BẢN TIN TÀI CHÍNH · tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và...
Transcript of BẢN TIN TÀI CHÍNH · tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và...
Chỉ số tháng 12/2013 Tăng/giảm so với
tháng trước
Tăng/giảm so với
cùng kỳ năm trước
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) + 0,51% + 6,04%
Chỉ số sản xuất công nghiệp + 4,4% + 7,0%
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh
thu DVTD + 2,1% + 13,0%
Tổng kim ngạch xuất khẩu - 3,3% + 12,2%
Tổng kim ngạch nhập khẩu + 4,7% + 16,8%
Ngày 14 tháng 01 năm 2014
Chỉ số tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng
6,04% so với tháng 12/2012
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước. Trong
đó, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có mức tăng CPI tháng 12 so với tháng trước
tăng cao nhất 2,31%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ
ăn uống tăng 0,49%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình
tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng
0,08%; giáo dục tăng 0,02%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá
Nguồn: Tổng cục thống kê - GSO
BẢN TIN TÀI CHÍNH THÁNG 12/2013 www.fpts.com.vn
BẢN TIN SỐ 12.2013
THÔNG TIN VĨ MÔ
THÔNG TIN VĨ MÔ
THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG
Tài chính Ngân hàng
Thị trường Chứng khoán
THÔNG TIN PHÁP LUẬT
GÓC TRAO ĐỔI DN
TRỤ SỞ CHÍNH
Tầng 2, 71 Nguyễn Chí Thanh
Quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: (84-4) 3773 7070
Fax: (84-4) 3773 9058
CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH
29 - 31 Nguyễn Công Trứ,
P. Thái Bình, Quận 1, TP.HCM
Điện thoại: (84-8) 6290 8686
Fax: (84-8) 6291 0607
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
100 Quang Trung, P. Thạch Thang,
Quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: (84-511) 3553 666
Fax: (84-511) 3553 888
2
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
giảm gồm: Giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn thông
giảm 0,01%.
CPI tháng 12/2013 tăng 6,04% so với tháng 12/2012, đây
là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10 năm
trở lại đây (CPI tháng 12 so với cùng kỳ năm trước của
các năm 2004 - 2013 như sau: Năm 2004: 9,5%; năm
2005: 8,4%; năm 2006: 6,6%; năm 2007: 12,63%; năm
2008: 19,89%; năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%;
năm 2011: 18,13%; năm 2012: 6,81%; năm 2013:
6,04%). CPI bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình
quân năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,21%
của năm 2012. Trong năm nay, CPI tăng cao vào quý I và
quý III với mức tăng bình quân tháng là 0,8%; quý II và
quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức thấp với
mức tăng bình quân tháng là 0,4%.
Chỉ số giá tiêu dùng năm nay tăng do một số nguyên nhân
chủ yếu sau: (1) Giá một số mặt hàng và dịch vụ do Nhà
nước quản lý được điều chỉnh theo kế hoạch và theo cơ
chế thị trường: Trong năm có 17 tỉnh, thành phố điều
chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và
dịch vụ y tế tăng 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng
góp vào chỉ số chung cả nước gần 1,1%; các địa phương
tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí làm làm CPI nhóm
giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào chỉ số chung cả
nước tăng khoảng gần 0,7%; giá xăng dầu được điều
chỉnh tăng/giảm và cả năm tăng 2,18%, góp vào CPI
chung cả nước mức tăng 0,08%; giá điện điều chỉnh tăng
10%, đóng góp vào CPI chung khoảng 0,25%. Bên cạnh
đó, giá gas cả năm tăng gần 5%, đóng góp vào CPI cả
nước với mức tăng 0,08%; (2) Nhu cầu hàng hóa tiêu
dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng vào dịp
cuối năm; (3) Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão; (4) Mức
cầu trong dân yếu.
Không nằm trong rổ các mặt hàng tính chỉ số giá, chỉ số
giá vàng tháng 12/2013 giảm 3,33% so với tháng trước;
giảm 24,36% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá đô la
Mỹ tháng 12/2013 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng
1,09% so với cùng kỳ năm 2012.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu cả năm 2013 đạt
132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12 ước tính đạt 11,6
tỷ USD, giảm 3,3% so với tháng trước và tăng 12,2% so
với cùng kỳ năm 2012. Tính chung cả năm 2013, kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4%
so với năm 2012. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay
tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với
các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện
thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, giày dép... Xuất
khẩu của khu vực này trong những năm gần đây có xu
hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim
ngạch xuất khẩu (Năm 2011 chiếm 56,9% và tăng 41%;
năm 2012 chiếm 63,1% và tăng 31,1%; năm 2013 chiếm
61,4% và tăng 22,4%).
Trong năm 2013, nhiều sản phẩm thuộc nhóm hàng công
nghiệp có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như: Điện
thoại và linh kiện; hàng dệt, may; điện tử máy tính và linh
kiện; giày dép; gỗ và sản phẩm gỗ; túi xách, ví, va li, mũ,
ô dù; hóa chất; rau quả; hạt điều; hạt tiêu… Kim ngạch
xuất khẩu dầu thô, gạo, cà phê, cao su, than đá và xăng
dầu giảm so với năm 2012.
Về thị trường, EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam trong năm 2013, Hoa Kỳ đứng thứ hai, tiếp
đến là ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2013 đạt 131,3
tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 12 ước tính đạt
11,5 tỷ USD, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 16,8%
so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu
năm 2013 đạt 131,3 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm
trước. Cũng như hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập
khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài những năm gần
đây có xu hướng tăng mạnh và kim ngạch chiếm tỷ trọng
3
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu (Năm 2011 nhập
khẩu của khu vực này chiếm 45,7% và tăng 32,1%; năm
2012 chiếm 52,7% và tăng 22,7%; năm 2013 chiếm
56,7% và tăng 24,2%).
Về mặt hàng nhập khẩu năm nay, kim ngạch một số mặt
hàng tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc,
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác; điện tử, máy tính và linh
kiện; vải; điện thoại các loại và linh kiện; chất
dẻo; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép; thức ăn gia súc
và nguyên phụ liệu… Một số mặt hàng có kim ngạch
nhập khẩu cả năm tăng thấp hoặc giảm là: Tân dược; xăng
dầu; phân bón; phương tiện vận tải khác và phụ tùng; cao
su.
Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu của
nước ta vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên
liệu nhập từ nước ngoài do ngành công nghiệp phụ trợ còn
quá yếu. Tỷ trọng giá trị nhập khẩu các mặt hàng phục vụ
hoạt động gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng khá cao trong
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu
điện thoại các loại và linh kiện (trừ điện thoại di động)
chiếm 33,3% kim ngạch xuất khẩu điện thoại các loại và
linh kiện; kim ngạch nhập khẩu vải chiếm 48,3% giá trị
xuất khẩu hàng dệt may…
Về thị trường, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn
nhất của Việt Nam trong năm 2013, đây là thị trường nhập
siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỷ USD. Tiếp
đến là thị trường ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, thị
trường EU và Hoa Kỳ.
Trong mười một tháng năm nay, xuất siêu hàng hóa
thực hiện là 763 triệu USD. Tháng 12 xuất siêu ước tính
100 triệu USD. Tính chung cả năm 2013, xuất siêu 863
triệu USD, bằng 0,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu
13,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất
siêu gần 14 tỷ USD. Như vậy xuất siêu năm nay hoàn
toàn thuộc về khu vực đầu tư nước ngoài. Mặc dù xuất
khẩu khu vực này phát triển mạnh là điều kiện thuận
lợi để giải quyết việc làm cho người lao động nhưng
hiệu quả mang lại cho tăng trưởng kinh tế không cao do
chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng gia công, lắp ráp với
giá trị gia tăng thấp.
Vốn FDI trong 12 tháng năm 2013 đạt 21,628 tỷ USD,
tăng 54,5% so với cùng kỳ năm 2012
Theo Cục đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 15/12/2013 cả
nước có 1.275 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn
đăng ký là 14,272 tỷ USD, tăng 70,5% so với cùng kỳ
năm 2012 và 472 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,355 tỷ USD, tăng 30,8%
so với cùng kỳ năm 2012.
Tính chung trong 12 tháng năm 2013 tổng vốn đăng ký
cấp mới và tăng thêm là 21,628 tỷ USD, tăng 54,5% so
với cùng kỳ năm 2012. Ước tính các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã giải ngân được 11,5 tỷ USD, tăng
9,9% với cùng kỳ năm trước.
Theo đối tác đầu tư: 54 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự
án đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản là nước dẫn đầu,
Singapore đứng vị trí thứ hai, Hàn Quốc đứng vị trí thứ
ba.
Theo lĩnh vực đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư
vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế
biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm
của nhà đầu tư nước ngoài nhất. Lĩnh vực sản xuất, phân
phối điện, khí, nước, điều hòa đứng thứ hai. Đứng thứ ba
là lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
Theo địa bàn đầu tư: trong mười hai tháng năm 2013,
không kể dầu khí ngoài khơi, các nhà đầu tư nước ngoài
đã đầu tư vào 52 tỉnh thành phố, trong đó Thái Nguyên là
địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất, Thanh Hóa đứng
thứ hai và Hải Phòng đứng thứ ba.
4
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Một số dự án lớn được cấp phép trong mười hai
tháng năm 2013
- Dự án Công ty TNHH lọc hóa dầu Nghi Sơn (Thanh
Hóa) của nhà đầu tư Nhật Bản điều chỉnh tăng vốn đầu
tư 2,8 tỷ USD;
- Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện đốt than BOT
Vĩnh Tân 1 của nhà đầu tư Trung Quốc với tổng vốn
đầu tư 2,018 tỷ USD để thiết kế, xây dựng, vận hành và
chuyển giao một nhà máy nhiệt điện đốt than tại Vĩnh
Tân;
- Dự án Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam
Thái Nguyên của nhà đầu tư Singapore với tổng vốn
đầu tư 2 tỷ USD để sản xuất và lắp ráp các sản phẩm
điện tử;
- Dự án Công ty TNHH LG Electronics Việt Nam Hải
Phòng của nhà đầu tư Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư
1,5 tỷ USD để sản xuất và lắp ráp các sản phẩm điện,
điện tử;
- Dự án Công ty TNHH Samsung Electro-mechanics
Việt Nam của nhà đầu tư Hàn Quốc với tổng vốn đầu
tư 1,23 tỷ USD với mục tiêu sản xuất và lắp ráp bảng
mạch in kết nối mật độ cao HDI tại Thái Nguyên;
- Dự án Công ty TNHH Bus Industrial Center của nhà
đầu tư Liên bang Nga với tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD để
xây dựng nhà máy lắp ráp và sản xuất phụ tùng xe ôtô
buýt và các dịch vụ hỗ trợ khác tại Bình Định;
- Dự án Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam
tại Bắc Ninh điều chỉnh tăng vốn 1 tỷ USD.
Thu hút FDI theo ngành
Thu hút FDI theo đối tác
Thu hút FDI theo địa phương
(FPTS Tổng hợp)
(Nguồn: FIA)
5
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Thông số vĩ mô
Nguồn: GSO, FIA
Nguồn: GSO
Nguồn: SBV, VCB
6
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
I. THÔNG TIN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
1. Điểm nhấn ngân hàng năm 2013: Lãi suất giảm
nhanh – Chính sách tiền tệ nhượng bộ
Lãi suất giảm nhanh
Với diễn biến thuận lợi của lạm phát, chính sách lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước đã bắt nhịp để có những điều
chỉnh nhanh hơn dự tính.
Trong năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 2%/năm
các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi suất cho
vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu
tiên; giảm 1%/năm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền
gửi bằng VND, từ cuối tháng 6 cho phép các ngân hàng
thương mại tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn
từ 6 tháng trở lên.
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm trong 2013
(trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006) nhưng vẫn
đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị
trường tiền tệ. Lãi suất cho vay cũng đã giảm xuống
thấp, phổ biến dưới 13%/năm đến cuối 2013.
Chính sách tiền tệ một năm nhượng bộ
Như trên, Quyết định 780 và hoãn Thông tư 02 là hai
điển hình cho tình thế phải nhượng bộ của chính sách
tiền tệ trong năm 2013. Cả hai cơ chế này đều hướng tới
tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn, giảm
tải áp lực nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, hay là một kế
hoãn binh để từng bước xử lý những khó khăn của nền
kinh tế.
Trong đó, riêng việc thực hiện Thông tư 02 là vấn đề nổi
bật và xuyên suốt trong năm 2013, với loạt kiến nghị
tiếp tục hoãn áp dụng từ lãnh đạo nhiều ngân hàng
thương mại.
Với hai điển hình trên, các chỉ báo về tình hình sức khỏe
của hệ thống các tổ chức tín dụng đã không được phản
ánh một cách sát thực và đầy đủ. Đây cũng là áp lực dự
báo sẽ nổi bật trong năm 2014, khi nhiều khả năng phải
ngừng Quyết định 780 và chính thức áp dụng Thông tư
02.
Quyết định 780 và Thông tư 02 một lần nữa cũng là điển
hình cho thấy hiệu quả của điều hành chính sách tiền tệ
phụ thuộc nhiều vào các chính sách điều tiết tài chính
đối với hệ thống các tổ chức tín dụng. Bởi nếu không
nhượng bộ như trên, năm 2013 chắc chắn hệ thống đã
không có được sự ổn định, hay các vấn đề như thanh
khoản, lãi suất, tỷ giá, thậm chí là khả năng đổ vỡ đã trở
nên nóng bỏng.
2. Năm 2014 – Lo Lãi suất bị chèn lấn?
Lãi suất đã giảm nhanh, mạnh và về mức thấp trong
năm 2013. Nhưng, niềm vui của doanh nghiệp và
người dân vay vốn có thể chẳng tày gang, khi quan
ngại có hiện tượng chèn lấn đang hình thành.
Năm 2014, lãi suất có tiếp tục giảm được nữa hay
không, hay ổn định, hay tăng trở lại?
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước nêu định hướng
chung rằng, năm 2014 sẽ điều hành chủ động, linh hoạt
các mức lãi suất chủ chốt để kiểm soát và điều tiết lãi
suất thị trường phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền
tệ, đặc biệt là diễn biến lạm phát, góp phần ổn định thị
trường tiền tệ.
“Tiếp tục áp dụng trần lãi suất tiền gửi bằng VND để ổn
định mặt bằng lãi suất thị trường, xem xét không quy
định trần lãi suất huy động khi thị trường tiền tệ ổn định
và thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng cải thiện
vững chắc”, Ngân hàng Nhà nước gợi mở thêm.
Cụ thể hơn, tại hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành trên
địa bàn Tp.HCM cuối tuần qua, Thống đốc Nguyễn Văn
Bình dự tính rằng, lãi suất năm 2014 cơ bản sẽ giữ như
mặt bằng năm 2013; nếu lạm phát có tín hiệu thấp hơn
thì Ngân hàng Nhà nước sẽ có điều chỉnh phù hợp.
Tham khảo một hướng khác, cuộc khảo sát định kỳ mà
vụ chức năng của Ngân hàng Nhà nước thực hiện, về
tâm lý và kỳ vọng của tổ chức tín dụng và doanh nghiệp
đối với Ngân hàng Nhà nước, cho thấy các tổ chức tín
dụng kỳ vọng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm thêm 1 -
2%/năm tùy lĩnh vực.
Tuy nhiên, kỳ vọng lãi suất giảm tiếp đang gặp trở ngại
lớn từ chính sách tài khóa. Tại các hội thảo diễn ra trong
tháng 12 này, một loạt chuyên gia kinh tế đều chung
quan ngại: hiện tượng chèn lấn của trái phiếu có thể phá
vỡ mặt bằng lãi suất trong năm 2014.
THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG
7
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Với quan điểm cá nhân, ông Bùi Quốc Dũng, Phó vụ
trưởng Vụ Thống kê và dự báo tiền tệ (Ngân hàng Nhà
nước), nêu lên một tồn tại có thể tiếp tục tái diễn trong
năm 2014: trong khi chính sách tiền tệ tập trung nguồn
vốn thúc đẩy tín dụng cho nền kinh tế, hạ lãi suất thị
trường nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, thì chính sách tài khóa lại đẩy mạnh huy
động vốn từ nền kinh tế trong nước nhằm tài trợ cho
hoạt động chi tiêu công trong bối cảnh thu ngân sách
giảm sút so với các năm trước.
“Như vậy, chính sách tài khóa phần nào đã lấn át hoạt
động đầu tư cho nền kinh tế hiện đang rất thiếu vốn và
hệ thống ngân hàng lại tiếp tục tài trợ cho hoạt động
này”, ông Dũng nhìn nhận.
Dẫn chứng cụ thể, chỉ riêng trong 11 tháng đầu năm
2013 đã có trên 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ
được phát hành, trong đó gần 90% do hệ thống các tổ
chức tín dụng mua. Hiệu ứng lấn át, theo góc nhìn trên,
có thể tiếp tục diễn ra và thậm chí trầm trọng hơn khi
ước tính gần 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ
được phát hành ròng trong năm 2014 (bao gồm cả kế
hoạch phát hành bổ sung 170 nghìn tỷ đồng trong giai
đoạn 2014-2016).
Và ông Bùi Quốc Dũng cảnh báo: “Hệ quả nhãn tiền là
mặt bằng lãi suất của nền kinh tế sẽ khó giảm, thậm chí
quay đầu tăng trở lại và tín dụng cho nền kinh tế khó có
thể đẩy mạnh”.
Hiện tượng chèn lấn trên được nhìn nhận, nguồn cung
trái phiếu Chính phủ rất lớn trong năm 2013 và 2014 đã
tạo một kênh trú ẩn vốn cho các tổ chức tín dụng. Nếu
kênh này hẹp đi, nguồn vốn của các ngân hàng sẽ phải
dồn cho các kênh đầu tư tư nhân, cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nhiều hơn; vốn dồn
nhiều hơn, lãi suất sẽ giảm thêm và tín dụng tăng trưởng
tốt hơn.
Trong sự chèn lấn đó, hiệu quả sử dụng vốn qua trái
phiếu Chính phủ phục vụ chi tiêu và đầu tư công so với
vốn sử dụng qua đầu tư tư nhân, cho phát triển sản xuất
kinh doanh, bên nào tốt hơn và có trách nhiệm hơn cũng
là vấn đề được đề cập đến nhiều thời gian qua.
Chưa hết, với quy mô trái phiếu Chính phủ dự kiến lớn
như vậy, không những cản trở động lực giảm lãi suất thị
trường mà còn có thể phá vỡ mặt bằng lãi suất trong năm
2014. Cung lớn giá sẽ chịu áp lực rẻ đi, lãi suất có thể sẽ
tăng lên - điều mà nhiều chuyên gia và hẳn là cả Ngân
hàng Nhà nước đang quan ngại.
Có cùng quan điểm, tại hội thảo mới đây, TS. Lê Xuân
Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh
doanh (BDI), lo ngại chính sách tài khóa sẽ tiếp tục dồn
thêm khó khăn cho chính sách tiền tệ trong năm 2014.
Bên cạnh quy mô của sự chèn lấn trên, ông Nghĩa cho
rằng nghĩa vụ trả nợ của ngân sách trong năm 2014 sẽ
càng tạo thêm áp lực. Vị chuyên gia này cho biết, các tổ
chức nước ngoài khi nhìn vào cơ cấu trái phiếu Chính
phủ cũng phải “rùng mình” vì kỳ hạn quá ngắn, và một
lượng lớn bắt đầu tập trung đáo hạn từ giữa 2014 đến
2015, áp lực phát hành thêm sẽ càng lớn.
Ngoài ra, chuyên gia này còn quan ngại về tình trạng nợ
đọng trong xây dựng cơ bản vẫn chưa được xử lý rõ rệt,
chưa “tính” vào áp lực ngân sách phải trả nợ trong năm
2014.
Chính nợ đọng trong xây dựng cơ bản cũng là một
nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng,
vốn bị kẹt khiến nguồn tiếp tục cho vay ra hạn chế;
nguồn vốn cung ứng hạn chế thì lãi suất sẽ càng khó
giảm, chưa kể hàng ngày các tổ chức tín dụng vẫn phải
trả lãi cho phần vốn bị nợ đọng đó.
3. Tỷ giá một năm nhìn lại: Ổn định và chủ động can
thiệp trong điều hành tỷ giá
Trong năm 2013, NHNN đã đề ra mục tiêu duy trì tỷ giá
trong biên độ không quá 2-3%, điều hành chặt chẽ theo
tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô và cán
cân thanh toán quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự
trữ ngoại hối của Nhà nước và chống đô la hóa trong nền
kinh tế.
Định hướng này được đưa ra dựa trên diễn biến cung-
cầu và khả năng bình ổn thị trường ngoại tệ cũng như
biến động tỷ giá trong năm 2012, khi tỷ giá USD cuối
năm 2012 giảm tới 1% so với đầu năm. Trong đó, cơ sở
quan trọng để ổn định tỷ giá trong trường hợp cần thiết
là chuẩn bị đủ nguồn ngoại tệ, và chỉ điều chỉnh tỷ giá
khi các biện pháp cân đối cung-cầu không mang lại hiệu
quả.
8
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Những năm trước đây, tỷ giá USD tăng đã gây tác động
lên mặt bằng giá cả, đặc biệt là giá dầu, do Việt Nam
phải nhập khẩu hầu như toàn bộ xăng dầu chế biến.
Đồng thời, gây tác động tâm lý khi nhiều người chuyển
sang USD nhằm tránh lạm phát, điều này lại tiếp tục gây
áp lực lên tỷ giá. Khi giá USD tăng, các doanh nghiệp
phải điều chỉnh lại phương án sản xuất kinh doanh và
các hợp đồng kinh tế, gây tốn kém tiền bạc và nhiều bất
lợi khác cho doanh nghiệp. Ngay cả các doanh nghiệp
xuất khẩu cũng chưa chắc đã hưởng lợi khi giá USD
tăng, do nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn dựa chủ yếu
vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Do đó, việc đưa ra thông điệp tỷ giá rõ ràng ngay từ đầu
năm đã giúp các tổ chức kinh tế và cá nhân tránh được
một trong những rủi ro lớn nhất do bất ổn tỷ giá thường
ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị VND, qua đó ảnh hưởng
đến giá cả các mặt hàng và tác động tâm lý.
NHNN đã giữ quan điểm điều chỉnh tỷ giá dựa trên kết
quả tính toán tỷ giá thực, chủ yếu dựa trên cán cân thanh
toán quốc gia và đảm bảo mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ, đưa ra mức lãi suất thích hợp đối với tiền gửi
ngoại tệ theo hướng có lợi cho người gửi VND, qua đó
đã hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, đảm bảo hiệu
quả kinh tế của dự trữ ngoại hối quốc gia.
Tại một số thời điểm trong năm 2013, áp lực tỷ giá tăng
nhẹ theo diễn biến trên thị trường tài chính trong nước
và quốc tế, phản ánh đúng qui luật vận động của tỷ giá.
Trong đó, đợt tăng giá dài nhất xuất hiện vào cuối tháng
4/2013, khi một số ngân hàng thương mại (NHTM) đã
nâng giá USD lên kịch trần cho phép 21.036 VND/USD,
thậm chí tăng giá mua bằng giá bán lên kịch trần 21.036
VND, giá bán USD trên thị trường tự do lên tới 21.320
VND.
Để chấm dứt áp lực lên tỷ giá, ngày 27/6/2013, NHNN
đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm
1% lên mức 21.036 VND/USD, sau 1,5 năm ổn định ở
mức 20.828 VND/USD, đồng thời tiếp tục khẳng định
quyết tâm ổn định tỷ giá như định hướng đề ra từ đầu
năm. Sau thời gian đó, nhu cầu USD tại các NHTM bắt
đầu hạ nhiệt dần, gây tác động lan tỏa sang thị trường tự
do vốn chỉ chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường ngoại
hối quốc gia. Trong những ngày cuối năm 2013, giá
USD tại các NHTM ổn định quanh mức 21.140 VND.
Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở mức 21.180-
21.200 VND.
Nhờ chính sách ổn định tỷ giá và chủ động can thiệp
trong trường hợp cần thiết, thị trường ngoại tệ năm 2013
giữ được sự ổn định, tỷ giá dao động trong biên độ cho
phép, không có đột biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị
trường. Chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị
trường tự do được thu hẹp, tỷ lệ đô la hóa giảm mạnh.
Các thị trường trong nước không còn chịu tác động của
giá USD trên thị trường quốc tế, đây là yếu tố quan trọng
trong việc duy trì và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư.
Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực trong việc ổn định
lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng dự trữ ngoại
hối. Do tỷ giá ổn định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có
xu hướng đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM để lấy
VND, dòng kiều hối chuyển về cũng tăng mạnh. Theo
dự báo của Ngân hàng Thế giới, lượng kiều hối về Việt
Nam trong năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 9
trong danh sách các nước nhận kiều hối hàng đầu thế
giới.
Trong năm 2013, các giải pháp của NHNN về điều hành
tỷ giá đã góp phần rất quan trọng trong việc ổn định thị
trường ngoại tệ và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Nhập
siêu tiếp tục giảm, các nguồn thu ngoại tệ như đầu tư
nước ngoài trực tiếp, lượng kiều hối chuyển về diễn biến
thuận lợi, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán tổng
thể cuối năm 2013 tiếp tục thặng dư ở mức cao. Theo
đánh giá của Bộ Công Thương, khả năng tổng giá trị
xuất khẩu năm 2013 đạt khoảng 132 tỷ USD, tăng 15%
so với năm 2012, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra 10%.
Đáng chú ý, nhập siêu giảm xuống còn khoảng 0,5 tỷ
USD, bằng 0,38% kim ngạch xuất khẩu.
4. Tương lai 2014: Một năm bình yên nữa cho tỷ giá
Thông điệp điều hành chính sách tỷ giá năm 2014 đã
được Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình phát đi
ngày 24/12/2013 tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với
các địa phương. Theo đó, NHNN sẽ xem xét để điều
chỉnh tỷ giá linh hoạt, một mặt hỗ trợ xuất khẩu, đảm
bảo mặt bằng chung để không ảnh hưởng tới lạm phát.
Biên độ điều chỉnh trong năm 2014 sẽ không quá 2%.
Tỷ giá – dấu ấn nhà điều hành
9
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
“Nếu như công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT)
là điểm sáng trong nền kinh tế năm 2013, thì việc giữ ổn
định tỷ giá được xem là một trong những dấu ấn của nhà
điều hành, tức NHNN” - đó là nhìn nhận của một chuyên
gia kinh tế dành cho lĩnh vực điều hành CSTT. Còn TS.
Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát
tài chính Quốc gia thì nhấn mạnh: “Dự trữ ngoại tệ tăng
từ 7 tỷ USD năm 2008 đến năm 2013 tăng lên 28 tỷ
USD. Đặc biệt, đưa thêm tiền đồng ra mua lượng lớn
ngoại tệ mà không gây ra lạm phát là sự kinh ngạc”.
Nhìn lại những năm trước đây, tỷ giá thường xuyên biến
động, áp lực tăng tỷ giá là thường xuyên, xu hướng
chuyển dịch từ việc nắm giữ VND sang USD tạo sức ép
tăng cầu ngoại tệ. Do đó, NHNN phải bán ngoại tệ để
can thiệp thị trường, làm dự trữ ngoại hối Nhà nước
giảm xuống mức thấp (khoảng 10 tỷ USD vào cuối năm
2011), gây khó khăn cho việc điều hành và ổn định thị
trường tiền tệ.
Từ cuối năm 2011, NHNN đã đặt mục tiêu kiểm soát tỷ
giá tăng không quá 1% và tiếp tục đặt mục tiêu ổn định
tỷ giá trong biên độ tăng không quá 2-3%/năm trong
năm 2012 và năm 2013, nhằm kiểm soát kỳ vọng về sự
mất giá của VND, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chủ động trong việc lập và thực hiện kế hoạch kinh
doanh.
Có thể nói, sau những đợt điều chỉnh mạnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng và duy trì ở mức 20.828 đồng/USD
trong gần 18 tháng, và chỉ được điều chỉnh tăng 1% vào
ngày 28/6/2013 lên mức 21.036 đồng/USD là một thành
công trong chính sách tỷ giá “ổn định nhưng không cố
định” của NHNN.
Bên cạnh đó, năm 2013, chính sách tỷ giá của NHNN đã
vượt qua những sức ép thị trường từ những tin đồn điều
chỉnh. Cụ thể, ngày 22/8/2013 khi một số NHTM nâng
giá bán USD lên 21.190 đồng/USD, tăng 70 đồng so với
trước đó một ngày khiến xuất hiện tin đồn sắp tăng tỷ
giá; tiếp đó, vào đầu tháng 12/2013 cũng xuất hiện tin
đồn điều chỉnh tỷ giá khiến giá bán USD của các NHTM
bị đẩy lên 21.350 đồng/USD.
Tuy nhiên, sau thông điệp chính thức phát đi từ NHNN
là sẽ không điều chỉnh tỷ giá tới hết năm 2013, thị
trường đã hạ nhiệt. Như vậy, kết thúc năm 2013, tỷ giá
liên ngân hàng ở mức 21.036 đồng/USD và các NHTM
mua vào ở mức 21.085 đồng/USD, bán ra 21.125
đồng/USD.
Đánh giá về giải pháp điều hành tỷ giá ngoại tệ năm
2013, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh,
năm qua, NHNN điều chỉnh tỷ giá là 1% và dự kiến thị
trường sẽ tự điều chỉnh thêm khoảng 1% nữa, thì vẫn
nằm trong kiểm soát. Nhưng thực tế, ngay cả khi khó
khăn nhất và thị trường đối mặt với nhiều tin đồn thất
thiệt thì tỷ giá trên thị trường cũng chỉ điều chỉnh tối đa
0,6%.
Ngoài ra, sự linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kết hợp
chặt chẽ với công cụ lãi suất trong năm 2013 đã đưa mặt
bằng lãi suất cho vay VND giảm xuống, tín dụng ngoại
tệ tăng chậm lại, góp phần cải thiện thanh khoản ngoại tệ
của hệ thống. Không những thế, NHNN phối hợp chặt
chẽ với các bộ, ngành liên quan chấn chỉnh có hiệu quả
hoạt động thị trường tự do - vốn có lượng giao dịch
không nhiều nhưng lại là nguồn cơn của các đợt biến
động tỷ giá trước đây.
Bên cạnh đó, yếu tố tác động tỷ giá là vàng cũng được
đưa vào khuôn khổ, khiến “cặp đôi” này không còn dựa
vào nhau để tung hoành, gây bất ổn thị trường như
trước...
Điều hòa lợi ích xuất nhập khẩu
Thông điệp điều hành chính sách tỷ giá năm 2014 đã
được Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình phát đi ngày
24/12/2013 tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các
địa phương. Theo đó, NHNN sẽ xem xét để điều chỉnh
tỷ giá linh hoạt, một mặt hỗ trợ xuất khẩu, đảm bảo mặt
bằng chung để không ảnh hưởng tới lạm phát. Biên độ
điều chỉnh trong năm 2014 sẽ không quá 2%. Theo một
chuyên gia kinh tế, lời cam kết như vậy sẽ loại dần
những tin đồn thổi về tỷ giá trong thời gian tới.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá liên quan tới nhiều mục
tiêu, điều hòa lợi ích cho cả xuất khẩu và nhập khẩu,
chịu tác động từ diễn biến của thị trường trong nước và
quốc tế nên dự báo từ đầu năm là rất khó khăn.
Theo phân tích của giới nghiên cứu, năm 2014, khu vực
châu Âu sẽ thoát khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng
0,9%, Mỹ là 2,7% và Nhật là 1,2%. Trung Quốc sẽ tăng
trưởng thấp hơn kế hoạch 7,5% trong năm 2013 do phải
đối mặt với vấn đề nợ xấu ngân hàng và nợ công địa
10
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
phương. Khả năng rút dần các chương trình kích thích
kinh tế tại các nước sẽ gia tăng thêm áp lực tới tỷ giá và
lãi suất, gây khó khăn cho mục tiêu đảm bảo ổn định tỷ
giá và thị trường ngoại tệ. Đặc biệt, giá cả hàng hóa thế
giới có xu hướng giảm có thể ảnh hưởng tới hoạt động
thương mại và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
“Mục tiêu chính sách lãi suất và tỷ giá năm 2014, vẫn
phải giữ thế chủ động trước diễn biến thế giới và trong
nước, chủ động dẫn dắt và định hướng thị trường trên cơ
sở các tín hiệu của nền kinh tế vĩ mô; điều hành theo
hướng linh hoạt, nhưng không hoàn toàn nới lỏng trong
điều hành chính sách để vừa kiềm chế lạm phát, vừa hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế” – Nhóm nghiên cứu của Viện
Chiến lược ngân hàng kiến nghị.
TS. Trần Du Lịch - Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc
hội cho rằng, mặc dù dự trữ ngoại hối đã đạt 12 tuần
nhập khẩu, nhưng năm 2014, đòi hỏi mức tăng trưởng
GDP ở mức 5,8% nên tổng cầu sẽ tăng, nhu cầu nhập
khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sẽ cao hơn nên
chính sách tỷ giá vẫn cần được điều hành chặt chẽ.
“Thị trường năm 2014 sẽ khó xuất hiện các tin đồn liên
quan tới tỷ giá, khi trong vài năm qua, NHNN đã làm
nản lòng những kẻ đầu cơ dựa vào tin đồn. Nhưng cần
kiên trì mục tiêu ổn định tỷ giá trong một giới hạn nếu
có biến động thì cả năm 2014 – 2015 không vượt quá 2-
2,5% mỗi năm” – một chuyên gia kinh tế nhấn mạnh.
(FPTS Tổng hợp)
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
A. Tổng hợp thị trường
Chỉ tiêu ĐVT VN-
Index
VN30-
Index
HNX-
Index
HNX30-
Index
UPCOM-
Index
Chỉ số đầu tháng Điểm 508,53 568,87 65,13 122,90 41,64
Chỉ số cuối tháng Điểm 504,63 562,20 66,95 127,15 42,46
Tăng/giảm chỉ số trong tháng Điểm -3,9 -6,67 2,71 4,25 0,82
Tỷ lệ tăng/giảm chỉ số % -0,77 -1,17 4,16 3,46 1,97
Tổng khối lượng giao dịch Triệu cổ phiếu 1953,80 481,05 1198,79 515,57 17,37
Biến động thị trường tháng 12/2013
Giao dịch NĐTNN trên 2 sàn tháng 12/2013
11
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Top 10 mã CP tăng/giảm trên 2 sàn trong tháng 12/2013
( *): cổ phiếu có thực hiện quyền trong tháng
Mã
CP Doanh nghiệp
Giá
ngày
02/12
(đồng)
Giá
ngày
31/12
(đồng)
Thay
đổi
(%)
HOSE - TOP 10 MÃ CỔ PHIẾU TĂNG TRONG THÁNG
KAC Công ty Cổ phần Đầu tư Địa ốc
Khang An 6.300 9.600 52%
SFC Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài
Gòn 17.500 24.000 37%
GTA Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ
Thuận An 8.200 11.100 35%
TTP Công ty Cổ phần Bao bì Nhựa
Tân Tiến 22.100 28.800 30%
PNC Công ty Cổ phần Văn hóa
Phương Nam 4.300 5.600 30%
VID Công ty Cổ phần Đầu tư Phát
triển Thương mại Viễn Đông 3.100 4.000 29%
HDC Công ty Cổ phần Phát triển nhà
Bà Rịa-Vũng Tàu 14.600 18.800 29%
TYA Công ty Cổ phần Dây và Cáp
điện Taya Việt Nam 5.700 7.300 28%
SJS
Công ty Cổ phần Đầu tư Phát
triển Đô thị và Khu Công
nghiệp Sông Đà
14.500 18.500 28%
STT Công ty cổ phần Vận chuyển
Sài Gòn Tourist 2.700 3.400 26%
HOSE - 10 MÃ CỔ PHIẾU GIẢM MẠNH TRONG THÁNG
VHG Công ty Cổ phần Đầu tư và Sản
xuất Việt - Hàn 10.700 7.100 -34%
VNG Công ty Cổ phần Du lịch Golf
Việt Nam 6.700 4.800 -28%
HLA Công ty Cổ phần Hữu Liên Á
Châu 6.300 4.600 -27%
VNH Công ty Cổ phần Thủy hải sản
Việt Nhật 6.900 5.300 -23%
HU3 (*)
Công ty cổ phần Đầu tư và Xây
dựng HUD3 10.600 8.200 -23%
PPI
Công ty Cổ phần Phát triển Hạ
tầng và Bất động sản Thái Bình
Dương
5.800 4.600 -21%
VST Công ty Cổ phần Vận tải và
Thuê tàu biển Việt Nam 3.900 3.100 -21%
TDW Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ
Đức 18.000 14.600 -19%
DCT Công ty Cổ phần Tấm lợp Vật
liệu xây dựng Đồng Nai 3.300 2.700 -18%
VNA Công ty Cổ phần Vận tải Biển
Vinaship 3.900 3.200 -18%
Mã
CP Doanh nghiệp
Giá
ngày
02/12
(đồng)
Giá
ngày
31/12
(đồng)
Thay
đổi
(%)
HNX - TOP 10 MÃ CỔ PHIẾU TĂNG TRONG THÁNG
SHN Công ty Cổ phần Đầu tư Tổng
hợp Hà Nội 900 3.300 267%
BHV Công ty Cổ phần Viglacera Bá
Hiến 2.600 5.200 100%
NVC Công ty Cổ phần Nam Vang 900 1.800 100%
GGG Công ty cổ phần Ô tô Giải Phóng 1.100 1.900 73%
PSG Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây
lắp Dầu khí Sài Gòn 1.100 1.800 64%
CID Công ty Cổ phần Xây dựng và
Phát triển Cơ sở Hạ tầng 4.500 7.300 62%
DAC Công ty Cổ phần Viglacera Đông
Anh 4.200 6.800 62%
HHL Công ty Cổ phần Hồng Hà Long
An 1.100 1.700 55%
VXB Công ty Cổ phần Vật liệu xây
dựng Bến Tre 8.000 12.100 51%
SMT Công ty cổ phần Vật liệu Điện và
Viễn thông Sam Cường 10.300 15.500 50%
HNX - 10 MÃ CỔ PHIẾU GIẢM MẠNH TRONG THÁNG
VPC Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát
triển Năng lượng Việt Nam 4.100 2.800 -32%
SAF Công ty Cổ phần Lương thực
Thực phẩm Safoco 46.800 32.000 -32%
TET Công ty Cổ phần Vải sợi May
mặc Miền Bắc 14.000 10.200 -27%
KMT Công ty cổ phần Kim khí miền
Trung 5.100 3.800 -25%
VE8 Công ty cổ phần Xây dựng Điện
VNECO 8 3.600 2.700 -25%
SPI Công ty cổ phần Đá Spilít 6.500 4.900 -25%
KST Công ty cổ phần KASATI 5.400 4.200 -22%
QCC
Công ty Cổ phần Xây lắp và Phát
triển Dịch vụ Bưu điện Quảng
Nam
2.700 2.100 -22%
DNY (*)
Công ty Cổ phần Thép Dana - Ý 8.600 6.700 -22%
IDV Công ty Cổ phần Phát triển Hạ
tầng Vĩnh Phúc 23.900 19.000 -21%
12
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Thị trường tháng 12/2013
Những phiên giao dịch của tháng 12 cuối năm 2013 khép lại trong sắc xanh đầy hi vọng. Trong tháng 12, VN-Index
giảm nhẹ 0,77% đạt 504,63 điểm, HNX tăng mạnh 4,16% đạt 66,95 điểm và VN30 giảm 1,17% đạt 562,20 điểm. Trên
sàn HOSE, khối lượng giao dịch bình quân 88,81 triệu cổ phiếu, giảm 4,3% so với tháng 11, đạt giá trị giao dịch
trung bình 1344,96 tỷ đồng. Sàn HNX, khối lượng giao dịch bình quân 54,49 triệu cổ phiếu, tăng mạnh 17,63% so
với tháng trước, đạt giá trị giao dịch trung bình 427,83 tỷ đồng. Diển biến thị trường trên cả hai sàn có sự gia tăng
vượt bậc về khối lượng lẫn giá trị giao dịch. VN-Index chốt năm trên mốc 500 điểm thành công khép lại một năm giao
dịch sôi động và phấn chấn cho nhà đầu tư.
Tháng 12/2013, quỹ ETF - VNM đã có những đợt tăng/giảm chứng chỉ quỹ , có thời điểm lên đến 20.200.000 đơn vị.
Tuy nhiên đến cuối tháng 12 số lượng chứng chỉ quỹ giữ nguyên so với đầu tháng, ở mức 20.000.000 đơn vị. Theo đó,
quỹ chỉ huy động ròng được 1,5 tỷ đồng tương đương 71.000 USD, giá trị tài sản ròng của quỹ tính đến 31/12/2013
đạt hơn 372,6 triệu USD, giảm 15,4 triệu USD so với đầu tháng.
Đối với quỹ FTSE Vietnam UCITS ETF, tháng 12 quỹ đã giảm 200.000 chứng chỉ quỹ, đưa tổng số lượng chứng chỉ
quỹ về mức 12.066.397 đơn vị. Trong tháng qua quỹ đã bị rút ròng hơn 103,6 tỷ đồng tương đương 4,9 triệu USD. Giá
trị tài sản ròng của quỹ tại thời điểm 31/12/2013 đạt 295,6 triệu USD giảm 7,7 triệu USD so với đầu tháng.
Thị trường tháng 01/2014
Thị trường tháng 12 diễn ra trái chiều trên hai sàn, HOSE giảm cả về điểm số và khối lượng giao dịch trong khi HNX
thì ngược lại, điểm số và khối lượng tiếp tục gia tăng, nhưng mức giảm của HOSE không đáng kể, giúp chỉ số vẫn trên
ngưỡng kháng cự mạnh 500-505 điểm, và thanh khoản ở mức cao, đây là tiền đề cho tháng đầu năm 2014. Tháng
1/2014 thị trường sẽ không có nhiều thông tin đột biến, vì những thông tin liên quan tới nới room, chỉ số lạm phát,
mức tăng về tín dụng đã được giới đầu tư bàn tán, kỳ vọng và phản ánh vào giá. Nhưng những số liệu, chính sách
được đưa ra hay dự đoán đưa ra của những tháng cuối năm 2013 sẽ là động lực cho dòng tiền và qua đó giúp thị
trường tăng trưởng bền vững trong tương lai.
Thứ nhất, đó là CPI cả năm 2013 chỉ tăng 6,04% , thấp hơn kế hoạch sẽ giúp cho các nhà điều hành thực hiện các
chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng nhằm kích thích kinh tế, gia tăng tiền vào lưu thông.
Thứ hai, năm 2013 khối ngoại mua ròng hơn 6800 tỷ đồng, tăng gần 50% so với năm 2012, việc khối ngoại mua ròng
là do Việt Nam làm một trong những thị trường mới nổi chỉ số P/E đang ở mức thấp so với khu vực, cộng với việc nới
VN - Index HNX - Index
13
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
room khối ngoại vào đầu năm thì dòng tiền này sẽ tiếp tục duy trì và giúp thị trường tăng bền vững. Trong tháng 01
những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt cũng được giới đầu tư dự đoán, kỳ vọng và do đó mua vào cổ phiếu
chờ khi có những chỉ báo chính thức được đưa ra để tìm kiếm lợi nhuận. Là tháng giao dịch trước tết Nguyên Đán, tuy
không sôi động nhưng theo thống kê lịch sử 6 năm qua thì dịp này thị trường thường tăng điểm.
Về PTKT, đồ thị chỉ số VN-Index luôn xuất hiện những cây nến Doji hoặc thân nến đen và thanh khoản dưới mức
trung bình 20 ngày khi chạm đường trên của kênh giá trung hạn ứng với 512-515 chứng tỏ tâm lý lưỡng lự của nhà
đầu tư, thị trường cần những phiên tích lũy để vượt qua và chạm tới mức kháng cự tiếp theo ở 520. Ở phía ngược lại,
ngưỡng hỗ trợ 500, mà trước đó là kháng cự thị trường cần hơn một tháng rưỡi từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11 để
vượt qua, tiến lên mốc 514 và nửa cuối tháng 12 thị trường lùi về tích lũy ở vùng 500-505 nên có thể xem đây là mốc
hỗ trợ cứng của thị trường trong trường hợp dòng tiền tham gia không mạnh và thị trường đảo chiều. Lưu ý đây cũng
là mốc được nâng đỡ bở nhóm đường SMA 50 và 100.
Chỉ số HNX-Index sau 02 phiên đầu năm với những cây nến Doji thì thị trường tăng điểm bằng những cây nến trắng
và dài tạo ra cảm giác xung lực mạnh cho nhà đầu tư, nhưng lưu ý là khối lượng không tương ứng làm cho quá trình
tăng điểm sẽ thiếu bền vững. Ngoài ra, giá tăng nhưng RSI không tăng tương ứng đã tạo ra tín hiệu phân kỳ giữa hai
đường này và đây là một tín hiệu cho quá trình đảo chiều nên nhà đầu tư cần thận trọng. Kháng cự trên của HNX-
Index là 70,5-71, khu vực đi ngang giữa tháng 8/2012 trước khi xảy ra vụ Bầu Kiên bị bắt. Mức hỗ trợ là 68,5, đỉnh
của những ngày cuối năm 2013 vừa rồi.
B. Thông tin hỗ trợ & tiêu cực
Thông tin hỗ trợ
Việt Nam vào danh sách “thị trường chứng khoán
cần theo dõi”
Một bài viết mang tựa đề “The emerging market to
watch in 2014” (tạm dịch: “Thị trường mới nổi cần theo
dõi trong năm 2014”) của hãng tin CNBC trích nhận
định của ông Sean Darby, chiến lược gia trưởng về
chứng khoán toàn cầu của công ty Jefferies đưa ra trong
một báo cáo: “Ở vào thời điểm mà các yếu tố căn bản ở
Indonesia và Thái Lan đang xấu đi, tình hình ở Việt Nam
lại trở nên khả quan hơn. Chúng tôi dự kiến thị trường
Việt Nam sẽ tiếp tục tăng điểm tốt hơn các thị trường
ngang tầm khác trong khu vực trong năm 2014”.
Tính đến ngày 23/12, chỉ số VN-Index của thị trường
chứng khoán Việt Nam đã tăng 23% từ đầu năm, so với
mức giảm 6% của chỉ số MSCI Emerging Markets Index
- thước đo các thị trường chứng khoán mới nổi - trong
cùng khoảng thời gian.
Ông Darby lưu ý rằng, thâm hụt thương mại - “gót Asin”
của nền kinh tế Việt Nam - đang dần cải thiện, trong khi
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn duy trì ở
mức cao.
Trong 10 tháng đầu năm nay, FDI vào Việt Nam đạt 9,6
tỷ USD, trong đó 70% chảy vào khu vực sản xuất. Đồng
nội tệ ổn định cùng với chi phí nhân công cạnh tranh
được các chuyên gia xem là những yếu tố sẽ giúp Việt
Nam thu hút thêm vốn đầu tư trong thời gian tới.
“Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định
với lạm phát giảm. Hoạt động sản xuất gia tăng của các
công ty nước ngoài đang đóng góp tích cực cho nền kinh
tế Việt Nam”, ông Darby nói và nhấn mạnh, điều này
trái ngược với những gì đang diễn ra ở Ấn Độ và
Chỉ số Kháng cự - Hỗ trợ Yếu Mạnh
HOSE Hỗ trợ 505 500
Kháng cự 515 520
HNX Hỗ trợ 68,5 67
Kháng cự 70,5 73
14
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Indonesia, hai quốc gia chứng kiến sự suy giảm tăng
trưởng và lạm phát tăng.
Nền kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng khoảng
5,5% trong năm 2014, với mức thất nghiệp nhỉnh hơn
6%. GDP của Việt Nam tăng 5,42% trong năm nay, so
với mức tăng 5,25% trong năm ngoái.
“Đây có lẽ là tốc độ “tối ưu” cho tăng trưởng kinh tế và
nếu lạm phát giảm thêm, lãi suất có thể hạ xuống nữa”,
ông Darby đánh giá.
Bên cạnh triển vọng kinh tế khởi sắc, Chính phủ Việt
Nam còn đang nỗ lực giải quyết vấn đề nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng. Tháng 10 vừa qua, Công ty Quản lý tài
sản Việt Nam (VAMC) tuyên bố sẽ mua 118 triệu USD
nợ xấu từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (Agribank), ngân hàng thương mại lớn nhất Việt
Nam về tài sản.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, Agribank có tỷ lệ
nợ xấu 6,1% tính đến tháng 6/2012. Chính phủ tuyên bố
hồi tháng 5 rằng, những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu từ 3%
trở lên có thể sẽ buộc phải bán nợ xấu cho VAMC.
Ông Adreas Karall, Giám đốc đầu tư công ty quản lý quỹ
Asia Frontier Capital (Vietnam), nói, ông nhận thấy
“tiềm năng khởi sắc rất lớn” trong một chu kỳ kinh
doanh mới đã bắt đầu ở Việt Nam và dự kiến sẽ kéo dài
7 năm. Ngoài ra, ông Karall nói rằng, thị trường chứng
khoán Việt Nam đang hấp dẫn vì có tới khoảng 1/3 trong
hơn 700 công ty niêm yết có hệ số giá/thu nhập (P/E)
trong khoảng 6-7 lần.
“Nhiều cổ phiếu có mức cổ tức hơn 9%, thậm chí có một
số công ty có trạng thái tiền mặt ròng cao ngang với giá
trị vốn hóa”, ông Karall nói trong một buổi họp báo nhân
dịp thành lập quỹ AFC Vietnam Fund hồi đầu tháng này.
TTCK Việt Nam có gần 1,4 triệu tài khoản
Theo cập nhật mới nhất từ Bộ Tài chính, tính đến hết
năm 2013, TTCK Việt Nam có gần 1,4 triệu tài khoản
của NĐT. Trong đó, số lượng NĐT nước ngoài tăng
10%, đặc biệt là NĐT tổ chức nước ngoài tăng 55% so
với cuối năm 2012.
Sự gia tăng số lượng NĐT nước ngoài, nhất là NĐT tổ
chức là kết quả của quá trình thúc đẩy tái cơ cấu cơ sở
NĐT theo hướng tăng số lượng NĐT tổ chức chuyên
nghiệp, trong đó có thực hiện đơn giản hóa thủ tục cấp
mã số giao dịch đối với NĐT nước ngoài.
Trên cơ sở khung pháp lý đồng bộ về quỹ mở, quỹ đầu
tư bất động sản, quỹ ETF, công ty đầu tư chứng khoán,
đến nay, ngoài 10 quỹ mở đã ra đời, dự kiến sắp tới có
thêm 5 quỹ mở và 1 quỹ đầu tư bất động sản được cấp
phép hoạt động.
Theo định hướng tái cấu trúc cơ sở NĐT mà Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước (UBCK) tập trung triển khai
trong năm 2014, sẽ tiếp tục khuyến khích hình thành và
phát triển các NĐT tổ chức, đặc biệt là quỹ hưu trí tự
nguyện. Đến nay, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng
Chính phủ Đề án phát triển quỹ hưu trí tự nguyện. Khi
triển khai chính sách mới này, sẽ góp phần giá tăng NĐT
có tổ chức bền vững cho TTCK.
Khối ngoại ‘đổ’ hơn 6.800 tỷ đồng vào TTCK Việt
Nam 2013
Trong năm 2013, khối nhà đầu tư nước ngoài đã mua
ròng tới 5.505 tỷ đồng trên HOSE và 1.324 tỷ đồng trên
HNX. Trong bối cảnh nền kinh tế năm 2013 vẫn còn
phải chịu nhiều thách thức, nhưng thị trường chứng
khoán Việt Nam lại được đánh giá là có mức tăng trưởng
ấn tượng nhất so với các thị trường mới nổi khác trong
năm 2013. Kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của năm
2013, chỉ số VN-Index đứng ở mức 504,63 điểm, tức
tăng 90,9 điểm (21,97%), còn chỉ số HNX-Index cũng đã
tăng 10,75 điểm (18,83%) lên mức 67,84 điểm. Hòa
cùng với những diễn biến sôi động của các nhà đầu tư
trong nước, khối nhà đầu tư nước ngoài đã có những
đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng tích cực của thị
trường chứng khoán năm 2013.
Cụ thể, khối nhà đầu tư nước ngoài năm vừa qua đã giao
dịch rất sôi động, họ mua vào 1,714 tỷ cổ phiếu, trị giá
lên tới 48.878 tỷ đồng, trong khi bán ra 1,532 tỷ cổ
phiếu, tương ứng 42.049 tỷ đồng. Tổng khối lượng mua
ròng đạt tới 190,73 triệu cổ phiếu, tương đương giá trị
mua ròng đạt 6.829 tỷ đồng, tăng trưởng mạnh so với
mức mua ròng hơn 4.400 tỷ đồng của năm 2012. Như
vậy, có thể thấy khối nhà đầu tư nước ngoài trong năm
2013 tiếp tục kỳ vọng khá lớn và TTCK Việt Nam.
Trên sàn HOSE, khối ngoại đẩy mạnh mua ròng lên tới
5.505 tỷ đồng, tương ứng với khối lượng mua ròng là
89,14 triệu cổ phiếu tăng khoảng 66,82% so với mức
mua ròng hơn 3.300 tỷ đồng của năm 2012. Trong đó, họ
thực hiện mua vào 1,323 tỷ cổ phiếu và bán ra 1,234 tỷ
15
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
cổ phiếu. Giá trị mua ròng đạt 44.685 tỷ đồng còn giá trị
bán ra là 39.180 tỷ đồng.
Trên sàn HNX, khối ngoại đã mua vào tổng cộng 391,11
triệu cổ phiếu và bán ra 289,52 triệu cổ phiếu, với giá trị
mua vào đạt 4.192 tỷ đồng, giá trị bán ra là 2.868 tỷ
đồng. Tổng khối lượng mua ròng đạt 101,59 cổ phiếu,
tương đương với giá trị mua ròng đạt 1.324 tỷ đồng, tăng
khoảng 8,7% so với mức mua ròng 1.218 tỷ đồng của
năm 2012.
Lãi margin đã giảm đến mức chấp nhận được
(ĐTCK) Trong tháng 12, một số CTCK điều chỉnh giảm
lãi suất cho vay giao dịch ký quỹ (margin) từ mức 15 -
15,5%/năm xuống xấp xỉ 14,8%/năm. Hiện tại, lãi suất
margin thấp nhất là 14,5%/năm, tương đương
0,04028%/ngày, thuộc về CTCK Ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBS). Từ ngày 2/12, CTCP Chứng
khoán VNDirect (VND) và CTCP Chứng khoán FPT
(FPTS) cùng giảm lãi suất margin. Tại VNDirect, lãi
suất cho vay giao dịch ký quỹ/phí dịch vụ giao dịch cầm
cố với ngân hàng là 14,8%/năm, lãi suất ứng trước tiền
bán là 0,041%/ngày.
Theo VNDirect, Công ty áp dụng giảm phí dịch vụ tài
chính vào thời điểm này nhằm hỗ trợ nhà đầu tư có cơ
hội gia tăng lợi nhuận. Đối với FPTS, lãi suất cho vay
margin mới là 0,04%/ngày, thay cho lãi suất cũ
0,045%/ngày; lãi suất ứng trước mới là 0,04%/ngày.
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam (VCBS) điều chỉnh lãi suất cho vay đối với
sản phẩm giao dịch mua ký quỹ và ứng trước tiền bán
chứng khoán xuống 0,040%/ngày, tương đương
14,4%/năm, so với mức trước đây là 0,041%/ngày,
tương đương 14,76%/năm.
Có thị phần môi giới hàng đầu, CTCP Chứng khoán TP.
HCM (HSC) và CTCK Sài Gòn (SSI) cũng thông báo
điều chỉnh giảm lãi suất margin. Cụ thể, tại HSC, mức
lãi suất margin và tiền ứng trước bán chứng khoán áp
dụng từ ngày 9/12/2013 là 0,043%/ngày, thay cho mức
cũ 0,045%/ngày. Tại SSI, từ đầu tháng 12, mức phí ứng
trước tiền bán chứng khoán là 0,0403%/ngày, tương
đương 14,5%/năm, phí tối thiểu 55.000 đồng/lần ứng
trước; lãi suất cho vay đối với giao dịch ký quỹ là
0,0403%/ngày, tương đương 14,508%/năm.
Trao đổi với ĐTCK, các CTCK chia sẻ, hạ lãi suất sẽ
góp phần thúc đẩy thanh khoản cho thị trường, đồng thời
cũng tạo tính cạnh tranh hơn cho dịch vụ margin của
công ty.
Theo trưởng phòng môi giới của một CTCK, các CTCK
đang “cân đong đo đếm” nên lãi suất margin chưa giảm
nhiều, một phần do cuối năm dòng tiền của các CTCK
khó khăn hơn. Một số CTCK và các ngân hàng có thể
thừa vốn, nhưng cũng phải cân đối nguồn nên dịp cuối
năm thường không tiến hành giảm lãi suất. Dự báo, đầu
năm 2014, mức lãi suất sẽ hấp dẫn hơn. Cũng theo vị
này, hầu hết nhà đầu tư vẫn thích sử dụng margin, nhất
là khi thị trường tăng điểm thì tỷ lệ nhà đầu tư sử dụng
đòn bẩy tài chính nhiều hơn.
Nguyên nhân chính là mức lãi suất margin đã thấp hơn
nhiều so với thời gian trước. Chẳng hạn, với những nhà
đầu tư ngắn hạn, nếu bình quân mỗi phiên giá cổ phiếu
tăng 1%, thì sau 4 phiên sẽ lãi 4%. Trong khi đó, với lãi
suất khoảng 0,041%/ngày, cộng với phí giao dịch 2 đầu
mua bán, thì chi phí nhà đầu tư bỏ ra chỉ khoảng 0,4 -
0,5%.
Như vậy, chi phí bỏ ra là không đáng kể so với cơ hội lợi
nhuận lớn mà nhà đầu tư thu được.
Tháng 12 là thời điểm nhiều doanh nghiệp chốt danh
sách cổ đông để trả cổ tức, một số nhà đầu tư có chiến
thuật sử dụng đòn bẩy tài chính để sở hữu cổ phiếu trước
ngày này nhằm hưởng cổ tức, sau đó bán ra. Mức cổ tức
bằng tiền mặt được các doanh nghiệp công bố dao động
từ 5 - 20%/mệnh giá.
Đây là mức cổ tức không “tệ” so với lãi suất tiết kiệm và
so với chi phí mà nhà đầu tư trả cho CTCK hoặc ngân
hàng trong ngắn hạn, đặc biệt là khi thị giá cổ phiếu thấp
hơn nhiều mệnh giá. Tất nhiên, cổ phiếu đó phải có yếu
tố cơ bản tốt để giá không giảm sau khi giá tham chiếu bị
điều chỉnh kỹ thuật.
Thực tế, thị trường luôn tồn tại rủi ro, dòng tiền đổ vào
chứng khoán nhanh cũng có thể “lốc xoáy” đi ra. Nếu
nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức thì bên
cạnh khả năng lãi lớn là khả năng lỗ lớn. Trường hợp thị
trường hoặc cổ phiếu đó bất ngờ có diễn biến xấu thì nhà
đầu tư có nguy cơ mất vốn. Mặc dù vậy, nhiều CTCK
cho biết, số nhà đầu tư sử dụng margin thời gian qua
tăng lên, góp phần giúp thị trường sôi động hơn.
16
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Thông tin tiêu cực
2013 - Năm kỷ lục của hủy niêm yết
Điều đáng buồn nhất là TTCK năm 2013 chứng kiến đến
4 doanh nghiệp bị hủy niêm yết bắt buộc do quy chế
công bố thông tin. Và, thị trường cũng buồn với sự ra đi
hoàn toàn tự nguyện của 12 doanh nghiệp. Nếu như năm
2011 một doanh nghiệp hủy niêm yết sẽ là chủ đề bàn ra,
bàn vào hết tháng này qua tháng khác thì nay tình hình
đã quay ngoắt 180 độ khi câu chuyện rời sàn trở nên phổ
biến đến mức nhà đầu tư chặc lưỡi: Đó là chuyện của
doanh nghiệp, chuyện của cổ đông công ty đó. Chẳng
phải chuyện của mình! Đối với những doanh nghiệp có
độ phủ cổ đông lớn hơn thì có thêm chút quan tâm
nhưng nhìn chung những câu hỏi mang tầm "vĩ mô"
không còn nữa.
Nếu như năm 2012 các phương tiện truyền thông giật tít:
"Chưa năm nào có nhiều cổ phiếu bị hủy niêm yết như
năm nay" thì năm nay tít này vẫn mới. Kỷ lục 22 cổ
phiếu bị hủy niêm yết của năm 2012 đã là dĩ vãng khi
năm 2013 có đến 37 doanh nghiệp rời sàn.
Năm 2013, việc tái cơ cấu đã lên đến cao trào khi mà "cơ
thể cũ" không gánh vác nổi hoạt động kinh doanh hiện
hành một cách tốt nhất. Nhiều doanh nghiệp chọn
phương án sáp nhập với doanh nghiệp khác để mạnh
hơn. Những cuộc cộng gộp xảy ra ngay trên thị trường
niêm yết và đã khiến TTCK chia tay 5 mã cổ phiếu.
Và, thị trường cũng buồn với sự ra đi hoàn toàn tự
nguyện của 12 doanh nghiệp. Đơn giản họ rời sàn theo ý
nguyện của ĐHCĐ là cấp cao nhất của một doanh
nghiệp cổ phần. Không quá nhiều lý do được đưa ra.
Năm 2012, các doanh nghiệp hủy niêm yết chủ yếu là do
lỗ 3 năm liên tiếp hoặc đã được chấp thuận niêm yết
nhưng rồi nhận thấy chưa phải là thời cơ nên lặng lẽ rời
sàn. Sang năm 2013, bức tranh hủy niêm yết đã có màu
sắc tái cơ cấu khi rất nhiều doanh nghiệp hủy để bắt đầu
một cơ hội mới. Để sáp nhập và tái cấu trúc công ty,
nhiều doanh nghiệp đã phải rời sàn niêm yết như PVFC,
PHT, SEL, RHC, DHL.
Điểm đáng chú ý là số doanh nghiệp hủy niêm yết vì
thua lỗ 3 năm liên tiếp và lỗ lũy kế lớn hơn vốn điều lệ
chỉ chưa bằng một nửa tổng lượng cổ phiếu hủy niêm
yết. Trong số những doanh nghiệp rời sàn niêm yết vì lỗ,
chỉ có STL đăng ký giao dịch cổ phiếu trên sàn UpCom
và đã tạo sóng giá lớn. Điều đáng buồn nhất là TTCK
năm 2013 chứng kiến đến 4 doanh nghiệp bị hủy niêm
yết bắt buộc do quy chế công bố thông tin. Trong đó có
chứng khoán Tràng An và Chứng khoán Golden Bridge.
Năm 2013 đã có 15 CTCK không còn hoạt động
Theo UBCK năm qua, đã có 58/94 công ty có lỗ lũy kế;
có 5 CTCK bị đặt vào tình trạng kiểm soát; 9 công ty bị
đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Theo UBCK Nhà nước, thị trường chứng khoán Việt
Nam năm 2013 đã có những diễn biến khả quan nhờ vào
những tín hiệu ổn định kinh tế vĩ mô và các giải pháp
tích cực trong lĩnh vực chứng khoán, cụ thể như sau:
Quy mô giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 2.578 tỷ
đồng, tăng 31% so với năm 2012. Chỉ số VN-Index tăng
trên 22%; HN-Index tăng 13% so với cuối năm 2012.
Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là 1
trong 10 nước có mức độ phục hồi mạnh nhất thế giới;
riêng thị trường trái phiếu có mức tăng lớn nhất trong
khu vực. Mức vốn hóa vào khoảng 964 nghìn tỷ đồng
(tăng 199 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2012), tương
đương 31%GDP; trong đó tổng dòng vốn nước ngoài
tăng 54% và giá trị danh mục tăng khoảng 3,8 tỷ USD so
với cuối năm 2012. Tổng giá trị huy động vốn ước đạt
222 nghìn tỷ đồng, tăng 25%; trong đó cổ phiếu là 20,5
nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2012; trái phiếu
Chính phủ đạt 177,5 nghìn tỷ đồng, tăng 24%.
Tuy nhiên, UBCK cũng thẳng thắn nhận định rằng, trong
năm qua tốc độ cổ phần hóa và thoái vốn của các doanh
nghiệp Nhà nước còn chậm. Năm 2013 có 32 doanh
nghiệp đấu giá cổ phần hóa trên thị trường với giá trị
1.236 tỷ đồng (thấp hơn nhiều so với các năm trước
đây).
Hoạt động của công ty niêm yết có tín hiệu khả quan hơn
nhưng vẫn còn khó khăn, theo báo cáo ước khoảng 136
công ty có lỗ lũy kế; và trong năm 2013 có 28 công ty
hủy niêm yết.
Kinh doanh của các Công ty chứng khoán còn khó khăn.
Dựa trên cơ sở báo cáo tỷ lệ vốn khả dụng của các công
ty chứng khoán, UBCK đã phân loại các công ty chứng
khoán thành 4 nhóm: (i) Nhóm 1: hoạt động lành mạnh
gồm 79 công ty; (ii) Nhóm 2: hoạt động bình thường
gồm 8 công ty; (iii) Nhóm 3: bị kiểm soát gồm 5 công ty;
(iv) Nhóm 4: bị kiểm soát đặc biệt gồm 9 công ty. Cũng
17
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
theo UBCK năm qua, đã có 58/94 công ty có lỗ lũy kế;
có 5 CTCK bị đặt vào tình trạng kiểm soát; 9 công ty bị
đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Đã ra Quyết định chấp thuận rút nghiệp vụ Môi giới
chứng khoán của 6 CTCK; nghiệp vụ Tự doanh của 2
CTCK; nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của 04 CTCK; rút
nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán của 1 CTCK; hợp
nhất đối với 2 CTCK, tiến hành thủ tục giải thể đối với 3
CTCK; thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu
ký chứng khoán của 02 CTCK. Như vậy trên thực tế đã
có 15 công ty không còn hoạt động.
Doanh nghiệp tái cơ cấu không được bán cổ phần lần
đầu thấp hơn mệnh giá
Ngày 17/12/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
194/2013/TT-BTC hướng dẫn tái cơ cấu doanh nghiệp
100% vốn nhà nước không đủ điều kiện cổ phần hóa
theo quy định tại nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày
18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Thông tư này có
hiệu lực từ ngày 10/02/2014.
Thông tư này áp dụng cho công ty mua bán nợ Việt Nam
(DATC) và các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sau
khi được xử lý tài chính và định giá lại nhưng giá trị thực
tế của DN thấp hơn các khoản phải trả của doanh nghiệp
(gọi là doanh nghiệp tái cơ cấu).
Việc mua nợ để tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC phải
đảm bảo có tính khả thi, có khả năng thu hồi vốn hiệu
quả và đủ nguồn chênh lệch giữa giá vốn mua nợ với giá
trị sổ sách khoản nợ để xử lý tài chính, tái cơ cấu doanh
nghiệp theo quy định.
Trước khi IPO, DATC sẽ định giá lại doanh nghiệp.
Việc xử lý tài chính theo phương án tái cơ cấu sẽ quyết
định giảm trừ một phần nghĩa vụ trả nợ cho doanh
nghiệp tái cơ cấu. Mức giảm trừ tối đa bằng số âm vốn
chủ sở hữu tại báo cáo tài chính kiểm toán gần nhất (đã
được điều chỉnh theo kết quả xác định giá trị doanh
nghiệp) trừ đi phầm giảm trừ nghĩa vụ trả nợ của các chủ
nợ khác và không vượt quá số chênh lệch giữa giá trị sổ
sách khoản nợ mua và giá vốn mua nợ (tính đến thời
điểm quyết định giảm trừ nghĩa vụ trả nợ).
Một điểm nổi bật của thông tư này là việc IPO các doanh
nghiệp tái cơ cấu này thực hiện theo Nghị định
59/2011/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài
chính trong đó giá bán cổ phần cho người lao động và tổ
chức công đoàn tại DN tái cơ cấu không thấp hơn mệnh
giá cổ phần theo quy định (thông thường cán bộ công
nhân viên được mua cổ phần bằng 60% thị giá chào bán
trong đợt IPO lần đầu).
Công ty mua bán nợ và các chủ nợ tham gia tái cơ cấu
được chuyển nợ thành vốn góp cổ phần.
Cũng theo Điều 7 thông tư này, nếu việc chào bán không
thành công (không đủ nhà đầu tư tham gia) thì Ban chỉ
đạo cổ phần hóa sẽ báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt xem xét điều chỉnh lại mức giá khởi điểm nhưng
không thấp hơn mệnh giá để bán thỏa thuận cho nhà đầu
tư.
Chi phí chuyển đổi doanh nghiệp là phần thặng dư bán
cổ phần, nếu thiếu được bổ sung từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp
và phát triển doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tái cơ cấu không phải mở tài khoản phong
tỏa khi thực hiện bán cổ phần.
(FPTS Tổng hợp)
18
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước thông báo việc công ty đại chúng
thực thi quy định thực hiện cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường tập trung
Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) thông báo việc thực thi quy định về thực hiện cam kết đưa chứng khoán
vào giao dịch trên thị trường tập trung trong thời hạn một năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán chứng khoán đối với
công ty đại chúng với nội dung như sau:
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/07/2011), Công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng điều kiện cam kết
đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn một năm, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán
được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Theo quy định tại Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK có hiệu lực từ ngày 15/11/2013 quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm
cam kết đưa chứng khoán chào bán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức như sau:
Hình thức phạt chính: phạt từ 100 - 150 triệu đồng đối với hành vi không đưa chứng khoán đã chào bán ra công
chúng vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn 01 năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, trừ trường
hợp không đủ điều kiện niêm yết chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Biện pháp khắc phục hậu quả: cá nhân, tổ chức vi phạm phải thu hồi chứng khoán đã chào bán, hoàn trả cho
nhà đầu tư tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc (nếu có) cộng tiền lãi tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn
của ngân hàng mà cá nhân , tổ chức vi phạm mở tài khoản thu tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc tại thời
điểm quyết định áp dụng biện pháp này có hiệu lực thi hành trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu
của nhà đầu tư. Thời hạn nhà đầu tư gửi yêu cầu là 60 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp khắc phục
có hiệu lực thi hành.
Để đảm bảo việc thực thi đúng quy định của pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư tham gia
mua cổ phiếu, UBCKNN đề nghị Công ty đại chúng đã thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng thực hiện
đúng cam kết đưa chứng khoán chào bán vào niêm yết hoặc đăng ký giao dịch theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2011). Công ty phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về khiếu nại, khiếu kiện của cổ đông do vi phạm cam kết trên.
Trường hợp Công ty vi phạm xảy ra sau thời điểm 15/11/2013, Công ty sẽ bị xử phạt theo quy định tại Nghị định số
108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán
và TTCK (có hiệu lực từ ngày 15/11/2013) quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm cam kết đưa chứng khoán chào
bán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo để các Công ty được biết và thực hiện.
(Nguồn: UBCK)
THÔNG TIN PHÁP LUẬT
19
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
Đánh giá về hoạt động thoái vốn năm 2013
Ngày 02/01/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo
điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.
Nghị quyết một lần nữa đề cập đến vấn đề tái cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), vốn thu hút sự chú ý trong
hơn một năm qua. Điểm mới trong Nghị quyết lần này của Chính phủ - hứa hẹn sẽ có những cải tiến đáng kể trong
quá trình tái cơ cấu DNNN là quy định tái cơ cấu DNNN theo ngành, lĩnh vực kinh doanh mà không phân biệt cấp, cơ
quan quản lý. Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành, giảm và bán toàn bộ vốn Nhà nước ở
các DN mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối theo nguyên tắc thị trường và lộ trình đã được phê duyệt.
Tuy nhiên, việc "bảo toàn vốn" không được nhắc đến trong Nghị quyết lần này.
Tuy vậy, tính đến thời điểm cuối tháng 9 tổng số vốn đầu tư ngoài ngành gần 21.800 tỷ đồng, nhưng số vốn đã được
thoái trong hai năm qua chưa đạt 20%, tương ứng với 4.164 tỷ đồng.
Vậy, ngoài ý chí chủ quan của đơn vị thực hiện thoái vốn, thì lý do nào khiến việc thoái vốn của các Tập đoàn,
Tổng công ty, Công ty nhà nước gặp khó khăn như thế?
Cái đáng nói đầu tiên có lẽ là những vướng mắc và mâu thuẫn trong các quy định về pháp luật có liên quan.
Việc thoái vốn tại Tập đoàn (TĐ), Tổng Công ty (TCT) còn chịu sự điều chỉnh của Luật Chứng khoán và các văn bản
pháp luật về quản lý vốn nhà nước. Theo đó, những trường hợp chào bán số lượng lớn cổ phần (có tổng giá trị mệnh
giá trên 10 tỷ đồng) của các DN chưa niêm yết còn chịu sự ràng buộc về điều kiện chào bán công khai ra công chúng
của cổ đông lớn quy định tại Điều 21 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012. Vì vậy, những trường hợp DN
có vốn góp của TĐ, TCT đang kinh doanh thua lỗ sẽ không đủ điều kiện để chào bán công khai nên cũng ảnh hưởng
đáng kể đến tiến độ thoái vốn.
Một trong những lý do chính khiến kế hoạch thoái vốn không thực hiện được đó là quy định của Nhà nước về thoái
vốn đối với các khoản đầu tư tài chính phải theo nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo toàn vốn và không được thấp
hơn giá thị trường hoặc không thấp hơn giá ghi trên sổ sách kế toán của các đơn vị có vốn góp. Do đó, khó khăn nhất
là chưa có quy định cụ thể xác định thế nào là bảo toàn vốn. Và trong trường hợp hiện giá cổ phiếu đang rất thấp, nếu
thoái vốn phải đảm bảo bảo toàn vốn tại các danh mục kinh doanh thua lỗ thì gần như không thể thực hiện được.
Hiện tại, các DNNN có được thoái vốn dưới mệnh giá hay không, vẫn chưa thực cụ thể. Giới chuyên môn cho rằng
với Nghị định 151 mà Chính phủ vừa ban hành, chính thức cho Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
(SCIC) được bán vốn dưới mệnh giá đối với DN sản xuất kinh doanh thua lỗ, và Nghị định 206 về quản lý nợ do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, thay thế cho nghị định 69 năm 2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng của các DNNN
mà theo đó các DNNN sẽ được quyền bán nợ xấu cho các tổ chức kinh tế có chức năng kinh doanh mua bán nợ, thì
quyết định để các DNNN được thoái vốn dưới mệnh giá có thể chỉ còn là chuyện nay mai.
Nhưng rốt cuộc, có nên đồng loạt cho phép các DNNN được bán lỗ vốn Nhà nước? Và nếu cho phép, cơ quan nào sẽ
đứng ra thiết lập hệ thống định giá chuẩn mực và độc lập, cũng như mất bao lâu mới có hệ thống này? Để bên cạnh
việc tạo hành lang cho các đơn vị tái cấu trúc nhanh, tận dụng cơ hội thị trường đang có nhiều nguồn lực “chờ sẵn”
thời cơ sở hữu các ông lớn, việc thoái vốn của các DNNN vẫn đảm bảo có thể mang lại lợi nhuận tối đa cho nguồn
vốn Nhà nước, mà không bị thao túng vì lợi ích nào khác ngoài lợi ích quốc gia?
Đó là chưa kể đến diễn biến tiêu cực thị trường chứng khóan ảnh hưởng xấu đến tiến độ và kết quả thoái vốn của
doanh nghiệp kể cả khi lựa chọn thực hiện thoái vốn trên sàn giao dịch, đấu giá, thỏa thuận.
Trong năm 2014, đẩy mạnh cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước và thoái vốn vẫn được coi là một nhiệm vụ trọng
tâm của Chính phủ. Theo đó, các chế tài sẽ được cải thiện tối đa tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện thoái vốn
GÓC TRAO ĐỔI DOANH NGHIỆP
20
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
DỊCH VỤ TƯ VẤN
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Tư vấn cổ phần hóa
Tư vấn chào bán chứng khoán
Tư vấn phát hành
Tư vấn niêm yết
Tư vấn tái cấu trúc vốn
Tư vấn bảo lãnh phát hành
Tư vấn lập dự án đầu tư
Tư vấn thẩm định dự án đầu tư
Tư vấn định giá
Dịch vụ rà soát đặc biệt
Tư vấn dự báo tài chính
Tư vấn Mua bán và Sáp nhập DN
Tư vấn hoàn thiện DN
Tư vấn Quan hệ nhà đầu tư
cũng như đảm bảo khung pháp lý để Doanh nghiệp tuân thủ theo đúng tiến độ đã đề ra. Tuy nhiên, để hoạt động thoái
vốn được thực hiện có hiệu quả theo đúng tiến độ, bản thân các đơn vị đang thực hiện quản lý vốn cũng phải tích cực
tìm tòi phương pháp định giá, lựa chọn hình thức bán phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Trường hợp thoái vốn
được nhưng có thể phát sinh lỗ, không bảo toàn vốn đầu tư dẫn tới tâm lý sợ trách nhiệm nên nhiều Doanh nghiệp cố
đợi đến lúc thị trường phục hồi mới thực hiện thoái vốn cũng đã được nới lỏng bằng quy định cho phép Doanh nghiệp
bán dưới mệnh giá.
Tuy cũng còn một số bất cập trong pháp lý, nhưng hi vọng rằng những tháng đầu năm 2014, các cơ quan quản lý sẽ
nghiên cứu và đưa ra những hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn với Nghị định 71, mở đường cho doanh nghiệp thoái vốn
được thuận lợi, hiệu quả.
(FPTS tổng hợp)
21
Bản quyền © Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT
TUYÊN BỐ MIỄN TRÁCH NHIỆM CỦA FPTS
Các thông tin và nhận định trong báo cáo này được cung cấp bởi FPTS dựa vào các nguồn thông tin mà FPTS coi
là đáng tin cậy, có sẵn và mang tính hợp pháp. Tuy nhiên, chúng tôi không đảm bảo tính chính xác hay đầy đủ của
các thông tin này.
Cá nhân/tổ chức sử dụng báo cáo này cần lưu ý rằng các nhận định trong báo cáo này mang tính chất chủ quan
của chuyên viên phân tích FPTS. Cá nhân/tổ chức sử dụng báo cáo này tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
FPTS có thể dựa vào các thông tin trong báo cáo này và các thông tin khác để ra quyết định đầu tư của mình mà
không bị phụ thuộc vào bất kì ràng buộc nào về mặt pháp lý đối với các thông tin đưa ra.
Các thông tin liên quan có thể được xem tại http://ezsearch.fpts.com.vn hoặc sẽ được cung cấp khi có yêu cầu.