1
Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông : Luận văn ThS. Giáo dục học: 60 14 10 Đinh Thị Doanh ; Nghd. : PGS.TS. Trần Khánh Thành
1. Lí do lựa chọn đề tài
Lựa chọn đề tài “Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông” làm
công trình nghiên cứu khoa học, chúng tôi dựa vào các lí do sau:
1.1. Do yêu cầu của xã hội đối với dạy học văn hiện nay Thực tiễn giảng dạy đã chỉ ra rằng dạy học văn ở nhà trường phổ thông
Việt Nam hiện nay bên cạnh những thành công đáng kể vẫn còn bộc lộ không ít
những hạn chế về nhiều mặt. Thực trạng giờ dạy văn còn đơn điệu, tẻ nhạt
khiến học sinh không hứng thú học văn, điều đó dẫn đến chất lượng các giờ dạy
văn ngày càng giảm sút, các tác phẩm văn học có giá trị chưa thực sự tìm được
bến đỗ xứng đáng trong lòng bạn đọc. Tất cả những điều đó khiến cho xã hội
đang đổ dồn mọi con mắt và dư luận vào dạy và học môn văn, mạnh mẽ hơn,
còn trở thành một làn sóng phản đối quyết liệt vào chương trình, sách giáo khoa
và phương pháp dạy học bộ môn. Điều đó khiến cho các nhà chuyên môn, các
nhà sư phạm, các nhà phương pháp và nhất là những giáo viên trực tiếp giảng
dạy Ngữ văn không khỏi giật mình.
1.2. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học văn nói riêng Vai trò của người dạy và người học trong nhà trường hiện nay đã thay
đổi. Người dạy không còn là nguồn tri thức duy nhất, độc nhất cung cấp kiến
thức cho HS nữa mà trở thành người định hướng, người “bạn lớn” đồng hành
cùng HS trên con đường đi tìm chân lí khoa học và giải mã nghệ thuật. Người học không còn là cái “bình chứa”, là cái “phễu” để người thầy “nhồi nhét” và
“rót” kiến thức vào nữa, mà là “một cánh chim - biết tư duy” luôn chứa đựng
2
khát vọng khám phá và bay lên. Có thể khẳng định, mục đích cao nhất của việc
đổi mới phương pháp là giúp HS có thể chủ động tự học dưới sự hướng dẫn của
GV. Trong giờ học, HS phải thực sự hoạt động, phải luôn luôn động não chứ
không phải chỉ có hoạt động bên ngoài, hoạt động hình thức. Môn văn trong
nhà trường cũng nằm trong quỹ đạo chung của việc đổi mới PPDH ấy.
1.3. Do yêu cầu từ phía bản thân bộ môn Bản thân văn học là sản phẩm của trí tuệ và tình cảm, của cảm xúc nội tâm
bên trong chủ thể mỗi nhà văn, đó là kết quả của những bộ óc thông minh và
đầy sáng tạo của người nghệ sĩ, nó chứa đựng không cùng những nội dung và ý
nghĩa. Cho nên, bản thân văn học yêu cầu người tiếp nhận nó cũng phải bằng trí
thông minh, óc sáng tạo, khả năng liên tưởng và tưởng tượng, điều này, phương
pháp dạy học cũ đã “vô tình bỏ qua”. Mặt khác vấn đề dạy theo loại thể của TP
cần được đặc biệt chú ý bởi đặc trưng thể loại TPVC sẽ chi phối các cách tiếp
nhận. Mỗi thể loại, mỗi TP thuộc các thể loại khác nhau đều đòi hỏi có cách
dạy, cách học phù hợp.
1.4. Nguyễn Minh Châu - một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại nửa
sau thế kỷ XX Đặc biệt ông là người “mở đường tinh anh và tài năng” người “đi được xa
nhất”, đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng cho công cuộc đổi mới văn
học nước nhà. Truyện ngắn CTNX là TP mới được đưa vào chương trình THPT
nên chưa có sự thống nhất về cách hiểu, cách đánh giá, cách giảng dạy.
Với tất cả những lí do như trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu khoa học “Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc dạy học tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông” như là một niềm
say mê và cũng là một thử thách, một hướng tìm tòi nhằm nâng cao hiệu quả
công tác trong thực tế giảng dạy của bản thân, đồng thời hi vọng góp một tiếng
nói nhỏ bé vào công cuộc đổi mới PPDH văn trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
3
2.1. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại với một sự nghiệp văn học đồ sộ. Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Minh Châu được in trong Nguyễn Minh Châu toàn tập (5 tập) do nhà
xuất bản Văn học ấn hành năm 2001. Đã có rất nhiều bài báo, nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều chuyên luận dày công về tác giả và TP của Nguyễn Minh
Châu. Hầu hết các bài viết về con người và TP của ông được tập hợp trong
Nguyễn Minh Châu – con người và tác phẩm do hai tác giả Tôn Phương Lan và
Lại Nguyên Ân sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn, và Nguyễn Minh Châu – kỉ yếu hội thảo 5 năm ngày mất của Hội văn học nghệ thuật Nghệ An. Gần đây
nhất, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn cho ra mắt cuốn Nguyễn Minh Châu - về tác gia và tác phẩm. Tìm hiểu sâu về phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
tác giả Tôn Phương Lan có công trình dày dặn và sâu sắc Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tri Nguyên tìm đến Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, Nguyễn Văn Hạnh với
Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, Lã
Nguyên tìm hiểu Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy
nghệ thuật...Ngoài ra còn có nhiều chuyên luận, bài báo, khoá luận tốt nghiệp
của sinh viên, luận văn thạc sĩ của học viên cao học và luận án tiến sĩ của
nghiên cứu sinh về tác gia, TP Nguyễn Minh Châu mà theo chúng tôi có thể lấy
làm dữ kiện để phát huy, phát triển tư duy, trí thông minh, óc sáng tạo của HS. 2.2. Tác giả Nguyễn Minh Châu trở nên quen thuộc với GV và HS THPT từ
lâu, với truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng- một TP viết về đề tài chiến tranh
mà đẹp như một áng thơ trữ tình. Vấn đề giảng dạy TP này cũng đã được đề cập
đến ở nhiều công trình, bài viết. Riêng chuyên ngành phương pháp cũng đã
nghiên cứu TP hoặc từng khía cạnh của TP để giúp việc giảng dạy đạt hiệu quả.
Có thể kể đến Cái hay, cái đẹp của Mảnh trăng cuối rừng, (Nguyễn Thanh
Hùng); Vẻ đẹp của Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Văn Long); Vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu (Nguyễn Văn Bính); Cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy (Nguyễn Hòa); Nghệ thuật kể
4
chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng (Thanh Tú)... Nhưng trong chương trình
Ngữ văn 12 mới, truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng được thay bằng truyện
ngắn CTNX. Một vấn đề lại được đặt ra là việc dạy học TP mới này như thế
nào? Trong các chuyên luận, bài viết CTNX đã được đề cập đến ở khá nhiều góc
độ. Trần Đình Sử với “Bến quê”- một phong cách nghệ thuật giàu chất triết lý,
Nguyễn Trọng Hoàn với Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu, Dương
Thị Thanh Hiên với Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tiết với Một số cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan với
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu... Nhìn chung là truyện ngắn CTNX
mới chỉ được tiếp nhận trên góc độ nghiên cứu, còn về góc độ phương pháp dạy
học thì mới có một vài luận văn thực hiện bên trường ĐHSP1 như Định hướng
dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Luận
văn thạc sỹ khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Lan Hương, 2004); Vận dụng quan điểm dạy học phát triển trí thông minh của học sinh vào dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục
của Đinh Văn Đoàn, 2008); Định hướng hoạt động học sáng tạo cho học sinh
lớp 12 khi dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Luận văn
thạc sỹ khoa học giáo dục của Hoàng Văn Vĩnh, 2008), nhưng chưa có công
trình, bài viết, đề tài nào đi sâu vào vấn đề giảng dạy truyện ngắn này từ hướng
tiếp cận thi pháp một cách đầy đặn.
Song những công trình nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Minh Châu và
truyện ngắn CTNX là những tài liệu vô cùng quý báu giúp chúng tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu khoa học này.
3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đổi mới tư duy nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu sau 1975; truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, CTNX; việc
giảng dạy TP Nguyễn Minh Châu cho HS lớp 12 từ hướng tiếp cận thi pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
5
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đặc trưng thi pháp thể loại, thi pháp tác
giả, hành trình sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Minh Châu và sự biến đổi về thi
pháp; và từ hướng tiếp cận thi pháp soạn giáo án thể nghiệm với truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu (qua tác phẩm CTNX).
5. Mục đích nghiên cứu Vận dụng lý thuyết về thi pháp thể loại, thi pháp tác giả vào việc dạy học
TP Nguyễn Minh Châu trong nhà trường THPT nhằm góp phần đổi mới PPDH
Ngữ văn và thực hiện những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài mà ngành
giáo dục đã đặt ra: không dạy đọc - chép; không tiêu cực trong thi cử...qua đó
nhằm giải quyết một số khó khăn mà chương trình, SGK, và PPDH mới đề ra,
giúp cho việc giảng dạy những TP mới được đưa vào nhà trường được hiệu quả,
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn văn trong nhà trường hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chính sau đây: phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp khảo sát, thực
nghiệm, thống kê, phân tích.
7. Đóng góp của luận văn - Về lý luận: khẳng định hướng đổi mới đúng đắn, khả thi của PPDH
TPVC từ hướng tiếp cận thi pháp.
- Về thực hành: khảo sát và đánh giá thực trạng dạy học TP Nguyễn Minh
Châu ở lớp 12 nhằm hoàn thiện mô hình dạy TPVC từ hướng tiếp cận thi pháp,
giúp đồng nghiệp có thêm tư liệu soạn giảng, nâng cao chất lượng dạy học
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nói riêng, thể truyện ngắn nói riêng.
8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề dạy học văn theo hướng Thi pháp học và hành
trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu cùng sự biến đổi về thi pháp.
6
Chương 2. Thực trạng giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu ở nhà
trường phổ thông và việc vận dụng thi pháp học trong việc giảng dạy tác phẩm
Nguyễn Minh Châu.
Chương 3. Thiết kế bài giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ DẠY HỌC VĂN THEO HƯỚNG THI PHÁP HỌC VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN MINH CHÂU CÙNG
SỰ BIẾN ĐỔI VỀ THI PHÁP
1.1. Một số vấn đề dạy học văn theo hướng Thi pháp học
Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường. Nó xuất hiện
ở Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote và nó chỉ trở thành
một bộ môn khoa học vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang Âu - Mỹ
và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp học đã thâm nhập
vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc, mãi đến sau Đổi
mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời thượng được
nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học, Đại học và có
trong sách bồi dưỡng thường xuyên GV trung học. Tinh thần Thi pháp học đang
thấm dần trong SGK, trong giờ dạy - học văn và trong bài làm văn HS.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Trong nhà trường, thi pháp
học là cách thức phân tích TP bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến
những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác,
nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú
ý đến những yếu tố hình thức TP như: hình tượng nhân vật - không gian - thời
gian, kết cấu - cốt truyện - điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong TP
phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần
7
Đình Sử). Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức.
Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của
TPVH nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Dạy Văn theo hướng Thi
pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật TP.
Việc dạy - học văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế
giới. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này:
chúng ta đã có một đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu; việc phổ
biến quan điểm Thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm;
SGK Ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học; các đề
thi và đáp án môn Ngữ Văn gần đây đã yêu cầu HS chú trọng phân tích hình
thức nghệ thuật. Nhưng Thi pháp học có biến thành thực tiễn sinh động hay
không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực của GV và HS trong
giờ dạy - học văn.
1.2. Đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 - một nhà văn
“mở đường tinh anh” và “đi được xa nhất”
1.2.1 Đổi mới ở quan niệm nghệ thuật và tư duy nghệ thuật
Trước 1975, Nguyễn Minh Châu đặc biệt thành công ở đề tài người lính.
Những TP Cửa sông (tiểu thuyết, 1970); Những vùng trời khác nhau (truyện
ngắn, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) đã thể hiện cảm xúc mãnh
liệt về lịch sử hào hùng, về vẻ đẹp lộng lẫy chất tráng ca của con người Việt
Nam, tâm hồn Việt Nam. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này vừa
mang đặc điểm thi pháp của một giai đoạn văn học vừa thể hiện những tìm tòi
sáng tạo riêng.
Sau 1975, đặc biệt từ những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
đã khác hẳn. Từ cảm hứng anh hùng cách mạng chuyển sang cảm hứng về thế
sự với “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người”. Nếu trước
đây truyện của Nguyễn Minh Châu chỉ tập trung vào phía tốt, vào mặt sáng của
hiện thực, của lòng người và ông tin vào những điều chân thật ông mô tả sẽ
8
quyết định sự thuyết phục của nghệ thuật thì nay, truyện của Nguyễn Minh
Châu lại chú ý vào cả mặt tốt, mặt xấu, cả phía sáng, phía tối của cuộc sống con
người để từ đó nhà văn gửi tới người đọc bức thông điệp khẩn thiết: “Xin mọi
người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để tự suy ngẫm
về chính mình”. Đó cũng là âm hưởng chủ đạo chi phối toàn bộ giai đoạn
“chuyển mình” có tính chất “bước ngoặt”của nhà văn trước khát vọng đổi mới
cả đối tượng lẫn phương thức thể hiện TP.
1.2.2 Những đổi mới trong thi pháp thể loại của Nguyễn Minh Châu
1.2.2.1. Đổi mới về đề tài và phạm vi phản ánh
Truyện ngắn sau 75 của Nguyễn Minh Châu tập trung vào đề tài thế sự, đời
thường. Lấy số phận cá nhân làm khởi điểm, làm mục tiêu hướng tới mà cũng
là trung tâm của lăng kính nghệ thuật đã làm cho trang viết của Nguyễn Minh
Châu xác thực, đa dạng và cận nhân tình hơn. Khi đi sâu vào số phận con
người, ông cố gắng khám phá chiều sâu của tâm lý, tình cảnh và tầm khái quát
xã hội của nó. Theo hướng tiếp cận hiện thực mới mẻ này, Nguyễn Minh Châu
qua TP của mình đã góp phần phát hiện về những quy luật vận động sâu kín của
đời sống, thế sự, nhân sinh. Chính điều đó đã làm cho toàn bộ sự nghiệp của
Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo, nồng nhiệt.
1.2.2.2. Đổi mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Trước 75, các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường là những nhân vật
chính diện, thuần nhất và đơn tính cách, sau 75 ông thể hiện sinh động các nhân
cách cá nhân cá thể. Nhà văn đặc biệt chú trọng đến việc thể hiện diễn biến tâm
lý, đời sống nội tâm của nhân vật khiến con người là "Con người ấy" và nó biểu
hiện đích thực con người bên trong con người. Nét đổi mới nổi bật nhất trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu sau 75 là sự dùng độc
thoại nội tâm để miêu tả tâm lý nhân vật, đời sống tình cảm của nhân vật và
khắc họa tính cách nhân vật. Cùng với độc thoại nội tâm nhà văn còn phác họa
nhân vật bằng những trạng thái tâm lý, tinh thần sát thực - đó là những nhân vật
9
luôn không đồng nhất với chính nó: hành động không đồng nhất với lời nói, lời
nói không đồng nhất với nội tâm và dáng vẻ bên ngoài không đồng nhất với tâm
hồn. Họ là những người lưỡng diện
1.2.2.3. Những đổi mới về cốt truyện và tình huống truyện
Về cốt truyện: Truyện ngắn trước 75 của Nguyễn Minh Châu có cốt truyện
kiểu truyền thống, các sự kiện tình tiết được sắp xếp sao cho câu chuyện diễn ra
có lớp lang thống nhất và thường theo trật tự tuyến tính để làm sáng tỏ tư tưởng
chủ đề. Những truyện ngắn sau 75 của ông cốt truyện đã có nhiều thay đổi.
Biểu hiện rõ nhất là sự nới lỏng cốt truyện, chuyện kể không còn theo trình tự
thời gian nữa, thậm chí nhiều truyện ngắn của ông dường như không có chuyện
mà chỉ là những mảnh đời lặt vặt, những trạng thái như là vu vơ... những xung
đột chỉ đưa ra không giải quyết. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
trong những năm 80 chúng tôi thấy một số kiểu cốt truyện nổi bật sau: Cốt
truyện xây dựng trên những nguyên tắc luận đề (Sắm vai, Một lần đối chứng);
cốt truyện về sinh hoạt thế sự (Đứa ăn cắp, Hương và Phai…); cốt truyện dựa
vào những số phận đời tư (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ
Giát…). Có thể nói, việc nới lỏng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là những
cách tân đáng quý, qua đó, nhà văn đã góp phần đưa văn học về gần với cuộc
đời, con người hơn, vừa mở rộng khả năng phản ánh hiện thực của văn xuôi tự
sự, vừa làm giảm bớt tính loại biệt - ước lệ và sự xa cách của nội dung nghệ
thuật với hiện thực cuộc sống.
Về tình huống truyện: Đây cũng là một trong những sáng tạo của nhà văn ở
lĩnh vực thi pháp thể loại, nó ghi đậm phong cách độc đáo của nhà văn. Khảo
sát truyện ngắn sau 75 của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi gặp một số dạng tình
huống cơ bản sau: tình huống tự nhận thức (Bến quê, CTNX…); tình huống thắt
nút (Phiên chợ Giát…).
1.2.2.4. Những đổi mới về nghệ thuật trần thuật
10
Những đổi mới của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những năm 80, chúng ta
thấy ngôn ngữ truyện ngắn của ông có mấy đặc điểm nổi bật sau: đó là ngôn
ngữ văn học được nuôi trong lòng tiếng nói đời sống; đó là ngôn ngữ tăng
cường tính tốc độ, mang lượng thông tin cao, có tính triết luận sâu sắc.
Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở truyện
ngắn sau 75, Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn phương thức trần thuật với đa
dạng hoá điểm nhìn nghệ thuật. Trong mỗi truyện ngắn của ông, nhà văn không
còn là người phán xét cuối cùng và người đọc cảm nhận nhân vật bằng chính
con người "bên trong" của mình. Điểm nhìn trần thuật luôn được nhà văn thay
đổi để tạo ra hệ thống giá trị khác nhau về cùng một vấn đề một con người qua
đó, nhà văn làm cho hiện thực phản ánh trong TP được đánh giá theo nhiều
cách khác nhau.
Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Giọng điệu
trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 75 thật phong phú, nó như
sự phỏng nhại âm thanh đa dạng, đa sắc thái của cuộc sống đời thường. Ở
truyện này là giọng điệu đùa vui hóm hỉnh, ở truyện kia lại là giọng chua chát đến
xót xa, truyện khác lại là giọng hoài nghi chất vấn đay đả hoặc từng trải, lọc lõi...
Song giọng điệu trần thuật chủ đạo làm nên những sáng tác của nhà văn vẫn là
giọng trữ tình, trầm lắng đượm nhiều trắc ẩn, suy tư, day dứt. Chúng ta có thể thấy
rõ điều này ở một số truyện ngắn tiêu biểu của ông mà Bức tranh là truyện thể
hiện sự thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trần thuật của nhà văn.
Những đổi mới trong việc xây dựng biểu tượng nghệ thuật và chi tiết nghệ
thuật. Trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, biểu tượng luôn chiếm một
vị trí quan trọng, từ đó “Nó tạo nên lời ngầm trong truyện của ông” [56]. Đã có
nhiều người nghiên cứu về phương diện này (Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Tri
Phương, Tôn Phương Lan …). Nếu trước 75, những ẩn dụ, những biểu tượng
trong các sáng tác của ông thường đơn nghĩa, mang hàm ý ca ngợi một chiều thì
11
sau 75, chúng thường mang tính chất hàm súc, đa nghĩa, có một sức ám ảnh rất
lớn, gợi những day dứt, trăn trở khôn nguôi. Cùng với những đổi mới mà chúng
ta đã trình bày ở trên thì truyện ngắn sau 75 của Nguyễn Minh Châu còn có rất
nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Không truyện ngắn nào của ông không có chi
tiết đắt giá mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng.
Tóm lại, việc khảo sát, đánh giá những đổi mới truyện Nguyễn Minh Châu
đem đến ý nghĩa thiết thực cho công tác giảng dạy TP của ông trong nhà trường
phổ thông đạt kết quả cao, đặc biệt với công việc tiếp cận TP từ hướng thi pháp,
nó giúp GV bám sát đối tượng để có sự định hướng đúng đắn cho hoạt động
dạy và học. Khi chúng ta đã hiểu TP thấu đáo thì sẽ tìm ra được các phương
pháp thấu đáo, biện pháp tối ưu để thực hiện mục đích đào tạo và giáo dục.
1.3. “Chiếc thuyền ngoài xa” - một tác phẩm khẳng định tài năng và vị trí
của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Có thể khẳng định rằng, truyện ngắn CTNX không phải là cái mốc đầu tiên
đánh dấu chặng đường đổi mới của Nguyễn Minh Châu, mà đó là TP minh
chứng cho sự thành công trong quá trình đổi mới đó. Sự đổi mới trong cách xây
dựng nhân vật của nhà văn kích thích khát vọng tìm kiếm chân lý nghệ thuật
của HS. Cách xây dựng tình huống truyện trong CTNX sẽ tạo ra tình huống học
tập tốt cho người học, sự đổi mới ngôn từ của TP góp phần mở rộng vốn ngôn
ngữ cho HS. Những cái mới, cái lạ trong TP có khả năng khơi dậy những suy
nghĩ sáng tạo của HS, khích lệ năng lực tư duy nghệ thuật cũng như khả năng
cắt nghĩa, đánh giá, thẩm bình của HS, từ đó các em có cái nhìn cà cách nghĩ
đúng đắn và sâu sắc hơn.
12
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY TÁC PHẨM
NGUYỄN MINH CHÂU Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÀ
VIỆC VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC TRONG GIẢNG DẠY
TÁC PHẨM NGUYỄN MINH CHÂU
2.1. Tình hình giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong nhà trường
phổ thông
2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn khi giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh
Châu trong nhà trường phổ thông
2.1.1.1. Những thuận lợi
Về phía tác giả và TP: không có khoảng cách quá lớn giữa nhà văn, TP
và bạn đọc HS về mặt ngôn ngữ, tư duy nghệ thuật, hoàn cảnh và môi trường
sống; TP mới, chương trình, SGK mới, phương pháp dạy học hiện đại sẽ tạo
ra những kích thích mạnh mẽ, làm tăng hứng thú dạy của GV và hứng thú
tiếp nhận của HS.
Về phía GV và HS: GV đã được tìm hiểu và từng giảng dạy về tác giả và
TP Nguyễn Minh Châu (nếu là GV lâu năm) hoặc cũng đã được học tập, được
nghiên cứu đầy đủ trong thời gian học tập ở trường đại học; HS lớp 12 là lứa
tuổi luôn có nhu cầu bộc lộ, thể hiện và khẳng định mình, đây là thuận lợi lớn
để GV khơi dậy trí tò mò, nhu cầu khám phá, lòng ham hiểu biết…để phát huy
triệt để trí thông minh ở các em.
2.1.1.2. Khó khăn.
Về phía tác giả và TP: Đây là TP tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp đổi mới của ông, vì thế tiếp cận với những
cái mới mẻ, chệch khỏi thói quen xưa nay vốn không phải là chuyện dễ dàng.
TP mới, nằm trong chương trình, SGK mới, với phương pháp dạy học hiện đại
nên chắc chắn sẽ có nhiều bỡ ngỡ. Toàn bộ TP có dung lượng khá dài, với 90
phút, nếu GV khai thác rộng sẽ không sâu, ngược lại chỉ đi sâu một số nội dung
13
trọng tâm sẽ dễ phá vỡ tính chỉnh thể của TP và dễ trượt ra khỏi ý đồ nghệ thuật
của nhà văn.
Về phía GV và HS: Tiếp nhận cái mới mà lại là cái mới trong nghệ thuật
là cả một vấn đề nan giải, vì thế GV không thật sự chú tâm và cẩn thận thì dễ
dẫn HS đi đến những dị ứng hoặc phản tiếp nhận.
Từ những khó khăn và thuận lợi trên, chúng tôi thấy, tiếp cận thi pháp học
trong giảng dạy truyện ngắn CTNX có những ưu điểm sau:
- Đây là hướng dạy học phù hợp với đòi hỏi về năng lực con người trong
thời điểm hiện nay và yêu cầu đào tạo của nhà trường hiện đại.
- Phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục và đào tạo trong thời điểm hiện
tại cũng như mai sau: đó là công cuộc đổi mới PPDH, đưa đất nước mau chóng
hội nhập với khu vực và quốc tế.
- GV và HS phải làm việc thực sự, phải hoạt động triệt để trong giờ học.
HS phải chuẩn bị bài thật kĩ trước khi đến lớp, phải học một cách thông minh,
sáng tạo trong giờ học và làm khảo sát sau khi học xong TP. GV luôn phải có sẵn
hệ thống câu hỏi theo hướng gợi tìm, nhằm phát triển năng lực của HS đồng
thời để đánh giá năng lực của các em. Cả người dạy và người học đều phải phát
huy tinh thần dân chủ, sẵn sàng tham gia tranh luận để đi đến chân lí.
Tóm lại, vận dụng thi pháp học trong việc giảng dạy TPVC nhằm đạt
mục đích giáo dục và đào tạo của bộ môn: góp phần đổi mới PPDH TPVC,
giúp học sinh khai thác chiều sâu của TP (tức là khai thác ngay từ nhan đề, từ
những chi tiết nghệ thuật, những hình ảnh, biểu tượng trong TP cho đến hệ
thống nhân vật, tình huống truyện), giúp các em khai thác tính đa nghĩa, đa
chiều cũng như kết cấu vẫy gọi của TPVC. Dạy học TPVC từ hướng tiếp cận thi
pháp giúp HS có khả năng tự học dưới sự giúp đỡ của GV, giúp HS tiếp nhận
TP một cách sáng tạo. Điều này là hết sức cần thiết, nhất là trong xã hội ngày
nay, nói như các nhà phương pháp là dạy cái gì không quan trọng bằng dạy cho
14
HS như thế nào, bởi lẽ nhà trường không thể là người thầy vĩnh viễn của HS mà
chính xã hội, chính cuộc đời mới đóng vai trò đó.
2.1.2. Điều tra thực trạng dạy - học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” ở
lớp 12 trung học phổ thông
Bắt đầu từ năm học 2006-2007, Bộ GD-ĐT chính thức áp dụng chương
trình SGK THPT mới trên phạm vi toàn quốc, đến năm học 2008-2009, chương
trình SGK đó chạy hết một vòng. Như vậy năm học 2010-2011 là năm học thứ
ba áp dụng đại trà chương trình SGK mới cho HS lớp 12. Truyện ngắn CTNX
của Nguyễn Minh Châu là TP mới được đưa vào trong chương trình Ngữ văn
12 thay cho truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng ở SGK văn 12 cũ. Theo phân
phối chương trình do Bộ GD-ĐT ban hành, đến tuần 25 tiết 70-71 ban Cơ bản,
tuần 26 tiết 93-94-95 ban Nâng cao các em mới được học TP này. Để hoàn
thành luận văn thạc sĩ theo quy định của trường Đại Học Giáo Dục, chúng tôi
đã tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng dạy - học truyện ngắn CTNX tại
trường THPT Ngô Quyền - thành phố Nam Định - tỉnh Nam Định.
* Đối tượng khảo nghiệm: GV trực tiếp giảng dạy và HS khối lớp 12.
* Tư liệu khảo nghiệm: SGK Ngữ văn 12 (chương trình Cơ bản và Nâng
cao); Chuẩn kiến thức kỹ năng, giáo án soạn giảng của một số thầy cô trực tiếp
giảng dạy; vở ghi và vở soạn của HS; phiếu điều tra.
* Thời gian, địa điểm, cách thức khảo nghiệm. Chúng tôi tiến hành khảo
nghiệm trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2010 tại trường THPT Ngô
Quyền trên địa bàn thành phố Nam Định. Dự giờ kết hợp nghiên cứu tài liệu,
chúng tôi tiến hành so sánh SGK, SGV, bài soạn, vở ghi với lượng kiến thức cơ
bản cần truyền đạt theo Chuẩn kiến thức Ngữ văn, sau đó lấy ý kiến của GV và
HS rồi đưa ra nhận xét khái quát.
* Phân tích kết quả khảo nghiệm.
Qua việc điều tra, khảo nghiệm về tình hình dạy học truyện ngắn CTNX
của Nguyễn Minh Châu trên các đối tượng GV trực tiếp đứng lớp, HS, cùng
15
những tài liệu có liên quan, chúng tôi nhận thấy rằng: việc dạy và học của GV
và HS hiện nay là chưa thỏa đáng. Để dẫn đến tình trạng này có lẽ do các
nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Tư liệu dạy học truyện ngắn CTNX còn chưa chú trọng đến những kiến
thức về thi pháp loại thể, thi pháp tác giả.
- Mặc dù được đào tạo cơ bản, có hệ thống trong các trường sư phạm
nhưng đứng trước một yêu cầu mới - dạy học văn xuôi sau 1975 - GV không
phải là không có những khó khăn (định hướng bài soạn bị ảnh hưởng bởi tâm lý
thói quen dạy cũ; GV chưa chú ý đúng mức đến những cá tính sáng tạo của nhà
văn; giờ dạy còn đơn điệu, xa cách với nhận thức thẩm mỹ của HS, GV chưa có
các biện pháp thích hợp với đặc trựng loại thể của TP, chưa sử dụng linh hoạt
các phương pháp dạy học trong một giờ giảng; ngay ở khâu đọc- hiểu, GV cũng
chưa nhận thức đúng vai trò của thao tác quan trọng này).
- Về phía HS có rất nhiều nguyên nhân để lý giải cho tình trạng HS ngày
càng sao nhãng, hờ hững với môn văn trong đó phải kể đến nguyên nhân HS
ngày nay đang bị cuốn hút vào các trò chơi như hoạt hình, điện tử, truyện
tranh…Các em chưa xác định được đúng đắn, nghiêm túc về tầm quan trọng
của môn học này, đặc biệt ở các khối lớp tự nhiên. Đó chính là những rào cản
khiến các em không tập trung học.
Từ thực tế dạy - học TP CTNX chúng tôi nhận thấy trách nhiệm và công
việc của người GV vẫn còn khá nặng nề. Để góp phần nâng cao chất lượng giờ
dạy - học văn, chúng tôi đưa ra những giải pháp thiết thực, thích hợp, để dạy
truyện ngắn CTNX theo hướng mới - từ hướng tiếp cận thi pháp.
2.2. Đề xuất biện pháp vận dụng Thi pháp học trong việc giảng dạy tác
phẩm Nguyễn Minh Châu nói riêng, thể loại truyện ngắn nói chung
2.2.1. Dạy học tác phẩm văn chương theo thi pháp thể loại
Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn
bản. Tên gọi thể loại của TP cho ta biết: phạm vi và phương thức tiếp xúc, tái
16
hiện đời sống; hệ thống các phương tiện, biện pháp thể hiện tương ứng. Phân
loại TPVC chủ yếu dựa vào phương thức tái hiện đời sống; cấu tạo TP; loại đề
tài; chủ đề; thể văn: TPVC được chia làm ba loại chính: loại TP tự sự, loại TP
trữ tình, loại TP kịch.
Thể loại TP quy định cách thức và phương pháp định hướng dạy học của
GV và HS. Vấn đề dạy học theo đặc trưng thể loại đã được các nhà lý luận
nghiên cứu phương pháp quan tâm. Không thể có chung một loại phương pháp,
cách thức dạy và học cho tất cả các loại TP nói chung và từng TP nói riêng. TP
thuộc thể loại nào đòi hỏi cách dạy theo đặc trưng của thể loại ấy. Hơn thế nữa,
GV cần nhận ra sâu sắc “tính chất trữ tình”, “tính chất tự sự”, “tính chất kịch”
“tính chất luận đề” trong từng TP cụ thể, trong từng tác giả, và cụ thể hơn nữa là
thi pháp loại thể của nhà văn đó trong TP của họ. Vì lẽ đó truyện ngắn Rừng xà
nu của Nguyễn Trung Thành không thể giảng như TP tự sự được mà phải thấy
được đây là truyện trữ tình. Cũng như vậy, không thể phân tích theo loại tự sự
thuần tuý được khi giúp HS tiếp nhận TP Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Toả nhị kiều
(Xuân Diệu), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu). Bên cạnh đó, truyện
ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân lại vừa giàu chất trữ tình, vừa giàu kịch
tính. Thực tế giảng dạy TP khó khăn, phức tạp như vậy đòi hỏi GV và HS cần
trang bị những kiến thức về loại thể, đặc biệt là thi pháp loại thể để hiểu sâu sắc
truyện ngắn hơn. Khi xác định đúng đặc trưng thể loại của TP cần phân tích GV
sẽ lựa chọn được cách thức tổ chức, hướng dẫn định hướng phù hợp để giúp HS
nắm được chiều sâu, chiều xa của TP để quá trình dạy học thực sự đạt kết quả.
2.2.2. Hiểu được phong cách sáng tác và tạng nghệ sỹ của nhà văn
Để xác định được tính chất của loại trong thể thì điều đầu tiên chúng ta cần
phải làm là xác định được cái tạng riêng của từng nhà văn. Nếu không xác định
được thi pháp, tinh thần của nhà văn, ta chỉ dạy được cái tầng nghĩa cụ thể nào đó.
2.3. Một số giải pháp thiết thực khi dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa”
17
2.3.1 Đọc kết hợp khơi gợi hình ảnh và tâm trạng
Đọc văn, thơ được xem là hoạt động có tính đặc thù của quá trình chiếm
lĩnh TPVC. Đây là hoạt động quan trọng nhất bởi nhờ có nó người đọc mới có
thể nhập thân vào TP. Giải quyết tốt việc này, HS sẽ có năng lực đọc, hứng thú
đọc và khả năng tự đọc và tự học suốt đời. Các bước: B1: Đọc hiểu phần cấu
trúc ngôn ngữ của TP. B2: Đọc hiểu tầng cấu trúc hình tượng thẩm mỹ cuả TP.
B3: Đọc hiểu tầng cấu trúc tư tưỏng thẩm mỹ của TP. Có các kiểu đọc sau: đọc
kỹ, đọc sâu, đọc có định hướng mục đích, đọc có sáng tạo - đọc có bổ sung.
Với CTNX, HS phải tìm đọc toàn bộ TP vì đây là một truyện ngắn. Đọc
trôi chảy, có sự diễn cảm. Cần đọc kĩ TP, đọc nhiều lần để nắm được cốt
truyện, bước đầu nắm được vấn đề cuộc sống mà nhà văn đặt ra trong TP thông
qua đề tài, chủ đề tư tưởng. Riêng với HS giỏi: nâng cao hơn là đọc sáng tạo, bổ
sung để nhận ra diện mạo dung lượng cuộc sống trong bố cục, kết cấu TP rồi từ
đó phát hiện ra hướng đích tư tưởng trong TP hay viễn cảnh mà nhà văn muốn
dẫn người đọc đi tới. Tri thức khi đọc TP mà HS cần phải nắm được: xác định
được đề tài của TP, xác định được nhân vật chính của truyện, xác định và bước
đầu hiểu được ý nghĩa của những câu văn, đoạn văn tiêu biểu đặc sắc dồn nén
thông tin, xác định được giọng điệu đọc cho khác nhau ở mỗi phần truyện, nhận
biết được tình cảm, thái độ, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn thể
hiện qua bức tranh đời sống trong TP, tthấy được ý nghĩa luận đề của nó qua
phần mở và kết thúc TP.
2.3.2. Sử dụng linh hoạt các dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực sáng
tạo của HS
Câu hỏi GV đặt ra cho HS phải gây được hứng thú, định hướng cho các em
chú ý vào TP đồng thời đặt ra vấn đề khoa học đòi hỏi các em phải suy nghĩ tìm
tòi tự học, phân tích giải thích và lí giải TP trên cơ sở hiểu biết của bản thân.
Trong một giờ dạy học TPVC, GV nên sử dụng nhiều dạng câu hỏi (câu hỏi tái
hiện, câu hỏi gợi mở, câu hỏi phát hiện, câu hỏi nêu vấn đề…) để kích thích sự
18
sáng tạo của HS và tạo ra một bầu không khí học tập tốt. Hệ thống câu hỏi này
được chúng tôi trình bày cụ thể trong giáo án phần thực nghiệm. Ở đây chúng
tôi xin đề cập đến sâu hơn phần câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị bài bởi nó có ý
nghĩa rất lớn đến kết quả của giờ học trên lớp. Nội dung công việc chuẩn bị bài
ở nhà của HS rất đa dạng phong phú. Có thể tập đọc tìm hiểu điển cố, từ khó,
suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật, một ý kiến cụ thể có liên quan đến việc tiếp
nhận TP … nhưng cơ bản chủ yếu vẫn khơi dậy hứng thú của HS đối với TP và
định hướng HS vào những vấn đề trung tâm của TP mà GV sẽ cùng HS đi sâu
phát hiện, khám phá, đánh giá trên lớp. Muốn khâu chuẩn bị bài ở nhà của HS
được tốt, GV phải có hệ thống câu hỏi tỉ mỉ, công phu để hướng dẫn các em.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh tiếp cận đồng bộ tác phẩm
Khi tiếp cận một TPVC chỉ cần trả lời ba câu hỏi: TP ra đời từ đâu? TP ra
đời như thế nào? TP ra đời để làm gì? là đủ cho vòng quay sinh mệnh của nó.
Và tương ứng với ba câu hỏi trên là ba khuynh hướng tiếp cận thường thấy hiện
nay: tiếp cận TP theo khuynh hướng lịch sử - phái sinh, tiếp cận theo khuynh
hướng bản thể và những tìm tòi về thi pháp, tiếp cận TP theo khuynh hướng
chức năng tác động. Trong quá trình giảng dạy TPVC trong nhà trường phổ
thông, ba khuynh hướng tiếp cận trên rất phù hợp, cần phải tiến hành đồng bộ
để đạt hiệu quả. Hướng dẫn tiếp cận đồng bộ truyện ngắn CTNX, GV dùng câu
hỏi dẫn dắt, gợi mở để HS nắm được các vấn đề cơ bản sau: bối cảnh xã hội,
quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 75, diện mạo và nội dung tư
tưởng của TP, tác động của TP.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh cắt nghĩa tác phẩm, so sánh để mở rộng và khắc
sâu ấn tượng của học sinh về tác phẩm
Trong giảng dạy TPVC, so sánh là một biện pháp được dùng khá phổ biến
vì nó luôn mang lại những hiệu quả bất ngờ. Khi dạy học truyện ngắn CTNX có
thể so sánh TP này với một số TP cùng đề tài của nhà văn, cũng có thể so sánh
19
với những sáng tác của chính nhà văn giai đoạn trước 75 để nhận ra sự khác
biệt cùng những đổi mới trong cách viết của nhà văn.
Cùng với hoạt động so sánh là hoạt động cắt nghĩa TP. Cắt nghĩa bao gồm
các cấp độ: Cắt nghĩa từ, cắt nghĩa câu, cắt nghĩa hình ảnh, cắt nghĩa chi tiết
nghệ thuật, cắt nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Với truyện ngắn CTNX một TP
mang tính luận đề thể hiện cho sự đổi mới tư duy nghệ thuật của tác giả Nguyễn
Minh Châu, GV cần hướng dẫn HS cắt nghĩa: cắt nghĩa nhan đề của TP, cắt
nghĩa hình ảnh - biểu tượng trong TP (hình ảnh bãi xe tăng hỏng, hình ảnh bức
ảnh của người nghệ sĩ nhiếp ảnh), cắt nghĩa chi tiết nghệ thuật (chi tiết người
đàn ông đánh vợ, chi tiết người đàn bà được mời đến tòa án “về việc gia đình”,
mà đặc biệt đáng chú ý là những câu nói của người đàn bà ở toà án)
2.3.5. Kết hợp các con đường để phân tích tác phẩm
Phân tích là bước tiếp theo của cơ chế tiếp nhận văn học. Công việc phân
tích TP bao gồm các bước sau: Bước 1: Phân tích giá trị thẩm mĩ của TP. Bước
2: Phân tích hình tượng nghệ thuật. Bước 3: Phân tích chi tiết nghệ thuật. Bước
4: Phân tích vấn đề nhằm định hướng giá trị của TP. Dạy học truyện ngắn
CTNX chúng tôi định hưóng phân tích những vấn đề cơ bản sau: phân tích tình
huống truyện, phân tích hình tượng nhân vật trung tâm (hình tượng nhân vật
“tôi”, hình tượng nhân vật người đàn bà).
2.3.6. Khơi gợi để học sinh bình giá
Bình giá văn học là hoạt động cuối cùng, quan trọng nhất trong quá trình
tiếp nhận, lĩnh hội TPVC. Bình giá TPVC gồm các bước: Bước 1: Phát hiện ra
cái mới, cái độc đáo riêng không TP nào có của TP cần bình giá. Bước 2: Phát
hiện ra cái hay, cái đẹp của TP để bình giá. Yêu cầu của bình giá: Lời bình phải
tương xứng với đối tượng, mang tầm của đối tượng, bắt chước được nhịp chảy
của mạch văn. Lời bình phải trúng, đúng cái hay trong sáng tác nghệ thuật. Lời
bình phải có cảm xúc.
20
Từ quan niệm về bình giá ở trên, chúng tôi hướng dẫn HS bình giá truyện
ngắn CTNX trên những bình diện sau: Bình giá cái mới của TP (chính là sự đổi
mới trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, trước hết là sự đổi
mới trong quan niệm nghệ thuật về con người qua việc đề cập đến hiện thực
cuộc sống của một gia đình ngư dân với những số phận không bình lặng); bình
giá cái hay cái đẹp của TP (bình cái hay, cái đẹp của đề tài, cốt truyện; bình cái
hay, cái đẹp của nhan đề, của những biểu tượng nghệ thuật có sự ám ảnh; bình
cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật xây dựng nhân vật; bình giá cái hay cái đẹp
của ngôn ngữ kể chuyện).
2.3.7. Tạo tình huống học tập đối thoại từ mở đầu đến kết thúc giờ dạy
Đây là một biện pháp có ý nghĩa đào tạo và giáo dục rất lớn vì trong tình
huống học tập đối thoại HS không thể học tập theo cách cũ là chỉ cần vận dụng
kiến thức của những bài nghiên cứu của GV mà nó bắt buộc HS học một cách
sáng tạo tự chủ . Các hình thức tổ chức, xây dựng tình huống học tập đối thoại:
Hình thức 1: GV định hướng thông qua hệ thống câu hỏi. Hình thức 2: Xây
dựng tình huống học tập trong nhóm. Hình thức 3: tiến hành cho HS đóng vai
tác giả để trao đổi với bạn đọc - HS khác về một số vấn đề xoay quanh nghệ
thuật truyện.
Tóm lại, TPVC là một đề án tiếp nhận, một kết cấu vẫy gọi, một chỉnh thể
nghệ thuật mở… nên không chỉ có một cách hiểu. Để chiếm lĩnh một TP- thế
giới nghệ thuật lung linh kì ảo có hàng nghìn con đường. Khi giảng dạy TPVC
nói chung và CTNX nói riêng mỗi GV đều có quyền lựa chọn và sử dụng linh
hoạt mọi phương pháp, biện pháp, cách thức theo đối tượng HS, sở trường của
mình miễn là đến được cái đích cuối cùng: thực hiện tốt mục đích yêu cầu của
bài học.
21
CHƯƠNG 3
THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VỀ TÁC PHẨM
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”.
3.1. Giáo án thể nghiệm
3.2. Thực nghiệm
3.2.1. Mục đích thực nghiệm: để kiểm nghiệm tính khả thi của bài học thiết kế
theo phương hướng dạy học mới đưa ra.
3.2.2. Chọn địa bàn, lớp thực nghiệm: Chúng tôi lựa chọn lớp thực nghiệm là
12C, D trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định, tỉnh Nam Định - ngay tại đơn
vị cơ sở của tác giả luận văn để làm thực nghiệm.
3.2.3. Thời gian thực nghiệm: cuối tháng 3 năm 2009. Đây là thời điểm thích
hợp nhất, bởi một mặt vẫn theo đúng tiến độ chương trình của Bộ đề ra, mặt
khác GV thực nghiệm và tác giả luận văn vẫn có đủ thời gian để xin ý kiến
nhận xét và rút kinh nghiệm nhằm giúp cho giáo án được hoàn thiện hơn.
3.2.4. Dạy thực nghiệm: Đây là khâu quan trọng nhất bởi lí thuyết thực sự
được kiểm nghiệm qua thực tế trong đó GV thực nghiệm, đối tượng thực
nghiệm là những nhân tố quyết định sự thành bại của công việc thực nghiệm.
3.2.5. Tiến hành đưa câu hỏi khảo sát để kiểm tra kết quả thực nghiệm
Sau bài dạy, chúng tôi tiến hành kiểm tra kết quả tiếp nhận của HS theo
phiếu yêu cầu được phát ra với hệ thống câu hỏi (như đã tiến hành với đối
tượng HS khảo nghiệm), thống kê được kết quả như sau:
22
Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 Câu hỏi 4 Lớp
Sĩ
số
Đạt Chưa
đạt
Đạt Chưa
đạt
Đạt Chưa
đạt
Đạt Chưa
đạt
12C
47
40
≈
85,1%
7
≈
14,9%
43
≈
91,5%
4
≈
8,5%
35
≈
75,5%
12
≈
24,5%
35
≈
75,5%
12
≈
24,5%
12D
50
41
≈
82,0%
9
≈
18,0%
45
≈
90,0%
5
≈
10,0%
44
≈
88,0%
6
≈
12,0%
41
≈
82,0%
9
≈
18,0%
3.2.6. Đánh giá
Sau khi dạy thực nghiệm, kiểm tra kết quả học tập của HS, chúng tôi sơ bộ
có những đánh giá như sau: Lí thuyết và thực tế luôn có một khoảng cách đáng
kể nhưng không phải là không thể vượt qua. Việc giảng dạy TPVC từ hướng
tiếp cận thi pháp là phù hợp với yêu cầu của xã hội và nhiệm vụ giáo dục của
đất nước. Tuy nhiên cũng cần khắc phục một số hạn chế nhỏ, nhất là vấn đề
thời lượng của tiết dạy. Hi vọng với việc phát huy những thế mạnh, khắc phục,
hạn chế những nhược điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc để những lần thực nghiệm
sau sẽ thu được những kết quả cao hơn.
23
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Giảng dạy TPVC từ hướng tiếp cận thi pháp đã và đang là một vấn đề thu
hút sự quan tâm chú ý của không chỉ các nhà nghiên cứu phương pháp mà còn
của tất cả các GV đứng lớp hiện nay. Để có thể tiếp nhận và chiếm lĩnh giá trị
của TP một cách đúng hướng, khoa học đòi hỏi chúng ta phải có một số hiểu
biết nhất định về đặc điểm của mỗi loại, thể; “tạng nghệ sĩ” của nhà văn. Đặc
biệt, “Giảng dạy TPVH theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc
giảng dạy TPVH trong sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, một sự giảng
dạy đi đúng hướng với quy luật và bản chất văn học, đồng thời bảo đảm hiệu
quả giáo dục cao nhất” {14,44}.Vấn đề loại thể văn học trong thực tế giảng dạy
ở trường phổ thông đặt ra không những như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn
như một vấn đề phương pháp. Kiểu dạy học này góp phần làm thay đổi lối tư
duy mòn sáo, công thức, do kiểu dạy học giáo điều trước đây để lại, đồng thời
góp phần chống và loại bỏ dần dần lối dạy học đọc- chép trước đây, để thay vào
đó kiểu dạy học phát triển tối đa khả năng tư duy, tính năng động, trí thông
minh và óc sáng tạo của HS. Đây là kiểu dạy học đáp ứng được đầy đủ những
yêu cầu của Bộ GD-ĐT, của xã hội và của nhân dân với những trường phổ
thông nói chung, với môn văn nói riêng trong thời đại khoa học công nghệ phát
triển nhanh như hiện nay.
1.2. Bài thiết kế và thực nghiệm dạy học truyện ngắn CTNX đã khẳng định tính
khả thi của những đề xuất về phương pháp. Kết quả điều tra và đánh giá của
chúng tôi cho thấy: nếu giáo viên chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và có sự đầu tư cho
các bài giảng thì sẽ phát huy được “nội lực” cũng như trí tuệ của HS. Chính sự
thông minh của HS sẽ giúp GV nhìn nhận và đánh giá lại cách dạy của mình và
chính các em sẽ bổ sung cho GV nhiều điều thú vị để bài giảng luôn phong phú,
sinh động và hấp dẫn hơn.
24
Do những hạn chế về thời gian và năng lực của người viết, chắc chắn luận
văn của chúng tôi vẫn còn rất nhiều thiếu sót, nhưng qua luận văn này chúng tôi
mong rằng: các thầy cô đứng lớp có thể tham khảo để làm giàu thêm vốn kiến
thức giúp cho việc khai thác có hiệu quả không chỉ truyện ngắn này mà còn
nhiều truyện ngắn khác được dạy trong nhà trường phổ thông.
2. Khuyến nghị
- Cần tiếp tục phát triển cách dạy truyện ngắn từ hướng tiếp cận thi pháp.
- Nên tăng cường những tri thức về thi pháp tác giả, thi pháp thể loại trong
SGK cũng như các tài liệu hỗ trợ trực tiếp cho GV đứng lớp.
- Nên xây dựng ngân hàng giáo án điện tử để cập nhật sự phát triển vượt
bậc của công nghệ thông tin, giúp cho việc phân tích TP được sâu hơn.
Top Related