Tailieu.vncty.com 5249 5591
-
Upload
tran-duc-anh -
Category
Business
-
view
174 -
download
3
description
Transcript of Tailieu.vncty.com 5249 5591
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Nhƣ Quỳnh
Lớp : Anh 3
Khoá : 45
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hà Nội, Tháng 5 Năm 2010
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ………………………………………………………………………
Chương 1: Tổng quan về kinh tế tư nhân……………………………………
1.1. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân……………………………..
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân…………………………………………….
1.1.1.1. Sở hữu tư nhân…………………………………………………….
1.1.1.2. Kinh tế tư nhân…………………………………………………….
1.1.2. Tính tất yếu khách quan và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
về sự tồn tại, phát triển kinh tế tư nhân……………………………….
1.1.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư
nhân………………………………………………………………..
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển của kinh
tế tư nhân…………………………………………………………..
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay……………………………..
1.1.3.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân……………………………………...
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân………………………………………...
1.1.4. Điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân……………………………….
1.1.4.1. Kinh tế tư nhân phải được tự do phát triển………………………..
1.1.4.2. Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thành phần
kinh tế tư nhân phát triển…………………………………………..
1.1.4.3. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân…………………..
1.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của các nước trong khu vực
1
4
4
4
4
5
8
8
10
11
11
11
12
12
12
14
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam………………………………..
1.2.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản…………………………………………...
1.2.2. Kinh nghiệm của Singapore…………………………………………..
1.2.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc………………………………………...
1.2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…………………………………..
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay……..
2.1. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân qua các thời kỳ……….
2.1.1. Giai đoạn trước đổi mới năm 1986……………………………………
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 1999………………………………………..
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 – nay…………………………………………
2.1.3.1. Số lượng doanh nghiệp…………………………………………….
2.1.3.2. Quy mô vốn………………………………………………………..
2.1.3.3. Cơ cấu theo ngành, địa bàn………………………………………..
2.2. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam…..
2.2.1. Thành tựu……………………………………………………………...
2.2.1.1. Đóng góp vào GDP ngày càng lớn………………………………...
2.2.1.2. Tạo nguồn bổ sung vào ngân sách nhà nước………………………
2.2.1.3. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động……………………..
2.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu…
2.2.1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…………………………….
2.2.2. Hạn chế………………………………………………………………..
2.2.2.1. Về nguồn vốn……………………………………………………...
2.2.2.2. Chất lượng lao động thấp………………………………………….
2.2.2.3. Thiếu các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực kinh tế quan
15
15
17
20
23
26
26
26
28
31
31
36
39
44
44
44
45
48
51
52
54
54
56
trọng………………………………………………………………..
2.2.2.4. Khả năng tiếp cận thị trường yếu………………………………….
2.2.2.5. Hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp………………………...
2.2.3. Những nguyên nhân hạn chế sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
Việt Nam……………………………………………………………...
2.2.3.1. Về nhận thức chung………………………………………………..
2.2.3.2. Về cơ chế chính sách của nhà nước……………………………….
2.2.3.2.1. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực…………………...
2.2.3.2.2. Thiếu sự hỗ trợ từ phía nhà nước………………………………….
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay………………………………………………………………………
3.1. Dự báo xu hướng phát triển kinh tế tư nhân…………………………..
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay……………………………………………………………….
3.2.1. Đổi mới nhận thức, hoàn thiện môi trường pháp lý đối với kinh tế tư
nhân…………………………………………………………………..
3.2.2. Giải quyết những khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh
doanh đối với kinh tế tư nhân…………………………………………
3.2.3. Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng đối với kinh
tế tư nhân……………………………………………………………...
3.2.4. Hoàn thiện chính sách thuế đối với kinh tế tư nhân ………………….
3.2.5. Tăng cường công tác hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại đối với
kinh tế tư nhân………………………………………………………...
3.2.6. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế……………
59
60
60
62
62
65
65
68
70
70
74
74
76
77
80
82
84
3.2.7. Phát huy nội lực của kinh tế tư nhân………………………………….
Kết luận………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………...
87
91
92
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. DANH MỤC BẢNG
- Bảng 1: Tốc độ tăng các loại hình doanh nghiệp tư nhân từ năm 1994 –
1998
- Bảng 2: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân
- Bảng 3: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời
điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
- Bảng 4: Tổng vốn đăng ký và vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp
- Bảng 5: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh
nghiệp phân theo địa phương
- Bảng 6: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần
kinh tế
- Bảng 7: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo
giá thực tế
- Bảng 8: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm
phân theo vùng kinh tế
- Bảng 9: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần
kinh tế
- Bảng 10: Doanh thu thuần của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh
nghiệp
- Bảng 11: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp hàng năm phân theo
loại hình doanh nghiệp
- Bảng 12: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
2. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
- Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký hàng năm
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu
cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong
cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì vậy
phải nằm trong diện cải tạo xóa bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như
vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư nhân đã góp phần không
nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ
trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự
phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Trong
bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một
nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư nhân như một động lực phát triển cơ
bản là một bước đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua, mặc dù đã có
bước phát triển tốt, kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai
trò tương xứng với tiềm năng của nó. Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” đã được chọn và triển khai trong bối
cảnh đó.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
- Xây dựng khung lý luận của khóa luận bao gồm: làm rõ các vấn đề về
kinh tế tư nhân (khái niệm, đặc điểm, vai trò…)
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
2
- Dự báo xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân và đề xuất một số giải
pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình, xu hướng và một số giải pháp chủ yếu
phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
- Thời gian: sau khi đất nước thực hiện chính sách đổi mới (năm 1986) đến
thời điểm hiện nay (nửa đầu năm 2010).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp logic kết hợp duy vật lịch sử, phương pháp dự báo,
phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó chú trọng sử dụng phương pháp
thống kê nhằm phân tích số liệu thông qua các bảng số liệu…
5. Tên và kết cấu của khóa luận
- Tên khóa luận: Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay - thực trạng
và giải pháp.
- Kết cấu của khóa luận: Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục các
bảng và biểu đồ thì nội dung khóa luận tốt nghiệp được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về kinh tế tư nhân
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay
Do khả năng và điều kiện còn hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ
của người viết nên bài khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Người viết rất mong nhận được những đóng góp quý báu của thầy cô và bạn bè
có quan tâm đến vấn đề này để bài viết được hoàn thiện hơn.
3
Nhân đây người viết xin bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các thầy cô vì
những chỉ bảo giúp đỡ trong suốt những năm tháng học đại học và nhất là cô
giáo, ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung – người đã giúp đỡ, chỉ bảo hướng dẫn tận
tình trong suốt quá trình người viết thực hiện khoá luận tốt nghiệp này.
4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN
1.3. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tƣ nhân
1.3.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
1.3.1.1. Sở hữu tư nhân
Thuật ngữ “kinh tế tư nhân” luôn gắn liền với vấn đề sở hữu. Vì vậy,
muốn tìm hiểu về thuật ngữ này, trước hết cần tìm hiểu về sở hữu mà đặc biệt là
sở hữu tư nhân.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế vừa có tính chất xuất phát điểm vừa có bản
chất của kinh tế chính trị học. Nếu chiếm hữu là hoạt động có tính tự nhiên của
con người nhằm khai phá và chinh phục thiên nhiên để tạo ra của cải, thì sở hữu
là hình thức xã hội của chiếm hữu. Có thể hiểu phạm trù sở hữu qua cách diễn
đạt sau:
Sở hữu là quan hệ giữa người và người trong việc chiếm hữu của cải, sự
phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất
quy định. Nội dung của sở hữu luôn được xét trên hai mối quan hệ: quan hệ giữa
chủ sở hữu và đối tượng sở hữu và quan hệ người với người trong quá trình sản
xuất.
Về mối quan hệ thứ nhất, chủ thể sở hữu chủ yếu tồn tại trên hai loại hình:
một cá nhân (tư hữu) hoặc nhiều người (công hữu); còn đối tượng sở hữu bao
gồm những sản phẩm vật chất, phi vật chất, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng…
trong đó sở hữu tư liệu sản xuất là có ý nghĩa hơn cả. Mối quan hệ này được thể
hiện thông qua quyền lực của chủ thể đối với đối tượng sở hữu và được luật hóa
thành quyền sở hữu. Ở đây chủ sở hữu thường phải có các quyền căn bản như:
5
quyền sử dụng, quyền hưởng lợi, quyền định đoạt, quyền thừa kế… những mối
quan hệ này cũng chính là nội dung pháp lý của vấn đề sở hữu.
Về mối quan hệ thứ hai, đó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn
người trong hệ thống sản xuất xã hội. Mối quan hệ này khẳng định đối tượng sở
hữu, đặc biệt là tư liệu sản xuất, thuộc về ai, từ mối quan hệ đó quy định các hình
thức phân phối và quản lý tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa họ, mối quan
hệ này được biểu hiện thành nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu.
Theo điều 211 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì sở hữu tư nhân là sở hữu
cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá
thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Theo khái niệm trên thì sở hữu tư
nhân được hiểu là: sở hữu các tư liệu tiêu dùng cá nhân thường được coi là sở
hữu cá nhân và sở hữu tư liệu sản xuất thường được hiểu là sở hữu tư nhân.
Như vậy, sở hữu tư nhân là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp pháp của
tư nhân trong việc chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất – kinh
doanh, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của quá trình sản xuất – kinh doanh đó.
Sở hữu tư nhân về quá trình sản xuất là cơ sở ra đời kinh tế tư nhân.
1.3.1.2. Kinh tế tư nhân
Trên thực tế, tùy thuộc vào cách tiếp cận mà có những cách hiểu dẫn đến
những khái niệm khác nhau về kinh tế tư nhân.
Ở các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới hiện nay, mọi hoạt
động không thuộc khu vực công đều được coi là khu vực kinh tế tư nhân.
Ở một số nước khái niệm về khu vực kinh tế tư nhân cũng rất phức tạp.
Như ở Trung Quốc, khu vực tư nhân cùng lúc được hiểu là:
- Khu vực phi Nhà nước: bao gồm tất cả các đối tượng không thuộc sở hữu
Nhà nước, cả trong công nghiệp lẫn nông nghiệp.
6
- Khu vực phi Nhà nước, phi nông nghiệp: gồm các đối tượng không thuộc
sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ lĩnh vực nông nghiệp.
- Khu vực tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà nước
nhưng loại trừ các doanh nghiệp tập thể.
- Khu vực tư nhân trong nước: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu
Nhà nước nhưng loại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Doanh nghiệp tư nhân: bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu Nhà
nước nhưng loại trừ các hộ kinh doanh cá thể (có ít hơn 8 công nhân).
Trong những trường hợp cụ thể khi sử dụng những khái niệm trên, số liệu
thống kê thường chênh lệch nhau rất lớn. Và cho tới ngày nay tại Trung Quốc
vẫn có sự phân biệt hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân với ranh giới được ấn
định là 8 công nhân.
Ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân:
- Theo nghĩa rộng, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực dân doanh bao gồm
các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, kể cả các hợp tác xã nông
nghiệp, các doanh nghiệp phi nông nghiệp và các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn. Cách hiểu
trên sẽ đánh giá tương đối chính xác tiềm năng của khu vực kinh tế tư
nhân, tuy nhiên thường gặp khó khăn trong thống kê, khi không phân biệt
được phần vốn góp của Nhà nước trong các liên doanh cũng như các công
ty cổ phần mà Nhà nước góp vốn.
- Theo nghĩa hẹp: khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh, nhưng không bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (số liệu
thông kê thường theo cách phân loại này khi phân chia nền kinh tế thành 3
khu vực: kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài).
7
Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế ngoài quốc
doanh nhưng không bao gồm kinh tế tập thể.
Từ những cách hiểu trên ta có thể đi đến một nhận thức về kinh tế tư nhân
như sau: kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động
dước hình thức hộ kinh doanh các thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Các loại hình kinh doanh của kinh tế tư nhân đều có điểm chung là dựa
trên sở hữu tư nhân, nhưng có sự khác nhau về trình độ sản xuất kinh doanh.
Theo quan điểm hiện hành ở nước ta, kinh tế tư nhân có hai loại hình như sau:
- Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động
trên cở sở tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, với quy mô nhỏ hơn các loại
hình doanh nghiệp của tư nhân, chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình,
là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về
kết quả tài chính của mình.
- Hai là, kinh tế tư bản tư nhân gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ
sở tư hữu về tư liệu sản xuất với quy mô lớn hơn cá thể, tiểu chủ, có thuê
mướn lao động. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại hình doanh
nghiệp như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh.
Trên thực tế, việc phân định ranh giới giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay là không đơn giản, bởi sự vận động biến đổi
và phát triển không ngừng của chúng. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, các loại
hình doanh nghiệp được quy định như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
8
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ đông góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên hợp
danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành
viên hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty.
1.3.2. Tính tất yếu khách quan và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
sự tồn tại, phát triển kinh tế tư nhân
1.3.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, là một tất
yếu khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan; xuất phát từ những
luận cứ sau đây:
- Một là: Do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay trình
độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển, không đồng đều giữa
các ngành, các vùng trong nội bộ từng vùng. Vì vậy, không thể ngay từ
đầu xây dựng được một kiểu quan hệ sản xuất thống trị, thuần nhất trên cơ
sở công hữu. Do đó, việc duy trì một hệ thống sở hữu đa dạng trong đó có
sở hữu tư nhân để từ đó hình thành kinh tế tư nhân là một tất yếu, phù hợp
9
với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay.
- Hai là: Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay là có sự
đan xen tồn tại giữa các thành phần kinh tế cũ và mới. Các thành phần
kinh tế do xã hội cũ để lại như kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, các
thành phần kinh tế này vẫn có những vai trò quan trọng để phát triển kinh
tế, có lợi cho đất nước trong giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, huy động
các nguồn vốn… Và một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá
trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế tập thể, kinh tế nhà
nước, kinh tế tư bản nhà nước.
- Ba là: Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cho thấy: kinh tế thị trường sẽ và chỉ phát triển lành
mạnh trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội, thừa nhận và tạo
điều kiện môi tường phát triển kinh tế tư nhân, qua đó tạo ra khả năng to
lớn trong việc huy động tiềm lực vật chất và tinh thần cho phát triển kinh
tế. Các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân sẽ cung cấp ngày
càng nhiều các sản phẩm phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã,
nâng cao về chất lượng, giá cả phù hợp với khả năng người tiêu dùng, tạo
động lực cho các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm đối với sản phẩm
của mình khi đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Bốn là: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường gắn với bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng góp phần
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại. Phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, đồng thời khắc phục tình
10
trạng độc quyền trong một số ngành, lĩnh vực chỉ có kinh tế nhà nước
tham gia, có lợi cho công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
1.3.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển của kinh tế tư
nhân
Trong các Văn kiện của Đảng, việc xác định các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong đó thành phần kinh tế tư nhân
từ chỗ bị phủ nhận đã được thừa nhận là một thành phần kinh tế tồn tại song
song với nhiều thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, hiện nay kinh tế tư nhân được
khẳng định là có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Đại hội VI và VII của Đảng
khẳng định các thành phần kinh tế của Việt Nam bao gồm: kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân; trong đó kinh tế tư nhân được
coi là: “sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các
tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động” và được phát triển chủ yếu
trong “lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước” (trích văn
kiện Đại hội VI). Đại hội VIII của Đảng xác định: các thành phần kinh tế của
Việt Nam gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh
tế các thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX xác định: các thành phần
kinh tế của Việt Nam gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, và kinh tế có vồn đầu tư
nước ngoài. Sự khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển được thể hiện khá rõ
trong Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ V khóa IX: “kinh tế tư nhân là một
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng
cao năng lực đất nước trong hội nhập quốc tế” (trích văn kiện hội nghị Trung
11
ương V khóa IX). Như vậy cho đến nay, về mặt quan điểm, Đảng và Chính phủ
Việt Nam đã khẳng định sự có mặt của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là một
sự tồn tại khách quan mà còn là sự cần thiết để huy động mọi nguồn lực cho sự
phát triển, đi đúng hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước
ta.
1.3.3. Đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
1.3.3.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
- Quy mô và hình thức sở hữu đa dạng;
- Bộ máy và đội ngũ quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và năng động. Hoạt động
của bộ máy gắn chặt với những biến động cung – cầu trên thị trường,
trước áp lực của cạnh tranh, họ buộc phải tính toán tìm ra cách sử dụng
một cách có hiệu quả yếu tố đầu vào;
- Sử dụng lao động và công nghệ rất linh hoạt và hiệu quả;
- Lĩnh vực đầu tư thường tập trung vào khu vực thương mại và dịch vụ;
- Mục đích kinh doanh là rõ ràng với tôn chỉ bất biến: tối đa hóa lợi nhuận;
- Phương thức huy động vốn của kinh tế tư nhân cũng rất linh hoạt, nguồn
vốn đa dạng.
1.3.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân
- Đóng góp vào thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- Đóng góp ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển;
- Đóng góp đáng kể vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước;
- Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc
đẩy dân chủ hóa đời sống kinh tế;
12
- Giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và đào tạo nguồn nhân
lực mới cho thị trường lao động;
- Góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.4. Điều kiện để phát triển kinh tế tư nhân
Trước hết đó là những vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh. Kinh
tế tư nhân chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có môi trường kinh doanh thích
hợp. Môi trường kinh doanh của kinh tế tư nhân là nền kinh tế thị trường. Vì
vậy, tạo môi trường thực sự cho kinh tế tư nhân phát triển cũng đồng nghĩa với
phát triển kinh tế thị trường. Cụ thể:
1.3.4.1. Kinh tế tư nhân phải được tự do phát triển
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có điều kiện để
phát huy tính năng động, độc lập tự chịu trách nhiệm và có khả năng khai thác
tối đa mọi nguồn lực trong nền kinh tế. Một môi trường kinh doanh không đảm
bảo tự do cho doanh nghiệp sẽ là môi trường méo mó, biến dạng, dễ nảy sinh
tiêu cực, bất công. Một thực tế khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là những
doanh nghiệp nào có quan hệ cá nhân thân mật với cơ quan quản lý nhà nước thì
làm ăn thuận lợi. Trái lại, những doanh nghiệp chỉ biết làm ăn chân chính, theo
đúng luật lại thường gặp khó khăn, bị kìm hãm, rất khó hoạt động. Như vậy, nhà
nước cần tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp có thể tham gia vào hoạt
động sản xuất - kinh doanh một cách bình đẳng. Đây thực chất là tạo cơ chế tự
do nhập ngành của các nhà cung ứng hàng hoá. Sự bình đẳng cho các chủ thể
tham gia thị trường sẽ góp phần loại bỏ được những ưu thế giả tạo cho các chủ
thể khác.
1.3.4.2. Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thành phần kinh
tế tư nhân phát triển
Cạnh tranh lành mạnh thể hiện:
13
Thứ nhất, cạnh tranh không loại trừ hợp tác, cạnh tranh tạo điều kiện hợp
tác. Cạnh tranh là cơ chế để doanh nghiệp tồn tại được trong cơ chế thị trường.
Hợp tác là để cho hệ thống doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường mạnh hơn.
Thứ hai, kết quả cạnh tranh là sự thắng lợi của một cách thức sản xuất tối
ưu, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những doanh nghiệp mạnh đã
loại bỏ được những doanh nghiệp yếu hơn trên thị trường. Doanh nghiệp mạnh là
doanh nghiệp có phương thức tổ chức sản xuất hiệu quả hơn. Như vậy, nguyên
tắc “mạnh thắng yếu”, vốn là quy luật khắt khe của kinh tế thị trường vẫn hoàn
toàn đúng. Doanh nghiệp nào hoạt động kém hiệu quả phải bị loại bỏ, cho dù đó
là doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào, thuộc quy mô gì. Những doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả phải được xã hội tôn vinh, kính trọng. Nhà nước cần tạo
điều kiện cho những doanh nghiệp như vậy phát triển. Ngược lại, bất kỳ doanh
nghiệp nào kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả cũng cần phải bị xoá bỏ một cách
kiên quyết.
Quan hệ giữa nhà nước và nền kinh tế được phản ánh thông qua quan hệ
giữa nhà nước và doanh nghiệp. Quan hệ này về thực chất là quan hệ giữa cơ
quan quản lý điều tiết và đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn cần có sự quản lý của nhà nước,
sự điều tiết nền kinh tế của nhà nước là cần thiết khách quan. Vì thế, quan hệ này
luôn xuất hiện và cần được giải quyết hợp lý. Song, trong lịch sử phát triển kinh
tế, quan hệ này rất dễ bị vi phạm, do đó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
chung của nền kinh tế.
Để có quan hệ hợp lý giữa nhà nước và doanh nghiệp cần phải xác định
đúng vị trí và nhiệm vụ của từng chủ thể trong quan hệ này. Nhiệm vụ của Nhà
nước là quản lý, điều tiết nền kinh tế, nhằm duy trì trật tự trong nền kinh tế. Các
doanh nghiệp là những đơn vị kinh doanh, nhiệm vụ của họ là tổ chức sản xuất -
14
kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thông qua tín hiệu
của thị trường. Đây là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp và cũng là nhiệm vụ mà nền kinh tế trao cho họ.
Một vấn đề cũng rất quan trọng, mà các doanh nghiệp trông đợi từ phía
nhà nước là sự bình đẳng. Nhà nước cần phải đối xử bình đẳng với các doanh
nghiệp trên mọi phương diện. Vì sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế,
Nhà nước phải đóng vai trò “trọng tài” chứ không phải là một chủ thể đứng về
một doanh nghiệp nào, dù đó là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Do đó, không được đồng nhất nhà nước với doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau cùng tồn tại. Song dù là doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào thì doanh
nghiệp vẫn có nhiệm vụ hoàn toàn khác với nhiệm vụ của Nhà nước và đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật.
1.3.4.3. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế rất cần có sự hỗ trợ, điều
tiết của Nhà nước. Kinh tế tư nhân cũng vậy, trong quá trình phát triển, nhà nước
giữ vai trò định hướng, vạch ra chiến lược, chính sách cho kinh tế tư nhân phát
triển. Song, nếu điều đó là đương nhiên đối với các doanh nghiệp nhà nước, thì
đối với kinh tế tư nhân vấn đề này thường bị xem nhẹ. Thái độ này đối với kinh
tế tư nhân cũng lại xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò của kinh tế tư
nhân trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp và chỉ có các doanh nghiệp cụ thể,
không phụ thuộc vào hình thức sở hữu, luôn là những chủ thể thực hiện những
mục tiêu mà chính phủ luôn theo đuổi. Đó là sự tăng trưởng ổn định của nền
kinh tế. Chính vì vậy, giữa nhà nước và doanh nghiệp cần có mối quan hệ đồng
thuận vì mục tiêu chung. Các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp tư
15
nhân và đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, phải được
xây dựng trên nguyên tắc trước hết là đảm bảo cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp tư nhân rất cần đến sự hỗ trợ
của nhà nước về các mặt như vốn, công nghệ, đào tạo lao động, tìm kiếm thị
trường và nhất là một môi trường xã hội, ở đó có sự thừa nhận, tôn vinh khu vực
kinh tế tư nhân. Đây là một vấn đề không đơn giản ở những quốc gia đã từng có
những nhận thức chưa đúng về vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Để
đạt được điều này, vai trò hỗ trợ của nhà nước là hết sức quan trọng, thậm chí
đóng vai trò quyết định.
1.4. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tƣ nhân của các nƣớc trong khu vực
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản,
trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh
tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh
tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ (1955-
1973) khiến cho cả thế giới hết sức kinh ngạc và khâm phục.
Từ năm 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp
tục là một nước có nền kinh tế, công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa
học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu
người là 42.480 USD (2008). Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng
đứng hàng đầu thế giới. Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng
hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều. Nhật Bản được
đánh giá là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới.
Để khuyến khích kinh tế tư nhân, trước hết chính phủ Nhật Bản đã tiến
hành hỗ trợ các công ty tư nhân chọn lựa phát triển các ngành, sản phẩm chủ lực,
16
hướng về xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới và lợi thế so sánh
của Nhật Bản. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và sản
phẩm xuất khẩu là sự ưu tiên hàng đầu của chính sách hỗ trợ.
Chìa khóa cho sự thành công của Nhật Bản trong suốt quá trình hoàn thiện
sự hỗ trợ và tăng cường quản lý Nhà nước đối với khu vực tư nhân chính là xúc
tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu. Chính phủ Nhật Bản đã giữ vai
trò quan trọng trong việc khơi thông thị trường quốc tế. Để thực hiện tốt xúc tiến
thương mại – xuất khẩu, Nhật Bản cho phép thành lập các cơ quan phi chính
phủ, được phân thành hai nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất gồm các liên minh doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế Nhật Bản, hoạt động phi lợi nhuận trên cơ sở hội phí của các thành viên.
Đây là những tổ chức có quy mô lớn, bao gồm cả viện nghiên cứu, các
quỹ hợp tác phát triển. Hoạt động của các cơ quan này mang tính “trung
gian”, vừa vận động hành lang cho chính phủ vừa đấu tranh gây ảnh
hưởng với chính phủ trong việc định hướng chính sách nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các doanh nghiệp.
- Nhóm thứ hai gồm các phòng thương mại và công nghiệp, các hiệp
hội ngành. Các cơ quan thuộc nhóm này hoạt động chủ yếu thiên về dịch
vụ trên cơ sở hội phí, lệ phí dịch vụ và về đại diện quyền lợi cho các
doanh nghiệp.
Nhìn chung, các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ Nhật Bản là
đơn vị phi lợi nhuận, là cơ quan sự nghiệp phúc lợi công cộng, trực thuộc chính
phủ và không phải là bộ máy quản lý. Các cơ quan này nhận được tài trợ từ
nhiều nguồn vốn khác nhau gồm: ngân sách nhà nước cấp theo các dự án phát
triển kinh tế và nguồn thu khác (phí hội viên, lệ phí dịch vụ và các hoạt động có
thu khác…). Các cơ quan xúc tiến thương mại có mạng lưới rộng khắp trong và
17
ngoài nước. Chẳng hạn như JETRO (tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) có
37 văn phòng trong nước và 75 văn phòng ở nước ngoài. Nhiệm vụ của các văn
phòng này là theo dõi những thay đổi về chính sách thuế quan, thị hiếu tiêu
dùng, sức cạnh tranh, thăm dò, tìm kiếm đối tác tiềm năng ở thị trường nước
ngoài, rồi chuyển về nước phục vụ cho các doanh nghiệp có nhu cầu, và nhằm
thành lập các phòng trưng bày, triển lãm ở nước ngoài cho các sản phẩm xuất
khẩu.
Để tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp, chính phủ Nhật Bản rất
quan tâm đến thành lập các Hiệp hội và tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thông qua các chương trình: bảo lãnh tín dụng, tư vấn, tạo thị trường cho các
doanh nghiệp (thông qua các hợp đồng gia công giữa các công ty lớn với các
doanh nghiệp nhỏ, tăng cường viện trợ và ký kết các Hiệp định kinh tế - thương
mại với các chính phủ nước ngoài để mở đường cho doanh nghiệp Nhật Bản
thâm nhập thị trường thế giới); linh hoạt hóa thị trường lao động, đổi mới giáo
dục nhận thức và đào tạo nghề cho công nhân, cải thiện môi trường pháp lý văn
hóa và kinh doanh phù hợp với những cam kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Có thể nói phương thức quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân
của Nhật Bản là: “Chính phủ ít can thiệp thô bạo vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, quan hệ giữa chính phủ và khu vực tư nhân phải minh bạch”.
Thành công của các công ty tư nhân Nhật Bản trên khắp thế giới là một điển
hình về hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia này.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore
Là quốc gia đầu tiên thuộc nhóm nước NICs, nằm trong khối ASEAN, sự
phát triển của đảo quốc nhỏ bé này được xem là hình mẫu cho các nước trong
khu vực. Chính phủ Singapore coi kinh tế tư nhân là động lực chính thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, chính phủ Singapore đã tiến
18
hành nhiều chính sách khuyến khích tư nhân trong nước cũng như các nhà đầu tư
nước ngoài như:
- Miễn thuế 5 năm đối với các công ty kinh doanh ở những ngành
mũi nhọn khi có vốn đầu tư từ 1 triệu USD Singapore.
- Chính phủ liên doanh hoặc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, khi có lãi cho phép nhà kinh
doanh tư nhân mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phần của doanh nghiệp.
- Miễn, giảm thuế khi mở rộng sản xuất hoặc khi có nhiều hàng xuất
khẩu, vay vốn nước ngoài, mới đầu tư và nghiên cứu khoa học.
- Các doanh nghiệp nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước
không hạn chế số lượng cũng như không hạn chế về quy mô đầu tư.
- Ưu đãi về tài chính cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất theo
hướng hiện đại hóa bằng cách giảm 40% thuế thu nhập trong 10 năm.
Cũng như mô hình của Nhật Bản, Chính phủ Singapore đặc biệt coi trọng
phát triển hệ thống xúc tiến thương mại. Ở Singapore, cơ quan quản lý nhà nước
cao nhất về xúc tiến thương mại là Cục Phát triển Thương mại thuộc Bộ Thương
mại và Công nghiệp. Ngoài ra, các Hiệp hội ngành nghề, Phòng Thương mại và
Công nghiệp người Hoa, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Malaysia,
Phòng Thương mại và Công nghiệp người Ấn Độ… đều tiến hành công việc xúc
tiến thương mại. Các cơ quan xúc tiến thương mại bán thông tin cho doanh
nghiệp với giá rẻ, chỉ khoảng 30-50% chi phí (Singapore cho rằng cần bán thông
tin, vì khi bỏ tiền ra mua thì doanh nghiệp mới biết quý trọng thông tin, nhưng
phải bán “lỗ” vì doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần thông tin
để điều chỉnh và mở rộng sản xuất).
Phát triển cơ sở dịch vụ kỹ thuật phục vụ sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân cũng được chính phủ Singapore hết sức coi trọng, đặc biệt là thuận tiện
19
hóa thủ tục hải quan. Từ năm 1989, Singapore đã xây dựng và vận hành hiệu quả
hệ thống Tradenet để làm thủ tục xuất – nhập khẩu hàng hóa. Đây là một mạng
máy tính nối liền giữa các cơ quan quản lý thủ tục Nhà nước về xuất – nhập khẩu
với các doanh nghiệp và được nối mạng với một số nước khác, cho phép các
doanh nghiệp hoàn tất toàn bộ thủ tục xin giấy phép xuất – nhập khẩu qua mạng
trong vòng 30 phút mà không cần đem chứng từ đến tận các cơ quan hải quan để
xin phép (một số trường hợp đặc biệt vẫn xử lý theo mẫu in sẵn có bán rộng rãi
trên thị trường, với toàn bộ quá trình, trung bình mất khoảng 4 tiếng). Nhờ vậy,
một container đi qua cổng cảng Singapre chỉ mất 45 giây. Mỗi năm mạng
Tradenet này tiết kiệm cho Singapore khoảng 1 tỷ USD Singapore chi phí thủ tục
hành chính và những lợi ích không thể đo lường khác liên quan đến cung cấp
thông tin thương mại giữa các đối tác tham gia trong mạng này.
Trong quá trình tăng cường quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư
nhân, chính phủ Singapore rất coi trọng vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm xuất
– nhập khẩu, thông qua việc thực hiện chế độ bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn
chất lượng quốc gia và tự nguyện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Tham gia vào
quản lý chất lượng hàng hóa, ngoài các cơ quan Nhà nước còn có hàng loạt công
ty giám định chất lượng thế giới. Khi ký họp đồng ngoại thương, các doanh
nghiệp có thể quy định việc sử dụng dịch vụ của các công ty giám định này trong
hợp đồng.
Khi hỗ trợ phát triển cho kinh tế tư nhân, Chính phủ Singapore cũng tiến
hành xây dựng nhiều xí nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Singapore xác định rằng
kinh tế Nhà nước cũng chỉ nhằm bổ trợ và tạo điều kiện cho sự phát triển của
khu vực tư nhân. Vì vậy, chính phủ sẵn sàng chuyển sang khu vực tư nhân khi có
điều kiện bằng những chương trình tư nhân hóa khu vực quốc doanh.
20
1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Trung Quốc được xem là tiêu
biểu cho những nước có nền kinh tế chuyển đổi. Kinh tế tư nhân ở Trung Quốc
so với các nền kinh tế thị trường truyền thống còn có những bước thăng trầm
nhất định, sự nhìn nhận và các chính sách đối với kinh tế tư nhân đang còn nhiều
vấn đề phải tiếp tục hoàn thiện.
Sau khi thành lập năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
nhanh chóng hình thành một khu vực kinh tế nhà nước thông qua biện pháp quốc
hữu hóa. Nếu năm 1949 doanh nghiệp tư nhân chiếm 63% sản lượng công
nghiệp thì năm 1952 chỉ còn 39% và 56% sản phẩm đầu ra của khu vực kinh tế
tư nhân là theo đơn đặt hàng của Nhà nước.
Ở Trung Quốc, trong giai đoạn từ khi cách mạng văn hóa 1966 bùng nổ
cho đến năm 1979 khởi đầu cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng không có sự
tồn tại của kinh tế tư nhân. Sự phát triển của hộ cá thể đầu những năm 1980 đã
đặt nền móng vững chắc cho sự xuất hiện chính thức của doanh nghiệp tư nhân.
Ước tính cuối năm 1988 có khoảng 500.000 hộ cá thể có thể coi là doanh nghiệp
tư nhân. Bên cạnh đó còn có rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là
doanh nghiệp sở hữu tư nhân. Đó là những “doanh nghiệp mũ đỏ”, với mục đích
núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía Chính phủ và
những phân biệt về mặt tư tưởng.
Thay đổi quan trọng nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc là
việc tư nhân hóa doanh nghiệp Nhà nước vào những năm 1990. Các chương
trình tư nhân hóa đều do chính quyền địa phương khởi xướng với lý do quan
trọng nhất là số nợ của khu vực nhà nước đang lớn dần lên. Năm 1995, chính
quyền trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đã đưa ra chính sách “nắm lớn
21
thả nhỏ”, theo đó Nhà nước chỉ chú trọng vào từ 500 đến 1000 doanh nghiệp lớn
và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn.
Từ chính sách “thả nhỏ”, xuất hiện chính sách “thay đổi sở hữu” với nội
dung bao gồm: giao, khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Khu vực kinh
tế tư nhân có vai trò ngày càng quan trọng cho nền khinh tế Trung Quốc. Số liệu
thống kê cho thấy 71% GDP là của khu vực phi nhà nước, trong đó doanh
nghiệp tập thể chiếm 30%, phần còn lại do khu vực tư nhân trong nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp. Dù đạt được con số như trên, nhưng
khu vực tư nhân chỉ sử dụng một lượng tài nguyên ít ỏi, hạn chế trong việc tiếp
cận nguồn vốn tín dụng, đó là một đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân Trung
Quốc.
Sau hơn 20 năm cải cách, kinh tế tư nhân Trung Quốc đã có được sự đối
xử công bằng và được đặt đúng vị trí. Chính phủ Trung Quốc đã có những nỗ lực
thực hiện môi trường kinh doanh khá bình đẳng, cùng với những chính sách
khuyến khích phát triển. Có thể tóm tắt những điểm chủ yếu như sau:
- Ưu đãi đầu tư nước ngoài và từng bước xóa bỏ độc quyền kinh
doanh của Nhà nước.
Trung Quốc đã đưa ra nhiều ưu đãi hấp dẫn để khuyến khích đầu tư nước
ngoài: quyết định giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các
doanh nghiệp ở đặc khu kinh tế chỉ còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các
doanh nghiệp mới thành lập ở các đặc khu, miễn thuế thu nhập khi chuyển lãi ra
nước ngoài – trước đó nộp 10% - và hoàn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng
để tái đầu tư. Việc thu hẹp và từng bước xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh và
can thiệp trực tiếp của Nhà nước cũng được chú trọng. Đến đầu những năm
1990, Chính phủ chỉ còn độc quyền 7 mặt hàng nhập khẩu và 30 mặt hàng xuất
khẩu quan trọng nhất, liên quan đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
22
- Hỗ trợ xuất khẩu và đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương.
Để hỗ trợ xuất khẩu, ngay từ năm 1982, chính phủ Trung Quốc đã thực
hiện hoàn thuế công thương ở khâu sản xuất cuối cùng, áp dụng thuế VAT đối
với 17 mặt hàng xuất khẩu cơ điện, năm 1985 mở rộng phạm vi hoàn trả thuế
đến tất cả các mặt hàng trữ dầu thô và dầu thành phẩm. Năm 1988, hoàn trả toàn
bộ thuế gián tiếp lũy tiến ở các khâu từ sản xuất đến lưu thông đối với các sản
phẩm xuất khẩu.
Để khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc lập ra các quỹ tín dụng xuất
khẩu, quỹ hỗ trợ sản xuất chuyên ngành nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng
cải tiến kỹ thuật, tăng cường khả năng sản xuất sản phẩm gia công xuất khẩu và
thường xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Cơ chế quản lý ngoại thương không ngừng cải cách theo hướng cởi mở
hơn, tình trạng độc quyền của Nhà nước ngày càng bị thu hẹp, trước hết là trong
ngoại thương. Các công ty tư nhân dược phép xuất khẩu trực tiếp. Chính sách
hoàn thuế và điều chỉnh linh hoạt, tỷ giá được sử dụng thích hợp như một công
cụ trợ giúp doanh nghiệp xuất khẩu (từ năm 1979-1990, Trung Quốc đã 6 lần
điều chỉnh tỷ giá, trong năm 1994 đã phá giá tới trên 30% đồng NDT).
- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, lành mạnh.
Ưu tiên hàng đầu về điều chỉnh môi trường đầu tư là thống nhất và tạo môi
trường thuế bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước hạ
thấp thuế quan theo yêu cầu của hội nhập. Chuyển từ ưu đãi thuế lâu dài và theo
khu vực sang ưu đãi thuế có thời hạn và lĩnh vực, dự án cần hỗ trợ phát triển.
Điểm đặc biệt là Trung Quốc chỉ quan tâm duy trì mức thuế quan cao đối với
những sản phẩm nhập khẩu mà Trung Quốc đã tự sản xuất được.
Để cải thiện cơ bản môi trường kinh doanh, Trung Quốc không chỉ phát
triển cơ sở hạ tầng mà còn từng bước áp dụng mức giá dịch vụ thống nhất cho
23
các doanh nghiệp và thương nhân nước ngoài theo giá dành cho trong nước, các
thủ tục phê duyệt dự án được đơn giản hóa, những hạn chế đối với các thủ tục
đầu tư được giảm tới mức tối thiểu.
- Cho phép tư nhân mua lại hoặc tham gia cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước, tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính phủ Trung Quốc chủ trương chỉ giữ lại khoảng 500 doanh nghiệp
Nhà nước và 110 tập đoàn công ty. Các công ty tư nhân được phép vay vốn ưu
đãi từ nguồn vốn Nhà nước, được tham gia phát hành cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán.
Trung Quốc tích cực hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (phần lớn ở khu vực
tư nhân, chiếm khoảng 99% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động ở Trung
Quốc, tạo ra 75% việc làm), bao gồm các biện pháp: đẩy mạnh điều chỉnh cơ
cấu, khuyến khích và bồi dưỡng năng lực sáng tạo kỹ thuật, tăng cường hỗ trợ
thuế và tài chính – tiền tệ, hoàn thiện hệ thống dịch vụ xã hội để tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Định kỳ Nhà nước công bố “danh mục ngành nghề thích
hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ”, đồng thời xây dựng “luật thúc đẩy phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, giảm dần các điều kiện để doanh nghiệp vừa và
nhỏ được quyền chủ động xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế.
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ những kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư nhân của một số quốc gia
trên thế giới có thể thấy rằng: ở các nước kinh tế tư nhân tuy có sự khác nhau về
những đặc điểm riêng về lộ trình, nội dung và hình thức trong quá trình phát
triển kinh tế tư nhân, nhưng đều có điểm chung là việc khẳng định tầm quan
trọng của kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng trong
phát triển nền kinh tế quốc dân, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà phát triển
khu vực này một cách phù hợp nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng của nó. Vì
24
vậy, muốn phát triển kinh tế tư nhân như mong đợi thì bài học kinh nghiệm rút ra
cho Việt Nam là:
- Thứ nhất, bảo đảm sự ổn định, minh bạch và thuận lợi về môi trường đầu
tư. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro cho vốn đầu
tư tư nhân. Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, thông suốt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, tạo ra môi
trường xã hội thuận lợi, ủng hộ các nhà đầu tư tư nhân sẽ kích thích họ mở
rộng đầu tư. Hệ thống pháp luật đầu tư phải đảm bảo sự an toàn về vốn và
tài sản tư nhân, môi trường cạnh tranh lành mạnh, không có phân biệt đối
xử giữa các thành phần kinh tế, hệ thống pháp luật được xây dựng càng
chặt chẽ, cởi mở, càng hấp hẫn cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
- Thứ hai, hệ thống chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân phải
mềm dẻo và hấp dẫn. Nhìn chung các quốc gia đều sử dụng một hệ thống
chính sách khuyến khích phát triển bao gồm nhiều chính sách bộ phận để
phát triển kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế thành công, nhưng
trọng tâm vẫn là chính sách thương mại và chính sách tài chính – tiền tệ.
- Thứ ba, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
khu vực tư nhân. Một trong những điều gây phiền lòng các nhà đầu tư là
thủ tục hành chính rườm rà, gây tốn kém thời gian và chi phí, làm mất cơ
hội cho các nhà đầu tư. Bộ máy hành chính mà trực tiếp là các cơ quan
quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân là phải thống nhất, gọn nhẹ, thủ
tục đơn giản, công khai. Những quy định pháp lý cần phải đơn giản dễ
hiểu nhất, đảm bảo tính nhất quán sẽ khuyến khích và củng cố niềm tin
cho các nhà đầu tư ở tất cả các quốc gia. Để phát triển kinh tế tư nhân thì
hoạt động xúc tiến thương mại luôn cần được chú trọng, hoạt động này
25
phần lớn có sự hỗ trợ của chính phủ. Sự thành công của Nhật Bản và
Singapore là những ví dụ điển hình.
- Thứ tư, phát triển đồng bộ, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và quan tâm phát
triển nguồn nhân lực, năng lực khoa học – công nghệ cho doanh nghiệp.
Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại là điều kiện vật chất hàng đầu, giúp cho
các nhà đầu tư tư nhân nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai
trên thực tế các dự án của mình. Hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho
các chủ đầu tư sự thuận tiện, giảm chi phí về lưu thông.
- Thứ năm, các chính sách đối với kinh tế tư nhân phải phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của đất nước và từng giai đoạn phát triển của kinh tế tư nhân.
Đối với các nền kinh tế “chuyển đổi” đặc biệt là Trung Quốc cho thấy
nhân tố chính sách luôn đóng vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế
tư nhân. Trước hết cần xác định vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế. Nếu chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở các nước tư bản chú trọng
vào hỗ trợ phát triển thì ở Trung Quốc kết hợp chính sách hỗ trợ với việc
tạo lập môi trường thể chế, tâm lý xã hội thích ứng với sự phát triển kinh
tế tư nhân trong từng giai đoạn cụ thể là: làm thế nào để thay đổi quan
niệm xã hội không đúng về kinh tế tư nhân, đẩy mạnh cải cách hành chính
để các cơ quan Chính phủ các cấp phục vụ có hiệu quả, không gây phiền
hà, sách nhiễu; có biện pháp hữu hiệu bảo vệ tài sản hợp pháp của tư nhân,
có biện pháp ngăn chặn hiện tượng các cơ quan quản lý coi kinh tế tư nhân
như “miếng mồi béo bở” tùy tiện thu lệ phí và xử phạt vô tội vạ.
Đây là những bài học kinh nghiệp rất có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân qua các thời kỳ
2.3.1. Giai đoạn trước đổi mới năm 1986
Thực tế cho thấy sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung vẫn tồn tại và phát triển và thực sự đã có những đóng góp
quan trọng về hàng hóa cho sản xuất tiêu dùng trong đời sống xã hội. Bởi vì, nhu
cầu các loại hàng hóa, dịch vụ xã hội rất cần mà khu vực kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể không thỏa mãn được. Bởi vậy, kinh tế tư nhân ở đây vẫn còn nhu
cầu khách quan để tồn tại và phát triển cho dù trình độ sản xuất hàng hóa còn rất
sơ khai và phải tự điều chỉnh về hình thức tổ chức, quy mô và phương thức hoạt
động trong môi trường không được pháp luật thừa nhận.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân thời kỳ này gặp không
ít khó khăn trong việc giải quyết đầu vào, đầu ra của sản xuất. Họ không được
cung ứng các yếu tố sản xuất như: máy móc, thiết bị, năng lượng, nguyên liệu,
nhiên liệu, vốn… từ hệ thống cung ứng của nhà nước. Để khắc phục khó khăn
đó, họ phải tự điều chỉnh và hình thành cho mình một hệ thống thị trường mà lúc
đó được gọi là “thị trường tự do” hay “thị trường chợ đen” đối lập với thị trường
nhà nước. Đối tượng giao dịch của “thị trường tự do” là các cơ sở sản xuất kinh
doanh tư nhân. Quan hệ giao dịch dựa trên cơ sở giá cả thị trường “thuận mua
vừa bán”. Các luồng luân chuyển hàng hóa, tiền tệ song song tồn tại với hệ thống
thị trường có tổ chức của nhà nước. Nhờ hình thành hệ thống thị trường này, mặc
dù phải hoạt động trong môi trường kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao
cấp, không có những điều kiện cơ bản để tồn tại, nhưng kinh tế tư nhân đã vượt
27
qua được cơn lốc của giai đoạn “cải tạo xã hội chủ nghĩa” để tồn tại, phát triển
đáp ứng được một phần quan trọng sản phẩm cho nhu cầu của xã hội.
Thực tiễn trong những năm cải tạo xã hội chủ nghĩa cho thấy: sản xuất
ngày càng sa sút, tổng sản phẩm xã hội trong 5 năm 1976 – 1980 gần như dậm
chân tại chỗ, nhưng tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân trong tổng sản phẩm xã hội
là tăng lên từ 38,01% (1976) lên 42,77% (1980) và trong thời kỳ đó, tỷ trọng của
“thị trường tự do” trong tổng mức bán lẻ của xã hội từ 50,9% (1976) lên 60,9%
(1980). Trong công nghiệp, năm 1974, kinh tế tư nhân ở miền Bắc chỉ chiếm 7%
lao động, 0,3% tài sản cố định nhưng lại đóng góp 12% thu nhập quốc dân.
Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, bán lẻ hàng hóa, kinh tế tư nhân
hoạt động có hiệu quả hơn doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Ở miền Nam
sau khi có Nghị quyết 06 (khóa IV) năm 1979, kinh tế tư nhân được nhen nhóm
trở lại, đến năm 1980, thành phố Hồ Chí Minh có 1.564 xí nghiệp tư nhân với số
công nhân 16.178 người. Điều đó cho thấy kinh tế tư nhân tuy là đối tượng cải
tạo, phải xóa bỏ bằng nhiều biện pháp, nhưng nó vẫn có sức sống mãnh liệt.
Do sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí muốn xác lập ngay quan hệ sản
xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ
thấp kém, thêm vào đó việc áp dụng cơ chế quản lý nền kinh tế theo mô hình tập
trung quan liêu, bao cấp, cho nên kinh tế của nước ta trong thời kỳ này gặp rất
nhiều khó khăn, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Tình trạng nền kinh tế khủng hoảng bộc lộ rõ nhất vào giai đoạn 1975 –
1985 khi đất nước đã thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội lấy phát
triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, các nguồn viện trợ từ bên ngoài không còn,
đất nước lại bị bao vây, cấm vận. Những sai lầm, khuyết điểm đó đã cho chúng
ta những bài học quý giá để quyết tâm đi vào công cuộc đổi mới, chuyển nền
28
kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 1999
Nhìn lại quá trình hơn 20 năm phát triển của kinh tế tư nhân, có thể thấy
một số điểm mốc mang tính đột phá. Đột phá thứ nhất là chuyển từ “không”
thành “có”, từ sự phủ nhận sự tồn tại chuyển sang thừa nhận sự tồn tại đặc biệt
quan trọng của kinh tế tư nhân. Điều đó được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội
lần thứ VI của Đảng. Sự đổi mới tư duy có tính đột phá đó đã mở đường cho
phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói riêng, và kinh tế nhiều thành phần nói
chung, ở nước ta xuất phát từ yêu cầu bức bách của đời sống xã hội thực tế vào
thời điểm đó. Mốc thay đổi có tính đột phá thứ 2 xảy ra vào năm 1990 – 1991
bằng việc ban hành Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991 – 2000. Luật Doanh nghiệp tư nhân
và Luật Công ty đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển
các doanh nghiệp tư nhân chính quy và hiện đại với các loại hình pháp lý bao
gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, hộ kinh doanh cá thể đã được xác định rõ hơn về địa vị pháp lý và cách
thức tổ chức hoạt động.
Về quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, Đại hội lần thứ VII của
Đảng (tháng 6 năm 1991) đã chỉ rõ: “Mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”, “Mọi đơn vị kinh
tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh
doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật”, “Kinh tế tư
bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”, “Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài
29
sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức
kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh”.
Nhờ có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân mà khu vực kinh tế tư
nhân đã có bước phát triển khá mạnh, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh
chóng. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp, thì sau một năm (1992) con
số đó đã trở thành 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm
1998 có 39.180 doanh nghiệp và đến năm 1999 tổng số doanh nghiệp khu vực tư
nhân lên đến 45.601.
Bảng 1: Tốc độ tăng các loại hình
doanh nghiệp tƣ nhân từ năm 1994 – 1998
Đơn vị: %
Năm
Loại hình
1994 so
với 1993
1995 so
với 1994
1996 so
với 1995
1997 so
với 1996
1998 so
với 1997
Doanh nghiệp tư nhân 50 40 14 40 7
Công ty TNHH 84 43 49 17 3
Công ty cổ phần 526 1 8 20 13
(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 262, tháng 3 – 2000)
Trong nông nghiệp, tính đến đầu năm 2000, cả nước có 11,4 triệu hộ sản
xuất nông nghiệp, chiếm 87,9% số hộ sống ở nông thôn, tập trung chủ yếu ở
vùng đồng bằng sông Hồng 27,1% và vùng đồng bằng sông Cửu Long 23,6%.
Trong đó có 37,3% số hộ đã tham gia các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và
62,7% số hộ sản xuất cá thể có tham gia các hình thức tổ kinh tế hợp tác giản
đơn.
30
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các ngành nghề phi nông nghiệp có
2.137.713 hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tăng 6,02% so với năm 1996 (bình
quân mỗi năm tăng 30.000 hộ), tốc độ tăng 4,47%/năm. Theo Tổng cục Thuế, số
hộ kinh doanh có môn bài là 1,5 triệu hộ (trong đó có 1,2 – 1,3 triệu hộ nộp thuế
thường xuyên).
Giá trị tài sản cố định trung bình của một doanh nghiệp tư nhân (doanh
nghiệp 1 chủ) năm 1991 là 0,1 tỷ đồng, mức thấp nhất, sau đó tăng lên và giữ ổn
định ở mức 0,2 tỷ đồng trong giai đoạn 1992 – 1996. Giá trị này của công ty
trách nhiệm hữu hạn cũng tăng nhưng không đều và có năm giảm: từ 0,6 tỷ đồng
năm 1991 tăng lên 0,7 tỷ đồng năm 1992 và giảm xuống 0,5 tỷ đồng năm 1996.
Số lượng lao động trong doanh nghiệp tư nhân, bình quân là 8 người năm 1991,
tăng lên 9 người năm 1996, 17 người năm 1997 và 19 người năm 1998.
Tốc độ tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân năm 1994
tăng 60% so với năm 1993 nhưng các năm tiếp theo giảm dần: năm 1995 là 41%,
năm 1996 là 24% và năm 1997 là 32%, đạt bình quân khoảng 37% thời kỳ 1994
– 1997.
Bảng 2: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tƣ nhân
Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
1. Khu vực tư nhân - 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
% trong GDP toàn
quốc
% 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
2. Hộ kinh doanh cá
thể
Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
Tỷ trọng hộ trong
GDP
% 21,28 20,9 20,31 19,52 19,72
31
Tỷ trọng hộ trong khu
vực kinh tế tư nhân
% 74,7 74,94 74,34 73,62 73,41
2.1. Công nghiệp Tỷ đ 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
Tỷ trọng trong hộ - 16,00 16,25 26,1 16,22 17,68
2.2. Thương mại dịch
vụ
- 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
Tỷ trọng trong hộ % 30,03 30,09 31,2 31,86 31,27
2.3. Các ngành khác Tỷ đ 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
Tỷ trọng trong hộ % 53,97 53,66 52,7 51,92 51,05
3. Doanh nghiệp của
tư nhân
tỷđ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
Tỷ trọng trong GDP % 7,21 6,99 7,01 6,99 7,14
Tỷ trọng trong khu
vực tư nhân
% 25,3 25,06 25,66 26,38 26,59
3.1. Công nghiệp Tỷ đ 4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 23,51 24,08 25,16 25,66 27,18
3.2. Thương mại dịch
vụ
Tỷ đ 7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 38,59 39,07 40,46 40,05 39,07
3.3. Các ngành khác Tỷ đ 7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
Tỷ trọng trong doanh
nghiệp
% 37,9 36,85 34,38 34,29 33,75
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh
tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26/11/2001)
2.3.3. Giai đoạn từ năm 2000 – nay
2.3.3.1. Số lượng doanh nghiệp
Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân so với các khu
vực kinh tế khác có thể thấy rõ qua các con số, dẫu rằng sự lớn mạnh của một
thực thể đôi khi không chỉ là sự gia tăng về số lượng. Số liệu thống kê cho thấy,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh cả về số lượng và tỷ trọng của nó
so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Số doanh nghiệp nhà nước giảm dần
32
từ 5.759 năm 2000 xuống còn 3.494 năm 2007, tức là giảm tỷ trọng từ 13,62%
năm 2001 xuống còn 2,24% năm 2007. Trong khi đó, số doanh nghiệp ngoài
Nhà nước tăng từ 35.004 năm 2000 đến 147.316 năm 2007, tức tăng tỷ trọng từ
82,78% năm 2000 lên 94,57% năm 2007. Xu hướng này sẽ còn rõ nét hơn nếu
tính cả bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 3: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm
31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Doanh nghiệp
TỔNG SỐ 42288 51680 62908 72012 91756 112950 131318 155771
Doanh nghiệp Nhà nƣớc 5759 5355 5363 4845 4597 4086 3706 3494
Trung ương 2067 1997 2052 1898 1968 1825 1744 1719
Địa phương 3692 3358 3311 2947 2629 2261 1962 1775
Doanh nghiệp ngoài Nhà
nƣớc 35004 44314 55237 64526 84003 105167 123392 147316
Tập thể 3237 3646 4104 4150 5349 6334 6219 6688
Tư nhân 20548 22777 24794 25653 29980 34646 37323 40468
Công ty hợp danh 4 5 24 18 21 37 31 53
Công ty TNHH 10458 16291 23485 30164 40918 52505 63658 77648
Công ty cổ phần có vốn
Nhà nước 305 470 558 669 815 1096 1360 1597
Công ty cổ phần không
có vốn Nhà nước 452 1125 2272 3872 6920 10549 14801 20862
Doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài 1525 2011 2308 2641 3156 3697 4220 4961
DN 100% vốn nước
ngoài 854 1294 1561 1869 2335 2852 3342 4018
DN liên doanh với nước
ngoài 671 717 747 772 821 845 878 943
Cơ cấu - (%)
TỔNG SỐ 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Doanh nghiệp Nhà nƣớc 13.62 10.36 8.53 6.73 5.01 3.62 2.82 2.24
Trung ương 4.89 3.86 3.26 2.64 2.14 1.62 1.33 1.10
Địa phương 8.73 6.50 5.26 4.09 2.87 2.00 1.49 1.14
Doanh nghiệp ngoài Nhà
nƣớc 82.78 85.75 87.81 89.60 91.55 93.11 93.97 94.57
Tập thể 7.65 7.05 6.52 5.76 5.83 5.61 4.74 4.29
Tư nhân 48.59 44.07 39.41 35.62 32.67 30.67 28.42 25.98
33
Công ty hợp danh 0.01 0.01 0.04 0.02 0.02 0.03 0.02 0.03
Công ty TNHH 24.73 31.52 37.33 41.89 44.59 46.49 48.48 49.85
Công ty cổ phần có vốn
Nhà nước 0.72 0.91 0.89 0.93 0.89 0.97 1.04 1.03
Công ty cổ phần không
có vốn Nhà nước 1.07 2.18 3.61 5.38 7.54 9.34 11.27 13.39
Doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài 3.61 3.89 3.67 3.67 3.44 3.27 3.21 3.19
DN 100% vốn nước
ngoài 2.02 2.50 2.48 2.60 2.55 2.52 2.54 2.58
DN liên doanh với nước
ngoài 1.59 1.39 1.19 1.07 0.89 0.75 0.67 0.61
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Sau 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, đến hết năm 2009, số doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh đã đạt con số 460.000 doanh nghiệp. Nếu chỉ tính về
số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh thì khu vực này đã tăng tới 15 lần chỉ trong
9 năm (năm 2000 chỉ có khoảng 31.000 doanh nghiệp). Đây là một tốc độ tăng
trưởng hết sức ấn tượng, thể hiện sức sống mãnh liệt trong tinh thần kinh doanh
của người Việt cũng như những tác động lớn của cải cách về môi trường kinh
doanh ở Việt Nam.
Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động đạt khoảng 50%. Con số thống kê mới
nhất từ Tổng Điều tra doanh nghiệp năm 2009, tính đến thời điểm 31/12/2008 cả
nước có 178.852 doanh nghiệp dân doanh đang hoạt động, đạt xấp xỉ 50%. Còn
theo số liệu của Tổng Cục thuế thì tính đến hết tháng 3/2009, cả nước có 272.680
doanh nghiệp, đạt 73%. Nếu so với mức trung bình trên thế giới, tỷ lệ đó là hoàn
toàn bình thường và không thể được coi là một chỉ số phản ánh chất lượng thấp
của các doanh nghiệp được đăng ký.
34
Biểu đồ 1: Số lƣợng doanh nghiệp đăng ký hàng năm
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
90000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
(ước
tính)
Năm
Số lượng
(Nguồn: Trung tâm doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Ở Việt Nam nổi bật nhất vẫn là các hộ kinh doanh cá thể và hình thức này
đang ngày càng tăng nhanh qua các thời kỳ. Từ năm 2000 đến năm 2006 có
khoảng 800.000 hộ kinh doanh cá thể, tính chung trong cả nước lên khoảng hơn
2,5 triệu hộ. Trong số hộ kinh doanh cá thể thì số hộ kinh doanh thương mại,
dịch vụ chiếm 51,89%, số hộ sản xuất công nghiệp chiếm 31,21%, giao thông
vận tải chiếm 11,63%, xây dựng 0,81%, các hoạt động khác chiếm 5,46%.
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta với các chính sách hỗ trợ nông
nghiệp đang ngày càng trở thành một chỗ dựa vững chắc để các hộ kinh doanh
nông nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất – kinh doanh. Các hộ kinh doanh cá thể
ngày càng phát triển và mở rộng quy mô đã nảy sinh một mô hình mới, mô hình
trang trại. Có thể nói, đây là một mô hình mới của kinh tế tư nhân trong nông
35
nghiệp. Hiện nay, các trang trại hoạt động trên rất nhiều kĩnh vực như nông, lâm,
ngư nghiệp và đã có bước phát triển nhanh. Theo số liệu thống kê của 45 tỉnh,
thành phố cho biết, tính đến cuối năm 2007 cả nước có 116.062 trang trại, bình
quân đạt 2.580 trang trại/ tỉnh, nếu so sánh với con số 55.852 trang trại của năm
2000 thì mỗi năm có khoảng 8.600 trang trại mới, đạt mức tăng trưởng
20%/năm. Trong các vùng kinh tế thì vùng đồng bằng sông Cửu Long có số
lượng trang trại nhiều nhất, chiếm tỷ lệ trên 50% tổng trang trại trong cả nước.
Năm 2007, tổng vốn đầu tư của kinh tế trang trại đạt 14.803 tỷ đồng (không kể
giá trị đất), trong đó vốn chủ trang trại chiếm khoảng 60%. Hầu hết các chủ trang
trại đều trực tiếp lao động và quản lý trang trại, đồng thời thuê thêm lao động
thường xuyên hoặc thời vụ. Năm 2007, các chủ trang trại đã sử dụng hơn
500.000 lao động, bình quân đạt 5 lao động/ trang trại, trong đó đến 56% lao
động thuê ở thị trường tự do, đem lại mức thu nhập trung bình từ 500-700
nghìn/lao động/tháng. Thực tế đã chứng minh sự ra đời của các trang trại đã làm
cho kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ,
góp phần rất lớn vào giải quyết việc làm cho người lao động và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.
Như vậy, nếu đánh giá một cách tổng thể thì chúng ta đều thấy sự khởi sắc
trong việc tăng trưởng đăng ký kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân, kể từ
sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành. Chỉ trong vòng 10 năm, số
lượng doanh nghiệp thành lập mới đã tăng gấp 8,5 lần so với tổng số doanh
nghiệp được thành lập trong 10 năm thực hiện Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp (từ 1991-1999). Điều đặc biệt là số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh mới luôn có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, kể cả trong hai năm
khó khăn, khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh mới cũng không hề suy giảm, trong hai năm 2008-2009, ước tính vẫn có
36
tổng cộng gần 150 ngàn doanh nghiệp đăng ký mới. Nếu so sánh với các loại
hình doanh nghiệp khác thì khu vực doanh nghiệp tư nhân có số lượng tăng ấn
tượng nhất. Chẳng hạn: trong dữ liệu của Tổng cục Thống kê, sau 9 năm thì số
lượng doanh nghiệp dân doanh đã tăng gấp 5,63 lần (tổng số doanh nghiệp cả
nước tăng 4,76 lần, khối các doanh nghiệp FDI tăng 3,69 lần, doanh nghiệp nhà
nước giảm 1,69 lần). Có thể nói rằng, chính các doanh nghiệp tư nhân đã tạo nên
sự tăng trưởng chính về mặt số lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cho tới
nay, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ 5 doanh nghiệp/1.000 dân và đang tiệp cận dần
tới mức trung bình là 9-10 doanh nghiệp/1.000 dân của nhiều nước khác trong
khu vực.
2.3.3.2. Quy mô vốn
Luật Doanh nghiệp được thực thi đã khuyến khích được sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân không chỉ về số lượng doanh nghiệp mà còn về số vốn
huy động từ trong dân cư cho đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh của khu
vực này.
Bảng 4: Tổng vốn đăng ký và vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp
2000 2003 2006
Đơn vị: tỷ USD
Tổng vốn đăng ký của doanh
nghiệp
1,33 4,5 9,2
Đơn vị: tỷ đồng
Vốn đăng ký bình quân của 1
doanh nghiệp
0,96 3,21 6,52
(Nguồn: Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới
- Thực trạng và những vấn đề - NXB Khoa học xã hội)
37
Vốn đăng ký mới ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước trong giai
đoạn này đều cao hơn số vốn đăng ký thời kỳ 1991 – 1999. Trong đó có 33 tỉnh,
thành phố đạt tốc độ tăng cao gấp hơn 4 lần, có 11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn
10 lần. Đặc biệt một số tỉnh như Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên... đạt tốc độ
tăng gấp hơn 20 lần. Ở Hà nội, giai đoạn từ năm 2000 đến nay có 40.000 doanh
nghiệp tư nhân đăng ký thành lập với số vốn xấp xỉ là 100.000 tỷ đồng. Trong
giai đoạn 2000 – 2007 tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Hà Nội là 143.268,1
tỷ đồng, trong đó đầu tư của khu vực tư nhân là 35.817 tỷ đồng, chiếm 25%. Tại
thành phố Hồ Chí Minh, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu
tư xã hội cũng tăng từ 14,2% năm 2000 lên 26,5% vào năm 2007.
Bảng 5: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm
của các doanh nghiệp phân theo địa phƣơng
Đơn vị: tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
CẢ NƢỚC 1186014 1352076 1567179 1966512 2430727 3035416 4157902
Đồng bằng sông
Hồng 322621 354507 315019 402351 529184 680916 1000913
Trung du và
miền núi phía
Bắc
20303 27060 33638 43409 49899 59032 72437
Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền
Trung
67164 81345 96042 113696 132920 157545 200021
Tây Nguyên 14251 16303 19917 31077 37321 45666 57046
Đông Nam Bộ 351378 420980 506223 676914 839593 1085642 1569493
Đồng bằng sông
Cửu Long 35602 43085 51257 62621 79766 96923 137469
Không xác định 374695 408796 545083 636444 762044 909691 1120523
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
38
Quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp tư nhân đã tăng 17 lần, từ
khoảng 38.700 tỷ đồng năm 2000 lên 657.000 tỷ đồng vào năm 2008. Tính trung
bình, vốn chủ sở hữu bình quân một doanh nghiệp dân doanh hiện nay đạt 5,2 tỷ
đồng so với 1,2 tỷ đồng của năm 2000.
Tốc độ tăng vốn của từng loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư
nhân diễn ra mạnh mẽ, đã làm thay đổi tỷ trọng vốn của khu vực kinh tế tư nhân
trong tổng số vốn xã hội. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội tương ứng là 20% và 18,5% năm
2000, đến năm 2007 thì tỷ trọng này là 32,67% và 25%. Như vậy, tỷ trọng đầu tư
của doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh
tế nhà nước vẫn có sự khác biệt. Điều này thể hiện rõ qua hai giai đoạn. Giai
đoạn 1 từ năm 2000 tới năm 2003, đây là giai đoạn mà vốn đầu tư vẫn tập trung
vào khu vực Nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ nhỏ. Năm 2000
vốn của khu vực nhà nước là 89.417 tỷ đồng, chiếm 59,1%, đến năm 2003 vốn
thuộc khu vực kinh tế nhà nước vẫn là 126.558 tỷ đồng, chiếm 52,9%. Cả khu
vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 112.688 tỷ đồng,
cũng mới chỉ chiếm 47,1% tính đến năm 2003. Giai đoạn 2004 – 2007 đánh dấu
bước phát triển về quy mô vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng
vốn đầu tư. Năm 2004 vốn thuộc khu vực nhà nước là 1390831 tỷ đồng, chiếm
48,1% con số này năm 2007 là 208.100 tỷ, tương đương 39, 9%. Với khu vực
kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì con số này lần
lượt là 51,9% năm 2004 và 60,1% năm 2007.
Có một thực tế khá rõ nét là đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ diễn ra ở
khoảng 15 tỉnh, thành phố lớn, có đặc thù riêng như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
39
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… Trong khi đó, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân
được thực hiện và có xu hướng tăng nhanh trên tất cả các tỉnh, thành trên cả
nước. Đầu tư của khu vực tư nhân trong nước cũng tăng nhanh hơn khu vực vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ngay ở các địa phương vốn tập trung chủ yếu từ đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế cũng cho thấy, thu hút vốn đầu tư tư nhân trong
nước dễ được thực hiện và có tính khả thi cao hơn thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã và đang đóng vai trò
quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa
phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2006 ở thành phố
Hồ Chí Minh chiếm 48% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách nhà nước gộp lại (42%).
Thông qua hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân, nguồn vốn trong dân đã
dần dần được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy quy mô đầu tư của nền kinh tế. Năm
2000, tổng vốn đầu tư vào khu vực tư nhân là 31.542 tỷ đồng, chiếm 24,03%
tổng vốn đầu tư xã hội, nhưng kết quả đóng góp của khu vực tư nhân vào GDP
đạt 81.455 tỷ đồng, chiếm 31,7% GDP toàn quốc. Đến năm 2007, tổng vốn đầu
tư vào khu vực tư nhân là 184.000 tỷ đồng, chiếm hơn 34,4% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Như vậy, trong giai đoạn 2000 – 2007, tỷ trọng vốn đầu tư vào khu
vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư xã hội liên tục tăng qua các năm và đóng góp
nhiều hơn vào GDP toàn quốc, điều đó chứng tỏ kinh tế tư nhân ngày càng sử
dụng vốn hiệu quả hơn.
2.3.3.3. Cơ cấu theo ngành, địa bàn
Không những lớn mạnh về số lượng và quy mô vốn, các doanh nghiệp còn
có xu hướng đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh bằng việc đăng ký kinh doanh
nhiều loại ngành nghề kinh doanh khác nhau.
40
Bảng 6: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế
phân theo thành phần kinh tế
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ đồng
TỔNG SỐ 395809.2 476350.0 620067.7 808958.3 991249.4 1203749.1(*)
1469272.3
Kinh tế Nhà
nƣớc 124379.7 149651.5 181675.3 221450.7 249085.2 270207.1(*)
294339.1
Trung ương 85947.4 104626.7 129007.2 165697.5 191381.1 211914.8(*)
234920.7
Địa phương 38432.3 45024.8 52668.1 55753.2 57704.1 58292.3 59418.4
Kinh tế ngoài
Nhà nƣớc 107020.6 128389.9 171036.6 234242.8 309053.8 401492.8 519622.0
Tập thể 2162.0 2727.0 2745.8 3433.0 4008.8 4594.6 4899.9
Tư nhân 64608.0 79402.7 114277.0 164928.6 225033.4 306654.6 407096.1
Cá thể 40250.6 46260.2 54013.8 65881.2 80011.6 90243.6 107626.0
Khu vực có vốn
đầu tƣ nƣớc
ngoài 164408.9 198308.6 267355.8 353264.8 433110.4 532049.2 655311.2
Cơ cấu (%)
TỔNG SỐ 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Kinh tế Nhà
nƣớc 31.4 31.4 29.3 27.4 25.1 22.4 20.0
Trung ương 21.7 22.0 20.8 20.5 19.3 17.6 16.0
Địa phương 9.7 9.4 8.5 6.9 5.8 4.8 4.0
Kinh tế ngoài
Nhà nƣớc 27.0 27.0 27.6 28.9 31.2 33.4 35.4
Tập thể 0.5 0.6 0.5 0.4 0.4 0.4 0.3
Tư nhân 16.3 16.7 18.4 20.4 22.7 25.5 27.7
Cá thể 10.2 9.7 8.7 8.1 8.1 7.5 7.4
Khu vực có vốn
đầu tƣ nƣớc
ngoài 41.6 41.6 43.1 43.7 43.7 44.2 44.6
(*) Số liệu điều chỉnh (từ năm 2006 không tính phần điện nhập khẩu)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của lĩnh vực công nghiệp trên cả nước. Năm 2000, giá trị sản lượng công
41
nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân là 82.499,1 tỷ đồng, tương đương 24,5%.
Năm 2007 con số này là 519.622 tỷ đồng, tương đương 35,4%.
Bảng 7: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá thực tế
Năm Tổng số
Chia ra
Kinh tế
Nhà nƣớc
Kinh tế ngoài
Nhà nƣớc
Khu vực có
vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài
Tỷ đồng
1990 19031.2 5788.7 13242.5
1991 33403.6 9000.8 24402.8
1992 51214.5 12370.6 38843.9
1993 67273.3 14650.0 52623.3
1994 93490.0 21566.0 71478.0 446.0
1995 121160.0 27367.0 93193.0 600.0
1996 145874.0 31123.0 112960.0 1791.0
1997 161899.7 32369.2 127332.4 2198.1
1998 185598.1 36083.8 147128.3 2386.0
1999 200923.7 37292.6 160999.6 2631.5
2000 220410.6 39205.7 177743.9 3461.0
2001 245315.0 40956.0 200363.0 3996.0
2002 280884.0 45525.4 224436.4 10922.2
2003 333809.3 52381.8 267724.8 13702.7
2004 398524.5 59818.2 323586.1 15120.2
2005 480293.5 62175.6 399870.7 18247.2
2006 596207.1 75314.0 498610.1 22283.0
2007 746159.4 79673.0 638842.4 27644.0
2008 983803.4 96480.2 853809.7 33513.5
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Đặc điểm nổi bật là quy mô vốn của các doanh nghiệp tư nhân thường rất
nhỏ. Vì vậy, lĩnh vực thương mại và dịch vụ vốn đòi hỏi vốn đầu tư rất ít, hơn
thế nữa lợi nhuận thường rất cao nên đã thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp
tư nhân tham gia. Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp tham gia
lĩnh vực này ngày càng tăng. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng
42
ngày càng lớn trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả nước.
Số lượng thống kê cho thấy, nếu năm 2000 tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới đạt 177.743,9 tỷ đồng,
chiếm 69,9% tổng mức bán lẻ hoàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của toàn xã hội thì
con số này năm 2008 đã là 853.809,7 tỷ đồng, chiếm 86,8%.
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong việc cung ứng hàng hóa và
doanh thu dịch vụ cho nền kinh tế ngày càng to lớn. Điều này cũng thể hiện thế
mạnh của khu vực tư nhân trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, lĩnh
vực dịch vụ thì phát triển mạnh ở những nơi tập trung đông dân cư nên đã dẫn
tới sự mất cân bằng giữa các vùng trong quá trình phát triển.
Bảng 8: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm
phân theo vùng kinh tế
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
CẢ NƢỚC 42288 51680 62908 72012 91756 112950 131318 155771
Đồng bằng sông Hồng 9356 12238 16731 20364 26380 31965 37514 43707
Hà Nội 4691 6407 9460 11813 15068 18214 21739 24823
Trung du và miền núi
phía Bắc 1988 2711 3556 4305 6038 7175 7802 9153
Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền
Trung 6767 8093 9586 10318 12658 16223 19344 23476
Tây Nguyên 1827 1940 2142 2315 2880 3564 4039 4597
Đông Nam Bộ 12329 16118 19790 23475 30843 39601 47130 57022
TP.Hồ Chí Minh 8624 11550 14506 17370 23727 31292 36855 45069
Đồng bằng sông Cửu
Long 9837 10377 10900 11032 12757 14258 15325 17652
Không xác định 184 203 203 203 200 164 164 164
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Theo bảng số liệu trên, số lượng doanh nghiệp tập trung chủ yếu tại ba
khu vực đó là đồng bằng sông Hồng (28,06%); Đông Nam Bộ (36,61%) và đồng
43
bằng sông Cửu Long (11,33%). Đó là nơi tập trung của những thành phố lớn như
Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương... ở đó có môi trường kinh doanh thuận lợi.
Tốc độ tăng các doanh nghiệp tư nhân ở các địa phương rất khác nhau. Tại
18 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền Nam Trung Bộ, số
doanh nghiệp đăng ký trong thời kỳ 2000 – 2005 thấp hơn nhiều so với thời kỳ
1991 – 1999, chẳng hạn, Trà Vinh bằng 21% so với thời kỳ 1991 – 1999, Bến
Tre, Đồng Tháp bằng 36%, Kiên Giang bằng 41%. Trong khi đó, ở các tỉnh phía
Bắc, đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hòa Bình,
Bắc Cạn, Lai Châu... số doanh nghiệp đăng ký tăng gấp 4 – 8 lần so với thời kỳ
1991 – 1999.
Trong số các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân và
công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất: doanh nghiệp tư nhân
chiếm 55,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 33,68%, công ty cổ phần
chiếm 2,55%, công ty hợp danh chiếm 0,01%.
Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về số doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh. Trong giai đoạn 2000 – 2006, thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện thành lập gần 65.000 doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đăng ký hơn
169.000 tỷ đồng và gần 100.000 chi nhánh, văn phòng đại diện. Thành phố Hà
Nội cũng được coi là một trong những địa phương có số lượng doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh nhiều nhất. Nếu như giai đoạn 1992 – 1999 thực hiện Luật
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty trên địa bàn Hà nội có khoảng 4.449
doanh nghiệp ra đời, thì trong 6 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, Hà Nội có
thêm gần 40.000 doanh nghiệp đăng ký mới. Cũng trong thời gian này, có hơn
20.000 lượt doanh nghiệp đăng ký sửa đổi nội dung đăng ký kinh doanh, trong
đó có 7.163 lượt doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký 26.400 tỷ
đồng.
44
2.4. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam
2.4.1. Thành tựu
2.4.1.1. Đóng góp vào GDP ngày càng lớn
Năm 2000, GDP cả nước là 441.646 tỷ đồng, trong đó khu vực kinh tế tư
nhân (tính cả khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) đóng góp 271.505 tỷ
đồng, tương đương 61,48%, năm 2003 con số này đạt 605.586 tỷ đồng. Như vậy,
đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP toàn quốc ngày càng đáng kể.
Năm 2007 GDP cả nước là 1.477.717 tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài quốc
doanh đóng góp 970.097 tỷ đồng, tương đương 65,64%.
Bảng 9: Tổng sản phẩm trong nƣớc theo giá thực tế
phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Tỷ đồng
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
TỔNG SỐ 535762 613443 715307 839211 974266 1143715 1477717
Kinh tế Nhà nước 205652 239736 279704 322241 364250 410883 507620
Kinh tế ngoài Nhà
nước 256413 284963 327347 382804 444560 527432 694083
Kinh tế tập thể 42800 45966 50718 57193 63622 71059 89025
Kinh tế tư nhân 44491 50500 60703 74612 91710 116505 159716
Kinh tế cá thể 169122 188497 215926 250999 289228 339868 445342
Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài 73697 88744 108256 134166 165456 205400 276014
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Điều này thể hiện sự lớn mạnh của khu vực tư nhân trong hầu hết các lĩnh
vực và ngày càng đóng góp vị trí quan trọng trong GDP cả nước. Trong quá trình
phát triển kinh tế ở Việt Nam, rõ ràng không thể thiếu vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân.
45
Các ngành phi nông nghiệp năm 2007 đóng góp vào GDP được 119.337 tỷ
đồng, chiếm 63,6% của khu vực tư nhân. Trong đó, hộ kinh doanh cá thể có tỷ lệ
lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp; lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ có
tỷ lệ lớn hơn nhiều so với sản xuất công nghiệp. Trong những năm gần đây, GDP
của các ngành phi nông nghiệp tăng trưởng liên tục, xấp xỉ tốc độ tăng trưởng
GDP toàn quốc. Năm 2007, GDP khu vực phi nông nghiệp của kinh tế tư nhân
đạt 86.929 tỷ đồng, tăng 28,94% so với năm 2000, bình quân tăng hơn 7%/năm.
Năm 2007, kinh tế tư nhân trong các ngành phi nông nghiệp chiếm 29,87% GDP
toàn quốc (trong đó, tỷ trọng của hộ kinh doanh cá thể là 73,4%, chiếm 19,72%
GDP toàn quốc; doanh nghiệp là 26,6% chiếm 7,15% GDP toàn quốc; lĩnh vực
nông nghiệp là 20,22%; xây dựng là 9,36%; giao thông vận tải là 3,32%; thương
mại, dịch vụ 33,34%; các hoạt động khác là 33,49%).
2.4.1.2. Tạo nguồn bổ sung vào ngân sách nhà nước
Giai đoạn 2000 – 2006, đóng góp của các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp vào ngân sách Trung ương nhìn chung vẫn còn nhỏ nhưng
đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Nếu năm 2000, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh trong nước đóng góp 6,39% thu ngân sách nhà nước thì năm 2006
con số này là 7,9% (nếu tính cả các doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài thì
con số này là 11,61% năm 2000 và năm 2006 là 17,15%) trong khi phần của
doanh nghiệp nhà nước giảm từ 21,7% xuống còn 16,58% trong cùng thời kỳ.
Giai đoạn từ năm 2000, doanh thu từ sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp tư nhân ngày càng tăng. Tỷ trọng doanh thu từ sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp tư nhân trong tổng doanh thu của toàn bộ nền kinh tế ngày
càng lớn, từ 29,02% năm 2001 đến 47,26% năm 2007. Điều này đã tạo khả năng
đóng góp của khu vực kinh tế này vào ngân sách nhà nước.
46
Bảng 10: Doanh thu thuần của doanh nghiệp
phân theo loại hình doanh nghiệp
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ đồng
TỔNG SỐ 897856 1194902 1436151 1720339 2157785 2684341 3459803
Doanh nghiệp Nhà
nƣớc 460029 611167 666022 708898 838380 961461 1089056
Trung ương 334637 466788 504577 533072 663378 771765 875461
Địa phương 125392 144379 161445 175826 175002 189696 213595
Doanh nghiệp ngoài
Nhà nƣớc 260565 362657 482181 637371 851002 1126356 1635266
Tập thể 10083 11196 12603 11560 17169 19162 23570
Tư nhân 77512 91882 103745 135715 172375 218890 258905
Công ty hợp danh 16 2738 10409 40 53 98 121
Công ty TNHH 136743 203269 269696 354641 442877 570447 798866
Công ty cổ phần có
vốn Nhà nước 21934 29364 42535 62688 103867 137801 195974
Công ty cổ phần
không có vốn Nhà
nước
14277 24208 43193 72727 114662 179958 357830
Doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài
177262 221078 287948 374070 468403 596524 735481
DN 100% vốn nước
ngoài 71933 95541 129207 184711 237228 330350 427585
DN liên doanh với
nước ngoài 105329 125537 158741 189359 231175 266174 307896
Cơ cấu (%)
TỔNG SỐ 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Doanh nghiệp Nhà
nƣớc 51.24 51.15 46.38 41.21 38.85 35.82 31.48
Trung ương 37.27 39.06 35.13 30.99 30.74 28.75 25.31
Địa phương 13.97 12.08 11.24 10.22 8.11 7.07 6.17
Doanh nghiệp ngoài
Nhà nƣớc 29.02 30.35 33.57 37.05 39.44 41.96 47.26
Tập thể 1.12 0.94 0.88 0.67 0.80 0.71 0.68
Tư nhân 8.63 7.69 7.22 7.89 7.99 8.15 7.48
Công ty hợp danh 0.00 0.23 0.72 0.00 0.00 0.00 0.00
Công ty TNHH 15.23 17.01 18.78 20.61 20.52 21.25 23.09
Công ty cổ phần có
vốn Nhà nước 2.45 2.46 2.96 3.64 4.81 5.13 5.66
47
Công ty cổ phần
không có vốn Nhà
nước
1.59 2.03 3.01 4.23 5.31 6.70 10.34
Doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài
19.74 18.50 20.05 21.74 21.71 22.22 21.26
DN 100% vốn nước
ngoài 8.01 8.00 9.00 10.73 11.00 12.31 12.36
DN liên doanh với
nước ngoài 11.73 10.51 11.05 11.01 10.71 9.91 8.90
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Đóng góp của doanh nghiệp tư nhân vào ngân sách Trung ương vẫn còn
nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng lên. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch
vụ ngoài quốc doanh năm 2006 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm
2005. So với ngân sách Trung ương thì đóng góp của các doanh nghiệp dân
doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, ở thành
phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu ngân
sách địa phương là khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai
22%, Ninh Bình 19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình
Định 33% …
Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, một phần không nhỏ các doanh
nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia và có đóng góp đáng kể vào
xây dựng các công trình văn hóa, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà
tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở tất cả các địa phương trong
cả nước.
Sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân góp phần làm tăng hiệu quả của
công tác thu thuế. Trước kia, khi nền kinh tế chỉ tồn tại các xí nghiệp quốc
doanh, hiệu quả của các công tác thu thuế thấp, do nhà nước đã bao cấp toàn bộ
đầu vào và đầu ra cho các xí nghiệp này. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, khu
vực kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh trong nhiều lĩnh vực. Thêm vào đó, nhà
48
nước không còn bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp
này phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì
vậy, hiệu quả của công tác thu thuế được nâng lên đáng kể.
2.4.1.3. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động
Ở Việt Nam, hàng năm có thêm khoảng 1,2 – 1,4 triệu người đến tuổi lao
động, ngoài ra số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong
các ngành phi nông nghiệp cũng tăng đáng kể. Yêu cầu mỗi năm phải tạo thêm
hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội lớn đối với nhà nước và các cấp
chính quyền địa phương. Việc tạo thêm công ăn việc làm rõ ràng không chỉ giải
quyết vấn đề xã hội, mà còn giải quyết vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế hiện
nay ở nước ta. Sự tăng lên nhanh chóng số lượng doanh nghiệp tư nhân cùng với
các loại hình doanh nghiệp khác nhau, trên khắp các lĩnh vực đã tạo khả năng thu
hút một lực lượng lớn lao động trong xã hội. Các hộ kinh doanh cá thể, các
doanh nghiệp mới được thành lập và sự mở rộng quy mô, cũng như địa bàn kinh
doanh của các doanh nghiệp hiện có đã, đang và sẽ thực sự là nguồn cung to lớn
về chỗ làm việc mới cho lao động xã hội.
Năm 2000, khu vực kinh tế nhà nước thu hút được 2.088.531 lao động
trong tổng số 3.536.998 lao động cả nước, chiếm 59,05%. Khu vực tư nhân trong
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 1.448.467 lao động, chiếm
40,95%. Năm 2007, khu vực kinh tế nhà nước thu hút được 1.763.117 lao động
trong tổng số 7.382.160 lao động cả nước, chiếm 23,88%. Khu vực tư nhân trong
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 5.619.043 lao động, chiếm
76,12%.
49
Bảng 11: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp hàng năm
phân theo loại hình doanh nghiệp
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Ngƣời
TỔNG SỐ 3933226 4657803 5175092 5770671 6237396 6715166 7382160
Doanh nghiệp Nhà
nƣớc 2114324 2259858 2264942 2250372 2037660 1899937 1763117
Trung ương 1351478 1444420 1463954 1517861 1432459 1373304 1299149
Địa phương 762846 815438 800988 732511 605201 526633 463968
Doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc 1329615 1706857 2049891 2475448 2979120 3369855 3933182
Tập thể 152353 159916 160949 157831 160064 149236 149475
Tư nhân 277562 339638 378087 431912 481392 499176 513390
Công ty hợp danh 56 474 655 445 490 489 622
Công ty TNHH 697869 922569 1143055 1393713 1594785 1739766 1940125
Công ty cổ phần
có vốn Nhà nước 114266 144347 160879 184050 280776 367498 434564
Công ty cổ phần
không có vốn Nhà
nước 87509 139913 206266 307497 461613 613690 895006
Doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài 489287 691088 860259 1044851 1220616 1445374 1685861
DN 100% vốn
nước ngoài 364283 536276 687725 865175 1028466 1237049 1458595
DN liên doanh
với nước ngoài 125004 154812 172534 179676 192150 208325 227266
Cơ cấu (%)
TỔNG SỐ 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Doanh nghiệp Nhà
nƣớc 53.76 48.52 43.77 38.99 32.67 28.29 23.88
Trung ương 34.36 31.01 28.29 26.30 22.97 20.45 17.60
Địa phương 19.39 17.51 15.48 12.69 9.70 7.84 6.28
Doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc 33.80 36.65 39.61 42.90 47.76 50.19 53.28
Tập thể 3.87 3.43 3.11 2.74 2.57 2.22 2.02
Tư nhân 7.06 7.29 7.31 7.48 7.72 7.44 6.95
Công ty hợp danh 0.00 0.01 0.01 0.01 0.01 0.01 0.01
Công ty TNHH 17.74 19.81 22.09 24.15 25.57 25.91 26.28
Công ty cổ phần
có vốn Nhà nước 2.91 3.10 3.11 3.19 4.50 5.47 5.89
50
Công ty cổ phần
không có vốn Nhà
nước 2.22 3.00 3.99 5.33 7.40 9.14 12.13
Doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài 12.44 14.84 16.62 18.11 19.57 21.52 22.84
DN 100% vốn
nước ngoài 9.26 11.51 13.29 14.99 16.49 18.42 19.76
DN liên doanh
với nước ngoài 3.18 3.32 3.33 3.12 3.08 3.10 3.08
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong giai đoạn 2003 – 2007 đã có khoảng 700 – 750 nghìn chỗ làm việc
mới được tạo ra nhờ doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng mới đăng ký tăng vốn,
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, do đó tăng thêm việc làm mới khoảng 1,2
– 1,4 triệu lao động. Năm 2007, số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp khoảng
1.345.790 lao động, trong đó, lao động trong các doanh nghiệp khoảng
1.257.144 lao động, hộ sản xuất kinh doanh cá thể khoảng 88.464 lao động.
Bên cạnh việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, một đóng góp
mang ý nghĩa không nhỏ cho các cơ sở dân doanh là đào tạo và bồi dưỡng nâng
cao tay nghề cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Một thực tế
là, phần lớn lao động đến làm việc trong các doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp trong thời gian qua đều là lao động đơn giản hơn. Họ xuất thân từ nông
thôn, trình độ văn hóa thấp, chưa quen với lối sống và làm việc theo tác phong
công nghiệp. Vì vậy, không ít chủ các doanh nghiệp tư nhân phải thực hiện
nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo tay nghề cho người lao động, hướng họ về nếp sống
mới, thay đổi thói quen tập quán của người nông dân, rèn cho họ tính kỷ luật
trong lao động công nghiệp… Nhiều cơ sở đã tổ chức xưởng học việc, tổ chức
cho người có tay nghề cao hơn kèm cặp và hướng dẫn người mới vào việc, hoặc
gửi lao động đến các trung tâm hay trường dạy nghề… Hình thức đào tạo ở đây
rất đa dạng, linh hoạt và mang lại hiệu quả cao.
51
2.4.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu
Tỷ trọng tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào các lĩnh vực của nền
kinh tế có sự thay đổi đáng kể qua các giai đoạn. Tỷ trọng khu vực kinh tế tư
nhân trong ngành sản xuất công nghiệp giảm nhanh từ 35% giai đoạn từ 1991 –
1996 còn 15% giai đoạn 1998 – 2000 và 10% trong giai đoạn 2001 – 2007, trong
ngành thương mại tăng nhanh từ 39% lên 54% và 59,4%. Chính sự thay đổi này
của khu vực tư nhân đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước, đặc
biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Năm 2000, tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế
nước ta là 38,6% tăng lên 44,1% năm 2005 và sau đó năm 2007 là 49,1%. Như
vậy, với sự đóng góp của khu vực tư nhân đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng nâng dần tỷ trọng các ngành thương mại và dịch vụ.
Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ, số
lượng hàng hóa thay thế, hàng hóa nhập khẩu tăng lên. Chất lượng nhiều mặt
hàng tăng đã góp phần đẩy lùi sự xâm nhập của hàng ngoại. Bên cạnh việc thực
hiện sản xuất đồng bộ sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, khu vực kinh tế tư nhân
còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Kim
ngạch xuất khẩu trực tiếp của khu vực phi nông nghiệp trong kinh tế tư nhân đến
nay đã tăng khá nhanh, năm 2007 nhập khẩu đạt 7,336 tỷ USD, xuất khẩu đạt
6,851 tỷ USD.
Có một số doanh nghiệp dân doanh đã được xếp vào hạng 10 doanh
nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao nhất cả nước theo ngành hàng như công ty
trách nhiệm hữu hạn Kim Anh (Sóc Trăng) có kim ngạch xuất khẩu hơn 100
triệu USD, đứng đầu cả nước.
Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của nước ta hiện nay như hàng thủy
sản, các sản phẩm nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ… đều do khu vực kinh tế tư
nhân sản xuất. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước còn chiếm tỷ trọng đáng kể
52
trong xuất khẩu hàng may mặc, đồ da… Tuy vậy, theo Báo cáo của các Sở Kế
hoạch và Đầu tư, tỷ trọng của các doanh nghiệp dân doanh trong tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước cũng như của từng địa phương vẫn còn nhỏ và sự khác nhau
giữa các vùng và các tỉnh còn khá lớn. Doanh nghiệp dân doanh ở các tỉnh phía
Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương, so với các
doanh nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Bắc. Ở Hà Nội, các doanh nghiệp dân
doanh chỉ chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của địa phương và khoảng trên
7% toàn bộ xuất khẩu trên địa bàn. Tỷ lệ tương ứng với thành phố Hồ Chí Minh
là 12,5%. Nhìn chung, tỷ lệ này ở các địa phương là dưới 10%. Tuy nhiên, cũng
có một số cá biệt như Hà Giang chiếm 60% xuất khẩu của địa phương, Quảng
Ngãi 34%, Bình Thuận 45%...
Trong số 474 doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động, thì có tới 3/4 sản lượng sản xuất ra được xuất
khẩu, trong đó hàng dệt may và giày da chiếm tỷ lệ xuất khẩu cao nhất 80,5% và
80%. Đây là hai ngành công nghiệp khá quan trong của nước ta có kim ngạch
xuất khẩu lớn. Điều này thể hiện sự đóng góp to lớn của khu vực tư nhân vào
xuất khẩu.
2.4.1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, thị trường hoạt động rất đơn điệu và chỉ mang tính hình thức. Yếu
tố cạnh tranh gần như không tồn tại, do các doanh nghiệp không phải cạnh tranh
với nhau để mua các yếu tố sản xuất và bán sản phẩm. Mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đều do nhà nước chi phối. Quan hệ cung cầu, giá
cả cũng mang tính mệnh lệnh chỉ huy, các thị trường không được thừa nhận.
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, quan hệ hàng hóa tiền tệ mới thực sự
hình thành và phát triển. Các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trên thị trường,
53
các loại thị trường dần dần được thừa nhận và mở rộng. Nhìn chung, thị trường
hàng hóa và dịch vụ phát triển khá mạnh, ngày càng phong phú và đa dạng.
Hàng hóa trên thị trường được tự do lưu thông đã có tác dụng tích cực trong việc
thúc đẩy sản xuất phát triển. Thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn,
thị trường lao động, thị trường công nghệ… dần dần được hình thành. Thị trường
nước ngoài được mở rộng, các quan hệ thị trường từng bước được xác lập.
Nguyên tắc tự do cạnh tranh về cơ bản được áp dụng, tín hiệu giá cả do cung cầu
quy định. Những khó khăn do cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã dần được tháo
gỡ, tạo tiền đề để thị trường ngày càng được mở rộng. Chính sự ra đời của khu
vực kinh tế tư nhân sau đổi mới đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát
triển các loại thị trường trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
trên cả thị trường đầu vào và đầu ra. Với sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư
nhân cùng với các thành phần kinh tế khác, hàng hóa tiêu dùng được tự do lưu
thông trong nước, cung cầu giá cả hàng tiêu dùng được xác lập theo nguyên tắc
của thị trường. Những chính sách có tính chất “ngăn sông, cấm chợ” đối với khu
vực kinh tế tư nhân được xóa bỏ hoàn toàn. Thị trường hàng hóa, đặc biệt là ở
các thành phố lớn ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu
dùng.
Nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị
trường tài chính cũng bước đầu được hình thành. Hoạt động của ngân hàng góp
phần cung cấp vốn cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Như vậy, sự
lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân đã kích thích việc ra đời và phát triển các
loại thị trường. Nền kinh tế thị trường bước đầu được xác lập đã trở thành môi
trường tốt cho kinh tế tư nhân ở Việt Nam vận động và phát triển.
54
2.4.2. Hạn chế
2.4.2.1. Về nguồn vốn
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua
đã góp phần sử dụng tốt hơn nguồn vốn đầu tư xã hội. Tuy nhiên, với tiềm năng
phát triển của khu vực kinh tế này thì vốn là một vấn đề đang đặt ra cho kinh tế
tư nhân.
Như đã phân tích ở trên, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân
đều có quy mô vừa và nhỏ. Năm 2007, bình quân vốn sử dụng vào sản xuất –
kinh doanh của một hộ phi nông nghiệp là 35 triệu đồng, một trang trại là 150
triệu đồng, vốn đầu tư phát triển của một hộ nông nghiệp khoảng 2,4 triệu đồng,
một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 5,7 tỷ đồng. Hầu hết các hộ kinh doanh cá
thể đều có quy mô nhỏ, vốn ít, sử dụng lao động gia đình là chính. Trong các hộ
kinh doanh phi nông nghiệp, trung bình mỗi hộ có 2,78 lao động, bình quân vốn
sử dụng vào sản xuất – kinh doanh của mỗi hộ là 35 triệu đồng. Số hộ kinh
doanh phi nông nghiệp sử dụng 1 – 10 lao động chiếm tỷ trọng lớn 98,7%. Số hộ
sử dụn 10 – 15 lao động là 1,2%. Những hộ sử dụng nhiều lao động hơn, từ 51 –
100 lao động chỉ chiếm 0,1%. Các trang trại thường có quy mô lớn hơn, tuy
nhiên vẫn nhỏ, trung bình mỗi trang trại sử dụng 6,5 lao động. Trong đó, một
nửa là sử dụng lao động gia đình.
Các doanh nghiệp của khu vực tư nhân trong thời gian qua tăng lên nhanh
chóng, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ chiếm tỷ trọng 97,71%. Các doanh
nghiệp của khu vực tư nhân chiếm số lượng và có tỷ trọng lớn đối với loại doanh
nghiệp có quy mô nhỏ từ 300 đến dưới 500 lao động. Đối với loại doanh nghiệp
có quy mô lao động lớn hơn thì doanh nghiệp tư nhân chiếm vị trí khiêm tốn
dần, đặc biệt là loại doanh nghiệp có sử dụng từ 5000 lao động trở lên (11/81
doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 13,59%). Tình trạng vốn nhỏ, thiếu vốn đã làm cho
55
các doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc quay vòng vốn để đầu tư cho
sản xuất – kinh doanh.
Quy mô vừa và nhỏ không đem lại cho doanh nghiệp những ưu thế nhất
định. Chính nó tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân trong việc dễ
dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường… Tuy nhiên, vốn ít lại trở thành
rào cản cho chính doanh nghiệp khi mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. Quy
mô nhỏ của doanh nghiệp thực sự là một điểm yếu của các doanh nghiệp Việt
Nam, vì doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam rất khó tiếp cận được các nguồn vốn vay
từ các ngân hàng thương mại. Tuy vậy, với tính năng động vốn có, khu vực kinh
tế tư nhân có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường tín dụng không chính thức, nơi
diễn ra các hoạt động tín dụng nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, hoặc không chịu
sự quản lý, giám sát của chính quyền các cấp. Trên thực tế, thị trường không
chính thức đã trở thành nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp. Theo kết
quả điều tra, tỷ trọng vốn huy động từ thị trường tín dụng không chính thức của
công ty cố phần là 43%, công ty trách nhiệm hữu hạn là 37%, doanh nghiệp tư
nhân 29%, hộ kinh doanh 29%. Tuy nhiên, chi phí cho những khoản vay này rất
lớn, lãi suất của thị trường này do cung cầu điều tiết, thường cao hơn lãi suất của
ngân hàng 2,3 lần, thậm chí lên tới 6 lần. Lãi suất đi vay của thị trường không
chính thức rất cao đẩy chi phí đầu vào và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
tăng lên, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời
làm cho hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp giảm xuống. Điều này thực sự
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung.
Trong tiến trình phát triển chung, với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp
lớn, các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có lợi thế trên thương trường so với
các tập đoàn và các công ty quy mô lớn. Đặc biệt là trong các thời điểm chuyển
đổi công nghệ hoặc đối phó với khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể tồn tại
56
và không bị sức ép, khống chế dưới áp lực của các công cụ tài chính và các dòng
lưu chuyển tư bản hiện đại, các doanh nghiệp phải cập nhật các thành tựu khoa
học cả trên lĩnh vực công nghệ sản xuất, quản lý lẫn thương mại, dịch vụ. Để làm
được điều đó, doanh nghiệp phải cần đến vốn lớn.
2.4.2.2. Chất lượng lao động thấp
Mặc dù lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng lao động xã hội và gia tăng nhanh chóng trong những năm gần
đây, nhưng chất lượng của nguồn nhân lực còn thấp và chưa được cải thiện đáng
kể. Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân còn thiếu những lao động có trình độ
chuyên môn cao, thiếu đội ngũ công nhân lành nghề.
Theo kết quả điều tra của Viện Khoa học xã hội, trình độ học vấn của lao
động trong khu vực tư nhân rất thấp, phần lớn lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân là lao động phổ thông. Những lao động này
hầu như chưa qua đào tạo, trình độ kỹ năng lao động còn thiếu. Trong 1.475.716
lao động được điều tra thì có 1.097.598 (chiếm 74,4%) là lao động không có
trình độ chuyên môn kỹ thuật. Số lao động có chuyên môn là 369.118, chiếm
25,3%, trong đó chỉ có 90.042 lao động có trình độ cao đẳng, đại học, chiếm
6,18%. Do quy mô của các doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ nên nguồn vốn để bồi
dưỡng, đào tạo chuyên môn cho người lao động còn thấp. Hầu hết các doanh
nghiệp tư nhân không đủ kinh phí để đầu tư nâng cao trình độ chuyên môn người
lao động. Hơn nữa, đầu tư cho nguồn nhân lực là đầu tư dài hạn, không phải
ngay tức khắc mang lại lợi ích một cách trực tiếp cho doanh nghiệp trong thời
gian ngắn. Điều này không khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho
đào tạo nguồn nhân lực. Hơn nữa, bản thân các chủ doanh nghiệp cũng hạn chế
về trình độ, kiến thức, thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý, đến
hiểu biết về công nghệ và thị trường. Thêm vào đó, vấn đề đạo đức kinh doanh
57
của nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn còn ở mức rất thấp. Có thể nói, ở Việt Nam
vẫn còn thiếu đội ngũ doanh nhân có đủ phẩm chất của một nhà kinh doanh.
Sự lớn mạnh của kinh tế tư nhân gắn liền với quá trình hình thành nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đây là môi trường tốt để sản sinh, nuôi dưỡng đội
ngũ doanh nhân Việt Nam. Đội ngũ doanh nhân có tri thức, bản lĩnh hoạt động
kinh doanh trong môi trường kinh tế đầy cạnh tranh và biến động không thể xuất
hiện trong nền kinh tế tự cung tự cấp, với sự thống trị của các quan điểm phong
kiến, lạc hậu. Chủ doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường phải là
những người thực sự có phẩm chất tốt, giỏi về chuyên môn nghề nghiệp, có năng
lực kinh doanh và trình độ quản lý giỏi. Đây là điều mà đại bộ phận giới chủ
doanh nghiệp Việt Nam còn phải phấn đấu nhiều.
Những hạn chế của chủ doanh nghiệp thể hiện ở một số điểm sau:
- Ý thức chấp hành pháp luật kém
Nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp
luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, bảo
hộ lao động, giờ làm việc… đối với người lao động. Có không ít đơn vị kinh
doanh vi phạm pháp luật, trốn thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép.
Theo số liệu thống kê của 48 địa phương, tính đến 30/5/2007, có 25% số doanh
nghiệp tư nhân không kê khai nộp thuế, có một bộ phận không nhỏ hộ kinh
doanh không xin cấp mã số thuế, không đăng ký nộp thuế. Theo Tổng Cục thuế,
nợ tồn đọng của kinh tế tư nhân năm 2006 là 618 tỷ đồng, chiếm 5% số thuế nộp.
Năm 2007 khoảng 803 tỷ đồng, chiếm 7% số thuế đã nộp. Một hiện tượng khá
phổ biến là ghi hóa đơn không trung thực, ghi giá bán thấp hơn giá thực, dẫn tới
thất thu thuế của Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng việc hoàn thuế giá
trị gia tăng để rút tiền của ngân sách. Năm 2007 tại thành phố Hồ Chí Minh
58
trong 215 doanh nghiệp được hoàn thuế có 107 doanh nghiệp có biểu hiện vi
phạm.
Trốn thuế là hiện tượng khá phổ biến của khu vực kinh tế tư nhân. Năm
2005 kiểm tra 363 doanh nghiệp phát hiện số thuế kê khai bị giảm đi 11,969 tỷ
đồng; năm 2006 kiểm tra 480 doanh nghiệp, số thuế kê khai bị giảm đi 22,9 tỷ
đồng; năm 2007 kiểm tra 390 doanh nghiệp, số thuế bị giảm đi 9,15 tỷ đồng.
Một số chủ cơ sở sản xuất – kinh doanh đã vi phạm quy định của pháp luật
như: khai man tên địa chỉ để thành lập doanh nghiệp, đăng ký thành lập doanh
nghiệp nhằm buôn bán hóa đơn kiếm lời, tiến hành sản xuất hàng hóa có chất
độc hại trong khu dân cư, vi phạm kiểu dáng sở hữu công nghiệp, chế độ bản
quyền, vệ sinh an toàn thực phẩm…
Cá biệt có những chủ doanh nghiệp bất chấp pháp luật, tham gia các hoạt
động phi pháp như kinh doanh văn hóa độc hại, rửa tiền, lừa đảo, mua chuộc cán
bộ thoái hóa, biến chất trong cơ quan công quyền và doanh nghiệp nhà nước để
chuộc lợi…
Tình trạng buôn lậu, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả còn khá phổ biến.
Hàng giả bao gồm nhiều mặt hàng tiêu dùng, thuốc tây… các đối tượng sản xuất
hàng giả thường chế biến với quy mô nhỏ, không có cửa hàng, không có đăng ký
kinh doanh. Số vụ bị xử lý về buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, kinh doanh trái
phép vẫn gia tăng qua các năm.
- Trình độ và khả năng đổi mới kỹ thuật, công nghệ thấp
Nhìn chung, máy móc, thiết bị, công nghệ của khu vực kinh tế tư nhân còn
rất lạc hậu, chắp vá và chậm đổi mới. Nhiều doanh nghiệp mới thành lập vẫn còn
sử dụng công nghệ lạc hậu từ nước ngoài hay của doanh nghiệp nhà nước. Thiết
bị trong hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều lạc hậu từ 10 – 30 năm so với khu
vực và thế giới. Số doanh nghiệp được trang bị máy móc hiện đại không nhiều,
59
khoảng 24% doanh nghiệp tư nhân và 25% công ty trách nhiệm hữu hạn. Còn
lại, khoảng 37,2% số doanh nghiệp tư nhân và 20% công ty trách nhiệm hữu hạn
sử dụng công nghệ truyền thống do thời gian hình thành và phát triển của khu
vực kinh tế này chưa lâu, tiềm lực về vốn còn yếu nên khu vực kinh tế tư nhân
có ít khả năng đổi mới công nghệ. Mặt khác, trong thời gian qua, khu vực kinh tế
tư nhân chỉ chú trọng đầu tư vào thương mại, dịch vụ nên nhu cầu đổi mới công
nghệ là chưa cần thiết. Mỗi doanh nghiệp chỉ đầu tư khoảng 0,2% doanh thu cho
khoa học công nghệ (ở Hàn Quốc con số này là 7 – 10%). Do trình độ của chủ
doanh nghiệp còn thấp, thiếu thông tin kinh tế, kinh nghiệm quản lý, thêm vào
đó họ chưa thực sự tin tưởng vào chính sách phát triển của Nhà nước. Vì vậy, họ
không dám mạnh dạn đầu tư để mở rộng quy mô theo chiến lược phát triển ổn
định lâu dài.
2.4.2.3. Thiếu các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực kinh tế quan trọng
Như phân tích ở trên, tỷ trọng các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh trong
lĩnh vực thương mại dịch vụ ngày càng tăng, trong khi đó, tỷ trọng trong lĩnh
vực sản xuất công nghiệp giảm dần (tỷ trọng các doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân tham gia vào lĩnh vực dịch vụ gia tăng qua các giai đoạn, giai đoạn 1991 –
1996 là 39%, giai đoạn 1997 – 2000 là 49% và 2001 – 2007 là 59,4%. Trong khi
đó, lĩnh vực công nghiệp thì tỷ trọng lại giảm qua các giai đoạn, giai đoạn 91 –
95 là 35%, giai đoạn 97 – 99 là 22%, giai đoạn 1999 – 2000 là 15%); giai đoạn
2001 – 2007 là 10%. Sở dĩ như vậy là do hầu hết các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ, vốn đầu tư ít, khả năng huy động vốn thấp. Trong khi đó, lĩnh vực thương
mại dịch vụ cần lượng vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh và lợi
nhuận cao nên đã thu hút được các doanh nghiệp tham gia đầu tư.
Trên phạm vi một địa phương, số lượng doanh nghiệp thường tập trung
chủ yếu ở thị xã hay thành phố trực thuộc tỉnh. Trong khi số lượng doanh nghiệp
60
ở các huyện, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thực sự không đáng kể. Nhiều
huyện mới chỉ có một vài doanh nghiệp. Trên phạm vi cả nước, số doanh nghiệp
tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu
Long… rõ ràng việc tập trung phát triển tại một số vùng như vậy sẽ tạo ra
khoảng cách giữa các vùng, phá vỡ cơ cấu kinh tế vùng.
2.4.2.4. Khả năng tiếp cận thị trường yếu
Việt Nam có một thị trường rộng lớn với khoảng 85,8 triệu dân. Song, nhu
cầu thị trường về chất lượng hàng hóa, dịch vụ còn ở mức thấp, nhất là ở thị
trường nông thôn, nơi cư trú của hơn 80% dân số cả nước. Hiện tại thị trường
nước ta đang bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hóa nhập lậu qua biên giới. Điều này
có tác động trực tiếp đến khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân hầu hết chưa đủ năng lực cạnh tranh với hàng lậu. Trên
phạm vi thị trường nội địa. Khu vực kinh tế tư nhân này thường gặp khó khăn
trong khâu tiếp thị, chủ yếu là do chất lượng sản phẩm và dịch vụ còn hạn chế,
kỹ năng tiếp thị quảng cáo chưa tốt. Trên phạm vi thị trường quốc tế, khu vực tư
nhân lại càng gặp khó khăn hơn. Có thể nói, khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung, đặc biệt của các doanh nghiệp tư nhân ở thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài là rất thấp.
2.4.2.5. Hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp
Trong những năm qua, tuy số lượng các doanh nghiệp và hộ đăng ký kinh
doanh tăng nhiều, nhưng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp còn yếu.
Hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp nhìn chung thấp, tỷ suất lợi nhuận/vốn
và tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đều
thấp hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và thấp hơn
nhiều so với chỉ tiêu chung của toàn bộ các doanh nghiệp trong cả nước. Điều
61
này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp còn rất thấp.
Bảng 12: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
Toàn
bộ
doanh
nghiệp
Doanh
nghiệp
nhà
nước
Doanh
nghiệp
tập thể
Doanh
nghiệp
tư nhân
Doanh
nghiệp
có vốn
đầu tư
nước
ngoài
Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%) 5,45 4,41 4,06 1,51 8,87
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu
(%)
5,28 4,23 3,39 0,85 13,15
Huy động ngân sách/doanh
thu (%)
8,42 8,81 3,02 2,98 14,42
(Nguồn: theo Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 12/07/2006)
Theo Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu tính chung cho cả
khu vực tư nhân năm 2006 tuy có suy giảm so với các năm trước nhưng vẫn cao
hơn tỷ lệ chung của ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn trên tổng nợ xấu của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ xấu của khu vực tư nhân chiếm 50,8% và 43,3% tổng nợ xấu của
ngân hàng.
62
2.4.3. Những nguyên nhân hạn chế sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
Việt Nam
2.4.3.1. Về nhận thức chung
Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư
nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất cao. Tuy có những chuyển biến căn
bản trong nhận thức về khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế
ở Việt Nam, song vẫn còn nhiều vấn đề quan trọng vẫn chưa được làm rõ ở mức
cần thiết để có thể triển khai trong thực tiễn như: đặc điểm và vai trò cụ thể của
khu vực kinh tế tư nhân nước ta, cũng như quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà
nước với khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay và trong suốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng chủ nghĩa xã hội; về quy mô, trình độ phát triển kinh tế tư nhân cho từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể; về quan hệ nhà nước và doanh nghiệp tư nhân về
vai trò của chủ doanh nghiệp tư nhân… vẫn còn dừng lại ở quan điểm lớn, mang
tính chung chung, chưa được cụ thể để tạo sự thống nhất cao trong chỉ đạo thực
hiện.
Về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong quan hệ với kinh tế nhà nước
hiện nay có một số vấn đề chưa thống nhất. Cụ thể:
Quan điểm về bóc lột
“Bóc lột” là vấn đề cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về
kinh tế sản xuất hàng hóa trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tiễn
trong gần 20 năm qua đặt ra hàng loạt các câu hỏi cần có giải đáp hợp lý. Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”.
63
Như vậy, quá trình phân phối sản phẩm hướng tới sự công bằng hợp lý
phải căn cứ vào các yếu tố như: lao động, hiệu quả kinh tế, mức độ góp vốn và
một số yếu tố khác như quyền sử dụng đất, tri thức và kinh nghiệm, công nghệ
và bí quyết kỹ thuật… Có thể nói, nhận định trên là một bước tiến về tư duy so
với quan niệm truyền thống về chế độ phân phối theo quan điểm Mác – Lênin.
Trong nền kinh tế thị trường, lao động, vốn và các nguồn lực khác trong sản xuất
đều là hàng hoá. Chủ doanh nghiệp phải mua các yếu tố đó trên thị trường. Giá
cả của hàng hóa do quan hệ cung – cầu quy định và hàng hóa nào khan hiếm hơn
so với nhu cầu thì giá của hàng hóa đó phải cao hơn. Tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh không chỉ có người lao động trực tiếp, mà cả những người chủ
doanh nghiệp. Những người lao động có thể chỉ trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất khoảng 8 giờ/ngày (trừ trường hợp làm thêm giờ). Nhưng đóng góp lao
động của chủ sở hữu doanh nghiệp thì khó có thể tính theo giờ cụ thể như vậy
được. Họ luôn nghĩ đến công việc không phải chỉ trong “thời gian lao động”.
Đây là một loại đặc biệt và không thể thay thế được bởi các lao động cụ thể
trong những hoàn cảnh nhất định.
Với những thay đổi trong cách nhìn về chế độ phân phối như trên, quan
niệm về “bóc lột” trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cung cần có thay
đổi. Bóc lột chỉ xảy ra khi người phải làm việc trong môi trường lao động không
có đủ điều kiện tối thiểu về vệ sinh và an toàn như quy định của pháp luật và
không được trả lương tương xứng với sức lao động bỏ ra. Hiện tượng bóc lột
theo quan niệm như vậy rõ ràng vẫn có thể xảy ra ngay trong doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chứ không chỉ ở các doanh nghiệp
của khu vực kinh tế tư nhân.
64
Nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Hiện nay, khái niệm “vai trò chủ đạo” vẫn chưa được lý giải một cách
khoa học, nhất quán và rõ ràng. Việc xác định kinh tế nhà nước có vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế cần phải được cụ thể hơn. Chính sự không rõ ràng, thiếu cụ
thể về nội dung “vai trò chủ đạo” của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế
thị trường đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng đối xử
thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tính thiếu ổn định và nhất quán
trong chính sách của Đảng về thành phần kinh tế. Hơn nữa, thực tế cho thấy,
mặc dù Đảng ta vẫn luôn khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng, nhưng uy tín của doanh
nghiệp nhà nước lại đang ngày càng giảm trong đánh giá của nhân dân và dư
luận xã hội. Nói cách khác, vai trò và tác động thực tế của doanh nghiệp nhà
nước đã không thể hiện đúng, thậm chí còn rất xa so với kỳ vọng của xã hội và
vai trò chính trị của nó, như đường lối phát triển kinh tế của Đảng đã chỉ ra. Vì
vậy, cần phải xác định rõ, nhất quán và phù hợp với thực tế nội hàm của “vai trò
chủ đạo” của kinh tế nhà nước. Vai trò chủ đạo nên giải thích và phát triển theo
hướng phát huy tối đa địa vị và lợi thế của doanh nghiệp nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời, không làm giảm vai trò hoặc
hạn chế quyền kinh doanh của các thành phần kinh tế khác.
“Vai trò chủ đạo” có thể hiểu bao gồm các nội dung sau:
Một là, chủ đạo không phải là chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng lớn hơn
trong GDP, tính chất chủ đạo thể hiện ở sự tiên phong đi đầu. Tính chủ đạo phải
gắn với năng suất, chất lượng, khả năng thúc đẩy phát triển và chuyển giao công
nghệ.
Hai là, vai trò chủ đạo cũng bao hàm chức năng hỗ trợ và tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
65
Ba là, việc tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực
kể trên hoàn toàn không có nghĩa hạn chế hay ngăn cản sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác, trái lại, cùng hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện để kinh tế
tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh
vực dịch vụ kết cấu hạ tầng, các ngành công nghệ cao, không hạn chế cạnh tranh
của các thành phần kinh tế khác đối với doanh nghiệp nhà nước bằng các biện
pháp hành chính.
Xác định rõ nội hàm của “vai trò chủ đạo” với đặc điểm trên đây có thể
tạo ra tác động tích cực đối với môi trường kinh doanh cho khu vực kinh tế tư
nhân. Môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng sẽ dần được xác lập. Xác định
đúng vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước sẽ góp phần tăng thêm tính
cương quyết, nhất quán trong chỉ đạo và thực hiện cổ phần hóa, bán, khoán và
cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, giảm được nguy cơ sử dụng quyền
lực nhà nước nhằm hạn chế quyền kinh doanh của các thành phần kinh tế khác,
bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Xác định đúng “vai trò
chủ đạo” của doanh nghiệp nhà nước sẽ góp phần tạo ra nhận thức xã hội đúng
đắn về vai trò của các doanh nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thu hút sự ủng hộ mạnh mẽ, thống nhất của dư luận xã hội đối với
các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước, cũng như có thái độ tôn vinh
đúng đắn đối với các doanh nghiệp tư nhân.
2.4.3.2. Về cơ chế chính sách của nhà nước
Các cơ chế, chính sách của nhà nước chưa thực sự giải quyết được các khó
khăn mà các doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải như:
2.4.3.2.1. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực
Cụ thể:
66
Khó khăn trong việc tiếp cận với đất đai
Đất đai là một trong những yếu tố cơ bản, không thể thiếu của quá trình
sản xuất, thế nhưng tình trạng thiếu đất để sử dụng làm mặt bằng sả xuất của khu
vực kinh tế tư nhân hiện nay đang rất cấp bách. Trong khi đó, các doanh nghiệp
nhà nước được ưu đãi về đất đai hơn. Năm 2006 đất giao cho doanh nghiệp nhà
nước là 58,6 triệu m2 đất với 52 dự án còn khu vực tư nhân là 2,4 triệu m
2 đất
cho 35 dự án. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đủ
vốn lớn để đầu tư vào đất đai nên phải đi thuê đất của các doanh nghiệp nhà
nước hoặc các tổ chức với giá cao hơn nhiều, 51% số doanh nghiệp sử dụng đất
tự có để tiến hành sản xuất kinh doanh, 49% là thuê của doanh nghiệp nhà nước
hoặc các tổ chức khác và tình trạng này vẫn tiếp tục kéo dài trong những năm
gần đây.
Hiện tượng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có một
số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do thủ tục thuê và chuyển nhượng đất phức tạp, có những quy
định không rõ ràng gây khó khăn cho các nhà đầu tư, làm mất nhiều thời gian,
chi phí.
Thứ hai, do quy hoạch đất không rõ ràng, nhiều nơi diện tích đất không sử
dụng, đất hoang hóa, đất sử dụng sai mục đích còn lớn, trong khi khu vực tư
nhân lại thiếu mặt bằng sản xuất – kinh doanh.
Thứ ba, do quy mô vốn của doanh nghiệp còn nhỏ, không đủ khả năng để
thuê đất ở những địa điểm có lợi thế vì ở những địa điểm đó giá đất cho thuê cao,
làm tăng chi phí đầu vào.
Khó khăn trong thu hút và đào tạo nguồn nhân lực
Khu vực tư nhân hiện nay đang thiếu lao động có trình độ, kỹ năng, tay
nghề chuyên môn thành thạo. Điều này do khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự
67
tạo được lòng tin để xóa bỏ những định kiến trong xã hội. Do vậy, chỉ có những
lao động có trình độ thấp, cần công việc, ít có cơ hội lựa chọn nơi làm việc mới
chấp nhận làm việc trong khu vực này.
Một nguyên nhân nữa là trong khi các doanh nghiệp nhà nước đều được
hưởng các chính sách của nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực miễn phí thì khu
vực tư nhân khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ này.
Hiện tại, nền giáo dục của ta chưa quan tâm nhiều đến việc đào tạo theo
nhu cầu của xã hội. Có những ngành, những lĩnh vực còn thiếu quá nhiều cán bộ,
công nhân có tay nghề, trình độ chuyên môn, trong khi đó có một số ngành đào
tạo tràn lan. Chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, ít thực hành, nội dung
đào tạo chậm, không bắt kịp sự thay đổi trong thực tế cho nên hiệu quả đào tạo
không cao.
Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
Đối với nguồn vốn của ngân hàng:
Hiện tại các doanh nghiệp mới đăng ký thành lập nguồn vốn chủ yếu huy
động từ bản thân chủ doanh nghiệp, người thân, bạn bè… Nguồn vốn huy động
được từ các tổ chức tín dụng là rất khó khăn. Thực tế cho thấy, 69% doanh
nghiệp sử dụng vốn tự tích lũy, 45% doanh nghiệp là vay vốn từ người thân, bạn
bè. Và chỉ có 21% doanh nghiệp vay vốn được từ các ngân hàng thương mại
quốc doanh, 11% vay từ ngân hàng thương mại cổ phần.
Hiện tại khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự tạo được lòng tin nên rất
khó vay vốn từ ngân hàng, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Thêm vào đó,
khu vực tư nhân có quy mô nhỏ nên lượng vốn vay thường ít trong khi đó chi phí
giao dịch, điều tra, giám sát lại cao.
Đối với nguồn từ quỹ hỗ trợ phát triển:
68
Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân đã được tiếp cận nguồn vốn từ quỹ hộ
trợ phát triển. Tuy nhiên, số vốn mà khu vực tư nhân vay được từ quỹ này chỉ
chiếm 8% tổng số vốn cho vay của quỹ. Nguyên nhân là do thủ tục và các điều
kiện cho vay còn quá chặt chẽ, các thủ tục pháp lý về điều kiện cho vay của Quỹ
còn bất bình đẳng giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân làm cho khu vực
kinh tế tư nhân khó vay được vốn từ nguồn vốn ưu đãi của nhà nước.
2.4.3.2.2. Thiếu sự hỗ trợ từ phía nhà nước
Thiếu cơ chế cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
Ngày nay, sự phát triển các ngành dịch vụ đang thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ kinh tế - xã hội, trong đó có dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh có tác dụng làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua
ủy nhiệm những công việc chuyên biết cho các chuyên gia chuyên ngành. Ở các
nước phát triển, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chiếm tỷ lệ ít nhất là 1/3 giá trị đầu
vào của doanh nghiệp. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh rất đa dạng và thực hiện
những chức năng khác nhau. Chất lượng cung ứng các dịch vụ sẽ tác động lớn
đến khả năng phát triển và cạnh tranh của nền kinh tế khi sử dụng dịch vụ này.
Theo các nghiên cứu của Ngân hàng phát triển châu Á, dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh và dịch vụ nghề nghiệp là bộ phận đầu vào mang tính cạnh tranh nhất, tiếp
theo mới đến truyền thông, giáo dục thương mại và đào tạo. Thực tế cũng cho
thấy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thường phải phụ thuộc nhiều vào
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nhập khẩu nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị
trường thế giới, khi ở trong nước những dịch vụ này không đáp ứng được yêu
cầu chất lượng.
Thiếu cơ chế tạo sự ủng hộ của xã hội đối với kinh tế tư nhân
Nhìn chung, môi trường thể chế chưa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân
phát triển. Môi trường thể chế được hiểu là tổng hợp toàn bộ các nhân tố mang
69
tính chính trị, nhà nước, pháp luật có tác động ảnh hưởng ở mức độ nhất định lên
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, thể chế chính trị giữ vai trò
quan trọng nhất, nó định hướng, chi phối toàn bộ hoạt động trong xã hội, trong
đó có hoạt động kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng
định hướng chính trị nhằm chi phối những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Hiện nay, môi trường kinh doanh còn thiếu lành mạnh, cạnh tranh thiếu
bình đẳng, tồn tại nhiều hoạt động gian lận thương mại cũng như tiêu cực do bộ
máy quản lý yếu kém gây ra đã đẩy khu vực tư nhân vào tình thế bất lợi. Nguyên
nhân do việc xác định vị trí, vai trò quan trọng của khu vực tư nhân mới chỉ
chung chung mà chưa có những chính sách, chiến lược phát triển cụ thể, tạo điều
kiện cho khu vực kinh tế này. Bên cạnh đó, tư tưởng kỳ thị, phân biệt khu vực tư
nhân trong bộ máy quản lý vẫn tồn tại. Hiện nay, chưa có một bộ phận quản lý
nhà nước chính thức đối với hoạt động của các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân để theo dõi, điều chỉnh, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh của họ. Ngoài ra, cơ chế chính sách phát triển kinh tế tư nhân còn thiếu
đồng bộ và chưa nhất quán.
Trên thực tế, hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế trong việc điều
chỉnh nền kinh tế. Tình trạng văn bản pháp luật còn thiếu đồng bộ, không nhất
quán đã làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không tốt, luôn luôn lo sợ sự thay
đổi của cơ chế, chính sách nên không dám đầu tư, phát triển sản xuất – kinh
doanh. Ngoài ra, những quy định còn phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho
các doanh nghiệp trong sản xuất – kinh doanh.
70
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.3. Dự báo xu hƣớng phát triển kinh tế tƣ nhân
Thứ nhất, mục tiêu hoạt động của kinh tế tư nhân vẫn chịu sự chi phối chủ
yếu bởi quy luật tối đa hóa lợi nhuận. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng phát
triển, qua đó các quy luật kinh tế thị trường luôn dẫn dắt kinh tế tư nhân mở rộng
đầu tư ở những nơi có lợi nhuận cao nhất, các lĩnh vực ngành nghề mới có hiệu
suất sinh lợi cao vẫn luôn hấp dẫn kinh tế tư nhân. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trường hiện đại, kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân có vai trò, vị trí và chức
năng đặc thù trong một cơ cấu kinh tế chung, vì thế không thể thay thế nhau,
không có xu thế lấn át hoặc loại trừ nhau. Tuy nhiên, do bản chất của sở hữu,
trong quá trình vận động của kinh tế tư nhân luôn có xu hướng bị chi phối bởi
mục tiêu lợi nhuận. Điều này sẽ có tác động không nhỏ đến các xu hướng phát
triển khác của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, tích tụ và tập trung vốn gia tăng, hình thành các doanh nghiệp
vừa và lớn có sức cạnh tranh cao, kinh tế cá thể giảm. Đây là một xu hướng tất
yếu trong phát triển cạnh tranh của kinh tế tư nhân, cùng với xu hướng sẽ có
nhiều doanh nghiệp và tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa sở hữu, có số vốn hàng
ngàn tỷ đồng, tạo ra những sản phẩm có giá trị chi phối thị trường trong nước,
mở rộng thị phần ở thị trường quốc tế một cách ổn định. Đồng thời, sẽ xuất hiện
ngày càng phổ biến hơn các hiện tượng phá sản, giải thể, chia nhỏ, mua bán,
chuyển nhượng, sáp nhập… các doanh nghiệp, các cổ phần, cổ phiếu doanh
nghiệp, hiện tượng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không đạt được mục đích kinh
doanh cũng trở thành vấn đề được xã hội quan tâm hơn.
71
Trong thương mại – dịch vụ, các cửa hàng, trung tâm mua sắm có quy mô
vừa và lớn, được trang bị tốt sẽ chiếm ưu thế, nhất là ở các đô thị. Nhìn chung xu
hướng phát triển kinh tế tư nhân là sự tồn tại của kinh tế hộ gia đình, những
doanh nghiệp siêu nhỏ trong cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ sẽ giảm
dần, các đơn vị kinh tế tư nhân có quy mô lớn gắn với các hoạt động có tính
quốc tế hóa sẽ chiếm ưu thế do tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, sự cạnh tranh và liên kết hợp tác giữa các đơn vị kinh tế tư nhân
với nhau và với các thành phần kinh tế sẽ ngày càng gia tăng. Cạnh tranh và hợp
tác luôn đan xen và tác động lẫn nhau. Tập trung vốn là kết quả của quá trình
liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, xu hướng này
sẽ ngày một gia tăng khi hội nhập kinh tế quốc tế đẫn đến các doanh nghiệp lớn
của nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Nguy cơ phá sản trước một
cuộc cạnh tranh không cân sức là khó tránh khỏi. Vì vậy, con đường liên kết
giữa các đơn vị kinh tế tư nhân với nhau để chống đỡ sự chèn ép của các doanh
nghiệp lớn trong cùng lĩnh vực là xu hướng trong thời gian tới. Sự liên kết giữa
các nhà bán lẻ diễn ra trong thời gian qua là một ví dụ điển hình về sự hợp tác
trong kinh doanh dưới áp lực của hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự liên kết không chỉ diễn ra giữa các đơn vị kinh tế tư nhân với nhau mà
còn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và sự hợp tác diễn
ra trên nhiều mặt sản xuất – kinh doanh. Xu hướng chung của sự hợp tác này là
ngày càng nhiều đơn vị kinh tế tư nhân trở thành công ty con theo mô hình tập
đoàn kinh tế, mà công ty mẹ có thể là đơn vị kinh tế nhà nước hoặc các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ranh giới giữa các thành phần kinh tế
sẽ mờ dần, giảm dần sự khác biệt trong phương thức hoạt động. Như vậy, xu
hướng chuyển từ sở hữu đơn lẻ (doanh nghiệp tư nhân một chủ) sang sở hữu
nhiều chủ ngày càng nhiều.
72
Thứ tư, kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển nhanh, có tỷ trọng ngày càng lớn
và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Khi có môi trường thể
chế phù hợp, được thừa nhận, cổ vũ và hơn hết là được đặt đúng vị trí, kinh tế tư
nhân sẽ có tốc độ phát triển nhanh về số lượng, hiệu quả kinh doanh cao, tận
dụng được các nguồn lực và khả năng huy động vốn ngày càng được cải thiện.
Cho tới nay, Việt Nam mới đạt được tỷ lệ 5 doanh nghiệp/1.000 người dân.
Trong khi đó, con số này của Đài Loan từ năm 1999 đã là 49/1.000 dân, Nhật
Bản là 40/1.000 dân.
Nhân tố chính thúc đẩy tăng nhanh số doanh nghiệp Việt Nam trong
những năm tới là khu vực kinh tế tư nhân. Kể từ khi áp dụng doanh nghiệp 1999,
khu vực tư nhân luôn được duy trì tốc độ tăng trưởng trên 18%/ năm, đóng góp
bình quân hơn 6000 tỷ đồng tiền thuế, chiếm khoảng 14,8% tổng thu ngân sách
nhà nước. Tính đến 31/12/2008, cả nước đã có 330.800 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh, gấp 6 lần tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập trong 10 năm của
giai đoạn 1991 – 1999, với số doanh nghiệp đăng ký mới trung bình hàng năm
tăng 6 lần. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn trong nền kinh tế
là xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này
phản ánh: khu vực tư nhân xứng đáng được xem là động lực chính thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế của nước ta.
Thứ năm, sự chuyển đổi lĩnh vực kinh doanh phù hợp với những biến đổi
của thị trường đồng thời kết hợp kinh doanh theo hướng đa ngành sẽ ngày càng
phổ biến. Dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân sẽ chịu
sự “điều tiết” mạnh mẽ của mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Quá trình di chuyển từ
lĩnh vực kinh doanh này sang lĩnh vực kinh doanh khác để tìm kiếm lợi nhuận
cao hơn sẽ diễn ra ngày càng tăng trong khu vực tư nhân, đặc biệt là trong điều
kiện tự do hóa nền kinh tế. Ở các đơn vị kinh tế tư nhân có quy mô lớn, xu
73
hướng mở rộng kinh doanh theo hướng đa ngành không còn là cá biệt, các tập
đoàn kinh tế tư nhân sẽ hình thành và phát triển trong nhiều lĩnh vực và giữ một
vị trí đáng kể trong nền kinh tế.
Thứ sáu, tính chất quốc tế hóa trong hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày
càng đậm nét hơn. Các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân sẽ ngày càng mang
yếu tố quốc tế đậm nét hơn về định hướng sản xuất – kinh doanh, về thị trường
tiêu thụ cũng như thị trường nguyên vật liệu, về công nghệ và các yếu tố cần
thiết khác cho quá trình tái sản xuất mở rộng của bản thân doanh nghiệp. Các
hoạt động xúc tiến thương mại và những tiêu chuẩn quốc tế được các doanh
nghiệp quan tâm nhiều hơn. Những biến động của thị trường thế giới cùng những
bất ổn của nó sẽ tác động nhanh chóng và không nhỏ đến hoạt động sản xuất –
kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Thứ bảy, vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp ngày càng lớn. Một khi sự
liên kết và hợp tác ngày càng mở rộng, thì vai trò của các Hiệp hội ngành nghề
cũng sẽ quan trọng hơn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt là trong
quá trình hội nhập, thì tiếng nói của các hiệp hội sẽ là đại diện cho doanh nghiệp
trong các cuộc tranh chấp thương mại có tính quốc tế. Vì vậy, xu hướng các
doanh nghiệp khu vực tư nhân tìm đến hiệp hội để có được sự hỗ trợ về nhiều
mặt là ngày càng nhiều trong thời gian tới, điều này càng có ý nghĩa khi hầu hết
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân ở Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, khả năng
tự bảo vệ một cách riêng lẻ là không cao.
74
3.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam
hiện nay
3.4.1. Đổi mới nhận thức, hoàn thiện môi trường pháp lý đối với kinh tế tư
nhân
Việc xóa bỏ những định kiến về thành phần kinh tế nói chung và về kinh
tế tư nhân nói riêng phải trở thành khâu đột phá trong nhận thức và cơ sở pháp lý
cho sự phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới. Nhà nước cần có những giải
pháp cụ thể tích cực nhằm rút ngắn khoảng cách từ nhận thức đến thực tiễn đối
với kinh tế tư nhân. Đây cũng chính là giải pháp có tính chiến lược nhằm giải
quyết mâu thuẫn đặt ra giữa đường lối đổi mới của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân trong hội nhập với sự chậm trễ trong việc cụ thể hóa đường lối đổi mới đó.
Quá trình này đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ từ việc ban hành pháp luật
đến tuyên truyền phổ biến pháp luật và tổ chức áp dụng, thực hiện pháp luật. Để
thực hiện tốt vấn đề này, cần phải đặc biệt coi trọng nâng cao trình độ hiểu biết
và thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực
tiếp đối với kinh tế tư nhân.
Môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng và nghiêm minh sẽ tạo môi trường
kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Cho đến
nay, các quy định pháp lý vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, gây cản trở cho kinh tế
tư nhân phát triển. Do đó cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra hành
lang pháp lý thuận lợi, an toàn là một vấn đề cấp thiết nhằm phát triển kinh tế tư
nhân trong quá trình hội nhập. Trong thời gian tới cần phải:
- Tiếp tục rà soát, bãi bỏ những văn bản đã ban hành trái với Luật Doanh
nghiệp, đồng thời có biện pháp ngăn chặn những văn bản mới ban hành
trái với luật này.
75
- Xóa bỏ những văn bản cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt là
những văn bản gây bất bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần
kinh tế khác. Cần đưa ra những quy định mới, phù hợp với thực tiễn nhằm
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
- Ban hành quy chế đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhằm xóa bỏ những
thủ tục rườm rà không cần thiết.
- Các quy định về chế độ báo cáo tài chính của doanh nghiệp, về hệ thống
biểu mẫu tài chính nộp tại cơ quan đăng ký kinh doanh cần được đơn giản
hơn. Quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn về cách đặt tên doanh nghiệp, tên
chi nhánh, một mặt bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, thương hiệu doanh
nghiệp đã có, mặt khác tránh gây nhầm lẫn giữa tên doanh nghiệp với các
tổ chức khác.
Ở nước ta hiện nay đang xây dựng một nhà nước pháp quyền – xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, vai trò của các tổ chức dân sự
cần phải được nâng cao. Nên trao thêm quyền cho người dân và quyền giám sát
cho các Hiệp hội. Đây là yếu tố then chốt để có thể giảm, ngăn chặn được các
loại giấy phép vô lý đang có xu hướng bùng phát trở lại. Nếu phát huy vai trò
của các hiệp hội, Nhà nước hoàn toàn có lợi, vừa bớt chi phí cho nhiều lần
nghiên cứu và bãi bỏ, vừa bớt chi phí làm lại các luật, văn bản quy phạm pháp
luật có tuổi đời ngắn, không phù hợp như hiện nay.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới cho thấy: văn bản quy phạm pháp luật nào
được chuẩn bị tốt, có sự tham gia rộng rãi của công đồng doanh nghiệp thì văn
bản đó sẽ tồn tại lâu, có lợi cho dân, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Văn bản
nào hướng đến việc trao quyền cho doanh nghiệp, chủ thể kinh tế, khai thông các
thủ tục hành chính… thì văn bản đó sẽ có sức sống mạnh mẽ, nhận được sự ủng
hộ to lớn. Luật Doanh nghiệp 1999 là một ví dụ.
76
Bên cạnh môi trường pháp lý, việc cải thiện môi trường tâm lý cũng rất
quan trọng. Cần phải làm cho toàn xã hội có nhận thức thống nhất là: phát triển
kinh tế tư nhân là một tất yếu, ích nước lợi nhà, người lao động và chủ doanh
nghiệp ở khu vực tư nhân cũng đều đáng được trân trọng, biểu dương như những
khu vực kinh tế khác khi họ có nhiều đóng góp cho đất nước qua nộp thuế.
3.4.2. Giải quyết những khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh
đối với kinh tế tư nhân
Vấn đề cơ sở hạ tầng, trước hết là đất đai, luôn là nỗi bức xúc của các nhà
đầu tư tư nhân trong quá trình phát triển. Giải quyết những khó khăn về đất đai
và mặt bằng sản xuất – kinh doanh cần phải xếp vào hàng ưu tiên. Trong thời
gian tới, việc tháo gỡ khó khăn về đất đai cần gắn với các biện pháp:
- Phát triển thị trường bất động sản, hỗ trợ kinh tế tư nhân giải quyết khó
khăn về mặt bằng sản xuất – kinh doanh.
- Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ
tục pháp lý về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp tài sản và
góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhằm tạo điều kiện cho những giao dịch
về đất đai có hiệu quả và đúng pháp luật.
- Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở, nhằm tạo điều kiện cho quản lý Nhà nước về đất đai và khai
thông các quan hệ giao dịch chính thức trên thị trường bất động sản, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân thông qua thị trường tự tìm kiếm
mặt bằng sản xuất – kinh doanh cho mình.
- Có cơ chế thông thoáng về thủ tục quản lý cho các nhà đầu tư tư nhân
trong việc dùng giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng hoặc góp
vốn cổ phần với các đối tác trong và ngoài nước. Đơn giản hóa các thủ tục
77
hành chính trong việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp
với quy hoạch đã được duyệt.
- Mở rộng và từng bước hiện đại hóa hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm
thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu mặt bằng kinh doanh cho các doanh
nghiệp tư nhân trong việc bán buôn, bán lẻ, giới thiệu sản phẩm, ưu tiên
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê với giá cả hợp lý. Đồng thời, dần
xóa bỏ hệ thống chợ lề đường, chợ tạm, qua đó lập lại trật tự văn minh đô
thị.
3.4.3. Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng đối với kinh tế tư
nhân
Một trong những khó khăn hiện nay của kinh tế tư nhân là vốn sản xuất –
kinh doanh, nhất là vốn trung và dài hạn để đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Vì vậy, chính sách hổ trợ
về vốn cho kinh tế tư nhân có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để thúc đẩy kinh tế tư
nhân phát triển đúng hướng và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả. Trên tinh thần
đó, cần xúc tiến đổi mới một số chính sách và giải pháp về vốn để hỗ trợ kinh tế
tư nhân:
Thứ nhất, đổi mới và đẩy mạnh việc phân cấp quản lý tài chính nhà nước
- Đẩy mạnh phân cấp về quản lý kinh tế và ngân sách, tạo sự chủ động thực
sự cho các cơ quan chức năng ở địa phương, về quyền hạn và trách nhiệm
tài chính đối với kinh tế tư nhân ở địa phương. Hàng năm, Chính phủ giao
cho các tỉnh, thành phố kế hoạch tổng chi ngân sách và các nhiệm vụ chi
thường xuyên bắt buộc theo định mức, các đơn vị cấp dưới được chủ động
bố trí kế hoạch và định mức chi phù hợp với thực tiễn của mình. Đồng
thời, mỗi địa phương được tự quyết định một số nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho đầu tư phát triển, trong đó có hỗ trợ phát triển cho kinh tế tư nhân.
78
- Trên cơ sở ngân sách được phân cấp và ổn định trong từng thời kỳ, mỗi
cấp ngân sách địa phương được chủ động điều hành, tạo điều kiện tối đa
cho các đơn vị kinh tế tư nhân tích tụ vốn cho đầu tư phát triển, kích thích
các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức hỗ trợ tài chính phát triển kinh tế
tư nhân
- Chính phủ tạo điều kiện khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng, bằng cách giảm số lượng cổ đông phải có của
công ty cổ phần được tham gia thị trường chứng khoán từ 30 xuống 20 cổ
đông, để các công ty cổ phần tư nhân có cơ hội tham gia kênh huy động
vốn này. Các quy chế về BOT, BT, BTO cần chặt chẽ, rõ ràng nhằm
khuyến khích khu vực tư nhan tham gia, đồng thời tạo điều kiện hơn nữa
để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận trực tiếp cơ hội kinh doanh từ nguồn vốn
ODA.
- Công khai hóa các quy chế và tiêu chí được nhân ưu đãi, khuyến khích
đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục cấp ưu đãi đầu tư, giảm bớt các thủ tục về
đầu tư và xây dựng, đấu thầu, thủ tục cho vay, giải ngân khi vay vốn ở
Quỹ hỗ trợ phát triển.
Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng tài sản, quyền sử dụng
đất để thế chấp khi vay vốn từ các nguồn vốn tín dụng thương mại chính thức.
Một trong những khó khăn lớn của các doanh nghiệp tư nhân khi vay vốn
tín dụng là vấn đề thế chấp tài sản. Bởi vì, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thêm vào đó thủ tục cho vay đối với kinh tế tư nhân
còn nhiều thủ tục rườm rà. Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân
vay vốn cần phải:
79
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định cho phù hợp với thực tiễn như đăng ký
tài sản thế chấp, theo hướng thuận lợi, thông thoáng.
- Rà soát, bổ sung và nhanh chóng ban hành những quy định về đăng ký sở
hữu tài sản, đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở
hữu nhà và sở hữu tài sản khác cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân. Hình thành các trung tâm đăng ký bất động sản để tạo điều
kiện xác lập quyền sở hữu cho các doanh nghiệp, qua đó chống việc lạm
dụng, lừa đảo trong thế chấp (một tài sản đem đi thế chấp nhiều nơi).
- Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng nâng cao hơn nữa quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc cho vay. Đơn giản
hóa thủ tục cho vay, thực sự trao cho các tổ chức tín dụng quyền chủ động
xem xét các vấn đề như: thực tế, khả năng từng đối tượng để quyết định
việc cho vay, việc thế chấp, tín chấp, tỷ lệ cho vay so với tài sản thế chấp,
mức độ cho vay trung và dài hạn…
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân để huy động vốn
từ các nguồn trong dân cư, qua đó mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân, đặc biệt là đối với khu vực nông nghiệp
ngoại thành.
- Nâng cao vai trò của Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ cho
kinh tế tư nhân trong vay vốn ở các tổ chức tín dụng, hỗ trợ khi gặp rủi ro,
bất khả kháng không trả được nợ vay.
Thứ tư, đa dạng hóa và phối hợp sử dụng linh hoạt các nguồn vốn cho phát
triển kinh tế tư nhân.
- Các Ngân hàng Thương mại quốc doanh cần nghiên cứu, xúc tiến và tăng
cường cho các doanh nhiệp kinh tế tư nhân vay thương mại, có thế chấp
hoặc tín chấp, đối với từng dự án, từng doanh nghiệp cụ thể tùy thuộc vào
80
kết quả sản xuất – kinh doanh và tình hình nộp thuế của doanh nghiệp
những năm trước, vào năng lực của Ban Giám đốc doanh nghiệp và vào
tính khả thi của dự án xin vay.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân tiếp cận kện cấp
vốn vay ưu đãi hoặc được nhận bảo lãnh tín dụng từ nguồn vốn ưu đãi
quốc gia và tỉnh, thành phố.
- Trong xu thế hội nhập và phát triển của kinh tế tư nhân, thời gian tới cần
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tiếp cận và
tham gia thị trường chứng khoán. Một mặt, cần tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các doanh nghiệp từng bước thỏa mãn các điều kiện niêm yết trên
các sàn giao dịch chính thức, mặt khác cần tăng cường phát triển hệ thống
thông tin và đào tạo nhân lực về kinh doanh thị trường chứng khoán cho
các doanh nghiệp.
3.4.4. Hoàn thiện chính sách thuế đối với kinh tế tư nhân
Ở nước ta hiện nay, qua nhiều lần điều chỉnh và cải cách, nhưng nhìn
chung chính sách thuế của Việt Nam vẫn chưa có tác dụng tích cực thúc đẩy sản
xuất và khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân. Thậm chí còn có loại thuế kìm hãm hoạt động sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, cải cách về chính sách thuế là vấn đề cấp bách, đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới,
hiện nay trong thời gian tới cần phải:
Thứ nhất, sửa đổi và hoàn thiện chính sách thuế, tăng cường thông tin,
tuyên truyền chính sách thuế cho doanh nghiệp.
- Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp, chủ thể
81
kinh tế và những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Đối với thuế giá trị gia tăng, cần sửa đổi theo hướng đơn giản về phương
pháp tính thuế, giảm bớt số thuế suất, thu hẹp đối tượng không chịu thuế,
phòng tránh lạm dụng trong công tác quản lý thuế.
- Bỏ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung để khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân làm ăn có lãi và tăng cường tích lũy mở rộng đầu tư sản
xuất – kinh doanh. Đồng thời nghiên cứu miễn thuế cho các doanh nghiệp
khi dùng phần thu nhập vào việc đóng góp xây dựng các quỹ xã hội, giúp
đỡ các tổ chức xã hội từ thiện.
- Một số khoản chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế cần được
xem lại cho phù hợp với điều kiện thực tế, trên cơ sở tạo điều kiện cho
doanh nghiệp sản – kinh doanh (hiện nay, tài sản cố định có tham gia vào
sản xuất – kinh doanh nhưng ko có hóa đơn hợp pháp thì không được tính
khấu hao), chi phí tiếp khách, khuyến mại, quảng cáo… cần mở rộng cho
tính vào chi phí với tỷ lệ cao hơn hiện nay, nhằm giúp cho các doanh
nghiệp tư nhân có thêm cơ hội tăng quảng bá sản phẩm, tránh những thua
thiệt so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về thuế cho các
doanh nghiệp, các chủ thê kinh tế trên phương tiện thông tin đại chúng;
lập bộ phận hỗ trợ, tuyên truyền về thuế ở các địa phương, trực tiếp đối
thoại với đối tượng nộp thuế nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng
mắc về công tác thuế.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý đối tượng nộp thuế.
82
Thực hiện phân cấp quản lý theo hướng ủy nhiệm thu cho các phường, xã
đối với các hộ kinh doanh nhỏ nhằm nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong việc quản lý đối tượng nộp thuế. Thực hiện tốt việc phân cấp,
ngành thuế sẽ giảm được đầu mối để tập trung thời gian vào quản lý và kiểm tra
các cơ sở kinh doanh lớn.
Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý thuế
Chính sách thuế dù có tốt đến mức nào, nếu không chú ý nâng cao trình độ
chuyên môn, đạo đức của các ban quản lý thuế, đặc biệt là bộ phân trực tiếp quản
lý thuế đối với các doanh nghiệp thì chính sách thuế không thể hoàn thành vai
trò của nó, vì vậy cần phải:
- Bố trí, sắp xếp lại cán bộ nhằm quản lý sâu sát và gắn trách nhiệm với
công việc được giao. Thực hiện luân chuyển địa bàn quản lý giữa các
nhóm và cán bộ, tiến tới xóa bỏ cán bộ chuyên quản.
- Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn và
tiêu chuẩn đạo đức cho đội ngũ cán bộ thuế, nhằm giúp cho cán bộ quản lý
thuế các doanh nghiệp nắm vững chế độ, chính sách, biết cách giải thích
và thuyết phục đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành nộp thuế.
3.4.5. Tăng cường công tác hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại đối với
kinh tế tư nhân
Nhìn chung chất lượng những thông tin thu thập được của kinh tế tư nhân
là chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập, đặc biệt là những thông tin
về thị trường. Bản thân từng doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn trong việc giải
quyết vấn đề này. Để giúp cho kinh tế tư nhân nâng cao chất lượng nguồn thông
tin và xúc tiến thương mại một cách hiệu quả, chúng ta cần thực hiện một số giải
pháp sau:
83
Thứ nhất, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận thông tin và đẩy mạnh
cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp và hình
thức đa dạng. Có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông
tin trong quá trình thu thập thông tin thị trường bằng biện pháp giảm cước truy
cập Internet, cước điện thoại, xây dựng thị trường bưu chính viễn thông mang
tính cạnh tranh, thực hiện chương trình chính phủ điện tử một cách có hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường hỗ trợ, giúp đõ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp
từ phía chính quyền các cấp. Để hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng hiệu
quả hơn, bên cạnh việc các doanh nghiệp phải ngày càng hoàn thiện mình, rất
cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trên các mặt sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo môi trường thông thoáng cho hoạt
động xúc tiến thương mại, tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động
xúc tiến thương mại giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tăng cường công tác phổ biến pháp luật và đẩy mạnh hoạt động giám sát,
kiểm tra, thanh tra các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tránh tình
trạng chồng chéo trong quản lý hoặc buông lỏng quản lý hoạt động xúc
tiến thương mại.
- Phối hợp hoạt động giữa các tổ chức xúc tiến thương mại ở các địa
phương cũng như trong cả nước nhằm phát huy tối đa sự hỗ trợ cho doanh
nghiệp, trên cở sở các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ như:
các Viện nghiên cứu, Trung tâm tư vấn, Sở thương mại, các cơ sở kinh
doanh dịch vụ của các thành phần kinh tế, các Hiệp hội ngành nghề trên
địa bàn.
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi các chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoạt động
xúc tiến thương mại theo hướng đơn giản hóa.
84
3.4.6. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế
Để khu vực kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ngoài
những nỗ lực bản thân của từng doanh nghiệp thì vai trò của Chính phủ là hết
sức quan trọng. Nhà nước, với những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, sẽ tác động
vào tiến trình hội nhập một cách nhanh chóng mà không phải doanh nghiệp nào
cũng thực hiện được. Vì vậy, những chính sách và cam kết của chính phủ có tính
đa phương hoặc song phương sẽ có tác động trực tiếp đối với doanh nghiệp trong
quá trình hội nhập.
Thứ nhất, xây dựng chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư ra nước
ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế suy cho cùng là quá trình mỗi quốc gia ngày càng
tạo điều kiện tự do hóa và hỗ trợ thuận lợi nhất cho những hoạt động của các
dòng vốn, hàng hóa, dịch vụ và lao động qua biên giới nước mình theo hai chiều:
chiều vào và chiều ra. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đánh giá sự chủ động hội nhập
của một quốc gia chính là chiều ra, thể hiện ở xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài.
Ở Việt Nam, hiện nay vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp trong đó có các
doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đầu tư kinh doanh ở nước ngoài vẫn còn
chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc xác định đúng các lĩnh vực, nội
dung, yêu cần hỗ trợ từ phía Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết cần tập trung vào các giải
pháp sau:
- Xây dựng hành lang pháp lý trong nước và quốc tế nhằm mở đường và
định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn và thuận
lợi. Cụ thể là các thỏa thuận có tính quốc tế giữa Việt Nam và các nước về
vấn đề đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động qua biên giới, các
hiệp định kinh tế, thương mại song phương.
85
- Không ngừng củng cố, tằng cường năng lực các cơ cấu tổ chức hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, cần có những bộ phận cơ cấu
mang tính liên ngành và chuyên ngành với đội ngũ cán bộ có chức năng
chuyên trách, đủ trình độ và trách nhiệm cao, để đề xuất những văn bản
pháp quy liên quan trực tiếp đến các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các
đại sứ quán, lãnh sự quán, phòng thường vụ Việt Nam ở nước ngoài phải
tích cực hỗ trợ các hoạt động này.
Các Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam cần có những chi nhánh
văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng đồng
doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, cần cho ra đời các Công ty đầu tư
tài chính quốc tế thích hợp, có chức năng huy động vốn đầu tư trong và ngoài
nước để thực hiện đầu tư tài chính quốc tế, nhằm đa dạng hóa các công cụ đầu tư
ra nước ngoài của doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các Hiệp hội doanh nghiệp Việt
Nam ở những nước có doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, chủ động tham gia và tích
cực hoạt động trong các tổ chức Hiệp hội ngành hàng khu vực và quốc tế.
- Mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Dịch vụ hàng đầu cần sự hỗ
trợ là cung cấp thông tin bao gồm thông tin thị trường, thông tin đối tác,
thông tin về môi trường đầu tư (các quy định về pháp lý, thủ tục xuất –
nhập khẩu, các yêu cầu và giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm,
các đặc điểm văn hóa, thị hiếu tiêu dùng…).
Thứ hai, thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xúc tiến thương mại.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và nỗ lực đẩy mạnh
xuất khẩu, tìm kiếm, mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nói riêng, các
doanh nghiệp của tư nhân cần phải nắm được những vấn đề cơ bản của xúc tiến
86
thương mại quốc tế. Hoạt động xúc tiến thương mại nói chung là công việc còn
khá mới mẻ ở Việt Nam, kinh nghiệm hoạt động còn ít. Vì vậy, cần chủ động
hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại lớn trên thế giới như ITC, nhóm đặc
trách về xúc tiến thương mại của APEC, tổ chúc xúc tiến thương mại của Nhật
Bản (JETRO), của Đài Loan (CETRA)… nhằm học tập những kinh nghiệm.
Thứ ba, tăng cường hỗ trợ bảo hộ sở hữu công nghiệp trên thị trường thế
giới. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thiết lập quyền sở hữu công nghiệp
của mình trên thị trường nội địa và bước ra thương trường thế giới với mức độ
cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, cần phải chú ý một số giải pháp:
- Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập quyền
sở hữu công nghiệp. Trong các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giải pháp
hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nhấn
mạnh, vì quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản của doanh nghiệp.
Vì vậy, bản thân doanh nghiệp phải chủ động thực hiện mọi biện pháp để
bảo vệ quyền của mình. Nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp
lý thích hợp để các chủ thể kinh tế bảo vệ được quyền của mình. Giải pháp
hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không
phải là giải pháp có hiệu quả. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng
ký xác lâp quyền sở hữu công nghiệp, có một cách tiếp cận có hiệu quả
đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó chỉ
là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất
lớn khi mua sản phẩm của Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng. Như
vậy, nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập quyền sở hữu
công nghiệp ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu. Giải pháp
87
này đặc biệt phù hợp với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là chỉ dẫn địa
lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa.
- Hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ
hàng hóa. Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản
truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà
phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh…). Nhiều đặc sản được người tiêu
dùng ưa chuộng đã bị làm giả ở mức độ khác nhau (như nhãn hiệu mắm
Phú Quốc của Việt Nam đã bị đăng ký quyền sở hữu công nghiệp trước
bởi một doanh nghiệp ở Thái Lan). Vì vậy các doanh nghiệp phải nhận
thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản
phẩm.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có
đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả
năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng
minh các điều kiện bảo hộ lại rất tốn kém, trong khi cộng đồng doanh nghiệp
chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy,
họ cần được hổ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần
thiết phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của địa phương.
3.4.7. Phát huy nội lực của kinh tế tư nhân
Bên cạnh những giải pháp từ phía nhà nước, bản thân kinh tế tư nhân cũng
phải tự nỗ lực đổi mới và hoàn thiện mình cho phù hợp với phát triển và hội
nhập. Trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp phải ra sức nâng cao năng lực
cạnh tranh, tức là đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Vì vậy,
các giải pháp từ phía doanh nghiệp cần phải gắn với thị trường, phải không
ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, xây dựng thương
88
hiệu, chiến lược kinh doanh phù hợp… Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh từ phía kinh tế tư nhân là:
Thứ nhất, xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược kinh doanh hợp lý là một trong những
vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp. Điều này đặt ra cho doanh nghiệp
nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược của mình, bao gồm chiến lược sản phẩm,
chiến lược phát triển thị trường, chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tiên cần phải quan tâm đến việc đánh giá năng lực sản phẩm, đó là cơ
sở để đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh của từng
sản phẩm trong điều kiện cạnh tranh quốc tế, khi Việt Nam đã là thành viên của
WTO. Bước tiếp theo là đầu tư nghiên cứu thị trường, bao gồm lượng cầu, thị
hiếu, mẫu mã, quy cách, quy định về tiêu thụ hàng hóa ở các vùng, các nước
khác nhau. Trên cơ sở đó, định hướng lại chiến lược sản phẩm, đồng thời cần kết
hợp giữa tính đặc thù của sản phẩm với tính phổ thông, lựa chọn giữa xu hướng
chuyên biệt hóa và đa dạng hóa sản phẩm trong từng giai đoạn. Kế tiếp là tìm
các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đổi mới công nghệ, nâng
cao chất lượng nguyên liệu.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao trình độ thiết bị, công nghệ. Cơ sở để nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm chính là thiết bị công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn về vốn
nên cần tính toán sử dụng công nghệ nào, thiết bị gì cho phù hợp. Muốn vậy,
doanh nghiệp cần phải nắm bắt những thông tin về công nghệ, tiếp cận thị trường
khoa học – công nghệ, đẩy mạnh liên kết hợp tác về khoa học – công nghệ.
Doanh nghiệp cần chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ
vào sản xuất, có chương trình khuyến khích các hoạt động cải tiến, hợp lý hóa
sản xuất, sáng chế và thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học có liên quan.
89
Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Trong những năm
qua, khu vực tư nhân nhìn chung chưa chú trọng đến nguồn nhân lực, bao gồm
đội ngũ lao động và quản lý doanh nghiệp, mặc dù đây được coi là yếu tồ quyết
định tới thành công của doanh nghiệp. Để nâng cao trình độ nguồn nhân lực,
biện pháp chủ yếu vẫn là tăng cường đào tạo và đào tạo lại dưới nhiều hình thức
khác nhau như theo học các chương trình chính khóa, đào tạo vừa học vừa làm,
huấn luyện trực tiếp tại doanh nghiệp, tổ chức các chương trình giao lưu, học tập
với các chuyên gia hay giữa nhân viên trong doanh nghiệp…
Thứ tư, xây dựng chiến lược về sở hữu công nghiệp trong bối cảnh Việt
Nam đã là thành viên của WTO. Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo
hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ sở hữu công nghiệp
thường phải gắn chặt cới chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có
chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược sở hữu công nghiệp của
doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau. Xác định các đối tượng sở
hữu công nghiệp chủ yếu của doanh nghiệp. Xác định cách thức tạo dựng
(nguồn) của khối tài sản sở hữu công nghiệp. Xác định lành thổ cần bảo hội đối
với từng đối tượng sở hữu công nghiệp và cuối cùng là xác định bộ máy quản lý
quyền sở hữu công nghiệp trong doanh nghiệp.
Thứ năm, nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức doanh nghiệp phù hợp đặc
biệt là theo yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp thuộc
kinh tế tư nhân và ở các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện điểm xuất phát
còn thấp, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đủ khả năng
chống chọi lại với những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế. Vì vậy,
muốn nâng cao khả năng cạnh tranh phải tăng cường các mối liên kết kinh tế. Để
90
liên kết tốt cần phải tập hợp lại trong một tổ chức kinh doanh mạnh, ví dụ như
các tập đoàn kinh tế, hoặc trong một Hiệp hội ngành hàng hay Hiệp hội theo
vùng lãnh thổ để phối hợp hoạt động.
Để mở rộng các mối liên kết kinh tế, các doanh nghiệp khu vực tư nhân
cần phải chủ động tham gia hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế khác. Kinh nghiệm cho thấy
giữa các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể có mối quan
hệ cộng sinh chứ không phải chỉ có cạnh tranh để tiêu diệt nhau. Doanh nghiệp
nhỏ có thể làm thầu phụ cho doanh nghiệp lớn, còn doanh nghiệp lớn có thể giúp
doanh nghiệp nhỏ trong hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ
vốn để mở rộng kinh doanh và đổi mới trang thiết bị, cung cấp thông tin về thị
trường và tiến bộ kỹ thuật, đào tạo nhân sự có trình độ cao. Việc liên kết giữa
các doanh nghiệp sẽ nâng cao sức cạnh trạnh của tất cả các doanh nghiệp và
cũng làm gia tăng cơ hội tồn tại và thành công cho mỗi doanh nghiệp.
Thứ bảy, chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân.
Nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong thời gian qua vẫn chưa ý
thức được tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Sức cạnh
tranh của một doanh nghiệp có thể được nâng cao khi doanh nghiệp đó tạo được
một môi trường văn hóa tích cực, lành mạnh đặc biệt là trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Văn hóa doanh nghiệp luôn gắn với thương hiệu và uy tín doanh nghiệp,
xây dựng văn hóa doanh nghiệp là xây dựng doanh nghiệp như một gia đình thứ
hai của mỗi thành viên, phải có tinh thần đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau
bằng tinh thần cộng tác và tinh thần đồng đội, vì vậy những nhận thức về quan
hệ cá nhân giữa chủ và thợ rất cần được chú ý.
91
KẾT LUẬN
Hơn 20 năm thực hiện đổi mới và phát triển, chúng ta không thể không
công nhận rằng sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân đã mang lại cho nền
kinh tế nước ta những bước phát triển đáng ngạc nhiên. Kinh tế tư nhân giờ đây
không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế mà còn trở thàn một lực
lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu.
Đảng và Nhà nước ta đã thấy được vai trò đó của khu vực kinh tế tư nhân
thể hiện trong đường lối và những chính sách đó là bước đầu đã tạo ra điều kiện,
môi trường cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam tuy có bước phát triển trong những
năm đổi mới nhưng vẫn chưa phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế. Để phát
huy được vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa môi trường thể chế cho sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI. VII, VIII, IX) về phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
3. TS Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Kornai Janos (2002), Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, NXB Văn
hóa thông tin.
5. GS. TS. Lê Hữu Nghĩa – TS. Đinh Văn Ân (2004), Phát triển kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội.
6. TS Nguyễn Hữu Phong (2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
7. TS Hoàng An Quốc (2007), Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một
số nền kinh tế Đông Á và những bài học với Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
8. Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới
– thực trạng và những vấn đề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam –
thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
10. Vũ Quốc Tuấn (2006), Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
93
11. GS. TS. Nguyễn Thanh Tuyền (2006), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
12. Viện thông tin khoa học xã hội (2003), Kinh tế tư nhân trong giai đoạn
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. GS. TS. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
2. WEBSITE
1. Tổng cục Thống Kê: http://www.gso.gov.vn/
2. Tạp chí Cộng sản: http://www.tapchicongsan.org.vn/
3. Thông tin pháp luật dân sự: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/
4. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương: http://www.ciem.org.vn/
5. Diễn đàn doanh nghiệp: http://dddn.com.vn
6. Báo điện tử Vietnamnet: http://vietnamnet.vn
7. Báo điện tử vnexpress: http://vnexpress.net
8. Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam: http://www.bsc.com.vn/
9. Tin Kinh tế: http://www.tinkinhte.com/
10. Báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
http://www.toquoc.gov.vn/
11. Doanh nhân 360: http://www.doanhnhan360.com/
12. Diễn đàn Cao học Kinh tế Việt Nam: http://www.caohockinhte.info/