ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH...

43
1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ —————————————— HOÀNG TRƢỜNG GIANG ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐOÀN NGỌC HẢI HÀ NỘI - 2009

Transcript of ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH...

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH

TRỊ

——————————————

HOÀNG TRƢỜNG GIANG

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 56

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐOÀN NGỌC HẢI

HÀ NỘI - 2009

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn

khoa học của PGS, TS. Đoàn Ngọc Hải.

Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn

đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2009.

Tác giả luận văn

Hoàng Trường Giang

3

MỤC LỤC

Mở đầu .................................................................................................................. 1

Chƣơng 1. Yêu cầu khách quan và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà

Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến

năm 2006 ................................................................................................... 8

1.1. Yêu cầu khách quan thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Tỉnh Hà Tây

từ năm 1996 đến năm 2006 ........................................................................ 8

1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây tác động đến

thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Tỉnh........................................................ 8

1.1.2. Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996 và yêu cầu của

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ...................... 13

1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa đói,

giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006 .................................................. 21

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo ........ 21

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây vận dụng chủ trương của Đảng vào việc lãnh

đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 1996

đến năm 2006 ................................................................................................... 26

Chƣơng 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm

nghèo từ năm 1996 đến năm 2006 ........................................................ 34

2.1. Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đối với các xã có tỷ lệ hộ

nghèo cao và vùng đồng bào thiểu số ...................................................... 34

2.2. Dạy nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động, đào tạo cán bộ

làm công tác xóa đói, giảm nghèo ............................................................ 42

2.3. Thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người nghèo ................................ 49

2.4. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong công tác xoá đói,

giảm nghèo ............................................................................................... 61

Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng

bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến

năm 2006 ................................................................................................. 67

4

3.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 67

3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân ....................................................................... 67

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân .......................................................................... 79

3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ quá trình Đảng bộ Tỉnh Hà

Tây lãnh đạo công tác xoá đói, giảm nghèo ............................................. 83

3.2.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, không ngừng

nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân

dân về xoá đói, giảm nghèo ...................................................................... 83

3.2.2. Kinh nghiệm về lồng ghép các dự án, chương trình, chính sách

cùng lúc giải quyết nhiều vấn đề .............................................................. 84

3.2.3. Kinh nghiệm về phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện xóa đói, giảm

nghèo ........................................................................................................................... 86

3.2.4. Kinh nghiệm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác

xóa đói, giảm nghèo ................................................................................. 87

3.2.5. Kinh nghiệm về tăng cường vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng

bộ tỉnh Hà Tây đối với công tác xoá đói, giảm nghèo ............................. 89

Kết luận ............................................................................................................. 91

Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 93

Phụ lục ............................................................................................................... 99

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đói nghèo hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc của tất cả các quốc gia

trên thế giới và cũng là vấn đề đang được các chính phủ, các nhà lãnh đạo,

các tổ chức quốc tế quan tâm. Năm 1995, Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên

bố 10 năm 1997- 2006 là Thập niên chống đói nghèo. Tháng 9 năm 2000,

trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, tại trụ sở Liên hợp quốc, 190 vị

đứng đầu các quốc gia trên thế giới đã long trọng cam kết thực hiện Tuyên bố

Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà mục tiêu số 1 trong tổng số 12 mục tiêu là:

Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực của loài người, giảm một nửa tỉ lệ người dân

thiếu đói, có mức thu nhập dưới 1 USD/1 ngày trong giai đoạn từ 1990 đến 2015.

Chính phủ Việt Nam coi vấn đề xoá đói, giảm nghèo là một trong

những mục tiêu xuyên xuốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Ngay từ những ngày đầu khi Việt Nam vừa giành được độc lập, tại

phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã xác định đất nước phải đối phó với 3 loại "giặc"- giặc đói, giặc dốt và giặc

ngoại xâm, trong đó Người đặt lên hàng đầu là "giặc đói". Hiện nay, khi đất

nước đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH thì quan điểm nhất quán

của Đảng và Nhà nước ta là song song với tăng trưởng kinh tế phải tập trung

chú trọng cho giảm nghèo, coi xoá đói, giảm nghèo là nhân tố có ý nghĩa

chính trị - kinh tế - xã hội hàng đầu để đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là một trong những yếu tố cơ bản để

bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững. Do vậy, năm 1998 Chính phủ đã phê

chuẩn một Chương trình xoá đói, giảm nghèo với tư cách là "Chương trình

mục tiêu Quốc gia".

Trong quá trình thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo toàn

Đảng, toàn dân Việt Nam ở khắp mọi miền của đất nước đã và đang ra sức

6

phấn đấu để đạt những mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn. Xoá đói, giảm

nghèo đã trở thành phong trào cách mạng ở các tỉnh, thành phố trong cả nước

- một Chương trình mục tiêu Quốc gia. Trong cuộc đấu tranh đó, quần chúng

đã, đang tạo ra nhiều mô hình xoá đói, giảm nghèo, cũng như các điển hình

xoá đói, giảm nghèo thành công, có hiệu quả và được nhân rộng.

Hà Tây là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ với dân số khoảng

2,5 triệu người, có địa bàn khá phức tạp, có nhiều thuận lợi, song cũng có

nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, Đảng

bộ tỉnh Hà Tây đã lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu,

song bên cạnh đó cũng còn tồn tại nhiều khuyết điểm, yếu kém cần tiếp tục khắc

phục để công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao và bền vững hơn.

Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa đói,

giảm nghèo giai đoạn 1996 - 2006, ngoài việc khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn,

sáng tạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, đề tài còn đánh giá những thành tựu, hạn chế,

nguyên nhân, tổng kết những kinh nghiệm để vận dụng vào giai đoạn mới.

Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài "Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lãnh đạo

thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006" làm luận văn

thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở nước ta là vấn đề được nhiều cơ

quan, các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu

là các nhóm công trình sau.

Nhóm 1, Các chuyên luận, chuyên khảo đã in thành sách viết về vấn đề

xoá đói, giảm nghèo ở nước ta được phát hành như: Các tác giả Trần Đình

Hoan, Nguyễn Thị Hằng, Bùi Trọng Thanh, "Vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở

nông thôn nước ta hiện nay", Nxb Bộ LĐTB&XH, Hà Nội 1997, trình bày

thực trạng đói nghèo ở nông thôn Việt Nam và những vấn đề cần được giải

quyết; Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Xuân Triều, "Đói nghèo ở Việt Nam", Nxb

7

Bộ LĐTB&XH, Hà Nội 1993, khái quát thực trạng đói nghèo ở nước ta và

những nguyên nhân của thực trạng đó; Nguyễn Văn Tiêm, "Giàu nghèo ở

nông thôn hiện nay", Nxb Nông nghiệp, 1993, nhìn nhận khái quát tình trạng

phân hoá giàu nghèo trong nông thôn Việt Nam…

Nhóm 2, Các bài báo khoa học viết về công tác xoá đói, giảm nghèo

đăng trên các báo, tạp chí như: Tác giả Nhật Tân với bài "Việc xoá đói, giảm

nghèo ở Hưng Hà", Tạp chí Cộng sản số 12 năm 1993; Bạch Đình Ninh với

bài viết "Đói nghèo ở Miền núi Nghệ An- Nguyên nhân và biện pháp khắc

phục" đăng trên Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1999; Nguyễn Thị Hằng, "Tiếp

tục đổi mới và thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa trong thời kỳ đổi mới",

Tạp chí Cộng sản số 597, tháng 8 năm 2000; Bùi Minh Đạo, "Giảm nghèo ở

vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản số 677, tháng 5

năm 2003; Tạ Trung, "Xoá đói, giảm nghèo và việc làm - vấn đề có giá trị

nhân văn sâu sắc"…

Nhóm 3, Những luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu

sinh lấy xoá đói, giảm nghèo làm đề tài nghiên cứu dưới các góc độ, phương

diện khác nhau như: Trần Đình Đàn - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2001, "Những giải pháp kinh tế xã hội chủ

yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh"; Nguyễn Trọng Xuân - Học viện

chính trị quân sự, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2004, "Quân đội tham gia xoá

đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"; Đào Tấn Nguyên -

Học viện Ngân hàng, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2004, "Giải pháp tín dụng

góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo của ngân hàng chính sách xã hội

Việt Nam"; Nguyễn Thị Thuận - Đại học Kinh tế quốc dân, Luận án tiến sĩ

kinh tế năm 2004, "Vận dụng lý thuyết giới trong xoá đói, giảm nghèo ở một

số tỉnh Miền Trung"; Đỗ Thị Diệu - Đại học Lâm nghiệp, Luận văn Thạc sỹ

lịch sử năm 2007, “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói,

giảm nghèo trong những năm 1991-2005”…

8

Nhóm 4, các đề tài, hội thảo khoa học đề cập đến vấn đề đói nghèo và

công tác xoá đói, giảm nghèo cũng được tiến hành trên cả nước: Năm 1999,

Bộ LĐTB&XH tiến hành Hội thảo với chủ đề "Những giải pháp tăng cường

nguồn lực thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo"; Tại Hà Nội, ngày 15-

16/2/2000, Bộ LĐTB&XH tổ chức cuộc Toạ đàm về Chuẩn nghèo đói ở Việt

Nam; Năm 1998, Hội thảo khoa học đề tài KHXH.03.08, "Công nghiệp hoá,

Hiện đại hoá và những biến đổi xã hội nông thôn- những định hướng chính

sách"; Chu Hữu Quý, Bùi Ngọc Thanh, Chương trình khoa học cấp Nhà nước

KX.08.04, "Các chính sách xã hội nông thôn (1991- 1995)"; Đỗ Nguyên

Phương, đề tài KX.07.05 cấp Nhà nước "Về sự phân tầng xã hội ở nước ta

trong giai đoạn hiện nay"…

Trên địa bàn Hà Tây, các cơ quan như: Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo

tỉnh và các huyện thị, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Cục thống kê

tỉnh, Hội đồng nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, Mặt trận Tổ quốc tỉnh…

đã tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả xóa đói, giảm nghèo ở địa phương.

Có thể khẳng định, các nghiên cứu về nghèo đói và xoá đói, giảm

nghèo ở nước ta rất phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều góc độ, nhiều lĩnh

vực khác nhau. Tuy vậy, hiện nay chưa có một công trình khoa học nào

nghiên cứu sâu, toàn diện về xoá đói giảm nghèo ở Hà Tây, nhất là dưới góc

độ của khoa học Lịch sử Đảng. Nhưng các công trình nghiên cứu kể trên là

những tài liệu quý, tác giả có thể khai thác, vận dụng trong quá trình thực hiện

luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu:

Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói,

giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006; Góp phần tổng kết sự lãnh đạo của

Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo, một bộ phận chính

9

sách xã hội của Đảng, qua đó rút ra những kinh nghiệm để vận dụng vào giai

đoạn cách mạng mới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Làm rõ yêu cầu khách quan để Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực

hiện xoá đói, giảm nghèo.

+ Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây vận dụng chủ trương của

Đảng, Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, định ra chủ trương và chỉ đạo thực

hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn của tỉnh.

+ Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; rút ra những

kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của Đảng bộ

tỉnh Hà Tây để vận dụng vào giai đoạn mới đạt kết quả cao hơn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà

Tây thực hiện xóa đói, giảm nghèo.

* Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của

Đảng bộ tỉnh Hà Tây về xoá đói, giảm nghèo.

+ Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây

về xóa đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.

+ Về không gian: Nghiên cứu về công tác xoá đói, giảm nghèo trên địa

bàn tỉnh Hà Tây cũ.

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

* Nguồn tài liệu:

Để hoàn thành luận văn này tôi đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu là các

tác phẩm kinh điển, Hồ Chí Minh toàn tập, các Văn kiện, Nghị quyết Đảng

Cộng sản Việt Nam liên quan đến đói nghèo và thực hiện xoá đói, giảm

10

nghèo. Các Văn kiện, Nghị quyết, Báo cáo của Đảng bộ Hà Tây trong thời kỳ

1996 - 2006; các báo cáo tổng kết chương trình xoá đói, giảm nghèo qua các

năm của các ban, ngành và Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh Hà Tây và

một số tác phẩm bài viết về Hà Tây. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để thực hiện

đề tài này và những tư liệu đó được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau

nhưng chủ yếu là tại Trung tâm Lưu trữ của Tỉnh uỷ Hà Tây, UBND tỉnh Hà

Tây và các huyện, thị, Sở Văn hoá Thông tin, Sở Lao động Thương binh - xã

hội tỉnh Hà Tây, Thư viện tỉnh Hà Tây…

Ngoài ra luận văn còn sử dụng các công trình khoa học, các chuyên

luận, chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết của các nhà khoa học

liên quan đến vấn đề đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo…

* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên, nhưng phương pháp chủ

yếu là: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic,và sự kết hợp hai phương

pháp đó. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như phương

pháp thống kê, so sánh, đối chiếu…

6. Đóng góp của luận văn

- Việc nghiên cứu đề tài trước hết nhằm hệ thống hoá chủ trương, chính

sách, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm

nghèo, bộ phận của chính sách xã hội của Đảng.

- Khẳng định sự lãnh đạo tập trung, có hiệu quả của Đảng bộ tỉnh Hà

Tây trong lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo.

- Tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm, từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà

Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ 1996 đến năm 2006. Vận dụng

những kinh nghiệm đó vào giai đoạn mới.

- Luận văn là nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy,

học tập Lịch sử Đảng trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng.

11

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết:

Chƣơng 1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà

Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.

Chƣơng 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo

từ năm 1996 đến năm 2006.

Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ

tỉnh Hà Tây lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.

12

Chƣơng 1

YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ

TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO

TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

1.1. Yêu cầu khách quan thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Tỉnh Hà

Tây từ năm 1996 đến năm 2006

1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây tác động

đến thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Tỉnh

* Điều kiện tự nhiên

Về vị trí địa lý, Hà Tây có tọa độ địa lý 20,31o - 21,17

o vĩ độ Bắc và

105,17o

- 106

o kinh độ Đông, bao quanh Thành phố Hà Nội về phía Tây Nam

qua các quốc lộ 1, 6, 32. Diện tích chung là 2147 km2, phía Đông giáp Hà

Nội, Hải Dương, Hưng Yên, phía Tây giáp Hòa Bình, phía Bắc giáp Phú Thọ,

phía Nam giáp Hà Nam. Với vị trí địa lý này, Hà Tây có được một số thuận

lợi cơ bản: Nằm sát Thành phố Hà Nội, trung tâm kinh tế - chính trị, văn hóa

của cả nước; Có điều kiện trao đổi, lưu thông hàng hóa với các tỉnh trung du,

miền núi phía Bắc, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Nam…

Về khí hậu, trong nền chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí

hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Tuy nhiên, do đặc điểm địa mạo, khí hậu của Hà

Tây được chia thành 3 vùng khá rõ rệt: Vùng đồng bằng, có khí hậu nóng ẩm;

Vùng đồi, có nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23,5oC; Vùng núi Ba Vì, có

khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình khoảng 18oC. Khí hậu của Hà Tây cũng

được xem là một nguồn tài nguyên khi nó tạo điều kiện thuận lợi cho người

dân có thể nuôi trồng được nhiều loài động - thực vật. Tuy nhiên, khí hậu Hà

Tây cũng chứa đựng những yếu tố hạn chế như: Vào mùa khô cây trồng thiếu

13

nước; Vào mùa mưa thường bị bão gây úng nội đồng và uy hiếp hệ thống đê

sông chống lụt…

Về địa hình, Hà Tây có các kiểu địa hình cơ bản: Địa hình đồi núi, địa

hình núi và địa hình đồng bằng. Do đó, Hà Tây có điều kiện thuận lợi thực

hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm.

Song cũng có những khó khăn nhất định, đặc biệt là phải có các công trình

chống úng, kết hợp với việc lựa chọn chế độ canh tác thích hợp với chế độ

mưa, ngập ở những vùng úng trong đê.

Về tài nguyên đất, nhìn chung đất Hà Tây có độ phì nhiêu cao, với

nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng ngắn ngày, dài

ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác

dụng với các hệ thống canh tác khác nhau. Song, tài nguyên đất của Hà Tây

vẫn có những yếu tố hạn chế nhất định: Tầng dày của đất vùng đồi phần lớn là

mỏng, có nơi còn bị đá ong hóa; mặt nước nuôi trồng thủy sản và cây dài

ngày còn thấp...

Về tài nguyên nước, được sông Hồng bao bọc ở phía Đông, sông Đà ở

phía Bắc, sông Đáy và các sông nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với

mật độ khá cao 60km/km2, với lượng nước hằng năm khoảng 180 - 200 tỷ m

3,

bên cạnh đó còn có hệ thống nước ngầm dồi dào và nằm khá nông. Đây được

xem là nguồn tài nguyên khá dồi dào cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh

hoạt, nếu xây dựng được hệ thống cấp nước hoàn chỉnh để lấy nước sông và

giữ nước mùa mưa, cấp nước mùa khô. Đi theo nguồn tài nguyên này là

nguồn phù sa bồi đắp hàng trăm triệu tấn/năm.

Về nguồn nhân lực, theo số liệu thống kê, năm 1993 dân số Hà Tây là

2,237 triệu người, tốc độ tăng bình quân là 2%/năm, mật độ dân số bình quân

là 992 người/km2. Về mật độ dân số, Hà Tây gấp 5,1 lần bình quân trong toàn

quốc, là tỉnh đông dân thứ 7 trong cả nước. Lực lượng đang ở tuổi lao động

vào khoảng 1,1 triệu người, trong đó gần 80% là lao động nông nghiệp.

14

Nguồn nhân lực Hà Tây có trình độ văn hoá khá (21% có trình độ văn hoá hết

cấp III, 62% hết cấp II và 14% hết cấp I) [47, tr.12]. Tuy nhiên, cũng dễ nhận

thấy với mật độ dân số đông và tốc độ tăng dân số cao, tao ra sức ép không

nhỏ trong giải quyết việc làm cũng như các vấn đề xã hội khác.

Như vậy, với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và những nguồn tài

nguyên trên địa bàn, Hà Tây có những nguồn lực quan trọng để phát triển

kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tạo những

thuận lợi nhất định trong công tác xoá đói, giảm nghèo của tỉnh. Song điều

kiện tự nhiên của Hà Tây cũng mang lại những khó khăn nhất định trong công

tác xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt là ở các xã miền núi, vùng đồi gò và vùng

trũng trong khu vực đồng bằng.

* Điều kiện kinh tế - xã hội

Về cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế- xã

hội của Hà Tây.

Hệ thống thuỷ lợi, trên địa bàn tỉnh đã đảm bảo tưới cho khoảng 85%

diện tích đất trồng lúa và 74% diện tích cây trồng hằng năm. Tuy nhiên, về cơ

bản Hà Tây vẫn thiếu các công trình lấy nước phù sa để cải tạo đồng ruộng,

diện tích được tiêu cũng chưa bảo đảm cho diện tích lúa và cây trồng cạn, hệ

thống trạm bơm, kênh mương do xây dựng quá lâu, thiếu vốn để duy tu, bảo

dưỡng nên hiện chỉ sử dụng được khoảng 70% công suất. Toàn tỉnh có 605

km đê, nhưng chưa thật vững chắc, chỉ đảm bảo an toàn ở cấp độ báo động 3.

Mạng thông tin liên lạc của Hà Tây khá phát triển, đã có những tổng

đài kỹ thuật số, hầu hết các xã đã có điện thắp sáng và điện thoại, đã hình

thành các dịch vụ phi điện thoại như fax, internet… Tuy nhiên, mạng lưới

thông tin bưu chính của tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu, thiết bị còn lạc hậu;

Mạng thông tin ở nông thôn còn thiếu, nhất là những vùng trọng điểm về kinh

tế, văn hoá, du lịch, phòng chống thiên tai. Đặc biệt là hệ thống điện chưa

15

theo quy hoạch phát triển chiến lược của tỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu

phát triển của các khu công nghiệp mới xuất hiện.

Về giao thông vận tải, Hà Tây có mạng lưới giao thông khá phát triển

bao gồm cả đường sắt, đường thuỷ và đường bộ. Có 42,5 km đường sắt đi qua

địa phận, hơn 200 km đường thuỷ được khai thác vận tải, mạng lưới đường bộ

có khoảng 3.000 km, là một trong những tỉnh có mật độ đường bộ cao nhất cả

nước. Tuy nhiên, vẫn còn lượng lớn của các sông nội địa chưa khai thác vận

tải mà chỉ phục vụ tưới tiêu trong sản xuất, đặc biệt là hệ thống đường bộ

cũng không đồng đều, là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội

trong nền kinh tế thị trường.

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, Hà Tây có nhiều thuận lợi nhất định

trong phát triển kinh tế - xã hội với cơ cấu ngành nghề đa dạng.

Về nông - lâm nghiệp và thuỷ sản, là tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng

sông Hồng, Hà Tây chủ yếu là một tỉnh nông nghiệp. Cây lương thực chiếm

tỷ trọng cao về diện tích 90%. Cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả

chiếm tỷ trọng nhỏ cả về diện tích và giá trị sản lượng. Bên cạnh ngành trồng

trọt, Hà Tây còn thuận lợi trong việc phát triển chăn nuôi với nhiều loại vật

nuôi như: trâu, bò, ngựa, đặc biệt, chăn nuôi lợn và vịt còn được xem là một

yếu tố thâm canh và sản xuất hàng hoá, chăn nuôi các loại động vật có giá trị

cao như hươu sao, dê cũng được chú ý và phát triển. Về nuôi trồng thuỷ sản,

Hà Tây có diện tích mặt nước khá lớn, song mới sử dụng ở mức thấp và nuôi

tự nhiên là phổ biến.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, theo số liệu thống kê năm

1993 trên địa bàn Hà Tây có 15 doanh nghiệp công nghệp TW với tổng số

vốn kinh doanh là 127 tỷ đồng và 6.120 lao động (chưa kể xí nghiệp quốc

phòng), 32 doanh nghiệp công nghiệp địa phương với tổng số vốn 33,4 tỷ

đồng và 4.703 lao động, 32 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động

với 2.150 lao động, 31 doanh nghiệp công nghiệp tư nhân với tổng số vốn

16

đăng ký là 7 tỷ đồng và hơn 4.000 lao động, 6 vạn hộ gia đình cá thể sản xuất

tiểu thủ công nghiệp với 162.000 lao động, trong đó có 88 làng nghề với 54

vạn hộ và 11,3 vạn lao động. Đây là một trong những lợi thế của Hà Tây

trong việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc

làm cho người lao động để vươn lên thoát nghèo.

Kinh tế du lịch, đây được xem là một thế mạnh của Hà Tây trong phát

triển kinh tế - xã hội. Theo thống kê của Bộ Văn hoá - Thông tin, Hà Tây là

tỉnh đứng thứ ba trong cả nước (sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) về

số lượng di tích lịch sử (2.000 di tích) với mật độ cao, 14 di tích/100 km2 (cả

nước là 2,2 di tích/100 km2) . Trong 2000 di tích lịch sử, co gần 400 di tích

được nhà nước xếp hạng, trong đó 12 di tích đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên,

hạn chế trong lĩnh vực du lịch của Hà Tây là cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu

hạ tầng còn kém, mạng lưới giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du

lịch, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ phục vụ cho du lịch chưa tương xứng…

Về phát triển xã hội, với vị trí địa lý và những thuận lợi về điều kiện tự

nhiên, mức thu nhập và đời sống vật chất của nhân dân Hà Tây tương đối khá,

nhất là ở các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Mức hưởng thụ văn hoá của

nhân dân khá cao, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 8 trường cao đẳng,

trung học chuyên nghiệp có 6 trường; hệ thống trường học các cấp có 760

trường, 20% dân số đang đi học các cấp. Toàn tỉnh có 17 bệnh viện, trong đó

bệnh viện tuyến tỉnh có 5, bệnh viện tuyến huyện có 11, 1 bệnh viện tư nhân.

Hằng năm đã khám bệnh cho khoảng hơn 3.000.000 lượt người [47, tr.31].

Với điều kiện kinh tế - xã hội nêu trên, Hà Tây là một tỉnh có những

thuận lợi nhất định trong việc thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Song

bên cạnh đó Hà Tây vẫn còn có những khó khăn nhất định, đặc biệt là sự

chênh lệch trong mức sống của các bộ phận dân cư, giữa các địa bàn dân cư

trong các thành phố, thị xã với dân cư sống trong 9 xã miền núi, vùng đồi gò,

bãi giữa sông Hồng… cũng còn rất lớn (Phụ lục 12). Đây là vấn đề đang đặt

17

ra cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh cũng như các cấp, các ngành có

liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo.

1.1.2. Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996 và yêu cầu

của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

* Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996

Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 9 (khoá VIII) từ ngày 27 - 7 đến ngày 12 -

8 - 1991 đã quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh: Hà Tây và Hoà

Bình. 5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị

xã Sơn Tây được tách khỏi Thành phố Hà Nội trở về Hà Tây. Tỉnh Hà Tây

được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-10-1991.

Sau ngày tái lập Hà Tây cũng có rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và

nhân dân toàn tỉnh đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua khó khăn, từng bước giành

được những thắng lợi bước đầu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội

cũng như trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Thời kỳ này công tác xóa đói,

giảm nghèo của Hà Tây tuy chưa được xây dựng thành chương trình cụ thể,

mà nằm trong sự chỉ đạo chung của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội.

Trong Báo cáo Chính trị của Đại hội Đảng bộ lần thứ XI (3- 1992), đã

xác định, số hộ nghèo của tỉnh còn 15%. Để thực hiện thắng lợi đường lối đổi

mới do Đảng lãnh đạo, phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, văn minh”, Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XI đã đề ra 5 mục tiêu:

Một là, giải quyết tốt vấn đề lương thực… đến năm 1995 đạt 80 vạn

tấn, khắc phục tình trạng đói giáp hạt. Hai là, giảm tỷ lệ sinh mỗi năm xuống

một phần nghìn (1‰). Ba là, xây dựng một số cơ sở hạ tầng bức thiết. Bốn là,

giữ vững ổn định chính trị, chống mọi biểu hiện tiêu cực. Năm là, kiện toàn

và làm trong sạch bộ máy, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức

đảng, hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy vài trò của các đoàn thể nhân dân.

Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, Tỉnh ủy, UBND

tỉnh đã đề ra những biện pháp:

18

Thứ nhất, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh

doanh. Thứ hai, tăng cường đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ

cho sản xuất và đời sống. Thứ ba, gắn việc phát triển kinh tế với giải quyết

các vấn đề xã hội, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Thứ tư, phát huy

vai trò và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể đối với việc thực

hiện phong trào xóa đói, giảm nghèo.

Nhờ những việc làm tích cực trên, đến năm 1994, qua điều tra điểm của

29 xã thuộc 14 huyện, thị xã thì số hộ giàu chiếm 4,33%, số hộ khá là

41,18%, số hộ trung bình 41,96%, số hộ nghèo là 12,53% (trong đó số hộ đói

là 5,06%), thống kê 30.858 hộ là đảng viên, có 7,5% số hộ nghèo (Phụ lục

02). Trong 3 năm (1991 - 1994), ngân hàng đã cho 19 vạn lượt hộ nông dân

vay 240 tỷ đồng để đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, áp dụng các tiến bộ

kỹ thuật, mở mang ngành nghề, dịch vụ… các đoàn thể cũng đã vận động

tương trợ, giúp đỡ nhau bằng vay vốn, vật tư không lấy lãi trị giá hàng chục tỷ

đồng. Số hộ nghèo đói từ 15% năm 1992, năm 1993 còn 12,53% [47, tr.37].

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XII (4- 1996), Đảng

bộ tỉnh đã tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội nhiệm kỳ

1992 - 1995: Đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991 -

1995, kinh tế địa phương dần dần ổn định và có bước phát triển. Trong 5 năm

1991- 1995, tổng sản phẩm trong toàn tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm là

9,5%. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất nông nghiệp là 6%.

Lương thực đạt 83 vạn tấn (vượt mức đề ra là 80 vạn tấn), căn bản giải quyết

được nạn thiếu ăn giáp hạt. Các loại rau đậu, cây thực phẩm, cây công nghiệp

đều tăng. Chăn nuôi tăng bình quân hằng năm 14,8%, tỷ trọng chăn nuôi

trong nông nghiệp tăng từ 16% năm 1990 lên 34% năm 1995. Khai thác hơn

3.000 ha đất trống, đồi trọc để trồng chè, cây ăn quả và trồng rừng…[1,

tr.373-374]. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhịp độ tăng bình

quân hằng năm là 14,5% (mức đề ra là từ 8 - 10%). Cơ cấu kinh tế địa

19

phương có bước chuyển dịch tích cực hơn; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng

từ 22% năm 1990 tăng lên 25% năm 1995; dịch vụ từ 21% lên 25%; nông

nghiệp từ 57% xuống còn 50%. Những thành quả phát triển kinh tế này có tác

động trực tiếp đến vấn đề xã hội nói chung và xóa đói nghèo nói riêng.

Đại hội khẳng định: Việc xóa đói, giảm nghèo được các đoàn thể, các

tổ chức xã hội động viên đông đảo nhân dân tham gia bằng nhiều việc làm

thiết thực. Toàn tỉnh có 38 vạn lượt hộ được vay hơn 1.700 tỷ đồng vốn của

Nhà nước để sản xuất, tạo thêm việc làm cho hơn 10 vạn người. Số hộ nghèo

đói giảm từ 22% năm 1990 xuống 9,12% năm 1995. Đời sống đại đa số nhân

dân ổn định, nhiều mặt được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm

1995 đạt 1,4 triệu đồng, tăng 43% so với năm 1990. Phong trào Đền ơn, đáp

nghĩa với người có công được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và

nhân dân quan tâm; toàn tỉnh đã xây dựng 1.000 ngôi nhà tình nghĩa, góp 2 tỷ

đồng vào sổ tiết kiệm tặng các gia đình liệt sỹ, thương binh. Các đoàn thể và

nhân dân coi trọng đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người tàn

tật, rủi ro giảm bớt khó khăn, đặc biệt là một số trẻ em nghèo được giúp đỡ

học tập tốt [1, tr.376]. Công tác y tế có tiến bộ, mạng lưới y tế cơ sở được

chăm lo củng cố; toàn tỉnh có 81% số trạm y tế xã được trang bị dụng cụ y tế,

72% số trạm y tế có y sỹ sản nhi, 20,8% số trạm có bác sỹ. Việc tiêm chủng

cho trẻ em hàng năm đạt 95%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 50% năm 1990

giảm xuống còn 42% năm 1995… [1, tr.378]

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đảng bộ tỉnh cũng chỉ rõ những

tồn tại, yếu kém. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Kinh tế nông thôn

ở nhiều xã còn thuần nông, chưa có nông sản hàng hóa, công nghiệp còn nhỏ

bé, chiếm tỷ trọng thấp, công nghệ lạc hậu, chưa có loại sản phẩm có khối

lượng đáng kể. Dịch vụ, du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,

kim ngạch xuất khẩu rất thấp. Chưa tự cân đối được thu chi ngân sách. Tổng

số thu trên điạ bàn mới chiếm 7% GDP và mới bảo đảm 66% nhu cầu chi.

20

Việc huy động và sử dụng các nguồn vốn cho sản xuất còn nhiều hạn chế. Cơ

sở hạ tầng yếu kém và xuống cấp. Chưa phát huy tốt mọi nguồn lực và lợi thế

của một tỉnh có đất đai và ngành nghề tương đối phong phú…

Những thành quả nêu trên của Hà Tây sau 5 năm tái lập đã đạt và vượt

mức so với chỉ tiêu đặt ra, tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước và

đặc biệt do xuất phát điểm thấp nên trên thực tế những thành quả đó còn rất

hạn chế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và công tác xóa đói,

giảm nghèo của tỉnh.

* Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu

cầu mới về xoá đói, giảm nghèo

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6- 1996) của Đảng, kiểm điểm

10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đã đưa nước ta ra

khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo những tiền đề cho sự nghiệp Công

nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa cho phép chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH đất nước. Nằm trong bối cảnh chung này, sự nghiệp phát

triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo của

Hà Tây đang đứng trước những yêu cầu, những thách thức mới.

Thứ nhất, so với mặt bằng chung của cả nước, nhiều lĩnh vực Hà Tây

còn có những yếu kém. Theo Cục thống kê, GDP năm 1991, Hà Tây đạt

605,8 tỷ đồng, năm 1992 đạt 716,8 tỷ đồng, năm 1993 đạt 807,5 tỷ đồng, nhịp

độ tăng trưởng bình quân là 10%, cả nước là 7,49%. Tỷ lệ huy động ngân

sách từ GDP năm 1992 là 132,9 tỷ và 151,8 tỷ năm 1993, trong khi đó chi

ngân sách năm 1992 là 170,3 tỷ, năm 1993 là 258,4 tỷ. Ngân sách Trung ương

trợ cấp thêm phần thiếu hụt là 78 tỷ năm 1992 và 106,6 tỷ năm 1993. GDP

bình quân đầu người năm 1991 là 149 USD, năm 1992 là 172 USD/230 USD

của cả nước, năm 1993 là 189 USD/242 USD của cả nước…[47, tr.30]. Tuy

kinh tế có tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng so với bình quân của cả nước,

21

Hà Tây thấp hơn trên một số mặt chủ yếu: GDP bình quân đầu người, tỷ lệ

huy động ngân sách và đặc biệt là chưa cân bằng được ngân sách.

Trong khi đó, các lĩnh vực chủ yếu của một nền kinh tế, Hà Tây vẫn

còn nhiều hạn chế.

Trong sản xuất nông nghiệp, Hà Tây vẫn còn mang nặng tính độc canh

cây lúa, đã hạn chế tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và thu nhập của nông

dân. Tiềm năng của vùng đồi, vùng bãi, vụ đông trong nội đồng chưa được

khai thác để tạo ra những hướng tăng trưởng mới theo hướng đa dạng hoá cây

trồng, vật nuôi phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch và cho xuất khẩu, cải

thiện đời sống dân cư trong khu vực này. Bên cạnh đó, còn tồn tại tình trạng

lãng phí tài nguyên; đất 1 vụ còn lớn (10.000 ha), diện tích mặt nước của 5

con sông và 6.000 ha ao hồ chưa được sử dụng, đất chưa có rừng và đất trống,

đồi, núi trọc có khả năng sử dụng cho nông - lâm nghiệp còn 20.000 ha…

Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp Trung ương và địa phương

trên địa bàn tỉnh còn quá nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp trong GDP; công nghệ

và thiết bị còn lạc hậu (90% xí nghiệp có trình độ công nghệ trung bình và lạc

hậu), phần lớn thiết bị đã sử dụng trên 10 năm. Tiểu thủ công nghiệp có tiềm

năng nhưng phát triển chưa mạnh, chưa ổn định, kỹ thuật còn lạc hậu, chưa có

thị trường, vốn ít, chưa có định hướng, còn mang nặng tính tự phát… chậm

hình thành các sản phẩm chủ lực theo tài nguyên và lợi thế của địa phương,

ngành công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng thiếu vốn đầu tư,

công nghệ và thị trường…

Thứ hai, để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH,

HĐH, làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tỷ trọng công nghiệp

trong GDP ngày càng tăng... tất yếu phải chú trọng phát triển các ngành công

nghiệp, thu hút các dự án công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp

trên địa bàn tỉnh. Điều đó dẫn tới một thực trạng là diện tích đất sản xuất

trong nông nghiệp dần bị thu hẹp (Phụ lục 13), đất canh tác có xu hướng giảm

22

do quá trình đô thị hoá và mở rộng thổ cư (bình quân diện tích đất giảm sút

mỗi năm khoảng 4%), số lao động trong nông nghiệp không có việc làm ngày

một tăng. Đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ đói nghèo

trong nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, địa bàn phức tạp, trong điều kiện mới dẫn đến sự không đồng

đều trong phát triển. Hà Tây có địa hình bao quanh thành phố Hà Nội về phía

Tây Nam qua các quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32. Toàn tỉnh hiện có 4.503,4

km đường giao thông, trong đó: Ðường do Trung ương quản lý dài 216km,

chiếm 4,79%; đường do tỉnh quản lý dài 374 km, chiếm 8,3%; đường do

huyện quản lý dài 755,1km, chiếm 16,77% và đường do xã quản lý dài

3.158,3km, chiếm 86,74%.

Tỉnh có 12 huyện và 2 thị xã (sau này nâng cấp thành 2 thành phố là Hà

Đông và Sơn Tây), 324 xã, phường, thị trấn. Trong đó có một số huyện rất

thuận tiện giao thông hoặc trực tiếp giáp gianh với Hà Nội như Hà Đông, Sơn

Tây, Hoài Đức, Chương Mỹ… nhưng có 9 xã miền núi và các xã đồi gò, ở

những nơi này tỷ lệ nghèo là rất cao, bình quân tỷ lệ nghèo ở các xã miền núi

là 38,42%, cao gấp 3,8 lần so với các xã đồng bằng; vùng đồi gò là 41,68%,

gấp 4 lần xã đồng bằng) [24, tr.39].

Trong nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường, việc thuận tiện giao

thông, gần các trung tâm kinh tế là yếu tố rất quan trọng trong phát triển kinh

tế - xã hội. Với địa bàn phân bố khá phức tạp, có 2 thị xã, có các địa bàn giáp

gianh với Thủ đô Hà Nội như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức… đời sống

nhân dân ở những địa bàn này khá cao về vật chất, tinh thần. Song cũng có

các địa bàn rất xa trung tâm như Mỹ Đức, Ba Vì… thậm chí còn có những xã

miền núi có đồng bào dân tộc sinh sống, các xã vùng trũng, đồi gò và bãi giữa

sông Hồng… đời sống nhân dân ở những địa bàn này lại rất khó khăn bởi

nhiều yếu tố đặc biệt là hạn chế về tư duy, nhận thức, trình độ trong phát triển

kinh tế - xã hội. Do đó, khoảng cách giàu nghèo của Tỉnh là khá cao so với

23

các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng (Phụ lục 12). Đây là một khó

khăn lớn trong việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn Tỉnh.

Thứ tư, đặc điểm dân số, là tỉnh liền kề với Thủ đô Hà Nội, có nhiều lợi

thế để phát triển, yêu cầu xây dựng Hà Tây thành tỉnh giầu mạnh trong thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và bối cảnh hội nhập cao đang đặt ra những thách

thức to lớn cho công tác dân số, với nhiệm vụ điều chỉnh tốc độ gia tăng dân

số, đảm bảo quy mô dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số đáp ứng

nguồn nhân lực chất lượng cao; hiện đại hóa quản lý dân cư làm căn cứ hoạch

định chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, xây dựng kế hoạch cung

cầu hàng hóa và dịch vụ nói riêng.

Hà Tây là tỉnh có mật độ dân số cao, gấp 26 lần mức bình quân chung

của thế giới; gấp 5,1 lần bình quân chung của cả nước và gấp 1,24 lần bình

quân các tỉnh đồng bằng sông Hồng và khoảng cách này còn tiếp tục xa hơn

với tốc độ tăng dân số hằng năm là 2%. Tốc độ tăng lao động của tỉnh cũng là

2%, lực lượng lao động là 1,1 triệu người (khoảng 50% dân số) có thể nói đây

là một thế mạnh. Tuy nhiên, với tốc độ tăng dân số và lao động cao trong điều

kiện quỹ đất không tăng, thậm chí diện tích đất sản xuất còn bị thu hẹp trong

quá trình tiến hành CNH, HĐH thì đây cũng là những thách thức không nhỏ

đối với công tác xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm của tỉnh.

Thứ năm, trong quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo,

chuẩn nghèo chung của cả nước luôn thay đổi cũng đặt ra cho Hà Tây những

yêu cầu mới.

Năm 1993, ngưỡng nghèo và đói được tính theo 2 vùng: Ở nông thôn

ngưỡng nghèo là 15 kg thóc/người/tháng, ngưỡng đói là 8 kg thóc/người/

tháng. Ở thành thị ngưỡng nghèo là 20 kg thóc/người/tháng, ngưỡng đói là 13

kg thóc/người/tháng.

Năm 1997, Chính phủ thông qua chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai

đoạn 1996 - 2000 với 3 khu vực: Ở nông thôn miền núi và hải đảo là 55.000

24

đồng/người/tháng. Ở nông thôn đồng bằng và trung du là 70.000 đồng/người/

tháng. Ở thành thị là 90.000 đồng/người/tháng.

Năm 2001, mức chuẩn nghèo được Việt Nam áp dụng trong giai đoạn

2001-2005 là: Vùng nông thôn miền núi và hải đảo là 80.000 đồng/người/

tháng. Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/tháng. Vùng thành

thị là 150.000 đồng/người/tháng.

Giai đoạn 2006- 2010, Chính phủ áp dụng chuẩn nghèo chỉ với 2 khu

vực là thành thị và nông thôn, cụ thể là: Những hộ gia đình ở nông thôn có

mức thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng được coi là hộ

nghèo. Ở khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân dưới

260.000 đồng/người/tháng được coi là hộ nghèo.

Như vậy, tính đến năm 2006, Chính phủ đã 4 lần thay đổi chuẩn nghèo,

theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đói ở Hà Tây cũng luôn có sự biến đổi:

Theo số liệu điều tra đầu năm 1996 của Cục thống kê tỉnh Hà Tây, tính

theo chuẩn nghèo của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 1996 - 2000 thì tỷ lệ

nghèo đói ở Hà Tây là 9,15%. Sau 5 năm thực hiện công tác xóa đói, giảm

nghèo, đến năm 2000 tỷ lệ nghèo đói ở Hà Tây là 5,8%. Nhưng theo chuẩn

nghèo mới của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn (2001- 2005) thì tỷ lệ nghèo

đói của Hà Tây là 10,42%. Tương tự như vậy, đến năm 2005, tỷ lệ nghèo đói

của Hà Tây giảm xuống còn 5%. Nhưng khi áp dụng chuẩn nghèo mới của giai

đoạn 2006 - 2010 của Chính phủ thì tỷ lệ đói nghèo của Hà Tây lên tới 13,85%.

Sự thay đổi liên tục chuẩn nghèo của Chính phủ dẫn tới một thực trạng

là các hộ cận nghèo theo chuẩn cũ sẽ trở thành các hộ nghèo theo chuẩn mới,

đồng thời còn có tình trạng các hộ đã thoát nghèo lại rơi vào tình trạng tái

nghèo. Vì vậy, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh và các Ban, Ngành liên quan phải luôn

chú ý quan tâm, rà soát để có chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo phù

hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn.

25

1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa

đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo

Ngay từ khi ra đời, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, hiểu rõ thực

tiễn đất nước, Đảng ta xác định rõ con đường phát triển của cách mạng Việt

Nam là hoàn thành độc lập dân tộc rồi tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ

TBCN. Thực tiễn lịch sử gần 8 thập kỷ qua đã kiểm nghiệm đường lối đúng

đắn đó. Sau khi hoàn thành Độc lập dân tộc, bước sang thời kỳ xây dựng

CNXH, một trong những mục tiêu hàng đầu của Đảng là mang lại ấm no,

hạnh phúc cho nhân dân. Sau 5 năm thực hiện đường lối Đại hội IV (12-

1976), đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân hết

sức khó khăn, thiếu thốn; Đại hội V của Đảng (3 - 1982) tập trung vào phát

triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, song trên thực tế vấn

đề đói, nghèo trong nhân dân vẫn chưa được giải quyết; đến Đại hội VI (12 -

1986), Đảng tiếp tục đưa ra 3 chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực

phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm bảo đảm an toàn lương thực

trong nước; Đại hội VII của Đảng (6-1991) đề ra phương hướng giải quyết

đời sống nhân dân 5 năm là: Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày

càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc nhu cầu lương

thực, khắc phục tình trạng thiếu đói giáp hạt ở một số vùng...

Bước vào thập niên 1990, vấn đề Xoá đói, giảm nghèo đã đề ra trong

các diễn đàn, các nghiên cứu nhưng mới được triển khai thành phong trào xoá

đói, giảm nghèo. Năm 1993, Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam đã đánh giá

cao tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển

nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói, giảm nghèo, đền

ơn đáp nghĩa...". Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc

26

Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là "Ngày vì người nghèo", đó cũng

là ngày Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo".

Đến năm 1996, sau 10 năm đổi mới, đất nước thoát ra khỏi khủng

hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, vấn

đề đói nghèo cũng được quan tâm đặc biệt với quan điểm "tăng trưởng kinh tế

phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong

suốt quá trình phát triển", Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996) của Đảng đã xác

định xoá đói, giảm nghèo là một trong mười một Chương trình phát triển kinh

tế - xã hội và đặt ra mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước

từ 20 - 25% năm 1996 xuống còn 10% vào năm 2000. Trong 2 - 3 năm đầu của

kế hoạch 5 năm (1996 - 2001), tập trung xoá cơ bản nạn đói kinh niên.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ra Quyết định số

133/1998/QĐ-TTg, ngày 23/7/1998, phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc

gia xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000. Đây là lần đầu tiên Việt Nam

xây dựng Chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo một cách có hệ

thống. Nội dung của Chương trình được xác định:

Một là, mục tiêu của Chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia

xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000 là một chương trình tổng

hợp có tính chất liên ngành, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước, với mục tiêu là: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong tổng số hộ của cả

nước xuống còn 10% vào năm 2000.

Hai là, phạm vi của Chương trình: Chương trình được thực hiện trên

phạm vi cả nước. Trong những năm đầu tập trung ưu tiên vào các xã nghèo,

đặc biệt khó khăn vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

Ba là, các hoạt động của Chương trình: Chương trình xóa đói, giảm

nghèo gồm các dự án sau: Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (không kể

nước sạch nông thôn) và sắp xếp lại dân cư; dự án hỗ trợ sản xuất và phát

triển ngành nghề; Dự án tín dụng đối với người nghèo; Dự án hỗ trợ về giáo

27

dục; Dự án hỗ trợ về y tế; Dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và

khuyến nông - lâm - ngư; Dự án nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công

tác hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo và cán bộ ở các xã nghèo; Dự án định canh,

định cư, di dân, kinh tế mới; dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.

Bốn là, về tổ chức thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói,

giảm nghèo vận hành theo cơ chế liên ngành. Phân công trách nhiệm và phối

hợp thực hiện của các bộ, ngành có liên quan như: Bộ Lao động - Thương

binh và Xã hội (Là cơ quan thường trực giúp Chính phủ trong việc phối hợp

với các bộ, ngành có liên quan và các địa phương thực hiện Chương trình mục

tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế...

Ngay sau đó, Chính phủ ra Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày

31/7/1998, phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế đối với các xã đặc biệt

khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa. Theo kế hoạch ban đầu, Chương trình

sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 1998 đến năm

2000; Giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà

nước quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và xác định: Từ năm

1997 đến năm 2006 là giai đoạn I. Giai đoạn II từ năm 2006 đến năm 2010.

Mục tiêu của giai đoạn I là: Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho

các hộ dân tộc thiểu số; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển các dịch vụ công

cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch; Nâng

cao đời sống văn hóa.

Mục tiêu của giai đoạn II là: Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất; Thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị

trường; Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; Giảm

khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước; Đến

năm 2010, trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.

28

Về tổ chức điều hành triển khai thực hiện chương trình này, gồm 4 cấp:

Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Ở cấp Trung ương, điều hành Chương trình

135 là "Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt

khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa". Người đứng đầu ban này là một

Phó Thủ tướng Chính phủ; Phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và các thành

viên là một số Thứ trưởng các bộ, ngành và các đại diện đoàn thể xã hội.

Tại các địa phương, UBND tỉnh đảm nhiệm khâu tổ chức điều hành

Chương trình. Khâu thực hiện được giao cho UBND huyện và UBND xã. Các

Ban xoá đói, giảm nghèo đều được thành lập ở tất cả các tỉnh và hầu hết các

huỵên, xã nghèo tham gia Chương trình. UBND xã cũng có một đầu mối phụ

trách xoá đói, giảm nghèo là trưởng các thôn, bản.

Đến Đại hội lần thứ IX (4/2001) của Đảng tiếp tục xác định xoá đói,

giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ mới. Trong Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, Đảng đã cụ thể hoá quan điểm

trên thành mục tiêu chiến lược về xoá đói, giảm nghèo như sau:

"Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin,

chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm… đối với những vùng

nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân

dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng

còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người

dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp

xã hội đối với người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không có

người bảo trợ, nuôi dưỡng.

Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên

củng cố thành quả xoá đói giảm nghèo" [12, tr.211].

Cũng trong năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số

71/2001/QĐ-TTg (ngày 04/5/2001), phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc

29

gia xoá đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005. Chương trình đưa

ra quan điểm: Xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm là sự nghiệp cách

mạng của toàn dân, là một trong những chương trình trọng điểm phát triển

kinh tế xã hội, là chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ

chính sách kinh tế - xã hội nhằm phát triển kinh tế đáp ứng yêu cầu bức xúc

của con người, cải thiện đời sống nhân dân; Phát triển kinh tế đi đôi với thực

hiện xoá đói, giảm nghèo bền vững, gắn xoá đói, giảm nghèo với phát triển

kinh tế nông nghiệp và nông thôn, kinh tế hộ, dịch vụ, ngành nghề, lồng ghép

xoá đói, giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội.

Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến

lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy

đủ, chi tiết, phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc

công bố. Đồng thời, Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục

tiêu: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói; Đạt phổ cập giáo dục tiểu học;

Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ; Giảm tỷ lệ tử vong trẻ

sơ sinh; Tăng cường sức khỏe bà mẹ; Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét

và các bệnh khác; Đảm bảo bền vững môi trường; Thiết lập quan hệ đối tác

toàn cầu vì mục đích phát triển.

Những chủ trương, chính sách trên của Đảng và Chính phủ Việt Nam

đã tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản trong công tác xóa đói, giảm

nghèo, đồng thời ngày càng tham gia một cách tích cực với cộng đồng quốc tế

cùng giải quyết những vấn đề đói, nghèo. Những quan điểm của Đảng và Nhà

nước Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo không chỉ bảo đảm tính hiệu quả của

công tác xóa đói, giảm nghèo mà còn đảm bảo tính bền vững trước những

nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của

môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển.

Tiếp tục thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo trong giai đoạn II

của Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm

30

nghèo giai đoạn 2006 - 2010 đã nêu các chỉ tiêu chủ yếu: Thu nhập của nhóm

nghèo tăng 1,45 lần so với năm 2005; Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có

đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu; 6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi; 4,2

triệu lượt hộ nghèo được tập huấn về khuyến nông - lâm - ngư; 1,5 triệu lượt

ngừi được miễn giảm phí học nghề; 15 triệu người được khám chữa bệnh

miễn phí khi đau ốm; 19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí,

tiền xây dựng trường; 500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xoá nhà tạm.

Như vậy, việc Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác xóa đói, giảm

nghèo trong quá trình lãnh đạo đã phản ánh nhận thức sâu sắc về tầm quan

trọng của công tác này trong phát triển kinh tế - xã hội. Một quốc gia khi

không giải quyết dứt điểm xóa đói, giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát

triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn định kinh tế - xã hội.

Nhờ đó, trong quá trình tổ chức thực hiện Việt Nam đã từng bước nâng chuẩn

nghèo nhằm tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Từ năm 1993 đến năm 2006,

Chính Phủ đã 4 lần xác định và thay thế chuẩn nghèo, thông qua đó phản ánh

nhận thức của Đảng và Nhà nước ngày càng đầy đủ về đói, nghèo, đồng thời

cũng chứng tỏ công tác xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã và đang đạt

được những thành tựu to lớn. Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc

tế, đã giảm liên tục từ hơn 60% vào năm 1990, xuống 58% vào năm 1993,

37% vào năm 1998, 32% vào năm 2000, 29% vào năm 2002 và còn 18,1%

vào năm 2004. Hiện tại (2006) có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại

thiếu ăn (nghèo lương thực) theo chuẩn nghèo quốc tế.

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây vận dụng chủ trương của Đảng vào việc

lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến

năm 2006

Trước thực tế của các phong trào quần chúng nhân dân giúp đỡ nhau

trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, ngày 10 - 01 - 1996, Tỉnh ủy Hà

Tây ban hành Chỉ thị số 23-CT/TU “Về việc tăng cường lãnh đạo công tác

31

xóa đói, giảm nghèo”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đánh giá: Trong những năm

qua, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng, tình hình kinh tế - xã

hội trong tỉnh có bước phát triển, nhìn chung đời sống nhân dân được ổn định

và nhiều mặt được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhân dân gặp

khó khăn về đời sống, khoảng cách giàu nghèo, nhất là ở vùng nông thôn có

xu hướng dãn cách.

Để giảm dần số hộ nghèo trong tỉnh, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh đã

có những chủ trương, nghị quyết, chương trình cụ thể về tổ chức, đầu tư

khuyến khích các chương trình kinh tế - xã hội. Đồng thời, các phong trào

quần chúng giúp đỡ nhau phát triển sản xuất đã mang lại những hiệu quả tích

cực góp phần phát triển sản xuất và giảm số hộ nghèo đói từ 22% năm 1990,

xuống còn 9,12% năm 1995. Song, trong công tác xóa đói, giảm nghèo ở một

số nơi kết quả còn hạn chế. Nhằm tiếp tục thực hiện tốt công tác xóa đói,

giảm nghèo, Ban Thường vụ Tỉnh ủy nêu các yêu cầu:

Một là, các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng coi việc lãnh đạo các tổ chức

chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện chương trình xã hội

“xóa đói, giảm nghèo” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của

mình. Hai là, tập trung lãnh đạo đẩy mạnh và phát triển sản xuất, nhất là

những vùng khó khăn, trợ giúp hộ nghèo phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều

việc làm tại chỗ cho người lao động, thông qua việc tiếp tục thực hiện có hiệu

quả các dự án nhỏ, chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc và các chương

trình khác, củng cố các cơ sở dạy nghề và giới thiệu việc làm. Ba là, đề nghị

UBND tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn và khuyến khích sự giúp đỡ của cộng đồng,

phát huy truyền thống dân tộc "lá lành đùm lá rách", hình thành và quản lý sử

dụng quỹ hỗ trợ sản xuất, quỹ xóa đói, giảm nghèo ở 3 cấp trên cơ sở kết hợp giữa

các hình thức tự nguyện của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các đoàn thể, cán bộ,

công nhân viên chức và nhân dân với sự hỗ trợ của Nhà nước, của Trung ương và

32

các tổ chức quốc tế. Bốn là, lãnh đạo việc thành lập "Ban chỉ đạo xóa đói, giảm

nghèo" từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn, bảo đảm hoạt động có hiệu quả.

Trên cơ sở những nhận thức đã sớm hình thành từ Chỉ thị số 23, vấn đề

xóa đói, giảm nghèo luôn được Đảng bộ Tỉnh quan tâm lãnh đạo thông qua

các kỳ Đại hội. Tháng 4 năm 1996, Đảng bộ tỉnh Hà Tây tiến hành Đại hội

lần thứ XII, tổng kết, đánh giá việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1991-1995),

Đại hội nêu ra những mục tiêu phấn đấu đến năm 2000, trong đó mục tiêu đặt

ra cho vấn đề xóa đói, giảm nghèo là: "Giảm số lao động thiếu việc làm, cải

thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Năm 2000 trong

xã hội không còn hộ đói, giảm số hộ nghèo xuống dưới 6%" [1, tr.386].

Để thực hiện mục tiêu đó, nhiệm vụ được Đại hội xác định: "Trong 5

năm tới phải chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội tạo động lực to lớn cho

sự phát triển. Cần quán triệt các quan điểm của Đảng là tăng trưởng kinh tế

phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, tích cực ngăn chặn tình trạng

người nghèo bị bần cùng hóa. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phải được tiến

hành theo tinh thần xã hội hóa, giữ gìn và nâng cao những truyền thống đạo

đức tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc. Cụ thể là: Tích cực tạo công ăn việc

làm; Thực hiện có hiệu quả chiến lược dân số; Tiếp tục thực hiện công tác xóa

đói, giảm nghèo; Đi đôi với phát triển kinh tế cần quan tâm lãnh đạo thực hiện

công bằng xã hội và các chính sách xã hội" [1, tr.392].

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (12- 2000), trong phương hướng,

nhiệm vụ và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2000 - 2005) đã

coi xóa đói, giảm nghèo là một vấn đề "bức xúc" và đưa ra chỉ tiêu phấn đấu

giảm tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm là 1% [1, tr.414]. Để thực hiện được mục tiêu

trên, Đại hội nêu ra các giải pháp: Thứ nhất, tập trung giải quyết việc làm cho

người lao động. Thứ hai, tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục - đào tạo theo

Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Thứ

33

ba, tăng cường chăm lo bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thực hiện tốt chương trình

dân số, kế hoạch hóa gia đình.

Từ năm 1998, quán triệt Quyết định số 133 và 135 của Chính phủ, Tỉnh

uỷ Hà Tây cũng chỉ đạo các ban, ngành xây dựng Chương trình mục tiêu xoá

đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1998 - 2000. Chương trình đã xác

định được 20 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, từ đó có chính sách thực hiện xoá đói,

giảm nghèo theo tinh thần của Chính phủ, đặc biệt là 11 xã nằm ngoài

Chương trình 135.

Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh trong Đại hội lần thứ XIII;

Cụ thể hóa "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm

giai đoạn 2001- 2005" của Chính phủ; Tiếp tục Chương trình mục tiêu xoá

đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh trong giai 1998 - 2000, Sở Lao động -

Thương binh xã hội tỉnh đã đề ra "Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo

giai đoạn 2002 - 2005". Chương trình được UBND tỉnh thông qua vào ngày

18 - 06 - 2002, song nó có giá trị trong toàn bộ giai đoạn 2001 - 2005.

Chương trình đã nêu những mục tiêu: Phấn đấu mỗi năm giảm tỷ lệ hộ

nghèo theo chuẩn mới từ 1 - 1,5%. Giữ vững kết quả xóa đói, giảm nghèo

hàng năm, chống tái nghèo; Phấn đấu đến năm 2002 không còn hộ quá nghèo

ở nhà dột nát, đến năm 2005 cơ bản hộ nghèo không phải ở nhà dột nát; Giữ

vững và nâng cao mức sống cho các gia đình thương binh, liệt sỹ.

Ngoài việc đặt ra được các mục tiêu cơ bản, Tỉnh uỷ cũng nhận thức

được cần xây dựng được các giải pháp phù hợp mới có thể biến những mục

tiêu đó thành hiện thực. Vì thế, Chương trình đã xây dựng một hệ thống giải

pháp gồm: Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền các chủ trương, đường lối, biện

pháp, kết quả về xóa đói, giảm nghèo để toàn dân biết và tham gia tích cực

vào Chương trình. Thứ hai, tăng cường sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ

tỉnh đến cơ sở, đặt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo là một mục tiêu phát triển

kinh tế- xã hội. Thứ ba, củng cố và tăng cường hoạt động của Ban chỉ đạo xóa

34

đói, giảm nghèo các cấp và thường xuyên phối kết hợp giữa các cấp, các

ngành. Thứ tư, tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã, phường, thị

trấn. Nâng cấp trường học, trạm xá, cứng hóa kênh mương, giao thông nông

thôn. Ưu tiên đầu tư vùng nghèo, các xã có tỷ lệ nghèo cao. Thứ năm, hàng

năm tiếp tục trích 1% tiết kiệm chi ngân sách để kiên cố hóa kênh mương và

xây sửa nhà dột nát hộ quá nghèo. Khuyến khích, vận động các cơ quan,

doanh nghiệp tham gia giúp đỡ xây nhà tình thương cho hộ nghèo. Thứ sáu,

huy động mọi nguồn lực cho chương trình xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quỹ

"Ngày vì người nghèo" hàng năm để có nguồn sử dụng cho các mục tiêu xóa

đói, giảm nghèo. Thứ bảy, tiếp tục thực hiện cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người

nghèo. Phấn đấu đến năm 2003 có 100% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm

y tế. Mở rộng khám chữa bệnh ở các trạm y tế xã. Thứ tám, phân công các cơ

quan, doanh nghiệp tham gia giúp đỡ 11 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 25% trở lên.

Chương trình cũng nêu lên những vấn đề về tổ chức thực hiện như: Về

cơ chế vận hành; Tổ chức bộ máy; Nhiệm vụ của các sở, ban, ngành, đoàn

thể… Trên cơ sở đó, trong quá trình tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh cũng như

các sở, ban, ngành… đã không ngừng tổng kết thực tiến, tích lũy kinh

nghiệm, từng bước nâng cao nhận thức về vấn đề xóa đói, giảm nghèo.

Sau 5 năm thưc hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (12-

2000), đến năm 2005, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (14-

16/12/2005) tiếp tục đề ra các mục tiêu chỉ đạo công tác xóa đói, giảm nghèo

cho giai đoạn mới: "Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1,5 - 2%/năm (theo

tiêu chí mới); tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề 35% trở lên".

Ngày 10 - 04 - 2006, Ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo - việc làm đưa ra

"Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo - việc làm tỉnh Hà Tây giai đoạn

2006 - 2010" và được UBND tỉnh thông qua ngày 03 - 05 - 2006. Chương trình

được xây dựng trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm từ việc tổ chức thực hiện "Chương

35

trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2002 - 2005", đồng thời, cũng thể

hiện sự phát triển trong nhận thức mới, cao hơn về vấn đề xóa đói, giảm nghèo.

Chương trình đã tổng kết, đánh giá quá trình tổ chức thực hiện

"Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2002 - 2005". Trên cơ

sở đó, Chương trình nêu lên mục tiêu chung:

"Tập trung giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho lực lượng lao

động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ lệ lao

động trong nông nghiệp, tăng dần tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp,

dịch vụ, du lịch. Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 13,85% năm 2006

xuống còn dưới 5% năm 2010, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh

lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và

miền núi. Nhân rộng các mô hình xóa đói, giảm nghèo - việc làm thành công.

Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, xã có tỷ lệ nghèo cao" [3, tr.8].

Không dừng lại ở mục tiêu chung, Chương trình nêu ra 9 chỉ tiêu chính,

phản ánh sự nhìn nhận toàn diện và sát thực của Tỉnh uỷ đối với công tác xoá

đói, giảm nghèo:

Một là, hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 2,8 vạn lao động, đưa

khoảng 1.000 lao động trở lên đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, làm giảm

tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống còn dưới 5%; tỷ lệ lao động qua đào

tạo nghề đạt 27,5%. Hai là, hàng năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,5- 2% trở lên.

Đảm bảo kết quả xóa đói, giảm nghèo - việc làm bền vững, hạn chế thấp nhất

hộ tái nghèo. Ba là, tập trung giải pháp trong 2 năm 2006- 2007 giúp 1.035 hộ

gia đình thương binh- liệt sỹ thoát nghèo. Bốn là, hàng năm phát động ủng hộ

quỹ "Ngày vì người nghèo" các cấp để có nguồn lực thực hiện chương trình.

Năm là, tập trung giải pháp hỗ trợ 31.553 hộ thuộc nhóm hộ có thu nhập thấp

ở 2 khu vực thành thị và nông thôn. Sáu là, giải quyết khoảng 200.000 lượt hộ

nghèo, cận nghèo được vay vốn tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội. Bảy

là, cấp 1.440.000 lượt thẻ Bảo hiểm y tế người nghèo, tổ chức khám chữa

36

bệnh tại tuyến y tế cơ sở cho người nghèo. Tám là, tiếp tục thực hiện chính

sách miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho học sinh con hộ

nghèo và các chính sách ưu đãi giáo viên dạy ở các xã miền núi, xã giữa sông.

Chín là, tổ chức tập huấn khuyến công, khuyến nông, chuyển giao khoa - học

kỹ thuật, đào tạo dạy nghề và nâng cao năng lực cán bộ làm công tác xóa đói,

giảm nghèo ở xã, phường.

Để đạt được mục tiêu và các chỉ tiêu trên, Chương trình tập trung vào 3

nhóm giải pháp lớn:

Thứ nhất, tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, giải quyết

việc làm, tăng thu nhập. Cụ thể: Cung cấp tín dụng ưu đãi hộ nghèo; Hỗ trợ

nhà ở, nước sạch sinh hoạt cho hộ nghèo dân tộc thiểu số; Khuyến công -

khuyến nông - lâm ngư; Dạy nghề cho người nghèo; nhân rộng mô hình giảm

nghèo thành công.

Thứ hai, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Thực

hiện các chính sách: Hỗ trợ về y tế cho người nghèo; Hỗ trợ về giáo dục cho

người nghèo; Hỗ trợ về nâng cấp nhà ở cho hộ nghèo; Thực hiện bổ sung các

chính sách xã hội, chính sách người có công.

Thứ ba, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xóa đói, giảm

nghèo, giải quyết việc làm các cấp; Nâng cao nhận thức về chấp hành pháp

luật lao động cho các chủ sử dụng lao động và người lao động; Nâng cao hiệu

quả của hoạt động giám sát, đánh giá.

Đồng thời với việc đưa ra các nhóm giải pháp, Chương trình còn nêu

chủ trương thực hiện hàng loạt các dự án phục vụ công tác xóa đói, giảm

nghèo và việc làm: Dự án tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo; Dự án hỗ trợ nhà ở,

nước sạch sinh hoạt cho hộ nghèo dân tộc thiểu số; Dự án khuyến nông - lâm

- ngư; Dự án dạy nghề cho người nghèo; Dự án phát triển cơ sở hạ tầng thiết

yếu các xã nghèo; Dự án mô hình xóa đói, giảm nghèo - việc làm bền vững;

Dự án nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo, giải quyết việc

37

làm các cấp; Chương trình giải quyết việc làm theo các dự án nhỏ; Chương

trình giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động.

Như vậy, xuất phát từ điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của

tỉnh Hà Tây, trước những yêu cầu đặt ra đối với công tác xóa đói, giảm nghèo

khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã vận

dụng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để đưa ra những

chủ trương, chính sách, xây dựng các Chương trình mục tiêu giải quyết vấn đề

đói nghèo trên địa bàn tỉnh. Có thể khái quát những vấn đề cơ bản trong quan

điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về vấn đề xóa đói, giảm nghèo như sau:

Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và thường xuyên của các

cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng và nhân dân trong tỉnh.

Thực hiện xóa đói, giảm nghèo có trọng tâm, trọng điểm, xuất phát từ

điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của từng khu vực trên địa bàn Tỉnh.

Phải tiến hành đồng thời và lồng ghép nhiều chương trình, dự án giải

quyết nhiều vấn đề cùng lúc để công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao.

Nội dung của công tác xóa đói, giảm nghèo vừa phải giải quyết những

vấn đề cấp thiết, trước mắt, vừa giải quyết những vấn đề cơ bản, lâu dài.

38

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây (8/2005), Các kỳ Đại hội Đảng bộ

Tỉnh Hà Tây 1947- 2005.

2. Ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo tỉnh Hà Tây (5/2006), Chương trình mục

tiêu xóa đói, giảm nghèo - việc làm tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 -2010.

3. Ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo tỉnh Hà Tây (18/6/2002), Chương trình

mục tiêu xóa đói, giảm nghèo tỉnh Hà Tây giai đoạn 2002 - 2005.

4. Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình (2001),

Nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà

Nội.

5. Cục Thống kê Hà Tây (8/1999), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1995 -

1998.

6. Cục Thống kê Hà Tây (7/2001), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1996 -

2000.

7. Cục Thống kê Hà Tây (2006), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 2005.

8. Cục Thống kê Hà Tây (2007), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 2006.

9. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (12 - 2000), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và phương hướng nhiệm vụ 5 năm (2000 -

2005).

10. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (16/12/2005), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng

bộ tỉnh lần thứ XIV.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39

14. Giàu nghèo trong nông thôn hiện nay (1993), Nxb. Nông nghiệp, Hà

Nội.

15. Nguyễn Thị Hằng và Nguyễn Văn Thiều (1993), Đói nghèo ở Việt Nam,

Nxb. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội.

16. Hội đồng nhân dân Tỉnh Hà Tây (24/1/2000), Nghị quyết kỳ họp thứ 2,

Khoá XIII, "Về tình hình kinh tế- xã hội năm 1999, nhiệm vụ, mục tiêu

kinh tế- xã hội năm 2000".

17. Hội đồng nhân dân Tỉnh Hà Tây (15/1/2003), Nghị quyết kỳ họp thứ 9,

Khoá XIII, "Về dự toán thu, chi ngân sách năm 2003".

18. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây (29/9/2003), Báo cáo tình hình lao động

và dạy nghề trên địa bàn tỉnh Hà Tây.

19. Hội đồng nhân dân Tỉnh Hà Tây (22/12/2004), số 17/2004/NQ-HĐ14,

"Nghị quyết về nhiệm vụ năm 2005".

20. Phạm Văn Khiên (1999), Những biện pháp huy động vốn và sử dụng

vốn có hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện

Kinh tế nông nghiệp, Hà Nội.

21. Nhóm hành động chống đói nghèo (3/2005), Đánh giá nghèo theo vùng

đồng bằng sông Hồng.

22. Lương Hồng Quang (2001), Văn hoá của nhóm nghèo ở Việt Nam thực

trạng và giải pháp, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

23. Lê Quyết (2002), Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói,

giảm nghèo, Nxb. Lao động, Hà Nội.

24. Nguyễn Ngọc Thạch (11/2005), Báo cáo Đề tài nghiên cứu khoa học:

"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xoá đói,

giảm nghèo ở tỉnh Hà Tây".

25. Thủ tướng Chính phủ (27/9/2001), Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg,

phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo và việc

làm giai đoạn 2001 - 2005".

40

26. Thủ tướng Chính phủ (8/7/2005), Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, về

việc “ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006- 2010".

27. Thủ tướng Chính phủ (5/2/2007), Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg, phê

duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 -

2010.

28. Tỉnh uỷ Tỉnh Hà Tây (10/1/1996), Chỉ thị số 23-CT/TU "Về việc tăng

cường lãnh đạo công tác xoá đói, giảm nghèo".

29. Tỉnh ủy Hà Tây (8/1/1998), Báo cáo kiểm điểm các mặt công tác năm

1997, phương hướng nhiệm vụ năm 1998.

30. Tỉnh ủy Hà Tây (27/11/1998), Chỉ thị số 45-CT/TU Về việc thành lập Quỹ

Bảo trợ xã hội: Trợ giúp nạn nhân chất độc màu da cam do chiến tranh ở

Việt Nam, trẻ em mồ côi tật nguyền và những người có hoàn cảnh khó khăn.

31. Tỉnh ủy Hà Tây (28/6/2002), Chỉ thị số 68-CT/TU Về việc tăng cường lãnh

đạo công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2002-2005.

32. Tỉnh ủy Hà Tây (23/10/2002), Chỉ thị số 23-CT/TU của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy về việc tăng cường lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo.

33. Tỉnh ủy Hà Tây (23/10/2002), Chỉ thị số 32-CT/TU Về việc tăng cường

lãnh cuộc vận động "Ngày vì người nghèo 2002".

34. Tỉnh ủy Hà Tây (12/4/2003), Thông tri số 05-TTr/TU Về việc tiếp tục

tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế dộ Bảo hiểm xã hội.

35. Tỉnh ủy Hà Tây (11/7/2003), Kết luận của Tỉnh ủy về công tác y tế và

chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2005.

36. Tỉnh ủy Hà Tây (12/9/2003), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số

57-CT/TW của Bộ chính trị (khóa VIII) và Chỉ thị số 08- CT/TW của

BanThường vụ Tỉnh ủy về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống

Quỹ tín dụng nhân dân tỉnh Hà Tây.

37. Tỉnh ủy Hà Tây (24/11/2003), Báo cáo kết quả khảo sát thực hiện quy

trình, thủ tục hành chính một số dự án quy hoạch, dự án đầu tư vào khu,

cụm, điểm công nghiệp; Quy trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản.

41

38. Tỉnh ủy Hà Tây (27/2/2004), Chỉ thị số 56-CT/TU của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy về tăng cường lãnh đạo và phát huy vai trò của Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia phát triển kinh tế- xã hội.

39. Tỉnh ủy Hà Tây (13/4/2004), Kết luận của Tỉnh ủy về việc tiếp tục thục

hiện Chương trình muc tiêu xóa đói, giảm nghèo và thực hiện chính

sách xã hội của tỉnh đến năm 2005 và những năm tiếp theo.

40. Tỉnh uỷ Tỉnh Hà Tây (13/4/2004), số 10-KL/TU "Kết luận của Tỉnh uỷ

về việc tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và

thực hiện chính sách xã hội của tỉnh đến năm 2005 và những năm tiếp

theo".

41. Tỉnh uỷ Tỉnh Hà Tây (13/4/2004), số 140-BC/TU "Báo cáo Kết quả thực

hiện Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và thực hiện chính

sách xã hội năm 2003. Phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2005".

42. Tỉnh ủy Hà Tây (9/9/2004), Chỉ thị số 68-CT/TU Về việc tăng cường

lãnh đạo cuộc vận động "Ngày vì người nghèo".

43. Tỉnh ủy Hà Tây (19/9/2005), Chỉ thị số 91-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh

ủy Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân.

44. Tỉnh ủy Hà Tây (19/9/2005), Chỉ thị số 92-CT/TU của Ban thường vụ

Tỉnh ủy về Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc tiếp tục xây dựng và hoạt

động "Quỹ hỗ trợ nông dân" trên địa bàn tỉnh.

45. Tỉnh ủy Hà Tây (23/10/2006), Nghị quyết Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh

lần thứ 5 (Khóa XIV) về tăng cường lãnh đạo công tác y tế, bảo vệ,

chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2010 và những năm

tiếp theo.

46. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (12/4/1994), Báo cáo về tiếp tục đổi mới

và phát triển kinh tế- xã hội nông thôn.

47. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (10/1994), Quy hoach tổng thể kinh tế- xã

hội tỉnh Hà Tây thời kỳ 1995-2010.

48. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (05/12/1996), Báo cáo tóm tắt tình hình

kinh tế- xã hội năm 1996.

42

49. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây - Ban chỉ đạo thí điểm thành lập Quỹ tín

dụng nhân dân (12/1996), Báo cáo sơ kết ba năm thí điểm thành lập

Quỹ tín dụng nhân dân, mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu đến năm 2000.

50. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (16/4/1999), Báo cáo sơ bộ về kết quả

cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999 của Tỉnh Hà Tây.

51. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (27/05/1999), Báo cáo tình hình công tác

chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân từ năm 1996 đến nay và nhiệm vụ

công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân từ nay đến năm 2000.

52. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (01/11/1999), Báo cáo mười năm thực

hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ

trưởng về phát triển kinh tế - xã hội miền núi.

53. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (19/01/2000), Báo cáo kết quả thực hiện

Chương trình xóa đói, giảm nghèo năm 1999 và nhiệm vụ năm 2000.

54. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (20/01/2000), Báo cáo tình hình thực hiện

kinh tế - xã hội năm 1999 và nhiệm vụ kế hoạch năm 2000.

55. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (8/2000), Báo cáo tổng kết phong trào thi

đua yêu nước, năm 1991 - 2000 và phương hướng, nhiệm vụ phong trào

thi đua năm 2001 - 2005.

56. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (19/12/2000), Báo cáo Chương trình và

giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001 -

2005.

57. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây (18/6/2002), Quyết định số 792-QĐ/UB,

"Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo tỉnh

Hà Tây giai đoạn 2002- 2005".

58. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây (02/2003), Tài liệu tập huấn Cán bộ làm

công tác xóa đói, giảm nghèo.

59. Văn phòng Chính phủ (28/2/2003), Thông báo số 23/TB-VPCP, "Kết

luận của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại cuộc họp Ban chủ nhiệm

Chương trình mục tiêu Quốc gia xoá đói, giảm nghèo và việc làm".

43

60. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây - Ban CĐGQVL - XĐGN (9/6/2003), số

480/BC-BCĐ Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu xoá đói,

giảm nghèo, việc làm 3 năm 2001- 2003.

61. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây- Ban chỉ đạo XĐGN (17/1/2004), Số

65/BCĐ-BC "Báo cáo Kết quả hoạt động của Ban chỉ đạo xoá đói, giảm

nghèo và việc làm năm 2004".

62. Văn phòng Chính phủ (14/5/2004), Thông báo số 97/TB-VPCP, "Kết

luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện

Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng

đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa".

63. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (16/8/2004), Báo cáo thực trạng tình hình

phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, miền núi tỉnh Hà Tây.

64. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây - Ban chỉ đạo vận động "Ngày vì người

nghèo" tỉnh Hà Tây (20/2/2006), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện cuộc

vận động "Ngày vì người nghèo", xây dựng "Nhà đại đoàn kết", xóa nhà

dột nát cho người nghèo tỉnh Hà Tây.

65. Uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Tây - Ban chỉ đạo XĐGN - VL (5/2006),

"Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo- việc làm Tỉnh Hà Tây giai

đoạn 2006- 2010".

66. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (20/12/2006), Báo cáo kết quả thực hiện

Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm năm

2006, phương hướng, nhiệm vụ năm 2007.

67. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây (27/12/2006), Kế hoạch thực hiện nghị

quyết số 14/NQ-TU của Tỉnh ủy Hà Tây về tăng cường lãnh đạo công

tác y tế bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2010 và

những năm tiếp theo.