THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP...

21
THMÁY KHÔNG XÂM LN TRONG SUY HÔ HP CP TÍNH Tập thể BS Khoa HSCC Lược dịch theo: Non-invasive ventilation in acute respiratory failure British Thoracic Society Standards of Care Committee. Thorax 2002;57:192–211 Thông tin cơ bản • Thông khí không xâm lấn đã cho thấy được hiu quđiều trđối vi suy hô hp tăng CO2 cp tính, đặc bit là trong bnh phi tc nghn mãn tính. Thiết bcho NIV phải được chun bs n sàng sut 24 gimi ngày trong tt ccác bnh vin có khnăng điều trcác bệnh nhân như vậy. [A] • NIV không được s dụng để thay thế cho đặt ni khí qun và thông khí xâm ln khi việc đặt ni khí qun và thông khí xâm ln thích hợp hơn. [B] Định nghĩa suy hô hấp Suy hô hấp được định nghĩa là ssuy gim khnăng duy trì strao đổi khí đầy đủ và được đặc trưng bởi các bất thường ca áp lực khí máu động mch. Suy hô hp type 1 được xác định bi PaO2 <8 kPa, PaCO2 bình thường hoc thp. Suy hô hp type 2 được xác định bi PaO2 <8 kPa và PaCO2 > 6 kPa. Suy hô hp có thlà cp tính, cp tính trên nn mãn tính hoc mãn tính. Mc dù không phi luôn phân bit rõ ràng, sphân loi này là rt quan trng trong vic quy ết định các khu vực điều trbnh nhân và chon la chiến lược điều trthích hp nht, đặc bit là trong suy hô hp type 2: • Suy hô hấp tăng CO2 cp tính: bnh nhân skhông có, hoc ít bng chng ca bệnh đường hô hp tn ti ttrước và áp lực khí máu động mch scho thy PaCO2 cao, pH thp và bicarbonat bình thường. • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bng chng vbệnh đường hô hp mãn tính, PaCO2 cao, pH bình thường, bicarbonate cao. Suy hô hấp tăng CO 2 huy ết cp tính trên nn mãn tính: mt ssuy gim cp tính mt bnh nhân có suy hô hấp tăng CO2 huyết tn ti ttrước đáng kể , PaCO2 cao, pH thp, bicarbonat cao.

Transcript of THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP...

Page 1: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG

SUY HÔ HẤP CẤP TÍNH

Tập thể BS Khoa HSCC

Lược dịch theo: Non-invasive ventilation in acute respiratory failure British Thoracic Society Standards of Care Committee. Thorax 2002;57:192–211

Thông tin cơ bản

• Thông khí không xâm lấn đã cho thấy được hiệu quả điều trị đối với suy hô hấp

tăng CO2 cấp tính, đặc biệt là trong bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Thiết bị cho

NIV phải được chuẩn bị sẵn sàng suốt 24 giờ mỗi ngày trong tất cả các bệnh viện

có khả năng điều trị các bệnh nhân như vậy. [A]

• NIV không được sử dụng để thay thế cho đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn

khi việc đặt nội khí quản và thông khí xâm lấn thích hợp hơn. [B]

Định nghĩa suy hô hấp

Suy hô hấp được định nghĩa là sự suy giảm khả năng duy trì sự trao đổi khí đầy đủ

và được đặc trưng bởi các bất thường của áp lực khí máu động mạch. Suy hô hấp

type 1 được xác định bởi PaO2 <8 kPa, PaCO2 bình thường hoặc thấp. Suy hô hấp

type 2 được xác định bởi PaO2 <8 kPa và PaCO2 > 6 kPa. Suy hô hấp có thể là cấp

tính, cấp tính trên nền mãn tính hoặc mãn tính. Mặc dù không phải luôn phân biệt

rõ ràng, sự phân loại này là rất quan trọng trong việc quyết định các khu vực điều trị

bệnh nhân và chon lựa chiến lược điều trị thích hợp nhất, đặc biệt là trong suy hô

hấp type 2:

• Suy hô hấp tăng CO2 cấp tính: bệnh nhân sẽ không có, hoặc ít bằng chứng của

bệnh đường hô hấp tồn tại từ trước và áp lực khí máu động mạch sẽ cho thấy

PaCO2 cao, pH thấp và bicarbonat bình thường.

• Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng chứng về bệnh đường hô hấp mãn tính,

PaCO2 cao, pH bình thường, bicarbonate cao.

Suy hô hấp tăng CO2 huyết cấp tính trên nền mãn tính: một sự suy giảm cấp tính

ở một bệnh nhân có suy hô hấp tăng CO2 huyết tồn tại từ trước đáng kể , PaCO2

cao, pH thấp, bicarbonat cao.

Page 2: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Kiến thức về khí máu động mạch là điều cần thiết trước khi quyết định việc chỉ định

NIV. Bệnh nhân đầu tiên nên được xác định chế độ trị liệu oxy thích hợp và giải

thích về khí máu động mạch trên sự hiểu biết về FiO2. Một tỷ lệ bệnh nhân đáp

ứng tiêu chí khí máu động mạch cho NIV (xem bên dưới) ở thời điểm nhập viện

cho phép cải thiện nhanh chóng bằng điều trị nội khoa với FiO2 thích hợp.

Cần thiết đo lại khí máu động mạch để xem NIV vẫn còn cần thiết. Việc đo khí máu

động mạch nên được xem xét trên tất cả bệnh nhân có khó thở nghiêm trọng đủ để

phải nhập viện. Trong những nhóm bệnh nhân nhất định-ví dụ, bệnh nhân hen

không có các cơn hen trầm trọng – sự bão hòa oxy có thể được sử dụng như một sự

sàng lọc ban đầu, đến phân tích khí máu động mạch ở những người có SpO2 <92%.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là phương pháp đo oxy đơn độc có thể mang

đến đáp ứng giả ở những bệnh nhân thở oxy trong đó sự oxy hóa đượcduy trì tốt

trên bề mặt đối với chứng tăng CO2 huyết trầm trọng.

Cũng cần được đánh giá rằng có một phân nhóm những bệnh nhân bị suy hô hấp

cấp tính trên nền mãn tính có tăng CO2 huyết, có một vài triệu chứng mặc dù ít khí

bị rối loạn áp lực khí máu động mạch. Trên một số bệnh nhân, đặc biệt là những

bệnh nhân có biến dạng lồng ngực hay bệnh thần kinh cơ, khó thở không thể là một

triệu chứng nổi bật bởi vì gắng sức bị hạn chế bởi các yếu tố khác, cần có một

ngưỡng thấp để thực hiện đo khí máu động mạch. Suy hô hấp thỉnh thoảng có thể

gặp trong các trường hợp như lú lẫn, mê sảng, hoặc sa sút trí tuệ, và khí máu động

mạch máu luôn luôn được xem xét ở những bệnh nhân này.

Các tác dụng có lợi của NIV chủ yếu được thể hiện ở bệnh nhân có nhiễm toan hô

hấp(pH <7,35 (H +> 45 nmol / l)).

Kiến thức về áp lực khí máu động mạch thì quan trọng đối với những ứng dụng của

nó. Áp lực khí máu động mạch nên được đánh giá ở hầu hết bệnh nhân mắc chứng

khó thở cấp tính. [B]

• Áp lực khí máu động mạch được cải thiện nhanh chóng trên nhiều bệnh nhân suy

hô hấp cấp tính có tăng CO2 huyết khi họ đã nhận được sự chăm sóc y tế tối đa và

bổ sung oxy phù hợp. Một mẫu lặp lại thường được thực hiện sau một khoảng thời

gian ngắn để xem là NIV vẫn còn cần thiết. [B]

Page 3: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

• Nên có một ngưỡng thấp để đo áp lực khí máu động mạch ở những bệnh nhân

bệnh thần kinh cơ, lồng ngực biến dạng, béo phì, hoặc tình trạng lú lẫn có thể gặp

trong suy hô hấp cấp mà không có khó thở đáng kể. [B]

Bảng 1

TÓM TẮT CÁC KHUYẾN CÁO

GIỚI THIỆU

- NIV cho thấy hiệu quả điều trị đối với SHH cấp tăng CO2 , đặc biệt

bệnh phổi tắc nghẽn mãn (COPD). Thuận tiện là NIV phải có sẵn 24 giờ,

cho tất cả các bn có bệnh như trên (A).

- NIV không được dùng thay thế cho nội khí quản và thông khí xâm

lấn khi mà nội khí quản và thông khí xâm lấn rõ ràng thích hợp hơn (B).

- Hiệu quả có lợi của NIV phần lớn được chứng minh ở bn toan hô

hấp (pH < 7.35, H+ > 45mmol/L). Vì vậy hiểu biết về khí máu động mạch

(KMĐM) quyết định cho việc áp dụng NIV. KMĐM nên được đo trong hầu

hết các bn khó thở cấp (B).

- KMĐM cải thiện nhanh ở nhiều bn suy hô hấp tăng CO2 khi họ được

điều trị nội khoa tích cực và cung cấp oxy thích hợp. Thử lại KMĐM thường

được thực hiện sau khoảng thời gian ngắn nếu NIV vẫn còn được chỉ định

(B).

MÁY THỞ:

- Nhiều loại máy thở có NIV khác nhau đã được sử dụng thành công

trong SHH tăng CO2. Nếu có thể một kiểu thở máy duy nhất nên được dùng

ở mỗi khu lâm sàng để việc huấn luyện dễ dàng và tạo sự hiểu biết về trang

thiết bị cho nhân viên (D).

- Máy thở hỗ trợ áp lực 2 mức độ sử dụng đơn giản hơn, rẻ tiền hơn

và linh hoạt hơn các loại máy thở khác hiện có. Nó được sử dụng chủ yếu

trong các thử nghiệm NIV ngẫu nhiên có kiểm soát(C).

Page 4: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

- Các máy thở kiểm soát thể tích nên có sẵn trong các đơn vị để cho

NIV cấp (C).

GIAO DIỆN:

- Chọn lọc các kích thước khác nhau của mask mũi, mask mặt và

đệm mũi cho NIV.

- Cả mask mặt và mũi đã sử dụng thành công NIV cho SHH có tăng

CO2. trong case cấp tính, mask mặt nên sử dụng ban đầu, thay mask mũi

sau 24 giờ khi bn cải thiện.

CHỈ ĐỊNH:

NIV có thể đảm nhận như là một thử nghiệm điều trị. Quan niệm đặt

nội khí quản nếu NIV thất bại(D).

NIV nên được xem xét ở bn đợt cấp COPD có toan hô hấp (pH <

7.35, H+ > 45mmol/L) tồn tại mặc dù điều trị nội khoa tích cực và liệu pháp

oxy được kiểm soát (A).

Áp lực đường thở dương liên tục (CPAP) cho thấy hiệu quả ở bn phù

phổi cấp do tim. Vẫn còn giảm oxy mô mặc dù điều trị nội khoa tích cực.

NIV nên được dành riêng cho bn mà CPAP không thành công (B).

NIV được chỉ định cho SHH có tăng CO2 đợt cấp trên nền mãn do dị

dạng thành ngực hoặc bệnh thần kinh cơ.

Cả CPAP và NIV được sử dụng thành công ở bn ngưng thở khi ngủ

do tắc nghẽn mất bù. Mặc dù không so sánh trực tiếp NIV (trong kiểu thở hỗ

trợ áp lực 2 mức) nên được dùng cho bn này nếu có toan hô hấp (C).

CPAP nên được áp dụng cho bn chấn thương thành ngực vẫn giảm

oxy mô mặc dù gây tê tại chổ thích hợp và oxy lưu lượng cao (C). NIV

không được dùng thường qui (D).

Quan sát nguy cơ tràn khí màng phổi, các bn chấn thượng thành

ngực được điều trị CPAP hoặc NIV nên được theo dõi tại ICU.

Page 5: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Nhiều bn viêm phổi cấp hoặc giảm oxy huyết đề kháng với oxy lưu

lượng cao sẽ cần đặt nội khí quản. Trong tình huống này, thử dùng CPAP

hoặc NIV tại HDU hoặc ICU.

CPAP cải thiện sự oxy hóa cho bn viêm phổi lan tỏa mà vẫn giảm oxy

mô mặc dù điều trị nội khoa tích cực. NIV có thể sử dung thay thế cho nội

khí quản nếu bn trở nên tăng CO2 (C). Trong tình huống này, bn nên được

chọn đặt nội khí quản nếu NIV thất bại tại ICU (D).

NIV không nên dùng thường xuyên trong hen cấp tính (C).

Thử dùng NIV ở bn toan hô hấp (pH < 7.35, H+ > 45mmol/L) thứ phát

sau đợt cấp dãn phế quản nhưng tăng tiết quá mức có thể giới hạn hiệu quả

và không nên dùng thường qui trong dãn phế quản (C).

NIV được sử dụng trong nhiều bệnh lý khác (như hội chứng nguy cập

hô hấp cấp, SHH sau phẫu thuật và sau cấy ghép) làm giảm tỉ lệ đặt nội khí

quản, lưu tại ICU và tỉ lệ tử vong. Trong tình huống này, bn nên xem xét đặt

nội khí quản nếu NIV thất bại tại ICU (D).

NIV được sử dụng thành công cai máy bn thông khí xâm lấn và nên

được sử dụng khi chiến lược cai máy theo qui ước thất bại (B).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

- NIV không được sử dụng cho bệnh nhân sau phẫu thuật mặt hoặc

đường hô hấp trên gần đây, biểu hiện các bất thường ở mặt như bỏng hoặc

chấn thương, tắc nghẽn đường hô hấp trên có sẵn hoặc bn đang nôn ói (D).

- Chống chỉ định NIV gồm phẫu thuật đường hô hấp trên, không có

khả năng bảo vệ đường thở, tăng tiết đường hô hấp như giảm oxy huyết

nặng đe dọa tính mạng, lú lẫn hoặc tắc ruột. NIV có thể được sử dụng trong

các chống chỉ định này với điều kiện là kế hoạch đặt nội khí quản được thực

hiện hoặc nếu quyết định được thực hiện không dẫn đến thông khí xâm lấn.

- Mặc dù NIV được sử dụng thành công trong tràn khí màng phổi,

trong hầu hết các bn tràn khí màng phổi nên dẫn lưu ở liên sườn trước khi

bắt đầu NIV.

Page 6: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

THEO DÕI:

- Đánh giá lâm sàng bn bao gồm đánh giá sự khó chịu, mức độ ý

thức, cử động của thành ngực, sử dụng cơ hô hấp phụ, gắng sức hô hấp

với máy thở, tần số thở và nhịp thở. Bn NIV nên được quan sát thường

xuyên để đánh giá đáp ứng của điều trị và tối ưu việc cài đặt máy thở (D).

- Cần phân tích khí máu động mạch để kiểm soát tiến triển lâm sàng

của bn, nên được đo trong hầu hết bn sau 1 - 2 giờ NIV và sau 4 - 6 giờ nên

lấy mẫu sớm hơn cho thấy cải thiện ít. Nếu không cải thiện PaCO2 và pH

sau khoảng thời gian này mặc dù cài đặt máy thở tối ưu. NIV nên ngưng và

thông khí xâm lấn được xem xét (B).

- Độ bão hòa oxy nên được theo dõi liên tục ít nhất 24 giờ sau khi bắt

đầu NIV và oxy cung cấp được sử dụng để duy trì độ bão hòa giữa 85 -

90% (C).

- Gián đoạn NIV nên được thực hiện lúc uống thuốc, vật lý trị liệu, bữa

ăn. Bn cho thấy lợi ích của NIV trong vài giờ đầu nên được thông khí càng

nhiều càng tốt trong 24 giờ đầu hoặc không cải thiện (B).

- Tất cả bn AHRE được điều trị NIV nên được đo dung tích phổi và

phân tích khí máu động mạchtrong khi thở không khí trước khi xuất viện (C).

- Tất cả bn tổn thương tủy sống, bệnh thần kinh cơ, dị dạng thành

ngực, béo phì, bệnh lý biểu hiện AHRE nên được tham khảo đánh giá tại

trung tâm cung cấp thông khí dài hạn - tại nhà (C).

BỐ TRÍ DỊCH VỤ NIV KHẨN CẤP:

- Bố trí khu NIV khẩn cấp.

- Một BS cố vấn có kinh nghiệm sẽ huấn luyện và có trách nhiệm toàn

bộ về NIV. Thường là BS hô hấp cố vấn.

- NIV có thể được bố trí ở một số nơi gần ICU, HDU hoặc khu hô hấp.

Tuy nhiên, mỗi bn nên được bố trí ở khu vực đặc biệt với đội ngũ nhân viên

có kinh nghiệm dày dặn, cùng với việc bố trí để đảm bảo bn cần NIV được

chuyển vào khu vực này một cách nhanh chóng (C)

Page 7: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

* Các phương thức thông khí không xâm lấn: Thông khí có kiểm soát, Thông khí

hỗ trợ / Kiểm soát, Thông khí hỗ trợ áp lực, Áp lực đường thở dương liên tục, Hỗ

trợ hai mức áp lực dương, Thông khí hỗ trợ cân đối

* Thở máy không xâm lấn: Thở máy hỗ trợ / kiểm soát thể tích, Thở máy hỗ trợ /

kiểm soát áp lực, Thở hỗ trợ áp lực.

. Nhiều kiểu thông khí khác nhau đã được sử dụng thành công NIV trong suy hô

hấp cấp; sự thành thạo ở mỗi nơi sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn kiểu thông

khí.Nếu có thể, một kiểu thông khí duy nhất nên được dùng trong mọi khu vực lâm

sàngđể dễ dàng cho việc huấn luyện nhân viên và làm quen với các thiết bị(D).

. Thông khí hỗ trợ hai mức áp lực dương đơn giản, dễ sử dụng, rẻ hơn và linh hoạt

hơn các kiểu thông khí khác. Được khuyến cáo khi cài đặt NIV trong cấp cứu (C).

. Thở máy kiểm soát thể tích nên có sẵn trong các đơn vị cấp cứu tổng hợp (C).-

Trigger:

* Trigger là tiêu chuẩn để quyết định sự thành công của NIV trong cả hai phương

thức thở hỗ trợ áp lực và hỗ trợ / kiểm soát. Nó bao gồm cả việc cảm nhận gắng sức

kỳ hít vào cũng như xác định cuối kỳ thở vào. Thông khí hỗ trợ / kiểm soát, hỗ trợ

kỳ thở vào được xác định tại một thời điểm, ví dụ như áp lực 20 cm H2O trong 1.2

giây. Độ nhạy và sự đáp ứng thông khí thường tốt với NIV, mặc dù một số máy thở

kiểm tra cho thấy trigger thấp và hỗ trợ lại kỳ thở vào nhỏ.

* Oxy:

Hầu hết các máy thở yêu cầu oxy cung cấp xung quanh hay vào ngay mặt nạ. FiO2

khoảng 35% có thể được chấp nhận, lưu lượng oxy phụ thuộc vào lưu lượng khí từ

máy để đạt áp lực cài đặt và đỉnh của chu kỳ.

* Dụng cụ làm ẩm:

Không cần thiết trong NIV.

* Báo động: Cài đặt báo động áp lực, lưu lượng, thể tích.

* Những chỉ dẫn nhỏ cho máy thở NIV.

Page 8: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Có sự lựa chọn máy thở cho chế độ NIV. Trong suy hô hấp cấp, một số BN có

COPD. Hầu hết nghiên cứu cho rằng COPD sử dụng NIV khi áp lực thở vào được

kiểm soát và thở hai mức áp lực được ưu tiên cho nhóm BN này.

Phương thức hỗ trợ/ kiểm soát thì cần thiết cho một số BN cĩ những bệnh khc m cần

hỗ trợ hơ hấp ít được thiết lập chế độ NIV. Điều này cần cung cấp 2 thiết bị khác

nhau hay kết hợp trong một máy.

* Mặt nạ:

Cả mặt nạ mũi và toàn cả mặt được dùng hiệu quả để thở NIV trong suy hô hấp cấp.

Trong cấp cứu, mặt nạ cả mặt nên sử dụng đầu tiên, sau 24 giờ chuyển sang mặt nạ

mũi khi tình trạng BN diễn tiến tốt hơn.

Chỉ định thở máy không xâm lấn:

Có 3 mức độ để sử dụng NIV:

+ Như là một điều trị an toàn để hỗ trợ thông khí cho bệnh nhân ở giai đoạn sớm mà

việc đặt NKQ còn được xem xét.

+ Như một thử nghiệm đặt NKQ nếu NIV thất bại.

+ Một phương pháp điều trị ở những BN chưa có chỉ định đặt NKQ.

Một quyết định đặt NKQ sớm nếu NIV thất bại ở mỗi BN được xem xét bệnh lý và

đánh giá mức độ ban đầu. Sự đồng ý của người bệnh và thân nhân cũng cần được

quan tâm. Quyết định này cần được kiểm tra bởi người có kinh nghiệm và ICU

trong giai đoạn sớm.

NIV có thể được thực hiện như thử nghiệm điều trị khi có hướng đặt NKQ nếu

phương pháp này thất bại, hay trong điều trị những BN chưa có chỉ định đặt NKQ.

Quyết định đặt NKQ cần được xem xét trước khi dùng NIV ở mỗi BN. Điều này

được thực hiện bởi người có kinh nghiệm và các ghi nhận trong tài liệu (D).

COPD

NIV

Một số nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên có đối chứng về NIV ở BN đợt cấp COPD.

Các nghiên cứu cho rằng NIV khả thi và làm giảm tần suất đặt NKQ. Các nghiên

Page 9: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

cứu cho thấy giảm tần suất đặt NKQ nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong. Tuy

nhiên các nghiên cứu cho rằng NIV nên được thực hiện thường qui hơn.

CPAP

Không có thử nghiệm kiểm soát ngẩu nhiên nào của CPAP trong điều trị suy hô hấp

trong COPD. Một số trường hợp đã báo cáo những tác dụng có lợi của CPAP, bao

gồm sự gia tăng PaO2 , giảm PaCO2, và giảm nhịp thở. Hai trong số các trường hợp

trên đã báo cáo là mặc dù CPAP nhưng tỷ lệ đặt nội khí quản là 10-30%. Các thử

nghiệm của NIV trong COPD cho thấy CPAP hiện nay có thể không thích hợp

trong điều trị những bệnh nhân COPD. Tuy nhiên, CPAP luôn có sẵn, giá thành rẻ,

và việc sử dụng CPAP tương đối dễ dàng. Có một số bằng chứng cho việc sử dụng

CPAP trong COPD và các thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh CPAP với NIV. Các

nghiên cứu về những lợi ích hoặc rủi ro của EPAP trong NIV cũng cần thiết.

• NIV cần được xem xét ở những bệnh nhân với một đợt cấp tính COPD trong đó

toan hô hấp (pH<7,35, H+ > 45 nmol / l) vẫn tiếp diễn mặc dù được điều trị y tế tối

đa về thở oxy có kiểm soát.

Phù phổi do tim

CPAP

Ba thử nghiệm đã so sánh CPAP với phương pháp điều trị đơn thuần. loại trừ những

bệnh nhân không đáp ứng với lời nói hoặc những người không tự thở. Một số bệnh

nhân tăng CO2 huyết được đưa vào nghiên cứu . Tổng cộng có 180 bệnh nhân

được đưa vào ba nghiên cứu và điểm kết thúc ban đầu là cần thiết phải đặt nội khí

quản và tử vong ở bệnh viện . Hai trong số các nghiên cứu đã áp dụng CPAP với áp

lực cố định 10 H2O cm trong khi ở nghiên cứu thứ ba CPAP chuẩn với áp lực từ 2,5

đến 12,5 cm H2O. Tất cả ba nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện với CPAP độ tin

cậy 95%. Cả ba cho thấy sự giảm tỉ lệ đặt nội khí quản trong thở CPAP. Tổng hợp

các dữ liệu cho thấy nhu cầu đặt nội khí quản trong CPAP giảm (rủi ro khác nhau -

26%, 95% CI -13 đến -38) và có xu hướng giảm tỷ lệ tử vong tại bệnh viện (nguy

cơ khác biệt -6,6%, 95% CI 3 đến -16).

NIV

Một số báo cáo đã mô tả việc sử dụng NIV trong phù phổi. Tỷ lệ tử vong trong

trường hợp này dao động từ 0% đến 22% và tỷ lệ đặt nội khí quản từ 0% đến 44%.

Page 10: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Hai thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát gần đây đã cho kết quả trái ngược nhau.

Masip et ,cs cho thấy NIV trong phù phổi cấp do tim có sự cải thiện lâm sàng

nhanh hơn so với các liệu pháp oxy, tỉ lệ đặt nội khí quản giảm xuống, nhưng

không khác biệt trong tỷ lệ tử vong, trong khi Sharon và cộng sự tìm ra một kết quả

tệ hơn so với tiêm truyền tĩnh mạch nitrat.

CPAP so với NIV

Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát ở 27 bệnh nhân đã so sánh CPAP với

NIV. Các nghiên cứu đã sớm chấm dứt do tỷ lệ nhồi máu cơ tim gia tăng ở nhóm

NIV. Các phân tích tạm thời không tìm thấy sự khác biệt trong tỷ lệ tử vong bệnh

viện (Một ca tử vong ở nhóm NIV, hai ca tử vong ở nhóm CPAP) hoặc cần thiết

phải đặt nội khí quản (một trong mỗi nhóm). So sánh hai nhóm trong thử nghiệm

này cho thấy nhiều bệnh nhân đau ngực được đưa vào NIV, gia tăng sự chênh lệch

giữa 2 nhóm, như là một lời giải thích cho số lượng cao nhồi máu cơ tim ở nhóm

được điều trị NIV.

• CPAP đã được chứng minh là có hiệu quả ở bệnh nhân phù phổi do tim có thiếu

oxy mặc dù đã được điều trị tối đa bằng thuốc. NIV nên được dành riêng cho các

bệnh nhân mà CPAP không thành công. [B]

Biến dạng lồng ngực / bệnh thần kinh cơ

NIV đã thành công trong điều trị suy hô hấp mãn tính, NIV nên được coi là lựa

chọn điều trị suy hô hấp bù do biến dạng thành ngực và bệnh thần kinh cơ. Không

có một thử nghiệm ngẫu nhiên nào và rất ít các trường hợp báo cáo của NIV trong

các nhóm bệnh nhân này, và bây giờ dường như không có một thử nghiệm ngẫu

nhiên có kiểm soát được thực hiện. Có bằng chứng hữu hiệu về lợi ích lâu dài với

thông khí tại nhà, với 5 năm tồn tại khoảng 80% . Tuy nhiên việc quyết định sử

dụng NIV phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của suy hô hấp, dù có hoặc không

có liên quan đến hành tủy và các phương pháp điều trị có hiệu quả khác, ví dụ,

trong nhược cơ nặng (myasthenia gravis) và hội chứng Guillain-Barré.

• NIV được chỉ định trong suy hô hấp có tăng CO2 cấp tính hoặc mãn tính do biến

dạng thành ngực hoặc bệnh thần kinh cơ. [C]

Page 11: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Ngưng thở do tắc nghẽn mất bù lúc ngủ (Decompensated obstructive sleep

apnoea)

NIV đã được sử dụng thành công trong trường hợp này và bệnh nhân được chuẩn

đoán suy hô hấp tăng CO2 cấp tính nên được thử nghiệm với NIV. CPAP cũng đã

được sử dụng trong điều trị bệnh nhân OSA mất bù nặng .

• Cả hai CPAP và NIV đã được sử dụng thành công ở những bệnh nhân OSA mất

bù. Mặc dù không có một so sánh trực tiếp, NIV (trong các hình thức hỗ trợ áp suất

hai mức) được sử dụng cho những bệnh nhân này nếu có toan hô hấp.

Chấn thương ngực

Một thử nghiệm kiểm soát ngẩu nhiên và hai trường hợp sử dụng CPAP trong chấn

thương ngực. Một thử nghiệm đã được thực hiện trên 69 bệnh nhân với hơn hai

xương sườn bị gãy và giảm oxy máu. CPAP và giảm đau tại chỗ được so sánh với

đặt nội khí quản ngay lập tức cùng với thở áp lực dương liên tục th (IPPV) với

PEEP. Phương pháp này đã không được mô tả trong nghiên cứu và rõ ràng nó

không thể áp dụng để điều trị mù. Mức độ thương tích cũng cao hơn ở nhóm đặt nội

khí quản. CPAP cho kết quả số ngày điều trị ít(có nghĩa là 4,5 v 7,3),số ngày ở ICU

thấp (5,3 v 9,5), và ngày ở bệnh viện (8,4 v 14,6). Cả hai ca tử vong xảy ra trong

nhóm đặt nội khí quản. Cần lưu ý rằng bệnh nhân tổn thương phổi nặng hơn so với

tổn thương phổi trung bình, theo định nghĩa PaO2 <8 kpa on fio2 40% or hơn , đã

được loại trừ khỏi nghiên cứu.Sử dụng IPPV trong nhóm này,để thay thế lượng khí

trung bình, hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề tranh cải sự kết hợp này trong điều trị

chấn thương ngực. Với sự trao đổi khí tương đối nhẹ,việc sử dụng IPPV trong

nhóm kiểm soát, có thể không đuợc thừa nhận trong quan điểm của nhiều bằng

chứng gần đây về tác dụng phụ liên kết với rối loạn thông khí. Khi CPAP được sử

dụng ở bệnh nhân gãy xương sườn quan trọng để nhận ra rằng có nguy cơ phát triển

một tràn khí màng phổi (pneumothorax)tương tự nguy cơ tràn khí màng phổi ở thở

xâm lấn..

• CPAP nên được sử dụng ở bệnh nhân chấn thương ngực người mà vẫn còn thiếu

oxy mặc dù gây tê tại chỗ đầy đủ và lưu lượng cao oxy. [C] NIV không được sử

dụng thường xuyên. [D]

Page 12: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

• Trong quan điểm về các nguy cơ tràn khí màng phổi, các bệnh nhân với chấn

thương thành ngực đã được điều trị bằng CPAP hoặc NIV nên được theo dõi về

ICU. [D]

Viêm phổi

Confalonieri và cs đã báo cáo một TNKSNN tương lai của 56 bệnh nhân viêm phổi

cộng đồng chỉ được điều trị thông thường hoặc điều trị kèm theo NIV. NIV được

dung nạp tốt, an toàn, và kết hợp với giảm đáng kể về nhịp thở , cần thiết phải đặt

nội khí quản khí quản (21% v 50%; p = 0,03), và (SD) thời gian ở lại ICU (1,8 (0,7)

ngày v 6.0 (1.8) ngày; p = 0,04). Không có sự khác biệt về tử vong ở bệnh viện,

nhưng trong nhóm with kết hợp COPD cải thiển tỉ lệ sống còn 2 tháng (88.9% v

37.5%; p=0.05).

CPAP đã được sử dụng trong điều trị của viêm phổi cộng đồng nặng, viêm phổi

thủy đậu và đã trở thành tiêu chuẩn điều trị để điều trị Viêm phổi Pneumocystis ở

bệnh nhân suy giảm miễn dịch (đặc biệt là những người có HIV dương tính). Nhiều

báo cáo đã chỉ ra rằng CPAP cải thiện oxy hóa, làm giảm nhịp thở, và làm giảm khó

thở trong tình huống này. Trong một TNKSNN của CPAP trên 123 bệnh nhân với

không tăng co2 trong suy hô hấp cấp tính, 51 người trong số đó đã viêm phổi, oxy

hóa và khó thở được tốt hơn trong nhóm CPAP sau 1 giờ, tuy nhiên, không có sự

khác biệt đáng kể trong tỷ lệ đặt nội khí quản, tử vong, hoặc thời gian lưu lại ICU.

Có nhiều các tác dụng bất lợi trong nhóm CPAP, bao gồm ngưng tim ngừng thở (r

cardiorespiratory arrests), presumably secondary to delayed intubation..

• CPAP cải thiện oxy ở bệnh nhân viêm phổi lan tỏa, những người vẫn còn thiếu

oxy mặc dù điều trị nội khoa tích cực. NIV có thể được sử dụng để thay thế cho đặt

nội khí quản nếu bệnh nhân tăng co2. Trong trường hợp này, nếu NIV không thành

công, bệnh nhân được xem xét cho đặt nội khí quản chỉ nhận được NIV tại ICU. [D]

Hen phế quản

Meduri và CS báo cáo sử dụng thành công của NIV trong 17 giai đoạn của tình

trạng asthmaticus. PH trung bình là 7,25 (H + 56 nmol / l) khẳng định suy hô hấp

cấp tính nặng, và NIV đã cải thiện nhanh chóng trong các biến chứng sinh lý, chỉ có

hai bệnh nhân phải đặt nội khí quản. Mặc dù NIV đã được sử dụng thành công ở

bệnh nhân hen cấp tính nhưng mà không có đủ bằng chứng để khuyến cáo sử dụng

Page 13: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

NIV trong trường hợp này. Và cũng không có đủ bằng chứng để khuyến cáo sử

dụng CPAP trong hen suyễn cấp.

• NIV không khuyến cáo sử dụng thường xuyên ở bệnh nhân hen suyễn cấp tính.

Xơ nang / giãn phế quản

• Một thử nghiệm của NIV được thực hiện ở những bệnh nhân đợt kịch phát giãn

phế quản cấp tính hơn là những bệnh nhân toan hô hấp (pH<7.35), nhưng tiết quá

mức có khả năng làm hạn chế hiệu quả của nó và nó không nên được sử dụng

thường xuyên trong giãn phế quản. [C]

Các chỉ định khác

• NIV đã được sử dụng trong một loạt các bệnh khác (như hội chứng suy hô hấp cấp

tính, suy hô hấp sau phẫu thuật hoặc đang ghép) cho thấy tỷ lệ đặt nội khí quản

giảm, làm ngắn thời gian ở ICU, và giảm tỷ lệ tử vong. Trong trường hợp này, nếu

không có NIV bệnh nhân được xem xét đặt nội khí quản chỉ nên nhận NIV trong

ICU.

Cai máy trong ICU

Nava, cs so sánh việc điều trị bằng NIV hoặc thở xâm lấn trong 50 bệnh nhân được

đặt nội khí quản và thở thông khí ngay từ đầu hoặc sau một thử nghiệm thất bại của

NIV. Sau 48 giờ bệnh nhân thở xâm lấn đưa vào thử nghiệm mẫu T 2 giờ; những

người điều trị không thành công được chọn ngẫu nhiên để rút ống nội khí quản

trong máy thở không xâm lấn hoặc tiếp tục thông khí xâm lấn. Các chiến lược điều

trị như nhau đã được thực hiện trong hai nhóm bệnh nhân và thấy được lợi thế rõ

ràng cho phương pháp không xâm lấn trong tỷ lệ phần trăm bệnh nhân được điều trị

Bảng 2 Các yếu tố thành công hay thất bại trong NIV

THÀNH CÔNG THẤT BẠI

- PaO2 tăng với độ dốc oxy A-a.

- pH 7.25 - 7.35, ( H+ 06 - 45mmol/L)

- Cải thiện pH, PaCO2 và hô hấp sau 1 giờ NIV.

- Mức độ ý thức tốt.

- Thang điểm APACHE cao.

- Viêm phổi trên phim x quang ngực.

- Tăng tiết đường hô hấp.

- Mất răng.

- Tình trạng dinh dưỡng kém

- Lú lẫn hoặc suy sụp ý thức.

Page 14: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

CHỐNG CHỈ ĐỊNH NIV:

- Chấn thương / bỏng mặt.

- Phẫu thuật: mặt gần đây, nối phần trên dạ dày ruột, đường hô hấp trên.

- Tắc nghẽn đường hô hấp trên.

- Không có khả năng bảo vệ đường thở.

- Giảm oxy huyết đe dọa tính mạng.

- Huyết động không ổn định.

- Bệnh kèm theo nặng.

- Suy giảm ý thức.

- Lú lẫn / kích thích.

- Nôn ói.

- Tắc ruột.

- Tăng tiết đường hô hấp.

thành công, nhu cầu phải thở hỗ trợ, ở lại ICU, sống còn, và tỷ lệ viêm phổi. Điều

này cho thấy vai trò của NIV cho bệnh nhân bước đầu mà họ cần phải thở xâm lấn.

Girault ,cs so sánh NIV với thở xâm lấn trong một nghiên cứu ngẫu nhiên trên 33

bệnh nhân đã không thành công với kiểm nghiệm T. Các bệnh nhân thở NIV có thể

được rút nội khí quản sớm hơn, nhưng không có sự khác biệt về số lượng người

được điều trị, thời gian ở lại ICU, hoặc sống sót trong 3 tháng.

NIV có thể được sử dụng trong mở khí quản. Ống này có thể bị giới hạn trong

trường hợp cuff (bóng chèn) bị xì hơi. Đôi khi không thể đạt được hiệu quả thông

khí với NIV bởi vì không có đủ khít giữa ống mở khí quản và thành khí quản. NIV

thuận lợi hơn với ống mở khí quản không cuff có cửa sổ nhỏ. Điều này sẽ bị thay

đổi với lỗ mở khí quản nhỏ, và sẽ có cơn suy hô hấp nếu bị tắt đờm .

• NIV đã được sử dụng thành công để điều trị bệnh nhân thở xâm lấn và nên được

sử dụng khi giải pháp điều trị thông thường thất bại.

Các dự báo về kết quả của NIV trong suy hô hấp

Dữ liệu hiện nay cho thấy rằng NIV có nhiều khả năng được thành công ở những

bệnh nhân rối loạn sinh lý ít trầm trọng, ở những người này có sự cải thiện nhanh

chóng pH và nhịp thở với NIV và ở những người mà mask vừa vặn với khuôn mặt

của họ. Tuy nhiên, ngay từ đầu không thể dự đoán những người sẽ thành công với

NIV .

Chống chỉ

định NIV

Page 15: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Theo dõi

Theo dõi các bệnh nhân thở NIV nên bao gồm đánh giá lâm sàng kết hợp với oxy

mao mạch và khí máu động mạch . Việc theo dõi sẽ khác nhau tùy thuộc vào đơn vị

điều trị, mức độ bệnh , tùy thuộc các căn nguyên cơ bản của suy hô hấp, dù bệnh

nhân có thở thông khí , và dù có bệnh kết hợp. Bệnh nhân trong ICU hoặc HDU có

khả năng được theo dõi tùy thuộc vào việc thích ứng với môi trường

Đánh giá lâm sàng

Theo dõi monitor là không thể thay thế cho việc đánh giá lâm sàng và thường xuyên

theo dõi bệnh nhân thở máy. Dấu hiệu lâm sàng cần được đánh giá là: Di động lồng

ngực, điều hòa thở, co kéo cơ hô hấp phụ, nhịp tim, nhịp thở, bệnh nhân thoải mái,

yình trạng tâm thần. Khi bắt đầu NIV điều quan trọng là các bác sĩ chuyên trị quan

sát hiệu quả điều trị trong việc tăng chuyển động thành ngực. Chưa cải thiện cho

thấy thông khí phế nang không tăng và các nguyên nhân nên được tìm kiếm bao

gồm các cài đặt máy thở không phù hợp dẫn đến bệnh nhân không dung nạp, không

đủ thể tích sống và áp lực căn phồng, và xì hơi quanh mask hoặc qua miệng mở.

Theo dõi nhịp tim và nhịp thở là cần thiết và có thể thể hữu ích trong việc xác định

sớm đáp ứng điều trị trước khi thực hiện đo các giá trị sinh lý khác. Cải thiện khó

thở thường thấy trong vòng 1-2 giờ và thường đi kèm với cải thiện tri giác

Bão hòa Oxy và khí máu động mạch

Trong các nghiên cứu NIV được công bố, dữ liệu về độ bão hòa oxy hoặc CO2 qua

da, rất ít khi được báo cáo. Tuy nhiên, một số các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ

ôxy cải thiện sớm và trên cơ sở đó, theo dõi SpO2 có thể hữu ích, mặc dù không

thay thế sự cần thiết phải thường xuyên đo khí máu động mạch trong giai đoạn đầu

điều trị. Lý tưởng nhất, nên theo dõi liên tục SpO2 trong 24 giờ đầu điều trị, nhằm

giữ cho độ bão hòa trên 85%, với nồng độ ôxy cần thiết.Theo dõi CO2 qua da cũng

có thể được sử dụng nơi mà nó có sẵn.

Phân tích khí máu động mạch hoặc mao động mạch (arterialised capillary) gồm pH,

PaCO2 và PaO2 là cực kỳ quan trọng trong đánh giá bệnh nhân NIV. Thời gian đo

khí máu động mạch sẽ phụ thuộc vào tình trạng của bệnh nhân và đáp ứng điều trị.

Trong hầu hết các nghiên cứu nhân viên thực hiện đo ở khỏng thời gian 0, 1 giờ, 4

Page 16: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

giờ, và khoảng thời gian khác nhau sau đó. Trong 24 giờ đầu tiên, xem xét sử dụng

trong động mạch và điều này nên thực hiện trong ICU / HDU.

Tất cả các bệnh nhân thường xuyên đánh giá lâm sàng lại khoảng 1 giờ sau

khi được NIV, kết hợp với phân tích khí máu. Tần số đo sẽ phụ thuộc vào sự tiến

triển của bệnh nhân. Trong trường hợp tình trạng lâm sàng của bệnh nhân nhanh

chóng được cải thiện, mẫu máu không nên lấy thường xuyên bởi vì bênh nhân

thường khó chiụ .Khi không cải thiện hoặc cải thiện chậm, cần phải đánh giá

thường xuyên hơn theo hướng dẫn FiO2, thiết lập máy thở, hoặc điều chỉnh giao

diện. Một đánh giá sâu hơn (có hoặc không có máu khí phân tích) nên thực hiện

trong vòng 1 giờ khi có sự thay đổi bất kỳ nào trong FiO2 hoặc cài đặt máy thở.

Điều quan trọng là nhận ra rằng không có cải thiện khí máu động mạch

không phải là một chỉ định tăng FiO2 mà phải đánh giá lại lâm sàng của bệnh nhân.

Bất kỳ thay đổi oxy máu không thể đánh giá nếu thiếu thông tin về nồng độ oxy hít

vào, và điều quan trọng là tốc độ lưu lượng được đo và phương thức bổ sung phải

được ghi rõ.

Đánh giá lâm sàng của bệnh nhân gồm đánh giá sự dễ chịu, mức độ ý thức, di

động lồng ngực, co kéo cơ hô hấp phụ , sự phối hợp gắng sức thở theo máy thở,

nhịp thở, và nhịp tim. Bệnh nhân NIV nên được xem xét thường xuyên để đánh giá

đáp ứngvới điều trị và để tối ưu hóa các cài đặt máy thở. [D]

• Sự cần thiết phải phân tích khí máu động mạch sẽ được điều chỉnh bởi sự tiến

triển lâm sàng của bệnh nhân, nhưng nên được đo trong hầu hết các bệnh nhân sau

1-2 giờ NIV và sau 4-6 giờ nếu các mẫu trước đó cho thấy cải thiện ít. Nếu không

có sự cải thiện PaCO2 và pH sau giai đoạn này, NIV nên ngưng và nên xem xét

thông khí xâm lấn. [B]

• Độ bão hòa oxy nên được theo dõi liên tục ít nhất 24 giờ sau khi bắt đầu NIV và

bổ sung oxy để duy trì bão hòa giữa 85% và 90%. [C]

Thất bại điều trị: Đánh giá và định nghĩa của thất bại điều trị sẽ phụ thuộc vào vai

trò của NIV trong từng bệnh nhân nên được xác định trước khi thử nghiệm NIV.

Tuy nhiên, các yếu tố cần tính đến là:

• Bệnh nhân diễn tiến xấu.

Page 17: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

• Không cải thiện hoặc khí máu động mạch có thông số xấu hơn.

• Xuất hiện các triệu chứng mới hoặc các biến chứng như tràn khí màng phổi, ứ

đọng đờm, loét sống mũi (nasal bridge erosion.

. Không dung nạp hay thất bại phối hợp với máy thở

• Không giảm bớt triệu chứng

• Tri giác xấu dần.

• Bệnh nhân và người chăm sóc không đồng ý.

Một số thay đổi trong NIV có thể được thực hiện nếu khí máu động mạch không

cải thiện. Bác sị hô hấp nên có kế hoạch xử lý sớm nếu NIV thất bại. Tương tự như

vậy, quyết định đặt nội khí quản nên được thực hiện bởi một bác sĩ có kinh nghiệm

hội chẩn với các nhân viên ICU.

Việc cải thiện trong khí máu động mạch với NIV thay đổi và ảnh hưởng bởi các

bệnh lý cơ bản và mất bù hô hấp nặng. Hầu hết các thử nghiệm mô tả các đáp ứng

cải thiện của điều trị, bao gồm thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát đã cho thấy sự

cải thiện sớm PaO2, pH, PaCO2. Điều này thường thấy rõ ở giờ thứ nhất và rõ ràng

hơn ở 4-6 giờ. Còn thiếu quá trình điều chỉnh những rối loạn của các thông số liên

quan đến thất bại của NIV. Mức độ ổn định nên đạt đến khoảng 4-6 giờ.

Thời điểm dừng NIV và đặt nội khí quản tùy thuộc vào từng cá nhân, bao gồm việc

xem xét mức độ nặng của suy hô hấp, khả năng khó cai máy trong thông khí xâm

lấn, nguyện vọng của bệnh nhân, và nếu có các yếu tố như tăng tiết quá mức được

xử lý tốt hơn nếu bệnh nhân được đặt NKQ. Nếu NIV rõ ràng thất bại làm giảm

triệu chứng của bệnh nhân mà chưa có chỉ định đặt NKQ thì nên ngừng NIV và

xem xét chuyển sang điều trị khác.

Ngưng NIV

Tình trạng lâm sàng của bn cải thiện và ổn định là yếu tố quan trọng quyết định khi

nào dừng NIV an toàn. Điều đó giúp nhận ra bệnh nhân nào có thể cai máy. Một

nghiên cứu cho thấy chế độ cai máy nhằm giảm thời gian thông khí tùy thuộc vào

tiêu chuẩn lâm sàng, giảm thông khí ban ngày trước, ban đêm sau. Một nghiên cứu

Page 18: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

đề nghị tần số thở < 24l/p, nhịp tim < 110 l/p, pH >7,35, và SpO2 > 90% với FiO2 <

4 l/p.

+Tất cả bn đã được điều trị với NIV vì suy hô hấp cấp tăng CO2 nên được đo chức

năng hô hấp và thử khí máu động mạch trước khi ra viện ( C )

+Tất cả bn tổn thương tủy sống, bệnh lý thần kinh cơ, lồng ngực biến dạng, béo phì

quá mức có suy hô hấp cấp tăng CO2 máu nên được đưa đến trung tâm cung cấp

thông khí dài hạn tại nhà ( C )

SỬ DỤNG NIV TRONG BỆNH VIỆN

+ NIV có thể được cung cấp tại một số nơi như là ICU, hoặc khoa hô hấp. Tuy vậy

mỗi bv nên có 1 khu vực chuyên biệt với đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, và kết

cấu hạ tầng đảm bảo bn được chuyển đến nơi này với thời gian nhanh nhất ( C )

+Khu vực lâm sàng nơi bn được điều trị với NIV sẽ bị ảnh hưởng bởi vài yếu tố bao

gồm tình trạng lâm sàng, liệu bn có cần đặt NKQ nếu NIV thất bại, và có sẳn

giường bệnh hay không. Xem xét trên tổng thể lâm sàng, bn nhiễm toan nặng pH<

7,3 nên được quản lý ở 1 khu vực độc lập cao như là ICU hay HDU, cũng như

những người đã cải thiện tình trạng lâm sàng ổn định và khí máu động mạch không

thực hiện sau 1-2 giờ NIV tại khoa hô hấp ( C )

+Bn với suy hô hấp tăng CO2 máu từ một nguyên nhân mà vai trò NIV chưa được

thiết lập rõ ( như viêm phổi, ARDS, hen suyễn) chỉ nên sử dụng NIV trong HDU hay

ICU nơi có thể đặt NKQ ngay lập tức.

Đối tượng nào nên quyết định bắt đầu NIV?

+Nên có 1 qui trình rõ ràng cho đội ngũ nhân viên y tế được gọi đến và chỉ định

NIV, bắt đầu điều trị thế nào, và ai có trách nhiệm tiếp tục giám sát bệnh nhân (D )

Ai nên thực hiện và duy trì NIV?

+Đào tạo nhân viên ICU, BS, kỹ thuật viên vật lý trị liệu, kỹ thuật viên phục hồi

chức năng phổi và điều dưỡng có thể thành công để thực hiện và duy trì NIV. Khi

thiết lập 1 đơn vị NIV cấp, người ta cho rằng NIV có thể thiết lập và sử dụng bởi

đội ngũ điều dưỡng ( C )

Page 19: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Thiết lập và sử dụng dịch vụ NIV

Trong việc thiết lập dịch vụ NIV liên quan đến sự tham gia của các nhân viên cao

cấp trong giai đoạn đầu là rất quan trọng cho sự thành công. Nên có ít nhất 1 thành

viên của đội ngũ đã trãi qua thời gian ở trung tâm đã thiết lập xong dịch vụ này.

Vấn đề cần được xem xét là mua máy thở và tìm ra nhân viên có thể bắt đầu và duy

trì NIV, huấn luyện ( xem bên dưới) và xây dựng qui trình được chấp nhận để bắt

đầu và theo dõi sử dụng NIV. Trong việc quyết định vị trí của dịch vụ NIV, có thể

khuyến khích bắt đầu NIV ở khu vực như ICU hoặc HDU và sau đó mở rộng ra các

khoa khác.

Huấn luyện

+Tất cả các nhân viên liên quan NIV cấp nên được huấn lyện về kiến thức nền

và vai trò của họ trong cung cấp dịch vụ. Huấn luyện NIV nên có sẳn trong tư

vấn dùng thuốc hô hấp và bao gồm tất cả các chuyên gia đăng ký chương trình

huấn luyện ( C )

+ Chương trình đào tạo để cung cấp dịch vụ NIV nên cung cấp sự phối hợp của

kiến thức học tập dưới sự hỗ trợ của kinh nghiệm lâm sàng tại nơi làm việc ( C )

Kiểm tra

Sử dụng NIV trong suy hô hấp cấp phải được kiểm tra thường xuyên, điều này

có thể được thực hiện cùng với các hoạt động kiểm tra liên quan như chăm sóc

bệnh nhân đợt cấp COPD kiểm soát giai đoạn tăng cường chăm sóc của hoạt

động HDU.

Đối với bn được nhận NIV

Việc sử dụng NIV trong suy hô hấp cấp nên được kiểm tra thường xuyên. Hơn nữa

để thu thập dữ liệu về bn được nhận NIV, yêu cầu có chi tiết về số lượng bn nhập

viện với suy hô hấp cấp tăng CO2 máu cùng với thông khí xâm lấn ở những bn này (

D )

Page 20: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Kiểm soát nhiễm khuẩn và an toàn thiết bị

Mặt nạ và val thở được phép của nhà cung cấp được phép tái sử dụng đòi hỏi phải

được khử trùng khi chuyển sang bn khác. Chúng nên được rửa, tiệt trùng và hấp khô

bằng nhiệt ở nhiệt độ vừa phải nhưng hiệu quả. Ở sâu trong máy thở sử dụng cho

NIV không có luồng thông khí từ bn vào máy thở. Bộ lọc vi khuẩn được cung cấp

để sử dụng, nguy cơ ô nhiễm của máy thở là vô cùng thấp và làm sạch bề mặt của

máy thở khi thay đổi giữa các bn cần thiết. Bảo trì máy thở nên tuân theo khuyến

cáo của nhà sản xuất. Kế hoạch bảo trì và phòng ngừa nên được tiến hành định kỳ.

Kiểm tra an toàn về điện nên được thực hiện ít nhất mỗi năm.

- Mặt nạ sử dụng lại được và val thở nên được tái chế trong máy rửa tự động, tiệt

trùng và làm khô sau khi được tháo rời thành nhiều bộ phận ( C )

+ Bộ lọc vi khuẩn nên được gắn vào ổ cắm thông khí trong NIV và bề mặt bên

ngoài của máy thở nên được làm sạch khi thay đổi giữa các bn ( C )

+ Bảo trì và an toàn điện trên máy thở nên được thực hiện theo khuyến cáo của nhà

sản suất ít nhất mỗi năm 1 lần ( D ).

Lĩnh vực cần nghiên cứu thêm

Nhiều khuyến cáo trong tài liệu này bằng chứng đưa ra mức độ A. Cho thấy sự cần

thiết phải có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này. Đối với một số các khuyến cáo

thì nghiên cứu cần thiết để cải thiện cơ sở bằng chứng là rất khó khăn hoặc không

thể thực hiện được. Một số nơi có thể tiến hành nghiê cứu được liệt kê trong bảng

dưới đây.

Chế độ thông khí

Hỗ trợ 2 mức áp lực trở thành chế độ thông khí chính trong NIV cấp, nhưng cài đặt

tối ưu vẫn cần xác định. Vẫn cần thiết phải nghiên cứu so sánh chế độ này với kiểm

soát áp lực và thể tích. Vai trò của PAV trong suy hô hấp cấp tăng CO2 máu cần

được khảo sát thêm. So sánh giữa NIV và CPAP chỉ được thực hiện trong suy tim.

Các vấn đề khác chưa được so sánh trong thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát.

Page 21: THỞ MÁY KHÔNG XÂM LẤN TRONG SUY HÔ HẤP CẤP TÍNHbenhvientimmachangiang.vn/DesktopModules/NEWS/DinhKem/76_NIV-khoa-HS… · • Suy hô hấp tăng CO2 mãn tính:có bằng

Chỉ định

NIV có hiệu quả rõ ràng trong giai đoạn sớm của COPD, nhưng chỉ định chính xác

cần sàng lọc lại. NIV cần được so sánh với đặt NKQ ở bn nhiễm toan nặng. Thử

nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát là cần thiết trong các điều kiện khác nhau hơn là

suy tim và phù phổi.

Theo dõi

Thời gian của NIV, SpO2 mục tiêu, điều chỉnh cài đặt máy thở và cai máy cần được

khảo sát thêm.

NIV dài hạn

Địa điểm của NIV dài hạn tại nhà trong COPD cần phải được xác định rõ.