THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG B I C NH RỦI … · Thị trường tiền tệ...
Transcript of THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG B I C NH RỦI … · Thị trường tiền tệ...
1
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
RỦI RO TOÀN CẦU GIA TĂNG VÀ CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI LAO DỐC
Ngày cập nhật: 16/10/2018
Nguyễn Hoàng Bảo Châu (+82-13) 5413 5472 [email protected]
Năm 2018 chứng kiến đà lao dốc nghiêm trọng của đồng tiền các nước mới nổi như đồng
Lira của Thổ Nhĩ Kỳ (-43%), Peso của Argentina (-49%), Peso của Brazil (-23%)…Tại Châu
Á, đồng tiền các nước mới nổi chủ chốt như Trung Quốc, Ấn Độ,…cũng giảm ~10%. Theo
đó, khối ngoại rút vốn mạnh mẽ với mức độ cao nhất kể từ sau thời điểm khủng hoảng nợ
công Châu Âu 2010 và khủng hoảng tài chính 2008 đặc biệt ở quốc gia tăng trưởng kinh tế
yếu, cán cân thâm hụt, và lạm phát cao, kéo theo thị trường chứng khoán các nước mới nổi
lao dốc. Trong vòng 9 tháng đầu năm 2018, chỉ số MSCI Emerging Markets Index đã giảm
hơn 20% so với mức đỉnh tháng 1/2018.
Dòng vốn tháo chạy khỏi thị trường mới nổi tựu chung bắt nguồn từ việc đồng USD tăng giá
và cuộc chiến thương mại mà tổng thống Mỹ Donald Trump phát động, trong đó Trung Quốc
là đối tượng chính mà Mỹ nhắm đến. Đà tăng giá của USD đi cùng lộ trình tăng lãi suất của
FED từ 2015 đến nay do kinh tế Mỹ phát đi tín hiệu hồi phục. Nền kinh tế Mỹ thật sự có
những chuyển biến mạnh mẽ kể từ sự kiện Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ vào cuối
năm 2016 với chính sách cắt giảm thuế thu nhập hỗ trợ doanh nghiệp. Nhưng ông là nguồn
cơn gây ra bất ổn cho thị trường mới nổi với việc phát động chiến tranh thương mại.
Chiến tranh thương mại Mỹ Trung tạo thêm áp lực cho nền kinh tế Trung Quốc vốn đang
chật vật trong việc giải quyết nợ nần trong bối cảnh kinh tế giảm tốc. Trong khi đó, đồng
USD tăng giá ảnh hưởng tiêu cực đến Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina vốn đang vật vã đối phó với
vấn đề lạm phát tăng mạnh cũng như Ấn Độ và Philippines, các quốc gia đang chịu tổn
thương bởi thâm hụt thương mại gia tăng.
So sánh với các nước mới nổi, tình hình kinh tế Việt Nam khá ổn định. Dù nợ tín dụng tăng
mạnh trong nhiều năm gần đây nhưng Việt Nam chưa lâm vào nguy vỡ bong bóng tín dụng
như Trung Quốc. Tính đến năm 2017, dư nợ tín dụng trên GDP là 130% nhưng vẫn thấp
hơn tỷ lệ đáng báo động đến 255% ở Trung Quốc trong năm 2017.
Điểm sáng của kinh tế Việt Nam là tăng trưởng GDP khả quan trong khi lạm phát trong tầm
kiểm soát. Theo số liệu thống kê, 9 tháng đầu năm 2018 GDP tiếp tục duy trì đà tăng tích
cực với GDP quý 1, 2, 3 lần lượt tăng 7.38% và 6.79%, 6.88% trong khi CPI bình quân 9
tháng đầu năm 2018 ở mức 3.57%. Cán cân thương mại trong tình trạng thặng dư và dự
trữ ngoại hối có cải thiện tích cực. Tính đến tháng 4/2018 dự trữ ngoại hối đạt hơn 63 tỷ
USD, đảm bảo được 3.5 tháng nhập khẩu, đây là con số cải thiện đáng kể so với giai đoạn
2013-2017 dự trữ ngoại hối chỉ đảm bảo 2-2.6 tháng nhập khẩu. Do đó, tiền đồng không
gặp nhiều rủi ro mất giá mạnh. So với các đồng tiền ở các nước mới nổi thì VND chỉ mất giá
khiêm tốn 1.2% từ đầu năm đến nay.
Trong lúc nhà đầu tư nước ngoài thoái vốn ồ ạt khỏi thị trường mới nổi thì dòng vốn ngoại
lại có dấu hiệu chảy sang thị trường Việt Nam với vốn đầu tư trực tiếp FDI gia tăng nhờ
Chính Phủ đẩy mạnh cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh. Dòng vốn đầu tư vào thị
trường chứng khoán cũng cho thấy dấu hiệu tích cực. Tính từ đầu năm đến nay khối ngoại
mua ròng gần 30 nghìn tỷ đồng trên cả 2 sàn HOSE và HNX. Sau hai tháng bán ròng liên
tiếp (tháng 7, 8) gây lo ngại, khối ngoại cũng đã mua ròng trở trong tháng 9/2018.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đứng trước cơ hội thách thức 1,050 điểm trong quý cuối
năm 2018 (+18%). P/E trailing đang ở mức 18x, tương đương thị trường Trung Quốc (17x),
Philippines (18x) và thấp hơn hẳn thị trường Ấn Độ (23x) nên thị trường được xem đang
được định giá hợp lý. Thêm nữa, thị trường kỳ vọng sẽ tiếp tục đi lên nhờ yếu tố vĩ mô thuận
lợi và thu hút dòng vốn ngoại khi Việt Nam được nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị
trường mới nổi.
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 2 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
1. Thị trường tiền tệ các nước mới nổi lao dốc và sự rút vốn ồ ạt của khối ngoại
Năm 2018 chứng kiến đà lao dốc nghiêm trọng của đồng tiền các nước mới nổi. Chỉ số MSCI Emerging Markets
Currency Index, một thước đo tỷ giá của đồng tiền các thị trường mới nổi đã mất 8.1% tính từ đầu năm đến tháng
9/2018. Đáng chú ý là đà lao dốc không phanh của đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ và đồng Peso của Argentina, với mức
giảm lần lượt là 43% và 49%. Đồng tiền của 2 nền kinh tế lớn khác ở thị trường mới nổi là đồng Peso của Brazil và
đồng Ruble của Nga cũng giảm đáng kể, lần lượt là 23% và 17%. Tại Châu Á, đồng tiền các nước mới nổi chủ chốt
như Trung Quốc, Ấn Độ,…cũng giảm nhưng mức độ khiêm tốn hơn ~10%.
Nguồn Investing.com
Nguồn: PHS tổng hợp
Cùng với đà lao dốc của thị trường tiền tệ, khối ngoại rút vốn mạnh mẽ khỏi thị trường mới nổi gây tâm lý lo ngại
cho nhà đầu tư toàn cầu. Mức độ rút vốn lớn nhất kể từ sau thời điểm khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 và khủng
hoảng tài chính 2008. Qua đó, cũng khiến thị trường chứng khoán các nước mới nổi sụt giảm mạnh.
+8%-9%
-10%
-11%
-12%
-17%
-23%
-43%
-49%
-60% -50% -40% -30% -20% -10% 0% 10% 20%
USD Index
Chinese Yuan
Indonesian Rupiah
Philippine Peso
Indian Rupee
Russian Ruble
Brazilian Peso
Turkey Lira
Argentine Peso
TIỀN TỆ CÁC NƯỚC MỚI NỔI 9 THÁNG ĐẦU 2018
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 3 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
DÒNG VỐN THÁO CHẠY KHỎI THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI
Nguồn: Bloomberg
Thống kê chỉ số MSCI Emerging Markets Index đã giảm hơn 20% so với mức đỉnh tháng 1/2018, đáng chú ý là thị
trường chứng khoán Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina và Philippines đều lao dốc trên 20% so với mức đỉnh
rơi vào thị trường con gấu. Trong khi đó, chỉ số MSCI All-Country World Index toàn cầu chỉ giảm 5% trong cùng
thời điểm, tương phản với sự tích cực của thị trường Mỹ với Dow Jones và S&P500 vẫn tăng 7% kể từ đầu năm
2018 và đang ở mức cao kỷ lục. Tuy vậy, ở Châu Á vẫn có những điểm sáng hiếm hoi là thị trường chứng khoán
Ấn Độ vẫn tăng 7% bất chấp đồng tiền cũng có sự lao dốc tương tự đồng tiền của các nước mới nổi khác.
Nguồn: Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS)
Nguyên nhân dẫn đến sự lao dốc của thị trường tiền tệ, đà bán tháo của khối ngoại và sự sụt giảm mạnh
của thị trường chứng khoán ở các nước mới nổi trong năm 2018 tựu chung bắt nguồn từ việc đồng USD
tăng giá. Tại Mỹ, nền kinh tế hàng đầu thế giới phát đi tín hiệu hồi phục từ năm 2014 do đó FED bắt đầu lộ trình
tăng lãi suất từ 2015 đến nay là một trong những nguyên nhân khiến USD tăng giá với USD Index tăng từ 80 lên
95. Nhưng nền kinh tế Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ kể từ sự kiện Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ vào
cuối năm 2016. Chính sách cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 35% xuống còn 21% của ông đã giúp lợi
nhuận của các tập đoàn Mỹ tăng cao, qua đó hỗ trợ nền kinh tế Mỹ ghi nhận nhiều kết quả lạc quan và thị trường
chứng khoán lập đỉnh cao kỷ lục.
-28%-25% -25%
-22% -20% -19%
-12%
5% 7%
-40%
-30%
-20%
-10%
0%
10%
20%Argentina China Turkey Philippines MSCI EM Brazil Indonesia Russia India
BIẾN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 4 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Nguồn: Trading Economics
Nguồn: Trading Economics
Trái với sự tích cực của Mỹ, ông là nguồn cơn gây ra bất ổn cho thị trường mới nổi bồi thêm tiêu cực trong
bối cảnh đồng USD tăng giá. Kể từ khi lên cầm quyền, ông Trump đưa ra nhiều chính sách thực hiện cam kết
lúc tranh cử đặt “Nước Mỹ trên hết” mà chính xác là các biện pháp gia tăng bảo hộ mậu dịch. Để giảm thâm hụt
thương mại trường kỳ của Mỹ, ông Trump đã đàm phán lại, thậm chí hủy bỏ các hiệp định tự do thương mại mà
Mỹ đã ký kết như TPP & NAFTA mà ông cho rằng sẽ đem đến thiệt thòi cho các doanh nghiệp và người lao động
Mỹ. Kể từ đầu năm 2018, ông phát động chiến tranh thương mại bằng cách áp thuế quan vào Trung Quốc, nước
có thặng dư lớn nhất với Mỹ. Cho đến nay hành động cứng rắn của ông và việc trả đũa của Trung Quốc đã đã
gây ra nhiều bất ổn ở thị trường toàn cầu. Dòng vốn bỏ thoái lui khỏi thị trường mới nổi với mức độ thoái vốn cao
đặc biệt ở quốc gia tăng trưởng kinh tế yếu, cán cân thâm hụt, và lạm phát cao.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ phân tích vấn đề bong bóng nợ Trung Quốc, khủng hoảng tiền tệ Thổ Nhĩ
Kỳ và thâm hụt thương mại Ấn Độ đại diện cho những vấn đề nổi cộm ở thị trường mới nổi là nguyên nhân khiến
dòng vốn tháo chạy.
2. Hiện trạng ở các nước mới nổi
Bong bóng tín dụng doanh nghiệp ở Trung Quốc
Hai vấn đề khiến giới đầu tư lo ngại nhất ở thị trường Trung Quốc thời điểm này là căng thẳng thương mại leo
thang và chiến dịch giảm nợ nhằm thanh lọc hệ thống tài chính có thể khiến tăng trưởng giảm tốc và dẫn tới hàng
loạt vụ vỡ nợ ở nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Quy mô nợ quá lớn là hệ quả của gói kích thích kinh tế và cơ chế cho vay ngang hàng ở nước này. Sau
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, để đối phó với tình trạng tăng trưởng kinh tế giảm sút, Trung Quốc đã tung
ra gói kích thích kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mở rộng, bơm tiền thẳng vào hệ thống ngân hàng, cho vay
đầu tư cơ sở hạ tầng. Vì vậy, không chỉ quy mô tín dụng mà cả quy mô đầu tư tài sản cố định tăng trưởng nóng,
đi kèm đó là các khoản nợ xấu các khoản vay không hiệu quả.
Trong giai đoạn 2007-2017, quy mô nợ khu vực phi tài chính tăng 4 lần từ 6,006 tỷ USD lên 32,448 tỷ USD, tổng
nợ/GDP tăng từ 141% lên 256%, cao hơn tỷ lệ 251% của các doanh nghiệp Mỹ và vượt xa tỷ lệ nợ khối thị trường
mới nổi (193.6%). Theo NHTW Trung Quốc, nợ xấu giai đoạn 2012-2017 tăng từ dưới 1% lên 1.74% thấp hơn tỷ
lệ nợ xấu bình quân của thế giới mà World Bank tính toán 3.93% tại thời điểm 31/12/2015. Tuy nhiên, cách tính
toán chỉ tiêu nợ xấu của Trung Quốc có nhiều điểm khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và thông lệ
phân loại nợ xấu ở hầu hết các quốc gia. Theo ước tính Fitch Ratings và Bloomberg thì nợ xấu của Trung Quốc
có thể lên đến 21%. Chiến dịch giảm nợ của chính phủ Trung Quốc gây áp lực lớn lên tình hình kinh doanh cũng
như khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Theo Nikkei, tính chung 6 tháng đầu năm 2018, các công ty Trung
-4.0%
-2.0%
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%2
Q 2
01
13
Q 2
01
14
Q 2
01
11
Q 2
01
22
Q 2
01
23
Q 2
01
24
Q 2
01
21
Q 2
01
32
Q 2
01
33
Q 2
01
34
Q 2
01
31
Q 2
01
42
Q 2
01
43
Q 2
01
44
Q 2
01
41
Q 2
01
52
Q 2
01
53
Q 2
01
54
Q 2
01
51
Q 2
01
62
Q 2
01
63
Q 2
01
64
Q 2
01
61
Q 2
01
72
Q 2
01
73
Q 2
01
74
Q 2
01
71
Q 2
01
82
Q 2
01
8
TĂNG TRƯỞNG GDP MỸ Đơn vị: %
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 5 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Quốc mất khả năng thanh toán gốc và lãi của lượng trái phiếu trị giá ít nhất 3.2 tỷ USD bằng đồng Nhân dân tệ và
350 triệu USD bằng đồng USD, tăng đến 40% yoy.
Nguồn: BIS & PHS tổng hợp
Nguồn: BIS & PHS tổng hợp
Không những vậy, nợ hộ gia đình tăng lên nhanh chóng thông qua hoạt động vay qua hệ thống tài chính
Internet hay còn gọi là cơ chế vay ngang hàng. Nổi tiếng nhất là Ezubao thu hút khoảng 900,000 nhà đầu tư.
Tỷ lệ nợ hộ gia đình trên GDP tăng nhanh chóng trong giai đoạn 2008-2017 từ 18% lên 48%.
Nỗ lực xử lý quy mô nợ tăng tốc mạnh mẽ trong thời gian qua của Trung Quốc đang làm trì hoãn tăng trưởng kinh
tế nước này. Đầu tư vào tài sản cố định trong 7 tháng đầu năm tăng 5.5% so với năm 2017, thấp kỷ lục kể từ năm
1999. Sản lượng công nghiệp tháng 6 chỉ tăng 6%, mức tăng thấp nhất 2 năm và thấp hơn nhiều so với mức dự
báo tăng 6.5%. Theo đó, tăng trưởng GPD những quý gần đây có dấu hiệu chững lại với GDP quý 2/2018 ở mức
6.7%, mức thấp nhất trong 9 năm qua.
Nguồn: Tổng cục thống kê Trung Quốc
Nguồn: Tổng cục thống kê Trung Quốc
Chiến tranh thương mại Mỹ Trung tạo thêm áp lực cho nền kinh tế Trung Quốc vốn đang chật vật trong
việc giải quyết nợ nần trong bối cảnh kinh tế giảm tốc.
Với vị thế là nước có thặng dư thương mại lớn nhất với Mỹ (năm 2017 là 375 tỷ USD) và liên tục bị tổng thống Mỹ
Donald Trump cáo buộc cạnh tranh không lành mạnh và đánh cắp sở hữu trí tuệ của Mỹ, Trung Quốc là mục tiêu
trừng phạt thương mại chính của tổng thống Trump. Cuộc chiến thương mại được khởi động từ đầu năm nay khi
Mỹ đánh thuế lên thép và nhôm của Trung Quốc, diễn biến ngày càng leo thang khi giá trị hàng hóa Trung Quốc bị
Mỹ áp thuế ngày càng tăng từ mức 34 tỷ USD hồi tháng 4 lên 200 tỷ USD vào tháng 7, đến nay Mỹ dọa đánh thuế
lên 267 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc, bằng 50% giá trị hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ.
6,606 9,064 11,323 14,014
16,846 20,702
23,384 25,818 27,289 32,448
141%
178% 182% 181%195%
211%226%
243%255% 256%
-
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
0
50
100
150
200
250
300
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
DƯ NỢ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TRUNG QUỐC VS MỸ
United States China Emerging markets
Nợ
/GD
P(%
) Nợ
(Tỷ U
SD
)
1,266 1,760 2,099 2,593 2,976 3,648 4,162 4,427 4,759 5,963
18%
24%
27% 28%30%
33%36%
39%
44%
48%
-
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
10
15
20
25
30
35
40
45
50
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
DƯ NỢ KHU VỰC HỘ GIA ĐÌNH
Non-finance Sector Gorverment Household
Nợ
/GD
P(%
) Nợ
(Tỷ U
SD
)
6.9%6.8%
6.7%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
1Q2010
4Q2010
3Q2011
2Q2012
1Q2013
4Q2013
3Q2014
2Q2015
1Q2016
4Q2016
3Q2017
2Q2018
TĂNG TRƯỞNG GDP TRUNG QUỐC
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
Jul-10 Jul-11 Jul-12 Jul-13 Jul-14 Jul-15 Jul-16 Jul-17 Jul-18
TĂNG TRƯỞNG ĐẦU TƯ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 6 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Chiến tranh thương mại có thể làm thương mại suy giảm, kinh tế giảm tốc và tổn thương trực tiếp đến các doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Và nó còn khiến các doanh nghiệp Trung Quốc khó trả nợ hơn ở thời điểm mà quốc gia
này đang phải đối mặt với tình trạng ngày càng có nhiều vụ vỡ nợ trái phiếu, qua đó đe dọa đến hệ thống tài chính
của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Để đối phó với tình trạng trên, Trung Quốc có khả năng phá giá tiền tệ để tạo lợi
thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
Như một hệ quả, khi đồng tiền mất giá dòng vốn sẽ rút khỏi thị trường và tác động tiêu cực đến thị trường chứng
khoán. Trong 9 tháng đầu năm, chỉ số Shanghai Composite lao dốc 25% tính từ mức đỉnh và chính thức đi vào thị
trường con gấu. So với hai lần sụp đổ trước đây thì mức giảm này vẫn còn khiêm tốn. Ở thời điểm khủng hoảng
tài chính 2008, chỉ số Shanghai Composite lao dốc 66% trong vòng 12 tháng từ tháng 9/2007 đến tháng 9/2008
còn trong lần sụp đổ gần nhất vào năm 2015, Shanghai Composite lao dốc 43% trong vòng 9 tháng kể từ tháng
5/2015 đến tháng 2/2016.
Xét thấy 2 lần sụp đổ này điều có đặc điểm chung là thị trường leo dốc thẳng đứng do tạo ra bong bóng trước đó.
Trong giai đoạn trước khủng hoảng tài chính 2008 chứng khoán Trung Quốc tăng nóng với P/E tăng từ 20x vào
tháng 11/2006 lên 70x trong tháng 9/2007 (trong 10 tháng). Trong giai đoạn 2014-2015, P/E cũng tăng từ 12x vào
tháng 11/2014 lên 25x vào tháng 6/2015 (trong 7 tháng). Sau khi lao dốc kể từ đầu năm, tính đến tháng 4/2018,
P/E thị trường Trung Quốc đang ở mức 17x.
CHỈ SỐ SHANGHAI COMPOSITE
Nguồn: Trading Economics
P/E CỦA SHANGHAI COMPOSITE
Nguồn: CEIC
Khủng hoảng tiền tệ Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina
Thổ Nhĩ Kỳ
Khủng hoảng tiền tệ ở Thổ Nhĩ Kỳ là một chủ đề thu hút sự quan tâm của giới đầu tư toàn cầu kể từ sau lệnh trừng
phạt thương mại của Mỹ khiến đồng Lira lao dốc nhưng nguyên chính dẫn đến khủng hoảng tiền tệ của Thổ Nhĩ
Kỳ thực sự bắt nguồn từ tình hình thâm hụt tài khoản vãng lai, lạm phát cao, bất ổn chính trị.
Xuất phát điểm của chiến tranh thương mại Mỹ - Thổ Nhĩ Kỳ không giống với Trung Quốc. Không bắt nguồn
từ thâm hụt thương mại của Mỹ với nước này mà từ việc Thổ Nhĩ Kỳ từ chối thả mục sư người Mỹ bị bắt tại Thổ
Nhĩ Kỳ vì tội tham gia đảo chính, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã quyết định áp lệnh trừng phạt bằng việc tăng
gấp đôi thuế thép, nhôm đối với Thổ Nhĩ Kỳ bồi thêm tiêu cực vào cuộc khủng hoảng vốn đang tồi tệ từ chính nội
tại của đất nước.
Trước đây, Thổ Nhĩ Kỳ theo đuổi mô hình tăng trưởng bằng mọi giá với những siêu dự án được hình thành bằng
hàng chục tỷ USD tiền vay nợ nước ngoài chôn vùi vào các công trình xây dựng và những trung tâm thương mại
– những thứ đã giúp nền kinh tế bùng nổ trong ngắn hạn mà không giúp ích nhiều cho việc nâng cao năng suất.
Theo Wall Street Journal, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP của Thổ Nhĩ Kỳ lên tới khoảng 70% so với con số này
của Trung Quốc chỉ vào khoảng 15%, của Nga chưa đầy 25%. Việc đồng USD tăng giá khiến gánh nặng nợ nần
của Thổ Nhĩ Kỳ gia tăng.
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 7 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Thổ Nhĩ Kỳ có thâm hụt thương mại nhiều năm liền và ở mức cao hơn nhiều so với các quốc gia mới nổi khác
như Nam Phi hay Argentina. Vào thời điểm cuối tháng 3/2018, thâm hụt cán cân vãng lai của Thổ Nhĩ Kỳ là hơn
7.1% GDP, so với mức 6.1% của Nam Phi hay 5.3% của Argentina.
Lạm phát ở gia tăng mạnh lên 11% trong năm 2017 và tiếp tục tăng lên 16% trong 7 tháng đầu năm 2018 khiến giá
trị đồng tiền bị xói mòn. Nhưng mối lo ngại lớn hơn của nhà đầu tư là việc chống lạm phát bằng việc điều hành chính
sách tiền tệ của nhà độc tài Erdogan, người từng là thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 2003 cho đến khi ông được bầu
làm tổng thống vào năm 2014. Với hiến pháp mới, tổng thống mới sẽ có quyền lực rất lớn, trong khi đó quyền hạn
của quốc hội giảm xuống. Ông là người phản đối việc tăng lãi suất để chống lạm phát cao, thay vào đó là duy trì lãi
suất thấp để tài trợ cho nhiều dự án thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cho đến này, chính quyền ông Erdogan đã có
động thái nâng lãi suất nhưng theo đánh giá, hành động quá ít và quá muộn với tình hình lạm phát gia tăng mạnh.
Dự đoán lãi suất sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới.
Lãi suất gia tăng khiến lợi tức trái phiếu tăng mạnh. Lợi tức một lô 3.5 tỷ USD trái phiếu chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ phát
hành năm 2017 bằng ngoại tệ đã tăng lên mức gần 8%. Lợi tức trái phiếu chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ phát hành bằng nội
tệ kỳ hạn 10 năm tăng 0.6 điểm phần trăm, lên mức cao kỷ lục 18.8%. Việc lợi tức trái phiếu gia tăng cũng mang
đến rủi ro thâm hụt tài khóa cho Thỗ Nhĩ Kỳ đồng thời làm giảm giá tài sản tài chính ở Thổ Nhĩ Kỳ, qua đó, thị trường
chứng khoán cũng gặp nhiều rủi ro. Thị trường chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 25% kể từ đầu năm đến nay.
LỢI TỨC TRÁI PHIẾU 10 NĂM THỔ NHĨ KỲ
Nguồn: Trading Economics
CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN THỔ NHĨ KỲ
Nguồn: Trading Economics
9%
6%
9%7%
9%8% 8%
11%
16%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018Q2
TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ LẠM PHÁT THỔ NHĨ KỲ
Tăng trưởng GDP Lạm phát
(39.6)
(68.9)
(42.8)
(56.3)
(36.9)
(23.9) (25.6)
(39.0)
(46.7)
(80.0)
(70.0)
(60.0)
(50.0)
(40.0)
(30.0)
(20.0)
(10.0)
-2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 7M2018
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI THỔ NHĨ KỲ
Đvt: Tỷ USD
Đvt: %
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 8 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Argentina
Tương tự Thổ Nhĩ Kỳ, đất nước Nam Mỹ bên kia bờ Đại Tây Dương là Argentina cũng đang đối mặt với
nhiều khó khăn từ thâm hụt thương mại, lạm phát cao và vấn đề liên quan đến nợ.
Khi lên nắm quyền năm 2015, Tổng thống Mauricio Macri từng cam kết sẽ đem về cho đất nước những “cơn mưa
đầu tư”, song dường như nguồn vốn này không đến được với những lĩnh vực sản xuất mà chỉ là những khoản đầu
cơ tài chính.
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Tháng 4/2018 là thời điểm đầu tiên của những biến động kinh tế Argentina khi tăng trưởng giảm 0.9% sau
13 tháng tăng liên tiếp. Tiếp đó, GDP trong tháng 5 và tháng 6 đã bước vào giai đoạn suy giảm mạnh so với cùng
kỳ năm trước ở mức tương ứng là -5.8% và -6.7%.
Lạm phát tăng mạnh mẽ lên mức 27% trong năm 2017 và gia tăng đến 34.4% trong 7 tháng của năm 2018
so với mục tiêu kiềm chế tỷ lệ lạm phát ở mức 15% cho cả năm 2018 của Chính Phủ. NHTW nước này buộc
phải nâng lãi suất lên 60% để giải quyết vấn đề lạm phát 2 con số. Theo đó, lợi tức trái phiếu tăng mạnh kéo theo
khó khăn trả nợ càng thêm căng thẳng. Argentina đã phải xin Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giải ngân nhanh một khoản
vay khẩn cấp, và động thái này đã khiến thị trường toàn cầu bị sốc. Chứng khoán Argentina sụt giảm đến 28% từ
đầu năm 2018 đến nay.
Khủng hoảng Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina khiến nhà đầu tư toàn cầu hoảng loạn nhưng theo đánh giá của các tổ chức
tài chính thì tác động của cuộc khủng hoảng này lây lan sang phạm vi toàn cầu là không đáng kể, chỉ có thể ảnh
hưởng trong phạm vi khu vực Châu Âu đặc biệt là ảnh hưởng đến các ngân hàng và công ty bảo hiểm Châu Âu.
Các thị trường mới nổi khác: Ấn Độ, Philippines
Ấn Độ
Cũng như đồng tiền ở các quốc gia mới nổi khác, đồng Rupee Ấn Độ cũng lao dốc mạnh do thâm hụt
thương mại gia tăng mà nguồn cơ là từ đà hồi phục của giá dầu.
Ấn độ chi tiêu nhiều tiền vào nhập khẩu dầu hơn bất cứ thứ gì. Theo thống kê, dầu nhập khẩu chiếm 20% trong
tổng nhập khẩu của Ấn Độ trong giai đoạn tháng 4-10/2017 do đến 80% nhu cầu năng lượng của quốc gia tiêu thụ
dầu lớn thứ ba thế giới này đều được nhập khẩu.
GIÁ DẦU BRENT
-10%
0%
10%
20%
30%
40%
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018Q2
TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ LẠM PHÁT ARGENTINA
Tăng trưởng GDP Lạm phát (20.0)
(15.0)
(10.0)
(5.0)
-
5.0
10.0
15.0
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI ARGENTINA
Đvt: Tỷ USD
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 9 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Nguồn: Trading Economics
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Từ đầu năm 2016, giá dầu bắt đầu hồi phục từ mức đáy 30 USD/thùng lên hơn 50USD/thùng (+67%), đặc biệt từ
giữa 2017 giá dầu leo thang lên gần 80 USD/thùng trên năm 2018. Đà tăng của giá dầu khiến thâm hụt thương mại
của Ấn Độ gia tăng cùng với lạm phát tăng. Trong nhiều năm qua, Ấn Độ liên tục thâm hụt thương mại, đặc biệt
trong 8 tháng đầu năm mức thâm hụt thương mại tăng mạnh bằng 167% của cả năm 2017. Tuy nhiên, mức thâm
hụt chỉ chiếm 3% GDP nên vấn đề thâm hụt thương mại ở Ấn Độ không thật sự nghiêm trọng như các nước
mới nổi khác.
Nhìn chung nền kinh tế Ấn Độ cho thấy nhiều yếu tố tích cực hơn hẳn các nước mới nổi khác khi tăng trưởng GDP
giai đoạn 2014-2016 vượt qua Trung Quốc, đặc biệt trong 6 tháng đầu năm có mức tăng trưởng mạnh mẽ 8.2%.
Trong khi đó, lạm phát tuy có tăng do ảnh hưởng giá dầu nhưng vẫn trong xu hướng được kiểm soát tốt (~4%). Do
vậy, thị trường chứng khoán Ấn Độ vẫn tăng tích cực bất chấp đồng tiền mất giá. Ấn Độ cũng được xem là vịnh
tránh bão của giới đầu tư trong bối cảnh thị trường chứng khoán của các nước mới nổi khác lao dốc.
CHỈ SỐ SENSEX - ẤN ĐỘ
Nguồn: Trading Economics
Chỉ số Sensex tăng rất mạnh kể từ đầu 2017. Tuy thị
trường có nhịp điều chỉnh vào đầu năm 2018 nhưng chỉ
số tiếp tục tăng điểm bất chấp xu hướng đi xuống của
chứng khoán các nước mới nổi khác. Tính chung, thị
trường chứng khoán Ấn Độ vẫn tăng 7% trong khi MSCI
Emerging Markets Index cũng như chứng khoán Trung
Quốc đã giảm hơn 20% và rơi vào thị trường con gấu.
Philippines
CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN PHILIPPINES
Nguồn: Trading Economics
Cũng như các thị trường mới nổi khác, thị trường chứng
khoán Philippines lao dốc kể từ đầu năm với mức giảm
lên đến 22%. Nhà đầu tư tháo chạy dưới thời Tổng thống
Duterte do những chính sách chính trị bất ổn của ông và
thâm hụt thương mại trong bối cảnh tổng thống theo đuổi
chính sách “Build, Build, Build” nhằm gia tăng đầu tư vào
hạ tầng mang lại tăng trưởng kinh tế.
(91)(107)
(136)
(92)
(68) (63)
(42)
(73)
(122) (160)
(140)
(120)
(100)
(80)
(60)
(40)
(20)
-2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 8M2018
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI ẤN ĐỘ
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 10 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Trong số những chính sách bất ổn, nổi bật nhất là chiến dịch chống ma túy mà tổng thống phát động tiêu
diệt hơn 3,000 nghi phạm mà không qua xét xử. Chiến dịch trên gây ra bất ổn xã hội tại đất nước này do tồn tại một
nhóm người có thể sát hại người khác mà không bị ra tòa. Thêm nữa, việc ông Duterte cho công bố một danh sách
các quan chức bị khép vào tội buôn bán ma túy cũng khiến giới kinh doanh tại Philippines lo ngại một ngày nào đó,
Tổng thống sẽ thông báo công ty của họ làm ăn bất hợp pháp mà không cần đưa ra bằng chứng. Qua đó, làm gia
tăng rủi ro chính trị khiến giới đầu tư quan ngại khi đổ tiền vào nước này.
Không những vậy, dưới thời Tổng thống Duterte, Philippines đang chứng kiến sự bung nổ cơ sở hạ tầng chưa
từng thấy khi thực hiện dự án mang tên “Build! Build! Build!”, bao gồm hơn 70 dự án quy hoạch hạ tầng trên
toàn quốc với kinh phí ước tính lên đến 180 tỷ USD. Một số dự án nổi bật bao gồm xây dựng nhà ga mới tại sân
bay quốc tế Manila, hệ thống tàu điện ngầm đầu tiên của quốc gia, và tuyến đường sắt dài 102km trên đảo Mindanao,
hứa hen sẽ mang lại sự phát triển đột phá về cơ sở hạ tầng trong nước, tạo công ăn việc làm cho người dân và
đảm bảo phát triển kinh tế vững mạnh. Tuy nhiên, Philippines hiện đang đối mặt với một số hệ lụy trong quá trình
triển khai siêu dự án được tài trợ từ nợ này. Bộ Tài chính Philippines (DOF) cho biết tổng nợ quốc gia còn tồn đọng
của chính phủ nước này đã chạm mức cao kỷ lục 130 tỷ USD tính đến cuối tháng 12/2017, tăng 9.2% yoy. Do đó,
việc đồng USD tăng giá từ đầu năm đến nay gia tăng căng thẳng trả nợ cho chính phủ Philippines.
Mặt khác, thâm hụt thương mại là một vấn đề khiến nhà đầu tư lo ngại khi mức thâm hụt thương mại ngày
càng gia tăng và nó ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP. Nếu như trong năm 2013, tỷ lệ này chỉ ở
mức 4% thì đến năm 2017 tỷ lệ thâm hụt/GDP đã lên trên 10%. Theo đó, dự trữ ngoại hối mỏng dần từ mức 10
tháng nhập khẩu, đến tháng 5/2018 dự trữ ngoại hối giảm xuống 7.7 tháng nhập khẩu.
Không những vậy, nền kinh tế Philippines cũng đang đối mặt với vấn đề lạm phát và tăng trưởng giảm tốc khiến
nhà đầu tư lo ngại.
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
3. Nền kinh tế Việt Nam không gặp áp lực lớn như các nước mới nổi
Nhìn chung, các nước mới nổi đang đối phó với khủng hoảng tiền tệ, dòng vốn tháo lui và thị trường chứng khoán
lao dốc do các nền kinh tế mới nổi đang bộc lộ nhiều rủi ro trong bối cảnh đồng USD tăng giá, giá dầu hồi phục
mạnh mẽ và cuộc chiến thương mại mà Mỹ phát động. Câu hỏi đặt ra, liệu nền kinh tế và thị trường chứng khoán
Việt Nam có rơi vào tình trạng tương tự không. Chúng tôi đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam khá ổn định nên
những rủi ro về khủng hoảng tiền tệ, dòng vốn tháo chạy là không lớn. Qua đó, thị trường chứng khoán không gặp
nhiều áp lực. Chúng tôi đưa ra đánh giá trên dựa vào so sánh với các nước đã phân tích ở phần trên gồm Trung
Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina, Ấn Độ và Philippines.
Việt Nam chưa lâm vào nguy vỡ bong bóng tín dụng như Trung Quốc.
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%
8.0%
2013 2014 2015 2016 2017 2018H1
TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ LẠM PHÁT PHILIPPINES
GDP Growth Inflation Rate
3.9% 4.5%
6.1%
9.3%10.1%
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%
8.0%
10.0%
12.0%
(45.0)
(25.0)
(5.0)
15.0
35.0
2013 2014 2015 2016 2017
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI PHILIPPINES
Thâm hụt thương mại %GDP
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 11 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Tiền đồng không gặp nhiều rủi ro mất giá mạnh nhờ vào yếu tố vĩ mô ổn định như tăng trưởng GDP khả
quan trong khi lạm phát trong tầm kiểm soát (tích cực hơn so với Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina)
Cán cân thương mại trong tình trạng thặng dư (tích cực hơn Ấn Độ) và dự trữ ngoại hối có cải thiện tích
cực (tích cực hơn Philippines).
Cũng như Trung Quốc, nhiều lo ngại tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào tăng trưởng tín dụng, qua
đó gia tăng rủi ro vỡ nợ tín dụng.
Nguồn: Fiinpro & PHS tổng hợp
Thực tế cho thấy tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP liên
tục gia tăng những năm gần đây, so với giai đoạn
2005-2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng gia tăng đáng
kể với mức tăng trung bình 35%, tuy nhiên tỷ lệ dư nợ
tín dụng/GDP trung bình chỉ 75% nhưng từ năm 2014
đến nay tăng trưởng tín dụng dưới 20% nhưng tỷ lệ
dư nợ tín dụng/GDP liên tục gia tăng lên trên 100%.
Năm 2017, dư nợ tín dụng trên GDP là 130%, cao
hơn hẳn con số 80% mà IMF khuyến nghị nhưng nhìn
chung vẫn thấp hơn tỷ lệ đáng báo động đến 255% ở
Trung Quốc trong năm 2017. Chính phủ đã chủ động
hạ tăng trưởng tín dụng và hạn chế dòng vốn tín dụng
đổ vào các tài sản rủi ro. Vì vậy, nguy cơ vỡ bong
bóng tín dụng như nền kinh tế Trung Quốc không thật
sự lớn.
So với đồng tiền các nước mới nổi đã phân tích, VND không mất giá mạnh nhờ tình hình kinh tế Việt Nam
có phần ổn định hơn. Năm 2017 chứng kiến những thành công vượt bâc của kinh tế Việt Nam khi tăng trưởng
GDP ở mức 6.8%, cao hơn mức trung bình 5.96% của giai đoạn 2011-2016 và vượt xa con số dự báo của các tổ
chức kinh tế thế giới cho rằng tăng trưởng GDP mức 6.3-6.4%. Điểm tích cực là dù kinh tế tăng trưởng mạnh
nhưng lạm phát ổn định trong tầm kiểm soát nhờ chủ trương ưu tiên kiềm chế lạm phát của Chính Phủ. CPI bình
quân năm 2017 chỉ tăng 3.53% so với năm 2016. Đây cũng là điểm khác biệt đáng kể so với thời điểm trước khủng
hoảng 2008 diễn ra, khi GDP tăng mạnh 8.48% nhưng CPI cũng tăng đến 8.3%.
Nguồn: PHS tổng hợp
9 tháng đầu năm 2018 GDP tiếp tục duy trì đà tăng tích
cực với GDP quý 1, 2, 3 lần lượt tăng 7.38% và 6.79%,
6.88% CPI bình quân năm 9 tháng đầu năm 2018 tăng
3.57%. Tăng trưởng GDP kỳ vọng tiếp tục tăng trưởng
ổn định trong bối cảnh FDI tiếp tục gia tăng, mở rộng
cơ sở sản xuất. Các yếu tố đóng góp cho triển vọng dài
hạn tích cực của Việt Nam gồm quy mô nhân khẩu học
thuận lợi, lực lượng lao động có trình độ, các cải cách
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ và lợi ích từ những hiệp
định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA.
Điểm tích cực thứ 2 là kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng trưởng, thặng dư thương mại ở mức cao. Lũy kế 9
tháng đầu năm 2018 ước đạt 5.39 tỷ USD, cải thiện tích cực so với mức thặng dư 0.32 tỷ USD cùng kỳ năm trước.
Không những vậy, FDI tiếp tục tăng trong 9 tháng đầu năm 2018 với FDI giải ngân 9 tháng đạt 13.25 tỷ USD, tăng
6% yoy. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh lên kỷ lục gần 63 tỷ USD, tăng gấp đôi trong vòng 2 năm qua góp phần quan
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
140%
-
1,000
2,000
3,000
4,000
5,000
6,000
7,000
DƯ NỢ TÍN DỤNG VIỆT NAM
Dư nợ (tỷVND) Dư nợ tín dụng/GDP
Tăng trưởng dư nợ tín dụng
Đvt: Nghìn tỷ VND
0%
2%
4%
6%
8%
20
13
Q1
20
13
Q2
20
13
Q3
20
13
Q4
20
14
Q1
20
14
Q2
20
14
Q3
20
14
Q4
20
15
Q1
20
15
Q2
20
15
Q3
20
15
Q4
20
16
Q1
20
16
Q2
20
16
Q3
20
16
Q4
20
17
Q1
20
17
Q2
20
17
Q3
20
17
Q4
20
18
Q1
20
18
Q2
20
18
Q3
TĂNG TRƯỞNG GDP & CPI
Tăng trưởng GDP CPI
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 12 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
trọng giúp Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ, giữ ổn định tỷ giá tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước
ngoài. So với các đồng tiền ở các nước mới nổi thì VND chỉ mất giá khiêm tốn 1.2% từ đầu năm đến nay.
Nhưng một điều đáng xem xét là mặc dù dự trữ ngoại hối tuy có dấu hiệu tăng mạnh thời gian gần đây nhưng so
với các nước khác thì đây là con số khá khiêm tốn. Tính đến tháng 4/2018 dự trữ ngoại hối đạt hơn 63 tỷ USD,
đảm bảo được 3.5 tháng nhập khẩu, đây là con số cải thiện đáng kể so với giai đoạn 2013-2017 dự trữ ngoại hối
chỉ đảm bảo 2-2.6 tháng nhập khẩu. Tuy nhiên, so với các nước Philippines, Thái Lan hay thậm chí những nước
đang gặp khủng hoảng tiền tệ như Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn còn khá mỏng.
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Nguồn: World Bank & PHS tổng hợp
Tuy nhiên, nếu xét về nhiều khía cạnh như tăng trưởng, lạm phát, thặng dư thương mại và giá trị đồng tiền thì Việt
Nam thật sự tích cực hơn hẳn các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt khi so sánh với nền kinh tế có quy mô tương đồng
là Philippines cho thấy, GDP tăng trưởng cao hơn nhưng lạm phát thấp hơn, theo đó lợi tức trái phiếu thấp hơn
nên giá trị tài sản tài chính hấp dẫn hơn.
Nguồn: PHS tổng hợp
2.1
2.5
1.9
2.3 2.6
3.5
0
10
20
30
40
50
60
70
-
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
2013 2014 2015 2016 2017 Arp2018
DỰ TRỮ NGOẠI HỐI VIỆT NAM
Dự trữ ngoại hối Tháng nhập khẩu
Tháng nhập khẩu Đvt: Tỷ USD
0
5
10
15
20
25
30
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
Vietnam Philippines India Turkey China
Tháng nhập khẩu
6.0%4.6%
7.5%
-11%
6.8%
3.3%5.1%
-1%
-15%
-10%
-5%
0%
5%
10%
Tăng trưởng GDP CPI Lợi tức trái phiếu %Mất giá đồng tiền
China India Philipines Vietnam
SO SÁNH VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 13 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Diễn biến trên thị trường chứng khoán
Nguồn: PHS tổng hợp
Nguồn Fiinpro
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng chịu tác động tiêu cực từ đà lao dốc của chứng khoán khu vực và điều
chỉnh từ mức đỉnh 1,204 điểm vào tháng 4/2018. Thị trường ghi nhận đà tăng nóng giai đoạn tháng 11/2017 đến
đầu tháng 4/2018, trong vòng 5 tháng P/E tăng từ 16x lên trên 22x lên vùng định giá cao nên thị trường gặp áp lực
chốt lời sau đó. Nhưng nhờ sự hỗ trợ từ dòng vốn ngoại trong giai đoạn điều chỉnh, thị trường đã có sự hồi phục
trở lại từ mức đáy gần nhất 878 điểm kể từ tháng 8/2018 và duy trì đà tăng tích cực cho đến nay, với P/E trailing
đang ở mức 18x, tương đương thị trường Trung Quốc (17x), Philippines (18x) và thấp hơn hẳn Ấn Độ (23x) nên
thị trường được xem đang được định giá hợp lý. Thêm nữa, thị trường kỳ vọng sẽ tiếp tục đi lên nhờ yếu tố vĩ mô
thuận lợi và thu hút dòng vốn ngoại khi Việt Nam được nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi.
Thực trạng dòng vốn đầu tư nước ngoài
Trong bối cảnh nhà đầu tư nước ngoài thoái vốn ồ ạt khỏi thị trường mới nổi thì dòng vốn ngoại lại có dấu
hiệu chảy sang thị trường Việt Nam. Dòng vốn ngoại được biết bao gồm (1) vốn đầu tư trực tiếp (FDI – Foreign
Direct Investment) hỗ trợ sự phát triển của nền kinh tế trong dài hạn và (2) vốn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, trái
phiếu (FPI – Foreign Portfolio Investment) mang tính chất đầu cơ cao hơn.
Về vốn đầu tư trực tiếp FDI, tổng vốn đăng ký và giải ngân đều tăng tích cực trong những năm qua, đáng chú ý là
vốn đăng ký năm 2017 lên đến 36 tỷ USD, +71% yoy. Năm 2018 tiếp tục duy trì sự tích cực, tính chung 9 tháng
đầu năm 2018, vốn FDI đăng ký và giải ngân lần lượt đạt 25.37 tỷ USD (tương đương năm trước) và 13.25 tỷ USD
(+6% yoy).
Nguồn: Fiinpro
Đầu tư trực tiếp được kỳ vọng sẽ tiếp tục gia tăng
do Chính Phủ đang không ngừng nỗ lực để cải thiện
môi trường kinh doanh giúp Việt Nam trở thành một
trong những môi trường cạnh tranh và thuận lợi nhất
trong các nước ASEAN.
Nhờ đẩy mạnh cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính,
môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã có
những thay đổi tích cực. Theo đánh giá của Ngân Hàng
Thế Giới, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã tăng
14 bậc so với đánh giá cho năm 2017, xếp 68/190 nền
kinh tế. Điểm nổi bật nhất là việc Chính phủ có ý định
cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống còn từ 20-
22% xuống còn 15 - 17% sẽ tạo thuận lợi thu hút đầu
tư nước ngoài.
1,204
893800
900
1000
1100
1200
1300
VN-Index
10%0%
-5%
10% 7%17%
9% 11%6%
-40%
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
0
10
20
30
40
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 9M2018
Vốn FDI
Giải ngân Đăng ký
Tăng trưởng vốn giải ngân Tăng trưởng vốn đăng ký
Đvt: Tỷ USD
Công ty cổ phần chứng khoán Phú Hưng
Trang 14 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Không những vậy, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tạo ra mộ số cơ hội cho Việt Nam. Việc Mỹ áp thuế
đối với hàng hóa Trung Quốc có khả năng hỗ trợ gia tăng FDI khi hoạt động sản xuất có thể dịch chuyển từ Trung
Quốc sang Việt Nam để né áp thuế cao ngoài ra còn tận dụng được chi phí nhân công rẻ ở Việt Nam.
Không chỉ dòng vốn đầu tư trực tiếp liên tục tăng, mà dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng cho thấy dấu hiệu tích cực.
Trong bối cảnh khối ngoại bán ròng ở nhiều thị trường mới nổi, thì khối này mua ròng tích cực trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tính từ đầu năm đến nay khối ngoại mua ròng gần 30 nghìn tỷ đồng (~1.3 tỷ USD) trên
cả 2 sàn HOSE và HNX. Tuy vậy, điểm chưa thật sự tích cực là lực mua chỉ tập trung ở cổ phiếu VHM với giá trị
mua ròng lên đến 26,347 tỷ đồng (chiếm 90% tổng giá trị mua ròng). Nhưng nếu loại trừ giá trị mua ròng ở VHM
thì khối ngoại vẫn mua ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
BẢNG GIÁ TRỊ GIAO DỊCH KHỐI NGOẠI (Đvt: Tỷ VNĐ)
HOSE HNX Mua ròng
Mua Bán Mua Bán
T01/18 25,550 18,415 856 1,285 6,705
T02/18 21,108 18,574 508 639 2,403
T03/18 24,599 24,611 1,404 1,498 -106
T04/18 25,499 23,889 1,009 825 1,795
T05/18 50,625 28,069 1,092 1,337 22,311
T06/18 17,391 16,929 382 727 116
T07/18 12,388 15,214 483 320 -2,663
T08/18 14,959 16,737 512 404 -1,671
T09/18 14,511 14,093 259 269 408
Tổng 206,630 176,531 6,505 7,304 29,300
Nguồn: HOSE&HNX
Kỳ vọng dòng vốn ngoại sẽ tiếp tục đổ vào thị trường nhờ nền tảng vĩ mô vững chắc, tiền đồng ổn định và
những cải cách của Chính Phủ với định hướng nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường
cận biên lên thị trường mới nổi. Những cải cách bao gồm hoàn thiện Luật Chứng khoán "thế hệ 2" giải quyết
những mâu thuẫn giữa Luật chứng khoán và Luật đầu tư như vấn đề room cho các nhà đầu tư nước ngoài. Gần
đây nhất, vào ngày 27/9/2018, nhà cung cấp chỉ số FTSE Russell vừa công bố kết quả phân hạng thị trường định
kỳ hàng năm, đáng chú ý nhất là thị trường chứng khoán Việt Nam đã được thêm vào danh sách theo dõi nâng
hạng lên thị trường mới nổi loại hai (Secondary Emerging) vào năm 2019. Đây là thông tin tích cực cho Thị trường
chứng khoán trong thời gian tới khi dòng vốn có thể sẽ tiếp tục tìm đến Việt Nam.
-5,000
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
GIAO DỊCH RÒNG NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Đvt: Tỷ VNĐ
Trang 15 Báo cáo này cung cấp thông tin mang tính chất tham khảo. Khách hàng phải chịu trách nhiệm với quyết định đầu tư của mình
Đảm bảo phân tích
Mỗi nhân viên phụ trách về phân tích, chiến lược hay nghiên cứu chịu trách nhiệm cho sự chuẩn bị và nội dung của tất cả các
phần có trong bản báo cáo nghiên cứu này đảm bảo rằng, tất cả các ý kiến của những người phân tích, chiến lược hay nghiên
cứu đều phản ánh trung thực và chính xác ý kiến cá nhân của họ về những vấn đề trong bản báo cáo. Mỗi nhân viên phân tích,
chiến lược hay nghiên cứu đảm bảo rằng họ không được hưởng bất cứ khoản chi trả nào trong quá khứ, hiện tại cũng như
tương lai liên quan đến các khuyến cáo hay ý kiến thể hiện trong bản báo cáo này.
Định nghĩa xếp loại
Mua = cao hơn thị trường nội địa trên 10%
Giữ = bằng thị trường nội địa với tỉ lệ từ +10%~ -10%
Bán = thấp hơn thị trường nội địa dưới 10%.
Không đánh giá = cổ phiếu không được xếp loại trong Phú Hưng hoặc chưa niêm yết.
Biểu hiện được xác định bằng tổng thu hồi trong 12 tháng (gồm cả cổ tức).
Miễn trách
Thông tin này được tổng hợp từ các nguồn mà chúng tôi cho rằng đáng tin cậy, nhưng chúng tôi không chịu trách nhiệm về sự
hoàn chỉnh hay tính chính xác của nó. Đây không phải là bản chào hàng hay sự nài khẩn mua của bất cứ cổ phiếu nào. Chứng
khoán Phú Hưng và các chi nhánh và văn phòng và nhân viên của mình có thể có hoặc không có vị trí liên quan đến các cổ
phiếu được nhắc tới ở đây. Chứng khoán Phú Hưng (hoặc chi nhánh) đôi khi có thể có đầu tư hoặc các dịch vụ khác hay thu
hút đầu tư hoặc các hoạt động kinh doanh khác cho bất kỳ công ty nào được nhắc đến trong báo cáo này. Tất cả các ý kiến và
dự đoán có trong báo cáo này được tạo thành từ các đánh giá của chúng tôi vào ngày này và có thể thay đổi không cần báo
trước.
© Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng (PHS).
Tòa nhà CR3-03A, Tầng 3, 109 Tôn Dật Tiên, Phường Tân Phú, Quận 7, Tp. HCM Điện thoại: (+84-28) 5 413 5479 Fax: (+84-28) 5 413 5472 Customer Service: (+84-28) 5 411 8855 Call Center: (+84-28) 5 413 5488 E-mail: [email protected] / [email protected] Web: www.phs.vn PGD Phú Mỹ Hưng
Tòa nhà CR2-08, 107 Tôn Dật Tiên, P. Tân Phú, Quận 7, Tp. HCM Điện thoại: (+84-28) 5 413 5478 Fax: (+84-28) 5 413 5473
Chi nhánh Quận 3
Tầng 2, Tòa nhà Phương Nam, 157 Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp. HCM Điện thoại: (+84-28) 3 820 8068 Fax: (+84-28) 3 820 8206
Chi Nhánh Thanh Xuân
Tầng 1, Tòa nhà 18T2, Lê Văn Lương, Trung Hòa Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. Phone: (+84-24) 6 250 9999 Fax: (+84-24) 6 250 6666
Chi nhánh Tân Bình
Tầng trệt, P. G.4A, Tòa nhà E-Town 2, 364 Cộng Hòa, Phường 13, Quận Tân Bình, Tp.HCM. Điện thoại: (+84-28) 3 813 2405 Fax: (+84-28) 3 813 2415
Chi Nhánh Hà Nội
Tầng 3, Tòa nhà Naforimex, 19 Bà Triệu, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội Phone: (+84-24) 3 933 4560 Fax: (+84-24) 3 933 4820
Chi nhánh Hải Phòng
Tầng 2, Tòa nhà Eliteco, 18 Trần Hưng Đạo, Quận Hồng Bàng, Hải Phòng Phone: (+84-225) 384 1810 Fax: (+84-225) 384 1801