· Web viewChị lớn của tôi năm đó 14, 15 tuổi thấy nhà hết gạo, đi vay gạo...

50
Chân lý đôi lúc đến từ miệng trẻ thơ. Đó là trường hợp phát biểu của em Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, học sinh trường Amsterdam tại Hà Nội, về đường lối giáo dục tại Việt Nam, trong buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm hôm 12-08-2015: “Theo con, bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Suốt bao nhiêu năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lui mà nó không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị bộ trưởng, thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của VN… Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục VN không cần cải cách gì nữa mà cần được cách mạng. Đó mới là điều quý vị trong bộ giáo dục nên làm”. Đấy cũng là nhận xét chung của hầu hết mọi người VN hiện nay. Trước thảm trạng giáo dục này, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh triết VN ở Hà Nội mới đây có lý giải: Tư duy và tư tưởng của những người lãnh đạo VN hiện nay rất nông cạn, vì thế họ suy nghĩ hời hợt, bề ngoài. Họ rất thích áp đặt, không thích cãi lại, để cho mỗi học sinh được tự do, để trưởng thành một con người…. Cái lò đào tạo ra người quản lý [giáo dục] là trường Nguyễn Ái Quốc, trường đảng, thì đó là những nơi xơ cứng nhất, kiến thức hẹp nhất. Đó là một cách lý giải đúng nhưng –theo thiển ý chúng tôi- chưa sâu, chưa đủ và chưa đi vào cơ bản. Nguồn gốc của tất cả sự băng hoại của “nền giáo dục” tại nước CHXHCNVN lúc này chính là ý thức hệ Mác-Lê vô thần duy vật và chế độ độc tài toàn trị Cộng sản. Giáo dục là dạy dỗ, đào tạo con người sống theo một thứ đạo đức và nhắm tới một mục tiêu nào đó (người ta gọi là “triết lý giáo dục). Mà ý thức hệ Mác-Lê và chế độ Cộng sản chủ trương “đạo đức cách mạng” với 2 nguyên tắc: (1) mọi cái có lợi cho Cách mạng (tức cho đảng) đều là chân thiện mỹ, dù đó là gian dối hay bạo lực, xấu xa hay đê hèn; (2) cứu cánh biện minh cho phương tiện, cứu cánh đây là sự tồn tại của chế độ CS, nên nếu phương tiện có đi ngược lại tiếng nói của lương tâm, lời dạy của tôn giáo thì cũng bất chấp, bất cần. Còn mục tiêu giáo dục chính là đào tạo thành thần dân trung thành với đảng, công cụ mù quáng của chế độ hơn là công dân tự do của đất nước, con người nhân bản của xã hội. Có như thế đảng mới muôn năm trường trị để giữ mọi quyền lực và hưởng mọi quyền lợi. Từ đó phát sinh ra sách lược (hay đường lối) là đảng CS phải quản lý, khống chế toàn diện nền giáo dục quốc dân từ mẫu giáo đến đại học. Cứ đọc Luật Giáo dục và nhìn Nền Giáo dục là thấy rõ điều này. Trước hết, đảng soạn Luật giáo dục: lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tinh thần và tri thức. Từ đó đảng tiêu diệt các trường tư của mọi tôn giáo và khống chế các trường tư của mọi công dân. Học viện Công giáo được ban tôn giáo chính phủ cho phép thành lập ngày 03-08-2015 phải tuân theo điều 2 của Quyết định 289: “Học viện CGVN được hoạt động theo quy định của pháp luật VN và theo nội dung đề án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận”. Thầy chủ nhiệm khoa của anh sinh viên Phạm Lê Vương Các tại Đại học (dân lập) Kinh doanh Thương mại Hà Nội nói với anh hôm 01-09: “Trường này do những người CS lập ra, và sẽ đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị CS.” (bài “Em hãy rút hồ sơ và nghỉ học ở trường này đi”). Thứ đến, Đảng đặt các hiệu trưởng cho mọi trường công lập từ tiểu học trở lên: hiệu trưởng phải là thành viên của đảng; ngoài ra còn có bí thư đảng, đảng đoàn trong trường học để kiểm soát mọi giáo viên và học sinh, mọi chương trình và hoạt động. Mỗi cậu đoàn viên có bổn phận theo dõi thầy và bạn của mình. Đảng soạn sách giáo khoa; giáo khoa là pháp lệnh, không được giảng dạy ra ngoài, nhất là các môn khoa học nhân văn. Chính vì thế mà vào năm 1960, một thày giáo bạn của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện bị đau, đã nhờ ông dạy giúp hai giờ môn sử. Bài học hôm ấy nói về Thế chiến thứ hai kết thúc với sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản. Bất bình trước hành vi trắng trợn xuyên tạc lịch sử của sách giáo khoa viết rằng Thế chiến này kết thúc là nhờ Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội Nhật, nhà thơ đã thẳng thắn giảng cho học sinh biết sự thật là quân Nhật thua quân Đồng minh vì hai quả bom nguyên tử của Mỹ. Cái giá của viêc “coi thường” giáo khoa này là hai tháng sau ông đã bị nhà cầm quyền kết án và đẩy vào lao ngục, khởi đầu cho cuộc đời vào tù ra khám 27 năm dưới bàn tay sắt máu của chế độ. Tháng 6-2009, cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh, 28 tuổi, đang dạy ở trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quảng Nam, bị buộc thôi việc vì "đã vi phạm nghiêm trọng trong việc xuyên tạc đạo đức nhà giáo; sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách Nhà nước; xuyên

Transcript of  · Web viewChị lớn của tôi năm đó 14, 15 tuổi thấy nhà hết gạo, đi vay gạo...

Chân lý đôi lúc đến từ miệng trẻ thơ. Đó là trường hợp phát biểu của em Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, học sinh trường Amsterdam tại Hà Nội, về đường lối giáo dục tại Việt Nam, trong buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm hôm 12-08-2015: “Theo con, bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Suốt bao nhiêu năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lui mà nó không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị bộ trưởng, thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của VN… Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục VN không cần cải cách gì nữa mà cần được cách mạng. Đó mới là điều quý vị trong bộ giáo dục nên làm”.

Đấy cũng là nhận xét chung của hầu hết mọi người VN hiện nay. Trước thảm trạng giáo dục này, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh triết VN ở Hà Nội mới đây có lý giải: “Tư duy và tư tưởng của những người lãnh đạo VN hiện nay rất nông cạn, vì thế họ suy nghĩ hời hợt, bề ngoài. Họ rất thích áp đặt, không thích cãi lại, để cho mỗi học sinh được tự do, để trưởng thành một con người…. Cái lò đào tạo ra người quản lý [giáo dục] là trường Nguyễn Ái Quốc, trường đảng, thì đó là những nơi xơ cứng nhất, kiến thức hẹp nhất”. Đó là một cách lý giải đúng nhưng –theo thiển ý chúng tôi- chưa sâu, chưa đủ và chưa đi vào cơ bản.

Nguồn gốc của tất cả sự băng hoại của “nền giáo dục” tại nước CHXHCNVN lúc này chính là ý thức hệ Mác-Lê vô thần duy vật và chế độ độc tài toàn trị Cộng sản. Giáo dục là dạy dỗ, đào tạo con người sống theo một thứ đạo đức và nhắm tới một mục tiêu nào đó (người ta gọi là “triết lý giáo dục). Mà ý thức hệ Mác-Lê và chế độ Cộng sản chủ trương “đạo đức cách mạng” với 2 nguyên tắc: (1) mọi cái có lợi cho Cách mạng (tức cho đảng) đều là chân thiện mỹ, dù đó là gian dối hay bạo lực, xấu xa hay đê hèn; (2) cứu cánh biện minh cho phương tiện, cứu cánh đây là sự tồn tại của chế độ CS, nên nếu phương tiện có đi ngược lại tiếng nói của lương tâm, lời dạy của tôn giáo thì cũng bất chấp, bất cần. Còn mục tiêu giáo dục chính là đào tạo thành thần dân trung thành với đảng, công cụ mù quáng của chế độ hơn là công dân tự do của đất nước, con người nhân bản của xã hội. Có như thế đảng mới muôn năm trường trị để giữ mọi quyền lực và hưởng mọi quyền lợi.

Từ đó phát sinh ra sách lược (hay đường lối) là đảng CS phải quản lý, khống chế toàn diện nền giáo dục quốc dân từ mẫu giáo đến đại học. Cứ đọc Luật Giáo dục và nhìn Nền Giáo dục là thấy rõ điều này. Trước hết, đảng soạn Luật giáo dục: lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tinh thần và tri thức. Từ đó đảng tiêu diệt các trường tư của mọi tôn giáo và khống chế các trường tư của mọi công dân. Học viện Công giáo được ban tôn giáo chính phủ cho phép thành lập ngày 03-08-2015 phải tuân theo điều 2 của Quyết định 289: “Học viện CGVN được hoạt động theo quy định của pháp luật VN và theo nội dung đề án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận”. Thầy chủ nhiệm khoa của anh sinh viên Phạm Lê Vương Các tại Đại học (dân lập) Kinh doanh Thương mại Hà Nội nói với anh hôm 01-09: “Trường này do những người CS lập ra, và sẽ đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị CS.” (bài “Em hãy rút hồ sơ và nghỉ học ở trường này đi”). Thứ đến, Đảng đặt các hiệu trưởng cho mọi trường công lập từ tiểu học trở lên: hiệu trưởng phải là thành viên của đảng; ngoài ra còn có bí thư đảng, đảng đoàn trong trường học để kiểm soát mọi giáo viên và học sinh, mọi chương trình và hoạt động. Mỗi cậu đoàn viên có bổn phận theo dõi thầy và bạn của mình. Đảng soạn sách giáo khoa; giáo khoa là pháp lệnh, không được giảng dạy ra ngoài, nhất là các môn khoa học nhân văn. Chính vì thế mà vào năm 1960, một thày giáo bạn của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện bị đau, đã nhờ ông dạy giúp hai giờ môn sử. Bài học hôm ấy nói về Thế chiến thứ hai kết thúc với sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản. Bất bình trước hành vi trắng trợn xuyên tạc lịch sử của sách giáo khoa viết rằng Thế chiến này kết thúc là nhờ Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội Nhật, nhà thơ đã thẳng thắn giảng cho học sinh biết sự thật là quân Nhật thua quân Đồng minh vì hai quả bom nguyên tử của Mỹ. Cái giá của viêc “coi thường” giáo khoa này là hai tháng sau ông đã bị nhà cầm quyền kết án và đẩy vào lao ngục, khởi đầu cho cuộc đời vào tù ra khám 27 năm dưới bàn tay sắt máu của chế độ. Tháng 6-2009, cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh, 28 tuổi, đang dạy ở trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quảng Nam, bị buộc thôi việc vì "đã vi phạm nghiêm trọng trong việc xuyên tạc đạo đức nhà giáo; sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách Nhà nước; xuyên tạc đường lối của Đảng, chủ trương pháp luật của Nhà nước, vi phạm quan điểm nội dung giáo dục trong việc cập nhập khai thác, truyền bá trang web phản động, phản giáo dục”. Việc “truyền bá” này chính là cô đã đề cập với các em học sinh một số bài viết trên các trang mạng hải ngoại như Talawas và Tienve.org với mục tiêu “hướng dẫn các em biết cách tự học, tự đọc, tự tìm tòi phân tích thông tin”. Ngoài ra, Đảng đặt ra hệ thống quản lý giáo dục (bộ, ty, sở, phòng) từ trung ương tới địa phương: tỉnh, thành, quận, huyện. (VN Cộng Hòa chỉ có miền và tỉnh). Mục tiêu của hệ thống quản lý này là kiểm soát từ học đường đến gia đình, từ thầy đến trò để tất cả luôn nằm trong bàn tay của đảng. Còn nhân sự quản lý giáo dục đều xuất thân từ hệ thống các trường đảng Nguyễn Ái Quốc vốn có khắp mọi tỉnh. Chưa hết, Đảng buộc môn chính trị trong các trường là môn học chính khóa với rất nhiều tiết học (thậm chí còn buộc như thế đối với các đại chủng viện). Đảng còn đoàn ngũ hóa học sinh sinh viên qua tổ chức đội (Thiếu nhi Tiền phong), đoàn (Thanh niên CS) nhằm tẩy não và nhồi sọ thế hệ trẻ về lòng kính yêu “bác” và việc bước theo “đảng”. Đấy là chưa kể quân đội và công an cũng là nơi đảng nặn ra những kẻ “chỉ biết còn đảng còn mình”, “trung với đảng” (trước), “hiếu với dân” (sau).

Hậu quả của “nền giáo dục” bị đảng hóa, độc quyền hóa, chính trị hóa như thế thì vô số và chỉ có thể là thê thảm, tai hại. Ngay trên trên lãnh vực giáo dục, đó là ông thầy cần “hồng” hơn “chuyên”. Từ đó sinh ra nạn giáo sư và giáo viên sẵn sàng cấm sinh viên học sinh xuống đường biểu tình chống Tàu cộng xâm lược, đuổi học những sinh viên yêu tự do, dân chủ (như Nguyễn Phương Uyên, Phạm Lê Vương Các), để cho công an vào trường bắt trò của mình. Nạn “nhà giáo ưu tú” làm dư luận viên như Trần Đăng Thanh, Hoàng Chí Bảo… Ngày 18-04-2015, theo BBC, phó giáo sư đại học quốc gia Hà Nội Vũ Quang Hiển thản nhiên phát biểu: “Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, VN không có ngược đãi đối với mọi người.... Còn việc tập trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho rõ chính sách của nhà nước VN thời bấy giờ... chứ không có nghĩa là một chế độ tù đầy. Nếu nói là tù đầy, thì tôi nghĩ đó là một sự xuyên tạc”. Rồi nạn giáo viên thiếu kiến thức (“đứng nhầm bục”) và vô tư cách, như đổi tình lấy điểm, buộc học sinh phục vụ sinh lý cho mình và cho các quan chức (ví dụ tại trường thị trấn Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang). Nạn giáo viên coi học sinh và gia đình là nơi để làm tiền bằng cách dạy thêm, thu đủ kiểu chi phí ngoài học phí, và mỗi năm đến ngày Nhà giáo VN thì vòi tiền vòi quà cách trắng trợn. Về học sinh thì cũng có nạn hồng hơn chuyên: không ý thức về hoàn cảnh đất nước (để đảng lo), không băn khoăn về bộ mặt chế độ (để đảng làm), không tham gia các cuộc biểu tình yêu nước (thậm chí làm rào chặn đoàn biểu tình, phá đám việc tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ), sẵn sàng làm dư luận viên giúp

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 227 Trang

trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho rõ chính sách của nhà nước VN thời bấy giờ... chứ không có nghĩa là một chế độ tù đầy. Nếu nói là tù đầy, thì tôi nghĩ đó là một sự xuyên tạc”. Rồi nạn giáo viên thiếu kiến thức (“đứng nhầm bục”) và vô tư cách, như đổi tình lấy điểm, buộc học sinh phục vụ sinh lý cho mình và cho các quan chức (ví dụ tại trường thị trấn Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang). Nạn giáo viên coi học sinh và gia đình là nơi để làm tiền bằng cách dạy thêm, thu đủ kiểu chi phí ngoài học phí, và mỗi năm đến ngày Nhà giáo VN thì vòi tiền vòi quà cách trắng trợn. Về học sinh thì cũng có nạn hồng hơn chuyên: không ý thức về hoàn cảnh đất nước (để đảng lo), không băn khoăn về bộ mặt chế độ (để đảng làm), không tham gia các cuộc biểu tình yêu nước (thậm chí làm rào chặn đoàn biểu tình, phá đám việc tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ), sẵn sàng làm dư luận viên giúp đảng (tự hào đó là bản lĩnh chính trị). Về đức dục thì có nạn gian dối (tác phẩm của thầy, trò nhận biểu diễn; tập trước những cuộc thi điển hình, kiểu mẫu), nạn bạo hành (đánh bạn, đánh thầy), nạn vâng lời tối mặt, thiếu tinh thần độc lập. Về trí dục thì nạn học đối phó, học để thi, để lên lớp, không phải để hiểu biết; học kiểu từ chương, không có tinh thần tự tìm, tự hiểu; làm bài quy cóp, làm bài theo văn mẫu. Về giáo khoa, thì giáo khoa của các môn nhân văn như công dân, văn, sử, địa, đầy rẫy những xuyên tạc lịch sử (“30% sự thật, 70% gian dối theo giáo sư Hà Văn Thịnh), đề cao đảng và chế độ, lâu lâu lại đề cao Tàu cộng hay che giấu những hành động xâm lăng của Bắc phương (khiến thui chột lòng yêu nước), dạy lòng căm thù, nhất là căm thù những ai bị đảng coi là địch (khiến tiêu biến lòng nhân ái vị tha). Mới đây có loại sách dạy kỹ năng sống bằng cách ăn phân gà, đi trên miểng chai, cưa bom đạn. Giáo khoa các môn khoa học kỹ thuật thì biên soạn ẩu tả, sai lạc. Ngoài ra, có nạn sách học đổi từng năm, khiến em không thể dùng sách của anh được. Về cơ sở: đa phần xuống cấp, xập xệ, nhất là những vùng sâu vùng xa, thiếu những học cụ hiện đại. Lại có nạn tham nhũng trong việc cung cấp các phương tiện như máy vi tính, bảng tương tác điện tử, việc cung cấp đồng phục, việc xây dựng nhà vệ sinh. Rồi ngoài học phí (tiểu học và trung học công lập, một kiểu bóc lột về mặt vật chất sau kiểu bóc lột tinh thần là tẩy não, nhồi sọ, diệt ý chí, trấn áp tự do), còn đủ trăm thứ phí học đường, khiến gia đình càng thêm khánh kiệt.

Hậu quả của nền giáo dục CS trên toàn xã hội là trình độ văn hóa chung của xã hội và đất nước xuống cấp trầm trọng: bằng giả tràn lan, đủ thứ tiến sĩ giấy, giáo sư dổm. VN không có những tác phẩm văn hóa, phát minh khoa học, sáng chế kỹ thuật mang tầm mức quốc tế, hoàn vũ. Tình trạng đạo đức ngày càng băng hoại: chẳng còn tình làng nghĩa xóm, nghĩa đồng bào tình đồng loại. Xã hội đầy ứng xử vô văn hóa, gian dối và bạo lực. Ứng xử vô văn hóa như xả rác bừa bãi, không tôn trọng luật đi đường, phá hoại công trình công cộng. Gian dối trong giao tế, làm ăn, tạo sản phẩm. Ra nước ngoài thì ăn cắp, buôn lậu. Bạo lực học từ nhà trường và từ việc nhà nước dùng bạo lực với dân. Nền giáo dục đó cũng tạo ra những công an tàn ác với dân, mù quáng tuân lệnh, làm luật kiếm tiền; những viên chức tham nhũng bóc lột, dối gian lừa đảo, hứa hẹn hão huyền; những nhà báo dối trá, ngày đêm sơn phết, tụng ca chế độ bất chấp lương tâm và lòng xấu hổ; những trí thức mũ ni che tai, trùm chăn với thời cuộc, tự cho mình khôn ngoan, hoặc còn mải mê kiếm tìm danh lợi; những bác sĩ y tá vô lương tâm, chỉ biết khai thác khổ đau bệnh tật của đồng loại.

Bản chất con người vốn dị ứng với gian dối và bạo lực, chẳng ai muốn bị lừa gạt và hành hạ, trừ những kẻ mang ý đồ xấu, sử dụng 2 thứ đó với người khác. Thế mà nền giáo dục CS lại xây trên gian dối và bạo lực, nhằm duy trì chế độ, thành ra nó hoàn toàn và vĩnh viễn không có khả năng giáo dục con người. Muốn canh tân giáo dục, việc đầu tiên là phải thay đổi chế độ chính trị. BAN BIÊN TẬP

BAN BIÊN TẬP

Trg 01Vô khả năng giáo dục con người !!!

Trg 03Đơn thỉnh nguyện gởi chính quyền v/v chiếm giữ chủng viện..-Giáo phận Vĩnh Long.

Trg 04Tường trình buổi cầu nguyện Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc…-Ban Đại diện Khối Nhơn sanh.

Trg 05Tăng đoàn GHPGVNTN hải ngoại vận động tự do tôn giáo…-Trang mạng Ghpgvntn.net.

Trg 06Tín đồ H’Mông Ma Văn Pá bị công an VN bắt cóc và tra tấn.-Gia đình Ma Văn Pá.

Trg 07Gốc rễ những rối loạn kinh tế của Tr. Quốc là gì? Là chính trị.-Minxin Pei.

Trg 08Trung Quốc đánh cược uy tín khi can thiệp thị trường. -Bloomberg.

Trg 092-9: Hãy thôi kèn trống nhộn nhạo ăn mừng.

-Song Chi.Trg 11Cần một Quốc khánh mới cho

Việt Nam. -Võ Thị Hảo.Trg 13”Hoặc là khốn nạn, hoặc là

thần kinh”. -Ngô Nhân Dụng.

Trg 14Chuyện gì xảy ra khi VN bị khủng hoảng kinh tế?-VietTuSaiGon.

Trg 15Dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam: Nợ nhân dân hay bắt…-Phạm Chí Dũng.

Trg 17Việt Nam và một nền giáo dục hoang dã.-Trần Phong Vũ.

Trg 21Công an và luật pháp. -Nguyễn Thị Từ Huy.

Trg 24Bùi Thanh Hiếu: Nói trong im lặng. -Tường An.

Trg 26Những người anh hùng không phải của chế độ.

-Kính Hòa.. Trg 28Thực tế về công đoàn độc lập

tại Việt Nam.-Gia Minh+Tư Giang.

Trg 31Tàu vũ trang nước ngoài nã đạn tàn bạo vào tàu cá VN.-Tuổi Trẻ+Đài BBC..

Giáo dục lòng dũng cảm của nhà trường XHCN (Babui)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VNĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN THỈNH NGUYỆNVĩnh Long, ngày 28-07-2015Kính gởi:

Ông Trần Văn Rón, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Long, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Chúng tôi, toàn thể Linh mục và đồng bào Công giáo trong Giáo phận Vĩnh Long gổm bốn tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Sa Đéc cũ (một phần của tỉnh Đồng Tháp) gởi Ông Kiến nghị như sau:

Ngày 21 tháng 12 năm 2011, trang báo điện tử của Chính quyền tỉnh Vĩnh Long đưa tin từ CV số 3581/UBND-KTTH về việc đầu tư 60 tỷ đồng để nâng cấp Trung tâm Hoạt động Thanh thiếu niên tỉnh Vĩnh Long, sau đó cũng trên trang báo điện tử của Chính quyền ngày 07 tháng 05 năm 2012 đã nâng mức đầu tư lên hơn 138 tỷ đồng cho dự án này. Ai cũng hiểu đây là cơ sở Đại chủng viện của Giáo phận Vĩnh Long, nhưng đã bị biến thành nơi vui chơi giải trí của thanh thiếu niên tại Phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long với diện tich sử dụng đất: 21.036,8 m2.

Đây là phần đất mà trên đó Giáo phận Vĩnh Long đã xây dựng các cơ sở Đại chủng viện, để đào tạo Linh mục cho ba Giáo phận Cần Thơ, Mỹ Tho và Vĩnh Long, nhưng đã bị trưng dụng ngày 7 tháng 9 năm 1977. Từ năm 1977 đến nay, tại cơ sở nói trên chỉ có những sinh hoạt vui chơi, hoặc những hình thức kinh doanh như cho thuê để mở lớp dạy kèm học sinh, chỗ đánh vũ cầu, tennis, mở căn-tin.

Chúng tôi hết sức hoang mang, bức xúc, vì nhận thấy cơ sở tôn giáo đã được xây dựng với bao công sức của đồng bào Công giáo cho sinh hoạt tôn giáo, nay đứng trước nguy cơ bị dẹp bỏ, và bị biến thành nơi vui chơi được mang tên: Trung tâm Hoạt động Thanh thiếu niên. Điều đó khiến chúng tôi cảm thấy bị xúc

phạm; làm như thế là coi thường Đạo đức. Làm sao hiểu được sau 40 năm giải phóng, tình trạng chèn ép Tôn giáo vẫn còn!

Ngày 18-07-2012, Đại diện Giáo phận đã có buổi làm việc với UBND tỉnh Vĩnh Long về Thỉnh nguyện thư của Giáo phận Vĩnh Long liên quan đến nhu cầu cần phải có Trung tâm Mục vụ Giáo phận; Giáo phận đề nghị Chính quyền trao lại quyền sử dụng cơ sở Đại chủng viện Vĩnh Long (nay là Trung tâm Hoạt động Thanh thiếu niên tỉnh Vĩnh Long). UBND tỉnh hứa sẽ xem xét giải quyết và có văn bản trả lời cho Giáo phận; nhưng rất tiếc đến nay đã ba (03) năm, Giáo phận vẫn chưa nhận được văn thư nào của chính quyền tỉnh.

Vì thế, chúng tôi xin nhắc lại ở đây những nhu cầu của đồng bào Công giáo Giáo phận Vĩnh Long: Với hơn 200.000 tín hữu Công giáo, 4000 Quới chức trong các Họ đạo, hơn 600 Tu sĩ và 200 Linh mục, chúng tôi cần một Trung tâm Mục vụ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo.

a) Làm nơi thường xuyên học hỏi Giáo lý, Kinh thánh, chuyên đề, bồi dưỡng phục vụ cho hơn 200.000 giáo dân trong Giáo phận Vĩnh Long.

b) Nơi tĩnh tâm thường niên của 200 Linh mục trong Giáo phận, trong dịp Tĩnh tâm hàng năm.

c) Nơi học hỏi, bồi dưỡng thiêng liêng cho các Linh mục, Tu sĩ, Quới chức trong Giáo phận.

d) Cơ sở này gần Nhà thờ Chánh tòa, tiện lợi cho việc sinh hoạt tôn giáo.

Ngoài ra, cơ sở này gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Giáo phận từ khi thành lập cho đến nay, nó nhắc nhở cho chúng tôi về những hy sinh và công sức đóng góp của các tiền nhân, cũng như những gắn bó tình cảm của nhiều thế hệ Linh mục của ba Giáo phận (Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long) đã

tu học nơi đây.Việc trao quyền sử dụng cơ sở

Đại chủng viện cho Giáo phận Vĩnh Long là việc làm rất phù hợp với chủ trương tốt đẹp của Chính quyền Việt Nam. Điều 24 trong Hiến pháp 2013 và Điều 04 Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo ngày 18 tháng 6 năm 2004 quy định: “Chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, đình, đền, miếu, trụ sở tổ chức tôn giáo, các cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp khác, kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng được pháp luật bảo hộ”. Ngoài ra, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng số 1940/CT/CT-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2008 có chỉ thị rằng: “Cơ sở tôn giáo có nhu cầu chính đáng về nhà, đất để phục vụ cho hoạt động tôn giáo thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, căn cứ vào chính sách tôn giáo Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quỹ đất của địa phương, quyết định giao cho cơ sở tôn giáo diện tích nhà, đất theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật” (Điều 02). Áp dụng những chủ trương của Trung ương, UBND thành phố hoặc các tỉnh liên hệ đã trao lại các cơ sở tôn giáo cho các Giáo phận như: Phú Cường, Phan Thiết, Thanh Hóa, Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh… làm Trung tâm Mục vụ.

Chúng tôi mong được Chính quyền xem xét cấp lại cho chúng tôi quyền sử dụng cơ sở mà chúng tôi đã xây dựng, để có thể góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh trên đất nước Việt Nam.

Trân trọng kính chào và mong đợi phúc đáp của Ông Chủ tịch.

T.M. Toàn thể Linh mục và Giáo dân Giáo phận Vĩnh Long.

Kính đơn(ký tên và đóng dấu)Phê-rô Dương Văn ThạnhGiám quản Giáo phận Vĩnh

Long.Nơi nhận:

- Như trên- Lưu văn phòng

Số 227 Trang 3

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Kính Quí Chức sắc Thiên phong,

Quí Chức việc Hội thánh Em và Tín đồ Cao đài quốc nội cùng hải ngoại.

Thời gian gần đây, sự kiện côn đồ do nhà cầm quyền csvn sử dụng để đập phá tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ban phép lành tại Hộ Pháp đường nội ô Tòa thánh Tây Ninh ngày 14-08 Ất Mùi (dl 27-08-2015), đã gây chấn động đến đức tin của toàn thể tín đồ Cao đài Bảo thủ Chơn truyền trong nước, cũng như hải ngoại qua hành động vô đạo của những người cầm quyền.

Trước sự kiện trên, Ban Đại diện Khối Nhơn sanh đạo Cao đài có tổ chức một buổi lễ cầu nguyện tại Hộ Pháp đường Tòa thánh Tây Ninh vừa qua, vào lúc 9g sáng ngày 25-07 Ất Mùi (Dl 07-09-2015), để phản đối việc côn đồ đập phá tượng Đức Hộ Pháp trong sự ôn hòa không bạo động. 

Được sự hưởng ứng nhiệt tình của Liên hiệp Hội thánh Em và Tín đồ Cao đài TTTN hải ngoại, các truyền thông quốc tế… Đặc biệt có sự hưởng ứng của Chức việc Hội thánh Em và Tín đồ bảo thủ chơn truyền các địa phương về dự như: Quảng Ngãi, Bình Định, Tuy Hòa, Phú Yên, Phan Thiết, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Củ Chi, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh long, Đồng Tháp, và vùng Châu Thành Thánh địa Tây Ninh…

Tuy bảo thủ chơn truyền nhưng có nhiều nhóm khác nhau do không cùng chung quan điểm, thế nhưng có một số anh em đã bỏ qua những dị biệt để chung sức cầu nguyện cùng BĐDKNS, thể hiện lòng trung kiên của người tín đồ Cao đài đối với Đấng Giáo chủ của mình.

Chúng tôi rất cảm động khi nghe một đồng đạo ở địa phương nói rằng: “Tôi đi bán vé số, mỗi ngày dành dụm một ít tiền để đi xe về Tòa thánh thăm tượng Đức Hộ Pháp bị đập phá, và cầu nguyện Ngài xây cơ chuyển thế cho nền Đạo sớm được hanh thông, để con cái Đức Chí Tôn được tự do hành đạo”.

Đường tuy xa, gặp mọi sự trở ngại, khó khăn về phương tiện vật chất, về sự đe dọa của công an csvn,

nhưng tấm lòng vì Thầy vì Đạo của môn đệ Đức Chí Tôn vẫn một lòng.

Hiền huynh Phó Trị sự Nguyễn Hữu Khánh, một Chức việc nơi vùng Thánh địa Tây Ninh đã tiếp đón đồng đạo các địa phương về tại tư gia của hiền huynh, cả gia đình từ: Chồng, vợ, con, dâu… một lòng, một dạ lo chỗ ăn ở, nghỉ ngơi, tắm giặt của đồng đạo một cách chu toàn bất chấp sự đe dọa của công an Tây Ninh. Tấm lòng hy sinh của gia đình H/H Khánh cho đại nghiệp đạo trong giai đoạn nền đạo chinh nghiêng là một sự hy sinh cao cả, chúng tôi hết sức thán phục.

Đúng 8g30 sáng đồng đạo bắt đầu lên xe hướng thẳng về Tòa thánh. Xe đậu tại cổng Hòa viện, đồng đạo xuống đi bộ đến Hộ Pháp đường. Vừa đặt chân vào khu vực bên trong nội ô Tòa thánh, chúng tôi liền có sự liên tưởng và cảm nghĩ như sau:

Trước đây khi Hội thánh ĐĐTKPĐ Tòa thánh Tây Ninh chưa bị nhà nước csvn giải thể, đạo còn đủ uy quyền, Thánh thể của Đức Chí Tôn là Chức sắc Thiên phong, rất được quí trọng, những ngày lễ lớn hằng năm chúng tôi thường về để hiến lễ. Về đến Cẩm Giang, chúng tôi đã cảm nhận được luồng không khí nhẹ nhàng, thanh thoát và trong lòng như đang thưởng thức Nhạc tấu Huân thiên, một cảm giác thật khó tả, chúng tôi cho đó là Cực lạc Thế giới.

Còn ngày nay khi bước chân về lại Tổ đình Tòa Thánh Tây Ninh, chúng tôi cảm nhận được một luồng hắc khí của Kim Quan sứ tràn ngập bao quanh nội ô Tòa thánh, chúng tôi tưởng chừng như đang ở trong một cái động yêu quái đang chực chờ sẵn để xé xác mình bất cứ lúc nào. Thật khủng khiếp!

Tưởng nghĩ cũng trên mảnh đất nầy ngày xưa, và cũng trên mảnh đất nầy ngày nay, hoàn toàn xa lạ, xa lạ từ con người, cách nhìn, cách cư xử, tư tưởng, cảnh vật xung quanh, không khí… Tất cả đều toát ra một sự cực độc ác, cực bất nhân, nó nhuộm đi mọi sự trong sáng, thanh tịnh, lành mạnh, thánh thiện, mọi sự tốt đẹp… thành bóng tối bao trùm để cảnh Thiên đàng tại thế biến thành cõi địa ngục của quỉ ma.

Chúng tôi vừa đến cổng Hộ Pháp

đường, hằng trăm công an an ninh, côn đồ và nhiều thành phần khác theo sát chúng tôi quay phim, chụp hình. Cửa Hộ Pháp đường đóng kín, HĐCQ không cho chúng tôi vào bên trong, họ còn dùng cả hai vòi rồng để xịt nước tung tóe, lênh láng suốt cả tiếng đồng hồ, ướt đẫm sân gạch với ý đồ không cho chúng tôi cầu nguyện. H/H Chánh Trị sự Hứa Phi vừa bước tới cổng, họ xịt ướt áo dài và mặt mũi, kế sách nầy họ học ở Trung Cộng nay áp dụng cho những đồng đạo bất đồng quan điểm với họ.

Đồng đạo đứng chờ 30 phút để các nơi về cho đông đủ theo chương trình qui định 9g có mặt, 9g30 cầu nguyện. Ông Sáu Bảnh - trật tự nội ô (người trước đã đây đánh CTS Hứa Phi nằm viện), nay cũng với hành vi côn đồ, hung hăng đến gây sự với CTS Hứa Phi. Ông Bảnh dùng cây ma trắc xô đẩy huynh Phi và lớn tiếng nói: “Tôi biết ông quá mà, ông là người xách động đồng đạo về đây gây rối…”

Nữ Chánh Trị sự Nguyễn Bạch Phụng lên tiếng: “Chúng tôi nghe tượng Đức Hộ Pháp bị côn đồ đập phá, chúng tôi về đây xem như thế nào, và cầu nguyện trong sự ôn hòa không bạo động, tại sao mấy chú có hành động hung hăng như vậy?”.

Ông Bảnh từ từ dang ra xa. Nhưng chưa yên, ông xoay qua giựt máy chụp hình của em Danh, song không lấy được do đồng đạo bảo vệ. Ông Bảnh tiếp tục giựt máy chụp hình của CTS Nguyễn Hà, nhưng cũng không lấy được. Không khí lúc bấy giờ sắp sửa hỗn loạn lên do ông Bảnh và một số trật tự côn đồ của HĐCQ tự gây rối. Thấy chúng tôi lặng thinh, ôn hòa không có thái độ khiêu khích, nên họ để cho chúng tôi cầu nguyện. 

Công an mật vụ đứng ngoài nhìn, nhằm bảo vệ cho hành vi côn đồ của ông Bảnh. Rõ ràng người công chính thì bị hành hạ vì cho là kẻ có tội, ngược lại kẻ tội đồ thì được công an, chính quyền bảo hộ.

Hiện trạng xã hội Việt Nam ngày nay đầy ấp sự bất công là như thế !!!

Đúng 9g30 đồng đạo bắt đầu xếp hàng theo thứ tự để cầu nguyện. Trước khi cầu nguyện H/H CTS Hứa Phi thay mặt đồng đạo có vài lời phát biểu xin tóm tắt như sau: “…Hay tin tượng Đức Hộ Pháp bị đập phá, đồng đạo chúng ta từ miền Nam đến, miền Trung về đây để xem sự thật như thế nào và cầu nguyện Đức Hộ Pháp ban ân lành cho những người đập phá nầy sớm thức tỉnh để đừng đập phá nữa. Cầu xin Đức HP chuyển xây cho

Số 227 Trang 4

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

cơ đạo sớm được hanh thông”Sau lời phát biểu của H/H CTS

Hứa Phi, đồng đạo quì xuống cầu nguyện xong rồi cùng nhau về lại Đền thánh quì dưới sân gạch Đại Đồng xã, mặt hướng về Đền thánh để cầu nguyện Đức Chí Tôn, các Đấng thiêng liêng ban hồng ân cho những kẻ nghịch đạo, muốn tiêu diệt đạo của Ngài sớm thức tỉnh quay về nẻo thiện để được hưởng hồng ân của Đức Ngài, và xin Ngài tha thứ cho những lỗi lầm của họ về những việc họ làm, mà họ không biết.

Chúng tôi tiếp tục đến Báo Ân từ cầu nguyện Đức Phật Mẫu, Cửu Vị Nữ Phật ban ân lành cho những đứa con bất hiếu với các Ngài, mở rộng tình thương yêu bao la để không còn thù hận, độc ác, tàn nhẫn, vô lương tâm và sớm biết được Đức Thượng Đế và đạo của Ngài.

Sau khi Chức việc Hội thánh Em và Tín đồ Cao đài các địa phương về cầu nguyện Đức Hộ Pháp, Đức Chí Tôn xong đến Báo Ân từ cầu nguyện Đức Phật Mẫu, lúc bấy giờ H/H Sĩ Tãi Phùng Văn Phan cùng một vài Chức sắc, đồng đạo nơi vùng Châu Thành Thánh địa tới sau, lý do quí vị nầy đã vào Hiệp Thiên đài của HĐCQ thăm Đạo huynh Lê Minh Khuyên. 

Vì vậy buổi lễ cầu nguyện tại giờ chót được chia ra làm 2 đợt:

- Đợt một gồm Chức việc Hội thánh Em và Tín đồ Cao đài các địa phương chung sức cùng BĐDKNS cầu nguyện. 

- Đợt hai gồm H/H Sĩ Tãi Phan, một số Chức sắc khác, cùng một số đồng đạo nơi Châu Thành Thánh địa cầu nguyện. 

Cầu nguyện xong, đồng đạo ra về, H/H Sĩ Tãi Phan có lời yêu cầu tất cả chụp chung một tấm ảnh lưu niệm trước cổng Hộ Pháp Đường.

Buổi lễ cầu nguyện được kết thúc vào lúc 10g45 phút cùng ngày, tuy có một số trở ngại, nhưng bước đầu rất thành công trong tiến trình đòi lại đạo quyền.

Nhận xét:Qua buổi lễ cầu nguyện nơi Hộ

Pháp đường Tòa thánh Tây Ninh vừa qua để phản đối việc đập phá tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, trong sự ôn hòa, không bạo động của gần trên 200 đồng đạo qui tụ về (Kể cả đồng đạo đến trễ).

Tuy số người còn rất ít nhưng cũng phần nào thể hiện được tấm lòng trung kiên của người tín đồ Cao Đài đối với Đấng Giáo Chủ của mình.

Mong rằng những ngày sắp tới, đồng đạo nơi Châu Thành Thánh địa Tây Ninh sẽ chung sức cùng anh em

nhiều hơn, dấn thân cùng anh em nhiều hơn trong công cuộc Phục quyền Hội thánh. 

Nhà cầm quyền csvn đến giờ phút cuối đời mà vẫn còn gây ra nhiều ác cảm, họ đập tượng Đức Hộ Pháp, tức họ đã tự đập phá chính họ, một quả báo dội ngược có thể làm kết liễu một chủ thuyết vô thần, vô tôn giáo, dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới trong sự thương yêu, đầy lòng nhân ái, trong sự công bình, đầy lòng quả cảm.

Thành kính cảm tạ ơn Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng các Đấng thiêng liêng đã hộ trì cho chúng con có được chút thành công nhỏ nhoi, phần nào cũng đã đánh thức được những anh em còn sợ hãi vững đức tin hơn để đấu tranh phục hồi cơ đạo. 

Trước áp lực quốc tế, nhất là sự quan tâm của nhiều quốc gia, từ  Úc châu, Đức quốc, Canada kể cả Hoa Kỳ đã yểm trợ mạnh mẽ cho nhân quyền và tự do tôn giáo cho Việt Nam trong những tháng qua như thăm viếng các nhà đấu tranh trong nước hoặc kết thân với những người đang dấn thân cho tự do – độc lập cho Việt Nam. Thêm vào đó tiếng kêu cứu của những người Phật tử khắp nơi trong nước nhất là trước sự tuyệt vọng của Hoà thượng Thích Không Tánh, Trụ trì chùa Liên Trì, Phó Viện trưởng Tăng đoàn GHPGVNTN về kế hoạch san bằng chùa Liên Trì của nhà cầm quyền Cộng sản, vào thứ sáu, ngày 28 tháng 8 năm 2015, phái đoàn Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã chính thức tiếp xúc Cao ủy Nhân quyền tại trụ sở Liên Hiệp quốc tại New York.

Để trình bày lên Liên Hiệp quốc những nguyện vọng thẳm sâu và bức thiết của người dân Việt nói chung và Phật giáo nói riêng, phái đoàn gồm 5  thành viên, do sự hướng dẫn của Hòa thượng Thích Viên Lý, Chủ tịch Tăng đoàn GHPGVNTN Hải ngoại, Hòa

thượng Thích Chơn Trí, Chánh Thư ký Hội đồng Giáo phẩm Trung ương, và Thượng tọa Thích Tâm Thành, Tổng Vụ trưởng Ngoại vụ, phía cư sĩ Phật tử có Cô Cathy Nguyễn, Chủ tịch TNCV và cô Nguyễn Thị Vân Khanh, Thư ký; Truyền thông có cô Thái Kim Loan và anh Nguyễn Chí Thảo thuộc đài truyền hình SBTN Boston.

Đúng 11 giờ sáng, phái đoàn đã được bà Peggy Kerry, người đại diện của Chính phủ Hoa Kỳ tại tòa Đại sứ về Tổ chức phi chính phủ (N.G.O) tiếp đón tại tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại thành phố New York. Sau khi nghe các Hòa thượng lần lượt trình bày về hiện tình nhân quyền cũng như tôn giáo tại Việt Nam,

quý Hòa thượng đã nhấn mạnh đến sự khủng bố và áp đặt lên người dân tại Việt Nam với một chính sách độc tài đảng trị mà Uỷ ban Nhân quyền của Hoa Kỳ ấn hành hàng năm cũng như những hình ảnh trên mạng xúc phạm chùa Liên Trì, chùa An Cư, tịnh thất Đạt Quang, Dòng Chúa Cứu Thế, cho đến sự áp bức Thánh thất Cao Đài, bức tử các nơi thờ phượng của đạo Tin Lành và đàn áp thẳng tay các buổi lễ, cấm cản Phật giáo Hòa Hảo… nhất là tước đoạt phẩm giá cao quý của con người của nhà cầm quyền CS. Tiếp theo là sự trình bày của  hai cô Cathy và Vân Khanh, với giọng nói ôn hoà nhưng quả cảm của cô Cathy đã làm mọi người xúc đông. Cô Cathy và cô Vân Khanh đều sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ nhưng đã làm bà Kerry (em gái của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ) ngạc nhiên sau khi hai cô đã phát biểu, bà phải buột miệng hỏi: “ Đông cơ nào đã thúc đẩy cô đi trong phái đoàn hôm nay?”

Buổi họp đã diễn ra trong bầu không khí cởi mở, thân thiện và bà Kerry đã tiếp nhận hai thỉnh nguyên thư của phái đoàn và sẽ trình lên

Số 227 Trang 5

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Văn phòng tòa Đại sứ để chính phủ Hoa Kỳ có giải pháp can thiệp.

Sau khi chờ đợi cho buổi họp kế tiếp tại Cao ủy Liên Hiệp quốc, phái đoàn đã dùng cơm trưa tại Trụ sở LHQ, và dịp này đài truyền hình SBTN-Boston đã phỏng vấn thành viên của phái đoàn ngay tại khuôn viên trụ sở LHQ. 

Đúng 2 giờ 30 chiều cùng ngày, nhân viên thuộc Cao uỷ đã xuống tận cổng để đón phái đoàn. Buổi họp chính thức bắt đầu lúc 3 giờ chiều. Bà Ann Syauta (Văn phòng Cao uỷ Nhân quyền) đã ân cần tiếp đón phái đoàn. Mở đầu là phần giới thiệu từng thành viên, trách vụ và nơi cư trú, sau đó là phần trình bày về những nguyện vọng và những đòi hỏi thiết thực mà Cao uỷ muốn biết, sau đó Bà Syauta đã hỏi một số chi tiết để bà lập hồ sơ. Bà cũng yêu cầu trong vài tuần tới cần gởi cho bà biết chi tiết những việc đang xảy ra mà phái đòan muốn bà can thiệp. Trong dịp này cô Vân Khanh nhấn mạnh về hai trường hợp là Nhac sĩ Việt Khang (hiện tại không biết bị giam ở đâu) và Nguyễn Viết Dũng hai thanh niên yêu nước đã can đảm bày tỏ thái độ.

Bà Syauta đã uyển chuyển gợi ý cho mọi người nói lên cảm nghĩ của chính mình không qua giấy tờ, bà cũng giúp ý để giới trẻ hải ngoại qua hai cô Cathy và Vân Khanh được quốc tế chú ý và LHQ có dữ kiện để nói chuyên về nhân quyền với các quốc gia liên hệ.

Trước khi ra về, phái đoàn đã chụp hình lưu niệm với bà Ann.

Ban biên tập

TỰ DO NGÔN LUẬNBán nguyệt san ra ngày 1

và 15 mỗi thángIN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:[email protected]

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

http:// www.tdngonluan.com www.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.comhttp://www.viet.no

http://khoi8406vn.blogspot.com

Xin tiếp tay phổ biến cho Đồng bào Việt Nam, nhất là tại quốc nội. Chúng tôi chân

thành cảm ơn

Một tín đồ Hmông theo đạo Dương Văn Mình ở tỉnh Cao Bằng, ông Ma Văn Pá, 30 tuổi, đã bị công an Việt Nam bắt cóc vào ngày 30-8-2015 và tra tấn dã man liên tiếp trong 2 ngày. Lý do là ông đã đến gặp Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) tại Hà Nội vào ngày 29-8-2015.

Ông Ma Văn Pá rõ ràng bị tra tấn theo định nghĩa của Công ước Chống Tra tấn và Các cách Đối xử hoặc Trừng phạt Dã man, Vô nhân đạo và Hạ nhục (CAT) mà Việt Nam đã tham gia từ năm 2013. Các nhân viên công an đã cố ý gây đau đớn lớn lao về thể xác và khủng bố tinh thần bằng cách dọa thủ tiêu để trừng phạt ông, bắt ông phải nhận tội, ký nhận đủ loại giấy tờ - mặc dù biết rằng tất cả lời khai, chữ ký hay điềm chỉ đều vô giá trị trong trường hợp này.

Gia đình ông Ma Văn Pá yêu cầu chính phủ Việt Nam mở ngay cuộc điều tra về hành vi sai phạm nghiêm trọng này, truy tìm các thủ phạm cũng như đồng phạm và truy tố họ vì tội bắt cóc và tra tấn theo pháp luật hiện hành.

Ngày 30-8-2015: Bị bắt cóc và tra tấn vì đã gặp USCIRF

Ông Pá bị cảnh sát giao thông bắt khi đi trên một chiếc xe khách đang chạy gần đến thành phố Hà Giang. Ông Pá chỉ kịp thông báo những thông tin này cho gia đình biết vào lúc 11g sáng ngày 30-8-2015. Nhưng thay vì đưa ông về trụ sở cảnh sát giao thông để kiểm tra giấy tờ, công an đã đưa ông thẳng

vào Công an thành phố Hà Giang để cho những người tự xưng là người của Bộ Công an với tên là Hùng, Thiết và Ngọc thẩm vấn. Cuộc thẩm vấn xoay quanh buổi gặp USCIRF: thành viên USCIRF gồm những ai? Ai thông dịch? Phái đoàn Hmông gồm có ai? Pá đã đưa gì cho USCIRF? Họ đánh ông Pá vì cho

rằng ông Pá nói sai về người Hmông và tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ đánh, đấm vào mặt vào đầu mỗi khi ông Pá không trả lời họ và dọa sẽ dùng biện pháp nặng hơn nữa. Họ bắt ông ký vào biên bản ghi rằng ông không bị đánh đập gì trong buổi làm việc. Nhưng ông Pá không đồng ý ký. Sau đó họ mở máy laptop của ông cũng như bắt ông cho biết mật khẩu của điện thoại nhưng ông không đồng ý.

Vì nơi giam giữ ông Pá đã bị lộ và gia đình của ông đang đấu tranh đòi người ở ngoài cổng trụ sở Công an thành phố Hà Giang nên vào lúc 6g chiều ngày 30-8-2015 công an đã dùng kế điệu hổ ly sơn. Một mặt ông Hoàng Trung Dũng, Đội trưởng đội An ninh (công an thành phố Hà Giang), đi ra mời gia đình vào để hỏi nguyện vọng. Mặt khác các công an Hùng, Thiết, Ngọc và một công an khác đã trùm một cái áo lót đen và hai cái túi ni lông lên đầu ông Pá và đưa ông Pá đi bằng xe taxi khỏi trụ sở của Công an thành phố Hà Giang. Trên đường đi họ để mặc cho ông bị nghẹt thở, đến khi ông sắp ngất thì họ mới bỏ túi ni lông ra. Họ đưa ông đến một khách sạn ở thành phố Tuyên Quang và bảo rằng ông đang ở Hà Nội. Ông Pá biết họ nói dối vì trên đường đi, có lúc cái áo bị tụt xuống khiến ông thấy quang cảnh quen thuộc của tỉnh Tuyên Quang.

Vào lúc 20g tại trụ sở Công an thành phố Hà Giang, ông Hoàng Trung Dũng, thông báo cho gia đình rằng ông đã hỏi khắp phường và

Số 227 Trang 6

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

không biết ai bắt ông Pá. Ông khuyên gia đình nên về nhà.

Ngày 31-8-2015: Bị tra tấn vì không chịu ký biên bản làm việc – Ba lần phản đối bằng tự tử

Trong ngày 31-8-2015, gia đình ông Pá tiếp tục đi tìm ông. Lúc 14g30 gia đình ông Pá nộp đơn kêu cứu để tìm người tại Sở Công an tỉnh Hà Giang và cuối cùng được nơi đó trả lời là ông Pá đang bị Công an thành phố Hà Giang bắt giữ. Trở lại gặp Công an thành phố Hà Giang lúc 15g30 để đòi xem lệnh bắt và lý do bắt thì nơi đó cho biết đã chuyển lệnh bắt về cho địa chỉ của ông Pá ở Cao Bằng. Công an Hoàng Trung Dũng còn nói người bắt ông Pá là Công an tỉnh Cao Bằng.

Trong khi đó ông Pá đang bị giam giữ và tra khảo ở một nơi bí mật tại thành phố Tuyên Quang. Suốt ngày các công an Hùng, Thiết, Ngọc thay nhau bắt ông Pá ký vào các tài liệu mà họ nói đã được in từ máy laptop của ông Pá, đòi cho biết mật khẩu điện thoại và bắt ký vào biên bản làm việc về vụ đi gặp UCSIRF. Ông Pá không chịu ký vào các tài liệu vì không biết có phải của mình không. Ông không ký biên bản vì ông không được tự tay cầm đọc nó mà chỉ thấy công an Thiết vừa đọc vừa dùng tay che một số đoạn. Ông cũng không đồng ý nội dung biên bản ghi rằng buổi làm việc về chuyến đi gặp USCIRF của ông Pá đã diễn ra trong không khí thoải mái, bình tĩnh, không bị đánh đập… và sau khi làm việc với công an thì “tôi (Pá) thấy việc đi gặp người nước ngoài là sai và vi phạm pháp luật và tôi công nhận những gì có trong laptop là của tôi và không bị công an đánh đập”. Mỗi lần từ chối là mỗi lần ông Pá bị đánh dã man vào mặt và đầu, và dọa đem đi thủ tiêu. Cuối cùng ông bị 4 công an đè xuống để lấy dấu vân tay in lung tung trên các tờ giấy của họ. Công an Hùng, kẻ tra tấn và dọa giết ông dã man nhất, bắt ông Pá ký thêm một biên bản về việc ông không bị công an đánh đập. Công an Ngọc cũng yêu cầu ông Pá ký riêng cho

hắn thêm một giấy nói hắn đối xử tốt để hắn khỏi bị khiển trách. Công an Thiết là kẻ tra tấn và dọa giết ông Pá nhiều nhất khi hắn bắt ông ký vào các biên bản và giấy tờ.

Để phản đối hành vi tra khảo, ông Pá đã hai lần lao mình vào cửa sổ để nhảy lầu và một lần húc đầu vào tường để tự hủy mình nhưng bất thành. Sau mỗi lần như vậy các công an đều hứa hẹn sẽ cho ông về.Lúc 17g ngày 31-8-2015 công an lại trùm áo lót đen lên đầu ông Pá và đưa ông ra thả ở huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang mặc dù trước đó mấy phút họ còn khẳng định rằng ông Pá đang ở Hà Nội sau khi ông Pá nhắn tin cho gia đình đến thành phố Tuyên Quang để tìm và cứu ông. Họ gọi xe khách đến đưa ông về bến xe thành phố Hà Giang.

Sức khoẻ: chấn thương sọ não, tâm lý bị giao động mạnh

Ông Mã văn Pá hiện có những triệu chứng bị chấn thương sọ não, mắt và trán bị sưng, trên mặt và trong người có nhiều vết bầm, luôn bị nhức đầu dữ dội và tâm lý bị giao động mạnh.

Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) và Sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã được thông báo ngay sau khi ông Pá bị cảnh sát giao thông thành phố Hà Giang bắt giữ. Báo cáo viên Đặc biệt về Tự Do tôn giáo của Liên Hiệp Quốc cũng nhận được báo cáo khẩn vì ông Pá đã gặp Báo cáo viên LHQ vào tháng 7-2014 tại Tuyên Quang.

Gia đình Ma văn Pá

Xem xét các phản ứng của thị trường tài chính đối với một loạt tin xấu gần đây về kinh tế Trung Quốc, rõ ràng cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu đã không mảy may có ý niệm rằng "phép lạ kinh tế" Trung Quốc sẽ “lộ tẩy” một cách quá đột ngột. Nhưng đối với những người quen thuộc với các tác phẩm kinh tế

chính trị viết về các chế độ bóc lột, việc Trung Quốc vấp ngã không chỉ là chuyện có thể xảy ra nhưng là chuyện không thể tránh khỏi.

Hầu hết những lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà đầu tư có thể quá bận rộn nên không đọc một tác phẩm kinh điển và nhiều lý thuyết như "Tổ chức, thay đổi tổ chức và hiệu suất kinh tế" của nhà sử học kinh tế đoạt giải Nobel là Douglass North, hoặc một cuốn sách dễ tiếp cận hơn: "Tại sao có những quốc gia thất bại" của Daron Acemoglu, kinh tế gia giảng dạy tại Học viện Kỹ thuật Massachusetts, và James Robinson, kinh tế gia giảng dạy tại Đại học Harvard. Những hiểu biết sâu sắc của các học giả này, là những người đã suy nghĩ thâm sâu về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, đáng được chúng ta quan tâm.

Khái niệm trung tâm của các học giả này là "nhà nước thú dữ" (predatory state), một từ của giới học thuật mô tả một chính phủ tham tàn. Mặc dù có những khác biệt ở bề ngoài trong cách giới cầm quyền "săn mồi" đối với xã hội, tính chất cốt lõi của một “nhà nước thú dữ” là việc sử dụng quyền lực chính trị để tự làm giàu của kẻ cầm quyền.

Nếu quyền lực của nhà nước bắt nguồn từ sự đồng ý của người bị trị và được hạn chế bởi các quy định của pháp luật, thì giai cấp cầm quyền sẽ có rất ít khả năng ăn cắp của người dân. Tuy nhiên, nếu kẻ cầm quyền đặt mình lên trên luật pháp và sử dụng bạo lực độc quyền

của nhà nước để bảo vệ đặc quyền ăn cắp của họ, thì họ có thể bòn rút thu vén của cải của xã hội tùy thích. Các ví dụ nổi tiếng nhất trong lịch sử gần đây là Ferdinand Marcos ở Philippines và Mobutu Sese Seko của Zaire, cả hai đều là “quan tặc” (kleptocrats).

Một sự sang đoạt từ từ

Số 227 Trang 7

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nhà nước bị “chế độ thú dữ” nắm quyền sẽ làm xã hội nghèo khổ. Hình thức bần cùng hóa cực đoan và thảm khốc nhất là việc cưỡng đoạt trắng trợn bởi những kẻ độc tài có một tầm nhìn ngắn hạn.

Các “chế độ thú dữ” tinh vi hơn, thường do các đảng phái chính trị độc tài có tổ chức chặc chẽ với một tầm nhìn dài hạn hơn nhiều, thì muốn có một chiến lược tinh tế và bền bỉ lâu dài hơn trong việc bòn rút của cải của xã hội. Thay vì ăn cắp ngay lập tức không thèm che giấu có thể làm tiêu tan vốn liếng tư bản của quốc gia và do đó đe dọa lợi ích lâu dài của bè đảng họ, “chế độ thú dữ” được kiểm soát bởi các đảng chính trị có tổ chức ăn cắp bằng những phương pháp gián tiếp, được ngụy trang và có tính thường trực.

Thông thường, họ đưa ra những quy tắc phức tạp để hạn chế sự di chuyển vốn (vốn di chuyển tự do thì khó ăn cắp), làm cho quyền sở hữu bấp bênh (tài sản không được luật pháp bảo vệ thì ăn cướp dễ dàng hơn), kiểm soát khu vực ngân hàng (một cách đánh thuế dân chúng bằng lãi suất âm và ban phát tín dụng cho khách hàng ưu đãi), duy trì các doanh nghiệp nhà nước lớn (để chuyển tài sản đến những kẻ cầm quyền là người kiểm soát các công ty này), và độc quyền các ngành chủ chốt (để đánh thuế lên xã hội một cách gián tiếp).

Nếu so sánh thì rõ ràng chế độ thú dữ tập thể phức tạp hơn nhiều so với chế độ thú dữ cá nhân và có xu hướng duy trì quyền lực lâu dài hơn. Mặc dù phương pháp “ăn cắp từ từ” (slow theft) như vậy có thể ít tệ hại hơn loại cướp bóc nhanh (fast plunder), các doanh nghiệp tư nhân và người dân thường vẫn không thoải mái khi sống dưới chế độ như vậy vì một phần lớn của cải mà họ phải khó nhọc tạo ra bị lấy đi mà không có sự đồng ý của họ. Cho dù các hệ thống “ăn cắp từ từ” có tinh vi phức tạp và ngụy trang khéo đến mấy thì cuối cùng người dân và doanh nghiệp tư nhân cũng sẽ nhận ra bộ mặt thật của hệ thống và sẽ mất đi động lực làm việc. Hơn nữa,

cho dù một hệ thống với các phương pháp “ăn cắp từ từ” có thể sản xuất ra nhiều của cải hơn so với một hệ thống cướp bóc nhanh chóng, nó vẫn là một hệ thống kinh tế cực kỳ thiếu hiệu quả. Dưới một hệ thống như vậy, nguồn tài nguyên quý giá bị lãng phí vào các dự án mà kẻ cầm quyền ưa chuộng vì các dự án này có thể giúp họ đảm bảo sự hỗ trợ chính trị hay mang lợi ích cho gia đình và bạn bè của họ.

Xét theo góc nhìn về nhà nước thú dữ cho chúng ta một cái nhìn sâu hơn và đáng lo ngại hơn về nguyên nhân suy thoái kinh tế của Trung Quốc. Nếu chúng ta quan sát các tổ chức kinh tế chính yếu của Trung Quốc và cách hoạt động của họ, chúng ta có thể nhanh chóng phát hiện một hệ thống cổ điển của sự “ăn cắp từ từ”: một tài khoản vốn khép kín, tài sản tư nhân không được bảo vệ hữu hiệu, độc quyền nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và các ngành công nghiệp chủ chốt (như viễn thông và năng lượng), các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ (chiếm ít nhất một phần ba tổng sản phẩm trong nước), và ngân sách của chính phủ hoàn toàn thiếu minh bạch.

Cái ít tệ hại hơn giữa hai cái xấu

Một câu hỏi là làm thế nào cái hệ thống “ăn cắp từ từ” lại có thể tạo ra phép lạ kinh tế trong hơn 35 năm qua. Câu trả lời cũng dễ tìm thôi. Thiếu hiệu quả kinh tế luôn luôn là sự tương đối. Hệ thống “ăn cắp từ từ” có thể kém hiệu quả hơn so với hệ thống tư bản chủ nghĩa tự do trong đó sự cướp bóc bởi nhà cầm quyền được hạn chế ở mức tối thiểu, nhưng nó lại hiệu quả hơn hệ thống cướp bóc nhanh. Có hai yếu tố trong trường hợp của Trung Quốc - một lịch sử và một cấu trúc - đã cho phép các hành động “ăn cắp từ từ” tiếp tục mà không làm chậm đi sự tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ hậu - Mao Trạch Đông.

Sự thật lịch sử là hệ thống “ăn cắp từ từ” đã thay thế một hệ thống trước đó còn tồi tệ hơn nhiều: hệ thống cầm quyền toàn trị theo chủ

nghĩa Mao đã hoàn toàn ngăn cấm kinh tế tư nhân và việc tạo ra của cải. Chắc chắn rằng chỉ một việc từ bỏ chủ nghĩa Mao đã cởi trói cho sự năng động kinh doanh và chuyển hướng hoàn toàn nền kinh tế Trung Quốc, mặc dù điều này khó có thể định lượng.

Các yếu tố khác đã làm hệ thống “ăn cắp từ từ” tiếp tục được mà không phá hủy nền kinh tế là một số các điều kiện và biến cố xảy ra một lần nhưng vô cùng thuận lợi, chẳng hạn như dân số trẻ, di cư từ nông thôn ra thành thị, toàn cầu hóa và sự gia nhập của Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới. Những yếu tố này đã đẩy mạnh nền kinh tế đến một mức thành quả cao như vậy nên Trung Quốc có thể thực hiện “ăn cắp từ từ”, và tốt nhất được hiểu như là một hình thức đánh thuế.

Nhưng khi Trung Quốc hụt hơi về mặt kinh tế, quốc gia không còn khả năng để trả mức giá này. Quan trọng hơn, số liệu thống kê kinh tế và tài chính của Trung Quốc càng lúc càng được phơi bày, đặc biệt là núi nợ của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước, cho thấy rằng việc “ăn cắp từ từ” tích lũy lâu dài có thể tác hại như cướp bóc nhanh.

Phân tích nghiêm trọng này cho thấy rằng các thách thức cơ bản của Trung Quốc là chính trị, không phải là kinh tế. Điều kiện tiên quyết cho những cuộc cải cách chân chính cần thiết để hồi sinh năng động kinh tế là tháo bỏ nhà nước thú dữ và hệ thống “ăn cắp từ từ”. Nhưng đây là một nhiệm vụ không thể thực hiện, bởi vì hoàn thành nhiệm vụ này đồng nghĩa với chuyện phá hủy các nền móng kinh tế của sự cầm quyền của đảng Cộng sản Trung Quốc. Những ai không tin vào cái lý luận có tính vận mạng này nên đọc "Tại sao quốc gia thất bại" và hãy nhìn vào các nước giàu nhất trên thế giới. Họ sẽ thấy rằng ngoại trừ đối với các nước sản xuất dầu mỏ, là nơi các nhà lãnh đạo có thể ăn cắp từ thiên nhiên, tất cả các xã hội giàu có khác được cai trị bởi các quy định của pháp luật và do đó không có cả

Số 227 Trang 8

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hai loại “ăn cắp từ từ” và cướp bóc nhanh.

Minxin Pei là một giáo sư về chính thể tại Claremont McKenna College và một thành viên cao cấp không cư trú của German Marshall Fund của Hoa Kỳ.

Nguyên tác tiếng Anh đăng tại http://www.gmfus.org/commentary/root-chinas-economic-troubles-its-politics-stupid. Đỗ Tùng chuyển ngữ

Dân Luận.

Từ khi thị trường chứng khoán lao dốc giữa tháng 6, làm bốc hơi 5.000 tỷ USD vốn hóa, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng rất nhiều biện pháp để cứu vãn.

Cách mới nhất là bắt giữ lãnh đạo công ty môi giới lớn nhất nước - Citic, một nhân viên Ủy ban Điều tiết Chứng khoán (CSRC) và một phóng viên tạp chí kinh tế Caijing với cáo buộc thao túng thị trường.

Theo Xinhua, các lãnh đạo Citic đã thừa nhận giao dịch nội gián. Phóng viên tên Wang Xiaolu cũng thừa nhận đưa tin sai khi cho biết CSRC đang cân nhắc ngừng hỗ trợ thị trường chứng khoán, gây ra sự hoảng loạn và hoang mang.

Chính phủ Trung Quốc còn can thiệp trực tiếp hơn, đề nghị các hãng môi giới góp thêm 100 tỷ NDT (15,7 tỷ USD) vào quỹ giải cứu chứng khoán. Trên thị trường tiền tệ, họ cũng tiêu tốn hàng trăm tỷ USD để bình ổn NDT, sau động thái phá giá NDT bất ngờ hôm 11-8.

Ngày 25/8, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) đã hạ lãi suất lần thứ 5 trong năm nay.

Nhưng nhà đầu tư vẫn không cảm thấy thuyết phục. Chỉ số Shanghai Composite đã mất 2,2% trong 3 ngày qua và đã mất 39% từ đỉnh tháng 6.

Chính quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình vẫn đang vật lộn việc vừa nới lỏng kiểm soát kinh tế, đồng thời vẫn phải đảm bảo ổn định và duy trì niềm tin của người dân. Cuộc chiến giữa bàn tay vô hình của thị trường và nắm đấm thép của Chính phủ đang tạo ra sự hoang mang và hỗn loạn, khiến Trung Quốc trở thành mối đe dọa lớn nhất của kinh tế và tài chính toàn cầu.

"Họ không biết phải làm thế nào với các thị trường này, và cũng chẳng hiểu mình đang làm gì. Đây là một trong những lý do thị trường toàn cầu bị bán tháo", Nicholas Field - chiến lược gia các thị trường mới nổi tại Schroders nhận xét.

Khi lên nắm quyền năm 2012, ông Tập đã thể hiện một tầm nhìn khác. Ông bắt giữ quan chức tham nhũng và thúc đẩy quá trình tái định hình tài chính toàn cầu, khi thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB).

Khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ chậm nhất 25 năm, ông muốn để thị trường đóng vai trò lớn hơn, nhằm giải phóng tiềm năng cho đất nước. Nhà đầu tư nước ngoài cũng được cho phép tiếp cận thị trường chứng khoán Trung Quốc với quyền hạn chưa từng thấy. Thông qua việc thay đổi chính sách, các tuyên bố chính thức và phương tiện truyền thông nhà nước, Trung Quốc đã khuyến khích được người dân mua cổ phiếu. Số nhà đầu tư mới ngày một nhiều, rất đông trong số đó dùng tiền đi vay, đã kéo chỉ số Shanghai Composite tăng hơn 150% trong một năm.

Tuy nhiên, khi đà tăng nhờ vay nợ này đột ngột đổi chiều, khiến 90

triệu nhà đầu tư cá nhân tại Trung Quốc hoảng loạn, Chính phủ đã phải ra tay ngăn chặn, liều lĩnh với uy tín của chính mình. Họ ra lệnh cấm các cổ đông lớn bán ra, buộc các tổ chức quốc doanh phải mua vào và cho phép hơn nửa mã cổ phiếu ngừng giao dịch. Khi đà giảm vẫn chưa chấm dứt, việc NDT bị phá giá lại châm ngòi cho đà bán tháo tại các thị trường mới nổi, khiến chứng khoán toàn cầu bốc hơi 7.700 tỷ USD. PBOC từ đó cũng đã chi 3.700 tỷ USD dự trữ ngoại hối để bình ổn nội tệ.

Rất nhiều chuyên gia kinh tế và chiến lược gia cho rằng sự can thiệp này chỉ là tạm thời và các biện pháp cải tổ rồi cũng sẽ được thực hiện khi tình hình lắng dịu. "Họ sẽ không quay về thời kỳ toàn bộ quyền lực tập trung về tay Nhà nước nữa đâu. Họ sẽ đi theo hướng thị trường, nhưng rõ ràng sự kiện này là một bước lùi", Clement Miller - chiến lược gia đầu tư tại Wilmington Trust nhận xét.

Phản ứng của Trung Quốc đã xóa bỏ quan niệm lâu nay rằng Chính phủ nước này luôn kiểm soát tốt nền kinh tế và biết cách duy trì sự ổn định. Kể cả khi Trung Quốc cho phép thị trường có ảnh hưởng lớn hơn và chào đón nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường chứng khoán, họ vẫn lúng túng trong các vấn đề xử lý khủng hoảng và truyền thông với công chúng.

Nhà đầu tư nhận được những tín hiệu trái chiều về ý đồ của Chính phủ, rất nhiều người không hiểu liệu các biện pháp giải cứu là để hỗ trợ các mức giá cổ phiếu nhất định nào đó hay chỉ đơn giản là giảm biến động trên thị trường? Liệu Chính phủ có thực sự muốn NDT trở thành đồng tiền được tự do giao dịch trên toàn cầu như tuyên bố hay không? Tại sao Ngân hàng trung ương lại can thiệp quá sớm để hỗ trợ tỷ giá khi vừa mới phá giá như thế? "Sự can thiệp này đang đe dọa uy tín của Trung Quốc trong vai trò một thị trường đầu tư hợp lý", Miller nhận xét.

Có rất ít tín hiệu cho thấy sự

Số 227 Trang 9

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

biến động này sẽ sớm kết thúc. Mà kể cả có chấm dứt, cổ phiếu tại Thượng Hải cũng vẫn còn rất đắt đỏ. Với hệ số giá trên lợi nhuận (P/E) là 24, các cổ phiếu này đắt gần gấp rưỡi các mã trong S&P 500 của Mỹ.

Trên thị trường ngoại hối, nhà đầu tư cũng đang chuẩn bị tinh thần cho việc NDT giảm giá thêm nữa, do các số liệu mới nhất về sản xuất và xuất khẩu có thể sẽ cho thấy kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc. Các hợp đồng kỳ hạn NDT cho thấy nhà đầu tư dự báo đồng tiền này sẽ mất giá 4% trong một năm tới.

Michael Wang - chiến lược gia tại quỹ đầu tư Amiya Capital cho rằng Chính phủ Trung Quốc sẽ phải học cách sống chung với biến động - hệ quả tự nhiên của việc giải phóng các yếu tố thị trường. "Họ nhận ra rằng việc này khó khăn hơn mình nghĩ, và đang dần rút lại chiến lược can thiệp mạnh tay. Nhưng niềm tin của thị trường thì đã sứt mẻ rồi", Wang nhận xét.

Hà Thu (theo Bloomberg)VnExpress

Vào ngày 9-8-2015 vừa qua, Sin-

gapore đã long trọng kỷ niệm 50 năm ngày độc lập của đảo quốc này. Thực sự, chính phủ và người dân Singa-pore hoàn toàn có thể tự hào, vui sướng vì những gì mà họ đã đạt được. Chỉ sau 50 năm đối với một quốc gia nhỏ bé, thuộc địa cũ của Anh quốc, nay Singapore đã phát triển nhanh chóng trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, với những thành tựu nổi bật về kinh tế, giáo dục, y tế. Và mặc dù vẫn còn bị chỉ trích là một chính phủ độc tài, cũng như sự thiếu vắng về tự do ngôn luận và chính trị, nhưng ít nhất người dân Singapore đã và đang được sống trong một xã hội ấm no, thịnh vượng, thượng tôn pháp luật, chính phủ minh bạch. Đất nước này nhận được sự ngưỡng mộ của các nước, là một trong những biểu tượng hóa rồng nhanh chóng của khu vực và thế giới.

Sắp tới, có lẽ người Đức sẽ kỷ

niệm 25 năm thống nhất đất nước (3-10-19903-10-2015) và họ cũng hoàn toàn có thể tự hào, hạnh phúc vì đã thống nhất không đổ máu, và vì Tây Đức không bị Đông Đức quyết tâm “giải phóng” bằng mọi giá nên khi cần thiết, người dân cả hai miền có cơ hội để so sánh và lựa chọn một thể chế tốt đẹp hơn. Sau 25 năm, người Đức đã nỗ lực rất nhiều để san bằng khoảng cách giữa hai miền Đông-Tây và nước Đức hiện nay là đầu tàu về kinh tế cũng như trong nhiều lĩnh vực khác ở châu Âu.

Đừng quên, Đức là nước đại bại trong chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Một quốc gia khác cũng bị đại bại và phải chịu sự chiếm đóng của nước ngoài là Nhật Bản, nhưng từ sau chiến tranh, Nhật tập trung phát triển kinh tế, và chỉ đến cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, trở thành một nước tư bản phát triển. Nhắc đến Nhật là nhắc đến những thành tựu về kinh tế, đặc biệt về công nghiệp điện tử, kim khí, máy móc, xe hơi, hàng tiêu dùng… với những thương hiệu hàng đầu thế giới và đảm bảo uy tín về chất lượng; là nhắc đến những giá trị NB không chỉ trong kinh tế mà cả về văn hóa, con người.

Kỷ niệm 70 năm chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, và sự thất bại của chủ nghĩa phát xít (9-19459-2015), vào thời điểm này, người Nhật có thể nhẹ nhàng, không mặc cảm khi nhìn lại quá khứ; không những thế, họ có quyền tự hào vì đã thay đổi hướng đi và đã từ đống tro tàn vươn mình đứng dậy.

Và còn nữa, những ví dụ khác của thế giới...

Ngày 2-9 năm nay nhà cầm quyền VN cũng tưng bừng kỷ niệm 70 năm VN tuyên bố độc lập và được lãnh đạo bởi đảng Cộng sản. Một chương trình kỷ niệm hoành tráng và tốn kém đã được chuẩn bị từ trước đó mấy tháng. Tất nhiên, truyền thông nhà nước sẽ được chạy hết công suất để ca ngợi công ơn đảng và nhà nước, để nhắc đến những thành tựu của “thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử, thời đại Hồ Chí Mính” v.v và v.v…

Thế nhưng có thật 90 triệu người dân cảm thấy tự hào, vui sướng hay chỉ mình đảng “tự sướng”?

Có gì đáng để vui mừng cho 70 năm của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN nếu nhìn sang những thành

tựu của nhiều nước khác, với thời gian ngắn ngủi hơn?

VN hôm nay có thật là một quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc như câu nói luôn luôn xuất hiện trong mọi văn bản, giấy tờ của nhà nước?

Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã chọn con đường giành độc lập bằng hình thức bạo lực cách mạng, sau này lại lựa chọn thống nhất đất nước bằng chiến tranh, giữ chính quyền bằng bạo lực và sự cai trị, bất chấp nhân tâm, sự lựa chọn đó đã dẫn đến quá nhiều đau thương, mất mát. Cuộc nội chiến 20 năm với hơn 3 triệu người đã ngã xuống, lẽ ra hoàn toàn có thể tránh được, tiếp đó lại chiến tranh biên giới với Trung Cộng, cuộc chiến với Campuchia… đã tàn phá đất nước, hủy hoại sinh lực của dân tộc VN. Bên cạnh đó là vô số những chính sách sai lầm về kinh tế, quản lý đất nước, sử dụng con người, đẩy đất nước thụt lùi hàng chục, hàng trăm năm về nhiều mặt, hàng triệu người bỏ nước ra đi trong đó gần một nửa vĩnh viễn nằm lại dưới biển sâu, tạo nên một trong những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử VN và cả thế giới trong thế kỷ XX.

Cho đến tận hôm nay, VN vẫn bị kìm hãm không thể phát triển vì những cải cách nửa vời không triệt để, vì tầm nhìn hạn hẹp, vị kỷ, chỉ muốn bám chặt lấy quyền lực bằng mọi giá của đảng và nhà nước CS.

Hậu quả VN ngày nay đứng ở đâu trên thế giới, đã đạt được những thành tựu gì, đóng góp được gì cho nhân loại, vị thế của VN và ngay cả của người Việt trong mắt bạn bè thế giới như thế nào… Đó là những câu hỏi không khó để trả lời.

Nhà nước CSVN đã tự sướng, đã ngất ngây với những thành tích chiến thắng quá đủ và quá lâu rồi. Giờ là lúc hãy nhìn thẳng vào sự thật, để biết đau biết nhục vì sự thua kém về nhiều mặt của đất nước so với các nước khác, vì người dân mình đa số vẫn còn nghèo quá, khổ quá, vẫn còn phải chạy vạy kiếm ăn từng bữa và hàng triệu người khác đang tha hương tứ xứ đi làm thuê khắp thế giới trong lúc hàng chục, hàng trăm ngàn người khác nữa vẫn đang tiếp tục tìm mọi cách bỏ nước ra đi…

Dù ở thế kỷ XXI, những khái niệm về tự do, dân chủ, những quyền con người căn bản vẫn còn là xa xỉ với người Việt.

Chưa bao giờ nhà nước này biết sám hối, biết nói một câu hay có một hành động tỏ sự hối tiếc, ân hận cho những sai lầm, những tội ác mà họ đã gây ra cho đất nước này, dân tộc này.

Số 227 Trang 10

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Và không chỉ riêng đảng và nhà nước cộng sản VN phải sám hối.

Tất cả chúng ta, hơn 90 triệu người VN trong và ngoài nước cũng cần cảm thấy nhục, đau thay vì vui mừng, cần sám hối thay vì dửng dưng trước thời cuộc.

Tất cả những người dân miền Bắc thuộc thế hệ U90 cho tới U50 đã từng tin vào những lời đảng Cộng sản nói, đã từng góp phần vào xây dựng nên chế độ này, hãy sám hối, như những người đã nhận ra sự thật. Như tướng Trần Độ, nhà báo Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Dương Thu Hương, cựu lãnh sự VN tại Geneva Đặng Xương Hùng, nhà báo Lê Hiếu Đằng và nhiều, rất nhiều những người khác, như những lời tâm sự chân thành của hai anh em đảng viên đảng cộng sản Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn trong bài “Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn- Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài”, do tác giả Phạm Hồng Sơn thực hiện, đăng trên Talawas từ tháng 4-2012:

“…Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?

Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ!

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.

….Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô

tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.

Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại,

con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Nhiệt huyết lúc đó của

chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.”

Không chỉ những thế hệ trước, tất cả những ai còn đang hưởng lợi lộc từ chế độ này nên quyết tâm bảo vệ chế độ đến cùng bất chấp lợi ích của đất nước, nhân dân. Những ai đến giờ này vẫn lợi dụng những kẽ hở của chế độ để đục khoét, vơ vét tài sản của đất nước, tiền thuế của nhân dân, làm giàu từ tham nhũng, từ những cung cách làm ăn bất chính, bất chấp các hậu quả thiệt hại nặng nề mà họ gây ra. Những ai cho đến giờ này vẫn ra sức bảo vệ, bưng bô chế độ, tiếp tục nói dối để lừa mị nhân dân.

Từ những công an viên, cánh tay đắc lực bảo vệ đảng, dựa vào đảng, vào nhà cầm quyền để tác yêu tác quái, xách nhiễu, hành hạ dân chúng, thậm chí bạo hành dân đến chết trong trại tạm giam, những dư luận viên ngày đêm ném đá, bôi nhọ, vu khống những người dám nói lên sự thật cho tới những “bồi bút”, “văn nô” ngày đêm sơn phết, tụng ca chế độ bất chấp lương tâm và lòng xấu hổ, những trí thức mũ ni che tai, trùm chăn với thời cuộc, tự cho mình là khôn ngoan, hoặc còn đang mải mê kiếm thêm danh lợi…

Vả phía bên thua cuộc, không chỉ những người tham gia vào cuộc chiến hay lớn lên ở miền Nam trước 1975 cần sám hối vì đã không thể giữ được miền Nam, dù biết rằng do những điều kiện khách quan, do bàn cờ thế cuộc được sắp xếp giữa các nước lớn, nhưng giá như hồi đó người miền Nam tỉnh táo hơn, quyết liệt hơn, thậm chí thủ đoạn hơn, Cộng sản có lẽ đã không thể thắng. Và những con người vì ngây thơ chính trị hay vì nhẹ dạ, từng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, góp phần dẫn đến sự sụp đổ của VNCH…

Không chỉ họ, thế hệ hôm nay trong và ngoài nước, trong đó có tôi, có chúng ta, cần phải sám hối bởi vì dựng nên chế độ là trách nhiệm của các thế hệ trước, nhưng giúp cho chế độ tồn tại là trách nhiệm của thế hệ hôm nay. Chúng ta đã quá giỏi chịu đựng nên chế độ này mới tồn tại lâu đến thế.

Sám hối để quặn lòng đau cho đất nước, để xót thương cho dân mình,

cũng là thương chính mình và con cháu mình.

VN còn là một "quốc gia khó phát triển, không chịu phát triển" cho đến bao giờ?  songchi's blog

http://www.rfavietnam.com

Đặc xá cướp giết hiếp. Giam giữ tù lương tâm

Đợt đặc xá quy mô lớn của chính quyền VN trước 2-9-2015 với số lượng 18.298 tù hình sự đã khiến dư luận được một phen ngỡ ngàng. Có phạm nhân giết người, tòa phạt 14 năm tù, nay ở chưa được một nửa thời hạn đã tha bổng (có dư luận cho rằng do cô ta có thân hình bốc lửa và ở tù giùm cho một con ông cháu cha) ! Tội trộm cướp, tham nhũng, cướp giết hiếp, ma túy đều được đặc xá một cách rộng rãi khác thường. Riêng người có lương tâm, vô tội, chỉ đấu tranh cho sự thật và tự do nhân quyền như Trần Huỳnh Duy Thức, anh Ba Sàm, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Già, Bùi Hằng… và nhiều người khác thì cho đến nay vẫn bị giam cầm dù người VN và thế giới đã nhiều lần lên tiếng phản đổi.

Cung cách quản lý xã hội như vậy chính là đặc trưng của 70 vận hành chính thể sau cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9.

70 năm dân thành ‘Khách trọ’Những ngày cuối tháng 8-2015,

người VN chứng kiến tại Malaysia một sự kiện mà dù đã gần một thế kỷ mơ ước và gắng gỏi, người VN cũng không thể có được. Người dân đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng cách rầm rộ xuống đường biểu tình yêu cầu thủ tướng đương nhiệm Najib Rajak của họ phải từ chức chỉ vì phát hiện ra ông ta có dấu hiệu tham nhũng. Chính quyền không đàn áp họ, vì đó là quyền đương nhiên của dân, không ai có quyền

Số 227 Trang 11

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

xâm phạm.Trong khi ở VN, nhà cầm quyền

đàn áp tất cả những người ôn hòa bày tỏ nguyện vọng chống TQ xâm lấn lãnh hải, dân oan đi khiếu kiện và những người chống tham nhũng, những trí thức bất đồng chính kiến.Đó là nghịch cảnh rõ ràng tố cáo bản chất của nền chính trị, thể hiện người dân là khách trọ hay là chủ trên đất nước của mình.

Người dân trong một nước tôn trọng dân chủ và nhân quyền thì mới thực sự có đất nước.

Tại VN, dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền thay đổi thể chế chính trị và nhà cầm quyền khi họ không làm những cảm kết trước dân, người dân đương nhiên chỉ là những kẻ phải lưu vong trên chính Tổ quốc của mình.

VN là một trong những thể chế chính trị độc tài cộng sản cuối cùng trên thế giới đã dùng những thủ đoạn khôn khéo để tồn tại, Cái gọi là thành quả đổi mới – thực chất là đổi mới nửa vời chỉ cốt để cứu thể chế chính trị cộng sản toàn trị VN khỏi sụp đổ dây chuyền theo hệ thống xã hội chủ nghĩa, nới một chút nút thắt cổ người dân để họ làm kinh tế rồi bóc lột của họ tận xương tủy để làm giàu cho cá nhân.Mặc dù đời sống kinh tế của người VN hiện nay có cao hơn so với thời cách đây 70 năm, nhưng trong cùng một thời gian đó, kinh tế các nước có cùng xuất phát điểm thấp như VN trong khu vực đã tăng cả 7, 8 lần.

Với bộ máy tham nhũng hiện nay, chi thường xuyên đã chiếm tới 72% ngân sách, tiền trả nợ lên tới 25%, chỉ còn khảng 3% ngân sách là chi cho đầu tư phát triển. Quan chức chính quyền, cơ quan đoàn thể nay còn không thèm giấu bộ mặt vô liêm sỉ, trơ trẽn tha hồ cấu kết với nhau cướp đoạt tiền của dân trên mọi lĩnh vực từ thuế chi phí, buộc dân phải hối lộ, đổi tiền lấy chữ ký trên mọi lĩnh vực, kể cả vay tiền nước ngoài hay cho phép đầu tư vốn thường xuyên thất thoát, kém hiệu quả. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói “Cứ vay tiền ào ào thì

không phát triển đất nước, trả nợ không được thì đến ngày là sụp”.

Dân “một cổ ba tròng“Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải

chịu đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực. là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương.

Sau 70 năm cách mạng Tháng tám thành công, dân một cổ thêm ba tròng. Tiền thuế của dân đã phải trả cho giới cai trị bóc lột và để bảo vệ cho một chế độ xã hội bất công. Ông Nguyễn Công Khế, nguyên tổng biên tập báo Thanh Niên đã nhận định rằng từ 50-70% ngân sách nhà nước đã rơi vào túi quan tham. Người dân sẽ bị đàn áp nếu không chịu nô lệ, nhẫn nhục đóng thuế, phí nuôi bộ máy cai trị.

Lấy tiếng rằng nông dân được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp, nghe tưởng rằng nhà nước nhân đạo lắm, nhưng trên thực tế khác hẳn. Nông dân phải gánh trên 1.000 loại phí và lệ phí! Sự tham lam tàn bạo này chưa từng có trong lịch sử VN.

Sáng 10-8-2015, báo cáo Ủy ban thường vụ QH tại phiên thảo luận dự thảo Luật phí và lệ phí cho biết: như với nông nghiệp, dù vừa qua đã ra soát bỏ nhiều loại nhưng vẫn còn 937 khoản phí và 90 lệ phí. Ông Nguyễn Sinh Hùng than: “Một quả trứng mà gánh tới 14 loại phí thì đúng là …trời đất ơi” (theo VnExpress 10-8-2015 “Nông dân vẫn chịu trên 1000 loại phí và lệ phí“) .

Những lời hứa trịnh trọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập về thực thi quyền tự do, bình đẳng, quyền con người, điều đã khiến người VN tin và do đó đã dốc toàn lực ra ủng hộ Việt Minh và đảng cộng sản, qua 70 năm, càng ngày càng chứng minh rằng đó chỉ là mớ giấy lộn, một lá bùa hữu hiệu để chính quyền cộng sản độc tài cướp đoạt quyền con người, quyền tự chủ của người dân mà thôi.

Đặc trưng Thời đại Hồ Chí

Minh: huynh đệ tương tàn, tụt hậu xa so với thế giới, dân bị nô lệ hóa.

Về việc tự vỗ ngực khen ngợi và che giấu những tội ác của mình, ít ai bằng đảng cộng sản VN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói không một chút căn cứ thực tế: “Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử VN, đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội”.

Trong khi đó, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận là VN đang đứng chót bảng xếp hạng trong nhóm ASEAN-6, thậm chí có lĩnh vực còn thấp hơn cả Lào, Campuchia, Myanmar, ba nước được coi là kém phát triển nhất trong khối.

Lời vỗ ngực tự khen trên của Nguyễn Phú Trọng cũng không khác gì lời tự khen trên xương máu những nạn nhân trong cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cách đây gần 70 năm tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội VNDCCH: “Luật cải cách ruộng đất của chúng ta là chí nhân chí nghĩa, hợp lý hợp tình…”.

Cần cách mạng thể chế70 năm minh chứng sự bất lương

của thể chế độc tài cộng sản là đã quá đủ.

Thậm chí không một nỗ lực cải cách nào có thể thay đổi được nó về bản chất. Những người muốn cải cách như Trần Xuân Bách, Võ Văn Kiệt đã có quyền lực lớn nhưng cũng bó tay hoặc bị hãm hại, vì cải cách là đụng đến quyền lợi riêng nhiều quan chức, chưa kể có một bộ máy tình báo Hoa Nam đứng đằng sau.

Nguyên nhân nào đã khiến người VN ngày nay nổi tiếng thế giới, nhiều nơi phải ghê tởm người VN khi VN liên tục xuất khẩu sự vô văn hóa, gái điếm, trộm cắp, buôn lậu, ma túy, sự giết chóc ra toàn thế giới? Những ác quỷ tàn sát cả mẹ cha, chồng vợ, bạn bè, thân chỉ vì vài đồng bạc từ đâu ra?

Đều là những sản phẩm của con đường vạch ra từ 70 năm trước.

Khi xã hội không có công bằng, người dân không tương lai, và hình

Số 227 Trang 12

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

mẫu của họ là những quan chức dối trá, cướp ngày thì được vinh thân phì gia, nhiều người dân, đặc biệt là lớp trẻ, sẽ tuyệt vọng và noi gương quan chức, cũng sống như ác quỷ.

Vì thế, cần một ngày Quốc khánh khác cho VN. Không phải quốc khánh đau thương và lọc lừa 2/9.

VTH

LỜI HỒ CHÍ MINH TỐ CÁO THỰC DÂN PHÁP TRONG

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CÒN MANG TÍNH THỜI SỰ

Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta.Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy.Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý.Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn….

CHỈ CẦN THAY CHỮ “THỰC DÂN PHÁP” BẰNG “ĐẢNG VIỆT CỘNG” VÀ NHÂN CÁC TỘI ÁC LÊN NGÀN

LẦN.

Xin lỗi quý vị độc giả, phải nhìn thấy những chữ nặng nề trong tựa đề trên đây. Tám chữ đó người viết không đặt ra mà trích từ một lá thư công khai của ông Ngô Bảo Châu, một nhà toán học Việt Nam lỗi lạc được thế giới công nhận.

Ðộc giả Người Việt khi đọc tin đảng CS ở tỉnh Sơn La, VN, tính đem 1,400 tỷ đồng (gần 70 triệu đô Mỹ) ra làm khu công viên dựng tượng Hồ Chí Minh, nhiều người, ở

trong và ngoài nước đã phản ứng bằng những lời lẽ nặng nề, thậm tệ hơn nữa. Nhưng những lời GS Ngô Bảo Châu viết trên trang Facebook của ông đáng chú ý, vì ông chưa bao giờ tỏ ra phẫn nộ dùng lời lẽ như vậy khi bầy tỏ ý kiến về các vấn đề chung. Ông sinh ra và lớn lên trong chế độ CS ở miền Bắc. Không thể gọi ông là người “chống Cộng,” nghĩa là bài bác chủ nghĩa CS hay chống chế độ độc tài đảng trị. Ngược lại, ông vẫn thường cộng tác với chính quyền trong các dự án giáo dục; ông cũng không hay phản bác những chính sách của đảng CS.

Lần này, ông Ngô Bảo Châu nổi giận có lý do. Ông viết: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1,400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh!”

Hàng ngày, đồng bào ta ở Hà Nội, Sài Gòn hay Hải Phòng, Ðà Nẵng cũng có thể nổi giận nói như vậy khi chứng kiến cảnh các đại gia ăn tiệc với những chai rượu giá hàng ngàn đôla đổ ra như nước lã, trong khi những đứa trẻ gầy còm, đen đủi, quần áo rách mướp, đang lê la ngoài phố, không được đi học. Nhưng rất ít người đứng ra nói lớn những lời phẫn nộ như ông Ngô Bảo Châu: Hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh!

Tại sao người ta không nổi giận, không phản kháng? Bởi vì họ đã nhìn thấy những cảnh đó nhiều quá rồi! Họ đã quen rồi, đã từng nói nhiều rồi mà không thấy hiệu quả nào hết. Có lẽ con số 1,400 tỷ đồng, 70 triệu đôla nó kích thích tình lân mẫn và đức liêm sỉ của mọi người mạnh hơn. Nhìn con số đó, người mẫn cảm nghĩ ngay tới những trẻ em “ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang” để so sánh, vì các em bé này có khi không được 1 đô để sống mỗi ngày.

Nhiều nơi trong nước mình mỗi người dân đang sống với lợi tức dưới một đôla một ngày; hàng triệu người như vậy. Theo thống kê của nhà nước, Sơn La là một tỉnh nghèo

bậc nhất. Tỷ lệ chính thức năm 2013 cho biết trong tỉnh có 27% các gia đình sống trong cảnh “nghèo.” Chữ “nghèo” đóng ngoặc kép ở đây được định nghĩa theo tiêu chuẩn nhà nước. Năm 2008, người dân thành thị sống với lợi tức là 370.000 đồng 1 tháng; dân nông thôn là 290.000 đồng một tháng được coi là “chuẩn nghèo.” Trong những năm từ 2011 tới 2015, một hộ nghèo ở nông thôn được định nghĩa là gia đình có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng mỗi người một tháng trở xuống. Ở thành thị là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500,000 đồng một tháng hay thấp hơn.

Như vậy thì 27% các gia đình sống trong tỉnh Sơn La đang sống với mức lợi tức dưới 20 đôla một tháng. Sơn La có hơn một triệu 200 ngàn dân, thì 325 ngàn đồng bào đang sống với dưới 70 xu Mỹ mỗi ngày. Hai tỉnh bên cạnh, Ðiện Biên và Lai Châu còn thảm hơn. Tỷ lệ nghèo ở Lai Châu trên 27%, còn Ðiện Biên cao hơn 35%.

Người ta thường không tin các con số thống kê của các chế độ Cộng sản, từ Liên Xô, Trung Cộng cho tới Cuba. Muốn thẩm lượng tính chất xác thực của các số thống kê trên, quý vị có thể đặt câu hỏi: Tỷ lệ nghèo ở các thành phố lớn là bao nhiêu? Ðọc thống kê của nhà nước, ta thấy liệt kê các “địa phương có tỷ lệ hộ nghèo thấp hoặc không còn hộ nghèo” là: Tp Hồ Chí Minh (0%), Bình Dương (0%). Coi như cả tỉnh Bình Dương, cả thành phố Sài Gòn không có nhà nào “nghèo” hết, kể cả những gia đình sống trên lề đường. Có ai muốn tin các con số đó không? Các thành phố lớn và tỉnh tiếp theo có Ðồng Nai (0.66%), Thành phố Ðà Nẵng (0.77%), Bà Rịa-Vũng Tàu (0.95%), Hà Nội (1.01%). Quý vị ở các địa phương trên có thể biết rõ hơn. Các số thống kê của nhà nước xưa nay vẫn đáng nghi ngờ.

Cho nên có thể đoán số người thuộc “chuẩn nghèo” ở Sơn La còn đông hơn, có thể hàng nửa triệu, và số thu nhập của họ còn thấp hơn, có thể chỉ tới nửa mỹ kim mỗi này.

Số 227 Trang 13

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Một gia đình năm người có thể phải sinh sống với lợi tức 3 đô một ngày!

Những người VN mỗi ngày đang được ăn no, ở khắp thế giới, nghĩ đến những con số trên không khỏi rớt nước mắt. Nhất là trong số đó có các trẻ em.

N. Bảo Châu nghĩ tới những em “ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang.” Nghĩ như vậy, lại nghĩ tới số tiền 70 triệu đô phung phí, trong lòng không nổi giận thì không phải là người. Ðúng là một lũ “hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh!” Khi nghĩ tới các em, lại nhớ thời tôi ở tuổi các em bây giờ, 5 tuổi, 7 tuổi, tôi đã sống trong cảnh “ăn không đủ no, áo không đủ ấm” thật sự. Ðầu thời kháng chiến, gia đình tôi ở Cầu Ðất, Thái Nguyên. Có lúc mẹ đi xa cả tháng bị kẹt đường xe lửa hỏng, không về nhà được. Chị lớn của tôi năm đó 14, 15 tuổi thấy nhà hết gạo, đi vay gạo hàng xóm không ai có sẵn; chị đã đi bắt cua cả ngày đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo và mua ngô (bắp) nuôi hai đứa em trai lên 9 và lên 3. Em bé được ăn cháo, anh và chị ăn bắp. Chị em tôi may mắn không đến nỗi “sinh hoạt như lũ thú hoang” là nhờ thời đó có giáo dục gia đình. Nhờ làng xóm chung quanh vẫn còn sống trong nền nếp tinh thần cha ông để lại, chưa bị phá tan hoang như sau này. VN bây giờ nhiều em sinh hoạt như lũ thú hoang. Vì có khi ngay cả cha mẹ các em đã sống hoang dã rồi, không ai giáo dục con cái. Sau khi chiến tranh đã chấm dứt hơn 40 năm, vẫn thế.

Nhìn con số 70 triệu đôla, quả là một khoản tiền lớn. Ðó lại là tiền công quỹ, có thể đem dùng vào nhiều việc ích lợi cho dân. Ai cũng phải hỏi tại sao không đem tiền công quỹ đầu tư vào những hoạt động kinh doanh tạo công việc làm ăn cho dân bớt nghèo đi?

Người lãnh đạo tỉnh Sơn La mới giải thích rằng việc xây dựng tượng đài là “ước nguyện thiêng liêng của cấp ủy, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và nhân dân, vân vân.” Tất nhiên, ước nguyện của bấy nhiêu ông bà có chức, có

quyền, có súng, thì phải thắng ước nguyện của hơn 300 ngàn người sống với dưới một đôla một ngày! Ông Cầm Ngọc Minh, chủ tịch tỉnh Sơn La nói về con số 1,400 tỷ đồng mới bảo rằng “Không nên đặt vấn đề đắt rẻ.” Ông lại còn than thở, “Chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôi.” Thiệt thòi trước mắt là mất cơ hội rút ruột. Ở VN người ta biết từ 30% đến 45% chi phí khi thực hiện các dự án được bỏ vào túi các viên chức. Không xây dựng tượng là mất toi 30 triệu đôla. Thiệt thòi! Thiệt thòi cho chúng tôi quá! Cho nên không riêng tỉnh Sơn La, trên toàn quốc còn có 58 dự án xây dựng tượng đài, trong 14 năm nữa! Cứ mỗi vụ rút ruột được 30 triệu đô, tổng số sẽ lên tới 1,740,000,000 đô!

Ðọc con số hơn tỷ rưỡi đôla này, thấy lớn. Nhưng thực ra cũng “chưa lớn” bởi vì phải chia cho rất nhiều quan chức, chia rải ra đến 14 năm trường. Chúng ta sẽ không thấy nó lớn, khi so sánh với những vụ tiền chạy đi mất tích ở cấp cao hơn. Một vụ Vinashin thôi, chỉ trong mấy năm đã thấy bốn tỷ đôla tiền nợ nước ngoài bay đi đâu mất để đến nỗi hết tiền trả nợ! Vì vậy, khi cả nước kêu lên về dự án phung phí 70 triệu đôla, bộ máy đảng và nhà nước ở trên cùng cũng không dám ngăn lại! Các anh đã nuốt mấy tỷ đôla ngon lành, đến lượt lũ chúng tôi chỉ ăn có bạc triệu anh lại dám ngăn cản à? Ðến đại hội đảng anh có cần phiếu của lũ chúng tôi không? Thế là im thin thít!

GS Châu giữ tinh thần hoài nghi khoa học, đặt giả thuyết lũ người đem 1,400 tỷ đồng ra xây dựng để rút ruột là bọn “hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh!” Người dân Việt thì đã biết rõ từ lâu rồi, không nghi ngờ gì nữa. Từ trên xuống dưới, chỉ

toàn một lũ khốn nạn. Câu phát biểu của ông Phan

Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật nhà nước CSVN trong cuộc họp quốc hội gần đây khiến tôi giật

mình: “Nên kêu gọi và huy động tiền từ nhân dân để trả nợ công…”. Câu nói này vô tình gợi nhắc đến những cuộc trưng thu tài sản nhân dân kể từ khi chế độ CS hình thành đến nay và nó cũng dự cảm một cuộc khủng hoảng kinh tế tại VN.

Có hai lý do để tin rằng Việt Nam sẽ bị khủng hoảng kinh tế trong thời gian tới: Tài nguyên Việt Nam và niềm tin của nhân dân vào đảng Cộng sản đã cạn kiệt; Nguồn vốn huy động từ nhân dân đã khan hiếm và công nghiệp xuất khẩu/bán sức lao động với giá rẻ bèo cũng như tệ nạn tham nhũng và giá dầu thô tuột dốc, nợ công tăng cao là tiền đề của khủng hoảng kinh tế.

Ở vấn đề thức nhất, niềm tin của nhân dân vào đảng Cộng sản, có thể nói hiện tại, đó là con số 0 to tướng, nếu không muốn nói là số âm tuy bề ngoài người dân vẫn chấp nhận sự thống trị của đảng Cộng sản. Nhưng chấp nhận không có nghĩa là tin, chuyện này không những với người dân bình thường mà ngay với tất cả các đảng viên Cộng sản gạo cội vẫn hoàn toàn không tin vào đảng. Sự cố chấp bảo vệ đảng cũng như ra chiều thần tượng đảng, thần tượng Hồ Chí Minh của các đảng viên gạo cội và những doanh nghiệp tư bản đỏ, những tay xã hội đen cộm cán được đảng chống lưng đều mang tính diễn xuất theo nguyên tắc “bảo vệ mâm thịt chó”.

Nguyên tắc này đảm bảo đã ngồi vào mâm thì phải được ăn thịt chó cho dù có người thờ Khổng Tử, có người thờ Bạch Mi, có kẻ thờ con dao, cũng có kẻ thờ cái đầu chó… Thiên hình vạn trạng niềm tin và sự tôn thờ trong một mâm thịt chó tập thể. Chính vì khác nhau về chính kiến, niềm tin nên người ta chẳng ưa gì nhau và chẳng có ai nhất quán

niềm tin về cái đầu chó hay con dao cả. Nhưng người ta phải tôn thờ, ca ngợi thịt chó (ít nhất là vậy!) để cùng nhau ăn một bữa ngon, đảm bảo mâm thịt không bị hất xuống

Số 227 Trang 14

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đất do tranh cãi.Nhân dân cũng vậy, người ta có

thể gớm, kinh tởm thịt chó và cho rằng ăn thịt chó là tội lỗi nhưng người ta đủ khôn khéo để hiểu rằng nếu gặp đám ăn thịt chó thì đừng bao giờ chê thịt chó; nếu khó quá, căng quá thì khen vài tiếng về những anh hùng ăn thịt chó cũng chẳng chết ai, miễn được yên thân. Nhưng chắc chắn một điều đó là những câu cửa miệng, không xuất phát tự đáy lòng.

Nạn tham nhũng, đục khoét, thậm chí bán đứng lãnh thổ, lãnh hải và đàn áp, chèn ép người yêu nước mà đảng Cộng sản đã gây ra cũng đủ để nhân dân thấm nhuần triết lý ăn thịt chó khi sống dưới sự cai trị của họ. Nhưng có một vấn đề cần nói: hiện tại, đảng Cộng sản rất khó huy động vốn trong nhân dân.

Những năm 1940, nhân dân đã tin vào đảng Cộng sản, đã góp từng hạt gạo trong cái hũ mà họ đặt trong nhà mình, nhân dân đã thật thà nhịn ăn góp gạo để nuôi đảng, nuôi quân đánh miền Nam. Để rồi sau đó, nhân dân tiếp tục tin tưởng trong “Cải cách Ruộng đất’. Đến sau 30-4-1975, mọi sự vỡ òa khi đảng trưng thu (mà chính xác là lấy ngang xương, cướp trắng) tài sản để xây dựng đất nước nhưng trong thực tế là làm giàu cho những đảng viên quyền lực. Càng về sau, gương mặt tham lam, cướp bóc càng lộ diện, nhân dân càng mất niềm tin.

Nhưng dù sao thì 2 lần phát trái phiếu, công trái nhà nước từ những năm 1976-1989 cũng thu về 1khoản tiền không nhỏ cho đảng từ đóng góp của nhân dân. Khoản tiết kiệm nhân dân phó thác cho đảng cũng không nhỏ. Tuy nhiên, trò chơi trượt giá đồng tiền để quỵt nợ của đảng đã nhanh chóng đốt cháy chút niềm tin còn lại trong nhân dân. Cộng với những trò cướp đất, gian dối trắng trợn, cảnh sát giao thông đứng đường ăn chặn của nhân dân càng làm cho nhân dân nổi giận.

Hiện tại, nếu có một cuộc vận động nhân dân mua công trái, có lẽ kết quả nhận được của ĐCS rất thê thảm. Bên cạnh đó, tài nguyên rừng,

đất đai và khoáng sản trong lòng đất hầu như đã cạn kiệt bởi cách khai thác đầy rẻ rúng, thiếu khoa học và bán lúa non tư túi của giới chóp bu trung ương CS. Thêm phần nữa, mũi nhọn xuất khẩu gạo và dầu thô đang gặp khủng hoảng trầm trọng, giá dầu thô của thế giới giảm xuống đáng kể, điều này khiến cho VN mất đi hàng trăm tỉ đôla trong công nghiệp xuất khẩu dầu thô. Hạt gạo VN cũng bị mất uy tín trên thế giới, điều này dẫn đến hệ quả người nông dân sản xuất ra rất nhiều gạo mà bán được chẳng bao nhiêu tiền.

Với ba mũi suy thoái: Niềm tin nhân dân bị mất; Tài nguyên khô cạn; Nợ công ngập đầu… cùng tấn công vào chế độ, chắc chắn mức độ suy thoái của Việt Nam sẽ không ít trầm trọng và lúc này, chỉ còn một cách duy nhất để cứu chế độ, đó là huy động tiền của nhân dân. Nhưng vấn đề là huy động như thế nào?

Câu trả lời là không có chuyện gì là nhà nước CS không dám làm, nếu huy động bằng “biện pháp nhẹ” như phát hành trái phiếu, kêu gọi đóng góp mà không có hiệu quả. Một lần nữa chiêu bài trưng thu, tịch thu sung công quĩ để xây dựng đất nước (mà trong thực tế là để củng cố chỗ đứng của đảng CS) hay nói khác là “biện pháp mạnh” sẽ tái xuất. Và lần này, mức độ gay cấn cũng như sắt máu sẽ không nhỏ bởi niềm tin của nhân dân đã mất, họ đứng trước bờ vực sinh tồn.

Nếu có khủng hoảng kinh tế tại VN, chắc chắn sẽ có những cuộc bố ráp và trưng thu tài sản nhân dân vô cùng tàn khốc. Câu nói gợi ý của ông Chủ nhiệm UB Pháp luật VN chỉ mang tính chất gợi ý cho một chiến lược hợp thức hóa và pháp qui hóa vấn đề trưng thu, tịch thu sau này khi cần đến! Bởi hình thức có thể thay đổi theo thời gian nhưng tính chất giảo hoạt và tham lam, cố vị thì hơn sáu mươi năm nay, xâu chuỗi lịch sử, người CS chưa có gì thay đổi, vẫn lấy của dân, cướp của dân làm sức mạnh phe nhóm!

http://www.rfavietnam.com‘Nợ nhân dân’ (!?)Vào thời điểm nền kinh tế đã cố

định một chân trên vực thẳm phá sản, nhóm lợi ích ODA ở Việt Nam vẫn quyết liệt thực hiện chiến dịch không nương tay với những món vay mượn khổng lồ từ nước ngoài.

Từ giữa năm 2015, cuộc chiến tái khởi động Dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam được bắt đầu, cũng xuất phát từ tâm điểm Bộ Giao thông vận tải.

Đến tháng 8-2015, như một hiệu lệnh, một số tờ báo nhà nước đồng loạt phất cờ hình ảnh “tư lệnh ngành” GTVT Đinh La Thăng: “Chúng ta nợ nhân dân đường sắt cao tốc Bắc - Nam”.

Không thể chối bỏ, bóng đen tai họa vừa cũ lẫn mới đang lừng lững ập lên đầu lớp dân chúng đói nghèo nhưng cứ mỗi ngày lại xác xơ hơn bởi núi thuế và phí. Cho tới nay, hơn 400 loại phí và lệ phí vẫn hầu như chưa được giảm bớt, trong khi một số địa phương vẫn quyết tâm thu phí xe máy, còn chính quyền nông thôn tiếp tục đè lên đầu nông dân đủ thứ thuế má nông sản.

Dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam được Bộ trưởng Đinh La Thăng “mồi” ngay sau khi dự án sân bay Long Thành với giá trị lên tới 15 tỷ USD đã được “tập thể Bộ Chính trị” bật đèn xanh lẫn Quốc hội cúi đầu bấm nút, bất chấp sự phản ứng rộng khắp của dư luận, đa số báo giới và đông đảo người dân.

Song nếu dự án sân bay Long Thành “chỉ” có vốn đầu tư 15 tỷ USD, dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam còn cao gấp 3-4 lần Long Thành. Vào năm 2006, đường sắt cao tốc Bắc - Nam đã khiến phản dội dư luận, không chỉ vì “tính cấp thiết” được thuyết minh quá sơ sài của nó, mà bởi con số tiêu tốn đến 33 tỷ USD và 55,8 tỷ USD năm 2010, tức chiếm đến 1/3 GDP của VN vào thời điểm đó.

Còn nếu dự toán ODA cho đường sắt cao tốc Bắc - Nam được

Số 227 Trang 15

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

giữ nguyên vào thời điểm này, ngân sách VN vốn không còn đủ tiền để tăng lương và an sinh xã hội, sẽ phải gánh chịu một cú sốc vượt trên kinh khủng mà có thể sẽ không còn cơ hội nào ngóc đầu lên được.

Tháng 8-2015 cũng là thời điểm “vách đá tài chính” của ngân sách VN (khá tương đồng với thuật ngữ được dùng trong trường hợp nước Mỹ tại tài khóa năm 2012). Nhưng nếu khó khăn trong chi tiêu ngân sách Hoa Kỳ chỉ là vấn đề kỹ thuật và ẩn chứa động cơ tranh giành ảnh hưởng giữa hai đảng chính trị chủ chốt, tình trạng ngân sách VN lại đang húc đầu vào một vách đá đủ cứng theo nghĩa đen. Cuộc đấu khẩu mới đây giữa các cơ quan khó rũ bỏ trách nhiệm như Tổng liên đoàn lao động, Bộ lao động, thương binh và xã hội… về chính sách và các phương án tăng lương vào năm 2016 để cải thiện tình trạng “lương chỉ bảo đảm 70% mức sinh hoạt tối thiểu cho người lao động”, rốt cuộc đã chưa đi tới đâu bởi một nguyên do “đơn giản” là không biết tìm đâu ra nguồn để chi trả thu nhập.

Trong tư thế khốn cùng của thực tại ấy, lại không có gì bảo đảm là bóng ma đường sắt cao tốc Bắc-Nam không đội mồ sống lại, cho dù những năm trước lưỡi hái tử thần này đã làm cho người dân suýt phát điên. Không những sống lại, dự án này còn được “tư lệnh ngành” hứa hẹn có thể tăng thêm giá trị dự toán và do đó là giá trị vay mượn từ nước ngoài, bất chấp tỷ lệ nợ công quốc gia sẽ thẳng cánh vượt trên ngưỡng nguy hiểm 65% GDP (theo báo cáo chính thức) hoặc có thể vọt lên 150% (theo giới phản biện độc lập) và không biết bao nhiêu đời con dân Việt phải oằn lưng trả nợ.

Ủy ban Khoa học - Công nghệ nói gì?

Tháng 6-2015, Đại biểu quốc hội Lê Đình Khanh - Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương, người đã từng lên tiếng phản đối dự án này tại kỳ họp Quốc hội năm 2010, cho báo giới biết: "Trước đây, Quốc hội khoá XII đã nghe, cho ý kiến về Dự

án đường sắt cao tốc Bắc -Nam nhưng phần lớn các ĐBQH khi đó không đồng tình, trong đó có tôi, và đến giờ tôi vẫn khẳng định sự đúng đắn của quyết định đó".

Ông Khanh nói rõ về lý do phản đối khi đó: "Lý do QH không thông qua: Thứ nhất là những băn khoăn về trình độ khoa học công nghệ, độ an toàn, ý thức người dân. Thứ hai, đặc biệt lo ngại là tổng mức đầu tư lên đến 56 tỉ USD (bằng một nửa GDP của cả nước trong một năm). Thứ ba, vốn, công nghệ, thiết bị đều lệ thuộc nước ngoài, mà đường sắt cao tốc lại chỉ dành chuyên chở người, vé đắt như đi máy bay thì ai sẽ là người đi tàu cao tốc khi mức sống còn thấp?”

Ngược dòng thời gian, Ủy ban Khoa học - Công nghệ & Môi trường thuộc Quốc hội VN từng lật lại vấn đề trước báo cáo của Bộ GTVT: cùng với việc phát triển mạng lưới giao thông ở các tuyến đường bộ, đường sắt và đường hàng không thì đường sắt cao tốc không phải là sự lựa chọn của tất cả 57 triệu hành khách nói trên. Nếu giá vé tàu cao tốc bằng 75% giá vé máy bay thì rất nhiều người không có khả năng sử dụng phương tiện này.

Mặt khác, theo tính toán trong Báo cáo đầu tư dự án, đến năm 2030 cần 53 đôi tàu khách/ngày-đêm, trong khi năng lực của dự án là 160 đôi tàu khách/ngày-đêm, như vậy hiệu suất khai thác chỉ là 33%, dư thừa năng lực quá nhiều so với thiết kế.

Vào năm 2010, thu nhập quốc dân GDP cả nước khoảng 110 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân 6% - 7%/năm thì chưa thể đáp ứng vốn đầu tư cho nhiều ngành kinh tế, trong khi đó yêu cầu đầu tư cho dự án là quá lớn.

Theo Báo cáo đầu tư dự án, kế hoạch huy động vốn mỗi năm, bình quân đạt gần 4,4 tỷ USD trong đó nguồn từ ngân sách là 570 triệu USD, vốn ODA, vốn vay ưu đãi hơn 2,4 tỷ USD, vốn doanh nghiệp gần 1,3 tỷ USD. Nhưng UB Khoa học-Công nghệ & Môi trường phản biện: việc phụ thuộc đến 2/3 vào

vốn vay nước ngoài gồm ODA và vốn vay ít ưu đãi hơn trong bối cảnh nợ nước ngoài của VN vào khoảng 38,9% GDP, nợ Chính phủ đã ở mức trên 42% GDP, tích lũy nội địa và dự trữ ngoại tệ thấp thì việc vay thêm để đủ vốn đầu tư cho dự án này sẽ làm gánh nặng nợ quốc gia tăng lên đáng kể (những con số trên chỉ tính cho năm 2010, còn hiện nay đều đã tăng lên đáng kể).

Nạn kép 2015“Long Thành” và “Bắc – Nam” -

năm nay, “ODA cho Việt Nam” có thể chịu nạn kép.

Trong một xã hội mà tỷ lệ thất nghiệp “thêm số 0 vào sau 2% vẫn đúng” và ít nhất 1/3 công nhân khg đủ thu nhập tối thiểu để tồn tại.

Sau nhiều năm, cơ chế đầu tư công liên tục được “nâng lên một tầm cao mới” với tỷ lệ thất thoát bị dư luận mổ xẻ đến ít nhất 30%, năm 2013 lần đầu tiên ngân sách thâm thủng đến 6,3% và kéo theo hậu quả năm 2015 cũng có thể tệ hại ngang bằng như vậy, cùng hiện tượng tiếp biến tiêu cực quá lộ liễu và man rợ từ hàng chục công trình “trụ sở hành chính ngàn tỷ”, tượng đài cũng ngàn tỷ và bảo tàng lên đến hàng chục ngàn tỷ…, hậu quả thê thảm không tránh khỏi là ngân sách đã không còn đủ tiền để nâng lương cơ bản cho gần 3 triệu cán bộ công chức như đã được hứa hẹn từ những năm trước.

Thậm chí từ giữa năm 2015, những nhà điều hành thất bại của Chính phủ đã phải hé lộ kế hoạch dùng Bộ Tài chính để vay mượn ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại hối và từ Ngân hàng NN để “tạm thời giải quyết khó khăn ngân sách”.

Thế nhưng, cứ như một thứ tạo phản ngược với tạo hóa, ngân sách càng khốn quẫn, phong trào chấm mút càng lao nhanh lên điểm cực đại như thể không còn có ngày mai. Sau thái độ cúi đầu bấm nút thông qua dự án sân bay Long Thành của gần 500 dân biểu trong QHVN vào giữa năm 2015, những tiếng nói phản biện rơi đọng chút can đảm cuối cùng có thể sẽ biến mất khi đối đầu với dự án đường sắt cao tốc

Số 227 Trang 16

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Bắc-Nam của nhóm lợi ích ODA.Trong bối cảnh đen tối cả tiền

đồng lẫn lương tâm ấy, “món nợ với nhân dân” mà “tư lệnh ngành” Đinh La Thăng hứa hẹn sẽ có quá nhiều triển vọng chất chồng thêm núi nợ ODA lên đầu 90 triệu dân chúng còm cõi ở đất nước “thơ tôi khóc lệ rơi hình chữ S”.

https://www.danluan.org

Tái khởi động dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam

Theo VNExpress 03-06-2015Theo báo VnExpress, tại cuộc họp

Bộ GTVT ngày 2-6-2015, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã yêu cầu các cơ quan chức năng triển khai kế hoạch Chiến lược phát triển đường sắt đến năm 2030, trong đó, cụ thể hóa các mục tiêu của chương trình hiện đại hóa đường sắt Bắc-Nam như hạng mục, kiểu đường xây dựng, loại tàu sử dụng... theo hướng công khai minh bạch để người dân và các doanh nghiệp được biết.

Còn nhớ, năm 2010, Quốc hội từng bác dự án đường sắt cao tốc trị giá 56 tỷ USD do Chính phủ trình. Dự án này từng gây tranh cãi trên cả diễn đàn Quốc hội và ngoài xã hội. Bên cạnh những ý kiến cho rằng cần thiết phải vay vốn đầu tư làm ngay thì nhiều ý phản đối vì hiệu quả kinh tế của dự án quá thấp, số vốn quá lớn, chiếm phân nửa GDP của Việt Nam, sẽ tạo gánh nặng nợ cho hậu thế.

Theo Chiến lược phát triển đường sắt đã được Thủ tướng phê duyệt đầu năm nay, trước năm 2020, ngành giao thông sẽ nghiên cứu xây dựng mới đường sắt tốc độ cao, đường sắt đôi khổ 1,435 m, điện khí hóa trên trục Bắc-Nam, chuẩn bị xây dựng trước những đoạn tuyến có nhu cầu vận tải lớn như Hà Nội-Vinh, TP HCM-Nha Trang. Từ năm 2020 đến năm 2030, ngành giao thông sẽ xây dựng hệ thống đường sắt đạt tốc độ chạy tàu 160km/h-200km/h, đường đôi khổ 1,435 m và nâng cấp hạ tầng để có thể khai thác tàu cao tốc 350 km/h trong tương lai.

…….Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

khi đó ví von: Việt Nam làm tàu cao tốc như gia đình ở nhà tranh vách đất muốn mua biệt thự thay vì tích tiền xây nhà ngói và cho rằng khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt

3.000 USD thì mới nên làm đường sắt cao tốc.

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nhận định: hiệu quả kinh tế của dự án thấp, khả năng thu hồi vốn thiếu tính thuyết phục trong khi nợ quốc gia của Việt Nam theo công bố của WB đã lên đến hơn 47,5%, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, bội chi ngân sách, nhập siêu đang là vấn đề bức xúc./..

Từ chuyện ngót 60 năm trước…Đọc tiểu sử cố thi sĩ Nguyễn Chí

Thiện, chúng ta biết năm 21 tuổi ông bị cộng sản bỏ tù lần đầu. Nguyên nhân là vì với hào khí tuổi trẻ, ông đã thẳng thắn bóc trần chính sách ‘vo tròn bóp méo’ những dữ kiện lịch sử trong sách giáo khoa của Hà Nội.

Được biết vào năm 1960, một thày giáo bạn ông bị đau nhờ dạy giúp hai giờ môn lịch sử. Bài học hôm ấy nói về Thế chiến thứ hai kết thúc với sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản trích trong tập sách giáo khoa do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội xuất bản. Bất bình trước hành vi trắng trợn xuyên tạc lịch sử trong sách khi viết rằng Đệ nhị Thế chiến kết thúc là nhờ Hồng quân Liên Xô đánh bại Quân đội Hoàng gia Nhật, nhà thơ họ Nguyễn đã vạch rõ sự gian dối này và thẳng thắn giảng cho học sinh biết sự thật là quân Nhật thua liên quân Đồng minh vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki.

Chính vì thái độ can đảm, tôn trọng sự thật này, hai tháng sau ông đã bị Hà Nội kết án và đẩy vào nhà tù lần thứ nhất, khởi đầu cho cuộc đời ra tù vào khám tổng cộng 27 năm dưới bàn tay sắt máu của chế độ.

…đến chuyện giáo dục hôm nayHơn nửa thế kỷ sau, vào giữa

thập niên thứ hai của đệ tam thiên niên, dù lớp sơn bên ngoài có thay đổi nhưng cốt lõi của chế độ Cộng sản Việt Nam (CSVN) gần như vẫn y nguyên. Vì thế căn tính dối trá, che đậy, lọc lừa vẫn tràn lan trong mọi cảnh vực, kéo lùi đất nước trở về với thời hoang dã, trong đó, văn hóa giáo dục cũng không có luật trừ.

Đáp lại câu hỏi của phái viên đài BBC mới đây là liệu những cải cách về giáo dục của Hà Nội hiện nay có đem lại những thay đổi nào không, giáo sư Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Phó Ban Dân vận Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời cũng là Giám đốc

Trung tâm Minh Triết ở Hà Nội, trả lời: “Nếu căn cứ vào những người quản lý, lãnh đạo thì tôi không hy vọng. Cái lò đào tạo ra người quản lý là trường Nguyễn Ái Quốc, trường Đảng, thì đó là những nơi xơ cứng nhất, giáo điều nhất, kiến thức hẹp nhất. Họ lại rất thích áp đặt, không thích cãi lại, không thích hoài nghi khoa học thì làm sao họ có thể là người chủ xướng cho một sự khai phóng trong giáo dục, để cho mỗi học sinh là một nhân phẩm tự do, một thuyết khách tự do, để trưởng thành, thành một con người – con người chính nó, của nó và riêng nó-, và đấy là một vấn đề lớn.”

Vẫn theo giáo sư Nguyễn Khắc Mai thì: “Nguyên nhân cơ bản là lý thuyết Mác Lênin không giải đáp nổi vấn đề này và những người gọi là nắm chủ thuyết Mác cũng không biết gì về chủ thuyết đó, không biết cái gốc cũng như cái ngọn, hay cái hệ thống và vì thế nó như thợ thuyền đẽo cày ở ngã ba. Cuối cùng đẽo một thanh gỗ thành cái tăm!”

Ông cho rằng: giáo dục VN đang ở trong tình trạng khủng hoảng từ gốc rễ về đường lối, triết lý giáo dục, kéo theo khủng hoảng về phương thức và quản lý tổ chức giáo dục. Gợi lại những lời tuyên bố của thủ tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong thông điệp đầu năm năm ngoái, theo đó, ông Dũng cho rằng cần phải thay đổi thể chế, và như vậy, theo giáo sư Mai, có thể hiểu là đảng cũng đã bắt đầu nhìn ra căn nguyên cội rễ của vấn đề. Tuy nhiên, điều tréo cẳng ngỗng là ông nhận thấy chính những người lãnh đạo trong đảng và nhà nước cũng chập chờn, lúng túng “không dám đi tới cùng” để giải quyết hiện trạng bế tắc của ngành giáo dục đến nơi đến chốn.

Để làm sáng tỏ nhận định của mình, giáo sư Nguyễn Khắc Mai phát biểu: “Không ai trong những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay có thể trở thành người được gọi là những nhà khoa học, nhà tư tưởng. Vì lẽ cái vốn trí thức, tư tưởng và tư duy của họ rất nông, vì thế họ suy nghĩ hời hợt, bề ngoài và đấy là cái khó.”

Khi chính tiếng nói của thế hệ trẻ trực tiếp cất lên

Trên đây là những nhận định tiêu biểu cho quan điểm của giới trí thức trong nước đối với chính sách giáo dục phiêu lưu không định hướng tại Việt Nam thời Cộng sản. Câu hỏi đặt ra là: phần giới trẻ thì sao?

Được biết, hôm 12 tháng 8 vừa qua, một chuyện hi hữu, cười ra nước mắt đối với những lãnh tụ gộc

Số 227 Trang 17

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

của chế độ, đã nổ ra trong buổi hội thảo nhân dịp ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm được tổ chức giữa lòng thủ đô Hà Nội. Trong phần phát biểu, em Vũ Thạch Tường Minh, một học sinh lớp 8 trường chuyên Amsterdam đã công khai nói lên những ý nghĩ hồn nhiên, mộc mạc của em về hiện trạng thối nát, băng hoại của nền giáo dục thời Xã-Nghĩa.

Nhắc tới bộ Giáo dục và cách hành xử của giới lãnh đạo bộ này, Tường Minh nói: “… giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì… Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa. Giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục, con sẽ làm.”

Từ suy nghĩ đơn sơ của em học sinh lớp 8, những ngày vừa qua, mở vào mạng Quê Hương Ta, chúng tôi vừa đọc vừa nghe được tiếng nói của tác giả Lê Văn Thành, một người trẻ 19 tuổi ở Hà Nội qua đề tài “Giáo dục Việt Nam: Chính sách ngu dân?”

Sau khi nhắc lại một vài hiện tượng tiêu cực như bạo lực, tự tử ngày càng nhiều trong giới học sinh, sinh viên gần đây khiến anh thấy có trách nhiệm phải lên tiếng trước tình trạng băng hoại, tha hóa của nền giáo dục hoang dã Việt Nam, anh cho biết:

“Cách đây vài tháng tôi có đọc một bài báo với tựa đề ‘Chúng ta đang dạy con trẻ dối trá’, bài viết nói về ‘Cuộc thi sáng tạo trẻ thơ’ ở trường tiểu học nọ. Trong cuộc thi, người ta tập hợp các sáng chế của chính các em học sinh lớp 4-5. Nhưng sự thật, các dụng cụ sáng tạo đó đều hoặc do thày cô hoặc do phụ huynh thiết kế rồi đăng ký tên cho các em, phần diễn giải cũng được viết sẵn cho các em học thuộc. Ngày thi, từng tốp các em lên thao thao thuyết minh cho sáng tạo nhận vơ của mình, rất chuyên nghiệp & trôi chảy. Phía dưới sân khấu là hàng trăm học sinh khác làm khán giả, chúng cũng râm ran bàn tán theo từng sáng tạo. Điều đáng buồn, chúng xôn xao không phải vì thích thú với những sản phẩm độc lạ, mà vì khó chịu với những người bạn ra oai mô tả sản phẩm sáng tạo chẳng phải của mình:

“Chiếc bình tưới đa năng kia là của thầy T. làm, thầy cho ba bạn học sinh giỏi đứng tên… Sướng thật! Nhưng đâu phải của mấy bạn làm mà

tỏ vẻ ta đây! Nhìn thấy ghét…”. Câu chuyện nhỏ ở 1 ngôi trường nhỏ, nhưng thể hiện rất to và rõ ràng bộ mặt của cả một nền giáo dục. Những đứa trẻ ngây thơ thơ đó, chưa đủ nhận thức để có thể thốt lên ‘thày cô, bố mẹ, các bạn làm như thế là SAI’, mà trong thâm tâm chúng lại hình thành nhận thức mơ hồ về một vấn đề khác: ‘À, hóa ra nói dối là điều được chấp nhận và chẳng có gì phải xấu hổ khi nói dối cả’. Cứ như thế nhận thức đó ngày càng được khẳng định và tích tụ thêm khi chúng lớn lên và quan sát những điều giả dối quanh mình, tự lúc nào, chúng cũng sẵn sàng dối trá và không thấy xấu hổ. Chỉ vì hình thức và thành tích phù phiếm, chúng ta đã hại đời con cháu của chúng ta như thế.”

Trong khi truy tầm căn nguyện của một nền giáo dục hoang dã, dẫn tới biết bao tệ trạng tương tự mà giới trẻ, giới phụ huynh và nói chung toàn xã hội Việt Nam ngày nay đang phải gánh chịu, người sinh viên trẻ họ Lê nêu lên câu hỏi là lỗi giáo dục nằm ở đâu, ở phụ huynh hay thày cô giáo và tự trả lời: Những tiêu cực trong giáo dục hiện nay không chỉ ở một hai gia đình hay một hai thày cô mà ở cấp độ toàn xã hội. Thày cô hay phụ huynh cũng chỉ là nạn nhân bị cuốn theo bởi nền giáo dục vốn đã băng hoại, vong thân từ căn bản. Trong một tệ nạn mà ở tầm vĩ mô toàn xã hội thì điểm lỗi đầu tiên không đâu khác hơn chính là bộ máy lãnh đạo ở thượng tầng.

Một cách rốt ráo, Lê Văn Thành không e dè và cũng không quanh co, rào đón. Anh mạnh dạn thọc sâu mũi dao của nhà nhà giải phẫu để mổ xẻ, truy tầm đến tận gốc rễ dẫn tới tình trạng bê bết vô phương cứu vãn của nền giáo dục trong nước hiện nay.

Anh nói: “Về cơ bản, những tiêu cực trong nền giáo dục Việt Nam phát xuất từ việc chúng ta đang sở hữu một nền giáo dục ‘phi giáo dục’, nghe hơi khó hiểu ha. Không sao! Tôi sẽ cố gắng nói rõ trong tầm hiểu biết của mình, dù có thể thiếu sót. Cụ thể:

Thứ nhất, phi thực tế: những đứa trẻ khi còn ngồi trên ghế nhà trường luôn được dạy về đất nước Việt Nam giàu có và tươi đẹp, được cả thế giới nể trọng, mọi người dân đều được ăn no mặc ấm, được học hành tử tế, đất nước được dẫn dắt bởi 1 bộ máy lãnh đạo ưu việt nhất hành tinh, và chúng đang được sống trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh bla…bla… Những viễn cảnh tươi hồng đó khiến cho những đứa trẻ luôn trong trạng thái ảo tưởng và tự mãn, không có cái nhìn chính xác về

tình hình đất nước. Rồi chính những đứa trẻ đó, trưởng thành bước vào đời đã hoàn toàn bị vỡ mộng khi đứng trước một xã hội nham nhở, khác hoàn toàn với cái bánh vẽ mà chúng được ăn bấy lâu: bất công thì tràn lan, sinh viên lười vẫn có điểm cao như sinh viên chăm chỉ bằng cách mua điểm; thi vào làm công chức thì tài năng xếp sau tiền bạc và quan hệ; nhiều trẻ em ăn còn chưa no nói gì đến học hành tử tế.

VN cũng chẳng được thế giới coi trọng, vẫn là một nhược quốc, không có tiếng nói; người Việt đi đến đâu cũng bị cảnh giác và phân biệt; bộ máy lãnh đạo ưu việt gì mà quá nhiều những kẻ bất tài vô tướng, tham ô, tham nhũng… đưa đất nước đến tình trạng nghèo nàn, môi trường bị hủy hoại, mất tài nguyên, mất biển đảo…

Thứ hai, phi tự nhiên: Mỗi con người sinh ra đã là một bản sắc riêng biệt, với năng lực khác nhau, yêu ghét khác nhau, tư duy khác nhau…Một nền giáo dục tiên tiến phải phát hiện được và phát triển khả năng nổi trội của mỗi cá nhân, không gò ép bất cứ ai vào một khuôn mẫu sơ cứng. Albert Einstein từng nói: “Mỗi người sinh ra đều là thiên tài. Nhưng nếu bạn bắt một con cá thể hiện khả năng qua việc trèo cây, thì cả đời của nó sẽ sống và tin rằng nó chỉ là một đứa ngốc”. Rất tiếc đó đang là cách làm giáo dục của chúng ta. Trong nhiều năm, chúng ta đã áp đặt một hệ thống kiến thức như nhau, cách dạy và học, cách đánh giá năng lực như nhau áp dụng cho tất cả trẻ em. Với cách làm giáo dục phản tự nhiên như vậy, tôi dám chắc VN đã đánh rơi rất nhiều nhân tài, đã có vô số con cá sống với tự ti vì không thể leo cây…”

Vẫn theo anh Thành thì một nền giáo dục mà lại gian dối, che đậy, phi thực tế, phi giáo dục đã đến mức báo động như hiện nay sẽ chỉ tạo ra những con người thụ động, không có đam mê, nhiệt huyết. Cùng với những tiêu cực của xã hội, họ sẽ chỉ lao động một cách cầm chừng với tâm trạng hoang mang, bất mãn, và điều nguy hiểm nhất là tình trạng đó lại ở tầm vĩ mô, do đó đã góp phần vào sự tuột dốc thê thảm tất nhiên của toàn thể quốc gia, dân tộc trên khắp các lãnh vực như hiện nay. Hệ quả tệ hại vừa nói khiến Việt Nam trở thành một nước có năng suất lao động thấp nhất châu Á.

Anh nêu lên câu hỏi là chúng ta phải làm gì để thay đổi toàn bộ nền giáo dục với đầy ung nhọt như hiện nay? Từ câu hỏi nhức nhối ấy, anh mạnh dạn đề ra 4 yêu sách mà tất cả

Số 227 Trang 18

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

phụ huynh, học sinh và sinh viên –nói chung toàn thể dân tộc- cần phải kiên quyết đòi hỏi Bộ Giáo dục, đảng và nhà nước CSVN tức thời đáp ứng.

Yêu sách thứ nhất: giáo dục phải miễn phí

Anh nói: “Khi giáo dục là miễn phí, nhiều người sẽ có cơ hội tiếp cận với giáo dục hơn, giảm gánh nặng cho tầng lớp người nghèo trong xã hội, sẽ không còn việc bố mẹ thắt lưng buộc bụng chỉ vì phải nuôi con ăn học. Tránh những bất cập như phải học một ngành chỉ để làm vừa lòng bố mẹ, vì bố mẹ quyết định về tài chính hoặc học một ngành nào đó chỉ vì tâm lý tiếc rẻ, ví dụ như hiện nay nhiều em học các ngành như Sư phạm, An ninh, Quân đội chẳng phải vì đam mê, mà vì những ngành này miễn học phí. Quý vị có thể lo lắng là nếu miễn phí đại học thì sẽ gia tăng tình trạng “thừa thày – thiếu thợ”. Không hề! Một nền giáo dục miễn phí và thực tế ngay từ đầu sẽ giúp học sinh tự biết năng lực của mình đến đâu và có theo đại học hay không chỉ đơn giản là muốn nghiên cứu chuyên sâu hơn hay không mà thôi. Thực ra ngay cái tâm lý ‘Thày Thợ’ cũng là do nền giáo dục nặng hình thức và thành tích này tạo ra. Bằng cách nào mà một tấm bằng lại đảm bảo tôi sẽ được làm thày người khác chứ? Vậy đòi hỏi miễn phí trong giáo dục có chính đáng hay không? Hoàn toàn chính đáng, vì nhiều nước không có ‘Đảng lãnh đạo thiên tài’ như chúng ta họ đã làm được rồi.”

Anh nhắc tới các quốc gia dân chủ Tây phương như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, nhất là Đại Hàn, Đức là quốc gia có chung cảnh ngộ với Việt Nam, đều là những xứ có nền giáo dục miễn phí ở cấp phổ thông. Riêng cấp đại học tuy phải đóng học phí nhưng sinh viên được chính phủ hỗ trợ bằng cách cho vay từ 80-100% với lãi suất 0% hoặc cực thấp, và họ chỉ phải trả khi đã tốt nghiệp và có việc làm vững chãi. Anh cũng đề cập trường hợp nước láng giềng Thái Lan và cả chế độ miền nam Việt Nam trước tháng tư năm 1975, tức “Bên Thua Cuộc”, như sau: “Thái Lan cùng khu vực, mà Việt Nam cho là rất bất ổn nhưng vẫn sang du lịch đều đều, họ cũng có một nền giáo dục phổ thông hoàn toàn miễn phí cho nhân dân của họ. Hay trên chính quê hương của mình, ở chế độ cũ Việt Nam Cộng Hòa, người dân miền Nam cũng được học hành miễn phí bậc phổ thông.”

Theo anh Thành, sở dĩ các phụ huynh phải gánh cái gánh quá nặng về chi phí cho con em tới trường chỉ

vì vô số những khoản tiền khổng lồ bị bọn ‘cướp ngày’ tham nhũng tước đoạt. Anh giả thiết: nếu không có những công ty quốc doanh làm ăn thua lỗ làm mất hàng trăm nghìn tỉ tiền thuế, nếu không có những công trình xây cất ‘đắt nhất hành tinh’ và hư hỏng ‘nhanh nhất hệ mặt trời’, không có những vị làm quan có mấy năm mà tài sản lên tới hàng trăm thậm chí hàng nghìn tỉ, không có những tượng đài, lăng mộ vô bổ được dựng nên khắp nước bằng tài sản quốc gia… mà được dùng vào giáo dục, thì chuyện giáo dục miễn phí lo gì không giải quyết được!

Kể lại mẩu chuyện liên quan tới nước Nhật sau thế chiến thứ hai, người trẻ họ Lê nhắc tới sự kiện một viên chức trong ngành giáo dục Nhật là ông Hikada đã nghẹn ngào rơi lệ khi thú nhận nỗ lực đem đến cho mỗi học sinh một cuốn sách giáo khoa miễn phí thật khó khăn. Từ sự kiện này, với tư cách một người trẻ đang sống trong lòng chế độ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, anh cho hay là chưa từng thấy giọt nước mắt nào của một nhà làm giáo dục cấp cao Việt Nam khi thấy học sinh phải đu dây qua đèo, chui bao nilong qua sông, suối để ngày ngày đến học dưới những mái trường tàn tệ hơn cả chuồng gia súc. Anh nhấn mạnh: không giọt nước mắt nào được nhỏ ra trước những thảm cảnh như vậy, nói gì đến một cuốn sách giáo khoa miễn phí!

Yêu sách thứ hai: phải bỏ độc quyền trong giáo dục.

Anh quan niệm rằng: tự thân việc độc quyền đã là một sự bó buộc vô bổ đối với giáo dục. Nhắc lại lời than phiền của môt vị giáo sư là “các nước có nền giáo dục xuất sắc như Anh, Mỹ hay Canada không bàn về đổi mới giáo dục, nhưng tại sao giáo dục của họ vẫn đổi mới? Đến những xứ sở trong khu vực như Singapore cũng vậy, họ không đổi mới mà vẫn như đổi mới…”, anh cho rằng: những nền giáo dục tiên tiến chẳng mấy khi bàn đến cải cách, đổi mới, vì bản thân nó đã luôn chấp nhận những khuynh hướng khác biệt, tạo nên sự đổi mới tự nhiên và liên tục. Độc quyền giáo dục cũng lý giải cho sự trì trệ trong đổi mới và xử lý các tiêu cực trong giáo dục mà qua hàng thập kỷ vẫn ngang nhiên tồn tại. Anh nêu lên trường hợp nhiều nhà giáo mái đầu đã bạc trắng vẫn tâm huyết với giáo dục nước nhà, từng đưa ra những đề án cải cách giáo dục được coi là những công trình nghiên cứu công phu, chắt lọc từ những nền giáo dục

hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Bỉ, Úc. Nhưng thật đáng tiếc, hầu hết đã bị chế độ vứt vào sọt rác vì quyết sách ‘độc quyền giáo dục’!

Yêu sách thứ ba: phi chính trị hóa giáo dục

Sau khi nhấn mạnh tới chức năng thuần túy của giáo dục, Lê Văn Thành nêu trường hợp Nhật Bản (1) như một mẫu gương cụ thể cho nỗ lực tách rời phạm vi giáo dục ra khỏi mọi sự chi phối của chính trị. Được biết sau khi bị thất trận một cách nhục nhã trong thế chiến thứ hai, người Nhật phải bắt đầu lại tất cả. Và trước khi bắt tay vào việc, những hậu duệ của Thái Dương Thần Nữ đã khuất thân chấp nhận sự cố vấn và giám sát của Hoa Kỳ, thực hiện ngay một quyết định khó khăn là phi chính trị hóa giáo dục. Bắt đầu với việc loại bỏ môn Tu Thân, một môn học có nội dung nhồi sọ tư tưởng dân Nhật, bắt họ phải thần phục tuyệt đối Nhật hoàng và chủ nghĩa quân phiệt Nhật trong chương trình giáo khoa thời ấy. Lý do vì nó đã nhồi nhét vào đầu óc học sinh, sinh viên Nhật tư tưởng hung hăng hiếu chiến. Chính nhờ thái độ khôn ngoan, sáng suốt vừa kể, anh cho biết: “Rồi vẫn những người Nhật ấy, sống dưới một chế độ mới, một nền giáo dục mới, đã trở nên hiền hòa, cùng nhau dựng xây nên một nước Nhật tươi đẹp, thanh bình như hôm nay.”

Từ trường hợp Nhật Bản, nhìn lại hiện trạng nền giáo dục trên đất nước Việt Nam dưới chế độ độc tài, độc đảng CS, Lê Văn Thành nhận định: “Màu sắc chính trị trong giáo dục Việt Nam có thể nói là vô cùng đậm đặc và không có dấu hiệu giảm bớt. Cụ thể như trong đề cương ‘Chiến lược Phát triển giáo dục 2011–2020’, chính quyền đề ra 4 ‘Quan điểm chỉ đạo’ ngành giáo dục: Một. Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Hai. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Ba. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn. Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghe qua rất hay nhưng đọc kỹ thì sáo rỗng, và có 4 quan điểm chỉ đạo

Số 227 Trang 19

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thì cả 4 đều dính dáng đến chính trị. Tôi chưa nói đến các yếu tố chính trị này có kéo tụt giáo dục xuống hay không, nhưng cứ nhìn thực tế nền giáo dục bế tắc bao năm qua, cũng thấy những yếu tố chính trị này chẳng đóng góp được gì, tốt nhất là nên bỏ quách nó đi. Thời sinh viên chẳng mấy ai thích các môn chủ nghĩa Mác–Lênin hay tư tưởng HCM, phải học thì học thôi. Đã bao giờ chúng ta tự hỏi, sao môn mình không thích mà vẫn cứ phải học? Trong khi một năm tốn bao nhiêu tiền để in sách và trả lương giảng viên, và tiền đó chẳng từ thuế mà bố mẹ chúng ta nai lưng ra đóng đó sao? Hãy lên tiếng để đòi lại sự độc lập cho nhà trường. Nếu vẫn còn độc quyền và chính trị hóa giáo dục thì mọi kêu gào cải cách chỉ là giả cầy mà thôi.”

Yêu sách thứ tư: cần học tập từ một nền giáo dục đã thành công

Lấy quốc sách giáo dục dựa trên tinh thần bình đẳng tuyệt đối của nước Úc làm tiêu biểu cho sự thành công trong ý hướng đào luyện giới trẻ của các quốc gia tiên tiến trên thế giới, trong đó học sinh, sinh viên không bị áp lực nào, kể cả áp lực từ nhà trường hay phụ huynh, anh nói: “Hệ thống giáo dục của Úc hoàn toàn không mang tính hơn thua, so sánh. Các học sinh được làm cho cảm thấy rằng các em đều như nhau và không có mặc cảm mình học kém. Tôi hoàn toàn thích thú khi biết bên Úc không có kiểu họp phụ huynh như Việt Nam là tập hợp các phụ huynh lại, vấn đề đầu tiên luôn là tiền đâu, sau đó là khen em này, chê em kia, để rồi các ông bố bà mẹ có con học kém lại về trút giận lên con cái…”

Người trẻ họ Lê chủ trương nên chọn một quốc gia trong khu vực châu Á như Hàn Quốc để làm khuôn mẫu thì thích hợp hơn. Trong khi đề cao tinh thần khiêm tốn, biết dẹp tự ái của dân tộc Đại Hàn khi quyết định cải cách giáo dục bằng việc lấy nguyên chương trình giảng dạy của Nhật Bản, vốn là một quốc gia cựu thù, áp dụng cho việc canh tân giáo dục của mình, anh cũng không quên đề cao triết lý giáo dục đưa trên ba cột trụ Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng của Việt Nam Cộng hòa trước năm 75. Anh nói: “Rốt cục một Hàn Quốc phú cường hôm nay cũng là trái ngọt mà họ xứng đáng được hưởng từ những cây non đầu tiên đầy khó khăn ấy. Nhìn về VN, sau khi thống nhất đất nước, đã có 1 bộ phận lãnh đạo quá bảo thủ, kiêu ngạo và hẹp hòi, cho rằng họ thông minh hơn phần còn lại của VN và cả thế giới, rồi áp

đặt những đường lối ‘tuyệt đối’ đúng đắn của họ, để rồi, VN nói chung và giáo dục VN nói riêng, sau hàng thập kỷ vẫn chẳng đâu vào đâu.

Không nói đâu xa, nền giáo dục thời VNCH đã rất tiến bộ với triết lý giáo dục là nhân bản, dân tộc, khai phóng với tính chất là đại chúng và thực tiễn. Đó sẽ là nền giáo dục tiên tiến giàu bản sắc Việt, tiếc là nó đã không có cơ hội để hoàn thiện. Những nhà cải cách giáo dục hiện nay cứ tìm hiểu lại nền giáo dục VNCH cũng học hỏi được nhiều điều.”

Và sau đây là những lời cuối của anh: “Đã đến lúc chúng ta phải thành thật với nhau, đừng tự huyễn hoặc bằng những giá trị ảo, những chủ thuyết ảo tưởng nữa. Nếu bản thân người lớn cũng đang luồn cúi, sống bằng cách thỏa hiệp với cái dối trá thì chẳng có niềm tin nào rằng con cháu chúng ta sẽ được sống tử tế hơn đâu. Hãy lên tiếng đòi hỏi 1 nền giáo dục độc lập, nhân văn và tiên tiến để đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho con em của chúng ta, chẳng có điều gì tự nó tốt đẹp lên và chẳng có điều tốt đẹp nào tự đến với những người chỉ biết trông chờ. Hãy hành động.

Tôi xin kết thúc bài viết này bằng 2 câu hỏi, dành cho tất cả người Việt Nam, từ 16 não trạng đỉnh cao trong Bộ chính trị, đến báo giới, trí thức, quân đội, công an, đến những người dân bần cùng chỉ biết làm lụng để nuôi con và đóng thuế: Câu hỏi 1: Chúng ta có muốn con cái được dạy dỗ bởi nền giáo dục của Việt Nam hiện nay hay không? Câu hỏi 2: Chúng ta muốn con cái được đến học tập ở những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hay muốn chúng được học 1 nền giáo dục tiên tiến ngay trên quê hương mình?” (Thành Lê TVN – 22-7-2015)

Một chuyện bên lề không thể không lên tiếng

Nguồn tin từ Hà Nội cho hay: đảng và nhà nước CSVN vừa công bố quyết định số 289 QĐ–TGCP do trưởng ban Tôn giáo ấn ký ngày 03-8-2015 “cho phép” Giáo hội Công giáo Việt Nam (GHCGVN) thành lập Học viện Công giáo (HVCG). Nguyên văn quyết định như sau:

Điều 1. Chấp thuận cho Hội đồng Giám mục Việt Nam thành lập Học viện Công giáo Việt Nam. Tên trường: Học viện Công giáo Việt Nam. Địa điểm: 72/12 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Điều 2. Học viện Công giáo Việt Nam được hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam và theo nội dung đề án được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền chấp thuận.Điều 3. Quyết định này có hiệu

lực từ ngày ký. Hội đồng Giám mục Việt Nam chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

Được biết trong lời phát biểu khi tiếp nhận quyết định trên đây, sau khi đề cao giá trị đối thoại, Tổng Giám mục Bùi Văn Đọc cai quản Tổng Giáo phận Sài Gòn nhấn mạnh: “Chúng tôi thấy chính quyền rất thiện chí và cởi mở đón nhận tinh thần đối thoại của chúng tôi. Kết quả thực tế lớn là việc đẩy mạnh thành lập Học viện Công giáo Việt Nam. Tôi thấy kết quả việc này đạt được thật nhanh… Việc thành lập Học viện này mang một ý nghĩa quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam. Bởi lẽ kể tư khi Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt kết thúc vai trò lịch sử của nó, tại Việt Nam chưa hề có một học viện hay chủng viện nào đào tạo nâng cao trình độ Thạc sĩ… và Tiến sĩ Thần học…”

Hàm ẩn trong lời phát biểu của người cầm đầu Tổng Giáo phận Sài Gòn là một thái độ tỏ ra hân hoan, thỏa mãn trước việc nhà nước “cho phép” thành lập HVCG. Người ngoại cuộc sẽ không thể nhận ra tính cách bất bình thường của sự việc vì không có cơ hội hiểu rõ quan điểm và vị thế đặc thù của GHCG trong lãnh vực giáo dục.

Giáo hội quan niệm: Đích điểm phục vụ hàng đầu của GHCG là CON NGƯỜI, trong đó giáo dục đại chúng, cung cấp tri thức rộng rãi cho giới trẻ thuộc mọi thành phần xã hội được coi là ưu tiên thứ nhất. Chỉ cần nhớ lại quy mô của hệ thống giáo dục Công giáo, từ mẫu giáo tới cấp đại học tại miền Nam trước tháng 04 năm 75 là đủ rõ. Vì thế, trong suốt 40 năm qua, sau khi Cộng sản thôn tính được miền Nam, thẳng tay gạt GHCG ra khỏi phạm trù giáo dục, HĐGMVN đã biết bao lần lên tiếng đòi hỏi trả lại cho Giáo hội quyền được mở lại các trường, ít nữa là ở bậc tiểu học, trung học. Nhưng cho đến nay về mặt chính thức họ chỉ cho mở những lớp Mẫu giáo.

Vậy mà nay nhà nước ra nghị định “cho phép” mở một Học viện, một hệ cấp giáo dục ngang tầm Đại học. Điều này tất phải có căn do. Như mọi người đều rõ: nhu cầu cấp thiết của Hà Nội hiện nay là đáp ứng những đòi hỏi tối thiểu để có thể gia nhập cơ chế thương mại TPP. Vì lươn lẹo muốn né tránh vấn đề nhân quyền, trong đó có quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập của người lao động, Hà Nội đã dùng việc này như lá bùa để rửa mặt chế độ, đồng thời tạo ảnh

Số 227 Trang 20

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hưởng với Vatican, từ đấy thuyết phục được chính giới Mỹ. Thêm nữa đây cũng là đòn độc họ cố tình tạo ra để gây thêm sự nghi kỵ, chia rẽ giữa GHCG và các tôn giáo khác.

Trong tình trạng bình thường, việc có một Học Viện bên cạnh những Chủng viện hiện nay cũng là chuyện tốt, vì nó sẽ giúp các chủng sinh –kể cả linh mục- cơ hội học hỏi, mở mang kiến thức về mọi phương dĩện, nhất là về thần học, tín lý. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, thứ kiến thức như thế có xa xỉ không khi nó chỉ nhằm phục vụ hàng giáo sĩ trong khi nhu cầu giáo dục đại chúng vốn là thẩm quyền chuyên môn và cũng là sứ vụ hàng đầu của Giáo Hội lại bị ngăn cấm?

Để rộng đường dư luận, sau đây chúng tôi xin trích dẫn những ý kiến của một số giáo sĩ vừa gửi ra cho anh chị em giáo dân chúng tôi:

Vì Lm Phan Văn Lợi thường xuyên minh danh lên tiếng một cách mạnh mẽ, tôi xin ghi tên ông dưới những nhận định sau đây: “Cái mà Giáo hội cần lúc này chính là đòi lại quyền giáo dục thế hệ trẻ với các cấp từ tiểu học đến đại học như GH đã có trước 1975. Việc này là cấp thiết và quan trọng, xét trong tình hình giáo dục VN ngày càng thối nát, không thể cải cách mà phải làm cách mạng (nói theo chân lý từ miệng trẻ thơ Vũ Thạch Tường Minh mới đây). Cái HVCG không thôi… không thể chấn hưng đạo đức, nâng cao văn hóa cho cái xã hội VN ngày càng băng hoại vì chủ nghĩa, chế độ, chính đảng CS vô thần, độc tài, toàn trị, vốn có thể tóm lược trong công thức: dối trá một cách bình thản – tàn ác một cách lạnh lùng – tham lam một cách vô độ và ngu xuẩn một cách cố chấp…”

Và tiếp đây là ý kiến cô đọng của ba giáo sĩ khác, mà vì sự dè dặt thường lệ khi chưa tiếp xúc được, chúng tôi tạm không nêu danh tính.

1. “Tôi nhớ trong vở tuồng Le bourgeois gentilhomme, khi ông thầy dạy triết hỏi ông Jourdain muốn học tâm lý, luận lý hay siêu hình thì ổng đáp ‘Xin dạy tôi biết đánh vần’. Giá mà thay vì khoái chí với cái Học viện Công giáo mà chỉ yêu cầu được tự do mở các lớp tiểu học, trung học đã, từ từ rồi sẽ tính, chắc hay hơn. Loại Học viện sắp mở hẳn thích hợp với thứ tôn giáo lễ hội. Tội nghiệp cho Chúa Giê-su và Hội thánh của Ngài.” (Một Lm Dòng Phanxicô).

2. Đức Tổng ca ngợi sự đối thoại chân thành và thiện chí của nhà nước. Hội đồng Giám mục Việt Nam góp ý Hiến pháp có quan chức nào hay đơn vị nào hồi đáp một lời không? Họ chẳng cần đếm xỉa đến góp ý, trâng tráo bấm nút thông qua điều 4 HP. Vậy là tôn trọng và đối thoại chân thành? Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam vội vã góp ý luật Tôn giáo mà nhà nước ưu ái ban cho thời gian góp ý chỉ 10 ngày, ‘nếu không góp ý coi như đồng ý’. Bản góp ý họ vất đâu rồi? không một lời hồi đáp! Vậy là đối thoại chân thành và thiện chí?” (Một Lm Dòng Chúa CT)

3. “Tôi chia sẻ những gì cha Phan Văn Lợi đã viết.” (Một Lm già Dòng Đa Minh)

Nam California, tháng 8–2015Cơ quan an ninh, theo định nghĩa,

là lực lượng bảo vệ an toàn xã hội, bảo vệ con người và quyền con người. Tuy nhiên, trong thực tế, công an Việt Nam liên tục thực hiện các hành vi xâm phạm quyền con người, vi phạm luật pháp và hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

I. An ninh Việt Nam thường xuyên hành hung những người vô tội, gần đây nhất là các vụ hành hung những người tới thăm tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật tại Lâm Đồng, hành hung những người đi đón ông Nguyễn Quang A tại sân bay Nội Bài. Việc lực lượng an ninh Việt Nam đánh đập, gây thương tích công dân Việt Nam là vi phạm điều 20 của Hiến pháp 2013.

Nội dung của Điều 20 Mọi người có quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

II. An ninh Việt Nam xâm phạm một cách có hệ thống quyền tự do đi lại của rất nhiều công dân. Nhiều người không được cấp hộ chiếu, không được phép xuất cảnh. Và gần đây nhất, ngay đêm trước ngày Quốc khánh, ông Nguyễn Quang A bị giam giữ ở sân bay Nội Bài không có lý do trong vòng 15 tiếng đồng hồ, khi ông từ nước ngoài trở về. Việc này vi phạm điều 23 của Hiến pháp 2013.

Nội dung của Điều 23

Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

III. An ninh Việt Nam xâm phạm quyền bình đẳng và quyền học tập của công dân.

Mới hôm qua, dưới sự điều khiển của an ninh, Trường Đại học Kinh doanh Công nghệ Hà Nội đã gây áp lực, muốn bắt sinh viên Phạm Lê Vương Các phải nghỉ học ở trường này. Hành vi này vi phạm quyền học tập và quyền bình đẳng của công dân, được quy định ở điều 16 và điều 39 của Hiến pháp 2013. Nếu ở một nước có pháp luật thực sự, chắc chắn ông Chủ nhiệm khoa của Vương Các đã phải ra tòa.

Nội dung của Điều 39 Công dân có quyền và nghĩa vụ

học tập.Điều 161. Mọi người đều bình đẳng trước

pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử

trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Hành xử của an ninh Việt Nam chứng tỏ Việt Nam là một nhà nước không có pháp luật, bởi vì chính cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ luật pháp lại vi phạm pháp luật một cách trắng trợn.

Dĩ nhiên, an ninh cũng chỉ thực hiện theo lệnh trên mà thôi.

Câu hỏi là : Vì sao nhà nước Việt Nam phải cố đặt ra luật pháp để rồi chính các cơ quan nhà nước phải xâm phạm nó một cách thô bạo, và thậm chí thô thiển ?

Câu trả lời của Havel, 50 năm trước, cho cùng một câu hỏi trên đây : «Các bộ luật – ít nhất là trong một số lĩnh vực – chỉ là cái mặt nạ, chỉ là một khía cạnh của thế giới giả tạo. Thế thì tại sao lại cần pháp luật? Cũng cùng lí do như ý thức hệ: Nó cung cấp một cây cầu biện hộ giữa hệ thống và các cá nhân, nó giúp họ tham gia vào cấu trúc quyền lực và phục vụ những đòi hỏi độc đoán của bộ máy quyền lực một cách dễ dàng hơn. Lời biện hộ này giúp các cá nhân tự lừa mình khi nghĩ là họ chỉ giữ gìn luật pháp và bảo vệ xã hội khỏi bọn tội phạm. (Không có lời biện hộ như thế thì việc tuyển lựa một thế hệ mới các quan toà, công tố và điều tra viên sẽ khó hơn biết chừng nào!) Như là một khía cạnh của thế giới giả tạo, những bộ luật đó đánh lừa không chỉ nhận thức của những người buộc tội, mà còn lừa dối công chúng, lừa bịp các nhà quan sát quốc tế, và thậm

Số 227 Trang 21

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

chí đánh lừa cả lịch sử nữa.” («Quyền lực của kẻ không quyền lực”, bản dịch của Phạm Nguyên Trường).

Như vậy, câu trả lời của Havel cho thấy : cũng như cái ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa mà Tổng Bí thư đảng cộng sản và toàn bộ máy lãnh đạo đang cố duy trì, các bộ luật chỉ là một sự lừa bịp mà thôi, lừa người và tự lừa dối mình.

Tôi sử dụng câu trả lời của Havel, được nêu lên từ nửa thế kỷ trước mà giờ đây vẫn còn rất đúng cho trường hợp Việt Nam, để nói rằng : mô hình chính trị Việt Nam là một mô hình ngoại lai hoàn toàn, copy hoàn toàn từ nước ngoài, nhập khẩu hoàn toàn từ ngoại quốc, nó là sản phẩm của thái độ sùng ngoại tuyệt đối của bộ máy lãnh đạo.

Các nguyên lý và các lo-gic của chế độ toàn trị Việt Nam chỉ là sự tiếp tục kéo dài của các nguyên lý và các lo-gic chung của các chế độ toàn trị cộng sản thế giới. Mọi thứ xảy ra ở Việt Nam đều đã xảy ra ở cái hệ thống đã sụp đổ ở Đông Âu. Xin dẫn ra đây thêm một ví dụ, Havel viết : «Việc thao túng các toà án và các công tố viên thông qua con đường chính trị, những giới hạn kiềm chế khả năng bào chữa của luật sư trong quá trình bảo vệ thân chủ của mình, các phiên toà thực chất là xử kín và những hành độc đoán của lực lượng an ninh, quyền lực của các lực lượng này còn cao hơn pháp luật, và cách áp dụng rộng đến mức vô lí những điều luật cố tình soạn thảo một cách mù mờ”. Thực tế của Tiệp Khắc những năm 70, như thế, chẳng khác gì thực tế của Việt Nam hiện tại.

Tuy thế Havel khuyên rằng những người đấu tranh cần dựa vào bộ luật để đòi nhà nước toàn trị phải tuân thủ luật pháp, qua đó mà bảo vệ quyền công dân và quyền con người. Việc những người đấu tranh liên tục viện dẫn luật pháp không có nghĩa là họ có ảo tưởng về luật pháp trong chế độ cộng sản. Nhưng họ biết rằng hệ thống toàn trị không thể vận hành mà không có cái mặt nạ dối trá của luật pháp. Để tạo tính chính danh, nhà nước toàn trị dùng luật pháp như một bộ y phục sang trọng, như một thứ nghi lễ. Hành động đòi nhà nước toàn trị phải tuân thủ luật pháp «chính là một hành động của sống trong sự thật, đấy là mối đe dọa toàn bộ cơ cấu dối trá ở chính điểm dối trá nhất của nó». Vì thế, việc sinh viên Phạm Lê Vương Các kiên quyết ở lại trường đại học, để đòi quyền được học của mình, là một hành động sống trong sự thật.

Hy vọng xã hội sẽ cùng hỗ trợ Phạm Lê Vương Các để bảo vệ các quyền cơ bản mà bất kỳ người nào sinh ra đời cũng phải được thụ hưởng.

Và hy vọng những người đấu tranh cho quyền con người và cho một Việt Nam dân chủ như Nguyễn Quang A, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Văn Hải và những người khác... nhận được sự ủng hộ đông đảo và rộng lớn, để một ngày Việt Nam có thể hòa vào dòng chảy chung của nhân loại tiến bộ.

Nice, ngày Quốc khánh 2-9-2015Nguyễn Thị Từ HuyTheo RFA

------------------------------------“EM HÃY RÚT HỒ SƠ VÀ

NGHỈ HỌC Ở TRƯỜNG NÀY ĐI”

Phạm Lê Vương Các02-09-2015

Các bạn có tin đó là câu nói của một thầy chủ nhiệm khoa “khuyên” sinh viên của mình sau khi nhập học được 1 tuần không?

Còn đối với tôi câu nói này đã trở nên rất đỗi quen thuộc vì tôi đã được nghe nó nhiều lần khi học ở Đại học Luật TP.HCM. Và lần này tôi lại được nghe ở Trường Đại học Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội – nơi tôi đang theo học chuyên ngành Luật kinh tế.

Nhưng khác với lần trước, lần này tôi nghe lại cụm từ “em hãy nghỉ học ở trường này đi” một cách hết sức thô thiển từ một người thầy, buộc tôi phải viết lại những gì đã xảy ra vào buổi sáng ngày hôm qua.

Vào sáng ngày 1-9, tôi đến trường Đại học Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội theo lời mời của một thầy mà tối qua bảo là “hướng dẫn tôi bổ túc hồ sơ”. Khi đến nơi, người thầy này dẫn tôi đến phòng của thầy chủ nhiệm khoa để làm việc. Khi vào phòng, thầy đang ký giấy tờ cho một số người, tôi ngồi đợi một chút và quan sát trên bàn thấy một bản “Báo cáo” của tổng cục an ninh có đề tên Phạm Lê Vương Các được in đậm ngay trên tiêu đề.

Khi công việc ký tá đã xong, trong phòng chỉ còn lại tôi và 2 người thầy (một thầy dẫn tôi đến, với một thầy chủ nhiệm khoa), và câu chuyện giữa tôi và thầy chủ nhiệm khoa bắt đầu.

Thầy hỏi: “Em có biết cô Y bên cục an ninh không”? Tôi trả lời rằng biết vì tôi đã làm việc với cô Y mấy lần.

Rồi Thầy cho biết, bên tổng cục

an ninh có báo cáo về trường hợp của tôi rồi thầy nói thẳng thừng: “Em nên nghỉ học ở trường này đi, rút lại hồ sơ và kiếm trường khác mà học”.

Tôi choáng váng mặt mày, tim đập thình thịch, 2 hàm răng bắt đầu run lên và va vào nhau, lỗ tai bắt đầu nóng lên… Tôi im lặng nhìn đăm chiêu ra ngoài cánh cửa, phải mất 2 đến 3 phút sau tôi mới lấy lại bình tĩnh và hỏi: “Thầy cho em biết lý do?”

Thầy nói: “Trường này đào tạo đa ngành, nên đào tạo ngành Luật không tốt bằng mấy trường khác đào tạo chuyên về Luật. Em nên kiếm những trường chuyên về Luật, học ở đó thì sẽ tốt cho em hơn”.

Tôi thở dài... Sau một lúc im lặng suy nghĩ tôi đã trả lời rằng: “Em sẽ không rút hồ sơ và sẽ tiếp tục học ở trường này. Vì em đã nhập học được một tuần rồi, nên không thể thay đổi lựa chọn được nữa, vì đã quá muộn.”

Thầy trả lời lại là chưa muộn đâu, bây giờ vẫn còn có thể được, nhưng tôi vẫn giữ nguyên quyết định của mình.

Thầy bắt đầu hơi lớn tiếng và đi thẳng vào vấn đề: “Ai cũng có lý tưởng của riêng mình, em có lý tưởng tự do dân chủ, còn chúng tôi có lý tưởng Cộng sản. Trường này do những người Cộng sản lập ra, và sẽ đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị Cộng sản này.”

Tôi cũng lớn tiếng trả lời: “Khi dự tuyển vào trường này em không thấy chỗ nào giới thiệu trường này là do những người Cộng sản lập ra, mà trường này là trường dân lập. Em cũng không quan tâm và không cần biết trường này do Cộng sản hay Tư bản lập ra… Và em cũng nói cho thầy biết, chức năng cao cả của giáo dục không phải là để đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị. Mà là đào tạo ra những con người tự do trước chế độ chính trị.”

Thầy: “Nếu không đào tạo ra những con người của chế dộ chính trị thì cũng đào tạo ra những con người để phục vụ cho chế độ chính trị. Giáo dục của Anh, Pháp, Mỹ cũng đào tạo ra những con người để phục vụ cho chế độ chính trị của nó, và giáo dục cũng Việt Nam cũng vậy”.

Tôi: “Giáo dục của họ sinh viên được tự do lựa chọn tư tưởng. Còn các trường đại học ở Việt Nam thì không. Vì các trường đại học của họ được tự trị mà thế lực chính trị không thể can thiệp được, ít nhất về mặt tự do nghiên cứu, học thuật. Còn ở Việt Nam thì không. Thầy xem tất cả trường đại học nào ở Việt Nam mà không có chi bộ đảng Cộng sản trong

Số 227 Trang 22

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đó không, cho dù đó là trường dân lập? Và điều đó có cần thiết không?”

Thầy trả lời là cần thiết, và còn cho biết, không chỉ trong các trường đại học có chi bộ đảng mà còn có cả an ninh để quản lý và theo dõi sinh viên nữa, nên không phù hợp cho tôi theo học trường này.

Một lúc sau Thầy nhẹ giọng: “Tôi biết em đi học luật để làm gì. Dù an ninh không ép nhà trường phải cho em thôi học vì nhà trường cũng có sự độc lập riêng. Nhưng an ninh đã thông báo về trường, thì nhà trường phải…”.

Tôi hỏi lại: “Giả sử an ninh gây sức ép để trường buộc em thôi học thì nhà trường căn cứ vào đâu để ra quyết định buộc em thôi học?”

Không đợi thầy trả lời, tôi nói tiếp: “Em nói cho Thầy biết, nhà trường chỉ có thể buộc em thôi học khi em có những hành vi vi phạm phạm luật qua một bản án xét xử của tòa án. Cơ quan an ninh không có chức năng xét xử mà họ chỉ là cơ quan điều tra. Họ điều tra và báo cáo như thế nào là việc của họ, nhà trường đừng để họ làm thay công việc của tòa án và xem họ như là tòa án”.

….Cảm thấy thuyết phục tôi không

được, thầy có thổ lộ là trước khi làm việc với tôi, cô Y bên cục an ninh cũng có nói với thầy là không thể thuyết phục được tôi trong vấn đề này đâu, vì “nó là lý tưởng nên rất khó tác động để thay đổi”.

Không biết đây có phải là lý do để thầy đánh phủ đầu tôi bằng những câu nói cứng rắn ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên để tìm kiếm hy vọng?

Khi thuyết phục tôi nghỉ học không được, thầy chuyển sang đề tài trong khâu tuyển sinh, không biết có phải nhằm mục đích để “dọa” tôi hay không, ngẫm lại thật buồn... cười.

Thầy nói như vầy: “Em học cao đẳng ngành quản trị nhân sự à. Như vậy là không đúng quy định (học trái ngành) để được học liên thông lên ngành luật kinh tế ở trường này”

Tôi: “Khi nộp hồ sơ tuyển sinh vào trường này, em đã đọc kỹ thông báo là sinh viên học cao đẳng không đúng chuyên ngành luật vẫn được phép thi liên thông học lên đại học ngành luật kinh tế. Và em đã nộp hồ sơ, trải qua kỳ thi do trường tổ chức, và khi trúng tuyển em đã làm thủ tục nhập học thì không có vấn đề gì.”

Thầy: “Thông báo đó em đọc ở đâu?”

Tôi: “Em đọc trên trang website của trường.”

Thầy: “Việc tuyển sinh ngành này

là do tôi ký, không lẽ tôi không biết. Không có thông báo nào như thế cả.”

Tôi: “Có máy tính kia. Thầy hãy mở ra và lên đó đọc”.

Nhưng Thầy vẫn khăng khăng khẳng định là không có thông báo đó và nói bằng cao đẳng của tôi học liên thông lên đại học ngành Luật kinh tế là không đúng.

Tôi tiếp lời: “Ở lớp em có hai mươi mấy bạn. Chỉ 1 hoặc 2 người là học cao đẳng luật. Còn lại tất cả đều không có bằng cấp gì liên quan tới luật.”

Thầy bảo: “Nếu vậy thì tôi sẽ xem xét lại tất cả hồ sơ, và nếu cần thiết thì tôi sẽ đề xuất lên trên giải tán luôn lớp đó.”

Thiệt tình, lúc đó bỗng dưng tôi có suy nghĩ con người tôi nguy hiểm đến cỡ đó sao. Thật chẳng thể nào hiểu nổi. Tôi nhận thức được nhà trường không hoan nghênh tôi là điều dễ nhận ra, nhưng bất chấp phải trái, đúng sai, lộng ngôn kiểu này thì tôi đành chào thua.

Tôi bảo: “Em sẽ không tranh cãi với thầy ở điểm này nữa. Có vấn đề gì khúc mắc, muốn đuổi học, muốn giải tán lớp, đó là việc của thầy thì thầy cứ làm. Nhưng làm gì thì cũng phải quyết định bằng văn bản đàng hoàng. Để tụi em còn có căn cứ để xem xét có nên đi khiếu kiện hay là sẽ chấp hành.”

Buổi làm việc chỉ diễn ra khoảng 20 phút, vì Thầy bận đi họp. Trước khi kết thúc tôi nói rõ thông điệp của mình: “Em đã trưởng thành, thì em hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật mà không để liên đới tới ai. Em trúng tuyển và đóng tiền vào đây là để học và tìm kiếm tri thức. Nhà trường có nội quy, khi tới trường thì em sẽ tôn trọng và chấp hành nó. Còn khi em bước chân ra khỏi cổng trường thì chúng ta không liên quan đến nhau. Tốt nhất là nhà trường không nên can thiệp vào những hoạt động bên ngoài của em, vì nhà trường có muốn can thiệp thì cũng không được đâu. Nếu ngoài kia em có hành vi vi phạm pháp luật thì pháp luật sẽ xử lý em chứ không phải đi xử lý nhà trường. Tốt nhất là chúng ta hãy nên giữ cho nhau thì sẽ tốt hơn cho cả 2 bên, cho nhà trường và cho cả phía em”, tôi nói.

Và thế là, câu chuyện thầy trò của chúng tôi khép lại với hình ảnh mạnh ai xách cặp người đó bước ra khỏi cửa, mà không có cái bắt tay và lời chào tạm biệt.

Ra đến sân trường, chợt tôi nhớ lại lời thầy nói: nào là ông Trọng đi gặp ông Obama, dù họ khác biệt về ý

thức hệ và quan điểm chính trị nhưng họ vẫn có thể ngồi lại đối thoại với nhau và tôn trọng nhau. Thế thì tại sao chúng ta -là mối quan hệ thầy trò- lại không thể đối thoại với nhau một cách tôn trọng nhau hơn, thưa thầy?

Có phải chính vì thầy có suy nghĩ “giáo dục là để đào tạo ra con người để phục vụ cho chế độ chính trị”, đã làm cho thầy coi trọng “sinh mệnh chính trị” của mình hơn là nhân cách của nhà giáo phải không?

Tôi sẽ không phán xét về thầy, tôi dành câu trả lời cho cộng đồng và dư luận phán xét, và cho cả chính thầy.

Nhưng tôi bị tổn thương sâu sắc vì sự xúc phạm bởi chính người thầy và nhà trường, nơi mà tôi sẽ phải gắn bó trong một thời gian dài.

Lòng khoan dung là tối cần thiết để tránh kéo dài xung đột, và để tạo ra một môi trường giáo dục và một xã hội nhân bản hơn, nên tôi sẽ “gìn giữ cho nhau” bằng cách không nêu tên của thầy lên đây.

Nếu trong thời gian tới, thầy chủ nhiệm khoa và nhà trường còn tiếp tục những hành vi tương tự, tôi cam kết với thầy và trường đại học Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội rằng: Tôi sẽ kiên quyết đấu tranh để bảo vệ cho quyền được học tập và giáo dục của mình.

Bất kỳ lúc nào tôi cũng có thể đứng trước cổng trường căng băng rôn phản đối nhà trường bất chấp đạo đức và pháp lý ép buộc sinh viên nghỉ học vì lý do chính trị.

Bất kỳ lúc nào tôi cũng có thể đứng trước cổng trụ sở của Bộ Giáo dục căng băng rôn đòi quyền tự trị cho các trường đại học ở Việt Nam.

Và bất kỳ lúc nào, tôi cũng có thể gửi đơn khiếu tố sự việc này cho “Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về Quyền Giáo dục”, để đưa vấn đề này ra trước cộng đồng quốc tế.

Dù khi ra về thầy có nói rằng, tôi là đối tượng có khả năng tranh luận được với thầy nên thầy sẽ còn gặp lại để tranh luận tiếp. Nhưng tôi thấy, giữa tôi và thầy không thể tiếp tục tranh luận hoặc đối thoại được nữa khi thầy còn gặp tôi với mục đích để "khuyên" hoặc “ép” tôi ra khỏi cái trường này, chứ không nhằm mục đích kiến tạo ra các giá trị tri thức và tư tưởng mới trong tranh luận.

Ba của tôi khi biết chuyện này liền nhắn tin nói với tôi rằng: “Cá nhân con nên quên chuyện vào trường học XHCN đi. Bởi họ chỉ muốn những người như con cầm cuốc đào đất mà không được cầm bút. Đã biết chúng xài luật rừng mà đi học luật nữa làm gì. Hãy thu xếp về nhà sớm lúc nào

Số 227 Trang 23

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đỡ tốn kém cho mình lúc ấy. Con nghe ba một lần này đi, có nhiều con đường học tập khác dành cho con.”

Theo các bạn, tôi có nên nghe lời ba của tôi không? Trường này có còn xứng đáng để cho tôi tiếp tục theo đuổi việc học ở đây? Câu trả lời của tôi là: tôi sẽ tiếp tục đi học tại ngôi trường này dù tôi không còn yêu nó.

Đi học tại ngôi trường này, giờ đây, đối với tôi chỉ nhằm một mục đích duy nhất là để chứng minh rằng: bất kỳ một lực lượng chính trị nào cũng không có khả năng xâm phạm và tước đoạt đến Quyền được học tập, được giáo dục của chính tôi.

Tôi sẽ kiên quyết đấu tranh để bảo vệ nó. Chúng ta hãy nhớ rằng, giáo dục đại học cũng chỉ là một nơi cung cấp dịch vụ. Tôi không đi xin, mà tôi đã phải trả một khoản tiền không hề nhỏ là 15 triệu/1 năm để được học ở trường này, và tôi có quyền đòi hỏi sự tôn trọng trong tư tưởng và chất lượng khoa học từ nhà trường.

ĐƠN XIN NGHỈ HỌCPhạm Lê Vương Các

11-09-2015Kính gửi: 

Giáo sư Trần Phương – Hiệu trưởng nhà trường.Thầy Chủ nhiệm lớp và các Giảng viên bộ môn.

Em tên là Phạm Lê Vương Các, hiện đang học lớp Liên thông Luật Kinh tế 13.1, tại trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội.

Hôm nay em viết đơn này, kính mong Quý Thầy Cô cho em được nghỉ học vài ngày hoặc vài tuần, vì lý do bất khả kháng không thể đến trường.

Em xin tường thuật lại sự việc bất khả kháng của em như sau:

Vào lúc 20h30’ hôm qua, ngày 10-9-2015, sau khi tan học, khi đang đứng đợi thang máy ở trường, em phát hiện có một số người đang theo dõi em từ hành lang. Đến khi ra trước cổng trường thì em nhận ra có ít nhất là 5 người đang thực hiện hành vi theo dõi này. Khi em đón xe bus đi về thì những người này đồng loạt chạy xe máy theo phía sau. Thấy vậy, em xuống xe bus đi bộ vào trong khu phố cổ, thì nhóm này cử 2 người đi bộ sau lưng em, những người khác tiếp tục chạy xe máy theo sau.

Đến một lúc, sự theo dõi của họ khá rõ ràng, em quay lại hỏi một trong những người theo dõi em: “Các anh đi theo tôi làm gì?”, thì người này dùng lời lẽ thô tục để chửi lại em, sau đó người này liền lấy điện thoại ra gọi và nói: “Anh em tập trung lại đây xử

nó luôn đi…”Thấy vậy, em liền nhanh chân đi

vào trong khách sạn ngay tại đó, và ở qua đêm tại khách sạn trong khu phố cổ mà không thể về phòng trọ. Đến sáng, khi em xuống trả phòng khách sạn thì em nhận ra có 3 người ngồi trong quán cafe đối diện tiếp tục theo dõi em. Khi em đi ra khỏi khách sạn thì những người này liền rời khỏi quán và tiếp tục đi theo em. Lúc này, em phát hiện ra cũng có ít nhất là 5 người tiếp tục thực hiện hành vi theo dõi em, trong đó có một số người cũ của tối qua và một số người mới.

Lần này họ đi theo với khoảng cách “không rời nửa bước”. Khi em đi họ đi, khi em ngồi họ cũng ngồi. Khi em vào quán cafe thì một người vào ngồi ở ngay bàn bên cạnh, những người còn lại đậu xe đứng trước quán. Khi em nhờ bạn tới chở về, thì họ đồng loạt lên xe máy chạy theo. Và hiện nay, nhóm người này vẫn đang tiếp tục ngồi canh trước chỗ ở của em.

Kính thưa Quý Thầy Cô,Vào tháng 6 năm 2013, em cũng

đã từng bị một nhóm người, mà em biết rõ họ là nhân viên an ninh, đã tấn công và hành hung em phải nhập viện khi em đi vào một con đường vắng vào đêm khuya, sau khi đã đeo bám và theo dõi em nhiều ngày.

Xét thấy hiện nay, sau khi tan học trở về phòng trọ, em phải đón xe bus trên một đoạn đường vắng vẻ ở chân cầu Vĩnh Tuy, và phải đi bộ một quãng đường khá xa mà vắng bóng người để vô phòng trọ. Nên em lo ngại rằng, sự việc tấn công và hành hung tương tự như lúc trước sẽ tiếp tục tái diễn nếu em đi học trong tình hình hiện tại.

Vì vậy, trong trường hợp bất khả kháng này, em mong Quý Thầy Cô cho phép em được nghỉ học vài ngày, có thể là vài tuần. Khi điều kiện thuận lợi hơn em sẽ trở lại lớp học bình thường.

Qua đây, em cũng mong Quý Thầy Cô hiểu và cảm thông cho những rủi ro mà những người hoạt động cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam đang phải đối mặt.

Kính chúc Thầy Cô dồi dào sức khỏe.

Kính mến!Hà Nội, ngày 11/9/2015.Sinh viên Phạm Lê Vương Các

Sau quyển “Đại Vệ Chí Dị” được nhà xuất bản Trẻ phát hành tại hải ngoại, “Nói Trong Im lặng” là quyển thứ hai của tác giả Bùi Thanh Hiếu (tức blogger Người Buôn Gió) được Eva Tas Foundation xuất bản. Thông tín viên Tường An giới thiệu quyển sách này đến quý thính giả qua phần phỏng vấn tác giả và nhà xuất bản sau đây:

«Nói trong im lặng» là tiếng thét của những ngòi bút bị bẻ gẫy trong đêm đen Việt Nam, những tiếng thét đã được mang đến thế giới bên ngoài bởi một người vừa thoát khỏi vũng đen ấy : Bùi Thanh Hiếu.

Viết về những thủ đoạn của chế độ công an tại Việt Nam không phải là một đề tài mới lạ, mỗi ngày tràn đầy trên các mạng xã hội những bản tin tố cáo những hành động đàn áp của công an bằng mọi hình thức, từ đánh đập đến gây thương tích bằng những tai nạn giả.

Quyển “Nói trong im lặng” của Bùi Thanh Hiếu góp vào những tiếng kêu cứu trong vô vọng đó một ánh đuốc, soi sáng một khoảng đêm đen Việt Nam. Quyển sách nhỏ kéo cao hơn nữa tấm màn sân khấu của những gương mặt được ngụy trang dưới cái tên “công an nhân dân” hay là những ngôn từ cao quý khác. Qua những nhân vật hư cấu, Bùi Thanh Hiếu đã diễn tả lên những con người thật giữa đời thường.

Quyển sách nói về một cựu bộ đội tên B. về hưu, chủ một blog mang tên Tiếng Quê Hương, hiền lành, chân chất, nhìn mọi việc quanh mình bằng cái nhìn đơn giản, hiền hoà, tin vào một chính sách mà ông đã phục vụ suốt cuộc đời cho tới ngày nhận giấy về hưu. Vẫn với một niềm tin son sắt, ông sông yên bình với những bài viết blog. Cho đến một ngày có một người dân oan tìm đến ông kể lể. Cảm thương cho hoàn cảnh của bà, ông B đã giúp bà tìm kiếm những hình ảnh, chứng cứ rõ ràng để tố cáo việc uỷ ban xã thông đồng với ủy ban giải toả mặt bằng để trưng thu đất của bà bằng

Số 227 Trang 24

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

giá rẻ mạt. Ông đã giúp bà Nguyễn làm đơn nộp lên phường với niềm tin son sắt vào guồng máy hành chánh như khi ông còn là một chiến binh lăn lội ở Trường Sơn: “Ông B cảm thấy họ thật dễ mến. Dù sao trong bộ máy công quyền còn những con người có tâm huyết với dân, tận tụy với công việc như thế này. Ông cảm thấy mình đã làm những việc có ích giúp người cô thế như bà Nguyễn. Chắc thấy tờ biên nhận này bà Nguyễn sẽ mừng lắm”*

Và sau đó, ông thu thập chứng cứ, viết bài vạch trần việc gian tham đưa lên trang blog của ông và cũng từ đó, bi kịch của gia đình ông bắt đầu mà ông vẫn chưa hề biết

“Ông lấy xe ra về, trong lòng khoan khoái niềm vui. Ông không biết rằng những tờ đơn ấy sẽ chẳng bao giờ đến ủy ban nào cả, nó sẽ nằm trong két hồ sơ dưới dạng một tập hồ sơ riêng có tên ông ở một cơ quan an ninh bí ẩn trong hàng hà vô số những cơ quan an ninh bảo vệ chính trị, bảo vệ Đảng trên khắp đất nước này. Ít người dân thường nào hay kể cả cán bộ nhà nước biết đến những cơ quan bí ẩn đó.”*

Hệ thống an ninh của nhà nước Việt Nam như một mạng nhện vây bủa trên cao treo những mắt cáo nhìn xuống kiểm soát từng hành động, từng suy nghĩ của mỗi con người và bằng mọi thủ đoạn tàn nhẫn, sẵn sàng bẻ gẫy bất cứ ai không khuất phục họ, những thủ đoạn rất hèn mà một cơ quan nhà nước chính trực không bao giờ dùng với người dân của họ. Những bài viết của Ông B đã lọt vào những mắt cáo đó, lời của Tiến, một côn đồ đội lốt công an:

“Xong rồi đây anh, cái con mụ này được thằng C nó dẫn đến nhà thằng B, nhờ thằng B viết bài. Mụ đấy khai là gặp tại nhà thằng B, đưa đơn từ, kể chuyện. Thằng B có quay clip phỏng vấn mụ ấy. Mụ bảo tại chính quyền không giải quyết nên gặp ai là mụ ấy nhờ.”*

Một kế hoạch thật bài bản được đặt ra để cho ông B. vào tròng, trong khi đó, ông B. vô tư vui mừng với ý nghĩ mình đang làm một điều

tốt. Thành, một cán bộ an ninh thuộc phòng bảo vệ tư tưởng chính trị nội bộ thuộc khối 5 bộ Công an báo cáo thành tích: “Báo cáo sếp, đã cho người nắm bắt thông tin về B. Trước tiên em định lựa một số bài viết của hắn có cơ sở pháp lý, để triệu tập hắn đến làm việc. Bước đầu để hắn xác định blog của hắn. Vì vậy em sẽ không nhắc đến những bài viết gay gắt chỉ trích chính quyền của hắn ngay. Đây là những bài của hắn em lựa ra để gọi hắn làm việc. Những bài viết này thì hắn có đủ lý để biện minh, như thế hắn sẽ xác nhận là chủ của blog.... buổi sau nữa khi hắn xác nhận rồi thì làm việc đến các bài khác.”*

Và họ không từ bỏ cả thủ đoạn dùng thân nhân để áp lực cá nhân “phạm tội”, một thủ đoạn rất tâm lý thường được áp dụng để làm nhụt ý chí những người hoạt động, vì bản thân mình có thể chịu khổ nhưng không thể nhìn thấy thân nhân vì mình mà liên lụy. Lời của nhân vật Thành: “Nắng nôi đi vất vả nhỉ. Làm tốt đấy, mai xuống chỗ trường vợ thằng B hỏi trường nó về nhân thân vợ nó, quá trình công tác, tư tưởng. Rồi nói thế nào để hiệu trưởng ở đó bắn tin lại cho vợ nó biết là có cơ quan an ninh đến hỏi rồi đấy, nói hiệu trưởng bảo vợ nó về nói nó làm gì thì làm đừng ảnh hưởng vợ con.”*

Quyển sách nhỏ vẽ lên một xã hội bất ổn với bạt ngàn mưu kế, thủ đoạn của mạng lưới an ninh chằng chịt mà những người đối kháng không một tấc sắt trong tay như những con chim đang vẫy vùng trong mạng lưới đó. Với những nhân vật giả tưởng, Bùi Thanh Hiếu đã ráp những mảnh vụn của một xã hội đầy bất trắc để dựng lên một cảnh đời nghiệt ngã cho những người cầm bút. Tác giả Bùi Thanh Hiếu chia sẻ suy nghĩ của mình khi viết quyển sách này:

“Điều mà tôi muốn thường thì tôi viết tôi để cho độc giả, người ta cảm nhận, tôi chỉ diễn tả lại nỗi khổ, cái khó khăn, những cái mà những người cầm bút viết lên sự thật ở Việt Nam họ phải chịu đựng

như thế nào. Tức là tôi muốn đưa đến độc giả cái nhìn về số phận của họ, những cái khó khăn của họ, tức là những cái rất là tế nhị mà họ không thể nói ra, viết ra để mọi người khác nhìn được họ và thông cảm, hiểu cho những người viết phản kháng ở trong nước”.

Quyển «Nói trong im lặng” 69 trang được nhà xuất bản Eva Tas Foundation xuất bản bằng tiếng Anh. Tổng thư ký của Eva Tas Foundation, ông Rudolf Geel cho biết cảm tưởng của ông khi đọc cuốn sách này:

«Cuốn sách này chỉ nói lên sự thật, những dữ kiện có thật được giả tưởng hoá, một câu chuyện tưởng tượng nhưng hoàn toàn dựa trên những dữ kiện có thật. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy rất thú vị”.

Qua từng trang sách, những người viết blog, những tiếng nói bất đồng chính kiến sẽ nhận ra mình trong từng con chữ : anh bộ đội về hưu tập tành viết lách, chị công nhân xuất khẩu lặn lội giúp dân oan, người thanh niên Công giáo bị côn đồ đánh cho tơi tả ngoài đường phố v.v… và còn nhiều thủ đoạn để cả một hệ thống công quyền của nhà nước trấn áp những người không cùng quan điểm với họ. Bùi Thanh Hiếu nói: “Thực ra những gì tôi viết đều dựa trên nguyên mẫu của sự thật, ngay cả trong quyển sách này thì những nguyên mẫu đó thật đến mức độ tôi không muốn đổi tên họ thành một người khác mà tôi muốn đặt họ là A, là B. Đây là những nhân vật kể cả người viết, kể cả người an ninh, những người công quyền hoặc là những người hàng xóm, tất cả đều trong sự thật mà ra. Tất nhiên là trong những nhân vật đấy thì tôi lấy một nhân vật cơ bản, nhưng trong những sự kiện mà ông ấy phải chịu đựng thì không phải chỉ mình ông ấy thôi mà tôi nhặt của người này, của người kia gom lại thành số phận của ông ấy để mọi người hiểu cái mà ông ấy chịu đựng cũng là những cái mà những người khác phải chịu đựng. Cho nên những người cầm bút họ đọc thì họ sẽ thấy bản thân họ được phản ảnh

Số 227 Trang 25

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

qua đấy một cách trung thực.”Và chính những xúc tác rất thật

đó đã làm cho ông thực hiện quyển sách này chỉ trong vòng 2 tháng. Tác giả Bùi Thanh Hiếu cho biết :

«Thực sự là nó ở trên những sự kiện có thật và tôi chỉ cần ngồi tôi hình dung lại, tôi chăp nối lại và cứ thế tôi viết ra thôi chứ nó không phải là một điều gì khó khăn. Với người khác có thể khó khăn nhưng với một người đã trải qua rồi thì như là một chuyện kể lại. Tất cả những người bạn người quen, rồi những cảnh mà họ hoặc bản thân mình phải chịu đựng hiện về rất là nhiều và chính nó tạo cho tôi cái cảm xúc mà tôi hoàn thành nhanh cuốn sách này theo yêu cầu của nhà xuất bản đấy.”

Eva Tas Foundation là một tổ chức tư nhân tại Hoà Lan, được lập ra theo ước nguyện của một phụ nữ Do thái đến từ Đức và sau này sống tại Hà Lan (1933-2007), bà chủ biên một tạp chí về các nạn nhân của trại tập trung Auschwitz, đồng thời bà cũng là một người cộng sản giàu có, đó là lý do bà không được cảm tình của một số thành phần. Những năm cuối của thập nên 90, bà tham gia vào chi nhánh của PEN ở Hà lan và mong muốn sau khi bà mất đi, Eva Tas Foudation sẽ xuất bản sách của những nhà văn, nhà thơ trong các nước mà tự do truyền thông bị bóp nghẹt. Eva Tas Foudation đã xuất bản sách của các nhà văn từ Ethopia, Honduras, China, Việt Nam v.v… các tập thơ của nhà thơ Bùi Chát và Lý Đợi cũng đã từng được Eva Tas Foundation xuất bản. Mục tiêu của nhà xuất bản này là phá tan bức màn kiểm duyệt của các nước độc tài, ngăn cấm tự do thông tin bằng cách giúp đỡ tài chánh, xuất bản sách cho những bloggers, nhà văn, nhà thơ tại các quốc gia đó. Ông Rudolf Geel cho biết:

«Chúng tôi mong muốn mọi người biết những gì xảy ra trên thế giới trong lãnh vực kiểm duyệt, nó diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ở Trung Quốc diễn ra một cách khác và ở Việt Nam lại diễn ra theo một cách khác. Chúng tôi có

nhiều quan hệ với nhà văn bất đồng chính kiến hoặc những nhà văn bị theo dõi, chúng tôi giúp họ về tài chánh và chúng tôi giúp những nhà văn trong những quốc gia như thế xuất bản sách của họ.

Và nếu chúng tôi có thể xuất bản hàng loạt những cuốn sách như thế thì chúng tôi có thể có một hình ảnh tổng quát về cách cai trị trong một quốc gia, cách họ kiểm soát tự do ngôn luận của người khác và chúng tôi muốn phổ biến nó đến với những người quan tâm đến quyền tự do bày tỏ tư tưởng, vì thế điều quan trọng là chúng tôi không bán, mà phát miễn phí các quyển sách này”

“Nói trong im lặng” là phần thứ nhất của quyển sách thứ hai của Bùi Thanh Hiếu, một thanh niên giang hồ của ngõ Phất Lộc, được biết nhiều qua blog Người Buôn Gió của anh. Quyển thứ nhất “Đại Vệ chí dị” cũng thuộc dạng lịch sử giả tưởng, do nhà xuất bản Giấy Vụn xuất bản và Trẻ phát hành ở hải ngoại. Ông Bùi Thanh Hiếu cho biết đang tiếp tục cho phần 2 của quyển “Nói trong im lặng” phần này sẽ nói về số phận của những luật sư, ông Bùi Thanh Hiếu nói:

«Trong cuốn sách này thì tôi nói về người cầm bút, phần 1 tôi nói về người cầm bút. Phần thứ hai thì tôi nói về một nhân vật là luật sư, tức là ở VN thì có những nhân vật nhà văn, nhà báo, luật sư, họ gặp rất nhiều khó khăn. Phần thứ hay này thì tôi viết về luật sư và vẫn là cái bộ máy của an ninh công quyền kia họ đàn áp, ở phần 2 này tôi viết về những luật sư. Nếu tôi tìm được người nào tài trợ xuất bản hoặc tôi sẽ dành dụm tiền tôi tự xuất bản lấy. Tôi sẽ dùng số tiền bán được giúp đỡ các anh em trong nước. Ngay như cuốn sách này được bản quyền 5000€ thì tôi cũng gửi mấy món tiền về cho một số dân oan, dân nghèo trong nước cũng hết.”

Được một tổ chức ở Đức mời sang Đức để sáng tác, với những quyển sách như thế này, một ngày nào đó, phải trở về Việt Nam thì những gì sẽ chờ đợi ông, Bùi Thanh Hiếu nói : «Tôi không biết là sẽ gặp

những khó khăn hay không nhưng mà trách nhiệm của tôi trong khi tôi đang an toàn như thế này thì phải viết hộ cho mọi người. Mình ở trong nước mình đã sợ mình không dám xuất bản, mà nếu ở bên ngoài mình cũng sợ nốt thì bao giờ mình mới viết được ? bao giờ mình mới xuát bản cho độc giả hiểu được?”

Luật sư, nhà văn, bloger, dân oan… đều cùng mang những chiếc còng vô hình trên quê hương của chính họ, nhà tù sẵn sàng đón rước họ xuyên qua những nghị định oan nghiệt. Tiếng nói của họ rơi vào khoảng không im lặng của hàng rào kiểm duyệt. Liệu họ có đủ nghi lực để thực hiện giấc mơ được biến suy nghĩ thành lời nói mà không bị bất cứ một hành động đàn áp nào ? Hay là rồi họ cũng phải khuất phục trước mạng lưới trùng trùng thủ đoạn của cơ quan an ninh đầy quyền lực để rồi trở thành như ông B. ở cuối đời :

Trong viễn cảnh về một tương lai gia đình yên ổn, mỗi lần ở thành phố ra, đi qua vườn hoa trước cửa dinh thủ tướng. Ông B cúi đầu không dám nhìn những người dân oan gầy còm, xơ xác đang trải chiếu nằm vỉa hè kêu oan vì mất đất.

Không phải riêng mình ông B cúi đầu. Có nhiều người viết như ông đã từng nhắm mắt để khỏi nhìn những cảnh trái ngang. Có người viết ra sự thật rồi lại chỉnh sửa năm bảy lần đến khi sự thật thành một điều mơ hồ... Mỗi người viết ra sự thật đều phải đắn đo cái giá của mình phải trả, mỗi lần như thế, sự thật cứ vơi dần… " *

Những người cầm bút những người bất đồng chính kiến, những người biết nói và dám nói lên tiếng nói của mình ở Việt Nam không bao giờ biết được số phận của mình sẽ trôi về đâu. Họ sẽ không bao giờ có một cuộc sống thanh thản như bao người an phận khác, mạng lưới an ninh bao trùm lên đời sống của họ, theo họ trên từng con hẻm. Người cựu chiến binh B cuối cùng cũng đã khép mình trước những thủ đoạn tinh vi của bộ máy an ninh khi ông đặt bút ký vào tờ biên bản rút lại lời khai, để vợ ông được tiếp tục

Số 227 Trang 26

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đi dạy và để cánh cửa đại học cho đứa con gái được rộng mở.

Hồ sơ ông B. được đóng lại và số phận nghiệt ngã một nạn nhân khác lại âm thầm bắt đầu khi “Thành mở tủ lấy ra một bìa hồ sơ mới, nắn nót ghi tên hiệu hồ sơ…”*

* Trích đoạn trong bản tiếng Việt của quyển “Nói trong im lặng” Bùi Thanh Hiếu (bản tiếng Anh Eva Tas Foundation xb)

Khi mạnh yếu có lúc khác nhauNhưng hào kiệt đời nào cũng cóNguyễn Trãi (Bình Ngô Đại Cáo)

Những anh hùng không phải của chế độ

Cuối tháng tám, đầu tháng chín, như mọi năm, truyền thông Việt Nam tràn ngập những hình ảnh, phim ảnh đầy màu sắc về những ngày đại lễ. Năm nay những hình ảnh đó còn long trọng hơn vì thời gian đã trôi qua đến 70 năm.

Những đoàn người diễu binh cùng cờ đỏ.

Những lời ca tụng những người anh hùng.

Nhưng cũng có những người anh hùng không đứng trong đoàn diễu binh đó.

Trên không gian truyền thông blog là những hình ảnh cũng đầy màu sắc khác, đó là hai anh em ông Đoàn Văn Vươn trở về sau hơn 3 năm tù.

Trong loạt ảnh của tác giả Hoàng Anh, người ta thấy hai anh em ông Vươn ăn mặc chỉnh tề tươi cười trong sắc pháo của dân làng chào đón hai ông, như những người anh hùng. Rồi dân làng long trọng dựng rạp mở tiệc chiêu đãi hai người anh hùng của họ.

Có điều gì bất thường khi dân chúng đón những người tù trở về như những anh hùng?

Một blogger bình luận rằng đó chính là lòng dân! Lòng dân và lòng chính quyền không là một.

Trong một bài viết mang tính trào lộng, blogger Hiệu Minh lại

một lần nữa so sánh câu chuyện vụ án Làng Tiên Lãng của ông Vươn ngày nay, với câu chuyện vụ án Đồng Nọc Nạn thời mồ ma thực dân Pháp. Cùng là những người nông dân nổi dậy chống bất công, nhưng người nông dân thời thực dân được tha bỗng, còn người nông dân Đoàn Văn Vươn phải thụ án tù.

Đứng ở một góc nhìn tương đối khác, nhà văn Sương Nguyệt Minh, dù cho rằng sự hoan hỉ của dân

chúng trong những tấm hình chụp hai anh em ông Vươn ngày được tự do về làng là Người ta vui mừng vì thấy đồng cảm, nhưng đồng thời tác giả cũng cho rằng sự vui mừng đó cũng thể hiện tính pháp quyền của nhà nước hiện hành, Ông Sương Nguyệt Minh viết rằng:

Ông Đoàn Văn Vươn được đặc xá, ra tù trước thời hạn không chỉ là niềm vui của gia đình, dòng họ nhà ông mà còn là nỗi hân hoan của những người dân bình thường quan tâm đến “Sự kiện cống Rộc - Tiên Lãng”. Người ta có niềm tin công lý đã được thực thi đúng đắn, hợp lý rằng: Việc anh em ông Vươn chịu vòng lao lý là thể hiện tính bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật nghiêm minh. Còn việc các ông được đặc xá trở về với đời sống công dân tự do thường nhật lại thể hiện tính nhân đạo của nhà nước pháp quyền.

Ngay lập tức, dường như để phản bác nhà văn Sương Nguyệt Minh về tính nhân đạo pháp quyền của nhà nước hiện tại, đêm mùng 1, rạng sáng ngày đại lễ mùng 2 tháng 9, cơ quan công an của nhà nước Việt Nam câu lưu Tiến sĩ Nguyễn Quang A 15 giờ đồng hồ tại sân bay Nội bài mà không có bất kỳ lý do nào.

Nhà báo Huy Đức nhận xét rằng hành động đó là một thông điệp phản chính trị.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng được bạn bè ông đón như một người anh hùng.

Bàn về luật pháp Việt NamNhư vậy nhà nước pháp quyền

có tồn tại ở VN như nhà văn Sương Nguyệt Minh viết hay không?

Có một bài báo rất dài trên báo chí chính thống Việt Nam phân tích các bản Hiến pháp và những phát ngôn trong đó, để nói rằng nước Việt Nam ngày nay là một quốc gia tôn trọng các quyền cơ bản của con người.

Song nhà báo Huy Đức nhận xét rằng chính quyền mà nhân sự và mô hình chính trị không được quyết định bởi lá phiếu của người dân thì chỉ mới có được một phiên bản khác của nền thực dân.

Tại Việt Nam hiện nay người ta vẫn nói rằng việc bầu cử là việc của dân nhưng do đảng cộng sản quyết định.

Nhưng tại sao với một sự độc tôn cai trị, đảng cộng sản cần gì phải đặt ra cái gọi là luật pháp cho thêm phần phức tạp?

Blogger, Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy trích lời vị Tổng thống nổi tiếng của Tiệp Khắc sau giai đoạn toàn trị cộng sản:

Các bộ luật – ít nhất là trong một số lĩnh vực – chỉ là cái mặt nạ, chỉ là một khía cạnh của thế giới giả tạo. Thế thì tại sao lại cần pháp luật? Cũng cùng lí do như ý thức hệ: Nó cung cấp một cây cầu biện hộ giữa hệ thống và các cá nhân, nó giúp họ tham gia vào cấu trúc quyền lực và phục vụ những đòi hỏi độc đoán của bộ máy quyền lực một cách dễ dàng hơn.

Việc thao túng các toà án và các công tố viên thông qua con đường chính trị, những giới hạn kiềm chế khả năng bào chữa của luật sư trong quá trình bảo vệ thân chủ của mình, các phiên toà thực chất là xử kín và những hành độc đoán của lực lượng an ninh, quyền lực của các lực lượng này còn cao hơn pháp luật, và cách áp dụng rộng đến mức vô lí những điều luật cố tình soạn thảo một cách mù mờ.

Bà Nguyễn Thị Từ Huy viết tiếp: Tôi sử dụng câu trả lời của Havel, được nêu lên từ nửa thế kỷ trước mà giờ đây vẫn còn rất đúng

Số 227 Trang 27

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

cho trường hợp Việt Nam, để nói rằng: mô hình chính trị Việt Nam là một mô hình ngoại lai hoàn toàn, copy hoàn toàn từ nước ngoài, nhập khẩu hoàn toàn từ ngoại quốc, nó là sản phẩm của thái độ sùng ngoại tuyệt đối của bộ máy lãnh đạo.

Trong mô hình mà bà Từ Huy nói rằng ngoại lai hoàn toàn đó, tác giả Phạm Tuấn Xa thấy rằng không những nó có luật mà còn là một rừng luật. Tác giả viết trong bài Luật rừng và rừng luật:

Nhà nước Cộng sản Việt Nam là Nhà nước ban hành một “Rừng luật”. Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần, mỗi lần kéo dài từ 30–45 ngày chỉ để thông qua luật, sửa đổi luật và pháp lệnh. Tất cả mọi hoạt động xã hội dù nhỏ nhất cũng được luật hóa có vẻ rất nghiêm, rất minh bạch… Nhưng thực chất chỉ nhằm củng cố địa vị độc tôn của Đảng để bảo vệ khối tài sản khổng lồ của cán bộ Đảng từ địa phương đến Trung ương, và dựa vào đó Đảng dễ dàng cai trị.

Những tù nhân lương tâm và những đổ vỡ xã hội

Nếu câu chuyện tù tội của người nông dân Đoàn Văn Vươn là một câu chuyện vui, thì số phận những người tù chính trị trong đợt đặc xá nhân ngày đại lễ năm nay lại không được như thế.

Sau nhiều lời đồn đoán, cả trong lẫn ngoài nước, cả người Việt lẫn không phải Việt, không có một người tù chính trị nào được ân xá.

Luật sư Lê Công Định, một cựu tù chính trị nhận xét:

Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường. Do vậy, xin đừng ngạc nhiên hay buồn bã vì không tù nhân chính trị nào được trả tự do trong dịp này.

Hiểu rõ sự vận hành của một hệ thống đặc thù như vậy tại Việt Nam, thì sẽ không thắc mắc như các phóng viên ngoại quốc gần đây trước tin tức đặc xá này.

Một sự đặc thù khác trong sự vận hành của chế độ tại Việt Nam

được blogger Viết Từ Sài Gòn nêu lên, nói đúng hơn là kết quả của sự vận hành của chế độ cộng sản tại Việt Nam, góp phần làm cho đảng cộng sản duy trì sự cai trị của mình, đó là sự mê tín của dân chúng vào đảng cộng sản.

Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắt máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất công, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế độ Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.

Sự sợ hãi mà Viết Từ Sài Gòn đề cập được tạo nên bởi một thiết chế đặc trưng của các chế độ toàn trị, trong đó có chế độ cộng sản, là sự sử dụng một bộ máy công an khổng lồ. Việc này cũng không nằm ngoài những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản mà những lý thuyết gia của nó đề cập từ buổi khởi đầu của chủ nghĩa này, đó là việc sử dụng bạo lực. Việc sử dụng bạo lực lâu ngày dài tháng đã tạo nên một xã hội bạo lực. Trong một lần trao đổi với chúng tôi, nhà văn Phạm Đình Trọng nói rằng:

Cái này đặc biệt nghiêm trọng, đáng báo động. Một xã hội bạo lực đang thắng thế và cái sự thắng thế này nó bắt đầu từ chính quyền. Chính quyền sử dụng bạo lực với dân, chính quyền đạp lên pháp luật. Pháp luật đó không có tác dụng, bây giờ người ta noi gương chính quyền mà sử dụng bạo lực. Chính quyền dùng bạo lực với dân quá

phổ biến và trở thành bình thường. Việc đó trở thành một khuôn mẫu ứng xử của xã hội thì bây giờ người dân người ta cũng ứng xử như thế thôi.

Một xã hội bạo lực chính là một sự đổ vỡ về văn hóa, và cũng vô cùng nguy hiểm như Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc nhận xét:

Những sự tụt hậu về kinh tế có thể được khắc phục nếu không phải trong vài năm thì cũng vài chục năm, nhưng những sự đổ vỡ trong văn hoá và đặc biệt trong đạo đức và quan hệ giữa người với người thì rất khó hàn gắn và để lại rất nhiều di hại.

Và cuối cùng, blogger Viết Từ Sài Gòn cho rằng dù được sự hậu thuẫn bởi sự mê tín của dân chúng, nhưng đảng cộng sản cũng phải đối mặt với nguy hiểm gây ra bởi chính họ vì Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng.

Trong tâm thức khá bi quan về sự đổ vỡ, người ta sẽ cảm thấy một tia hy vọng khi nhìn qua trang blog Một Góc Nhìn Khác của người cựu tù chính trị Trương Duy Nhất khi ông kể rằng cô con gái nhỏ của ông không chú ý cảnh duyệt binh trong ngày đại lễ mà quan tâm đến chuyện công an ở sân bay Nội bài đã trả tự do cho Tiến sĩ Nguyễn Quang A 

Công đoàn độc lập là vấn đề

được nhấn mạnh khi Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương- TPP, do Hoa Kỳ khởi xướng. Tiến triển của việc hình thành công đoàn độc lập tại Việt Nam ra sao?

Quan tâm từ Hoa Kỳ

Số 227 Trang 28

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nhóm xã hội dân sự độc lập Lao Động Việt, vừa qua có đợt làm việc với ông James Greene, chuyên viên cấp cao Ủy ban Tài chính- Kinh tế Quốc tế Thượng viện Hoa Kỳ.

Luật sư Lê thị Công Nhân, một thành viên của Lao Động Việt, trình bày lại một số nội dung chính của cuộc gặp diễn ra tại Hà Nội hôm 26 tháng 8: “Nội dung quan trọng nhất mà chúng tôi nói chuyện với nhau là vấn đề lao động Việt với việc Việt Nam đang đàm phán để gia nhập TPP. Với một cuộc gặp theo hình thức không chính thức như thế thì tôi có nhiều thời giờ để trình bày về người lao động tại Việt Nam hiện nay: hiện trạng cũng như vấn đề mà chúng tôi quan tâm. Tôi cũng khẳng định với ông ấy một điều là dứt khoát chỉ khi nào người công nhân Việt Nam có quyền thành lập và tham gia vào những công đoàn độc lập bằng việc tự lựa chọn và tự đóng góp kinh phí, giám sát việc sử dụng nguồn kinh phí đó cũng như những nhân sự hoạt động trong công đoàn độc lập đó thì may ra câu chuyện về đời sống của người công nhân cũng như năng lực sản xuất của người công nhân Việt Nam mới có thể tiến bộ. Và chỉ khi đó một nước như nước Mỹ mới có thể yên tâm để coi Việt Nam như một đối tác bình đẳng ở một mức độ tối thiểu trong những yêu cầu rất cơ bản để có thể gọi là đối tác kinh tế với nhau được.”

Ước nguyện của công nhânCó thể nói nhiều công nhân tại

Việt Nam hiện nay phải lo toan cho cuộc sống và ý thức của họ về một công đoàn hoàn toàn độc lập nhằm có thể đấu tranh hiệu quả cho quyền lợi công nhân vẫn chưa cao.

Điều này được cô Đỗ thị Minh Hạnh, người bị kết án tù vì từng giúp công nhân biểu tình đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, thừa nhận như sau: “Về ý thức của người công nhân thì theo từng giai đoạn cũng phát triển hơn, cho đến lúc này người công nhân cũng hiểu biết nhiều hơn; tuy nhiên người công nhân còn hạn hẹp họ chưa hiểu họ phải làm như thế nào để có công

đoàn độc lập và công đoàn độc lập vận hành như thế nào. Vì từ xưa đến nay chưa hề có một công đoàn độc lập để họ có thể hình dung được công đoàn độc lập thực sự như thế nào. Họ vẫn còn mơ hồ giữa một công đoàn do nhà nước đặt ra và công đoàn độc lập. Họ cũng nghĩ những công đoàn này thuộc phe cánh giới chủ nhiều hơn là bảo vệ công nhân. Cho nên đây là vấn đề mình phải làm thế nào cho họ hiểu công đoàn độc lập và ý nghĩa của nó.

Ngoài quyền của người lao động còn quyền và lợi ích của người làm về công đoàn nữa. Bởi vì một số người làm công đoàn ở một số công ty, thực chất họ chưa hiểu gì về luật công đoàn và những quyền hạn cho công việc của họ.”

Tuy nhiên đối với những công nhân có ý thức thì đối với họ việc hình thành nên công đoàn độc lập là một yêu cầu bức thiết: “Tôi nghĩ nên tạo điều kiện để công nhân có công đoàn độc lập để khi có việc gì, có bất công gì thì nghiệp đoàn đó sẽ đứng về phía họ.”

Thực tếTheo ông Trương Minh Đức,

một thành viên khác của Lao Động Việt, đây là lần thứ ba nhóm của ông có cơ hội làm việc với phía Hoa Kỳ về vấn đề công đoàn độc lập tại Việt Nam.

Và trong lần làm việc vừa qua ở Sài Gòn, ông Trương Minh Đức nêu ra những thực tế về tình trạng công đoàn ở Việt Nam, dù rằng theo yêu cầu của TPP, cơ quan chức năng của chính phủ Hà Nội sẽ cho hình thành những công đoàn được gọi là độc lập: “Chúng tôi cũng trả lời rằng việc thành lập công đoàn trong công ty thì chính quyền Việt Nam đã có từ lâu rồi chứ không phải mới đây. Thế nhưng công đoàn đó không độc lập và dưới sự quản lý của Liên đoàn Lao động Việt Nam, mà Liên đoàn Lao động Việt Nam lại dưới sự chỉ đạo của đảng thì theo tôi đây không phải là công đoàn độc lập. Bây giờ họ đồng ý theo điều kiện của TPP thì chẳng khác nào họ chỉ đổi tên thôi; chứ

còn nếu điều kiện họ cho thành lập trong phạm vi công ty thì không được liên kết với công đoàn độc lập khác ở bên ngoài hoặc liên hệ với các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người lao động quốc tế. Đó cũng là hình thức cô lập các công đoàn độc lập mà sắp tới đây Việt Nam đưa ra. Theo tôi đó là những công đoàn độc lập giả hiệu và tôi không đồng ý với quan điểm của chính phủ Việt Nam đưa ra như thế.

Hiện nay điều kiện đặt ra rất khó khăn cho công nhân tại Việt Nam. Kể từ khi ‘có’ TPP thì họ thắt chặt an ninh trong các công ty, xí nghiệp; cũng như cho côn đồ giả dạng vào làm công nhân, tạo ra những cuộc đình công, lãn công giả để qui chụp có hình thức chống đối hay có ý tưởng thành lập công đoàn độc lập nhằm loại dần.

Khi họ hứa hẹn với thế giới, với các tổ chức lao động thế giới và khi được rồi thì quyền lợi của công nhân cũng trở lại như xưa ”

Cô Đỗ thị Minh Hạnh cũng cho biết về thực tế hiện nay ở Việt Nam:

“Ở Việt Nam hiện nay họ cũng cho những công đoàn cơ sở nhưng phải thuộc công ty mà không có sự liên kết với những công đoàn trong ngành với nhau. Đó là một khó khăn để có thể bảo vệ quyền lợi cho người công nhân; bởi vì công đoàn thuộc công ty và nằm trong hệ thống công ty đó thì vẫn bị sự chi phối của giới chủ cũng như của chính quyền nên không thể bảo đảm được quyền lợi chính đáng cho người công nhân.

Bên cạnh đó, theo một số điều tra của Lao Động Việt, đã thấy hoạt động công đoàn giả để che mắt thế giới. Chẳng hạn như cũng lập ra công đoàn nhưng không tổ chức bầu cử mà chỉ đưa ra danh sách mang đến từng phòng yêu cầu công nhân ký tên ủng hộ cho người vào công đoàn. Khi công đoàn đó được hình thành cũng không có nhiệm vụ, quyền nào cao để thực hiện đúng nghĩa vụ của người hoạt động công đoàn. Họ chỉ đi vòng ngoài như ‘con chốt’ của một công đoàn lớn hơn; họ chỉ như là người ‘tạp vụ’ ở

Số 227 Trang 29

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

ngoài thôi. Đây là hành động đánh lừa phía bên ngoài.”

Một yêu cầu được những nhà hoạt động công đoàn tham gia đợt làm việc với ông James Greene vừa qua nêu ra là Washington cần yêu cầu Hà Nội trả tự do cho hai tù nhân Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.

Hai người này cùng bị bắt đưa ra tòa cùng với cô Đỗ Thị Minh Hạnh do giúp đỡ công nhân đòi hỏi quyền lợi của họ. Anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam và anh Đoàn Huy Chương 7 năm tù.

(Bài tham khảo)ĐÀM PHÁN SONG

PHƯƠNG TPP: VIỆT NAM ĐÃ CHẤP NHẬN CÔNG

ĐOÀN ĐỘC LẬP *10-9-2015

LTS: Nhân Diễn đàn Kinh tế Mùa Thu tổ chức ngày 27-8 tại Thanh Hóa bàn về chủ đề hội nhập và phát triển bền vững, nhà báo Tư Giang trao đổi với Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên về những vấn đề lao động khi tham gia các FTA.

Hỏi: Không còn cửa nào phát triển, nếu… Việt Nam đã và sẽ ký 15-16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trở thành quốc gia “nhất thế giới” trong việc tham gia các thỏa thuận thương mại. Vì sao chúng ta lại tham gia quá nhiều các FTA thế, trong khi phần lớn các nước khác đâu dám làm vậy?

Đáp: Chúng ta không tham gia các FTA không được. Tình thế buộc chúng ta làm vậy. Các quốc gia khác họ tự cân đối được; còn nền kinh tế của Việt Nam có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 1,8 GDP, chúng ta không còn cửa nào phát triển, nếu không mở ra bên ngoài. Sức mua của thị trường nội địa quá thấp. Ngay cả so với Lào thì sức mua của ta cũng rất kém. Chẳng hạn, một hộ gia đình của Lào ở thành phố có ít nhất 1 xe ô tô, nhà ở ít nhất 500 m2; còn Việt Nam chúng ta một hộ gia đình ít nhất có 1 xe máy, và 50 m2. Chỉ tính sơ bộ đã thấy sự khác biệt. Tức là, tình thế

hiện nay chỉ có hai lựa chọn, một là mở cửa, hai là chết.

Nhưng, các FTA, nhất là Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng mang lại những trò chơi khốc liệt khg chỉ trong kinh tế, thưa ông?

Thực tế thì nó sẽ còn khốc liệt hơn chúng ta nghĩ vì các FTA sẽ còn tác động đến các tổ chức chính trị, xã hội mà lâu nay chúng ta nghĩ nó là duy nhất của Việt Nam. Ví dụ như như quyền tự do lập hội và quyền thương lượng thỏa ước lao động. Chúng ta nghĩ rằng, chỉ có Đảng là người chăm lo mọi lợi ích của người lao động.

Nhưng nếu Đảng và các tổ chức chính trị xã hội đi cùng không tự vươn lên, không trở thành thỏi nam châm để thu hút người lao động, thì người lao động họ sẽ tách ra và đi theo guồng máy của lực hút khác. Những thách thức đó còn khốc liệt hơn nhiều, thách thức toàn diện, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà sang cả chính trị,…

VN tuyên bố là kết thúc đàm phán song phương với các quốc gia TPP. Theo ông, chúng ta có quá dễ dàng không, chẳng hạn như với các điều khoản về lao động?

Các yêu cầu trong TPP đều là mục tiêu mà VN phấn đấu xây dựng. Ví dụ, điều kiện lao động yêu cầu người lao động không làm việc quá 48 tiếng trong tuần; hay chỗ làm việc cũng quy định điều kiện vệ sinh, ánh sáng thế này; hay không có lao động trẻ em. Những yêu cầu đấy hiện nay chúng ta đang phấn đấu. Đảng còn đấu tranh yêu cầu các chủ lao động cải thiều điều kiện làm việc cho người công nhân, cải thiện điều kiện ăn ở trong khu ở của người lao động. Đến mức nào đó, chúng ta thấy mục tiêu ta đang phấn đấu trùng với tiêu chí, giới hạn kỹ thuật mà tổ chức chúng ta định gia nhập đặt ra. Đấy chính là quyền mưu cầu hạnh phúc của con người.

Thưa ông, những cam kết về lao động và công đoàn trong TPP cũng chỉ là lặp lại những cam kết của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà Việt Nam là thành viên. Ông có thể vắn tắt những cam kết này?

VN trở thành thành viên của ILO năm 1998 sau khi đạt được thỏa thuận lùi thời gian thực hiện lại, tức có lộ trình. Có 13 công ước của ILO, trong đó, chúng ta đã và đang thực hiện 8, và 5 chưa thực hiện.

Có hai công ước quan trọng nhất. Thứ nhất là Công ước 87 về quyền tự do lập hội của người lao động ở cơ sở, hay nói nôm na là quyền lập công đoàn cơ sở. Một nhà máy có thể có nhiều công đoàn, như công đoàn công chức, công đoàn công nghiệp, công đoàn hóa chất, hay thậm chí là hội thợ may quê Nghệ An,… Người lao động được tự do gia nhập các tổ chức ấy, hoặc là họ tự lập ra một tổ chức và chính quyền phải chấp nhận. Họ có quy chế, có đăng ký, và các tổ chức ấy được đối xử bình đẳng.

Thứ hai là Công ước 107, khi công đoàn tập hợp được trên 50% người lao động thì họ có quyền liên kết lại để ký với chủ thỏa ước lao động; và nếu cần, họ có thể đình công, hay kêu gọi đình công hợp pháp. Công đoàn này có thể hỗ trợ công đoàn khác. Họ liên kết ngang, liên kết dọc. Trong các công ước của ILO, thì hai công ước trên là đáng lưu tâm nhất…

Theo thông tin của ông, VN có được hưởng ân hạn trong cam kết về công đoàn và lao động hay khg?

Chúng ta cam kết thế, phải luật hóa các cam kết đó, và phải thực hiện 24 tiếng sau khi phê chuẩn TPP. Điều đó cũng giống như đến ngày 1-1-2018 thì tất cả các ân hạn trong WTO sẽ hết hiệu lực với VN. Lúc ấy thì nghiễm nhiên họ công nhận VN là nền kinh tế thị trường. Việc công nhận hay không công nhận lúc ấy không còn quan trọng nữa bằng việc phải tôn trọng quy định của WTO. Chúng ta phải đối mặt với tình trạng Chính phủ bị doanh nghiệp kiện, và phải hầu tòa.

Điều lo ngại nhấtVậy vì sao là thành viên của ILO

mà những cam kết đó lại không được chúng ta thực hiện, theo ông?

Đến thời điểm này thì thế và lực trong nước của chúng ta mới cho phép làm. Nó phải có căn cứ. Đến

Số 227 Trang 30

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nay, chúng ta có Hiến pháp 2013, đưa quyền con người lên chương đầu tiên; Hiến pháp 1992 thì quyền con người đứng ở phía cuối. Đến thời điểm này chúng ta đã hiểu rõ hơn quyền tự do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc, và quyền sống của một con người. Và chúng ta tin là chúng ta đã hiểu hội nhập, và chúng ta chấp nhận cuộc chơi ấy.

Nhưng tiến trình dân chủ hóa có thể đến ngay lập tức vì TPP có hiệu lực ngay lập tức. Ông có lo ngại điều gì không?

Thực ra là (tôi) sợ tổ chức của chúng ta không thay đổi ngay được. Cái chúng ta lo ngại nhất là tổ chức công đoàn trong việc tập hợp người lao động. Trong suốt thời gian dài, chúng ta đã hành chính hóa bộ máy công đoàn. Họp cái gì cũng phải có bộ tứ đảng, chính, công, thanh, và quyết thay mọi mong muốn của công nhân. Chúng ta đã quen cái nếp là một người nghĩ cho cả nghìn người. Bây giờ không thể thế được nữa, một người phải xin ý kiến của 1.000 người.

Chúng ta vẫn thực hiện chế độ đại diện, nhưng phương thức thực hiện chế độ đại diện đó phải khác. Trước là tôi (công đoàn) nghĩ cho ông, tôi nói cho ông, vì ông bầu tôi làm đại diện; nhưng giờ thì khác, tôi chỉ bầu ông làm đại diện khi ông thỏa thuận với tôi những vấn đề ông đại diện. Nó khác trước. Đến bây giờ, trình độ xã hội, nhận thức của chúng ta lên hẳn bậc như thế.

Ông có vẻ lạc quan. Nhìn vào xã hội hiện nay, ông thấy nó đã đủ chín để chấp nhận những điều kiện đó chưa?

Nói thật là chưa. Phải nói, ở đây người lao động chưa được chuẩn bị. Chúng ta thiếu một kiến thức công nghiệp. Nhiều lần, tôi đi thực địa, hỏi các bạn công nhân tuổi con, cháu, vì sao không vào sống trong khu tập thể của các nhà máy của các hãng đầu tư lớn, mà lại đi ra ngoài chui rúc trong các khu nhà trọ? Lý do cực kỳ lãng xẹt. Họ bảo vào đó gò bó lắm chú ạ, về sau 11h đêm là bảo vệ không cho vào. Rồi họ không cho chúng cháu đun nấu, rồi

lại bắt chúng cháu ra ăn ngoài đầu hành lang. Chú bảo đang uống rượu, mà lại phải ra đầu hành lang thì uống cái gì. Ngồi nhậu ở sàn đây mới vui chứ. Tôi mới hỏi, họ bắt về ngủ trước 11g là tốt hay xấu, sáng mai 6g đã vào ca rồi, mà 1-2g sáng cậu chưa ngủ, rượu chè, nhậu nhẹt thì mai làm hỏng đồ của họ thì sao? Các cháu không trả lời được.

Khi không có nếp sống công nghiệp, thì anh hoàn toàn sống bằng bản năng. Hỏi, tại sao cháu không đi làm? Đáp: không thích! Thế thì chết rồi. Hơn nữa, mạng xã hội cũng đang bôi mỡ cho kiến đốt.

Ông từng chứng kiến biểu tình vì điều 60 Luật Bảo hiểm XH. Trước thực tế trong TPP, liệu có biểu tình liên miên gây đình đốn sản xuất?

Hình dung của bạn với tư cách phóng viên phong phú quá. Đừng nghĩ người dân sẽ biểu tình tràn lan; mà còn

chính quyền nữa chứ. Chính quyền để làm gì? Tôi ăn lương như thế, thì làm gì trong tình huống đó? Không nên lo lắng quá chuyện này.

Liên quan đến Điều 60, tôi muốn nói thêm, đây là thỏa hiệp quá mức của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, dựa trên năng lực giải quyết điểm nóng quá yếu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nên mới dẫn đến chuyện này. Điều 60 là xu hướng tất yếu của nhà nước pháp quyền vì dân. Không có quốc gia nào mà Nhà nước dám nói với dân: thôi, kệ, sau này sau 60 tuổi các ông muốn sống thế nào là chuyện của các ông. Không một nhà nước nào ăn tiền thuế của dân mà dám nói với dân như thế. Vấn đề là công tác tuyên truyền chưa đúng …

Ông có bất ngờ khi VN đã tuyên bố kết thúc đàm phán song phương với các quốc gia, nhất là Hoa Kỳ, nhất là trong chuyện vượt qua chương về công đoàn và lao động?

Cố vấn pháp luật của một đoàn đàm phán ngồi riêng nói với chúng tôi: tại sao các ngài cứ lo về cái điều mà chúng tôi có bắt các ngài làm ngay sáng hôm sau đâu. Cam kết ở

đây là để các ngài xây dựng luật, phù hợp với các hệ thống luật khác của các ngài. Các ngài có thể đồng ý cho công nhân thành lập công đoàn, nhưng các ngài quy định, người đứng ra thành lập công đoàn cơ sở đó phải 25 tuổi trở lên; phải làm việc trong doanh nghiệp đó ít nhất 3 năm; không có tiền án, tiền sự; có gia sản ít nhất bằng này, vì có gia sản mới lấy tiền đó đi hoạt động được, mà không phải lấy đóng góp từ người lao động. Xong 4 điều ky thuật đó, lại quy định tiếp là người đó phải lấy được ít nhất 10% ý kiến của người lao động ở doanh nghiệp, họ ký vào đây đồng ý, thì Nhà nước mới cho ông lập. Nói thực ra là nhiều người Việt Nam cũng nghĩ đến điều này…

Theo Tư Giang (Vietnamnet)* VNTB đặt lại tiêu đề gốc:

'Chúng ta chỉ còn hai lựa chọn, mở cửa hay là chết'

Liên quan đến vụ một số tàu cá của ngư dân Kiên Giang đang đánh bắt trên biển thì bị tàu vũ trang nước ngoài tấn công khiến 2 lái tàu thương vong, chiều 14-9, đại tá Trần Quốc Lập, Phó chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang cho biết vụ việc vẫn đang được các lực lượng chức năng tích cực điều tra.

Điên cuồng đuổi bắn tàu cá Việt Nam

Kết quả điều tra sơ bộ của các cơ quan chức năng Kiên Giang cho thấy khoảng 15g ngày 11-9, trong lúc 3 cặp cào đôi (gồm 6 chiếc tàu đánh cá) của ngư dân Kiên Giang đang bủa lưới thì xuất hiện một tàu cao tốc trang bị súng máy trước mũi, trên tàu chở theo 6 người mặc đồ rằn ri.

Chiếc tàu vũ trang này tiếp cận hai chiếc tàu (chưa rõ số hiệu) của ông Bùi Tấn Minh (ngụ số 9 đường Trần Chánh Chiếu, P. Vĩnh Thanh Vân, TP Rạch Giá) trước tiên, khống chế bắt giữ thuyền trưởng tên

Số 227 Trang 31

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nam, là 1 trong 2 thuyền trưởng của cặp tàu.

Tàu vũ trang tiếp tục đuổi theo cặp tàu số hiệu KG-94811 TS và KG-94812 TS của ông Trần Văn Sáng (ngụ xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, Kiên Giang). Khi tiếp cận cặp tàu này, tàu vũ trang phát lệnh bằng tiếng Việt qua bộ đàm nội dung: “Yêu cầu tàu Việt Nam dừng lại, không dừng sẽ bắn chết…”.

Vừa phát lệnh qua bộ đàm, tàu vũ trang vừa nã đạn bắn liên tục khoảng 15 phút vào tàu số hiệu KG-94811 TS do ông Nguyễn Hùng Cường làm thuyền trưởng. Thấy ông Cường trúng đạn gãy vỡ xương đùi, tàu vũ trang tiếp tục đuổi bắn tàu cá số hiệu KG-94812 TS trong khoảng 10 phút nữa.

Sau cùng, phát hiện cặp tàu số hiệu KG-94058 TS và KG-94059 TS của ông Dương Thế Truyền (ngụ phường Vĩnh Bảo, Rạch Giá) ở gần đó, tàu vũ trang đuổi bắn liên tục chừng 15 phút. Sau khi phát hiện 1 trong 2 thuyền trưởng của cặp tàu này là anh Ngô Văn Sinh gục chết trên vôlăng, tàu vũ trang rời đi. Sau đó không lâu, không hiểu vì lý do gì, tàu vũ trang quay trở lại thả thuyền trưởng tên Nam trở về tàu cá, thu giữ toàn bộ thiết bị liên lạc và quay đầu về đất liền.

Nổ súng tàn bạo với ý đồ hủy diệt

Chiều 14-9, không khí tang thương bao trùm căn nhà tôn của ngư dân Ngô Văn Sinh. Nhiều người hàng xóm của anh Sinh đã bật khóc trước cái chết đột ngột của anh, bỏ lại vợ con không nơi nương tựa. Cũng theo bà con hàng xóm, anh Sinh sống rất mực hiếu thuận và hiền hậu.

Nhiều ngư dân đi trên tàu do anh Sinh làm thuyền trưởng đều lên tiếng phản đối hành động nã đạn vào tàu cá của ngư dân.

Họ nói: "Nếu chúng tôi có vi phạm thì nên thông báo, đẩy đuổi chúng tôi về vùng biển Việt Nam. Còn muốn bắt giữ để đòi tiền chuộc cũng đâu đến mức phải nổ súng với ý đồ hủy diệt như vậy".

Theo đại tá Trần Quốc Lập, mặc

dù vụ việc đang trong quá trình điều tra nhưng rõ ràng việc nổ súng bắn vào tàu đánh cá của ngư dân là không thể chấp nhận được, bởi đây là hành động vô nhân đạo theo luật pháp quốc tế và luật pháp của các quốc gia ven biển trong khối ASEAN.

“Qua vụ việc này, chúng tôi một lần nữa khuyến cáo bà con ngư dân ta tuyệt đối chấp hành quy định pháp luật trên biển của Việt Nam và các nước láng giềng, nhằm tránh những thiệt hại không đáng có về tài sản, tính mạng, kể cả quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các nước” - đại tá Lập nói.

Về tình trạng sức khỏe của ngư dân Nguyễn Hùng Cường, bác sĩ Trương Công Thành - Phó giám đốc Bệnh viện đa khoa Kiên Giang cho biết đã tạm thời xử lý tương đối ổn phần vết thương bị bắn.

Tuy nhiên, do vết thương phức tạp nên cần tích cực theo dõi trong những ngày sắp tới. Nhiều khả năng, sẽ phải chuyển bệnh nhân Nguyễn Hùng Cường lên tuyến trên để tiếp tục chữa trị.

Ngư dân Nguyễn Hùng Cường không có bảo hiểm y tế, hoàn cảnh gia đình cũng hết sức khó khăn.

Khoa Nam (Tuổi Trẻ) TÀU CÁ VIỆT NAM BỊ BẮN

TRÊN BIỂNBBC 14-09-2015

Bốn tàu cá Kiên Giang bị hải tặc nước ngoài bắn hồi tuần trước làm một người chết và một người bị thương nặng.

Các tàu này lúc đó đang đánh bắt trên ‘ngư trường truyền thống giáp ranh giữa Việt Nam, Malaysia và Thái Lan’ thì bị hai ca nô xả súng tấn công. Chưa rõ hai ca nô này là của nước nào. Một nhà báo địa phương đề nghị không nêu tên, người tiếp cận với nạn nhân trong bệnh viện, cho BBC biết vụ nổ súng khiến tài công của một tàu là Ngô Văn Sinh, 38 tuổi, chết tại chỗ.

Tài công Nguyễn Hùng Cường của một tàu khác, bị gãy xương đùi và hiện đang điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.

Hôm 13-9, VnExpress dẫn lời thuyền viên Đỗ Nhật Nam, người có mặt trên một trong các tàu bị tấn công, cho hay "trên ca nô hải tặc có khoảng sáu người được trang bị nhiều vũ khí, có cả súng lớn. Tất cả hải tặc đều dùng mặt nạ che kín mặt". Bốn chiếc tàu ‘bị trúng nhiều đạn hư hỏng nặng’ đã được đưa sửa chữa ở cảng Sông Đốc, Cà Mau.

Trong khi đó, Đại tá Phạm Quang Oánh, Phó Chủ nhiệm Chính trị Cảnh sát biển VN, xác nhận với BBC Tiếng Việt rằng có vụ tấn công. Tuy vậy, ông nói: “Vụ việc đang trong quá trình điều tra và xác minh lời khai của ngư dân nên chúng tôi hiện chưa thể công bố chi tiết có mấy tàu cá Việt Nam gặp nạn và hải tặc là của nước nào. Tôi chỉ có thể nói rằng các báo trong nước đưa tin về vụ tấn công này quá sớm với những chi tiết chưa thật chính xác”. ‘Đang trong quá trình điều tra’

Hôm 14/9, báo Thanh Niên mô tả: “Thời điểm bị tấn công, tàu KG 49059 do ông Sinh làm tài công đang đánh bắt trong vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam, Malaysia và Thái Lan thì bất ngờ bị một ca nô có trang bị súng máy rượt theo”.

Báo này dẫn lời ngư dân Chao Văn Sáng, 37 tuổi, ngụ xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, người có mặt trên tàu khi xảy ra vụ nổ súng:

“Nhìn qua khe cửa hầm tôi thấy chiếc ca nô cắm cờ Thái Lan, trên ca nô có ba người, trong đó có hai người mặc đồng phục màu xanh, một người không mặc đồng phục, đội mũ tai bèo ôm súng máy. Chiếc ca nô lao về phía trước song song với tàu của chúng tôi, chỉ cách khoảng 15-20m. Họ không nói một tiếng nào rồi chĩa súng máy bắn thẳng vào ca bin”.

Cùng ngày, báo Tuổi Trẻ cho hay "ông Sáng khẳng định với Công an huyện Châu Thành, Kiên Giang, rằng cách đây gần hai tháng, chính ông cũng từng bị chiếc tàu cao tốc nói trên bắn dọa xuống nước, sau đó khống chế kéo đi lòng vòng ngoài

Số 227 Trang 32

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

biển để đòi tiền chuộc tàu lên tới 3,2 tỷ đồng".

“Trên tàu cao tốc có một người mặc thường phục nói tiếng Việt rất rành. Mấy lần trước họ chỉ bắn dọa đòi tiền chuộc, lần này không ngờ họ ra tay bắn thẳng vào buồng lái”, ông Sáng được Tuổi Trẻ dẫn lời. ‘Cần lên tiếng mạnh mẽ hơn’Hôm 14/9, trả lời phỏng vấn của BBC, luật sư Lê Quốc Quân, nhà hoạt động chống Trung Quốc xâm lấn biển đảo Việt Nam và nhiều lần lên tiếng về việc bảo vệ ngư dân, cho biết: “Vụ tấn công ngư dân mới nhất cho thấy Chính phủ VN cần lên tiếng mạnh mẽ và có hành động cụ thể hơn để bảo vệ ngư dân, lãnh hải. Trước đây, người phát ngôn bộ Ngoại giao chỉ lên tiếng phản đối và chung chung, thậm chí chỉ đề cập ‘tàu lạ, nước lạ’. Trong bối cảnh các nước trong khu vực đều leo thang vũ lực, như Indonesia đốt và đánh chìm tàu cá nước ngoài, theo tôi, Việt Nam cần điều tra dứt điểm các vụ tấn công ngư dân. Khi đã xác định quốc gia nào đứng sau hải tặc thì cần lên án mạnh mẽ và triệu hồi đại sứ của họ”, ông Quân nói.

Vụ tấn công ngư dân xảy ra chỉ vài ngày sau khi Chính phủ Việt Nam vừa ban hành Nghị định 71/2015 cho phép lực lượng tuần tra dùng vũ khí truy đuổi tàu nước ngoài xâm phạm lãnh hải. Có hiệu lực thi hành từ ngày 20/10, Nghị định này về quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biên giới biển nước Việt Nam.

Theo đó, “trong trường hợp phát hiện vi phạm, nghị định cho phép các lực lượng tuần tra, kiểm soát trong khu vực biên giới biển có quyền truy đuổi phương tiện đường thủy nước ngoài trong nội thủy và lãnh hải Việt Nam.

Việc truy đuổi có thể tiến hành liên tục, không ngắt quãng ra đến ngoài ranh giới lãnh hải hoặc vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam, và chấm dứt khi phương tiện bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia, vùng lãnh thổ khác”.

“Khi các lực lượng chức năng đã sử dụng tín hiệu yêu cầu đối tượng

vi phạm dừng lại để kiểm tra nhưng đối tượng không chấp hành, người chỉ huy lực lượng truy đuổi có quyền sử dụng các công cụ hỗ trợ, vũ khí theo quy định của pháp luật”, Nghị định do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 3/9 nêu rõ.

CHỈ BÁN ĐI MỘT PHẦN NHỎ

ĐẤT DƯƠNG NỘI, CHÍNH QUYỀN ĐÃ THU LÃI XẤP XỈ

183 TRIỆU ĐÔLA MỸ!Nguyễn Văn Hải, 12-09-2015Đây chính là nguyên nhân mà

chính quyền, công an bất chấp luật pháp, dùng mọi thủ đoạn, bạo lực, dùi cui, gậy gộc… và nhà tù để cướp đoạt ruộng đất của nông dân Dương Nội.

Trong khi người dân không có đất để canh tác, rơi vào cảnh thất nghiệp và nghèo đói, thì giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất quận Hà Đông, ông Nguyễn Đình Huệ đã đưa ra đấu giá 72 lô đất có diện tích lên đến 1.797,97 m2 và 1803,5 m2.

Đền bù cho dân Dương Nội với giá 201.600 VND/1m2 (tương đương 3 tô phở Hà Nội) và đưa ra đấu giá, giá khởi điểm đã là 31.500.000 VND.

Bất kỳ ai cũng có thể mua, trong đợt đấu giá này số diện tích 72 lô cộng lại là 129.652,92 m2.

Tổng số tiền thu về theo giá khởi điểm là: 4.084.066.980.000 VND (hơn bốn nghìn tỷ đồng tương đương xấp xỉ 184 triệu đô la Mỹ)

Trừ đi giá đền bù trên số diện tích 129.652,92m2 là:

26.156.028.672 VND (hơn 26 tỷ đồng) + các khoản hỗ trợ chuyển đổi nghề 30.000 VND/1m2, cơ sở hạ tầng đường, trường, trạm, thuế… thì lợi nhuận mà chính quyền thu về được trên số diện tích đất này là xấp xỉ 183 triệu đô la Mỹ (USD).

Bản thông báo mời thầu và đấu giá do ông Nguyễn Đình Huệ đóng dấu gửi đến: - Sở TN & MT thành phố Hà Nội.- Trung tâm GDĐĐ và PT thành phố.- TT quận ủy, HĐND, UBND quận.- Trung tâm dịch vụ và bán đấu giá - Sở Tư pháp.- Các báo, đài: HN Mới, Kinh tế đô thị, Truyền hình HN1, truyền thanh quận.- UBND phường Dương Nội.

Chỉ riêng sự việc này đã cho thấy rõ hành vi cướp đoạt đất đai trắng trợn của chính quyền quận Hà Đông.

Và chỉ tính theo giá khởi điểm đã cho thấy lợi nhuận kinh tế khổng lồ thu lại từ việc cướp đoạt ruộng đất của nông dân Dương Nội.

P/S: Phần diện tích 72 lô đất đấu giá này chỉ là phần nhỏ so với tổng

diện tích thu hồi trên đất Dương Nội, và là siêu nhỏ so với tổng số diện tích thu hồi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

N. V. H.Nguồn: https://www.facebook.com/dieucay1300921?pnref=story

Số 227 Trang 33