Post on 24-Dec-2019
1
Nguyễn Ngọc Thơ. Hình tượng hồ lô trong văn hoá Trung Hoa
Nguyễn Ngọc Thơ*
1. Hồ lô và hình tượng hồ lô - Những vấn đề chung
1.1. Hồ lô
1.1.1. Hồ lô thiên nhiên
Hồ lô là một loại quả thực vật, họ bầu bí
(Hình 1), được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt,
cận nhiệt đới trên khắp thế giới. Qua tư liệu
khảo cổ, Nam Trung Hoa, Đông Nam Á, Ấn Độ,
Trung Mĩ, Nam Mĩ, đồng bằng sông Nile… đều
có sự hiện diện của quả hồ lô [Du Tu Linh,
2001:10]. Ở Việt Nam, hồ lô xuất hiện khắp nơi,
từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến vùng núi cao.
1.1.2. Về tên gọi hồ lô
Về tên gọi tiếng Trung, phổ biến nhất là hồ lô (葫芦 /húlu/), ngoài ra còn được
biết đến với các tên gọi hồ lô (壶卢 /húlu/), phố lô (蒲芦 /púlu/), hồ lô (胡卢
/húlu/) v.v.. Tên gọi hồ lô thể hiện ý nghĩa may mắn. Theo lối hài âm, hồ đọc là
/hú/ gần với phúc /fú/, lô đọc là /lu/ gần âm với lộc /lù/. Trong văn hoá dân gian,
người dân mượn hình ảnh quả hồ lô căng tròn đển gửi gắm ước vọng phúc lộc
song tiến. Ngoài ra, khèn hồ lô gọi là sênh (笙 /sheng/), trong tiếng Hán hoàn toàn
trùng âm với từ sinh (sôi) (生 /sheng/), sinh cơ (生机 /shengji/) hay thăng tiến (升
/sheng/) [Triệu Thân, 2001:80]. Trong tiếng Anh, hồ lô là calabash, tiếng Tây Ban
Nha là shekere, tiếng Sanscrit là tumba v.v..
1.1.3. Phân loại
- Về phân loại, theo Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân (1518 - 1593)
dựa vào hình dáng, kích cỡ quả hồ lô, có thể phân hồ lô ra năm loại tiêu biểu sau:
(1) Hồ (瓠): hình trụ tròn, dài, đáy lõm vào giữa; (2) Huyền hồ (悬瓠): hồ lô đầu
nhỏ, phần dưới phình to, đáy lõm vào giữa; (3) Hồ (壶): hồ lô hình quả tim ngược;
(4) Bào (匏): hồ lô hình quả bưởi; (5) Phố lô (蒲芦): hình hồ lô có hai phần trên,
dưới phình to, eo nhỏ (Hình 5).
* ThS, Bộ môn Văn hoá học.
Hình 1: Hồ lô thiên nhiên
2
- Còn nếu phân loại theo đặc điểm vị ngọt - đắng thì có thể phân ra hai loại: hồ
(瓠) - hồ lô ngọt; và bào (匏) - hồ lô đắng.
1.1.4. Lịch sử xuất hiện quả hồ lô ở Trung Quốc
Không ai biết hồ lô được thuần dưỡng tự bao giờ. Qua
nghiên cứu khảo cổ ở di chỉ Hà Mẫu Độ (河姆渡,lưu vực
sông Dương Tử) cho thấy hồ lô đã được người phương
Nam trồng ở đây từ hơn 7000 năm trước. Chủ nhân của
chúng là các tiền dân Bách Việt, Miêu Man, Bách Bộc.
Giáp Cốt Văn thể hiện chữ hồ 壶 (tức hồ lô) bằng hình ảnh
một chiếc bình có nắp đậy và có quai cầm (Hình 2). Có lẽ phần nút đậy bằng cành
trúc đồng thời cũng là tay xách khi mang đi. Phần quai cầm được gắn thêm vào để
tiện rót nước, rượu hay các vật đựng bên trong. Thời Tây Chu, hồ lô bắt đầu đi vào
văn học nghệ thuật, được Khổng Tử thể hiện trong bộ Kinh Thi “Tháng bảy hái
ăn, tháng tám lấy quả, tháng chín dựng lại giàn” (“七月食瓜,八月断壶,九月
筑场圃 thất nguyệt thực qua, bát nguyệt đoạn hồ, cửu nguyệt trường phố” bài Thất
Nguyệt, chương U Phong) [Triệu Thân, 2001:87]. Thời Đông Chu, do kĩ thuật vun
trồng được cải tiến, nhiều giống hồ lô mới, quả to được trồng khắp nơi, kể cả ở
vùng Hoa Bắc. Từ Hán - Đường về sau, người ta đã có thể trồng các loại hồ lô quả
cực to. Ngày nay, một số vùng Ngũ Lĩnh, Vân Quý, Hải Nam, nhiều nhà trồng
giàn hồ lô trước sân nhà.
Có thể quả hồ lô đã trở nên quen thuộc với con người từ thưở mông muội, khi
mà hoạt động hái lượm hay thu hoạch các loại sản phẩm từ thực vật trở nên phổ
biến. So với việc săn bắt động vật thì việc sử dụng sản phẩm thực vật tự nhiên có
ưu thế hơn. Các tính năng đặc biệt đã làm cho quả hồ lô dần dà thoát khỏi cái “vỏ
tự nhiên”, khiến nó được con người “nhân cách hoá”, “thần bí hoá” và tạo ra muôn
vàn thần thoại, truyền thuyết gắn với chúng.
1.1.5. Công năng của quả hồ lô
- Phần ruột
(1) Dùng làm thực phẩm. Phần hoa, đọt non, ruột, vỏ quả hồ lô non có thể
được dùng chế biến món rau bổ sung lượng chất xơ và vitamin đáng kể cho cơ thể
con người (trừ loại hồ lô đắng). Hồ lô non còn có thể được phơi khô dùng làm
“rau khô” trong suốt mùa đông băng giá.
Hình 2: Chữ hồ trên
Giáp cốt văn
3
(2) Dùng làm dược phẩm. Loại được dùng làm dược phẩm chủ yếu là loại hồ lô
đắng. Hồ lô đắng có dược tính đặc biệt, chủ yếu là tính hàn. Theo ghi nhận, có hơn
30 loại thảo dược có dùng dược liệu từ hồ lô. Cụ thể trong Bản Thảo Cương Mục
có ghi nhận thảo dược hồ lô chủ tiêu khát, giải nhiệt, giải tâm nhiệt, lợi tiểu tràng,
lợi tiểu, nhuận tâm phổi, trừ phiền muộn [Vương Thế Tương, 2001:4]. Chính nhờ
đặc tính này, vỏ hồ lô được các thầy lang dân gian dùng để đựng dược liệu (Hình
3). Một số loại hồ lô đắng qua chế biến có thể dùng thay thế trà [Lâm Hà,
2001:145].
- Phần vỏ
Hình 3: Bình hồ lô Hình4: Bao cẩn
(1) Dụng cụ chứa đựng. Bình hồ lô có thể dùng để đựng nước, rượu, gạo, thức
ăn, dược liệu v.v.. (Hình 3). Vỏ hồ lô khô có thể cắt làm bát, đĩa, bôi trong ăn uống.
Trong cuốn Hàn Phi Tử có viết “Hồ lô đực thuộc hàng quí, có thể dùng để chứa
đựng” (夫瓠所贵者,谓其可以盛也 Phu hồ sở quí giả, vị kì khả dĩ thịnh dã) [Từ
Kiệt Thuấn, 2001:92]. Trong hôn nhân của người tiền Hán, người ta lấy chiếc hồ
lô cán dài xẻ đôi thành hai cái “bao cẩn” (包卺) (Hình 4), dùng trong nghi thức
uống rượu giao bôi. Từ đó, thành ngữ “hợp cẩn giao bôi” (合卺交杯) được sử
dụng phổ biến. Ngoài ra, hồ lô nhỏ còn được chế tác thành dụng cụ hút thuốc,
tương tự như dụng cụ hút thuốc lào ở Việt Nam.
Xuất phát từ việc sử dụng hồ lô làm vật dụng chứa đựng, dần dần người
nguyên thuỷ đã phát minh, chế tác các loại đồ gốm dùng để chứa dựng có hình
dáng mô phỏng hồ lô (Hình 5). Hiện tại, thuyết “đồ gốm phỏng hồ lô” đã được
giới nghiên cứu công nhận rộng rãi [Từ Kiệt Thuấn, 2001:92; Sơn Mạn, 2001:107].
Quá trình biến đổi từ sử dụng hồ lô tự nhiên sang chế tác các loại đồ gốm phỏng
hình hồ lô hoàn toàn hợp với quá trình diễn hoá văn hoá.
4
Hình
dáng
hồ lô
Tên
gọi
Hồ 瓠 Huyền hồ
悬瓠
Hồ 壶 Bào 匏 Phố lô 蒲
芦
Hình
dáng
đồ
gốm
mô
phỏng
Hình 5: Hình dáng hồ lô và các dạng đồ gốm mô phỏng
(2) Công cụ giao thông thuỷ: Nhờ đặc điểm rỗng ruột, chỉ cần bịt kín phần
miệng, hồ lô sẽ trở thành một loại “phao” đặc biệt.
Các sách Kinh Thi, Trang Tử, Quốc Ngữ đều có nhắc
đến loại “công cụ” giúp người qua sông, suối này.
Dân gian Trung Hoa gọi loại “công cụ” đặc biệt này
là “thuyền eo” (腰舟 yếu chu) (Hình 6). Ngày nay,
vùng nông thôn Hà Nam, Sơn Đông, Tứ Xuyên vẫn
còn dùng loại công cụ này khi qua sông, suối nhỏ.
Người Khách Gia ở Quảng Đông khi đánh cá dưới
sông đeo quanh eo vài chiếc hồ lô cứu sinh. Trẻ em
đeo vài chiếc hồ lô nhỏ quanh thân ngụ ý trừ tà, đồng
thời sẽ giúp cứu trẻ trong trường hợp bị rơi xuống nước. Ở đảo Hải Nam, người Lê
dùng một quả hồ lô to rỗng, bịt kín miệng, thả xuống sông, suối, ôm trầm lấy mà
bơi qua. Ở Đài Loan, người Amei, người Cao Sơn cũng làm cách này [Tống Triệu
Lân, 2001: 19-20, 38-39]. Ở một số vùng khác, người ta làm bè hồ lô qua vượt qua
những khúc sông có quá nhiều ghềnh thác. Trong thần thoại, hồ lô rỗng với đặc
tính nổi trên mặt nước đã được mượn làm biểu tượng cứu sống nhân loại. Học giả
Văn Nhất Đa (1899 - 1946) tiến hành phân tích 49 thần thoại hồng thuỷ của các
dân tộc thiểu số kết luận rằng hồ lô là dụng cụ cứu sinh phổ biến nhất (chiếm
Hình 6: “thuyền eo”- hồ lô
cứu sinh
5
57,2% trong số các dụng cụ hồ lô, quả bầu, thùng gỗ, giường, trống, thuyền v.v..
(xem phần sau) [Tống Triệu Lân, 2001:35].
(3) Nông ngư cụ. Trong nông nghiệp, không ít nông dân dùng bình hồ lô đầu
nhọn, khoét miệng vừa đủ để rót hạt giống. Trong ngư nghiệp, vỏ hồ lô khô còn
được dùng làm phao nổi mắc vào lưới, giúp ngư dân định vị được vị trí mảnh lưới
của mình trên mặt nước.
(4) Chế tác vũ khí. Lịch sử chiến tranh ở đất Trung Hoa xưa đã từng tồn tại loại
vũ khí đả thương có tên gọi là “hồ lô hoả dược”. Có thể phân ra các loại: Hồ lô
hoả hoành trận (衡阵火葫芦); Hồ lô đối mã thiêu nhân (对马烧人葫芦); Pháo lôi
qua (雷瓜炮); Lạn cốt qua dầu thần (烂骨瓜油神); Hoả dược phi lôi (火药飞雷)
v.v.. dùng trong chiến tranh, khai phá đất đai và săn bắt thú rừng [Tống Triệu Lâm,
2001: 20-21].
(5) Chế tác nhạc khí. Hồ lô khô rỗng ruột khi
vỗ sẽ phát ra một loại âm thanh khá đặc trưng,
được các tộc người ở Trung Hoa chọn làm một
trong “bát âm” phổ biến, gồm kim loại, đá, tơ, trúc,
bào, đất, da thuộc và cây. Trong đó, bào (匏) chính
là cái khèn (笙竿 sênh can/ 竽 vu) (Hình 7). Từ
thời Chiến Quốc đến Tây Hán, vùng cao nguyên
Vân Quý đã mô phỏng khèn hô lô tự nhiên để chế tác loại kèn hồ lô đồng (khai
quật được ở vùng Giang Xuyên, Ninh Phổ - Vân Nam). Điều này cho thấy hồ lô tự
nhiên đã được chế tác thành nhạc khí từ rất lâu trước đó. Trong văn hiến, các sách
Man Thư, Tân Đường Thư, Lĩnh Ngoại Đại Đáp... đều có phần ghi chép về loại
nhạc cụ này [Tống Triệu Lân, 2001: 20-21]. Trong nghi lễ rước linh hồn người
chết vào hồ lô tổ linh của dân tộc Di (Vân Nam), các vu sư phải thổi khèn hồ lô để
múa cúng tế. Tộc người La Hô (拉祜) có 136 bộ múa khèn, và hơn 400 bài múa có
sử dụng khèn hòa tấu [www.cwineasy.com].
(6) Dùng làm tang cụ. Một số dân tộc như người Di, Thuỷ, La Hô dùng bình hồ
lô chứa xương tro của người chết với hi vọng linh hồn người chết sẽ được “quay
về” nguồn cội. Loại hồ lô này được gọi là “hồ lô tổ linh” (祖灵葫芦).
Hình 7: Khèn hồ lô
6
(7) Đồ thưởng ngoạn. Chủ yếu là các loại hồ lô nhỏ, qua bàn tay chế tác, hoạ
vẽ của nghệ nhân có thể trở thành một loại hàng mĩ nghệ để trưng bày, trang trí
hay chứa đựng những thứ quí giá trong nhà.
(8) Các dụng cụ khác: Vỏ hồ lô còn dùng làm bát nến, đồ đo lường (rượu, giấm,
dầu), nuôi dế.
Hình 8: Tiểu hồ lô trang trí Hình 9: Hồ lô khắc hoa Hình 10: Bùa hồ lô
1.2. Chủ thể văn hoá hồ lô
Hiện có ít nhất 26 dân tộc ở Trung Quốc có tục sùng bái hồ lô hay có thần
thoại hồ lô, gồm Hán, Thái, Di, Lật Túc, Miêu, Dao, Xá, Tạng, Bạch, Hồi, Hà Nhì,
Choang, Cơ Nặc, Đức Ngang, Bố Y, Ngoã, Lê, Thuỷ, Cách Lao, Nộ, Đồng, Cao
Sơn, A Xương, Nạp Tây, Cảnh Pha, La Hô [www.nikerchina.com]. Về không gian,
ngoài tộc người Hán, các tộc người nói trên đa số phân bố ở các khu vực cao
nguyên Vân Quý, lòng chảo Tứ Xuyên, cao nguyên Thanh Tạng, Lĩnh Nam. Một
số tộc người sống rải rác ở vùng Hoa Đông, Tây Bắc và đảo Đài Loan.
Theo lịch sử, vùng đất phía Nam Dương Tử vốn là khu vực cư trú của ba tập
đoàn lớn: Bách Bộc ở vùng Tây Nam; Bách Việt ở vùng Đông Nam; Miêu Man ở
phía Đông cao nguyên Vân Quý và vùng phụ cận. Tác giả Lâm Hà [2001: 152-153]
thì cho rằng chủ thể văn hoá hồ lô chính là tập đoàn Bách Bộc. Ông cho rằng Bách
Việt là hậu duệ của Bách Bộc - một quan điểm hiếm thấy trong giới nghiên cứu.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không tập trung vào mối quan hệ giữa
Bách Bộc và Bách Việt mà chỉ khẳng định rằng cả hai nhóm này đều là chủ thể
của văn hoá hồ lô.
7
Hình 11:
Trên Giáp
Cốt Văn
Hình 12: Cách diễn
giải của người Hán
Hình 13: Chữ Bộc qua các kiểu chữ Hán
Sách Sở Từ có viết “Bộc tại Sở Tây Nam” (仆在楚西南), “Bộc nhân vi đan sa”
(仆人为丹砂), “Bộc nhân vi thần sa” (仆人为神砂) [Lâm Hà, 2001:153]. Có thể
thấy, cư dân vùng đất rộng lớn phía tây nam nước Sở gọi chung là Bộc nhân (仆
人). Trong lịch sử, khu vực này vốn dĩ phức tạp vì cả ba tập đoàn lớn Bách Bộc,
Bách Việt, Miêu Man cùng cộng cư, cùng giao thoa văn hoá. Tù nhân, nô lệ gốc ở
ba tập đoàn này đều bị người Trung Nguyên gọi chung là “nô bộc” (奴仆) một
cách rất phiếm diện.
Trong Giáp Cốt Văn, từ bộc xuất hiện sớm (Hình 11). Chữ bộc bao gồm năm
phần chính: phần thân người, phần “đuôi”, phần đội đầu, phần cầm trên tay, và các
hạt li ti. Hiện có hai cách diễn giải ý nghĩa của chữ bộc. Hiện có hai cách diễn giải
như sau (Hình 12):
STT Bộ phận Diễn giải của các tác
giả người Hán
Diễn giải của tác giả Lâm
An
1 Thân người Người: nô bộc (tôi tớ) Người: vu sư
2 “Đuôi” Phần kéo dài của trang
phục (lụa, lông trĩ…)
Tàn dư của đuôi chó thần -
vật tổ của Bộc nhân
3 Phần đội đầu Hình cụ Mão có biểu tượng ngọn lửa
thiêng của vu sư đội khi cúng
tế
4 Phần cầm trên
tay
Cái ki rác Quả hồ lô lễ thần - biểu
tượng linh thiêng trừ tà ma
8
và phồn thực
5 Các hạt li ti Bụi Hương thơm của món dâng
thần linh trong hồ lô
Bảng 1: Diễn giải hình tượng chữ bộc trên Giáp Cốt Văn
Có thể thấy hai cách diễn giải rất khác nhau do được nhìn nhận từ hai góc độ
rất khác biệt. Theo cách diễn giải của các tác giả người Hán thì danh từ Bộc nhân
mang ý nghĩa nô bộc nên nhìn đâu cũng ra nô bộc (quan điểm vô thần). Còn tác
giả Lâm An thì đứng ở góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử để quan sát nên cho kết
quả khác. Theo chúng tôi, thứ chữ này do tiền nhân người Hán tạo ra (Giáp Cốt
Văn) nên ít nhiều nó mang quan niệm “dĩ Trung Nguyên vi trung” của mình. Song,
ở một khía cạnh khác, Giáp Cốt Văn là loại chữ tượng hình, chủ yếu dựa vào hình
dáng của vật thể tự nhiên để cách điệu tạo chữ viết nên có thể chữ bộc này thể hiện
hình ảnh của một vu sư đang tiến hành nghi lễ. Cơ sở của ý kiến này nằm ở các
khía cạnh sau:
1. Phần đuôi không thể là phần kéo dài của trang phục. Người nô lệ không thể
mang theo phần đuôi này khi đang làm việc.
2. Phần đội đầu cho là hình cụ thì không thể lí giải nổi tại sao “người nô bộc
này” vừa cầm ki vừa đội hình cụ?
3. Nếu phần tay cầm là cái ki rác thì người nô bộc không thể nâng ki rác cao
đến như thế, vì như vậy sẽ là vô lễ đối với giới chủ.
4. Một số tác giả người Hán chưa giải nghĩa hết ý nghĩa của chữ Bộc (仆). Bộc
không chỉ có nghĩa là nô bộc, mà còn là hồ lô. Bộc nhân: dân tộc hồ lô. Còn từ
Bộc trên Giáp Cốt văn được tạo thành từ cách mượn âm diễn ý của người Hán.
Gốc ban đầu của từ bộc có âm đọc là Bu, Bô, Bua, Pu, Po… (xem mục Hình tượng
hồ lô trong ngôn ngữ).
2. Hình tượng hồ lô trong văn hoá Trung Hoa
2.1. Hình tượng hồ lô trong ngôn ngữ - văn học dân gian
2.1.1. Trong ngôn ngữ
Trong tiếng Hán hiện đại có không ít tục ngữ, thành ngữ mượn hình ảnh và ý
nghĩa của chiếc hồ lô để diễn đạt. Dưới đây là một vài ví dụ tiêu biểu:
9
Tục ngữ/ Thành ngữ Chữ Hán Ý nghĩa
Nhất hồ thiên địa 一壶天地 Chiếc hồ lô chứa cả vũ
trụ
Vẽ cái gáo theo hình hồ
lô
照着葫芦画瓢 Mô phỏng đơn giản
Theo hình mà vẽ hồ lô 依样画葫芦 Mô phỏng đơn giản
Đông nói hồ lô tây nóigáo 东指葫芦西指瓢 Huyên thuyên bất tận
Đè hồ lô xuống thì gáo
nổi lên
按下葫芦瓢起来 Việc này chưa xong việc
khác lại đến
Không biết trong hồ lô
bán loại thuốc gì
不知葫芦里卖的什么药 Không biết anh ấy/ cô ấy/
họ đang nghĩ gì
Hồ lô trộn cà tím 葫芦搅茄子 Thị phi hỗn độn/ Vàng
thau lẫn lộn
Cưỡi trên chiếc hồ lô mà
đầu óc hỗn độn
骑着葫芦头乱转转 Chủ ý bất định
Chỉ chiếc hồ lô ấy mà đầu
nảy ra vàng
指着那个葫芦头开金 Dựa dẫm vào ai đó làm
việc gì đó
Bảng 2: Thành ngữ, tục ngữ có mượn hình ảnh hồ lô
Có thể thấy hình ảnh hồ lô trong các thành ngữ, tục ngữ nói trên được sử dụng
phổ biến với phạm vi ý nghĩa rộng, song hàm ý đều mang tính tích cực. Chẳng hạn
ở câu “hồ lô trộn cà tím” (thị phi hỗn độn) thì hình ảnh hồ lô được hiểu là đối
tượng tích cực (thị), còn cà tím - một loại cà tầm thường - mang biểu trưng tiêu
cực (phi).
Trong ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số miền Nam và Tây Nam Trung Hoa,
hồ lô được gọi là Bộc (bo/ bu/ pu). Khái niệm Bộc nhân để chỉ dân tộc hồ lô. Tác
giả Lâm Hà [2001:154] dẫn ra rằng các từ bà (婆), ba (爸), phụ (父), bào (胞,
đồng bào), bát (钵) (bát đựng cơm của sư sãi) v.v.. đều có gốc chung là từ bo/ bu/
pu mà ra. Ngày nay, các tộc người thiểu số vùng Tây Nam, Đông Nam Trung
Quốc tự xưng tộc danh của mình với gốc từ bo (仆 bộc), ví dụ:
10
Tộc
danh
chuẩn
Tộc danh tự
xưng
Chữ Hán Tộc danh
chuẩn
Tộc danh tự
xưng
Chữ Hán
Đồng Bộc Giám 仆鉴/ 仆鉴 Miêu Bộc Giám 仆鉴/仆鉴
Choang Bộc Choang 仆壮 Dao Bộc Giám 仆鉴
Bố Y Bộc Y 仆依 Thổ Gia Ba Bộc 巴仆
Bảng 3: Tộc danh gắn với tên gọi hồ lô ở Trung Hoa
Có thể thấy các từ bô, bua, bu, po, pu... rất gần âm với từ pò (chỉ thủ lĩnh) của
một số dân tộc thuộc các nhóm Việt - Mường, Tày - Thái có ở Đông Nam Á.
Chẳng hạn, từ vua Hùng âm Việt cổ là pò khun. Người Thái Tây Bắc cũng gọi thủ
lĩnh là pò khun [Trần Ngọc Thêm, 2004: 81]. Cũng ở tình huống tương tự, các từ
bô, bua, bu, po, pu… chỉ hồ lô cũng đồng/ gần âm với từ bô trong tiếng Việt cổ -
từ về sau phát triển thành hai từ vua và bố [Trần Ngọc Thêm, 2004:206]. Trong
phương ngữ Mân Nam vùng Phúc Kiến thì từ bô biến âm thành bou [po*1], chỉ bố
[Nguyễn Đức Hiệp, 2007].
2.1.2. Hình tượng hồ lô trong văn học dân gian
Là một biểu tượng văn hoá dân gian, hồ lô đã đi vào văn học dân gian từ rất
sớm. Tiêu biểu nhất là hai thể loại thần thoại và cổ tích. Trong đó, ở thể loại thần
thoại là đặc sắc hơn cả.
Học giả Văn Nhất Đa (1899 - 1946) trong tác phẩm Phục Hy khảo liệt kê được
49 loại thần thoại có liên quan đến hồ lô. Hiện nay, giới nghiên cứu văn hoá Trung
Quốc thống kê được hơn 119 loại [www.nikerchina.com]. Xét ở khía cạnh vai trò
tham gia của hình tượng hồ lô thì trên đại thể có thể xếp vào hai nhóm chính sau: 1)
một là chất liệu tạo nhân sinh; 2) hai là công cụ tị nạn.
Nhóm thứ nhất lại chia ra hai tiểu nhóm: hồ lô trực tiếp sinh người; và hồ lô
gián tiếp sinh người.
- Hồ lô trực tiếp sinh người
STT Tộc
người
Nguồn gốc xuất phát
hồ lô
Đối tượng sinh
ra từ hồ lô
Phối hôn và sản
sinh nhân loại
1 A
Xương
Thiên Công - Địa Mẫu:
mang thai 9 năm, sinh
9 em bé Tự phối hôn, sản
sinh loài người
11
một hạt hồ lô
2 Cơ Nặc x Mã Hắc ( 玛黑),
Mã Tổ (玛祖)
Mã Hắc + Mã Tổ
sinh ra loài người
3 Hán,
Miêu
Hai gia đình Giang,
Chiêu trồng hồ lô
Nhị Lang Thần Nhị Lang Thần lấy
con gái Thái Thượng
Lão Quân sinh ra
loài người.
4 La Hô Thần linh gieo trồng,
quả bị chuột cắn
Một nam một nữ Hai thuỷ tổ kết hôn
sản sinh nhân loại
5 Lật Túc Từ trên trời rơi xuống 2
chiếc
1 chiếc sinh Tây
Tát (西萨, nam);
1 chiếc sinh Nặc
Tát (诺萨, nữ).
Tây Tát, Nặc Tát kết
hôn, sinh 9 cặp nam,
nữ. 9 cặp phối hôn
sinh nhân loại.
6 Nộ Âu Tát (欧萨) trồng hồ
lô (bầu). Hồ lô sinh
người. Đại Hồng Thuỷ
dâng, nhân loại chết.
Hai anh em sống
sót nhờ nấp vào
quả hồ lô
Hai anh em phối hôn
sinh nhân loại
7 Thái Từ chân trời trôi đến Tám nam. Tiên
nữ biến bốn
trong số họ
thành phụ nữ
Bốn cặp phối hôn
sinh nhân loại.
Bảng 4: Thần thoại hồ lô trực tiếp sinh người
- Hồ lô gián tiếp sinh người
Miêu,
Dao,
Xá
Một phụ nữ tộc Cao Tân thị sinh một con trùng to, thân hình chiếc đĩa (bàn
盘), sau hoá thân thành chó thần, gọi là Bàn Hồ. Giặc Nhung Ngô xâm lấn,
triều đình ra lệnh ai diệt được giặc thì trọng thưởng, gả con gái. Thắng giặc
xong, quần thần cho rằng Bàn Hồ là thú nên không giữ lời hứa. Tuy nhiên,
công chúa nhất mực theo Bàn Hồ. Cả hai lên núi, sống trong thạch thất, sau
ba năm sinh ra sáu nam sáu nữ. Sau khi Bàn Hồ qua đời, sáu nam sáu nữ
phối hôn, sinh ra các dân tộc Hán, Ba, Thục, Di, Miêu Man v.v..
Bảng 5: Thần thoại hồ lô gián tiếp sinh người
12
Trên thế giới không chỉ có Trung Quốc mới có thần thoại hồ lô (trực tiếp, gián
tiếp) sinh ra nhân loại. Đông Nam Á, Nam Á, châu Mĩ… cũng có những ý niệm,
thần thoại tương tự. Chẳng hạn:
Trong văn hoá Ấn Độ, tiêu biểu là Sử thi Ramayana: Thiên thứ nhất, chương
37 có dẫn hình ảnh chiếc hồ lô như sau:
“Sumatis tu naravyaghra garbhatumba vyajayata sastih putrasahasrani
tumbabhedad vinihsrtah” (“Hỡi thần Sumatis… Người sinh một chiếc hồ lô dài.
Bổ chiếc hồ lô ra. Sáu mươi ngàn người con xuất hiện” [Kỳ Mộ Hiền, 2001:136].
Trong tiếng Phạn cổ, hồ lô được gọi là tumba. Trong đoạn sử thi trên, danh từ
garbhatumba mang ý nghĩa là bào thai hồ lô. Bào thai hồ lô này rất thần bí, cùng
lúc sinh ra sáu mươi ngàn đứa con trai.
Còn trong thần thoại Kelah ở Nam Mĩ
cũng có chi tiết tương đồng:
Nhật thần mang một chiếc hồ lô đi
tắm. Một cô gái từ trong hồ lô bước ra.
Nhật thần và nguyệt thần tranh giành cô
gái. Nhật thần tặng cô gái cho nguyệt
thần, tự mình tìm thêm một cô gái khác
từ trong hồ lô. Về sau, các gia đình nhật
thần, nguyệt thần sinh ra nhân loại [Lâm Hà, 2001:139].
Ở nhóm thứ hai, motif đại hồng thuỷ - hồ lô cứu sinh - anh em phối hôn tái tạo
nhân sinh hầu như thống nhất trong các thần thoại tiêu biểu sau:
STT Tộc
người
Nhân vật thuỷ tổ Thuỷ tai và hồ lô
cứu sinh
Phối hôn, sản sinh
nhân loại
1
Đồng,
Cách
Lao,
Thổ
Gia
Tổ mẫu ấp trứng,
sinh Tùng Tang (松
桑 nam) và Tùng Tư
(松斯 nữ). Hai thần
kết hôn, sinh lôi,
rồng, hổ, rắn, nhân
thần.. 12 loại thần,
Các thần tranh
chấp, lôi lên trời,
rồng xuống biển, hổ
lên rừng, rắn vào
động. Lôi dâng lũ
trả thù, tiêu diệt con
cháu nhân thần. Na
Huynh Na Muội
Na Huynh Na Muội
kết hôn, ba năm sinh
ra túi thịt, chặt thành
mảnh, mỗi mảnh biến
thành một tộc người:
thịt người Đồng
(da trắng); ruột
Miêu (thẳng tính);
Hình 14: các thiếu nữ Hawaii và bình hồ lô
13
trong đó Na Huynh
Na Muội (傩兄傩妹)
nhỏ nhất.
được thần mách,
trốn trong hồ lô,
thoát nạn
xương Dao (rắn
rỏi, lao khổ); tim
Hán (khôn lanh)…
2 Thuỷ Á Oa (亚娲) sáng tạo
ra lôi, rồng, hổ và
người.
Nhân thần tranh
giành. Lôi thần
dâng nước báo thù.
Chỉ hai anh em trú
trong hồ lô do Á Oa
tạo ra thoát nạn.
Hai anh em kết hôn
sinh túi thịt, chặt
thành mảnh. Gan
biến thành người
Thuỷ; phổi Bố Y;
ruột Miêu; xương
Hán...
3 Miêu Cây phong sinh Hồ
Điệp Ma Ma (mẹ
bướm), kết hôn với
bọt biển (泡沫) sinh
12 trứng, nở ra
Khương (姜, anh),
Ương (央, em gái),
lôi, hổ, rồng…
Nhân thần tranh
chấp, lôi dâng lũ
tiêu diệt loài người.
Khương, Ương nấp
trong hồ lô thoát
nạn
Khương, Ương kết
hôn sinh ra túi thịt.
Chặt mảnh, mỗi
mảnh hoá thân thành
một tộc người.
4 Bạch Thiên thần A Tỷ (阿
仳) báo cho loài
người biết về trận
hồng thuỷ sắp tới
nhưng mọi người
không tin.
Duy chỉ có hai anh
em A Công (阿公),
A Bà (阿婆) nghe
theo, nấp trong quả
hồ lô nên thoát
mạng.
Hai anh em kết hôn,
tái sinh nhân loại.
5 Hán Một người đàn ông
có hai con trai, gái.
Người anh em của
ông này vì hận thù đã
cho dâng nước để trả
thù
Hai anh em vì được
tiên mách bảo
(hoặc bằng dự
đoán) nấp vào trong
hồ lô mà thoát nạn
Hai anh em kết hôn,
tái tạo nhân sinh
Bảng 6: Thần thoại hồ lô cứu sinh
14
Ở nhóm thứ hai này, hồ lô tái tạo nhân sinh (hay thuỷ tổ loài người - hai anh
em) có thể chia thành hai loại: 1. hồ lô chứa người hoặc hồ lô thành người, cụ thể
phân ra sáu motif điển hình sau: hai anh em sinh ra từ hồ lô; hai anh em ngồi trong
nụ hoa, khi hoa kết trái, hai anh em sống trong quả hồ lô; tái tạo nhân chủng, đặt ở
bên trong hồ lô; ruột hồ lô biến thành đàn ông, vỏ hồ lô biến thành phụ nữ; chặt hồ
lô thành nhiều mảnh, mỗi mảnh biến thành một người; gieo hạt hồ lô, hạt biến
thành người. 2. hai anh em sinh ra quái thai, cụ thể là sinh ra quả hồ lô (hay quả
bầu), quả trứng gà, mảnh đá mài, quái thai (túi cầu thịt, miếng thịt, thân hình
không tay, chân, mắt, mũi) và túi máu. Việc chặt quái thai ra từng mảnh rồi phân
tán nhiều nơi là dạng mô phỏng của cách thức gieo hạt hồ lô.
Trong tất cả các thần thoại, tái tạo nhân sinh là hạt nhân của câu chuyện, mà
trong đó hình ảnh hồ lô tạo ra con người là đỉnh điểm.
Thần thoại tái sinh có chi tiết chiếc hồ lô cứu sinh được thay thế bằng các vật
thể khác cũng có thể tìm thấy ở các tộc người khác ở Trung Quốc, như người Lê
trứng rắn; người Dạ Lang (thời cổ đại) - ống tre; Cao Sơn - quả trứng… Các dân
tộc/ quốc gia khác trên thế giới cũng có các câu chuyện tương tự:
STT Tộc người/
quốc gia
Nhân vật thuỷ tổ Phối hôn, sản sinh nhân
loại
1 偻 (Wa,
Nhật)
Nam thần Izanagi + Nữ thần
Izanami
Kết hôn sinh ra các đảo, dân
tộc Nhật Bản và Nữ thần
Amaterasu
2 Kodiak - Mĩ Bọt biển đưa một cặp nam
nữ vào bờ. Hai người từ bọt
biển chui ra
Kết hôn và sản sinh nhân
loại
3 Philippines Điểu thần làm đại dương nổi
giận, dâng nước. Trúc Nam
và Trúc Nữ trốn vào ống
trúc thoát nạn
Điểu thần mổ vỡ ống trúc.
Trúc Nam Trúc Nữ kết hôn,
sản sinh nhân loại
4 Kitu (châu
Mĩ)
Chiếc thuyền vuông cứu
được nhiều người giữa biển
khơi
Họ vào bờ, kết hôn và sản
sinh ra nhân loại hôm nay.
Bảng 7: Thần thoại các vật dụng thay thế hồ lô cứu sinh trên thế giới
15
(2) Ngoài kho tàng thần thoại hồ lô cứu sinh bên trên còn có không ít các câu
chuyện cổ tích có vay mượn hình ảnh quả hồ lô cùng các ý nghĩa văn hoá của nó
làm nền tảng cho nội dung. Điển hình có thể kể cố sự mang tên Hồ lô đỏ trong kho
tàng văn học dân gian vùng Sơn Đông như sau:
“Ngày xưa, hai anh em sống gần nhau. Người anh giàu có nhưng keo kiệt, bủn
xỉn. Người em trai nghèo khó nhưng bộc trực, tốt bụng. Mùa xuân đến, chim yến
làm tổ trên mái nhà tranh của người em. Chim đẻ trứng, trứng nở ra chim non.
Một ngày nọ, chim non chẳng may rơi khỏi tổ và rớt thủng mái nhà dột nát rơi
xuống đất, gãy chân. Vợ chồng người em chăm sóc cho chim non. Chim khỏe, bay
đi. Ít lâu sau, chim quay về tặng một hạt hồ lô. Người em gieo hạt, đến mùa thu thì
kết trái. Người em cưa quả, định bụng làm gáo múc nước, không ngờ bên trong
toàn là vàng ròng. Thoáng chốc người em giàu có hẳn.
Người anh tham lam, lười biếng chẳng mấy chốc đã phung phí hết tài sản của
mình. Nghe nói em trai bỗng dưng giàu có liền đến hỏi han. Biết chuyện, người
anh trai quyết tâm làm giàu theo cách của em mình: chăm sóc chim non, nhặt hạt,
gieo trồng, hái quả. Nào ngờ, khi bổ ra, bên trong quả hồ lô không có vàng mà chỉ
có một ông lão râu trắng bạc bước ra, không nói năng gì. Người anh tức giận, lấy
roi đánh ông lão. Ông lão bay lên không trung. Hoá ra, ông là tiên. Vợ chồng
người anh trai đành phải gánh hết tội lỗi của mình [Sơn Mạn, 2001: 107-108]”.
Có thể thấy, motif cố sự trên đây phảng phất hình ảnh hai anh em trong câu
chuyện Ăn khế trả vàng của người Việt Nam, song mấu chốt ở đây là hạt hồ lô -
giàn hồ lô - quả hồ lô. Quả hồ lô chứa vàng - biểu tượng của giàu có, thịnh vượng.
Dù vậy, đối với người tham lam (anh trai), hồ lô lại hoá ra công lí trừng trị kẻ ác,
thực hiện đạo lí “có vay - có trả”, “nghiệp báo - luân hồi”. Trong câu chuyện còn
có cả dấu tích xa gần của Đạo giáo và Phật giáo. Quả thật, hồ lô còn hơn cả một
biểu tượng may mắn.
2.2. Hình tượng hồ lô trong tín ngưỡng, tôn giáo
2.2.1. Trong tín ngưỡng
Có thể nhận định chung rằng hình tượng đặc trưng của hồ lô cùng với các tính
năng của nó đã giúp “thần thánh hoá” chính nó, trở thành đối tượng thờ cúng trong
các hình thức tín ngưỡng có từ thời viễn cổ.
16
Đầu tiên, hồ lô là vật tổ của không ít các dân tộc thiểu số tại Trung Hoa (bảng
3). Cả cộng đồng sùng bái hồ lô, coi đó là biểu tượng của sự sống, sự phồn thực và
linh vật tạo ra dòng giống.
Thứ hai, hồ lô là một loại biểu tượng nữ tính gắn với sinh sôi được sùng bái
trong tín ngưỡng phồn thực. Chương Đại Nhã trong quyển Kinh Thi có viết “dưa
sai chi chít, dưa sinh loài người” (绵绵瓜瓞,民之初生 miên miên qua điệt, dân
chi sơ sinh) ghi nhận niềm tin hồ lô sinh ra nhân loại trong thần thoại viễn cổ. Hơn
nữa, người tiền Hán gọi mẹ là “tôn đường” (尊堂). Theo Liêu Trai Chí Dị và Nho
Lâm Ngoại Sử, “tôn” là tên khác của hồ lô葫芦 [Từ Kiệt Thuấn, 2001:95]. Có thể
thấy người tiền Hán và các dân tộc lân cận vốn có tín ngưỡng thờ hồ lô mẫu.
Trong suy nghĩ của họ, mẫu cũng chính là hồ lô. Mẫu sinh ra con, hồ lô sinh nhân
loại. Thờ hồ lô chính là thờ mẫu, thờ sự sinh sôi.
Thứ ba, hồ lô là biểu trưng của nguồn cội, là nơi trú ngụ của tổ tiên, và cũng là
nơi mà mọi “tiểu ngã” phải quay về sau cái chết. Chính vì thế, hồ lô gắn với tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Một số dân tộc, chẳng hạn người Di, đặt hồ lô lên bàn
thờ tổ tiên tượng trưng cho nơi linh hồn tổ tiên trú ngụ, hoặc giả làm nghi lễ rước
linh hồn người chết vào trú ngụ trong hồ lô.
Thứ tư, không gian bên trong hồ lô được thần bí
hoá thành không gian siêu phàm, nơi thần linh trú
ngụ, đặc biệt là trong tín ngưỡng thờ thần. Mỗi khi
gặp phải hoạn nạn, người ta làm nghi lễ tế hồ lô với
mong ước thần linh sẽ vượt qua không gian vũ trụ
linh thiêng ấy để giúp họ toại nguyện (Hình 15).
2.2.2. Trong tôn giáo
Cũng giống như trong tín ngưỡng, hình tượng hồ
lô trong tôn giáo được thể hiện mang đầy đủ các đặc
trưng của nó. Trong các tôn giáo Nho, Phật, Đạo… tại
Trung Hoa, có lẽ Đạo giáo tiếp nhận hình tượng hồ lô
sâu sắc nhất.
Đạo giáo rất coi trọng hình ảnh cùng ý nghĩa biểu
trưng của chiếc hồ lô. Đạo gia và Đạo giáo khởi nguồn
từ Lão Tử. Sư bối của Lão Tử là Hồ Tử, người nước
Hình 16: Thiết Quải Lý
Hình 15: Pháp sư trừ tà
17
Trịnh thời Xuân Thu, lấy biệt danh là Hồ Lô [Từ Kiệt Thuấn, 2001:98]. Lão Tử thì
gọi hồ lô là huyền tẫn (玄牝) và thiên địa căn (天地根), tức gốc của đất trời [Trình
Tường, 2001:120]. Trang Tử cũng hết lời ca tụng công năng của chiếc hồ lô.
Trong Đạo gia, Thiết Quải Lý, một trong “bát tiên quá hải”, sở hữu một chiếc
hồ lô “pháp lực vô biên”, thường dùng hồ lô tiên (bảo hồ lô) để loại trừ cường bạo,
diệt ác trừ gian [www.nikerchina.com], “cải tử hoàn sinh”. Dường như hồ lô đã
gắn chặt với ý niệm bất tử, hồi sinh của Đạo giáo thần tiên trong dân gian…
Thiết Quải Lý (Hình 16) vốn tên là Lý Huyền (李玄), cùng luyện đan trên núi
với đệ tử Dương Tử. Một ngày nọ, Lý Huyền thần du, dặn dò đệ tử nếu đến bảy
ngày sau mà ông không về thì hãy thiêu xác ông. Chưa đến bảy ngày, đệ tử Dương
Tử hay hung tin mẹ mất, bấn loạn đã vội thiêu xác Lý Huyền. Đến ngày thứ bảy
Lý Huyền quay về thì thân xác không còn, vội vàng tìm kiếm một thân xác khác
để trú ngụ. May thay trong vùng có một người đàn ông què chân (có thể là người
ăn mày). Từ đó trở đi, Lý Huyền được dân gian gọi là Thiết Quải Lý. Thiết Quải
Lý tìm đến nhà Dương Tử hỏi cho ra chuyện, biết được lòng hiếu thảo của Dương
Tử, đã dùng một viên đơn trong chiếc hồ lô cứu sống mẹ Dương Tử.
Trong tác phẩm Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân 1506 - 1582) có nhiều chi tiết thần
tiên thâu tóm yêu tinh cất giữ trong hồ lô. Thái Thượng Lão Quân cũng cất linh
đan trong hồ lô tiên, chẳng may bị Tôn Ngộ Không trộm hết. Trong truyền thuyết
Đông Du Ký, chiếc hồ lô còn có thể hút cạn nước biển Đông.
Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng mượn hình ảnh hồ lô với vai trò của bình
linh thuỷ (nước tạo sự sống), linh vật trừ tà (thu nhận và lưu giữ yêu nghiệt) v.v..
Trong tác phẩm Tây Du Ký, không ít lần các sư đồng đã phải sử dụng đến hồ lô
thần để thu phục yêu nghiệt, hoặc làm công cụ vượt sông.
Khác với Đạo giáo và Phật giáo, Nho giáo phủ nhận vai trò văn hoá của chiếc
hồ lô, coi đó là một biểu tượng phàm tục, tầm thường. Trong lịch sử phát triển
Nho gia, các nho sĩ một mực hoài nghi và phủ nhận tác dụng to lớn của hồ lô.
Chẳng hạn, trong suy nghĩ của Khổng Tử, hồ lô và các loại bầu bí nói chung đều
là những thứ vô dụng, đồng thời từ chối bình luận về nó. Một ngày nọ, học sinh
đến hỏi Khổng Tử về tác dụng quả hồ lô, Khổng Tử đáp “Quả hồ lô thôi thì làm
sao? Chỉ cột được (làm phao) chứ có ăn được đâu?” (吾岂匏瓜也哉?焉能系而
不食?Ngô khỉ bào qua dã tai, yên năng hệ nhi bất thực”(Luận Ngữ).
18
2.3. Hồ lô và hình tượng Phục Hy - Nữ Oa
Thần thoại Phục Hy - Nữ Oa có ở nhiều tộc người thiểu số khác nhau tại Trung
Hoa. Nội dung hoàn toàn gắn liền với các chi tiết hồ lô cứu sinh hay hồ lô tái tạo
nhân sinh sau nạn đại hồng thuỷ. Về bản thân hình tượng Phục Hy và Nữ Oa
(Hình 20), tác giả Văn Nhất Đa đã chứng minh thuyết phục rằng cả hai vốn là hoá
thân với hai tên gọi phân biệt nam - nữ, đực - cái của chiếc hồ lô dân gian. Truyền
thống một số dân tộc thiểu số coi Phục Hy - Nữ Oa là hai hồ lô tinh. Quả thật, cả
Phục Hy và Nữ Oa đều là hoá thân từ một thứ chung nhất: hồ lô.
Tra cứu từ nguyên, chữ “phục” (伏) trong chương Hệ Từ Truyện quyển Dịch
cũng là bao (包). Bao (包) và bào (匏) trong tiếng Hán cổ cùng nghĩa (theo Thuyết
Văn). Vậy, Phục Hy (伏羲) chính là Bào Hy (匏羲). Từ bào hy trong tiếng Hán cổ
thường dùng để chỉ hồ lô. Từ Hy (羲) (trong Phục Hy伏羲) theo các quyển Quảng
Nhã, Trang Tử, Điền Tử, Quản Tử, Tuân Tử,
Nguyệt Lệnh… có thể viết thành hí (戏) hoặc
hy (希)(ba chữ cùng nghĩa), chỉ chiếc gáo hồ
lô. Rõ rang, Phục Hy chính là Bào Hy, là hoá
thân của hồ lô. Ở một phân tích khác, Phục
Hy còn được hiểu là “Nữ thần hồ lô” [Lâm Hà,
2001:152]. Ở đây, chúng tôi không đặt vấn đề
truy nghiệm Phục Hy là nam thần hay nữ thần
mà chỉ dừng lại ở chỗ Phục Hy xuất phát từ
hình tượng hồ lô.
Trong từ Nữ Oa (女娲), từ Nữ chỉ giống cái, còn từ Oa (娲) cũng có nguồn gốc
từ hồ lô mà ra. Theo các quyển Đại Hoảng Tây Kinh, Hán Thư, Liệt Tử, Quảng
Vận, Tập Vận..., Oa (娲) chính là qua (瓜), tức danh từ chỉ hồ lô, bầu bí. Sách Lộ
Sử chương Hậu Kỷ cho rằng Nữ Oa (女娲) là Bao Oa ( 娲). Qua so sánh âm,
Bao Oa chính là Bào Qua (匏瓜). Cả Bào Qua, Bào Hồ, Bao Oa đều do chạy âm
mà thành. Trong tiếng Hán cổ, Hy và Oa do chuyển âm tạo nên. Do vậy, Phục Hy
và Nữ Oa tuy hai mà một, đều là hoá thân của hồ lô. Nữ Oa mang tính âm, còn
được dân gian gọi là Nữ Bào Hồ (女匏瓠), Nữ Phục Hy (女伏羲). Một điều lí thú
nữa là câu chuyện Phục Hy - Nữ Oa thường gắn với thần thoại hồ lô, và chỉ ở các
Hình 17: Hình tượng Phục Hy - Nữ
Oa trong tranh bích hoạ ở Tứ Xuyên
19
tộc người coi trọng hồ lô mới tồn tại sự tích Phục Hy - Nữ Oa [Văn Nhất Đa, 2001:
132-133]. Vậy, Phục Hy = Nữ Oa = hồ lô.
Dân gian Trung Quốc có câu “Nữ Oa làm khèn” (女娲作笙 Nữ Oa tác sênh),
hoàn toàn phù hợp với sự thật là khèn (sênh) được làm từ hồ lô. Sách Bạch Hổ
Thông viết “… Hy viết sênh…” (瓠曰笙). Người Miêu gọi hồ lô là sênh. Sách Lễ
Ký còn viết “Nữ Oa chi sênh hoàng” (女娲之笙簧), sách Thế Bản viết “Nữ Oa tác
sênh hoàng” (女娲作笙簧).
Ngày nay, người Miêu cho rằng bí đỏ là hậu duệ của Phục Hy - Nữ Oa. Người
Hán vẫn coi hồ lô là hiện thân của Phục Hy - Nữ Oa. Không ít tộc người (kể cả
người Hán) coi Phục Hy - Nữ Oa là thuỷ tổ, vô hình trung đề cao đặc tính phồn
thực của giống hồ lô thiên nhiên.
3. Các đặc trưng văn hoá của hình tượng hồ lô
3.1. Các đặc trưng văn hoá của hình tượng hồ lô
3.1.1. Tính biểu trưng
Từ khi chiếc hồ lô tự nhiên thăng hoa, hình tượng hồ lô được dân gian các tộc
người Trung Hoa gửi gắm vào đấy nhiều ước vọng ở đời:
- Biểu trưng nữ tính - phồn thực: đặc trưng nổi bật nhất của hình ảnh chiếc
hồ lô dân gian.
Về hình dáng, hồ lô được cho là 1) giống với bộ ngực căng tròn của người mẹ
đang trong thời kì cho con bú; 2) giống với sinh thực khí nữ (nội âm lẫn ngoại âm);
3) giống với phần thân của người phụ nữ có mang. Ngoài ra, hồ lô nhiều hạt, dễ
sinh sôi nên được dùng với ý niệm cầu mong phồn thực.
Tại vùng Đài Giang và Kiếm Hà tỉnh Quý Châu, người Miêu có tục “hồ lô
phóng tinh rượu” vào ngày tế bái tổ tiên. Thanh niên lấy hồ lô đựng đầy tinh rượu,
sau đó cầm hồ lô phóng tinh rượu về phía các cô gái trẻ. Các cô gái này hân hoan
đón nhận tinh rượu như đón nhận biểu trưng “dương tinh” cần thiết cho sự sinh sôi.
- Biểu trưng may mắn: theo phân tích ngữ âm - ngữ nghĩa ở phần tên gọi hồ
lô thì hình ảnh hồ lô mang biểu trưng của phúc lộc, thăng tiến. Các tộc
người Miêu, Bố Y vùng Quý Châu có tục rước thần hồ lô. Dân gian dùng
gỗ đẽo thành mặt nạ hồ lô thần có tay cầm. Phụ nữ tế tự hồ lô thần để cầu
20
hạnh phúc tương lai [www.china.com]. Người La Hô kết hình hồ lô trên cổ
áo, hàm ý may mắn v.v..
- Biểu trưng tổ tiên: Người Cơ Nặc 基诺 /Ji Nuo/ và người Di 彝/Yí/ là các
trường hợp điển hình. Danh từ riêng Cơ Nặc có nghĩa là “(giống người)
chui từ hồ lô ra” [www.nikerchina.com]. Ngoài người Cơ Nặc, người Di
Vân Nam cũng coi hồ lô là hoá thân của tổ tiên. Trên bàn thờ hay vách thờ
thường có khắc hoạ hình ảnh hai chiếc hồ lô (mỗi chiếc tượng trưng cho
một thế hệ (nội, cha). Mỗi khi gia đình có một vong linh mới thì mời vu sư
đến cử hành đại lễ gửi linh hồn vào chiếc hồ lô mới. Cùng lúc đó mang hồ
lô chứa linh hồn của thế hệ cao nhất thiêu huỷ. Trong phong tục này, tàn dư
của chế độ mẫu hệ vẫn còn lưu giữ rất sinh động. Nếu người mẹ qua đời
trước, người Di rước vu sư làm lễ gửi linh hồn vào hồ lô cái. Đến khi người
cha qua đời, vu sư lai tiếp tục làm lễ gửi linh hồn người cha vào cùng. Nếu
cha mất trước, vu sư gửi tạm linh hồn vào một chiếc hồ lô đực nào đó, đến
khi người mẹ mất, người ta đổi một chiếc hồ lô khác, gửi linh hồn người
mẹ vào trước rồi rước linh hồn người cha vào cùng [Từ Kiệt Thuấn,
2001:96].
- Biểu trương hài hòa âm dương: Hồ lô là loại bầu bí có hoa tự thụ phấn, do
vậy nó tự mang trong mình sự hài hòa âm dương (nhụy và nhị). Cũng từ đó,
theo dân gian Trung Hoa, Phục Hy - Nữ Oa - hoá thân của hồ lô tượng
trưng cho hình ảnh người cha thuỷ tổ và người mẹ thuỷ tổ, cả hai hòa hợp
sinh ra nhân loại. Trên vách đá hang động có từ thời tiền sử, hình ảnh Phục
Hy - Nữ Oa được vẽ thành đầu người thân rắn, hai đuôi quấn vào nhau thể
hiện sự khắng khít âm dương. Thần thoại người A Xương kể rằng Thiên
Công Địa Mẫu yêu nhau, mang thai chín năm thì sinh được một hạt hồ lô.
Về sau, từ trong hồ lô, thuỷ tổ nhân loại bước ra [Lâm Hà, 2001:139]. Xa
hơn nữa, hồ lô còn là biểu trưng của tình yêu.
- Biểu trưng vũ trụ: Trong Đạo giáo, không gian bên trong là thế giới của
thần tiên, là vũ trụ độc lập với bên ngoài, có thể biến to, cũng có thể thu
nhỏ, thông với bên ngoài bằng một cửa hẹp: miệng hồ lô. Vũ trụ bên trong
hồ lô chỉ có hạnh húc, có tiên cảnh, có sự thăng hoa mà không hề có chiến
tranh, bất ổn của thế giới nhân sinh. Tác phẩm Thần Tiên truyện của Cát
Hồng (葛洪 284-364) là một ví dụ:
21
Truyện kể rằng Phí Trường Phòng (费长房) làm tiểu quan vùng Nhữ Nam
(nay Hà Nam). Trong vùng có lão Hồ công đến bán thuốc. Thuốc rất hiệu nghiệm
nên ông rất được tin yêu. Ông đựng thuốc trong chiếc hồ lô bên thân. Tối, ông
chui vào hồ lô mà ngủ. Phí Trường Phòng rình biết được, bèn tìm cách tiếp cận Hồ
công. Ngày nọ, Hồ công dặn Phí Trường Phòng trời tối hãy đến. Đúng hẹn, Hồ
công mời Phí Trường Phòng cùng ngao du bên trong hồ lô. Trong hồ lô, Phí
Trường Phòng nhìn thấy khắp nơi đều là tiên cảnh, đài các, sơn thuỷ…
Bên trong hồ lô không chỉ có vũ trụ riêng mà còn có cả chuỗi không gian độc
lập với thế giới bên ngoài: “non tiên chỉ bảy ngày, thế giới đã ngàn năm” (山中方
七日,世上已千年 sơn trung phương thất nhật, thế thượng dĩ thiên niên).
… Phí Trường Phòng chỉ ngao du hồ lô chưa đến một ngày đã trở về. Người
nhà của ông không nhận ông, cho rằng ông đã chết từ bấy lâu rồi. Thì ra, thời gian
đã trôi qua hơn một năm.
Trong một cố sự Đạo giáo khác, hai đạo sĩ Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên tiên
đài, sống với các tiên nữ chỉ non nửa năm mà khi trở lại hạ giới, thời gian đã hơn
10 đời trôi qua [Trình Tường 2001: 122-123]. Từ điểm này chúng ta hiểu được vì
sao các đạo sĩ thường lên non tu tiên ở những nơi “sơn cùng thuỷ tận”, đặc biệt là
các “tiên động” (hang động) mà lối ra vào đều rất hẹp.
- Biểu trưng linh thiêng: một số tộc người vùng Tây Nam như Di, Miêu,
Thuỷ, Cách Lao còn lưu truyền tục lấy hồ lô vẽ thành đầu rồng hay mộc hồ
treo ở cửa ra vào với mục đích xua đuổi tà ma [www.china.com]. Khi cúng
tế tổ tiên, một số dân tộc thiểu số mang hồ lô treo ở phía trước đàn tế, ngụ ý
cấm người lạ vào nhà [Lâm Hà, 2001:145]. Trẻ em đeo chiếc hồ lô nhỏ
trước ngực làm bùa và hi vọng đứa bé ấy sẽ có em trai, em gái về sau. Vào
ngày tết Đoan Ngọ, người dân mang hồ lô ra treo ngược trên đòn giông nhà,
đợi đến giữa trưa thì mang xuống vứt đi, ngụ ý hồ lô hút hết độc khí, ám
khí, hút hết xui xẻo.
3.1.2. Tính đa dụng
Tất cả các biểu trưng trên đây của hình ảnh chiếc hồ lô trong văn hoá đã tạo
nên tính đa dụng của nó. Hình ảnh chiếc hồ lô vừa gần gũi, giản dị, phàm tục lại
vừa linh thiêng, gợi vào lòng người một ý niệm xa xôi của biểu tượng thần tiên.
Chiếc hồ lô xuất thân từ đời sống thường nhật của tầng lớp dân dã, qua bàn tay chế
tác, khắc vẽ khéo léo của nghệ nhân đã trở thành những vật thưởng ngoạn của cả
22
tầng lớp quí tộc lẫn bình dân. Hồ lô vừa là một dụng cụ đắc lực trong đời sống
thường nhật (bình đựng, dụng cụ gieo trồng, v.v.) vừa là biểu tượng của tâm linh.
Hồ lô mang trong mình nhiều ý nghĩa thiết thực nhưng cũng không kém phần triết
lí: biểu trưng của linh hồn tổ tiên; của phúc lộc; của nữ tính; của ước vọng phồn
thực; của ước vọng viên mãn, sung túc…
3.1.3. Tính phổ biến
Với các tính năng đặc thù của mình, hình ảnh chiếc hồ lô đã trở thành biểu
tượng văn hoá của hàng loạt các tộc người tại Trung Hoa. Nó không chỉ là sản
phẩm văn hoá của riêng tộc người nào, mà là thứ linh vật chung của cả khối cộng
đồng. Xét về phân bố không gian, quả hồ lô được trồng rộng khắp cả vùng Nam
Dương Tử, vùng Tây Nam Trung Quốc và một số nơi ở Hoa Bắc. Với đặc tính dễ
trồng, dễ sinh sôi, dễ thu hoạch, hồ lô tư nhiên đã trở nên rất phổ biến trong số các
loại cây rau, củ, quả tại các địa phương. Xuất phát từ phạm vi không gian rộng
như thế, khi hồ lô trở thành một thứ biểu tượng, nó hiện diện khắp nơi tại các vùng
có trồng hồ lô. Xa hơn thế, qua quá trình giao lưu - truyền bá văn hoá, hình ảnh
chiếc hồ lô văn hoá đã lan rộng khắp đất nước Trung Hoa.
Tại Đông Nam Á, hình tượng hồ lô sinh sôi cũng xuất hiện rộng rãi trong văn
hoá các dân tộc với nhiều hình tượng bầu bí. Công năng và nghĩa văn hoá của
chiếc hồ lô cũng phong phú như ở Trung Hoa. Tại Việt Nam, tiêu biểu là vùng văn
hoá Tây Nguyên, người dân vẫn dung bình hô lô để đựng rượu, thuốc và các vật
dụng cần thiết khác. Trong văn hoá người Việt, hình ảnh chiếc hồ lô sinh sôi được
thay thế bằng một loại hình tượng gắn với tình đoàn kết các dân tộc anh em: sự
tích quả bầu sinh ra các tộc người Việt Nam.
3.2. Chất phương Nam trong biểu tượng hồ lô
Xét về mặt không gian, hình tượng hồ lô phát sinh đầu tiên ở những vùng trồng
trọt hồ lô tự nhiên. Tại Trung Hoa, đó là các vùng đất tương đối ẩm ướt, thuộc các
đới khí hậu ôn đới ấm, cận thiệt đới tại lưu vực Dương Tử, Hoa Nam, Hoa Trung,
cao nguyên Vân Quý v.v.. Các khu vực này trong lịch sử là vùng đất cư trú của
các cộng đồng cư dân phi Hán như Miêu Man, Bách Bộc và Bách Việt. Cả ba
cộng đồng này đều mang nguồn gốc nông nghiệp phương Nam. Điều này cũng dễ
dàng lí giải, bởi vì hồ lô (bầu bí) là sản vật phổ biến của nền văn minh gieo trồng
Đông Nam Á cổ. Chỉ mãi về sau, khi mà kĩ thuật canh nông của người Trung Hoa
đã tiến bộ, người ta đã cho lai giống hồ lô và đem gieo trồng ở một số vùng đồng
23
bằng Hoàng Hà và Trung Nguyên [Triệu Thân, 2001:87]. Ngày nay, các vùng quê
Ngũ Lĩnh, Hải Nam vẫn trồng giàn hồ lô trước cửa nhà vừa cung cấp một lượng
thực phẩm nhất định vừa thể hiện ước vọng phồn sinh.
Xét về mặt chủ thể, trong số 26 dân tộc thiểu số ở Trung Quốc có tục sùng bái
hồ lô được khảo sát thì đa phần là các tộc người thiểu số sống rải rác ở khu vực
Ngũ Lĩnh và cao nguyên Vân Quý. Ngay ở tộc người Hán thì việc sử dụng hồ lô
làm biểu tượng văn hoá cũng chỉ phổ biến nhất tại miền Nam. Quá trình cộng cư,
hợp chủng và giao thoa văn hoá đã “trao tay” cư dân người Hán truyền thống quí
trọng và sùng bái hồ lô.
Xét trên bình diện văn hoá dân gian thì hai lĩnh vực tín ngưỡng - tôn giáo và
thần thoại thể hiện nhiều chất phương Nam nhất của hình tượng hồ lô. Trong tín
ngưỡng - tôn giáo, thực tế tục sùng bái hồ lô gắn liền với tục sùng bái Phục Hy -
Nữ Oa, sùng bái Bàn Hồ thần, sùng bái biểu tượng phồn thực v.v. phổ biến nhất ở
vùng văn minh gieo trồng Nam Dương Tử. Đích xác hơn, các tín ngưỡng này thể
hiện sâu sắc và gần với thời viễn cổ nhất trong văn hoá dân gian của các dân tộc
thiểu số Nam Man, chẳng hạn như người Cơ Nặc ở Vân Nam, người Di ở cao
nguyên Vân Quý và lòng chảo Tứ Xuyên, người Lê ở Hải Nam, người Choang ở
Quảng Tây v.v.. Với tố chất nông nghiệp, cư dân Nam Trung Hoa vốn có tư duy
trừu tượng, tổng hợp ở mức cao đã “biến” chiếc hồ lô thiên nhiên trở thành một
thứ linh vật, một biểu tượng tâm linh, văn hoá. Còn trong tôn giáo, chỉ có Đạo
giáo và Phật giáo tiếp nhận hình tượng hồ lô một cách tích cực, sâu sắc, đặc biệt là
Đạo giáo. Hồ lô gắn liền với thế giới thần tiên, nơi chứa đựng bí quyết trường sinh
bất lão, báu vật của các đạo sĩ. Đạo giáo hình thành ở phương Nam nên triết lí - tư
tưởng của Đạo giáo thấm đượm tinh thần phương Nam, gần gũi với cuộc sống cư
dân phương Nam. Ngược lại, Nho giáo - sản phẩm của tư duy quan phương
phương Bắc - lại coi hồ lô là một thứ vặt vãnh, coi tục sùng bái hồ lô là một thứ
“dị đạo” [Từ Kiệt Thuấn, 2001:98]. Còn trong thần thoại thì như đã chứng minh
trên, không nơi nào ở Trung Hoa bằng vùng đất phương Nam, hồ lô lại thẩm thấu
vào thần thoại sâu sắc đến vậy, phổ biến đến vậy. Hơn thế nữa, thần thoại hồ lô
Nam Trung Hoa phong phú về chi tiết song có chung những motif sản sinh hoặc
cứu sinh, tái tạo nhân loại như ở truyền thống các dân tộc Đông Nam Á cổ khác.
24
Với tất cả các phân tích trên, hình tượng hồ lô đã, đang và sẽ mãi là biểu tượng
văn hoá đặc sắc của các cư dân phương Nam gắn liền với nền văn minh gieo trồng
Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung Kính Văn, Hồ lô là loại bầu “nhân văn”, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì,
Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
2. Dịch Mưu Viễn, 1994, Tổ tiên dân tộc Trung Hoa có phải là Phục Hy và Nữ
Oa trong hồ lô linh tổ của dân tộc Di?, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, Kì 3, tr.
33-39.
3. Diệp Minh Giám, 1993, Bùa hộ thân Trung Quốc, Nxb. Hoa Thành.
4. Du Tu Linh, Thế gia hồ lô, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì,Lưu Tích Thành (cb),
2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
5. Kì Mộ Lâm, Về thần thoại hồ lô, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành
(cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
6. Lâm Hà, 2001, Văn hoá hồ lô và thần thoại hồ lô, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì,
Lưu Tích Thành (cb), Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
7. Lương Duy Thứ (cb), 2000, Đại cương văn hoá phương Đông, Nxb. ĐHQG
TP.HCM.
8. Lý Lộ Lộ, 2001, Công cụ giao thông đường thuỷ của người Lê ở Hải Nam, Hồ
lô và tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành (cb), Thương vụ ấn thư quán, Bắc
Kinh.
9. Lưu Nhiễu Hán, 1987, Nói về văn hoá hồ lô Trung Hoa, Luận đàn văn học dân
gian, Kì 3, Đăng lại trên Hồ lô và tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành (cb),
2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
10. Nguyễn Đức Hiệp, 2007, Đài Loan và cội nguồn Bách Việt, Website:
www.vanhoahoc.edu.vn.
11. Sơn Mạn, Vị trí dân tục của văn hoá hồ lô, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì, Lưu
Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
12. Thạch Kiện Trung, 1992, Thần thoại Bàn Hồ và nguồn gốc người Miêu, Học
báo Học viện Dân tộc Trung Nam, Kì 1, tr. 50-53.
13. Tống Triệu Lân, Công năng của hồ lô và kĩ thuật trồng, Hồ lô và tượng trưng,
Du Kì, Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
14. Trần Ngọc Thêm, 2004, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh, Lần 1: 1996.
15. Triệu Thân, Lược đàm văn hoá hồ lô Trung Hoa, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì,
Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
16. Trình Tường, Văn hoá hồ lô và ý thức vũ trụ của người Trung Quốc, Hồ lô và
tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc
Kinh.
25
17. Từ Kiệt Thuấn, Văn hoá hồ lô Trung Quốc dưới góc nhìn nhân loại học, Hồ lô
và tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán,
Bắc Kinh, tr. 91-106.
18. Văn Nhất Đa, Phục Hy và hồ lô, Hồ lô và tượng trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành
(cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
19. Vương Thế Tương, Nghiên cứu điều tra về văn hoá hồ lô, Hồ lô và tượng
trưng, Du Kì, Lưu Tích Thành (cb), 2001, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.
20. www.china.com.cn/chinese/zhuanti/zgnwh/432407.html
21. www.cwineasy.com/hulu/index.html
22. www.nikerchina.com/minyicaifeng/ququhulu2.html
23. http://news.xinhuanet.com
Bài đăng trên Tập san Khoa học xã hội & Nhân văn. số 40.