Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
-
Upload
longvanhien -
Category
Education
-
view
850 -
download
9
Transcript of Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội===========
Dân ca của người Lô Lô và vận dụng vào công tác
thông tin tuyên truyền hiện nay ở Đồng Văn - Hà Giang
Khoá luận tốt nghiệp đại học
_______________
Sinh viên: Phạm Thị LanNgười hướng dẫn: TS. Phạm Việt Long
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
LỜI CẢM ƠN
Qua một quá trình nghiên cứu và khảo sát thực địa, đề tài "Dân ca của
người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở
Đồng Văn - Hà Giang" đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của
Tiến sĩ Phạm Việt Long, sự giúp đỡ và tạo mọi điều kiện của các thầy, cô
giáo trong khoa Văn hoá dân tộc thiểu số, các cán bộ Trung tâm Văn hoá thể
thao huyện Đồng Văn - Hà Giang, bà con xã Lũng Cú, Huyện Đồng Văn.
Qua đây, người viết xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới thầy giáo TS.
Phạm Việt Long đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn thành khoá luận này.
Xin trân trọng cảm ơn Trung tâm Thư viện trường Đại học Văn hoá
Hà Nội, sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Hà Giang, phòng Văn hoá - Thông tin
xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn và một số bản làng đồng bào nơi tôi nghiên
cứu, khảo sát về dân ca.
Do thời gian cũng như trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy, kính mong các thầy cô giáo và các
bạn đóng góp ý kiến để công trình được hoàn chỉnh hơn.
Một lần nữa người viết xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Thị Lan
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Văn hoá chính là nền tảng để xây dựng một xã hội phát triển toàn
diện. Là một quốc gia có 54 dân tộc cư trú ở mọi miền đất nước, với cội
nguồn lịch sử, tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán mang những đặc
trưng khác nhau nên đời sống văn hoá nói chung cũng rất đa dạng. Mỗi dân
tộc đều có những đóng góp tích cực vào việc làm phong phú cho vốn văn
hoá của đất nước Việt Nam. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu về văn hoá
của các dân tộc thiếu số là điều rất cần thiết.
Cũng như nhiều dân tộc khác, dân tộc Lô Lô có bề dày truyền thống
văn hoá và rất giàu về vốn văn hoá dân gian. Vối văn hoá dân gian ấy ra
đời cùng với sự hình thành của dân tộc, được nuôi dưỡng trong môi trường
sinh thái tự nhiên, môi trường kinh tế xã hội.
Một trong những nét tiêu biểu về văn hoá nghệ thuật của người Lô Lô
là dân ca. Người Lô Lô coi dân ca của dân tộc mình như một món ăn tinh
thần không thể thiếu được. Dân ca của dân tộc Lô Lô đã tạo nên sự gắn kết
cộng đồng, có mặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Lô Lô.
Trong thời kỳ đất nước đổi mới như hiện nay, một thời kỳ mở cửa
với nền kinh tế thị trường, sự du nhập và giao thoa về kinh tế đã ảnh hưởng
không nhỏ đến nền văn hoá. Trong văn hoá nói chung, văn hoá truyền
thống ngày càng mờ nhạt dần đi, thay thế vào đó là văn nghệ hiện đại với
dòng nhạc trẻ ngoại lai mà lớp thanh niên ưa thích rồi lãng quên văn nghệ
dân gian truyền thống của dân tộc mình. Vì vậy, công tác thông tin tuyên
truyền hiện nay, đặc biệt đối với một huyện miền núi như Đồng Văn, đã
được các cấp các ngành rất quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể,
với nhiệm vụ quan trọng là tuyên truyền những chủ trương, chính sách,
đường lối của Đảng tới bà con vùng sâu, vùng xa, trên địa bàn huyện.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tuyên truyền bằng nhiều hình thức, trong đó tuyên truyền bằng hoạt động
văn nghệ là rất quan trọng. Tuy vậy, ở Hà Giang, trong công tác tuyên truyền,
việc vận dụng các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian cho phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội của từng dân tộc, từng địa bàn xã chưa được quan tâm
đầy đủ nên chưa thu được kết quả cao. Vì vậy người viết chọn đề tài: "Dân ca
của người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở
Đồng Văn - Hà Giang" làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp, với mong muốn
củng cố kiến thức trong thời gian học tập tại trường, làm cơ sở ban đầu cho
việc vận dụng lý luận, lý thuyết vào thực tiễn công tác tại địa phương.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tương: Dân ca Lô Lô
2. Phạm vi: Dân ca Lô Lô ở huyện Đồng Văn - Hà Giang và việc sử
dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền.
III. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã dân tộc học là phương pháp mà người viết sử
dụng chủ yếu để thủ thập tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (xã hội học, văn hoá học, văn
học).
- Phương pháp miêu tả, so sánh, phân tích tổng hợp để xử lý tư liệu
thu được.
IV. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các giá trị nghệ thuật và vị trí của dân ca Lô Lô trong các
dân tộc thiểu số.
Đề xuất ý kiến về việc sử dụng dân ca Lô Lô vào hoạt động thông tin
tuyên truyền.
Góp phần khẳng định giá trị của dân ca dân tộc Lô Lô và cho thấy
dân ca có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện đại.
V. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, con người ở Đồng
Văn - Hà Giang
Chương 2: Đặc điểm dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang
Chương 3: Sử dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên
truyền
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI
Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG
1.1 Điều kiện tự nhiên
Đồng Văn là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Hà Giang, nằm
ở điểm cực Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý
trong tọa độ từ 23006' đến 230 -21' - 17'' vĩ bắc, 1050 - 24'-40'' kinh đông,
phía Bắc và Tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài
đường biên giới quốc gia 52,5 km, phía Nam giáp huyện Yên Minh, phía
Đông giáp huyện Mèo Vạc. Huyện có 18 xã và 1 thị trấn.
Huyện có diện tích tự nhiên là 44.666 ha, trong đó 11.837 ha là đất
sản xuất nông nghiệp. Diện tích núi đá chiếm 73,49%. Địa hình phức tạp,
có nhiều núi cao, vực sâu chia cắt. Nhiều ngọn núi cao như Lũng Táo
1.911m, Cán Tỷ 1.491 m án ngữ phía Tây và phía Nam với dãy Mã Pì
Lèng dựng đứng bên bờ sông Nho Quế làm cho địa hình khó khăn về đi lại,
giao lưu, tạo nên sự cách biệt giữa các vùng và trong sự nghiệp mở mang,
phát triển kinh tế, văn hoá. Độ cao trung bình 1.200m so với mặt nước
biển. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông.
Nhiệt độ trunh bình hàng năm từ 170 - 190C. Do địa hình núi cao, chia
cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt, nhiều vùng khác nhau (khí hậu tiểu
vùng). Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.600mm đến 2.000 mm. Một
năm chia làm 2 mùa: Mùa mưa từ tháng 5 - 10, vào mùa này mưa lớn, núi đá
có độ dốc cao xói lở mạnh, chia cắt, đi lại khó khăn. Mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, thường có sương mù, sương muối. Ở một vài tiểu vùng
nhiệt độ có lúc xuống tới 40 - 50 như ở Lán Xì, Phó Bảng… Thời tiết khí hậu
khắc nghiệt vào mùa đông (tháng 11,12) nhiều ngày có tuyết và sương muối
phủ. Mùa đông ít mưa, khô lạnh, địa hình kiến tạo núi đá vôi, rừng nguyên
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
sinh cạn kiệt, khí hậu thuỷ văn khắc nghiệt làm cho khan hiếm nguồn nước
sinh hoạt và sản xuất, gây khó khăn cho cuộc sống của con người.
Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các
dẫy núi phía Tây Bắc của huyện, chảy qua Malé. Đồng Văn sang Mèo Vạc
và Bắc Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn sinh thuỷ quốc tế
trong phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt và điều hoà
khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra còn có các dòng
suối nhỏ như Lũng Táo chảy về Yên Minh, suối Đồng Văn, suối ở Phó
Bảng, Phố Là mùa mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời
trên địa bàn hình núi đá vôi để lại những thắng cảnh đẹp cho Đồng Văn.
Địa hình đá vôi cũng làm cho Đồng Văn thiếu nước sinh hoạt và tưới tiêu
nghiêm trọng. Thời tiết khí hậu Đồng Văn mang tính ôn đới, thích hợp
trồng các loại cây ăn quả và cây thuốc như: đỗ trọng, huyền sâm, xuyên
khung, ý dĩ, thảo quả… Đồng Văn có giống chè ngon nổi tiếng phù hợp với
vùng đất Lũng Phìn.
Rừng Đồng Văn có thảm thực vật phong phú, thích hợp cho sự phát
triển nhiều loại như: cây dẻ, sồi, thông đá, pơmu… nhưng do bị khai thác
bữa bài nên đã cạn kiệt. Động vật có các loại như: sóc, gà lôi, nhím, trăn,
rắn, tê tê… Do không còn rừng và nạn săn bắn nên nhiều loài gần như tuyệt
chủng. Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa phát hiện ra loại nào có trữ
lượng lớn và giá trị cao. Tuy nhiên đây cũng là vùng đất ấn tượng với
những địa danh như Cột cờ, Lũng Cú, những phong tục tập quán riêng của
người dân, với những dãy núi đá tai mèo, với di tích lịch sử nhà Vương...
Tất cả được hội tụ tạo nên cao nguyên đá Đồng Văn mang những giá trị địa
lý, môi trường đặc sắc nơi cực Bắc Tổ quốc.
1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đồng văn có dân số khoảng 5,7 vạn người, với 17 dân tộc anh em
như: Mông, Dao, Lô Lô, Tày, Giấy, Cờ Lao, Pu Pèo,.. các dân tộc sống xen
kẽ ở 220 xóm bản, trong đó dân tộc Lô Lô có khoảng 500 người.
2.1.1. Lịch sử tộc người Lô Lô
Người Lô Lô có mặt từ bao giờ trên lãnh thổ Việt Nam và họ có phải
là cư dân của vương quốc Nam Chiếu cổ đại không? Câu hỏi lớn này
dường như đã được nhắc đến nhiều lần, nhưng vẫn chưa được giải quyết
một cách triệt để. Tuy vậy, qua nhiều nguồn sử liệu cho thấy, dân tộc Lô
Lô có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, ít ra là khoảng trên dưới 500 năm. Đồng
bào đến Việt Nam qua nhiều đợt thiên di bởi ở quê cũ có chiến tranh, loạn
lạc và họ bị đàn áp nặng nề hoặc bị mất mùa đói kém, bệnh dịch... Đến Việt
Nam, người Lô Lô đã có công khai khẩn đất đai ở vùng cao biên giới núi
đá Hà Giang và Bảo Lạc (Cao Bằng). Công lao của người Lô Lô được các
dân tộc ở Hà Giang, Cao Bằng luôn ghi nhận trong cõi tâm linh sâu thẳm
của tập quán. Việt Nam là quê hương lâu đời của người Lô Lô, đồng bào là
một trong những thành phần dân tộc cấu thành Đại gia đình các dân tộc
Việt Nam.
Người Lô Lô ở Việt Nam có 3.350 người cư trú ở 2 tỉnh Hà Giang
vào Cao Bằng, gồm hai ngành Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa; ở Hà Giang đều
có cả hai nhóm tộc người đó. Hai nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa khác
nhau về trang phục, còn ngôn ngữ và phong tục tập quán không có gì khác
biệt nhiều.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang
Những vùng người Lô Lô sinh sống hầu hết là núi đá, đất dốc, ruộng
không nhiều, phần lớn là những ruộng cạn trên một vùng quanh năm thiếu
nước cho nên chỉ cấy được một vụ rồi bỏ hoang. Gần đây được sự giúp đỡ
của chính quyền, bà con trồng thêm một vụ đông với các loại rau cải, đậu
hoặc ngô vụ đông xuân.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Do điều kiện diện tích đất gieo trồng thấp và khí hậu khắc nghiệt nên
đòi hỏi phải có những biện pháp kỹ thuật để tăng hiệu suất canh tác. Chính
điều đó đã khiến cho người Lô Lô được biết đến như những người giỏi kỹ
thuật canh nông. Từ lâu, kỹ thuật thâm canh của đồng bào Lô Lô cũng như
hầu hết cư dân của vùng cao phía bắc Hà Giang đã trở nên nổi tiếng.
Nương đá dốc nên phải be đá làm bờ trên nương đá để chống rửa trôi đất,
đồng thời đắp bờ giữ ẩm, giữ màu và bón phân cho đất. Bộ nông cụ đồng
bào dùng là bộ nông cụ phổ biến đối với các cư dân vùng cao núi đá phía
Bắc Hà Giang.
Cây trồng chính của người Lô Lô là lúa, ngô, tam giác mạch. Ngoài
ra còn xen kẽ bầu, bí, rau, đậu... Nghĩa là hầu hết các loại cây trồng khác
nhau thích hợp với chế độ thổ nhưỡng, thuỷ văn của khu vực vùng núi cao
đều được gieo trồng ở nơi mà đồng bào Lô Lô sinh sống.
Vào tháng 2 âm lịch, đồng bào bắt đầu cày ruộng màu và xới đất thổ
canh hốc đá. Đất này được phơi ải đồng thời chuẩn bị sang cuối tháng 3 âm
lịch người ta đốt cỏ trên nương đá và xới lại đất để tra hạt. Giống ngô địa
phương dài ngày là giống ngô có khả năng chịu hạn, chịu rét và cho năng
suất cao. Như hầu hết các cư dân vùng cao, kỹ thuật trồng ngô hốc đá
không thể làm khác hơn là chọc lỗ tra hạt. 6 tháng sau thì ngô cho thu
hoạch. Lúc này nhà nào có ruộng lúa thì cũng vào thu. Nhờ biết xen canh
(tra ngô lẫn với các loại rau đậu), gối vụ (ngô với tam giác mạch hoặc với
đậu) nên đồng bào có thể tận dụng được khả năng tối đa của đất đồng thời
tạo ra lớp phủ thực vật dày chống xói mòn.
Có thể coi dân tộc Lô Lô là những cư dân nông nghiệp có khả năng
thích ứng cao với điều kiện môi trường. Ngoài trồng trọt, họ còn nuôi nhiều
gia súc, gia cầm để giải quyết sức kéo và nhu cầu thực phẩm thiết yếu.
Ngành nghề thủ công ở người Lô Lô ít phát triển hơn so với các tộc người
khác. Nhưng đồng bào lại nổi tiếng bởi nghề may vá thêu thùa. Những bộ
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
trang phục nữ Lô Lô có thể coi là những sản phẩm độc nhất vô nhị trên
vùng cực bắc Hà Giang.
1.2.3. Phong tục tập quán
* Về ăn uống
Bữa ăn phản ánh rất rõ tập quán sản xuất và hoàn cảnh kinh tế.
Lương thực chính là mèn mén làm từ bột ngô đồ như những tộc người vùng
cao khác. Cơm gạo hiếm nên chỉ dùng trong những ngày lễ tết và để dành
cho người ốm, trẻ nhỏ, phụ nữ mới sinh. Giống như người Mông, người Lô
Lô xay ngô bằng một loại cối đá lớn thành bột mịn rồi đem đồ trong một
cái chõ lớn. Khi gần chín, bột ngô được đổ ra một cái nia, vẩy nước trộn
đều lại rồi đồ tiếp lần hai cho chín kỹ. Trong bữa ăn phải có thêm canh rau.
Các loại thực phẩm như thịt, cá không phải lúc nào cũng sẵn do chăn nuôi
khó khăn. Đồng bào thường dùng thức ăn thịt, cá khi nhà có khách, có công
việc, có tế lễ… Phần lớn thức ăn được cất trữ từ những dịp tết cuối năm, đó
là các loại thịt lợn, thịt trâu, bò tẩm ướp muối, gia vị rồi treo lên gác bếp
làm thức ăn dần trong cả năm.
Người Lô Lô còn tự chưng cất rượu từ ngô, dùng men lá tự chế hay
men thuốc bắc mua của những người Hán. Cũng như nhiều cộng đồng cư dân
khác, đối với người Lô Lô rượu là một loại đồ uống không thể thiếu trong
những mâm cỗ cúng tế và cũng là thứ dùng hàng ngày của đàn ông để chống
mỏi mệt sau khi làm việc nặng nhọc hoặc khi tiếp đãi bạn bè, khách khứa.
Ngoài ra còn phải kế đến một loại thuốc hút tự trồng. Đó là một loại thuốc lá,
giống địa phương, được trồng phổ biến trong nhiều cộng đồng cư dân khác
nhau.
* Về mặc:
Người Lô Lô ở Hà Giang có cả nhóm Lô Lô Hoa (Màn Dì Qua) và
nhóm Lô Lô Đen (Màn Dì No). Trang phục của hai nhóm này cơ bản giống
nhau, điều khác chủ yếu là có nơi phụ nữ mặc áo cổ vuông chui đầu (pon
cho) có nơi mặc áo cổ tròn xẻ ngực, kỹ thuật tạo dáng áo của phụ nữ có nơi
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
thân áo rộng thẳng, tay áo rộng, có nơi thân áo phía dưới thu nhỏ lại, tay áo
hẹp...
Trang phục nam Lô Lô cũng giống như phần lớn các cộng đồng khác
trong vùng: Đó là chiếc quần chân què lá toạ, đũng và ống đều rộng, áo
cánh bằng vải thô, vải bông, hoặc vải lanh nhuộm chàm đen. Đây cũng là
trang phục người đàn ông Mông thường mặc. Đàn ông Lô Lô còn thường
quấn một chiếc khăn nhuộm đen trên đầu.
Đối lập với trang phục đơn giản của đàn ông, trang phục của phụ nữ
Lô Lô thực là một kỳ công. Chất liệu thì vẫn là những loại vải sợi bông
hoặc lanh tự dệt ở địa phương (ngày nay đồng bào còn dùng cả vải công
nghiệp để may trang phục cổ truyền).
Phụ nữ Lô Lô đen mặc áo cổ vuông chui đầu, quanh thân áo có thêu
nhiều hoa văn hình chim. Tay áo được hình thành từ nhiều vòng vải màu
khác nhau. Váy có hai lớp chiết ly ở dưới cạp đến gần đầu gối. Trùm phía
sau váy còn có một mảnh vải được trang trí bằng các hàng cúc hoặc đồng
tiền ở xung quanh. Ngoài ra chị em còn mang xà cạp ống màu đen.
Bộ nữ phục Lô Lô hoa có nhiều điểm khác biệt. Trước hết về cấu
tạo, đó là một bộ đồ gồm nhiều thứ. Chiếc áo cánh ngắn, cổ tròn, xẻ ngực
với các hoa văn hình học được tạo nên bằng cách ghép các miếng vải nhiều
màu sắc trang trí dọc thân áo cả phía trước ngực và phía sau lưng. Tay áo
ống chẽn được tạo bằng nhiều vòng vải màu khác nhau. Phụ nữ Lô Lô hoa
mặc quần. Chiếc quần ống què được trang trí nhiều mảnh hoa văn ghép vải
hình tam giác thành từng mảnh vuông lớn chạy quanh ống quần. Mảnh vải
trùm phía sau (tú xô) và thắt lưng có đính các tuy hạt cườm ngũ sắc. Chiếc
xà cạp của chị em là xà cạp quấn giống với phụ nữ Mông chứ không dùng
xà cạp ống như phụ nữ nhóm Lô Lô đen.
Đồ trang sức của phụ nữ Lô Lô gồm có nhiều loại vòng trong tay,
vòng cổ, dây chuyền bằng bạc hoặc nhôm. Bình thường có thể họ không
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
mang trang sức, nhưng trong ngày lễ, tết họ thường mặc đầy đủ bô trang
phục và mang trang sức.
* Về cư trú
Làng bản
Trong cùng địa bàn sinh sống thì người Lô Lô thường ở các khu vực
riêng thành từng làng xóm riêng mà các tộc người khác gọi là Lô Lô chải
(xóm hay làng Lô Lô). Mỗi xóm Lô Lô thường có từ năm, sáu hộ đến năm,
sáu chục hộ. Đồng bào làm nhà theo hướng tự chọn của gia chủ, nhưng
thường tựa lưng vào núi, cửa trông ra thung lũng hoặc ruộng nương. Trong
làng Lô Lô không có đình miếu chung nhưng thường quy định những khu
rừng chung cấm không ai được chặt phá. Nước sinh hoạt cũng thường là
nơi công cộng cả của cả xóm, đó thường là một bể chứa nước dẫn trên núi
về song rất hiếm nơi như vậy, chủ yếu vẫn là chứa nước tích trữ từ mùa
mưa.
Nhà cửa
Ngôi nhà của người Lô Lô thường là nhà đất trình tường 3 gian lợp
ngói hoặc gianh. Kết cấu khung nhà dựa trên các vì kèo gỗ kết cấu xà
ngang, xà dọc gác trên đầu ba hàng cột, hai bộ vi làm thành gian giữa, hai
bên hồi trần cột, kèo gác lên tường đất. Nhà thường chỉ có một cửa phụ ở
đầu trái nhà của gian bên để đi ra vườn. Cửa chính là nơi cấm mang những
đồ uế tạp qua và cũng cấm phụ nữ mới sinh đi qua cửa này. Có một sàn
lửng làm thành gác trên là kho chứa lương thực dự trữ và các đồ gia dụng.
Về cơ bản, ngôi nhà Lô Lô giống với ngôi nhà người Mông. Điều cơ bản là
sự bố trí bên trong có nhiều điểm không giống nhau. Bàn thờ trên vách của
gian giữa đối diện với cửa ra vào của người Lô Lô thật độc đáo, vì nó gồm
cả những miếng gỗ, tre vẽ các hình nhân (vẽ đơn giản bằng tro than). Đó là
tượng trưng cho các thế hệ tổ tiên được thờ. Người ta kiêng không cho phụ
nữ mới sinh đi qua bàn thờ, vì như vậy sẽ gây uế tạp. Gian giữa còn là nơi
tiếp khách hoặc bố trí cho khách nghỉ lại. Thường thì ông bố và các con trai
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
lớn trong nhà có thể ngủ tại đây. Bà chủ và các con gái ngủ ở hai gian bên.
Nơi gian có bếp lò thường cũng là nơi được đặt bàn thờ những người chết
bắt đắc kỳ tử. Đây lại là nơi rất linh thiêng, đến mức trừ chủ nhà ra người
ngoài không được phép lai vãng tới.
* Tôn giáo, tín ngưỡng
Thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là phong tục lâu đời của người Lô Lô theo quan
niệm truyền thống của đồng bào thì tổ tiên là ông bà, cha mẹ... đã sinh
thành, nuôi dưỡng mình và đã qua đời. Họ phân chia tổ tiên thành hai bậc:
Tổ tiên gần gọi là duỳ khế gồm những người từ 3 đời trở lại (cha mẹ, ông
bà, cụ…) đã qua đời. Tổ tiên xa là những thế hệ tổ tiên trên bậc duỳ khế
cách mình từ 4-5 đời trở lên. Bậc tổ tiên xa này gọi là pờ xi.
Phong tục Lô Lô chỉ lập bàn thờ duỳ khế, còn pờ xì chỉ còn đọng lại
ở tâm tưởng kính trọng biết ơn của lớp con cháu. Vì thế, nhà người Lô Lô
nào cũng có bàn thờ duỳ khế. Bàn thờ được tạo ra bằng miếng gỗ hoặc nóc
tủ kê sát vách của gian chính đối diện với cửa chính trên đó có đặt bát
hương để cắm hương khi hành lễ. Đặc biệt trên bàn thờ có đẽo các miếng
gỗ hình nhân, trên đó có vẽ mặt với đầy đủ mắt, mũi, mồm... tượng trưng
cho người đã quá cố, cắm theo từng thế hệ một. Nếu người quá cố chỉ có
một vợ một chồng thì cắm hai hình nhân; nếu họ có tới hai vợ thì cắm ba
hình nhân, nhưng nếu ông bố chết mà bà mẹ vẫn còn thì lại cắm ba hình
nhân… Các hình nhân tượng trưng cho tổ tiên này được cài vào vách bàn
thờ theo thứ bậc thế hệ tính từ trái sang phải. Đầu tiên là bố mẹ, rồi đến ông
bà và cuối cùng là các cụ sinh ra ông bà. Phần nhiều các bàn thờ tổ tiên của
người Lô Lô cũng chỉ thể hiện đến đời thứ ba cách gia trưởng. Nên người
lạ đến nhà người Lô Lô nhìn vào bàn thờ tổ tiên của họ là người ta có thể
biết được bố mẹ của chủ nhà còn hay mất, tình trạng hôn nhân của các thế
hệ trước của chủ nhân ra sao và chủ nhân có phải là trưởng tộc họ hay
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 13
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
không… Cách bày đặt bàn thờ tổ tiên của người Lô Lô thật độc đáo, là nét
văn hoá chưa thấy ở các dân tộc khác ở Việt Nam.
Việc cúng lễ tổ tiên của đồng bào được tiến hành vào dịp tết nguyên
đán, tết tháng 7 và những dịp trong nhà có các công việc lớn như nhà mới,
dựng vợ gả chồng cho con… họ đều dâng lễ cúng trình tổ tiên. Nếu trong
nhà có người ốm họ cúng tổ tiên để cầu xin tổ tiên che chở, phù hộ độ trì.
Lễ vật cúng là gà, cơm, hoa quả, rượu, thắp hương. Tuy nhiên hành lễ ở
nhà người trưởng họ (thấu chủ) là chính.
Đối với tổ tiên xa pơxi, việc thờ cúng không có quy định gì chặt chẽ.
Như đã nói người Lô Lô thường chỉ thờ ba đời. Khi có một đời tiếp theo
qua đời thì sau khi đưa đám xong, con cháu thịt gà làm mâm cỗ rước hình
nhân bằng gỗ trên bàn thờ tổ tiên của đời cao nhất vào hang núi khô ráo để.
Kể từ hôm đó đời này ra nhập nhóm tổ tiên pơxi và không thờ cúng gì chặt
chẽ nữa. Người già trong nhóm Lô Lô đen ở Lũng Cú Đồng Văn kể rằng,
theo phong tục cổ xưa, thì mỗi nam giới ở đây trong đời phải ba lần đứng
ra tổ chức mổ bỏ cúng pờ xi. Nhưng tập tục này không thấy nhắc đến ở
những vùng Lô Lô khác.
Các nghi lễ liên quan đến sản xuất và sức khỏe
Người già Lô Lô ở Lũng Cú - Đồng Văn kể rằng, cách ngày này
khoảng 50-60 năm làng họ vẫn còn một ngôi nhà chung ở gần giữa xóm,
thờ thổ công, cứ vào tháng 7 dân làng lại làm lễ cúng thổ công, cúng cho tổ
tiên họ và cúng các loại ma xa gần, cầu cho mùa màng tốt tươi, con người
được khỏe mạnh. Theo tục lệ, cứ 2 năm cúng 1 lần thì cúng nhỏ vào ngày
24-7 với lễ vật ít hơn và tổ chức múa hát 3 ngày, nhưng nếu ba năm mối
cúng một lần thì cúng lớn hơn vào ngày 25-7 và tổ chức múa hát 5 ngày
liền. Thanh niên nam nữ mặc quần áo mới và múa hát theo nhịp trống
đồng. Trong những ngày lễ hội dân làng nghỉ việc đồng áng chỉ làm việc
nhà. Suốt những ngày diễn ra đám cúng, ở đầu làng và các đường vào làng
người ta cắm những cây trúc, trên ngọn có cài mấy cái lông gà ám hiệu cho
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 14
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
khách lạ không được vào làng. Khách lạ tới coi như đám cúng không thành
và người đó phải mua lễ vật khác cho dân làng làm lại. Cây nêu ám hiệu
cấm kỵ ở đầu làng và các lối vào làng cũng cấm luôn người dân trong làng
không được ra khỏi làng trong những ngày đó, với quan niệm ra khỏi làng
hoặc khách lạ đến là tha bệnh và tha ma quái vào làng.
Tổ chức cúng chung toàn làng xong, mỗi gia đình lại thịt gà làm cỗ
mang ra ruộng cúng thần đất, thần rừng núi, tổ tiên phù hộ cho mùa màng
tốt tươi, con người được khỏe mạnh.
Trước kia, khi cày cấy xong thì người Lô Lô thịt gà làm lễ mang ra
đầu bờ ruộng cúng ma ruộng, ma rừng, ma sông suối... phù hộ cho mùa màng
tốt tươi. Người Lô Lô cổ xưa có công khai ruộng và diệt sâu bọ cho lúa. Ông
bị chết, dân tưởng nhớ tới ông và tổ chức cúng lễ mỗi khi cày cấy xong.
Khi lúa bị sâu bệnh hoặc hạn hán, các gia đình Lô Lô đóng góp tiền
gạo làm lễ cầu mưa, cầu cho không bị dịch bệnh. Ở Lũng Cú xưa họ lễ
chung ở nhà thờ thổ công trong làng, còn ở Mèo Vạc thì cúng ở ngoài đồng
ruộng. Và quan niệm người đi coi ruộng nương và bị chết. Cúng cho ông
Cù nếu lễ vật thừa không dùng hết thì phải để lạị, sợ mang về thì sự cầu vũ
không thành.
Người Lô Lô còn kể lại rằng, ngày xưa đã lâu lắm rồi cứ vào tháng 4
hay tháng 5 hàng năm, cả làng góp tiền mua một con dê, rồi một vài người
trong xóm dắt dê đi theo sau một thầy mo tay cầm dao. Đoàn người đi lần
lượt hết các nhà trong xóm, đến nhà nào nhà nấy mang hai chén rượu, bát
ngô và hai bó cỏ ngựa tượng trưng với ý nghĩa dâng cho ngựa và đoàn
người nhà trời dùng. Cúng xong thầy mo thu 3 hình nhân mà mỗi nhà đã
làm sẵn đặt ở trước cửa - ý tống tiến ma trời gây bệnh ra đi. Đi hết các nhà
trong làng họ ra cánh đồng gần làng thịt dề làm lễ cúng ma trời. Quan niệm
của người Lô Lô Hoa ở đây thì ma trời có tên là Mùa Puỳ Nậy và ma mặt
trăng là Lo Pọ Nậy. Cúng và ăn uống xong, lễ vật thừa không được mang
về nhà sợ ma trời theo về. Còn các hình nhân thì mang lên núi bỏ.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 15
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Người Lô Lô quan niệm con người ai cũng có vía (xăng luồi) ở ba
trạng thái: quanh quẩn giữ bàn thờ ma nhà, ở trong cơ thể mình hoặc đi
chơi lang thang. Vía đi chơi lang thang lâu thì người sẽ ốm, và vì vậy, phải
cùng gọi vía về. Lễ vật cúng vía là bát gạo, con gà hoặc quả trứng. Thầy
cúng đặt lễ vật ở cửa cúng gọi vía về, cúng xong ở cửa thì cúng ở bàn thờ
tổ tiên, thỉnh cầu tổ tiên bảo ban không cho hồn vía đi xa. Và họ tin rằng,
cúng xong như vậy người ốm sẽ khỏi và khỏe dần.
1.2.4. Văn học nghệ thuật dân gian
Người Lô Lô có một di sản văn học dân gian truyền thống rất phong
phú và độc đáo, gồm truyện cổ, dân cả, tục ngữ, câu đố... Ngoài ra còn là
những điệu dân vũ hết sức đặc sắc thường được thể hiện trong những dịp
hội hè, đình đám và đặc biệt là trong những nghi lễ tang ma. Mặc dù cho
đến nay, số người có thể hát hoặc kể chuyện ngày càng thưa dần và cũng
không thể nào nhớ được nguyên vẹn kho tàng xưa, nhưng một phần lớn di
sản truyền thống lâu nay đã được các nhà nghiên cứu say mê, tâm huyết,
sưu tầm. Kho tàng truyện cổ có thể chưa phải thật sự đồ sồ nhưng đó là
những truyền thuyết, cổ tích giàu tính hình tượng, giàu ý nghĩa nhân văn và
mang nhiều sắc thái riêng. Nếu như trong truyện cổ còn một số yếu tố có
thể coi là sản phẩm chung của quá trình giao lưu văn hoá nhiều tộc người
trong cùng khu vực, cùng địa bàn sinh sống, thì kho tàng dân ca, dân vũ có
thể coi là một hệ thống những làn điệu đặc sắc, độc đáo... biểu hiện những
tâm hồn lãng mạn, giàu trí tưởng tượng nên thơ, bay bổng làm nên bản sắc
riêng mà chỉ người Lô Lô mới có.
1.2.5. Lễ tết
Trong một năm có hai kỳ lễ lớn cũng có thể gọi là 2 cái tết lớn: Tết
cả và tết tháng 7 mà tết cả (tết năm mới) là cái tết tiêu biểu nhất. Xưa đồng
bào ăn tết cả kéo dài suốt từ 30, mùng 1 tết đến tận rằm tháng giêng. Ngày
30 tết nhà nào nhà nấy thịt lợn, để cả con vật mới mổ cúng cho tổ tiên
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 16
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
chứng giám lòng thành, sau đó mới làm mâm cỗ cúng vào tối 30 và ngày
mùng 1 tết. Và cũng chỉ cúng vào ngày mùng 1 và 15 tháng giêng là ngày
cuối cùng của tết năm mới. Những ngày khác của tết chỉ bày rượu, bánh
trái trên bàn thờ và thắp hương.
Người già Lô Lô Lũng Cú kể rằng, xưa ở đây tồn tại một tập tục lạ
gọi là "khù mi" (ăn cắp chơi - ăn cắp lấy may). Tối 30 tết, mỗi gia đình
phải đi ăn cắp cái gì đó và phải lấy cho đủ con số 12. Ví dụ, lấy ngô đủ 12
bắp, lấy gà, lấy gạo, hoa quả cứ đủ con số 12. Đó là con số ứng với 12
tháng trong năm tới may mắn. Nếu mới lấy được 2 hoặc 3,4… tức chưa đủ
12 mà đã bị phát hiện thì bỏ chạy và năm sau, tháng ứng với những con số
phải bỏ chạy thì phải kiêng kị không được làm những công việc lớn sợ rủi
ro. Sáng mống 1 tết kiêng phụ nữ đến nhà, sợ là không may mắn cho cả
năm. Từ mùng 1 đến 15 tháng giêng bà con nghỉ ngơi vui chơi ăn tết, họ
hàng bạn bè đến nhà nhau chúc tết và ngoài bãi cỏ gần làng, người ta tổ
chức các trò chơi đánh cú, đánh bóng chuyến… Đến ngày 15 tháng giêng
hết tết, mọi người thu các mảnh giấy vàng (tượng trưng cho tiền) dán vào
các đồ vật trong nhà ngoài sân hôm 30 tết mang đi đốt, phần để báo hiệu
các đồ vật biết đã hết thời kỳ nghỉ ngơi bắt đầu làm việc và giấy đó cũng
tượng trưng là tiền đố tạ vàng cho ma nhà. Ở nhóm Lô Lô Hoa Mèo Vạc
cũng ăn tết như người Lô Lô Đen ở Lũng Cú, nhưng không thấy nhắc đến
tục "Khù Mi".
Tết tháng 7 xưa ở người Lô Lô Đen Lũng Cú ăn từ 24 đến 29. Ngày
đầu mỗi gia đình làm cỗ cúng bái tổ tiên rồi nghỉ công việc đồng áng suốt 5
ngày liền. Và cả làng xưa còn có tục cúng chung ở miếu nhỏ hơn, chỉ ăn
một ngày. Còn các ngày lễ khác như mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5... có
nơi có, nơi không và nếu có cũng tổ chức nhỏ trong vòng 1 ngày.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 17
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
CHƯƠNG 2ĐẶC ĐIỂM DÂN CA LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG
2.1. Khái quát về dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang
Cùng với trống đồng thì vốn nghệ thuật dân gian ở dân tộc Lô Lô
thật đáng khâm phục. Nó được biểu hiện ở tất cả các mặt trong đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào từ các mẫu hoa văn trên trống đồng, nhất là
trên y phục của phụ nữ, rồi truyện cổ tích, điệu múa, bài ca... Hầu như các
mặt sinh hoạt chủ yếu về vật chất và tinh thần từ dĩ vãng xa xăm cho đến
đời sống thường nhật đều được phản ánh trong dân ca của họ. Qua những
bài ca thần thoại "Trời, đất, con người", "Mẹ trời, mẹ đất" hay "Chuyện
mặt trời, mặt trăng"... phản ánh rõ vũ trụ quan tối thiếu và tinh thần đấu
tranh chinh phục thiên nhiên của họ. Hàng hoạt bài ca ca ngợi tinh thần lao
động cần cù và dạt dào tình yêu cuộc sống. Những mốc lớn của cuộc đời
mỗi con người: Cưới hỏi, tang ma... đã đi vào dân ca một cách hết sức tự
nhiên.
Sinh hoạt dân ca Lô Lô thường vào lúc nông nhàn nhân tuần trăng
sáng, đặc biệt vào dịp trong làng có đám cưới, đám ma. Lời ca làm cho
đám cưới thêm vui và đám ma nhẹ bớt nỗi u buồn và cũng như múa ma, để
tiễn biệt người quá cố về với tổ tiên. Đó là triết lý Lô Lô và trở thành tập
quán.
Dân ca Lô Lô có một đặc điểm chung là đều được sáng tác theo thể
thơ năm chữ và từng cặp hai câu bổ sung nhau.
Ví dụ:
"Sắp đến lúc làm nương
Sắp đến lúc làm ruộng"
Lời ca nhìn chung là mộc mạc, gần gùi với ngôn ngữ hàng ngày. Cái
gây xúc động cho người nghe chính là nội dung bài ca.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 18
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tuy nhiên, nhiều đoạn cũng đã đạt tới trình độ nghệ thuật khá cao.
Ví dụ trong bài "Đón khách":
"Tối nay là tối gì?
Mà thoang thoảng hương bay
Đêm nay là đêm gì?
Mà ấm áp cỏ cây…"
Quan sát lối hát đối đáp trong dân ca của dân tộc Lô Lô ta sẽ thấy có
rất nhiều biểu hiện của tính diễn xướng ở trong đó. Phần nhiều khi người ta
hát dân ca là người ta không lệ thuộc vào sự ngăn cách tuổi tác, cho nên
nhiều người cao tuổi vẫn xưng mình còn "Thanh tân" còn "Đợi chờ"… Vì
vậy trong dân ca dân tộc Lô Lô mới có những bài, những câu:
" Gặp anh em muốn chào
Nhưng lời ca có hạn
Lời ca anh thật lòng
Sao anh không cất giọng
Chưa ca đã thấy thương
Chưa nhìn đã thấy mến
Tiếng ca anh đến đâu
Lời chứa chan đến đó"
Hoặc
"Mình nói mình còn son
Xa cũng biết mình rồi
Chồng con mong mình đó
Còn ta chẳng ai mong".
Như vậy trong dân ca dân tộc Lô Lô chẳng những có tính chất thơ
mà còn có tính chất kịch. Hơn nữa, trong dân ca Lô Lô còn có tính chất tự
sự đi đôi với yếu tố trữ tình. Hai yếu tố đó không thể tách rời nhau cho nên
hầu hết các bài dân ca dù ngắn hay dài cũng thường có yếu tố của một cốt
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 19
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
truyện, đơn giản, trong đó tác giả nêu rõ về thời gian, địa điểm nhân vật và
một số biến cố nhất định, chẳng hạn như:
"Xe chỉ để trao duyên
Ô mở để trao duyên
Chỉ không trao không nhớ
Ô không mở không thương
Chỉ để thêu tình đẹp
Ô để che tình duyên
Che mối tình chung thủy
Vững như cây với cành
Như nước suối bên ta
Không trong không hề uống
Duyên đã trao từ đây
Nhớ thương đã từ đây
Nóc nhà có cột giữ
Cành cây có thân cây
Mối tình ta cũng vậy
Giữ mãi cho đến cùng.
Ta thấy sự tồn tại và phát triển của dân ca Lô Lô cũng như các dân
ca nói chung của nhiều dân tộc khác, không bị ràng buộc bởi các yếu tố
như nhạc và vũ. Sự thật trong dân ca dân tộc Lô Lô gắn với các cốt truyện
ngắn hoặc dài nhưng yếu tố nhạc không cảm thấy cần thiết bằng làn điệu
(thường chỉ làn điệu trầm bổng khoan thai của người ca lặp đi lặp lại). Ở
đây vấn đề trở nên khó khăn và phức tạp hơn vì sự gắn bố giữa lời ca và làn
điệu chặt chẽ hơn nhiều so với các lĩnh vực khác. Nếu tách giữa làn điệu và
lời ca thì người ca khó có thể nhớ được lời một cách tuần tự và thường bị
ngưng rồi hát lại.
Nhìn chung dân ca Lô Lô phổ biến dùng để hát đối đáp trai gái lứa
đôi. Nó nảy nở, phát triển theo thời gian, trong hoàn cảnh đó, thơ ca dân
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 20
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
gian phát triển theo quy luật riêng của mình, nó không bị chi phối, lệ thuộc
vào các yếu tố khác, nghĩa là không mất đi tính độc lập của nó.
Cũng như các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam,
dân ca Lô Lô cũng đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Những kết quả
phong phú đúc kết từ trong lao động sản xuất và trong việc phòng chống
thiên tai, chống ngoại xâm của dân tộc và không một ai có thể phủ nhận
được.
Nếu dựa vào phương thức diễn xướng và nội dung của dân ca, thì có
thể phân chia dân ca Lô Lô theo ba loại là: dân ca trong lễ hội, dân ca trong
sinh hoạt, dân ca giao duyên.
2.2. Dân ca trong lễ hội
Lễ hội dân tộc Lô Lô với tư cách là một hình thức sinh hoạt văn hoá
đặc biệt không thể thiếu được trong cộng đồng tộc người. Một môi trường
văn hoá đặc thù mang màu sắc rõ nét, thể hiện bản sắc độc đáo được bản
thân tộc người Lô Lô hết sức trân trọng, gìn giữ và quan tâm như một
chuẩn mực ứng xử. Nó còn là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần từ
lâu đời của dân tộc, có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội của
cộng đồng và trở thành một nhu cầu và khát vọng của dân tộc qua các thời
kỳ lịch sử.
Lễ hội Lô Lô là một giá trị văn hoá tinh thần cần được bảo lưu, giữ
gìn và phát triển. Là một thành tố bền vững của lễ hội theo nguyên tắc
nguyên hợp của văn hoá dân gian, dân ca Lô Lô có một vị trí quan trọng
trong lễ hội. Nội dung của dân ca Lô Lô phối hợp với các hành vi diễn
xướng, cho các yếu tố trang trí - hội hoạ - vũ đạo... giúp người dân thể hiện
được lòng thành của mình đối với đáng siêu nhiên để cầu mong mưa thuận
gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống yên ấm. Những lời ca trong lễ hội đã
góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, đạo đức, lối sống cho con người.
Tâm hồn dân tộc bắt nguồn từ tình cảm gia đình, làng xóm, bạn bè, từ đạo
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 21
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
lý sống, từ hành vi ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên
nhiên - đất trời - vũ trụ.
Lễ hội, với bản chất cao đẹp đã ăn sâu vào ký ức của mỗi người
trong cộng đồng từ thuở ấu thơ. Nhờ được tổ chức thường xuyên trong suốt
chiều dài lịch sử, lễ hội của dân tộc Lô Lô được bảo lưu khá bền vững và
nhờ vậy, nghệ thuật diễn xướng, các làn điệu dân ca cổ truyền của dân tộc
được gìn giữ và phát triển.
2.2.1. Lễ tế trời đất
Ở người Lô Lô, trời đất đã trở thành vị thần được tôn kính, trời được
coi như cha, đất được coi nhà mẹ. Triết lý của người Lô Lô là trời đất sinh
ra tất cả muôn loài, muôn vật. Lễ tế trời đất là sự kiện quan trọng của người
Lô Lô, là ngày vui mang tính chất ngày hội của cả cộng đồng. Vì vậy dân
ca trong lễ tế trời đóng vai trò quan trọng trong lễ hội của người Lô Lô.
Với quan niệm ngày tế trời đất là ngày cúng giỗ cha mẹ, nên phải tế
vào một nơi trên đồi lớn và chỉ được đánh trống, thổi kèn, thanh la... đều
bằng đồng.
Đến ngày tế, người ta định hướng để treo các màu cờ, phía Nam treo
cờ màu đỏ, phía Bắc treo cờ màu đen, phía Đông treo cờ màu xanh, phía
Tây treo cờ màu trắng cùng với màu vàng.
Trong lễ tế trời, có một ngày lễ long trọng nhất, được tiến hành vào
ngày mở đầu cho sự sinh sôi phát triển. Cuộc tế bắt đầu tư lúc nửa đêm.
Dân làng tập trung đông đủ trong ánh đuốc sáng rực, tiếng trống, chiêng
vang động cả góc trời. Các nhạc cụ đặt trên những tấm đá ghép tài tình, tạo
khuếch âm thanh lạ lùng, làm cho âm thanh vang rất xa cũng như rất rõ nét.
Thay mặt dân làng, thầy cúng đọc chúc văn kính cáo trời đất sinh hạ muôn
dân, ơn trời, ơn thiên hạ thái bình, muôn dân cùng hưởng...
Thuở chưa có trời đất
Trời đất nằm sát nhau
Mặt hai người nhợt nhạt
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 22
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chưa tách rời được nhau
Một hôm mẹ Đất bảo
Có lẽ phải tách ra
Ai nằm trên là bố
Ai ở dưới là mẹ
Bố trời nghe nói vậy
Tại sao lại làm thế
Cứ thế này thì sao
Ai mà tách ra được.
Mẹ Đất lại nằn nì
Bố Trời cũng nghe ra
Liền vùng dậy xem sao
Nhưng không sao dậy nổi.
Ôi! Làm sao lại thế này
Có ai xui ai khiến
Làm sao lại thế kia
Có ai xui ai bẩy.
Sao mà tách được ra
Làm sao rời được ra
Mọi vật xung quanh ta
Chặt như chôn như dính
Ôi! Một vật rất cao to
Tên là Sáng đâu tới
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 23
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đặt Trời lên trên đầu
Rồi đội trời lên cao
Ôi! Đây là nơi nào vậy
Đâu phải là trời cao
Nhìn lên còn xa lắm
Làm sao tới tận cùng
Phải sống nơi lưng chừng
Không muốn sống phải sống
Lên thì làm sao đây
Muốn xuống không xuống nổi.
Ôi! Đã tới lưng chừng
Không muốn cũng phải đi
Lấy chân đạp mà đi
Dùng tay cào mà tới
Phải mất mười mấy năm
Vật lộn với gian nan
Cúi đầu không ngoảnh lại
Mới tới nơi cùng trời.
Cuộc sống nơi cùng trời
Không biết từ bao lâu
Có ai đếm được ngày
Không ai nhớ được tháng.
Dù sống ở trên cao
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 24
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cuộc sống buồn làm sao
Bố Trời nhớ Mẹ Đất
Nhưng không sao xuống được
Phải làm thế nào đây
Miệt mài không nản trí
Để tạo ra mặt trăng
Mặt trăng có đây rồi.
Trong suốt mười hai năm
Mười hai năm trăng sáng
Trăng sáng soi đường đi
Bố Trời gặp Mẹ Đất.
……………………
Bài hát của thầy cúng là loại thanh nhạc có sắc thái âm nhạc dân tộc,
cũng được sáng tác theo thể thơ năm chữ. Thầy thường đọc các bài cúng,
tính chất âm nhạc của giai điệu chưa thật xa ngôn ngữ nói bao nhiêu. Âm
nhạc của bài cúng nghèo nhưng bà con vẫn xúc động và thích nghi vì giá trị
nội dung lớn của bài ca.
Qua bài dân ca trên, ta thấy những khúc hát này thật dân dã, gần gũi
với cơ sở. Nó gợi lên cội nguồn xa xôi của con người. Ngoài ra, ta còn thấy
nói lên những tâm hồn khác nhau trong đời sống tinh thần của họ. Nội dung
bài ca cũng cho thấy, tuy sống trong điều kiện núi non trùng điệp, giao lưu
khó khăn, nhưng người Lô Lô vẫn muốn mở rộng nhận thức của mình ra
ngoài vũ trụ để giải thích nguồn gốc đất trời.
Những bài ca trong lễ tế trời đất, cũng như các nghi lễ khác đều đã
được quy định rõ. Bài nào hát trước, cách diễn xướng ra sao đều nhằm
phục vụ nghi lễ. Do đó các bài ca đều được chuẩn bị kỹ, có khuôn mẫu sẵn;
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 25
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
các nhân vật tham gia phân nghi lễ của lễ hội đều có "vai trò" rõ ràng, được
quy định rõ, và vai trò của thầy cúng là rất quan trọng.
Nói chung, lễ tế là một hành vi thiêng liêng của dân làng cầu mong
mối giao hoà giữa trời đất và con người, giữa thần bản mệnh với muôn dân.
Cả về bố trí kiến trúc lễ vật, thời gian lễ đều quy tụ về một ý nghĩa triết học
âm dương ngũ hành giao thoa, tương sinh, cũng là mối quan hệ giữa văn
hoá địa lý với văn hoá nhân dân.
2.2.2. Lễ cầu mưa
Như đã giới thiệu ở phần trên, đồng bào Lô Lô sống trong điều kiện
địa lý khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phụ
thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Với nghề trồng trọt, yêu cầu về nước tưới
là tối quan trọng. Nhưng, người dân Lô Lô không chủ động được nguồn
nước tưới cho hoa mầu, cho nên tất yếu họ trông chờ vào thiên nhiên. Bởi
vậy, lễ cầu mưa ra đời, có vị trí quan trọng trong lễ hội của đồng bào Lô
Lô. Ở tộc người Lô Lô, mỗi vùng có cung cách, lý do và cốt truyện với
nhiều dị bản khác nhau để tổ chức lễ cầu mưa. Ở huyện Đồng Văn - Hà
Giang tổ chức lễ cầu mưa vào cuối tháng 5 (âm lịch) hàng năm.
Lễ cầu mưa có nguồn gốc từ một câu chuyện rất thương tâm: Ngày
xưa ở Vùng Mèo Vạc có một ông tên là Cồ vào một năm nọ, trời nắng hạn
kéo dài, cỏ cây, hoa màu đều không mọc được, ruộng bị cạn khô và nứt nẻ,
dân làng không có nước uống, trâu bò cũng bị chết khát, chết khô... Thấy
thương những người thân bị khổ và muôn vật có thể bị chết hết, ông Cồ
liền nghĩ ra cách để trêu trời và cho trời biết rằng dưới trần đang cần mưa
và chờ mữa. Ông đem cuốc khơi các rãnh xung quanh nhà để chờ mưa.
Ông đi khơi hết các rãnh từ nhà nọ đến nhà kia, làng này đến làng khác mà
trời vẫn nắng to kéo dài. Ông gọi dân làng đào những con mương để chờ
mưa dẫn nước vào ruộng, nhà nào cũng thi nhau đào những con mương thật
to vào khu ruộng của nhà mình. Càng chờ càng thất vọng, ruộng nương
không làm được, cỏ cây gia súc chết dần, chết mòn. Ông Cồ lại động viên
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 26
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
dân làng đi chặt cây mai về làm máng hứng nước từ mái nhà. Dân làng đi
khắp vùng để chặt cây mai về làm máng nước - quanh nhà chờ dẫn nước
vào bể, vào ao.
Mọi việc từ khơi rãnh, đào mương đến làm máng nước đã xong mà
trời vẫn không mưa. Ông gọi dân làng khua chiêng, gỗ trống, gõ mõ, đốt
giẻ rách làm khói tung bụi mù cả một vùng trời đất.
Bỗng trời đất tối sầm lại, sấm sét đánh rung cả đất, gió bão nổi lên
những cơn lốc, trời đổ những cơn mưa như trút nước mấy ngày đêm. Các
cánh đồng ruộng, hồ, ao nước mênh mông ngập khắp nơi không đi lại
được. Ông Cồ bụng vui lắm, ông chạy ra sửa máng, chỉnh mương, dân làng
không ai để ý. Ông phấn khởi mải mê không để ý đến mưa gió rồi chẳng
may trượt chân bị nước cuốn trôi, mấy ngày sau dân làng mới tìm thấy xác
ông nổi lên ở hồ Rồng.
Dân làng thương tiếc, đưa xác ông về và chỉ còn lại vài con chó cúng
thịt để đưa tiễn ông lên đường đến nơi yên nghỉ. Dân làng trồng cây mai
trên mộ ông để làm dấu hàng năm đến viếng sửa.
Đã qua nhiều đời, đời này qua đời khác, con cháu truyền lại cho
nhau luôn nhớ đến ông như một biểu tượng thiêng. Vì ông Cồ có công với
dân nên ông Trời đã đưa ông lên trời để quản mưa gió cho dân làng. Hàng
năm cứ đến tháng 5 âm lịch dân làng lại tổ chức lễ cầu mưa xin ông Cồ cho
mưa xuống để dân làng cấy trồng và có nước ăn. Người ta cử những thanh
niên khỏe mạnh tới mộ ông chặt cây mai về cắm tại nơi quy định làm lễ rồi
lấy mo cau cắt tròn và đào những hố tròn đặt tấm mo cau có cắm ngọn cao
lương tưới nước lên, rồi dùng tay kéo phát ra những tiếng kêu như tiếng
ếch, nhái, ễnh ương, tiếng cóc...
Già làng đọc lời cầu khấn ông Cồ, dân làng vây quanh cây mai múa
với những tiếng hú, tiếng kèn trống, tiếng mo cau vang động đất trời. Dưới
đây xin giới thiệu trích đoạn bài khấn trong lễ cầu mưa:
"Hôm nay ngày đẹp trời
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 27
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chúng con xin ông Cồ
Ông Cồ cho mưa gió
Để làm ruộng làm nương
Ông Cồ giờ ở đâu
Trong nấm mồ chôn sâu
Một mẩu đời bạc mệnh
Hay vừa mới nguội lạnh
Thiên hạ được ngày nay
Nhờ có công ông Cồ
Ông Cồ xin trời mưa
Nhờ ngọn mai cao vút
Ông Cồ xin trời mưa
Nhờ có lửa có khói
Dân làng nổi trống lên
Bụi tung bay mặt đất.
…………………….
Trời vẫn không chịu mưa
Ông khua chiêng gõ mõ
Rung cả động cây rừng.
Bụi bay từ bốn phía
Bỗng trời cao tối lại.
Sấm sét nổ ầm vang
Gió nổi cơn như xé
Lốc cuốn bay tung trời
Trời đã đỗ cơn mưa
Đồng ruộng mênh mông nước
Lũ tràn quanh nơi ở
Nước thở từng đợt hả.
Ông Cồ nhìn thấy vậy
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 28
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nỗi mừng không kể xiết
Dân làng có nước rồi.
Thoả lòng như mong ước
........................................"
Các bài cúng này vẫn được sáng tạo theo thể thơ năm chữ và có tình
nguyên hợp cao. Các bài của thầy cúng, già làng được hát trong hoàn cảnh
cụ thể phục vụ cho nghi lễ. Diễn xướng và một bộ phận ngôn từ (lời ca)
gắn bó chặt chẽ với âm nhạc, vũ điệu, tạo hình.
Trong bài khấn của thầy cúng, lời ca mang đầy chất trữ tình, thể hiện
tình cảm thương tiếc, yêu mến giữa dân làng với ông Cồ, người có công
với làng bản.
Về giai điệu trong diễn xướng thì lời ca trong nghi lễ của lễ hội dân
tộc Lô Lô thường được hát với giọng trầm thấp, chầm chậm. Cùng với lời
ca giàu chất trữ tình, những giai điệu và phương thức diễn xướng rất hồn
nhiên chân thực đó cũng tăng thêm sự linh thiêng trong lễ hội.
2.3. Dân ca trong sinh hoạt
2.3.1. Hát ru
Hát ru là những bài hát có âm điệu du dương êm đềm của người mẹ
ru con, bà ru cháu, chị ru em. Những giọng hát ngọt ngào cùng với cử chỉ
âu yếm vỗ về đưa trẻ thơ vào giấc ngủ ngon lành sâu lắng.
Những bài hát ru của người Lô Lô thường ngắn gọn, câu hát mộc
mạc, giản đơn, nhưng các từ cuối phải hợp với vần trắc hoặc bằng để trao
được trường độ ngân nga theo thành điệu của mỗi câu, mỗi đoạn trong bài.
À ơi à ời ơi
Ngủ đi, ngủ đi con
Ngủ say, ngủ say con
Bố lên núi, lên non
Tay sao bố chặt củi
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 29
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Củi mọt ăn hết rồi!
Chỉ còn một cành khô
Thiếu củi lo khách đến
Lửa không đủ ấm tay,
Chủ nhà dùng không có...
Khi đứa trẻ ra đời đã gắn liền với những câu hát, lời ru của bà, mẹ,
chị, lúc nào đứa trẻ cũng được mẹ bồng bế và có thể hát ru bất cứ lúc nào,
ban ngày hoặc mỗi tối, trong nhà hoặc ngoài sân, bên chiến võng, nôi ru, có
khi đem con trên nương họ vẫn hát những bài ru, như những lời tâm sự về
tình thương yêu càu mẹ giành cho con.
Nín đi nào, con ơi
Đừng khóc nhiều con hỡi!
Bố đang bận ở nhà
Mẹ thương con, con à
Ngủ đi nào, con ơi
Đừng khóc nhiều, con à
Mẹ lấy củi gần nương
Bố kéo nước gần nhà
Nín đi nào, con ơi,
Đừng khó nhiều, con hỡi!
Đi nương mới có ăn,
Lấy nước mới có uống
Hổ dữ sống trong rừng.
Thuồng luồng bơi trong nước
Nín đi, con nín đi
Thuồng luồng, hổ không về.
Ngủ say nào con ơi,
Con hỡi im tiếng đi!
Con khóc bố không thương,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 30
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Con khóc, mẹ không quý!
Lời hát ru của người Lô Lô có nội dung hiện thực độc đáo nhưng sắc
thái tình cảm hồn hậu, dung dị cùng với những hình ảnh ngôn từ khi mộc
mạc, khi thì được chọn lọc tinh tế. Cho nên tiếng hát ru đã tạo ra thành hoài
niệm sâu lắng và biểu tượng thân thương của người Lô Lô nói riêng và của
các dân tộc nói chung.
Tuy là hát ru, mang sắc thái trữ tình, nhưng lời ca vẫn phản ánh phần
nào cuộc sống của đồng bào Lô Lô, cuộc sống làm ruộng nương, gần gũi
thiên nhiên.
2.3.2. Hát than thân
Những bài dân ca than thân thường mang tính tự sự, đó là những bài
hát phản ánh nỗi khổ của người dân nghèo. Đặc biệt là những người mồ côi
cha mẹ, những người con dâu. Đó là tiếng khóc than thân trước cảnh đời ai
oán của người không cha, không mẹ, nỗi u uất của người con dâu. Những
bài ca loại này phản ánh xã hội Lô Lô đã phân chia giai cấp, có kẻ giàu
người nghèo, người bóc lột và kẻ bị bóc lột.
Trong xã hội cũ, nhân dân các dân tộc vùng cao đã phải chịu đựng
một cuộc sống khổ cực, đói rách dưới bao tầng áp bức của thực dân phong
kiến, cuộc sống cô đơn, không lấy được vợ được chồng… Trước những
hoàn cảnh ấy đồng bào các dân tộc đã sáng tác những bài hát "than thân"
khá sâu sắc để chia sẻ, cảm thông bao nỗi khổ của đồng loại.
Tiếng hát mồ côi: Là những bài hát nói nên nỗi khổ đau cơ cực của
những người bất hạnh, có cha mẹ mất sớm, chủ yếu là những bài mang tính
tự sự, người ta hát trong bất cứ lúc nào, ở hoàn cảnh nào để làm người khác
nghe xúc động. Hát cho mình nghe, hát cho người khác nghe, thậm chí hát
lên hộ người khác nữa.
"Mẹ chết đã lâu rồi,
Bố chết đã lầu rồi,
Mưa về, trốn gốc cây,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 31
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mưa về trú gốc cối,
Trú dưới cây không xong.
Trú dưới cối không được
Nước từ cành rơi xuống
Nước theo lá giỏ giọt
Mưa về, dựa hang đá:
Hang đá nước chảy buốt.
Bố bỏ ta lúc bé,
Mẹ bỏ ta lúc nhỏ.
Con chim làm chín tổ
Ta phải dựng chín nhà
Chim làm nổi mười tổ
Ta dựng nổi mười nhà.
Bố bỏ ta lúc bé
Muốn uống, không có rượu
Muốn ăn không có đường
Mẹ bỏ ta lúc nhỏ
Muốn may, không có vải
Muốn mặc không có quần.
Làm nhà, không có em
Một người, sức không đủ
Nhiều người, sức mới lên!
Nội dung của bài hát không chỉ nêu lên nghịch cảnh về tâm sự đau
thương của đứa trẻ mồ côi, mà hơn nữa còn có giá trị tố cáo sự bất công
của chế độ xã hội cũ đối với những kẻ thân cô mất cha, mất mẹ.
Từ tiếng kêu ai oán cho số phận mồ côi vùi nỗi đau vào cái chết hoặc
mơ ước cuộc sống hạnh phúc, đến việc tự khẳng định niềm tin, vùng lên
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 32
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
chống kẻ áp bức đến quyết liệt. Đó là bản lĩnh của con người Lô Lô, là bản
sắc trong dân ca Lô Lô.
Xã hội dân tộc Lô Lô ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị
phụ nữ thấp kém. Những cảnh làm dâu bị đầy đoạ như trâu ngựa, suốt đời
người phụ nữ bị buộc chết vào nhà chồng.
Trong gia đình người vất vả nhất, gánh nặng cuộc sống và tập tục đè
nặng nhất lên đôi vai người con dâu. Người con dâu vô cùng đau khổ, hầu
như không có quyền sống, tình cảm họ bị chà đạp, thể xác bị dập vùi, họ
chỉ biết dùng lời hát mà kể lể than thở cho cảnh ngộ đau thương của mình.
Chặt cây bẻ lá (lời than của nàng dâu) là tiếng hát khóc than của
cuộc sống cùng cực, than cho thân phận làm dâu, đồng thời chặt cây bẻ lá
là tiếng hát căm phẫn phản kháng chế độ cũ, chế độ phong kiến đầy rẫy
những bất công.
"Đã đến mùa chặt cây
Đã đến ngày bẻ lá
Chặt cây vào tháng này
Buổi sáng trời mù sương
Buổi trưa trời trắng xoá
Mắt không nhìn thấy rừng
Chân vẫn leo vách đá
Chặt cây không muốn chặt
Kiếm rau chẳng muốn đi
Không chặt, thiếu cái đun
Không đi, thiếu cái nấu
Ở nhà, thiếu củi sưởi
Ở nhà thiếu rau ăn
Không đi, người già buồn
Người trẻ, mặt không vui…"
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 33
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nhìn chung: Những bài hát về cảnh mồ côi, lời than của nàng dâu đã
nói lên nỗi khổ của kẻ mồ côi, những phụ nữ đi làm dâu, lên ăn những bất
công của chế độ phong kiến. Những tiếng hát này giàu tính nhân đạo và
tính chiến đấu, làm cho người nghe càng thêm bất bình với chế độ xã hội
cũ và nung nấu ý chí của con người nghèo khổ muốn phá bỏ tất cả những gì
đã mang lại cho họ sự nghèo khổ, bất hạnh. Bằng những giai điệu chậm rãi
buồn thương, tiếng hát đã cho người nghe cảm nhận và cảm thông cho cuộc
sống nghèo và thiếu thốn của người Lô Lô. Tuy nhiên những sáng tác dân
gian của người Lô Lô vẫn tạo cho họ có niềm tin, hy vọng và sức mạnh để
vượt qua cảnh sống khổ đau hoà nhập với cộng đồng mà họ đang sống.
2.4. Dân ca giao duyên
Như nhiều dân tộc anh em khác, người Lô Lô rất thích múa hát. Đặc
biệt lứa tuổi trẻ, trai gái tìm hiểu và yêu nhau, nên vợ chồng sau này,
thường cũng nhờ vào sinh hoạt ca hát làm nhịp cầu liên kết. Hát về tình yêu
của người Lô Lô khá phong phú, nhưng điểm nổi bật là người ta hay hát ở
trong nhà, vì hát ở trong nhà được ấm áp, dễ kéo dài cuộc hát do nơi người
Lô Lô ở thường rét lạnh quanh năm và khi hát thường là nam nữ đối đáp,
mỗi bên một đôi "khách" tới hát (bên nam thường chủ động tới nhà các cô
gái), thoạt đầu phải đứng ngoài nhà mà "đánh tiếng", kế đó "chủ" (nữ giới)
có mời đón thì khách mới được vào, và từ khi vào nhà là coi như cuộc hát
bắt đầu.
......................
Khách (nam)
Tối nay là tối gì
Đêm nay là đêm gì
Mà ấm áp cỏ cây
Gốc thảo quả trên trời
Hương toả thơm mặt đất
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 34
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Quả dù piăng trên cao
Hương quả lan ngây ngất
Chưa thấy lá gừng đâu
Mà đã thoáng thơm cay
Quả dù xó nơi nào
Mà hương bay qua đây...
Nghe giọng biết hát hay
Mặt một lần chưa gặp...
Chủ (nữ)
Chúng ta là người quen
Chúng ta là anh em
Nhà anh tận trên trời
Nhà em ngay mặt đất
Khách tới chủ phải hỏi
Đuổi ngay gà ra sân
Rồi nhốt ngay chó lại.
…………………….
Về nội dung loại hát tình yêu trai gái của người Lô Lô rất phong phú,
đó là những bài dân ca về tình yêu nam nữ. "Lồ Mi Fo" tức tiếng hát tình
yêu, là một dạng trường ca dài trên 2000 câu diễn ra một cách lôgíc, có quá
trình tiến triển từ lúc tìm hiểu yêu nhau đến lúc lấy nhau, sinh con đẻ cái
của đôi trai gái. Lời ca chất phác, rất gần với cuộc sống thực, câu chuyện
được diễn tả dễ hiểu, nhưng lối ví con khá trừu tượng. Bài ca này, nếu nghe
quen và nghe nhiều lần thì mới có thể hiểu được.
Nam:
- Xóm này là xóm gì?
Mà tiếng lành bay xa
Vùng này là vùng nào?
Mà tiếng thơm toả rộng.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 35
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
……………………….
Nhạc kèn, nguồn có hạn
Nhịp trống, gõ phải vơi
Con gái bao giờ hết?
Gái xinh mãi vẫn còn!
Em đẹp, ra em trắng,
Trắng như dây đeo dao
Tên em gọi thế nào?
Tên chị gọi làm sao
Chị đẹp như ống tre
Chị xinh như ống trúc…
Nữ:
Nhà anh tận nơi đâu,
Tên anh gọi thế nào?
Tay có biết gõ trống
Chân có vững nhịp không
Nhịp điệu trống có hạn,
Con gái mãi vẫn còn!
Kèn này em đã sẵn
Sáo trúc em có rồi,…
Lồ Mi Fo là dân ca cổ truyền dài, dành cho những đôi nam, nữ hát
đối đáp tuỳ hứng phát triển hay kéo dài hai ba ngày đêm. Là dạng tình ca
mang nội dung phong phú, chứa đựng tính tự thuật câu chuyện dài của đôi
trai gái đã trải qua nhiều thế hệ. Dạng trường ca này vừa là truyện kể, vừa
là bài học cho các thế hệ tiếp theo mang tính quy luật. Từ khi đôi trai gái
gặp nhau, tìm hiểu, có lời ước hẹn, rồi lấy nhau thành vợ thành chồng. Họ
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 36
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
sinh con trở thành bố mẹ, trở thành những người có ích trong cộng đồng xã
hội và lo dựng vợ gả chồng cho con cái…
Loại hát đối này thường xảy ra ở những đôi trai gái, vùng này với
vùng khác, thường hát theo lối song ca, một đôi nam và đôi nữ.
Nam:
Đẹp như em, như anh
Cớ sao em không yêu?
Không cùng anh chung sống
Vật gì em muốn tặng,
Của tin nào em ưa?
Thuốc lá ngon anh đưa,
Thuốc thơm mười hai điếu
Mười hai điều thuốc vàng
Mười hai lần quý yêu!
Yêu em, yêu thật bụng
Quý em, quý hết lòng
Không thể rời xa em
…………………….
Nữ:
Đẹp như anh, như em,
Mối tình anh, em rõ,
Lời anh ngỏ, em hay.
Quà anh vẫn còn đây
Biết lấy gì đáp lại?
Thuốc thơm mười hai điếu
Mười hai điếu thuốc vàng
Mười hai lần quý yêu;
Thuốc thơm em cũng sẵn
Thuốc vàng em còn nhiều
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 37
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
………………………….
"Lồ Mi Fo" là loại tình ca tự sự mang tính thầm kín, nên người ta chỉ
hát về đêm. Người Lô Lô gọi loại hát này là "Vuir Tror Tangx", nghĩa là
"Câu chuyện xấu hổ".
Xuất phát từ nhu cầu trao đổi tâm tình của người Lô Lô nên bài hát
Lồ Mi Fo ra đời. Bởi vậy lối hát đã trở thành hình thức trao đổi tâm tình
không thể thiếu được của người Lô Lô nói chung và của người Lô Lô ở
Đồng Văn nói riêng. Vì họ thích kín đáo, tế nhị trong lời ăn tiếng nói nên
bài hát Lồ Mi Fo được coi là "người bạn" tin cậy nhất để họ gửi gắn tâm
sự, đặc biệt là tâm sự của thanh niên nam nữ trong tình yêu từ bước đầu
thăm hỏi, mời chào nhau, đắn đo ướm ý thử lời đến chỗ tỏ tình.
Người Lô Lô cảm thấy hát Lồ Mi Fo rất hay, rất thắm thiết, đượm
nồng và say đắm. Đây cũng chính là lý do tại sao hát Lồ Mi Fo lại có sức
sống mãnh liệt trong đời sống tinh thần của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà
Giang, đã vượt qua thử thách của thời gian, lưu truyền cho tới ngày nay.
2.5. Vài nét về âm nhạc dân gian Lô Lô
Âm nhạc dân gian Lô Lô gồm hai loại: Thanh nhạc và khí nhạc.
Thanh nhạc có các làn điệu dân ca, thể hiện các đề tài nghi lễ (đám
cưới), thần thoại, lao động, sinh hoạt, hát ru… Đây là loại hát trữ tình mà ai
cũng biết và ưa thích, không kể lứa tuổi giới tính. Phụ nữ đã có công lớn
trong việc gìn giữ và phổ biến loại thanh nhạc này. Trong dân ca, trừ hát ru,
các đề tài khác đều dùng chung một giai điệu âm nhạc. Mỗi nhóm trong
dân tộc đều có làn điệu riêng của mình, song tương quan về mặt nghệ thuật
vẫn khá rõ, khá nhất quán (ví dụ về thang âm, số âm, phong cách diễn
tấu…). Các bài hát ru có giai điện riêng và tiết tấu phong phú hơn, mặc dầu
số âm vẫn rất hạn chế (ba âm). Màu sắc âm nhạc vẫn giữ cái chung của dân
tộc (thang âm, quãng…).
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 38
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Còn các bài hát của thầy cúng là loại thanh nhạc có sắc thái dân tộc,
song tính chất dân gian không đậm bằng dân ca. Thầy thường "đọc" các bài
cúng ấn, hát các bài cúng làm ma, đưa tiễn hồn người qua đời (làm ma tươi,
ma khô). Tính chất âm nhạc của giai điệu chưa thật xa ngôn ngữ nói bao
nhiêu. Xét riêng về mặt nghệ thuật, âm nhạc của bài cúng còn nghèo và có
phần kém hấp dẫn hơn dân ca (nhưng bà con vẫn xúc động và thích nghe vì
giá trị nội dung của bài ca). Loại cúng này chỉ thầy cúng biết hát. Nói
chung là chỉ nam giới đảm nhiệm, theo quy cách riêng. Nhìn chung, loại
dân ca này còn giữ nguyên tính nguyên hợp vủa văn hoá dân gian, gắn bó
mật thiết với các yếu tố nghệ thuật khác và với nghi lễ tín ngưỡng, có tính
thực hành cao.
Về khí nhạc: Có những nhạc cụ thật tiêu biểu như trống đồng, sáo
(nam, nữ). Ngoài ra có nhị (hoặc hồ).
Những đêm trăng sáng, ấm áp, sau lúc thu hoạch mùa màng hay lúc
chờ đợi lúa chín, ngô vàng, trai gái thường rủ nhau ra đồi hoặc bãi cỏ bằng
phẳng, giao lưu tình cảm với nhau bằng sáo.
Con trai có sáo M - Pi (làm bằng ống sây dài khoảng 50cm, đường
kính ống khoảng 1cm. Khoét bốn lỗ, thổi dọc, đầu sáo, nơi thổi có cắt lưỡi
gà ở ngay trên thân ống. Sáo phát năm âm) ngân nga bằng một tiết tấu
chậm rãi, mà giai điệu thì tha thiết nhờ những đồng âm được tiến hành liên
tiếp, và bán âm tự nhiên, dùng tiết kiệm đã rất gợi cảm, để lại nỗi bâng
khuâng cho người nghe (Mi - Fa - Mi). Người ta còn biết sử dụng nghịch
phách và đảo phách để giãi bày nỗi xúc động nội tâm.
Nữ có sáo Ca - lế (là loại sáo độc đáo, hiếm thấy, bé như chiếc đũa),
luôn luôn sử dụng nét nhạc hồn nhiên, tươi sáng, nghe vui, phản ánh tâm tư
trong sáng của các cô gái lao động, mới lớn, yêu đời. Chắc chắn rằng,
những điệu múa với nhiều động tác đẹp và sử dụng được toàn thân với
những cử động tinh tế (cổ tay, ngón tay, thân, chân, đầu gối…) mà phụ nữ
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 39
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
bộc lộ khả năng đặc sắc đã có ảnh hưởng tới tâm hồn và nét giai điệu nhẹ
nhõm của sáo Ca - lế.
Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô,
tồn tại không phải bằng sự tích mà bằng hiện vật hiển nhiên, đầy sinh khí,
nghĩa là vẫn được diễn tấu trong cuộc sống, bằng nghi lễ quy định. Quan
niệm về âm dương, phồn thực, sự sinh sôi… của người thời cổ có lẽ còn
được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực, cái một lúc. Trống đồng
chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian rộng rãi
(không quy định giới tính, lứa tuổi, số người…) mang nội dung sinh hoạt
lành mạnh. Tuỳ theo đề tài điệu múa mà tiết tấu trống thay đổi: nhanh,
chậm hoặc rộn rã, biểu diễn trống đồng bao giờ cũng tạo ra ba tiết tấu một
lúc, do một người ngồi đánh: Hai tiết tấu ở hai mặt trống cái (trống A, tiết
tấu A, bản nhạc), trống đực (trống B, tiết tấu B ở bản nhạc) dùng chung dùi
a, cầm bằng tay phải. Còn thanh tre gõ vào tang trống A (tiết tấu C ở bản
nhạc) bằng tay trái. Tấm lòng chân trọng của người xưa trước âm thanh gợi
cảm như chức năng của trống đã được hát lên trong bài Tâm sự với trống
đồng, kết thúc bằng những lời thơ đẹp mà giản dị.
"Nàng trống xinh thật xinh
Chàng trống đẹp thật đẹp".
Phụ hoạ kích thích thêm người múa là giai điệu của cây nhị (hoặc
hồ) hoà tầu rất nhịp nhàng với đôi trống đồng, tuy âm lượng không lớn,
nhưng vẫn rõ. Người kéo nhị cũng là người múa và chỉ múa chân và phần
thân dưới, còn bầu nhị tì vào phía bên trái bụng người biểu diễn.
Nhìn chung, âm nhạc dân gian Lô Lô chưa thật sự phát triển về mặt
giai điệu, trừ sáo có năm âm, còn nhị và các loại dân ca chỉ có ba - bốn âm,
chủ yếu là ba âm với lối nhảy quãng ba thứ quen thuộc. Tất cả, thanh nhạc
và khí nhạc, âm vực đều chưa vượt khỏi quãng tám. Về mặt nào đó, tiết tấu
trong âm nhạc phong phú hơn giai điệu.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 40
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Có lẽ, do ít giao lưu rộng rãi với các dân tộc khác và thường tụ cư t
ập trung từng xóm nên màu sắc âm nhạc và phong cách diễn tấu, từ rất lâu
vẫn bảo tồn được bản sắc dân tộc sâu xa (thang âm, quãng nhảy âm thanh,
số lượng âm, tần số rung ngân lúc hát và cảm giác âm nhạc để lại trong
người nghe).
CHƯƠNG 3
SỬ DỤNG DÂN CA LÔ LÔ TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG
TIN TUYÊN TRUYỀN
3.1. Dân ca trong sinh hoạt cộng đồng của người Lô Lô ở Đồng Văn
hiện nay
Mang đặc tính chung của dân ca là sản phẩm của nhân dân, được lưu
truyền trong nhân dân, dân ca Lô Lô gắn bó truyền đời với đời sống của
người Lô Lô. Con người đều phải trải qua một chu kỳ: sinh ra, lớn lên, lấy
vợ, lấy chồng, sinh con rồi già cả, cuối cùng lại đi vào lòng đất mẹ. Suốt
dòng đời ấy, người Lô Lô gắn chặt với các làn điệu dân ca. Các làn điệu
dân ca cũng theo sát vòng đời của con người mà phản ánh và phục vụ.
Tìm hiểu dân ca của một dân tộc, một địa phương, điều cần thiết là
phải hiểu sâu sắc cuộc sống và quan hệ ứng xử của người dân - chủ nhân
của dân ca. Dân ca gắn liền với phong tục tập quán của một dân tộc. Một
câu dân ca hay là nhờ xây dựng được những hình tượng đẹp, đi sâu vào tâm
hồn người dân, phản ánh được những tình ý sâu kín trong mỗi con người.
Trong tất cả các loại hình nghệ thuật dân gian cổ truyền của người
Lô Lô, âm nhạc vẫn là loại hình gắn với cả cuộc đời con người. Âm nhạc đi
với người Lô Lô theo suốt chiều dài của sự lớn lên của từng lứa tuổi, nó
chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, làm cho con người càng thêm yêu cái thiện,
ghét bỏ cái ác.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 41
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ở người Lô Lô, âm nhạc đến đầu tiêu với con người chẳng phải là
cái gì xa lạ - đó chính là tiếng hát ru. Là những làn điệu trìu mến vang lên
theo nhịp đu đưa của chiếc nôi, vuốt ve bao bọc đứa trẻ trong giấc ngủ yên
lành. Khi đứa trẻ lớn lên, chúng đùa chơi trong sân làng hoặc nô đùa bên
sườn đồi, những câu hát cũng xen vào trò chơi của chúng. Có khi thiếu câu
ca, không thành được trò chơi cho lũ trẻ làng.
Đối với những chàng trai, cô gái Lô Lô ở Đồng Văn, trong ngày hội
hoặc những dịp gặp gỡ khác, tiếng hát đưa họ vào những rung cảm của lứa
tuổi yêu đương, mở ra những mối quan hệ mới, và dần dần đưa họ vào lứa
tuổi trưởng thành. Rồi nhiều đôi lứa bén duyên cũng từ buổi đầu trao nhau
tiếng hát giao duyên.
Trong bản, một người nhà mới dựng xong, chủ nhân làm lễ mừng
nhà mới. Vào dịp này, âm nhạc (dân ca) cũng góp phần vào sự hoan hỷ
chung của xóm bản, ca ngợi tinh thần hỗ trợ, tương thân của khối cộng
đồng xóm bản của người Lô Lô.
Trong gia đình có người ốm, phải có thuốc men cho người bệnh.
Nhưng người Lô Lô Đồng Văn cũng cầu viện câu ca của ông thầy cúng,
làm lễ giải thoát cho người đang ốm hoặc để cầu xin với tổ tiên đừng về
"qưở trách" gây hại cho con cháu.
Một người qua đời, tang lễ được tổ chức, tiếng hát chia sẻ nỗi đau
thương của gia quyến làm cho nỗi đau vơi bớt đi. Âm nhạc góp phần vào
các nghi thức tang lễ để người quá cố được siêu hinh tĩnh độ. Còn trong
đám cưới, tiếng hát làm cho đám cưới thêm rộn ràng, những bài hát là lời
dặn dò cô dâu chú rể bắt dầu bước vào cuộc sống mới.
Dân ca gắn với vòng đời con người, trong từng giai đoạn thay đổi
trưởng thành của con người và trong mọi sinh hoạt thường ngày của con
người. Đối với người Lô Lô ở Đồng Văn thì dân ca là một yếu tố gắn liền
với mọi sinh hoạt tinh thần của dân tộc. Nó là nguồn động viên sâu sắc, là
sức mạnh tinh thần giúp cho con người vươn tới những điều tốt đẹp hơn
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 42
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
trong cuộc sống. Vì vậy dân ca có vai trò quan trọng trong đời sống của
dân tộc người Lô Lô không những trong quá khứ mà ngay cả trong thời đại
ngày nay.
"Cội nguồn chẳng những không trở thành dĩ vãng mà luôn là nguồn
gốc, là nền tảng của hôm nay".
3.2. Hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động trong công tác xây dựng
đời sống văn hoá ở cơ sở
Trong đời sống con người, nhu cầu thông tin là một nhu cầu rất cơ
bản. Nhu cầu đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan
hệ trong xã hội. Trong tiến trình lịch sử, con người luôn luôn không ngừng
nâng cấp hoàn thiện mình, song song với sự sáng tạo ra của cải vật chất,
tiến bộ khoa học công nghệ, đã đưa thông tin và sự chuyển tải thông tin
phát triển tới mức tối tân. Đó là hệ thống các kênh truyền hình, sóng phát
thanh, các mạng vi tính… Đó là các phương tiện thông tin đại chúng đã và
đang phát huy những ưu thế, những đặc thù của mình để chuyển tải các
thông tin cần thiết nhanh nhậy kịp thời, chính xác nhất nhằm phục vụ, đáp
ứng và thoả mãn nhu cầu thông tin của con người.
Thông tin trong xã hội ta luôn luôn đi liền với các khái niệm tuyên
truyền và cổ động, đóng một vai trò quan trọng, bởi đó là chiếc cầu nối
tiếng nói, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước tới
nhân dân, nhằm quán triệt, giáo dục chính trị, tư tưởng, nhận thức và ý
thức về pháp luật, về tinh thần xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong lĩnh
vực kinh tế, thông tin nhằm tuyên truyền phổ biến khoa học kỹ thuật, các
quy trình công nghệ, các quy định của luật pháp về kinh doanh sản xuất,
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế nhằm phát huy tính sáng tạo trong
lao động, học tập, tạo ra của cải vật chất cho nhân dân. Trong lĩnh vực văn
hoá xã hội, thông tin, tuyên truyền cổ động hơn bao giờ hết đã trở thành
một công cụ, một phương tiện hoạt động hữu hiệu nhất để tuyên truyền
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 43
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
đường lối phát triển văn hoá văn nghệ của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền
cổ động những tinh hoa, những giá trị văn hoá nghệ thuật của các dân tộc
sống trên địa bàn, những gương người tốt, việc tốt, phát huy truyền thống
văn hoá, những phong tục tập quán tốt đẹp, châm biếm, đả kích, bài trừ
những thói hư tật xấu, những hủ tục, những tệ nạn xã hội, nhằm giáo dục ý
thức công dân, xây dựng tình cảm trong sáng lành mạnh, xây dựng hành vi
cao đẹp, ứng xử có văn hoá, có nếp sống và lối sống văn hoá của mỗi cá
nhân trong một tập thể, mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Tuyên truyền luôn luôn gắn liền với cổ động và muốn cổ đông cũng
phải có tuyên truyền. Cổ đông là sự khích lệ một tư tưởng, đường lối hay
khẩu hiệu, nhiệm vụ chính trị nào đó để đánh thức và kích thích, động viên
quần chúng thực hiện. Công tác thông tin tuyên truyền cổ động có những
tính chất và đặc điểm riêng như: tính tư tưởng cao, tính chân thực, chính
xác, tính thiết thực, cụ thể, tính rõ ràng, giản dị, dễ hiểu, nhanh nhạy, liên
tục. Chính những tính chất này làm cho thông tin cổ động đóng vai trò hết
sức quan trọng trong đời sống xã hội.
Công tác thông tin tuyên truyền và cổ động được thể hiện bằng nhiều
hình thức như:
- Thông tin tuyên truyền cổ động trực quan: Tác động trực tiếp vào
trực giác của con người, gây ấn tượng mạnh, có sức cổ vũ, động viên lớn.
- Tuyên truyền cổ động miệng: Dựa vào những lời nói của tuyên
truyền viên, sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng
của quần chúng ở cơ sở.
- Tuyên truyền cổ động nghệ thuật: Sử dụng tổng các hình thức trình
diễn nghệ thuật, trực quan và lời nói của tuyên truyền viên.
- Tuyên truyền cổ động sân khấu hoá: Dùng phức hợp thông tin nghệ
thuật và sự trình diễn của quần chúng.
Nhìn chung với các hình thức đa dạng phong phú, công tác thông tin
tuyên truyền cổ động đã thực sự góp phần xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 44
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Công tác thông tin tuyên truyền có tầm quan trọng đặc biệt được
Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
đã nhấn mạnh: "Công tác thông tin tuyên truyền cổ động là một bộ phận
quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng".
Trong thông tin tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách pháp
luật của Đảng: Tuyên truyền đúng đường lối chủ trương, đồng thời sát với
tình hình ở cơ sở, các nghị quyết của Đảng bộ địa phương, vận dụng đường
lối chính sách chung vào điều kiện riêng của cơ sở, tuyên truyền cho nhân
dân biết và làm đúng, làm tốt mọi chủ trương lớn. Các hình thức tuyên
truyền lưu động ở các tụ điểm tập trung đông dân cư, phổ biến rộng rãi
phong trào đến mọi người dân. Xây dựng phong tục tập quán văn minh, giữ
gìn nếp sống văn minh ở các cơ sở, quan tâm giải quyết các điều kiện cụ
thể và vướng mắc cụ thể trong từng cụm dân cư. Hoạt động của công tác
thông tin tuyên truyền, xây dựng nếp sống mới xoá bỏ tệ nạn mê tín, các hủ
tục lạc hậu… phòng chống dịch bệnh và tệ nạn xã hội.
Tóm lại, đời sống văn hoá của một cơ sở được nâng cao, hoặc một
cơ sở xây dựng đời sống văn hoá tốt là cơ sở có môi trường văn hoá lành
mạnh, có cơ sở hạ tầng thuận lợi tạo điều kiện cho người dân tham gia hoạt
động trên mọi lĩnh vực văn hoá xã hội. Để thoả mãn nhu cầu tinh thần của
người dân, điều kiện không thể thiếu được là kết hợp song song giữa việc
đẩy mạnh các hoạt động văn hoá thông tin với việc xây dựng cải tạo và
hoàn thiện cơ sở vật chất, trong đó công tãc tuyên truyền cổ động đóng vai
trò hết sức quan trọng.
3.3. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ
động của huyện Đồng Văn và việc vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt
động thông tin tuyên truyền
3.3.1. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ
động của huyện Đồng Văn
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 45
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Trong những năm gần đây, huyện Đồng Văn hoà mình cùng với
không khí thi đua trong toàn tỉnh tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị, các
nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc và các nghị quyết Đại hội Đảng tỉnh và huyện. Được sự quan tâm giúp
đỡ của Trung ương và tỉnh, nhất là Sở Văn hoá - Thông tin, cùng với sự
lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Đồng Văn và sự cố gắng của các cấp
các ngành, lực lượng vũ trang cùng với cấp uỷ chính quyền các xã đã
không ngừng đẩy mạnh các phong trào lao động sản xuất, xây dựng cơ sở
hạ tầng nông thôn. Huyện Đồng Văn đã từng bước thu hẹp dần các khoảng
cách các hộ nghèo, xóa hộ đói, nâng cao đời sống kinh tế, vật chất tinh thần
của nhân dân. Trong thành tích chung đó, có phần đóng góp không nhỏ của
ngành Văn hoá - Thông tin, Truyền thanh, Truyền hình. Những đơn vị này
đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền cổ động các nhiệm vụ chính trị,
xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn huyện bằng nhiều hình thức đa
dạng phong phú như: dàn dựng kịch thông tin, sinh hoạt văn nghệ chợ,
panô áp phích, băng zôn khẩu hiệu chuyển tải những thông tin về đường lối
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên các phương
tiện thông tin đại chúng, qua truyền thanh truyền hình.
3.3.1.1. Công tác thông tin lưu động
Thông tin lưu động là hình thức tuyên truyền cổ động tổng hợp, đây
là mũi nhọn xung kích, thông tin nhanh chóng, với các hình thức tuyên
truyền gọn nhẹ, cổ động bằng lời nói, bài hát, kịch ngắn thông tin, các
chương trình văn nghệ, trực quan. Tất cả được kết hợp một cách lôgíc, chặt
chẽ, tạo cho người xem dễ hiểu, giữ được ấn tượng lâu dài.
Đội thông tin lưu động thuộc Trung tâm Văn hoá - Thông tin là một
điển hình. Đội có 5 thành viên, được trang bị phương tiện gọn nhẹ để phục
vụ trong địa bàn, thường xuyên biên tập tin bài dịch ra tiếng Mông, in vào
băng casseste, dàn dựng các chương trình kịch thông tin tổng hợp, trung
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 46
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
bình 3 kịch bản/năm. Số buổi hoạt động 65 tuổi/năm, phục vụ được hàng
trăm nghìn lượt người xem, đặc biệt là hình thức sinh hoạt văn nghệ ngày
chợ được đội thông tin thường xuyên tổ chức vào các buổi chợ phiên. Đây
là hình thức tuyên truyền rất hiệu quả, tạo ra cơ hội giao lưu văn hoá văn
nghệ giữa các dân tộc trong huyện, kết hợp việc tuyên truyền trực tiếp của
các tuyên truyền viên trong đội thông tin, được nhân dân nhiệt tình tham
gia. Hàng năm đội thông tin có một lần tham gia liên hoan đưa thông tin về
cơ sở do Sở Văn hoá - Thông tin tổ chức yheo hình thức luân phiên mỗi
năm ở một huyện trong tỉnh.
3.3.1.2. Công tác chiếu phim lưu động
Toàn huyện có 23 tổ, đội chiếu phim lưu động, cụ thể: 19 đội của 19
xã và thị trấn, 3 đội của 3 đồn biên phòng và 1 đội của Trung tâm Phát
hành phim và chiếu bóng của tỉnh nằm ở địa bàn huyện. Các đội này được
trang bị các thiết bị video đảm bảo gọn nhẹ, dễ vận chuyển, phù hợp với
địa hình vùng cao còn nhiều khó khăn về đi lại, để đi sâu tới tận các xóm
bản chiếu phim phục vụ nhân dân, chuyển tải những thông tin thời sự kịp
thời, đồng thời chiếu những phim tuyên truyền chủ trương của Đảng cũng
như những bộ phim phổ biến khoa học kỹ thuật, chăn nuôi trồng trọt tới tận
từng người dân… Chỉ tính riêng đội chiếu phim lưu động của huyện hàng
năm chiếu trung bình 180 buổi/năm, phục vụ được 45 nghìn lượt người
xem.
3.3.1.3. Công tác cổ động trực quan
Trong những năm qua, huyện Đồng Văn luôn chú trong công tác cổ
động trực quan, được đông đảo các cấp, các ngành trong huyện hưởng ứng
và tham gia bằng nhiều hình thức như: triển lãm ảnh từ nhỏ lẻ ở các buổi
chợ, các công sở cơ quan, trường học đến những kỳ cuộc lớn của huyện,
những hình thức trang trí cổ động như: băng zôn, khẩu hiệu, cờ, đèn hoa, từ
các panô nhỏ đến những cụm panô lớn, biển tường, áp phích… để cổ động
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 47
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
cho ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm trong năm hoặc những chiến lược lâu dài của
địa phương. Tất cả những hình thức của cổ động trực quan đã tạo nên được
những hình ảnh ấn tượng, tạo nên được không khí vui tươi phấn khởi, động
viên quần chúng nhân dân thêm hào hứng, yêu quê hương, tích cực vượt
khó để gia tăng lao động sản xuất, xây dựng quê hương mình giàu đẹp hơn.
3.3.1.4. Công tác truyền thanh truyền hình
Là một cơ quan báo chí nằm trên địa bàn huyện, trong những năm
qua công tác truyền thanh truyền hình cũng đã có nhiều khởi sắc, ngày
càng được đầu tư và phát triển. Hiện nay toàn huyện có 5 trạm phát lại
truyền hình, 68 trạm TVRO, 2 trạm phát sóng FM, tỷ lệ phủ sóng truyền
hình đạt 67%, tỷ lệ sóng phát thanh đạt 100%, việc tiếp sóng, tiếp âm của
đài tỉnh và trung ương được duy trì thường xuyên, số giờ phát sóng các
chương trình ngày càng được nâng cao. Năm 2006 số giờ tiếp sóng chương
trình VTV1, VTV2, VTV3 đã thực hiện được 20.851 giờ, ngoài ra còn thực
hiện được 104 chương trình tuyên truyền địa phương, việc tiếp âm đài tiếng
nói Việt Nam thực hiện được 11.044 giờ, phát sóng FM được 3.334 giờ,
ngoài ra các chương trình phát thanh địa phương được 85 chương trình, số
lượng tin bài ngày càng nhiều, phong phú về nội dung. Đặc biệt, các
chương trình truyền thanh, truyền hình địa phương đã có nhiều đổi mới về
hình thức và ngày càng nâng cao về chất lượng, đã bám sát định hướng
tuyên truyền của huyện, kịp thời tuyên truyền những chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ chính quyền địa phương,
phản ánh rõ nét các hoạt động diễn ra trên địa bàn huyện đến với nhân dân.
Vì vậy, chương trình truyền thanh truyền hình địa phương được đông đảo
người dân đón nhận và quan tâm theo dõi, phần nào đã đáp ứng được
nhiệm vụ tuyên truyền và nhu cầu thưởng thức của nhân dân trên địa bàn
huyện.
3.3.2. Vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 48
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
3.3.2.1. Vận dụng dân ca Lô Lô trong thông tin lưu động
Thông tin lưu động là lực lượng nòng cốt cho hoạt động của Trung
tâm Văn hoá - Thông tin huyện Đồng Văn, bởi đây là thiết chế có tính
chuyên nghiệp, có hiệu quả cao đối với công tác thông tin, tuyên truyền ở
các xã. Hơn nữa đối với một tỉnh miền núi, dân trí thấp thì việc có đội
thông tin lưu động gắn với cơ sở là vấn đề hết sức cần thiết để tuyên truyền
có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tới dân.
Trước đây, thông tin lưu động của huyện chỉ hoạt động với hình thức
tuyên truyền tiểu phẩm, chiếu bóng lưu động… Đó có thể là do đặc điểm
tâm lý hoặc sự đòi hỏi của tộc người, vì cuộc sống sinh hoạt trước đây của
họ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn vật chất. Nhưng, bây giờ do sự phát triển
của nền kinh tế thị trường nên cuộc sống đỡ khổ hơn và việc tiếp thu văn
hoá cũng nâng cao làm cho nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân càng
cao.
Hướng đi đầu tiên là đưa dân ca (Lô Lô) lồng ghép vào các chương
trình của đội thông tin lưu động, để đi tuyên truyền ở các xã cho đồng bào
tộc người Lô Lô, vì nếu chỉ dừng ở một hình thức thông tin đơn thuần là
những bài viết, bài xã luận, bài phát biểu khô khan thì có lẽ thông tin khó
mà đi vào lòng người và thôi thúc người ta hoạt động.
Do tính cấp thiết của thực tế đặt ra là làm sao để thông tin dễ gần gũi
và đi vào lòng người nhất sử dụng dân ca trong thông tin tuyên truyền là
một việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Bởi dân ca gần gũi, bình dị và
dễ cảm hoá được tâm hồn con người, vì vậy dân ca được phổ cập rộng rãi
nhất, sâu xa nhất và lành mạnh nhất. Vì vậy đối với hoạt động thông tin lưu
động, đây sẽ là một hình thức tuyên truyền mới, có hiệu quả.
Có thể nói, đưa dân ca lồng ghép vào hoạt động của đội thông tin lưu
động là nhằm làm cho công tác tuyên truyền không bị nhàm chán. Mặt
khác nó cũng làm thay đổi không khí, giúp cho những người xem có tâm
trạng thoải mái. Người diễn xướng thì cần thuộc nhiều bài dân ca và là
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 49
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
nghệ nhân dân tộc thiểu số, bởi khi diễn xướng cùng đội thông tin lưu động
phải diễn xướng bằng tiếng dân tộc. Vì cùng thứ tiếng nên đồng bào nghe
dễ dàng hơn và hiểu hết toàn bộ nội dung tuyên truyền. Mặt khác, do cùng
ngôn ngữ, nên cán bộ thông tin tuyên truyền dễ tiếp xúc hơn với người dân.
Nếu, vận dụng dân ca lồng ghép vào hoạt động của đội thông tin lưu
động mà trong đó đội thông tin lưu động lại tuyên truyền bằng một tiểu
phẩm với thứ tiếng Lô Lô thì sự lồng ghép tuyên truyền này sẽ đạt hiệu quả
cao. Nhưng nếu tiểu phẩm tuyên truyền bằng tiếng Việt thì khi đi tuyên
truyền ở vùng đồng bào dân tộc Lô Lô hiệu quả sẽ không cao,
Chương trình lồng ghép dân ca và đội thông tin lưu động (bằng một
tiểu phẩm) có thể theo chương trình mẫu như sau:
- Có thể đưa dân ca lên tiết mục đầu hoặc tiểu phẩm là tiết mục đầu.
- Giới thiệu đại biểu.
- Giới thiệu nội dung tiểu phẩm cần tuyên truyền.
- Mở màn:
+ Tuyên truyền miệng: vai trò, giá trị của dân ca trong đời sống của
dân tộc, của làng bản.
+ Tiểu phẩm tuyên truyền: kịch ngắn về chủ đề giữ gìn văn hoá
truyền thống (cùng với tuyên truyền tiểu phẩm thì đội ngũ thông tin lưu
động chúng tôi gửi tới bà con những bài dân ca bằng tiếng đồng bào).
Chương trình của chúng tôi đến đây là kết thúc.
Mặt khác, có thể đưa dân ca lồng ghép với đội chiếu bóng. Đây là cơ
hội đưa dân ca đến với đồng bào tộc người Lô Lô nhiều hơn. Bởi vì, đội
thông tin lưu động tuyên truyền bằng chiếu bóng có thể ở lại xã ít nhất 2 - 3
ngày, có thời gian để đưa dân ca tới nhân dân nhiều hơn và làm cho họ có
sự quan tâm tới dân ca hơn.
Như vậy, việc lồng ghép dân ca vào hoạt động thông tin lưu động đi
lưu diễn, cũng chỉ là một mảng nhỏ của hoạt động thông tin cổ động, có
tác dụng nâng cao đời sống văn hoá làng bản, định hướng và giúp đỡ làng
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 50
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
bản trong tổ chức hoạt động văn hoá, kích thích sự sáng tạo văn hoá của
quần chúng nhân dân ở làng bản.
Dân ca là đứa con tinh thần của nhân dân lao động, có sức truyền
cảm lớn trong nhân dân. Để nó phục vụ đồng bào có hiệu quả hơn, ta có thể
đặt lời mới cho các làn điệu dân ca, với nội dung thông tin tuyên truyền. Vì
dân ca khi tham gia tuyên truyền chứa đựng sức nặng nghệ thuật to lớn,
dân ca mang màu sắc trữ tình nhẹ nhàng, duyên dáng, có sức lôi cuốn mãnh
liệt, gây xúc động lòng người, chủ đề dân ca thật phong phú, nó ca ngợi
tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi tình yêu lứa đôi, truyền thống đạo
đức, phê phán các tệ nạn xã hội và ở đâu, bất cứ lúc nào dân ca cũng đem
đến cho người nghe, người xem những nội dung thông tin đặc sắc bằng
nhiều thể loại sinh động và đầy chất dân gian…
Ví dụ: Nội dung tuyên truyền tới đồng bào là luật hôn nhân và gia
đình thì nghệ nhân hát dân ca phải nói đến đề tài hôn nhân.
Nghệ nhân hát (nói đến hôn nhân), được hát theo làn điệu của dân ca
(dân ca giao duyên) và được trình bày theo lối hát đối đáp. Như vậy, vừa
tuyên truyền được nội dung cần thiết tới người dân vừa phát huy được vốn
văn hoá truyền thống.
3.3.2.2. Vận dụng trong văn nghệ quần chúng
Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, âm
nhạc đã đi sâu vào đời sống sinh hoạt của con người. Âm nhạc đã trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu được của người dân trên toàn thế giới.
Đối với người Lô Lô, âm nhạc hiện đại ngày nay cũng lôi cuốn họ theo
vòng xoáy chung của thế giới âm nhạc. Trong đó, đặc biệt là những thanh
thiếu niên có thể bất chấp mọi công việc kể cả để âm nhạc dân gian truyền
thống của dân tộc mình mai một theo thời gian, mà để chạy theo xu hướng
chung của thế giới âm nhạc hiện đại. Cho nên, không chỉ đối với tộc người
Lô Lô mà kể cả các tộc người thiểu số khác trên đất nước đều cho rằng âm
nhạc là linh hồn, là cầu nối giữa con người với con người xích lại gần nhau
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 51
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
hơn trong cuộc sống. Chính âm nhạc cũng giúp con người có sự thoải mái
hơn về cuộc sống tinh thần sau một ngày làm việc mệt mỏi.
Tâm lý con người Lô Lô cũng giống như tâm lý chung của bao dân
tộc khác đều mong muốn học hỏi. Khi đưa văn nghệ quần chúng đi diễn ở
làng bản nhiều người Lô Lô thì ta có thể lợi dụng chương trình tiết mục văn
nghệ mà đưa dân ca lồng ghép với văn nghệ quần chúng. Ta vận dụng hài
hoà giữa dân ca và các bài hát dân ca, thì nghệ nhân hát bằng cách hát dân
ca với tiếng dân tộc hoặc hát bằng cả hai thứ tiếng kết hợp. Hơn nữa, người
nghệ nhân mời bà con nếu có ai biết hát dân ca thì lên cùng tôi hát. Lúc đó
chắc chắn sẽ sôi nổi hơn và người biết ít hay nhiều về hát dân ca cũng có
cơ hội thể hiện mình trước công chúng đi lưu diễn như thế nhiều lần một
điều chắc chắn là trong một thời gian sẽ có nhiều người biết đến dân ca.
Khi biết về giá trị của dân ca thì họ sẽ quý trọng và lưu truyền cho con
cháu đời sau, từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng hình thức truyền miệng.
Làm như vậy dân ca sẽ mãi lưu truyền trong người dân mà không bị mất
mát. Mà đời sống của người dân cũng được cải thiện về nhiều mặt nhất là
về văn hoá tinh thần. Mặt khác, kiên quyết chống những hiện tượng và
hành vi thô bạo, lai căng, phản văn hoá. Kế thừa phát huy truyền thống
nhân ái nghĩa tình, thuần phong mỹ tục, đi đôi với bài trừ hủ tục mê tín dị
đoan và các tệ nạn xã hội khác.
Chương trình mẫu đưa dân ca vào văn nghệ quần chúng.
- Nhân lực tham gia:
+ Nghệ nhân hát dân ca (2 nghệ nhân).
+ Người tham gia văn nghệ quần chúng (10 người).
- Kinh phí đầu tư cho đêm lưu diễn và tập chương trình.
- Đạo cụ và trang phục cho đêm diễn.
Chương trình.
+ Giới thiệu đại biểu đến dự
+ Đọc lý do đến biểu diễn
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 52
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
+ Mở màn:
- Giới thiệu nghệ nhân và hát dân ca
- Tiết mục văn nghệ quần chúng của huyện
- Tiết mục văn nghệ quần chúng của xã
Kết thúc chương trình mọi người đều ra sân khấu hát.
3.3. Một số giải pháp để bảo tồn và phát triển dân ca Lô Lô trong cuộc
sống hiện nay
Văn hoá dân tộc là di sản vô giá cha ông để lại. Không những thế mà
'Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vưa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội" Chúng ta tự hào vì văn hoá Việt Nam
là văn hoá đa dân tộc nhiều màu sắc. Vì vậy, việc nghiên cứu giữ gìn phát
huy bản sắc văn hoá và di sản văn hoá quý báu của từng dân tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là công việc có tầm quan trọng lớn lao
đối với mỗi thế hệ người Việt Nam.
1. Trước hết Đảng và Nhà nước cùng các cơ quan chính quyền sở tại
địa phương cần quan tâm hơn nữa đối với đời sống xã hội của người Lô
Lô, nhất là vấn đề kinh tế. Kinh tế xã hội của người Lô Lô ở Đồng Văn -
Hà Giang là dựa vào nông nghiệp. Đồng bào ở đây quanh năm làm ruộng,
nương rẫy nên thời gian giành cho hoạt động văn hoá tập thể hầu như là
không nhiều. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho đồng bào của dân
tộc, bởi kinh tế có vững thì các hoạt động văn hoá mới có thể duy trì
thường xuyên được.
2. Khôi phục, sưu tầm các làn điệu dân ca. Hiện nay, với nền kinh tế
thị trường mở cửa, cho nên đời sống văn hoá các dân tộc ít người cũng thay
đổi theo cụ thể là những làn điệu dân ca thể hiện các phong tục tập quán, lễ
nghi và cuộc sống sinh hoạt cũng đã bị quên lãng. Cùng với sự di dân từ
nơi khác đến. Vì vậy, mà các làn điệu dân ca bằng cách điền dã ở những
nơi vẫn còn văn hoá truyền thống về dân ca, sưu tầm một số tài liệu qua
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 53
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
sách báo nói đến dân ca, khảo cứu, ghi âm qua những gì nghe được, ghi
hình các tư liệu thấy được ở mọi nơi, phục dựng lại môi trường diễn xướng
dân ca (ghi chép, truyền lại cho thế hệ trẻ, tích cực xây dựng phong trào
thông tin tuyên truyền, làm sao giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc theo
khuynh hướng chung ngày nay trở về cội nguồn bản địa.
Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay đã ảnh
hưởng đã ảnh hưởng đến lứa trẻ quá mạnh. Bởi vì, ở lứa tuổi là quãng đời
họ thấy trong sáng đẹp đẽ nhất, thích tìm hiểu và khám phá những cái mới
lạ chưa từng gặp, thích cảm giác mạnh cho nên giới trẻ bây giờ quên đi
những tác phẩm dân ca truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc mà họ
không hề hay biết.
Vì thế những làn điệu dân ca của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam
nói chung và đồng bào Lô Lô nói riêng bị mai một dần trong bàn tay chủ
nhân của tương lai đất nước. Đó là, điều đáng buồn trong đời sống thanh
thiếu niên hiện nay.
3. Phổ cập kiến thức nâng cao mặt bằng dân trí cho đồng bào các
dân tộc, đặc biệt là đối với dân tộc Lô Lô. Khi có kiến thức con người có
thể định hướng mọi vấn đề, giúp họ hiểu được vai trò và tác dụng các làn
điệu dân ca của dân tộc.
4. Cần tổ chức sưu tầm các làn điệu dân ca để đặt lời mới cho một
nội dung thông tin, trước hết phải hiểu rõ, hiểu sâu ngôn ngữ dân ca cho
phù hợp với vùng, với địa phương mà ta cần tuyên truyền, phải đảm bảo
hai tiêu chuẩn đúng và hay, nhanh nhạy, kịp thời, có hiệu quả thiết thực mà
ít tốn kém về tài chính.
Về đặt lời mới cho các làn điệu dân ca phải chuẩn bị thật chu đáo,
làm sao thông tin rõ ràng, chính xác, tránh sự gượng ép thô thiển, gây cười
vô bổ, gây khó chịu cho người xem, người nghe.
Muốn vậy nên chọn những làn điệu ngắn, có tiết tấu sôi nổi phong
phú, sinh động. Đó cũng là một yêu cầu quan trọng đối với người tuyên
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 54
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
truyền viên, biên tập viên - sáng tác, dàn dựng và trình diễn các chương
trình văn nghệ thông tin.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ. Con người là nguồn lực phú cường của
đất nước, cùng với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, việc đầu tư, tuyển
chọn đội ngũ cán bộ có đủ năng lực là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Sự
phát triển xã hội phải được thực hiện bằng chính sức mạnh của con người.
Mỗi công ty, xí nghiệp muốn phát triển được sản xuất thì yếu tố hàng đầu
không phải là máy móc thiết bị mà là con người và "chất xám" của con
người. Công việc sưu tầm bảo quản giới thiệu những sản phẩm văn hoá
truyền thống của dân tộc cần phải tiếp nhận những cử nhân được đào tạo
đúng chuyên ngành có chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức cộng đồng và phát
huy tính tích cực của cá nhân có óc tư duy sáng tạo, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỹ thuật cao thúc đẩy tiến độ hoàn thành các
khâu tổ chức thông tin tuyên truyền, sớm đưa thông tin lưu động ra mắt
công chúng hoạt động đạt hiệu quả nhất.
6. Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cho nghệ nhân, nghệ sĩ.
Để bảo tồn được giá trị của những làn điệu dân ca, cần phải tiến hành
các bước bằng nghiệp vụ của công tác bảo tồn sưu tầm tổ chức các buổi tập
huấn ngắn hạn cho các nghệ nhân, nghệ sĩ, khuyến khích nghệ nhân, nghệ
sĩ truyền khẩu sau đưa về ứng dụng vào cuộc sống của đồng bào.
Trung tâm văn hoá thông tin trong đó có nghệ nhân, nghệ sĩ phối hợp
với làng xã hay các trường học phát động cuộc thi tìm hiểu về dân ca. kết
quả cuộc thi sẽ cho lượng thông tin có ích nhất, phục vụ cho công tác sưu
tầm, kiểm kê. Đó chính là một phần của công tác giáo dục quần chúng.
Tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ có sự tham gia của lực lượng
đông đảo quần chúng, cơ quan đoàn thể để khai thác các làn điệu dân ca,
các vốn văn nghệ dân gian tạo nên sự linh động phong phú, giản dị, gần gũi
với cuộc sống của nhân dân.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 55
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tổ chức các cuộc thi hát dân ca, đặc biệt là dân ca Lô Lô để bà con
dân tộc đặc biệt là dân tộc Lô Lô có nhiều dịp thưởng thức, tìm hiểu các làn
điệu dân ca của dân tộc mình.
Trung tâm văn hoá thường xuyên tổ chức các cuộc thi sáng tác các
ca khác dựa trên các chất liệu dân ca Lô Lô để có thêm các tác phẩm mới,
có chất lượng cao phục vụ cho công tác thông tin tuyên truyền. Bởi trong
thời đại thông tin bùng nổ như hiện nay, nó cũng làm cho tính lỗi thời của
thông tin càng trở nên phố biến hơn, không chỉ có thôn tin mà bất cứ một
hiện tượng gì, sự vật nào cũng có thể bị lỗi thời nếu không có sự phát triển
và đổi mới. Sự lặp lại đơn điệu thường gây một cảm g ác nhàm chán và dân
ca chũng vậy, nếu chính ta cứ sử dụng mãi những điều hát đó thì sẽ làm
cho người nghe, người xem cảm giác nhàm chán và họ sẽ chuyển sáng các
hình thức thông tin khác.
Đông viên khuyến khích nghệ nhân truyền khẩu dậy bảo các làn điệu
dân ca cho những lứa tuổi trẻ. Chú trọng bồi dưỡng các tài năng.
7. Đầu tư kinh phí. Muốn thực hiện tốt giải pháp trên cần phải có
nguồn kinh phí hơn. Do vậy cần cung cấp kinh phí cho các hoạt động của
trung tâm văn hoá huyện và nghệ nhân, nghệ sĩ, các ngành các cấp hỗ trợ
ủng hộ về vốn để nghệ nhân, nghệ sĩ cùng đội thông tin tuyên truyền nhanh
chóng vào hoạt động, phục vụ quần chúng, thực hiện được sứ mệnh lịch sử
giao phó.
Không chỉ hôm qua mà hôm nay dưới sự lãnh đạo của Đảng văn hoá
thông tin gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau và một mục đích phục vụ cho sự
nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước có hiệu quả.
Trên đây chỉ là một số giải pháp mang tính chất chung nhất. Nó có
thể gợi mở phần nào công việc bảo tồn hữu hiệu nhất đối với dân ca, tạo
thêm lực cho dòng chảy dân ca ngày một lớn đủ sức vượt qua xu thế toàn
cầu hoá hiện nay.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 56
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
KẾT LUẬN
Hát dân ca của người Lô Lô nói riêng và của các dân tộc nói chung
là một loại hình văn hoá dân gian có nguồn gốc và quá trình hình thành từ
lâu đời. Nó ra đời, hình thành và phát triển là nét đặc sắc riêng của đồng
bào Lô Lô. Môi bài dân ca với những âm thanh nhịp điệu, tiết tấu với các
hình tượng văn hoá sâu sắc giản dị, trong sáng mà đẹp đẽ.
Dân ca tồn tại và phát triển trong lòng tộc người Lô Lô nên nó có
mặt trên tất cả mọi lĩnh vực của hoạt động xã hội, kinh tế chính trị, đời
sống văn hoá và quan trọng hơn là trong hoạt động thông tin tuyên truyền.
Do đó sử dụng những làn điệu dân ca trong công tác thông tin tuyên truyền
là công việc vô cùng quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đất nước
mở cửa, hoà nhập giao lưu văn hoá quốc tế, thì những giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc cần được bảo lưu, phát triển chống nguy cơ suy thoái,
mai một bởi âm nhạc cũng như nhiều sản phẩm văn hoá nghệ thuật của các
nước ồ ạt tràn vào bằng nhiều con đường, bằng nhiều phương tiện khác
nhau, rất dễ làm băng hoại đạo đức và truyền thống dân tộc. Đứng trước
những thử thách lớn đó nếu chúng ta không nắm vững vốn văn hoá nghệ
thuật dân tộc, vốn dân ca truyền thống của cha ông thì chắc chắn nên văn
hoá của ta dễ bị mất phương hướng và không còn lưu giữ được bản sắc dân
tộc tốt đẹp của chính mình nữa.
Việc tìm hiểu dân ca Lô Lô nhằm kế thừa và phát triển để sử dụng
trong hoạt động thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng không
những của người làm công tác văn hoá nghệ thuật mà là nhiệm vụ của tất
cả mọi người.
Dân ca phản ánh niềm lạc quan và khát vọng của người Lô Lô, là
những giá trị văn hoá được nhân dân sáng tạo ra để phục vụ cuộc sống lao
động, sinh hoạt của cộng đồng dân tộc, đồng thời nó đem lại cho con người
trí tưởng tượng phong phú và nguồn cảm xúc thẩm mỹ được đúc kết lại
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 57
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
thành kho tàng tri thức dân gian vô cùng phong phú. Vì vạy trong thời kỳ
hiện nay khi chúng ta sắp bước vào kỷ nguyên của nền văn minh thông tin,
với sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin, trong đó quan trọng
nhất là vai trò của máy tính. Có thể hình dung trong tương lai không xa ở
nước ta và nhiều nước đang phát triển khác công nghệ thông tin học máy vi
tính sẽ đi sâu vào từng lĩnh vực của đời sống mỗi gia đình, thậm chí mỗi cá
nhân đều biết sử dụng máy vi tinh và có máy vi tính, để dùng, giải phóng
sức lao động cần thiết cho con người. Do đó chúng ta cần phải hiểu rõ tầm
quan trọng của dân ca trong chương trình thông tin tuyên truyền, để bảo tồn
được vốn dân ca trong thời buổi hiện đại ngày qua. Các đội thông tin lưu
động cần phải có một nội dung, một hình thức dân ca thích hợp, dễ hiểu, dễ
nhớ để đáp ứng nhu cầu của người dân trong từng giai đoạn. Bên cạnh các
hình thức cổ động trực quan như panôápphích, băngzôn, khẩu hiểu… để
gây sự chú ý thì sử dụng các làn điệu dân ca lại dễ dàng đi vào lòng người,
khơi dậy tình cảm của họ giúp họ hiểu được điều hay lẽ phải và hành động
đúng.
Nghệ thuật dân ca nếu được sử dụng tốt trong hoạt động thông tin
tuyên truyền sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta ngày càng lành mạnh, văn
minh hơn, ngày càng đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu.
Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có kế hoạch cụ thể về việc bảo tồn nền
văn hoá ở những vùng đồng bào dân tộc ít người trong đó có dân ca của
người Lô Lô. Các cơ quan nghiên cứu cần liên kết với nhau để nghiên cứu
sưu tầm dân ca một cách có hệ thống và đồng bộ. Bởi dân ca là di sản văn
hoá hàm chứa những giá trị, bản sắc độc đáo của người Lô Lô nói riêng và
của Việt Nam nói chung.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 58
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Trung Vũ - Dân ca Lô Lô - Nhà xuất bản Văn hoá Hà Nội - 1975
2. Lô Giàng Páo - Dân ca trong lễ hội của người Lô Lô - NXB Văn hoá
Dân tộc - 2004.
3. Hoàng Văn Thụ - Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam NXB VHDT - 1997
4. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) - Nhà xuất bản
khoa học xã hội. H. 1987
5. Bế Viết Đẳng - Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội
ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia - VHDT, H. 1996
6. Lò Giàng Pào - Tìm hiểu Văn hoá các dân tộc thiểu số - NXB Văn hoá
dân tộc, H. 1997.
7. Lò Giàng Pháo - Trống đồng cổ với các dân tộc người Hà giang -
NXB Văn hoá Dân tộc, H. 1996.
8. Lịch sử tộc người vùng biên giới phiá Bắc - Nguyễn Chí Nguyên,
Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo - Đại học Thái Nguyên - 1996.
9. Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam - Võ Quang Nhơn,
H. Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
10. Lích sử Đảng bộ huyện Đồng Văn.
11. Trang phục các tộc người nhóm ngôn ngư Tạng - Miến - ThS. Đỗ Thị
Hoà - NXB VHDT - 2004.
12. Lò Giàng Pào - Hoàng Nam: Truyền cổ Lô Lô - NXB VHDT - 1994
13. Nguyễn Đăng Duy - Nhan diện văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam
- NXB VHDT - 2004
14. Văn hoá và sự phát triển các dân tộc ở Việt Nam - NXB VHDT -
1996.
15. Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà Giang - Hùng Đình Quý (chủ
biên) - NXB Sở văn hoá - Thông tin Hà Giang - 19994.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 59
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
16. Lê Duy Đại - Triệu Đức Thanh: Các dân tộc ở Hà Giang - NXBTG -
TT TTVH các dân tộc.
17. Lời ca tỏ tình - NXB văn học.
NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP TÀI LIỆU
TT
Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ
1Nguyễn Trùng
Thương52
Giám đốc Sở Văn hoá tỉnh Hà
GiangThị xã Hà Giang - tỉnh
Hà Giang
2 Dương Ngọc Đức 45Cán bộ Ban Tuyên giáo huyện uỷ
Đồng Văn
Huyện Đồng Văn - Hà
Giang
3 Lương Mãn Doanh 42Phó giám đốc Trung tâm Văn hoá
TT - TT huyện Đồng VănĐồng Văn - Hà Giang
4 Vàng Dỉ Sùng 65 Ở nhàXã Lũng Cú - Đồng
Văn - Hà Giang
5 Lù Thị Điếng 60 Nông dânLũng Cú - Đồng Văn -
Hà Giang
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 60
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
PHỤ LỤC
LỜI CA CỦA THẦY MO
TRONG LỄ TẾ TRỜI ĐẤT
Thuở chưa có trời đất
Trời đất nàm sát nhau
Mặt hai người nhợt nhạt
Chưa tách rời được nhau
Một hôm mẹ Đất bảo
Có lẽ phải tách ra
Ai nằm trên là bố
Ai ở dưới là mẹ
Bố trời nghe nói vậy
Tại sao lại làm thế
Cứ thế này thì sao
Ai mà tách ra được.
Mẹ Đất lại nằn nì
Bố Trời cũng nghe ra
Liền vùng dậy xem sao
Nhưng không sao dậy nổi.
Ôi! Làm sao lại thế này
Có ai xui ai khiến
Làm sao lại thế kia
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 61
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Có ai xui ai bẩy.
Sao mà tách được ra
Làm sao rời được ra
Mọi vật xung quanh ta
Chặt như chôn như dính
Ôi! Một vật rất cao to
Tên là Sáng đâu tới
Đặt Trời lên trên đầu
Rồi đội trời lên cao
Ôi! Đây là nơi nào vậy
Đâu phải là trời cao
Nhìn lên còn xa lắm
Làm sao tới tận cùng
Phải sống nơi lưng chừng
Không muốn sống phải sống
Lên thì làm sao đây
Muốn xuống không xuống nổi.
Ôi! Đã tới lưng chừng
Không muốn cũng phải đi
Lấy chân đạp mà đi
Dùng tay cào mà tới
Phải mất mười mấy năm
Vật lộn với gian nan
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 62
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cúi đầu không ngoảnh lại
Mới tới nơi cùng trời.
Cuộc sống nơi cùng trời
Không biết từ bao lâu
Có ai đếm được ngày
Không ai nhớ được tháng.
Dù sống ở trên cao
Cuộc sống buồn làm sao
Bố Trời nhớ Mẹ Đất
Nhưng không sao xuống được
Phải làm thế nào đây
Miệt mài không nản trí
Để tạo ra mặt trăng
Mặt trăng có đây rồi.
Trong suốt mười hai năm
Mười hai năm trăng sáng
Trăng sáng soi đường đi
Bố Trời gặp Mẹ Đất.
Trở lại nơi cũ xưa
Bố Trời gặp Mẹ Đất
Tình giọt nước để lại
Bố Trời lại về trời.
Ôi! Sau mươì hai năm
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 63
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Giọt nước thành đá trắng
Hòn đá to dần ra
Và to bằng quả núi.
Thời gian cứ trôi đi
Rồi mười hai năm nữa
Với mười hai con mắt
Bố Trời mở mắt ra.
Ôi! Mới hé mở mắt ra
Làm sao lại thế kia
Hòn đá nở xoè ra
Như bông hoa dưới đất.
Ôi! Làm sao có cảnh này
Sao nhìn thấy cảnh kia
Nhìn đời từ trên xuống
Sinh nở từ dưới lên
Nỗi buồn của Bố Trời
Vộn nén để trong lòng
Hòn đá thì nở ra
Lòng trời đang thắt lại
Ôi! Mưa đã rơi từ đâu
Mưa từ trên trời xuống
Nước mắt bố Trời chăng
Thấy khỉ con ra đời.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 64
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Trời khóc tiếng sấm kêu
Trời giận tiến sét đánh
Đàn khỉ đâu biết thế
Chạy vào nấp trong hang.
Có ai mà ngờ vậy
Đàn khỉ mới chui ra
Đó là những đứa con
Của Bố Trời - Mẹ Đất
Ôi! Từ một lần gặp đó
Trở về thăm Mẹ Đất
Bố Trời đã để lại
Những đứa con đầu lòng.
Cũng đã từ rất lâu
Bố Trời cùng mặt trăng
Xuống để thăm Mẹ Đất
Và đàn con dại khờ.
Xuống nhìn thấy đàn con
Mọi vật đều lạ lẫm
Bố Trời nhìn đàn con
Chưa đứa nào biết nói.
Tiếng là có đàn con
Chúng chỉ giương mắt nhìn
Vung chân nhảy bên trái
Khua tay leo bên phải.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 65
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mọi vật dưới trần gian
Chưa hề có cây cỏ
Các loài vật cũng chưa
Chưa có một thứ gì.
Một thời với đàn con
Cuộc sống thật vô vị
Bố Trời lại thấy buồn
Thỉnh thoảng Bố Trời quát.
Đàn khỉ nghe tiếng sấm
Đó là tiếng Bố Trời
Đàn khỉ nghe tiếng sét
Tiếng Bố Trời quát con
Nào có biết gì đây
Cứ nghe thấy tiếng gầm
Thì đàn khỉ lại sợ
Chạy vào nấp trong hang
Ôi! Tiếng sét có lúc to
Tiếng sấm có lúc nhỏ
Lúc kêu như thì thầm
Lúc gầm xé bên tai.
Đàn khỉ đâu có ngờ
Lúc tiếng sấm sét kêu
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 66
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Là tiếng nói của cha
Cha buồn không ai biết.
Lúc tiếng sét xé tai
Là khi cha tức giận
Cha giận không ai hay
Cha buồn không ai biết
Năm tháng cứ trôi đi
Tiếng sấm từ lúc lạ
Nay cũng đã quen dần
Đàn khỉ đỡ sợ hơn.
Tiếng sấm và cơn mưa
Diễn đi rồi diễn lại
Làm cho đàn khỉ quen
Không sợ như xưa nữa.
Từ lúc sợ tiếng sét
Nay chỉ còn giật mình
Từ khi sợ cơn mưa
Nay biết tìm chỗ trú.
Cứ mỗi khi giật mình
Từ tiếng sét inh tai
Tiếng hét lại phát ra
Gọi cả đàn tháo chạy
Cứ quen dần như thế
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 67
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Khi nghe tiếng sấm kêu
Đàn khỉ lại ra hiệu
Cho cả đàn chạy trốn.
Quen dần với tiếng sấm
Gần dần với tiếng mưa
Đàn khỉ không lạ nữa
Nô đùa suốt ngày đêm
Ôi! Thời gian với Mẹ Đất
Không kể được ngày tháng
Ngày tháng cứ trôi đi
Không sao lôi kéo lại.
Bố Trời nhìn đàn con
Đàn con ngày khôn lớn
Bố Trời mừng trong bụng
Lại muốn trở về trời.
Nhìn cỏ cây sông núi
Mọi vật đều xanh tươi
Tranh nhau vươn cao ngọn
Hoa đua nhau chọn màu.
Mẹ Đất cũng đủ sức
Kiếm đủ nuôn đàn con
Muôn vật trên trái đất
Mẹ Đất trông không rồi.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 68
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nhìn cảnh sống đông vui
Bố Trời thấy nhẹ người
Không muốn trở về nữa
Nơi tận cùng trời cao.
Nghĩ lại lời nói xưa
Của Mẹ Đất từng nói
Phải tách nhau ra đi
Kẻ ở trên, người dưới
Mẹ Đất nói làm sao
Ông Sáng làm như vậy
Mẹ Đất nói thế nào
Ông Sáng làm thế đó.
Đã đến lúc Bố Trời
Phải chia tay Mẹ Đất
Đã đến lúc Bố Trời
Phải chay tay đàn con
Tất cả để lại sau
Sông núi đều lưu luyến
Mẹ Đất thầm nhìn theo sau
Đàn con rớm lệ sầu
Từ lần đó trở về
Lúc nhớ tới Mẹ Đất
Khi nhớ tới đàn con
Bố Trời thường phải nghĩ.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 69
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Bố Trời và mặt trăng
Đã trải qua nhiều thời gian
Tạo các vì sao sáng
Để canh cho giấc ngủ
Mặt trăng dậy về đêm
Các vì sao cùng thức
Canh giấc ngủ Mẹ Đất
Canh giấc ngủ đàn con
Khi Bố Trời đi ngủ
Cũng là lúc về đêm
Về đêm Mẹ Đất ngủ
Muôn vật đều ngủ theo.
Khi bố Trời thức dậy
Là lúc trời toả sáng
Mẹ Đất cũng không ngủ
Muôn vật đều thức theo
Từ lần trở về trời
Bố Trời không xuống nữa
Hàng ngày mở mắt ra
Nhìn các con dưới đất
Lúc Bố Trời mở mắt
Sưởi ấm cho Mẹ Đất
Soi sáng cho đàn con
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 70
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Hơi thở cho muôn loài.
Năm tháng cứ trôi qua
Những đứa con Bố Trời
Và đàn con Mẹ Đất
Đã ngày càng lớn khôn
Con trai của Bố Trời
Con gái của Mẹ Đất
Ăn chung và ở chung
Rồi sinh con đẻ cái
Con cái họ sinh ra
Cũng là con Bố Trời
Con cái họ đẻ ra
Cũng là con Mẹ Đất
Sinh khí nhờ Bố Trời
Sinh cỏ nhờ Mẹ Đất
Trên trời sống ra sao
Dưới đất cũng sống vậy.
Muốn làm đẹp cho mình
Tìm nhựa cây mà vẽ
Muốn làm đẹp cho người
Kiếm thân cây mà kẻ.
Hạt cườm sẵm bờ sông
Đông màu như hoa cỏ
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 71
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Muốn làm đẹp cho thân
Xiên hạt cườm làm dáng.
Năm tháng cứ trôi đi
Không sao cưỡng lại được
Đàn khỉ của Bố Trời
Đàn con của Mẹ Đất
Trước khi là đàn khỉ
Nay đã biến thành người
Trước đây đi bốn chân
Nay chỉ còn hai chân
Ôi! Lạ thay từ đàn khỉ
Những tiếng ra hiệu xưa
Bằng tiếng la tiếng hét
Bằng cái nhảy cái đu.
Nay đàn khỉ khác xưa
Tiếng la bằng tiếng nói
Tiếng kêu bằng tiếng gọi
Tiếng mọi người như nhau.
Biết nghe rồi biết nói
Biết tìm đá chặt cây
Biết mò dây bới củ
Biết săn thú trong rừng.
Họ toả đi khắp nơi
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 72
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Khắp nơi đều là họ
Hôm nay thì ở đây
Ngày mai là nơi khác.
Đi biết đó biết đây
Biết tìm cây để trồng
Cây kê trồng phía trên
Cây lúa gieo phía dưới
Từ chỗ ở trong hang
Nay làm nhà làm cửa
Đàn bà việc nhà riêng
Đàn ông mải săn thú.
Con gấu gầm phía trên
Con hổ gào phía dưới
Trông thấy gấu thì nghèo
Nhìn thấy hổ thì chết
Muốn canh giữ đám nương
Làm lều nương để ở
Làm lều phải có cây
Làm nương phải có đất.
Các giống trồng để ăn
Mỗi ngày thêm một thứ
Mỗi thứ thêm một vị
Ngày một nhiều thêm lên.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 73
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Giống cây càng nhiều lên
Thức ăn ngày một đủ.
Không phải kiếm ăn xa.
Không đi lang thang nữa.
Lạ thay có ánh lửa
Hai hòn đá va nhau
Lửa xoè cháy cỏ tranh
Có lửa từ khi ấy.
Lửa dùng để đốt cây
Lửa nướng cho chín củ
Lửa đốt nương đốt rẫy
Lửa dùng nấu thức ăn
Ôi! Từ khi sinh ra lửa
Lửa soi đường soi lối
Lửa soi sáng tối ngày
Lúc nào cũng cần lửa.
Vật lạ từ nơi đâu
Cứng hơn gỗ hơn đá
Vật lạ lấy từ đâu
Có trong đá trong núi
Người ta gọi vật cứng
Bằng cái tên là sắt
Sắt dùng để rèn dao
Đem sắt ra rèn búa.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 74
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đốt rẫy đã có lửa
Chặt cây đã có búa
Lửa ấm nhà ấm cửa
Búa đẽo cột đẽo kèo.
Người ta khong dừng đó
Muốn có bữa cơm ngon
Muốn được hạt gạo trắng
Tạo ra cối để giã.
Muốn có đám nương hay
Để trồng cây cho tốt
Đỡ cho cuốc cho dao
Thì phải có cài cày.
Cày lật đất cho mau
Cuốc cào cỏ cho chóng
Cày đi được chín thửa
Cuốc theo được chín đám
Sợi đay lấy từ đâu
Từ trong rừng trong núi
Đàn bà đi tới đâu
Sợi đay có tới đó.
Cây bông ở nơi đâu
Hỏi đàn bà mới biết
Bông ở trên đồi cao
Hay mọc từ bờ suối.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 75
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cây đay sinh có mùa
Cây bông mọc có tháng
Tước đây dùng mũi dao
Se bông dùng ngọn đũa.
Đay cho vải để mặc
Bông cho lụa để cuốn
Vải đay dùng làm chăn
Vải bông dùng làm áo.
Vải đẹp nhờ màu pha
Áo chắc nhờ kim chỉ
Vải mịn dùng cho già
Vải thô dùng cho trẻ
Ôi! Ngày lại ngày trôi đi
Những ngày trong hang đá
Nằm giá buốt tay chân
Nay không còn đâu nữa.
Ngôi nhà cổ ngày xưa
Xa dần và xa mãi
Hòn đá trắng biến đâu
Loài khỉ cũng không còn.
Những đứa con đầu tiên
Của Bố Trời - Mẹ Đất
Từ hòn đá chui ra
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 76
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Là tổ tiền ta đó.
LỜI KHẤN TRONG LỄ CẦU MƯA
Hôm nay ngày đẹp trời
Chúng con xin ông Cồ
Ông Cồ cho mưa gió
Để làm ruộng làm nương
Ông Cồ giờ ở đâu
Trong nấm mồ chôn sâu
Một mẩu đời bạc mệnh
Hay vừa mới nguội lạnh
Thiên hạ được ngày nay
Nhờ có công ông Cồ
Ông Cồ xin trời mưa
Nhờ có lửa có khói
Dân làng nổi trống lên
Bụi tung bay mặt đất
Dân làng nổi kèn lên
Tiếng kêu như gầm rú
Gió hú bay cổng làng
Mo cau dằng lấy cuống
Tiếng kêu lên trời cao
Để xin trời mưa gió.
Ông Cồ đã phải lo
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 77
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ngày ngày qua tháng khác.
Xin trời đổ cơn mưa
Xin đất hãy chuyển mình
Cho nổi hình trên sóng
Bong bóng bay trên hồ
Xin mưa phải làm sao
Trời thì ở trên cao
Đất gọi trời không thấu
Người gọi trời không thưa
Hãy gọi trời trên cao
Hỡi trời cao đất rộng
Một ngày bảy mặt trời
Một đêm bảy mặt trăng
Bảy mặt trời có mọc
Không làm được bảy ruộng
Bảy mặt trăng có lên
Không lo được bảy nương
Trời cao ở không cân
Nghiêng đằng đông cũng phải
Nghiêng đằng tây cũng đúng
Người chỉ một lòng thôi
Ông trời sao lắm dạ
Để ngày đêm gần nhau
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 78
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đem nắng đốt chết rừng
Đưa cái nóng nứt đất.
Ao cạn khóc nứt môi
Ruộng cạn khóc nét mép
Cây đa già mấy tuổi
Cỏ tranh xoã tóc vàng.
Cành mai chạy theo gió
Nhờ gió cứu xem sao
Gió đi không ngoảnh lại.
Cành mai khóc trở về.
Một ngày bảy mặt trời
Một đêm bảy mặt trăng
Bảy ngày trôi cả bảy
Không có bảy việc làm.
Tôi muốn ngắt bảy lá
Bảy lá chết cả bảy
Một ngày gieo bảy giống
Bảy giống không thấy lên
Trời ơi đổ cơn mưa
Trăng ơi hãy vặn mình
Mặt trời ngoảnh mặt đi
Mặt trăng quay lưng lại
Mẹo trêu trời trêu đất
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 79
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chỉ ông ông Cồ mới biết
Ông vác cuốc khơi mương
Đường mương dẫn ra ruộng.
Đem dao chặt cây mai
Gốc mai sâu xuống đất
Ngọn mai cao chọc trời
Trời không mở mắt cho
Trời vẫn không chịu mưa
Ông khua chiêng gõ trống
Rung cây động cả rừng
Bụi bay từ bốn phía.
Bỗng trời cao tối lại
Sấm sét nổ ầm vang
Gió nổi cơn như xé
Lốc cuốn bay tung trời
Trời đã đổ cơn mưa
Đồng ruộng mênh mông nước
Lũ tràn quanh nơi ở
Nước thở từng đợt hơi
Ông Cồ nhìn thấy vậy
Nỗi mừng không kể xiết
Dân làng có nước rồi
Thoả lòng như mong ước
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 80
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ôi! Những ngày đổ mưa
Có ai biết thế đâu
Có ai ngờ thế đâu
Nước cuốn ông Cồ rồi.
Trời đưa ông Cồ đi
Để trông mây trông gió
Trông mưa cho thiên hạ
Trông mạ cho muôn người.
Dân làng ơi ông Cồ
Có ai biết thế đâu
Có ai ngờ thế đâu
Ông Cồ mất đi rồi.
Dân làng tiễn ông đi
Trong cơn mưa lạnh giá
Mái đá phủ đầy sương
Nỗi thương tiếc không cùng.
Con cháu tiễn ông đi
Kéo dài chín mươi dặm
Cờ vải nối đuôi nhau
Mảnh mo cau sau trước.
Người ta đem chôn ông
Trên gò đồi cao ấy
Có cây mai trên mộ
Là ngôi mộ của ông.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 81
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Con cháu đời đời nhớ
Hàng năm trời khô cạn
Lại cúng gọi Ông Cồ
Xin ông cho mưa xuống
CÚNG TÌM HỒN
Tới năm nào cũng vậy
Tôi đi tìm ông Cồ
Ông Cồ giờ ở đâu
Trong nấm mồ chôn sâu?
Tôi tìm trong mồ sâu
Chín tầng đất ông ở
Mười tầng đất ông đi
Mà sao không tìm thấy
Tôi đi khắp mọi nơi
Qua nơi bò gặm cỏ
Bò thấy ông Cồ không
Nhìn xuống sông bò cười.
Tôi lại đi tìm tiếp
Tới nơi con lợi lòi ở
Hỏi lợn lòi về ông
Lợi lòi nhe răng hú
Đàn dê vừa chạy qua
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 82
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Dê ơi biết ông Cồ
Ông Cồ giờ ở đâu
Dê lắc đầu không nói
Không tìm không ai tìm
Tôi đi khắp mọi nơi
Ông Cồ ơi ông Cồ
Ngựa cũng đã mỏi chân
Nơi đây là ở đâu
Nghe tiếng cuốc kêu hoài
Tôi liền hỏi chim cuốc
Cuốc có biết ông Cồ
Chim cuốc nghe tôi hỏi
Liền chui búi mạ sâu
Lặng im trong tiếng gió
Nào có biết hay không?
Lúa mạch gieo nơi sâu
Tôi cũng lần tới đó
Chỉ có tiếng chim kêu
Mạch rung rinh cành lá
Gà rừng gấy trên nương
Bìm bịp kêu dưới suối
Không biết hỏi vào đâu
Đành đi và đi tiếp
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 83
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ôi! Nơi hang sâu núi thẳm
Biết nơi đâu mà tìm
Đi mãi và đi mãi
Gặp phải con tinh tinh
Hỡi con tinh tinh kia
Sao mày cản đường tao
Mày nhe răng làm gì
Hãy tránh để tao đi
Lời khấn như gió bay
Tinh tinh không nhúc nhích
Ngửa mặt nhìn trời cao
Chờ mặt trời xuống núi
Ôi! Các cụ ngày xưa bảo
Hễ cứ gặp tinh tinh
Lừa nó bằng khúc gỗ
Và cứ thể mà đi
Tôi đi khắp mọi nơi
Nay mới tới đất này
Tôi gặp con bìm bịp
Bìm bịp từ hang ra
Tôi lại hỏi bìm bịp
Có thấy công Cồ không?
Trong hang sâu liệu có
Bìm bịp nói là không
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 84
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tôi gặp tiếp hổ vằn
Hổ vằn cũng nói thế
Không biết ông Cồ đâu
Quay lưng hổ vằn trốn
Ôi! Ngựa mỏi hết bốn chân
Người thân đâu không thấy
Chờ đã mấy ngày đêm
Không biết thêm điều gì
Ông Cồ ơi! Ông Cồ
Bìm bịp gọi thì thức
Hổ vằn gọi thì thưa
Sao ông vận lặng im
Ôi! Gà đốt đuốc đi trước
Ngựa trở nước theo sau
Mau mau lại lên đường
Tới nơi ông Cồ ở.
Tay cầm đuốc đã mỏi
Nước đem theo cũng hết
Tôi đi khắp mọi nơi
Mới tới nơi cùng trời
Mặt trời lặn là đây
Nơi tận cùng của đất
Đêm nghe tiếng sương rơi
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 85
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ngày nóng như lửa đốt.
Đàn chó chạy ngang qua
Tôi lại hỏi đàn chó
Chó biết ông Cồ đâu
Cả đàn đều dừng lại.
Ôi! Người ta đâu tới đây
Sao lại biết ông Cồ
Tìm ông Cồ làm chi
Nói mau đi đây chỉ
Ôi! Chúng tôi vùng khô cạn
Hạn hán đã từ lâu
Không có một giọt nước
Mới đi tìm ông Cồ.
Ôi! Cứu người để lấy phúc
Giúp người được làm ơn
Xin chỉ nơi ông Cồ
Biết ông Cồ nơi nao?
Tìm thì biết làm sao
Ông Cồ trên trời cao
Nơi sao không đếm nổi
Nơi mây như chổi lùa
Phải bắc chín cái tháng
Chín thang như chín núi
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 86
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chín thang bằng cây mai
Bậc thang bằng cây trúc
Làm thang sẵn cây mai
Làm bậc đã sẵn trúc
Cây mai đầu mộ ông
Cuối mộ trúc mọc đầy
Ôi! Dân làng ơi biết lối
Nơi đến với ông Cồ
Ông Cồ trên trời cao
Bắc thăng lên mà tìm
Ôi! Phải bắc chín cái thang
Nối thang như dải lụa
Cây mai dài đến đâu
Thang cũng kéo tới đó
Thang lên trời bắc xong
Gió đu không leo nổi
Chó trắng đu đi trước
Cho vàng đẩy theo sau.
Ông trong đám mây xanh
Có lính đứng canh cổng
Chó vàng gọi lính canh
Chó trắng kêu ông Cồ
Gọi mãi không ai thưa
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 87
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Kêu mãi không ai thấu
Chó trắng kêu bên phải
Chó vàng gọi bên trái
Ôi! Hôm nay ngày đẹp trời
Đêm nay là đêm tốt
Chúng con thắp hương ông
Xin ông cho mở cửa.
Mùi hương toả đến đâu
Cho vàng đi tới đó.
Mùi nến bay đến đâu
Chó trắng lao đến đó.
Ôi! Phải thắp chín lần hương
Chín lần qua chín cổng
Chín cổng không bước qua
Không được chín gáo nước...
Cổng ông Cồ là đây
Nơi ông ở là đây
Nơi đây là cổng trời
Nơi của mưa của gió.
Ôi! Nơi ở là đây
Sao ông không thấy mở
Cửa vàng hay cửa bạc
Cửa vua hay cửa chúa.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 88
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Phải đốt nhiều đuốc lên
Đuốc mai khói chọc trời
Phải đốt nhiều hương lên
Khói hương toả bốn hướng.
Không mở ta phá cửa
Không thưa ta gào thét
Đốt giẻ cho xẻ bay
Lay cây cho sáo xổng.
Hãy khua chiêng gỗ trống
Hãy gõ chão gõ xoong
Kéo mo cau vang vọng.
Sẽ đến tai ông Cồ.
Tiếng vọng từ đâu ra
Như xót xa vội vã
Cửa vàng đã mở ra
Cửa ngọc cũng đã hé
Ông Cồ mở cửa ra
Tiếng thanh la chưa dứt
Như nhức nhối trong lòng
Dòng thời gian thuở ấy
Chúng con xin lạy ông
Chín lần xin lạy ông
Mười lần xin lạy ông
Dưới trần gian khốn khó.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 89
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chó vàng thầm tai ông
Nhóm người kia xin trước
Chó trắng rỉ tai ông
Bọn người kia xin mưa.
Ôi! Đứng dậy đi các con
Làng to hay làng nhỏ
Làng trên hay làng dưới
Sao đến nông nỗi này.
Ôi! Cả làng trên làng dưới
Làng nhỏ đến làng to
Làng nào cũng như thế
Không một giọt mưa nào
Ông mở chín cửa vàng
Ông soi chín cửa ngọc
Cửa vàng bốc mùi hôi
Cửa ngọc lôi mùi thối.
Ôi! Có ai ngờ thế đâu
Có ai biết thế đâu
Phải tâu lên Ngọc Hoàng
Để Ngọc Hoàng cho nước
Ngọc Hoàng ở trên cao
Nghe trần gian chao đảo
Liền bảo ông Cồ mau
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 90
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cho trần gian mưa gió.
Rải lụa để đón ông
Rải chiếu để mời ông
Thịt chó vàng đã có(1)
Chó trắng cũng đầy mâm
Gà đón ông đã gáy
Gà mời ông đã đẻ
Mời ông về cùng ăn
Mời ông về cùng uống
Chó nặng mười hai cân
Gà giăng mười hai cựa
Có ngựa trắng ngựa đen
Trao ông để ông nhớ.
(1) Tục xin mưa này cúng bằng thịt chó và gà- vì lúc ông Cồ mất không còn con vật nào khác chỉ có chó và già. Người ta thịt hai loại vật này để cúng tiến ông đi - nên ý nói ông quen ăn những món này.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 91
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chương I: Tỏ tình
Nhân vật: Nam (Thanh niên)
Nữ (Thanh niên)
BÀI HÁT
Mùa xuân, trời đẹp, nhàn rỗi, trai các nơi tìm đến làng có nhiều
con gái lớn, đẹp để hát vui chơi đồng thời là dịp tìm hiểu nhau.
Cuộc hát bắt đầu từ tối mùa xuân ấy…
Nam:
Xóm này là xóm gì?
Mà tiếng lành bay xa.
Vùng này là vùng nào?
Mà tiếng thơm toả rộng.
Bài hát (giới thiệu):
Xóm này là xóm vui
Mùa xuân, mùa ca hát.
Quê này quê hiếu khách
Người người vẫn qua đây (1)
Xóm này sẵn người tài,
Tiếng kèn nghe trầm bổng
Tiếng sáo thật êm tai,
Tiếng trống giòn giục giã,
Nhịp nhàng đôi bàn tay
Nhịp nhàng đôi bàn chân (2)
Xóm này sẵn người tài,
Mùa xuân vui thật vui…
Nam:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 92
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nhạc kèn, nguồn có hạn
Nhịp trống, gõ phải vơi,
Con gái bao giờ hết?
Gái xinh mãi vẫn còn!
Em đẹp, da em trắng,
Trắng như dây đeo dao (3)
Tên em gọi làm sao?
Chị đẹp như ống tre,
Chị xinh như ống trúc.
Ống tre dùng làm gì?
Ống tre dùng làm kèn.
Ống trúc làm được gì?
Ống trúc anh khoét sáo.
Làm kèn, tôi gửi chị,
Khoét sáo, anh tặng em!
Lại đây, lại đây em!
Tới đây, tới đây chị!
Em đẹp, dáng như bay
Em xinh, dáng như chim,
Dịu dàng, dịu như em,
Nhanh nhẹn, nhanh như em!
Nữ:
Nhà anh tận nơi đâu,
Tên anh gọi thế nào?
Tay có biết gõ trống
Chân có vững nhịp không (4)
Nhịp điệu trống có hạn,
Con gái mãi vẫn còn!
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 93
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Kèn này em đã sẵn
Sáo trúc em có rồi (5),
Không đi đâu, anh ơi,
Không theo ai, anh à!
Có yêu, yêu người khác,
Em không yêu anh đâu!
Có lấy, lấy cô khác,
Em lấy anh làm sao?
Nam:
Đẹp như em, như anh (6)
Cớ sao em không yêu?
Không cùng anh chung sống
Vật gì em muốn tặng,
Của tin nào em ưa?
Thuốc lá ngon anh đưa,
Thuốc thơm mười hai điếu
Mười hai điều thuốc vàng (7)
Mười hai lần quý yêu!
Yêu em, yêu thật bụng
Quý em, quý hết lòng
Không thể rời xa em
Tình yêu nếu chẳng nên,
Em đi, anh kéo áo,
Em chạy anh kéo khăn (8)
Tình nếu vẫn chẳng nên
Anh ra đi, ra đi
Tìm cô nàng nhanh nhẹn,
Còn nhanh nhẹn hơn em!
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 94
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tìm cô nàng tươi xinh
Tươi hơn em bội phần!
Anh đi tìm người tốt
Tìm cô gái dịu dàng
Tình yêu em đã đứt!
Đẹp như em, như anh.
Nữ:
Đẹp như anh, nhe em,
Mối tình anh, em rõ,
Lời anh ngỏ, em hay.
Quà anh vẫn còn đây
Biết lấy gì đáp lại?
Thuốc thơm mười hai điều
Mười hai điều thuốc vàng
Mười hai lần quý yêu;
Thuốc thơm em cũng sẵn
Thuốc vàng em còn nhiều (9)
Tìm yêu, tìm người khác,
Đừng tìm em, anh ơi!
Tìm mến, tìm nơi khác
Đừng tìm nơi cách vời! (10)
Tìm yêu, mời vào nhà
Tìm mến, mời qua cửa.
Còn ai? Em không đi!
Em không theo anh mà
Em đi, sợ mẹ đánh,
Theo anh, bố rầy la.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 95
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mẹ đánh, em đau thịt,
Bố chửi, em đau lòng!
Đẹp như anh, như em.
Nam:
Đẹp như em, như anh.
Cớ sao em không đi?
Hỡi cô nàng dịu dàng,
Cớ sao em không tới,
Hỡi cô nàng xinh tươi?
Biết đưa gì cho em,
Trao tặng em gì nữa?
Mười hai hộp thuốc trắng (11)
Mười hai hộp thuốc vàng (12)
Bây giờ anh chưa có
Nhưng muốn là đủ cả!
Tay phải đưa tiền ra
Tai trái cầm hộp bạc,
Tay trái đưa tiền ra.
Tay phải lấy hộp vàng.
Hộp tặng người hoạt bát.
Hộp tặng người dịu dàng
Yêu em, yêu thật bụng
Quý em, quý hết lòng
Không thể rời xa em,
Tình yêu nếu chẳng nên
Chẳng nên, anh kéo áo,
Chẳng nên, anh kéo khăn
Đẹp như em, như anh
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 96
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nữ:
Đẹp như anh, như em
Anh đưa gì cho em,
Trao tặng em vật gì?
Hộp trắng mười hai cái,
Mười hai cái hộp vàng
Hộp trắng em đã có
Hộp vàng em đã đủ
Còn đi? Em không đi!
Không về cùng anh được
Có yêu, yêu người khác
Yêu em nay đã muộn
Có mếm, mếm người khác
Muộn rồi, mếm sao nên?
Em đã từng hứa hẹn,
Với người em thương mến
Ngại người yêu bất bình,
Người thương mến trách em.
Đẹp như anh, như em.
Nam:
Đẹp như em, như anh
Anh đã thăm vùng này
Anh dạo chơi miền nọ
Người đẹp ở nơi đây,
Người xinh tươi nơi đó
Anh đã gặp, đã quen,
Người yêu anh cũng có (12)
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 97
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Những nơi đâu, nơi đâu
Tình yên anh chưa đậu
Như gặp em đêm nay.
Em hiểu rồi, vì sao
Biết đưa gì cho em.
Trao tặng em gì nữa?
Hỡi em đẹp, em xinh.
Vật gì em cũng có
Anh lại gửi em quà:
Mười hai vòng cổ mới
Mười hai dây đeo bạc,
Anh đem tiền đi đổi.
Vòng bạc tặng người yêu.
Chẳng nên, anh kéo áo
Chẳng nên, anh kéo khăn.
Đẹp như em, như anh.
Nữ:
Đẹp như anh, như em,
Anh đưa gì cho em?
Trao tặng gì mới khác?
Mười hai vòng cổ bạc,
Mười hai cái dây đeo.
Vòng cổ em đã có,
Dây bạc em đã đủ.
Không đi, em không đi,
Không theo, em không theo!
Lời trước như lời sau (13)
Có yêu, yêu người khác
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 98
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Yêu em, chuyện chẳng xong.
Có mến, mến người khác
Mến em thêm bận lòng.
Đẹp như anh, như em.
Nam:
Đẹp như em, như anh.
Đưa gì cũng không lấy
Biết tặng em gì đây?
Đưa gì cũng không nhận,
Quà nào em ưng thuận?
Mười hai vòng tay bạc
Đường chạm trổ hình hoa
Đường khắc theo hình lá,
Mười hai nhẫn xinh xinh,
Lồng ngón tay thon nhỏ,
Bàn tay em lấp lánh
Nhẫn vòng anh chưa có
Nhưng mua đâu, anh rõ,
Tay anh mang tiền đi,
Anh lấy vòng chạm về
Tay anh mang tiền tới
Anh cầm về nhẫn mới!
Vòng ôm cổ tay em,
Cổ tay em nở hoa.
Nhẫn ôm ngón tay em
Ngón tay em rực rỡ.
Quý em, anh yêu dạ,
Yêu em, anh yêu lòng
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 99
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cùng em, nên chồng, vợ.
Không được, anh kéo áo,
Không xong, anh kéo khăn.
Đẹp như anh, như em.
Nữ:
Đẹp như anh, như em,
Anh đưa gì cho em,
Trao quà gì mới khác?
Mười hai vòng tay bạc,
Mười hai nhẫn xinh xinh,
Vòng chạm em đã đủ,
Nhẫn xinh em chưa cần.
Yêu anh, em không yêu
Theo anh, không thể được
Người đẹp chẳng đâu thiếu,
Người dịu dàng cũng nhiều!
Có yêu, yêu người khác,
Yêu em, chuyện chẳng xong
Có mến, mến người khác,
Mến em, thêm bận lòng.
Đẹp như anh, như em
Nam:
Đẹp như em, như anh.
Nhẫn xinh em không nhận,
Vòng hoa em không cầm.
Anh trao em quà mới:
Vải đen mười hai tấm,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 100
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mười hai tấm vải hoa
Vải quý anh chưa sắm,
Vải không sẵn trong nhà.
Anh sẽ mang tiền đi,
Tay ôm vải đen về
Anh sẽ mang tiền đi
Anh sắm vải hoa về
Tình duyên nếu không thành,
Không thành, anh kéo áo,
Không thành, anh lôi khăn.
Đẹp như em, như anh.
Nữ:
Đẹp như anh, như em.
Anh đưa gì cho em,
Trao tặng quà gì nữa?
Vải đen mười hai tấm,
Mười hai tấm vải hoa.
Vải hoa hay vải đen,
Em có rồi, đủ cả.
Không đi, em không đi,
Theo anh, em không theo
Yêu anh, em không yêu!
Đẹp như anh, như em
Nam:
Đẹp như em, như anh
Trao gì cũng không nhận,
Tặng gì cũng không cầm
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 101
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Anh cắt ruộng nhường em.
Anh sẻ nương gửi lại
Nay anh đưa hết ruộng
Nhường em hết đất nương.
Yêu em, yêu trong dạ,
Quý em, quý trong lòng.
Ước ao duyên chồng, vợ.
Tình nếu vẫn chẳng nên
Chẳng nên, anh lôi áo,
Chẳng nên, anh kéo khăn.
Đẹp như em, như anh.
Nữ:
Đẹp như anh, như em.
Anh đưa gì cho em
Trao tặng gì mới nữa?
Anh trao em hết ruộng,
Anh nhường em hết nương,
Đâu phải điều em ước?
Không đi, em không đi,
Theo anh, em không theo!
Tới nhà anh sao được,
Tình yêu này chẳng nên,
Tình duyên nay chẳng thành.
Đẹp như anh, như em.
Nam:
Đẹp như em, như anh.
Tình yêu sao nhiều lời,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 102
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tình duyên sao khó khăn.
Em để anh nói mãi!
Quà tặng em không lấy
Quyết tìm em không nhận.
Để lòng anh mệt mỏi
Nhà cửa giao em trông,
Lúa, ngô phần em giữ,
Ruộng mương dành em cả.
Gì anh cũng đã hết,
Còn lại điều quý nhất,
Là tình anh yêu em!
Anh nuôi con chim quý,
Bộy được trên rừng xanh,
Lồng chim mượt nan trúc.
Chim chuyền, xinh thật xinh!
Tiếng líu lo đầu nhà,
Chim chào nắng, chào hoa,
Sao em không vừa ý.
Thả chim quý bay đi?
Ăn cơm, nghe chim hót,
Mặc áo, anh ngắm chim,
Em không ưa chim quý,
Sao không nói anh hay
Em thả chim về rừng,
Hay ném chim vào lửa?
Cực chim thế, chim ơi!
Chim chết, đau lòng người.
Gì anh cũng chẳng tiếc,
Anh chỉ đòi chim thôi! (14)
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 103
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như em, như anh.
Nữ:
Đẹp như anh, như em
Em vẫn ngồi giữ nhà,
Em vẫn ngồi trông cửa,
Dệt vải, tay đưa tay
Chim quý nào em thấy.
Thoi chạy đi, chạy lại
Ca lách cách, lách cách,
Em mải mệt hai tay.
Ngắm chim không được nghe
Thoi reo vui bên tai
Thịt chim em nào ăn,
Nước canh đâu có uống?
Oan em rồi, ơi anh!
Chim trở về rừng xanh,
Em lên rừng xanh hỏi,
Gọi chim quý đến anh.
Đẹp như anh, như em.
Bài hát:
Tình yêu, cô nàng ơi!
Tình yêu đang chờ đợi
Hỡi cô nàng xinh tươi,
Tiếng nói cô dịu dàng
Còn êm hơn tiếng chim,
Cô tinh nhanh, hoạt bát,
Đó là điều quý nhất!
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 104
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
(Cô gái lắng nghe rồi hát tiếp)
Nữ:
Đẹp như anh, như em,
Bây giờ chim chưa bắt
Lòng anh buồn, em khổ.
Lấy tình em đền anh,
Lấy thân em đền anh
Tặng anh đôi ánh mắt,
Trao anh luôn, bộ mắt,
Anh đừng chê em xấu
Anh đừng khinh em nghèo
Vải thêu hoa mặc vào
Xấu, nghèo bay đi hết,
Như nấu canh trên bếp,
Có muối, canh thơm ngon!
Đẹp như anh, như em.
(Tình yêu như vậy là qua chặng đường thử thách, chặng đường khó khăn nhất.
Cô gái đã ưng thuận. Tình yêu chuyển sang tình vợ chồng. Bài hát vẫn kể tiếp về nhiệm
vụ làm vợ, làm chồng, xây dựng gia đình).
CHÚ THÍCH CHƯƠNG I(1) Ý: Nhiều người ở nhiều nơi lui tới.(2) Mua.(3) Dây bạc.(4) Ý: Con trai có biết đánh trống thì con gái mới thích. Tay trống có vững thì chân
múa của phụ nữ mới dễ mới đẹp.(5) Kèn và sáo cũng được coi như tặng phẩm và bị khước từ.(6) Ý: Xứng đôi. Từ đấy, câu này được coi như điệp khúc của cả hai người, ca ngợi
sự hoà hợp về tình cảm và lý trí trong tình yêu đằm thắm của họ.(7) Thuốc lá sợi vàng, thơm ngon. Chưa rõ con số mười hai. Có lẽ lối tính đơn vị
đại lượng xưa theo từng tả (mười hai đơn vị một). Ở đây chỉ số nhiều.(8) Nguyên văn: "Không được, tôi kéo áo.
Không được tôi kéo vải".
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 105
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
(9) Ý:Nên tìm nơi gần. Em với anh ở xa nhau quá.(10) Từ chối tặng phẩm, chưa nhận tình yêu, chưa hứa hẹn gì, phải tìm hiểu đã.(11) Hộp đựng thuốc lá bằng bạc, bằng vàng.(12) Anh chàng muốn đối ý trên của cô gái. Rằng: cô có người yêu rồi thì tôi cũng
có người yêu. Thực ra, họ đều biết nhau là chưa có người yêu; Thực ra, họ đều biết nhau là chưa có người yêu; nhưng cứ bày tỏ, thử thách, thăm do nhau.
(13) Trước sau như một: Không yêu là không yêu.(14) Biến diễn của truyện: Chàng trai thông minh và kiên nhẫn xách lồng chim đến,
treo đầu chái nhà, nói là để tặng cô gái. Nhưng chính anh ta đã lặng lẽ "tháo cũi" cho chim sổ lồng bay đi. Anh nêu chuyện ra như một sự "vu vạ". Vì chỉ với cớ này thì cô gái mới có thể phải yêu mình, vì cô sẽ không lấy gì đến được, ngoài chính tình yêu của cô. Đồng thời, qua cớ này, chúng ta thấy đôi nam nữ này chọn cơ sở của tình yêu là tình cảm chứ không phải quà tặng dù quà tặng đó có giá trị vật chất lớn như thế nào.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 106
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chương II: Vợ chồngNhân vật:
Chồng (vốn là nhân vật Nam ở giai đoạn Tỏ tình phát
triển lên)
Vợ (vốn là nhân vật Nữ ở giai đoạn Tỏ tình phát
triển lên)
Chồng:
Đẹp như em, như anh,
Lấy thân đền thân chim,
Lấy người trả thân chim.
Đẹp xấu không bàn tới,
Biết làm ăn, làm mặc (1),
Biết dọn dẹp cửa nhà,
Như lòng anh mong đợi.
Em như gái nhà trời (2),
Anh trai nghèo mặt đất,
Em tung cánh chim bay
Giữa trời xanh núi biếc.
Anh như con cuốc đen,
Lò dò trên đồng ruộng,
Ăn cơm không có bát
Ăn rau, đũa cũng không,
Chặt cây rừng vót đũa,
Cưa ống tre làm bát.
Hai chúng ta yêu nhau.
Nay nên vợ nên chồng.
Yêu nhau đi với nhau.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 107
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Lấy nhau, cùng chung sống,
Em làm, anh cũng làm,
Sớm hôm trên đồng ruộng.
Mình làm để làm gì?
Mình làm để ơn bố,
Ta làm để làm gì?
Ta làm trả nghĩa mẹ (3).
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Đẹp như anh, như em,
Thân em thay thân chim
Yêu nhau bởi lòng tin,
Hiểu nhau bởi lòng tin,
Đã yêu, yêu say đắm
Vợ chồng duyên đằm thắm.
Bây giờ em mặc gì
Anh mặc theo cái ấy (4)
Em đi làm nơi đâu
Anh cũng làm nơi ấy (5)
Em đi trước, anh sau
Kkuya sớm nhìn thấy nhau.
Mình yêu, bố đã biết,
Mình lấy, mẹ đã hay.
Rượu thịt trao đến tay
Gửi bố cùng gửi mẹ (6)
Rượu thơm rót mời bố,
Thịt ngon mời mẹ xơi.
Bặc trắng trao tay bố
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 108
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Tiền vàng trao tay mẹ
Ơn bố mình đã bảo
Nghĩa mẹ mình đã đến,
Anh và em không khổ (7)
Phận làm con mới yên.
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh,
Bạc trắng đưa bố cầm,
Tiền vàng trao mẹ giữ.
Cần bạc, bạc đã sẵn,
Cần vàng, vàng lo đủ.
Lo đủ vàng, trắng mắt,
Lo đủ bạc, vàng người.
Em còn đâu áo cưới?
Anh lấy đầu quần mới?
Anh đi xin quần bố,
Em đi xin áo mẹ.
Anh xin, bố đã cho
Em xin, mẹ đưa rồi.
Áo cưới may thật khéo
Quần mới mặc thật vừa.
Em đã hết băn khoăn,
Anh chẳng còn lo nữa.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 109
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Đúng như lời anh nói
Đúng như ý em bàn.
Xin quần, bố cho quần,
Hỏi áo, mẹ đưa áo.
Quần mới may thật khéo,
Áo cưới mặc vừa thân.
Anh mặc, thành rể đẹp,
Em mặc, thành dâu xinh.
Anh muốn rời nơi khác,
Dựng nhà riêng chúng mình,
Em muốn rời nơi đây,
Cùng tìm nơi ở mới (8).
Đẹp như anh, như em.
(Cưới xin xong thì vợ chồng ở riêng thành từng gia đình nhỏ. Trước
hết là tìm đất tốt làm nhà)
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Áo quần anh gọn ghẽ,
Lương khô em khoác vai
Chân anh bước ra cửa (9)
Em cũng bước theo ngay.
Anh đi về hướng nào
Chân em theo hướng ấy.
Anh tìm vùng đất mới,
Em rời bỏ đất này.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 110
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Lòng anh đã muốn đi
Em với anh một ý,
Anh tìm tới nơi nào,
Em về theo nơi ấy.
Anh định tới nơi xa
Em với anh một dạ.
Đường dài ta cứ đi,
Dốc cao ta cứ qua.
Chỗ vừa ý chưa thấy,
Chưa thấy, lòng áy náy.
Đã chọn, chọn chỗ tốt
Số phận mới nên hay.
Đã ở, ở đất lành,
Vợ chồng mới khoẻ mạnh
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh
Chỗ này em không ở
Em muốn ở nơi nào?
Anh muốn gần đường dài,
Em muốn bên đường rộng.
Đường dài nếu em ưng
Đường rộng anh vừa lòng (10)
Nhưng tới đâu, tới đâu
Đất vẫn toàn đất xấu.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 111
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Nơi nào anh vừa ý
Nơi ấy em vừa lòng.
Anh muốn ở vùng thấp,
Em muốn ở nơi cao.
Mình nên chọn chỗ nào?
Chỗ nào yên ổn nhất.
Đã chọn, chọn nơi tốt,
Số phận mới nên hay.
Đã ở, ở đất lành,
Vợ chồng mới khoẻ mạnh
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Đất này em không ở,
Em ưa vùng đất nào?
Nơi này em không ở,
Em cón thích nơi nao?
Em có muốn gần sông?
Anh muốn bến bờ nước;
Chỗ ấy anh ở được,
Liệu em có vừa lòng?
Vết chân người già xưa
Còn in dấu nơi này
Đây nền nhà, bếp lửa
Khói ám đã nhạt phai.
Mặt soi dòng nước chảy (11)
Dưới thấp cơn gió bay,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 112
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Trên cao cây thường đổ (12)
Nếu nơi này anh ở,
Chắc em chẳng băn khoăn,
Miễn sao anh hết khổ,
Em không cực tấm thân,
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Nơi nào anh vừa ý
Nơi ấy em vừa lòng
Anh ngại nơi gần nước,
Em cũng vậy, như anh.
Anh đã không ở được.
Một mình em sao nên?
Dưới hơi nước bốc lên,
Trên toả hơi đá lạnh.
Dưới thấp gió bay qua,
Trên cao cây thường đổ.
Sức nước sông rất mạnh,
Bờ đá thành dốc đứng
Mình vượt qua sông rộng
Mình vượt qua nước lớn
Tìm chốn lạ nơi xa,
Tìm vùng mới, nơi cao.
Anh trả tiền thuê thuyền,
Em chi tiền thuê mảng.
Em tháo vòng tháo nhẫn,
Thay riền công chở thuyền.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 113
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Anh đưa dao, đưa súng
Thay tiền thuê qua mảng
Trả tiền nước đã xong,
Tra tiền bờ đã đủ.
Mình đã vượt sông rộng,
Đã vượt qua nước sâu,
Tìm đất yên, đất lành.
Nếu nơi đó ở được
Em sẽ hết băn khoăn;
Cho đời anh hết khổ
Em không cực tấm thân.
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Chỗ này em không muốn
Em còn ưng nơi đâu?
Nơi này ta không ở
Ta còn đi nơi nào?
Em muốn chọn nơi tốt
Anh cũng ưa chỗ đẹp.
Ở dưới có sức nước
Ở trên đá bốc hơi.
Nếu anh định ở đây
Em có cùng dừng lại?
Vết chân người già xưa
Còn in dấu nơi này.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 114
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Anh tìm tới nơi nào,
Em tìm về nơi ấy
Anh chọn đất tốt này
Em cũng theo về đây.
Ở dưới sức gió lớn,
Ở trên hơi đá bay.
Đã chọn, chọn nơi tốt
Số phận mới gặp may
Đã ở, ở đất lành,
Vợ chồng mới khoẻ mạnh.
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Chỗ này chưa vừa ý
Em muốn đến chỗ nào
Anh tìm tới Đồng Văn (13),
Đồng Văn em có thích?
Người già nói nơi này
Đất tốt, đất làm ăn.
Em ước mong may mắn.
Anh cũng vậy, như em.
Vượt sông, ta leo núi,
Xuyên rừng ta lội suối.
Thăm vùng nọ vùng kia,
Vùng này hẳn đất tốt.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 115
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Anh tìm tới nơi nào,
Em cũng theo về đấy.
Đồng Văn anh tới đây
Chân em bước theo ngay.
Đã chọn, chọn đất tốt
Số phận mới nên hay
Đã ở, ở đất lành,
Vợ chồng mới khoẻ mạnh.
Nếu anh không vừa ý,
Em cũng chẳng vừa lòng.
Anh vẫn đi, vẫn đi,
Em vẫn đi, vẫn đi…
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Anh tìm tới nơi nào,
Em cũng về nơi ấy.
Anh tìm sang đất lạ
Đất lạ em có đi?
Đất này có cây lớn
Lại có cả cây cao.
Vòm lá một màu xanh,
Như trúc, thân thẳng vút.
Anh đứng đây, đất mới,
Em có cùng ý anh?
Chân ta bước đã nhiều
Chân ta đi đã mỏi.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 116
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Leo núi, mấy núi cao,
Vượt rừng, bao rừng sâu,
Tới đây, đường hết ngả,
Tới đây, khó nẻo về.
Xưa, người già quen ở
Nay lại tới đôi ta.
Anh ưng chọn nơi này.
Như anh, em cũng vậy.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Anh dừng chân đất lạ,
Đất lạ, em dừng theo.
Chân mình đi đã mỏi
Chân mình bước đã nhiều.
Đường tới đây hết nẻo,
Đất mới có cây lớn,
Lại có cả cây cao.
Vòm lá như hoa đơm
Thân cây như trúc thẳng.
Xưa, người già đã ở,
Nay lại tới đôi ta,
Anh thấy thiếu cái gì
Em cũng cần cái ấy.
Tay em không xách nổi,
Vai anh không địu chảo
Thổi cơm, em tìm nồi,
Tìm chảo, anh nấu rau.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 117
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Tìm nồi, em thổi cơm,
Tìm kiềng, anh đặt bếp.
Thật vất vả thân em,
Thật cực nhọc thân anh.
(Phải mất một thời gian đi tìm mua nồi, mua chảo ở xóm bên, núi
bên…)
Chảo, nồi giờ đã sẵn
Kiềng bếp đặt vừa xong.
Muốn nấu không có lửa,
Muốn đun, lửa cũng không.
Lúc sấm chạy râm ran,
Lúc sét nổ ngang trời:
Là lúc mình lấy lửa (17)
Là lúc lửa cháy bùng.
Anh khát nào có nước
Em nhóm bếp, củi không!
Em ra suối kín nước
Nước lẫn sâu vẩn đục (18)
Anh lên rừng đốn củi,
Kiến đục ruỗng thân cây (19)
Anh khát vẫn phải uống,
Uống nước bẩn, nước đục
Em cần, vẫn phải đun,
Đun củi xấu, củi mục.
Đẹp như em, như anh.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 118
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Đúng như lời anh nói, (20)
Em cùng anh một dạ, (20)
Anh lên rừng chặt củi,
Củi mục vì kiến ăn,
Cần củi, tha kiến về (21)
Địu một bó tới nhà,
Địu hai bó vào cửa.
Anh đưa em chất lửa,
Em tìm nguồn kín nước,
Nước vẩn, vì nhiều sâu,
Cần nước, múc sâu theo.
Địu một ống tới nhà
Vác hai ống vào cửa (22)
Em trao anh đổ nồi
Trên cao, sấm kêu rồi,
Lưng trời sét vừa nổ:
Đánh đá ta lấy lửa.
Em đun củi đã có,
Anh nấu, sẵn nước đấy.
Em ao ước những gì,
Anh nước ao thứ ấy.
Em ngồi không có ghế,
Anh ở không có nhà.
Không ghế, khổ thân em,
Không nhà, cực thân anh.
Đẹp như anh, như em.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 119
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Đúng như lời em nói,
Anh nghĩ giống như em
Em ngồi cần có ghế,
Anh ở phải có nhà.
Cắt tranh cần có liềm,
Đốn củi cần có búa.
Tay em không có liềm,
Nhưng túi em sẵn tiền,
Tay anh không sẵn búa,
Nhưng tiền thì anh có.
Tay phải cầm bọc tiền
Đến nhà người thợ sắt,
Tay trái mang liềm về.
Tay trái cầm gói tiền,
Tìm nhà người thợ rèn,
Tay phải vác búa về.
Liềm mới em cầm lấy,
Đi cắt tranh ngoài đồi.
Búa mới anh xác tay
Đi lên rừng đốn củi.
Lên rừng đốn cây to,
Ra đồi cắt tranh dài.
Đốn cây, cây không đổ,
Cắt tranh, tranh chẳng đứt
Búa mới đánh, chưa sắc,
Liềm mới rèn chưa ngọt,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 120
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mài búa trên đá xanh,
Mài liềm trên đá biếc.
Chặt cây cao, cây đổ,
Cắt tranh dài, tranh đứt.
Tranh dài chất từng đống,
Cây cao xếp thành hàng
Sẵn gỗ, anh dựng nhà,
Sẵn tranh, em lợp mái.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Đúng như lời anh nói,
Em cùng anh một dạ.
Đốn cây nay sẵn búa,
Cắt tranh đã sẵn liềm.
Liềm sắc tay em mang,
Búa mới dành anh vác.
Lên rừng tìm cây thẳng,
Ra đồi tìm gianh già.
Đốn cây cao, cây đổ
Phát gianh già từng đám
Cây đổ, vác từng cây,
Tranh cắt, địu từng bó.
Anh lên rừng vác gỗ,
Em lên đồi địu tranh.
Vác cây, vác một mình,
Địu tranh, địu với bóng (23)
Làm nhà vất vả lắm!
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 121
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Làm nhà thật vất vả.
Không dựng không nơi trú,
Ngày nắng, còn ngày mưa,
Trời sương, lại trời gió.
Làm nhà đúng là khổ.
Đàn ông chuyển vác cây,
Cây lớn, từng cây nặng,
Trên vai anh vác mai.
Chuyển gianh, phần đàn bà,
Từng bó, tiếp từng bó,
Trên vai em địu hoài.
Cây về, để chỗ nào,
Gianh về, xếp nơi đầu?
Cây về, kê chỗ bằng,
Gianh về, xếp chỗ rộng.
Cây lớn dùng làm gì,
Gianh dài dùng làm gì.
Cây lớn dựng nhà chắc,
Gianh dài lợp mái đây.
Làm nhà cần cưa đục
Làm nhà cần cái buộc.
Cưa thân gỗ cho bằng,
Đục gỗ thành mộng cột,
Mái gianh lạt buộc chặt.
Làm nhà đúng là khổ,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 122
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mình anh đốn đủ cây,
Mình anh vác trợt vai,
Làm nhà thật vất vả,
Mình em cắt đủ tranh,
Mình em địu tất cả!
Vác cây đặt chỗ nào,
Tìm chỗ sạch mà kê,
Địu gianh xếp nơi đâu?
Chọn nơi khô mà để.
Dựng nhà cần đục cột,
Lợp mái cần buộc gianh.
Mời ai giúp chúng mình?
Anh đi mời người già,
Nhà ở đầu xóm xa.
Em mời người tuổi tác,
Nhà ở cuối xóm xa.
Em mời người tuổi tác,
Nhà ở cuối xóm xa.
Dựng nhà cực thân anh.
Lợp mái cục thân em.
Làm nhà thật vất vả.
Đẹp như em, như anh.
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Đúng như lời anh nói,
Em nghĩ cũng giống anh.
Phải đi mời người xa,
Phải đi đón người già.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 123
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mời người giúp đôi ta.
Nếu không mời thì thôi,
Đã mời, mời người giỏi.
Mời người trẻ đẽo thân
Để người già đục mộng.
Người giúp việc đã tới,
Người xóm xa đã về,
Mang theo đục, theo cưa,
Mang theo rìu, theo rựa.
Buổi sáng đẽo xong thân
Buồi chiều đục mộng cột,
Buổi trưa ngồi chẻ lạt.
Nay thân đẽo đã trơn,
Mộng đục tính thật khít,
Lạt buộc từng bó chặt.
Bữa sáng dọn gì ăn,
Bữa chiều dọn gì uống? (24)
Vui lòng cả đôi bên (25).
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Đúng như lời em nói,
Anh cùng em một dạ.
Vác gỗ vai mình vác,
Địu tranh vai mình địu.
Dựng nhà phải nhờ người.
Đã không mời thì thôi,
Đã mời, mời người giỏi,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 124
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đã mời, mời người khéo.
Người giúp việc đã tới,
Người xóm xa đã về.
Tay mang đục, mang cưa,
Tay mang rìu, tay rựa.
Người trẻ lo đẽo thân,
Người già lo đục mộng.
Làm nhà ăn cái gì,
Làm cửa lấy gì ăn?
Dựng nhà vất vả lắm,
Vất vả tấm thân anh,
Vất vả tấm thân em
Cực nhọc đôi chúng mình.
Đẹp như em, như anh.
(Mọi việc sửa soạn như đẽo cột, đục cột đánh gianh, chẻ lạt… đã
xong. Tới lúc dựng nhà. Phải chọn ngày tốt lành).
Vợ:
Đẹp như anh, như em.
Gỗ đã thành cột đẹp,
Gianh đánh từng chồng cao
Nhớ người già dạy bảo:
Dựng nhà chọn ngày tốt,
Lắp cửa lựa ngày lành.
Mồng một hay mồng hai,
Mồng hai hay mồng ba,
Mồng ba ha y mồng bốn.
Ngày nào lành ta chọn.
Mồng bốn hay mồng năm,
Mồng năm hay mồng bảy,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 125
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ngày nào ngày tốt đây?
Mồng bảy hay mồng tám,
Mồng tám hay mồng chí
Mồng chín hay mồng mười?
Dựng nhà chọn ngày tốt,
Người già dạy, nhớ lời.
Mồng một mở một cửa,
Mồng hai mở hai cửa (26),
Mồng ba mở ba cửa,
Mồng bốn mở bốn cửa,
Mồng năm mở năm cửa,
Mồng sáu mở sáu cửa,
Mồng bảy mở bảy cửa,
Mồng tám mở tám cửa,
Mồng chín mở chín cửa,
Mồng mười mở mười cửa.
Mở cửa đón bố tới,
Mở cửa mời mẹ về,
Mở cửa đón ông tới,
Mở cửa mời bà về,
Mở cửa đón anh tới,
Mở cửa mời em về,
Mở cửa đón cậu tới,
Mở cửa mời cháu về.
Mở cửa đón khách tới (28)
Mở cửa mời người về (29).
Hôm nay được ngày tốt,
Ngày tốt, dựng được nhà.
Hôm nay đúng ngày lành,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 126
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ngày lành, lắp được cửa.
Dựng nhà không có gì,
Lắp cửa không có gì (30),
Vất vả tấm thân anh,
Vất vả tấm thân em,
Cực nhọc đôi chúng mình.
Anh khổ đến bao giờ,
Em khổ bao lâu nữa?
Đẹp như anh, như em.
Chồng:
Đẹp như em, như anh.
Dựng nhà, dựng cho anh,
Lắp cửa, lắp cho em.
Nhà cửa của chúng mình
Một ngày làm một cái,
Hai ngày làm hai cái (31),
Ba ngày làm ba cái,
Bốn ngày làm bốn cái,
Năm ngày làm năm cái,
Sáu ngày làm sáu cái,
Bảy ngày làm bảy cái,
Tám ngày làm tám cái,
Chín ngày làm mười cái.
Một cửa mời bố vào,
Một cửa đón mẹ vào,
Một cửa mời ông vào,
Một cửa đón bà vào,
Một cửa mời anh vào,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 127
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Một cửa đón em vào,
Một cửa mời chị vào,
Một cửa đón anh vào,
Một cửa mời cậu vào,
Một cửa đón mợ vào,
Một cửa mời bạn vào,
Cửa này đón người thân,
Cửa này mời người xa,
Cửa này đón người gần (32),
Làm nhà nên cái nhà,
Làm cửa ra cái cửa.
Anh, đôi bàn tay trắng,
Em, trắng đôi bàn tay.
Sức đem lo làm nhà,
Của dồn vào làm cửa,
Nay nhà anh đã xong,
Nay cửa em đã rồi.
Có nhà anh yên lòng,
Nhìn cửa, em yên dạ.
Đẹp như em, như anh.
(Nhà cửa hoàn toàn xong. Vợ chồng chấn chỉnh cơ ngơi mới. Ước
mơ mới nảy sinh: Họ mong có con, có con mới vui vẻ, có con mới có người
giúp việc mình.
Khi có con, vợ chồng bước sang chặng đường khác của cuộc đời…
Cương vị và nhiệm vụ đã khác).
CHẶT CÂY BẺ LÁ
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 128
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
("Lời than của nàng dâu")
Đã đến mùa chặt cây (1)
Đã đến ngày bẻ lá (2)
Chặt cây vào tháng này.
Buổi sáng trời mù sương
Buổi trưa trời trắng xoá
Mắt không nhìn thấy rừng
Chân vãn leo vách đá.
Chặt cây không muốn chặt,
Kiếm rau chẳng muốn đi.
Không chặt, thiếu cái đun,
Không đi, thiếu cái nấu.
Ở nhà, thiếu củi sưởi,
Ở nhà, thiếu rau ăn.
Rau người cùng rau lơn.
Không đi, người già buồn,
Người trẻ mặt không vui (3)
Đun nhiều là dịp này:
Người già đun thế nào,
Người trẻ đun thế ấy.
Sưởi nhiều là mùa này:
Người già đốt thế nào,
Người trẻ theo thế ấy!
Đẵn gốc cây dưới thấp
Ngọn cây, chim rỉ rả.
Vào hàng sâu bẻ lá
Chim hót trên vách đá.
Chim chim hót làm gì
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 129
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cho người đứng không yên?
Chim quạ kêu làm gì (4)
Cho tôi thêm lo lắng?
Chim hót, chom thấy vui
Hay đâu thân gái khổ!
Quạ kêu, quạ hay đâu
Tiếng quạ, tủi phận dâu!
Không nghĩ thì không nhớ (5)
Nghĩ tới, lòng ngẩn ngơ.
Không nhớ thì không buồn
Nhớ tới lòng héo hon.
Nước mắt thấm trên đường,
Từng chặng lại từng chặng.
Nước mắt đọng núi cao,
Từng bước theo từng bước.
Khóc, bố mẹ không biết,
Người lạ nghe rõ hết
Than, bạn bè chẳng hay,
Người lạ chẳng đoái hoại…
(1) Tháng 12 âm lịch: Tháng chặt cây đốn củi, sửa soạn ăn tết và lấy
củi sưởi cho mùa đông xuân.
(2) Kiếm rau người ăn, lợn ăn, cỏ bò. Vùng nút rét, đồng bào ít trồng
được rau. Phải tìm rau rừng để ăn.
(3) Người già, người trẻ: bố mẹ, anh em nhà chồng.
(4) Quạ kêu là người chết: nghe quạ kêu là điềm gở, người ta mê tín
như vậy, nhất là đối với phụ nữ.
(5) Gần tết nhớ bố mẹ đẻ, họ hàng.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 130
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
BÀI CA TRỒNG TRỌT
Nhân vật: - Vợ
- Chồng
- Anh rể
- Bài hát
Vợ:
Đông qua, chào xuân tới.
Mùa cấy trồng đã tới.
Trồng ngô lúa anh ơi,
Anh cày, anh đi trước
Gieo hạt, em theo sau.
Bước lại bước, theo nhau.
Lớn bé, ai cũng đi,
Già trẻ rủ cùng đi,
Con trai, con gái đi,
Làng xóm gọi nhau đi.
Không trồng, không ngô lúa,
Không trồng, không sợi bông.
Chúng ta không ra đồng,
Con trai mình sẽ đói;
HÁT RU
I. Ru em
À ơi, à ời ời,
Đừng khóc nữa, em ơi!
Bố không lúc nghỉ ngơi
Bố đi rừng chặt củi;
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 131
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Em ơi, em đừng khóc,
Lấy củi bao cực nhọc;
Kiến ăn mục củi rồi!
Đừng khóc nữa, em ơi!
Mẹ cũng chẳng lúc nhàn,
Con ếch bơi trong nước
Khuấy vẩn đục nước rồi.
Nước trong không vục được,
Em ơi, em đừng khóc!
Mẹ không lúc nghỉ tay
Mẹ hái rau trên rẫy,
Rau ngon nào còn đâu,
Nai rừng về giẫm nát.
Rau ngắt được một tầu,
Nờu khách ăn không đủ
Chủ cũng chẳng đủ ăn,
Đừng khóc nữa, em à!
Củi không đủ khách dùng
Chủ ngừng tay chất bếp,
Lửa bốc cao, củi hết!
Em ơi, đừng khóc mà,
Nước khách còn không đủ,
Chủ chỉ một chén vơi;
Ngủ đi, em em ơi!
À ơi, à ơi à!
II. Ru con
À ơi, à ơi ơi,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 132
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Ngủ đi, ngủ đi con
Ngủ say, ngủ say con
Bố lên núi, lên non,
Tay dao bố chặt củi
Củi mọt ăn hết rồi!
Chỉ còn một cành nhỏ,
Chỉ còn một cành khô
Thiếu củi lo khách đến
Lửa không đủ ấm tay,
Chủ nhà dùng không có
À ơi, à ơi ơi…
Ngủ đi, ngủ đi con,
Ngủ say, ngủ say con,
Vác ống (1) theo đường mòn,
Ra ruối mẹ kín nước
Nước Rồng đã uống cạn (2)
Vét đi, mẹ vét lại
Chỉ được một gáo con
Chỉ được tròn gáo nhỏ,
Không đủ nước khách uống,
Chủ nhà dùng không có,
À ơi, à ơi ơi…
III. Ru con
À ơi, à ơi ơi…
Bố nhớ con, con ơi,
À, con bố đây rồi,
Bố thương con, con à
Con nằm trong tay bố
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 133
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
À ơi, à ơi à…
Mẹ nhớ con, con ơi,
À, con mẹ đây rồi,
Mẹ thương con lắm mà,
Con sờ đầu vú mẹ
À ơi, à ơi ơi…
Con cần gì? Cần địu,
Trên lưng bố, con nghe,
Đàn ong rừng ca hát,
Mắt long lanh, ngơ ngác;
À ơi, à ơi à…
Cần địu gì? Địu hoa,
Trên lưng mẹ, con nghe,
Lời gió rừng ru lá
Hay lời mẹ ru con?
IV. Địu con lên nương
(Hát ru IV)
Nín đi nào, con ơi,
Đừng khóc nhiều con hỡi!
Bố đang bận ở nhà,
Mẹ thương con, con à
Ngủ đi nào, con ơi,
Đừng khóc nhiều, con à,
Mẹ lấy củi gần nương,
Bố kín nước gần nhà.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 134
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nín đi nào, con ơi,
Đừng khóc nhiều, con hỡi!
Đi nương mới có ăn,
Lấy nước mới có uống
Hổ dữ sống trong rừng,
Thuồng luồng bơi trong nước
Nín đi, con nín đi!
Thuồng luồng, hổ không về.
Ngủ say nào, con ơi,
Con hỡi, im tiếng đi!
Con khóc, bố không thương,
Con khóc, mẹ không quý!
(1) Ống vầu. Miền núi kín nước bằng ống vầu.
(2) Quan niệm rằng Rồng giữ nguồn nước. Rồng ở các nơi có nguồn
nước: khe núi, sông, suối.
ĐÓN KHÁCH
Trong mùa xuân nhàn rỗi, đêm đêm thanh niên thường rủ nhau vui
chơi, ca hát trong nhà. Con trai thường tới nhà con gái đối đáp những bài
ca trữ tình.
Theo tập tục hiếu khách của dân tộc, khi có khách tới thì chủ hát
chào đón trước. Rồi sau đó mới đi vào tâm tình hoặc tổ chức cuộc hát vui.
Dưới đây cũng là loại hát đối đáp giữa chủ và khách. Chủ mở đầu
nên gọi là hát ĐÓN KHÁCH.
Nhân vật: - Chủ (Nữ)
- Khách (Nam)
Tối nay là tối gì?
Mà thoang thoảng hương bay?
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 135
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đêm nay là đêm gì
Mà ấm áp cỏ cây?
Gốc thảo quả trên trời
Hương toả thơm mặt đất (1)
Quả dù piảng (2) trên cao
Hương quả lan ngây ngất.
Chưa thấy là gừng đâu
Mà đã thoáng thơm cay.
Quả dù xó (2) nơi nào
Mà hương bay qua đây?
Biết vị gừng đã lâu,
Củ tới nay mới thấy.
Biết hương quả thuở nào
Quả bây giờ mới hay!
Thèm vị gừng thơm cay
Đất dầy đào không được (3)
Hương quả thoang thoảng bay,
Mà quả cao, đành vậy (3)
Nghe giọng, biết hát hay (4),
Mặt chưa gặp một lần.
Mặt nhìn rõ thân cây,
Tay làm sao vít ngọn?
Chúng ta là người quen,
Chúng ta là anh em.
(Khách vẫn xấu hổ, hoặc đắn đo, giữ kẽ, chưa hát. Chủ mở cửa
khách vào, hát tiếp).
Chủ:
Chúng ta là người quen,
Chúng ta là anh em
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 136
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nhà anh tận trên trời (5),
Nhà em ngay mặt đất,
Khách tới chủ phải hỏi.
Đuổi ngay gà ra sân (6)
Rồi xích ngay chó lại.
Khách tới chủ không chào,
Khách ngồi không yên dạ.
Khách tới, chủ không đón,
Khách chê mình kém cỏi.
Lại phiền lòng người già,
Chuốc điều tiếng xấu xa (7)
Khách tới cửa, cửa vui,
Khách vào nhà, nhà sáng.
Nơi có tang mới buồn,
Nhà chết hết mới tẻ
Mới âm thầm lặng lẽ.
Khách đã về tới cửa,
Chủ đón mừng niềm nở.
Khách bước vào trong nhà:
Chủ ngồi, lòng như đứng,
Chân đứng mà lòng bay (8)
Đến chơi đừng xấu hổ,
Vào nhà, đừng thẹn thò.
Rồi ra, quen nhau cả!
Anh ơi, mời anh hát!
Anh đừng yên lặng quá.
Xin anh đừng thờ ơ,
Em không thể đợi chờ.
Nhà anh, phương trời xa
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 137
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Nhà em đây, mặt đất.
Gặp nhau là vui hát.
Chúng ta là người quen,
Chúng ta là anh em…
(Xong 2 đoạn này khách phải hát đáp. Nếu vẫn không hát sẽ bị kéo
ra cửa. Sau khi kéo khách ra cửa rồi, chủ nhân nhìn lại mặt khác một lần
nữa).
Chủ:
Trước nghe tên vẫn biết
Đêm nay mới gặp mặt.
Trước phải biếu tiền anh,
Anh lặng thinh chẳng hát,
Đêm nay gặp người quen
Thân thiết như anh em
Xin mời anh cất giọng,
Nâng lời ca trầm bổng.
Gặp nhau biết nói gì?
Hát nỗi niềm ẩn ức,
Kể cuộc đời khổ nhục
Hát niềm vui, hạnh phúc:
Mùa xuân, tình đôi lứa.
Không khổ xin đừng kể,
Không vui, đừng hát ca.
Lời hát nóng như lửa,
Giọng ngân nga say sưa,
Hát đi, ngày một câu,
Một câu, đêm hát tiếp.
Giãi bày trọn tấm lòng.
Riêng anh kể không vui,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 138
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mình anh hát chẳng hay.
Người hát đi, hát lại:
Tất cả cùng cao giọng,
Biến thành niềm vui chung,
Hát đi, hát đi anh!
Khách:
Tối nay là tối gì?
Mà bếp reo ánh sáng.
Đêm nay là đêm gì,
Mà hát vui làng bản?
Em mới nghe giọng nói,
Đã đoán anh hát giỏi!
Nghe vài lời chào hỏi
Vội đoán anh hát hay!
Nhưng thực ra đâu phải.
Nào anh có bao giờ,
Bao giờ cất tiếng ca.
Nghe, các cô chê dở
Rằng: "Chuyện kể không đúng!"
Rằng: "Giọng hát không hay!"
Rằng: "Sao biết ít vậy?"
Mời các cô đi nghỉ,
Mời các cô đi ngơi.
Đêm nay tôi lạc đường,
Xin một chỗ dừng chân.
Đêm nay tôi lạc lối,
Phiền một nơi nghỉ lại.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 139
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
(Khách hát đáp tức là đã ưng ý nhận tham gia cuộc hát. Chủ lại mở
rộng cửa mời khách và mọi người vào nhà).
Chủ: (Mời mọc mọi người).
Tới đây đừng e thẹn,
Coi nhau như người thân
Gặp nhau để ca hát,
Tiếng hát giữa đêm xuân.
Tối nay nghỉ không nên,
Tuy xóm này tẻ nhạt (9),
Không sánh được xóm trên (10)
Nhà em, nhà xấu xí (11)
So sao với nhà anh?
Nhưng cứ hát, cứ hát,
Hát lên cảnh sẽ đẹp,
Hát rồi, nhà mới vui!
Bài hát vẫn còn vữa,
Bài hát hay còn nhiều.
Ăn quả, ngắm hoa thơm,
Quả ngọt đậu trên cành.
Hoa thơm nở trên cao.
Hát đi, hát lên nao!
Tâm tình anh cứ kể,
Em nghe, mọi người nghe.
Tâm sự chị giãi bày,
Thao thức suốt đêm dài.
Hát lên, cảnh sẽ đẹp!
Hát rồi, nhà mới vui.
Anh cất lời bay bổng
Giọng chị (13) ngân âm vang.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 140
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Cứ hát, ta cứ hát!
Tối nay là tối vui,
Đừng tiếc lời, tiếc giọng
Đêm nay là đêm hội,
Không thể nghỉ giữa chừng.
Không thể ngừng giữa lối.
Lời ca tiếp lời ca,
Đêm nay ta không nghỉ!
Hát đi anh, đi chị!…
Khách:
Từ xa tới mỏi mệt,
Muốn nghỉ không được nghỉ
Muốn ngơi chưa được ngơi…
Ai biết, mời cất giống,
Ai giỏi, mời kể đi!
Lời hát, lời tâm tình,
Kể chuyện, kể đời mình (14)
Đặt chân tới xóm em,
Bài hát anh mang theo,
Chẳng đáng kể bao nhiêu
Bước qua cửa nhà em,
Câu chuyện anh muốn nói,
Chuyện không dài đủ tối (15)
Bụng anh không muốn kể,
Mồm chẳng muốn cất lời.
Không hát, người già chê,
Không kể, bạn bè giễu,
Ông cụ chê anh tồi,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 141
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Bà cụ (16) chê kém cỏi.
Muốn nghỉ không được nghỉ
Nào, anh hát, em hát!
Anh kể chuyện đời anh.
Mọi người kể đời mình.
Tối nay là tối vui,
Không tiếc lời, tiếc giọng.
Đêm nay là đêm hội,
Không thể nghỉ giữa chừng,
Không thể ngừng giữa lối
Anh dặn gà đừng gáy,
Để trời đừng vội khuya,
Anh nhủ gà đừng dậy
Để ta còn hát mãi
Hát đi, nào ta hát!
Anh hát, rồi em hát.
Gửi em đồng bạc già (17),
Đồng bạc nặng tình ta,
Lời ca tiếp lời ca.
Đêm nay ta không nghỉ,
Hát đi em, đi chịu…!
(Tới đây, đêm hát mới bắt đầu. Về đề tài tình yêu hoặc đề tài khác -
Kể khổ, kể chuyện làm ăn, kể chuyện nhà…- nhưng xa gần cũng muốn đạt
mục đích trao duyên).
___________
(1) Khách là khách quý, tiếng đồn từ xa. Khách từ rất xa tới. Ca ngợi
và trân trọng khách.
(2) Một loại quả có hương thơm.
(3) Muốn hát với khách mà không sao mời khách hát với mình được.
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 142
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
(4) Nghe lời chào hỏi từ ngoài cửa, chưa trông thấy nhau.
(5) Ý: Khách là khách quý, từ rất xa tới.
(6) Khách quý đã tới, mau thu dọn nhà cửa.
(7) Bố mẹ bị chê cười là con gái vụng dại.
(8) Rôm rả, vui sướng quá
(9) Xóm này: Xóm của em, cảnh xóm này buồn tẻ. Lỗi nói nhún nhường,
cốt đề cao khách.
(10) Xóm trên: xóm quê anh.
(11) Hiểu tương tự như ghi ở chú thích 1
(12) Ví bài hát như hoa thơm, quả ngọt.
(14) Hát giãi bày tâm sự
(15) Ý: ít chuyện, ít bài hát, khả năng kém. Khách vẫn nhúng nhường,
muốn khước từ trước khi vào cuộc hát.
(16) Bố mẹ cô gái. Trong cuộc hát, các lứa tuổi thanh niên, trung niên,
người già đều có thể tham dự, làm cố vấn.
(17) Đồng bạc "đầm xoè" thời thuộc Pháp, bằng bạc thật. Đồng bào
thường dùng để kéo đồ nữ trang. Tặng bạc già coi như gửi tặng vật tình
yêu.
TIẾNG HÁT MỒ CÔI (I)
Mẹ chết đã lâu rồi,Bố chết đã lâu rồi,Mưa về (1), trốn gốc cây,Mưa về, trú gốc cối.Trốn dưới cây không xong,Trú dưới cối không đượcNước từ cành rơi xuốngNước theo lá giỏ giọtMưa về, dựa hang đá:Hang đá nước chảy buốt.
Bố bỏ mình lúc bé,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 143
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mẹ bỏ mình lúc bé,Con chim xây chín tổ,Mình phải làm chính nhà (2),Chim xây nổi mười tổ,Mình làm nổi mười nhà.
Bố bỏ mình lúc nhỏ,Muốn uống không có rượu,Muốn ăn không có đường.Mẹ bỏ mình lúc nhỏ,Muốn may không có vải,Muốn mặc không có quần.Làm nhà không có anh,Làm cửa không có em,Một con sức không đủ (3)Nhiều con sức mới nên!
(1) Mưa tới.
(2) Mồ côi bơ vơ, đi lang thang. Trèo cây chơi, kiếm quả ăn. Thấy
nhiều tổ chim. Tự hỏi, chim làm được tổ mình là người sao không làm nổi
nhà… Làm chín nhà, mười nhà; vừa nói lòng tự trọng, vừa nói niềm mơ
ước.
(9, 10: ý nói số nhiều).
(3) Một con sức: một người.
TIẾNG HÁT MỒ CÔI (II)
Bố bỏ, mình còn bé,
Mẹ bỏ, mình còn nhỏ.
Bố chết, mình chưa bò,
Mẹ chết, mình chưa đứng
Bố đi, mình nằm địu
Mẹ đi, đầu còn chàm
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 144
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Trồng ngô, nương không có,
Trồng lúa, ruộng đâu ra?
Đói từ một hạt cơm,
Khát từ một giọt nước.
Muốn đi áo đâu mặc,
Ra đường, manh quần rách,
Nhìn áo, áo hở nách,
Quần ngắn, quần hở đùi (1)
Đời mình khổ thế này,
Thân tôi sao cực vậy?
Con chim kêu trên đá,
Chim hót từ ngọn cây.
Chim mách bảo tôi rõ,
Chim dạy tôi điều hay:
"Người ơi, tìm dao quắm,
Dao quắm giắt sau lưng.
Người hỡi, tìm cái cuốc,
Vác cái cuốc lên vai.
Đất bằng người tìm tới,
Tìm đất nơi đầu suối.
Dao quắm phát sạch cây,
Người được nương đất bằng,
Cuốc kia, người bập xuống,
Người được nướng đất xốp!"
(Mồ côi nghe theo lời chim. Vỡ nương, làm đất. Đến lúc gieo trồng.
Trồng gì? Gieo gì?)
Người phát nương trồng gừng (2)
Mình phát nương trồng lúa,
Người lo trồng quả đủ (3),
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 145
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Mình lo xới nương ngô.
Ngày qua, ngày lại qua,
Tháng đi, rồi tháng tới.
Gieo lúa, lúa đâm bông,
Vun ngô, ngô nở bắp.
Tay mình nâng hạt thóc,
Hạt thóc mình làm ra.
Tay mình đỡ quả ngô,
Quả ngô mình trồng được,
Đêm nằm, không chăn đắp
Đêm ngủ, lạnh tấm thân.
Ra đường, quần áo rách,
Nhìn người, tủi đời mình.
Chim hót từ ngọn cây,
Chim dạy tôi điều mới:
"Người ơi,
Manh áo nơi con mắt,
Người hỡi,
Mảnh chăn ở bàn tay.
Con mắt người học nghề,
Bàn tay người may cắt!"
Nghe chim, để ngủ ấm,
Ngày đủ quần áo lành.
Cọc buộc có bò rồi,
Chuồng đã sẵn lợn nuôi.
(Mồ côi nên người. Nhiều chuyện vui đến)
Mồ côi này biết lớn,
Trong nhà nhiều chuyện vui
Mồ côi này nên người,
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 146
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
Đi nương có chồng vợ,
Về nhà vui trẻ thơ.
Mồ côi nay biết lớn,
Bò đã mượt lông bò,
Lợn béo tròn thân lợn
Trong sân, gà đi lại,
Dòng suối, đàn cá bơi.
Đói, sẵn cơm đầy bát,
Khát, sẵn nước đầy vầu (4).
Quần dài đến gót chân,
Áo dài đến bàn tay.
Trong nhà, thân ấm áp,
Ra đường nào kém ai!
(1) Đồng bào ở vùng rét, không bao giờ mặc áo ngắn tay quần
đùi. Quần áo như thế này là vì rách quá, phải xé mãi, cộc mãi đi.
(2) Người ta dư dật, lúa ngô thừa ăn. Trồng gia vị để ăn với thịt.
(3) Ống vầu dùng để lấy nước, đựng nước.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................4
CHƯƠNG 1...............................................................................................7
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI Ở HUYỆN
ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG...........................................................7
1.1 Điều kiện tự nhiên...........................................................................7
1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.................................................................8
2.1.1. Lịch sử tộc người Lô Lô..........................................................9
1.2.2. Đặc điểm kinh tế của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang. 9
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 147
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
1.2.3. Phong tục tập quán...............................................................11
1.2.4. Văn học nghệ thuật dân gian.................................................17
1.2.5. Lễ tết:.....................................................................................17
CHƯƠNG 2.............................................................................................19
ĐẶC ĐIỂM DÂN CA LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG...............19
2.1. Khái quát về dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang....................19
2.2. Dân ca trong lễ hội.......................................................................22
2.2.1. Lễ tế trời đất..........................................................................23
2.2.2. Lễ cầu mưa............................................................................27
2.3. Dân ca trong sinh hoạt..................................................................30
2.3.1. Hát ru....................................................................................30
2.3.2. Hát than thân.........................................................................32
2.4. Dân ca giao duyên........................................................................35
2.5. Vài nét về âm nhạc dân gian Lô Lô.............................................39
CHƯƠNG 3.............................................................................................43
SỬ DỤNG DÂN CA LÔ LÔ TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN
TUYÊN TRUYỀN..................................................................................43
3.1. Dân ca trong sinh hoạt cộng đồng của người Lô Lô ở Đồng Văn
hiện nay...............................................................................................43
3.2. Hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động trong công tác xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở............................................................45
3.3. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ
động của huyện và vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin
tuyên truyền.........................................................................................47
3.3.1. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền
cổ động của huyện Đồng Văn.........................................................47
3.3.1.1. Công tác thông tin lưu động...........................................48
3.3.1.2. Công tác chiếu phim lưu động......................................49
3.3.1.3. Công tác cổ động trực quan...........................................49
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 148
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan
3.3.1.4. Công tác truyền thanh truyền hình.................................49
3.3.2. Vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên
truyền...............................................................................................50
3.3.2.1. Vận dụng dân ca Lô Lô trong thông tin lưu động..........50
3.3.2.2. Vận dụng trong văn nghệ quần chúng...........................53
3.3. Một số giải pháp để bảo tồn và phát triển dân ca Lô Lô trong cuộc
sống hiện nay.......................................................................................55
KẾT LUẬN.............................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................61
PHỤ LỤC................................................................................................63
Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 149