Tailieu.vncty.com 5142 5647
-
Upload
tran-duc-anh -
Category
Career
-
view
147 -
download
4
description
Transcript of Tailieu.vncty.com 5142 5647
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-----o0o-----
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
THÔNG QUA MARKETING ĐỊA PHƢƠNG
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Khóa
: PGS, TS. Nguyễn Thanh Bình
: Phạm Thị Kim Phƣợng
: Anh 14
: 45
Hà Nội, tháng 05 năm 2010
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUỐC GIA VÀ VAI
TRÒ CỦA MARKETING QUỐC GIA TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ ......................................................................... 5
1.1. Khái quát về marketing quốc gia ...................................................... 5
1.1.1. Định nghĩa Marketing quốc gia ..................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của Marketing quốc gia ................................................. 6
1.1.3. Chủ thể của marketing quốc gia .................................................... 7
1.1.3.1. Các nhà chức trách và quản lý Nhà nước ............................. 8
1.1.3.2. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh......................................... 9
1.1.3.3. Cộng đồng dân cư ................................................................ 11
1.2. Các chiến lƣợc marketing quốc gia và vai trò của marketing quốc
gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa .................................................. 13
1.2.1. Các chiến lược marketing quốc gia ............................................. 13
1.2.1.1. Marketing hình tượng .......................................................... 13
1.2.1.2. Marketing các điểm hấp dẫn ................................................ 19
1.2.1.3. Marketing cơ sở hạ tầng ....................................................... 21
1.2.1.4. Marketing con người ............................................................ 22
1.2.2. Vai trò của marketing quốc gia trong đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa ....................................................................................................... 26
1.3. Hoạch định chiến lƣợc marketing quốc gia .................................... 27
1.3.1. Xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển ....................................... 28
1.3.2. Nhận diện địa phương ................................................................. 28
1.3.3. Thẩm định địa phương ................................................................ 29
1.3.4. Xây dựng chiến lược marketing quốc gia .................................... 32
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING QUỐC GIA
TRONG LĨNH VỰC XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ 2006 ĐẾN 2010 ........................................................................ 33
2.1. Chiến lƣợc marketing quốc gia trong trong giai đoạn 2006- 2010 33
2.1.1. Tầm nhìn, mục tiêu phát triển ..................................................... 33
2.1.2. Nhận diện địa phương ................................................................. 35
2.1.3. Thẩm định địa phương ................................................................ 39
2.1.4. Xây dựng chiến lược marketing quốc gia .................................... 42
2.2. Hoạt động marketing quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam thời gian qua ................................................................... 45
2.2.1. Hoạt động marketing hình tượng ................................................ 45
2.2.2. Hoạt động marketing các điểm hấp dẫn ...................................... 48
2.2.3. Hoạt động marketing cơ sở hạ tầng ............................................. 50
2.2.4. Hoạt động marketing con người .................................................. 50
2.3. Hoạt động marketing quốc gia trong một số ngành xuất khẩu chủ
yếu của nƣớc ta ....................................................................................... 52
2.3.1. Hàng nguyên liệu xuất khẩu ........................................................ 52
2.3.2. Hàng sơ chế xuất khẩu ................................................................ 55
2.3.3. Hàng gia công xuất khẩu............................................................. 59
2.3.4. Hàng chất lượng cao, hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao ....... 62
2.4. Đánh giá chung ................................................................................ 64
CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHIẾN LƢỢC
MARKETING QUỐC GIA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN XUẤT
KHẨU HÀNG HOÁ TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI ......... 67
3.1. Kinh nghiệm một số nƣớc trong việc áp dụng marketing quốc gia
vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa- Bài học cho Việt Nam ................. 67
3.1.1. Nhật Bản ..................................................................................... 67
3.1.2. Thái Lan ..................................................................................... 69
3.1.3. Trung Quốc................................................................................. 72
3.1.4. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................. 75
3.2. Xây dựng và hoàn thiện chiến lƣợc marketing quốc gia trong giai
đoạn 2010 – 2015. ................................................................................... 79
3.2.1. Tầm nhìn, mục tiêu phát triển ..................................................... 79
3.2.1.1. Mục tiêu tổng quát ............................................................... 79
3.2.1.2. Mục tiêu cụ thể .................................................................... 79
3.2.2. Chiến lược marketing quốc gia cho giai đoạn tới ........................ 80
3.2.2.1. Chiến lược xây dựng quốc gia .............................................. 81
3.2.2.2. Chiến lược quảng bá quốc gia .............................................. 86
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
hoạt động marketing quốc gia cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam ......................................................................................................... 90
3.3.1. Mục tiêu ..................................................................................... 86
3.3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả chiến lược
marketing quốc gia cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước ta ...... 91
3.3.2.1. Nhà nước, cộng đồng kinh doanh và người dân cùng hợp tác
với nhau trong việc xây dựng chiến lược marketing địa phương nhằm
tăng cường cơ hội xuất khẩu. ............................................................ 91
3.3.2.2. Kết hợp marketing địa phương thu hút xuất khẩu với thu hút
đầu tư, du lịch và dân cư. .................................................................. 92
3.3.2.3. Nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả trong
việc nghiên cứu, phát triển thị trường và sản phẩm. .......................... 92
3.3.2.4. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng hoạt động
của các hiệp hội ngành hàng ............................................................. 93
KẾT LUẬN ................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Năng lực của quốc gia .................................................................... 31
Biểu đồ 2: Sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2000 – 2009 ...... 56
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam từ 2000 – 2009 ..... 60
Biểu đồ 4: Kim ngạch xuất khẩu dây cáp điện của Việt Nam ....................... 63
Sơ đồ 5: Kết cấu cụm ngành may mặc ở Quảng Đông – Trung Quốc ........... 73
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau gần 25 năm mở cửa thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế
Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể, đặc biệt là kim ngạch xuất
khẩu của nước ta liên tục tăng trong nhiều năm trở lại đây. Năm 2000 tổng
kim ngạch xuất khẩu của nước ta mới chỉ đạt trên 14,3 tỷ USD thì đến năm
2008 con số này đã lên tới 63 tỷ USD, tăng gấp hơn 4 lần. Phillip Kotler đã
từng nói: “ Tương lai phát triển các địa phương không tùy thuộc vào vị trí địa
lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên. Tương lai của địa phương tùy thuộc vào
chuyên môn, kỹ năng đóng góp, phẩm chất của con người và tổ chức tại địa
phương.” Hơn bao giờ hết, việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam cũng như
xây dựng cho Việt Nam một thương hiệu vững mạnh có tác dụng không chỉ
trong việc thu hút và giữ chân nhân tài, thu hút đầu tư trong và ngoài nước mà
hơn nữa còn góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy nền kinh tế nước ta
phát triển bền vững.
Từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp
trong nước phải chịu sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng, bởi không chỉ phải
cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải chịu sự cạnh tranh
mạnh mẽ với các công ty, các tập đoàn lớn của nước ngoài. Việc xây dựng
thương hiệu cho doanh nghiệp trước đây đã khó thì giờ lại càng khó hơn.
Doanh nghiệp có thể mất hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm và có thể
là mãi mãi mù mịt trong bóng tối mà vẫn chưa tạo dựng được thương hiệu
cho mình. Như vậy, để các doanh nghiệp tự mình làm công việc xây dựng
thương hiệu sẽ là rất khó khăn và manh mún. Xây dựng thương hiệu địa
phương sẽ giúp các doanh nghiệp không chỉ tiết kiệm thời gian, công sức và
chi phí mà còn có thể mang lại lợi ích cho nhiều doanh nghiệp trong địa
phương đó cùng một lúc, đem lại hiệu ứng tích cực cho cả một phạm vi rộng
2
lớn. Một điều nữa đó là khi thương hiệu địa phương được hình thành thì vấn
đề các nhà đầu tư, kinh doanh muốn tìm kiếm thông tin về địa phương cũng
trở nên dễ dàng và an tâm hơn. Cũng từ đó mà hoạt động xuất khẩu sản phẩm
của địa phương sẽ phát triển do niềm tin với thương hiệu của địa phương đã
được hình thành vững chắc rồi.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, tác giả đã chọn đề tài : “Đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa thông qua marketing địa phương” làm đề tài nghiên cứu cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu hệ thống lý luận cơ bản
về marketing địa phương. Trên cơ sở đó sẽ phân tích và đánh giá hoạt động
marketing địa phương của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa nói
chung rồi sau đó đi vào một số ngành hàng xuất khẩu chủ yếu của nước ta
thời gian qua. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược
marketing địa phương và nâng cao hiệu quả hoạt động marketing địa phương
trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động marketing địa
phương trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời gian qua.
Đồng thời, luận văn chỉ nghiên cứu sâu một số mặt hàng xuất khẩu của
nước ta mà tác giả cho là tiêu biểu. Qua việc tìm hiểu kinh nghiệm áp dụng
thành công chiến lược marketing địa phương trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa của một số nước châu Á, bài luận văn này cũng đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược marketing địa phương và nâng
cao hiệu quả của nó trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam giai đoạn tới, phù hợp với quan điểm phát triển kinh tế của Việt
Nam.
3
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, đánh giá hoạt động marketing địa
phương; đề xuất giải pháp và định hướng chiến lược marketing địa phương
cho Việt Nam chỉ giới hạn liên quan đến lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa. Địa
phương ở đây được hiểu là quốc gia hay vùng lãnh thổ. Do vậy, trong bài
luận văn này khái niệm “marketing địa phương” được hiểu là “marketing
quốc gia”. Số liệu thống kê về thực trạng xuất khẩu của nước ta trong một
số ngành chủ yếu cập nhật đến hết năm 2009.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên tiền đề những lý luận chung về marketing địa phương và các
kết quả điều tra hoạt động marketing địa phương trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam, tác giả đã sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích thống kê, phương pháp suy
diễn quy nạp, đã kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa tư duy trừu tượng đến
thực thể khách quan để tiếp cận và xử lý vấn đề nhằm đạt được mục đích
nghiên cứu của đề tài nêu trên.
5. Bố cục
Đề tài được thiết kế gồm có Lời nói đầu và Kết luận cùng với 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan về marketing quốc gia và vai trò của marketing quốc
gia trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng hoạt động marketing quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu
hàng hóa ở Việt Nam giai đoạn từ 2006 đến 2010.
Chương 3: Xây dựng và hoàn thiện chiến lược marketing quốc gia đối với
việc phát triển xuất khẩu hàng hóa tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
4
Tác giả xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn PGS, TS. Nguyễn
Thanh Bình vì những đóng góp xác đáng và sự chỉ bảo tận tình của Cô trong
quá trình thực hiện bài khóa luận này. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn
các Thầy Cô giáo trường đại học Ngoại Thương, gia đình và bạn bè đã giúp
đỡ tác giả hoàn thành khóa luận này.
Do đây là một đề tài còn khá mới mẻ ở nước ta hiện nay cùng với hạn
chế về nguồn tài liệu, thời gian cũng như khả năng nhận thức của tác giả nên
khó có thể tránh khỏi những thiếu sót trong bài khóa luận này. Tác giả rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của Thầy Cô và các bạn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
5
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUỐC GIA
VÀ VAI TRÒ CỦA MARKETING QUỐC GIA TRONG
VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. Khái quát về marketing quốc gia
1.1.1. Định nghĩa Marketing quốc gia
Marketing là một khái niệm, một triết lý được hầu hết các quốc gia có
nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức... sử dụng từ những năm 50 của thế
kỷ XX. Họ ứng dụng những nguyên lý cơ bản của marketing không chỉ trong
kinh doanh với phạm vi một doanh nghiệp hay một ngành mà trong cả các
lĩnh vực khác rộng lớn hơn rất nhiều như chính trị, xã hội hay thậm chí trong
cả việc xây dựng hình ảnh, uy tín cho cả một quốc gia. Nhiều quốc gia đã
thành công trong việc phát triển kinh tế và xây dựng hình ảnh quốc gia gắn
liền với thương hiệu quốc gia mình. Một điểm cần lưu ý là một số quốc gia đã
vực được nền kinh tế của mình lên như Nhật Bản, Hàn Quốc ... là những quốc
gia không có lợi thế so sánh về các yếu tố sản xuất cơ bản như tài nguyên
thiên nhiên hay nguồn lao động rẻ. Những thách thức trong cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu đòi hỏi các quốc gia, các địa phương thay đổi cách nhìn
nhận về chính sách phát triển cho mình. Đó là phải xây dựng được một
thương hiệu đẹp cho địa phương mình và marketing thành công hình ảnh ấy
ra thế giới. Trong phạm vi khóa luận này, khái niệm “địa phương” được hiểu
là “quốc gia” nên “marketing địa phương” (Place Marketing) được sử dụng
dưới tên “marketing quốc gia”. Ngày nay có một cách hiểu nhất quán về sự
phù hợp trong cách thức marketing cho quốc gia, tức là cũng đưa các quốc gia
này như việc các hãng đưa sản phẩm và dịch vụ của mình ra thị trường.
Theo Phillip Kotler, “Marketing quốc gia có nghĩa là xây dựng một
quốc gia mà có thể thỏa mãn được các thị trường mục tiêu của quốc gia đó.
Marketing quốc gia chỉ thành công khi cả cư dân và các doanh nghiệp hài
6
lòng với cộng đồng của họ lẫn mong muốn của du khách và các nhà đầu tư
được đáp ứng.”1
Như vậy, marketing quốc gia không nằm ngoài yếu tố bản chất của
marketing là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mục tiêu. Khái niệm còn chỉ
ra bốn mục tiêu chính của marketing quốc gia đó là: thu hút cư dân, doanh
nghiệp, du khách và các nhà đầu tư.
Marketing quốc gia không phải là một khái niệm mới trên thế giới.
Cũng giống như nhiều khái niệm về marketing khác thì khái niệm Marketing
quốc gia cũng có nguồn gốc từ Mỹ. Trước khi có khái niệm “place
marketing” thì khái niệm “place selling” được sử dụng và là cách thức quan
trọng nhất để quảng cáo và xúc tiến địa phương.
1.1.2. Đặc điểm của Marketing quốc gia
Marketing quốc gia tuy là một lĩnh vực đặc thù của marketing nhưng
lại mang những nét riêng biệt so với marketing trong kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trước hết, trong khi marketing doanh nghiệp chỉ đem lại lợi ích cho
một doanh nghiệp thì với marketing quốc gia, người hưởng lợi lại là tất cả các
doanh nghiệp của quốc gia đó. Thương hiệu quốc gia là tài sản chung của cả
dân tộc. Một khi thương hiệu quốc gia được người tiêu dùng tin tưởng và
khẳng định trên thị trường quốc tế thì tất cả các mặt hàng có nguồn gốc từ
nước đó cũng sẽ được tin dùng nhiều hơn. Những nhãn hiệu mới xuất hiện
trên thị trường cũng được lợi từ việc này. Khi khách hàng đã có thiện cảm với
hàng hóa của một quốc gia thì vấn đề thâm nhập thị trường thế giới của các
doanh nghiệp mới cũng dễ dàng hơn rất nhiều, bởi vì ấn tượng thương hiệu và
thói quen của người tiêu dùng rất khó thay đổi. Như vậy, marketing doanh
1 Phillip Kotler (2002), Marketing Asian Place , The Free Press, Newyork, trang 183.
7
nghiệp có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh doanh cho riêng doanh nghiệp.
Còn marketing quốc gia được thực hiện sẽ tạo dựng nên thương hiệu quốc
gia, mang lại lợi ích cho tất cả doanh nghiệp của quốc gia đó khi đưa sản
phẩm mang thương hiệu này ra thị trường quốc tế rộng lớn.
Thứ hai, trong khi những tiêu chuẩn đánh giá của marketing doanh
nghiệp được định lượng bằng đơn vị thị phần hoặc doanh thu thì tính hiệu quả
của marketing quốc gia lại được đo lường bằng các tiêu chí khác như: khả
năng thu hút của quốc gia, sự hấp dẫn của quốc gia đối với các doanh nghiệp,
khả năng tạo công ăn việc làm, lòng tự hào của người dân về quốc gia mình,
dân tộc mình...
Thứ ba, Marketing quốc gia mang tính cộng đồng trong khi Marketing
doanh nghiệp lại mang tính tư nhân. Tính cộng đồng thể hiện cả ở chủ thể
thực hiện lẫn đối tượng được hưởng lợi từ hoạt động marketing quốc gia. Chủ
thể thực hiện hoạt động marketing này bao gồm tất cả các tác nhân tham gia
vào hoạt động marketing quốc gia, từ phía lãnh đạo các cấp cho đến các
doanh nghiệp và người dân. Thêm vào đó, người được hưởng lợi từ hoạt động
marketing quốc gia là tất cả doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sử dụng
thương hiệu quốc gia đó. Thương hiệu quốc gia là tài sản chung của các
doanh nghiệp và dân tộc. Một khi thương hiệu quốc gia được nâng lên, vị thế
của quốc gia đó cũng cao hơn trên trường quốc tế.
1.1.3. Chủ thể của marketing quốc gia
Chủ thể của marketing quốc gia là các tác nhân tham gia vào hoạt động
marketing quốc gia. Theo quan điểm của marketing hiện đại, hoạt động
marketing doanh nghiệp không chỉ do một mình bộ phận marketing thực hiện
mà nó là trách nhiệm của mọi thành viên trong công ty. Marketing quốc gia
cũng mang đặc điểm này của marketing doanh nghiệp. Hoạt động marketing
quốc gia là sự góp tay của nhiều người, từ phía lãnh đạo Nhà nước cho đến
8
các Bộ, Ban, Ngành và cả cư dân của quốc gia đó. Nói một cách cụ thể thì
trong marketing quốc gia, chủ thể thực hiện bao gồm các nhà chức trách và
quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và cộng đồng cư
dân của quốc gia đó.
1.1.3.1. Các nhà chức trách và quản lý Nhà nước
Lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức quản lý liên quan phải là người
đứng đầu, chịu trách nhiệm quy hoạch và phát triển quốc gia. Một quốc gia
được coi là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, có triển vọng và khả
năng phát triển nhanh khi quốc gia đó có môi trường kinh doanh thuận lợi, an
toàn, có môi trường chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào và năng động.
Chính vì vậy, quốc gia muốn phát triển thì cần phải tạo ra được một môi
trường kinh doanh lành mạnh và an toàn. Trách nhiệm này không thể được
thực hiện bởi ai khác ngoài các tổ chức chính quyền Nhà nước, các Bộ,
Ngành liên quan cũng như các tổ chức có thẩm quyền khác. Các tổ chức lãnh
đạo Trung ương yêu cầu các Bộ, Ngành liên quan lập kế hoạch hay các trung
tâm nghiên cứu phát triển kinh tế lập ra kế hoạch chiến lược marketing cho
quốc gia mình trong từng năm, từng giai đoạn cụ thể. Ví dụ như Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch sẽ quyết định các vấn đề về phát triển du lịch như thế
nào, Bộ Công thương quyết định việc phát triển các ngành công nghiệp và
dịch vụ cũng như cơ cấu phát triển của các ngành này, Bộ Thông tin và
Truyền thông sẽ quyết định chiến lược phát triển viễn thông liên lạc, Bộ Giao
thông Vận tải quyết định chiến lược phát triển giao thông ...vv... Những quyết
định này phải được xem xét để đưa ra phù hợp với nhau, đảm bảo vận hành
tốt và ăn khớp với nhau nhằm tạo dựng một môi trường tốt để thu hút phát
triển mọi mặt, đặc biệt là phát triển kinh tế. Đồng thời, các nhà lãnh đạo cũng
cần xem xét để đưa ra quyết định nên đầu tư phát triển vùng nào, địa phương
nào nhiều hơn, về lĩnh vực gì, tránh việc xác định sai dẫn tới lãng phí tiền bạc,
thời gian và nguồn lực của đất nước mình.
9
Với hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước hiệu quả, các nhà lãnh đạo có
tầm nhìn, có đạo đức thì đất nước sẽ nhanh chóng cải thiện được điều kiện
môi trường của mình, giữ chân được các nhà kinh doanh, đầu tư cũ và thu hút
được các nhà kinh doanh, đầu tư mới. Điều này có thể thấy rất rõ trong các ví
dụ điển hình về phát triển kinh doanh và giáo dục của Singapore, phát triển
môi trường chính trị lành mạnh của Phần Lan, môi trường sống an lành của
Thụy Sỹ... Ở Việt Nam, Bình Dương được lựa chọn làm điểm đến của các nhà
đầu tư nước ngoài, xây dựng nên nhiều khu công nghiệp nhằm sản xuất phục
vụ trong nước và xuất khẩu hàng hóa. Bình Dương đã thành công trong việc
tạo dựng cho mình môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước tới.
Thái độ phục vụ của các cơ quan chính quyền cũng có ảnh hưởng lớn
tới hình ảnh của quốc gia đó. Những hiện tượng như cố tình gây khó khăn,
tham nhũng, tác phong làm việc chậm chạp... đã và đang diễn ra ở nhiều bộ
phận chính quyền ở Việt Nam, khiến cho đánh giá của các nhà đầu tư kinh
doanh về môi trường của chúng ta bị giảm sút.
Thêm vào đó, chính quyền cũng nên có các biện pháp giáo dục nhận
thức của người dân quốc gia mình để mọi người cùng tham gia vào chương
trình hành động của đất nước.
Các Đại Sứ quán, Phòng Thương mại Quốc tế, Cục Xúc tiến Thương
mại Việt Nam có trách nhiệm trong việc tổ chức các hoạt động nhằm nâng
cao trước hết là hình ảnh đất nước Việt, con người Việt, sau là hình ảnh của
hàng Việt trong mắt người nước ngoài, từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất và
xuất khẩu hàng hóa của nước mình.
1.1.3.2. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Nếu hoạt động marketing quốc gia chỉ do các tổ chức chính quyền, các
nhà quản lý Nhà nước chịu trách nhiệm thì chắc chắn sẽ không hiệu quả.
10
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là những đơn vị trực tiếp tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, là những người tạo nên thương hiệu, giá trị cốt lõi cho sản
phẩm. Không có sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nền
kinh tế kém phát triển, tỷ lệ thất nghiệp cao, chi phí đắt đỏ... Hình tượng đất
nước vì thế sẽ kém hấp dẫn, đồng thời khiến cho thương hiệu hàng Việt giảm
sút và khó trụ vững trên thị trường thế giới.
Khu vực kinh doanh góp phần làm cho nền kinh tế phát triển, gây dựng
nên hình ảnh một đất nước đang trên đà phát triển năng động. Không những
tạo ra việc làm và nhiều cơ hội mới, khu vực kinh doanh còn giúp chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế, phát triển nhiều ngành công nghiệp liên quan và ngành
nghề mới. Các doanh nghiệp vừa tạo ra lợi nhuận cho chính người chủ, tạo
công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên vừa đóng góp một phần lớn vào
ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc
phục bớt tình trạng “nhàn cư vi bất thiện” trong dân chúng, giảm được một
phần các tệ nạn xã hội có thể nảy sinh do tình trạng thất nghiệp gây nên....
Đó là những đóng góp chung của các doanh nghiệp kinh tế tạo ra cho
xã hội. Trên góc độ marketing quốc gia, ta có thể thấy vai trò của các doanh
nghiệp kinh tế cũng không hề nhỏ. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường mở
cửa mạnh mẽ như hiện nay, các doanh nghiệp đua nhau phát triển không chỉ
trong nước mà còn vươn ra các thị trường nước ngoài, mang hình ảnh Việt
Nam trên các sản phẩm vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vậy thương
hiệu Việt dần được xây dựng và phát triển, góp phần làm tăng điểm hấp dẫn
cho quốc gia mình. Thêm vào đó, các doanh nghiệp còn mang lại ấn tượng
đẹp về đất và người nước Việt. Ví dụ như các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ
đã đưa các sản phẩm mây tre đan xuất khẩu ra nước ngoài, từ đó khi nhắc tới
Việt Nam thì không thể thiếu mặt hàng truyền thống này. Một điểm khác cần
nhắc tới đó là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như khu vui chơi giải trí,
khách sạn, du lịch... cũng góp phần tạo nên môi trường tốt để thu hút các nhà
11
đầu tư, kinh doanh. Một quốc gia mà nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào ít ỏi,
các dịch vụ công cộng cũng như hệ thống cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
phục vụ cho cuộc sống trung bình của xã hội kém phát triển thì khó mà có thể
hấp dẫn được du khách, các nhà đầu tư và cư dân tới sống và làm việc tại đó.
Một thách thức thực sự đối với mỗi quốc gia là làm sao để phối hợp
mục tiêu giữa các cơ quan Nhà nước và khối kinh doanh để họ có thể liên kết
với nhau, đi đến một thỏa thuận chung, thực hiện một mục tiêu chung. Đó là
xây dựng một môi trường hấp dẫn cả về cơ sở hạ tầng, môi trường tự nhiên
trong sạch, không quá tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn mà hướng tới mục
tiêu trong dài hạn cho cả đất nước. Thông thường, ngay tại nhóm cơ quan Nhà
nước, các tổ chức đã thực hiện các nghĩa vụ chồng chéo và mục tiêu mâu
thuẫn nhau. Việc mâu thuẫn trong tầm nhìn phát triển sẽ dẫn tới việc khó có
thể tạo ra mối quan tâm chung giữa các tổ chức công và tổ chức tư nhân. Phối
hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp về mục tiêu, cách thức hành động là một
vấn đề còn gặp nhiều khó khăn đòi hỏi khả năng lãnh đạo tài tình của cơ
quan, người đứng đầu Nhà nước đó.
1.1.3.3. Cộng đồng dân cư
Khó quốc gia nào phát triển được nếu không có sự ủng hộ và tham gia
nhiệt tình của người dân. Ví dụ xây dựng lòng tự hào là yếu tố chính yếu
trong chiến lược marketing quốc gia và có thể áp dụng cho sự tham gia của
toàn dân đằng sau những sự kiện lớn như kỉ niệm 1000 năm Thăng Long,
đăng cai tổ chức Sea Games, những ngày lễ kỉ niệm vào dịp sinh nhật Bác,
ngày giải phóng miền Nam, Cách mạng tháng Tám ... Những sự kiện này sẽ là
chất dầu đánh bóng hình ảnh đất nước trong mắt người dân trên thế giới, thu
hút nhiều người tới thăm quan, du lịch, chúc mừng trong đó có cả những nhà
những chính khách các nước, các nhà đầu tư... Họ đến để tìm kiếm cơ hội hợp
tác kinh doanh và đầu tư. Một dân tộc biết trân trọng quá khứ, đang nỗ lực hết
12
mình trong hiện tại và rất hiếu khách sẽ lấy được lòng của nhiều người tới
sống, làm việc, học tập và phát triển sự nghiệp.
Kế hoạch marketing của các nhà quản lý, lãnh đạo Nhà nước, doanh
nghiệp đưa ra không thể thành công nếu không có sự thông hiểu và cùng hợp
sức tham gia của cộng đồng dân cư của quốc gia đó. Định hướng và kế hoạch
marketing quốc gia phải được phổ biến rộng rãi và phải được người dân chấp
nhận bởi không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của người dân. Đây cũng
là nghệ thuật trong công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước từ
bao đời của dân tộc ta. Họ là những người thể hiện lòng nhiệt tình, thân thiện
đón chào du khách nước ngoài. Họ là những người lao động năng động, thông
minh, khéo léo và cả sự nhiệt tình say mê trong công việc. Tất cả sẽ hình
thành nên một ấn tượng tốt về đất và người của một quốc gia trong lòng du
khách, các nhà đầu tư, kinh doanh khắp nơi trên thế giới. Công dân sẽ là
những người góp phần không nhỏ vào sự thành công của chiến lược
marketing thương hiệu quốc gia mình.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, với tình hình chính trị được đánh giá là ổn
định nhất nhì thế giới, giá cả các sản phẩm nhìn chung ở mức thấp và nhiều
vùng thuận lợi để thu hút đầu tư nhưng Việt Nam chưa thực sự làm hài lòng
các khách hàng của mình. Trong tâm trí của nhiều người nước ngoài, Việt
Nam hiện lên bên cạnh những tà áo dài, với nụ cười thân thiện, với những
vùng đất màu mỡ, những vạt rừng xanh ngắt thì còn có cả những cảnh người
ăn xin, nạn móc túi, tình trạng giao thông lộn xộn ách tắc, chất lượng dịch vụ
chưa tốt, phong cách phục vụ kém thân thiện,... Những yếu tố này tác động
không nhỏ tới hình ảnh của quốc gia và làm giảm sức hấp dẫn của nó.
13
1.2. Các chiến lƣợc marketing quốc gia và vai trò của marketing quốc gia
trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa
1.2.1. Các chiến lược marketing quốc gia
Một quốc gia có nhiều vấn đề cần quan tâm và tùy theo điều kiện mà chọn
lựa cho mình chiến lược marketing quốc gia phù hợp nhất. Có bốn chiến lược
tổng quát để quốc gia có thể thu hút khách tham quan, cư dân và nhân công,
kinh doanh và công nghiệp, và phát triển xuất khẩu. Những chiến lược đó là:
marketing hình tượng
marketing các điểm hấp dẫn
marketing cơ sở hạ tầng
marketing con người
1.2.1.1. Marketing hình tượng
Ngày nay, các nước trên thế giới đang hòa mình vào nhịp phát triển
chung, chuyển từ xu thế đối đầu sang đối thoại và hợp tác phát triển. Nhiều cơ
hội được mở ra nhưng cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt hơn. Chính vì vậy,
các quốc gia phải thu hút các nhà đầu tư tiềm năng bằng cách xây dựng một
hình ảnh mạnh mẽ và phù hợp rồi mang hình ảnh đó ra thế giới. Ở đây, hình
tượng của một quốc gia có nghĩa là “tổng hợp những niềm tin, ý tưởng người
ta có về quốc gia đó”2. Không có hình tượng độc đáo và riêng biệt, một quốc
gia dù có sức hút tiềm tàng thì vẫn có thể bị chìm khuất giữa thị trường thế
giới rộng lớn. Một trong những mục tiêu của marketing hình tượng là phát
triển một khẩu hiệu thông minh đáng tin cậy và có thể chứng minh được đúng
theo khẩu hiệu ấy. Chúng ta có thể thấy phương thức này rất rõ trong trường
hợp của Singapore. Singapore đã dùng khẩu hiệu “Singapore- Một trong
2 Peter D. Bennett (1995), AMA Dictionary of Marketing Terms, McGraw-Hill Companies, trang 28.
14
những con hổ của nền kinh tế châu Á.” Khẩu hiệu này được xây dựng nên và
Singapore đã chứng minh được khẩu hiệu này là hoàn toàn đúng. Mặc dù
Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á, nằm ở phía nam của bán
đảo Malaysia nhưng vị trí trung tâm đã biến Singapore thành trung tâm
thương mại, giao thông, ngân hàng, du lịch và thông tin liên lạc tự nhiên của
khu vực. Thực sự thành công ban đầu của Singapore chủ yếu là nhờ vào địa
thế lý tưởng trên các tuyến đường biển nhộn nhịp nối kết giữa phương Đông
và phương Tây. Singapore đã vận dụng rất thành công chiến lược marketing
hình tượng, từ đó tạo tác dụng tốt cho sự phát triển.
Tuy nhiên, không phải khẩu hiệu nào cũng có tác dụng. Nhiều quốc gia
đã bị bão hòa bởi nhiều khẩu hiệu vô vị và không nổi bật. Mali và Senegal
đều có chung khẩu hiệu là "Một dân tộc, một mục đích, một đức tin". Khẩu
hiệu này gần giống với khẩu hiệu của nước Đức dưới thời Quốc Xã "Một dân
tộc, một quốc gia, một lãnh tụ".3 Chính vì vậy, nó không tạo được sự độc đáo
và mới lạ để thu hút người dân thế giới biết đến. Vì vậy, chiến lược marketing
hình tượng cần phải được lập kế hoạch kĩ lưỡng và phải được lồng ghép trong
chiến lược marketing bao quát hơn. Một hình tượng quốc gia phải có giá trị,
được thông tin theo nhiều cách và thông qua nhiều kênh nếu muốn tồn tại và
thành công.
Một hình tượng của một quốc gia có thể rơi vào một trong năm trạng thái
sau:
Hình tượng quá hấp dẫn
Một vài quốc gia đang phải chịu đựng không ít phiền toái vì một số địa
phương của mình có hình tượng quá hấp dẫn. Một ví dụ đó là thành phố
Phuket của Thái Lan vào mùa cao điểm đều thấy có quá đông người, ồn ào,
3 Tác giả, 11/05/2007, Khẩu hiệu quốc gia của các nước trên thế giới,
http://lichsuvn.info/forum/archive/index.php/t-1172.html.
15
xếp hàng chờ đợi và giá cả nơi đâu cũng đắt đỏ. Điều này không đơn thuần
chỉ mang lại lợi ích cho Thái Lan mà ngược lại còn khiến cho chính quyền và
cơ quan quản lý mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để quản lý các vấn
đề phát sinh.
Trường hợp tương tự cũng làm phương hại đến hình ảnh của Philippines
đó là tình trạng đang diễn ra với hòn đảo Boracay của đất nước này. Nhà báo
Daffyd Roderick mô tả hòn đảo thiên đường như sau: “Hòn đảo từng được
biết đến nhờ bờ biển cát trắng đẹp lộng lẫy và nước biển màu xanh ngọc, giờ
đây bị bao quanh bởi thảm tảo lùi xùi màu rêu xanh mà theo một số người thì
đó là hệ quả của hỗn hợp quá đông du khách và thiếu hệ thống xử lý chất
thải. Dưới chân tôi rêu ấm và dễ chịu, nhưng nó cũng làm tôi cảm thấy e ngại
về tình trạng nước biển mà tôi đang bơi lội trong đó.”4 Điều này không chỉ
ảnh hưởng tới ngành du lịch của đất nước này mà còn tác động xấu tới các
lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Hình tượng tích cực
Đây là hình tượng mà nhiều quốc gia mong muốn xây dựng cho mình.
Hình tượng này phải tạo được ấn tượng tốt trong tâm trí khách hàng mục tiêu
và được khách hàng nhớ đến bất cứ khi nào bắt gặp cái gì liên quan đến quốc
gia đó.
Những quốc gia xây dựng được cho mình hình tượng tích cực đã biết tận
dụng lợi thế đó để phát triển hoạt động kinh doanh. Chúng ta có thể thấy như
giới kinh doanh ô tô thương mại khai thác sự kết nối của họ với Nhật Bản; các
nhà sản xuất chất bán dẫn tập trung vào mối liên kết với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, Đài Loan; hay như các nhà sản xuất đá quý và đồ trang sức gắn kết
với Thái Lan. Mặc dù hiện nay thị trường thế giới trở nên toàn cầu hơn rất
4 Dffyd Roderick(2000), Tourism numbers for 2020 are scary to say the least, Time Asia.
16
nhiều nhưng hoạt động kinh doanh dù có vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới
thì vẫn tập trung và đồng nhất với một hoặc một vài quốc gia đơn lẻ có hình
ảnh tích cực. Từ đó ta có thể thấy được lợi ích to lớn từ hình tượng tích cực
mang lại cho đất nước tạo dựng được nên hình tượng ấy.
Hình tượng mờ nhạt
Rất nhiều quốc gia rơi vào trường hợp này. Họ thiếu chiến lược marketing
với một thông điệp và vai trò lãnh đạo rõ ràng. Một hình ảnh yếu kém có thể
do địa phương có dân số ít, chưa đi đúng đường hướng phù hợp với xu thế
chung của quốc tế, nằm ở vùng phụ cận thiếu tài nguyên, thiên nhiên không
ưu đãi, khí hậu khắc nghiệt, … Rơi vào trường hợp này hầu như là các nước
kém phát triển trên thế giới. Những đất nước này phải đặc biệt khéo léo trong
việc thay đổi hình ảnh của họ. Họ có thể có các điểm thu hút nhưng không thể
biến chúng thành những lợi thế cạnh tranh. Không có hình ảnh hiệu quả, các
địa phương này sẽ vẫn là vô danh.
Hình tượng trái ngược
Nhiều quốc gia có những hình tượng trái ngược do người ta có những cách
nhìn trái ngược về một số đặc điểm của quốc gia đó. Ví dụ như Nhật Bản
được nhìn nhận là một đất nước hiện đại, phát triển cao nhưng cũng có ý kiến
cho rằng đây là một đất nước gì cũng đắt đỏ, đặc biệt là "thủ đô Tokyo đứng
thứ hai trong danh sách các thành phố đắt đỏ nhất thế giới theo kết quả
nghiên cứu của công ty tư vấn về nguồn lực con người Mercer công bố hôm
24/7/2008." 5 Hay như đất nước Brazil nổi tiếng với những bãi biển đẹp, là đất
nước có nền kinh tế thị trường tự do theo hướng xuất khẩu. Hiện nay, Brazil
là nước có nền kinh tế hàng đầu ở Mĩ Latinh, quy mô thu nhập tổng sản phẩm
5 Hải Ninh, 25/7/2008, 10 thành phố đắt đỏ nhất thế giới, http://vnexpress.net/GL/The-
gioi/2008/07/3BA04CC7/.
17
quốc nội GDP hơn 1,6 ngàn tỷ USD/ năm (2008), đứng thứ 10 trên thế giới.6
"Bên cạnh đó, Brazil còn hiện lên với hình ảnh là đất nước có tình trạng tắc
đường kinh khủng nhất thế giới. Thành phố San Paulo của Brazil liên tục
phải chịu đựng cảnh tắc đường bất kể sáng, trưa hay tối. Vào giờ cao điểm,
hàng xe ùn tắc có thể kéo dài tới gần 200km."7 Chính điều này đã làm cho
hình ảnh của San Paulo nói riêng và Brazil nói chung đã bị giảm đáng kể.
Nhiều quốc gia đang phát triển cũng mang những hình tượng trái ngược.
Những đất nước này dù có tốt đến đâu thì người ta vẫn tin rằng thiếu đi đạo
đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm và tinh thần kinh doanh. Một ví dụ rất rõ
đó là Việt Nam cũng nằm trong trường hợp hình tượng trái ngược này.
Thách thức mang tính chiến lược đối với những người làm marketing quốc
gia là phải nêu bật hình tượng tích cực đồng thời cố gắng thay đổi những thực
tế về hình tượng tiêu cực. Vấn đề này hết sức khó khăn bởi ấn tượng ban đầu
thường kéo dài và khó thay đổi.
Hình tượng tiêu cực
Nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ đang phải đối mặt với thách thức lớn là bị
gắn liền với một hình ảnh tiêu cực. Một ví dụ tiêu biểu có thể kể đến là
Macao. Nằm ở ngoài khơi bờ biển phía đông nam Trung Quốc, Macao từng là
thuộc địa của Bồ Đào Nha. Qua các năm, tầm quan trọng lịch sử của quần đảo
dần phai mờ. Một thời được xem là “một trong những trung tâm thương mại
quan trọng nhất của phương Đông”, là nơi rất hữu ích cho việc truyền bá thiên
chúa giáo, giờ đây hòn đảo này nổi tiếng về Hội Tam hoàng và găng-xtơ. Hằn
6 Phạm Bá Uông, Tham tán, Trần sự, Tuỳ viên tại Thương Vụ Việt Nam tại CHLB.Braxin, 9/2008, Tìm
hiểu thị trường Brazil, http://www.tinkinhte.com.
7 Nguyên Hạ, 23/04/2008, Những điều kỳ lạ ở nơi tắc đường kinh khủng nhất thế giới,
http://dantri.com.vn/c36/s36-229348/nhung-dieu-ky-la-o-noi-tac-duong-kinh-khung-nhat-the-gioi.htm.
18
sâu trong kí ức của công chúng là bộ phim “Macao” của đạo diễn Josef Von
Stenberg năm 1952, miêu tả một nền văn hóa cờ bạc thối nát, đầy tội lỗi. Thời
báo kinh tế châu Á mô tả Macao là “một vết nhơ của cờ bạc và mại dâm”. Từ
năm 1996, những cuộc thanh toán đẫm máu giữa các Hội Tam hoàng, hoặc
băng nhóm xã hội đen đã biến Macao thành bản sao của Chicago những năm
1920, có những cảnh thanh toán bằng súng máy bên ngoài các sòng bài và
những đầu sỏ băng đảng với các biệt hiệu như “Báo mập” và “Răng gãy”.
Những bài chỉ trích trên báo chí có thể làm hư hại hình ảnh của nơi đó. Mặc
dù Singapore là một đất nước năng động nhưng cũng chính nước này được
gọi là “thành phố buồn chán nhất” và được nhắc đến là “một quốc gia vú em”
bởi những biện pháp kiểm dịch khắt khe của Chính phủ.8
Những quốc gia mang hình tượng tiêu cực cần thời gian để tiến hành một
chiến lược mới tạo nên một diện mạo tốt đẹp hơn. Ví dụ như Chính phủ
Singapore đã cấp ngân sách để phát triển văn hóa và nghệ thuật của đất nước
và từ đó cung cấp nhiều hoạt động giải trí hơn. Singapore cũng đang dần trở
thành một điểm đến của các nghệ sỹ biểu diễn và khách vui chơi giải trí trên
thế giới.
Tuy vậy, không dễ để xây dựng hay thay đổi một hình tượng. Quảng bá
hình tượng không phải là sự điều chỉnh một sớm một chiều. Phải tốn nhiều
năm để tạo ra hay chuyển đổi hình tượng một cách hiệu quả. Nhiều quy định
Nhà nước chỉ diễn ra trong vòng ba hoặc bốn năm khiến cho sự thay đổi quan
trọng của hình tượng trở nên khó khăn. Marketing hình tượng đòi hỏi nghiên
cứu về việc dân cư, du khách, nhà đầu tư trong và ngoài nước đang cảm nhận
như thế nào về nơi đó. Việc các cá nhân và tập thể cùng chọn một hình tượng
8 Phillip Kotler (2002), Chương 3: Các địa phương tiếp thị mình như thế nào, Chương trình giảng dạy
Fulbright 2004 về Marketing Asian Places, trang 22.
19
mới đã là không dễ dàng, chưa nói đến việc đầu tư cần thiết để làm cho hình
tượng mới đó trở nên có giá trị lại càng khó khăn hơn nhiều. Vì vậy, quốc gia
nên có chiến lược xây dựng cho mình một hình tượng riêng và có giá trị bền
vững với tầm nhìn dài hạn để hình tượng đó là mãi mãi.
1.2.1.2. Marketing các điểm hấp dẫn
Cải thiện một hình tượng không đủ để làm tăng tính hấp dẫn cơ bản của
đất nước. Các quốc gia còn cần phải đầu tư vào những khía cạnh thu hút cụ
thể. Nhiều quốc gia được thiên nhiên ưu đãi, hấp dẫn đầu tư và du lịch. Ví dụ
như Indonesia có hòn đảo Bali tuyệt đẹp thu hút đầu tư và phát triển du lịch.
Bali được mệnh danh là “hòn đảo của thượng đế” hay “bình minh của thế
giới”. Những bãi biển tuyệt đẹp, con người thân thiện và có lịch sử lâu đời đã
biến nơi này thành một điểm du lịch nổi tiếng thế giới. Việt Nam cũng có
nhiều vùng có điều kiện thuận lợi để trở thành điểm hấp dẫn. Ví như vùng
đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước,
từ đó thu hút các nhà xuất khẩu lúa gạo tới đầu tư và kinh doanh. Đồng bằng
sông Cửu Long đã trở thành một điểm hấp dẫn về lúa gạo của nước ta. Hay
như vùng Tây Nguyên của Việt Nam lại là điểm hấp dẫn thu hút đầu tư, phát
triển sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm từ cà phê. Những điểm hấp dẫn
này cần phải được quan tâm và marketing nhiều hơn để có thể phát huy được
thế mạnh của mình. "Marketing" theo Phillip Kotler được định nghĩa là "một
quá trình xã hội và quản lý mà nhờ nó các nhóm và các cá nhân thu được cái
mà họ cần và muốn thông qua việc tạo ra và trao đổi các giá trị và sản phẩm
với người khác."9
Nhiều nước khác cũng được thừa hưởng di sản lớn từ những tòa nhà
truyền thống lịch sử. Ví dụ như Ấn Độ ngoài hồ Bất Tử, đền Vàng, còn có đài
tưởng niệm tình yêu là ngôi đền Taj Mahal. Campuchia nổi tiếng với đền
9 Phillip Kotler and Gary Armstrong (1993), Principles of Marketing, Free Press, Newyork, trang 5.
20
Ăng-co-vát, phế tích lớn nhất ở Đông Nam Á, nơi có các tòa tháp được xây
dựng suốt triều đại Khmer vào thế kỉ 12.
Những nơi may mắn khác là nơi có công trình kiến trúc nổi tiếng thế
giới gồm Kuala Lumpur, có tòa tháp Petronas là tòa nhà lớn nhất thế giới, cao
1,483 bộ (452m). Nagashima có tàu lượn cao tốc lớn nhất (97m), trong khi Tử
Cấm Thành ở Bắc Kinh là cung điện lớn nhất châu Á, chiếm 178 mẫu hay
71,2 ha. Chúng ta gọi các thắng cảnh này là “thắng cảnh đạt kỉ lục Guiness”
và để xứng đáng cho sự phong tặng này thì chúng phải là lớn nhất, cao nhất,
dài nhất hay thuộc hàng số một so với những thứ cùng loại xét theo một số
tiêu chí nào đó.
Một chiến lược marketing phổ biến để nâng cao sự hấp dẫn của một
quốc gia là xây dựng các trung tâm hội nghị và triển lãm ở những thành phố
trung tâm. Hàn Quốc đã áp dụng khá thành công chiến lược này. Trung tâm
triển lãm và hội nghị Pusan được xây dựng tại một trong những thành phố
cảng hiện đại nhất Hàn Quốc và trở thành một trung tâm hội nghị đa năng
thuộc đẳng cấp thế giới. "Trung tâm này gồm có ba hội trường triển lãm chứa
1.738 gian hàng, một hội trường lớn 2.800 chỗ ngồi, một phòng trưng bày
quanh năm, một khu nhà hàng, một khu mua sắm và một bãi giữ xe cùng các
tiện ích khác. Một điểm cần nhấn mạnh hơn nữa là trung tâm này nằm trên
bờ biển Haeundae, một trong những địa điểm nghỉ mát hàng đầu của nước
này. Hội trường dành cho triển lãm và hội nghị được kỳ vọng là sẽ đón tiếp
khoảng 200.000 khách hàng năm và hứa hẹn những hợp đồng xuất khẩu trị
giá khoảng 1,2 tỷ đô la Mỹ." 10
Phát triển những điểm hấp dẫn không những
tạo nên những tên tuổi cho đất nước đó mà còn góp phần đẩy mạnh phát triển
những vùng xung quanh và những ngành khác nữa.
10 Phillip Kotler (2002), Marketing Asian Places, Free Press, Newyork, trang 23.
21
1.2.1.3. Marketing cơ sở hạ tầng
Hình ảnh cũng như sự hấp dẫn không thể đưa ra câu trả lời hoàn chỉnh
cho sự phát triển của một quốc gia. Cơ sở hạ tầng hiệu quả mới là yêu cầu cơ
bản cho sự phát triển bền vững. Trong marketing quốc gia, cơ sở hạ tầng đóng
một vai trò chính yếu và xuyên suốt hoạt động đầu tư. Ngày nay, vai trò đó
ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết. Đầu tư cơ sở hạ tầng không chỉ cần
thiết để thu hút đầu tư mà còn giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp. Những
đầu tư như vậy có được sự hỗ trợ lớn từ Chính phủ, từ các tổ chức đầu tư đa
phương như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, hay Quỹ tiền
tệ thế giới IMF. Hệ thống cơ sở hạ tầng được chú trọng phát triển và cải thiện
nhiều hơn cả có thể kể đến như: mạng lưới giao thông đường bộ, đường cao
tốc, đường sắt, sân bay và thông tin liên lạc.
Công viên khoa học đã xuất hiện rất nhiều nơi ở châu Á là một ví dụ về
hoạt động quảng bá mạnh mẽ cơ sở hạ tầng. Một vài công viên này tập trung
vào những ưu thế nhất định như là công viên khoa học Hồng Kông, công viên
khoa học Võ Lăng Nguyên (Wuling Yuan) ở Trung Quốc, công viên khoa học
quốc gia Kanha ở Ấn Độ, công viên khoa học Cibodas, Halimun và Yabshi ở
Indonesia. Một số ví dụ khác nữa như công viên khoa học của Singapore, khu
công nghiệp trên nền tảng khoa học Hsinchu của Đài Loan- đôi khi được gọi
là “công viên khoa học thành công nhất châu Á”, thành phố khoa học
Taedock của Hàn Quốc, công viên khoa học Karala của Ấn Độ và công viên
công nghiệp khoa học quốc gia Trung Quốc. Nhiều công viên khoa học như
trên đã phát triển nhanh chóng với nhiều cửa hàng bán lẻ, khu vực dân cư
đông đúc, cơ sở vật chất vui chơi giải trí đa dạng …
Các hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng đáng giá khác gồm cảng, sản xuất
và phân phối hệ thống điện, hệ thống cung cấp nước, đất đai, nhà ở và văn
phòng. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ thu hút được các nhà đầu tư đến. Những
22
khu vực có cơ sở hạ tầng tốt sẽ có nhiều thuận lợi để trở thành một điểm hấp
dẫn thu hút không chỉ du lịch, dân cư mà còn cả đầu tư trong và ngoài nước.
1.2.1.4. Marketing con người
Một chiến lược marketing quốc gia nữa đó là marketing con người.
Niccolo Machiaveli kết luận rằng sự thành bại của một nền cộng hòa độc lập
tùy thuộc vào tính cách của người dân, những phẩm chất công dân mà họ
đang có được. Một ví dụ tiêu biểu về thị trường quốc gia là Irland, nơi có
thông điệp khẳng định: “Con người đối với Irland như rượu sâm banh đối với
Pháp”. Hay như Nhật Bản, nhắc đến người Nhật người ta nghĩ ngay tới tính
cách cần cù, chăm chỉ, cẩn thận và thái độ nghiêm túc trong công việc. Chính
những đặc tính đó đã khiến cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đánh giá rất
cao về lao động Nhật. Chiến lược marketing con người của Nhật Bản đã đạt
được thành công và tạo ấn tượng tốt qua nhiều thế hệ. Với Philippines, chúng
ta biết đến khả năng cung cấp nguồn lực tri thức. Các nhà quản lý công nghệ
của các công ty đa quốc gia cũng thừa nhận Philippines là một nguồn dồi dào
vốn tri thức khan hiếm có đẳng cấp thế giới. Với 800.000 việc làm công nghệ
thông tin bị bỏ trống hàng năm chỉ tính riêng ở Mỹ, năm 2006 Ấn Độ thiếu 2
triệu chuyên viên công nghệ thông tin thì Philippines trở thành nguồn nhân
lực chiến lược cho nhiều công ty công nghệ thông tin hàng đầu thế giới.11
Marketing con người có thể có năm dạng cơ bản sau:
* Marketing tập trung vào những nhân vật nổi tiếng
Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng ở các địa phương tham gia vào các
chiến lược marketing địa phương của mình. Những tên tuổi nổi tiếng kết hợp
với tên tuổi của quốc gia, địa phương trở thành phương tiện hiệu quả và
nhanh chóng để tạo nên sự liên tưởng có lợi. Mông Cổ cho mình là “vùng đất
11 Phillip Kotler (2002), Marketing Asian Places, Free Press, Newyork, trang 26.
23
của Thành Cát Tư Hãn”. Ấn Độ luôn nhắc du khách rằng vùng Gujarat Bắc
nước mình là nơi sinh ra Mahatma Gandhi. Việt Nam luôn tự hào là nơi sinh
ra của danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của một dân
tộc tuy nhỏ bé nhưng đã đánh thắng đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Những tên
tuổi nổi tiếng này đã đi cùng và sẽ gắn bó mãi với vùng đất sinh ra họ.
* Marketing tập trung vào những nhà lãnh đạo tận tâm
Hình ảnh một đất nước được in đậm với những tên tuổi của doanh nhân
tài ba hay những nhà chính trị kiệt xuất sẽ nhanh chóng tạo được ấn tượng
cho riêng mình. Trong tình hình kinh tế thế giới khó khăn, thất nghiệp cao và
nguồn vốn FDI giảm, những nhà lãnh đạo tận tâm có tầm nhìn và dám đi tiên
phong là rất đáng biểu dương. Ở châu Á, chúng ta ít thấy có khác biệt trong
cách thức các quốc gia quảng bá những nhân vật lãnh đạo địa phương tuy
nhiên chiến lược này đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Ngài thị
trưởng Ishihara Shintaro của Tokyo đã được tạp chí Asiaweek đặt tên là “nhà
quản lý địa phương giỏi nhất” năm 2000. Shihara xuất hiện trên trang đầu các
tờ báo bằng sáng kiến cắt giảm chi phí, áp dụng cho cả những tổ chức tài
chính lớn ở Tokyo- vốn đang khôi phục sau khủng hoảng tài chính châu Á- để
có được thêm 1 tỷ đô la Mỹ tiền thuế hàng năm. Đề xuất của Shihara bao gồm
cả giảm tiền lương và thưởng của ông trong nỗ lực sắp xếp lại ngân quỹ của
thành phố. Nhưng Shihara được biết đến nhiều nhất bởi những quan điểm
thẳng thắn của ông đối với Chính phủ Trung ương. Matsui Kiyondo, Tổng
biên tập của tờ tạp chí hàng tháng Bungei Shunju, đã phát biểu: “Ông ta là
một trong số ít những nhà lãnh đạo ở Nhật có thể bày tỏ suy nghĩ của mình rõ
ràng và cởi mở trước công chúng và hành động nhanh chóng theo những gì
mà ông ta tin tưởng”. Khi công chúng Nhật Bản đã không còn hi vọng gì vào
việc có một chính phủ tốt đẹp thì Ishihara đang chứng tỏ điều đó là có thể.12
12 Murakami Mutsuko(2000), The best local admintractor, Asiaweek.
24
Tuy nhiên không có nhân vật nào là không gây tranh cãi. Có nhiều
người ủng hộ cho những người lãnh đạo như trên nhưng cũng có người chỉ
trích, không tán thành cách làm của họ. Dù vậy, những nhân vật này cũng làm
được hai việc cho đất nước mình. Thứ nhất, họ đã mang lại những thành tựu
tốt đẹp cho đất nước như: vực dậy nền kinh tế, làm trong sạch bộ máy Nhà
nước từ đó gây ảnh hưởng tích cực tới cộng đồng dân tộc. Thứ hai, những
việc tốt trên sẽ lôi kéo được sự chú ý của khu vực và quốc tế đối với quốc gia
họ. Chính vì thế mà đất nước họ sẽ được biết đến nhiều hơn, hình tượng đất
nước cũng trở nên đẹp hơn trong con mắt của bạn bè quốc tế.
* Marketing tập trung vào nhân tài
Nhân tài là một yếu tố thu hút mạnh mẽ cho quốc gia đó. Có thể kể đến
Philippines như một ví dụ điển hình. Philippines là một trong những quốc gia
rất quan tâm tới vấn đề giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực. Tỷ lệ người biết
đọc biết viết của nước này thuộc vào hàng cao nhất Đông Nam Á và thế giới.
Thành phố Olongapo và Angeles là hai trung tâm đào tạo kĩ thuật của nước
này được xây dựng nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Nổi bật nhất là khu
công nghiệp Vịnh Subic thành phố Olongapo. Nơi đây với địa thế, cơ sở hạ
tầng, giao thông và môi trường sống tuyệt vời cùng với những công nhân tận
tụy, tay nghề cao đã tiếp tục thu hút được nhiều nguồn đầu tư nước ngoài.
*Marketing tập trung vào người có truyền thống về tinh thần kinh doanh
Truyền thống về tinh thần kinh doanh khá đa dạng ở châu Á. Ví dụ
Osaka được biết đến như trung tâm kinh doanh của Nhật. Mạng lưới các công
ty quy mô vừa và nhỏ dày đặc đã ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh ở đó.
Osaka tích cực sử dụng đặc trưng tinh thần kinh doanh trong marketing cho
địa phương mình. Nhật Bản còn có vùng Kansai, hay như Hồng Kông và Đài
Loan được mệnh danh là siêu thị kinh doanh của châu Á, nổi tiếng thế giới
với bề dày kinh doanh. Stan Shih, người sáng lập ra Acer và là dân Đài Loan
25
chính gốc, trở thành người phát ngôn cho những doanh nhân có tinh thần kinh
doanh toàn cầu của Đài Loan. Tương tự, Richard Li được biết đến như là
“siêu nhân” của Hồng Kông. Ông là người sáng lập ra Pacific Century
Cyberworks và có khả năng thực hiện những hợp đồng có kĩ thuật cao.13
Những địa phương nổi tiếng về bề dày kinh doanh có thể được hỗ trợ
theo nhiều cách như: tài trợ các chương trình đào tạo đặc biệt cho doanh nhân,
khuyến khích các mạng lưới sáng tạo kinh doanh mới và một phương pháp
marketing chủ động về khả năng kinh doanh của địa phương. Những cách
thức marketing như vậy sẽ làm tăng bản sắc của địa phương và đồng thời thu
hút các doanh nhân vào công ty họ. Quốc gia vì thế mà có thể thu hút được
các nhà đầu tư dễ dàng hơn rất nhiều.
* Marketing tập trung vào người đã chuyển đến địa phương
Chiến lược marketing quốc gia thông qua người chuyển đến địa
phương sẽ phát huy rất tốt tác dụng trong nhiều trường hợp. Một minh chứng
cho việc này đó là có rất nhiều người theo chân một tấm gương thành công tới
nơi người này gây dựng sự nghiệp, nơi người này đang sống và làm việc.
Hiện tượng này được gọi là “nối gót theo đuôi”. Chúng ta có thể nhận thấy ba
hướng khác nhau. Thứ nhất, cả gia đình chuyển đến một nơi mới. Những
thành viên trong gia đình sẽ nói lại kinh nghiệm về nơi mới, thông điệp về
chất lượng sống và việc làm. Hướng nhứ hai tập trung vào những chuyên gia,
nhà khoa học, hay là các doanh nhân, những người đã chọn đến một nơi nào
đó. Những người này thường nói cho những người đi sau về môi trường kinh
doanh, cơ hội đầu tư. Thứ ba, những số liệu thống kê của các cuộc trưng cầu ý
kiến từ những người đã và đang sống ở địa phương có thể cho thấy họ nghĩ gì
về môi trường sống và điều kiện làm việc ở một địa phương. Từ đó mà địa
13 Phillip Kotler (2002), Marketing Asian Places, Free Press, Newyork,trang 31.
26
phương biết được những ưu điểm cần duy trì và những tồn tại cần khắc phục,
giúp địa phương có chiến lược marketing đúng đắn.
Trên đây, tác giả đưa ra năm cách dùng con người để marketing cho
hình ảnh quốc gia mình. Tuy nhiên, cả năm cách này đều dựa trên những con
người cụ thể. Trên tất cả, để chiến lược marketing con người thành công thì
quốc gia phải khuyến khích người dân thân thiện hơn, cư xử văn minh hơn, có
trình độ và kỹ năng làm việc chuyên nghiệp hơn bởi rằng những người dân sẽ
là những người trực tiếp làm marketing tốt nhất nếu được tận dụng đúng cách.
1.2.2. Vai trò của marketing quốc gia trong đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
Theo Phillip Kotler, khách hàng mục tiêu của marketing quốc gia là cư
dân và nhân công, khách du lịch, các doanh nghiệp và thị trường xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu là một trong bốn thị trường mục tiêu quan trọng của
marketing quốc gia. Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới ngày càng mở thì vấn
đề xuất khẩu càng được quan tâm nhiều hơn. Một loạt các câu hỏi như: làm
thế nào để nâng cao khả năng xuất khẩu các sản phẩm mang nguồn gốc xuất
xứ từ nước mình ra thị trường các nước trên thế giới, giải pháp nào để nâng
cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm đó và làm thế nào để thương hiệu
địa phương, thương hiệu quốc gia mình được khẳng định, luôn là những vấn
đề trăn trở của các nhà hoạch định chiến lược quốc gia. Vì thế, vai trò của
marketing quốc gia trong việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng được nâng cao hơn.
Trước hết, marketing quốc gia tốt tạo nên thương hiệu quốc gia vững
mạnh và có giá trị. Sản phẩm có nguồn gốc đáng tin cậy sẽ dễ dàng xuất khẩu
hơn. Sản phẩm mang thương hiệu có uy tín sẽ xuất khẩu được giá cao hơn.
Điều này làm cho sản phẩm xuất khẩu tăng cả về số lượng và giá trị. Doanh
thu xuất khẩu vì thế cũng gia tăng.
Thứ hai, thương hiệu quốc gia khi được tạo dựng bền vững là tiêu chí
chọn lựa khi mua hàng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng tiết kiệm được
27
thời gian, công sức trong việc tìm kiếm sản phẩm mình cần. Một khi người
tiêu dùng cảm thấy sản phẩm tốt, họ sẽ có xu hướng sử dụng tiếp lần sau bởi
họ đã thỏa mãn với sản phẩm hiện tại cũng như có tâm lý ngại thử sản phẩm
mới. Việc này khắc sâu hơn hình ảnh sản phẩm trong suy nghĩ người tiêu
dùng, hình ảnh sản phẩm hàng xuất khẩu của quốc gia cũng được củng cố và
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
Một điểm nữa cần nhắc tới đó là, trong dài hạn, những thương hiệu
hàng đầu sẽ chi ít hơn cho quảng cáo và thu được lợi nhuận cao hơn. Nguồn
vốn dành cho quảng cáo được dùng để đầu tư vào sản phẩm mới, xây dựng hệ
thống sản xuất, đào tạo nhân lực. Các doanh nghiệp từ đó gia tăng được số
lượng và giá trị hàng xuất khẩu. Giỏ hàng xuất khẩu cũng đa dạng hơn.
1.3. Hoạch định chiến lƣợc marketing quốc gia
Một kế hoạch marketing phải bao trùm được toàn bộ mục tiêu của hoạt
động marketing, đưa ra chiến lược và chương trình hành động để đạt được
những mục tiêu đó. Hay nói cách khác, nó phải toát lên được rõ các vấn đề: ai
thực hiện kế hoạch, làm cái gì, làm khi nào, ở đâu và làm như thế nào để đạt
được mục tiêu cuối cùng.14
Hoạch định chiến lược marketing quốc gia là quá trình đánh giá môi
trường và những tiềm năng của quốc gia, sau đó xác định những mục tiêu dài
hạn và ngắn hạn và thực hiện kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu này.
Trong bài luận văn này, tác giả chỉ nêu quá trình hoạch định chiến lược
marketing quốc gia cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa.
Quá trình hoạch định chiến lược marketing quốc gia gồm 4 bước sau:
14John Westwood(2005), The marketing plan workbook, Kogan Page, London.
28
1.3.1. Xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển
Đây là bước đầu tiên trong quá trình hoạch định chiến lược marketing,
tức là chúng ta xem xét sự thay đổi của môi trường vĩ mô trong một giai đoạn
nhất định, nắm bắt mục tiêu cần đạt được của giai đoạn đó. Những vấn đề ảnh
hưởng tới xuất khẩu chúng ta cần xem xét như: thay đổi về môi trường chính
trị, chính sách kinh tế quốc gia; thay đổi thị hiếu tiêu dùng của thị trường
trong và ngoài nước, thay đổi trong cơ cấu dân cư, cơ cấu tiêu dùng; sự xuất
hiện của sản phẩm mới, sản phẩm thay thế; hay như xem xét về thay đổi do
biến động của môi trường. Chúng ta cũng cần phải biết rõ được mục tiêu xuất
khẩu trong giai đoạn đó như thế nào. Khi đã xác định được đúng tầm nhìn và
mục tiêu phát triển xuất khẩu, phát triển đất nước, chúng ta sẽ có định hướng
đúng để hình thành nên chiến lược marketing trong cả ngắn hạn và dài hạn
cho đất nước mình. Đây là bước khởi đầu nhưng lại vô cùng quan trọng bởi
nếu xác định sai, chiến lược marketing sẽ thất bại.
1.3.2. Nhận diện địa phương
Bước thứ hai trong quá trình hoạch định chiến lược marketing quốc gia
đó là nhận diện địa phương. Chúng ta không thể lập được một kế hoạch
marketing tốt, không thể tiếp thị được cho hình ảnh quốc gia nếu chúng ta
hoàn toàn không biết quốc gia mình như thế nào. Nhận diện địa phương là
xem xét hiện trạng, điểm mạnh và điểm yếu của quốc gia trên các phương
diện như: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội, lịch sử văn hóa, các đặc
trưng của quốc gia và tình hình hoạt động kinh tế của đất nước. Tìm hiểu
những vấn đề này, chúng ta sẽ biết đất nước mình đang đứng ở đâu, có lợi thế
nào để phát triển, điểm mạnh nào cần phát huy cũng như điểm yếu nào cần
khắc phục. Nhận diện địa phương cũng như là việc “biết mình, biết ta”. Điều
này sẽ giúp chúng ta đi đúng hướng và đề ra được chiến lược marketing phù
hợp cho quốc gia từng thời kỳ.
29
1.3.3. Thẩm định địa phương
Sau khi nhận diện địa phương, chúng ta biết được điểm mạnh và điểm yếu
của quốc gia thì “thẩm định địa phương” là bước đánh giá điểm mạnh, điểm
yếu đó và phân tích các yếu tố cấu thành nên năng lực của quốc gia. Định kỳ,
chúng ta phải đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của mình, từ đó mới
nhận diện được cơ hội và hành động để biến cho cơ hội đó thành kết quả
trong phát triển kinh tế của đất nước. Thêm vào đó, chúng ta phải phân tích
được các yếu tố cấu thành nên năng lực của quốc gia để có thể tác động đúng
chỗ, đúng đối tượng, giúp đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh các mặt hàng
xuất khẩu. Có 5 yếu tố cấu thành nên năng lực quốc gia gồm:
Nền văn hóa, các quan điểm, các giá trị của quốc gia.
Văn hóa khác nhau, quan điểm và giá trị dân tộc khác nhau sẽ dẫn tới
thành quả kinh tế khác nhau. Ví dụ như, vào giai đoạn những năm 70 hay 80
của thế kỷ XX, Việt Nam thực hiện đóng cửa nền kinh tế dẫn tới kinh tế nước
ta trì trệ, ì ạch không lối thoát. Giao thương buôn bán với nước ngoài hầu như
không có, dẫn tới xuất khẩu của nước ta không có cơ hội để phát triển. Trong
khi đó, Trung Quốc, dù cũng tuyên bố theo con đường chủ nghĩa xã hội như
Việt Nam, nhưng do thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế nên đã có
những bước phát triển nhanh chóng, xuất khẩu đạt được những thành tựu vượt
bậc. Nền kinh tế chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại - đó là quyết định
đúng đắn của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Như vậy, đối với chính quyền,
cộng đồng dân cư và doanh nghiệp, việc thay đổi quan điểm cũng như các giá
trị cần phải đòi hỏi sự nhất trí cao và lâu dài thì nền kinh tế nói chung, xuất
khẩu nói riêng mới có thể phát triển ổn định được.
Sự cố kết xã hội của quốc gia
Tìm hiểu sự cố kết xã hội là tìm hiểu về các tầng lớp xã hội, về sự khác
biệt văn hóa, tôn giáo và sự gắn kết giữa những nhóm người đó trong quốc
30
gia. Nhận biết được điều này và tìm cách đoàn kết họ lại sẽ làm cho chiến
lược marketing quốc gia thành công trong việc tạo ra một chu trình sản xuất
và xuất khẩu liên hoàn cũng như tạo ra của cải cho đất nước.
Các nguồn lực sẵn có của nền kinh tế quốc gia
Các nguồn lực sẵn có có thể là sự phong phú của nguồn tài nguyên thiên
nhiên, dồi dào về nguồn nhân lực, quy mô và kết cấu dân số hay cơ sở hạ
tầng. Những nguồn lực này là yếu tố góp phần làm tăng hay giảm năng lực
của quốc gia cũng còn tùy từng quan điểm và nhìn chung cái nào cũng có hai
mặt. Chính vì vậy, cần xem xét và đánh giá đầy đủ cả hai mặt tác động này
đến xuất khẩu hàng hóa cũng như đối với nền kinh tế- xã hội của nước ta.
Tổ chức ngành
Đây là yếu tố chủ yếu cho việc thẩm định khả năng cạnh tranh của một
quốc gia. Tổ chức ngành càng chặt chẽ bao nhiêu thì sẽ tạo nên một khối sức
mạnh càng lớn bấy nhiêu cho nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy Nhật Bản là
một ví dụ điển hình trong trường hợp này. Ở Nhật Bản, các tập đoàn kinh tế
lớn liên kết chặt chẽ với nhau trong việc mua bán, từ đó tạo nên rào cản ngăn
chặn hàng nhập khẩu và nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu cho đất nước. Hay như Hàn Quốc nhờ xây dựng được
các chaebol công nghiệp mà đã tạo nên những thành công thần kỳ cho nền
kinh tế nước này.
Sự lãnh đạo của cơ quan Nhà nước và Chính phủ
Tầm nhìn của các nhà lãnh đạo có tác động rất lớn tới lĩnh vực xuất khẩu
hàng hóa, tới sự thành công hay không của nền kinh tế đất nước. Chính phủ
tạo ra các chính sách cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, duy trì và phát triển nền kinh tế. Kinh nghiệm thành công của các
quốc gia trong khu vực cho thấy rằng đất nước nào có bộ máy quản lý nhà
31
nước ưu tú thì sẽ điều hành tốt nền kinh tế - xã hội. Hơn nữa, cần có sự hợp
tác chặt chẽ giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong xây dựng chính sách thì
các chính sách đó mới được hiện thực hóa nhanh chóng và hiệu quả. Các vấn
đề liên quan đến chính quyền như: nạn tham nhũng, thủ tục hành chính nhiều
tầng, phân bổ sai lầm các nguồn lực, bất ổn chính trị sẽ cản trở các nhà đầu tư,
gây mất thời gian, tiền bạc và công sức cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
từ đó khiến cho nền kinh tế cũng như xã hội khó mà phát triển được.
Cả năm yếu tố này có mối quan hệ tác động qua lại nhau hình thành nên
năng lực của quốc gia đó. (Sơ đồ 1)
Sơ đồ 1: Năng lực của quốc gia
(Nguồn: Slide môn "Marketing địa phương" của Cô Nguyễn Thị
Phương Loan, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.)
Sự lãnh đạo của
chính quyền
Nền văn hóa, các
quan điểm, các giá trị
của địa phương
Các nguồn lực sản
xuất sẵn có
Sự kết cố xã hội
của quốc gia
Tổ chức ngành của
quốc gia
32
1.3.4. Xây dựng chiến lược marketing quốc gia
Đây là bước cuối cùng trong quá trình hoạch định chiến lược marketing
quốc gia. Trong khi xây dựng chiến lược marketing quốc gia cần chú ý một số
vấn đề như: chiến lược marketing quốc gia phải phù hợp với mục tiêu và tầm
nhìn của quốc gia đó trong cả ngắn hạn và dài hạn; trong quá trình xây dựng
chiến lược marketing quốc gia cần phải quan tâm tới cả vấn đề cạnh tranh
giữa các nước giai đoạn hiện nay để có chiến lược marketing khôn khéo, có
lợi cho quốc gia mình nhiều nhất. Hoàn thành bước này, chúng ta sẽ có một
chiến lược marketing cho quốc gia mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hiệu quả
nhất.
Như vậy, chương một đã đề cập tới hệ thống lý luận về marketing quốc
gia cũng như vai trò của marketing quốc gia trong việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngày nay, các nước trên thế giới và Việt Nam đang thực hiện chiến lược
marketing quốc gia ngày một tích cực hơn. Bốn chiến lược marketing quốc
gia: marketing hình tượng, marketing điểm hấp dẫn, marketing cơ sở hạ tầng
và marketing con người cũng đã được chú trọng thực hiện ở nước ta giai đoạn
qua. Chương tiếp theo sẽ tập trung tìm hiểu và phân tích hoạt động marketing
quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa dựa trên bốn chiến lược
marketing trên. Chương hai cũng đi sâu phân tích hoạt động marketing quốc
gia trong một số ngành xuất khẩu chủ yếu của nước ta trong giai đoạn 2006 –
2010 đồng thời nêu một số đánh giá, nhận xét chung về thực trạng hoạt động
marketing quốc gia của Việt Nam và tác động của nó đối với xuất khẩu.
33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING
QUỐC GIA TRONG LĨNH VỰC XUẤT KHẨU HÀNG
HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2006 ĐẾN 2010
2.1. Chiến lƣợc marketing quốc gia trong trong giai đoạn 2006- 2010
2.1.1. Tầm nhìn, mục tiêu phát triển
Mục tiêu chung
Trong giai đoạn 2006-2010, Đảng và Nhà nước ta chủ trương vẫn giữ
vững ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết thông qua Báo
cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.
Sau đó, Chính phủ ban hành Chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết
trên xác định mục tiêu về kinh tế, chính trị và xã hội rất rõ.15
Về kinh tế, Chương trình hành động có nêu ra mục tiêu là đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế; nâng cao hiệu quả, tính bền vững và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Trước hết, cần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông
nghiệp; phát triển bền vững các ngành nghề truyền thống đồng thời gắn với
việc bảo vệ môi trường; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân. Chính phủ cũng đề ra rằng cần tập trung nguồn lực phát
triển kinh tế vùng, kinh tế biển. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của khu vực công nghiệp bằng
cách: phát triển ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, các sản phẩm xuất
khẩu sử dụng nhiều lao động; khuyến khích đầu tư phát triển các ngành sản
xuất nguyên vật liệu quan trọng, công nghệ cao, công nghệ thông tin; chú
15 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, 17/10/2006, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần 2006 – 2010,
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ke-hoach-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2006-2010/40167540/157/.
34
trọng phát triển các ngành nghề truyền thống; quy hoạch phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất. Trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam phải chủ động và
tạo bước ngoặt trong hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh tế đối ngoại. Nhà nước chủ trương đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
xuất khẩu; tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có nhiều giá
trị tăng thêm, hàm lượng công nghệ và sức cạnh tranh cao, đa dạng hoá thị
trường xuất khẩu và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao sức cạnh tranh
thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, phát triển thị trường,
xây dựng và bảo vệ thương hiệu.
Về chính trị - xã hội, bản kế hoạch nêu lên đó là duy trì ổn định chính trị-
xã hội, phát triển giáo dục, y tế; tạo công ăn việc làm cho người dân; bảo vệ
môi trường; đảm bảo an ninh quốc phòng; chống lãng phí và nạn tham nhũng.
Mục tiêu xuất khẩu
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về phê duyệt "Đề
án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010"16
được ban hành ngày
30/06/2006 có nêu lên quan điểm nước ta về phát triển lĩnh vực xuất khẩu đó
là: thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nhằm góp phần tăng trưởng GDP,
phát triển sản xuất và thu hút lao động; Khuyến khích, huy động mọi nguồn
lực của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài để phát
triển sản xuất hàng xuất khẩu, từng bước tạo ra các sản phẩm có thương hiệu
đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.
Về mục tiêu tổng quát, Nhà nước ta chủ trương phát triển xuất khẩu với
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất các
16 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, 30/06/2006, Phê duyệt Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn
2006-2010, http://luat.xalo.vn/phap-luat/Quyet-dinh/176957894/Phe-duyet-De-an-Phat-trien-xuat-khau-giai-
doan-2006-2010.html.
35
mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có khả năng chiếm lĩnh thị phần
đáng kể trên thị trường thế giới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; sản phẩm chế
biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần
tỷ trọng hàng xuất khẩu thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ.
Trong giai đoạn này, mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực xuất khẩu là phấn đấu
đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 17,5%/năm
và đến năm 2010 đạt khoảng 72,5 tỷ USD. Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt
hàng nông - lâm - thuỷ sản chiếm khoảng 13,7%, nhóm hàng nhiên liệu –
khoáng sản chiếm khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao
chiếm khoảng 54,0% và nhóm hàng hoá khác chiếm 22,7% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá.
2.1.2. Nhận diện địa phương
Trong phần này, tác giả chỉ để cập đến vấn đề nhận diện địa phương đối
với lĩnh vực phát triển xuất khẩu.
Điểm mạnh
Về điều kiện tự nhiên, nước ta có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi để
sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Là đất nước có khí hậu nóng ẩm
mưa nhiều, có bờ biển dài, địa hình đa dạng gồm cả núi, cao nguyên, đồng
bằng. Việt Nam có nhiều sông ngòi, "có đường bờ biển dài 3.260 km"17
rất
thuận lợi để nước ta phát triển các ngành kinh tế biển như nuôi trồng, đánh bắt
và chế biến thủy hải sản. Phần biển Đông của Việt Nam còn là con đường
giao lưu hàng hải quốc tế, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nên
việc giao thương buôn bán với nước ngoài rất thuận tiện. Nước ta có nhiều
17 Cổng thông tin điện tử Chính Phủ, 20/01/2010, Quy hoạch tuyến đường bộ ven biển Việt Nam,
http://www.baomoi.com/Info/Quy-hoach-tuyen-duong-bo-ven-bien-Viet-Nam/148/3773570.epi.
36
đồng bằng với bề mặt bằng phẳng như: đồng bằng sông Hồng, đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng ven biển. Cùng với đó, điều kiện khí hậu nhiệt
đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều đã tạo điều kiện phát triển nền nông nghiệp
lúa nước lâu đời, đưa nước ta đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về
xuất khẩu gạo. Vùng đất đỏ Tây Nguyên lại rất thích hợp cho trồng cây cà phê
với sản lượng và chất lượng cao. Nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế
giới về xuất khẩu cà phê trong nhiều năm nay. Các loại cây trồng khác như:
chè, tiêu, điều, cao su... cũng rất thuận lợi để phát triển. Hệ sinh thái phong
phú, diện tích rừng rộng lớn chiếm tới 3/4 diện tích đã tạo điều kiện cho nước
ta phát triển các ngành lâm nghiệp, khai thác và chế biến gỗ. Có thể nói, Việt
Nam là một quốc gia có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi để phát triển kinh
tế, bao gồm cả nông – lâm – ngư nghiệp và các ngành công nghiệp liên quan.
Về điều kiện kinh tế - xã hội, tốc độ phát triển kinh tế từ khi cải cách tới
nay luôn ở mức cao và ổn định qua các năm. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam là 8,2%. Năm 2009, mặc dù kinh tế thế giới rơi vào
khủng hoảng nhưng tốc độ kinh tế của nước ta đạt được vẫn là 5,32%. Xã hội
cũng phát triển thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người tăng, chỉ số phát triển
con người HDI của Việt Nam liên tục tăng trong hai thập kỷ qua. Năm 1990
Việt Nam chỉ được 0,618 điểm nhưng tới năm 2007 tăng lên 0,725 điểm. Mỗi
năm HDI của Việt Nam tăng thêm 1,16% bất kể có lúc kinh tế tăng trưởng
chậm lại.18
Nền chính trị ổn định cũng là một điểm mạnh của nước ta để phát
triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng.
Về văn hóa - lịch sử, nước ta có bề dày bốn nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Con người Việt Nam chăm chỉ, cần cù, có sức sống bền bỉ, dẻo dai, có
tinh thần quật cường, thông minh, sáng tạo trong sống, chiếu đấu và lao động
sản xuất từ muôn đời nay. Một đất nước có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
18 Kinh tế doanh nghiệp, 10/08/2009, HDI của Việt Nam xếp thứ 116/182,
http://doanhnghieptrevietnam.com.vn/News/?ID=NNew&IDT=53&IDN=872.
37
tộc, một đất nước trong gian khổ vẫn hiên ngang và lạc quan đã để lại dấu ấn
đẹp trong lòng nhiều người trên thế giới. Chính những yếu tố này cũng đã góp
phần tạo nên một Việt Nam đầy sức sống và quyến rũ.
Điểm yếu
Về điều kiện tự nhiên, do nước ta nằm gần biển Đông, khí hậu nóng ẩm
mưa nhiều nên hiện tượng bão lũ xảy ra thường xuyên, nhất là vào hè thu,
hiện tượng gió mùa đông bắc vào đông - xuân gây nhiều thiệt hại về người và
của, ảnh hưởng tới sản xuất và cuộc sống của người dân. Địa hình núi non
hiểm trở gây khó khăn nhiều cho các cơ quan chức năng quản lý nạn buôn
lậu, chặt phá rừng làm ảnh hưởng tới môi trường sống và xã hội.
Về kinh tế - xã hội, nền kinh tế nước ta tuy đạt được tốc độ tăng trưởng cao
qua nhiều năm nhưng chất lượng tăng trưởng chưa cao. Biểu hiện ta có thể
thấy đầu tiên là hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế
còn thấp thể hiện rõ qua sự tăng nhanh của hệ số đo hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư ICOR, tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn còn cao, chất lượng lao
động vẫn còn thấp. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp còn được thể hiện qua
cả yếu tố đầu ra. Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương
đối cao, chiếm tới 50% GDP của cả nước (cao thứ 6 trong khu vực ASEAN,
thứ 9 ở châu Á và thứ 17 trên thế giới), nhưng cơ cấu xuất khẩu của chúng ta
đang đối mặt với nhiều vấn đề. Hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế,
hàng gia công hiện vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ
chưa khai thác hết. Kim ngạch của các mặt hàng này chiếm tới 3/4 trong tổng
kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu là do sự tăng nhanh về lượng của các mặt hàng
than đá, dầu thô, cà phê, hạt tiêu, điều, chè và sự tăng nhanh về giá của các
mặt hàng dầu thô, than đá, gạo, cao su, hạt điều, lạc,... Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chậm và lạc hậu, vẫn tập trung ở một số ngành và sản phẩm truyền
thống có hàm lượng công nghệ không cao như dệt may, giày da. Ngoài ra,
khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng cùng với quá trình giảm nghèo.
38
Tài nguyên môi trường chưa được khai thác hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia
tăng. Tại một số thành phố và trung tâm công nghiệp, ô nhiễm môi trường
nước, không khí và chất thải công nghiệp đã vượt quá mức cho phép. Vấn đề
khai thác tài nguyên, đầu tư vào tài sản môi trường và vấn đề ô nhiễm môi
trường đang đe dọa sự phát triển bền vững của Việt Nam. Năng lực cạnh
tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có
xu hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh
thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003,
Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với
năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21
bậc so với thứ hạng năm 1998. Năm 2009, Việt Nam xếp thứ 75/133 trong khi
năm 2008 xếp thứ 70/134. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể như sau: thể
chế kinh tế xếp thứ 74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô xếp thứ 53;
giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56; giáo dục đại học xếp thứ 90; hiệu quả
của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85... Nếu so sánh năng
lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN thì Việt Nam chỉ xếp
trên Cam-pu-chia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa được xếp hạng về
năng lực cạnh tranh.19
Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này
cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Về văn hóa – lịch sử, do ảnh hưởng của nền kinh tế lúa nước lạc hậu trong
một thời gian dài nên con người Việt Nam còn thiếu những đức tính quan
trọng của một người lao động trong xã hội hiện đại như: đúng giờ, tinh thần
trách nhiệm của cá nhân, làm việc độc lập… Những điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng lao động của nước ta, hơn nữa, những hạn chế này
khó mà có thể thay đổi được trong một sớm một chiều. Thêm vào đó, Việt
19 Lưu Ngọc Trịnh – Trần Đức Vui, 07/09/2008, Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay,
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=26852349.
39
Nam là một đất nước có tới 54 bộ tộc anh em. Sự đa dạng về bộ tộc dẫn tới sự
đa dạng về văn hóa nhưng mặt khác cũng đem lại khó khăn cho việc quản lý,
tuyên truyền cho họ. Bất ổn về chính trị nhiều khi là do sự không hiểu biết
của một số người bị kẻ xấu lợi dụng, kích động. Những hạn chế này ảnh
hưởng không nhỏ tới phát triển sản xuất và xuất khẩu của nước ta.
2.1.3. Thẩm định địa phương
Năng lực địa phương của nước ta để phát triển xuất khẩu tuy rằng đã và
đang được cải thiện đáng kể nhưng nhìn chung còn nhiều yếu điểm và non
kém.
Trước hết, quan điểm, văn hóa của địa phương đang từng bước thay
đổi theo hướng tích cực nhưng tốc độ chuyển biến còn chậm. Trước 1986,
chúng ta vẫn giữ mãi quan điểm đóng cửa nền kinh tế trong một thời gian khá
dài, dẫn đến nền kinh tế trì trệ nghiêm trọng. Sau cải cách, nước ta thực hiện
mở cửa nền kinh tế và đã gặp rất nhiều khó khăn. Cả một giai đoạn dài chúng
ta đóng cửa nền kinh tế, không biết mình đang đứng ở đâu, đang như thế nào.
Trong khi đó, nền kinh tế thế giới phát triển như vũ bão, giao lưu văn hóa,
hợp tác kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Sự chuyển biến quá chậm về quan
điểm đã kéo theo sự tụt hậu của nền kinh tế nước ta hàng chục năm, thậm chí
là hàng trăm năm so với các nước trên thế giới. Lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa
nước ta cũng chịu ảnh hưởng theo. Tuy vậy, mở cửa dù muộn thì cũng là một
bước ngoặt lớn, góp phần cải thiện đáng kể nền kinh tế - xã hội nước ta.
Sự cố kết của quốc gia còn chưa được chặt chẽ. Cuộc sống xã hội hiện
đại, đất nước phát triển sẽ hình thành lên ngày càng nhiều tầng lớp xã hội mới
với mức sống chênh lệch nhau. Chính điều này tạo nên khoảng cách giàu
nghèo ngày càng xa. Nước ta là một đất nước đa dạng về văn hóa, tôn giáo và
tộc người dẫn đến nhiều mâu thuẫn và căng thẳng trong xã hội. Nếu không có
có sự gắn kết những nhóm người này lại, không tạo dựng mối quan hệ bền
40
chặt thì những vấn đề xấu rất dễ xảy ra. Ở nước ta, nhiều hình thức như từ
thiện, chương trình vì người nghèo,… cũng đã góp phần cải thiện mối quan
hệ này. Tuy vậy, nhiều cộng đồng người dân, tầng lớp nhân dân vẫn còn xa
cách. Mối quan hệ giữa người dân trồng trọt, chăn nuôi với tầng lớp thương
nhân cần đoàn kết hơn nữa để tạo môi liên kết thúc đẩy xuất khẩu và tạo ra
của cải vật chất nhiều hơn cho xã hội.
Các nguồn lực sẵn có của nước ta rất phong phú nhưng cũng chưa phát
huy được nhiều tác dụng, đôi khi còn gây cản trở cho nền kinh tế. Tài nguyên
thiên nhiên giàu có cả về đất, rừng và biển đã giúp cho quốc gia có ưu thế
cạnh tranh hơn hẳn. Tuy nhiên điều này cũng không hoàn toàn đúng như
trong trường hợp của Nhật Bản hay Singapore. Hai đất nước này rất không
được thiên nhiên ưu đãi nhưng họ lại phát triển vượt bậc, đứng thứ hạng cao
trên thế giới về kinh tế. Chính vì vậy, nước ta dù tài nguyên thiên nhiên đa
dạng nhưng không biết cách sử dụng hiệu quả thì cũng ngày một cạn kiệt mà
không đem lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế ở nước ta. Quy mô dân số
càng đông thì càng có lợi thế cạnh tranh trong vấn đề nguồn lao động. Nước
ta có một nguồn lao động dồi dào, giá rẻ phục vụ phát triển kinh tế. Nhưng
một cách nhìn khác lại cho thấy, quá đông dân sẽ làm nảy sinh hàng loạt các
vấn đề như: nạn thất nghiệp, tội phạm, môi trường sống mất cân bằng, xã hội
phải chi nhiều phúc lợi công… Nguồn lao động dồi dào nhưng phải đi kèm
với chất lượng cao thì sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh lớn cho đất nước. Cơ sở hạ
tầng cũng là một yếu tố ảnh hưởng rõ rệt đến năng lực cạnh tranh cao hay
thấp của một địa phương. Cơ sở hạ tầng ở đây bao gồm cả về sản xuất, giao
thông, công nghệ thông tin,… Một quốc gia có cơ sở hạ tầng tốt, phát triển
đầy đủ sẽ tạo thuận lợi cho địa phương phát triển cả về kinh tế lẫn xã hội.
Nhưng hiện tại, cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn hết sức yếu kém. Đặc
biệt, giao thông vẫn đang là một vấn nạn đau đầu các nhà quản lý nước ta
41
hiện nay. Những điều này đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của Việt
Nam, gây tác động không nhỏ tới sản xuất và lưu thông hàng hóa xuất khẩu.
Tổ chức ngành của Việt Nam cũng vẫn còn kém. Chủ yếu các tập đoàn
kinh tế lớn của nước ta là của khu vực Nhà nước. Các tập đoàn này khai thác
kinh doanh tài nguyên khoáng sản như: dầu khí, than và các ngành kinh tế nhà
nước nắm thế độc quyền như: hàng không, ngân hàng, tài chính, viễn thông,
điện lực… Những lĩnh vực đòi hỏi cao về công nghệ thì đều là các tập đoàn
của doanh nghiệp nước ngoài. Khối doanh nghiệp tư nhân vẫn còn hết sức
yếu kém. Mặc dù là các tập đoàn kinh tế lớn nhất của nước ta nhưng doanh
thu của các doanh nghiệp này cũng chỉ gần tương đương doanh thu của các
doanh nghiệp nằm trong 10 doanh nghiệp cuối bảng xếp hạng của Fortune
500 (2006). Các tập đoàn này chưa có sự liên kết chặt chẽ để tạo nên một khối
sức mạnh vững chắc nhằm tạo rào cản ngăn nhập siêu, thúc đẩy xuất khẩu và
đẩy nhanh phát triển kinh tế đất nước.
Các nhà lãnh đạo nước ta đang từng bước thay đổi quan điểm, cách
nghĩ và tìm hướng đi đúng đắn cho đất nước. Mở cửa kinh tế, gia nhập thị
trường thế giới là quyết định sáng suốt của giai cấp lãnh đạo Việt Nam. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ nên gặp không ít sai sót trong
cơ chế chính sách, trong các văn bản Luật để rồi sau đó phải sửa đổi không ít
lần. Điều này ảnh hưởng lớn tới kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp và
hoạt động kinh tế - xã hội. Nạn tham nhũng, nhận hối lộ đã làm giảm năng lực
cạnh tranh, làm suy yếu hình ảnh quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế và làm
cản trở sự phát triển kinh tế đất nước. Các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan
còn phức tạp, cồng kềnh, quan liêu đã khiến cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, các nhà đầu tư tốn không ít thời gian, tiền bạc khi bước vào Việt Nam.
Tóm lại, Việt Nam không những cần phải nâng cao năng lực quốc gia
và đề ra chính sách phát triển quốc gia phù hợp, mà còn cần phải có đội ngũ
lãnh đạo các cấp tài tình, sáng suốt, nhiệt huyết và thống nhất cả trong tư
42
tưởng và hành động. Có như vậy, nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực
xuất nhập khẩu nói riêng mới có thể phát triển nhanh và bền vững được.
2.1.4. Xây dựng chiến lược marketing quốc gia
Chúng ta cần phải nhận biết được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu
dài của chiến lược marketing quốc gia. Mục tiêu trước mắt là nhằm tận dụng
tối đa những lợi thế đã có của chúng ta. Các ngành xuất khẩu có lợi thế của
nước ta tập trung vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp như: lúa gạo, cà phê, hồ
tiêu, thủ công mỹ nghệ, thủy hải sản… Những sản phẩm này có khả năng thu
hút lớn các nhà đầu tư cũng như các nhà xuất nhập khẩu. Vì vậy, Nhà nước ta
cần kết hợp với các địa phương, tạo điều kiện tốt nhất để thu hút những đối
tượng này. Về mục tiêu lâu dài, Việt Nam cần phải nhận biết được phân khúc
thị trường nào là thích hợp nhất cho địa phương mình để tập trung nhiều
nguồn lực hơn phát triển nó. Nước ta trong dài hạn mong muốn phát triển
ngành công nghiệp nhiều hơn nữa, tăng cơ cấu ngành công nghiệp trong cơ
cấu nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần đề ra những chiến lược marketing cho
phù hợp với từng giai đoạn.
Vấn đề thương hiệu quốc gia có vai trò hết sức quan trọng trong thương
mại quốc tế ngày nay. Tuy nhiên đây vẫn còn là vấn đề hết sức nan giải với
Việt Nam. “Hình ảnh địa phương là tổ hợp những niềm tin, ý tưởng mà người
ta có về một địa phương đó.”20
Một thương hiệu địa phương hay thương hiệu
quốc gia là tên và các biểu trưng hay dấu hiệu nhận biết giúp người ta liên
tưởng ngay đến địa danh đó. Chẳng hạn nói đến sản phẩm công nghệ bền thì
người ta nghĩ ngay đến Nhật Bản, nói đến sản phẩm giá rẻ thì người ta lại
nghĩ ngay đến Trung Quốc. Trong khi đó, khi nhắc đến Việt Nam, bạn bè
quốc tế chỉ nghĩ tới chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trên thị
trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mạnh các mặt hàng
20 Phillip Kotler (2002), Place Marketing, The Free Press, Newyork.
43
tiêu dùng, nông thủy hải sản, thực phẩm,… với chất lượng không thua kém
với các sản phẩm quốc tế. Tuy nhiên, khoảng 90% sản phẩm Việt Nam vào
thị trường thế giới hầu hết thông qua trung gian dưới dạng thô hoặc gia công
cho các thương hiệu nước ngoài. Do đó, hình ảnh thương hiệu Việt Nam
thường mờ nhạt đối với khách hàng nước ngoài. Chưa kể một số thương hiệu
Việt Nam thường phải đối phó với những tranh chấp thương hiệu trên thị
trường thế giới (trường hợp Trung Nguyên, Vinataba, Sa Giang, Biti’s,…). Vì
thế, các doanh nghiệp của nước ta cần phải xây dựng cho mình một thương
hiệu bền vững trong môi trường cạnh tranh và kinh doanh toàn cầu gay gắt
như hiện nay bởi vì thương hiệu ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định mua sắm
của khách hàng. Vấn đề xây dựng thương hiệu là một khía cạnh không thể
thiếu trong chiến lược marketing quốc gia, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với sự phát triển bền vững doanh nghiệp, tạo dựng một hình ảnh đẹp, ấn
tượng và lâu bền về sản phẩm Việt Nam cũng như về đất nước chúng ta.
Phía Nhà nước, các cơ quan chính quyền, và trực tiếp đó là Cục Xúc
tiến Thương mại của Việt Nam cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng
ký thương hiệu và chứng nhận xuất xứ hàng hóa quốc gia. Theo kết quả
nghiên cứu mới nhất về top 200 doanh nghiệp Việt Nam của UNDP thì:
"Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam được hỏi đều cho rằng tạo dựng
thương hiệu ở nước ngoài là việc làm tốn kém và khó khăn. Phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế thông qua các tập đoàn
phân phối toàn cầu dưới thương hiệu của họ. Những tập đoàn này không sẵn
sàng chấp nhận việc các doanh nghiệp tạo dựng thương hiệu độc lập. Dù sao,
làm như vậy vẫn còn là điều vượt quá năng lực và nguồn lực của phần lớn
các doanh nghiệp lớn của Việt Nam".21
Theo số liệu của Văn phòng Sở hữu
Trí tuệ Quốc tế WIPO thì kể từ khi nhãn hiệu đầu tiên của Việt Nam được
21 Diễn đàn doanh nghiệp, 23/11/2007, Phương thức tránh mất nhãn hiệu,
http://www.truongthanhad.com/index.php?go=News&at=article&sid=865,.
44
đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid (năm 1986) đến tháng 10/2007, mới
có 156 nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký và nộp đơn theo hệ thống đăng
ký nhãn hiệu quốc tế theo Madrid. Trong khi đó, số lượng nhãn hiệu từ các
nước chỉ định đăng ký tại Việt Nam là 59.014. Nhìn vào con số này có thể
nhận thấy số lượng nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký quốc tế còn rất hạn
chế so với số lượng nhãn hiệu từ các nước chỉ định vào Việt Nam. Việc đăng
ký nhãn hiệu tại nước ngoài có thể được thực hiện bằng cách nộp đơn đăng ký
đơn lẻ tại từng quốc gia nơi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá hoặc nộp đơn
đăng ký nhãn hiệu quốc tế theo hệ thống Madrid. Việt Nam đã gia nhập Thoả
ước Madid từ năm 1949. Ngày 11/7/2006 Việt Nam tiếp tục trở thành thành
viên chính thức tham gia Nghị định thư Madrid về nhãn hiệu hàng hoá. Đây là
cơ hội để nhãn hiệu của các nước trong hệ thống Madrid được bảo hộ ở Việt
Nam và hàng hoá trong nước vươn ra thị trường quốc tế. Có như vậy, các
doanh nghiệp mới có thể trụ vững và khẳng định vị thế của mình trên thương
trường quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề đăng ký nhãn hiệu vần cần phải có sự phổ
biến thông tin, sự giúp đỡ từ phía Chính quyền và các tổ chức Nhà nước có
liên quan.
Thêm vào đó, Nhà nước cần phối hợp với doanh nghiệp, với các vùng
miền tổ chức ngày hội triển lãm hàng Việt Nam nhằm thu hút các nhà đầu tư
cũng như giới kinh doanh toàn cầu quan tâm tới nước ta tìm kiếm cơ hội và
khiến họ thay đổi suy nghĩ chưa tốt về hàng Việt. Nhà nước cũng cần kết hợp
với các hiệp hội doanh nghiệp của nước ta ở các nước trên thế giới thường
xuyên mở hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam. Những việc làm này sẽ làm thay
đổi suy nghĩ của thế giới về hàng Việt, hình ảnh đất nước cũng như con người
Việt.
Người dân có thể là những nhà marketing trực tiếp tốt nhất cho quốc
gia. Một đất nước có trình độ dân trí cao; thái độ người dân thân thiện, văn
minh; phong cách làm việc của người lao động hiện đại, năng động, sáng tạo
45
sẽ góp phần đánh bóng thêm cho hình ảnh quốc gia. Các nhà đầu tư nước
ngoài cũng rất quan tâm về vấn đề nguồn nhân lực khi quyết định đầu tư vào
một quốc gia nào đó. Người dân cần cù, sáng tạo trong lao động và sản xuất
góp phần không nhỏ làm cho năng suất cũng như chất lượng sản phẩm trở nên
tốt hơn, giúp thúc đẩy xuất khẩu và khẳng định thương hiệu hàng .
Tóm lại, chiến lược marketing quốc gia cần có sự kết hợp của tất cả các
chủ thể liên quan thì mới đạt hiệu quả cao.
2.2. Hoạt động marketing quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam thời gian qua
2.2.1. Hoạt động marketing hình tượng
Marketing hình tượng là nhằm tạo dựng nên một hình ảnh đẹp để hấp
dẫn thị trường xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của quốc gia đó.
Việt Nam đang cố gắng xây dựng một hình ảnh đẹp trong lòng người dân trên
toàn thế giới. Rất nhiều Hội thảo Xúc tiến Đầu tư, Hội thảo về cơ hội kinh
doanh ở Việt Nam được tổ chức ở khắp các nước trên thế giới từ đó mang
hình ảnh Việt Nam vươn ra xa hơn đối với bạn bè quốc tế. Có thể thấy như
Hội thảo về Đầu tư và Xuất khẩu tại Việt Nam ở Đức diễn ra vào ngày
16/4/2008 với tiêu đề “Việt Nam - Điểm xuất khẩu và đầu tư hấp dẫn cho nền
kinh tế Đức”, Hội thảo Xúc tiến Đầu tư vào Việt Nam tại Hàn Quốc, Nhật
Bản, Italia, Singapore, Nga và nhiều nước khác nữa. Nhiều người ngày nay
không những chỉ biết đến Việt Nam qua những cuộc chiến tranh, qua tà áo dài
hay nón lá. Việt Nam bây giờ còn được biết đến qua các thương hiệu Việt
chất lượng cao. Nhắc đến Việt Nam bây giờ còn có cà phê Trung Nguyên, sản
phẩm may sẵn của Việt Tiến, sữa tươi Vinamilk…
Một điểm nữa đó là, ở Việt Nam, các địa phương áp dụng phương thức
marketing hình tượng này khá lâu rồi. Nhiều địa danh của nước ta có thể coi
là đã tạo dựng được cho mình một hình tượng để thu hút xuất khẩu. Một cách
46
thức được áp dụng phổ biến trong trường hợp này là gắn liền tên sản vật của
địa phương với tên tuổi của địa phương mình, ví dụ như: kẹo dừa Bến Tre,
bưởi Năm Roi, bánh đậu xanh Hải Dương, nhãn lồng Hưng Yên… Những
thương hiệu như thế này giúp cho người tiêu dùng rất dễ nhận biết. Hơn nữa,
nó còn tạo ấn tượng mạnh và lâu bền trong tâm trí người tiêu dùng bởi chỉ có
Việt Nam mới có Hải Dương, mới có Bến Tre, mới có Hưng Yên và cũng chỉ
có Việt Nam mới có những sản phẩm đặc trưng gắn liền với những tên tuổi
đó. Việc xây dựng thương hiệu sản phẩm của địa phương như thế này có tác
dụng rất lớn đối với thu hút thị trường xuất khẩu cho Việt Nam.
Tuy vậy, nhìn chung Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một hình ảnh
đồng nhất cho mình nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Hoạt động marketing hình
tượng mới chỉ tập trung ở một số thành phố lớn như: Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Đà Nẵng… mà chưa có sự đồng bộ chặt chẽ với nhau. Còn nhiều vùng của
Việt Nam có tiềm năng phát triển các sản phẩm xuất khẩu nhưng vẫn chưa ý
thức được giá trị của thương hiệu đối với việc thu hút và phát triển xuất khẩu,
phát triển kinh tế địa phương mình. Họ mới chỉ dừng lại ở những hoạt động
quảng bá chung chung và không tạo ra sự khác biệt giữa các địa phương chứ
chưa xác định được hình tượng hay một hướng đi, mục tiêu cụ thể cho địa
phương mình. Nguồn lực của nước ta có hạn, đặc biệt là thiếu vốn. Vì vậy,
Việt Nam cần xác định rõ ngành nào là ngành mũi nhọn, các địa phương của
nước ta cần nhận biết sản phẩm nào là sản phẩm xuất khẩu thế mạnh của
mình để đầu tư phát triển nhiều hơn.
Những nỗ lực quảng bá hình ảnh quốc gia mới chỉ dừng lại ở các hoạt
động riêng lẻ trên từng khía cạnh: đầu tư, du lịch, xuất khẩu và dân cư mà
chưa có sự phối hợp với nhau. Trên thực tế, cả bốn lĩnh vực này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Du lịch, dân cư và đầu tư phát triển sẽ tạo điều kiện thúc
đẩy xuất khẩu tăng theo và ngược lại. Dù biết như vậy nhưng nhìn chung,
nước ta chưa biết tận dụng mối quan hệ này nhiều trong marketing hình ảnh
47
cho quốc gia mình. Mỗi ngành có kế hoạch và thực hiện công việc marketing
theo những hướng khác nhau. Marketing cho xuất khẩu và đầu tư cũng được
kết hợp với nhau nhưng chưa được rõ nét. Chúng ta có thể thấy một số Hội
nghị Xúc tiến Đầu tư ở nước ta được tổ chức là nhằm vào các ngành khuyến
khích xuất khẩu như da giầy, dệt may… Tuy nhiên sự kết hợp như thế này
không phải là nhiều. Việt Nam vẫn chưa tận dụng được hết sự tác động từ
phía các thị trường liên quan để đẩy mạnh xuất khẩu.
Việt Nam chưa xác định được hình tượng riêng biệt cho từng vùng để
gây ấn tượng và không bị nhầm lẫn với những nơi khác trên thế giới. Nước ta
nêu lên chủ trương là khuyến khích đầu tư và phát triển các ngành có thế
mạnh xuất khẩu. Thế nhưng, từng vùng, từng địa phương vẫn chưa có khẩu
hiệu riêng nói lên được thế mạnh, mong muốn của mình trong từng giai đoạn.
Điều này khiến cho các nhà đầu mất nhiều thời gian để tìm hiểu nếu muốn
đầu tư và kinh doanh tại địa phương. Hơn thế nữa, việc chưa tạo dựng được
hình ảnh cũng khiến cho ấn tượng về Việt Nam khó sâu đậm và bền vững
trong lòng các nhà đầu tư kinh doanh. Vấn đề này cũng ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển của lĩnh vực xuất khẩu của nước ta trong cả ngắn và dài hạn.
Vấn đề quảng bá hình ảnh quốc gia cũng chưa được tốt. Những nỗ lực
quảng bá địa phương mới chỉ dừng lại ở các hoạt động của Cục Xúc tiến
Thương mại Việt Nam, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư ở các tỉnh
theo kiểu: mạnh cơ quan nào cơ quan ấy tiến hành, chưa có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau dẫn đến phát triển không đều. Mặt khác, từ trước tới nay, quan
niệm về xúc tiến đầu tư chỉ đơi thuần làm đến khâu cấp phép đầu tư là các nhà
xúc tiến hết vai trò và nhiệm vụ. Do vậy, quá trình hoạt động xúc tiến đầu tư
hoặc ngay cả khi tiến hành đầu tư thì nhà đầu tư chưa được hướng dẫn và chỉ
đường tới tận đích mà còn bị bỏ lửng ở giai đoạn giữa. Điều đó khiến cho
hiệu quả đầu tư, sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu bị giảm sút hơn rất nhiều.
Bây giờ cần phải nhận thức rõ được rằng hoạt động xúc tiến đầu tư cần vươn
48
tới sau giấy phép vì sau giấy phép còn hàng loạt các vấn đề khác. Một số vấn
đề về giải phóng mặt bằng, giao đất, thủ tục về quy hoạch, cấp phép xây
dựng, xử lý môi trường rồi tuyển dụng lao động… của doanh nghiệp cũng rất
cần sự hỗ trợ, tư vấn của cơ quan Xúc tiến Đầu tư.
Hơn thế nữa, các dịch vụ công cơ bản về an ninh, giáo dục, giao thông
công cộng… của nước ta còn yếu kém đã kéo theo hình tượng và sức hấp dẫn
của nước ta bị giảm sút nhiều. Nhìn chung tình trạng an ninh nước ta ổn định.
Tuy nhiên, nạn trộm cắp, móc túi… nhiều cũng đã khiến người nước ngoài e
ngại khi đến Việt Nam. Tình trạng giao thông công cộng ách tắc, ý thức giao
thông của người dân còn kém, giáo dục còn lạc hậu và thiên về lý thuyết…
cũng đã làm giảm đáng kể hình tượng Việt Nam trong mắt người nước ngoài
khi tới nước ta. Chính vì thế, các hoạt động marketing dựa vào các dịch vụ
công còn chưa được nhắc đến nhiều khi marketing cho hình tượng nước mình.
2.2.2. Hoạt động marketing các điểm hấp dẫn
Trong khi các điểm hấp dẫn đối với thị trường du lịch là các phong
cảnh thiên nhiên tươi đẹp, các di tích lịch sử thì các điểm hấp dẫn đối với xuất
khẩu lại là những nơi có điều kiện sản xuất các sản phẩm đặc trưng với chất
lượng tốt và số lượng lớn, hoặc những nơi tập trung khu công nghiệp với cơ
sở hạ tầng và giao thông thuận lợi... Việt Nam có nhiều hoạt động giúp thế
giới biết đến Việt Nam với nhiều vùng đất giàu tiềm năng lớn để sản xuất các
mặt hàng xuất khẩu. Bây giờ nói đến Việt Nam, thế giới có thể biết đến như là
một đất nước xuất khẩu lúa gạo và cà phê đứng thứ 2 trên thế giới, với những
cánh đồng lúa trải rộng hay những vườn cà phê phủ đầy vùng đất cao nguyên.
Marketing các điểm hấp dẫn là hoạt động được nước ta áp dụng từ lâu.
Ví như nói đến vùng xuất khẩu gạo chúng ta có thể nghĩ đến ngay khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây được coi là vựa lúa chính của Việt Nam.
Khu vực này cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất
49
khẩu lúa gạo cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu. Nước ta cũng chú trọng đầu
tư về cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa các khâu thu hoạch và sơ chế lúa gạo nhằm
đạt được chất lượng sản phẩm cao, giúp gia tăng xuất khẩu.
Một ví dụ điển hình cho khu công nghiệp ở Việt Nam thu hút thành
công phát triển nhiều ngành công nghiệp phục vụ cả cho xuất khẩu đó là khu
công nghiệp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ở đây không chỉ có dệt, may mặc, kim
loại, thiết bị điện, hóa chất mà còn có rất nhiều các mặt hàng khác. Vùng này
trở thành một điểm hấp dẫn thu hút xuất khẩu do tập trung được nhiều yếu tố
thuận lợi như: gần các thành phố lớn, gần sân bay, cảng biển, nhà ga; có hệ
thống giao thông và cơ sở hạ tầng tốt. Với những yếu tố thuận lợi như trên,
khu công nghiệp Biên Hòa ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp sản xuất đa
dạng mặt hàng không những phục vụ nhu cầu trong nước mà còn gia tăng
xuất khẩu. Nhắc đến các khu công nghiệp ở Việt Nam, không thể thiếu khu
công nghiệp Biên Hòa - Đồng Nai.
Một công cụ marketing thường được đề cập đến là xây dựng các
website để quảng bá các điểm hấp dẫn của Việt Nam đến các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư trên thế giới. Trang web: vnex.com.vn cung
cấp hệ thống thông tin khá đầy đủ về các vùng miền và sản phẩm có thể phát
triển ở đó đã giúp đánh bóng các điểm hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các
nhà đầu tư. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư cũng dễ dàng hơn nhiều trong việc
tìm thông tin về lĩnh vực mình quan tâm và địa phương cần đến cho mình. Có
thể thấy như các nhà đầu tư muốn đầu tư phát triển xuất khẩu lúa gạo thì về
An Giang, Tiền Giang… ở phía nam, hay Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội… ở
phía bắc. Hiện nay, hầu hết các địa phương đã xây dựng được website riêng
cho mình. Nhiều địa phương đã sử dụng website như một công cụ hiệu quả,
một nguồn thông tin để doanh nghiệp, các nhà đầu tư quan tâm có thể tiếp cận
khu muốn tìm hiểu về địa phương đó như thành phố Hồ Chí Minh
50
(hochiminh.gov.vn). Tuy nhiên, nhiều tỉnh vẫn chưa tận dụng được công cụ
này hiệu quả mặc dù cũng đã có website riêng cho mình.
2.2.3. Hoạt động marketing cơ sở hạ tầng
Việt Nam không phải là một quốc gia có cơ sở hạ tầng phát triển, thậm
chí còn thua kém rất xa với nhiều nước trong khu vực và đi sau nhiều trăm
năm đối với các nước phát triển khác trên thế giới. Tuy nhiên, là một quốc gia
có nền chính trị ổn định và đang trên đà phát triển nhanh, Việt Nam cũng
đang là một điểm đến đáng tin cậy của nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng như
để phát triển lĩnh vực xuất khẩu.
Việt Nam chỉ thực hiện hoạt động marketing cơ sở hạ tầng cho một số
thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Quảng Ninh…
và cũng chỉ những thàenh phố lớn này mới có khả năng thực hiện được hoạt
động marketing. Các thành phố này có điều kiện kinh tế phát triển hơn, cuộc
sống của người dân cũng khá giả hơn nên cơ sở hạ tầng cũng tốt hơn những
vùng khác. Vì vậy mà trụ sở của các công ty hay nơi tổ chức các hội nghị vẫn
thường chỉ tập trung ở những thành phố này.
Bên cạnh đó, một số địa phương của Việt Nam đã tận dụng được vị trí
thuận lợi của mình là gần các thành phố trung tâm như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh cùng với việc nỗ lực phát triển cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư
cũng như phát huy được điểm mạnh của địa phương mình đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong hoạt động xuất khẩu sản phẩm của địa phương mình.
Các địa phương có thể kể đến như: Bình Dương, Đồng Nai, Khánh Hòa, Hải
Dương, Vĩnh Phúc...
2.2.4. Hoạt động marketing con người
Hoạt động marketing con người hầu như mới chỉ được sử dụng để thu
hút du lịch còn với thị trường xuất khẩu thì hoạt động này vẫn còn chưa khai
51
thác được nhiều hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy phương thức
marketing con người với sản phẩm cà phê Trung Nguyên. Thương hiệu cà phê
Trung Nguyên không chỉ được biết đến trong nước mà còn cả trên thế giới.
Đến nay, cà phê Trung Nguyên có mặt ở nhiều nước như: Nhật Bản, Pháp,
Mỹ, Đức, Úc, Canada, Trung Quốc,... và đạt được nhiều thành công trong
khoảng thời gian ngắn. Người tâm huyết với việc xây dựng cho thương hiệu
Trung Nguyên chính là Tổng giám đốc Đặng Lê Nguyên Vũ. Vượt lên từ khó
khăn, với đầu óc dám nghĩ dám làm và luôn trăn trở cho hình ảnh thương hiệu
quốc gia chưa được thừa nhận trên trường quốc tế mặc dù Việt Nam là nước
xuất khẩu cà phê thứ 2 trên thế giới, anh Nguyên Vũ là người đi tiên phong
trong việc gây dựng hình ảnh cà phê Việt. Anh là gương một chiến sĩ thực
thụ, chiến đấu trên thương trường vì thương hiệu Việt.
Một cách thức marketing dựa vào con người nữa mà nước ta sử dụng
đó là thông qua những bài cảm nhận, lời phát ngôn của những người đã từng
sống ở Việt Nam. Thông qua đó, chúng ta có thể biết được cách họ nghĩ về
hàng Việt. Những nhận xét tích cực của họ là một cách marketing cho sản
phẩm một cách hiệu quả, giúp nâng cao hình ảnh hàng hóa Việt và đẩy mạnh
xuất khẩu. Trong đợt điều tra về chất lượng hàng Việt Nam, người tiêu dùng
nước ngoài đánh giá hàng Việt Nam nhìn chung có chất lượng ở mức điểm
3,7 theo thang điểm từ 1 là bình thường đến 5 là rất tốt. Năm mặt hàng được
người nước ngoài chọn mua và đánh giá chất lượng cao nhất: Sữa tươi
Vinamilk, Cà phê Trung Nguyên, Bút bi Thiên Long, Bánh ngọt Kinh Đô, Áo
sơmi Việt Tiến.22
Những nhận xét này đã góp phần làm thay đổi cách nhìn
của nhiều người về hàng Việt hiện nay.
Marketing dựa vào người kinh doanh lâu đời cũng được nước ta áp
dụng. Ông John C. Mingé, Tổng giám đốc tập đoàn dầu khí hàng đầu Anh
22 Kim Dung, 03/01/2010, Hàng Việt Nam trong mắt người nước ngoài, http://dantri.com.vn/c76/s76-
370867/hang-viet-nam-trong-mat-nguoi-nuoc-ngoai.htm.
52
quốc BP (Việt Nam) cho biết, tính đến nay BP đã có mặt ở Việt Nam hơn 15
năm. Mặc dù mới sống và làm việc tại Việt Nam được 2 năm, nhưng ông có
thể cảm nhận được sự đổi thay từng ngày của Việt Nam - một sự đổi thay tích
cực. Nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng trong vài năm trở lại đây.
Ông cũng khẳng định sẽ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam thêm nhiều năm nữa.
Một ví dụ nữa đó là công ty Sinopharm của Trung Quốc đã thành lập công ty
liên doanh ở Việt Nam nhiều năm nay. Ông Lý Chí Tân, Phó Tổng giám đốc
Sinopharm, cũng đã nói tốt về thị trường Việt Nam “Chúng tôi muốn đầu tư
nhiều hơn nữa vào Việt Nam bởi Việt Nam là một thị trường rộng lớn, người
dân Việt Nam cần cù, sáng tạo, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng.
Chúng tôi mong muốn được xây dựng thêm một số nhà máy sản xuất tại Việt
Nam.” Những ý kiến nhận xét tích cực của những nhà đầu tư sống và làm việc
lâu năm ở Việt Nam như hai ví dụ ở trên sẽ có sức thuyết phục lớn đối với các
nhà đầu tư nước ngoài đang và chưa có ý định đầu tư vào nước ta.
Marketing dựa vào người nổi tiếng cũng chưa được khai thác sử dụng ở
nước ta.
2.3. Hoạt động marketing quốc gia trong một số ngành xuất khẩu chủ
yếu của nƣớc ta
2.3.1. Hàng nguyên liệu xuất khẩu
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta thì mặt hàng nguyên liệu xuất
khẩu vẫn chiếm tỷ trọng lớn qua nhiều năm. Năm 2007, trên 60% giá trị kim
ngạch là mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp. Nước ta đang cố
gắng chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỉ trọng của
nhóm hàng này nên các hoạt động marketing quốc gia đối với hàng nguyên
liệu xuất khẩu không nhiều lắm. Trong nhóm ngành này, tác giả chỉ phân tích
hoạt động marketing với một mặt hàng tiêu biểu đó là dầu thô.
53
Kể từ năm 1986 - thời điểm tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ mỏ
Bạch Hổ đến nay, hàng năm ngành dầu khí đã đóng góp khoảng 20% vào
GDP và 30% vào tổng thu ngân sách của đất nước. Kim ngạch xuất khẩu toàn
tập đoàn chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.23
Như
vậy có thể nói ngành dầu khí có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát
triển của đất nước. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều thông tin về sản phẩm &
dịch vụ, các hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề khoa học công nghệ,
nguồn nhân lực, các hoạt động về an toàn – sức khỏe – môi trường của tập
đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam qua website cổng thông tin của tập đoàn.
Hình ảnh của tập đoàn vì thế cũng được biết đến rõ nét, gần gũi hơn. Vào
ngày 12/9/2009, Hội Dầu khí Việt Nam chính thức ra đời. Hội Dầu khí là tổ
chức xã hội nghề nghiệp, tập hợp đoàn kết những người đã và đang công tác
khoa học, kỹ thuật trong ngành dầu khí để duy trì, phát triển, nâng cao trình
độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, góp phần xây dựng phát triển ngành
dầu khí trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn ở Việt Nam. Trang web này
cung cấp rất nhiều thông tin về giao thương, chào bán, chào mua, đầu tư, tình
hình xuất nhập khẩu, ... đã giúp cho những khách hàng, các nhà xuất nhập
khẩu ở các nước trên thế giới có thể dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu về các
sản phẩm dầu khí của nước ta, giúp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này. Cách
thức marketing thời công nghệ số này giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc, phá
bỏ rào cản về khoảng cách giữa các nước, giữa các doanh nghiệp trên thế giới.
Thông qua các hội thảo trong nước và quốc tế về năng lượng, Việt Nam
đã mang hình ảnh về đất nước có giàu tiềm năng phát triển ngành dầu khí đến
với thế giới. Việt Nam đăng cai tổ chức hội nghị APEC lần thứ 14 vào năm
23 Mỹ Hạnh, 20/01/2009, Tập đoàn dầu khí Việt Nam vinh dự đón nhận danh hiệu anh hùng thời kỳ đổi mới,
http://www.molisa.gov.vn/others/faq/faqdetail/tabid/211/newsid/41117/seo/TAP-DOAN-DAU-KHI-VIET-
NAM-VINH-DU-DON-NHAN-DANH-HIEU-ANH-HUNG-THOI-KY-DOI-MOI/language/vi-
VN/Default.aspx.
54
2006 và đã gặt hái được rất nhiều thành công. Suốt quá trình Hội nghị Lãnh
đạo Kinh tế APEC 14 diễn ra và kết thúc thành công, rất nhiều hãng truyền
thông trên thế giới đã có bài ca ngợi về Việt Nam. Đặc biệt, thông điệp "Việt
Nam, một đất nước giàu tiềm năng, một môi trường giàu cơ hội đầu tư và
kinh tế Việt Nam đang có những bước nhảy vọt" là nội dung chính của những
bài viết này. Với tựa đề “Việt Nam, APEC và hơn thế nữa”, bài xã luận của
báo Dân tộc (Thái Lan) phát hành ngày 20/11, khẳng định: Hội nghị cấp cao
Hà Nội của Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) là giá trị thật
sự của những cuộc gặp gỡ quan trọng, đã tạo ra những cơ hội tiếp xúc và thảo
luận song phương giữa những nhà lãnh đạo cấp cao nhất của 21 nền kinh tế
thành viên. Ở đây, những cuộc gặp song phương và đa phương đã cho thấy
hình ảnh một đất nước Việt Nam năng động, đang trên đà phát triển mạnh mẽ,
mở ra cơ hội làm ăn mới cho Việt Nam nói riêng và nền kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương nói chung. Bài báo còn nêu rõ, nước chủ nhà Việt Nam đã sử
dụng hiệu quả diễn đàn APEC này để thể hiện sự phát triển kinh tế nhanh
chóng của mình. 24
Tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc cũng vừa đăng bài
viết nhan đề “Việt Nam ngày càng đĩnh đạc tự tin”. Ngoài ra còn có hãng
thông tấn BBC của Anh, báo Toàn cảnh Frankfurt của Đức, hãng truyền
thông AFP của Pháp cũng không ngớt lời ca ngợi về sự thành công của hội
nghị APEC. Việt Nam vì thế mà đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều
nhà lãnh đạo, doanh nghiệp, nhà đầu tư về một Việt Nam còn giàu tiềm năng
phát triển trong ngành dầu khí và nhiều lĩnh vực khác nữa. Một ví dụ nữa đó
là ngày 20/8/2009, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) và Hiệp hội Doanh
nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) đã tổ chức hội thảo quốc tế “Quy hoạch và
Chiến lược phát triển năng lượng Việt Nam”. Thứ trưởng Bộ Công Thương
Đỗ Hữu Hào cho biết: Chính phủ Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi
24 Giang Oanh, 21/11/2006, Báo chí nước ngoài ca ngợi về thành công của APEC 14: Việt Nam, điểm đến
đầy hấp dẫn, http://www.chinhphu.vn/pls/portal/PLSQL_PROVIDER.UTILS.print_preview?p_itemid= 1747
74&p_siteid=33&p_pageid=128127&p_dad=portal&p_schema=PORTAL&p_persid=.
55
tốt nhất cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư vào công trình năng
lượng. Trong thời gian tới, chiến lược phát triển năng lượng được thực hiện
bằng các chính sách hợp tác quốc tế về xuất nhập khẩu năng lượng; phát triển
khoa học công nghệ; phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo; cải cách cơ
cấu tổ chức ngành năng lượng, hình thành thị trường năng lượng cạnh tranh;
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.25
Với những hội thảo như vậy, các
nhà đầu tư nước ngoài sẽ tin tưởng đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu về
lĩnh vực năng lượng vào nước ta hơn, trong đó có dầu khí. Các Hội thảo và
Hội chợ, Triển lãm Quốc tế về Năng lượng (VE Expo 2007, 2008, 2009) đã
tạo ra cơ hội cho các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp, nhà đầu tư
trong và ngoài nước trong việc nghiên cứu và tìm kiếm thị trường phát triển,
tiêu thụ sản phẩm năng lượng. Điều này góp phần không nhỏ vào chiến lược
marketing quốc gia của Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng dầu khí này, từ
đó đã giúp xuất khẩu dầu khí gia tăng cả về số lượng và giá trị qua các năm.
2.3.2. Hàng sơ chế xuất khẩu
Cũng giống như nhóm hàng nguyên liệu, nhóm hàng này đóng một vai
trò quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng sơ
chế xuất khẩu chủ yếu thuộc ngành nông – lâm – ngư nghiệp như: gạo, cao
su, thủy hải sản sơ chế… Các mặt hàng này là thế mạnh của nước ta nhưng do
chỉ xuất khẩu dưới dạng sơ chế nên nguồn thu cũng bị giảm đáng kể và nhìn
chung là chưa xứng đáng với tiềm năng dồi dào của nước ta. Điều này là do
chúng ta chưa có thương hiệu riêng cho mình. Các sản phẩm sơ chế này được
bán cho các nhà nhập khẩu, sau đó các nhà nhập khẩu mới đóng gói, gắn mác
của họ vào và bán cho người tiêu dùng với giá cao hơn hẳn. Thiệt thòi không
chỉ là về doanh thu xuất khẩu mà còn cả về thương hiệu, dẫn đến tình trạng là
25 Nguyễn Mạnh, 21/08/2009, Hội thảo về quy hoạch và chiến lược phát triển năng lượng,
http://vneconomy.vn/20090821014441520P0C5/hoi-thao-ve-quy-hoach-va-chien-luoc-phat-trien-nang-
luong.htm.
56
hàng Việt Nam có mặt ở rất nhiều nơi trên thế giới nhưng không có mấy ai
biết chính mình đang dùng hàng Việt Nam. Vì vậy, chiến lược marketing
quốc gia trong ngành hàng này cũng được quan tâm hơn cả.
Trong giới hạn bài luận văn này, tác giả chỉ xin phân tích hoạt động
marketing cho mặt hàng gạo sơ chế xuất khẩu.
Gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nhiều năm nay.
Tuy nhiên, đây cũng là một trong những mặt hàng có giá cả không ổn định
nhất trong giỏ hàng xuất khẩu của nước ta. Sản lượng và giá trị gạo xuất khẩu
của nước ta có xu hướng tăng qua các năm. Nhìn vào biểu đồ bên dưới, sản
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 tăng gần gấp 2 lần so với năm
2000, nhưng có biến động trong giai đoạn này. Năm 2008, sản lượng gạo đạt
4,65 triệu tấn. Sản lượng gạo năm 2009 đạt lớn nhất từ trước tới nay, lên tới
6,025 triệu tấn. Tuy nhiên, giá trị gạo xuất khẩu gạo năm 2009 chỉ đạt 2,7 tỉ
USD, thấp hơn con số 2,9 tỉ USD của năm 2008. Từ đó có thể thấy giá gạo
xuất khẩu của nước ta không ổn định, nhìn chung còn thấp. ( Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Sản lƣợng xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2000 – 2009
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các website www.vietfood.org.vn,
www.vneconomy.vn, www.thitruongvietnam.com.vn, …)
57
Thông tin về nông sản Việt Nam, thông tin về thị trường và biến động
giá gạo thế giới được Bộ Công Thương cập nhật trên website của Cục Xúc
tiến Thương mại Việt Nam (Viettrade.gov.vn) và Cổng Thông tin Xuất khẩu
Việt Nam (ngoaithuong.vn). Từ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong
nước có phản ứng nhanh chóng và phù hợp trước những biến động trên, nông
dân và doanh nghiệp xuất khẩu gạo tránh được những tổn thất và thu được lợi
nhuận cao hơn. Trang web Cổng Thông tin Xuất khẩu Việt Nam vnex.com.vn
giới thiệu đầy đủ và cập nhật về các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tiềm
năng xuất khẩu, thương mại và đầu tư của Việt Nam và 63 tỉnh/thành phố trên
cả nước (do 63 Sở Công Thương duy trì, cập nhật). Các doanh nghiệp muốn
nhập khẩu gạo Việt Nam có thể tìm hiểu dễ dàng thông tin về loại gạo, các
nhà xuất khẩu gạo của nước ta từ đó mà vấn đề giao thương buôn bán cũng
trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Hơn nữa, đây là cổng thông tin trực thuộc Bộ
Công thương Việt Nam nên các doanh nghiệp có thể hoàn toàn tin tưởng được
vào nội dung thông tin được cung cấp. Trang web cũng được viết bằng tiếng
Anh giúp các doanh nghiệp nhập khẩu gạo nước ngoài có thể hiểu được dễ
dàng hơn. Ngoài ra, các website của Hội Nông dân Việt Nam, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam cũng góp phần không nhỏ trong việc định vị thương
hiệu cho lúa gạo nước ta và đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này.
Năm 2009, nước ta tổ chức Festival lúa gạo Việt Nam lần đầu tiên tại
Hậu Giang đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người cũng như các tổ
chức trong nước và quốc tế. Festival là một hình thức tổ chức phối hợp, là
điểm đến, là chiếc cầu nối cho những suy nghĩ, những sáng kiến, những ước
mơ về lúa gạo Việt Nam góp phần nâng cao uy tín và thương hiệu lúa gạo
Việt Nam, làm cho hạt gạo Việt Nam có tính cạnh tranh ngày càng cao. Với
chủ đề vì sự phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Festival được tổ
chức, thu hút nhiều tỉnh, thành phố và các đơn vị sản xuất, kinh doanh ngành
lúa gạo và phục vụ nhu cầu sản xuất lúa gạo cả nước tham gia. Festival sẽ có
58
sự tham dự của đại diện Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO), Viện Nghiên
cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI), nhiều nước có quan hệ mua bán lúa gạo với Việt
Nam, đến giới thiệu về kỹ thuật sản xuất lúa gạo, tham dự hội thảo, tham
quan, tìm hiểu cây lúa nước, tìm hiểu thị trường và ký kết mua bán. Có nhiều
hoạt động đan xen diễn ra liên tục trước trong và sau thời gian chính thức diễn
ra Festival, nhiều cơ quan văn hóa truyền thông uy tín làm bảo trợ thông tin
và tuyên truyền cho Festival như Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói
Việt Nam... Festival có gần 20 hoạt động và bốn cuộc hội thảo gồm: hội thảo
quốc tế “Lúa gạo Việt Nam - Xuất khẩu và Hội nhập”, hội thảo về “Xúc tiến
Đầu tư”, hội thảo về “Kinh xáng Xà No - Con đường lúa gạo miền Hậu
Giang”, hội thảo về “Cây lúa nước Việt Nam”. Những hoạt động phong phú
trên đã làm nên một Festival lúa gạo Việt Nam thành công tốt đẹp dù mới tổ
chức lần đầu tiên. Từ đó, mở ra nhiều hướng đi mới cho gạo xuất khẩu của
Việt Nam.
Ngoài ra, chiến lược marketing điểm hấp dẫn cũng được áp dụng trong
xuất khẩu gạo. Các vùng trồng lúa với sản lượng và chất lượng cao như các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Hậu Giang, Long An, thành phố Hồ Chí
Minh…), các tỉnh đồng bằng sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên,
Vĩnh Phúc, Hà Nội…) cũng đang ra sức tạo dựng hình tượng tốt đẹp cho
mình về tiềm năng phát triển trồng lúa nước. Các điểm này sẽ trở thành những
nơi dẫn đầu cả nước về sản xuất lúa gạo và thu hút đầu tư cũng như doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu về thu mua, đặt hợp đồng sớm với giá cả
ổn định hơn những nơi khác. Điều này giúp cho bà con nông dân có nguồn
thu nhập cao và ổn định để tái sản xuất.
Như vậy, mặc dù hoạt động marketing quốc gia cho nhóm hàng sơ chế
này không phải là ít nhưng mới chỉ dừng lại ở mục đích là đẩy mạnh xuất
khẩu về số lượng trong thời gian trước mắt. Về lâu dài, để tạo dựng thương
hiệu cho các sản phẩm của Việt Nam, các chiến lược marketing quốc gia cần
59
phải tập trung nhiều hơn vào việc tạo dựng thương hiệu cho chính sản phẩm
của mình, để hàng Việt được mang đúng tên vốn có của nó khi đến tay người
tiêu dùng trong và ngoài nước.
2.3.3. Hàng gia công xuất khẩu
Đây là nhóm hàng xuất khẩu mũi nhọn của nước ta tiêu biểu có dệt
may, da giầy… Hoạt động marketing quốc gia cho nhóm hàng này cũng được
chú trọng hơn trong những năm gần đây. Vì thế, kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng này tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, nhìn chung kết quả đạt được cũng
chỉ là sự gia tăng về số lượng và giá trị xuất khẩu của ngành hàng gia công.
Vấn đề thương hiệu hàng gia công Việt Nam vẫn còn hết sức nan giải. Trong
giới hạn bài luận văn này, tác giả xin phân tích hoạt động marketing cho một
mặt hàng tiêu biểu đó là dệt may.
Dệt may là ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, ngành dệt may đã có những bước tăng trưởng nhanh
chóng, đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, từng bước
đưa nước ta trở thành một trong 10 quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất
thế giới.26
Từ năm 2000 đến nay, ngành dệt may Việt Nam đã đạt mức tăng
trưởng bình quân trên 20%/năm, thu hút gần 2 triệu lao động, đóng góp 15%
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Biểu đồ dưới cho ta thấy trong khoảng 10
năm từ năm 2000 tới năm 2009, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam
tăng gần 5 lần và tăng đều qua các năm. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu dệt
may chỉ đạt 1,87 tỷ USD nhưng tới năm 2009 thì con số này là 9,1 tỷ USD
(Biểu đồ 3).
Dệt may là ngành được thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải kí quyết
định “Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010” vào năm 2001.
26 Phước Hà, 04/10/2007, Việt Nam đứng thứ 10 về xuất khẩu dệt may, http://www.vnchannel.net/news/kinh-
te/200710/viet-nam-dung-thu-10-the-gioi-ve-xuat-khau-det-may.21564.html.
60
Mục đích của chiến lược này là nhằm phát triển ngành dệt may trở thành một
trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu. Trong đó
có nêu rằng ngành dệt may cần chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam từ 2000 - 2009
1870 20002750
36004300 4500
5800
7700
9100 9100
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Đơn vị: triệu USD
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ một số website: www.vietnamscout.com,
www.vneconomy.vn, www.mof.gov.vn, www.vietnamnet.vn, … )
mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam
trên thị trường quốc tế. Các thông tin về ngành dệt may được cung cấp trên
các website của Bộ Công thương, Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam, hay
như qua website Cổng giao dịch điện tử ngành dệt may Việt Nam. Qua cổng
giao dịch này, các nhà nhập khẩu nước ngoài có thể tìm thấy các thương hiệu
dệt may uy tín nhất của Việt Nam cùng các thông tin về giá cả thị trường dệt
may trong nước và thế giới biến động như thế nào. Các thương hiệu như
Hanosimex, Nhabeco, Viettien, Thai Tuan, Phuoc Long… đã trở thành biểu
tượng uy tín về chất lượng hàng đầu của dệt may Việt Nam. Những công ty
này cũng đã có website riêng cho mình, góp phần tạo dựng thương hiệu vững
mạnh, độc quyền của dệt may Việt Nam. Kết quả mà ngành dệt may nước ta
đạt được những năm gần đây không chỉ là kim ngạch xuất khẩu đạt được lớn
mà hơn nữa, thương hiệu dệt may Việt dần dần đã được người tiêu dùng trên
61
thế giới biết đến nhiều hơn. Đó là thành công lớn của ngành dệt may nước ta.
Trong đó, Việt Tiến được người nước ngoài đánh giá là hàng Việt Nam chất
lượng cao được ưa chuộng nhất.27
Hàng năm, Hiệp hội dệt may Việt Nam có tổ chức chương trình xúc
tiến thương mại, có nêu rõ những hoạt động ngành dệt may sẽ thực hiện trong
từng năm. Nước ta cũng tổ chức và tham gia rất nhiều hội chợ thời trang, triển
lãm vải, triển lãm giao thương, Hội chợ hàng Việt Nam ở các nước khác trên
thế giới như Mỹ, Ailen, Bangkok, Colombo, Myanma, Nhật Bản và các nước
EU khác. Từ đó mà các cơ hội giao thương, tên tuổi hàng Việt cũng được biết
đến nhiều hơn. Ngày 18/12/2009, Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) phối
hợp với Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) tổ chức Hội nghị đón đoàn
các nhà nhập khẩu Dệt May vào Việt Nam. Hội nghị là cầu nối giúp các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiếp cận các nhà nhập khẩu nước ngoài,
trong đó chủ yếu là thị trường Hoa Kỳ. Hội thảo đã thu hút được nhiều nhà
nhập khẩu quan tâm và đến tìm cơ hội giao thương với doanh nghiệp dệt may
nước ta, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao thương hiệu dệt may Việt.
Ngoài ra, các cuộc thi “Thợ giỏi ngành dệt may Việt Nam” cũng được
tổ chức hàng năm nhằm tôn vinh người lao động trong ngành dệt may, từ đó
thúc đẩy người lao động không ngừng phấn đấu nâng cao tay nghề, làm ra
những sản phẩm chất lượng cho dệt may nước nhà, tạo niềm tin cho nhà nhập
khẩu thế giới với sản phẩm dệt may Việt.
Tuy nhiên, ngoại trừ một vài doanh nghiệp nêu ở trên, hầu hết các
doanh nghiệp dệt may vẫn còn đang loay hoay trên con đường tạo dựng
thương hiệu cho mình. Khoảng 30% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt
may tại Việt Nam đã được nhiều nhà nhập khẩu biết đến tên doanh nghiệp với
nhiều mức độ khác nhau thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng
27 Kim Dung, 03/01/2010, Hàng Việt Nam trong mắt người nước ngoài, http://dantri.com.vn/c76/s76-
370867/hang-viet-nam-trong-mat-nguoi-nuoc-ngoai.htm.
62
thường xuyên, trong đó chỉ có một số rất ít doanh nghiệp Việt Nam được biết
rộng rãi trong cộng đồng các nhà nhập khẩu lớn. Đối với sản phẩm xuất khẩu,
ngoại trừ một vài doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu dưới thương hiệu
riêng của mình (như Công ty Scavi đang xuất khẩu sản phẩm dưới tên
CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, Công ty May Phương Đông xuất
khẩu sản phẩm dưới tên F HOUSE ..) còn lại hầu hết đều xuất khẩu sản phẩm
dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngoài. Có thể nói hoạt động quảng bá
thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngoài gần như
chưa có. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt
Nam không đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu sản phẩm ra nước
ngoài, trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì không
quan tâm xây dựng thương hiệu ở Việt Nam mà chủ yếu là sử dụng thương
hiệu của công ty mẹ tại nước ngoài. Đây cũng là một thách thức lớn cho
ngành dệt may nước ta trên con đường tạo dựng thương hiệu cho mình.
2.3.4. Hàng chất lượng cao, hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao
Đây là nhóm hàng nước ta đang khuyến khích phát triển trong dài hạn,
nhằm tạo nguồn thu lớn hơn cho tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy
nhiên, nhìn nhóm hàng này vẫn chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu hàng xuất
khẩu của nước ta và mặt hàng xuất khẩu cũng chưa đa dạng. Nguyên nhân là
do chúng ta còn thiếu công nghệ, thiếu những lao động chất lượng cao và còn
phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp FDI. Chính
vì vậy, hoạt động marketing quốc gia cho hàng chất lượng cao này cũng đang
dần được quan tâm hơn, tuy nhiên vẫn chưa đạt được nhiều hiệu quả. Trong
giới hạn bài luận văn này, tác giả xin phân tích hoạt động marketing quốc gia
trong lĩnh vực dây cáp điện xuất khẩu – một mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn
của nước ta trong nhóm hàng này.
Dây và cáp điện đang là mặt hàng xuất khẩu đầy tiềm năng, đứng trong
top 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, mà Nhật Bản, Hoa Kỳ và
63
Hồng Kông vẫn là những thị trường lớn. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng này tăng trung bình khoảng 31%/năm trong giai đoạn 2006 - 2010.28
(Biểu đồ 4)
Biểu đồ 4: Kim ngạch xuất khẩu dây cáp điện của Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các website: www.ttnn.com.vn,
www.vntrades.com, www.atpvietnam.com, www.itpc.gov.vn, … )
Việt Nam cũng đã xây dựng được một số thương hiệu mạnh về dây cáp
điện như là: Cadivi, Thịnh Phát, Thượng Đình, Trường Thành, Phú Nhuận, …
Trong đó, nổi bật là công ty cổ phần dây và cáp điện Việt Nam Cadivi, trở
thành thương hiệu chủ lực của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, là thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao trong
nhiều năm liền. Ngành dây cáp điện Việt Nam cũng tham gia các cuộc Hội
chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao, Hội chợ hàng xuất khẩu Việt Nam, tham
gia các Hội chợ Quốc tế với các nước khác trên thế giới như: Lào,
Campuchia, Myanma, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và
mang thương hiệu mặt hàng dây cáp điện của Việt Nam tới người tiêu dùng
thế giới. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất mặt hàng này cũng được cải
thiện đáng kể. Nhiều khu công nghiệp mọc lên nhanh chóng và trở thành vùng
đất hứa hẹn đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Trình độ tay
28 Thu Nga, 06/10/2009, Triển vọng xuất khẩu dây và cáp điện Việt Nam,
http://www.tapchicongnghiep.vn/KH-CN/ncpmud/2008/3/22381.ttvn.
64
nghề của người lao động cũng được nâng cao. Tất cả những nỗ lực đó đã góp
phần đáng kể trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm này.
Việt Nam hiện có trên 100 doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dây và cáp
điện. Tuy nhiên, xuất khẩu của nhóm hàng này chủ yếu vẫn do các doanh
nghiệp FDI thực hiện, nhất là các công ty có vốn đầu tư từ Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc như LG - Vina, Sumi - Hanel, ABB, Alpha Nam, E-Hin...
Cũng chính bởi điều này trở thành rào cản khó khăn cho các sản phẩm dây
cáp của doanh nghiệp trong nước trên con đường tìm chỗ đứng cho sản phẩm
mang thương hiệu của chính mình trên thị trường quốc tế, làm giảm nguồn
thu cho GDP của nước ta đáng kể.
2.4. Đánh giá chung
Nhìn chung, các hoạt động marketing quốc gia của nước ta ngày càng
được chú trọng nhiều hơn trong những năm gần đây và đạt được thành tựu
đáng kể. Việt Nam cùng với các doanh nghiệp trong nước dần dần nhận ra
tầm quan trọng cũng như giá trị lớn lao khi có thương hiệu mạnh cho sản
phẩm của mình và đang trên con đường gây dựng thương hiệu ấy. Hoạt động
marketing quốc gia đã tập trung vào việc xây dựng hình tượng Việt Nam và
các địa phương với những tiềm năng lớn cho phát triển xuất khẩu. Các hoạt
động marketing điểm hấp dẫn, marketing cơ sở hạ tầng, marketing con người
cũng được nước ta áp dụng trong chặng đường phát triển vừa qua. Từ đó, Việt
Nam cùng với một số địa phương như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh
Phúc… được thế giới biết đến nhiều hơn và trở thành những vùng đất đầy hứa
hẹn với các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài. Lĩnh vực xuất khẩu phát triển
hơn biểu hiện ở việc sản phẩm của Việt Nam được xuất khẩu rộng rãi trên thị
trường quốc tế đồng thời đã tìm được cho mình vị trí nhất định trong lòng
người tiêu dùng thế giới. Một số mặt hàng như: sản phẩm May Việt Tiến, cà
phê Trung Nguyên, cáp điện Cadivi… là những ví dụ điển hình cho thương
hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao được xuất khẩu ra thế giới. Có thể nói,
65
những hoạt động marketing này góp phần không nhỏ trong việc làm gia tăng
kim ngạch xuất khẩu, nâng cao giá trị hàng hóa và thương hiệu hàng Việt trên
thị trường quốc tế trong suốt những năm qua. Các ngành thế mạnh được
khuyến khích phát triển như: nông – lâm – ngư nghiệp, các ngành thu hút
nhiều lao động như: dệt may, thủy hải sản, … đã phát triển với tốc độ nhanh
chóng, mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho quốc gia và việc làm cho người
lao động trong nước. Xuất khẩu tăng không chỉ về số lượng mà còn cả về giá
trị, thị trường xuất khẩu được mở rộng, thương hiệu hàng hóa Việt Nam được
xây dựng và củng cố. Như vậy, chiến lược marketing quốc gia trong giai đoạn
2006 - 2010 đã thu được những thành công nhất định, góp phần vào việc hoàn
thành mục tiêu về kinh tế - xã hội được đề ra nói chung và mục tiêu xuất khẩu
nói riêng.
Tuy nhiên, chiến lược marketing quốc gia trong giai đoạn 2006 – 2010
vừa qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chiến lược xây dựng quốc gia bao
gồm: thiết kế kiến trúc, xây dựng cơ sở hạ tầng và việc cung ứng các dịch vụ
công cơ bản vẫn còn nhiều bất cập. Những điều này đã khiến cho hình tượng
Việt Nam giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế.
Bốn chiến lược marketing quốc gia: quảng bá hình tượng quốc gia, quảng bá
điểm hấp dẫn, quảng bá cơ sở hạ tầng và quảng bá con người chưa được phối
hợp với nhau nhiều. Thêm vào đó, sự hợp tác của ba chủ thể: Nhà nước, cộng
đồng doanh nghiệp và người dân trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược
marketing quốc gia còn lỏng lẻo và chưa ăn khớp. Mối quan hệ giữa thị
trường xuất khẩu với thị trường đầu tư, khách du lịch và cư dân cũng chưa
được khai thác tốt trong công tác marketing hỗ trợ cho nhau. Hiệp hội ngành
hàng, Cục Xúc tiến Thương mại… cũng chưa phát huy được nhiều tác dụng
trong việc giúp đỡ và bảo vệ các doanh nghiệp trong nước khi vươn ra thị
trường nước ngoài. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, Việt Nam còn rất nhiều
việc phải làm nếu muốn có một chiến lược marketing thực sự hiệu quả.
66
Chương cuối sẽ nêu một số giải pháp để xây dựng và hoàn thiện chiến lược
marketing quốc gia giúp thúc đẩy lĩnh vực xuất khẩu phát triển nhanh và bền
vững hơn.
67
CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHIẾN
LƢỢC MARKETING QUỐC GIA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TẠI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
3.1. Kinh nghiệm một số nƣớc trong việc áp dụng marketing quốc gia vào
hoạt động xuất khẩu hàng hóa - Bài học cho Việt Nam
3.1.1. Nhật Bản
Nhật Bản là một trong số những nước xây dựng nền kinh tế hiện đại
dựa trên sức mạnh xuất khẩu và đã thành công khi đi theo con đường này.
Trên thị trường thế giới, hầu hết khách hàng đều biết rằng các sản phẩm điện
tử được xem là chuẩn mực của Nhật. Nói đến hàng điện tử Nhật, người tiêu
dùng nghĩ ngay đến sự đa dạng về mẫu mã, sự tiện dụng về chức năng và sự
lâu bền về thời gian sử dụng. Hàng điện tử của Nhật đã tạo dựng được thương
hiệu vững chắc, một chỗ đứng khó nước nào có thể thay thế trong lòng người
tiêu dùng thế giới. Cũng vì thế mà hàng điện tử của Nhật xuất khẩu rất nhiều
ra các nước khác, đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này.
Với Nhật Bản, tác giả xin được giới hạn tìm hiểu về sản phẩm điện tử xuất
khẩu.
Kinh nghiệm đầu tiên của Nhật Bản đó là nước này đã áp dụng chiến
lược marketing cơ sở hạ tầng thành công để thu hút phát triển mặt hàng điện
tử xuất khẩu. Nhật Bản xây dựng rất nhiều các công viên khoa học phục vụ
sản xuất các mặt hàng công nghệ có giá trị gia tăng cao. Châu Á có hơn 200
công viên khoa học, tập trung được những chuyên gia giỏi và thường có uy
tín chuyên ngành. Trong đó, Nhật Bản là nước đi tiên phong về các công viên
68
khoa học, hiện vẫn dẫn đầu với hơn 100 công viên khoa học.29
Những công
viên khoa học này là một thành tố chủ chốt trong chiến lược thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Những công viên này có những đặc tính như: kết nối
vận hành với các trường đại học, trung tâm nghiên cứu và những viện giáo
dục sau đại học; được thiết kế nhằm khuyến khích sự hình thành và tăng
trưởng của các ngành dựa vào trí tuệ hay những công ty bậc ba có giá trị gia
tăng cao; có đội ngũ quản lý vững chắc luôn chủ động khuyến khích chuyển
giao công nghệ và kinh doanh đến các tổ chức đang thuê công nhân. Những
công viên này thực sự là nơi lý tưởng để phát triển các ngành công nghệ cao,
có giá trị gia tăng lớn và đã giúp Nhật Bản gia tăng xuất khẩu các mặt hàng
này.
Kinh nghiệm thứ hai là Nhật Bản đã thực hiện chiến lược marketing
hình tượng rất thành công trong sản phẩm điện tử. Năm 1957, công ty điện tử
Nhật Bản Sony cho ra đời radio bán dẫn nhỏ nhất thế giới TR-63 và đã trở
thành sản phẩm thành công nhất trên thị trường lúc đó bởi chất lượng cao, độc
đáo và có nhiều sản phẩm điện tử dành cho giới chuyên nghiệp. Các sản phẩm
của Sony đạt đến vị trí tôn vinh và tạo dựng được uy tín nhờ vào sự hỗ trợ của
marketing và quảng cáo ồ ạt chú trọng vào sự xác nhận của người tiêu dùng,
khen ngợi tính bền bỉ và chất lượng của các sản phẩm Sony. Nhãn hiệu Sony
có uy tín đến mức khi người tiêu dùng đã biết Sony là một công ty Nhật Bản,
thì sự tín nhiệm vào hãng Sony lan truyền sang các sản phẩm khác của Nhật.
Điều này đã đề cao đáng kể hình ảnh của nước Nhật và các sản phẩm điện tử
của Nhật. Về mặt này, Sony đã giúp bán được nhiều nhãn hiệu khác, ngay cả
nhãn hiệu của đối thủ cạnh tranh, miễn là “Made in Japan”. Có thể nói, từ
thành công của Sony, các công ty điện tử của Nhật cũng đã tìm được vị trí cho
mình trên thị trường quốc tế. Danh tiếng Nhật Bản gắn liền với hàng điện tử
29 Phillip Kotler (2002), Chương 6: Chiến lược cải thiện địa phương, Chương trình giảng dạy Fulbright tháng
11/2004, trang 18.
69
không chỉ bắt nguồn từ sản phẩm mà còn từ khả năng tiếp cận, lịch sử và uy
tín phục vụ. Những điều này Nhật Bản đã phối hợp làm rất tốt vì thế đã tạo
dựng được thương hiệu vững chắc trong lòng người tiêu dùng trong và ngoài
nước.
Kinh nghiệm thứ ba là Nhật Bản thực hiện chiến lược marketing điểm
hấp dẫn rất thành công. Nước này xây dựng cho mình các địa phương thành
điểm nóng xuất khẩu. Nhiều địa phương đã phản ứng bằng cách tích cực xúc
tiến những trung tâm hàng không như là cửa ngõ thương mại và xuất khẩu ví
dụ như Tokyo với sân bay Tokyo Narita. Chính phủ Nhật cũng cho thành lập
ngân hàng xuất nhập khẩu Nihon Yushutsunyu như là các định chế tài chính
nhằm khuyến khích thương mại và đầu tư nước ngoài, cho các nhà xuất nhập
khẩu Nhật cũng như các nước kém phát triển đang nhập khẩu sản phẩm của
Nhật vay với lãi suất thấp. Có thể thấy những cách thức marketing này của
Nhật giúp lĩnh vực xuất khẩu của nước này phát triển nhanh chóng, gia tăng
số lượng và kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
3.1.2. Thái Lan
Khi nhắc đến kinh tế Thái Lan, không ai là không nghĩ đến sản phẩm
gạo xuất khẩu. Trong phần này, tác giả chỉ xin phân tích một số thành công và
nét khác biệt của Thái Lan trong việc tạo dựng thương hiệu cho hạt gạo nước
này cũng như đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm đó.
Chính sách đẩy mạnh về xuất khẩu gạo của Thái Lan đã giúp nước này
khẳng định được vị thế xuất khẩu gạo hàng đầu của mình. Với khối lượng gạo
xuất khẩu lớn, chiếm tới 30% tổng số lượng gạo xuất khẩu của toàn thế giới
đã khiến Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới trong suốt
khoảng thời gian từ giữa những năm 1990 và đến hiện tại vẫn chưa có quốc
gia nào chiếm đoạt được vị trí này của Thái Lan. So với các quốc gia xuất
khẩu gạo lớn khác như Việt Nam, Ấn Độ và Hoa Kỳ thì xuất khẩu gạo của
70
Thái Lan luôn tỏ ra vượt trội cả về chất lượng và giá trị gạo. Trong tổng số
gạo xuất khẩu thì gạo chất lượng cao của Thái Lan luôn chiếm tỷ trọng rất lớn
(47.6 %) và luôn được trả giá cao trên thị trường. Trong khi đó nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai là Việt Nam lại chủ yếu xuất gạo loại trung bình. Hơn
thế nữa, so với gạo cùng chủng loại thì giá gạo xuất khẩu của Thái Lan luôn
cao hơn nhiều so với giá gạo của Việt Nam. Tuy chỉ xếp thứ 6 về sản lượng
gạo sản xuất (Trung Quốc là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới) nhưng Thái
Lan lại là nước xuất khẩu gạo lớn nhất. Sự khác biệt lớn này có được chủ yếu
là nhờ vào chính sách xuất khẩu gạo đúng hướng và có hiệu quả của Thái
Lan. Trong đó, một phần không nhỏ là có sự đóng góp của chiến lược
marketing quốc gia đã tạo dựng nên một thương hiệu gạo Thái chất lượng cao
trên thị trường quốc tế.
Trước hết, Thái Lan phối hợp tốt vai trò của các chủ thể trong chiến
lược marketing quốc gia đối với sản phẩm gạo xuất khẩu. Nước này đã xây
dựng một mạng lưới marketing thông qua các hợp tác xã nông nghiệp, nhóm
nông dân và đặc biệt là Tổ chức Thị trường dành cho Nông dân MOF
(Marketing Oganization for Farmers) để phân phối sản phẩm tới người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Hệ thống phân phối thóc được chia ra làm hai cấp:
cấp địa phương và cấp chợ tập trung. So với các nước khác, hệ thống phân
phối của Thái Lan đem lại hiệu quả hơn nhiều. Có được sự hiệu quả đó là do
có khoảng thời gian một tháng giữa các vụ diễn ra việc lưu kho và bán sỉ.
Khoảng thời gian này là một phần của chính sách gạo Thái, là một quy tắc cần
thiết khi tham gia và thương mại quốc tế mặt hàng gạo. Nhờ có khoảng thời
gian này, yếu tố mùa vụ không làm giá cả lên xuống thất thường. Vì thế, giá
gạo của Thái Lan luôn cao hơn so với các nước khác do chủ động được thời
gian bán ra thị trường. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các nhà quản lý Nhà nước,
doanh nghiệp xuất khẩu gạo và người dân đã giúp cho xuất khẩu gạo của Thái
Lan đứng đầu thế giới cả về sản lượng, giá trị và chất lượng gạo.
71
Kinh nghiệm thứ hai của Thái Lan là nước này đã áp dụng thành công
chiến lược marketing hình tượng đối với sản phẩm gạo. Chính phủ Thái Lan
phát động chiến dịch để gạo và các sản phẩm làm từ gạo trở thành thực phẩm
quốc gia. Nước này chủ trương tăng cường sử dụng gạo và các sản phẩm làm
từ gạo cho bữa ăn sáng ở bệnh viện, tàu hỏa, xe buýt du lịch và máy bay, tổ
chức triển lãm gạo quốc tế ở Thái Lan hàng năm, thiết kế thực đơn thức ăn
làm từ gạo cho các nhà hàng ăn Thái ở nước ngoài. Từ đó, hạt gạo Thái có thể
chen chân được vào nhiều nơi, hình ảnh gạo Thái trở nên rõ ràng hơn, chân
thật hơn và được nhiều người biết đến hơn. Hình tượng đất nước Thái Lan
gắn liền với hình ảnh của hạt gạo. Điều này tạo nên sự phát triển bền vững
cho gạo xuất khẩu nước này.
Kinh nghiệm thứ ba đó là Thái Lan đề ra mục tiêu rõ ràng và thực hiện
đúng theo mục tiêu đó. Thái Lan luôn đặt mục tiêu chất lượng gạo lên hàng
đầu nhằm tạo dựng niềm tin vững bền trong lòng người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Nước này quan tâm tới việc nghiên cứu các giống lúa mới chất
lượng cao, cải tạo cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư vào trồng lúa, phân vùng
trồng từng loại lúa theo các giống lúa khác nhau nhằm tăng cường chất lượng
và đặc tính của từng giống lúa để phù hợp với nhu cầu của thị trường gạo
trong nước và quốc tế. Chính những chính sách này đã khiến cho gạo Thái
Lan luôn có chất lượng tốt và được nhiều thị trường ưa chuộng lựa chọn.
Kinh nghiệm thứ tư là Thái Lan rất quan tâm tới vấn đề xuất xứ hàng
hóa và đã bảo vệ thành công cho sản phẩm gạo xuất xứ Thái Lan. Nước này
rất chú trọng đến việc thiết kế và làm bao bì đa dạng, bắt mắt và có thể sử
dụng được lâu dài. Bao bì chứa gạo của Thái Lan có nhiều kích thước và hình
dạng, có thể nhận biết được dễ dàng địa phương sản xuất ra sản phẩm. Bao bì
được làm từ các vật liệu ở địa phương và thiết kế như là những món quà hay
đồ lưu niệm. Loại bao này được thiết kế cẩn thận có thể bảo quản được chất
lượng của gạo và các sản phẩm gạo khác trong thời gian dài.
72
Với chiến lược marketing rất riêng trên, Thái Lan đã thu được nhiều
thành công trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm gạo. Thành công không chỉ thể
hiện là kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan chiếm tỉ trọng lớn trong GDP
của nước này, mà hơn thế nữa, đó còn là thành công trong việc tạo dựng
thương hiệu cho sản phẩm gạo cho mình. Thế giới nhắc đến Thái Lan là nhắc
đến sản phẩm gạo. Thương hiệu gạo Thái luôn được đánh giá cao, là sản
phẩm có chất lượng tốt trên thị trường gạo thế giới.
3.1.3. Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia đang phát triển với tốc độ nhanh chóng
chưa từng thấy, trở thành nền kinh tế đứng thứ 3 thế giới từ năm 2007.30
Tìm
hiểu về Trung Quốc, tác giả xin được phân tích một số nét riêng trong chiến
lược marketing quốc gia cho lĩnh vực dệt may nước này.
Trung Quốc là nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Tốc độ xuất
khẩu dệt may của Trung Quốc tăng rất nhanh, năm 2006, kim ngạch xuất
khẩu dệt may của Trung Quốc đạt 147 tỷ USD, chiếm 30% tổng thị phần xuất
khẩu dệt may của thế giới.31
Các sản phẩm dệt may Trung Quốc được biết đến
nhờ giá rẻ vì thế hàng dệt may của nước này đã tràn lan khắp các thị trường
của nhiều nước như: Mỹ, châu Âu… Việt Nam mặc dù là quốc gia có kim
ngạch xuất khẩu dệt may lớn nhưng cũng bị thống trị bởi các sản phẩm dệt
may “Made in China” này. Sức mạnh của hàng dệt may Trung Quốc không
chỉ nằm ở chi phí tiền lương thấp vì trên thực tế đây không phải là nước trả
tiền công thấp nhất khu vực. Sức mạnh của Trung Quốc chính là chi phí tính
trên đơn vị sản phẩm thấp nhờ vào năng suất cao và nền kinh tế điều hòa tốt.
30 Xuân Hòa, 15/01/2009, Kinh tế Trung Quốc đứng thứ ba thế giới từ năm 2007,
http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Quoc-te/2009/01/3BA0A75A/.
31 M.Hà, 14/06/2007, Hàng dệt may Trung Quốc sẽ chuyển sang thị trường ASEAN và châu Phi,
http://www.sggp.org.vn/kinhte/2007/6/105433/.
73
Kinh nghiệm đầu tiên đó là Trung Quốc xây dựng rất nhiều điểm hấp
dẫn nhằm thu hút phải triển ngành dệt may. Ở nước này, các cụm ngành may
mặc được hình thành nên rất thuận tiện cho quá trình sản xuất cũng như phân
phối sản phẩm dệt may. Có thể lấy ví dụ như cụm ngành may mặc Quảng
Đông. Cụm ngành này tập trung rất nhiều trung tâm dệt may của Trung Quốc,
hàng năm xuất khẩu hàng may mặc 11,8 tỷ USD, chiếm tỉ trọng 20% giá trị
hàng xuất khẩu dệt may của cả nước này. Cụm ngành có thể hiểu là một nhóm
các doanh nghiệp và định chế hỗ trợ cùng tập trung gần nhau tại một vùng
địa lý, được kết nối với nhau bởi các giá trị chung và sự tương hỗ.32
Cụm
ngành may mặc ở Quảng Đông được cấu thành như hình dưới.(Biểu đồ 5)
Sơ đồ 5: Kết cấu cụm ngành may mặc ở Quảng Đông – Trung Quốc
(Nguồn: Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright).
32 Nguyễn Xuân Thành (2006), Phát triển các cụm ngành kinh tế, Chương trinh giảng dạy kinh tế Fulbright.
Tài chính:
Vốn trong nước +
FDI
Trường đào tạo
công nhân kỹ
thuật
Trường quản trị
kinh doanh
Trường thiết kế
thời trang
Mạng lưới nguyên
liệu (bông, len, lụa)
Mạng lưới phụ kiện
(Dệt, nhuộm)
Doanh nghiệp may
mặc
Mạng lưới xuất khẩu
(Công ty có thương
hiệu, DN XNK,
phân phối)
Mạng lưới bán lẻ
Cụm ngành máy
móc thiết bị năng
Cụm ngành hóa
chất
Thiết bị may
Cụm ngành da
giày
Cụm ngành vận
tải Cụm ngành
thương mại
XNK
Cơ quan QLNN Hiệp hội dệt may
74
Hình thành các cụm ngành dệt may như thế này đã thúc đẩy năng suất
gia tăng; tăng khả năng tiếp cận với thông tin, dịch vụ và nguyên liệu chuyên
biệt; tăng tốc độ và giảm chi phí điều phối cũng như giao dịch giữa các doanh
nghiệp trong cụm ngành; tăng cạnh tranh trong đó tập trung vào việc cải thiện
chất lượng trên cơ sở so sánh với các đối thủ trong cụm ngành; thúc đẩy đổi
mới do giảm chi phí và rủi ro thử nghiệm công nghệ mới trước sự sẵn có của
nguồn lực tài chính và kỹ năng, dịch vụ hỗ trợ và các doanh nghiệp khâu
trước –khâu sau; và cuối cùng là thúc đẩy thương mại hóa. Tóm lại, lợi ích
then chốt của cụm ngành công nghiệp là đồng thời tăng cạnh tranh, tăng hợp
tác, và tạo tác động lan tỏa. Từ đó mà giá cả sản phẩm dệt may của Trung
Quốc luôn giữ ở mức thấp, khó có quốc gia nào vượt mặt nổi Trung Quốc nếu
so về giá. Như vậy, chiến lược marketing điểm hấp dẫn đã góp phần không
nhỏ vào sự phát triển của ngành dệt may nói chung và lĩnh vực xuất khẩu mặt
hàng này nói riêng.
Kinh nghiệm thứ hai đó là Trung Quốc cũng rất chú trọng việc mở rộng
thị trường xuất khẩu ra khắp thế giới, quan tâm tới xây dựng thương hiệu
mang xuất xứ “Made in China” và biết tận dụng tối đa những thuận lợi của
đất nước để phát triển ngành dệt may nhanh chóng. Công ty Esquel Group trụ
sở Hồng Kông là một ví dụ. Công ty này đã mở rộng thị trường xuất khẩu ở
khắp châu Á bằng cách sản xuất ra hàng may mặc xuất khẩu có chất lượng
tầm cỡ thế giới. Công ty này đã rất tích cực trong việc tạo ra một hình tượng
mạnh mẽ trong số các nhà bán sỉ với những nhãn hiệu của Trung Quốc,
Malaysia, Philippines. Đặc biệt, Esquel đã khai thác cẩn thận thương hiệu
Trung Quốc trên toàn thế giới. Công ty này cũng thành công khi mang hoạt
động sản xuất hiện đại đến những vùng hẻo lánh như tỉnh Tân Cương phía
Bắc Trung Quốc. Đất rẻ, nhân công rẻ, việc làm có chất lượng, lực lượng lao
động có tay nghề cao và có khả năng thích ứng và những yếu tố khác đã đặt
Trung Quốc vào một vị trí đáng ganh tị. “Vào một ngày bất kỳ Trung Quốc có
75
thể trở thành nơi sản xuất tốt nhất trên thế giới,” Surinder Chhibber nhà quản
lý cao cấp của Esprit, công ty may mặc khổng lồ trên thế giới, cho biết. “Họ
có nhân lực, kỹ năng và bí quyết để làm điều đó.” Ngay cả những thương hiệu
nổi tiếng nước ngoài như Esprit, Benetton và Calvin Klein, cũng chọn Trung
Quốc làm nơi sản xuất không chỉ vì giá nhân công rẻ mà còn do chất lượng
lao động tốt hơn. Ngày nay, mác của rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng đều ghi
“Sản xuất tại Trung Quốc” với những lý do xác đáng.33
Chính vì vậy, xuất
khẩu dệt may của Trung Quốc luôn giữ vị trí top đầu thế giới và đóng góp lớn
vào kim ngạch xuất khẩu của nước này.
3.1.4. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua tìm hiểu một số ví dụ điển hình về chiến lược marketing quốc gia
trong việc đẩy mạnh xuất khẩu ở trên, chúng ta có thể rút ra một số bài học
cho Việt Nam trong việc tìm ra lối đi cho lĩnh vực xuất khẩu của nước mình
cũng như cho việc tạo dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia trong lòng người
tiêu dùng thế giới.
Áp dụng chiến lược marketing cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế, đặc biệt là phát
triển các ngành công nghiệp và công nghệ cao. Nhật Bản trở thành đất nước
nổi tiếng với sản phẩm điện tử cũng bởi đã xây dựng cho mình cơ sở hạ tầng
tốt và marketing thu hút các doanh nghiệp đến đó sản xuất kinh doanh mặt
hàng này từ rất lâu. Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn thiếu thốn, chất
lượng kém đã ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu
nói riêng của nước ta. Chính vì thế, các mặt hàng xuất khẩu của nước ta chủ
yếu là sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế, giá trị gia tăng thấp. Các ngành đòi
hỏi phải đầu tư nhiều cho cơ sở hạ tầng chưa phát triển nhiều. Do đó, nếu Việt
33 Phillip Kotler (2002), Chương 3: Các địa phương tiếp thị mình như thế nào, Chương trình giảng dạy
Fulbright 11/2004, trang 17.
76
Nam muốn chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu thì cần phải đầu tư nhiều hơn
nữa cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng càng sớm càng tốt. Có như vậy, kim
ngạch xuất khẩu của nước ta mới cao được.
Hiểu rõ mình và có chiến lược marketing hình tượng hiệu quả
Có thể xem Nhật Bản là hình mẫu thành công trong việc tạo dựng được
hình tượng vững chắc cho mình trong lòng người tiêu dùng thế giới. Là một
đất nước ko được thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, phải
hứng chịu nhiều thiên tai, động đất hàng năm nhưng những gì Nhật Bản đã
đạt được thì lại không hề nhỏ, đáng để các nước khác phải học tập và noi
theo. Chiến lược marketing quốc gia mà các nhà hoạch định chính sách của
Nhật đã chọn đó là nhằm vào đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng
công nghệ và giá trị gia tăng cao. Có thể nói, Nhật Bản đã hiểu được mình,
biết được điểm mạnh điểm yếu của mình từ đó đã có hướng phát triển đúng
đắn. Chiến lược marketing hình tượng đã đưa Nhật Bản trở thành biểu tượng
của các sản phẩm điện tử. Hình tượng đó tồn tại vững chắc trong lòng người
tiêu dùng thế giới không chỉ trong quá khứ, hiện tại và còn trong cả tương lai
nữa. Thành công trong việc tạo dựng và giữ gìn hình tượng của Nhật Bản đã
góp phần rất nhiều vào sự phát triển kinh tế của nước này.
Trung Quốc cũng đã tạo dựng cho mình được thương hiệu về các sản
phẩm giá rẻ, đặc biệt là về may mặc và da giầy. Vì vậy, khi nhắc tới sản phẩm
của Trung Quốc, người tiêu dùng nghĩ ngay tới các sản phẩm đa dạng với giá
cả cạnh tranh, rẻ hơn rất nhiều so với sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Thái Lan cũng không bỏ qua vấn đề xây dựng và quảng bá hình tượng, quảng
bá thương hiệu sản phẩm đất nước mình. Chính thành công trong chiến lược
tạo dựng thương hiệu quốc gia về sản phẩm lúa gạo nên sản phẩm lúa gạo của
Thái Lan luôn được người tiêu dùng đánh giá là có chất lượng cao hơn và
cũng bán được với giá cao hơn sản phẩm gạo của các nước khác như Việt
Nam, Trung Quốc…
77
Từ đó có thể thấy, tập trung xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia
cho sản phẩm tiêu biểu, sản phẩm thế mạnh của Việt Nam hiện nay là hết sức
cần thiết nếu như nước ta muốn có chỗ đứng cao hơn nữa trên thị trường xuất
khẩu của thế giới. Chiến lược marketing hình tượng nếu được quan tâm thực
hiện và đi đúng hướng sẽ tạo nên những hiệu quả lớn không chỉ cho xuất khẩu
mà còn cho cả nền kinh tế đất nước.
Xây dựng các điểm hấp dẫn
Trung Quốc đã rất thành công trong việc đẩy mạnh thu hút đầu tư và
xuất khẩu hàng hóa thông qua chiến lược marketing điểm hấp dẫn. Bằng việc
xây dựng cụm ngành công nghiệp, Trung Quốc đã thu hút được nhiều doanh
nghiệp tập hợp lại nhằm giảm bớt chi phí sản xuất. Cấu thành của cụm ngành
công nghiệp này gồm có:
- Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng;
- Các ngành khâu trước –khâu sau;
- Các doanh nghiệp cung ứng chuyên biệt;
- Các đơn vị cung cấp dịch vụ;
- Các ngành khác có chia sẻ về hoạt động sản xuất, công nghệ và quan hệ
khách hàng;
- Các định chế tài chính, giáo dục, nghiên cứu và cơ sở hạ tầng.
Những cụm ngành này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình sản xuất,
rút ngắn thời gian vận chuyển nguyên liệu tới nơi sản xuất và từ nơi sản xuất
tới nơi đóng gói và phân phối. Từ đó, có thể làm giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của nước ta trên thị trường xuất
khẩu thế giới.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động của các chủ thể trong marketing quốc gia
Kinh nghiệm của Thái Lan trong xuất khẩu gạo đã cho thấy rằng nếu có sự
kết hợp của cả ba chủ thể trong marketing sẽ tạo được hiệu quả lớn. Người
78
dân sản xuất, doanh nghiệp thu mua và Nhà nước điều tiết đã phối hợp với
nhau nhịp nhàng giúp cho gạo Thái Lan luôn giữ giá cao trên thị trường trong
bất cứ mùa vụ nào. Từ đó, giá trị xuất khẩu thu được cũng cao hơn các nước
khác. Vấn đề giá cả lúa gạo của nước ta rất bấp bênh, gây lo lắng và thiệt thòi
không chỉ cho người nông dân mà còn ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Điều này cũng một phần là do sự phối hợp giữa ba chủ thể trên
của nước ta chưa được tốt. Chính vì thế, Việt Nam cần làm tốt hơn nữa trong
việc tạo dựng và duy trì mối liên kết này sao cho hiệu quả.
Thực hiện có hiệu quả và đồng bộ 4 chiến lược marketing: marketing hình
tượng, marketing các điểm hấp dẫn, marketing cơ sở hạ tầng và marketing
con người.
Nhật Bản có được sự phát triển nhanh và bền vững trong lĩnh vực xuất
khẩu như ngày nay là do đã thực hiện đồng bộ cả bốn chiến lược marketing
với nhau. Nước này đã xây dựng thành công hình tượng một đất nước gắn
liền với hàng điện tử, hình thành được nhiều điểm hấp dẫn, đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng để thu hút phát triển sản phẩm điện tử. Con người Nhật Bản
cũng đã góp phần marketing cho đất nước này bằng sự khéo léo, tính cần cù,
lòng nhiệt huyết cũng như tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Những
đặc điểm này rất có ích trong việc sản xuất các mặt hàng điện tử. Kết hợp
được cả bốn chiến lược marketing quốc gia này, vị trí hàng điện tử của Nhật
Bản khó có nước nào có thể chiếm lĩnh được. Hơn thế nữa, lĩnh vực xuất khẩu
có mối quan hệ chặt chẽ với bốn thị trường còn lại của marketing quốc gia đó
là: đầu tư, du lịch, và dân cư. Chính vì vậy cần phải có kế hoạch phát triển
đồng bộ cả bốn thị trường này để có thể tận dụng được tác động gián tiếp từ
ba thị trường đầu tư, du lịch, dân cư đối với thị trường xuất khẩu.
79
3.2. Xây dựng và hoàn thiện chiến lƣợc marketing quốc gia trong giai
đoạn 2010 – 2015.
3.2.1. Tầm nhìn, mục tiêu phát triển
3.2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Ngày 21/11/2009, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc đã chủ
trì Hội thảo tham vấn các nhà tài trợ, các Bộ, Ngành về "Dự thảo lần thứ nhất
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 –2015". Bản dự thảo đưa ra
mục tiêu là đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành nước công nghiệp có trình độ
phát triển trung bình. Mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2020 là phát huy lợi
thế và tính cạnh tranh riêng của từng vùng trong mối liên kết chung để đẩy
mạnh kinh tế - xã hội của tất cả các vùng, tạo nên thế mạnh của mỗi vùng
theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tập
trung phát triển các trung tâm kinh tế lớn, trọng điểm; nâng cao hiệu quả các
khu công nghiệp, khu chế xuất và các cụm công nghiệp tạo động lực để phát
triển nhanh và bền vững tất cả các vùng kinh tế. Tăng cường sự liên kết giữa
các vùng và trong nội bộ từng vùng để khắc phục rõ rệt tình trạng chia cắt
theo địa giới hành chính, phát triển khép kín, lãng phí.34
3.2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Bản kế hoạch giai đoạn 5 năm 2011–2015 chưa chính thức được Chính
phủ phê duyệt. Đây mới là Dự thảo lần một của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công
bố để lấy ý kiến. Theo đó, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-
2015 được xây dựng trên 3 trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường. 35
34 Thông tấn xã Việt Nam, 08/12/2009, Hội thảo tham vấn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-
2015, http://oda.mpi.gov.vn/Tint%E1%BB%A9c/tabid/126/articleType/ArticleView/articleId/146/Default.
aspx.
35 Minh Châu, 23/11/2009, Công bố Dự thảo phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015,
http://www.bee.net.vn/channel/2043/200911/Cong-bo-Du-thao-ke-hoach-phat-trien-KTXH-5-nam-1730138/.
80
Về kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn này là GDP bình quân 5
năm tăng 7-8%/năm, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân
12%/năm, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 22-23,5%
GDP, tỷ trọng đầu tư phát triển 5 năm 2011-2015 khoảng 40-41% GDP.
Về xã hội, chỉ tiêu chủ yếu tới 2015 là tỷ lệ lao động được đào tạo đạt
55%, quy mô dân số là 93 triệu người, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm
2%/năm, tỷ lệ thất nghiệp thành thị khoảng 4%.
Về môi trường, chỉ tiêu chủ yếu đặt ra tới năm 2015 là tăng tỷ lệ che
phủ rừng lên 42,5%, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch hợp vệ
sinh khoảng 96%, dân cư thành thị được cung cấp nước sạch khoảng 98%.
Nước ta cũng chú trọng tới việc phát triển lĩnh vực sản xuất công -
nông nghiệp, xuất khẩu, nhất là việc nâng giá trị gia tăng của ngành trong
GDP, vấn đề tăng chỉ số hàm lượng công nghệ. Đồng thời cũng nêu ra cần
xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng.
3.2.2. Chiến lược marketing quốc gia cho giai đoạn tới
Chiến lược marketing quốc gia cũng đã được nước ta quan tâm thực
hiện từ nhiều năm nay và cũng đã góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế -
xã hội đất nước, góp phần mang hình ảnh Việt Nam, sản phẩm Việt Nam ra
thế giới. Tuy nhiên, đến nay chiến lược này vẫn còn nhiều hạn chế trong vấn
đề định hướng và thực hiện. Hơn nữa, môi trường cạnh tranh thế giới, bối
cảnh toàn cầu cũng như tiềm lực và điều kiện của nước ta có nhiều biến động
và thay đổi. Chính vì thế, mỗi giai đoạn khác nhau thì nước ta cũng cần thay
đổi chiến lược marketing quốc gia cho phù hợp với sự thay đổi đó. Trong
khóa luận này, tác giả nhấn mạnh tới việc xây dựng và hoàn thiện “Chiến
lược xây dựng tiềm lực quốc gia” và “Chiến lược quảng bá quốc gia”.
81
3.2.2.1. Chiến lược xây dựng quốc gia
Thiết kế kiến trúc
Các nhà đầu tư, du khách, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hay
dân cư thường đề cập đến cảm nhận về một quốc gia, một địa phương hay đặc
điểm riêng biệt của quốc gia, địa phương đó. Kiến trúc đô thị bộc lộ rất nhiều
đặc điểm của một quốc gia và bản sắc của dân tộc đó chuyển từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đan xen các cấu trúc vật chất đa dạng thành một kết cấu
tổng quát của một địa phương là cả một nghệ thuật. Kiến trúc đô thị tạo nên
một lời tuyên ngôn của một địa phương vì nó phản ánh các giá trị và việc ra
quyết định kết hợp như thế nào đối với các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát
triển.
Từ xưa tới nay, những vùng phát triển nhất của một quốc gia thường
định hình xung quanh các đầu mối giao thông như cảng biển tự nhiên, các
điểm gần sông và sau này gần đường xe lửa, càng hàng không. Cấu trúc giao
thông vận tải được định hình cho mô hình diễn biến sự phát triển của một địa
phương. Trong nội bộ một nước, cấu trúc giao thông vận tải liên kết sự phát
triển thương mại, công nghiệp và nơi cư ngụ. Đối với quốc tế, cấu trúc này
tạo nên thị trường cho nguyên liệu và sản phẩm cuối cùng. Mối quan hệ giữa
kiến trúc đô thị và quy hoạch địa phương của một quốc gia phả ánh đặc điểm
địa lý, văn hóa và vai trò của các nhà lãnh đạo Nhà nước và tư nhân.
Nước ta cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề xây dựng kiến trúc ở giai
đoạn tới. Quy hoạch đô thị cần phải ngày càng gia tăng hơn nữa và phải kết
hợp với tư tưởng chủ đạo về marketing điểm đến. Chất lượng cuộc sống và
môi trường trở nên được chú ý thường xuyên hơn như là những yếu tố để thu
hút. Sự cạnh tranh trên thế giới ngày càng gay gắt đòi hỏi các quốc gia cần
phải tự mình phát triển kinh tế nước mình nhiều hơn nữa bởi từ đó sẽ khuyến
khích những tư tưởng tiến bộ trong quy hoạch phát triển quốc gia, phát triển
các vùng miền. Các động lực tiềm tàng là nhu cầu của một quốc gia nhằm đưa
82
chất lượng cuộc sống và môi trường độc đáo thú vị có tính lịch sử và truyền
thống của dân tộc đó. Kiến trúc đô thị là một vấn đề quan trọng không chỉ đối
với những vùng phát triển, những thành phố lớn của một đất nước mà còn đối
với những tỉnh lẻ đang chứng kiến nhiều lợi ích từ những kiến trúc đô thị có
quy mô nhỏ. Sức hút tiềm năng của những đô thị nhỏ này ngày càng được
đánh giá cao và nếu được đầu tư xây dựng sẽ hứa hẹn là điểm đến đầy mới lạ
cho các nhà đầu tư.
Các nhà lãnh đạo quốc gia cũng cần phải tính đến một khuynh hướng
mới đang gia tăng trong kiến trúc đô thị là việc xây dựng và duy trì khu vực
“cánh đồng xanh”. Đây là sự đối lập với dự án “cánh đồng nâu” trong đô thị
thành phố. Các cộng đồng nhỏ trong khu vực dân cư ngoại ô của một thành
phố lớn hay khu công nghiệp thường có yêu cầu được tiếp xúc với “cánh
đồng xanh”. Môi trường cũng là mục tiêu được đề cập tới trong bản thảo
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạng 2011 – 2015.36
Vì
vậy, trong kiến trúc đô thị chúng ta cũng cần quan tâm hơn tới việc xây dựng
đô thị xanh. Điều này sẽ tạo thiện cảm với các nhà đầu tư, người dân và khách
du lịch.
Các quốc gia ngày nay nỗ lực xây dựng kiến trúc đô thị và sử dụng nó
như là công cụ để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Những cách
tiếp cận hiện nay đối với kiến trúc đô thị nhấn mạnh vào đặc điểm vật chất,
khu vực, quốc gia cùng với những cách thức để tái hiện lại những đặc điểm
truyền thống và lịch sử của đất nước. Vì vậy, cần phải biết cách kết hợp giữa
cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái riêng và cái chung
để tạo thành một tài sản có giá trị trong việc giữ chân các nhà đầu tư, cư dân
và khách du lịch.
36 Minh Châu, 23/11/2009, Công bố Dự thảo phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015,
http://www.bee.net.vn/channel/2043/200911/Cong-bo-Du-thao-ke-hoach-phat-trien-KTXH-5-nam-1730138/.
83
Cải thiện cơ sở hạ tầng
Kiến trúc đô thị mang lại đặc điểm độc đáo đặc trưng cho quốc gia thì cơ
sở hạ tầng lại tạo ra khả năng thu hút cho kiến trúc đó. Cơ sở hạ tầng đóng vai
trò quan trọng trong hoạt động marketing quốc gia, thậm chí còn có thể sử
dụng marketing cơ sở hạ tầng như một trong bốn chiến lược marketing quốc
gia chính. Chính vì vậy, việc cải thiện cơ sở hạ tầng là điều tất yếu và vô cùng
quan trọng trong tiến trình phát triển của một quốc gia.
Hiện nay, cơ sở hạ tầng của nước ta vẫn còn yếu. Mặc dù trong giai đoạn
2006- 2010, nước ta cũng đã dành không ít nguồn lực để xây dựng mới và tu
bổ lại cơ sở hạ tầng nhưng vẫn không thể đáp ứng kịp với sự phát triển của
đất nước cũng như vấn đề gia tăng dân số ở nước ta. Một vấn đề nữa đó là,
nước ta cũng cần đặc biệt chú ý tới việc quản lý cơ sở hạ tầng. Điều đó có
nghĩa là cần tránh tình trạng thất thoát của chính quyền các cấp, doanh nghiệp
và người dân bắt nguồn từ đầu tư không đúng mức hay đầu tư không hiệu
quả. Có thể lấy ví dụ như điều kiện yếu kém của hệ thống giao thông ở nước
ta đã làm tăng đáng kể chi phí vận hành các phương tiện giao thông. Tình
trạng tắc đường, chất lượng mặt đường kém dẫn tới tai nạn nhiều, giảm tốc độ
các phương tiện chuyên chở… vẫn còn là vấn đề đau đầu của các nhà hoạch
định chính sách của nước ta hiện nay. Do đó, trong giai đoạn tới, Việt Nam
cần chú trọng phát triển hơn nữa về cơ sở hạ tầng nếu muốn phát triển nhanh
và bền vững kinh tế - xã hội.
Hơn thế nữa, việc cải thiện cơ sở hạ tầng tốt hơn hết là phải gắn liền với
nhu cầu phát triển của từng địa phương, phải đi cùng với một chiến lược
marketing địa phương cụ thể. Trong nhiều trường hợp, đầu tư cơ sở hạ tầng
phải thu hút các nhà đầu tư mới để đáp ứng không ngừng các nhu cầu, quyền
lợi và cải thiện vị thế cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. Chúng ta
84
không thể thích làm gì thì làm để rồi xây rồi lại phá, gây lãng phí mà cần phải
có tầm nhìn và chiến lược xây dựng cơ sở hạ tầng trong dài hạn.
Các dịch vụ công cơ bản
Các quốc gia muốn thành công trên con đường phát triển và tìm chỗ
đứng trên thế giới không chỉ đòi hỏi thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng tốt mà
còn cần đòi hỏi các dịch vụ công cộng có hiệu quả. Dịch vụ công nghèo nàn,
đặc biệt là về giáo dục và an ninh trật tự có thể đặt ra những vấn đề hết sức
cấp thiết. Trái lại, quốc gia có các dịch vụ công chất lượng cao với các hoạt
động khuyến trương hiệu quả sẽ là một trong những nét hấp dẫn hàng đầu của
quốc gia.
Khả năng thu hút và duy trì hoạt động kinh doanh của một quốc gia sẽ bị
suy giảm khi nó nổi tiếng là nơi có tỷ lệ tội phạm cao hay trường học có chất
lượng kém. Đây là những vấn đề người ta nghĩ đến trước nhất khi họ nghĩ đến
việc có nên tới du lịch hay đầu tư vào quốc gia bạn hay không. Trong quá
khứ, kinh doanh thường đổ về những nơi có thuế thấp và chỉ có một vài dịch
vụ. Hiện tại, kinh doanh tập trung vào những nơi có vị trí gần các tuyến giao
thông và những nơi cung cấp nhiều dịch vụ chất lượng cao, góp phần nâng
cao hiệu suất và chất lượng sản phẩm. Các nhà đầu tư không thể nào yên tâm
sản xuất và dám đầu tư quá lớn vào một quốc gia có tình trạng an ninh kém,
luôn xảy ra bạo động được. Vì thế, Việt Nam cần phải cải thiện hơn nữa các
dịch vụ công. Nước ta nhìn chung có tình hình an ninh chính trị ổn định bậc
nhất trên thế giới nhưng về giáo dục cũng như giao thông công cộng thì vẫn
còn rất nhiều vấn đề cần phải làm. Trong vấn đề này, vai trò của chính quyền
Nhà nước là rất quan trọng. Các nhà marketing quốc gia có toàn quyền hạn
chế hay phát huy các dịch vụ công chủ chốt cho ngày càng hấp dẫn hơn. Thế
nhưng, tất cả các nước đều phải đổi mặt với những hạn chế về nguồn lực liên
quan đến khả năng ngân sách của Nhà nước, giới hạn thuế và nguyện vọng
85
của công chúng. Chất lượng của các dịch vụ công cộng này phụ thuộc vào
mức độ các nguồn lực và mức độ hiệu quả của việc sử dụng chúng.
Các nhà marketing quốc gia ngày nay đang cạnh tranh mạnh mẽ trong
vấn đề tiếp cận và thu hút lực lượng lao động có tay nghề cao về đất nước
mình làm việc. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng những đòi hỏi này phụ thuộc vào
việc quốc gia đó sẽ đầu tư bao nhiêu cho hệ thống giáo dục. Nguồn nhân lực
cũng có tác động lớn tới quyết định đầu tư hay không của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Địa phương mà các doanh nghiệp quyết định đầu tư vào
phải có sẵn nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của họ. Giáo dục các cấp của
nước ta còn quá tập trung vào lý thuyết suông dẫn đến người lao động thiếu
kinh nghiệm thực hành khi bắt tay vào công việc. Trong giai đoạn tới, chương
trình giáo dục các cấp cần phải có những thay đổi tích cực theo hướng giảm lý
thuyết, tăng thực hành để có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
nước nhà phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước trong tương lai.
Tạo nên nét khác biệt với các quốc gia khác
Để có thể lôi kéo và giữ chân du khác và các nhà đầu tư, chúng ta cần
phải tạo ra sự khác biệt dễ nhận thấy cho quốc gia mình. Có nhiều địa phương
hay thành phố cứ na ná giống nhau, sẽ không thể tạo được ấn tượng mới lạ
trong lòng du khách hay những nhà kinh doanh lần đầu tới đây. Vì thế, cơ hội
để họ quay trở lại lần thứ hai là rất ít.
Việt Nam có nhiều tiềm năng và thuận lợi để tạo nên sự khác biệt với
các nước khác. Chúng ta có những cao nguyên với màu đất, mùi đất khác biệt
từ đó cũng tạo nên hương vị cà phê khác cà phê của những nước khác. Chúng
ta có những bãi tắm đẹp, có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử đặc trưng.
Những điều này chỉ Việt Nam có. Thế nhưng làm thế nào để cho khách hàng
nhận biết được sự khác biệt này? Đó lại còn phụ thuộc vào chiến lược quảng
bá hình tượng của nước ta nữa.
86
3.2.2.2. Chiến lược quảng bá quốc gia
Trong giai đoạn 2011–2015, cả bốn chiến lược marketing quốc gia cần
phải tiếp tục được duy trì và đầu tư thực hiện nhiều hơn.
Quảng bá hình tượng quốc gia
Việt Nam cần phải tạo dựng cho mình một hình tượng tích cực và nổi
bật. Các thành phố và địa phương khác cũng cần xây dựng cho mình một hình
tượng riêng, góp phần làm tăng giá trị hình tượng đất nước hơn. Việt Nam
được nhiều quốc gia như: Pháp, Hàn Quốc, Nam Phi, Italia… coi là cửa ngõ
để vào thị trường Đông Nam Á.37
Vì thế, nước ta có thể sử dụng hình tượng
"Việt Nam – cửa ngõ vào Đông Nam Á" để thu hút các nhà đầu tư. Câu khẩu
hiệu này nêu bật được hình tượng về một quốc gia sẽ mang lại cho nhà đầu tư
nhiều cơ hội tiếp cận thị trường đang phát triển năng động và đầy tiềm năng ở
châu Á – đó là Đông Nam Á.
Việc phát triển chiến lược sản phẩm quốc gia phải gắn liền với xây dựng hình
tượng của quốc gia đó. Khi đã tìm cho mình được một hướng đi, một hình
tượng cụ thể thì việc đề xuất các phương án phát triển kiến trúc, cơ sở hạ tầng,
dịch vụ công hay các điểm hấp dẫn sẽ dễ dàng và thống nhất hơn. Ngược lại,
phát triển chiến lược sản phẩm quốc gia đúng hướng cũng sẽ củng cố hình
tượng của quốc gia trong tâm trí khách hàng.
Khi đã xác định được hình tượng cho mình, nước ta cùng với các địa
phương cần phải tích cực quảng bá hình tượng đó thông qua các phương tiện
37 Hương Lan, 24/03/2010, Pháp coi Việt Nam là cửa ngõ tiến vào Đông Nam Á,
http://vietnamnet.vn/chinhtri/201003/Phap-coi-Viet-Nam-la-cua-ngo-tien-vao-Dong-Nam-A-900518/.
Thông tấn xã Việt Nam, 26/01/2007, Việt Nam là cửa ngõ để Italia vào Đông Nam Á,
http://vietbao.vn/Chinh-Tri/Viet-Nam-la-cua-ngo-de-Italia-vao-Dong-Nam-A/65081381/96/
87
thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, internet… Mỗi ngành của nước
ta, mỗi tỉnh thành của nước ta đều đã xây dựng được website riêng cho mình
nhưng nhìn chung vấn đề cập nhật thông tin còn kém. Hơn thế nữa, không
nhiều địa phương đã sử dụng công cụ marketing này hiệu quả trong việc
quảng bá hình ảnh của mình.
Vai trò của Cục xúc tiến thương mại và các trung tâm xúc tiến thương
mại cần được áp dụng triệt để hơn nữa. Những tổ chức này là đầu tàu trong
việc đề ra các phương thức quảng bá hình ảnh Việt Nam đến với các nhà đầu
tư quốc tế, khách du lịch cũng như thi trường xuất khẩu và dân cư.
Quảng bá điểm hấp dẫn
Quảng bá hình ảnh chung của quốc gia là chưa đủ để làm tăng tính hấp
dẫn quan trọng của quốc gia đó. Nước ta còn cần phải đầu tư quảng bá cho
các điểm hấp dẫn cụ thể. Mỗi địa phương cần phải tự tìm hiểu và quyết định
xem nên chọn cái gì là điểm hấp dẫn đặc trưng của mình và lấy nó làm trọng
tâm để đầu tư quảng bá, tiếp thị. Có thể lấy ví dụ như ở miền Nam tập trung
quảng bá cho đổng bằng sông Cửu Long phát triển ngành sản xuất lúa gạo và
thực phẩm, Quảng Ninh với vịnh Hạ Long, Khánh Hòa với Nha Trang vừa có
thể phát triển du lịch, vừa phát triển ngành nuôi trồng, săn bắt và chế biến
thủy hải sản. Để làm tăng tính hấp dẫn của một địa phương, một chiến lược
thường được áp dụng phổ biến là xây dựng các trung tâm hội nghị triển lãm.
Trung tâm triển lãm ở Đồ Sơn – Hải Phòng đã góp phần quảng bá hình ảnh
của địa phương này.
Có nhiều cách để quảng bá các điểm hấp dẫn. Chúng ta có thể quảng bá
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, và đặc biệt là
internet. Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, quảng cáo qua
website đã rút ngắn khoảng cách giữa địa phương và những người quan tâm
tìm hiểu. Thế nhưng, chúng ta cũng cần phải có sự phối hợp quảng bá chặt
88
chẽ giữa địa phương với quốc gia để tạo sự thống nhất trong hành động. Chúng
ta đã chưa làm tốt vấn đề phối hợp này ở giai đoạn trước dẫn đến hiệu quả chưa
được cao. Bên cạnh đó, một lần nữa vai trò của các tổ chức xúc tiến thương
mại, du lịch và đầu tư cần được phát huy hơn nữa. Các tổ chức này sẽ là cầu
nối giữa doanh nghiệp, giữa địa phương và khách hàng, tổ chức các hoạt động
triển lãm, hội chợ, giới thiệu những ưu đãi về đầu tư với các nhà đầu tư tiềm
năng…Tất cả đều nhằm mục đích là đưa hình ảnh của địa phương, của Việt
Nam đến với các nhà đầu tư nhanh chóng và thuận tiện nhất.
Quảng bá cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ là yếu tố làm cho hình ảnh và sức hấp dẫn của
quốc gia tăng lên. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng không chỉ cần thiết cho phát triển
kinh tế, giao thương buôn bán mà còn giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp và
các vấn nạn xã hội khác.
Trong cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông và thông tin liên lạc được
quan tâm nhất. Hệ thống giao thông thông suốt, thông tin liên lạc dễ dàng,
công nghệ thông tin phát triển là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tư. Nước
ta đang nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng tốt hơn để có thể phục vụ cho phát triển
tuy nhiên còn nhiều điều phải làm trong giai đoạn tới này. Tình trạng quá tải ở
các thành phố lớn đòi hỏi Nhà nước ta phải có chính sách xây dựng thêm các
khu đô thị mới, các chung cư, hệ thống điện nước, mạng lưới phân phối hàng
hóa, trường học, bệnh viện… nhằm cải thiện tình hình này. Nhìn chung, cơ sở
hạ tầng của nước ta còn thấp kém và cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong
giai đoạn tới.
Quảng bá con người
Sử dụng hình ảnh con người là một tiếp cận chiến lược của marketing
quốc gia. Nền văn hóa đa dân tôc của Việt Nam cũng có thể là một yếu tố thu
hút du khách và nhân công đến làm việc. Nước ta cần áp dụng chiến lược
89
quảng bá con người này nhiều hơn nữa bởi nếu chiến lược này được thực hiện
khéo léo và thành công sẽ tạo nên tác động rất lớn đến những khách hàng của
địa phương. Ngày nay, nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, không thiếu gì những gương trong lao động sản xuất, những
vị lãnh đạo tận tâm hay các nhân tài cống hiến cho sự phát triển của đất nước.
Thế nhưng, sử dụng họ như thế nào để hiệu quả, thì nước ta cũng cần phải tìm
hiểu nhiều hơn nữa. Hay như thông qua các bài báo, bài phát biểu của những
người đã từng đến Việt Nam sống, làm việc và đầu tư sẽ có tác động tích cực
tới những ai đang có ý định hoặc chưa có ý định đến với Việt Nam. Vì vậy,
chiến lược quảng bá này cần phải được khai thác nhiều hơn nữa.
Như vậy, cả bốn chiến lược marketing đều đã được triển khai ở nước ta
nhưng nhìn chung các chiến lược chưa được thực thi đồng bộ, chưa có sự
phối hợp hài hòa nên hiệu quả nó mang lại chưa thực sự cao. Tùy từng địa
phương, tùy từng ngành mà chúng ta cần phải chọn một chiến lược marketing
riêng làm đầu tàu để chú trọng đầu tư thực hiện nhiều hơn. Ví dụ như với
ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao thì chiến lược quảng bá cơ sở hạ tầng
phải được coi trọng hơn cả. Với vùng đồng bằng sông Cửu Long thì chiến
lược quảng bá điểm hấp dẫn và con người lại phải được đặt cao hơn. Xây
dựng nước ta thành một nơi có khả năng phát triển tốt chưa đủ, thêm vào đó
cần phải có chiến lược quảng bá Việt Nam ra thế giới để thế giới có thể biết
đến Việt Nam nhiều hơn. Có như vậy, Việt Nam mới có thể thu hút được đầu
tư nhiều hơn, và phát triển lĩnh vực xuất khẩu nhanh hơn, đa dạng hơn.
Thương hiệu Việt Nam và sản phẩm Việt Nam sẽ dần được người tiêu dùng
biết đến, nhớ đến và dùng đến.
90
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt
động marketing quốc gia cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
3.3.1. Mục tiêu
Hoạt động marketing quốc gia phải theo hướng nâng cao tính chuyên
nghiệp, chất lượng và hiệu quả nhằm thúc đẩy việc phát triển xuất khẩu.
Chiến lược marketing quốc gia tác động tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của
đất nước. Ngoài ba thị trường: đầu tư, du lịch và cư dân, chiến lược marketing
quốc gia còn hướng tới nhằm phát triển lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa. Vì thế,
các hoạt động marketing quốc gia cần phải tạo hiệu quả lớn hơn nữa nhằm
phát triển lĩnh vực này xứng với tiềm năng vốn có của Việt Nam.
Chiến lược marketing quốc gia phải góp phần chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu theo nhóm ngành hàng, nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực của nước ta.
Các mặt hàng chủ lực của nước ta hiện nay bao gồm: dệt may, thủy sản, cao
su, cà phê, gạo… Vì thế, Việt Nam cần tập trung marketing hướng vào những
ngành này nhiều hơn, tạo chỗ đứng cho các sản phẩm thế mạnh này bằng
thương hiệu và chất lượng. Xuất khẩu phát triển sẽ tạo nguồn thu lớn giúp
nước ta có đà phát triển sang các lĩnh vực khác.
91
3.3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả chiến lược
marketing quốc gia cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước ta
Trong phần này, tác giả xin đưa ra một số giải pháp mà tác giả cho là
cơ bản và cần thiết hơn cả để góp phần làm tăng hiệu quả của chiến lược
marketing quốc gia đối với lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
3.3.2.1. Nhà nước, cộng đồng kinh doanh và người dân cùng hợp tác với
nhau trong việc xây dựng, thực hiện chiến lược marketing địa phương nhằm
tăng cường cơ hội xuất khẩu.
Chủ thể thực hiện chiến lược marketing quốc gia chính là Nhà nước,
cộng đồng kinh doanh và người dân. Chính vì vậy, ba chủ thể này cần phối
hợp với nhau trong việc xây dựng chiến lược marketing quốc gia để tăng
cường cơ hội xuất khẩu. Đứng ở mỗi góc độ, mỗi vai trò sẽ nhận biết được
những điểm mạnh, điểm yếu cũng như cũng sẽ có những quan điểm khác
nhau. Nếu Nhà nước đưa ra chính sách không tham khảo ý kiến của doanh
nghiệp rồi thực hiện thì chiến lược marketing quốc gia có thể sẽ đi sai hướng
mà không hiệu quả. Như vậy, chiến lược marketing quốc gia dù có làm cũng
không mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, từ đó còn ảnh hưởng
tới nền kinh tế đất nước. Chiến lược marketing quốc gia Nhà nước xây dựng
nên cần phải thông qua ý kiến của các doanh nghiệp, cũng như thông báo tới
đông đảo công chúng biết thì mới khả thi và được mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội hưởng ứng tham gia. Điều này chắc chắn sẽ tạo nên hiệu quả
tổng cao hơn hẳn bởi có yếu tố đoàn kết, nhất quán của cả dân tộc và sự phù
hợp của chiến lược marketing với cả nước. Hơn thế nữa, khi chiến lược
marketing quốc gia được xây dựng dựa trên ý chí của nhiều tầng lớp, nhiều
thành phần trong xã hội thì việc thực thi chiến lược marketing này sẽ thu hút
được sự ủng hộ nhiệt tình cũng như tham gia tích cực hơn của mọi người. Vì
vậy, chiến lược marketing quốc gia sẽ đạt được hiệu quả cao hơn rất nhiều.
92
3.3.2.2. Kết hợp marketing địa phương thu hút xuất khẩu với thu hút đầu tư,
du lịch và dân cư.
Như trên đã phân tích, hoạt động đầu tư, du lịch, dân cư có mối quan hệ
mật thiết với lĩnh vực xuất khẩu. Đầu tư tăng, nguồn vốn tăng, nước ta sẽ có
thêm nguồn lực phát triển những ngành có thể mạnh xuất khẩu. Từ đó mà đẩy
thị trường xuất khẩu đi lên. Có vốn, các doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm công
nghệ, phát triển sang những ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng
cao từ đó làm tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu theo hướng giảm tỉ trọng mặt hàng thô, hàng nguyên liệu, gia công
và tăng tỉ trọng hàng chất lượng cao. Du lịch phát triển mở ra nhiều cơ hội cho
các nhà kinh doanh trên thế giới đến tìm hiểu thị trường và tìm kiếm cơ hội
kinh doanh trên nước mình. Các sản phẩm truyền thống của Việt Nam cũng
được biết đến nhiều hơn qua con đường du lịch. Từ đó mà cơ hội xuất khẩu
cũng tăng cao hơn. Tiếp đến, thu hút nhiều dân cư đến, đặc biệt là những người
có trình độ cao, nhân tài sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, công nghệ cũng như
kinh doanh phát triển. Muốn phát triển xuất khẩu, chúng ta không chỉ dồn sức
toàn bộ cho marketing lĩnh vực xuất khẩu, mà hơn thế, chúng ta cần đẩy mạnh
marketing nhằm thu hút đầu tư, du lịch, dân cư. Đây là hiệu quả tác động gián
tiếp mà chúng ta có thể đạt được nhờ phát triển các ngành này.
3.3.2.3. Nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả trong việc
nghiên cứu, phát triển thị trường và sản phẩm.
Nghiên cứu, phát triển thị trường và sản phẩm là một khâu trong hoạt
động marketing cho lĩnh vực xuất khẩu. Nếu bước này làm tốt sẽ tạo nên nhiều
cơ hội cho sự thành công của sản phẩm ở thị trường đó. Thương hiệu sản phẩm
quốc gia từ đó mà cũng dễ dàng được chấp nhận ở thị trường này. Khi sản phẩm
phù hợp với thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng nước đó, thương hiệu sản
phẩm trở nên bền vững và đáng tin hơn. Hoạt động xuất khẩu vì thế cũng phát
triển và gia tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn giá trị.
93
3.3.2.4. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng hoạt động của
các hiệp hội ngành hàng
Các hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ và
bảo vệ các doanh nghiệp trong nước. Nếu để các doanh nghiệp tự mình vươn
ra thị trường thế giới thì khả năng thành công là rất khó khăn do ở nước ta chủ
yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hiệp hội sẽ là mái nhà che chở, định
hướng cho các doanh nghiệp này đi đúng hướng và tự tin hơn khi bước ra một
thế giới rộng lớn, cam go hơn rất nhiều. Các hiệp hội này cần phải mở nhiều
hơn nữa các cuộc triển lãm, hội chợ quốc tế để các doanh nghiệp tham gia
giới thiệu sản phẩm và tìm cơ hội giao thương dễ dàng hơn. Đồng thời, các
doanh nghiệp anh cả trong ngành hàng đó có thể chia sẻ kinh nghiệm, giải
quyết khó khăn giúp các doanh nghiệp nhỏ nhằm phát triển ngành hàng của
mình. Như vậy, các hiệp hội ngành hàng này có thể là chủ thể thực hiện chiến
lược marketing quốc gia, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng thương hiệu
quốc gia cho các sản phẩm thuộc ngành hàng mình quản lý.
94
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia đang phải
cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết để thu hút các khách hàng mục
tiêu của mình, trong đó có thị trường xuất khẩu. Mỗi quốc gia có các chiến
lược marketing riêng cho mình và ứng dụng nó vào phát triển kinh tế đất nước
nói chung cũng như để đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng. Nhiều nước đã thành
công trong việc thực hiện chiến lược marketing quốc gia, đã xây dựng được
hình tượng đẹp về đất nước, con người của mình cũng như đã dựng được
thương hiệu sản phẩm quốc gia trên thị trường xuất khẩu thế giới như Nhật
Bản, Singapore,… Nhận biết được tầm quan trọng đó, Việt Nam cũng đã đề
ra và thực hiện chiến lược marketing quốc gia riêng của mình. Nhìn về góc độ
nào đó, chiến lược marketing quốc gia này cũng đã góp phần không nhỏ vào
sự phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh xuất khẩu cho đất nước. Tuy vậy,
Việt Nam vẫn còn nhiều điều phải làm để chiến lược này thực sự mang lại
hiệu quả cao hơn.
Qua phân tích hoạt động marketing quốc gia của một số ngành xuất
khẩu tiêu biểu, tìm hiểu việc thực hiện các chiến lược marketing quốc gia
trong giai đoạn 2006 – 2010, có một điều có thể dễ nhận thấy rằng, nước ta
cũng như các doanh nghiệp trong nước ngày càng quan tâm tới việc thực hiện
hoạt động marketing quốc gia một cách tích cực hơn. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn chưa xây dựng được một hình tượng đậm nét riêng cho mình, vẫn còn
mang tính chất bắc chước, nhỏ lẻ và không đồng bộ giữa các chủ thể thực
hiện. Các ngành sản xuất mặt hàng mũi nhọn cũng đã chú trọng tới việc xây
dựng thương hiệu quốc gia, tham gia các hội chợ, triển lãm cũng như cải tiến
về công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu. Kết quả đạt được đó là kim ngạch xuất khẩu của nước ta liên tục tăng
qua các năm. Thế nhưng, mới chỉ có một số ít doanh nghiệp thực sự gây dựng
95
được thương hiệu Việt trên thị trường sản phẩm thế giới như may Việt Tiến,
cà phê Trung Nguyên… còn hầu như sản phẩm của nước ta vẫn phải mang
tên của một thương hiệu nước ngoài nào đó. Vấn đề tạo dựng thương hiệu cho
sản phẩm Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và cần phải được quan
tâm nhiều hơn nữa. Để làm được việc này, Việt Nam cần có sự phối hợp chặt
chẽ và đồng bộ hơn nữa của các chủ thể trong chiến lược marketing quốc gia
ở giai đoạn tới. Tuy nhiên, vai trò dẫn đường quan trọng nhất là tổ chức chính
quyền Nhà nước vẫn cần phải giữ vững và phát huy.
Chương ba đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
chiến lược marketing quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn tới, đồng thời
cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
marketing này trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của đất nước. Hi vọng
rằng trong tương lai, Việt Nam sẽ có một chiến lược marketing chuyên nghiệp
và được áp dụng đồng bộ rộng rãi trên khắp cả nước, phục vụ tốt hơn trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu và tìm chỗ đứng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam trên thị trường thế giới.
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lan Anh, 19/11/2006, BP và Sinopharm muốn đầu tư thêm nhiều năm nữa,
http://vietbao.vn/Kinh-te/BP-va-Sinopharm-muon-dau-tu-them-nhieu-nam-
nua/70068890/87/, ngày lấy tin 15/03/2010.
2. Ban quản trị website, 18/12/2009, Hội nghị các nhà nhập khẩu dệt may vào
Việt Nam,
http://www.vietnamtextile.org/ChiTietTinTuc.aspx?MaTinTuc=1438&Mathel
oai=15, ngày lấy tin 16/03/2010.
3. Ban quản trị trang web, 05/02/2010, Kim ngạch xuất khẩu dây điện và cáp
điện năm 2009 sang các thị trường hầu hết đều giảm so với năm 2008,
http://www.vinanet.com.vn/tin-thi-truong-hang-hoa-viet-
nam.gplist.294.gpopen.176818.gpside.1.gpnewtitle.kim-ngach-xuat-khau-
day-dien-va-cap-dien-nam-2009-sang-cac-thi-truong.asmx, ngày lấy tin
16/03/2010.
4. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright về marketing địa phương, Tiếp
thị địa phương niên khóa 2003 – 2004, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Công ty cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam, 11/2007, Top 500 doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2007, http://www.vnr500.com.vn/bang-xep-
hang?ref=vnr500-top-500-doanh-nghiep-lon-nhat-viet-nam&year=2007, ngày
lấy tin 13/03/2010.
6. Công ty cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam, 25/11/2008, Top 500 doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2008, http://www.vnr500.com.vn/bang-xep-
hang?ref=vnr500-top-500-doanh-nghiep-lon-nhat-viet-nam&year=2008, ngày
lấy tin 13/03/2010.
7. Công ty cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam, 12/01/2010, Top 500 doanh
nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2009, http://www.vnr500.com.vn/bang-xep-
97
hang?ref=vnr500-top-500-doanh-nghiep-lon-nhat-viet-nam&year=2009, ngày
lấy tin 02/03/2010.
8. Diễn đàn doanh nghiệp, Phương thức tránh mất nhãn hiệu,
http://secoin.vn/PortletBlank.aspx/EE37526FE8A843E0A0E2C73E0695DCF
E/View/Quan-tri-
marketing/Phuong_thuc_tranh_mat_nhan_hieu/?print=1903200342, ngày lấy
thông tin 06/03/2010.
9. THỦ TƯỚNG Nguyễn Tấn Dũng, 17/10/ 2006, Kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội 5 năm 2006-2010, http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ke-hoach-phat-trien-
kinh-te-xa-hoi-5-nam-2006-2010/40167540/157/ , ngày lấy tin 01/03/2010.
10. Paul Flatters và Michael Willmott (Havard Business Review), 21/12/2009,
Hoàng Đăng dịch, Tám xu hướng tiêu dùng thời hậu khủng hoảng Phần 1,
http://www.tuanvietnam.net/2009-12-19-tam-xu-huong-tieu-dung-thoi-hau-
khung-hoang-phan-1-, ngày lấy tin 28/02/2010.
11. Paul Flatters và Michael Willmott (Havard Business Review), 21/12/2009,
Hoàng Đăng dịch, Tám xu hướng tiêu dùng thời hậu khủng hoảng Phần 2,
http://www.vietnambranding.com/kien-thuc/tong-quan-thuong-
hieu/8198/Tam-xu-huong-tieu-dung-thoi-hau-khung-hoang-%28Phan-2%29 ,
ngày lấy tin 28/02/2010.
12. Paul Flatters và Michael Willmott (Havard Business Review), 21/12/2009,
Hoàng Đăng dịch, Tám xu hướng tiêu dùng thời hậu khủng hoảng Phần 3,
http://giavang.com.vn/home/article/tam-xu-huong-tieu-dung-thoi-hau-khung-
hoang-phan-3-20091223-13775.html , ngày lấy tin 28/02/2010.
13. Sara Forssell, (3/2009), Rice price policy in Thailand – policy making
and recent developments, Department of Economics - University of Lund,
Sweden.
98
14. Mỹ Hạnh, 20/01/2009, Tập đoàn dầu khí Việt Nam vinh dự đón danh hiệu
anh hùng thời kỳ đổi mới,
http://www.molisa.gov.vn/news/printpreview/tabid/79/newsid/41117/languag
e/vi-VN/Default.aspx, ngày lấy tin 10/03/2010.
15. GS.TS. Hồ Đức Hùng, 24/09/2008, Chiến lược xây dựng thương hiệu
trong hội nhập kinh tế quốc tế, http://vietnambranding.com/kien-thuc/tong-
quan-thuong-hieu/5340/Chien-luoc-xay-dung-thuong-hieu-trong-hoi-nhap-
kinh-te-quoc-te, ngày lấy tin 09/03/2010.
16. Hồ Đức Hùng (2005), Marketing địa phương của thành phố Hồ Chí
Minh, nhà xuất bản văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.
17. Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải, 23/04/2001, Quyết định số 55-
2001/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính
sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt - may Việt Nam đến
năm 2010, ngày lấy tin 28/02/2010.
18. Phillip Kotler (2002), Marketing căn bản, Nhà xuất bản Thống kê.
19. Philip Kotler và các soạn giả khác (1993), Marketing quốc gia, The Free
Press, NewYork.
20. Phillip Kotler (2002), Marketing Asian Places, Attracting investment,
industry, and tourism to cities, states and nations, The Free Press, NewYork.
21. Phillip Kotler, và các soạn giả khác (1993), Marketing places, attracting
envestment industry and tourism to cities, states and nations, The Free Press,
Newyork.
22. Philip Kotler, Hermawan kartajaya - Hooi Den Huan (2007), Think Asean!
Rethinking marketing toward Asean community 2015, ASEAN Economic
Bulletin.
99
23. Chí Nhân, 23/01/2010, Kim ngạch xuất khẩu gạo đạt gần 2,7 tỉ USD,
http://home.vnn.vn/kim_ngach_xuat_khau_gao_dat_gan_2_7_ti_usd-
50397184-625272867-0, ngày lấy tin 28/02/2010.
24. Quỳnh Như, 16/12/2007, Giá gạo xuất khẩu năm 2008 sẽ vẫn cao,
http://www.thesaigontimes.vn/Home/kinhdoanh/xuatnhapkhau/1669/, ngày
lấy tin 15/03/2010.
25. Hải Ninh, 25/7/2008, 10 thành phố đắt đỏ nhất thế giới,
http://vnexpress.net/GL/The-gioi/2008/07/3BA04CC7/, ngày lấy tin
01/03/2010.
26. Giang Oanh, 21/11/2006, Báo chí nước ngoài ca ngợi về thành công của
APEC 14: Việt Nam - Điểm đến đầy hấp dẫn,
http://www.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=33,127371&_dad=portal&_sch
ema=PORTAL&pers_id=91536&item_id=1174774&p_details=1, ngày lấy
tin 15/03/2010.
27. Phóng viên, 25/12/2009, Triển vọng phát triển dây và cáp điện ở Việt
Nam, http://www.capthanglong.vn/aspx/TinTucVN.aspx?Nhom=5&ID=428,
ngày lấy tin 16/03/2010.
28. Que huong.org.vn, Điều kiện tự nhiên Việt Nam,
http://travelmart.com.vn/detailnewsvn.aspx?ma=54&madm=1&matt=0&lang
=2 , ngày lấy tin 08/03/2010.
29. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 30/06/2006, Quyết
định của thủ tướng chính phủ về phê duyệt đề án “Phát triển xuất khẩu giai
đoạn 2006-2010”, http://luat.xalo.vn/phap-luat/Quyet-dinh/176957894/Phe-
duyet-De-an-Phat-trien-xuat-khau-giai-doan-2006-2010.html, ngày lấy tin
13/03/2010.
30. Seppo K Rainisto (2003), Success factor of place marketing: A study of
place marketing practices in Northern Europe and the United States, Helsiki
University of Technology.
100
31. Tạp chí thương mại, 16/05/2008, Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
còn lạc hậu, http://ttnn.com.vn/Category/256/News/16759/Default.aspx, ngày
lấy tin 15/03/2010.
32. Đức Tài, 14/11/2006, Chỉ số HDI của Việt Nam bằng Trung Quốc và Nga,
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=2384#ix
zz0iiOQQCzY, ngày lấy tin 06/03/2010.
33. Nguyễn Xuân Thành (2006), Phát triển các cụm ngành kinh tế, Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright niên khóa 2006 – 2007, thành phố Hồ Chí
Minh.
34. Lưu Ngọc Trịnh& Trần Đức Vui-Viện Kinh tế và Chính trị thế giới -
Trường Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội, 07/09/2008, Chất lượng tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay,
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=26852349,
ngày lấy tin 12/03/2010.
35. VENO, Bàn về vấn đề xây dựng thương hiệu cho ngành dệt may Việt
Nam, http://www.saigon3.com.vn/vn/Tin-Tuc/Tan-Man-Ve-Xay-Dung-
Thuong-Hieu/Ban-Ve-Van-De-Thuong-Hieu-Det-May-Viet-Nam/, ngày lấy
tin 18/03/2010.
36. Vinanet, 22/04/2008, Việt Nam- Điểm đến hấp dẫn cho xuất khẩu và đầu
tư của Đức, http://www.ttnn.com.vn/Country/256/News/16209/Default.aspx,
ngày lấy tin 16/03/2010.