Bài 1 Hoạt động quản trị website & hosting server - Quản trị website
TẬP NĂM TRỊ QUỐC BÌNH THIÊN HẠ - phapmontinhdo.vnphapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI...
Transcript of TẬP NĂM TRỊ QUỐC BÌNH THIÊN HẠ - phapmontinhdo.vnphapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI...
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
1
TẬP NĂM
TU THÂN - TỀ GIA -
TRỊ QUỐC - BÌNH THIÊN HẠ
Kính thưa chư vị trưởng bối, chư vị đồng học, chư vị học trưởng,
xin chào mọi người!
Hôm nay, lớp cổ văn chúng ta cùng nhau học “Quần Thư Trị Yếu”
tiết thứ hai. Giao lưu cùng với mọi người, áp lực của tôi rất lớn. Tại sao
vậy? Bởi vì “Thư đáo dụng thời phương hận thiểu”, “thiếu tiểu bất nỗ
lực, lão đại đồ thương bi”. Trước đây ham chơi, không cố gắng học tập
tích lũy, bây giờ thật sự là bấm bụng mà chia sẻ “Quần Thư Trị Yếu”
với mọi người, cũng mong muốn bản thân mình cố gắng thâm nhập học
tập “Quần Thư Trị Yếu”, cho nên mỗi một tiết học cũng xin chư vị tiền
bối, học trưởng giúp đỡ chỉ dạy. Có chỗ nói không đúng, nói không
thỏa đáng, xin mọi người chỉ ra chỗ sai.
Lần trước đã chia sẻ với mọi người đến chỗ Thừa tướng Ngụy
Trưng viết phần lời tựa. Chúng ta tiếp tục phần cuối của đoạn văn tựa
này. Lời văn nói: “Đản Hoàng Lãm biến lược, tùy phương loại tụ, danh
mục hỗ hiển, thủ vĩ hào loạn, văn nghĩa đoạn tuyệt, tầm cứu vi nan”.
Chỗ này nói đến thời đại Tam Quốc, thời nhà Ngụy đã biên soạn một bộ
sách đặc biệt, hội tập sách vở xưa và đương thời để cho Hoàng đế
nghiên cứu, biết rõ được cách trị quốc, nên sách được gọi là “Hoàng
Lãm”.
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
2
“Biến lược”, chữ “biến” có nghĩa là mọi vấn đề đều có trong sách
vở, cho nên việc hội tập rất là trân trọng.
“Tùy phương loại tụ”, chữ “loại tụ” này là đã được phân loại.
Những quyển sách này đã được biên tập xong, hội tập xong.
“Danh mục hỗ hiển”. “Hỗ hiển” có nghĩa là danh mục của sách,
những tình huống trùng lặp có những chỗ cần phải cải thiện, gọi là danh
mục trùng lặp.
“Thủ vĩ hào loạn” là nội dung trước và sau khi biên soạn có thể có
chút ít lộn xộn, tạo thành “văn nghĩa đoạn tuyệt”. Giống như toàn bộ
Kinh Văn, lịch sử đều được đọc lại, nghĩa văn và nội dung của nó
không được nối liền xuyên suốt. “Đoạn tuyệt” chính là bị ùn tắc, tắc
nghẽn. Những tình huống này thì nghĩa của câu văn bị cắt đoạn không
được xuyên suốt.
“Tầm cứu vi nan” có nghĩa là Kinh Văn, lịch sử phải được truy
tìm tận nguồn gốc. Để thông đạt được nội dung, lý lẽ thì tương đối khó
khăn, cho nên việc biên tập quyển “Quần Thư Trị Yếu” cũng là
lấy “Hoàng Lãm”, điều tốt học tập, những chỗ chưa thỏa đáng đính
chính thêm vào, lấy những điều tốt hơn để biên soạn thành một Bộ Bảo
Điển Trị Quốc. Cho nên “Kim chi sở soạn”, ngày nay việc biên soạn bộ
“Quần Thư Trị Yếu” này, “dị hồ tiên tác”, cùng với “Hoàng Lãm” có
sự khác nhau, lấy cái hay, loại cái dở.
“Tổng lập tân danh”. Chữ “tổng lập” này là hội tập những đoạn
ngắn tinh hoa trong cả bộ Quần Thư. “Tân danh” là tên mới. Liều mình
lấy tên mới, nhưng “các toàn cựu thể”, tuy là đã hội tập những tinh hoa
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
3
của quyển Quần Thư này rồi nhưng phải giữ nguyên thể lệ của quyển
sách gốc để biên soạn, hoàn toàn không thay đổi thể lệ của quyển sách
gốc. Mục đích chủ yếu càng không có sự sửa đổi quyển sách gốc, hy
vọng có thể “dục lệnh kiến bổn chi mạt nguyên thủy yếu chung”. Giống
như lúc đang xem bộ sách này, cổ nhân cầu học đặc biệt “cường điệu
vụ bổn, quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh”. Xem Kinh, xem sử,
những quyển sách xưa này hoàn toàn không phải để tiêu khiển, mà là để
nâng cao trí huệ cho bản thân mình, nâng cao tri thức đời người. Đặc
biệt, mỗi khi xem một đoạn Kinh Văn đều có thể hiểu được đạo lý căn
bản ở trong đó.
“Kiến bổn tri mạt” là xem nội dung của bản hội tập thì sẽ biết
được gốc ngọn của đạo lý. Hơn nữa, “nguyên thủy yếu chung”, là so
sánh với lịch sử, đem lịch sử từ đầu đến cuối trình bày rõ ràng đầu đuôi
ngọn ngành. Không chỉ trình bày rõ ràng mà sau đó còn giải thích
những câu chuyện lịch sử này để làm gương cho chúng ta.
Tiếp theo là: “Bính khí bỉ xuân hoa, thái từ thu thực”. Đây là một
thí dụ đóa hoa tàn đi thì để lại quả, chính là trong số sách nhiều như
vậy, những điều tương đối không quan trọng thì lượt bỏ, chỉ để lại
những điều nổi bật. “Tu tề trị bình” là nội dung của những học thức
này. Mọi người thấy, bộ sách này là sự chắt lọc tinh hoa, tâm huyết của
cổ nhân để lại cho chúng ta, vì vậy chúng ta nên xem với thái độ trân
quý.
Thưa chư vị học trưởng! Giả như trước khi chúng ta biết được việc
biên soạn bộ Quần Thư này có hơn một vạn quyển được chỉnh lý sàng
lọc, nếu để cho các vị lao vào một vạn quyển sách này thì các vị sẽ như
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
4
thế nào? Liệu các vị có bơi trở về được không? Hiện giờ các vị hãy yên
tâm, chỉ có sáu mươi lăm quyển với 500 ngàn chữ, toàn là tinh hoa. Cho
nên, chúng ta thấu hiểu được sự tận tâm suy xét của bậc Hiền Nhân,
tâm cảm ơn, tâm cung kính của chúng ta liền sanh khởi. Nên đọc mỗi
một chữ thật dụng tâm chuyên chú, giống như có cảm ứng vậy, thần
giao cổ nhân, có thể hiểu sâu sắc nghĩa lý trong đó.
Lần trước chúng tôi có chia sẻ với các vị, lợi ích của việc học tập
là do tự bản thân chúng ta quyết định, “một phần thành kính được một
phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích, trăm phần
thành kính được trăm phần lợi ích, ngàn phần thành kính được ngàn
phần lợi ích, vạn phần thành kính được vạn phần lợi ích”. Thưa các vị!
Đoạn văn các vị vừa đọc đó là tri thức hay là học vấn? Nếu xem nó chỉ
là văn tự thì hời hợt đọc qua, còn trong lúc đọc đoạn văn này với thái độ
thành kính của chính mình, thì với mỗi câu các vị sẽ không ngừng được
nâng đến điểm cao nhất. Thời gian trong tuần này, trước khi lật sách ra,
việc đầu tiên có để lên trán đảnh lễ rồi sau đó mới mở sách ra hay
không? Nếu có, vậy đã thật làm. Cảnh giới được nâng cao không có gì
khác hơn là y giáo phụng hành. Các vị có nuôi dưỡng thói quen này hay
không? Trước đây xem thì chưa hiểu, tuần này nhìn thấy thì hiểu, đó
chính là tâm thành kính của các vị đã được cảm thông rồi.
Chúng ta đọc phần lời tựa này cũng có thể cảm nhận được việc
biên soạn của bậc Thánh Hiền. Các Ngài tốn rất nhiều công sức mới
biên soạn hoàn hảo. Cho nên nói đến: “Nhất thư chi nội, tuyển nhập
đích mỗi nhất bổn thư”, nội dung sưu tập “nha giác vô di”. Đây là thí
dụ có đầu có đuôi, toàn bộ kết cấu của nó rất hoàn chỉnh, không bị thiếu
sót. “Nhất sự chi trung” là một câu chuyện trong lịch sử. “Vũ mao hàm
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
5
tận” cũng là thí dụ đến cả chi tiết bé xíu cũng không bỏ sót, chính là sự
toàn diện rất hoàn chỉnh. Y theo nguyên tắc như vậy để biên soạn bộ
sách này. Ngụy Thừa tướng tin tưởng chắn chắn bộ sách này “dụng chi
đương kim, túc dĩ giám lãm tiền cổ”, là tiếp nhận, tiếp thu những nội
dung này. “Dụng tại đương tiền” là dùng ở lúc hiện tại có thể “giám
lãm tiền cổ”, tức là có thể lấy giáo dục của bậc Thánh Hiền ở trong lịch
sử từ mấy ngàn năm trước làm gương để làm tốt hơn nhiệm vụ trước
mắt của chúng ta, cho dù là tề gia hay là trị quốc, bình thiên hạ.
Con người nếu như trong việc xử sự đều lấy kinh nghiệm mấy
ngàn năm lịch sử làm nền tảng thì làm việc rất là suôn sẻ. Từ đây suy
luận ra, không biết mọi người có để ý cổ nhân khi gặp phải chuyện thì
liền nghĩ đến thời Xuân Thu có câu chuyện gì có thể lấy ra làm tấm
gương, thời nhà Hạ có câu chuyện gì có thể lấy ra làm tấm gương. Kính
thưa các vị! Ngày nay chúng ta gặp phải chuyện thì trong đầu có nghĩ
đến việc lấy thời đại nào làm tấm gương cho ta hay không? Hình như
không nghĩ ra, là một mảng trống không, không bị phát cáu là hay lắm
rồi ở đó mà còn lấy giai đoạn lịch sử nào ra làm tấm gương. Lúc này thì
các vị đang ưu tư bất ổn định, trong đầu nhất định là bị rối loạn. Người
xưa không chỉ có những tấm gương ở trong lịch sử, các Ngài rất có định
lực, rất vững vàng, đó là do từ nhỏ đã được xây dựng nền tảng, nhất cử
nhất động đều giữ lễ nghi phép tắc, tâm không tán loạn. Các vị nghĩ
xem, giả như hiện nay thời gian không gian đảo ngược lại, để cho các vị
lên ngôi Hoàng đế, bên dưới là văn võ bá quan, xin hỏi các vị ngồi trên
cái ghế của nhà vua có được vững hay không? Toàn bộ mọi người sẽ
trừng mắt nhìn các vị: “Hoàng thượng!”. Lúc đó các vị phải có định
lực, phải có sự can đảm và sự hiểu biết thì mới ngồi được. Bây giờ gọi
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
6
các vị lên làm Hoàng hậu thì các vị có ngồi được hay không? Nếu
chúng ta làm tỳ nữ thì có thể ngồi vững rồi. Các vị xem, một vị mẫu
nghi thiên hạ thì cần phải có tâm lượng rất khoan dung độ lượng, định
lực, trí tuệ. Nếu không, các vị nói sai một câu thì xong rồi, “Tả Sử Kí
Ngôn” lập tức ghi chép chuyện của bạn truyền đi khắp nơi, đầu độc
khắp thiên hạ, người dẫn đầu làm sai. Cho nên ngày xưa làm vua, làm
Hoàng hậu là chuyện không dễ dàng, huống chi là Trưởng tôn Hoàng
hậu thì càng phải vững vàng hơn trong những cơn tức giận của Đường
Thái Tông, khéo léo khuyên can Hoàng đế để cho Hoàng đế tiếp nhận
lời khuyên. Các vị xem, phải có kiến thức, có trí tuệ.
Đường Thái Tông rất yêu thích ngựa. Có một lần, con ngựa mà
nhà vua yêu thích bị người nuôi ngựa làm chết. Nhà vua vô cùng nổi
giận, lập tức hạ lệnh xử tử người này. Các vị là một vị quan ở bên cạnh
nhà vua, ngay lúc đó thì phải làm sao? “Ai nói thì sẽ chết chung với
người nuôi ngựa đó”, các vị có dám nói không? Chuyện này mà không
có định lực, không có sự thông suốt về lịch sử, có lúc ứng phó với
chuyện như vầy cũng bị lúng túng. Lúc đó Trưởng tôn Hoàng hậu liền
kể một câu chuyện: “Thưa Hoàng thượng! Vào thời Xuân Thu, Tề Cảnh
Công rất yêu thích ngựa. Con ngựa mà ông yêu thích bị người nuôi
ngựa làm chết đi. Ông rất tức giận, nói phải xử tử hắn, ai cầu xin sẽ
chết giống như hắn. Ngay lập tức, Thừa tướng Yến Tử nói: “Người này
thật đáng chết, mang đao đến đây cho ta để ta chém, hắn thật đáng
chết””. Các vị xem, Hoàng đế đang nóng giận như vậy, Thừa tướng
Yến Tử nói: “Người này thật đáng chết, mang đao đến đây cho ta, hắn
thật đáng chết”, ông làm theo ý của nhà vua, chẳng nghịch ý của nhà
vua. Sau đó thì nói với người nuôi ngựa: “Ta nói cho ngươi biết, ngươi
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
7
phạm ba tội lớn đáng chết. Thứ nhất, ngươi làm chết con ngựa yêu
thương nhất của nhà vua, ngươi có đáng chết hay không? Thứ hai, nhà
vua vì ngươi làm con ngựa chết mà phải giết nhà ngươi, làm cho cả
quốc gia biết được nhà vua chỉ vì một con ngựa mà phải giết đi quân
lính của Ngài. Làm cho cả quốc gia biết được nhà vua làm việc này,
ngươi có đáng chết hay không? Hơn nữa, lại để cho toàn thể thiên hạ
biết được nhà vua của chúng ta chỉ vì một con ngựa mà giết người, đây
là tội lớn thứ ba”. Vừa nói xong, nhà vua nói: “Được rồi! Tha cho hắn
đi!”.
Trưởng tôn Hoàng hậu lúc đó lập tức nghĩ ra câu chuyện của thời
Xuân Thu. Đương nhiên cuối cùng Đường Thái Tông cũng nói: “Được
rồi, được rồi!”. Các vị không nghịch với ý của nhà vua, nhưng cùng lúc
dùng một câu chuyện lịch sử để khơi dậy chánh niệm của nhà vua, cơn
tức giận của nhà vua sẽ không còn nữa. Cho nên các vị xem, hiện nay
chúng ta muốn đi khuyên một người, có thể khéo léo kể một câu chuyện
cho họ nghe để cho họ có thể tiếp nhận hay không. Điều này phải thấu
triệt, chúng ta tích lũy kiến thức mới được. Vì vậy, muốn giúp một
người không phải dễ, các vị phải bình tĩnh, các vị phải có trí tuệ, các vị
phải có sự từng trải. Vì vậy, cổ nhân đọc Kinh Điển đều thông đạt lý và
sự. Đọc lịch sử, xem quá khứ đoán được tương lai, kiến thức vô cùng
phong phú. Cho nên ở đây nói đến: “Dụng chi đương kim, túc dĩ giám
lãm tiền cổ”.
Mọi người chúng ta sau khi học mấy tháng, hai bên có thể thảo
luận với nhau. Thí dụ như tuần lễ này có thể đến sớm hai mươi phút,
đem câu chuyện các vị gặp phải trong tuần này ra thảo luận với mọi
người, sau đó nói: “Các vị xem câu chuyện này theo nội dung của
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
8
“Quần Thư Trị Yếu” thì chỗ nào có thể bắt chước được rất tốt?”. Mọi
người cùng nhau thảo luận, cùng nhau nghiên cứu. Từ ánh mắt của các
vị, tôi có cảm giác hình như các vị không tự tin có thể làm được. Học
một việc gì thì trước tiên phải có niềm tin. Thật vậy! Mọi người dùng
cái tâm như vầy mà thâm nhập, dùng tâm như vầy để thảo luận, thật sự
là có thể làm được.
“Truyền chi lai diệp, khả dĩ di quyết tôn mưu, truyền chi tương
lai”. Chữ “di” này chính là để lại cho đời con cháu, để vạch ra kế
hoạch cho cuộc đời của họ, bởi vì họ có thể làm gương. Các vị Thánh
Hiền này đã để lại những kinh nghiệm quý báu. Câu nói này phải thuộc
lòng.
“Dụng chi đương kim, túc dĩ giám lãm tiền cổ, truyền chi lai diệp,
khả dĩ di quyết tôn mưu”. Tiến thêm một bước nữa, “dẫn nhi thân chi”,
đem những điều giáo huấn học được trong Kinh, Sử, Tử triển khai rộng
ra trong mọi phương diện đối nhân xử thế, có thể “xúc loại nhi
trưởng”, gọi là “xúc loại bàng thông”. Điều này cũng phù hợp với tinh
thần của Khổng Tử, học một có thể biết được mười.
Hôm nay, chúng ta vừa bàn đến câu chuyện của một vị vua trị
quốc, mà sự thật “dục trị kỳ quốc giả tiên tề kỳ gia”, cái lý này nhất
định có thể dùng trong việc tề gia của chúng ta. “Dục tề kỳ gia giả tiên
tu kỳ thân”, cũng có thể xem xét lại sự tu dưỡng của chính chúng ta để
thể hội, để tiếp nhận, như vậy mới có thể “xúc loại nhi trưởng”. Có thể
là vừa ngộ thì các vị có thể cảm thấy ngộ ra tất cả mọi phương diện của
cuộc sống. Nền giáo dục Phương Đông của chúng ta đặc biệt xem trọng
việc nâng cao tánh ngộ, chứ không phải là sự truyền bá kiến thức.
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
9
“Cái diệc ngôn chi giả vô tội, văn chi giả túc dĩ tự giới”. Câu nói
này là tinh thần của “Thư Kinh”, bởi vì nội dung của “Thư Kinh” rất
phong phú, do sưu tầm ca dao của các quốc gia thời đó. Mà ca dao thì
thường hay phản ánh tâm tư của người dân, thường hay nhắc nhở những
người cầm quyền được gì và mất gì trong chính trị.
Chúng tôi trước đây nhớ hình như có xem bộ phim “Vườn
Trường”, học sinh đều đặt biệt hiệu của giáo viên, có đúng không?
Đương nhiên nhìn từ một góc độ sẽ cảm thấy học sinh như vậy là không
tôn trọng thầy cô giáo, nhưng từ một góc độ khác, khi học sinh đặt biệt
hiệu cũng chính là sự cảm nhận như thế nào của học trò đối với thầy cô
giáo đều nói ra hết. Giả như chúng ta là giáo viên hướng dẫn, nghe
được biệt hiệu học sinh đặt cho chúng ta thì có nên nổi giận hay không?
Đây cũng là một cách bày tỏ tâm trạng (đương nhiên là phải từ từ dạy
bảo các em tôn trọng thầy cô giáo), nhưng mà có lúc vì tình người, các
vị không nên gấp gáp phê bình, áp đặt. Các em chưa chắc chịu tiếp
nhận. Ngược lại, lúc này chúng ta có thể suy nghĩ lại, có thể điều chỉnh
lại, có thể dùng đức hạnh để cảm hóa học sinh.
“Văn chi giả túc dĩ tự giới”, không chỉ là một lớp, thậm chí là cả
một đoàn thể. Các vị là lãnh đạo của một đoàn thể, cấp dưới có những
cách nhìn đối với các vị, họ cũng bày tỏ nỗi ưu tư, chúng ta phải nên
rộng lượng khoan dung.
“Ngôn chi giả vô tội, văn chi giả túc giới”. Chúng ta ở cấp trên có
cần chỉnh sửa chỗ này hay không? Chỉ vài người chịu nghe lời nói thật,
chịu lắng nghe lời tâm sự của người khác. Trừ khi chúng ta có thể
buông bỏ được sĩ diện, thật sự phải rất khoan dung mới có thể tiếp nhận
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
10
lời khuyên của người khác, nếu không thì không thể nghe được những
lời nói thật.
“Đức bất quảng bất năng sử nhân lai, lượng bất hoằng bất năng
sử nhân an”. Những lời này thật ra, đối với chúng ta khi có phước báu
trở thành người lãnh đạo của một đoàn thể, phải lấy điều này làm tấm
gương. Luôn luôn đề cập đến, lãnh đạo của một đoàn thể là do nhân
duyên tụ hội. Người trong cả đoàn thể đều có một phần tín nhiệm đối
với chúng ta để có cái nhân duyên này. Chúng ta phải nên trân quý,
cũng phải làm cho xứng với cái duyên này. Đức hạnh rộng lớn mới có
thể cảm hóa mọi người đến với mình. Chúng tôi tiếp xúc với rất nhiều
vị lãnh đạo đoàn thể mà gặp phải những tình huống nảy sinh trong đoàn
thể thì nổi giận ngay lập tức. Cái đức này không rộng, sự khoan dung
cũng quá nhỏ bé, không phù hợp với lời dạy bảo của cổ Thánh Tiên
Hiền. Cổ Thánh tiên Vương đã để lại cho những người lãnh đạo một lời
dạy vô cùng quan trọng: “Vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung”. Bản
thân của các Ngài là quốc vương, thiên tử, toàn bộ tội lỗi của người dân
đều có phần trách nhiệm của các Ngài. Như vua Nghiêu, vua Thuấn,
các Ngài cảm thấy nhân dân gặp trở ngại là do các Ngài chưa tận hết
trách nhiệm dạy bảo. Đây chính là đức hạnh và cũng là lý trí. Trong
đoàn thể có vấn đề, người lãnh đạo trước tiên là nổi giận, trách
mắng. “Các tương trách, thiên phiên địa phúc”. Bản thân họ đã không
còn lý trí thì làm sao khai mở trí tuệ cho người khác, việc này không thể
nào. Hiện nay, đoàn thể không giữ được người thì người lãnh đạo phải
suy nghĩ lại vấn đề nơi bản thân của mình. Vì sao vậy? Giữa người với
người đều là sự chiêu cảm tự nhiên, không phải là sự cưỡng ép. Mọi
người sống chung với chúng ta rất hoan hỷ tự nhiên sẽ chiêu cảm người
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
11
khác đến. Họ cảm thấy ở trong đoàn thể của chúng ta được tăng thêm trí
tuệ, rất vui vẻ, phát triển rất tốt thì họ rất vui vẻ chủ động kéo đến,
không cần lôi kéo, không cần kêu gọi, đều là do cảm ứng. Đời người
đều là do duyên giữa người với người, cũng không nằm ngoài hai
chữ “cảm ứng”.
“Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân”. Chúng ta đều hiểu rõ đạo
lý giao cảm này. Lúc chúng ta không giữ được người, một người lãnh
đạo nhất định không nên trách mắng người khác. Lãnh đạo mà trách
mắng người khác thì phước báu, tâm tánh không ngừng bị giảm sút.
Không còn phước báu thì không còn làm lãnh đạo nữa. Có phước mà bị
mất đi thì rất oan uổng.
“Lượng bất hoằng bất năng sử nhân an”. Phải có lòng khoan dung
mới có thể làm cho mọi người sống chung với các vị an tâm, an ổn, an
lạc.
Chúng ta học được câu nói: “Ngôn chi giả vô tội, văn chi giả túc dĩ
tự giới”. Thái Tông Hoàng đế rất tinh tế sâu sắc. Tinh thần của “Thư
Kinh”, tiếng nói từ đáy lòng của người thân, của thần dân, các vị hãy cố
gắng nghe để tu chỉnh bản thân mình. Hoàng đế Thái Tông không
những nghe mà còn chủ động hướng dẫn quan quân đến khuyên
Ngài: “Thiên cổ nhất đế”. Không đơn giản! Bản thân chúng ta từ thái
độ của Thái Tông, chúng ta nói: “Xúc loại nhi trưởng”. Quay lại bản
thân chúng ta, hiện giờ nếu có người thân, người bà con, người ở bên
cạnh nói với các vị: “Tôi xin có ý kiến với anh”, thì trong lòng như thế
nào? Tim đập phình phịch, tim có đập nhanh hơn bình thường không?
Kỳ lạ thật, chỉ là kể với các vị một việc, đưa ra ý kiến thì tại sao tim của
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
12
các vị lại đập nhanh hơn? Tim đập nhanh hơn chỉ là kết quả, xin hỏi
nguyên nhân là do đâu? Khởi cái sĩ diện lên, cho nên tim mới đập
nhanh hơn. Có khi nào vợ của các vị nói: “Em xin đề xuất ý kiến này”,
thì ngay lập tức các vị mỉm cười rạng rỡ: “Được! Nói đi, nói nhanh
đi!”. Có như vậy thì ta mới tiến bộ. Có ai được như vậy chưa? Xin nhận
tiểu đệ một lạy. Vậy là sự tu dưỡng của các vị không hề đơn giản, tinh
thần của Hoàng đế Thái Tông các vị học được rồi, Hoàng đế Thái Tông
cũng là lấy vua Nghiêu, vua Thuấn làm tấm gương.
Phần sau quyển “Quần Thư Trị Yếu” cũng nói đến, vua Nghiêu,
vua Thuấn ngay lúc đương thời, trước mặt bá quan văn võ cũng đều là
như vậy. Các vị hiện nay cũng nên đem vấn đề của tôi nói ra ở đây,
không nên đi ra khỏi cửa rồi mới nói như vậy, là “dĩ thiên hạ vi niệm”,
nơm nớp lo sợ, sợ là bản thân mình làm sai. Thời đại của Thái Tông,
quan quân khuyên can Ngài không bị áp lực, chủ động đề xuất ý kiến
với vua.
Lần nọ, có một vị quan đề xuất một số ý kiến. Thái Tông gật gật
đầu. Sau khi vị quan đó đi ra ngoài, có một vị cận thần ở bên cạnh nghe
xong thì không chịu được, nói: “Thưa Hoàng thượng! Vừa rồi vị quan
đó đưa ý kiến không đúng chút nào cả, sao Ngài không ngăn cấm ông
ấy vậy?Ông ấy nói hoàn toàn không đúng gì, không phải là chỉ ra cái
đúng cho Hoàng thượng”. Có những lúc người ta chỉ ra cái đúng của
chúng ta, chúng ta không được vui, không dẹp được sĩ diện. Cho nên,
mọi người muốn tu thân mà không bán hết sĩ diện thì thật sự tu không
được. Chúng ta học “Quần Thư Trị Yếu”, trước tiên phải bán cái sĩ diện
đi. Xin hỏi mọi người muốn bán bao nhiêu? Tôi sợ là tiền tôi mang theo
không đủ mua. Thật sự nên nói là, ai chịu kéo cái sĩ diện của mình
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
13
xuống, các vị nên cho họ tiền, các vị còn phải cảm ơn họ, mang ơn họ.
Ngày nay, ngoài cha mẹ và Sư Trưởng ra, có ai chịu nói với chúng ta?
Mọi người đều sợ bị đắc tội. Tội gì mà người ta làm cho các vị băn
khoăn! Thật sự dám nói với chúng ta, đó là đạo nghĩa chi giao.
“Thiện tương khuyên, đức giai kiến”, “hữu trực, hữu lượng, hữu
đa văn”, bạn bè như vậy là chánh trực. Đã nói nhiều như vậy, thật ra tôi
cũng rất sĩ diện. Giảng đoạn này cũng là không ngừng nhắc nhở chính
mình, lần sau thật sự khi nghe được lời khuyên của người khác có thể
tim không đập nhanh nữa, thật sự là có thể tiếp nhận với vẻ mặt ôn hòa,
nếu không thì lãng phí quá nhiều thời gian của mình, tâm tánh không
chỉ không được nâng cao mà còn bị biến chất. Đời người đáng thương
nhất là bị chính mình lừa dối chính mình, không có việc gì đáng thương
hơn việc này. Vì vậy, mọi người luôn luôn phải khuyên chính mình, tự
mình phải hiểu chính mình mới được.
Quan cận thần xung quanh không nhất định phải thể hội được tâm
tình của Thái Tông, ông cũng đã biểu lộ ra ngoài: “Thưa Hoàng
thượng! Hiện giờ hạ thần thấy chuyện bất bình không tha. Ông ấy nói
không đúng”. Thái Tông liền giải bày: “Ông ấy nói có một chuyện đúng
đối với ta thì nó có sự giúp đỡ rất lớn, cho dù là nói không đúng một
chuyện nào cả, ta cũng phải chấp nhận. Giả như ta phản bác, vị quan
này đi ra ngoài nói là “ta nói cái gì nhà vua cũng không được vui, còn
mắng ta một trận”. Chuyện này sau khi truyền ra bên ngoài có thể ảnh
hưởng đến việc can gián của bá quan văn võ”. Chuyện này truyền ra
bên ngoài thì có thể trong lúc khuyên can quan quân sẽ rất do dự, sẽ lo
âu, như vậy thì đối với cả quốc gia này không được lợi ích. Các vị xem,
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
14
nhà vua nhìn sự việc ở chiều cao khác nhau, Ngài muốn quan quân hình
thành thói quen khuyên can mà không có sự lo lắng.
“Văn chi giả túc dĩ tự giới, ngôn chi giả vô tội”. Không trách
mắng những vị quan này, thật sự có thể tiếp nhận được lời dạy bảo
trong “Quần Thư Trị Yếu”. Hơn nữa, câu nói: “Ngôn chi giả vô tội, văn
chi giả túc dĩ tự giới”cũng là nhắc nhở chúng ta, toàn bộ “Quần Thư Trị
Yếu” là nói để cho ta nghe, là để cho ta tự răn mình, nhất định không
phải để theo dõi người khác, yêu cầu người khác, phê phán người khác,
mà bản thân của chúng ta phải tự răn mình. Không chỉ “ngôn chi giả vô
tội” mà chúng ta còn phải có lòng biết ơn, cảm ơn tất cả sự dạy bảo của
Thánh Hiền. Tấm lòng như vậy, tin tưởng “thứ hoằng từ cửu đức, giản
nhi dị tung”, từ nơi bản thân chúng ta mà học tập. Sau khi đã tiếp nhận
rồi, chúng ta phải thực hiện “nhân năng hoằng đạo”. Chúng ta phải
thực hiện hoằng dương triển khai tất cả những đức tính làm người xử sự
trong Kinh Điển. Chữ “cửu” này chúng ta đã quen thuộc, tam lục cửu
vi đại. “Cửu đức” có thể chỉ ra rất nhiều đức tính quan trọng. Ngoài ra,
trong những loại sách khác cũng có dùng chữ “cửu đức”, như là trong
sách “Thượng Thư” cũng có.
“Cửu đức”, trước đây chúng tôi đã có giảng giải qua cho các vị
“Gián Thái Tông Thập Tư Sớ”, trong đó phổ biến là những mỹ đức
quan trọng. Sau khi học xong thì áp dụng, có thể triển khai rộng khắp.
Đặc biệt là đời nhà Đường, Hoàng đế hạ lệnh, bá quan văn võ nếu như
học tập, toàn thể mỹ đức được triển khai rộng ra, bởi vì có nhà vua dẫn
đầu.
QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360
15
Vì vậy, chúng tôi cũng hy vọng “Quần Thư Trị Yếu” có thể có
nhiều nhà chính trị cùng nhau đến học tập. Đương nhiên, nếu người
thân, bạn bè xung quanh các vị tham gia việc chính trị, làm lãnh đạo,
các vị có thể khéo léo giới thiệu cho họ bộ sách này. “Quân tử tín nhi
hậu gián”. Nếu muốn cho người ta tin tưởng thì trước tiên bản thân
mình phải làm cho tốt, để cho họ chấp nhận văn hóa truyền thống, có
niềm tin. “Giản nhi dị tùng”là giản tiện, dễ dàng thực hiện được. Bởi vì
bộ sách này là nắm chắc những vấn đề “tu - tề - trị - bình”. Bộ sách này
cũng không phức tạp, có thể đơn giản nắm chắc những cương lĩnh này,
sau đó có gắng mà thực hiện.
Cuối cùng là đề cập đến: “Quán bỉ bách vương, bất tật nhi tốc”.
Chữ “quán” này là những điều răn dạy. “Bách vương” là chỉ những vị
Thánh Hiền tiên vương trước đời nhà Đường, những lời răn dạy cổ đại,
những lời giáo huấn và kinh nghiệm của đế vương trị quốc này. “Bất tật
nhi tốc”. Mọi người xem văn ngôn văn này, mỗi một chữ đều có đạo vị.
Chữ “tật” này là sự sai lầm, chính là mượn những tấm gương của các
vị Thánh vương thời xưa để trị quốc, không được phạm quá nhiều lỗi
lầm. “Bất tật”, “nhi tốc”; chữ “tốc” này chính là nhanh chóng dẫn dắt
quốc gia được ổn định, giàu mạnh.