Quyền lực chính trị và cầm quyền.doc
-
Upload
nguyentrungthanh -
Category
Documents
-
view
35 -
download
8
Transcript of Quyền lực chính trị và cầm quyền.doc
Đề tài: Nâng cao việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở
1
Mục lục Trang
A. Mở
đầu……………………………………….2
B. Nội
dung……………………………………..7 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiên quy
chế dân chủ ở cơ sở……………………………………………7
1.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………7
1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………13
1.3. Khái niệm Quy chế dân chủ cơ sở…………………………….19
Chương 2: Thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ởcơ
sở ở nước ta hiện nay………………………………………….24
2.1. Thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở…….24
2.2. Nguyên nhân của những thành công và thất bại……………..35
2.3. Bài học kinh nghiệm……………………………………………37
Chương 3: Một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản và đề xuất kiến
nghị để nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở………………………………………………………………...40
2
3.1. Một số nhiệm vụ và giải pháp hỗ trợ cơ bản trong thời gian
tới………………………………………………………………………….40
3.2. Một số đề xuất kiến
nghị………………………………………...43
C. Phần kết
luận…………………………………46
Danh mục tài liệu tham
khảo……………….48
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 năm đổi mới nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và quan trọng về kinh tế -xã hội, giữ vững ổn định
chính trị và hiện nay đang trong thời kỳ phát triển mới.
Để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới,
hệ thống chính trị nói chung, chính quyền cơ sở nói riêng có vai trò rất to
lớn trong việc tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ở địa phương.
Trong hời gian qua, chính quyền cơ sở đã tích cực thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai quy chế dân chủ có hiệu quả,
cùng nhân dân tạo nên những thành quả trong trong đổi mới, phát triển kinh
3
tế, ổn định đời sống nhân dân,…đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành
thị. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chính quyền cơ sở còn bộc lộ những
khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động nhân
dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân còn xảy ra ở không ít nơi. Nguyên nhân chủ yếu là do
chính quyền chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của mình, quan liêu, không
sát cơ sở, không gần gũi nhân dân; quy chế dân chủ ở cơ sở chưa được triển
khai đầy đủ, có nơi chưa thực sự đi vào đời sống.
Xác định đúng đắn tầm quan trọng to lớn của dân chủ, từ khi bước vào
công cuộc đối mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến
vấn đề này và đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân
chủ trong xã hội, đặc biệt là đã ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả
Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ
của nhân dân, đồng thời là ngưới tổ chức và thực hiện đường lối chính trị
của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có
quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.
Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần củng
cố, kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở,
không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ nạn
quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh
tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ
4
của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đang tiến hành xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống mọi
mặt của nhân dân được nâng lên, thì vấn đề dân chủ và dân chủ cơ sở ngày
càng có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân chủ cở sở là một vấn đề cấp thiết có tầm quan trọng quyết
định tới ổn định an ninh-chính trị, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Do đó, vấn đề này đang là đối tượng nghiên cứu và tìm hiểu
của nhiều nhà khoa học và độc giả trên cả nước. Tại đại hội khóa VIII ngày
18/2/1998 Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị 30 của bộ chính trị sau đó được
cụ thể bằng nghị định 29/ NĐ – CP ngày 11/5/1998 và nghị định 79/ NĐ-CP
ngày 7/7/2003 ban quy chế thực hiện dân chủ ở xã thay thế nghị định 29.
Tiếp đó, Ban bí thư TW Đảng ( khóa IX ) ban hành chỉ thị số 10 và thông
báo kết luận số 159, ủy ban thường vụ quốc hội ban hành các nghị quyết và
pháp lệnh số 34/2007, chính phủ ban hành các nghị định về quy chế dân chủ
ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước, công ty
cổ phần, công ty TNHH đã tạo ra cơ chế cụ thể về quyền làm chủ của nhân
dân. Cùng với việc ban hành các chỉ thị, nghị định của chính phủ là các bài
viết, sách báo đóng góp ý kiến, xây dựng cho việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở được nâng cao và hoàn thiện.
Bà Hà Thị Khiết – Bí thư Trung ương Đảng, trưởng ban dân vận Trung
ương đã có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí của Đảng góp phần tích
cực vào việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở. Bài : “ Thực hiện quy chế dân
5
chủ ở cơ sở kết hợp chặt chẽ các nội dung trong tư tưởng dân vận Hồ Chí
Minh”, trong bài viết này đồng chí đã nêu lên thực trạng, tầm quan trọng
cũng như những yếu kém trong công tác thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thông
qua đó đồng chí đã liên hệ với các nội dung trong tư tưởng dân vận của Hồ
Chí Minh, gắn tư tưởng của Hồ Chí Minh vào việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
Ông Huỳng Đảm - Ủy viên Trung ương Đảng, chủ tịch ủy ban Trung
ương mặt trân Tổ quốc Việt Nam, có bài: “ Nhìn lại 10 năm thực hiện quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn” ( Tạp chí Cộng sản T10/2009 ). Trong
bài viết này ông đã khẳng định : “ Qua 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở
xã, phường, thị trấn quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả
nước được phát huy mạnh mẽ. Đó là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển,
đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn các cấp ủy, chính quyền và
Mặt trận tổ quốc Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quy chế”.
Bên cạnh các bài viết thì một số cuốn sách nghiên cứu về dân chủ ở cơ
sở cũng đã được xuất bản : Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính
quyền cấp xã ở nước ta hiện nay – TS Nguyễn Văn Sáu, GS Hồ Văn Thông-
Chủ biên NXB Chính trị Quốc Gia-2003; Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông
thôn trong tiến trình đổi mới GS. TS Hoàng Chí Bảo -Chủ biên, NXB
Chính trị Quốc Gia 2007 ; Quy chế dân chủ ở cơ sở- Ý Đảng, lòng dân Ban
dân vận Trung ương Chủ biên. NXB Chính trị Quốc Gia 2005….Nội dung
chủ yếu của các cuốn sách trên nói về tầm quan trọng của vấn đề dân chủ cơ
sở, cùng với đó là một số chủ trương, biện pháp góp phần vào việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở.
6
3. Đối tượng nghiên cứu
Đó là các vấn đề về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở, phường, thị trấn.
Thực tế vấn đề này ở các địa phương trên cả nước đang diễn ra như thế nào,
tốt hay xấu ? Từ đó sẽ có những giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề.
4. Cơ sở nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số
cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩ duy vật lịch sử
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
Cơ sở thực tiễn: đề tài lấy những vấn đề thực tế về dân chủ đang diễn ra
ở các cấp cơ sở trên cả nước, qua đó tổng hợp, phân tích để tìm ra những
nguyên nhân cũng như đề ra những giải pháp cho việc giải quyết những vấn
đề này.
5. Nhiệm vụ, chức năng
Nhiệm vụ: đề tài nghiên cứu những vấn đề về việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn để cho chúng ta có một cái nhìn khái quát
nhất về vấn đề này.
Chức năng: nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản còn đang tồn tại trong
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, để đè ra những giả pháp cơ bản nhất
cho vấn đề này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đặt ra của tiểu luận, tác giả đã sử dụng
tổng hợp những nguyên tắc về phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú
ý sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch, thống kê,
logic…
7. Kết cấu tiểu luận
7
Kết cấu tiểu luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận. Trong phần nội dung được chia ra thành 3 chương, 8 tiết và 4 tiểu tiết,
ngoài ra còn một số phần như mục lục, danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiên quy
chế dân chủ ở cơ sở
1.1. Cơ sở lý luận
Ngày nay, toàn Đảng và toàn dân ta đang nổ lực phấn đấu để nhanh
chóng thực hiện công cuộc công nghiệp hóa hiện - đại hóa đất nước. Đây là
một sự nghiệp cách mạng sâu sắc trên một bình diện khá rộng, nó bao hàm
mọi mặt của đời sống xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong sự nghiệp vĩ
8
đại đó, chính quyền cơ sở và nền dân chủ ở cơ sở có vai trò hạt nhân. Qua
khảo sát thực tế cho thấy, ở nơi nào chính quyền cơ sở vững mạnh, dân chủ
được nâng cao thì kinh tế phát triển mạnh và quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa được thực hiện tuần tự, hợp với xu thế thời đại. Ngược lại, nếu chính
quyền cơ sở yếu kém, dân chủ bị vi phạm thì kinh tế khó khăn, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gặp nhiều cản trở phức tạp. Vì vậy, có thể
khẳng định rằng: để quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện
một cách có hiệu quả với tốc độ nhanh thì một trong những nhiệm vụ trọng
tâm là phải củng cố, hoàn thiện chính quyền cơ sở, nâng cao dân trí và dân
chủ, đảm bảo cho dân phát huy sáng tạo, hăng hái sản xuất và đưa tiến bộ
công nghệ vào cuộc sống.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, ngay từ thời kỳ chưa có Đảng đã
có các phong trào đấu tranh dân chủ rộng khắp, như phong trào Đông Du
nghĩa thục, Duy Tân… Nhưng chỉ sau khi Đảng cộng sản Đông Dương ra
đời, cuộc đấu tranh dân chủ ở nước ta mới trực tiếp được đặt ra như một bộ
phận của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mục tiêu của cuộc cách mạng
do Đảng cộng sản lãnh đạo là: trước là làm cuộc cách mạng tư sản dân
quyền sau đó tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Dân chủ trong cuộc cách mạng này
là giành lại quyền độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân mà đại đa số là
nông dân. Với mục tiêu đó, cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị
của thực dân và phong kiến – đó là sứ mệnh dân chủ vĩ đại. Trước hết là
giành dân chủ về chính trị cho cả dân tộc, sau đó là dành dân chủ cho nhân
dân mà đại đa số là nông dân từ tay giai cấp bóc lột mà chủ yếu là giai cấp
phong kiến. Trong cuộc cách mạng này, không thực hiện được dân chủ cho
nhân dân thì không giải phóng được dân tộc, và không giải phóng được dân
tộc thì mục tiêu dân chủ cho nhân dân trở nên vô nghĩa. Nếu giành được độc
lập rồi mà dân không được dân chủ thì độc lập cũng không có giá trị gì.
9
Trong cuộc cách mạng ấy, các lực lượng dân tộc và dân chủ liên minh đoàn
kết với nhau chống lại các lực lượng phản dân tộc và phản dân chủ.
Lực lượng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là toàn thể nhân dân
Việt Nam yêu nước. Nhân dân đấu tranh chủ yếu thông qua các tổ chức
chính trị của mình – đó là Đảng cộng sản, mặt trận tổ quốc, các thành viên
của nó và các hội đoàn khác, cùng với những sáng kiến muôn hình muôn vẻ
đã làm nên một mặt trận chống đế quốc và phong kiến rộng lớn chưa từng có
kể từ ngày bị mất nước vào tay thực dân Pháp. Lúc này dân chủ đã trở thành
một phong trào, một nội dung căn bản của dân tộc, và giải phóng dân tộc là
một phong trào, một nội dung căn bản của dân chủ.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, những nội dung dân chủ mà
Đảng đề ra không dừng lại ở mục tiêu mà được triển khai thành tổ chức và
thực thi trong thực tiễn. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bằng những nội
dung cụ thể thiết thực từ giảm sưu cao thuế nặng đến đòi ruộng đất, từ giảm
giờ làm, chống đánh đập đến giành lại nhà máy, hầm mỏ về tay mình. Cao
nhất là cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Ở những nơi cách
mạng giành chính quyền (vùng tự do kháng chiến và vùng kháng chiến trong
chiến tranh chống Mĩ ở miền Nam), Đảng chủ trương thi hành ngay những
chính sách dân chủ, dân sinh, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ các
quyền của mình. Những thành tựu đó khích lệ nhân dân vùng tạm chiếm,
vùng dưới quyền kiểm soát của địch hăng hái đấu tranh vì mục tiêu dân chủ
của Đảng.
Xuyên suốt các quá trình cách mạng, trong cương lĩnh, đường lối chủ
trương, chính sách của mình, Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng và nhân dân là chủ thể của quyền lực của nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng Hòa và sau này là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
10
Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng ( năm 1976) đã tuyên bố trong đương lối chung một nhiệm vụ có tính
cương lĩnh là xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, sao
cho nhân dân xứng đáng là người làm chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và chinh phục tự nhiên.
Quyền làm chủ tập thể, mà tính tất yếu khách quan của nó xuất hiện khi
chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân, phải được xây dựng thành chế độ
xã hội mà Nghị quyết Đại hội IV gọi là “ chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa”. Chế độ đó là tổng hợp các mối quan hệ, cơ chế, phương thức, mục
tiêu và lực lượng nhằm xây dựng xã hội nước ta thành một xã hội trong đó
người làm chủ chân chính là cộng đồng xã hội, là tập thể nhân dân lao động
có tổ chức mà nòng cốt là liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Một xã hội có khả năng “kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với
quyền tự do chân chính của từng cá nhân” là “một nhà nước kiểu mới, nhà
nước do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện
quyền làm chủ tập thể của mình, nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội”.
Việc xây dựng một xã hội dân chủ như vậy, trong thực tiễn mặc dù đã
phải trả giá bằng những yếu kém, nóng vội, sai lầm, nhưng vẫn là mục tiêu
có tính cương lĩnh cho việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( năm 1986) triển khai mạnh mẽ
sự nghiệp dân chủ hóa từ các lĩnh vực tư tưởng, chính trị và đặc biệt là kinh
tế (lĩnh vực mà cho đến bây giờ còn có nhiều nhận thức sai lầm), trao cho
nhân dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời sống
của mình. Lúc đó, tinh thần của Nghị quyết Đại hội VI được coi là “cởi
trói”, tạo điều kiện trao cho nhân dân quyền “tự cứu” lấy mình, quyết định
11
lấy cuộc sống của mình. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI mở ra thời kì
đổi mới đất nước, đối với sự nghiệp dân chủ thì đây là một mốc son chói lọi
đưa sự nghiệp dân chủ của nước ta vào chiều sâu, thành thể chế mà trước hết
là các thể chế kinh tế, đưa ra cách tiếp cận thực tiễn hơn, biện chứng hơn về
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Những thành quả do đổi mới đem lại đã góp phần làm thay đổi đời sống
kinh tế, trên cơ sở đó Đảng và nhân dân có điều kiện để nhìn nhận sâu sắc
hơn về các vấn đề dân chủ trong chính trị, trong quản lý nhà nước. Chính vì
thế mà hoạt động của Đảng trong suốt nhiệm kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII
đã dành sự chú ý thích đáng đến dân chủ trong chính trị, đã đặt ra một cách
dứt khoát mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, cải cách nền hành chính Việt Nam vốn nặng nề và trì trệ bởi những tàn
tích của nền hành chính quan liêu bao cấp.
Tiến xa hơn, năm 1998 bằng Chỉ thị 30/CT-TW và Nghị định 29/CP,
Đảng và Chính phủ đã tích cực tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm tòi
những khâu mấu chốt trong sự nghiệp dân chủ hóa đất nước và đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (gọi tắt là Quy chế dân chủ cơ sở).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX được coi là Đại hội của trí tuệ,
dân chủ, đoàn kết, đổi mới khẳng định lại mục tiêu xây dựng một chế độ dân
chủ thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách các thể chế
và phương thức hoạt động của nhà nước, mở rộng và đa phương hóa các
hình thức tập hợp nhân dân. Coi đoàn kết, dân chủ là động lực của phát triển
xã hội, Đại hội đã đưa “dân chủ” thành một trong những mục tiêu quan
trọng mà Đảng phải lãnh đạo đất nước hướng tới: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên đây là khái lược những quan điểm về dân chủ của Đảng ta, những
quan điểm này đã được luật hóa thành những nguyên tắc hiến định trong 4
12
bản hiến pháp của nước ta: điều 4 Hiến pháp năm 1959, điều 6 Hiến pháp
1980, điều 2 Hiến pháp năm 1992 đều ghi rõ “ở nước ta, tất cả quyền lực
trong nước đều thuộc về nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bao lần tuyên
bố: nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều thuộc về nhân dân,
bao nhiêu lực lượng đều ở nơi nhân dân. Nền tảng của nhà nước dân chủ ấy
được xây dựng trên các nguyên tắc hiến định từ hiến pháp 1946.
Thứ nhất, đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai
cấp, tôn giáo (lực lượng của dân chủ).
Thứ hai, đảm bảo các quyền tự do dân chủ (nội dung dân chủ).
Thứ ba, thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
(phương thức thực thi dân chủ).
Ba nguyên tắc chung trên đây đã phản ánh đầy đủ những yêu cầu, nội
dung của dân chủ mà ngày nay phần lớn các nước dân chủ đang thi hành.
Trong suốt quá trình xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có những nỗ lực không ngừng để xây dựng
những nguyên tắc vận hành, thể chế hóa mục tiêu, đưa ra những phương
châm hoạt động cho nền dân chủ. Đó là cơ chế: Đảng lãnh đạo , Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Mục tiêu: nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra… Nhờ vậy mà trong
đời sống xã hội ở nước ta, dân chủ đã đạt được những thành tựu nhất định,
các thể chế của nền dân chủ đang từng bước được mở rộng và hoàn thiện.
Dân chủ được coi là mục tiêu và động lực của phát triển xã hội ở nước ta.
1.2. Cơ sở thực tiễn
13
Để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm tạo
ra nội lực phát triển của nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì cần phải củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc
biệt là cơ sở ở làng xã nông thôn hiện nay. Sự chú ý đặc biệt tới cơ sở nông
thôn làng xã trong cuộc vận động xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở hiện nay có những lý do thực tế của nó.
Thứ nhất, cho đến cuối thế kỷ XX nước ta vẫn là một nước nông
nghiệp với hơn 70% sức lao động và 80% dân cư xã hội vẫn là nông dân ở
nông thôn, làm nông nghiệp mà chủ yếu là nông nghiệp thuần canh lúa
nước. Do đó, công nghiệp hóa nông thôn để thay đổi căn bản trạng thái và
tính chất nền nông nghiệp cổ truyền lạc hậu đưa nông nghiệp phát triển theo
sản xuất, kinh doanh nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế cao, thích ứng với
nền kinh tế thị trường, từ đó cải tạo tâm lý, ý thức nông thôn, xây dựng các
quan hệ xã hội lành mạnh, phát triển đời sống văn hóa tinh thần, đưa nông
thôn từng bước phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đây là
một nội dung quan trọng trong chiến lược công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta. Đó cũng chính là nội dung kinh tế -văn hóa để phát triển xã hội
nông thôn và phát triển chính trị ở nông thôn. Thực chất của cuộc vân động
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở nông thôn là nhằm đảm bảo quyền
dân chủ và làm chủ của nông dân, làm cho người nông dân và các hộ nông
dân có điều kiện và năng lực thực tế tham gia vào trực tiếp vào các hoạt
động quản lý kinh tế -xã hội ở nông thôn, củng cố và xây dựng chế độ dân
chủ thực sự là của dân, do dân và vì dân. Hệ thống chính trị ở nông thôn có
vai trò và tác dụng rất quan trọng để thực hiện dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nông dân ở làng xã. Chỉ có thể thực hiện tốt quan hệ giữa dân
với Đảng, giữa dân với chính quyền từ cơ sở nếu không ngừng chăm lo củng
14
cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, tạo môi trường chính trị - xã hội
lành mạnh, thực sự dân chủ để người dân thể hiện được vai trò làm chủ
thông qua năng lực làm chủ của chính mình.
Dân chủ như Hồ Chí Minh đã xác định đó là dân là chủ và dân làm chủ.
Là chủ , biểu hiện của vị thế xã hội, tính tích cực xã hội và địa vị pháp lý của
người dân. Làm chủ, đó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành
dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của người dân với tư
cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào
thể chế chính trị và thể chế nhà nước.
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác cấu thành hệ
thống chính trị có thể xem như những chủ thể đại diện cho ý chí, lợi ích và
quyền lực của dân, là những chủ thể tiếp nhận từ dân sự ủy quyền đó và thực
hiện đúng đắn những trách nhiệm, nghĩa vụ của sự ủy quyền đó nhằm thực
hiện tốt nhất những yêu cầu hợp lý, chính đáng của dân, đảm bảo cho dân
thực sự có quyền dân chủ và làm chủ.
Những quyền thực tế ấy của dân phải được biểu hiện trực tiếp và rõ
nhất từ cơ sở. Mọi yếu kém của thế chế và hệ thống chính trị nói chung từ cơ
sở đều làm thương tổn tới quyền của dân chúng. Lực lượng đông đảo dân
chúng lại là nông dân đang sống ở nông thôn làng xã. Thực tế ấy cho thấy,
nếu giải quyết thành công vấn đề dân chủ cho nông dân ở cơ sở làng xã thì
đã giải quyết được một phần căn bản, trọng yếu dân chủ cho cộng đồng xã
hội. Ngược lạ, nếu để tình trạng vi phạm dân chủ đối với nông dân ở nông
thôn thì sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới cuộc vận động và phát triển
dân chủ trong xã hội, có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất ổn định chính trị và
kìm hãm sự phát triển của xã hội trong tiến trình hội nhập, đổi mới. Nhà bác
học Lê Quý Đôn đã nhận định “phi nông bất ổn”, nhìn nhận ý nghĩa của vấn
đề này từ dân chủ và dân chủ hóa, khai niệm “nông” và “phi nông” ở đây
15
cần được hiểu rộng ra bao hàm cả nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Như
thế, chương trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội đối với nông thôn,
nông nghiệp và nông dân cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn
hiện nay chính là nhằm theo mục tiêu phát triển nông thôn qua cuộc vận
động lâu dài về dân chủ. Nó tất yếu phải chú trọng tới hệ thống chính trị ở
cơ sở nông thôn làng xã.
Cuộc vận động dân chủ ở cơ sở tự nó đã bao hàm vai trò và tác dụng
quan trọng không thể thiếu của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn.
Thứ hai, sự kiện Thái Bình năm 1997 nơi đã xảy ra những cuộc khiếu
kiện tập thể đông người, kéo dài nhiều ngày của nông dân ở hầu hết các làng
xã trong tỉnh đòi thực hiện quyền dân chủ, đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, tố cáo những người có chức, có quyền thái hóa biến chất lợi dụng
chức quyền do dân ủy thác để mưu lợi bất chính, làm tổn hại đến lợi ích của
dân và làm mất tín nhiệm của thể chế. Về căn bản mà nói thì đây là những
hành động chính trị tích cực của quần chúng.
Dù sự kiện đó đã dẫn tới những điểm nóng chính trị - xã hội ở nông
thôn, từ thôn xóm, làng xã đã lan tới huyện và từ huyện lan tới tỉnh theo quy
luật lan tỏa, dù nó có gây nên những mất ổn định nào đó, nhưng qua sự kiện
này nông dân Thái Bình đã gióng lên một tiếng chuông cảch tỉnh cho thể chế
cơ sở và thể chế trong xã hội nói chung, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của nhà nước. Sự cảnh tỉnh này nói lên nhiều ý nghĩa, nó cho
thấy:
- Tổ chức Đảng và chính quyền xã thôn, những bộ phận cốt yếu của hệ
thống chính trị cơ sở đã suy yếu đến mức mất lòng dân, bị dân phản ứng và
đấu tranh gay gắt mà mấu chốt là sự vi phạm quyền dân chủ kinh tế và chính
trị của dân, làm tổn hại đến lợi ích của dân chúng.
16
- Nông dân Thái Bình qua hành vi đấu tranh, khiếu tố, kể cả việc họ khiếu
tố vượt cấp lên thẳng Trung ương, không bằng lòng với thể chế ở cơ sở
chứng tỏ họ không chỉ đòi hỏi phải trả lại cho họ những lợi ích đã bị mất mà
còn đòi tổ chức, xây dựng lại thể chế thực sự xứng đáng với sự ủy quyền của
họ. Họ chỉ chống lại những tổ chức, bộ máy cụ thể, những người có chức có
quyền cụ thể ở cơ sở chứ không phải họ chống lại chế độ, chống lại thể chế
xã hội. Nông dân Thái Bình và nông dân cả nước ta tham gia trực tiếp vào
cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, chống lại những sự thái hóa hư
hỏng của một số cán bộ đã không còn xứng đáng là công bộc tận tụy của dân
nữa, đã trở nên lộng quyền và lạm quyền, làm sai lệch các chuẩn mực xã
hội. Hành động ấy tuyệt nhiên không phải là sự chống Đảng, chống Nhà
nước, chống chủ nghĩa xã hội, mà ngược lại bằng đấu tranh, bằng phản ứng
nông dân Thái Bình đã tham gia trực tiếp bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Quy chế đân chủ cơ sở bắt nguồn trực tiếp từ sự kiện đó, bắt nguồn sâu
xa từ sự phát triển kinh tế - xã hội, từ những bước trưởng thành của nông
dân qua cuộc vận động dân chủ hóa trong 20 năm đổi mới.
Sự kiện Thái Bình chỉ là một điểm nóng chính trị - xã hội đã nổ ra. Còn
biết bao điểm nóng tiềm tàng khác trên địa bàn nông thôn rộng lớn khắp cả
nước với mấy chục triệu nông dân, trong đó tỷ lệ nông dân và hộ nông dân
nghèo đói là không nhỏ. Phân hóa giầu nghèo đang gia tăng trong nền kinh
tế thị trường. Muốn thực hiện thành công chương trình quốc gia về xóa đói
giảm nghèo cho nông dân, không để cho nông dân rơi vào tình trạng bần
cùng hóa dẫn tới sự phân hóa giai cấp, thì càng phải chú trọng củng cố, xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn , nhất là các đảng bộ, chi bộ nông
thôn, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân xã, các trưởng thôn và các tổ chức
đoàn thể của dân ở thôn, xã. Những tổ chức, bộ máy và cán bộ ở đó phải
thực sự trong sạch, vững mạnh, liêm khiết, chăm lo cuộc sống hàng ngày
17
của dân, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của dân thì mới có thể giúp đỡ
thiết thực cho dân chúng vượt qua đói nghèo, ổn định cuộc sống và dần nâng
cao mức sống của người dân. Không như vậy, biết bao tiền của từ các dự án
xóa đói giảm nghèo quốc gia, từ các chương trình hỗ trợ phát triển nông
thôn…sẽ bị thất thoát, chiếm đoạt bởi những kẻ lạm dụng chức quyền , cướp
đoạt trắng trợn của dân chúng. Hệ thống chính trị và Quy chế dân chủ ở cơ
sở là những đảm bảo chính trị cần thiết để nông dân được quyền tự do làm
ăn, sinh sống, được hưởng an ninh và an sinh của công dân do pháp luật quy
định và bảo vệ. Trong điều kiện và hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự ổn định
chính trị - xã hội và an ninh nông thôn, tâm trạng phấn khởi, sự đoàn kết hòa
hợp của nông dân trong đời sống cộng đồng là dấu hiệu cực kỳ quan trọng
về sự vững mạnh của chế độ, và ngược lại sẽ là điều lo ngại, là sự không
bình yên nhất của thể chế.
Đủ thấy, nông thôn – nông nghiệp và nông dân thường xuyên là trung
tâm chú ý của chế độ như thế nào. Không giải quyết đúng đắn và kịp thời
những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn và những nhu cầu của
nông dân thì không thể khai thông được những nội lực phát triển đất nước,
không thể đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công băng, dân chủ, văn minh.
Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn có vai trò và tác dụng ngày càng
lớn đối với việc giải quyết những yêu cầu và nhu cầu đó. Quy chế dân chủ ở
cơ sở để thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ cho nông dân phải là
mục tiêu và sâu sa của hệ thống chính trị, là động lực cơ bản để phát triển
nông thôn.
Đúng như Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: trong bầu trời không gì
quý bằng nông dân, dân chủ là của quý báu nhất của nông dân. Thực hành
18
dân chủ như chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn, thực hiện
tiến bộ và phát triển.
Nói tới củng cố và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn là nói
tới những tổ chức đảng và chính quyền ở xã và những đoàn thể, tổ chức
chính trị - xã hội của quần chúng ở thôn xã được thành lập và hoạt động theo
tinh thần luật pháp. Các tổ chức, các đoàn thể này đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của tổ chức đảng ở địa phương, hợp thành hệ thống chính trị cơ sở. Đó
là những tổ chức thiết chế chính thức, còn gọi là các thể chế chính thống. Hệ
thống chính trị là hệ thống của các thể chế chính thốngvới nhiều cấp độ khác
nhau từ cơ sở tới trung ương trong phạm vi cả nước. Nó có vai trò của một
cơ chế thực hiện và đảm bảo dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, đối
với mọi công dân, mọi tầng lớp trong cơ cấu giai cấp – xã hội, trong đời
sống của các cộng đồng dân cư. Nó phát huy tác dụng trực tiếp nhất trong
hai lĩnh vực then chốt của dân chủ là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong
chính trị. Ngoài các thể chế chính thống, trong đời sống xã hội ở nông thôn
cũng như đô thị, trong các cơ quan đơn vị như các doanh nghiệp, công ty, xí
nghiệp, trường học…, còn có các thể chế phi chính thống được hình thành từ
nhu cầu hoạt động, giao tiếp của con người, đặc biệt trong lĩnh vực đời sống
văn hóa tinh thần. Những thể chế này không nằm trong hệ thống chính trị,
không bị chi phối trực tiếp theo các nguyên tắc của hoạt động chính trị
nhưng tác dụng của nó tới đời sống chính trị, tới quá trình vận động của dân
chủ và dân chủ hóa trong chính trị, trong xã hội là rất to lớn. Nó tập hợp các
thành viên theo tinh thần tự nguyện và hoạt động theo phương thức tự quản,
tương ứng với hình thức dân chủ trực tiếp.
Sự hình thành và phát triển của các hệ thống phi chính thống từ cơ sở ở
nông thôn đến các cấp độ cao hơn cơ sở và ở ngoài địa bàn nông thôn có xu
hướng ngày càng tăng lên và hoạt động ngày càng mở rộng, đa dạng và
19
phong phú. Đó là xu hướng tự nhiên, hợp lý và lành mạnh, phản ánh nhu cầu
phát triển dân chủ của cá nhân, của cộng đồng xã hội. Các thể chế phi chính
thống là các thể chế xã hội để phân biệt với các thể chế chính thống trong hệ
thống chính trị.
Các thể chế xã hội không tách rời biệt lập, càng không phải là đối lập
với các thể chế chính trị. Chúng phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động
chính trị - xã hội. Sự phát triển dân chủ, yêu cầu thực hiện Quy chế dân chủ
ở cở sở, đặc biệt là ở nông thôn đòi hỏi một cách tất yếu sự phối hợp và hỗ
trợ của những thể chế đó.
Nếu chỉ riêng các thể chế chính thống không thôi thì việc thực hiện và
phát huy dân chủ sẽ bị hạn chế, thậm chí khi sảy ra những hiện tượng vi
phạm dân chủ thì việc khắc phục và sửa chữa nó có thể sẽ chậm thậm chí
không thành công. Các thể chế xã hội thuộc hệ thống xã hội với sự phong
phú muôn vể các quan hệ xã hội cấu thành nó như những tác nhân cần thiết
thúc đẩy phát triển dân chủ, là sự hỗ trợ không thể thiếu giúp cho hệ thống
chính trị cơ sở vận hành đúng đắn, lành mạnh, thực sự là cơ chế dân chủ,
chống lại sự lệch lạc, biến dạng phản dân chủ. Nghiên cứu và xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa các thể chế chính thống và phi chính thống là nghiên cứu
trực tiếp vào nội dung và giải pháp thực hiên dân chủ.
1.3. Khái niệm Quy chế dân chủ cơ sở
Phạm trù “dân chủ” mà chúnh ta đang sử dụng có nguồn gốc từ tiếng
Hy Lạp “demos” nghĩa là nhân dân và “kratos” nghĩa là chính quyền, quyền
lực. “Demokratia” có nghĩa là quyền lực của nhân dân, chính quyền của
nhân dân. Dân chủ có nghĩa là dâm làm chủ mọi quyền lực xã hội, đó là ước
mơ từ xưa của nhân loại và được các nhà tư tưởng tiến bộ nêu ra rất sớm
20
trong lịch sử xã hội. Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa, đến thời đại chúng ta
dân chủ đang là đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu và là động lực xã hội.
Phạm trù “dân chủ” có một lịch sử tiến hóa lâu dài, thể hiện khát vọng
của nhân dân làm chủ vận mệnh của mình. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái
kinh tế - xã hội khái niệm dân chủ ngày càng được triển khai phong phú hơn
từ chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận thức, hành vi con
người , các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Ở mỗi thời đại,
dân chủ mang những đặc trưng và hình thức khác nhau.
Nói đến cơ sở là nói đến cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính nhà
nước, ở nước ta đó là cấp xã, phường. Cơ sở và chính quyền cấp cơ sở có vị
trí đặc biệt trong hệ thống chính trị nước ta, đây là cấp xa Trung ương nhưng
gần dân nhất. Các cấp cơ quan địa phương và huyện là hai cấp trung gian nối
Trung ương và cơ sở. Trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, thì chính
quyền cấp cơ sở là cấp trực tiếp làm việc với dân, còn các cấp khác thì chủ
yếu làm việc với hệ thống cơ quan nhà nước. Từ đặc điểm đó chúng ta thấy
rằng, vai trò vị trí của cấp cơ sở rất quan trọng. Nói đến dân chủ, theo nghĩa
đen là nói đến cơ sở.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là mục tiêu đồng thời là động lực đảm bảo thắng lợi của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Khâu quan trọng và cấp bách hiện nay là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
Thứ nhất, vì cơ sở, đặc biệt là ở xã, phường – nơi trực tiếp triển khai,
thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước- chỉ có thực
hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mới khơi dậy được tính
tích cực, chủ động, tự giác của nhân dân tham gia thực hiện những chủ
trương, chính sách ấy. Và chỉ khi công việc của nhà nước, công việc của xã
hội trở thành công việc của mọi người và mọi người tham gia thực hiện thì
21
chế độ chính trị mới thực sự có sức mạnh. Điều đó lại diễn ra hàng ngày,
thường xuyên ở cơ sở.
Thứ hai, viêc thực hiện dân chủ ở cơ sở là xây dựng nền tảng của chế độ
chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chế độ chính trị ở nước ta thực
chất là chế độ dân chủ của nhân dân lao động, cơ bản là của công nhân, nông
dân và tri thức. Nhân dân lao động làm chủ quyền lực nhà nước, quyền lực
xã hội trước hết và cơ bản là ở cơ sở, từ đó mới có thể làm chủ trên phạm vi
rộng lớn hơn. Xây dựng chế độ dân chủ ở cơ sở là nền tảng cho xây dựng
chế độ dân chủ của toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ qúa độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, dân chủ ở cơ sở chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp
mặc dù có cả dân chủ đai diện. dân chủ trực tiếp đã nảy sinh trong cộng
đồng xã hội đầu tiên của loài người – thị tộc bộ lạc nguyên thủy. Nó cũng
tồn tại lâu dài trong lịch sử nước ta dưới hình thức dân chủ làng xã. Ngày
nay, khi đã hình thành các quốc gia rộng lớn hình thức dân chủ đại diện
ngày càng có vị trí quan trọng, song dân chủ trực tiếp không mất đi vị trí của
nó, dân chủ trực tiếp vẫn giữ vị trí nền tảng trong nền dân chủ hiện đại. Bởi
vì, chỉ trên cơ sở thực hiện tốt dân chủ trực tiếp mọi người mới có ý thức,
thói quen, trách nhiệm thực hiện dân chủ trực tiếp. Dân chủ trong bầu cử,
nhân dân chọn đúng người đại diện cho mình là tiền đề đầu tiên để thực hiện
dân chủ đại diện.
Thứ tư, quyền lực, lợi ích của nhân dân được thực hiện thông qua những
công việc thường xuyên, trực tiếp ở cơ sở. Do vậy, nhân dân phải biết, bàn,
làm và kiểm tra những công việc ấy mới có thể thực hiện quyền lực và lợi
ích của mình. Dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực, cụ thể trong việc thực
hiện dân chủ.
22
Như vậy, Quy chế dân chủ ở cơ sở là một khâu đột phá, đưa sinh hoạt
chính trị ở nước ta lên một tầm cao mới, củng cố và kiến tạo những điều
kiện có tính nền tảng cho sự nghiệp dân chủ hóa ở địa bàn nông nghiệp và
nông thôn.
Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu đã đặt đúng vị trí, vai trò của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị, trong chế độ
dân chủ của đất nước. Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu xác định rõ dân ở
cơ sở là ai? Như chúng ta đã biết, con người trong lịch sử nói chung thường
không tồn tại đơn lẻ, biệt lập mà liên kết thành cộng đồng (cộng đồng gia
đình, cộng đồng xã hội), con người với tư cách là cá nhân, là công dân thông
qua các cộng đồng ấy để hiện thực hóa nhân cách của mình, thực hiện
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của mình. Vì vậy, nói đến dân ở cơ
sở chúng ta không loại trừ hoặc coi nhẹ tư cách cá nhân, công dân nhưng
trước hết và quan trọng hơn hết là cộng đồng của họ. Có thể khẳng định
rằng, trong điều kiện nước ta hiện nay, nói đến dân quan trọng hơn hết và
trước hết là nói đến các đoàn thể nhân dân. Nói đến dân làm chủ là nói đến
vai trò làm chủ của các đoàn thể nhân dân. Ở cơ sở có dân chủ hay không
trước hết là phụ thuộc vào vai trò làm chủ của các đoàn thể nhân dân.
Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra một bước chuyển biến về chất trong
các bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đây dân chủ không còn là những mệnh đề
trừu tượng, những khẩu hiệu trống rỗng mà là những vấn đề cụ thể: Đảng
làm gì? Nhà nước làm gì?Đoàn thể nhân dân làm gì? Dân làm gì? Dân cần
biết, bàn, làm, kiểm tra cái gì? Như thế nào?
Qua khảo sát thực tế, chuyện dân chủ đã trở thành chuyện hàng ngày,
gần gũi, thân thiết, bổ ích như chuyện cơm ăn, nước uống, như không khí để
thở. Ý nghĩa Quy chế dân chủ ở cơ sở rất to lớn, hơn hẳn những cương lĩnh
trừu tượng xa vời. Dân chủ đã về làng và đi vào trong đời sống của làng.
23
Với Quy chế dân chủ ở cơ sở, có lẽ đây là lần đầu tiên khái niệm dân
chủ ở nước ta đã biến thành thể chế, thành quy phạm pháp luật. Nhiều cơ sở,
trước khi có Quy chế dân chủ đã thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở riêng cơ
sở mình. Đó là những cố gắng rất đáng ghi nhận nhưng dù sao đó cũng
không phải là “luật”, thiếu vắng tính điều chỉnh, tính bắt buộc và các chế tài
xử phạt. Mặc dù chưa phải đã hoàn thiện, nhưng Quy chế dân chủ ở cơ sở là
đòn bẩy để nhân dân, cán bộ, đảng viên sống theo pháp luật.
Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần sàng lọc, đào tạo đội ngũ các bộ.
Dân chủ ở cơ sở qua thời gian sẽ tạo ra được cơ chế lựa chọn, tôn vinh
những cán bộ có tâm, có tầm, có trí, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân, loại
bỏ được những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa trong chính quyền cơ sở.
Về lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành một quan
điểm về cán bộ đúng hơn, khoa học hơn, dân chủ hơn.
Quy chế dân chủ cơ sở vì vậy là yếu tố trực tiếp tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền vững mạnh, trong sạch. Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân sẽ là hiện thực ở cơ sở. Khi sinh hoạt chính trị ở cơ sở đã
thành tập quán dân chủ, chúng ta sẽ có chế độ dân chủ ở cơ sở toàn quốc. Đó
là thành trì bền vững, thành trì lòng dân cho chế độ chính trị. Có thể nói, dân
chủ ở cơ sở có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nói chung.
24
Chương II
Thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở của nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đến nay, đã có hơn 90% các làng xã Việt Nam đã tổ chức phổ biến cho
hơn 90% nông dân hiểu và cùng với đó đã hình thành cả một hệ thống hoạt
động thực thi Quy chế dân chủ:
Dân tham gia bàn bạc, quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp
đến đời sống kinh tế xã hội ở địa phương.
Dân bàn, góp ý, phê phán để cấp trên quyêt định.
Dân kiểm tra, giám sát ( hiện có 93% số xã đã lập được Ban giám sát).
Chính quyền làm việc theo nguyên tắc công khai chủ trương, công khai
tài chính, tiếp dân, nghe dân, tự phê bình có định kỳ trước dân.
Bầu cử, ứng cử tự nguyện, không áp đặt.
25
Tất cả hướng vào phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
làng xã văn hóa, thôn xóm tự quản, xây dựng chính quyền, tổ chức đảng
vững mạnh, trong sạch, sàng lọc cán bộ…
Đến đầu năm 2002, theo báo cáo của Ban dân vận Trung ương, điều tra và
thống kê ở nhiều tỉnh:
+ 18-20% số xã thực hiện tốt
+60-70% số xã thực thi trung bình
+10-15% số xã thực thi kém
Theo khảo sát, đến đầu năm 2002. ở 11 tỉnh trong cả nước, thì những xã
làm tốt là những xã biến được việc thực thi Quy chế dân chủ thành phương
thức tự phát triển, khai thác được các tiềm năng tại chỗ đem lại lợi ích và
quyền lực cụ thể cho dân. Tất cả đều công khai, bàn bạc, quyết định đồng
thuận và cùng nhau thực hiện qua sự tổ chức quản lý của một đội nhgũ cán
bộ có tâm huyết, có trình độ và sự giám sát, kiểm tra của dân. Số xã làm
được như thế còn ít, chỉ khoảng 18-20%.
Số xã trung bình là những xã đã triển khai học tập Quy chế dân chủ , có
thực thi những khâu mắt xích của nó, công khai một số việc, có lập Ban
kiểm tra nhân dân, bầu cử, ứng cử qua bàn bạc của dân và qua đó huy động
dân làm một số việc…Tất cả diễn ra như một quá trình thực hiện chủ trương
từ trên về quyền hạn, trách nhiệm của dân và bộ máy chính quyền phải làm
việc công khai. Ở đây dân chủ chưa trở thành nhu cầu nội tại, chưa trở thành
phương thức phát triển tự thân. Nó mới dừng lại như những nguyên tắc hành
chính mà cấp trên yêu cầu phải có. Dân mải lo làm ăn nên ít quan tâm, cán
bộ lúng túng không biết làm gì hơn
Số xã yếu kém chiếm 10-15%, đây là những nơi còn khó khăn về nhiều
mặt: chưa có đội ngũ cán bộ tương ứng với yêu cầu, dân trí thấp, quá nghèo
26
khó hoặc có những mâu thuẫn nội bộ tồn đọng, hoặc những sai sót trong
quản lý đầu tư, xây dựng, cán bộ lạm dụng quyền…Quy chế dân chủ ở cơ sở
được phổ biến nhưng không có tác dụng, còn hình thức, chưa có hiệu quả
thực tiễn, dân chờ, cán bộ thì né tránh.
2.1.1 Những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở.
Trải qua hơn 10 năm, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn đã đạt được những kết quả rất tích cực, góp phần tạo động lực thúc đẩy
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước, khắc
phục một phần tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa vời quần
chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước, đóng góp tích
cực vào việc cải cách hành chính, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cả nước…Có thể khái
quát mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, Quy chế dân chủ cơ sở từ một chủ trương, quyết sách chính trị
của Đảng đã nhanh chóng được thể chế hóa thành văn bản pháp lý của Nhà
nước và đi vào cuộc sống ở cơ sở nông thôn. Có những mốc thời gian đánh
dấu sự kiện quan trọng này là:
- Ngày 18/2/1998, Bộ chính trị ban hành chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Ngày 11/5/1998, Chính phủ ra nghị định ban hành và thực hiện Quy chế
dân chủ ở xã.
27
- Ngày 6/7/1998, Ban tổ chức cán bộ của chính phủ đã ra Thông tư
hướng dẫn thực hiện nghị định của Chính phủ, nhằm cụ thể hóa nghị định và
các trình tự thực hiện, sự phối hợp của các cấp, các nghành giúp cho chính
quyền cơ sở thực hiện đúng các điều khoản của quy chế đối với dân.
- Ngày 7/7/1998, Bộ tài chính ra Thông tư hướng dẫn thực hiện quy chế
tổ chức hoạt động quản lý và sử dụng các khoản đóng góp của dân.
- Ngày 24/8/1998, Hội nông dân Việt Nam có Thông tư hướng dẫn các
cấp hội thực hiện quy chế dân chủ ở các xã, xác định rõ vai trò, trách nhiệm
của hội Nông dân từ Trung ương tới cơ sở đối với cuộc vận động thực hiện
quy chế.
- Ngày 31/3/2000, Bộ văn hóa thông tin, Bộ tư pháp và Ủy ban Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng ra Thông tư liên tịch hướng dẫn việc
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước làng văn hóa nông thôn.
- Ngày 7/7/2003 ban quy chế thực hiện dân chủ ở xã thay thế nghị định
29.
- Tiếp đó, Ban bí thư TW Đảng ( khóa IX ) ban hành chỉ thị số 10 và
thông báo kết luận số 159, ủy ban thường vụ quốc hội ban hành các nghị
quyết và pháp lệnh số 34/2007, chính phủ ban hành các nghị định về quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà
nước, công ty cổ phần, công ty TNHH.
Thứ hai, Quy chế dân chủ cơ sở được triển khai tới các đối tượng dân
chúng ở cơ sở bằng nhiều biện pháp cụ thể và những hình thức thích hợp đã
góp phần quan trọng nâng cao nhận thức, ý thức về dân chủ, về quyền và
nghĩa vụ của công dân, về vai trò và trách nhiệm của chính quyền cơ sở đối
với dân.
- Kết quả này là sự khởi động thực hiện quy chế như một chính sách
quan trọng của Nhà nước về dân sinh, về an sinh và an ninh của dân chúng.
28
Phù hợp với tinh thần đó, các chính sách và biện pháp khuyến nông, khuyến
học khuyến tài tiếp tục được đẩy mạnh ở nông thôn, tạo ra động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa ở
nông thôn, góp phần củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
-Ở Trung ương và các địa phương (tỉnh, thành, quận, huyện) đã tổ chức
các đợt tập huấn, hội thảo để thống nhất nhận thức trong cán bộ chủ chốt,
trong các Ban chỉ đạo thực hiện quy chế.
-Năm 2000 đã có sơ kết việc tổ chức cho dân bầu trực tiếp trưởng thôn,
làng ấp, bản, tổ dân phố tại các khu vực: miền núi phía Bắc, đồng bằng Bắc
Bộ, khu IV cũ, miền Trung và miền Nam.
-Trong 3 năm đầu thực hiện quy chế, đã có 15 đoàn kiểm tra của Trung
ương, của 18 Bộ, nghành, đoàn thể ở Trung ương, kiểm tra trên 20 tỉnh,
thành và tiến hành kiểm tra cụ thể việc thực hiện quy chế tại 48 quận, huyện,
77 xã, phường, thị trấn.
- Các hình thức tuyên truyền vận động trong dân chúng về nội dung quy
chế dân chủ rất phong phú, đa dạng như: tờ tin, bản tin, các tài liệu bướm, sử
dụng loa đài…Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, Hà Giang, Lào
Cai, Cao Bằng, Trà Vinh, Kon Tum đã có mạng lưới tuyên truyền viên tới
tận cơ sở để thường xuyên phổ biến, hướng dẫn và giải pháp thắc mắc của
dân chúng xung quanh những vấn đề về quy chế dân chủ ơ cơ sở.
- Ở những tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, quy chế được dịch ra
tiếng dân tộc được phát trên các kênh truyền hình, truyền thanh kết hợp với
bộ đội biên phòng đưa quy chế về tận các bản, làng.
- Ở nhiều địa phương trong cả nước đã tích cực triển khai “Năm thực
hiện quy chế dân chủ” kết hợp với “Ngày vì người nghèo” (17-10-1999).
Đây là một biện pháp cụ thể nhằm xã hội hóa sâu rộng cuộc vận động này,
có sự chỉ đạo từ Trung ương và được sự hưởng ứng của địa phương và cơ
29
sở. Nghệ An là một trong những địa phương sớm tổ chức cuộc thi tìm hiểu
quy chế dân chủ và nhận được sự ủng hộ rất lờn từ cơ sở, chỉ sau một thời
gian ngắn từ khi cuộc thi được phát động, ban tổ chức đã nhận được 35439
bài dự thi mà đối tượng là dân chiếm tỷ lệ cao. Thực tế cho phép xác nhận
và đánh giá rằng Quy chế dân chủ được triển khai thuận lợi là do đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp có nhận thức đúng về tầm quan trọng của
cuộc vận động này có nhiệt tình và trách nhiệm trước dân, đồng thời có sự
chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương và cơ sở, có sự phối hợp
tích cực từ các nghành chức năng. Mặt khác, là do sự ủng hộ của dân chúng
với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, bước đầu thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần nâng
cao vị thế xã hội người chủ của dân, rèn luyện năng lực làm chủ của dân,
thiết lập được mối quan hệ tác động qua lại giữa người dân và chính quyền ở
cơ sở; nhờ sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý mà chính quyền
gần dân hơn, bớt được quan liêu và tham nhũng.
- Theo số liệu điều tra năm 2007 về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở ở 14 tỉnh, thành có 92% cán bộ, đảng viên, quán triệt quy chế dân chủ
trong nhận thức và chuyển biến trong hành động: thông tin cho dân biết
những điều dân cần biết, thực hiện chế độ tiếp dân và trả lời chất vấn của
dân, giải quyết đơn thư khiếu nại…Nơi có tỷ lệ cao nhất là 97%, nơi có tỷ lệ
thấo nhất là 85%. Số liệu điều tra trên 43 tỉnh, thành về dân và hộ dân được
biết quy chế dân chủ cho thấy có 77,6% số dân và hộ dân được biết qua các
hình thức: tuyên truyền, phổ biến trong các cuộc họp dân, được đọc văn bản
quy chế hay các tờ rơi phát đến tận gia đình, qua tuyên truyền miệng của cán
bộ, qua sách báo, truyền hình…Nơi có tỷ lệ cao nhất là 97%, nơi có tỷ lệ
thấp nhất là 60%.
30
- Những con số đó cho thấy một cách khả quan về sự thâm nhập của quy
chế dân chủ vào trong dân chúng.
- Kết quả của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã với những chuyển
biến tích cực so với thời điểm chưa có quy chế, được thể hiện rõ nét ở những
điểm sau:
Dân được truyền đạt tinh thần của quy chế, được biết rõ quy chế đã cho
họ những quyền gì và có trách nhiệm, nghĩa vụ gì trong việc thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Như vậy, quy chế đã trao vào
tay dân chúng một công cụ để tham gia, quản lý chính quyền và những
người đại diện cho mình, do mình lựa chọn, ủy thác. Từ đây, vị thế của
người chủ và hành động làm chủ của người dân được đảm bảo bởi tính pháp
lý của nó, trong quy chế dân chủ.
Dân (qua các chủ hộ) được bầu trực tiếp trưởng thôn, được thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp của mình cùng với việc nâng cao vai trò, tác dụng
của dân chủ đại diện qua bầu cử.
Dân được tiếp cận nhiều hơn, đầy đủ và kịp thời hơn những thông tin
cần thiết cho đời sống của mình, nhất là những thông tin kinh tế ở cơ sở về
kế họach sản xuất, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế (cây trồng, vật nuôi),
chủ trương “dồn điền đổi thửa), kế hoạch mở mang nghành nghề…Ngoài
những thông tin về kinh tế nêu trên, dân còn được tiếp nhận những thông tin
về vấn đề chính trị - xã hội, nhất là những dự kiến nhân sự trong lãnh đạo,
quản lý ở xã được đưa ra để thu thập ý kiến của dân. Như đã nói, biết được
thông tin là sự khởi đầu rất quan trọng, để dân có thể thực hành dân chủ
trong môi trường dân chủ.
Dân được bàn bạc, thảo luận và quyết định tập thể bởi sự nhất trí và hành
động theo đa số. Đó là quyền tự quản, quyền dân chủ trực tiếp của dân, nhất
31
là mức đóng góp, các khoản đóng góp, mục đích và kế hoạch cho dung các
khoản đó vì lợi ích chung.
Dân được cử đại diện của mình vào việc kiểm tra giám sát, nhất là trong
lĩnh vực kinh tế - tài chính thông qua các Ban thanh tra nhân dân.
Dân cũng có quyền góp ý, kiến nghị, khuyến nghị, khiếu nại với chính
quyền cơ sở và các cấp trên cơ sở về những vấn đề mà chính quyền đưa ra
để dân góp ý trước khi quyết định.
- Đó là những chuyển biến bước đầu nhưng rất quan trọng vì nó khẳng
định quyền làm chủ của dân và trách nhiệm của chính quyền trong việc thực
hiện quyền lực của nhân dân. Những chuyển biến đó cho thấy về căn bản,
những nội dung điều khoản của quy chế là phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội ở nông thôn, phù hợp với trình độ và lòng dân hiện nay.
Thứ tư, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra một lực đẩy chính trị
- xã hội rất quan trọng để thực hiện xóa đói giảm nghèo cho nông dân ở
nông thôn nước ta hiện nay.
- Để xóa đói giảm nghèo cần phải có tác động trực tiếp từ những chính
sách kinh tế - xã hội, cùng với nó là những chính sách đầu tư cho giáo dục,
dậy nghề và phát triển văn hóa. Tuy nhiên, những chính sách này chỉ có thể
phát huy được thông qua một thể chế chính trị vững mạnh, có khả năng
chống quan liêu, tham nhũng một cách có hiệu quả. Quy chế dân chủ ở cơ sở
có khả năng giải quyết được nhiệm vụ khó khăn phức tạp đó. Thực hiện dân
chủ bằng quy chế dân chủ đã trở thành một lực đẩy quan trọng, không thể
thiếu trong xóa đói giảm nghèo. Tác dụng thực tế của nó đã được chứng tổ
qua những kết quả xóa đói giảm nghèo gần đây ở nhiều vùng nông thôn trên
cả nước.
- Với tác động của Quy chế dân chủ, đảm bảo cho dân làm chủ trong sản
xuất kinh doanh, được tiếp cận thông tin, được vây vốn để mở rộng, nâng
32
cao năng lực sản xuất, tự tạo việc làm…Hiện nay có 27% số hộ nông dân
trong cả nước vừa làm nông nghiệp vừa làm các nghành phi nông nghiệp,
13% số hộ tập trung vốn và các nguồn lực khác vào kinh doanh nghành
nghề. Tính đến năm 2000 cả nước có 40500 cơ sở sản xuất kinh doanh
nghành nghề ở nông thôn, trong đó tư nhân chiếm 80,1%, doanh nghiệp nhà
nước chiếm 14,1% và hợp tác xã chiếm 5,8%. Hiện có hơn 1000 làng nghề,
trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống. Nhờ đó năm 2000, tổng giá trị các
nghành nghề nông thôn đạt 40.000tỷ, với gần 300triệu USD kim ngạch xuất
khẩu, giải quyết việc làm cho hơn 10 triệu lao động ở nông thôn, nâng cao
đời sống của người dân ở nông thôn.
- Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần thực hiện mục tiêu của chương
trình xóa đói giảm nghèo đến năm 2000, giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số
hộ của cả nước từ 20 – 25% xuống còn 10%, bình quân mỗi năm giảm 30
vạn hộ. Tập trung xóa về cơ bản nạn đói kinh niên, thực hiện định canh, định
cư ở miền núi, khắc phục tình trạng tái nghèo đói.
Nhờ có Quy chế dân chủ ở cơ sở mà các nguồn vốn đầu tư nêu trên đã
hạn chế được đáng kể những thất thoát và chiếm dụng do thông tin và kiểm
tra được tăng cường. Nơi đã giảm được mức nghèo cũ thì xác định mức
nghèo mới theo hướng nâng mức sống lên một bước về các nhu cầu thiết
yếu: ăn, mặc, ở, học hành và hưởng thụ văn hóa.
2.1.2 Một số hạn chế trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Cùng với những thành tựu và kết quả đã đạt được, trong qúa trình thực
hiên Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng gặp phải những hạn chế,
yếu kém. Đó là do nhận thức về dân chủ còn hạn chế, chưa thấy hết được
tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, tính cấp bách và lâu dài của vấn đề dân chủ
33
cũng như quyền làm chủ của nhân dân nói chung và thực hiện Quy chế dân
chủ nói riêng. Một số hạn chế, yếu kém chính cần giải quyết đó là:
- Một, khâu yếu kém nhất trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
là dân chưa được thực sự tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát của chính
quyền, đặc biệt là không có sự công khai, quyết toán rành mạch những
khoản đóng góp của dân đã được chi dùng vào những việc gì. Đây là nguồn
thông tin mà dân mong đợi, đòi hỏi nhiều nhất, bức xúc nhất nhưng được
đáp ứng một cách lúng túng nhất. Rõ ràng là quan liêu, lãng phí, tham ô và
tham nhũng ở nông thôn trong hệ thống quyền lực mà dân ủy quyền vẫn là
một tình huống có vấn đề cần được giải quyết. Trong thực tế, các khoản
đóng góp của dân là không nhỏ nhưng không chuyển hóa thành lợi ích của
dân làm cho dân bất bình, phản ứng. Nó có nguy cơ làm suy giảm động lực
phát triển và tổn hại đến tác dụng, uy tín của quy chế dân chủ vốn là một
chính sách đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Công khai tài chính,
tiền của vẫn là một trong những điểm yếu nhất hiện nay ở cơ sở. Khắc phục
điểm yếu cốt tử này đòi hỏi phải tăng cường kiểm tra, thanh tra từ cấp trên
và phải bổ xung vào quy chế những chế tài cần thiết, những quy định xử lý
nghiêm minh nhất, khi đã kết luận được hành vi tham nhũng của cá nhân và
tập thể. Chỉ có như vậy mới có dân chủ thực chất, mới được lòng dân, mới
đảm bảo sức mạnh của quy chế.
- Hai, là trong nội dung các điều khoản của quy chế không làm nổi bật
tầm quan trọng quyết định của dân chủ trong kinh tế, trong đó điều cần thiết
và nhạy cảm nhất đối với người dân là lợi ích, là sự hưởng thụ lợi ích chính
đáng và công bằng thì vẫn còn có những hạn chế trong quy định và thực
hiện. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là rất quan trọng và cần thiết
nhưng chưa đủ nếu không có những khẳng định pháp lý cũng như thực tế.
Không có lợi ích thiết thực thì dân sẽ không thể duy trì lâu bền nhiệt tình và
34
sự quan tâm thực hiện quy chế, có nguy cơ đẩy quy chế vào tình trạng hình
thức, mất tác dụng.
- Ba, là việc triển khai quy chế và tính hiệu quả của quy chế phụ thuộc
vào nhiều điều kiện, đặc biệt là điều kiện vật chất. Hiện nay, một trong
những khó khăn nổi bật ở cơ sở là không có địa điểm tuyên truyền rộng rãi
cho đông đảo nhân dân, việc tuyên truyền chỉ khép trong thôn, xóm vì thế
việc phổ biến cho dân và các hộ dân rất dễ rơi vào tùy tiện, chiếu lệ, hình
thức. Đó là một trở ngại lớn mà việc khắc phục nó đòi hỏi những đầu tư lớn
của tỉnh, huyện và hỗ trợ của Trung ương.
- Bốn là, quy chế cần được sửa đổi, bổ xung, hoàn thiện, đặc biệt là các
chế tài quy định trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện quy chế của cán bộ, của tổ
chức Đảng, chính quyền và của quần chúng. Nếu thiếu chế tài thì đây sẽ là
một kẻ hở để lợi dụng việc trì hoãn thực hiện quy chế, hình thức hóa quy chế
hoặc rơi vào những hoạt động quá đà, cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi
phạm dân chủ, pháp luật.
- Năm, mối quan hệ giữa quản lý nhà nước ở cấp xã và tự quản cộng
đồng ở thôn chưa rõ ràng, minh bạch, dễ chồng lấn, hoạt động sai chức năng
và thẩm quyền. Tình trạng này phải được khắc phục trong giáo dục nhận
thức, trong hướng dẫn công tác nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở và cho cả dân
chúng. Quy chế cũng phải làm rõ vấn đề này.
Đó là chưa kể đến một thực tế tồn tại ở các làng xã, thôn xóm là việc
cùng tồn tại 3 thể chế trong cộng đồng: luật nước, lệ làng và quy chế dân
chủ. Ở nhiều nơi hương ước tỏ ra tùy tiện trái với pháp luật, trái quy chế dân
chủ. Nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời thì cả pháp luật nhà nước
cũng như quy chế dân chủ sẽ bị suy yếu bởi một thứ “luật làng” với những
35
biến dạng phản dân chủ. Giải quyết vấn đề này cần có những biện pháp đủ
mạnh, hữu hiệu từ các cấp trên cơ sở, đặc biệt là sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp
huyện, tỉnh. Ngoài ra cần đào tạo, giáo duc, huấn luyện cán bộ cấp cơ sở có
đủ năng lực để có thể tuyên truyền, vận động nhân dân được tốt hơn.
2.2 Nguyên nhân của những thành công và thất bại
2..2.1 Nguyên nhân thành công
- Đây là chủ trương đúng đắn, hợp với lòng dân, được chỉ thống nhất, tập
trung từ cơ quan cao cấp của Đảng và Nhà nước đến cấp ủy, chính quyền,
các cấp đặc biệt là vai trò cấp ủy chính quyền cơ sở.
- Nhận thức của cấp đảng ủy về mục tiêu, động lực của việc phát huy
dân chủ cho nhân dân, sự quan tâm của người đứng đầu các tổ chức, đơn vị,
cơ quan các cấp, các lĩnh vực.
- Sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với các tổ
chức đảng, chính quyền các cấp trong việc tuyên truyền phổ biến các chủ
trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước, vận động hội viên tích cực tham
gia, giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, chủ động phát động nhiều
phong trào quần chúng rộng lớn như quỹ “vì người nghèo”, “vì người tàn
tật”, “quỹ đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình thương…
- Chính phủ và Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ Trung ương đã
tiến hànhđánh giá sơ kết, kiểm tra uốn nắn, hoàn thiện văn bản. Định kỳ Thủ
tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ đã tổ chức đối thoại với doanh
36
nghiệp, làm việc với Mặt trận Tổ quốc, Tổng liên đoàn lao động…Sự tham
gia tư vấn phản biện của các tổ chức Hội quần chúng nhân dân để xây dựng
cơ chế, hoạch định chính sách phù hợp với điều kiện thực tế.
- Ý thức trách nhiệm, trình độ dân trí, đời sống của nhân dân được cải
thiện, pháp luật ngày càng được hoàn thiện đã góp phần để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình.
2.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại và khuyết điểm
- Một số cấp ủy, người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa
quán triệt một cách sâu sắc về mục đích, ý nghĩa của chỉ thị 30-CT/TW
của Bộ chính trị và các nghị định của Chính phủ về phát huy dân chủ
trong các hoạt động nên dẫn đến thờ ơ, làm lướt hoặc lúng túng trong chỉ
đạo, điều hành hoặc chủ quan cho rằng đơn vị mình, cơ quan mình đã làm
tốt, không cần chỉ đạo mở rộng thêm.
- Một số quy định được ban hành trong các năm đầu (1999-2000)
thiếu đồng bộ, thiếu thực tiễn hoặc chưa được cụ thể hóa bằng luật pháp
nên nhận thức thiếu thống nhất dẫn đến việc chỉ đạo ở cơ sở lúng túng.
- Sự phối hợp thiếu chặt chẽ giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ
quốc, đoàn thể ở một số địa phương, cơ quan đơn vị đã dẫn đến việc tổ
chức triển khai, kết quả thực hiện rất hạn chế hoặc hình thức, không thiết
thực.
- Đối với cán bộ công chức, các cơ quan hành chính sự nghiệp, cấn bộ
công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước sợ va chạm, không thẳng
thắn đấu tranh, chưa tạo ra động lực quan trọng để thúc đẩy việc triển khai
và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong 2 loại hình tổ chức này.
- Một số Ban thanh tra nhân dân hoạt động hình thức, không thiết
thực, không thực hiện tốt chức năng dân chủ đại diện cho cán bộ, công
chức và công nhân, hoạt động của tổ chức, Công doàn, Đoàn thanh niên ở
37
các loại hình này ở nhiều nơi còn yếu, chưa trở thành chỗ dựa cho cán bộ,
công chức, công nhân trong việc phát huy dân chủ ở cơ quan, đơn vị.
Không kịp thời phát hiện tiêu cực, những vi phạm của cán bộ, công chức
trong đơn vị.
- Hoạt động của các tổ chức dân chủ đại diện như: Hội đồng nhân dân,
các tổ chức chính trị xã hội,…chưa thực sự đổi mới, xu hướng hành chính
hóa, tăng bộ máy, tăng biên chế, tăng tầng nấc trung gian …cũng làm
giảm hiệu quả của việc thực hiện quy chế.
- Một bộ phận nhỏ nhân dân chưa nhận thức đầy đủ giữa dân chủ với
kỷ cương phép nước, giữa quyền lợi với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân
dẫn đến một số nơi đã bị các phần tử cơ hội, bất mãn hoặc thù địch lợi
dụng kích động làm cho mất ổn định chính trị, mất trật tự an ninh ở địa
phương, ảnh hưởng đến sản xuất đời sống của nhân dân.
- Đối tượng điều chỉnh của 3 nghị định về thực hiên Quy chế dân chủ
ở các loại hình ở cơ sở: xã, phường, thị trấn; cơ quan hành chính sự
nghiệp; doanh nghiệp nhà nước cũng khác nhau về nhận thức, về dân trí,
về ý thức trách nhiệm nên dẫn đến kết quả triển khai thực hiện cũng ở
mức độ khác nhau.
2.3 Bài học kinh nghiệm
Năm 1998, Đảng và Chính phủ đã ban hành Chỉ thị và Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó đặc biệt chú trọng việc triển khai thực hiện
Quy chế dân chủ ở nông thôn đối với nông dân, tức thực hiện dân chủ ở cấp
cơ sở xã – phường – thị trấn. Năm 2002, Hội nghị Trung ương 5, khóa IX
của Đảng, lần đầu tiên đã đưa ra Nghị quyết về “Đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Tiếp theo đó, nhiều
38
chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước còn đề cập tới
những vấn đề bức xúc phải giải quyết để phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn, đảm bảo an ninh nông thôn, an sinh của cộng đồng dân cư để giữ vững
ổn định chính trị ở địa bàn chiến lược quan trọng này nhằm ổn định và phát
triển xã hội.
Năm 2002, Hội nghị Trung ương 5, khóa IX của Đảng lần đầu tiên đã ra
nghị quyết về “đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”.
Tiếp theo đó, nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng và những chính
sách của Nhà nước còn đề cập tới những vấn đề bức xúc cần phải giải quyết
để phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, an sinh của cộng đồng dân cư để
giữ vững ổn định chính trị ở địa bàn chiến lược quan trọng này nhằm ổn
định và phát triển xã hội.
Thực tiễn qua hơn 20 năm đổi mới với kinh tế thị trường và vận động
dân chủ hóa xã hội ở nước ta đã cho thấy tầm quan trọng chiến lược của cơ
sở và hệ thống chính trị ở cơ sở, tác dụng và ý nghĩa sâu xa của việc thực
hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ cơ sở. Đây thực sự
là địa bàn trọng điểm, là khâu xung yếu cần đột phá để phát triển nước ta
hiện nay.
Qua cuộc vận động triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong những năm qua ở các vùng nông thôn đồng bằng, trung du và miền
núi, từ vùng nông thôn gần đô thị, đang đô thị hóa đến các vùng xa đô thị, kể
cả nông thôn vùng sâu, vùng xa đã cho thấy những bài học kinh nghiệm chủ
yếu sau đây:
a) Thứ nhất, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, tập trung
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động về dân chủ và Quy chế dân chủ ở
39
cơ sở phải sâu rộng, thường xuyên, bằng nhiều hình thức cụ thể, nhiều biện
pháp sinh động, thiết thực đối với người dân, hộ dân tại thôn xóm.
Đây là việc đầu tiên trong những công việc phải triển khai. Đối tượng
tuyên truyền là người dân, trước hết và chủ yếu là nông dân. Để tuyên truyền
có hiệu quả và tác dụng thiết thực, người tuyên truyền vận động phải nắm
vững mục đích, nội dung, phương pháp tuyên truyền và đối tượng của mình.
Các nghành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến của
nhân dân trong việc xây dựng các chủ trương chính, sách liên quan liên quan
đến quyền lợi và lợi ích trực tiếp của nhân dân, tích cực thực hành dân chủ,
tạo nền nếp và những chuyển biến mới, tích cực ở cơ sở.
b) Thứ hai, thực hiện Quy chế dân chủ là thực hiện dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của dân ở cơ sở, do đó quá trình triển khai, thực hiện quy chế
là quá trình kết hợp đồng thời xây và chống. Xây dựng phong cách dân chủ
của cán bộ đối với dân, chống quan liêu, xã dân, tham nhũng trong tổ chức
bộ máy, trong cán bộ có chức quyền. Xây dựng ý thức dân chủ và trách
nhiệm nghĩa vụ của người dân, chống thói tùy tiện, tự do vô chính phủ, lợi
dụng dân chủ để phá hoại dân chủ, gây rối, mất đoàn kết, làm tổn thương
đến truyền thống cộng đồng và sự đồng thuận xã hội.
c) Thứ ba, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn
phải tạo được động lực để thúc đẩy kinh tế nông thôn, kinh tế hộ nông dân,
kinh tế của từng người phát triển. Do đó, dân chủ trong kinh tế chẳng những
đảm bảo phát triển kinh tế mà còn đem lại là sự thụ hưởng lợi ích công bằng
cho mỗi người dân. Động lực thực sự của dân chủ và Quy chế dân chủ là ở
đó.
d) Thứ tư, thực hiện Quy chế dân chủ ở cở sở, nhất là ở nông thôn phải
chú trọng phát huy tác dụng của các thiết chế xã hội có tính tự quản cộng
đồng của dân. Đây là sự hỗ trợ rất có hiệu quả đối với hệ thống chính trị (các
40
thiết chế chính trị), nhất là ở vùng nông thôn miền núi. Sức mạnh thúc đẩy
đồng thời cũng là mục tiêu của Quy chế dân chủ là ở sự đoàn kết cộng đồng,
đồng thuận xã hội, hòa giải trong nội bộ dân trí vì sự công bằng, bình đẳng
trong ổn định để phát triển
e) Thứ năm, thực hiện Quy chế dân chủ muốn có kết quả và tác dụng
bền vững, thực chất thì mấu chốt của vấn đề là công tác tổ chức và cán bộ.
Đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung và nhất là đội ngũ
cán bộ cơ sở, việc thực hiện Quy chế dân chủ thực sự là một cuộc thử thách
về đạo đức, năng lực, bản lĩnh. Chỉ có tổ chức mạnh, cán bộ tốt thì mới có
phong trào mạnh.
Chương III
Một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản và đề xuất
kiến nghị để nâng cao chất lượng thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở
3.1. Một số nhiệm vụ và giải pháp hỗ trợ cơ bản trong thời
gian tới
Trong bối cảnh mới, vấn đề nâng cao hiệu quả của việc thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn cần được cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc
các cấp quan tâm, chú trọng và đẩy mạnh, coi đây là khâu then chốt trong
quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trong thời
gian tới, cần thực hiện tốt một số những nhiệm vụ và nội dung sau đây:
41
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt
sâu sắc cho cán bộ, nhân dân những chủ trương của Đảng và pháp luật của
nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Để công tác tuyên truyền, giáo dục đạt hiệu quả, cần phải đa dạng hóa
các loại hình hoạt động và thường xuyên đổi mới, chú trọng đến phong tục
tập quán của từng vùng, từng địa phương để lựa chọn đường lối tuyên truyền
cho phù hợp. Trong các điều kiện cho phép các nghành, các cấp, các tổ chức
biên soạn, in ấn các tài liệu cần thiêt vể thực hiện thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn để trang bị cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Kiên quyết
khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm được đầy đủ chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về thực
hiện dân chủ xã, phường, thị trấn do không được cung cấp thông tin tài liệu.
Hai là, nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là những kiến thức
về pháp luật, để nhân dân có thể hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có
ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, từ đó có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực để tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, vừa
mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài đòi hỏi chúng ta phải
có nhiều biện pháp để nỗ lực thực hiện. Nếu trình độ dân trí không cao, thức
chấp hành pháp luật của nhân dân còn yếu thì chúng ta rất khó xây dựng một
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại và nhân văn; việc thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng vì thế mà mất đi ý nghĩa và hiệu quả
không cao.
Ba là, các cấp ủy, chính quyền và Mặt trận tổ quốc cần phối hợp chặt
chẽ, thường xuyên, có nền nếp trong việc thực hiện Quy chế dân chủ, coi
đây là tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở phải
42
thể hiện không khí dân chủ, tích cực vận động và tạo điều kiện tối đa để
nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của chính quyền. Cán bộ,
đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, phải tấm
gương về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phải duy trì thường xuyên việc kiểm tra thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phải được củng cố,
kiện toàn và bổ sung để hoạt động ngày càng hiệu quả và thiết thực hơn,
xứng đáng là nơi tham mưu đắc lực nhất cho Đảng và nhà nước để thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết để có
thể rút ra những bài học, bổ xung hoàn thiện quy chế.
Bốn là, gắn việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Cần có những chính sách động viên, khen
thưởng kịp thời những địa phương, cá nhân làm tốt; đồng thời, xử lý nghiêm
minh với những trường hợp mất dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối,
vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và nhân dân.
Năm là, để hoàn thành tốt các nhiệm vụ thực hiện dân chủ ở xã, phường
thị trấn, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục tổ chức, quán triệt sâu rộng
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các hướng
dẫn của Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về thực hiện dân
chủ ở cơ sở nhất là nội dung Pháp lệnh thực hiện Dân chủ ở xã, phường, thị
trấn và các văn bản hướng dẫn việc thực hiện Pháp lệnh của các cơ quan
trung ương cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp đặc biệt là ở cấp xã
và Ban công tác Mặt trận Tổ quốc ở khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản,…)
Trong thời gian tới, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ Chủ
tịch, phó Chủ tich Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban
43
nhân dân cấp xã được thực hiện theo tinh thần của Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Do đó, Mặt trận tổ quốc các cấp cần quán triệt,
tập huấn cho đội ngũ cán bộ Mặt trận những quy định mới trong Pháp lệnh;
Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP_UBTWMTTQVN, ngày 17-4-
2008, của Chính phủ và Ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và các văn bản khác của Trung ương.
Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động giám sát
và vận động nhân dân giám sát việc thực hiện Quy chế ở xã, phường, thị
trấn; tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp, nhất là ở cơ sở, Ban công tác Mặt trận Tổ quốc
ở khu dân cư. Trên cơ sở đó sẽ có tác dụng tích cực đối với việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đó là một số nhiệm vụ và giải pháp có tính cấp bách. Cần lưu ý rằng,
Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ tồn tại lâu dài như một đạo luật, như một chính
sách xây dựng và phát triển dân chủ ở nước ta. Để chính sách đó thực sự
phát huy hiệu quả đối với việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã
hội và phát triển sức dân thì mấu chốt vẫn là đội ngũ cán bộ thực thi chính
sách.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”.(1)
“Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính
sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra.
Nếu 3 điều ấy sơ sài thì chính sach đúng mấy cũng vô ích”(2).
3.2. Một số đề xuất kiến nghị
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chúng ta đang xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
44
bằng, dân chủ, văn minh. Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đó, cần tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội để dân thực sự làm chủ.
Cần tiếp tục đổi mới hoạt động nhằm nâng cao chất lượng của thiết chế
dân chủ đại diện ( Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng thời, từng bước mở mộng dân chủ trực tiếp
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.5, tr.240
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.5, tr.520-521
như việc tổ chức trưng cầu dân ý, dân bầu trực tiếp Chủ tịch xã… Phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã có tác dụng thiết thực
trong cuộc sống, nhưng cần nghiên cứu bổ xung thêm một số nội dung như:
dân đề xuất, dân quyết định, dân hưởng…
Qua hơn 10 năm thực hiện, văn bản Quy chế dân chủ ở cơ sở đã bộc lộ
những nhược điểm thiếu sót cần được sửa chữa, bổ sung, đặc biệt là thiếu
những chế tài và điều kiện thực hiện. Phải xây dựng một văn bản thật ngắn
gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ làm. Là quy chế nên tính ràng
buộc pháp lý phải thật rõ ràng, thật chặt chẽ, tránh sự hiểu sai, sự vận dụng
tùy tiện. Quy chế nên giảm thiểu tối đa các điều khoản, làm rõ đối tượng
thực hiện, làm nổi bật quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, để dân thấy
rõ sự thiết thực và quan tâm thực hiện.
Tiếp tục đẩy mạnh chương trình xây dựng luật pháp, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, phân cấp quản lý Trung ương - địa phương, thực
hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức, đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ
thống chính trị ở cơ sở.
45
Cần nghiên cứu cơ chế để dân được quyết định trực tiếp nhiều hơn, dân
được giám sát các công trình dự án lớn được xây dựng trên địa bàn, dân
được tham dự các phiên họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và
dân được trực tiếp bầu chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
Muốn đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở nông thôn, phải chú ý đặc biệt tới
ảnh hưởng xã hội của thôn và vai trò của thôn, của trưởng thôn trong cộng
đồng kinh tế - xã hội – văn hóa và chính trị ở nông thôn. Chúng ta cần chú ý
đúng mức và đầu tư hơn nữa cho sự phát triển của nông thôn. Phải đổi mới
căn bản nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
cán bộ cơ sở ở nông thôn cho thích hợp với yêu cầu đổi mới hệ thống chính
trị ở cơ sở và đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cần có những
chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng để phát triển nông thôn.
Chú ý tới cơ sở ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt là vùng các dân tộc ít
người, vùng có công với cách mạng…Điều này có ý nghĩa chính trị xã hội
cực kỳ quan trọng, đòi hỏi giải quyết một cách tinh tế và chuẩn xác.
Cuối cùng, phải kiên quyết chống các biểu hiện dân chủ hình thức, vi
phạm quyền làm chủ của dân hoặc lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở từng địa phương, từng bộ, nghành trên phạm vi cả
nước để dân chủ trở thành động lực của chế độ vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
46
Phần kết luận
Xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã được thực tiễn
khẳng định là một chủ trương đúng đắn, tác động tích cực tới nhiều mặt của
đời sống xã hội, nhất là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và
củng cố chính quyền ở cơ sở, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để việc xây dựng
và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ngày càng có hiệu quả, mang
tính bền vững và lâu dài, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên
của các cấp ủy, sự thực thi nghiêm túc, sáng tạo, có trách nhiệm của chính
quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và sự tham gia tích cực của các tầng
lớp nhân dân. Trong quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
47
trấn, chúng ta phải kết hợp nhiều nhiệm vụ và giải pháp một cách đồng bộ,
nhịp nhàng và linh hoạt; không được áp dụng một cách cứng nhắc, máy móc
và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, cơ sở. Có như vậy,
việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn mới thực sự trở thành động lực,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy mọi phong trào
thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân; góp phàn vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để tiếp tục nâng cao chất về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở, các nghành, các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa các quan
điểm chỉ đạo của Trung ương, kiên quyết chỉ đạo và thực hiện sâu rộng,
đồng đều; tiếp tục tổng kết, đúc rút các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, vận
dụng linh hoạt sáng tạo vào các đặc điểm của từng loại hình cơ sở một cách
nền nếp, hiệu quả, góp phần tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, giữ vững an ninh chính trị ở từng địa bàn cơ sở, đóng góp tích cực vào
việc phat triển bền vững quê hương, đất nước.
48
Tài liệu tham khảo
1. Ban tổ chức – cán bộ chính phủ: Hướng dẫn triển khai Quy chế dân
chủ ở cơ sở. NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001
2. Ban chỉ đạo thực hiên Quy chế dân chủ Trung ương, Ban dân vận
Trung ương: Quy chế dân chủ ở cơ sở - Ý Đảng, lòng dân. NXB
Chính trị quốc gia, 2005
3. Ban Dân vận Trung ương: Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở. NXB Chính trị quốc gia
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Cộng đồng làng xã Việt
Nam hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia
5. Hoàng Chí Bảo: Hồ Chí Minh – Nhà lý luận và thực hành dân chủ.
NXB Thông tin Chính trị học, 2000
6. Hội nhà báo Việt Nam, dự án Phát huy dân chủ xã, phường: Các văn
bản của Đảng, Nhà nước về dân chủ ở cơ sở. NXB Chính trị quốc
gia, 2001
7. Nguyễn Văn Sáu – Hồ Văn Thông: Thực hiện Quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay. NXB Chính trị
Quốc gia, 2003
49
8. Vũ Văn Hiền: Quy chế dân chủ ở cơ sở - Vấn đề lý luận và thực tiễn
9. Nguyễn Đăng Dung: Dân chủ một hình thức tổ chức Nhà nước. Kỷ
yếu đề tài khoa học cấp bộ phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong việc thực hiên Quy chế dân chủ ở cơ sở. HN, 2001 -
2002
10. Huỳnh Đảm: Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Tạp chí Cộng sản, số 789 (7-2008)
11. Hà Thị Khiết: Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạp chí Cộng sản, số 804 (10-2009)
12. Hoàng Chí Bảo: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2007
13. Phạm Thế Duyệt: Mở rộng dân chủ, phấn đấu đạt chất lượng cao. Báo
Đại đoàn kết, số ra ngày 13-2-2004
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. NXB Chính tri quốc gia,
15. Dương Xuân Ngọc: Quy chế thực hiện dân chủ ở cở sở ở cấp xã –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia, 2000
16. Lê Minh Quân: Tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân trong
việc đảm bảo dân chủ cơ sở. Kỷ yếu đề tài khoa cấp bộ về vai trò
của các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ cơ sở. HN,
2001
17. Phan Xuân Sơn: Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở
cơ sở hiện nay. NXB Chính trị quốc gia, 2002
18. Đặng Đình Tân: Thực trạng các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo
dân chủ cơ sở ở nước ta hiên nay. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ về
vai trò của các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ cơ sở
ở cấp xã hiện nay. HN, 2001
50
19. Pháp lệnh: Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2008
20. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. NXB Chính trị quốc gia
51