VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM · Nghiên cứu kinh nghiệm của triết học...

146
VIN HÀN LÂM KHOA HC XÃ HI VIT NAM HC VIN KHOA HC XÃ HI ĐÀO VŨ VŨ TƯ TƯỞNG NHÂN BN TRONG LCH STƯ TƯỞNG HÀN QUC CUI THK19 ĐẦU THK20 LUN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HC HÀ NI - 2019

Transcript of VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM · Nghiên cứu kinh nghiệm của triết học...

  • VIỆN HÀN LÂM

    KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

    HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

    ĐÀO VŨ VŨ

    TƯ TƯỞNG NHÂN BẢN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG HÀN QUỐC

    CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

    HÀ NỘI - 2019

  • VIỆN HÀN LÂM

    KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

    HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

    ĐÀO VŨ VŨ

    TƯ TƯỞNG NHÂN BẢN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG HÀN QUỐC

    CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20

    Chuyên ngành : Triết học

    Mã số : 92 29 001

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

    NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ THỊ LAN

    HÀ NỘI - 2019

  • MỤC LỤC

    MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

    CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

    TỚI LUẬN ÁN ................................................................................................ 6

    1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới bối cảnh Hàn Quốc cuối thế kỷ

    19 đầu thế kỷ 20 ............................................................................................. 6

    1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới tư tưởng nhân bản Hàn Quốc

    cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ........................................................................ 23

    1.4. Những vấn đề nghiên cứu đặt ra ........................................................ 39

    CHƯƠNG 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN BẢN HÀN

    QUỐC CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20 ............................................. 42

    2.1. Bối cảnh xã hội Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ..................... 42

    2.2. Tiền đề lý luận của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu

    thế kỷ 20 ...................................................................................................... 49

    2.3. Về thuật ngữ “tư tưởng nhân bản” trong luận án .................................. 67

    CHƯƠNG 3. MỘT SỐ TƯ TƯỞNG NHÂN BẢN TIÊU BIỂU Ở HÀN

    QUỐC CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20 ............................................. 72

    3.1. Tư tưởng nhân bản của Choe Je U ........................................................ 72

    3.2. Tư tưởng nhân bản của Ham Seok Heon .............................................. 89

    CHƯƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ

    TƯỞNG NHÂN BẢN HÀN QUỐC CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20

    ....................................................................................................................... 110

    4.1. Đặc điểm của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 .. 110

    4.2. Giá trị và hạn chế của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ

    20 ......................................................................................................................... 113

    4.3. Ý nghĩa của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ..... 120

    KẾT LUẬN .................................................................................................. 131

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 136

    DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN.141

  • 1

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Con người là một trong những vấn đề trọng tâm của các nền triết học. Sự thay

    đổi trong cách hiểu về con người kéo theo sự thay đổi toàn bộ cách thức nhìn nhận

    các vấn đề khác của con người. Những câu hỏi và trả lời về con người vẫn thường

    là tiêu chí để phân định các thời kì triết học cho lịch sử mỗi nền triết học.

    Trong một thời gian dài, triết học Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của triết học

    Trung Quốc với ba hệ thống cơ bản là Nho, Phật, Lão, trong đó vấn đề con người

    cũng không là ngoại lệ. Chỉ tới khi tiếp xúc với làn sóng phương Tây với tri thức

    khoa học kĩ thuật và tôn giáo, cùng tác động của khủng hoảng và biến động trong

    nội tại xã hội Jo Seon, triết học Hàn Quốc mới buộc phải mở rộng và đứng trước bài

    toán cởi mở thế giới tinh thần của chính mình. Sự gặp gỡ, va chạm với phương Tây

    diễn ra mạnh mẽ vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong quá trình đó, thế

    giới quan tam giáo lung lay trước sự biến đổi của xã hội, bộc lộ hạn chế trong việc

    giải thích thế giới cũng như thiết lập trật tự cho các mối quan hệ trong xã hội đang

    được mở rộng và trở nên phức tạp hơn. Đó cũng là thời kỳ tinh thần khoa học kỹ

    thuật phương Tây và Ki tô giáo du nhập vào lịch sử tư tưởng triết học tam giáo

    truyền thống.

    Chính trong cuộc gặp gỡ đầy biến động và bạo lực này cùng những hệ quả của

    nó mà việc định hình lại chính mình đã diễn ra trong tư tưởng triết học Hàn Quốc.

    Câu hỏi “ta là gì?” một lần nữa được các triết gia đặt ra trong quá trình suy tưởng và

    phản tư trước thời cuộc để từ đó hình thành một diện mạo mới cho thế giới tinh thần

    của người Hàn Quốc. Nghiên cứu chủ đề tư tưởng nhân bản của Hàn Quốc trong

    giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là để tìm câu trả lời cho câu hỏi trên, từ đó

    giúp ta hiểu thêm về thế giới tinh thần Hàn Quốc, cách người Hàn Quốc hiểu về tồn

    tại người qua triết học của họ.

    Sự tiếp xúc với phương Tây của Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 vừa là

    quá trình tan rã thế giới quan mang tính đẳng cấp của văn hóa Nho giáo đi cùng với

    quá trình phản tư lại triết học truyền thống của dân tộc, vừa là quá trình “Tây hóa”

  • 2

    của xã hội và tiếp nhận Ki tô giáo vào lịch sử tư tưởng triết học vốn có. Hệ quả của

    quá trình này là sự hình thành bốn trào lưu tư tưởng lớn: trào lưu Vệ chính xích tà

    được giới trí thức Tính lý học triển khai, trào lưu Khai hóa của giới trí thức Tây

    học mới, trào lưu tôn giáo bản địa của giới trí thức bình dân và trào lưu Ki tô

    giáo Hàn Quốc của giới trí thức thuộc hệ thống Ki tô giáo. Sự xuất hiện đa dạng

    các trào lưu tư tưởng cho thấy những tương tác đa dạng trong quá trình tiếp xúc

    với phương Tây. Tuy nhiên, một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới

    triết học Hàn Quốc giai đoạn này là ý niệm về tồn tại tuyệt đối đến từ Thiên

    Chúa giáo phương Tây. Trong bốn trào lưu tư tưởng, trào lưu tôn giáo bản địa

    mới và trào lưu Ki tô giáo Hàn Quốc là hai trào lưu hình thành từ sự tác động

    của tư tưởng về tồn tại tuyệt đối. Nếu như trào lưu Vệ chính xích tà có thái độ

    bài trừ và phê phán, trào lưu Khai hóa có thái độ tiếp nhận Thiên Chúa giáo vô

    điều kiện, thì hai trào lưu này có thái độ dung thông và thu dụng ý niệm này.

    Quá trình thu dụng và dung thông ý niệm về tồn tại tuyệt đối đã giúp triết học

    Hàn Quốc hình thành nên quan niệm mới về thế giới và con người, đây là điểm

    mấu chốt tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức về thế giới quan và nhân sinh

    quan của triết học Hàn Quốc giai đoạn này. Đó là việc hình thành ý niệm về con

    người với tư cách là một sinh mệnh tinh thần và nhân cách sáng tạo lịch sử. Do đó,

    khảo sát quá trình phản tư, xác lập lại chính mình và tiếp biến ý niệm về tồn tại

    tuyệt đối trong hai trào lưu này giúp ta có cái nhìn rõ hơn về quá trình hình thành ý

    niệm mới về con người hình thành trong giai đoạn này.

    Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, triết học phương Tây hiện đại

    phải đối mặt với sự xuất hiện con người đại chúng, nó là sự giải phóng con người

    khỏi ràng buộc duy lý sau khi nó được giải phóng khỏi ràng buộc của Ki tô giáo [7].

    Trong khi đó, triết học phương Đông, trong đó có triết học Việt Nam, sau khi va

    chạm, tiếp xúc, tiếp nhận triết học và văn minh phương Tây cũng đã hình thành con

    người cá thể, nhưng tính chất của mẫu hình này chưa thật đã định hình rõ nét. Trong

    bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và sự giao lưu và dịch chuyển con

    người đầu thế kỷ 21, vấn đề con người một lần nữa cần phải được đặt ra. Bởi với

  • 3

    quá trình tìm và hiểu về thế giới tinh thần của các nước khác cũng giúp ích cho

    quá trình đưa ra mẫu hình con người Việt Nam trong bản thân triết học Việt Nam.

    Nghiên cứu kinh nghiệm của triết học Hàn Quốc qua các triết gia Hàn Quốc giai

    đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 vừa là nghiên cứu cần thiết để trang bị tri thức

    triết học về đất nước và con người Hàn Quốc, vừa cung cấp tri thức để so sánh

    với triết học Việt Nam, vừa để trang bị thêm một kinh nghiệm tham khảo cho

    việc định hình mẫu hình con người Việt Nam trong thế kỷ 21.

    Như vậy, (1) vấn đề bản thể người là một vấn đề trọng tâm của triết học; (2)

    sáng tạo tinh thần của triết học Hàn Quốc trong quá trình tiếp xúc với ý niệm về

    tồn tại tuyệt đối qua Thiên Chúa giáo phương Tây giúp hình thành nên ý niệm

    mới về thế giới và con người trong trào lưu tôn giáo mới và Ki tô giáo Hàn Quốc

    như thế nào; (3) nhu cầu nhận thức về con người ở cấp độ cá nhân trong bối cảnh

    toàn cầu thế kỷ 21, là ba lý do để chúng tôi chọn Tư tưởng nhân bản trong lịch

    sử tư tưởng Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 làm chủ đề nghiên cứu

    trong luận án này.

    2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

    Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng nhân bản Hàn

    Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20; phân tích nội dung của một số tư tưởng nhân

    bản Hàn Quốc tiêu biểu trong giai đoạn này; nêu đặc điểm, đánh giá giá trị, hạn

    chế và ý nghĩa của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc giai đoạn này.

    Theo đó, nhiệm vụ của luận án là:

    - Làm rõ bản chất của bối cảnh chính trị, xã hội, tư tưởng Hàn Quốc cuối

    thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trong đó tư tưởng nhân bản được định hình.

    - Phân tích và luận giải nội dung tư tưởng nhân bản của một số nhà tư tưởng

    trong trào lưu tôn giáo mới và Ki tô Hàn Quốc giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế

    kỷ 20.

    - Khái quát đặc điểm, phân tích và làm rõ những giá trị, hạn chế, ý nghĩa

    của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

  • 4

    3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và cơ sở tư liệu của luận án

    Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng nhân bản Hàn Quốc giai đoạn

    cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu là Choe

    Je U - đại diện cho trào lưu tôn giáo mới và Ham Seok Heon - đại diện cho trào

    lưu tư tưởng Ki tô Hàn Quốc.

    Phạm vi nghiên cứu của luận án là bốn trào lưu tư tưởng xuất hiện trong

    giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, cụ thể hơn nữa là trào lưu Vệ chính xích

    tà, trào lưu Khai hóa, trào lưu tôn giáo bản địa mới và trào lưu Ki tô Hàn Quốc.

    Cơ sở tư liệu của luận án là các công trình nghiên cứu của học giả Hàn

    Quốc về lịch sử nói chung về giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, lịch sử tư

    tưởng triết học Hàn Quốc giai đoạn này; về hệ thống tư tưởng của các nhà tư

    tưởng tiêu biểu và trước tác của các nhà tư tưởng tiêu biểu giai đoạn này.

    4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

    Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học Marx và các phương pháp

    nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, quy nạp, khái quát hóa, lịch sử,

    thống nhất giữa logic và lịch sử, văn hóa, thông diễn, v.v...

    5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

    - Luận án khảo sát bối cảnh thời đại, tiền đề ra đời của tư tưởng nhân bản

    Hàn Quốc và chứng minh đây là sự “chủ động đối mặt với khủng hoảng và thể

    nghiệm cái mới” của người Hàn Quốc.

    - Luận án hệ thống và khái quát hóa tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ

    19 đầu thế kỷ 20 theo ba phương diện: quan hệ với cái tuyệt đối / vô hình, quan hệ

    với tha nhân / xã hội, quan hệ với chính mình.

    - Luận án chỉ ra những nội dung cụ thể của tư tưởng nhân bản của hai nhà tư

    tưởng tiêu biểu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là Choe Je U và Ham Seok Heon.

    Trong đó lần đầu tiên nhìn nhận tư tưởng Ki tô giáo của Ham Seok Heon theo mạch

    tiến trình lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc.

    - Luận án khái quát năm đặc điểm, nêu ra hai giá trị, phê phán hai hạn chế,

    luận giải hai ý nghĩa của tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

  • 5

    đối với lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc, một ý nghĩa lịch sử và một ý nghĩa hiện

    thời của tư tưởng này.

    6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

    - Hệ thống hóa quan niệm về tồn tại người và nội dung tư tưởng nhân bản của

    một số nhà tư tưởng Hàn Quốc tiêu biểu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

    - Khái quát đặc điểm, làm rõ giá trị, hạn chế và ý nghĩa của tư tưởng nhân bản

    Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trong lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc và

    lịch sử Hàn Quốc.

    - Cung cấp hiểu biết chuyên sâu về triết học Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế

    kỷ 20.

    - Đóng góp tri thức về triết học Hàn Quốc, phương pháp tư duy của người Hàn

    Quốc, về thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan trong tư tưởng triết học Hàn

    Quốc.

    - Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho ngành Hàn Quốc

    học nói riêng, nghiên cứu triết học Hàn Quốc và triết học nói chung.

    7. Kết cấu của luận án

    Luận án gồm phần Mở đầu, bốn chương nội dung, Kết luận, Danh mục các

    công trình đã công bố, Danh mục tài liệu tham khảo và Mục lục.

  • 6

    CHƯƠNG 1

    TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN

    1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới bối cảnh Hàn Quốc cuối thế kỷ 19

    đầu thế kỷ 20

    * Liên quan tới chính trị - ngoại giao Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

    Về tình hình chính trị Hàn Quốc giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có:

    Lịch sử Hàn Quốc (2005) của Ban biên soạn Giáo trình Hàn Quốc Học, Bài giảng

    về lịch sử cận đại Hàn Quốc (2007) của Hội [nghiên cứu] lịch sử cận đại Hàn Quốc.

    Các công trình này đã chỉ ra tiến trình diễn ra các sự kiện chính trong lịch sử cận đại

    Hàn Quốc. Đó là những biến động của xã hội Jo Seon với các nội dung về nền

    chính trị bằng đảng, chính trị thế đạo, các phong trào nông dân cuối thế kỷ 19. Tiếp

    theo là những sự kiện như Điều ước Gang Hwa do (1876) đánh dấu mốc mở cửa

    cho nước ngoài xâm nhập; Nhâm ngọ quân loạn (1882) của Heung Seong Đại viện

    quân và phái bảo thủ tiến hành để giành quyền kiểm soát quyền lực; Chính biến

    Giáp thân (1884) của những người chủ trương khai hóa và cải cách; Cách mạng

    nông dân Đông học năm 1894. Sau khi cách mạng nông dân Đông học bị dập tắt,

    hai thế lực nước ngoài là nhà Thanh và Nhật Bản đụng độ với nhau trong cuộc

    chiến Thanh - Nhật cùng năm. Nhà Thanh thất bại, Nhật Bản ám sát hoàng hậu

    Myong Seong để chấm dứt sự ảnh hưởng của nhà Thanh tới Jo Seon. Tháng 2/1896,

    vua Go Jong chạy sang Đại sứ quán Nga để tránh quân Nhật Bản. Vua đổi tên nước

    thành Đại Hàn đế quốc, kêu gọi Nga gửi quân tới Jo Seon. Năm 1904, cuộc chiến

    Nga - Nhật tiếp tục nổ ra trên đất Jo Seon. Nhật Bản tiếp tục giành thắng lợi và từng

    bước tiến hành hợp bang với Hàn Quốc qua con đường ngoại giao. Đến năm 1910,

    Hàn Quốc chính thức trở thành thuộc bang và chịu sự cai trị của đế quốc Nhật Bản.

    Ngày 1/3/1919, nổ ra phong trào biểu tình đòi độc lập trên toàn Jo Seon. Phong trào

    này thất bại. Bước sang những năm 1920, đế quốc Nhật Bản gia tăng khai thác

    thuộc địa, biến Jo Seon thành bàn đạp xâm nhập Đại lục. Các phong trào xã hội phát

    triển mạnh như phong trào báo chí và xuất bản cổ xúy cho tinh thần dân tộc và củng

  • 7

    cố dân tộc tính. Năm 1945, sau khi Nhật Bản thua trong thế chiến thứ 2, Hàn Quốc

    được giải phóng.

    Về quan hệ giữa Jo Seon và các nước phương Tây, các nước phương Tây và Jo

    Seon trong giai đoạn này có các công trình: Phương Tây và Jo Seon - lịch sử đối

    đầu của hai nền văn hóa lạ (1997) của Gang Je Eon; Tiếp nhận văn hóa phương

    Tây và cải cách cận đại (2004) của Viện nghiên cứu Quốc học, Đại học Yon Sei;

    Cuộc gặp với văn hóa phương Tây (2010) của Ủy ban biên soạn Quốc sử, Văn minh

    và dã man - Jo Seon thế kỷ thứ 19 qua nhãn quan của tha nhân (2008) của Jo Hyon

    Beom, v.v... Quá trình Jo Seon tiếp xúc với phương Tây được các công trình trên

    mô tả có thể đúc kết trong các từ khóa như: Tây học, Ki tô giáo và văn minh vật

    chất phương Tây. Trong giai đoạn này, mối quan hệ ban đầu là sự tiếp xúc của Jo

    Seon với phương Tây qua sách về khoa học được các nhà Thực học mang về từ nhà

    Thanh hồi thế kỷ 18, sau đó là sự phê phán, bài trừ Thiên Chúa giáo từ phía Nho sĩ

    và chính quyền Jo Seon vào thế kỷ 19 [41]. Sau khi mở cửa năm 1876, đặc biệt là

    sau khi tiến hành cải cách Giáp ngọ, việc tiếp nhận văn minh vật chất phương Tây,

    khoa học, lối sống, báo chí và đạo Tin lành diễn ra tích cực hơn [40]. Các tư tưởng

    như tư tưởng Ki tô giáo, hệ thống vạn quốc công pháp, thuyết Tiến hóa xã hội, tư

    tưởng nhân quyền là những khía cạnh tư tưởng được tiếp nhận trong quá trình tiếp

    xúc với phương Tây [63].

    Jo Seon trong con mắt của người phương Tây có thể được tổng kết qua các nội

    dung: chế độ chính trị bị lũng đoạn bởi tham ô, chính sách bế quan tỏa cảng, mê tín,

    lối tư duy chưa phân hóa, người dân có ý thức cộng đồng nhiều hơn châu Âu nhưng

    mất vệ sinh, lười biếng, thiếu tính chính xác, v.v..., Jo Seon hiện ra là một nước bán

    khai và cần phải được văn minh hóa trong mắt của các nhà truyền giáo người

    phương Tây [78]. Đặc biệt, về tôn giáo tại Jo Seon, các nhà truyền giáo nhận thấy

    các hình thức tôn giáo của người Hàn Quốc chủ yếu là tín ngưỡng dân gian như thờ

    thần tự nhiên, Lên Đồng, cầu phúc, phong thủy, ma quỷ, v.v... người Jo Seon được

    mô tả là có thái độ dựa dẫm vào tồn tại siêu việt và xuất chúng hơn mình, tin vào

    quan hệ tương thông giữa thần và người, muốn giải thoát tâm hồn khỏi đau khổ và

  • 8

    phiền não [63, tr. 224]. Người phương Tây cũng đánh giá người Jo Seon là những

    người “tự trọng và thấp kém” [95, tr. 141], họ cho rằng Jo Seon là nước của những

    người ở ẩn - tức là khá “đóng” về mặt văn hóa và bất lực trước nền chính trị bóc lột

    dân chúng [95, tr. 142] do thiếu năng lực tham gia vào chính trị [95, tr. 143].

    Trình bày về quan hệ giữa Jo Seon và Nhật Bản, Nhật Bản và Jo Seon có các

    công trình: Thuyết tiến hóa xã hội và tư tưởng xã hội thực dân (2003) của Park

    Seong Jin, Biến chuyển khuôn thức tư duy (paradigm) của Đông Á thế kỷ 19 và đế

    quốc Nhật Bản (2007) của Gang Sang Gyu; Nhận thức về ‘phương Đông’ của

    người Đông Á (2010) của Choe Won Sik, Paek Young Seo; Giáo trình Lịch sử Hàn

    Quốc cận hiện đại của Kim Kwang Nam chủ biên v.v... Từ những năm cuối của thế

    kỷ 19, Nhật Bản đã lấy nhiều cớ để tiến quân vào Jo Seon hay dùng nhiều thủ đoạn

    ngoại giao để yêu cầu Jo Seon mở cửa. Sau khi ép Jo Seon mở cửa, Nhật Bản dựa

    vào các hiệp ước đã ký kết để cùng triều đình Jo Seon đàn áp các cuộc nổi dậy trên

    đất Jo Seon, tranh giành quyền kiểm soát Jo Seon với nhà Thanh, sau đó là với Nga.

    Vào giai đoạn sau đó, khi Nhật Bản chiếm Jo Seon (1910) và xây dựng cơ sở vật

    chất cho quá trình xâm lược các nước khác, chính sách thống trị thực dân như

    thuyết ‘Nhật Tiên đồng hóa’ với nội dung về phương pháp đồng hóa được đăng

    công khai trên tờ Nhật báo hàng ngày, các cuộc triển lãm thể hiện một Nhật Bản

    vượt trội, nội dung về thuyết ‘Nội Tiên nhất thể’ và mâu thuẫn của nó được các nhà

    nghiên cứu Hàn Quốc phân tích, phê phán và lên án khá chi tiết [58].

    Cụ thể hơn về tình hình đô hộ của đế quốc Nhật Bản, Giáo trình Lịch sử Hàn

    Quốc cận - hiện đại (Kim Kwang Nam chủ biên) chỉ ra các giai đoạn của quá trình

    đô hộ: Giai đoạn thứ nhất (1910~1919),1 Nhật Bản tập trung vào xây dựng chính

    1 Giai đoạn cai trị thứ nhất (1910~1919): thực dân Nhật Bản xác lập cơ quan chính quyền thống trị là Tổng

    đốc phủ, xây dựng hệ thống hành chính, quân sự, trường học và tiến hành các hoạt động kinh tế. Tổng đốc

    phủ Jo Seon thực thi các chính sách đàn áp, cấm lập hội chính trị, đóng cửa các tòa báo xuất bản bằng chữ

    Hangul, bắt học sinh mặc đồng phục kiểu Nhật Bản. Về mặt kinh tế, thực dân Nhật Bản bắt đầu tổ chức lại

    thị trường lương thực và nguyên liệu nhằm độc chiếm và độc quyền thị trường, đồng thời cho xây dựng

    đường ray, cảng biển, đường xá và mạng thông tin phục vụ cho việc bòn rút thuộc địa. Chúng cũng cho điều

    tra đất đai và cướp trắng ruộng của nông dân hay buộc nhiều công ty của người Hàn phải đóng cửa. Những

    hành động này của chính quyền thực dân đã khiến cho người dân Jo Seon vô cùng khổ cực và kiệt quệ để rồi

    bùng nổ phong trào biểu tình đòi độc lập ngày 1 tháng 3 năm 1919.

  • 9

    quyền thực dân, hệ thống hành chính, kinh tế, trường học. Giai đoạn thứ hai

    (1920~1936) tập trung vào chính sách văn hóa;2 Giai đoạn thứ ba (1936~1945), đế

    quốc Nhật Bản huy động người Hàn Quốc vào cuộc chiến tại lục địa và đồng hóa

    tinh thần.3 Theo các tác giả của 100 năm qua chúng ta đã sống ra sao tập 3, võ sĩ

    đạo người Nhật có tên là Saiko là tác giả của thuyết Chinh Hàn xuất hiện năm 1873,

    sau đó được hai phái là phái dùng Vũ lực và phái dùng Văn trị tiếp tục áp dụng [95,

    tr. 126-127]. Phái Văn trị chủ trương thành lập chính quyền khai hóa thân Nhật, xây

    dựng hệ thống cơ sở vật chất bóc lột kinh tế trong khi đó phái Vũ lực chủ trương

    dùng chiến tranh, ám sát hay bạo động để xâm lược. Cuộc chiến Nga - Nhật nổ ra

    trên đất Jo Seon do phái Vũ lực gây ra, dẫn tới việc hợp nhất Jo Seon vào Nhật Bản

    năm 1910. Luận thuyết trong chủ trương xâm lược Hàn Quốc của Nhật Bản dựa

    trên hai thuyết, thứ nhất là thuyết ‘Thoát Á luận’ với nội dung văn minh hóa Nhật

    Bản và xâm lược châu Á như các nước phương Tây, thứ hai là thuyết ‘Hưng Á

    luận’ với quan điểm phải đoàn kế những nước châu Á có cùng văn hóa, trong đó

    Nhật Bản là mãnh chủ đánh đuổi phương Tây và làm cho châu Á trở nên phú cường.

    Sau khi đã chiếm Jo Seon, Nhật Bản thống trị bằng chính sách mở rộng lãnh thổ với

    hai mục đích là bóc lột kinh tế trên danh nghĩa xây dựng đường sắt, cảng biển, khai

    khẩn, xây dựng quân đội [95, tr. 131] và chính sách văn hóa như nêu cao chủ nghĩa

    2 Giai đoạn thứ hai (1920~1936) là giai đoạn Nhật Bản tiến hành chính sách văn hóa chủ yếu bằng các hoạt

    động mua chuộc, nuôi dưỡng phái thân Nhật với các nội dung cụ thể: 1- Lấy người trung thành tuyệt đối với

    Nhật Bản làm quản lý; 2- Lựa chọn những nhân vật ‘thân Nhật’ dám hi sinh tính mạng để trà trộn vào giới

    quý tộc, lưỡng ban, Nho sinh, các nhà tiểu tư sản, nhà giáo dục hay giáo chủ để chuyển hướng tổ chức thành

    tổ chức thân Nhật; 3- Biến giáo chủ của các tổ chức tôn giáo thành người thân Nhật và đặt các cố vấn người

    Nhật vào tổ chức; 4- Tài trợ cho người thân Nhật và giáo dục “tài năng” cho giới trí thức thân Nhật; 5- Bày

    sinh kế cho giới lưỡng ban thất nghiệp bằng cách cho họ vào đội tuyên truyền hay đội do thám; 6- Lấy vốn

    Nhật Bản “giúp đỡ”, mua chuộc các tiểu tư sản Jo Seon để lôi kéo họ chống lại nông dân và người lao động

    Jo Seon; 7- Thành lập các tổ chức thân Nhật trên toàn quốc để kiểm soát hoạt động của nông dân Jo Seon. 3 Giai đoạn thứ ba (1936~1945) bắt đầu từ khi Nhật Bản chủ trương xâm lược Đại lục. Jo Seon bị biến thành

    căn cứ địa tham chiến. Năm 1936, ngay sau khi nhậm chức Tổng đốc phủ, Tổng đốc Minami đã ban bố Lệnh

    kiểm soát công nghiệp, lấy phát triển công nghiệp quân đội làm trọng tâm cho kinh tế chiến tranh. Công

    nghiệp nặng và công nghiệp hóa học, hạ tầng giao thông, thông tin được đầu tư xây dựng. Lệnh giam cầm dự

    bị và lệnh bảo hộ tội phạm chính trị người Jo Seon được ban bố cùng với các hoạt động lùng sục và đàn áp

    phong trào đấu tranh tư tưởng của người Hàn Quốc. Chính sách đồng hóa học sinh Jo Seon với các khẩu hiệu

    như “Nội Tiên nhất thể”, “Hoàng quốc đồng dân”, giáo dục sai lạc lịch sử, địa lý Hàn Quốc, giải tán các học

    hội của người Hàn Quốc, bắt người Hàn Quốc thực hiện các nghi lễ Thần đạo theo tín ngưỡng của Nhật Bản.

    Thực dân Nhật Bản bắt thanh niên Hàn Quốc làm binh lính tham chiến, tổ chức các đội lao động “bảo quốc”

    để ép người Hàn Quốc lao động trong xưởng sản xuất vũ khí và quân bị. Chúng tuyển chọn phụ nữ, thành lập

    đội “Úy an phụ” trong quân đội để mua vui cho binh lính Nhật Bản. Phải đến khi thua cuộc trong Thế chiến

    thứ hai và hứng chịu hai quả bom nguyên tử, Nhật Bản mới chấm dứt dã tâm đế quốc của mình và Hàn Quốc

    được độc lập năm 1945 qua sự thất bại này của thực dân Nhật Bản.

  • 10

    châu Á trong lực lượng lục quân với những luận điệu như ‘đồng văn đồng tổ’ hay

    ‘môi hở răng lạnh’, nhấn mạnh tới việc đề cao tính mệnh và lợi ích trước hết [95, tr.

    132]. Chính sách đồng hóa về mặt tinh thần cũng đồng thời được thực dân Nhật Bản

    tuyên truyền trên đất Jo Seon, đặc biệt là từ sau chiến tranh Trung - Nhật năm 1937:

    từ việc triệt để xóa bỏ ý thức dân tộc, văn hóa dân tộc, họ tên, ngôn ngữ và lịch sử,

    cho tới việc nhấn mạnh dân tộc Hàn Quốc và dân tộc Nhật Bản là một, việc Nhật

    Bản hóa Hàn Quốc là một ân huệ đặc biệt của Thiên Hoàng để cứu tế dân tộc Hàn

    [95, tr. 133-134].

    Sự khác nhau trong nhận thức về phương Đông thời cận đại của Nhật Bản,

    Trung Quốc, Hàn Quốc do hai tác giả Choe Won Sik và Pek Young Seo khảo cứu,

    cho thấy những phản ứng khác nhau về vấn đề cải cách để từ đó hình thành quan

    niệm về Đông Á khác nhau của mỗi nước. Cụ thể, với Nhật Bản - nước đã khai hóa

    thành công thì quan niệm về Đông Á chuyển từ ‘khu vực lạc hậu’ sang ‘Đông Á

    sánh ngang với phương Tây’, nhất là sau khi giành chiến thắng trong cuộc chiến

    Nga - Nhật. Quan điểm này sau đó chuyển thành quan điểm ‘Đông Á là một’, Nhật

    Bản khẳng định vị trí vượt trội của chính mình, rồi chuyển dần sang mâu thuẫn ‘hô

    vang khẩu hiệu độc lập cho châu Á, cộng đồng hợp tác châu Á nhưng lại xâm chiếm

    và đô hộ Hàn Quốc’ [80, tr. 17-20]. Trung Quốc vốn nhận thức phương Đông như

    khu vực có mình làm trung tâm, nhưng sau khi nhận thấy dã tâm của Nhật Bản,

    Trung Quốc chủ trương chủ nghĩa Tân châu Á với nội dung giải phóng các dân tộc

    nhược tiểu bị áp bức và phương pháp là thành lập một liên bang Á Châu để tham

    gia các diễn đàn thế giới, nơi có sự tham gia của các đoàn thể khu vực khác [80, tr.

    20-22]. Với Hàn Quốc, sau khi nhận thấy trật tự địa chính trị Đông Á có Trung

    Quốc là trung tâm sụp đổ, Hàn Quốc đã công nhận Nhật Bản là mãnh chủ của châu

    Á. Nhưng sau khi Nhật Bản hiện thực hóa ý đồ trở thành nước bảo trợ, các phong

    trào đấu tranh tại Hàn Quốc rẽ sang hai hướng. Một là đi theo chủ nghĩa dân tộc và

    phát triển tư tưởng xây dựng đất nước dân tộc độc lập, tự cường. Hai là hướng

    thuần túy phê phán Nhật Bản là kẻ đã phá vỡ liên minh Đông Á. Vào thời kỳ bị đế

    quốc Nhật Bản đô hộ, trào lưu tìm lại đặc trưng của văn hóa châu Á phát triển cùng

  • 11

    với quá trình phê phán, bài trừ những điểm khác biệt của văn hóa châu Á với văn

    hóa phương Tây. Một trào lưu khác là phát hiện lại phương Đông để xác định sức

    mạnh dân tộc trong bối cảnh mới của lịch sử [80, tr. 23-26].

    * Liên quan tới tình hình xã hội Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

    Các công trình nghiên cứu về tình hình xã hội Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu

    thế kỷ 20 có thể kể ra đây: Một trăm năm qua chúng ta đã sống ra sao tập 1 & 2

    (2008) của Hội nghiên cứu lịch sử Hàn Quốc; Cuộc gặp với văn hóa phương Tây

    (2010) của Ủy ban biên soạn Quốc sử; Văn minh và dã man - Jo Seon thế kỷ thứ 19

    qua nhãn quan của tha nhân (2008) của Jo Hyon Beom; Bài giảng về lịch sử cận

    đại Hàn Quốc (2007) của Hội [nghiên cứu] lịch sử cận đại Hàn Quốc; Tranh luận

    cận đại Hàn Quốc và cận đại hóa thực dân (2012) của Jeong Yeon Tae.

    Giai đoạn cuối thế kỷ 19, xã hội Hàn Quốc được khắc họa là một xã hội chìm

    đắm trong bệnh tật, hạn hán mất mùa, dân trí thấp, đời sống vệ sinh bất cập, tâm lý

    mê tín dị đoan lan tràn. Hạn hán năm 1877, mất mùa những năm 1882, 1885, 1888,

    1892, 1893. Công trình 100 năm qua chúng ta đã sống ra sao tập 1 cho biết hiện

    trạng bệnh tật, dân trí thấp và mê tín dị đoan trong xã hội qua ghi nhận về dịch tả:

    “Căn bệnh truyền nhiễm xuất hiện nhiều nhất trên bán đảo Hàn vào thời điểm đầu

    thế kỷ 19 là bệnh tả. Bệnh này chính thức được phát hiện lần đầu vào năm 1821, sau

    đó 3~4 năm thì truyền vào Jo Seon và là nguyên nhân gây tử vong cho hơn 5% dân

    số Jo Seon lúc bấy giờ... Người Jo Seon khi đó cho rằng có một con ma chuột chui

    vào người mình khiến họ bị mắc bệnh tả. Thế nên người ta đã lấy hay vẽ những bức

    hình của mèo - kẻ thù không đội trời chung của chuột, rồi dán lên trước cửa nhà làm

    bùa xóa tà ma” [93, tr. 33-34].

    Sau khi nhận thấy xu thế tất yếu cần mở cửa để chủ động thay đổi hệ thống

    cho phù hợp với thời đại cũng như nhận thấy sức uy hiếp của dân chúng sau cuộc

    cách mạng nông dân Đông học, triều đình Jo Seon đã tiến hành cải cách Giáp Ngọ4

    4 Cuộc cải cách 3 đợt, kéo dài từ 1894 ~ 1896, được tiến hành trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Về

    chính trị, trọng tâm là giảm bớt quyền lực của nhà vua bằng việc thiết lập cơ quan Quân quốc cơ vụ xứ để xử

  • 12

    để chấn chỉnh đất nước và củng cố lại vương quyền. Đô thị hóa, xây dựng cơ sở hạ

    tầng như hệ thống điện, giao thông, thông tin, hệ thống giáo dục, báo chí được triển

    khai nhanh chóng. Sự thay đổi trong nhận thức về văn minh cận đại của người Hàn

    Quốc còn khiến cho người phương Tây ngạc nhiên. Theo Jeong Yeon Tae, “Helbert

    thấy chính việc người Hàn Quốc tiếp cận với tiến bộ vật chất đã chấp nhận thay đổi

    và tận dụng chúng một cách tự do là nguyên nhân chính thúc đẩy sự thay đổi.

    Người Hàn Quốc nhanh chóng nhận ra và sử dụng cái lợi của giao thông và thông

    tin, họ cũng không ngần ngại công nhận tính hữu dụng của cả Ngân hàng đệ nhất

    Nhật Bản và sử dụng hệ thống này. Họ nhanh chóng nhận thức được giá trị của

    thương mại với nước ngoài, họ cải tiến tình trạng sinh hoạt của mình bằng các sản

    phẩm nhập khẩu như may mặc, xăng dầu và diêm, thay vào đó, nhận thấy việc xuất

    khẩu ngũ cốc sẽ làm tăng giá ngũ cốc, họ bắt tay vào khai khẩn, cải thiện hệ thống

    thủy lợi để tăng việc sản xuất gạo” [75, tr. 200]. Nhận định này cho thấy chủ trương

    mở cửa của triều đình Jo Seon và tâm lý đón nhận thời đại mới của người dân Jo

    Seon đã bắt đầu thay đổi diện mạo xã hội Jo Seon.

    Trong bối cảnh bị đế quốc đô hộ sau Điều ước hợp bang với Nhật Bản, các

    hoạt động khải mông diễn ra sôi nổi trong lĩnh vực giáo dục và báo chí. Từ đầu

    những năm 1880, triều đình Jo Seon đã cử các đoàn thị sát tới Nhật Bản, Trung

    Quốc để học hỏi mô hình giáo dục ở hai nước này. Năm 1883, trường học đầu tiên

    theo lối giáo dục mới được thành lập ở Won San. Đến Cải cách Giáp Ngọ thì hệ

    thống giáo dục cận đại chính thức được phổ biến. Đến năm 1909, trên cả Hàn Quốc

    lý các vấn đề về chế độ, hành chính, tư pháp, giáo dục, xã hội ở trung ương và địa phương bằng hình thức

    trao đổi, thảo luận; chuyển hình thức Lục tào thành Bát a môn, phân định quan chế của trung ương thành hai

    cơ quan riêng là Nghị chính phủ và Cung nội phủ. Đây là những cơ quan mới, độc lập giải quyết các vấn đề

    của đất nước. Niên hiệu được chuyển tên thành Khai quốc kỉ nguyên. Đến lần thứ hai, Nghị chính phủ được

    chuyển tên thành Nội các, tám a môn chuyển thành bảy bộ, niên hiệu một lần nữa được đổi tên thành Kiến

    dương. Sau sự kiện sát hại hoàng hậu Myong Seong (1895), dưới sức ép của Nhật Bản, Go Jong tiến hành cải

    cách lần thứ ba, mà cơ bản là thiết lập chính phủ nội các với các nhân sự thân Nhật.

    Trong cải cách Giáp Ngọ do nhà nước Đại Hàn đế quốc tiến hành này, tiền tệđược thống nhất, thuế được

    chuyển thành hình thức nộp tiền thay cho vật phẩm như trước kia, nhà nước tiến hành đổi tiền được làm bằng

    bạc sang tiền giấy tại các ngân hàng, các hình thức đo đạc cũng được quy định thống nhất trên toàn Đại Hàn.

    Chế độ mua bán nô dịch, chế độ đẳng cấp và khoa cử được phế bỏ, thay vào đó là hệ thống trường học.

    Nhiều hủ tục (như tảo hôn, cấm tái giá) được phế bỏ hay điều chỉnh. Đến lần cải cách thứ ba, thái độ mở cửa

    và tích cực tiếp nhận văn minh, vật chất phương Tây thể hiện rõ như việc ban bố lệnh cắt tóc ngắn, sử dụng

    Tây lịch, mở trường tiểu học, thiết lập hệ thống bưu điện...

  • 13

    đã hình thành 2.250 trường học tư với quy mô lớn nhỏ khác nhau [93, tr. 46-47].

    Mục tiêu tập trung vào phát triển con người dân tộc với nội dung giáo dục chủ yếu

    là để khai minh, phú cường và phát triển con người kiêm bị trí dục, đức dục, thể dục

    và cổ xúy cho tình yêu nước, khôi phục lại quốc quyền đang lung lay trước thế lực

    nước ngoài. Trong nền giáo dục do đế quốc Nhật Bản kiểm soát, người Jo Seon chỉ

    học chương trình phổ thông và nghề nghiệp chứ không được học tới bậc đại học.

    Mục tiêu của nền giáo dục này là biến người Jo Seon thành những quốc dân trung

    thành của Hoàng quốc Nhật Bản, dần xóa đi cảm thức dân tộc và chuẩn bị tinh thần

    chiến đấu để sẵn sàng trở thành quân nhân của Nhật Bản. Theo Hội nghiên cứu lịch

    sử Hàn Quốc, “bất chấp sự gia tăng nền giáo dục Hoàng dân hóa, người Jo Seon vẫn

    rất nhiệt tình với giáo dục. [...] Bởi nền giáo dục vốn chỉ tập trung vào tầng lớp tinh

    hoa đã mở rộng ra tầng lớp người Jo Seon có thân phận thấp kém trong xã hội. [...]

    Nhiệt huyết với giáo dục vẫn duy trì trong cảnh bị thực dân thống trị với cấu trúc áp

    bức là bởi giáo dục là cách duy nhất để người Jo Seon vươn lên cảnh bị dịch chuyển

    xã hội và chuyển đổi thân phận” [93, tr. 50-51].

    Trong giai đoạn từ 1896 là năm tờ báo Độc lập số đầu tiên được xuất bản, tới

    năm 1910 khi chủ quyền Jo Seon bị thực dân Nhật Bản tước đoạt, đã có khoảng 20

    tờ báo các loại được ấn hành, mặc dù phần lớn các báo này không tồn tại lâu dài do

    thiếu kinh phí hoạt động. Số lượng tạp chí cũng là khoảng 50 tờ. Báo chí được in

    lẫn cả tiếng Hán và tiếng Hangul, nội dung chủ yếu liên quan tới việc khai mông

    dân chúng, cổ xúy cho tinh thần cứu quốc, độc lập dân tộc, xây dựng quốc dân có

    tinh thần tự do, bình đẳng. Tên báo, tạp chí cùng các cơ quan và học hội phát hành

    đa dạng, cho thấy hoạt động báo chí diễn ra sôi nổi: Nguyệt báo của Học hội Đại

    Hàn tự cường, Nguyệt báo của Học hội Đại Hàn, Học báo vùng Ho Nam, Nguyệt

    báo của Học hội vùng Tây Bắc, Nguyệt báo của Học hội Gi Ho hưng học là báo của

    các tổ chức ở các thành phố hay địa phương. Các tạp chí: Nữ giới chỉ nam, Hội phụ

    nữ từ thiện là của các tổ chức phụ nữ; Học báo Thái cực, Học báo Hội du học sinh

    Đại Hàn, Nguyệt báo Học hội Đại Hàn, Báo Đại Hàn hưng học là đầu báo do các tổ

    chức du học sinh tại Nhật Bản phát hành [88, tr. 305]. Các tổ chức tôn giáo cũng

    tham gia hoạt động xuất bản: Báo Vạn tuế của Thiên đạo giáo, Thánh thư Jo Seon

  • 14

    là tờ báo của giới trí thức Ki tô giáo du học từ Nhật Bản về, Báo Hội thánh Jesus,

    Ki tô tân báo, Giáo hội chỉ nam, Tân dân, Tân nữ giới, Tân gia đình, Thanh niên,

    Đời sống nông dân, v.v... là báo và tạp chí của các tổ chức thuộc cộng đồng Ki tô

    Hàn Quốc xuất bản [90, tr. 309-332].

    Sách lịch sử, sách ngữ văn cũng được tập trung biên soạn và xuất bản làm sách

    giáo khoa trong nỗ lực tiếp nối tri thức truyền thống, cùng với việc tiếp nhận các tri

    thức khoa học từ phương Tây, cổ xúy tinh thần dân tộc, khai sáng người dân và phát

    triển đời sống sinh hoạt văn hóa mới. Có một số công trình điển hình về ngữ văn

    như: Văn phạm quốc ngữ Đại Hàn (1906), Âm học văn điển quốc ngữ (1908), Đại

    cương quốc văn (1909), Văn phạm quốc ngữ (1910), Bài giảng về cách đánh chữ Jo

    Seon (1920), Cách dùng đúng chữ Hangul (1936), v.v... Một số cuốn sách về lịch sử

    Hàn Quốc cũng đã ra đời như: Hàn Quốc thông sử của Park Eun Sik, Lịch sử Hàn

    Quốc nhìn từ ý Chúa của Ham Seok Heon, v.v... các cuốn sử này vừa phải khắc

    phục quan điểm lịch sử phong kiến lấy vương triều làm trung tâm, đồng thời thể

    nghiệm lịch sử quan mới dưới sự kiểm duyệt nghiêm ngặt của thực dân Nhật Bản,

    * Liên quan tới tình hình tôn giáo Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

    Một số công trình nghiên cứu về tôn giáo Hàn Quốc giai đoạn này có: Một

    trăm năm qua chúng ta đã sống ra sao tập 1 (2008) của Hội nghiên cứu lịch sử Hàn

    Quốc; Phong trào tôn giáo Hàn Quốc (2006) của Noh Gil Myong; Lịch sử Ki tô

    giáo tập 2 (2012) của Hội lịch sử Ki tô giáo Hàn Quốc; Tự chủ tiếp nhận Ki tô giáo

    phương Tây - Ryu Yeong Mo, Kim Gyo Shin, Ham Seok Heon (2004) do Park

    Gyong Mi chủ biên; Ki tô giáo trong lịch sử quan hệ Hàn - Nhật cận đại (2009) của

    Yang Hyun Hae.

    Tình hình tôn giáo Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 qua tổng hợp các

    công trình trên có thể được đúc kết trong các từ khóa: sự trỗi dậy của các tín

    ngưỡng dân gian, tôn giáo bản địa mới, Thiên Chúa giáo - Tin lành.

    Theo Noh Gil Myong trong Các phong trào tôn giáo Jo Seon, từ nửa sau

    vương triều Jo Seon, hệ thống xã hội phong kiến đã bắt đầu thay đổi [47, tr. 23-26],

  • 15

    chức năng thống nhất xã hội của hệ giá trị Nho giáo ngày một suy yếu. Mâu thuẫn

    và phân biệt trong xã hội vốn tồn tại trong hệ thống vương triều Jo Seon dần trở nên

    gay gắt và bộc lộ ra ngoài xã hội. Những phản ứng đối phó với khủng hoảng giá trị

    xã hội thể hiện ở ba dạng thức: thứ nhất là phản ứng của giới trí thức là tầng lớp

    tinh hoa của xã hội với phong trào Thực học và phong trào Bảo Nho. Thứ hai là

    phản ứng của người dân với phong trào tôn giáo dân chúng, ở đây tác giả đề cập tới

    tín ngưỡng Thiên Chúa giáo và các tôn giáo bản địa. Thứ ba là phản ứng của giới

    cầm quyền trong xã hội Jo Seon với phong trào Vệ chính xích tà (衛正斥邪) [47, tr.

    27-29].

    Noh Gil Myong cho rằng các hình thức tôn giáo có mục đích cứu rỗi con

    người khỏi mâu thuẫn và bất công trong xã hội hiện thực, khỏi đau khổ và tội ác để

    hướng tới một thế giới lý tưởng nơi con người được bình đẳng, hòa bình và sung

    sướng. Theo đó, trong bối cảnh các giá trị của Tính lý học Jo Seon không còn đóng

    vai trò giữ gìn trật tự và gắn kết xã hội, tư tưởng về Di lặc và Sấm vĩ5 là hai tư

    tưởng phổ biến kể từ đầu thế kỷ 19, nó phản ánh khát vọng phá bỏ cái cũ, mưu cầu

    trật tự xã hội mới và mong muốn xuất hiện thánh nhân hay anh hùng cứu thế. Hai tư

    tưởng này cũng tác động tới sự ra đời của tôn giáo mới hay tín ngưỡng dân gian ở ý

    tưởng về thế giới Long hoa, Địa thượng thiên quốc hay thế giới Hậu thiên, v.v... với

    việc nhấn mạnh rằng thế giới ấy sẽ được thực hiện trên đất Jo Seon [47, tr. 58]. Noh

    Gil Myong kết luận về giai đoạn này: “Vào hậu kỳ Jo Seon, với dân chúng [...] cần

    một khải thị mang tính tận thế và tiên tri, có cách lý giải đơn giản và rõ ràng, vừa tố

    cáo sự chấm dứt của trật tự vốn có đã lỗi thời, vừa báo hiệu một thế giới mới đang

    tới, cứu rỗi họ khỏi sự áp bức và khuất phục, hỗn loạn và đau khổ” [47, tr. 60].

    5 Tư tưởng Di lặc: Tư tưởng khải thị của Phật giáo dựa vào cuốn Kinh Di lặc tam bộ, cho rằng đệ tử của

    Thích Ca Mâu Ni là Di Lặc sẽ thành Phật sau 5, 67 tỉ năm, sau khi phật Thích ca nhập tịch. Phật Di Lặc từ

    thế giới Đạo thuật giáng hạ, thuyết giáo ba lần dưới cây Long Hoa (龍華樹)để cứu chúng sinh khỏi bể khổ.

    Tư tưởng Sấm vĩ (秘訣):Bí quyết là từ để chỉ những phương pháp bí mật không được phổ biến rộng rãi như

    bí dược (秘藥), bí yếu (秘要) nhưng thường được hiểu là các bí quyết đắc đạo chỉ dạy cách trở thành thần

    tiên hay những lời tiên tri về quốc sự, dự đoán những sự kiện lớn sẽ xảy ra. [47, tr. 46]

  • 16

    Nếu như trong dân gian xuất hiện không khí mê tín thì cùng với sự chủ động

    tiếp nhận Thiên Chúa giáo phương Tây, các cộng đồng tín ngưỡng Ki tô đã hình

    thành xuất phát nhu cầu tự thân của người Jo Seon [47, tr. 63]. Các phong trào

    Thiên Chúa giáo thời kỳ đầu hồi thế kỷ 17-XVIII tập trung vào việc biên dịch và

    học tập các sách dịch từ tiếng Trung Quốc để tìm hiểu khoa học kỹ thuật và tư

    tưởng tôn giáo. Đến năm 1784, [với nỗ lực của nhân vật Kwang Am Lee Byok]

    Giáo hội Jo Seon thành lập không với bất cứ sự tác động hay giúp đỡ nào từ phía

    các nhà truyền giáo phương Tây, cho thấy sự chủ động tiếp nhận Ki tô giáo của

    người Jo Seon như một nhu cầu tự thân. Các phong trào sử dụng báo chí cũng

    phát triển mạnh trong cộng đồng Ki tô hữu. Trải qua khoảng 100 năm bị bức hại,

    Ki tô giáo Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 chuyển từ hình thức báo chí sang phong trào

    tôn giáo chống phong kiến với các nội dung đề cao tự do tôn giáo, tính bình đẳng

    và tôn nghiêm của tồn tại người theo hướng thoát tục, lai thế, hơn là theo hướng đấu

    tranh tại thế [47, tr. 85-87].

    Đến cuối thế kỷ 19, cùng với việc mở cửa, kí kết các hiệp định thông thương

    với nước ngoài và cho phép truyền giáo vào những năm 1880, đạo Tin lành du nhập

    vào Jo Seon trong bối cảnh dễ dàng hơn so với Thiên Chúa giáo trước đây. Xã hội

    Jo Seon tích cực tiếp nhận Ki tô giáo hơn, hoạt động của các nhà truyền giáo cũng

    mạnh mẽ hơn rất nhiều. Noh Gil Myong tổng kết: “động cơ của phần lớn trí thức

    tham giao vào phong trào Tin lành thời kỳ đầu là vấn đề khai hóa và độc lập mà dân

    tộc đang phải đối mặt, hơn là tính tôn giáo thuần túy. Nhưng [...] lại đối lập với

    chính sách của các nhà truyền giáo. Nhu cầu cải đạo của họ mang tính chính trị, dân

    tộc, kinh tế, xã hội và văn hóa trong khi của các nhà truyền giáo lại là tính linh, tính

    lai thế, phân tách chính giáo, theo chủ nghĩa Phúc âm và chủ nghĩa cứng nhắc. Theo

    đó không thể không dẫn tới va chạm và mâu thuẫn” [47, tr. 119]. Kết quả dẫn tới

    hiện tượng bài xích các nhà truyền giáo nước ngoài, việc các trí thức hướng về dân

    tộc tách khỏi Giáo hội và hình thành các phái khác nhau trong Giáo hội, thành: phái

    dị đoan Thần học, phái chống lại các nhà truyền giáo rồi phái chủ trương quyền lực

    Giáo hội, phái theo chủ nghĩa phi Giáo hội, phái theo chủ nghĩa thần bí, phái yêu

  • 17

    nước hoang tưởng, v.v... trong nội bộ Giáo hội Hàn Quốc [47, tr. 123]. Mặc dù vậy,

    các trí thức có đức tin Ki tô hướng về dân tộc sau những năm 1920 đã phát triển các

    phong trào giáo dục, thể dục thể thao, kinh doanh, xuất bản, văn hóa, phát triển

    nông thôn và tiếp tục hoạt động khai hóa xã hội.

    Kể từ năm 1920, đế quốc Nhật Bản đưa ra luận điệu ‘Nội Tiên nhất thể’ nhấn

    mạnh: “dân tộc Hàn Quốc và dân tộc Nhật Bản là một phần trong dân tộc Nhật Bản,

    có chung vận mệnh chứ không phải là đối tượng giải phóng, nên cùng với dân tộc

    Nhật Bản trở thành chủ thể giải phóng tất cả các dân tộc châu Á khác khỏi sự áp

    bức của chủ nghĩa đế quốc phương Tây” [89, tr. 250]. Với ý đồ trên, Nhật Bản đã

    thi hành chính sách hòa hữu với Ki tô giáo Hàn Quốc, yêu cầu sự hợp tác và kết hợp

    với Ki tô giáo Nhật Bản, đồng thời bài trừ ảnh hưởng của các nhà truyền giáo

    phương Tây. Bởi xét về logic, luận điệu “cộng đồng chung vận mệnh” để hợp nhất

    dân tộc Nhật Bản và dân tộc Hàn Quốc với nhau là luận điệu xuất phát từ Ki tô giáo,

    do đó nó dễ dàng được cộng đồng Ki tô giáo tiếp nhận hơn cả. Nhật Bản còn áp

    dụng chính sách phải hành lễ thờ Thần đạo trong các trường học - trong đó có

    trường học của các nhà truyền giáo và lấy đó làm cớ để bài trừ các nhà truyền giáo

    phương Tây ra khỏi hệ thống giáo dục. Đến năm 1940, những nhà truyền giáo

    người nước ngoài trong hệ thống y tế và giáo dục cũng là đối tượng bị trục xuất.

    Đồng thời với quá trình đó là các chính sách thống trị và ép buộc Giáo hội Hàn

    Quốc, tiếp đó thu nhận các lãnh đạo Giáo đoàn Ki tô Hàn Quốc có ý thân Nhật

    thông qua luận điệu ‘tôn giáo vệ quốc’ để thúc đẩy sự tham gia và hợp tác với Nhật

    Bản [89, tr. 253-257].

    Sự biến chất của Ki tô giáo Hàn Quốc bắt đầu bằng thái độ ủng hộ cho cuộc

    chiến mà Nhật Bản tiến hành ở lục địa. Năm 1937, khi cuộc chiến Trung - Nhật

    đang diễn ra, đế quốc Nhật Bản đã dùng nhiều cách lôi kéo người Hàn Quốc và các

    tổ chức tôn giáo Hàn Quốc vào cuộc, theo tinh thần ‘Nội Tiên nhất thể’. “Trong một

    bộ phận Hội Trưởng lão đã quyết định mở ‘Hội cầu nguyện và thuyết giáo về thời

    cuộc’ tại nhà thờ Seung Dong để nhận thức lại chủ trương ‘Nội Tiên nhất thể’ và

    cầu nguyện vào các buổi sáng cho sự toàn thắng của Nhật Bản” [89, tr. 270]. Dần

  • 18

    dần không khí hợp tác với Nhật Bản của Giáo hội ngày một rõ, cụ thể là việc tổ

    chức các ‘liên minh nhà thờ’ từ phía Giáo hội Hàn Quốc và Ủy ban Thường trị

    trung ương của Nhật Bản, hay hợp nhất và biến các tổ chức của Giáo hội Hàn Quốc

    thành tổ chức cấp dưới của Nhật Bản. Hội Lịch sử Ki tô giáo Hàn Quốc nhận định:

    “từ sau năm 1938, các tổ chức Ki tô giáo phần lớn đều có tính chất ‘phò trợ’ đế

    quốc Nhật dẫu mức độ là khác nhau” [89, tr. 276].

    Tuy nhiên, trong nội bộ Ki tô giáo cũng nảy sinh xu thế xây dựng Ki tô giáo

    Hàn Quốc, thoát khỏi ảnh hưởng của phương Tây cũng như không thỏa hiệp với

    chính quyền thực dân. Trong lĩnh vực tư tưởng triết học, ba nhân vật điển hình đã

    xây dựng nền móng cho Ki tô giáo dân tộc trong thế kỷ 20 được các nhà nghiên cứu

    Ki tô giáo Hàn Quốc lựa chọn là Ryu Young Mo, Kim Gyo Shin và Ham Seok

    Heon [50]. Họ đều là những người sống trọn trong thế kỷ 20. Trong ba người này

    thì Ryu Yong Mo phát triển Ki tô giáo theo hướng đa nguyên khi ông tích hợp Ki tô

    giáo với các tư tưởng truyền thống khác nhằm thống nhất các tôn giáo qua ý niệm

    về vị thần độc nhất ban sinh mệnh vĩnh cửu cho con người. Kim Gyo Shin là người

    lập nên tạp chí Thánh kinh Jo Seon, chủ trương chủ nghĩa phi nhà thờ trong Ki tô

    giáo Hàn Quốc. Còn Ham Seok Heon là người tiếp nhận lịch sử quan của Ki tô giáo

    để từ đó giải nghĩa cho những khó khăn mà dân tộc Hàn đang phải đối mặt qua cuốn

    sách về lịch sử Hàn Quốc có tên là Lịch sử Hàn Quốc nhìn từ ý Chúa. Ông hình

    thành nên một lịch sử quan độc đáo trong quá trình kết hợp nhãn quan Ki tô giáo

    vào phân tích lịch sử của dân tộc Hàn, từ đó tích hợp tư tưởng Ki tô giáo vào lịch sử

    tư tưởng triết học Hàn Quốc.

    Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 còn xuất hiện một dạng thức tôn giáo mới là các

    tôn giáo mới nội sinh của Hàn Quốc. Các tôn giáo nội sinh mới này bắt đầu từ Đông

    học (東學) của Choe Je U năm 1860, sau đó hình thành nhiều tổ chức tôn giáo khác,

    có tổ chức còn tồn tại tới ngày nay. Các tôn giáo này đều có đặc điểm chung là xuất

    phát từ trải nghiệm tôn giáo nhập thần và tư tưởng Cách thế. Các phong trào tôn

    giáo nội sinh mới xuất hiện vào giai đoạn này có Đông học của Choe Je U, Jeung

  • 19

    San giáo (甑山敎) thành lập 1902 năm của Gang Il Sun (1871-1909), Đại tông giáo

    (大琮敎) của Na Cheol (1863-1916) thành lập năm 1909, Giác thế đạo (覺世道)

    thành lập năm 1915 của Lee Seon Pyong (1882-1956), Phật giáo Viên (圓佛敎)

    thành lập năm 1916 của Park Jung Bin (1891-1943), Canh định Nho đạo (更定儒道)

    thành lập năm 1928 của Gang Dae Seong (1889-1954), Vật pháp giới (勿法系)

    thành lập năm 1943 của Kim Bong Nam (1898-1950), v.v... [47, tr. 138]. Noh Gil

    Myong cho rằng trục tư tưởng chính của các tôn giáo mới này là tư tưởng Khai tịch

    với những nội dung về Tiên thiên, Hậu thiên và tư tưởng chủ thể dân tộc với quan

    niệm tuyển dân (選民) và lập trường kế thừa văn hóa dân tộc [47, tr. 151-156]. Với

    đặc trưng là tôn giáo dân tộc, các tổ chức này tiến hành các hoạt động đa dạng, từ

    việc thành lập các cộng đồng sinh hoạt, học tập, cải tạo xã hội, hoạt động giáo dục,

    báo chí, v.v... cho tới các hoạt động vũ trang (Cách mạng nông dân Đông học năm

    1894, hoạt động của Đại tông giáo thành lập năm 1909) hay thị uy biểu tình đòi độc

    lập (Phong trào ngày 1/3/1919) hay tham gia hoạt động chính trị như Thiên Đạo

    giáo. Chính vì thế, kể từ khi trở thành thuộc địa của Nhật Bản, các tôn giáo này bị

    thực dân Nhật Bản quy là tôn giáo phi pháp hoặc bị các trí thức mới phê phán là mê

    tín dị đoan trong không khí khai hóa theo văn minh phương Tây [95, tr. 205-218].

    Trong việc luận giải về tính chất của bối cảnh Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu

    thế kỷ 20, không thể không nhắc tới phân tích của các nhà nghiên cứu lịch sử tư

    tưởng triết học Hàn Quốc giai đoạn này. Hai công trình điển hình nhất cho nghiên

    cứu lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là Lịch sử tư

    tưởng cận đại Hàn Quốc của Park Jeong Sim và Luận về lịch sử triết học hiện đại

    Hàn Quốc - Đứt đoạn với thế giới và ý niệm Tự do của Lee Gyu Seong.

    Trong công trình Lịch sử tư tưởng cận đại Hàn Quốc, tác giả Park Jeong Sim

    phân chia thời kỳ cận đại của Hàn Quốc từ năm 1876 đến năm 1945 thành ba giai

    đoạn: Giai đoạn 1876~1894 - thời kì mở cảng với trào lưu tư tưởng Vệ chính xích tà,

  • 20

    tư tưởng Khai hóa, tư tưởng Đông học và phong trào nổi dậy của nhân dân; giai

    đoạn 1894~1910 - thời kì tự cường với các xu hướng khôi phục lại quyền lực quốc

    gia bằng việc tiếp nhận chủ nghĩa Darwin về xã hội, thuyết tự cường theo logic đấu

    tranh sinh tồn, trào lưu phục hưng cựu học (Nho học) với hướng khám phá tồn tại

    người qua việc luận giải quan hệ giữa Tâm và Thân, chủ trương khôi phục văn minh

    Nho học qua thuyết Chân ngã hay ‘Jo Seon chân chính’. Giai đoạn thứ ba là giai

    đoạn thực dân từ 1910~1945 - với các luận thuyết liên quan tới ý niệm Dân tộc.

    Park Jeong Sim đặt vấn đề triết học thời đại trong ba nội dung là khắc phục văn

    minh mang tính bạo lực từ phương Tây, xác lập dân tộc tính và nhận thức về chính

    mình từ con mắt tha nhân. Tác giả cho rằng ba từ khóa miêu tả bài toán của lịch sử

    tư tưởng Hàn Quốc giai đoạn này là Văn minh, Dân tộc và Chủ thể. Cụ thể: (1) Hàn

    Quốc tiếp nhận ý niệm về ‘văn minh’ nhưng lại từ một phương Tây bạo lực nên tư

    tưởng triết học Hàn Quốc giai đoạn này phải giải quyết được vấn đề ‘cái văn minh

    đích thực là gì?’; (2) xác lập tính dân tộc trong bối cảnh bị thực dân Nhật Bản đô hộ

    đồng thời xác nhận vị trí ‘dân tộc Hàn Quốc’ trong cộng đồng thế giới; (3) nhìn lại

    chính mình - ý niệm về chủ thể hay ý thức phản tư về chính mình trong bối cảnh bị

    tha nhân hóa [đồng nhất với Nhật Bản] hay bị áp đặt tiêu chuẩn ‘văn minh hơn’ từ

    nhãn quan phương Tây [53].

    Tương tự như vậy, công trình Luận về lịch sử triết học hiện đại Hàn Quốc -

    Đứt đoạn với thế giới và ý niệm Tự do của tác giả Lee Guy Seong luận về tư tưởng

    triết học hiện đại Hàn Quốc qua ý niệm Tự do, có thể nói là công trình tiếp nối công

    trình trên của Park Jeong Shim, cả về mặt lịch đại cũng như về mặt phương pháp

    tiếp cận lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc. Tác giả Lee Guy Seong nêu ra vấn đề

    phải giải quyết của triết học Hàn Quốc hiện đại trong hai từ khóa là Cái tự do và

    Cái hiện thực. Trong công trình này, bối cảnh xã hội được tiếp cận qua hai từ khóa

    này. Tác giả cho rằng nhận thức về tự do của các giai tầng trong xã hội Jo Seon xuất

    phát từ sự bất lực và thất bại của tầng lớp nắm thực quyền trong công cuộc cận đại

    hóa và sự lung lay của họ trước các thế lực nước ngoài đang cố gắng gây ảnh hưởng

    lên vùng bán đảo. Cái hiện thực mà tác giả Lee Guy Seong nói tới chính là cái ác

  • 21

    hay tính bạo lực trong thế giới rộng mở mà người Jo Seon đang trải nghiệm, là tình

    trạng nô lệ về mặt tinh thần của cộng đồng thế giới. Do đó, tác giả này cho rằng, đặc

    trưng của triết học hiện đại Hàn Quốc - nền tảng được các triết gia Hàn Quốc giai

    đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 xác lập, đồng thời là bài toán cần giải cho triết

    học Hàn Quốc hiện nay, là: “Ngày nay, bài toán về cách hiểu và giải quyết vấn đề

    về nhân tính nội tại và vấn đề xã hội ngoại tại vẫn còn đó. Hiểu một cách thống nhất

    các vấn đề nội - ngoại và giải quyết bằng thực tiễn là để khắc phục sự phân rã và

    yếu thế trong quan hệ giữa thế giới và con người, giữa con người với con người,

    giữa con người với chính bản thân nó. [...] Sự hòa giải đích thực giữa thế giới và

    con người cùng quan hệ liên đới bình đẳng giữa con người với con người là nội

    dung bản chất của ý niệm tự do. Đấy là cái ẩn giấu không trông thấy. Nhưng chính

    bằng nỗ lực giành lấy tự do mới thúc đẩy ta xây dựng một đời sống mới. Cái có khả

    năng [thực hiện] là cái mang tính hiện thực” [66, tr. 32-33].

    Như vậy, qua tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan tới bối cảnh Hàn

    Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chúng tôi thấy rằng, bối cảnh Hàn Quốc cuối thế

    kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nói chung là bối cảnh khủng hoảng và vận động thể nghiệm cái

    mới. Khủng hoảng xảy ra trong tình hình chính trị, là biểu hiện đỉnh điểm của xu

    hướng đối đầu, phân chia bè phái trong nội chính Jo Seon. Nó kéo theo sự phá sản

    của hệ thống chính trị, sự lệ thuộc vào thế lực nước ngoài và cuối cùng là đánh mất

    chủ quyền dân tộc. Khủng hoảng trong xã hội thể hiện ra là sự tan rã của trật tự luân

    lý đạo đức xã hội cũ, sự nghèo nàn, lạc hậu và bần cùng trong đời sống sinh hoạt

    của người dân Jo Seon. Nhưng cũng trong khủng hoảng, khi xét tới lĩnh vực xã hội,

    ta lại thấy một sự vận động tự thân trong việc đón nhận thời đại mới và thể nghiệm

    cái mới trong sự tiếp xúc với nước ngoài. Sự vận động ấy trước hết xuất phát từ việc

    tìm đường mưu sinh của người dân trong bối cảnh xã hội hỗn loạn, tiếp nữa là sự

    thâm nhập bất khả tránh của người nước ngoài và Nhật Bản vào Jo Seon. Tâm thế

    thể nghiệm ở đây xuất phát từ bối cảnh thiếu thốn tri thức về thế giới, bởi người Jo

    Seon nhận ra thế giới rộng lớn hơn rất nhiều so với trước đây, nó đòi hỏi một sự tìm

    tòi và học hỏi từ tha nhân. Sự vô minh về thế giới chính là yếu tố quy định nên thái

  • 22

    độ chủ động tiếp nhận theo hướng thể nghiệm và thực hiện cái mới của Hàn Quốc

    đầu thế kỷ 20.

    Nhận định này khác với nhận định của các nhà nghiên cứu tư tưởng triết học

    Hàn Quốc giai đoạn này. Park Jeong Sim đặt vấn đề thời đại của triết học Hàn Quốc

    cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là văn minh đích thực, tính dân tộc và phản tư từ con

    mắt tha nhân. Nhưng cách đặt vấn đề này thực chất chưa luận giải được việc xác lập

    dân tộc tính trong các tôn giáo mới, sự chủ động tổ chức cộng đồng, cải biến đời

    sống xã hội mà các tôn giáo này tiến hành khi đã nhận thức được khủng hoảng của

    chính mình và chủ động khắc phục khủng hoảng bằng việc khơi ra sức mạnh nội lực

    của bản thân. Cách đặt vấn đề này cũng chưa giải thích được tính tự chủ trong việc

    Tây hóa một cách chủ động của Hàn Quốc, đặc biệt là qua sự tiếp nhận Ki tô giáo

    của Hàn Quốc đầu thế kỷ 20. Với nhận định về bối cảnh thời đại của Lee Guy

    Seong, tác giả luận án cho rằng, đúng là sự rộng mở của thế giới, sự phá sản của chế

    độ đẳng cấp đã cởi trói cho tinh thần Hàn Quốc vốn bị lệ thuộc vào thế giới tinh

    thần có Trung Quốc làm trung tâm và chế độ xã hội do Tính lý học thiết lập. Đúng

    là thế giới rộng mở ấy là một hiện thực mang tính bạo lực và chứa đầy cái ác để tinh

    thần Hàn Quốc phải khắc phục bằng những phương thức hòa giải giữa thế giới và

    con người. Theo đó, việc tiếp nhận Ki tô giáo tích cực, lấy phương Tây làm hình

    mẫu để khai hóa là có thể giải thích được. Nhưng trong giai đoạn thực dân Nhật

    Bản đô hộ, Ki tô giáo được coi là tôn giáo hợp pháp. Nó cũng có những biểu

    hiện ủng hộ thực dân Nhật Bản và phản bội lại dân tộc. Nhìn từ khía cạnh này,

    việc coi bối cảnh Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là tự do và hiện thực

    bạo lực sẽ không nhìn ra những nhà tư tưởng Ki tô vì dân tộc, không phản bội lại

    dân tộc. Nói cách khác, tinh thần Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 quả là

    phải đối mặt với một hiện thực bạo lực, nhưng không hẳn nó đã tự do. Bởi trong rất

    nhiều phản ứng tư tưởng giai đoạn này, có phản ứng chủ động đối mặt với khủng

    hoảng của chính mình và đồng thời chủ động thể nghiệm cái mới.

  • 23

    1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối

    thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

    * Liên quan tới tư tưởng nhân bản Hàn Quốc đến nửa đầu thế kỷ 19

    Có thể điểm danh một số công trình về lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc

    như sau: Lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc (1997) của Hội nghiên cứu lịch sử

    triết học Hàn Quốc; Lịch sử triết học Hàn Quốc (1999) của Kim Seung Dong; Tài

    liệu và giải nghĩa - Tư tưởng triết học Hàn Quốc (2004) của Viện nghiên cứu văn

    hóa dân tộc, Đại học Goryo; Lịch sử triết học Hàn Quốc - Mâu thuẫn và dung hợp

    của tư tưởng ngoại lai và tư tưởng bản địa (2011) của Lee Jong U; Dẫn nhập lịch

    sử tư tưởng Hàn Quốc (2011) của Kim Seong Beom chủ biên, v.v... Các công trình

    này đều đưa ra các dòng tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc

    gồm Tư tưởng bản địa, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, các dòng tư tưởng trong Nho

    giáo như Tính lý học, Dương Minh học, Thực học, tiếp đó là các trào lưu tư tưởng

    triết học thời cận đại như tư tưởng Vệ chính xích tà, tư tưởng Khai hóa, tư tưởng

    Khai minh ái quốc, tư tưởng tôn giáo dân tộc.

    Trong các công trình này, một số công trình có bàn tới triết học ‘Hàn’ - cái

    bản thể trong triết học Hàn Quốc, xuyên suốt lịch sử tư tưởng triết học các thời

    kỳ. Cụ thể:

    Kim Seung Dong trong Lịch sử triết học Hàn Quốc(1999) cho rằng Hàn Quốc

    có nền tảng tư duy triết học trước khi có sự du nhập của các tư tưởng ngoại lai. Qua

    khảo cứu văn bản, ông nhận thấy tư tưởng vốn có của Hàn Quốc gắn với tín ngưỡng

    về Thiên, ý niệm về Thiên được dung hợp với các tư tưởng ngoại lai khác và khoác

    lên mình nhiều khái niệm khác nhau. Kim Seung Dong đặt tên cho tư tưởng vốn có

    này là tư tưởng Hàn (韓) và xác lập hệ thống tư tưởng Hàn Quốc với ba nội dung:

    bản thể luận Nhất nguyên với các nội dung liên quan tới Trời, Thiên, Nhất, Đại;

    nhận thức luận với phương thức tư duy bất nhị, không phân cực và trực quan thần

    bí; giá trị quan đặt tiêu chuẩn giá trị của hành vi con người vào cái Một lớn. Nói

  • 24

    cách khác, tư tưởng Hàn này chính là triết học thống nhất thành một trục tương

    thích giữa thế giới quan và nhân sinh quan (nhận thức luận, giá trị luận) [44, tr. 48-51].

    Theo Kim Seung Dong, ý niệm về Thiên chính là cái bản thể của lịch sử tư

    tưởng triết học Hàn Quốc qua các thời kỳ. Ông cho rằng từ thời thượng cổ dân tộc

    Hàn đã có tư tưởng về Thiên, từ đó hình thành nên nguyên lý tồn tại người đồng

    thời coi đó là cội nguồn của vạn vật và nhận thức. Nói cách khác, ý niệm về Thiên

    là căn cứ cho ý niệm về con người trong triết học ‘Hàn’. Từ thời đá cũ cho tới thời

    đại kim khí, tín ngưỡng về Thiên này chỉ thần mặt Trời, tới thời ba bộ tộc Tam Hàn,

    qua các nghi lễ tế Thiên, thái độ kính Thiên của người Hàn vẫn được tiếp nối vào

    thời bấy giờ. Thiên khi đó được gọi là Ha nal, Ha nul, Ha neul, tức là Trời. Tới thời

    Tam quốc, bắt đầu có sự du nhập của Tam giáo, Ha neul được đồng nhất với Thiên

    đế, Thượng đế hay Thiên. Thiên được gọi với nhiều tên khác nữa như Phong lưu -

    âm phát ra là ‘buru’, gần với chữ ‘burk’ - gắn với màu đỏ của mặt trời, rồi các chữ

    ‘kan’ hay ‘han’ thì mang nghĩa ‘to’, ‘cao’, ‘một’, dùng để chỉ các thủ lĩnh hay vua

    của một nước. Thời Goryo, nhiều hình thức khác nhau về ý niệm Ha neu nim như

    Chủ tể (主宰), Vận mệnh (運命), Nhiếp lý (攝理), Đạo đức (道德), hay âm dương ngũ

    hành (陰陽五行的) được phát triển, làm phong phú thêm nghĩa cho khái niệm này.

    Dẫn chứng về mặt văn bản được Kim Seung Dong phát hiện trong Thập huấn điều

    của Thái tổ Wang Geon từ ‘Thiên linh’ chỉ Thần thái dương - vị thần mang lại ánh

    sáng, nhiệt độ và ánh hào quang là Trời. Tới thời Jo Seon, quan niệm về Thiên

    truyền thống của Hàn Quốc mang nặng dấu ấn Nho giáo do chính sách bài xích Đạo

    và Phật. Thiên được biến dụng thành các nghĩa như Thiên mang tính vận mệnh chủ

    thể của Khổng tử, Thiên mang tính nghĩa lý của Mạnh tử, mang tính chất âm dương

    ngũ hành của khái niệm Thiên trong quan niệm của Đổng Trọng Thư và Thiên với

    nghĩa là nguyên lý trong Trình Chu học [44, tr. 19-23].

    Một công trình khác bàn về lịch sử của cái bản thể từ khía cạnh tôn giáo là

    công trình của tác giả Lee Gyong Won có tiêu đề Tư tưởng tôn giáo của Hàn Quốc

    - Lật lại vấn đề thực tại cùng cực. Trong công trình này, tác giả cho rằng tư tưởng

    tôn giáo về bản chất là tư tưởng thể hiện tâm lý hướng tới cái vô hạn của con người,

  • 25

    là năng lực đặc biệt, khác với con vật - chỉ có con người mới là tồn tại mang tính

    tôn giáo.Chủ đề triết học tương ứng là quan niệm về Thực tại cùng cực [62, tr. 7- 8].

    Theo tác giả, trong thế giới tinh thần của người Hàn Quốc, tính bản sắc của triết học

    Hàn Quốc có trong khái niệm ‘Hàn’ với nhiều ý nghĩa khác nhau, ngày nay được

    gọi là Ha na nim và vẫn thường được hiểu là ‘Một’ (trong tiếng Hàn, Ha na là Một).

    Từ khía cạnh triết học là nhất nguyên luận, từ thần luận là tính thần nhân bất ly,

    nhấn mạnh tới tính chủ thể của con người với tinh thần đề cao tồn tại người có Linh

    Nhục hợp nhất [62, tr. 20]. Trong công trình này, tác giả đã khảo sát và đưa ra

    những khái niệm được dùng để chỉ Thực tại cùng cực trong lịch sử tư tưởng triết

    học Hàn Quốc. Cụ thể như sau:

    Trong phần về Phật giáo Hàn Quốc, tác giả đưa ra ý niệm Tâm thể (心體) của

    sư Won Hyo và sư Ji Nul: “Tâm không chỉ đơn thuần là tác động của tinh thần mà

    điểm đặc biệt của nó là, nó là cái bản thể của thế giới, nên là Tâm thể. Với con

    người thì nó là một thực thể có thể dấy lên sự sáng tạo đạo đức còn với thế giới, nó

    là đại chủ tể siêu việt” [62, tr. 35].

    Trong phần về Nho giáo Hàn Quốc, tác giả đưa ra hai thuật ngữ là Thiên (天)

    và Thái cực (太極) để chỉ ý niệm về Thực tại cùng cực. Theo tác giả, Thiên vốn

    được phân tích với nhiều ý nghĩa như Thiên nhân cách, Thiên định mệnh, Thiên lý

    pháp mang tính hình nhi thượng nhưng tựu chung có hai nghĩa: Thiên là đối tượng

    của tín ngưỡng và Thiên là lý pháp chỉ nguyên lý của vũ trụ [62, tr. 127]. Ý niệm về

    Thiên trong Nho giáo qua kinh điển được tác giả tổng hợp trong một số nội dung:

    Thiên là tồn tại chủ quản Mệnh, là tồn tại gốc của giá trị; tồn tại chủ tể hiện tượng

    tự nhiên và thưởng phạt [62, tr. 149-154]. Thái cực trong Nho học chính là ý niệm

    về Lý với nghĩa là nguyên lý.

    Cụ thể hơn, tác giả đưa ra kiến giải về khái niệm này trong tư tưởng Chủ Khí

    của Hwa Dam với nghĩa là ‘cái bản thể của thế giới thái hư, không thanh nhưng khả

    thính, không mùi nhưng khả khướu’ và nhấn mạnh tới tính chỉ thị của Lý với Khí -

    cái được chỉ thị - với tính tự động và tự giác [62, tr. 168]. Khái niệm Lý trong tư

  • 26

    tưởng Chủ Lý của Toe Gye được phân tích là tồn tại siêu vượt và không nội tại

    trong sự vật, mang tính năng phát và năng sinh, là tồn tại ra lệnh cho vật [62, tr.

    171]. Ý niệm về quan hệ giữa Lý và Khí trong tư tưởng của Yul Gok được tác giả

    luận giải là quan hệ tổng thể và quan hệ toàn thể, nhấn mạnh sự bất khả phân và

    diệu hợp của cả hai trong việc sinh thành vạn vật [62, tr. 173-174].

    Trong phần về học phái Thực học Hàn Quốc, tác giả cho rằng tư tưởng Thiên

    Nhân tương cảm là chiều kích của tính tôn giáo trong Nho giáo. Tác giả Lee Gyong

    Won đưa ra dẫn chứng là nhân vật Mi Su Hoe Mok (1595-1682) với quan niệm về

    Thiên với những nội dung: Thiên là tồn tại khởi nguồn của phán đoán về giá trị

    hướng tới cái Thiện. Thiên nhân cách hiện diện thông qua việc cảnh tỉnh, giám sát

    hành vi của con người. Con người có quan hệ với Thiên qua năng lực cảm ứng, đó

    là quan hệ chủ thể tác động và ứng đáp thông qua hành vi của con người. Phương

    tiện cảm ứng giữa con người và Thiên là Quỷ thần với nghĩa là sự tác động của Khí

    vận. Sự tác động thông thường của quỷ thần là dấu hiệu cho thấy con người đang

    hành Thiện một cách đúng đắn [62, tr. 194-202]. Tác giả dẫn ra một nhà tư tưởng

    khác có cùng quan điểm Thiên nhân cảm ứng là Paek Ho Yun Huy (1617-1680).

    Ông cũng có quan điểm coi Thiên là tồn tại mang tính tự nhiên. Vũ trụ, con người

    và sự vật đều chịu sự chăm sóc và chủ tể cũng như ý chí của Thiên. Sự cảm ứng

    giữa con người và Thiên dựa vào tiền đề cho rằng con người là cái Tâm của Thiên

    địa, là nơi quỷ thần tụ họp. Sự cảm thông giữa con người và Thiên được hiển hiện

    thông qua họa và phúc mà con người hưởng, ngược lại con người cũng có thể cảm

    ứng được Thiên qua Khí hóa [62, tr. 207-215]. Khái niệm Thiên trong tư tưởng của

    Seong Ho Lee Ik là khái niệm chỉ tính Lý pháp (quy luật) và nhân cách.

    Bước sang thế kỷ 18, tư tưởng về Thiên được tiếp nối trong tư tưởng Thực học

    của Da San Jeong Yak Yong (1762~1836). Thiên trong tư tưởng của Jeong Yak

    Yong là Thiên linh minh và chủ tể. Thiên linh minh là Thiên mang tính vật lý với tư

    cách là hiện tượng tự nhiên, Thiên chủ tể là Thiên nhân cách có ý chí và chủ quản

    thế giới này. Jeong Yak Yong dùng từ ‘Thượng đế Thiên’ để chỉ đặc tính nhân cách

    của Thiên - vị thần tối thượng có quyền uy, là đối tượng của nghi thức cầu tế mang

  • 27

    tính tôn giáo. Thượng đế Thiên là tồn tại cực cao lớn, là vị độc thần, có tính duy

    nhất, siêu việt và linh minh [62, tr. 244-245].

    Thiên Chúa trong Thiên Chúa giáo Hàn Quốc được Lee Gyong Won khảo cứu

    qua tư tưởng Thiên Chúa của Kwang Am Lee Byok (1754-1789). Thiên trong tư

    tưởng của Kwang Am có một số nghĩa: thứ nhất, nó là ý niệm chỉ sự điều hòa tự

    nhiên và tồn tại Thiên Chúa; thứ hai, Thiên Chúa là cội nguồn của trật tự lý tính.

    Con người theo đó là tồn tại có linh hồn, hưởng cái phúc vĩnh cửu thông qua hệ giá

    trị được nội diên hóa trong tâm linh của chính nó, con đường hướng tới vĩnh phúc là

    tìm hiểu ý chí và sự tồn tại của Thiên Chúa trong linh hồn và bằng việc thực hiện

    Thánh đạo với tâm thế luôn chăm chỉ, phản tư về hành động của bản thân và biết sợ

    cuộc sống sau cái chết [62, tr. 298- 323].

    Có thể nói rằng, công trình của Kim Seung Dong và Lee Gyong Won đã khảo

    luận khá đầy đủ và chi tiết ý niệm về Thiên trong triết học Hàn Quốc qua các trào lưu

    tư tưởng trong lịch sử tư tưởng triết học Hàn Quốc. Qua các khảo luận này, ta nhận

    thấy một sự liên tục trong việc phát triển ý niệm về Thiên, sự biến dụng của ý niệm này

    sau quá trình tương tác với các hệ ý thức ngoại lai của nền triết học này. Qua đây có thể

    thấy ý niệm về Thiên với tư cách là cái bản thể trong triết học Hàn Quốc, là một trục

    không thể thiếu trong việc định hình ý niệm về con người của triết học Hàn Quốc. Với

    truyền thống ý niệm về Thiên nói trên, đến giai đoạn cuối thế kỷ 19, hẳn nhiên triết học

    Hàn Quốc không thể không có những phản ứng trong quá trình tiếp xúc với ý niệm về

    Thiên của phương Tây nói chung và Ki tô giáo nói riêng.

    * Liên quan tới tư tưởng nhân bản Hàn Quốc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

    Các công trình