Paper for VAA
-
Upload
phan-thanh-trung -
Category
Documents
-
view
213 -
download
0
Transcript of Paper for VAA
![Page 1: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/1.jpg)
QUẢN TRỊ TRI THỨC (KNOWLEDGE MANAGEMENT) –
TỪ MỘT “HIỆN TƯỢNG THỜI TRANG” ĐẾN
MỘT LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ TỔ CHỨC SÁNG TẠO
Nguyễn Thị Hải Hằng
Thể loại: Lý thuyết (Conceptual paper)
1. Đặt vấn đề
Trong khi chúng ta rất dễ dàng đồng ý rằng tri thức là một trong những nguồn lực đặc biệt quan
trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các tổ chức trong nền kinh tế thị trường (Bollinger
and Smith, 2001) thì dường như lại không có một sự đồng thuận tương tự trong việc định nghĩa
thế nào là quản trị tri thức (KM). Trên thực tế, quản trị tri thức được đề cập đến một cách rộng
rãi trên các phương tiện truyền thông, trong giới khoa học, trong cộng đồng doanh nghiệp trong
khi các khái niệm nền tảng vẫn chưa được thống nhất. Hơn thế nữa, sau vài thập kỷ cố gắng sử
dụng KM trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, dường như KM chưa đem lại được những lợi ích
to lớn như đã được mong đợi trong việc hỗ trợ doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh trên thị
trường toàn cầu.
Một số các tổ chức tuyên bố rằng họ là những đơn vị tiên phong trong việc áp dụng quản trị tri
thức, nhưng nếu nghiên cứu sâu những doanh nghiệp được gọi là những trường hợp thành công
nhất trong việc ứng dụng Quản trị tri thức này, chúng ta có thể nhận ra rằng về thực chất những
gì họ đã và đang làm không có gì mới mẻ hoặc ưu việt hơn công việc quản trị thông tin. Nguyên
nhân tại sao lại có những hiện tượng này thì có nhiều và cần được xem xét một cách tổng thể.
Trong thế giới ngày nay, khi mà mọi thứ đều đang thay đổi một cách mạnh mẽ, nhanh chóng,
giới quản trị doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức. Niềm tin vào những lý thuyết kinh
tế truyền thống đã bị lung lay cùng với các đợt khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu. Nhiều
khái niệm kinh tế cần phải được tái định nghĩa sau những sự kiện diễn ra vào năm 2008. Giới
doanh nghiệp ngày nay trang bị rất nhiều công cụ hiện đại và họ tin rằng đó là những giải pháp
tối thượng cho công việc kinh doanh. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã nhận ra rằng tác dụng
của những công cụ quản lý này đối với thành công của các doanh nghiệp vẫn chưa được chứng
minh. Các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn không chỉ là từ môi trường kinh doanh
(bên ngoài) mà còn cả với những khó khăn từ chính tổ chức của họ (bên trong). Vậy nguyên
nhân cơ bản là do đâu? Câu trả lời cho vấn đề này vẫn còn để ngỏ.
Ngày nay, người ta đã bắt đầu đề cập đến khái niệm tổ chức như là một bộ máy có sự sống riêng.
Khi một tổ chức được khai sinh và phát triển, nó dần trở nên tương đối độc lập như là một cơ thể
sống. Cơ thể sống này có tri thức riêng của mình – một hệ thống tri thức tự thân quyết định sự
phát triển trong tương lai của tổ chức. Như là một kết quả của xu thế này, quản trị tri thức được
![Page 2: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/2.jpg)
nhận thức bằng một cách khác – “Quản trị tri thức chính là quản trị con người chứ không phải là
quản trị dữ liệu và thông tin. Quản trị tri thức thuộc về những lĩnh vực quản trị và hành vi tổ
chức, chứ không thuộc về lĩnh vực hệ thống thông tin hoặc công nghệ thông tin… Quản trị tri
thức liên quan đến chiến lược và khả năng học hỏi của tổ chức, các quá trình và cơ chế đào tạo,
phát triển, chia sẻ, huấn luyện trong một doanh nghiệp” (Zeleny, 2005).
Bài viết này tập trung vào giới thiệu về quản trị tri thức nói chung và một cách tiếp cận khác của
quản trị tri thức – quản trị dựa vào tri thức như một lý thuyết quản trị tổ chức sang tạo hoàn
chỉnh trong bối cảnh hiện nay.
2. Quản trị tri thức (KM) là một “hiện tượng thời trang”?
Chúng ta có thể nói rằng KM có một lịch sử lâu đời mặc dù nó mới được đặt lại tên trong khoảng
những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Nó xuất hiện tự nhiên để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Hàng ngàn năm trước, khi xã hội loài người hình thành và những hoạt động
săn bắn, hái lượm… bắt đầu xuất hiện, tri thức đã được tạo ra, tích lũy và truyền từ đời này sang
đời khác như một bản năng sinh tồn.
Những đột phá mạnh mẽ về khoa học công nghệ từ nửa sau của thế ký 20 đã dẫn đến sự phát
triển không thể dự đoán của công nghệ thong tin (IT). Nhân loại tuyên bố rằng chúng ta đang
sống trong Thời đại thong tin. Vào đầu những năm 1990s, internet đã trở thành một phần không
thể tách rời của xã hội loài người. IT trở thành “cuộc cách mạng công nghệ lớn nhất mà loài
người từng biết đến” (Snow, 1996). Con người có thể truy cập bất cứ nguồn thông tin nào từ bất
cứ nơi đâu. Con người trở thành ngày càng lệ thuộc vào các dịch vụ công nghệ cao như là
thương mại điện tử, nghiên cứu thị trường điện tử… Đối với doanh nghiệp, các thị trường tiềm
năng được mở ra – thị trường trực tuyến, nơi mà các doanh nghiệp có thể tiếp cận khách hàng
đơn giản bằng một cái nhấp chuột. Cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu đã nhanh chóng được thiết
lập và hỗ trợ việc lưu trữ dung lượng lớn số liệu để có thể trao đổi và truy cập dễ dàng. Trong
giai đoạn đầu tiên của Thời đại thông tin, con người đã tin tưởng mạnh mẽ rằng “Thông tin là
quyền lực”, “Thông tin là tiền bạc”. Niềm tin này đã lan tỏa trông nhiều nước, đặc biệt tại các
nước đang phát triển, nơi mà việc tiếp cận nguồn thông tin vẫn đang còn khó khan. Rồi tiếp sau
đó, con người bắt đầu than vãn về “Mặt trái của đồng xu” – sự quá tải thông tin. Thông tin tràn
ngập trong hầu hết mọi lĩnh vực, bao gồm cả quản trị kinh doanh, đã làm cho công nghệ thong
tin trở thành một mặt hàng tiêu dùng chứ không còn là một nguồn lực tạo nên vị thế cạnh tranh
nữa (Carr, 2003).
Trong giai đoạn này, quản trị tri thức đã xuất hiện và được coi là một công cụ quản trị mới. Thế
kỷ 21 đã bắt đầu, con người lại tuyên bố rằng đã bước vào Thời đại tri thức, khi mà các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, vốn và lao động đang được thay thế bằng tri thức như một nguồn lực cơ bản
![Page 3: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/3.jpg)
nhất tạo ra sự thịnh vượng kinh tế - xã hội (Davenport et al - 1998). Trong bối cảnh đó, quản trị
tri thức có vẻ là một giải pháp phù hợp nhất và nó đã nhanh chóng trở thành “mốt thời thượng”
trong khoa học về quản trị cũng như là tâm điểm của các cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học,
giới kinh doanh, và các nhà chức trách. KM được mong đợi như một cơ chế mới làm tăng tính
hiệu quả, hiệu lực và đổi mới của các tổ chức. KM có vẻ có một “tương lai tươi sáng” khi định
mệnh của nó là trở thành chìa khóa của một cánh cửa mới trong khoa học quản trị. Nhưng rồi số
phận của quản trị tri thức như thế nào trong thực tế?
Trong giai đoạn đầu tiên, đã có rất nhiều những người tiên phong tình nguyện nghiên cứu và ứng
dụng KM. Nhiều người trong số đó từ lĩnh vực IT. Chủ đề phổ biến của giai đoạn này là cung
cấp thông tin chính xác kịp thời cho đúng người cần. Và điều này đã dẫn đến sự lẫn lộn trên thực
tế giữa tri thức và thông tin. Những vấn đề thảo luận trong lĩnh vực quản trị tri thức lại thường
xoay quanh vấn đề hạ tầng công nghệ thông tin và các phần mềm ứng dụng trong một thời gian
dài, thậm chí cho đến cả ngày nay. Số lượng các doanh nghiệp đã từng tuyên bố rằng họ đang
xem xét việc ứng dụng một chương trình quản trị tri thức ngày càng tăng, nhưng họ lại hàm ý
hoàn toàn khác khi họ nói “Có” với KM. Họ có thể nói đến việc sử dụng internet để tiếp cận
“nguồn tri thức bên ngoài”, hoặc/và sử dụng hệ thống thông tin nội bộ (intranet/LAN) để chia sẻ
nguồn tri thức bên trọng, hoặc/và thiết lập hệ thống tài liệu quản trị… Một số các doanh nghiệp
khác tiên tiến hơn đã áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định, kho lưu trữ dữ liệu hoặc các phần
mềm khai thác dữ liệu, hỗ trợ làm việc nhóm… (Griffith University’s Report, 2002). Cộng đồng
Châu Âu (European Union) có kế hoạch đầy tham vọng biến EU trở thành “nền kinh tế tri thức
năng động và cạnh tranh nhất vào năm 2010” (Lisbon Summit, 2000), nhưng do “chưa thể xác
định rõ ràng một số những chỉ số quan trọng lien quan đến nền kinh tế tri thức hoặc những đầu tư
thực tế vào vốn tri thức, Châu Âu không bao giờ có thể xác định được họ có thể đạt được tham
vọng này bằng cách nào” (Mahdon et al, 2001). Hành động hiệu quả nhất của EU là tăng cường
đầu tư vào các dự án nhằm mở rộng cơ sở hạ tầng thông tin trong một số lĩnh vực (Các dự án:
EGEE-II, EMBRACE, WISDOM, GEANT2, ALICE, WEIRD, etc). Từ những quan sát trên thực
tế và nghiên cứu các tài liệu, “công thức” tương đối của việc thực hành KM trong giai đoạn này
được mô tả như sau:
Thực tế này đã được thể hiện thông qua tình trạng của quản trị tri thức ngày nay. Nghịch lý của
quản trị tri thức là trong khi mọi người đều đồng ý rằng tri thức là nguồn lực tối quan trọng, thì
quản trị tri thức vẫn không phải lựa chọn của các nhà quản trị, hoặc là nó chỉ được xem như là
một chức năng riêng biệt tại nhiều doanh nghiệp (Griffith University’s Report, 2002). Mặc dầu
KM = IM + +
![Page 4: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/4.jpg)
cũng đã có một số những thành công nhất định trong việc ứng dụng KM, nhưng nói chung, quản
trị tri thức hiện nay vẫn không phát huy được hết hiệu quả như nó đã được mong chờ. Các doanh
nghiệp luôn hết sức thực tế, nếu KM không chứng minh được tính hiệu quả, nó chỉ là một trào
lưu nhất thời và sẽ bị sớm loại bỏ. Những thất bại (hoặc thành công dù ít ỏi) của quản trị tri thức
trong giai đoạn khởi đầu này cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc để định hình con
đường phát triển mới của quản trị tri thức. Nói một cách khác, chúng ta có thể thấy rằng công
thức ở trên không thể giúp phát triển quản trị tri thức, cần phải có những cách tiếp cận khác để
hỗ trợ KM phát triển và KM cần phải có cách tiếp cận khác để không chỉ là một “hiện tượng thời
trang”.
3. Cách tiếp cận khác của Quản trị tri thức – Quản trị dựa vào tri thức
Bài viết này giới thiệu một cách tiếp cận khác đối với quản trị tri thức, trong đó, quá trình sáng
tạo ra tri thức mới là cốt lõi, chứ không phải là chất, lượng hoặc tốc độ cung cấp thông tin. Đi
đầu trong xu thế này là giáo sư Ikjiro Nonaka và các đồng sự của ông. Nghiên cứu quá trình xây
dựng và thành công của các công ty Nhật Bản, từ những năm 1990s, nhóm các nhà nghiên cứu
khoa học này đã phát triển quản trị tri thức theo một hướng tiếp cận khác – quan điểm dựa vào tri
thức (knowledge – based view). Theo đó, tri thức được định nghĩa “như là một quá trình năng
động của con người trong việc điều chỉnh niềm tin cá nhân hướng đến sự thật” (“A dynamic
human process of justifying personal belief towards the truth”) (Nonaka and Takeuchi, 1995).
Giới học thuật trong lĩnh vực quản trị tri thức chấp nhận rộng rãi rằng có hai dạng tri thức: Tri
thức ẩn (tacit knowledge) và tri thức hiện (explicit knowledge) (Alavi & Leidner, 1999). Nonaka
và các đồng sự đã cụ thể hóa việc phân biệt một cách tương đối tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri
thức ẩn bao gồm các yếu tố liên quan đến khả năng nhận thức và kỹ thuật, và rất khó để giải
thích hoặc mã hóa để lưu giữ. Tri thức ẩn được xử lý trong đầu óc của người sở hữu một cách có
ý thức hoặc vô thức. Tri thức hiện là những tri thức đã được hình tượng hóa: đó là những tri thức
có thể được mã hóa, chuyển giao, truyền đạt… qua những hình thức như tài liệu hướng dẫn kỹ
thuật của một loại máy móc nào đó hoặc là công thức nấu một món ăn… (Nonaka, 1994). Những
tính chất này không thể được xem là tiêu chí cứng để phân loại tri thức. Hai hình thức này của tri
thức gắn kết chặt chẽ với nhau và cùng củng cố chất lượng của tri thức thông qua một quá trình
tương tác tích cực (Nonaka and Takeuchi, 1995) (Figure 1).
![Page 5: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/5.jpg)
Nonaka đã phát triển mô hình SECI để diễn đạt quá trình sáng tạo tri thức thông qua sự chuyển
đổi liên tục giữa tri thức ẩn và tri thức hiện, trong đó S (Socialization) có nghĩa là xã hội hóa, E
(Externalization) có nghĩa là ngoại hóa, C (Combination) là kết hợp và I (Internalization) có
nghĩa là nội hóa hoặc là tiếp thu. Mô hình năng động này được biểu diễn bằng Hình 2. Mô hình
SECI nhanh chóng được giới học giả tiếp nhận vì đã đưa ra được một cách nhìn khá toàn diện về
bản chất của quá trình sáng tạo tri thức liên tục – gốc rễ của sự tồn tại và thành công của tổ chức.
Figure 1: Two dimensions of Knowledge. Source: Nonaka & Takeuchi
Figure 2: SECI Model. Source: Nonaka, Takeuchi & Konno.
![Page 6: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/6.jpg)
Mỗi một giai đoạn của mô hình SECI sử dụng những phương pháp khác nhau. Tri thức ẩn của
các cá nhân được trao đổi, chia sẻ dựa trên sự cảm thông, thấu hiểu để nắm bắt được sự việc như
nó vốn có thông qua quá trình xã hội hóa (Socialization). Quá trình xã hội hóa còn giúp chúng ta
có được tri thức ẩn của các thành viên khác thông qua quá trình tương tác. Tri thức ẩn của các
quá nhân tiếp tục được ngoại hóa thành tri thức hiện để có thể chia sẻ được với những người
khác. Phương pháp cốt lõi của giai đoạn này là theo đuổi điều cốt yếu. Để theo đuổi được điều
cốt yếu, chúng ta cần phải thấy sự vật bằng cảm nhận riêng của chúng ta về thế giới, suy nghĩ sâu
sắc về những gì chúng ta nhìn thấy, và diễn tả điều cốt yếu bằng ngôn ngữ có thể hiểu được để
truyền đạt nó cho những người khác. Chúng ta phải nhìn thấy mình một cách khách quan và đặt
câu hỏi liệu ý tưởng/ý kiến của chúng ta có đúng hay không. Trong giai đoạn kết hợp, tri thức
hiện được phân tích/mô hình hóa, phổ biến và biên tập lại để có thể sử dụng. Phương pháp chính
được sử dụng trong giai đoạn này là phân tích và hệ thống hóa. Chúng ta cần phải nghĩ đến tối
ưu hóa tổng thể, chứ không chỉ tập trung vào từng phần, và tự hỏi mình: Sự vật và hiện tượng
quan hệ với nhau như thế nào? “Dòng chảy” của sự vật diễn ra như thế nào? Đối với giai đoạn
tiếp thu hay nội hóa (Internalization), phương pháp chính là học thông qua thực hành. Tri thức
hiện được biểu hiện thông qua hành động và thực hành. Trong quá trình này, chúng ta cần nghĩ
sâu về khoảng cách giữa ý tưởng và hiện thực, đặt câu hỏi tại sao giả thuyết lại sai hoặc đúng;
Điều chỉnh các lỗi ngay lập tức để tạo ra giả thuyết mới và học hỏi từ thực tiễn. Chúng ta cần tiếp
tục theo đuổi ý tưởng và chú ý đến các chi tiết. Nếu trong quá trình ngoại hóa và kết hợp, tri thức
ẩn được chuyển đổi thành tri thức hiện (một phần hay toàn bộ), thì trong quá trình tiếp thu (nội
hóa), tri thức hiện (được sáng tạo và chia sẻ trong toàn bộ tổ chức) sẽ được chuyển hóa thành tri
thức ẩn trong từng thành viên của tổ chức. Quá trình này sẽ làm tri thức ẩn của các cá nhân trong
tổ chức được bổ sung, phong phú thêm, qua đó, làm gia tăng năng lực của cá nhân như là từng tế
bào của tổ chức... Và cứ thế, tri thức ẩn của các thành viên lại tiếp tục được chia sẻ qua quá trình
xã hội hóa (S) – Một quá trình SECI mới tiếp tục diễn ra.
Để tạo điều kiện cho quá trình sáng tạo tri thức trong tổ chức cần phải có Ba. Ba (Theo phát âm
của tiếng Nhật – hiện nay khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong giới nghiên cứu về quản trị
tri thức) là một không gian – bối cảnh mở nơi mà ý nghĩa được tạo ra thông qua tương tác với
những người khác (tình huống, ngữ cảnh). Ba không phải là một không gian vật lý đơn thuần.
Bối cảnh là quan hệ hoặc tình huống tại một không gian và thời gian nhất định, bao gồm con
người và sự vật. Khi tình huống được chia sẻ, cảm nhận chung được tạo ra. Khi Ba được hình
thành, mọi người có cơ hội đặt bản thân họ vào tình huống của người khác, họ có thể cảm thông
với những giá trị và cảm giác của người khác, và cùng với nhau sáng tạo nên những tri thức mới
vượt quá khả năng của chính từng cá nhân trong mối quan hệ mở và không tồn tại bất kỳ rào cản
![Page 7: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/7.jpg)
nào. Một không gian – bối cảnh tương tác (Ba) tốt phải được tự tổ chức với những mục tiêu
chung, nơi mọi người được tạo điều kiện để chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ, trăn trở… thông
qua kinh nghiệm thực tế. Tại Ba, các thành viên phải cảm nhận được sự quan tâm, tình cảm chân
thật, sự tin tưởng và an toàn. Các thành viên phải thể hiện sự cam kết vì mục tiêu đã định, và Ba
phải có biên giới mềm, có thể “thẩm thấu” được (Nonaka, Toyama & Hirata, 2008).
Cách tiếp cận quản trị dựa vào tri thức đã được đúc kết, phát triển và ứng dụng tại Nhật Bản
trong suốt hơn ba thập kỷ qua và đã chứng tỏ được một sức sống mãnh liệt của một lý thuyết
quản trị hiện đại trong kỷ nguyên tri thức của loài người, khi mà sự đổi mới trở thành tiêu chí
sống còn của mọi tổ chức, mọi quốc gia. Những đóng góp to lớn của giáo sư Nonaka trong việc
đúc kết và phát triển cách tiếp cận này đã được ghi nhận bởi cộng đồng học giả thế giới – năm
2005, ông được vinh danh là học giả Châu Á đầu tiên có mặt trong danh sách 20 bộ óc vĩ đại
nhất của nhân loại. Cách tiếp cận quản trị dựa vào tri thức còn nhiều nội dung quan trọng cũng
như những ví dụ thực tiễn từ kinh nghiệm của các doanh nghiệp tại Nhật Bản cần được giới thiệu
cặn kẽ đến bạn đọc. Hiện nay tại Việt Nam, quản trị dựa vào tri thức cũng đang dần nhận được
sự quan tâm không những của giới doanh nghiệp mà cả trong lĩnh vực quản trị công. Trong
những bài viết sau, tác giả sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả quan tâm.
Có thể thấy, với cách tiếp cận này, mặc dù còn nhiều việc phải làm, nhưng những thành tựu bước
đầu đã cho thấy quản trị tri thức không phải là quản lý những tri thức hiện có trong tổ chức mà là
cách thức quản trị dựa vào tri thức để sáng tạo liên tục tri thức mới. Quản trị tri thức không phải
chỉ là công cụ, mà nó là “một lý thuyết hướng đến mô hình mới trong nền kinh tế tri thức”
(Nonaka, Toyama & Hirata, 2008).
4. Kết luận
Thế giới của chúng ta ngày nay đang biến đổi nhanh chóng, đặc biệt là từ năm 2008, khi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu xảy ra. Nhiều khái niệm kinh tế, quản trị cơ bản cần phải
được định nghĩa lại. Đối với giới kinh doanh, từ phổ biến nhất từ năm 2008 là “tồn tại”. “Tồn
tại” chủ yếu gắn liền với khái niệm “xanh” – bảo vệ môi trường. Nhưng đó là câu chuyện của
những năm từ 2008 trở về trước. Đến năm 2009, “tồn tại” lúc này đã được hiểu là duy trì được
tên tuổi, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Tình hình đã biến đổi hết sức khó khăn và phức
tạp. Các doanh nghiệp trong ngắn hạn phải cố gắng để sống sót và trong dài hạn phải xây dựng
cho được khả năng phát triển bền vững. Quản trị tri thức, với khả năng tạo ra tri thức mới liên tục
cho tổ chức, có thể giúp các doanh nghiệp làm được điều này thông qua việc tăng cường khả
năng thích hợp và thay đổi theo môi trường kinh doanh. Nhưng quản trị tri thức không phải là
một công cụ chiến thuật cho giải pháp ngắn hạn; Quản trị tri thức cần phải được hiểu như một
cách tiếp cận quản trị chiến lược với tầm nhìn dài hạn. Đó không phải là một hoặc một số các
![Page 8: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/8.jpg)
biện pháp riêng lẽ, mà đó là chiến lược xuyên suốt của tổ chức. Là một trong những người đến
sau trên thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam có thể học hỏi được nhiều điều
bổ ích từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đặc biệt là từ Nhật Bản – một quốc gia châu Á
có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và là một trong những quê hương của lý thuyết quản trị
tri thức hiện đại. Tại Nhật Bản, quản trị tri thức có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó được xem
là lý thuyết nền cho quá trình thay đổi và đổi mới của cả quản trị công và tư để đảm bảo sự phồn
thịnh của đất nước.
Tham khảo
Alavi, M., Leidner, D.E., (1999). Knowledge management systems: issues, challenges, and
benefits. Communication of the Association for Information Systems. Vol.1, No.7.
Bollinger, A., Smith, R., (2001). Managing organizational knowledge as a
strategic asset, Journal of Knowledge Management, Vol.5, pp.8-18.
Carr, N. G., (2003). It doesn’t matter, Harvard business review, pp.41-49.
Davenport, T.H., De Long, D., W., Beers, M. C., (1998). Successful knowledge management
projects, Sloan Management Review, Vol. 39, No.2, pp.43-56.
Griffith University – School of Management and BML Consulting, (2002). Knowledge
Management – Research Report 2002 (India).
Lisbon Agenda – Lisbon Summit (2000).
Mahdon, M. , Rudiger, K., Brinkley, I., Coats. D., (2001). What you get is not what you can see:
Intangible Assets and the Knowledge Economy, The world foundation.
Nonaka, I. (1991). The knowledge creating company. Harvard Business Review, November-
December.
Nonaka, I. (1994). A dynamic theory of organizational knowledge creation. Organization
Science. Vol.5, No.1.
Nonaka, I. & Takeuchi, H. (1995). The knowledge – creating company: How Japanese
companies create the dynamics of innovation. New York: Oxford University Press.
Nonaka, I. and Konno, N. (1998), The Concept of “Ba”: Building a foundation for Knowledge
Creation, California Management Review, Vol.40, No.3.
Nonaka, I., Toyama, R., & Hirata, T., (2008). Managing flow: A process theory of the knowledge
– based firm. New York: Palgrave Macmillan.
Snow, C.P., (1996). Government Science and Public Policy, Science, Vol.151,
pp.650-653.
![Page 9: Paper for VAA](https://reader036.fdocument.pub/reader036/viewer/2022082820/55cf9229550346f57b942269/html5/thumbnails/9.jpg)
Zeleny, M., (2005). Human System Management: Integrating Knowledge,
Management and Systems, World Scientific,ISBN-10: 9810249136. ISBN-13:
978-9810249137.
Abstract
Since last decades of the 20th century, human determined that we have entered into a new era –
Era of Knowledge. The word “Knowledge” is becoming more and more popular nowadays.
People have been talking about knowledge based economy, knowledge industries, knowledge
worker, knowledge production, knowledge support systems, etc.
Thousands books, articles, researches in this field have been published, and not less than that are
the numbers of related conferences, workshops those have been conducted. However, up till
now, Knowledge Management does not seem to have gained many achievements in its
development. While management tools such as TQM (Total Quality Management), QA (Quality
Assurance), and BSC (Balanced Scored Card) have been applied widely, Knowledge
Management (KM) still fumbles about to gain acceptance and adoption. Looking into the so-
called best practices of applied Knowledge Management and examining written materials of this
field, we can easily feel that, it is nothing new or better than Information Management, just
“wearing” new fashionable clothes called Knowledge Management. How true is this statement?
Is Knowledge Management just only a fashionable phenomenon or it really can help businesses
gain the competitive advantages? The aim of this conceptual paper is to discuss these issues and
to introduce different approaches of KM, especially, the knowledge – base view, in which KM is
not about managing knowledge but knowledge – based management.
Key Words: Knowledge, Knowledge Management, Knowledge – based Management,
information technology