Thương hiệu logo ACB
-
Upload
dang-nguyen -
Category
Documents
-
view
306 -
download
6
Transcript of Thương hiệu logo ACB
Thương hiệu logo ACB
ACB là chữ viết tắt Asia Commercial Bank - ACB là: Attitude (Thái độ), Capability
(Năng lực) và Behaviour(Hành vi)
- Thái độ: Nhân viên ACB luôn có thái độ tôn trọng khách hàng, lắng nghe khách hàng,
xem khách hàng là đối tác quan trọng trong quan hệ lợi ích hỗ tương
- Năng lực: ACB cung ứng đầy đủ nguồn vật chất, tài chính và nhân sự để đảm bảo quá
trình cung ứng sản phẩm dịch vụ và các tiện nghi giao dịch được thuận lợi an toàn.
- Hành vi: Nhân viên ACB luôn ứng xử lịch sự, thân thiện với khách hàng
Màu sắc
Thương hiệu(logo) ACB có màu xanh.
Màu xanh là biểu trưng của: niềm tin, hy vọng, sự trẻ trung và năng động
Thiết kế
Thương hiệu ACB có 12 vạch chạy ngang 3 chữ A, C, B và có vị trí trung tâm.
+ Con số 12 đại diện cho 12 tháng trong năm (th ?i gian)�
+ Các vạch ngang biểu trưng cho dòng lưu thông tiền tệ (ngân lưu) trong hoạt động tài
chính ngân hàng.
+ Vị trí trung tâm biểu trưng cho trạng thái cân bằng.
Tổng quát lại, dòng lưu thông tiền tệ của ngân hàng ACB luôn ở trạng thái ổn định, cân
bằng giữa hai mặt an toàn và hiệu quả, và luôn luôn như thế theo thời gian.
1. Bối cảnh thành lập.
Pháp lệnh về Ngân hàng nhà nước và pháp lệnh về Ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín
dụng và các công ty tài chính được ban hành vào tháng 5/1990 đã tạo dựng một khung
pháp lý cho hoạt động Ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) đã được thành lập theo giấy phép số 0032/NH-
GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, giấy phép số 553/GP-UB do
Ủy ban Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993 ACB chính
thức đi vào hoạt động.
2. Tầm nhìn.
Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng thương
mại cổ phần bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào
thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa
và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, và nhất là một ngân
hàng mới thành lập như ACB.
3. Chiến lược.
Chiến lược tăng trưởng ngang: thể hiện qua 3 hình thức.
-Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: hiên nay trên phạm vi toàn quốc, ACB
đang tích cực phát triễn mạng lưới kênh phân phối tại thị trường mục tiêu, khu vực thành
thị Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để
cung cấp cho thị trường đang có và thị trường mới trong tình hình yêu cầu của khách
hàng ngày càng tinh tế và phức tạp. Ngoài ra khi điều kiên cho phép, ACB sẽ mở văn
phòng đại diện tại Hoa Kỳ.
- Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với đối tác chiến lược: hiên nay ACB đã
xây dựng mối quan hệ với các định chế tài chính khác, ví dụ như các tổ chức thẻ quốc tế
(Visa, Master Card), các công ty bảo hiểm (Prodential, AIA, Bảo Việt, Bảo Long),
chuyển tiền Western Union, các ngân hàng bạn (banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý
chi trả kiều hối … Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ACB đang quan hệ hợp tác với các
định chế tài chính và doanh nghiệp khác để cùng nghiên cứu phát triển các sản phẩm thài
chính mới và ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng hệ thống kênh phân phối đa
dạng. Đạc biệt ACB có một đối tác chiến lược là Ngân hàng Standard Chartered, một
ngân hàng nổi tiếng về các sản phẩm của ngân hàng bán lẻ. Acb đang nổ lực tham khảo
kinh nghiệm, chuyên môn, kỹ năng cũng như công nghệ của các đối tác để nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình cho quá trình hội nhập.
-Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: ACB ý thức là cân phải xây dựng năng
lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng không cơ học này và thực hiện chiến lược hợp nhất
và sáp nhận khi điều kiên cho phép.
Chiến lược đa dang hóa :
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà ACB quan tâm thực hiện, ACB đã có
Công ty chứng khoán (ACBS), Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản (ACBA), đang
chuẩn bị thành lập Công ty Cho thuê tài chính và Công ty Quản lý quỹ. Với vị thế cạnh
tranh đã được thiết lập khá vững chắc trên thị trường, trong thời gian sắp tới, ACB có thể
xem xét thực hiên chiến lược đa dạng hóa tập trung để từng bước trở thành nhà cung cấp
dịch vụ tài chính toàn diện thông qua các dịch vụ sau đây:
- Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp cung
cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
-Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện nay), công ty tài
trợ mua xe.
-Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư.
Tuy ACB đã khẳng định được mình nhưng luôn nhận thức rằng thách thức vẫn còn phía
trước và phải nỗ lực rất nhiều, đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện các chương trình trợ
giúp kỹ thuật, các dự án nâng cao năng lực hoạt động, hướng đến áp dụng các chuẩn mực
và thông lệ quốc tế để có khả năng cạnh tranh và hội nhập khu vực thành công. Do vậy,
từ năm 2005, ACB đã bắt đầu cùng các cổ đông chiến lược xây dựng lại chiến lược mới.
Đó là chương trình Chiến lược 5 năm (2006-2011) và tầm nhìn 2015.
4. Phát triển các cột mốc đáng nhớ.
Tầm nhìn, mục tiêu và chiến lược nêu trên được cổ đông và nhân viên ACB đồng tâm
bám sát trong suốt 16 năm hoạt động của mình và những kết quả đạt được đã chứng mình
rằng đó là các định hướng đúng đối với ACB. Đó cũng chính là tền đề giúp Ngân hàng
khẳng định vị trí dẫn đầu của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phàn tại Việt
Nam trong lĩnh vực bán lẻ. Dưới đây là một số cột mốc đàng nhớ của ACB:
04/06/1993: ACB chính thức hoạt động.
27/04/1996: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam phát hành
thẻ tín dụng quốc tế ACB-Mastercard.
15/10/1997: ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa.
Năm 1997 – Tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại: Công tác chuẩn bị nhằm
nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng đã được bắt
đầu tại ACB, dưới hình thức của một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn
diện kéo dài hai năm. Thông qua chương trình đào tạo này, ACB nắm bắt một cách hệ
thống các nguyên tắc vận hành một ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực trong quản lý
rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu điều chỉnh trong điều
kiện Việt Nam để áp dụng trong thực tiễn hoạt động ngân hàng.
Thành lập Hội đồng ALCO: ACB là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam thành lập
Hội đồng Quản lý tài sản Nợ - Có (ALCO). ALCO đã đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả của ACB.
Mở siêu thị địa ốc: ACB là ngân hàng tiên phong trong cung cấp các dịch vụ địa ốc
cho khách hàng tại Việt Nam. Hoạt động này đã góp phần giúp thị trường địa ốc ngày
càng minh bạch và được khách hàng ủng hộ. ACB trở thành ngân hàng cho vay mua
nhà mạnh nhất Việt Nam.
Năm 1999: ACB bắt đầu triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin
ngân hàng (TCBS) nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động của ACB.
Năm 2000 – Tái cấu trúc: Với những bước chuẩn bị từ năm 1997, đến năm 2000,
ACB đã chính thức tiến hành tái cấu trúc (2000-2004) như là một bộ phận của chiến
lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định
hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh doanh gồm có Khối khách hàng cá nhân,
Khối khách hàng doanh nghiệp, Khối ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có Khối công
nghệ thông tin, Khối giám sát điều hành, Khối phát triển kinh doanh, Khối quản trị
nguồn lực và một số phòng ban. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển giao
cho Sở Giao dịch. Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo Ban Chiến lược, Ban kiểm tra –
kiểm soát nội bộ, Ban Chính sách và quản lý rủi ro tín dụng. Cơ cấu tổ chức mới sau
khi tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống. Sản phẩm được
quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn
khách hàng. Phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro được quan tâm đúng mức. Các
kênh phân phối tập trung phân phối sản phẩm dịch vụ cho khách hàng mục tiêu.
29/06/2000 – Tham gia thị trường vốn: Thành lập ACBS. Với sự ra đời của công ty
chứng khoán, ACB có thêm công cụ đầu tư hiệu quả trên thị trường vốn tuy mới phát
triển nhưng được đánh giá là đầy tiềm năng. Rủi ro của hoạt động đầu tư được tách
khỏi hoạt động ngân hàng thương mại.
02/01/2002 – Hiện đại hóa ngân hàng: ACB chính thức vận hành TCBS.
06/01/2003 – Chất lượng quản lý: Đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong các lĩnh vực
(i) huy động vốn, (ii) cho vay ngắn hạn và trung dài hạn, (iii) thanh toán quốc tế và
(iv) cung ứng nguồn lực tại Hội sở.
14/11/2003 – Thẻ ghi nợ: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt
Nam phát hành thẻ ghi nợ quốc tế ACB-Visa Electron.
Trong năm 2003, các sản phẩm ngân hàng điện tự phone banking, mobile banking,
home banking và Internet banking được đưa vào hoạt động trên cơ sở tiện ích của
TCBS.
10/12/2006 – Công nghệ sản phẩm cao: Đưa sản phẩm quyền chọn vàng, quyền
chọn mua bán ngoại tệ, ACB trở thành một trong các ngân hàng đầu tiên của Việt
Nam được cung cấp các sản phẩm phát sinh cho khách hàng.
17/06/2005 – Đối tác chiến lược: Ngân hàng Standard Chartered (SCB) và ACB ký
kết thoả thuận hỗ trợ kỹ thuật. Cũng từ thời điểm này, SCB trở thành cổ đông chiến
lược của ACB. Hai bên cam kết dựa trên thế mạnh của mỗi bên để khai thác thị
trường bán lẻ đầy tiềm năng của Việt Nam.
Vốn điều lệ
Kể từ ngày 27/11/2009 vốn điều lệ của ACB là 7.814.137.550.000 đồng (Bảy nghìn tám
trăm mười bốn tỷ một trăm ba mươi bảy triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng)
Sản phẩm dịch vụ chính
Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng
Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng đồng Việt Nam, ngoại
tệ và vàng
Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch vụ ngân
quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng.
Kinh doanh ngoại tệ và vàng.
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ.
Mạng lưới kênh phân phối
Gồm 251 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc:
Tại TP Hồ Chí Minh: 1 Sở giao dịch, 30 chi nhánh và 92 phòng giao dịch
Tại khu vực phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc): 13 chi nhánh và 49 phòng giao dịch
Tại khu vực miền Trung (Thanh Hóa, Đà Nẵng, Daklak, Gia Lai, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Hội An, Huế, Nghệ An, Lâm Đồng): 11 chi nhánh và 17 phòng giao dịch
Tại khu vực miền Tây (Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp, An
Giang, Kiên Giang và Cà Mau): 8 chi nhánh, 6 phòng giao dịch (Ninh Kiều, Thốt Nốt,
An Thới)
Tại khu vực miền Đông (Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Vũng Tàu): 4 chi nhánh và
17 phòng giao dịch.
Trên 2.000 đại lý chấp nhận thanh toán thẻ của Trung tâm thẻ ACB đang hoạt động
812 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh ACB-Western Union
Công ty trực thuộc
Công ty Chứng khoán ACB (ACBS).
Công ty Quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA).
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu (ACBL).
Công ty liên kết
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bảo vệ Ngân hàng Á Châu (ACBD).
Công ty Cổ phần Địa ốc ACB (ACBR).
Công ty liên doanh
Công ty Cổ phần Sài Gòn Kim hoàn ACB- SJC (góp vốn thành lập với SJC).
Cơ cấu tổ chức
Sáu khối : Khách hàng cá nhân, Khách hàng doanh nghiệp, Ngân quỹ, Phát triển kinh
doanh, Vận hành, Quản trị nguồn lực.
Bốn ban: Kiểm toán nội bộ, Chiến lược, Đảm bảo chất lượng, Chính sách và Quản lý tín
dụng.
Hai phòng : Tài Chính, Thẩm định tài sản (trực thuộc Tổng giám đốc).
Nhân sự
Tính đến ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên của Ngân hàng Á Châu là 6.749 người.Cán
bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng của ACB.
Hai năm 1998-1999, ACB được Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) tài trợ một chương
trình hỗ trợ kỹ thuật chuyên về đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, do Ngân hàng Far East
Bank and Trust Company (FEBTC) của Phi-lip-pin thực hiện. Trong năm 2002 và 2003,
các cấp điều hành đã tham gia các khoá học về quản trị ngân hàng của Trung tâm Đào tạo
Ngân hàng (Bank Training Center).
Quy trình nghiệp vụ
Các quy trình nghiệp vụ chính được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000.
Công nghệ
ACB bắt đầu trực tuyến hóa các giao dịch ngân hàng từ tháng 10/2001 thông qua hệ quản
trị nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ (TCBS- The Complete Banking Solution), có cơ sở dữ
liệu tập trung và xử lý giao dịch theo thời gian thực. ACB là thành viên của SWIFT
(Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication), tức là Hiệp hội Viễn
thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn Thế giới, bảo đảm phục vụ khách hàng trên toàn
thế giới trong suốt 24 giờ mỗi ngày. ACB sử dụng dịch vụ tài chính Reuteurs, gồm
Reuteurs Monitor: cung cấp mọi thông tin tài chính và Reuteurs Dealing System: công cụ
mua bán ngoại tệ.
Cổ đông nước ngoài
(Tỷ lệ cổ phần nắm giữ: 30%) Connaught Investors Ltd. (Jardine Matheson Group),
Dragon Financial Holdings Ltd., Standard Chartered APR Ltd., Standard Chartered Bank
(Hong Kong) Ltd., Red River Holding, PXP Vietnam Fund, Vietnam Lotus Fund Ltd.,
T.I.M Vietnam Institutional Fund, KITMC Vietnam Growth Fund 2, KITMC Worldwide
Vietnam, KB Vietnam Focus Balance Fund, Vietnam Emerging Equity Fund Ltd.,
Greystanes Ltd., Spinnaker G.O Fund Ltd., Spinnaker G.E.M Fund Ltd., Spinnaker G.S
Fund Ltd., J.P.Morgan Securities Ltd. và J.P.Morgan Whitefriars Inc.
Các nguyên tắc hướng dẫn hành động
Chỉ có một ACB; Liên tục cách tân; và Hài hòa lợi ích của các bên có quyền lợi liên
quan. ACB tham gia các chương trình tín dụng của các định chế nước ngoài và quốc tế.
Thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế: Visa, MasterCard, Swift
Thẻ thanh toán đồng thương hiệu: SCB và Citimart.
Bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng: Prudential, AIA.
Kiểm toán độc lập:
Ernst & Young (trước đây), hiện nay là PricewaterhouseCoopers (PWC).
Hỗ trợ kỹ thuật:
IFC đã dành một ngân khoản trị giá 575.000 đô-la Mỹ trong chương trình Hỗ trợ kỹ thuật
nhằm mục đích nâng cao năng lực quản trị điều hành của ACB, được thực hiện trong năm
2003 và 2004. Ngân hàng Standard Chartered đang thực hiện một chương trình hỗ trợ kỹ
thuật toàn diện cho ACB, được triển khai trong khoảng thời gian năm năm (bắt đầu từ
năm 2005).
Xếp hạng Tín nhiệm Quốc tế:
Bắt đầu từ năm 2001, Fitch (tổ chức đánh giá xếp hạng quốc tế) đã có đánh giá xếp hạng
tín nhiệm ACB. Tháng 4/2004, Fitch đánh giá tiêu chí năng lực bản thân của ACB là D,
và xếp hạng theo tiêu chí hỗ trợ từ bên ngoài là 5T.
Các giải thưởng, bằng khen :
Huân chương lao động hạng Nhì do Chủ tịch nước trao tặng; Cờ thi đua của Ngân hàng
nhà nước; Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2009 do The Asset trao tặng; Ngân hàng tốt nhất
Việt Nam 2009 do The Banker trao tặng; Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2009 do Global
Finance trao tặng; Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2009 do Asiamoney trao tặng; Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam 2009 do Euromoney trao tặng; Ngân hàng tốt nhất Việt Nam
2009 do Finance Asia trao tặng; Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008 (Tạp chí
Euromoney); Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007; Cờ thi đua của Chính Phủ; "Nhà lãnh
đạo trẻ triển vọng của Việt Nam năm 2007" (Ông Đỗ Minh Toàn - Phó Tổng Giám Đốc
ACB); "Nhà lãnh đạo trẻ triển vọng của Việt Nam năm 2007" (Ông Đỗ Minh Toàn - Phó
Tổng Giám Đốc ACB); Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ được hài lòng nhất năm 2008..v.v
Thành quả mà ngân hàng đạt được:
Ngân hàng Á Châu (ACB) vừa chính thức được ba tạp chí quốc tế Global Finance,
FinanceAsia và AsiaMoney công nhận là “Ngân Hàng Tốt Nhất Việt Nam năm 2010” và
“Ngân Hàng Nội Địa Tốt Nhất Việt Nam 2010”. Đây là lần thứ hai liên tiếp ACB được
ba tạp chí trên bình chọn cho các giải thưởng cao quý này, trước đây là vào năm 2009.
Các giải thưởng được công bố tại các website www.globalfinance.com,
www.financeasia.com, www.asiamoney.com.
Giải thưởng Ngân Hàng Tốt Nhất Việt Nam của tạp chí Global Finance, FinanceAsia và
giải thưởng Ngân Hàng Nội Địa Tốt Nhất Việt Nam của tạp chí AsiaMoney là những giải
thưởng nhằm vinh danh ngân hàng đạt được thành tích xuất sắc nhất trong hoạt động kinh
doanh trong năm 2009 và nửa đầu năm 2010. Các giải thưởng này được xem xét dựa trên
các tiêu chí: lợi nhuận thuần, tỉ lệ nợ xấu, ROE, CAR, tổng tài sản, tổng tiền gửi và dư
nợ, số lượng chi nhánh và chiến lược của ngân hàng cùng với đánh giá của các chuyên
gia tài chính cũng như lãnh đạo của các doanh nghiệp lớn trong khu vực. Lễ trao giải của
3 giải thưởng này sẽ lần lượt được tổ chức vào tháng 09/2010 tại Hong Kong và tháng
10/2010 tại Mỹ (Giải thưởng ‘Ngân Hàng Tốt Nhất Việt Nam năm 2010’ của tạp chí
Global Finance) .
Như vậy, tiếp nối truyền thống năm 2009, chỉ sau 06 tháng đầu của năm 2010, ACB đã
vinh dự nhận được 06 giải thưởng danh giá từ 05 tạp chí quốc tế uy tín, cụ thể:
← Giải thưởng “Ngân Hàng có dịch vụ thanh toán vượt trội năm 2010” – “Rising
Star Cash Management Bank”do tạp chí The Asset trao tặng.
← Giải thưởng “Ngân Hàng vững mạnh nhất Việt Nam năm 2010” – “The
Strongest Bank in Vietnam 2010” và giải thưởng “Lãnh đạo Ngân Hàng Xuất
Sắc nhất Việt Nam năm 2010” – “Leadership Achievement Award 2010” do tạp
chí The Asian Banker trao tặng.
← Giải thưởng “Ngân Hàng tốt nhất Việt Nam năm 2010” – “Best Emerging
Market Bank in Vietnam 2010” do tạp chí Global Finance trao tăng.
← Giải thưởng “Ngân Hàng nội địa tốt nhất Việt Nam năm 2010” – “Best
Domestic Bank in Vietnam 2010” do tạp chí AsiaMoney trao tặng.
← Giải thưởng “Ngân Hàng tốt nhất Việt Nam năm 2010” – “Best Bank in
Vietnam 2010” do tạp chí Finance Asia trao tặng.