Nam”, Đặc san Thông tin tư liệu (50).

5. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hoạt động đối ngoại của Đảng

từ tháng 5-1941 đến cuối năm 1943”, Tạp chí Lịch sử Đảng

(11).

6. Nguyễn Thị Huyền Trang (2016), “Hồ Chí Minh trong nỗ lực xây

dựng quan hệ với Mỹ từ 1941 đến 1945”,

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nhan-vat-su-

kien/item/1706-ho-chi-minh-no-luc-xay-dung-quan-he-voi-

my-tu-1941-den-1945.html.[truy cập ngày 30-11- 2016].

7. Nguyễn Thị Huyền Trang, Chu Đức Tính (2017), “Về cội nguồn

sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lnin của Nguyễn Ái

Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Hồ Chí Minh (1).

8. Nguyễn Thị Huyền Trang, Chu Đức Tính (2017), “Toàn văn bản lý

lịch năm 1934 của Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí Lịch sử

Đảng (4).