· Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều...

33
http://www.hoalinhthoai.com/forum/showthread.php? t=7382 Vào thời Đức Phật còn tại thế, xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ phân chia làm 4 giai cấp, y phục và màu sắc cũng bị phân chia theo từng giai cấp hiện hành. Màu trắng dành cho giai cấp Bà-la-môn và quý tộc vua chúa, màu vàng dành cho những người dân thường. Đức Phật chọn cho mình và các đệ tử của Ngài màu vàng hoại sắc để gần gũi với người dân và cũng phù hợp với tư tưởng "xả phú cầu bần" của người xuất gia. Khi Phật giáo được truyền vào Trung Quốc thì màu sắc và y phục bị thay đổi. Màu vàng chỉ dành riêng cho vua chúa, người dân thường ai mặc màu vàng sẽ bị chém đầu. Màu lam và màu nâu dành cho giới dân thường. Các vị Tổ sư của chúng ta phải dùng phương tiện khéo léo cất chiếc y màu vàng lại để dành khi nào làm lễ Phật mới đắp (mặc) vào, còn sinh hoạt thường nhật thì mặc áo màu nâu hoặc lam. Phật giáo VN của chúng ta bị ảnh hưởng bởi 2 hệ phái, Phật giáo Bắc truyền (Bắc tông) thì truyền từ Trung Quốc xuống, nên bị ảnh hưởng Trung Quốc mặc đồ màu nâu hoặc lam. Phật giáo Nam truyền (Nguyên thủy) thì từ Ấn Độ sang nên y phục màu vàng. rong lịch sử, giường được đặt dưới mặt đất, bên trên có thể có các vật liệu tự nhiên như gỗ, rơm hay cỏ. Sau này giường được nâng lên khỏi tiếp xúc với mặt đất để tránh ẩm, bẩn và côn trùng.

Transcript of · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều...

Page 1: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

http://www.hoalinhthoai.com/forum/showthread.php?t=7382

Vào thời Đức Phật còn tại thế, xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ phân chia làm 4 giai cấp, y phục và màu sắc cũng bị phân chia theo từng giai cấp hiện hành.

Màu trắng dành cho giai cấp Bà-la-môn và quý tộc vua chúa, màu vàng dành cho những người dân thường. Đức Phật chọn cho mình và các đệ tử của Ngài màu vàng hoại sắc để gần gũi với người dân và cũng phù hợp với tư tưởng "xả phú cầu bần" của người xuất gia.

Khi Phật giáo được truyền vào Trung Quốc thì màu sắc và y phục bị thay đổi. Màu vàng chỉ dành riêng cho vua chúa, người dân thường ai mặc màu vàng sẽ bị chém đầu. Màu lam và màu nâu dành cho giới dân thường. Các vị Tổ sư của chúng ta phải dùng phương tiện khéo léo cất chiếc y màu vàng lại để dành khi nào làm lễ Phật mới đắp (mặc) vào, còn sinh hoạt thường nhật thì mặc áo màu nâu hoặc lam.

Phật giáo VN của chúng ta bị ảnh hưởng bởi 2 hệ phái, Phật giáo Bắc truyền (Bắc tông) thì truyền từ Trung Quốc xuống, nên bị ảnh hưởng Trung Quốc mặc đồ màu nâu hoặc lam. Phật giáo Nam truyền (Nguyên thủy) thì từ Ấn Độ sang nên y phục màu vàng.rong lịch sử, giường được đặt dưới mặt đất, bên trên có thể có các vật liệu tự nhiên như gỗ, rơm hay cỏ. Sau này giường được nâng lên khỏi tiếp xúc với mặt đất để tránh ẩm, bẩn và côn trùng.

http://www.buddhistedu.org/viet/phat-phap/lich-su-phat-giao/321-phap-phuc-cua-phat-giao-viet-nam-tu-trieu-ly-den-nayPháp phục của Phật giáo Việt Nam từ triều Lý đến nay

Page 2: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Đạo Phật từ Ấn Độ theo con đường thương mại trên biển vào nước ta từ đầu Tây lịch, tính đến nay cũng đã ngót 2.000 năm. Tuy nhiên, phẩm phục của các tu sĩ Phật giáo Bắc tông từ đó đến nay như thế nào là một vấn đề cần sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Phật giáo. Đức Thích Ca Mâu Ni sinh thời sinh hoạt, hành động thế nào, nay không thể biết rõ được. Song cứ góp nhặt các việc tản mạn trong kinh sách mà suy luận ra thì cũng có thể tưởng tượng cách sinh hoạt, hành vi của Phật đại khái như sau: "sáng dậy sớm, khoác ao cà sa (kashaya), tay cầm bình bát ra ngoài thành hay vào trong xóm làng, đi từng nhà một để khất thực".

Pháp phục của Tăng già miền Bắc qua một bức ảnh xưa

Cà sa, (kasàya - y phục), từ điển Phật học(1)định nghĩa như sau: Tên gọi đầy đủ là cà sa duệ… Pháp y của Tỳ kheo có ba loại: đại, trung và tiểu; tránh dùng năm màu chính: xanh, vàng, đỏ, trắng,

đen, mà lại dùng pha trộn các màu đó, nên theo sắc mà gọi là cà sa. Ba loại áo đại, trung, tiểu cũng có tên riêng. Loại nhỏ gọi là An đà hội (antarvasaka), còn có tên là áo năm mảnh (ngũ điều y); áo loại trung gọi là Uất đa la tăng (yttaarasamha), còn gọi là áo bảy mảnh (thất điều y); áo loại lớn gọi là Tăng già lê (samhati) cũng gọi là áo chín mảnh (cửu điều y). Theo Lục vật đồ, cà sa có 12 tên gọi: 1. Cà sa; 2. Đạo phục, áo của người tu đạo Phật; 3. Thế phục, áo của người xa rời cách biệt thế tục; 4. Pháp y, áo theo đúng pháp quy định; 5. Ly trần tục, áo xa rời cách biệt lục trần; 6. Tiêu sấu phục, áo có khả năng trừ phiền não; 7. Liên hoa phục, áo như hoa sen không nhiễm bùn hôi; 8. Gián sắc phục, áo không dùng 5 màu chính, 5 màu nguyên, mà đã nhuộm cho biến màu đi; 9. Từ bi phục, áo của người thực hành đức từ bi; 10. Phúc điền phục, áo cà sa do nhiều miếng vải nhỏ chắp lại, như từng thửa ruộng trên cánh đồng; cũng lại như phúc điền (ruộng phúc lộc); 11. Ngọa cụ, được dùng như cái nệm để nằm; 12. Phu cụ, được dùng như cái chăn để đắp. Kinh Tâm địa quán nêu 10 điều có lợi của áo cà sa, gồm có: 1.

Page 3: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Che thân khỏi thẹn ngượng; 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét; 3. Biểu thị các tướng của Sa môn; 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật); 5. Khi mặc, nảy sinh bảo tháp tướng, diệt mọi tội; 6. Màu không thắm tươi rực rỡ, nảy sinh lòng không tham muốn; 7. Cà sa là áo thanh tịnh của Phật, vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, phát sinh mọi sự tốt lành, như thửa ruộng tốt cho bội thu; 8. Tiêu trừ tội lỗi, phát sinh mười điều thiện; 9. Như nơi đất tốt, có thể nảy nở mầm Bồ đề; 10. Như áo giáp, mũi tên độc phiền não không làm hại được, vì thế mà chư Phật ba đời đều mặc.Khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền theo hướng Nam (Nam truyền) và hướng Bắc (Bắc truyền) thì cà sa của các tu sĩ Phật giáo giữa hai phái cũng có sự khác nhau về màu sắc (tu sĩ Ấn Độ và Nam truyền thường dùng màu vàng nghệ; Trung Quốc dùng cà sa màu đỏ pha đen, Nhật Bản dùng màu trà sẫm). Ở Ấn Độ chỉ có ba loại cà sa trên, không còn thứ áo nào khác; Trung Quốc và Nhật Bản khí hậu lạnh, cho nên trong mặc thêm các thứ áo quần, ngoài khoác áo cà sa.Phẩm phục của tu sĩ Phật giáo Việt Nam thời trước1- Triều LýSau khi lên ngôi vào cuối năm 1009, Lý Công Uẩn: "Ban áo mặc cho hàng Tăng đạo"(2). Tuy nhiên sách không nói rõ có bao nhiêu loại áo và màu sắc cụ thể.Trong sách Thiền uyển tập anh(3), đoạn chép về Quốc sư Thông Biện (? - 1134) thế hệ thứ VII dòng thiền Vô Ngôn Thông, ghi rằng: "… Năm 1096, sư được Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng thái hậu (tức Nguyên phi Ỷ Lan, mẹ vua Lý Nhân Tông) phong làm Tăng thống, ban áocà sa màu tía, ban hiệu là Thông Biện Đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ vinh sủng. Sau Thái hậu lại thỉnh sư vào đại nội, phong làm Quốc sư để tham vấn". Còn đoạn viết về Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) ghi rằng: "Trụ trì chùa Bảo Phúc, quận Mỹ Lăng (huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay)… Chẳng mấy chú ý đến bản thân, sư thường ăn vận đồ sô gai, hàng tơ lụa không bao giờ dùng đến, năm này qua năm khác cứ giữ một mực như thế".2- Triều Trần

Page 4: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Phật hoàng Trần Nhân Tông, thống nhất ba dòng thiền: Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường thành Thiền phái Trúc Lâm mang đậm nét Phật giáo Việt Nam, tuy nhiên không thấy Ngài quy định thống nhất y phục tu sĩ Phật giáo.3- Thời Lê - TrịnhCó lẽ, từ triều Trần trở đi cho tới triều Lê - Trịnh y phục các nhà sư Bắc tông chỉ gồm hai loại như triều Lý: Áo cà sa dùng trong các buổi lễ và bộ nâu sồng dùng thường ngày.4- Các chúa Nguyễn và triều NguyễnCác chúa Nguyễn rất quan tâm đến Phật giáo. Chúa Nguyễn Phúc Chu từng mời Hòa thượng Thạch Liêm (Quảng Châu, Trung Quốc) sang hoằng pháp ở Đàng Trong và được Hòa thượng ban hiệu cho là Thiên Túng Đạo nhân. Một hôm (năm 1695), Chúa hỏi Hòa thượng Thạch Liêm: "Đệ tử từ bé nghe hai chữ Phật pháp đã sinh tâm kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam tức thì hoan hỷ, chẳng biết kiếp trước là ai? Làm phúc nghiệp gì? mà nay sinh ra làm vua ở đây? Xin tôn sư chỉ điểm cho biết, hầu chẳng quên nghiệp trước, đội đức từ bi vô lượng"(4).Đoạn văn trên cho ta biết, đến thế kỷ XVII, ngoài cà sa và áo nâu, áo lam đã là y phục của tu sĩ Phật giáo Đàng Trong.5- Từ thế kỷ XX tới nayCó lẽ do cách mặc khác như vậy mà tháng 5 năm 1927, được tin phong trào chấn hưng Phật giáo ngoài Bắc có người khởi xướng và một số sơn môn ủng hộ thực hiện, được báo chí cổ động, Hòa thượng Lê Khánh Hòa cử Giáo thụ Thiện Chiếu ra Bắc bắt liên lạc với các Tổ đình ngoài đó để xúc tiến thành lập Tổng hội Phật giáo (tức thống nhất Phật giáo ba miền). Sư Thiện Chiếu ra Hà Nội đến chùa Bà Đá (Linh Quang tự) yết kiến Hòa thượng Đỗ Văn Hỷ rồi xin phép lên động Tiên Lữ, Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên để gặp sư Tâm Lai. Vì Thiện Chiếu "đột ngột ăn mặc một cái lối khác sư Bắc kỳ đến, lại không đưa pháp giới cho Sư ông Lai xem" nên sư Tâm Lai lo ngại, không bộc bạch hết tâm sự về chấn hưng Phật giáo với Thiện Chiếu, cuộc gặp không thành công.Tuy nhiên ngọn lửa chấn hưng vẫn âm ỉ và bùng phát vào những năm 1930, mở đầu là sự thành lập Hội Nam kỳ Nghiên

Page 5: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

cứu Phật học (8-1931), rồi Hội An Nam Phật học ở Trung kỳ (1932) rồi Hội Phật giáo Bắc kỳ (11-1934).Chúng ta hãy điểm qua điều lệ, quy tắc của một số Hội Phật giáo xem các Hội đó đề cập đến vấn đề y phục tu sĩ Phật giáo ra sao.a) Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học

Hội thành lập năm 1931. Nhưng điều lệ của Hội thông qua ngày 28-12-1929 có 4 chương, 19 điều và Quy tắc riêng của Hội thông qua ngày 21-9-1931 gồm 2 chương, 51 điều đều không có điều nào quy định về y phục của Tăng sĩ.Tới Đại hội lần III họp ngày 8 tháng 1 năm 1933, thông qua quy tắc thiền môn, gồm 36 điều, trong đó điều 33 quy định:Các vị Tăng già đã vào hội thì phải mặc y phục, đã định hôm kỳ Đại hội ngày 8 tháng 1 năm 1933 như sau đây:Hòa thượng, Yết ma và Giáo thọ, thì mặc áo tràng màu thâm, còn Tăng chúng thì mặc áo nhật bình cùng màu thâm, quần và dù màu trắng, và đầu chẳng đặng bịt khăn (nghĩa là đầu không được bịt khăn - NĐĐ).Như có đám chí, thì các vị tăng già cũng phải dùng y phục của Hội đã định trên đó(5).b) Hội An Nam Phật học (Phật học Trung Kỳ)

Hội thành lập năm 1932. Điều lệ Hội ban hành ngày 15-7-1938 do Khâm sứ đại thần Trung Kỳ phê duyệt có 80 điều; kèm theo là Quy tắc An Nam Phật học hội có 17 điều, cả hai văn bản này đều không có điều nào nói về y phục Tăng sĩ của Hội.c) Hội Phật giáo Bắc kỳ (Hội Việt Nam Phật giáo)

Tại lễ suy tôn Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh ngày 12 tháng 1 năm 1936 (18 tháng Chạp năm Ất Hợi) tại chùa Quán Sứ, 73 phố Richaud: "Tổ Vĩnh Nghiêm ngoài 90 tuổi, da mồi tóc bạc, thân gầy mắt lõm, đeo cặp kính đồi mồi, mình bận chiếc áo rộng điều, đầu đội mũ ni, do hai vị sư kính cẩn xốc hai bên nách, nhẹ nhàng bước từng bước một tiến lên, theo sau có hai vị sư ở Huế ra, mình bận áo cà sa màu vàng, đầu đội mũ miến chỉ vàng".

Page 6: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Tại lễ đặt móng chùa Hội quán Trung ương sáng ngày 26 tháng 6 năm 1938 (20-5-Mậu Dần): "…8g30, Sư tổ Liên phái kỳ túc nhất mặc mũ áo Thiền gia Pháp chủ và 4 vị Kỳ túc Đạo sư mặc xa đàn cùng chư Tăng lên Tam bảo cúng Phật, viên đá mỏng thứ nhất đặt trước Tam bảo…".Báo Đuốc tuệ số 89 ra ngày 15-7-1938 có trưng cầu ý kiến về vấn đề cải cách trong Phật giáo, nêu 5 vấn đề trong đó vấn đề thứ tư: "Phục sức của Tăng Ni và lễ phục của cư sĩ nên chế ra thế nào?".Tuy nhiên, cho tới năm 1945, chưa thấy có ý kiến nào góp ý về y phục của Tăng sĩ đăng trên báo Đuốc Tuệ(6).d) Giáo hội Tăng già (GHTG) Việt Nam

Đại hội thành lập GHTG toàn quốc họp từ ngày 7 - 14-9-1952 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội đã ra Bản quy chế về phẩm phục của chư Tăng toàn quốc thi hành toàn cõi Việt Nam:Về phẩm phục có sự thay đổi như sau:Pháp phục bình thường:

- Thượng tọa bộ: áo tràng bảy thân, tay rộng;- Đại chúng bộ: áo tràng bảy thân, tay hẹp.- Sa di: áo nhật bình tay hẹp;- Hình đồng: áo cài khuy cổ đứng, năm thân;- Hạ y: quần cũng toàn dùng màu nâu thẫm;Áo mặc thường ngày của Ni giới thì kiểu may như 4 bộ của Tăng giới nhưng dùng toàn màu mực (khói hương).Về lễ phục:

- Tăng giới: cà sa toàn dựng màu vàng, áo tràng rộng màu mực khói hương;- Ni giới: cà sa và áo tràng rộng đều dùng màu nâu.Từ ngày 10-12-1952 (14-10 năm Nhâm Thìn) chư Tăng chùa Quán Sứ, Hà Nội và chùa Vọng Cung, Nam Định đã bận lễ phục

Page 7: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

mới theo đúng quy chế của Hội nghị GHTG toàn quốc ấn định. Lễ phục của Tăng giới là áo cà sa toàn màu vàng, áo tràng rộng bằng màu mực (khói hương) và thường phục dùng toàn màu nâu thẫm. Bên Ni giới, lễ phục là áo cà sa và áo tràng rộng dùng toàn màu nâu thẫm. Theo quy chế thường phục của Ni giới phải là màu khói hương, nhưng phần đông Ni chúng ở Nam và Bắc có gửi thư xin dùng màu lam để tránh đồng với sắc áo lễ của chư Tăng, nên Hội đồng Trị sự GHTG Việt Nam đã đồng ý để Ni chúng được dùng thường phục màu nâu như trước.e) Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPG)

Thành lập tháng 11 năm 1981 và Ban hành Hiến chương GHPG Việt Nam. Tính tới Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Hiến chương đã được tu chỉnh 3 lần qua các kỳ Đại hội II (1987), Đại hội III (1992), Đại hội IV (1997), có 11 chương, 48 điều, không có điều nào quy định về y phục của Tăng sĩ. Điều này có nghĩa GHPG Việt Nam đồng ý với quy định của GHTG Việt Nam năm 1952.Kết luậnCho đến nay, trải qua những thời kỳ khác nhau, nhiều tổ chức Phật giáo khác nhau trong hệ thống Bắc tông Phật giáo đều tuân theo quy định nói trên.Tuy nhiên, từ năm 1952 đã ngót 60 năm, việc thực hiện Quy chế Phẩm phục đã có sự thay đổi về màu sắc, về y phục, về lễ phục (ngày nay lễ phục chư Ni có màu vàng), các tu sĩ mặc trong ngày lễ không thống nhất,…Thiết nghĩ, GHPG Việt Nam cần nghiên cứu và có quy định thống nhất trong cả nước về phẩm phục của tu sĩ, sao cho vừa hội nhập được với Phật giáo quốc tế, Phật giáo khu vực, vừa giữ được bản sắc truyền thống Phật giáo Việt Nam.nguồn: daitangkinhvietnam.org

http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/256/0/1617/Doi_net_ve_y_phuc_cua_Phat_giao_Viet_Nam

Page 8: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Đôi nét về y phục của Phật giáo Việt Nam

Y phục của các tăng, ni theo đạo Phật có nhiều tên gọi như: pháp phục, pháp y, hoại nạp phục, hoại sắc phục, ứng pháp diệu phục, liên hoa phục, giải thoát phục, giải thoát tràng tướng phục, xuất thế phục, ly trần phục, vô cấu phục, cà sa…

Y phục Phật giáo ở nước ta rất phong phú và đa dạng, điều này được nhận thấy rõ nhất ở những buổi thực hiện nghi lễ và thường nhật. Nhìn vào y phục của người xuất gia cũng thấy được các hệ phái trong Phật giáo. Phật giáo Việt Nam có nhiều hệ phái, trong đó chủ yếu là hệ phái Bắc tông và Nam tông. Do có nhiều điểm khác nhau về hình thức cũng như màu sắc của pháp phục từng hệ phái, cho nên chính những người xuất gia của từng hệ phái cũng không muốn thay đổi y phục đặc trưng riêng của hệ phái mình.

Page 9: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

 

Điều dễ nhận thấy hình ảnh những chiếc áo màu nâu, màu vàng, màu lam hay chàm gợi nên những hình ảnh đời sống đơn giản, bình dị của người người xuất gia. Đại đức Thích Tâm Định, trụ trì chùa Linh Quang, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định cho biết: những màu sắc đó là màu của đất, của khói hương, của cây lá, củ, rễ, rất gần gũi giản dị với đời thường. Điều đặc biệt, trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay thì màu sắc này cho ta nhận thấy chốn tu hành thật yên bình. Bài viết này tôi đề cập chi tiết hơn tới y phục của Phật giáo Bắc tông Việt Nam.

Y phục của Phật giáo Bắc tông Việt Nam hiện nay gồm: y phục thường nhật và y phục nghi lễ. Y phục thường nhật chia làm 2 loại: thường phục trong chùa và thường phục tiếp khách. Theo truyền thống, y phục mặc trong chùa là áo màu vàng, màu nâu, màu lam và quần dài. Người mới xuất gia (hay còn gọi là sadi, chú tiểu) thì thường mặc màu lam. Khi tiếp khách hoặc ra ngoài thì áo dài màu nâu dành cho chư tăng, áo dài màu lam dành cho chư ni. Thượng tọa Thích Gia Quang cho biết hiện nay có một số nhà sư thường nhật hay mặc áo màu vàng. Việc mặc áo màu vàng hay màu nâu không thể hiện chức danh cao hay thấp, không thể hiện nhà sư đó cao quý hay thấp hèn. Màu áo vàng mặc thường nhật mới xuất hiện vài năm gần đây. Áo thường nhật và áo nghi lễ hình thức khác nhau, lớn nhất ở ống tay áo. Ống tay áo thường nhật nhỏ, còn ống tay áo nghi lễ rộng hơn. Y phục nghi lễ hay còn gọi là lễ

Page 10: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

phục, là những loại áo mặc khi thực hiện các nghi lễ Phật giáo. Loại lễ phục này được các tăng ni Phật giáo Bắc tông gìn giữ đến ngày nay. Đặc biệt, trong lễ phục của Phật giáo Bắc tông còn có áo hậu, đối với chư tăng mặc áo màu vàng, chư ni áo màu lam.

Ngoài y phục thường nhật và lễ phục người tu hành còn có thêm áo càsa màu nâu hoặc màu vàng tùy theo cấp bậc. Áo càsa là một mảnh vải gần như hình vuông, do nhiều miếng vải nhỏ ghép lại theo quy cách nhất định.

Theo truyền thuyết trong đạo Phật, chiếc áo càsa được hình thành từ những miếng vải của nhân dân tứ phương góp lại cho người tu hành. Khi có nhiều mảnh vải rồi, các nhà sư cung thỉnh xin đức Phật cho biết nên may áo theo kiểu cách nào. Nhân đi qua một cánh đồng, đức Phật liền chỉ tay và truyền may theo hình các thửa ruộng. Chính vì lẽ đó mà tấm áo càsa còn có tên là pháp phúc điền, ý cầu mong lúa gạo nhiều, chúng sinh no ấm.

Page 11: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Phật giáo Nam tông hay còn gọi là Phật giáo nguyên thủy bởi cách sinh hoạt giống với cách sinh hoạt của tăng đoàn thời đức Phật. Trong đó, y phục của tu sĩ Nam tông được mô phỏng giống với y phục của chư tăng thời đức Phật còn tại thế. Nhà sư theo phái Nam tông, trang phục không may thành quần áo như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải màu vàng vắt trên người. Điều đó có nghĩa là, các sư Nam tông quấn y thay vì “vận y” bởi chiếc y của chư tăng là một tấm vải lớn, được may lại từ những mảnh vải nhỏ.

Mỗi khi nhìn thấy người xuất gia mặc lễ phục hay thường phục thì hình ảnh ấy vẫn đầy tự hào về nét riêng của tu sĩ Phật giáo Việt Nam.

Như vậy, chúng ta thấy, dù hệ phái Nam tông hay Bắc tông, kiểu cách và màu sắc của y không có một sự đồng nhất hoàn toàn, nhưng chính sự không đồng nhất ấy đã tạo nên nét riêng của mình qua pháp phục.

Việt BáchẢnh:  Ngọc Ngân

Page 12: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

http://maxreading.com/sach-hay/trang-phuc-truyen-thong/trang-phuc-ton-giao-3848.html

Trang phục phật giáo

Hiện nay, nước ta có nhiều tôn giáo nhưng có hai tôn giáo lớn đang tồn tại với qui mô tổ chức chặt chẽ với số lượng tín đồ khá đông. Đó là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong tôn giáo, vấn đề trang phục cũng có nhiều điều cần giới thiệu.Trang phục Phật giáo

Phật giáo ở nước ta chia làm hai tông phái: Bắc tông và Nam tông.- Các nhà sư Bắc tông (ở các chùa miền Bắc) mặc loại vải thô màu nâu (nhuộm bằng củ nâu). Về sau này đã dùng loại vải tốt, mịn hơn và có thể nhuộm bằng thuốc nhuộm. Ở trong nhà, mặc áo cánh ngắn nâu, quần nâu, nam cũng như nữ (gần đây sư nam mặc cả sơ-mi nâu). Ra đường hoặc khi có việc chùa, mặc áo dài tương đối rộng, không căng ngực, cổ tròn đứng, mềm, cài khuy kín cổ, khuy tết bằng vải nâu. Lúc làm lễ các sư bậc thấp mặc áo tràng vạt nâu, tay rộng, cổ chéo có nẹp rộng khoảng 5 cm. Các sư bậc cao mặc áo tràng vạt màu vàng (loại sắc). Bên ngoài còn khoác một tấm vải gọi là áo cà sa màu nâu hoặc màu vàng (loại sắc) tùy theo cấp bậc. Ngoài ra còn loại áo cà sa nhiều màu để dùng khi chạy đàn.

Page 13: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Áo cà sa là một miếng vải gần như hình vuông mỗi chiều rộng khoảng từ 2 m đến 3 m. Đây không phải là một tấm vải liền mà là do nhiều miếng ghép lại theo qui cách nhất định. Trong kinh Phật còn gọi là y pháp, gồm có các loại: y ngũ điều, y thất điều, y cửu điều, y thập nhất điều v.v...Y ngũ điều là do 5 mảnh (điều) ghép lại, y thất điều là do 7 mảnh (điều) ghép lại v.v... Mỗi loại dành cho từng trường hợp sử dụng.Mô tả một tấm y ngũ điều, ta thấy như sau: Tùy theo chiều cao của người mặc, y ngũ điều có thể dài từ 1,6m đến 1,9m. Chiều ngang là năm miếng vải - tức là "điều" - mỗi "điều" có bề ngang là 40 cm. Nhưng năm "điều" không nối liền với nhau mà giữa hai "điều" lại có một dải vải bề ngang 5 cm ngăn cách (gọi là "cách"). Trên từng "điều" theo chiều dọc xuống, còn chia ra làm hai phần không đều nhau do miếng "cách" ngăn ra. Phần dài hơn gọi là "trường", phần ngắn gọi là "đoản". Ở "điều" thứ nhất: "đoản" ở trên, "trường" ở dưới thì ở điều thứ hai: "trường" lại ở trên, "đoản" ở dưới v.v..., tức là có sự sắp xếp so le "trường" và "đoản" giữa các "điều". Nhìn một y (áo) bao giờ các "đoản" cũng ở trên, để các "cách" (ngang) với số lượng nhiều hơn ở phía trên cho đẹp mắt. (Y ngũ điều có ba "cách" ở trên, hai "cách" ở phía dưới).Ở y thất điều lại được bố trí nhất "đoản", nhị "trường". (Trong "điều" thứ nhất là một "đoản" hai "trường", đến điều thứ hai: hai "trường" một "đoản" v.v...). Viền quanh y là một nẹp rộng 10 cm gọi là riệp. Ở mép vải phía trên của bất cứ y nào, ở khoảng 2/3 chiều ngang tính từ trái sang phải, cũng có một cúc tết bằng vải khâu trên một miếng vải hình nửa cánh quạt (dài 9 cm). Cúc này được cài vào một khuyết (cũng được khâu ở giữa miếng vải hình hai cánh quạt) ở đoạn chiều dọc bên trái tấm

Page 14: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

áo, cách mép vải trên khoảng 20 cm. Cách mặc này là khi nhà sư khoác chéo áo, hở một cánh tay. Khi cúc cài vào khuyết, hai hình nửa cánh quạt chập vào nhau, cạnh đó lại có một dải vải trang trí nữa, rất đẹp. Miếng vải nhỏ trên đó có cúc, có khuyết được gọi là bàn đà.Khi choàng áo này, người mặc cần buộc vào nhau hai dây vải trên hai bàn đà khác hình vuông đặt ở gần khoảng giữa tấm áo, dưới mép vải trên. Choàng và buộc dây xong, hai tay sẽ thường xuyên nâng hai bên tấm vải, coi như hai ống tay áo rất rộng.Theo truyền thuyết trong đạo Phật, chiếc áo cà sa hình thành là do từ những miếng vải lẻ của nhân dân tứ phương lòng thành góp lại cho người tu hành. Khi có nhiều mảnh vải rồi, các nhà sư thỉnh xin đức Phật cho biết nên may áo theo kiểu cách nào. Nhân đi qua một cánh đồng, đức Phật liền chỉ tay và truyền may theo hình các thửa ruộng. Cũng vì lẽ đó mà tấm áo cà sa còn tên gọi là tấm pháp phúc điền, ý cầu mong lúa gạo nhiều, chúng sinh no ấm.

Loại áo cà sa nhiều màu (xanh, đỏ, tím, vàng, nâu...) cũng may theo qui cách như áo cà sa một màu, nói lên ý nghĩa tấm áo nhà chùa là do nhiều nhà đóng góp, mỗi nhà một mảnh, một màu khác nhau.- Các nhà sư   Nam   tông , trang phục không may thành quần, áo như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải vàng hoặc nâu quấn, vắt trên người với các kiểu khác nhau. Có các hình thức sau đây:1. Y nội: (còn gọi là y an đà hội) có tác dụng như quần áo lót gồm hai miếng vải. Miếng thứ nhất rộng 40 cm, dài từ 1m - 1,5m vắt từ trước ngực qua vai trái, qua lưng, chéo xuống sườn

Page 15: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ để buộc lại với nhau. Miếng thứ hai để nguyên khổ vải (từ 70cm - 90cm), chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải dắt vào mép vải cho chặt (như chiếc váy).2. Y vai trái (còn gọi là y uất đà la tăng). Mặc y vai trái cần theo một trình tự như sau: khoác tấm vải ra sau lưng, tay phải cầm mép vải (bên phải) luồn từ sau nách phải ra trước ngực rồi vắt phần vải còn lại qua vai trái (như vậy là cánh tay phải và cả hai vai phải để hở ra). Còn đoạn vải bên trái vắt chùm lên phần vải trước, qua vai, buông xuống phía ngực.Ra đường, áo không được để hở vai và tay mà mặc theo trình tự như sau: Quàng tấm vải từ sau lưng ra phía trước hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai mép vải ở trước ngực. Cho tay trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một khoảng trống ở trước ngực. Xong lại kéo đoạn vải ấy tì vào ngực và dùng tay phải cuộn tròn từ hai mép đầu tấm vải vào dần cho đến đoạn tay trái đang giữ, thành một cuộn tròn dài thẳng đứng (tay phải cũng tì vải vào ngực mới cuộn dễ dàng được). Sau đó, nhờ có khoảng trống ở trước ngực, người mặc kéo mép vải trên lên đầu với mục đích cho mép vải phía dưới cao đến mắt cá chân. Tiếp tục vắt cuộn vải lên vai trái, đưa luồn dưới nách từ sau ra trước, cánh tay trái cặp chặt lại là xong. Như vậy, cánh tay trái sẽ không được tự do cử động bình thường.Về đồ đội, xưa kia có loại nón riêng cho nhà sư gọi là nón tu lờ. Nón làm bằng lá gồi, gần như chiếc mũ rộng vành. Ngày nay không phân biệt, đi nắng, các sư ông đội mũ lá, mũ cát, có thời gian đội kiểu mũ hướng đạo nâu. Trời rét đội mũ len màu nâu, hình tròn ống, trên chiết khít lại, hay đan kiểu nổi múi nhỏ như hình bụt ốc trên đầu các tượng Phật. Các sư bà đội nón bình thường. Các nhà sư Nam tông không đội mũ, khi ra đường, nếu cần dùng ô màu vàng hoặc ô màu đen.Nhất thiết các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Riêng nữ có khăn chít đầu. Đây là miếng vải dài 80 cm rộng từ 50 cm đến 60 cm, màu nâu như màu quần áo. Khi đội khăn xếp, gấp mép khăn (từ 5 cm đến 10 cm) theo chiều dài, chùm khăn lên đầu, mép chỗ gấp để trước trán, hai đầu khăn đưa ra phía sau rồi vắt

Page 16: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

chéo nhau ở gáy, nhét một phần vải hai bên ở đầu khăn vào trong, ở ngay sau hai tai.Lúc làm lễ chạy đàn, nhà sư còn đội một loại mũ nhiều màu hình hoa sen, gọi là mũ thất Phật, gồm có bảy cánh, mỗi cánh thêu một hình Phật hay hình hoa sen, hình chữ phạn...Tất cả các sư sãi Bắc tông đều đeo chuỗi hạt, gọi là tràng hạt. Có thể là một chuỗi dài hoặc hai, ba chuỗi ngắn, nhưng nhất thiết có 108 hạt, tượng trưng cho 108 quả bồ đề. Lần tràng hạt để mong bỏ đi 108 điều phiền não, điều xấu trong cõi đời trần tục.Các nhà sư phái Nam tông không đeo tràng hạt. Trang phục Thiên Chúa giáo

Trang phục Thiên Chúa giáo ở Việt Nam thường thấy như sau:Ngoài những tín đồ có sao mặc vậy (nhưng vẫn thường dùng áo màu đen), tầng lớp học sinh học ở các tiểu chủng viện trước đây bắt buộc phải mặc áo dài bằng vải màu đen, quần trắng. Ngày nay có thể mặc quần áo bình thường nhưng màu sắc không được sặc sỡ. Tóc cắt ngắn (thường là húi "cua", không được chải chuốt).Qua bậc trung học, lên đến đại chủng viện, bình thường mặc áo dài đen, quần trắng. Khi lên nhà thờ hay ở cuộc lễ nghi nào đó, với chức Thày, đã được mặc áo chùng đen rộng, dài chấm gót chân. Tay áo rộng, thẳng đều. Cổ áo tròn, không cao lắm, và được lót ở trong một khoang vải hồ cứng màu trắng. Ở trước ngực áo có xẻ một đoạn để chui đầu, xỏ tay. Suốt từ cổ đến gấu áo, chạy dài một hàng khuy to.Lên chức Cha, trừ khi ở trong phòng riêng, bước ra ngoài là Cha phải mặc áo chùng đen. Khi Cha mới chịu chức, phải cắt tròn một ít tóc trên đỉnh đầu. Sau để tóc cũng được, nhưng không được để tóc dài. Đội mũ sọ. Mũ sọ làm bằng vải hình tròn, giống như một chũm gáo dừa, đội một tí trên đỉnh đầu, chân đi giày đen.

Page 17: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Giám mục vẫn mặc áo chùng đen như Cha, còn khoác thêm một áo choàng đen ngắn bên ngoài, đeo thánh giá, thắt quanh bụng một băng vải màu tím đỏ, rộng chừng 10 cm, không buộc múi, đầu có tua buông thả dài ở bên trái. Giám mục được đeo nhẫn, biểu thị sự gắn bó với Chúa. Thánh giá và nhẫn thường bằng vàng (không được bằng bạc), kiểu cách tùy nghi. Đi giày đen.

Tổng giám mục, trang phục như Giám mục, đầu đội mũ sọ bằng vải màu tím đỏ như màu thắt lưng.Như tên gọi, Đức Hồng Y mặc áo chùng màu đỏ (kiểu như áo chùng đen), áo choàng ngắn cũng màu đỏ. Trong áo choàng ngắn là một áo bằng ren trắng mỏng dài đến đầu gối, ống tay áo này rộng hơn tay áo chùng chút ít. Ngoài ra, có một mũ bốn múi màu đỏ đội ra ngoài mũ sọ khi làm lễ.Như những phần trên trình bày, về hình thức trang phục trong Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo, ta thấy thường là giản dị. Áo quần không diêm dúa, cầu kỳ. Màu sắc trang phục nói chung là màu tối. Các nhà sư nam nữ đều cạo trọc đầu. Các học sinh, thày dòng, cha, giám mục... tóc đều cắt ngắn.Xuất phát từ mục đích, nội dung của từng tôn giáo, hầu hết những người làm tôn giáo đều tự nguyện sống khổ hạnh. Điều này ảnh hưởng rất rõ đến phần ăn mặc của họ.Điều đáng kể là trang phục trong Phật giáo Việt Nam đã được dân tộc hóa cao độ, đặc biệt là ở phái Bắc tông. Áo cánh cài

Page 18: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

khuy giữa, áo dài cài khuy cạnh, quần ống rộng của sư nam, sư nữ đều xuất phát từ mẫu áo quần của dân tộc. Kiểu chít khăn của sư nữ cũng là một sáng tạo của Việt Nam. Màu nâu của trang phục các sư Việt Nam cũng là màu của một dân tộc, một đất nước có nhiều củ nâu làm thuốc nhuộm. Trong Thiên Chúa giáo, cũng thường thấy sử dụng chiếc áo dài đen cài khuy cạnh, quần trắng kiểu dân tộc, ở từ học sinh tiểu chủng viện.Như vậy là kể cả trong tôn giáo, những tôn giáo từ nước ngoài du nhập, trên lĩnh vực trang phục cũng đã được người Việt Nam có ý thức dân tộc hóa để phù hợp với phong tục, tập quán, phù hợp với thực tế khách quan ở Việt Nam, góp phần đem lại cho cả tôn giáo một màu sắc Việt Nam độc đáo.

https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=77E251

Page 19: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Nói đến pháp phục của Phật giáo, chúng ta thường đề cập đến pháp phục của người xuất gia, bao gồm pháp phục nghi lễ và pháp phục thường nhật. Pháp phục Phật giáo được xem là hình thức thể hiên thân giáo, đó là pháp tướng bên ngoài của người xuất gia nên các chế tài trong luật nghi quy định rất rõ về các hình thức của pháp phục.

Nói đến pháp phục của Phật giáo, chúng ta thường đề cập đến pháp phục của người xuất gia, bao

gồm pháp phục nghi lễ và pháp phục thường nhật. Pháp phục Phật giáo được xem là hình thức thể

hiện thân giáo, đó là pháp tướng bên ngoài của người xuất gia nên các chế tài trong luật nghi quy

định rất rõ về các hình thức của pháp phục. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam bao gồm nhiều hệ phái,

trong đó chủ yếu là hệ phái Bắc truyền (Bắc tông). Kế đến làn Nam truyền (Nam tông) và Khất sĩ. Do

đó tính đặc trưng về pháp phục của từng hệ phái có nhiều điểm khác nhau về hình thức cũng như

màu sắc, dân đến pháp phục Phật giáo Việt Nam cũng rất phong phú và đa dạng. Trong khuôn khổ

của bài viết này, chúng tôi đã gặp gỡ và trao đổi với ba vị giáo phẩm thuộc ba hệ phái Bắc tông, Nam

tông và Khất sĩ nhằm tìm hiểu rõ hơn về pháp phục cũng như sự thống nhất trong pháp phục nghi lễ

của các hệ phái Phật giáo Việt Nam.

 HT.Thích Trí Tâm, Trưởng ban Nghi lễ T.Ư GHPGVN

Pháp phục Phật giáo Bắc tông

Trong Luật Nghi ghi rằng: "Phật chế ba pháp y là áo mặc duy nhất của Tăng đồ khi thọ giới và cũng

để làm trang phục hoạt dụng thường ngày như hành lễ, thuyết pháp thọ trai, khất thực…, vì đó là y

phước điền, y giải thoát trong giới đức tinh nghiêm biểu hiện sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất của

người tu sĩ Phật giáo" (Thích Thiện Siêu, 2002: 184). Tuy nhiên, khi truyền sang Trung Hoa, Phật

giáo đã có nhiều biến đổi bởi Phật giáo Bắc truyền (Phật giáo Đại thừa) mang tư tưởng cách tân,

nhập thế, đi sâu hòa nhập vào xã hội. Vào đời nhà Đường, Phật giáo phát triển ngày càng mạnh mẽ

dân đến những cải biến quan trọng về lễ phục. Lúc này, ngoài pháp phục còn xuất hiện mão, hia

trong lễ phục nhằm trang trọng hóa tướng mạo của người sử dụng khi hành lễ, thuyết pháp… Trên

Page 20: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

dòng chảy Phật giáo Trung Hoa xuống phía Nam đã để lại Việt Nam dấu ấn không chỉ trong lễ phục,

mà còn cả một dấu tích văn hóa trong tiếp thu chọn lọc. Từ đó, lễ phục Phật giáo Bắc tông được cải

hóa theo từng vùng miền, phong tục khác nhau, và khi đến Việt Nam lại được cải hóa thêm một lần

nữa. Cho đến nay, chưa có tài liệu nào miêu tả chính xác về các loại lễ phục của Phật giáo Bắc tông.

Nếu có đề cập cũng chỉ ở khía cạnh tượng trưng, như sách Bửu đỉnh hằng trì bí yếu chỉ toàn

chương đời nhà Trần, có đề cập đến mũ Phật quang, nhưng chỉ điểm qua chứ không có hình vẽ hay

mô tả gì. Toàn bộ y, mão đều là sự truyền thừa, chúng đệ tử y cứ phụng hành theo những gì chư Tổ

để lại mà sử dụng và phát triển.

Pháp phục của Phật giáo Bắc tông Việt Nam hiện nay gồm: Pháp phục thường nhật và pháp phục

nghi lễ. Pháp phục thường nhật chia làm hai loại: thường phục trong chùa và thường phục đi ra ngoài

hoặc tiếp khách. Theo truyền thống, y phục mặc trong chùa chủ yếu là áo vạt hò và quần dài. Đây là

kiểu áo mặc thường nhật của các tu sĩ thuộc hệ phái Bắc tông. Màu sắc chủ yếu là màu lam, nâu,

vàng. Người mới xuất gia (chú điệu, Sa di) thì thường mặc bộ đồ vạt hò màu nâu hoặc lam. Khi ra

đường thì mặc áo dài Nhật bình, màu lam dành cho chư Ni, màu nâu dành cho chư Tăng. Đối với

những vị thọ đại giới, ngoài chiếc áo Nhật bình dài mặc khi ra đường, có thể mặc thêm loại áo tràng

dài (còn gọi là thông y) khi ra đường hoặc tiếp khách. Về cơ bản thì màu sắc của áo tràng (Thông y)

chỉ có hai màu. Lam dành cho chư Ni và màu nâu dành cho chư Tăng. Ngày nay, để tiện việc giao

tiếp, hoạt động các công tác Phật sự…, chư Tăng mặc áo tràng màu vàng. Màu áo tràng này chỉ xuất

hiện cách đây vài năm, nhất là trong giai đoạn thời kỳ hội nhập.

Pháp phục nghi lễ còn gọi là lễ phục, là những loại áo mặc bên ngoài khi thực hiện nghi lễ Phật giáo.

Loại pháp phục này được quan tâm và chú trọng nhiều nhất, được chư Tăng, Ni Phật giáo Bắc tông

gìn giữ đến ngày nay gồm ba y: Ngũ y, Thất y và Đại y, đều màu vàng sậm (màu phấn tảo). Đặc biệt,

khác với các tông phái Phật giáo khác, Phật giáo Bắc tông ngoài ba y là lễ phục căn bản; mặc bên

trong y còn có áo tràng màu vàng dành cho chư Tăng và màu lam cho chư Ni, gọi là "áo hậu". Áo có

hình thức giống áo tràng dài nhưng cổ tay áo rộng.

Ba y trên là những pháp phục của Tỳ kheo, nên những vị Sa di không được sử dụng khi chưa được

thọ giới Cụ túc. Cho nên bên cạnh ba y của Tỳ kheo, còn có y của những vị Sa di, Sa di Ni và Thức

xoa ma na, được gọi là y "Mạn điều", "Man y" hay là "Vô tướng y" (pháp y không điều), không có

những ô ruộng phước trên y mà chỉ là một tấm vải may lại thành. Tuy nhiên, Sa di cũng được chia

thành ba bậc: Một là khu ô Sa di (Sa di đuổi qua), chỉ những em nhỏ xuất gia, chưa được mặc pháp

y. Hai là hình đồng Sa di (Sa di chưa thọ thập giới) nên chưa được đắp y Mạn điều. Ba là Trì pháp Sa

di (đã thọ thập giới) được đắp y Mạn điều, trở thành hàng ngũ dự bị trong đời sống Tỳ kheo chứ

chưa phải là Tăng chính thức. Khi đắp y Mạn điều, phải quán chiếu bài kệ:"Đại tai giải thoát phục/ Vô

tướng phước điền y/ Phi phụng như giới hạnh/ Quảng độ chư chúng sanh".

1. Ngũ y hay còn gọi là Y ngũ điều, tiếng Phạn gọi là An đà hội, Hán dịch là Trung túc y. Ngũ điều

y cũng được gọi là y bậc hạ, bởi là y thấp nhất trong ba y của hàng tăng sĩ. Y còn có tên là Tạp tác y,

tức là mặc y này để làm các công việc nặng nhọc trong chùa hay đi ra đường, phản ánh chức năng

sử dụng của y. Ngoài ra, Ngũ điều y còn có tên là Nhẫn nhục y, có nghĩa là trau giồi tính nhân nhục

Page 21: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

của thân, ngữ, ý phát triển, khiến hàng phục được sân tâm, tham tâm, si tâm. Ngũ y được ghép lại từ

10 tấm vải với 5 đường dọc dài tượng trưng cho 5 điều. Trên mỗi điều, được chia thành hai ô: một ô

ngắn và một ô dài, trong đó, ô dài tiêu biểu cho chất thánh, ô ngắn biểu thị chất phàm, nên người đắp

y này Thánh nhiều mà phàm ít. Y này có tác dụng loại trừ được tham dục của tâm thức, làm cho thân

được luôn thanh tịnh, nên đắp y này, làm cho ba nghiệp sát, đạo, dâm không xảy ra, ngăn ngừa

được sự vọng động của tâm và ý. Khi đắp y, phải quán chiếu bài kệ:"Thiện tai giải thoát phục/ Vô

thượng phước điền y/ Ngã kim đảnh đới thọ/ Thế thế bất xả ly/ Án tất đà da sa ha".

2. Thất y còn gọi Y thất điều, tiếng Phạn gọi là Uất đa la tăng, Hán dịch là Thượng trước y. Thất y còn

được gọi là Nhập chúng y với công năng là đắp y này để lạy Phật, để sám hối các tội lỗi, để tụng

kinh, ngồi thiền, thọ trai, nghe kinh, làm lễ Tự tứ, làm lễ Bố tát. Y này có 7 điều gồm 21 tấm ghép lại,

trong mỗi điều được chia làm ba, với hai ô dài và một ô ngắn. Khi đắp y, phải quán niệm bài

kệ:"Thiện tai giải thoát phục/ Vô thượng phước điền y/ Ngã kim đảnh đới thọ/ Thế thế thường đắc phi/

Án độ ba độ ba sa ha".

3. Đại y tiếng Phạn gọi là Tăng già lê, Hán dịch là Hiệp. Hiệp y có nghĩa là cắt rọc từng miếng rồi hợp

lại may thành y. Trùng y là may chồng nhiều lớp vải bị cắt ấy lên nhau. Đại y cũng được dịch là Tạp

toái y. Tạp toái vì số điều của nó rất nhiều: từ 9 - 25 điều. Theo Luật tạng quy định, đắp Đại y vào ba

trường hợp sau: vào cung vua, thăng tòa thuyết pháp và đi khất thực.

Đại y gồm có 3 loại và 9 phẩm bậc: Bậc hạ có 3 y và mỗi điều của nó được chia làm ba với hai ô dài

và một ô ngắn: Y hạ hạ: 9 điều, gồm 27 tấm ghép lại. Y hạ trung: 11 điều, gồm 33 tấm vải ghép lại. Y

hạ thượng: 13 điều, gồm 39 tấm vải ghép lại. Bậc trung có 3 y và mỗi điều của y được chia làm bốn

với ba ô dài và một ô ngắn:Y trung hạ: 15 điều, gồm 60 tấm vải ghép lại. Y trung trung:17 điều, gồm

68 tấm vải ghép lại. Y trung thượng:19 điều, gồm 76 tấm vải ghép lại. Bậc thượng có 3 y và mỗi điều

của y được chia làm năm với bốn ô dài và một ô ngắn: Y thượng hạ: 21 điều, gồm 105 tấm vải ghép

lại. Y thượng trung: 23 điều, gồm 115 tấm vải ghép lại. Y thượng thượng: 25 điều, gồm 125 tấm vải

ghép lại. Đặc biệt, y thượng thượng có thể là màu đỏ còn gọi là "Tử y". Người sử dụng y thượng

thượng phải là những bậc cao tăng (tuổi tác, đức hạnh, phước trí). Y này thường chỉ được sử dụng

trong những dịp đại lễ Phật giáo nên rất ít phổ biến trong nghi lễ thông thường. Riêng Tỳ kheo

Ni cũng sử dụng ba y giống như Tỳ kheo Tăng, nhưng khi sử dụng Đại y thì hầu như chỉ sử dụng đến

Thập ngũ điều y trở xuống và đó cũng là một sự tôn trọng của hàng Ni chúng đối với chư Tăng. Khi

đắp Đại y, phải quán chiếu bài kệ:"Thiện tai giải thoát phục/ Vô thượng phước điền y/ Phụng trì như

lai mạng/ Quảng độ chư quần mê/ Án ma ha ca bà ba tra tất đế sa ha".

Sự phân chia ô dài, ngắn trên một điều y có ý nghĩa là nhiều ô dài biểu hiện sự ngày càng tăng

trưởng chất Thánh; còn ô ngắn thể hiện cái tính phàm phu chúng sanh đang ngày càng ít. Trong Giới

Đàn Kinh chép:"Người xuất gia đắp Đại y với ý nghĩa là dứt tâm si của ý nghiệp. Do đó, khi đắp ba y:

Ngũ y, Thất y, Đại y là biểu hiện sự dứt sạch hết thảy tâm tham, tâm sân và tâm si". Bên cạnh đó,

đắp Đại y còn để chống đỡ với thời tiết mùa Đông, vì chúng được may chồng nhiều lớp, bảo dưỡng

thân thể để làm Phật sự, hóa độ quần mê.

Page 22: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

Trong lễ phục Phật giáo Bắc tông, ngoài ba y còn có mão (mũ) được sử dụng trong quá trình thực

hiện nghi lễ: Thuyết pháp, đăng đàn truyền giới, chẩn tế bạt độ âm linh… các loại mão thông dụng

được tổ tổ tương truyền cho đến ngày nay:

1. Mão Hiêp Chưởng còn gọi là Liên hoa ấn. Mão có hình dạng giống như hai bàn tay chắp lại hình

búp sen mang ý nghĩa biểu hiện trí tuệ và phước đức, nên còn có tên gọi khác là mũ phước và trí.

Trên mũ luôn có có sáu đường viền tượng trưng cho sáu Ba la mật: 3 đường bên phải là phước đức

gồm: Bố thí, Trì giới, Nhân nhục; 3 đường bên trái là trí tuệ gồm: Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.

2. Mão Tỳ Lư, mão ghép bằng ba mảnh với sáu hình giống cánh sen. Mỗi mặt đều có những đường

viền chạy xung quanh xếp theo sự uốn lượn của mũ. Mặt trước của mũ có ba chữ "Án Dạ Hồng" ở

chính giữa, mặt sau may chữ Vạn, mang ý nghĩa "Vạn đức câu viên", tức là tất cả vô số đức lành đều

quy tập về ở nơi mũ này. Mỗi hình cánh sen trên mũ tượng trưng cho Lục độ bao gồm: Bố thí, Trì

giới, Nhân nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Bên trên được kết đính bằng một tấm vải hình tròn

và chia làm ba vòng, tượng trưng cho Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Hình tròn nhỏ ngoài có màu

đỏ, được chia làm 4 phần bằng nhau, mỗi phần có 4 giọt nước tượng trưng cho Tứ niệm xứ và Tứ

diệu đế. Trên cùng là chóp mão màu đỏ hình một cái núm nhỏ được cột bằng 8 sợi chỉ vàng biểu

trưng Bát Chánh đạo.

3. Mão Quan Âm: Mão mang hình dáng và ý nghĩa giống mũ Hiệp Chưởng ở phần trên, phần dưới

được kéo dài xuống đến nửa lưng. Mão Quan Âm thường được làm bằng gấm màu vàng hoặc màu

đỏ sậm, trên đó có những chữ Thọ cách điệu trong những ô tròn (hay còn được gọi là đoàn thọ) hoặc

là những chữ Phước. Mũ Quan Âm mang ý nghĩa cứu khổ chúng sanh bằng phước, trí, được xem là

nguyện lực tầm thanh cứu khổ của Bồ tát Quan Thế Âm. Do đó người sử dụng mão này phải là

những bậc cao tăng (tuổi tác, đức hạnh, phước trí). Mão thường chỉ được sử dụng trong những dịp

đại lễ Phật giáo nên cũng rất ít phổ biến trong nghi lễ thông thường khác.

Ngày nay, cũng trên hình tướng căn bản như vậy, nhưng do xã hội đang ngày càng phát triển, ngành

dệt may đã đạt đến trình độ tinh xảo, sản xuất ra nhiều loại vải khác nhau v.v..., đã đẩy mạnh sự bất

đồng màu sắc trong lễ phục Phật giáo, làm cho lễ phục không còn một màu chính thống, chất liệu vải

cũng khác nhau. Chỉnh đốn và thống nhất về màu sắc trong lễ phục Phật giáo Bắc tông là điều hết

sức khó khăn đối với các ban ngành chức năng của Giáo hội, cụ thể là Ban Tăng sự. Những năm

gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục

cùng một màu sắc (màu vàng sậm), đây thật sự là một việc làm đẹp mà Phật giáo các nơi phải nhìn

nhận và noi theo. Tuy nhiên, cho dù chưa thống nhất được màu sắc nhưng về cơ bản lễ phục không

xa rời ba y từ xưa đến nay của Phật giáo. Đó là Ngũ y, Thất y và Đại y.

Page 23: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

 HT.Thích Giác Giới, Phó ban Tăng sự T.Ư GHPGVN,

Thường trực Giáo phẩm hệ phái Khất sĩ Việt Nam

Pháp phục hê phái Khất sĩ

Pháp phục và bình bát là tài sản thiêng liêng, quý báu của người xuất gia. Vì nó là phương tiện giúp

cho Tỳ kheo an ổn trong sinh hoạt hàng ngày và phòng hộ thân tránh tham đắm dục lạc. Khi còn tại

thế, Đức Phật vân luôn nhắc nhở, khuyến khích các Tỳ kheo hãy thường giữ bên mình 3 y và 1 bình

bát. Ngài cũng tuyên bố rằng đó là pháp phục truyền thống của ba đời chư Phật.

Pháp phục của Phật giáo Khất sĩ gần giống với pháp phục của Phật giáo Nam tông nhưng lại khác về

màu sắc. Theo Chơn Lý Luật nghi Khất sĩ quy định pháp phục của một vị Tỳ kheo gồm có 3 y: Y

thượng bá nạp, y trung và y hạ. Người sơ cơ xuất gia chỉ được mặc bộ đồ màu vàng (kiểu áo vạt hò,

quần dài). Riêng Sa di (đã thọ thập giới) được mặc ba y, nhưng y thượng (y trùm ngoài) phải may

trơn, không có điều.

1. Y thượng là loại y choàng bên ngoài có màu vàng sậm, được may bởi nhiều mảnh vải nhỏ ghép

lại với nhau. Y thượng có chiều dài 2m70, chiều ngang 1m80, mặc vấn chừa vai và cánh tay phải. Khi

ra đường thì phải mặc trùm kín (gọi là y lum). Mỗi vị Tỳ kheo chỉ được phép có một y thượng. Mỗi

năm vào ngày 15-7 âm lịch mới được phép đổi y. Y thượng thường được mặc khi lễ Phật, Bố tát,

truyền giới…

2. Y trung là loại y mặc giữa thân người, gồm một tấm vải nguyên màu vàng sậm, có kích thước

chiều dài 2m, bề ngang 70cm, không may bìa (xếp lai), kết mỗi bên hông một nút quai thắt. Mỗi vị chỉ

Page 24: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

có một y cũ và một y mới. Y trung của Ni lưu có bề dài 1m, bề ngang 70cm, được may theo kiểu áo

vạt hò có cánh tay, ống tay, đính, lai, bâu, nút vai thắt, phải có xương sống và vai vuông.

3. Y hạ là tấm vải nguyên, có bề dài 2m, bề ngang 1m may dính lại, thành ra vuông vức 1m. Bìa trên

10cm, bìa dưới 5cm, màu vàng sậm. Tăng mặc xếp từ hông đến nửa ống chân, Ni mặc dún rút từ

hông đến ngang mắt cá chân. Mỗi vị chỉ được phép có một y cũ và một y mới.

Ngoài 3 y ra, vật thường được mang theo bên mình vị Tỳ kheo đó là chiếc bình bát. Bình bát là đồ để

đựng thức ăn, khi khất thực và khi thọ trai. Thông thường bình bát được làm bằng đất, có vị làm bằng

nhôm, thau, hông bình bát tròn 6 tấc, miệng rộng, sơn đen, lăn sáp bên ngoài, nắp đậy bằng nhôm

trắng, nhẹ. Túi đựng bình bát bằng vải, cùng với màu y. Túi bát tròn vừa cái bát, có nắp phủ lên, có

quai 1 tấc bề ngang, bề dài khi mang choàng vào vai trái thì miệng túi bát phải ngang dây lưng chăn.

Về màu sắc pháp phục của hệ phái Phật giáo Khất sĩ , ba y phải cùng một màu (màu vàng sậm).

Hiện nay, tất cả các tăng sĩ Phật giáo Khất sĩ gần như mặc đồng bộ màu vàng sậm. Mỗi năm, khi đến

mùa Tự tứ, Phật tử dâng y đều phải thống nhất một màu.

 ĐĐ.Thích Thiện Minh, Ủy viên HĐTS GHPGVN,

Thư ký Phật giáo Nam tông Việt Nam

Pháp phục hê phái Phật giáo Nam tông

Mỗi tôn giáo đều có sắc phục riêng của mình, nhằm nói lên tính thống nhất biểu tượng, có tổ chức.

Có người nói chiếc áo không làm nên tôn giáo hay thầy tu, nhưng nhờ chiếc áo mà phân biệt được

tôn giáo, thầy tu. Một tôn giáo sinh hoạt tốt phải có tổ chức thành công nhiều mặt, trong đó sắc phục

cũng không thể nào thiếu. Đức Phật xuất hiện ở Ấn Độ trong một bối cảnh đa tôn giáo, nhưng Ngài

Page 25: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

khéo sử dụng tôn giáo có trước thời ngài và vận dụng trí tuệ, từ bi và sự giác ngộ của Ngài để phát

huy Phật giáo, nhằm mục đích làm lợi ích cho chư thiên và loài người. Trong sự phát huy Phật giáo,

Đức Phật đã kiện toàn rất nhiều lãnh vực cho phù hợp với Tăng đoàn và Giáo hội. Y phục và giới luật

là vấn đề khá lớn trong Tăng đoàn thời Đức Phật và những điều đó tới tận nay vân còn tồn tại trên

thế giới. Ở đây, chúng tôi xin đề cập vài nét về y phục theo truyền thống Phật giáo Nam tông Việt

Nam.

Về xuất xứ, Tương ưng bộ kinh và Luật tạng Pali kể lại, một lần kia Thế Tôn và số đông Tỳ khưu đi

hoằng pháp tới một cánh đồng, Thế Tôn bảo Đại đức Ananda có thấy cánh đồng hay không? Đại đức

bảo có. Vậy Ananda hãy vẽ y phục của chư Tăng giống như cánh đồng vậy. Thế là Ananda vâng lời

Thế Tôn thực hiện. Vì ruộng lúa có lợi ích cho con người, còn y phục, ẩn dụ phước điền của chư

thiên và loài người.

Chiếc y ngày nay chúng ta mặc là chiếc y theo luật tạng Pali quy định. Căn cứ theo Trưởng lão

Ananda vâng lời Phật dạy vẽ chiếc y giống như thửa ruộng. Ý nghĩa người mặc chiếc y này tượng

trưng cho phước điền của chư thiên và loài người. Thửa ruộng thì có nhiều bờ đê, nên y phục trong

luật tạng cũng quy định như sau: Y 5 điều, y 7 điều, y 9 điều, y 11 điều.

Ở Việt Nam, chư Tăng Nam tông Kinh và Nam tông Khmer đa số mặc y 5 điều. Hình thức Tam y,

bình bát vân còn gìn giữ nguyên vẹn. Vị Tỳ khưu bên trong thì có Giới Định Tuệ, bên ngoài có tam y

và nhất bát. Điều cảm động, tam y nhất bát của Đức Phật và Tăng đoàn thời xa xưa, ngày nay Phật

giáo Nam tông Việt Nam vân còn gìn giữ nguyên vẹn, không bị đồng hóa.

Pháp phục Phật giáo Nam tông không may thành quần, áo như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải vàng

hoặc nâu quấn, vắt trên người với các kiểu khác nhau. Có các hình thức sau đây:

Y nội: (còn gọi là y An đà hội) có tác dụng như quần áo lót gồm hai miếng vải (giống như y trung của

hệ phái Khất sĩ). Miếng thứ nhất rộng 40cm, dài từ 1m - 1,5m vắt từ trước ngực qua vai trái, qua

lưng, chéo xuống sườn phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ để buộc lại với nhau. Miếng thứ hai để

nguyên khổ vải (từ 70cm - 90cm), chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải giắt vào mép vải cho

chặt (giống y hạ của Khất sĩ).

Y vai trái (còn gọi là y Uất đa la tăng). Y vai trái có chiều dài 2m70, chiều ngang 1m80 mặc vấn chừa

vai và cánh tay phải. Khi ra đường, áo không được để hở vai và tay mà phải mặc trùm cả thân theo

trình tự như sau: Quàng tấm vải từ sau lưng ra phía trước, hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai

mép vải ở trước ngực. Cho tay trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một khoảng

trống ở trước ngực. Y này thường mặc khi lễ Phật, kiết giới, Bố tát, thuyết pháp…

Về màu sắc y phục chư Tăng, theo luật tạng Pali quy định là màu hoại sắc, nói cụ thể hơn là màu da

bò, màu vàng đậm và màu măng cụt. Ở Việt Nam, ba màu vừa kể trên chư Tăng đều có mặc, nhưng

chưa thống nhất và đồng phục, như Sa di phải mặc màu nào, Tỳ khưu phải mặc màu nào! Về phía Ni

giới Nam tông Việt Nam, hiện quý vị Ni đang sử dụng 3 màu: màu trắng (ảnh hưởng Thái - Khmer),

Page 26: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

màu hồng và màu nâu (ảnh hưởng Miến Điện). Tuy ba màu nhưng màu trắng lại chiếm đa số - pháp

phục màu trắng và cộng thêm khăn giới màu vàng.

Tóm lại, y phục là để tô điểm cho oai nghi tế hạnh của người xuất gia. Đầu tròn, y phục và bình bát là

thể hiện người xuất gia, tuy là hình thức nhưng chính nó giúp cho chúng ta tu tâm dưỡng tánh,

chuyển mê khai ngộ. Người xuất gia chỉ có tam y, bình bát là tài sản. Tam y là để che thân, bình bát

dùng để khất thực và nuôi mạng sống qua ngày, để thực hành đời sống phạm hạnh.

Giang Phong thực hiện (Nguyệt San Giac Ngộ số 170 )

Ý NGHĨA C Ủ A MÀU S Ắ C PHÁP PH Ụ C

Page 27: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

HỎI:Chúng tôi thấy y phục của quý Thầy, Sư cô gồm ba màu chính: màu lam, màu nâu sồng, màu vàng. Trong đó, theo sự hiểu biết của chúng tôi thì màu lam và màu nâu sồng là màu của thường phục (mặc trong sinh hoạt, đi lại, giao tiếp) còn màu vàng là màu của pháp phục (mặc trong lúc làm lễ). Riêng Phật tử mặc áo tràng khi hành lễ có màu lam. Xin cho biết ý nghĩa của các màu ấy? Ngoài ra, chúng tôi còn thấy quý Sư ở nhiều nơi quấn y màu vàng hoặc đỏ sâm, quý Ni

quấn y màu trắng, có nơi thì quý Thầy mặc thường phục toàn màu vàng và một vài đạo tràng Phật tử mặc áo tràng màu đen. Xin cho biết thêm về những điều ấy?

ĐÁP:Trước hết, màu sắc của cà sa (kasàya), tức pháp y do Phật chế định là hoại sắc, không phải chính sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng và đen). Về hoại sắc, đa phần các bộ Luật tán đồng quan điểm hoại sắc gồm các màu pha như: màu xanh dương đậm (xanh+đen), màu bùn (nâu+đen) và màu mộc lan (đỏ+đen). Ngoài ra, còn có quan niệm cho rằng hoại sắc là hoà lân cả năm màu chính để thành một màu khác (Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bản Sớ). Đến thời Phật giáo bộ phái thì có năm bộ phái màu sắc y phục khác nhau như: xanh (Hoá điạ bộ), vàng (Đại chúng bộ), đỏ (Pháp tạng bộ), đen (Thuyết nhất thiết hữu bộ), và mộc lan (Am quang bộ) (Đại Tỷ Kheo Tam Thiên Oai Nghi, q.Hạ). Theo quan điểm Bách

Nhất Yết Ma, q.9: “Phàm là cà sa, phải nhuộm cho hoại sắc: hoặc xanh (màu rỉ đồng), hoặc thâm (màu bùn), hoặc vàng nghệ (màu đất nung)”, đây là ba màu cà sa như pháp. Đa phần Tăng sĩ Phật giáo An độ mặc y màu vàng nghệ hoặc nâu đỏ. Phật giáo Trung Quốc thời Hán-

Nguỵ, pháp y màu đỏ, về sau thêm màu đen, xanh và vàng thâm.Phật giáo Việt Nam do đặc điểm dung hội nhiều hệ phái Phật giáo như: Bắc tông (chiếm đa số), Nam tông, Khất sĩ, Hoa tông… nên màu sắc y phục của Tăng Ni rất đa dạng, có nhiều khác biệt. Màu pháp phục (y và áo hậu) của chư Tăng Ni Bắc tông là màu vàng, riêng Ni giới thì áo hậu màu lam (có nơi màu nâu). Màu y vàng biểu trưng cho năng lực chánh niệm làm nền tảng để thành tựu định tuệ. Màu vàng còn là màu của tuệ giác, tượng trưng cho sự siêu việt thế gian, buông bỏ, xả ly, không chấp thủ và thành tựu giải thoát. Ngoài ba y, chư Tăng Ni Bắc tông còn có thường phục là bộ đồ ngắn (vạt hò), áo dài (áo nhật bình, áo tràng). Sở dĩ gọi thường phục nhằm phân biệt với pháp phục (chỉ mặc trong lúc hành lễ). Thường phục này gồm hai màu chủ đạo là màu nâu sồng và màu lam. Màu nâu sồng (đen+đỏ hoặc vàng+đỏ sâm) là màu tối, màu của đất, không đẹp tượng

trưng cho sự giản dị, chân chất, bền bỉ, trầm mặc có khả năng kham nhân, chịu thương chịu khó. Mặt khác, màu nâu sồng còn biểu trưng cho sự thanh đạm nhưng đầy hùng lực của đời sống phạm hạnh, ly tục. Chư Tăng Ni và Phật tử miền Bắc hầu hết trang phục là màu nâu sồng này.Màu lam (khói) cũng là màu thường phục của Tăng Ni đồng thời là màu lễ phục của Phật tử (áo tràng, áo đoàn Gia đình Phật tử). Màu lam là màu hoà hợp không rực rỡ cũng không quá u trầm. Màu lam tượng trưng cho tinh thần bình đẳng, hòa đồng, tinh tấn và nhân nhục của người con Phật. Đặc điểm của màu lam là dễ dơ nhưng khó thấy, giống như tâm chúng sanh bao hàm nhiễm ô và thanh tịnh. Tịnh hay nhiễm cũng đều xuất phát từ nơi tâm. Nếu để cho phiền não, nhiễm ô dấy khởi thì che khuất phần thanh tịnh, sáng suốt và ngược lại nếu xa lìa phiền não, tham ái thì chân tâm, Phật tánh ngày càng hiển lộ. Vì thế, khoác lên mình màu áo lam để nhắc nhở người con Phật nỗ lực tu tập, thực hành Chánh pháp.Đối với chư Tăng Ni đắp y theo truyền thống, màu vàng tươi hay vàng sâm thuộc hệ phái Khất sỹ. Chư Tăng Nam tông đắp y theo truyền thống và thường có màu nâu đỏ, đỏ sâm hay vàng sâm. Vị “Ni” đắp y màu trắng là tu nữ thuộc Phật giáo Nam tông, tuy có hình thức xuất gia nhưng thực chất những vị này chỉ là cư sỹ (bạch y) thọ tám hoặc mười giới để tu tập.Trường hợp chư Tăng mặc thường phục toàn màu vàng là những vị cao đức hoặc thiền sinh thuộc các thiền viện. Riêng những Phật tử mặc áo tràng màu đen thuộc các đạo tràng Phật giáo Hoa tông, chủ yếu là cộng đồng Phật tử người Việt

Page 28: · Web viewNhững năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc

gốc Hoa tại Chợ Lớn, TPHCM.Tuy màu sắc y phục có sự khác nhau do đặc điểm hệ phái, tông phái nhưng tất cả các hệ phái đều tu tập theo lời Phật dạy và hòa hợp, bình đẳng trong Giáo pháp của Như lai.