ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ...
Transcript of ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ...
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VĂN TRIỆU
ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ (1991 - 2006)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng CSVN
Mã số: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đoàn Thế Hanh
HÀ NỘI – 2009
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, lạc hậu, lao động thủ công là chính
nên hiệu quả kinh tế thấp, tổng sản phẩm xã hội quy mô nhỏ, bình quân thu nhập
đầu người rất thấp. Để xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngay từ khi tiến hành sự nghiệp đổi
mới, Đảng ta đã xác định rõ phương thức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X của Đảng xác định: "... tạo
bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp". [27, tr.186]
Hà Tây (cũ) là tỉnh thuộc vùng châu thổ Sông Hồng, phía Đông giáp Thủ
đô Hà Nội, phía Đông nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Bắc giáp hai tỉnh Vĩnh
Phúc và Phú Thọ, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình. Hà Tây là vùng đất nối liền giữa
miền Tây Bắc và vùng trung du Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng Sông Hồng; có
địa hình đa dạng: miền núi, trung du và đồng bằng rất thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và dịch vụ. Hà Tây bao bọc Thành phố Hà
Nội từ phía tây xuống phía nam, nằm liền kề với vùng tam giác kinh tế trọng
điểm (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh). Do có điều kiện thuận lợi trên, kể từ
khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân và chính quyền Hà Tây đã
phát huy thế mạnh, khắc phục khó khăn, thách thức để thúc đẩy xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trước khi sáp nhập vào Thành phố Hà Nội, tình
hình kinh tế - xã hội của Hà Tây đã có những chuyển biến tích cực với mức tăng
trưởng kinh tế khá cao; cơ cấu kinh tế xã hội chuyển dịch nhanh theo hướng
công nghiệp hoá; văn hoá, giáo dục, y tế và công tác xã hội có những tiến bộ
đáng kể; điều kiện sống và mức sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
3
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Hà Tây cũng còn nhiều hạn
chế và đứng trước nhiều vấn đề nảy sinh: phát triển kinh tế chưa cao, chưa khai
thác hết tiềm năng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu; chưa phát triển bền vững
và đi vào chiều sâu; thu nhập bình quân đầu người thấp hơn bình quân chung cả
nước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và trong nội bộ từng ngành kinh tế còn
nhiều hạn chế: vấn đề chuyển dịch đất nông nghiệp, phát triển các khu công
nghiệp, thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ, giải quyết việc làm cho người lao
động… đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Hà Tây phải tiếp tục nghiên cứu và giải
quyết trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, nghiên cứu quá
trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1991 - 2006, từ đó
rút ra những kinh nghiệm trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng không chỉ đối với địa phương mà còn có giá trị tham khảo
trên phạm vi cả nước.
Trong khi triển khai đề tài "Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (1991 - 2006)" cho luận văn thạc sỹ của mình thì tỉnh Hà Tây còn là đơn
vị hành chính độc lập, đến năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội. Việc Đảng
bộ Hà Tây lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội (1991 - 2006) là một thực tế với những chủ trương, kế hoạch,
giải pháp và hiệu quả cụ thể. Nay Hà Tây không còn là đơn vị hành chính độc
lập, một Đảng bộ riêng nhưng vấn đề trên đã trở thành một phần lịch sử của
Đảng bộ và nhân dân Hà Tây trong sự nghiệp đổi mới.
Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả kiên định chọn vấn đề “Đảng bộ Hà
Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006” làm đề tài luận văn thạc
sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
riêng được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đặc biệt
quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến nhiều công trình tiêu biểu
như:
4
- Đỗ Đình Giao, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàn Vĩnh Lê, Thực trạng CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1998.
- Trương Thị Tiến, Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đặng Văn Thắng - Phạm Ngọc Dũng, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
– nông nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng - thực trạng và triển vọng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Bùi Tất Thắng, Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
- Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới và
phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
- Đỗ Xuân Tuất, Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế trang trại
1986 – 2001, Luận văn Thạc sỹ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2003.
- Đỗ Quan Dũng, Phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội, 2006.
Tuy nhiên, do mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu khác nhau, phần lớn các
công trình nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên phạm vi cả nước hoặc các vùng kinh tế. Có rất ít các công trình nghiên
cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một địa phương, nhất là về quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa bàn tỉnh Hà Tây dưới góc độ lịch sử.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo và tổ chức thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1991 - 2006.
- Đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà Tây giai đoạn 1991 - 2006.
5
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng bộ Hà Tây.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
là:
Thứ nhất, Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây
vận dụng đường lối của Đảng vào lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
từ 1991 – 2006.
Thứ hai, Nêu bật những thành tựu chủ yếu cũng như hạn chế của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Tây.
Thứ ba, Tổng kết và rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Tây trong giai đoạn 1991 - 2006.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nội dung quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1991 đến năm 2006 trên cơ sở đường lối đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng tại địa phương.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu của luận văn là:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ
năm 1991 đến năm 2006 (biểu hiện trên cả hai khía cạnh: lý luận và thực tiễn).
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gồm: công nghiệp – thủ
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh từ tháng 12/1991 (thời
điểm tái lập tỉnh) đến năm 2006 (kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận, thế giới
quan khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm,
đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ đổi
mới.
Dưới góc độ khoa học lịch sử, phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu
dựa trên phương pháp lịch sử và phương pháp logíc. Ngoài ra, còn sử dụng
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh…, thông qua sự
6
vận động của lịch sử có thể rút ra những nhận định, những kinh nghiệm lịch sử
cho hiện tại.
6. Đóng góp của đề tài
- Trình bày có hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Hà Tây vận dụng
đường lối đổi mới của Đảng vào thực tế địa phương để lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ năm 1991 - 2006.
- Nêu lên những thành tựu cũng như hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Trên cơ sở đó bước đầu rút ra những kinh nghiệm trong quá trình
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Tây.
- Luận văn là tập chuyên khảo có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu nói
chung, nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây (cũ) thời kỳ đổi mới nói riêng
cho đến khi sáp nhập vào Thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu
tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 –
1995)
Chương 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
1996 đến 2006
Chương 3. Kết quả và kinh nghiệm
7
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
(1991 – 1995)
1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối
liên hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Sau một thời gian biến đổi,
các quan hệ giữa các bộ phận sẽ làm cho cơ cấu của hệ thống thay đổi, nó
chuyển sang một trạng thái khác về chất hay trở thành một cơ cấu khác. CCKT
(của một quốc gia) có thể được hiểu là tập hợp các yếu tố kinh tế cấu thành nền
kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các
yếu tố kinh tế đó, được thể hiện ra cả về số lượng và chất lượng, trong những
không gian, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục
tiêu nhất định của nền kinh tế.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003 thì Cơ cấu kinh tế
là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợp thành. Các bộ phận của nền kinh tế có vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương
tác ràng buộc lẫn nhau, luôn luôn vận động hướng vào mục tiêu đã định của
nền kinh tế.
CCKT giữ vai trò cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chuyên môn hoá các ngành kinh tế trong từng thời kỳ lịch sử. CCKT phản
ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có tính lịch sử, không
ngừng vận động và phát triển. CCKT không phải là hệ thống tĩnh mà là hệ thống
động, các nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn
nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau, giai đoạn sau cao hơn, hoàn thiện hơn so với
giai đoạn trước.
CCKT được hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan nên
mang tính khách quan. Con người chỉ có thể vận hành nó trên cơ sở tuân theo
8
quy luật khách quan của nó. Mặt khác, con người cũng không thể áp đặt CCKT
một cách giáo điều cho mọi nơi, mọi lúc vì nó có tính lịch sử, xã hội nhất định.
Nền kinh tế chỉ phát triển khi các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội giữ
được mối liên hệ cân đối. Mỗi phương thức sản xuất có những yêu cầu về số
lượng và tỷ lệ cân đối khác nhau do các quy luật kinh tế đặc thù mà trước hết là
các quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất đó quy định. Ngay trong
một hình thái kinh tế - xã hội, nhưng ở những nước khác nhau thì CCKT cũng
khác nhau do có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. CCKT thường biến động
gắn với sự phát triển không ngừng của bản thân các yếu tố, bộ phận trong nền
kinh tế và các mối quan hệ của chúng.
Nội dung CCKT quốc dân rất phong phú, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc
độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: cơ cấu kinh tế quốc dân, CCKT
ngành và nội bộ ngành kinh tế - kĩ thuật, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu
các vùng kinh tế theo đơn vị hành chính, lãnh thổ. Trong các nội dung CCKT cơ
bản ở trên thì cơ cấu kinh tế ngành là nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết
định, phản ánh sự phát triển theo quan hệ cung cầu trên thị trường theo tổng
cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu các thành phần kinh tế chỉ rõ những
lực lượng quan trọng trong việc thực hiện cơ cấu kinh tế ngành, theo hướng của
cơ cấu ngành, các thành phần kinh tế được tổ chức thực hiện. Cơ cấu ngành và
cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh
thổ. Cho nên, việc phân bố lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển ngành và
thành phần kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Xây dựng được CCKT hợp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng, thúc đẩy sự
kinh tế phát triển, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia, mỗi địa
phương. Đó cũng là sự đòi hỏi khách quan của tái sản xuất và tăng trưởng kinh
tế. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố và lợi thế kinh tế, xã hội,
kỹ thuật cụ thể ở từng vùng trong từng thời gian và khả năng tổ chức sản xuất và
quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó, khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất tài nguyên,
đất đai, sức lao động, tư liệu sản xuất, tiềm năng để phát triển các vùng, nâng
cao đời sống nhân dân, khắc phục tình trạng phát triển không đều giữa các vùng,
9
các tầng lớp dân cư. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo, điều hành kinh tế năng động,
nhạy bén của các quốc gia và lãnh đạo các địa phương có vai trò vô cùng quan
trọng nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình để phát triển kinh tế theo
một CCKT hợp lý.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải thoả mãn được năm yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, phải phù hợp với các quy luật khách quan mà trước hết là các
quy luật kinh tế cơ bản. Thứ hai, khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực
và tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại. Thứ ba, tạo nên sự phát triển cân đối, phát huy
được lợi thế của các vùng, các ngành kinh tế. Thứ tư, tạo nên sự gắn kết giữa các
loại thị trường trong và ngoài nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Thứ năm, tạo được tích lũy ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng với
xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên CNXH là xây dựng một cơ cấu kinh tế gồm ba nội dung cơ bản sau:
- Cơ cấu ngành kinh tế: thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, mở rộng khu vực
dịch vụ, từng bước đưa nền kinh tế phát triển toàn diện theo hướng hiện đại.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: phát triển 5 thành phần kinh tế là: nhà nước,
tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.
- Cơ cấu vùng: phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng chuyên
môn hoá sản xuất có hiệu quả cao.
1.1.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, LLSX nói chung và giữa các ngành,
các vùng và các thành phần kinh tế luôn luôn biến đổi, phát triển. Vì thế, CCKT
cũng thường xuyên biến động, đó chính là quá trình chuyển dịch CCKT.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam xuất bản năm 2003, Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng
tính chất tự cấp, tự túc, từng bước vào chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế
cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung. Chuyển dịch
10
CCKT bao gồm việc cải biến cơ cấu kinh tế ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu các
thành phần kinh tế.
Chuyển dịch CCKT là vấn đề khách quan và là quá trình đi lên từng bước
dựa trên sự kết hợp hữu cơ các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh tế - xã hội,
tự nhiên trong nước, trong vùng, trong đơn vị kinh tế với các khả năng đầu tư
hợp tác, liên kết, liên doanh về sản xuất, dịch vụ.
Sự chuyển dịch CCKT là nội dung cơ bản của tiến trình CNH, là sự thay
đổi vai trò, vị trí công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân,
tức là sự thay đổi từ cơ cấu lấy giá trị nông nghiệp truyền thống làm chủ yếu
sang cơ cấu lấy giá trị công nghiệp làm chủ yếu, rồi chuyển sang cơ cấu lấy giá
trị của ngành dịch vụ là chính. Nhờ đó làm chuyển đổi hẳn cơ chế tăng trưởng
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình thay đổi cấu trúc về mối quan hệ
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ theo một quy luật nhất định. Sự thay đổi cơ
cấu giá trị từ trạng thái này sang trạng thái khác gọi là chuyển dịch CCKT. Đây
không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là thay đổi về chất trong cơ cấu. Sự
chuyển dịch CCKT liên quan đến thay đổi vai trò của nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ trong một thời gian tương đối dài. Những thay đổi này được đánh giá
bằng sự thay đổi tỷ trọng GDP hoặc giá trị sản xuất của các ngành và mức độ
huy động lao động. Cùng với sự phát triển của LLSX và QHSX, CCKT ngày
càng biến đổi. Sự chuyển dịch ấy mang tính quy luật qua các quá trình sau:
Thứ nhất, là sự biến đổi từ cơ cấu kinh tế tự nhiên sang cơ cấu kinh tế
nông nghiệp hàng hóa, rồi sang công nông nghiệp, dịch vụ. Đặc điểm cơ bản của
quá trình này là trình độ phân công lao động xã hội chưa phát triển, nông nghiệp
là ngành chủ yếu trong CCKT. Bộ mặt dân cư tiêu biểu bao gồm nông dân, công
nhân, thương nhân và tư sản, trong đó lực lượng nông dân là chủ yếu và giảm
dần trong quá trình phát triển. Tuyệt đại đa số nhân khẩu tập trung ở nông thôn.
Các hình thức sản xuất, kinh doanh mang tính cá thể, hộ kinh tế hàng hoá nhỏ và
phường hội. Kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Kỹ thuật thủ công, lạc hậu. Năng
suất lao động và thu nhập của dân cư thấp.
11
Thứ hai, là sự biến đổi từ CCKT nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
sang CCKT công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Đặc điểm cơ bản của quá trình
này là LLSX phát triển mạnh mẽ; khoa học kỹ thuật, kinh tế hàng hoá và phân
công lao động xã hội phát triển; công nghiệp chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền
kinh tế quốc dân. Tổ chức sản xuất phát triển theo trang trại, xí nghiệp, công ty,
những trung tâm công nghiệp, thương mại, đô thị lớn phát triển và trở thành
những cực tăng trưởng. Bộ mặt xã hội mới hình thành, trong đó nổi bật là giai
cấp công nhân tăng rất nhanh, năng suất lao động và thu nhập của dân cư cao.
Thứ ba, là sự biến đổi từ CCKT công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ sang
CCKT dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đặc điểm cơ bản của quá trình này
là kinh tế thị trường phát triển mạnh, GDP dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong nền
kinh tế quốc dân. Do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ,
Nhà nước và các công ty đa quốc gia, phân công lao động xã hội giữa lao động
trí óc và lao động chân tay hình thành và phát triển. Công nhân được trí thức hoá;
nét đặc sắc của bộ mặt dân cư là xuất hiện giới trung lưu gồm những người lao
động trí óc. Mạng đô thị và công nghiệp rộng lớn, tuyệt đại nhân khẩu sống ở đô
thị.
Có thể nói, quá trình chuyển dịch CCKT từ nông nghiệp sang công
nghiệp, từ công nghiệp sang dịch vụ với tư cách là những ngành có giá trị sản
lượng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân là quá trình có tính quy luật. Trong
mỗi quá trình mang những đặc điểm khác nhau. Đó là sự khác nhau về trình độ
LLSX và phân công lao động xã hội, cơ cấu xã hội dân cư, hình thức tổ chức sản
xuất, quan hệ kinh tế thị trường và vai trò kinh tế của nhà nước…
Quá trình chuyển dịch CCKT chịu tác động của nhiều nhân tố:
Các nhân tố địa lý tự nhiên (như tài nguyên khoáng sản, nguồn nước,
nguồn năng lượng, đất đai, khí hậu); những yếu tố này tác động trực tiếp và
mang tính khách quan đến sự hình thành CCKT.
Các nhân tố kinh tế- xã hội (khoa học kỹ thuật và công nghệ, phong tục tập
quán, truyền thống dân tộc, thị trường, sức mua…); những nhân tố này không
12
chỉ ảnh hưởng đến quá trình hình thành CCKT mà còn tác động đến năng suất,
tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành, dẫn đến sự thay đổi CCKT của mỗi ngành.
Các nhân tố kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế. Trong môi
trường toàn cầu hoá, một nền kinh tế mở sẽ chịu nhiều tác động của các yếu tố
ngoài nước (sự biến động của giá cả thị trường thế giới, sự thay đổi nhu cầu, yếu
tố pháp luật, rào cản thương mại…). Sự thay đổi của các yếu tố này tác động
đến việc tiêu thụ sản phẩm do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành kinh tế và CCKT.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường
hiện đại hiện nay, Nhà nước thường trực tiếp tham gia vào điều tiết nền kinh tế
đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Sự quản lý, điều tiết của
Nhà nước được thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Các
chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá
trình sản xuất, do vậy sẽ tác động đến tốc độ phát triển của các ngành, làm cho
CCKT thay đổi.
Tóm lại, sự chuyển dịch CCKT có thể do những nguyên nhân khách quan
và chủ quan. Trong quá trình phát triển, nếu như không có tác động chủ quan
của con người, của nhà nước thì CCKT vẫn chuyển dịch. Tuy nhiên, nhà nước
có thể chủ động tác động vào CCKT, làm thay đổi cho phù hợp với những mục
tiêu nhất định. Sự tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch CCKT theo định
hướng là để đạt được một mô hình cơ cấu có lợi thế so sánh nhằm nâng cao hiệu
quả sự dụng các nguồn lực.
1.2. Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ đổi mới
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH và
con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công nghiệp
và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế, cho nên công nghiệp, nông nghiệp
phải giúp đỡ nhau cùng phát triển như hai chân đi khoẻ và đi đều thì sẽ nhanh
chóng tiến đến đích” [34, tr.544-545]. Người nói: “Phải lấy nông nghiệp làm
13
chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài
chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế. Các ngành này
phải lấy phục vụ nông nghiệp là trung tâm”. [35, tr.396] “Nông thôn tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm thì ngày càng giầu có, nông thôn giầu có sẽ mua
nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra, đồng thời sẽ cung cấp đủ lương
thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giầu có
giúp cho công nghiệp hoá phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông
nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển thì dân
giầu, nước mạnh”. [34, tr.405 - 406]
Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng trong
quá trình CNH nhằm xây dựng một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông
nghiệp trong xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc 1954 – 1975 và trên cả nước 1975
– 1985, căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương
để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó nhấn mạnh đến vai trò và mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
do nhiều nhân tố khách quan, chủ quan tác động nên việc xác định xây dựng,
phát triển CCKT có những yếu tố không hợp lý, dẫn đến trong thời gian dài,
CCKT có sự chuyển dịch không đáng kể, hạn chế tăng trưởng, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) là bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy nhanh chuyển dịch
CCKT công - nông nghiệp theo quy luật của nó như: chính sách một giá, Luật
đầu tư nước ngoài, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Quyết định 217/HĐBT.
Tư tưởng chủ đạo của các chính sách kinh tế của Đảng tại Đại hội VI là giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và
sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ LLSX.
“Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt nền kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những
14
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo”. [18, tr.42]
Một trong những mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu
tiên là tạo ra một CCKT hợp lý, hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp,
chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. “Trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm
1985 – 1990, phải thực sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho
được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu”. [18, tr.47]
Đại hội VI chỉ rõ toàn bộ quá trình xây dựng CNXH, kể cả trong chặng
đường hiện nay không được tách rời công nghiệp với nông nghiệp, không chỉ
coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp, nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng
chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau. Trong chặng
đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên một bước sản xuất lớn XHCN. Đây là
cụ thể hoá nội dung chính của CNH xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiến lên chủ CNXH ở nước ta, là bước đột phá trong tư duy và nhận thức về
chuyển dịch CCKT trong thời kỳ mới của Đảng.
Tiếp tục bước chuyển đó, Hội nghị Trung ương 3, Khoá VI (8/1987) đã
thông qua Nghị quyết “Về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh
sang hạch toán kinh doanh XHCN, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế ”. Ngày
5/4/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 NQ10/NQ – TW “Về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp”. Đây là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch CCKT
của Đảng theo đường lối đổi mới ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã tổng kết 5 năm thực hiện
đường lối đổi mới đã khẳng định thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã
đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương
trình kinh tế. “Những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế
gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và
bố trí lại CCKT”. [20, tr.19-20]
15
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua
tại Đại hội VII đã chỉ rõ: “Phát triển LLSX, công nghiệp hoá đất nước theo
hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân”. [20, tr.9]
“Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp
với CCKT công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong quá trình chuyển đổi CCKT lạc hậu lên
CCKT hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành nghề, nhiều quy mô,
nhiều trình độ công nghệ, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước
hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên môn hoá và
liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế
của từng vùng để tạo điều kiện liên kết công nghiệp với nông nghiệp, thành thị
với nông thôn”. [20, tr.12]
Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn,
Hội nghị Trung ương 5, Khoá VII (6/1993) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn” đánh giá thực trạng nông nghiệp,
nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi mới và khẳng định: “Trải qua các
thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan
trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo những năm qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (Khoá IV), Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai cùng với các chỉ thị, nghị
quyết khác của các đại hội và hội nghị Trung ương các khoá V, VI, VII đã đưa
đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta”. [21, tr.53]
16
Hội nghị Trung ương 7 (Khoá VII) (11/1994) ra Nghị quyết về “Phát triển
công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước và xây
dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” xác định rõ: “CNH, HĐH đất
nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công lạc hậu
sang lao động sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”. [22, tr.65]
“Mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH là phải biến nước ta thành một nước có cơ sở
vật chất – kĩ thuật hiện đại, có CCKT hợp lý, QHSX tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an
ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. [22, tr.70]
Nghị quyết đề ra 3 chủ trương lớn phát triển công nghiệp và chuyển dịch
CCKT trong thời gian tới là: CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển
mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương
nghiệp, du lịch, dịch vụ cả ở thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ
bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta trở thành nước
công nghiệp có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, CCKT hợp lý, QHSX tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
[23, tr.80]
Đại hội VIII nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
những năm còn lại của thập kỉ 90 là phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp,
17
hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật
nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an
toàn lương thực trong xã hội, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến của thị
trường trong và ngoài nước.
“Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực, thực phẩm,
sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ
thông tin” [23, tr.88]. “Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng
hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán,
bảo hiểm, công nghệ, pháp lý thông tin và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân
dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại, dịch
vụ có tầm cỡ trong khu vực”. [23, tr.89] “Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm
của kinh tế đối ngoại… chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới…”
[23, tr.90-91]
Hội nghị Trung ương 4, khoá VIII ra nghị quyết “Về tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần
kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm
2000” đã chỉ rõ những việc cần tập trung thực hiện CNH, HĐH là: Đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch CCKT gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải
quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế
hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông
thôn.
Ngày 10/11/1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết 06-NQ/TW “Về một số vấn đề
phát triển nông nghiệp, nông thôn” khẳng định 4 quan điểm phát triển nông
nghiệp, nông thôn:
“Thứ nhất, Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp
(gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp…) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và
kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài,
là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp
18
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN.
Thứ hai, Đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự
liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn
và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn
mới; gắn CNH với thực hiện dân chủ hoá và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở
nông thôn; tạo ra sự phân công lao động mới, giải quyết việc làm, nâng cao đời
sống, xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống giữa thành thị
và nông thôn.
Thứ ba, Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến
bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng, đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng
mạnh ra xuất khẩu.
Thứ tư, Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành nền
tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật. Tiếp
tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình HTX dịch vụ cho
kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng các HTX nông nghiệp theo Luật hợp
tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tạo
điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông
thôn”. [24, tr.6-7]
Đây là Nghị quyết có tác động mạnh nhất và là cơ sở quan trọng nhất để
Đảng bộ Hà Tây trực tiếp triển khai thực hiện trong quá trình phát triển kinh tế
của tỉnh.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định đường
lối kinh tế là “Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời
xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực,
19
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”. [25, tr.24]
Nghị quyết nêu rõ định hướng cho việc phát triển các ngành và các vùng
là “Phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh, chuyển dịch CCKT, cơ
cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất
nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước; nhu cầu đời sống nhân
dân và quốc phòng an ninh, tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở
rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu”. [25, .tr26]
Đại hội IX chủ trương phải ưu tiên phát triển LLSX đồng thời xây dựng
QHSX phù hợp theo định hướng XHCN, phát triển kinh tế đi đôi với với phát
triển văn hoá – xã hội, tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đồng thời chỉ rõ
những định hướng lớn về chính sách để thực hiện nhiệm vụ này đến năm 2010.
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển dịch mạnh CCKT, cơ cấu lao động theo hướng CNH. Nâng cao rõ rệt
kết quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. [25, tr.90]
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (18/3/2002) đã ra Nghị quyết “Về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 -
2010” đã chỉ rõ nội dung tổng quát CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn: “CNH,
HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào
các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. CNH, HĐH nông thôn là
quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản
20
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và
xây dựng QHSX phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn”.
[26, tr.42 - 43]
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo quá trình chuyển dịch CCKT, CNH,
HĐH của Đảng đã trình bày thể hiện quá trình phát triển nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về đổi mới đất nước theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế, chuyển dịch CCKT ở Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp. Những chủ trương đó của Đảng được quán
triệt và đưa vào thực hiện trong phạm vi cả nước. Đây là nền tảng và căn cứ xuất
phát cho quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Hà Tây thời kỳ từ
1991 – 2006.
1.3. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
(1991 – 1995)
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
Hà Tây có toạ độ địa lý 20,31º - 21,17º vĩ độ bắc và 105,17º - 106º kinh
đông, bao quanh Thành phố Hà Nội về hai phía Tây - Nam với 3 cửa ngõ vào
thủ đô (trong 7 cửa ngõ) qua các quốc lộ 1, 6, 32. Hà Tây có tổng diện tích 2147
km2, phía Đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú
Thọ, phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Hà
Tây nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hạt nhân
kinh tế của miền Bắc, nằm trên khu vực chuyển tiếp từ Tây bắc và trung du
miền Bắc với đồng bằng sông Hồng qua mạng lưới giao thông về đường thuỷ,
đường sắt và các bến cảng tương đối phát triển.
Về địa giới hành chính
Tỉnh Hà Tây có nhiều lần thay đổi địa giới hành chính cho tới hiện nay.
Tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc được thành lập năm 1892 gồm 2 phủ và 4 huyện
(phủ Quốc Oai và phủ Quảng Oai; 4 huyện: Phúc Thọ, Thạch Thất, Tùng Thiện,
21
Bất Bạt). Tỉnh Hà Đông có 4 phủ và 6 huyện (bốn phủ: Hoài Đức, Ứng Hoà, Mỹ
Đức, Thường Tín; sáu huyện: Đan Phượng, Hoàn Long, Chương Mỹ, Phú
Xuyên, Thanh Oai, Thanh Trì). Toàn tỉnh có 105 tổng và 820 xã.
Năm 1965, theo Nghị quyết số 103NQ-TVQH ngày 21/4/1965, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội phê chuẩn hợp nhất tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành đơn vị
hành chính mới là Hà Tây, gồm 16 huyện, 2 thị xã, 311 xã, thị trấn. Diện tích
toàn tỉnh là 2.196,3 km2, dân số 1.298.537 người.
Năm 1976, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá VI, quyết định sáp nhập hai tỉnh
Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình gồm 24 huyện, 3 thị xã, 519 xã,
phường thị trấn. Diện tích toàn tỉnh là 6.726,8 km2, dân số 2.005.700 người.
Năm 1979, chuyển 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài
Đức, và thị xã Sơn Tây sáp nhập vào Hà Nội.
Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII quyết định chia tách
tỉnh Hà Sơn Bình thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Hà Tây và Hoà Bình, định
lại ranh giới của Hà Nội. Hà Nội chuyển trả lại cho Hà Tây các huyện Ba Vì,
Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây.
Theo Quyết định của Chính phủ thì đơn vị hành chính tỉnh Hà Tây gồm có
2 thành phố Hà Đông và Sơn Tây; 12 huyện là Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng,
Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Phú
Xuyên, Ứng Hoà, Mỹ Đức; gồm 295 xã, 27 phường, thị trấn.
Đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 Về việc điều chỉnh địa
giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan đã hợp nhất toàn bộ
diện tích tự nhiên là 219.341,11 ha với dân số là 2.568.007 người của tỉnh Hà
Tây vào thành phố Hà Nội.
Trong phạm vi gianh giới của tỉnh cho đến nay đã có nhiều lần thay đổi về
địa lý hành chính các huyện, thị xã, thị trấn, xã phường theo thời gian để phù
hợp sự quản lý của các cấp chính quyền.
Về khí hậu: Hà Tây nằm trong nền chung của khí hậu miền Bắc là khí hậu
nhiệt đời gió mùa ẩm, có mùa đông khô và lạnh. Tuy nhiên, do đặc điểm địa
22
hình, Hà Tây được chia thành 3 vùng với chế độ khí hậu khác nhau: Vùng đồng
bằng, có độ cao trung bình 5-7m, chịu ảnh hưởng của gió biển, khí hậu nóng ẩm
hơn, nhiệt độ trung bình hàng năm 23,8ºC, lượng mưa trung bình 1700 -
1800mm. Vùng đồi, độ cao trung bình 15 - 50m, khí hậu lục địa, chịu ảnh hưởng
của gió Lào, nhiệt độ trung bình năm 23,5°C, lượng mưa trung bình là 2300 –
2400 mm. Vùng núi Ba Vì, độ cao từ 700 m trở lên đến đỉnh Ba Vì 1282m, nhiệt
độ khí hậu mát mẻ, trung bình 18°C.
Với tài nguyên khí hậu trên, Hà Tây có điều kiện nuôi trồng được nhiều
loài động thực vật có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều miền địa lý khác nhau thuận
lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, vào mùa khô, cây
trồng thiếu nước, mùa mưa thường có bão lũ, gây ngập úng và uy hiếp hệ thống
đê sông chống lụt.
Về địa hình: phía tây tỉnh là đồi núi với diện tích tự nhiên 70.400 ha, chiếm
1/3 diện tích toàn tỉnh. Địa hình núi có độ cao tuyệt đối 300 trở lên đến độ cao
nhất là đỉnh núi Ba Vì 1281m, với diện tích 17.000 ha, trong đó có 7.400 ha
rừng quốc gia. Địa hình có độ cao tuyệt đối từ 30 – 100m là đồi thấp, 100 –
200m là đồi cao với diện tích 53.400 ha, trong đó đồi thấp là chủ yếu. Địa hình
đồng bằng phía đông có độ cao lớn nhất là 11m với diện tích là 144.450 ha
chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, mang đặc trưng đồng bằng Bắc bộ ô trũng ven đê.
Với kiểu địa hình trên, Hà Tây có điều kiện thuận lợi thực hiện đa dạng hoá
cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm (diện tích trồng cây vụ
đông có thể đạt 80% diện tích canh tác), nhưng phải có công trình chống úng,
kết hợp lựa chọn chế độ canh tác thích hợp với chế độ mưa, ngập ở các vùng
trũng trong đê.
Về tài nguyên đất: Vùng đồng bằng có các loại đất: đất phù sa được bồi:
17.030 ha (8%), đất phù sa không được bồi: 51.392 ha (24%), đất phù sa Gley:
51.551 ha (24%). Vùng đồi núi gồm các loại đất chủ yếu: đất nâu vàng trên phù
sa cổ 20.603 ha (10%), đất đỏ vàng trên đá phiến sét 10.783 ha, đất nâu đỏ và
mùn đỏ vàng trên đá macma bazơ và đất nâu đỏ trên đá vôi. Nhìn chung đất có
độ phì cao, với nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng
23
ngắn ngày, dài ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây
rừng đa tác dụng với các hệ thống canh tác có tưới hoặc không tưới.
Về tài nguyên nước: Được sông Hồng bọc ở phía đông, sông Đà ở phía bắc
và các sông nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với mật độ khá cao. Với
lượng nước sơ bộ hàng năm khoảng 180 – 200 tỷ m³. Theo đó là tài nguyên phù
sa sông Hồng và sông Đà khoảng 170 triệu tấn/năm. [87, tr.8] Nhìn chung, tài
nguyên nước dồi dào cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, nếu xây dựng
được hệ thống cấp thoát nước hoàn chỉnh để lấy nước sông và giữ nước mùa
mưa, cấp nước mùa khô. Phù sa sông là nguồn dinh dưỡng quan trọng để cải tạo
đất và tăng năng suất cây trồng.
Tài nguyên khoáng sản: Hà Tây có một số khoáng sản chính sau: đá vôi
(Mỹ Đức, Chương Mỹ), đá granit (Chương Mỹ), sét (Chương Mỹ, Thạch Thất,
Quốc Oai), cao lanh (Ba Vì, Quốc Oai), vàng gốc và sa khoáng (Quốc Oai,
Chương Mỹ), đồng (Ba Vì), abet (Ba Vì), đôlômít (Quốc Oai), nước khoáng (Ba
Vì) với chất lượng và trữ lượng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công
nghiệp vừa và lớn.
Về tài nguyên cảnh quan, lịch sử, du lịch:
Theo thống kê của Bộ văn hoá thì Hà Tây (cũ) là tỉnh đứng thứ 3 trong cả
nước (sau Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) về số lượng di tích lịch sử (300 di tích)
với mật độ 14 di tích/100km2 (cả nước là 2,2 di tích/km2). [87, tr.11] Vùng núi
Ba Vì và dải núi đá vôi phía tây tạo ra cảnh quan và khí hậu đa dạng, các khu
rừng nguyên sinh, các bản làng dân tộc với văn hóa truyền thống…
Với tiềm năng cảnh quan và di tích lịch sử, vị trí địa lý nằm cạnh Hà Nội và
tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Hà Tây được đánh giá là
điểm du lịch có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, để đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong CCKT phải được đầu tư lớn để xây dựng cơ sở hạ
tầng du lịch, nâng cấp các di tích lịch sử và cảnh quan, khôi phục và xây dựng
văn hoá dân gian…
Tài nguyên con người: dân số Hà Tây đầu những năm 1990 là 2,237 triệu
người, mật độ bình quân 992 người/km², trong đó vùng đồng bằng trên
24
1000người/km², vùng đồi núi 791 người/km². Mật độ dân số Hà Tây gấp 26 lần
bình quân của thế giới và 5,1 lần bình quân của cả nước, là tỉnh đông dân thứ 7
của Việt Nam, 93% dân số sống ở nông thôn, chỉ 7% sống ở thành thị, 25% dân
số đang học ở cấp học phổ thông. Có 9 xã đồng bào dân tộc với dân số 29.000
người, chủ yếu là người Mường. Lao động 1,1 triệu người, trong đó 80% là lao
động nông nghiệp, 1/3 xã có làng nghề thủ công với 117.000 lao động có tay
nghề. Lao động nông nghiệp có trình độ văn hoá khá (21% có trình độ cấp III,
62% trình độ cấp II, 14% là cấp I). [87, tr.12]
Với những điều kiện nêu trên đã tạo cho Hà Tây những thuận lợi lớn:
Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cạnh thủ đô Hà Nội và vùng tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, chuyển dịch CCKT, đồng thời tạo điều kiện cho Hà Tây tiếp thu
công nghệ, khoa học kĩ thuật và giáo dục. Thủ đô Hà Nội là thị trường trực tiếp
của nhiều hàng hoá và dịch vụ như nông, lâm, thuỷ hải sản, vật liệu xây dựng,
hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, du lịch nghỉ dưỡng… Hà Tây là địa bàn mở
rộng của Hà Nội với các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công của các xí
nghiệp công nghiệp của Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH.
Hà Tây có điều kiện trao đổi lưu thông hàng hoá với các tỉnh trung du,
miền núi phía bắc, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh phía nam.
Đồng thời, Hà Tây có tuyến phòng thủ phía đông nên có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với an ninh quốc phòng.
Khó khăn thách thức của Hà Tây trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH là sự
cạnh tranh mạnh mẽ về kinh tế của các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh; các trung tâm mới nổi như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải
Dương, Bắc Ninh. Cơ sở hạ tầng thấp kém, 90% doanh nghiệp trung ương, địa
phương có trình độ kỹ thuật trung bình và lạc hậu, năng suất và hiệu quả thấp.
Đất chật, người đông, tốc độ tăng dân số còn cao gây sức ép lớn về việc làm, thu
nhập và các vấn đề xã hội. GDP đầu người thấp, là tỉnh chưa cân bằng được
ngân sách. Du lịch là thế mạnh của Hà Tây song, cần phải đầu tư lớn vào cơ sở
25
vật chất, cảnh quan, môi trường sinh thái, cần phải xây dựng các tour du lịch với
các hình thức, nội dung hấp dẫn trong khi rất thiếu vốn…
1.3.2. Những chủ trương, giải pháp chính lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (1991 – 1995)
Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Hà Tây được phân định lại địa giới
hành chính từ 1/10/1991, toàn tỉnh có 12 huyện, 2 thị xã với tổng diện tích là
214300 ha, dân số 2,1 triệu người.
Đánh giá về thực trạng kinh tế - xã hội thời kỳ 1986 - 1991, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII nhận định: Tình hình địa phương có những
chuyển biến đáng kể trên các mặt, lương thực, thực phẩm tăng khá, hàng tiêu
dùng phong phú, đa dạng hơn trước. Cơ sở vật chất phục vụ nông thôn, nông
nghiệp được tăng cường. Thực hiện đổi mới quản lý kinh tế, phát triển kinh tế
nhiều thành phần đạt được một số kết quả bước đầu. Thực hiện các chính sách
xã hội trên một số mặt có cố gắng. Đời sống số đông nhân dân được cải thiện
một bước. Dân chủ xã hội có tiến bộ. Tình hình chính trị ổn định. Công tác quản
lý nhà nước, công tác xây dựng Đảng đang từng bước được đổi mới. [28, tr.8]
Tuy nhiên, còn nhiều tồn tại yếu kém: sản xuất lương thực phát triển chưa
toàn diện, kết quả 3 chương trình kinh tế chưa xứng với tiềm năng, chủ yếu do
chỉ đạo và quản lý còn yếu kém. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều xã vẫn còn độc
canh và chưa vững chắc, chậm tiếp thu tiến bộ kĩ thuật, riêng vùng đồi gò còn
nhiều khó khăn, cần phải xem xét cơ cấu cây trồng cho phù hợp. Công nghiệp
và thủ công nghiệp mới chiếm 26%. Hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ công
nghiệp gia công. Nông sản xuất khẩu ít và chưa có mặt hàng chủ lực. Hoạt động
dịch vụ du lịch còn yếu kém.
Vận dụng cơ chế quản lý mới đối với các thành phần kinh tế chưa có kinh
nghiệm và còn nhiều khuyết điểm. Phần lớn cơ sở kinh tế quốc doanh địa
phương nhỏ bé, vốn ít, kĩ thuật lạc hậu, quản lý kém, chậm thích ứng với cơ chế
mới. Có 16% số cơ sở thuộc tỉnh và 40% số cơ sở thuộc huyện bị thua lỗ phải
ngừng hoạt động.
26
Từ khi thực hiện chính sách Khoán 10, hoạt động của nhiều ban quản lý
HTX nông nghiệp rất lúng túng. Do nhận thức về quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế ruộng đất không đúng đã nảy sinh mâu thuẫn giữa nhiều xã,
thôn, xóm đã ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đoàn kết nông thôn. Nhiều
HTX mua bán ngừng hoạt động, nhiều HTX tiểu thủ công nghiệp phải chuyển
sang làm nông nghiệp.
Trong quản lý kinh tế quốc doanh có nhiều sơ hở, quản lý kinh tế tư nhân
không chặt đã làm phát sinh nhiều tiêu cực mới như lừa đảo, chiếm dụng làm
thất thoát vốn của nhà nước, của tập thể.
Tốc độ tăng dân số còn cao. Một bộ phận lao động, nhất là ở các thị xã
thiếu việc làm. Chất lượng giáo dục có những mặt tiếp tục giảm; công tác khám
chữa bệnh ở nhiều cơ sở y tế làm chưa tốt; hoạt động văn hoá quần chúng ở cơ
sở bị mai một, các hủ tục mê tín dị đoan phục hồi. Đời sống của một bộ phận
dân cư còn túng thiếu; một số cán bộ hưu trí, mất sức thu nhập thấp không đủ
mức sống tối thiểu.
Kỉ cương pháp luật chưa nghiêm, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức
tạp. Nhiều quy định về quản lý kinh tế, ruộng đất, quản lý đô thị, giao thông,
nhà ở… không được chấp hành. Bộ máy nhà nước còn nhiều hiện tượng trì trệ,
tiêu cực, tham nhũng, nhiều trường hợp xử lý không nghiêm và kéo dài. Nhiều
tệ nạn xã hội chưa giảm. Đáng chú ý là nạn trộm cắp, trấn lột xảy ra ở nhiều nơi
khiến nhân dân lo lắng.
Quản lý nhà nước chưa bao quát được các thành phần kinh tế, hiệu lực điều
hành bằng pháp luật còn hạn chế, chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu. Các cơ quan
bảo vệ pháp luật có lúc phối hợp hoạt động không chặt chẽ, trùng chéo, trong xử
lý còn chậm và nôn nóng.
Nguyên nhân chính của những hạn chế trên là do kiến thức và năng lực tổ
chức chỉ đạo thực hiện của Tỉnh uỷ, các ngành, các cấp chưa theo kịp yêu cầu
đổi mới. Phong cách lãnh đạo chưa nhạy bén và thiếu tập trung, việc phân công
trách nhiệm và tổ chức kiểm tra làm chưa tốt. Chưa tích cực tranh thủ sự giúp đỡ
của các ngành, các tổ chức kinh tế, khoa học kĩ thuật của Trung ương. [28, tr.12]
27
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ VII tháng 3/1992 đã đề ra những mục
tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội cho đến năm 1995 là: “Vận dụng sáng tạo
đường lối đổi mới của Đảng, đề cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, phấn
đấu xây dựng và phát triển kinh tế địa phương với cơ cấu nông nghiệp toàn diện
gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, dịch vụ du lịch; cơ sở hạ tầng được
tăng cường; đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân được cải thiện; quốc
phòng an ninh được đảm bảo. Đến năm 1995, phấn đấu đạt các mục tiêu: Giải
quyết tốt hơn vấn đề lương thực, có thêm nhiều nông sản hàng hoá chế biến và
hàng tiêu dùng, tăng nhanh hàng xuất khẩu; giảm tỷ lệ sinh mỗi năm một phần
nghìn, giảm bớt số lao động thiếu việc làm. Từng bước xây dựng nông thôn mới
và nếp sống văn minh trật tự ở các thị xã, thị trấn. Ổn định và cải thiện một bước
đời sống nhân dân; Xây dựng một số cơ sở hạ tầng bức thiết; giữ vững ổn định
chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, chống mọi biểu hiện tiêu cực; kiện toàn
và làm trong sạch bộ máy, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân
dân”. [28, tr.17]
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và các
giải pháp lớn phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, trong đó nhiệm vụ, giải pháp
phát triển kinh tế đặc biệt được coi trọng:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp toàn diện, tăng thêm lương thực, đồng
thời tăng nhanh các loại nông sản hàng hoá.
Đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sinh học, đưa nhanh giống
mới vào sản xuất để tăng sản lượng lương thực bình quân hàng năm 5% nhằm
đảm bảo nhu cầu lương thực của nhân dân, căn bản khắc phục nạn đói giáp hạt.
Đồng thời, sử dụng có hiệu quả các loại đất, tăng nhanh giá trị nông sản hàng
hoá trên một đơn vị diện tích.
Thứ hai, khai thác tài nguyên, điện năng sẵn có và lao động biết nhiều
nghề để phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
28
Đưa giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp hàng năm tăng 8-
10%. Hướng chủ yếu là đẩy mạnh chế biến nông sản, vật liệu xây dựng, đồ dùng
gia đình, may mặc, dịch vụ sửa chữa và các mặt hàng thủ công truyền thống…
Khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh, mở rộng sự hợp tác đa dạng, liên
doanh liên kết, nhất là kinh tế gia đình, cá thể… phát triển sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu và mở mang chế biến nông sản, từng bước hình thành
mạng lưới công nghiệp nông thôn.
Khẩn trương sắp xếp lại các cơ sở sản xuất, tập trung đầu tư cho những cơ
sở sản xuất có hiệu quả và những cơ sở làm hàng xuất khẩu có thị trường ổn
định. Tích cực hợp tác liên doanh với các tổ chức kinh tế, các cơ quan khoa học
kĩ thuật của Trung ương và các tỉnh bạn, kể cả ngoài nước để có thêm vốn đầu
tư và đổi mới công nghệ sản xuất.
Thứ ba, chấn chỉnh hoạt động phân phối lưu thông, góp phần ổn định thị
trường giá cả, thực hiện kinh doanh có hiệu quả, làm tốt việc thu chi ngân sách
và phấn đấu có tích luỹ.
Sắp xếp lại hệ thống kinh doanh của các ngành lương thực, vật tư, thương
mại theo yêu cầu kinh doanh, không nhất thiết theo địa giới hành chính để kinh
doanh có hiệu quả, tham gia điều tiết thị trường. Đồng thời sắp xếp lại bộ máy
quản lý, đảm bảo quản lý có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế.
Chấn chỉnh các chợ đã có, mở thêm chợ mới ở những nơi có nhu cầu. Củng
cố các chợ chính ở các thị xã thành các trung tâm giao lưu hàng hoá của dân cư
trên địa bàn rộng. Tăng cường quản lý thị trường, chống các hiện tượng trốn
thuế, làm hàng giả, buôn bán hàng cấm…
Mở mang dịch vụ du lịch, nghiên cứu quy hoạch tổng thể các di tích, các
cảnh quan thiên nhiên, các di sản văn hoá. Tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan
trung ương và các tỉnh bạn để từng bước khai thác, phát triển du lịch thành một
ngành kinh tế của địa phương.
Thực hiện nghiêm túc các giải pháp về tài chính ngân hàng. Xoá bỏ bao cấp
tồn tại trong vốn, tín dụng, giá; giải quyết dứt điểm việc thanh toán nợ giữa các
đơn vị kinh tế; thực hiện việc giao vốn và có quy chế bảo toàn vốn của nhà nước
29
giao cho các doanh nghiệp. Kiểm kê đánh giá lại toàn bộ tài sản, nhà đất trong
các cơ quan hành chính sự nghiệp, đoàn thể, lực lượng vũ trang để giao trách
nhiệm bảo quản sử dụng…
Thứ tư, từng bước xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống
Trong lúc nguồn vốn eo hẹp, cần phải xác định rõ thứ tự ưu tiên đầu tư để
dần hình thành những cơ sở hạ tầng cấp thiết. Nguồn ngân sách chủ yếu đầu tư
bổ sung cho một số trạm biến thế, đường điện cao thế, một số công trình thuỷ lợi,
các cơ sở sản xuất giống; tu bổ, nâng cấp tuyến đường 21b, 22, đường dây thông
tin liên lạc; mở rộng mạng lưới truyền thanh ở nông thôn; các công trình ở đô thị
như điện, nước, bệnh viện, vệ sinh công cộng.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới quản lý và phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế.
Đối với kinh tế quốc doanh, ra sức củng cố và phát triển những cơ sở quan
trọng mà các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không thể thay thế được. Đối
với kinh tế tập thể, coi trọng đổi mới kinh tế HTX nông nghiệp, bảo đảm cho
các hộ xã viên thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời nâng cao trách nhiệm
và năng lực của ban quản lý trong việc điều hành sản xuất, hướng dẫn kĩ thuật,
làm dịch vụ điện nước, giống, tiêu thụ nông sản… cho các hộ xã viên.
Khuyến khích kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân và các hình thức kinh tế
khác ở thành thị và nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, nhận đất khai hoang trồng rừng, trồng cây công nghiệp và các
mặt sản xuất kinh doanh khác mà luật pháp không cấm, được tự do liên doanh
và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, chấp hành đúng luật pháp và các
nghĩa vụ khác do nhà nước quy định.
Thứ sáu, phát triển sự nghiệp khoa học và đổi mới quy trình, công nghệ sản
xuất phục vụ thiết thực cho việc phát triển kinh tế, mở mang xuất khẩu, phục vụ
đời sống nhân dân. Nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, nhất là công
nghệ sinh học nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng lương thực, thực phẩm, nâng cao
chất lượng hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Có biện pháp chuyển giao nhanh
chóng kĩ thuật đến các hộ sản xuất, nhất là các loại giống mới có năng suất cao.
30
Sử dụng tốt số cán bộ khoa học hiện có, tăng cường đào tạo thêm cán bộ, đồng
thời tranh thủ sợ hợp tác, giúp đỡ của các cơ quan, cán bộ khoa học ở Trung
ương và Hà Nội. Có kế hoạch đầu tư thích đáng cho sự nghiệp khoa học.
Hạ thấp nhịp độ tăng dân số; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động;
đổi mới hoạt động, xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao…
Củng cố quốc phòng an ninh; nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, vai
trò của mặt trận và các đoàn thể nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, làm trong sạch đội ngũ đảng viên… [28, tr.39]
Những chủ trương trên khẳng định quyết tâm của của Đảng bộ Hà Tây
trong phát triển kinh tế - xã hội sau khi tái lập tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, từ ngày 14-
15/10/1992, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp Hội nghị lần thứ 4 “Về đẩy mạnh
xuất khẩu và du lịch”. Hội nghị nhận định: “Hà Tây là tỉnh lớn ở khu vực đồng
bằng sông Hồng, có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều điểm di tích văn
hoá, di tích lịch sử, có thế mạnh về du lịch. Tiềm năng thiên nhiên phong phú đa
dạng. Hà Tây có nhiều làng nghề truyền thống, sản xuất nhiều mặt hàng thủ
công mỹ nghệ nổi tiếng để xuất khẩu. Trong những năm qua, các lợi thế về xuất
khẩu du lịch chưa được tỉnh khai thác hết tiềm năng”.
Từ thực tế đó, Tỉnh uỷ đã thảo luận và ra Kết luận số 67 – KL/TU “Về một
số chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và du lịch đến
năm 1995” Hội nghị đề ra mục tiêu:
Về xuất khẩu, đến năm 1995, toàn tỉnh phấn đấu có một số sản phẩm xuất
khẩu chủ lực với khối lượng tăng trên hai lần so với năm 1990.
Về du lịch, xúc tiến quy hoạch tổng thể các tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh
bao gồm các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, các công trình văn hoá
lâu đời… gắn với hoạt động du lịch văn hoá của Hà Nội. Trên cơ sở đó, ngành
du lịch quy hoạch từng cụm như cụm Ba Vì - Đồng Mô - Suối Hai, cụm Hương
Sơn - Hà Đông, cụm Chùa Trăm Gian - Chùa Tây Phương - Chùa Thầy… Trước
mắt, cần tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng phục vụ ở khu vực
31
Chùa Hương và khu vực Ba Vì - Đồng Mô, thu hút khách thăm quan trong nước
và quốc tế, từng bước xây dựng thành khu du lịch có tầm cỡ quốc gia.
Từ mục tiêu trên, Hội nghị đề ra 8 giải pháp lớn để đẩy mạnh hoạt động
xuất nhập khẩu và du lịch của tỉnh. Trong đó có một số giải pháp quan trọng là:
“Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương, tìm cơ hội thu hút
vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ở ngoài tỉnh và của nước ngoài tham gia
hoạt động xuất khẩu và du lịch dưới mọi hình thức trên nguyên tắc hai bên cùng
có lợi, có hiệu quả, đúng pháp luật. Các ngành nông nghiệp, thương mại và du
lịch chủ động tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành dọc Trung ương để xây dựng
dự án của ngành. Phối hợp chặt chẽ với các ngành lao động, tài chính, ngân
hàng… để giúp đỡ các huyện và các cơ sở xây dựng các dự án phát triển xuất
khẩu và du lịch phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh”. [3, tr.256]
Như vậy, Kết luận số 67 của Tỉnh uỷ về xuất khẩu và du lịch là sự tiếp tục
cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII trong chương trình
chuyển dịch CCKT công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và du lịch.
Hội nghị Đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ (22 – 25/2/1993) đã kết luận, qua
hai năm thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 1992 – 1995, cán bộ và
nhân dân toàn tỉnh đã nỗ lực phấn đấu đạt được những kết quả quan trọng. Một
số chỉ tiêu sản xuất chủ yếu đã đạt và vượt mức kế hoạch đề ra cho năm 1995.
Đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững. Lòng tin của
nhân dân đối với Đảng tăng thêm. Tuy nhiên, CCKT trên địa bàn tỉnh vẫn là
thuần nông, một số vùng còn là nông nghiệp độc canh, lạc hậu nên tốc độ tăng
trưởng kinh tế chưa vững chắc và còn ở mức thấp. Cơ sở hạ tầng thấp kém, tích
luỹ ngân sách hạn chế…
Hội nghị đề ra nhiệm vụ chủ yếu cho thời gian còn lại của năm trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng… trong đó vấn đề kinh tế
được hội nghị hết sức chú trọng: Phấn đấu tăng tổng giá trị sản xuất hàng năm là
8% trở lên; thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 1995 đạt giá trị
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 30% tổng giá trị sản xuất, trong nông
nghiệp, giá trị chăn nuôi đạt 30%. Tăng cường cơ sở hạ tầng, tạo môi trường
32
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế địa phương, cần tập trung vào giao thông,
điện nước, thông tin liên lạc, thuỷ lợi và một số công trình bức thiết về văn hoá
xã hội. Tiếp tục đổi mới quản lý, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển
sản xuất kinh doanh.
Nhằm thúc đẩy kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực, ngày
4/8/1993, Tỉnh uỷ Hà Tây ra Nghị quyết số 07 NQ/TU về tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế xã hội nông thôn với mục tiêu: “Thu hút hết số lao động thiếu
việc làm. Sử dụng tốt đất đai tài nguyên, ngành nghề sẵn có; cải tiến công nghệ
sản xuất, tăng năng suất lao động, phát triển nhanh và vững chắc nông lâm
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn, mở mang du lịch ở
nơi có điều kiện; giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân
dân, tăng nhanh nông sản hàng hoá tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tăng thu
nhập và cải thiện mức sống vật chất, văn hoá của nông dân, không còn hộ đói,
giảm thấp hộ nghèo, tăng hộ giầu. Xây dựng cơ sở hạ tầng ở đại bộ phận số xã
có đường, có điện, có bệnh xá và trường học hợp quy cách; có nước sạch; có nếp
sống văn hoá lành mạnh và 100% số xã có truyền thanh. Nông thôn đoàn kết, ổn
định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố quốc phòng an ninh” [48, tr.5]
Ngày 5/10/1994, Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 12 (Khoá
VII) đã họp và ra Nghị quyết số 09-NQ/TU Về phát triển công nghiệp, thủ công
nghiệp đến năm 2000: “Từ nay đến năm 2000 cần tích cực chuyển dịch CCKT
địa phương hợp lý hơn. Trong lúc tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đa
dạng, phải thúc đẩy CNH nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; tăng cường chỉ
đạo phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; mở mang các hoạt động dịch
vụ, du lịch, đưa tốc độ tăng trưởng của công nghiệp bình quân hàng năm khoảng
15%. Phấn đấu đạt tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất: công nghiệp khoảng 30%,
nông nghiệp khoảng 40%, dịch vụ và du lịch khoảng 30%. Trên cơ sở đó, tạo
thêm việc làm, tăng thu nhập lên gấp 2 lần năm 1993, cải thiện một bước đời
sống vật chất, văn hoá của nhân dân, củng cố an ninh quốc phòng, tạo tiền đề
phát triển cao hơn vào năm sau”. [50, tr.2]
33
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII) về phát triển công nghiệp,
công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết 09 của
Tỉnh uỷ chỉ rõ những điểm cần trú trọng:
- Gắn liền công nghiệp với nông nghiệp, khai thác tốt những tiềm năng
sẵn có, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đồng thời tích cực phát
triển hàng xuất khẩu.
- Phát huy mọi thành phần kinh tế, coi trọng vai trò kinh tế quốc doanh và
các loại hình kinh tế hợp tác trong việc phát triển những ngành công nghiệp có
triển vọng ở địa phương và thúc đẩy CNH nông nghiệp. Quốc doanh và tập thể
phải nỗ lực vươn lên làm tốt hơn các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho kinh tế hộ gia
đình, tổ hợp, tư nhân; thực hiện sự liên doanh có hiệu quả với các doanh nghiệp
nước ngoài.
- Cải tiến, tận dụng các cơ sở và thiết bị sẵn có, từng bước đổi mới công
nghệ hiện đại ở những cơ sở và những khâu quan trọng với quy mô vừa và nhỏ
là chủ yếu; tăng năng lực sản xuất của các làng nghề truyền thống; mở mang
thêm các nghề mới và làng nghề mới.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn để lựa chọn các dự án đầu tư.
Phát triển sản xuất phải đi đôi với phát triển giáo dục văn hoá, nâng cao dân trí,
thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên, bảo
đảm củng cố an ninh quốc phòng.
- Phát triển mọi nguồn vốn, tín dụng của nhà nước và nhân dân, khuyến
khích các thành phần kinh tế, toàn dân tiết kiệm tiêu dùng, đầu tư cho phát triển
sản xuất, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư của nước ngoài.
Hội nghị cũng đề ra những nhiệm vụ cụ thể trên các mặt đối với công
nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp
vật liệu xây dựng, dịch vụ du lịch và xây dựng kết cấu hạ tầng… nhằm đẩy
nhanh quá trình CNH trên địa bàn.
Hội nghị đề ra những giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp, thủ công
nghiệp:
34
Một là, Quán triệt cho cán bộ từ tỉnh đến cơ sở hiểu rõ chủ trương của
Đảng về CNH, HĐH đất nước. Nhấn mạnh không CNH thì không thể giầu có và
củng cố được an ninh quốc phòng. CNH, HĐH không phải là việc riêng của nhà
nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp. Phải tích cực
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển tiểu thủ công nghiệp,
đẩy mạnh CNH nông thôn. Đồng thời, phát triển vững chắc một số cơ sở công
nghiệp có điều kiện.
Hai là, sử dụng tốt nguồn lực quan trọng nhất của tỉnh có số dân hơn 2
triệu người, có 1 triệu lao động, trừ một số xã miền núi và bán sơn địa, còn số
đông dân trí tương đối khá, biết nhiều nghề.
Ba là, động viên mọi nguồn vốn trong nhân dân, đồng thời tích cực thu
hút nguồn vốn bên ngoài đầu tư vào sản xuất. Có biện pháp hướng dẫn các tổ
chức và nhân dân tiết kiệm tiêu dùng, hạn chế xây dựng các công trình phi sản
xuất chưa cấp bách và mua sắm phương tiện đắt tiền để dành vốn cho sản xuất
và cơ sở hạ tầng cần thiết.
Bốn là, thực hiện đúng đắn chính sách khuyến khích các thành phần kinh
tế phát triển sản xuất, kinh doanh tất cả các ngành nghề nhà nước cho phép
Năm là, sản xuất phải tính đến thị trường, các loại hàng hoá từ nông sản
chế biến đến hàng tiêu dùng… đều phải coi trọng năng suất, chất lượng để đứng
vững và cạnh tranh được cả ở trong tỉnh và thị trường Hà Nội. Các sản phẩm
xuất khẩu phải không ngừng nâng cao chất lượng. Điều đó đòi hỏi phải đổi mới
công nghệ và làm tốt việc tiếp cận thị trường.
Sáu là, các cấp uỷ Đảng phải làm tốt việc quán triệt cho cán bộ đảng viên
tinh thần nghị quyết TW7 và nghị quyết của Tỉnh uỷ; đề ra kế hoạch chỉ đạo các
cơ sở Đảng và nhân dân đề cao tinh thần tự lực, cần kiệm, xây dựng chương
trình hành động cụ thể để chuyển dịch CCKT phù hợp với thực tiễn địa phương,
trọng tâm là làm tốt cuộc “cách mạng giống” trong nông nghiệp, phát triển nông
nghiệp đa canh, phát triển làng nghề, mở mang thị trường, đổi mới quản lý các
hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước…
35
Ra sức phấn đấu củng cố các tổ chức Đảng trong sạch, nâng cao năng lực
lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đặc biệt coi trọng
làm tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thông qua Đại hội đảng bộ,
bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, lựa chọn bố trí cán bộ có phẩm chất, năng
lực để chỉ đạo phát triển kinh tế địa phương có cơ cấu: nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ du lịch ngày càng hợp lý.
Bảy là, UBND tỉnh căn cứ vào các nghị định, thông tư của Chính phủ, các
Bộ và chủ trương định hướng của Tỉnh uỷ để thảo luận đề ra các quyết định, các
văn bản pháp quy của nhà nước để thi hành ở địa phương. Chỉ đạo việc xây
dựng và thông qua các kế hoạch thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của các sở
trực thuộc UBND tỉnh và chính quyền cấp dưới. Phân công trách nhiệm của
từng ngành hoặc liên ngành thực hiện dứt điểm trong thời gian quy định những
nhiệm vụ quan trọng nhằm đẩy mạnh chuyển dịch CCKT địa phương. [50, tr.8-
12]
Chuyển dịch CCKT địa phương theo những mục tiêu và chủ trương nói
trên là công việc mới mẻ, nặng nề, có nhiều khó khăn, đòi hỏi phải giải quyết
đồng bộ nhiều vấn đề về tư tưởng, kinh tế, xã hội, dân trí, chính sách… Việc chỉ
đạo, điều hành thực hiện của các cấp, các ngành phải nắm vững các quan điểm
của Đảng, pháp luật của nhà nước, dám nghĩ, dám làm, tăng cường kiểm tra, rút
kinh nghiệm từ cơ sở để tiếp tục sửa đổi, bổ sung những chủ trương, chính sách
cụ thể cho phù hợp, nhằm thực hiện được mục tiêu đề ra.
Sang năm 1994, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh có chuyển biến
mạnh hơn. Tuy nhiên, kinh tế địa phương căn bản vẫn là tỉnh thuần nông, GDP
bình quần đầu người chỉ bằng 72% bình quân chung của cả nước, thu chưa đủ
chi. Nguyên nhân chủ yếu là do công nghiệp quá nhỏ bé và lạc hậu, cơ sở hạ
tầng thấp kém.
Nhằm khắc phục những tồn tại và phát huy tiềm năng thế mạnh của mình,
năm 1994, Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu xây
dựng Bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây thời kỳ 1995 – 2010
với quan điểm: “Phát huy cao độ tính tự chủ, sáng tạo của các thành phần kinh
36
tế, khai thác sử dụng tốt hơn mọi tiềm năng của một tỉnh có nguồn lực đất đai,
lao động và ngành nghề khá phong phú, lại có lợi thế gần sát Hà Nội, đồng thời
liên doanh, liên kết với Hà Nội và các tỉnh bạn; khuyến khích các doanh nghiệp
ngoài tỉnh và thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
mạnh mẽ, vững chắc hơn, tạo một bước chuyển biến cơ cấu kinh tế mới gồm
công nghiệp – nông nghiệp – du lịch, dịch vụ vào năm 2010”. [87, tr.37]
Tỉnh uỷ Hà Tây dự tính mức tăng trưởng GDP hàng năm thời kỳ 1995 –
2000 là 12%, từ 2001 – 2010 là 13%. GDP bình quân đầu người năm 2000 là
350 USD, năm 2010 là 1050 USD. Cơ cấu kinh tế gồm công nghiệp từ 22% năm
1993 lên 30% năm 2000; tương ứng với nông nghiệp là 56,3% và 40%; du lịch
dịch vụ là 22% và 30%. Nông nghiệp sớm đạt 1 triệu tấn lương thực, chăn nuôi
chiếm 50% giá trị sản xuất nông nghiệp, có một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Công nghiệp dần trở thành ngành kinh tế chủ đạo. Quy hoạch xây dựng các
khu công nghiệp có kỹ thuật cao ở Hoà Lạc (1000 ha), Phú Cát (300 - 400ha)
Xuân Mai (300 ha) và một số khu công nghiệp ở Thường Tín, Phú Xuyên, các
vùng lân cận hai thị xã Hà Đông và Sơn Tây. Ngoài ra còn quy hoạch khoảng 25
điểm công nghiệp nhỏ ở các làng nghề và ven các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ.
Du lịch sẽ phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn trong tương lai. Bước
đầu hình thành 3 cụm chính là khu vực Ba Vì - Suối Hai - Đồng Mô; khu vực
Hương Sơn, khu vực Hà Đông và vùng phụ cận.
Về giáo dục đào tạo và văn hoá, sẽ xây dựng khu Đại học Quốc gia khoảng
1000 ha ở phía tây dường 21A (Hoà Lạc); Làng văn hoá du lịch các dân tộc Việt
Nam ở phía đông hồ Đồng Mô.
Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, đề nghị Chính phủ sớm làm
đường cao tốc Láng – Hoà Lạc (bằng cách đổi đất làm công trình). Nâng cấp các
quốc lộ 1, 6, 32, 21A, 21B; phát triển mạng lưới điện 110 KV và 35 KV tới các
khu công nghiệp; chuyển sân bay Hoà Lạc thành sân bay taxi, dành đất để làm
sân bay ở Miếu Môn; nhanh chóng đưa hệ thống thông tin liên lạc hoà nhập vào
mạng lưới quốc gia và quốc tế.
37
Bản quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Hà Tây 1995 – 2010 thể hiện chủ
trương đúng đắn, có tầm nhìn rộng nhằm thay đổi cơ cấu kinh CCKT và sử dụng
đất tốt hơn ở vùng bán sơn địa phía tây nằm dọc theo trục quốc lộ 21A để xây
dựng các khu kinh tế xã hội, hạn chế việc sử dụng đất 2 lúa để công nghiệp –
nông nghiệp - dịch vụ và du lịch trên địa bàn tỉnh cùng phát triển.
Nhằm xây dựng và phát triển du lịch thành ngành kinh tế trọng điểm,
tháng 8 năm 1994, Tỉnh uỷ Hà Tây thông qua Dự án quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Hà Tây đến năm 2010 với các mục tiêu chủ yếu:
“Phát triển ngành du lịch với tốc độ tăng trưởng nhanh, phấn đấu đưa du
lịch trở thành một ngành trọng điểm vào năm 2000, ngành mũi nhọn vào năm
2010. (Tỷ trọng của du lịch trong GDP chiếm 10% trong năm 2000 và 20% vào
năm 2010); Tổ chức, quy hoạch du lịch trên địa bàn tỉnh gắn liền với tam giác
phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, trước hết với Hà Nội và các vùng
phụ cận. Xây dựng các cụm du lịch có đủ sức thu hút khách và cạnh tranh được
với các vùng lân cận, đem lại hiệu quả cao về các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Hoàn thiện và nâng cấp các điểm du lịch khác nhằm thu hút và kéo dài
thời gian du lịch của khách. Tổ chức các tuyến du lịch khép kín trong quần thể
du lịch của tỉnh, nối các tuyến này với các tuyến du lịch của cả nước nói chung,
Hà Nội và các vùng phụ cận nói riêng. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
và kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch. Xây dựng hệ thống các cơ sở lưu trú kết hợp
giữa hiện đại và truyền thống, hài hoà với cảnh quan thiên nhiên. Xây dựng hệ
thống các cơ sở vui chơi giải trí để vừa lôi cuốn khách, vừa tăng thêm thời gian
lưu trú. Kết hợp với các thành phần kinh tế khác, kiện toàn kết cấu hạ tầng; xây
dựng những tuyến đường dành riêng cho du lịch; đảm bảo việc cung cấp điện
nước, thông tin liên lạc… cho nhu cầu du lịch. Bảo tồn và tôn tạo môi trường du
lịch của Hà Tây”. [88, tr.18]
Như vậy, trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII nhiệm kỳ
1991-1995, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tây đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua
khó khăn, giành những thắng lợi bước đầu quan trọng:
38
Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, kinh tế
địa phương dần dần ổn định, có bước phát triển. Trong 5 năm 1991 – 1995, tổng
sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm 9,5%. Nhịp độ tăng bình
quân hàng năm về sản xuất nông nghiệp là 6%. Lương thực đạt 83 vạn tấn, vượt
mức đề ra cho năm 1995 (80 vạn tấn) căn bản giải quyết được nạn thiếu ăn giáp
hạt; các loại rau đậu, cây thực phẩm, cây công nghiệp đều tăng; chăn nuôi tăng
bình quân hàng năm 14,8%. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp từ 16% năm
1990 tăng lên 34% năm 1995. Khai thác hơn 3000 ha đất trống đồi trọc để trồng
chè, cây ăn quả và trồng rừng
Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp, thủ công
nghiệp là 14,5% (mức đề ra 8 – 10%). Công nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại
1 bước, một số cơ sở được đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, gắn sản xuất
với nhu cầu thị trường nên sản xuất tăng và đạt hiệu quả khá hơn. TCN phát
triển nhanh ở các làng nghề và được mở rộng ở một số địa phương. Ngoài
những nghề truyền thống, có thêm nghề mới và sản phẩm mới vừa tiêu thụ nội
địa, vừa xuất khẩu.
Các ngành dịch vụ đều phát triển, năm 1995 so với năm 1990, tổng mức
bán lẻ hàng hoá tăng 4 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng 2 lần, phương tiện vận tải
cơ giới tăng 4 lần, số máy điện thoại tăng gần 10 lần.
CCKT địa phương có bước chuyển dịch tích cực hơn: tỉ trọng công
nghiệp và xây dựng từ 22% năm 1990 tăng lên 25% năm 1995; dịch vụ từ 21%
lên 25%; nông nghiệp từ 57% xuống 50%.
Các thành phần kinh tế dần dần thích ứng với cơ chế mới, sản xuất, kinh
doanh phát triển năng động hơn. Doanh nghiệp nhà nước giảm bớt quá nửa số
cơ sở, nhưng khối lượng sản xuất tăng hơn 5 năm trước, đóng góp cho ngân
sách nhiều hơn. Có 20% số HTX nông nghiệp làm tốt các khâu dịch vụ phục vụ
sản xuất của hộ xã viên, 29 HTX thủ công nghiệp, 43 Quỹ tín dụng nhân dân
được tổ chức lại và nhiều tổ hợp mới ra đời đóng góp tích cực giải quyết việc
làm, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh
ở tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ. Kinh tế tư nhân có
39
162 doanh nghiệp loại nhỏ; có 15 dự án liên doanh với nước ngoài được duyệt
với tổng vốn đầu tư trên 200 triệu USD, trong đó hầu hết là sản xuất công
nghiệp.
Cùng với phát triển kinh tế, có những chuyển biến tích cực về xã hội.
Việc xoá đói giảm nghèo được các đoàn thể, các tổ chức xã hội động viên đông
đảo nhân dân tham gia bằng nhiều việc làm thiết thực, 38 vạn lượt hộ vay hơn
1700 tỉ đồng vốn Nhà nước để sản xuất, tạo thêm việc làm cho hơn 10 vạn
người. Số hộ nghèo đói giảm bớt từ 22% năm 1990 xuống 9,12% năm 1995.
Đời sống của đại đa số nhân dân ổn định, nhiều mặt được cải thiện, thu nhập
bình quân đầu người năm 1995 đạt 1,4 triệu đồng, tăng 43% so với năm 1990.
Tỷ trọng chi ngân sách cho xã hội tăng đáng kể, từ 37% năm 1990 lên 48% so
với năm 1995
Sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển, tương đối toàn diện. Số học sinh
phổ thông, mẫu giáo hàng năm tăng 5%. Năm học 1992 – 1993 toàn tỉnh được
công nhận phổ cập tiểu học và xoá mù chữ. Các trường chuyên, lớp chọn được
mở rộng, bước đầu đưa nội dung dạy nghề, giáo dục dân số, tin học vào nhà
trường. Chất lượng dạy và học có tiến bộ, 83% số trường học được ngói hoá và
gần 30% được xây dựng kiên cố.
Hoạt động khoa học công nghệ trong nông nghiệp có tiến bộ về ứng dụng
các loại giống cây trồng, vật nuôi với năng suất cao; trong công nghiệp, chú
trọng nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp thị hiếu người tiêu dùng; một số
ngành khác như bưu điện, phát thanh… đã trang bị những thiết bị tiên tiến hơn;
một số ngành đã bắt đầu dùng máy vi tính trong quản lý.
Các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục, thể thao có bước phát triển,
phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá được triển khai ở một số xã,
phường, có tác dụng giáo dục truyền thống và giữ gìn nếp sống lành mạnh. Báo
chí, phát thanh có tiến bộ cả về nội dung và hình thức, 99% số xã có đài truyền
hình.
40
Chương trình quốc gia về dân số và kế hoạch hoá gia đình được triển khai
rộng khắp, các ngành, các đoàn thể có nhiều hoạt động thiết thực vận động nhân
dân hưởng ứng, nhờ đó đạt được kế hoạch giảm tỉ lệ sinh mỗi năm 1 phần nghìn.
Y tế có tiến bộ về phòng bệnh, chăm lo củng cố mạng lưới y tế cơ sở,
81% số trạm y tế xã được trang bị dụng cụ y tế, 72% số trạm có y sĩ sản nhi,
20,8% số trạm có bác sĩ. Việc tiêm chủng cho trẻ em hàng năm đạt trên 95%, tỉ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 50% năm 1990 giảm xuống 42% năm 1995.
Phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với người có công được các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, đoàn thể và nhân dân quan tâm. Đã xây dựng 1000 ngôi nhà tình
nghĩa, góp 2 tỉ đồng vào sổ tiết kiệm tặng các gia đình liệt sĩ, thương binh, xây
dựng, tu sửa 240 nghĩa trang, nhà, bia tưởng niệm, quy tập, xây lại 20.000 mộ
liệt sĩ, 1247 bà mẹ được phong và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”; các mẹ còn sống được các tổ chức và các xã, phường, thị trấn nhận
phụng dưỡng, 75% số xã được công nhận bảo đảm mức sống của các gia đình
thương binh liệt sĩ ngang mức sống trung bình của nhân dân địa phương.
Những thành tựu đó thể hiện những chủ trương, giải pháp phát triển kinh
tế, chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Hà Tây là hoàn toàn đúng đắn, đã phát huy
bước đầu những thế mạnh và tiềm năng của tỉnh, làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội
của tỉnh có những thay đổi sau khi tái lập tỉnh. Qua đó, cũng đánh dấu bước
trưởng thành về tư duy, nhận thức và chỉ đạo của Đảng bộ về phát triển kinh tế
và chuyển dịch CCKT. Sự chuyển biến này tạo tiền đề quan trong cho bước phát
triển trong giai đoạn tiếp theo.
41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Số 153-TB/TW, Thông báo Kết luận của
Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh
Hà Tây; phương hướng nhiệm vụ năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Tây (2005), Các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh
Hà Tây 1947 – 2005, Hà Đông.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Tây (2008), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây,
Tập IV (1975-2008), Hà Đông.
4. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (1994), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hà
Tây, Hà Đông.
5. Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Tuệ Anh (chủ biên) (2006), Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam 15 năm (1991 – 2005) - Từ góc độ phân tích đóng góp của các
nhân tố sản xuất, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Nông dân, nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Chiến lược phát triển nông
nghiệp nông thôn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá 2001 – 2010, Hà Nội.
8. Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàn Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê,
Hà Nội.
9. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Thống Kê, Hà Nội.
10. Cục thống kê Hà Tây (1995), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1990 – 1994,
Hà Đông.
42
11. Cục thống kê Hà Tây (1997), Tình hình cơ bản các doanh nghiệp Nhà nước,
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà
Đông.
12. Cục thống kê Hà Tây (1999), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1995 – 1998,
Hà Đông.
13. Cục Thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1996 – 2000,
Hà Đông.
14. Cục Thống kê Hà Tây (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Hà Đông.
15. Cục thống kê Hà Tây (2007), Niên giám thống kê Hà Tây 2006, Hà Đông.
16. Đỗ Quang Dũng (6/2005), “Làng nghề ở Hà Tây trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, Tạp chí công nghiệp kỳ 1,
(43, tr.44)
17. Đỗ Quang Dũng (2006), Phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây, Luận án Tiến sỹ kinh tế,
Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1988), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế Nông nghiệp, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương (Khoá VII), Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương (Khoá VII), Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị“Về một số
vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH
Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần
thứ VII, Hà Đông.
29. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần
thứ VIII, Hà Đông.
30. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần
thứ IX, Hà Đông.
31. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần
thứ XIV, Hà Đông.
32. Đảng bộ tỉnh Hà Tây, (2006), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tây lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005 – 2010.
33. Lê Mạnh Hùng (chủ biên) (1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Khánh, (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng châu thổ Sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Thế Nhã (1996), Bản chất và nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn,
đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
44
38. Sở Công nghiệp Hà Tây (1994), Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu “Hiện
trạng và những giải pháp chủ yếu để xây dựng phát triển công nghiệp, nông
thôn Hà Tây đến năm 2000”, Hà Đông.
39. Sở Công nghiệp Hà Tây (2000), Công nghiệp Hà Tây năm 2000, Hà Đông.
40. Sở địa chính Hà Tây (1996), Số liệu kiểm kê đất đai năm 1995 Tỉnh Hà Tây,
Hà Đông.
41. Sở thương mại Hà Tây (1997), Quy hoạch và phát triển thương mại Hà Tây
đến 2010, Hà Đông.
42. Sở Văn hoá thông tin Hà Tây (2007), Địa chí Hà Tây, Hà Đông
43. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới
và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Đặng Văn Thắng - Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng - thực trạng và triển vọng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1992), Báo cáo về nhiệm vụ công tác kinh tế đối ngoại
(Trình bày tại Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 4), Hà Đông.
48. Tỉnh ủy Hà Tây (1993), Số 07-NQ/TU, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 về tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, Hà Đông.
49. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1993), Số 08 –NQ/TU, Kết luận của tỉnh ủy Về phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1994 – 1995 và những năm tiếp
theo, Hà Đông.
50. Tỉnh ủy Hà Tây (1993), Số 09-NQ/TU, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh lần thứ 12 (Khóa VII) về phát triển công nghiệp, thủ công
nghiệp đến năm 2000, Hà Đông.
45
51. Tỉnh ủy Hà Tây (8/1994), Đề án phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp đến năm 2000, Hà Đông.
52. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1996), Số 01-NQ/TU, Nghị quyết của Tỉnh ủy về tổ chức
thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2000, Hà Đông.
53. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), 30 năm Đảng bộ và nhân dân Hà Tây thực hiện Di
chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Đông.
54. Tỉnh ủy Hà Tây, (2001), Kết luận số 01-KL/TU về phát triển du lịch 2001 –
2005, Hà Đông.
55. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 03-KL/TU, Kết luận của Tỉnh ủy về phát triển
thương mại và xuất khẩu 2001 – 2005, Hà Đông.
56. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 04-CT/TU, Chỉ thị của Ban thường vụ Tỉnh ủy về
phát triển ngành nghề trên địa bàn tỉnh, Hà Đông.
57. Tỉnh uỷ Hà Tây (2001), Chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn giai
đoạn 2001 – 2005, Hà Đông.
58. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 24/BC/TU, Báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và
hợp tác xã 5 năm 1996 – 2000, phương hướng, nhiệm vụ 2001 – 2005, Hà
Đông.
59. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 40- TB/TU, Thông báo của tỉnh ủy về triển khai
thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp đến năm 2005 theo hướng sản
xuất hàng hóa, ổn định và bền vững, Hà Đông.
60. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 42 TB/TU, Thông báo Kết luận của Tỉnh ủy về
phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên
địa bàn tỉnh, Hà Đông.
61. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2002), Số 20-Ctr/TU, Chương trình thực hiện Nghị quyết
TW 5 (Khóa IX) Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, Hà Đông.
46
62. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2002), Số 21-Ctr/TU, Chương trình thực hiện Nghị quyết
TW 5 (Khóa IX) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể, Hà Đông.
63. Tỉnh uỷ Hà Tây (2002), Chương trình số 24 Ctr/TU ngày 20/04/2002 về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn 2001 – 2010,
Hà Đông.
64. Tỉnh ủy Hà Tây (10/2002), Số 06-KL/TU, Kết luận của tỉnh ủy về phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đầu tư nước ngoài đến năm 2005 và
2010, Hà Đông.
65. Tỉnh ủy Hà Tây (2/2003), Số 39 –CTr/TU, Chương trình thực hiện Nghị
quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác kinh tế đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế đến năm 2005 và 2010, Hà Đông.
66. Tỉnh ủy Hà Tây (2003), Số 99- BC/TU, Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện
Chương trình phát triển nông nghiệp tới năm 2005 theo hướng sản xuất hàng
hóa, ổn định và bền vững, Hà Đông.
67. Tỉnh ủy Hà Tây (5/2003), Số 100-BC/TU, Báo cáo tình hình thực hiện và
giải pháp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo Kết luận
06-KL/TU của Tỉnh ủy, Hà Đông.
68. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Chương trình số 64- Ctr/TU về tiếp tục thực hiện
Kết luận số 01-KL/TU ngày 1/10/2001 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch đến
năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Đông.
69. Tỉnh ủy Hà Tây (10/2004), Số 65 CTr/TU, Chương trình tiếp tục thực hiện
Kết luận số 03-KL/TU ngày 3/10/2001 của Tỉnh ủy về phát triển thương mại
và xuất khẩu đến năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Đông.
70. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 414 –TB/TU, Thông báo kết luận của Thường
trực Tỉnh ủy về thực hiện một số dự án đầu tư của tỉnh, Hà Đông.
71. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 419 –TB/TU, Thông báo kết luận của tỉnh ủy về
chủ trương và triển khai một số dự án trên địa bàn tỉnh, Hà Đông.
47
72. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 578-TB/TU, Thông báo ý kiến của chỉ đạo của Bí
thư tỉnh ủy về công tác du lịch của tỉnh đến năm 2005 và những năm tiếp
theo, Hà Đông.
73. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Báo cáo số 169-BC/TU, Báo cáo kiểm 3 năm thực
hiện Kết luận số 01-KL/TU ngày 1/10/2001 của tỉnh ủy về phát triển du lịch
năm 2001 – 2005, Hà Đông.
74. Tỉnh ủy Hà Tây (2/2005), Số 633-TB/TU, Thông báo Kết luận của Ban
thường vụ Tỉnh ủy về tình hình quy hoạch và xây dựng các khu, cụm, điểm
công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông.
75. Tỉnh ủy Hà Tây (2005), Số 634-TB/TU, Thông báo kết luận của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về kết quả chuyển đổi cơ cấu cây trông vật nuôi giai đoạn 2001 –
2004 và kế hoạch thực hiện năm 2005, Hà Đông.
76. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2005), Số 13-NQ/TU, Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh
ủy về nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
giai đoạn 2005 – 2010 và những tiếp theo, Hà Đông.
77. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 784-TB/TU, Thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban
Thường vụ tỉnh ủy về việc thực hiện phát triển các khu, cụm, điểm công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh đến hết tháng
5/2005, Hà Đông.
78. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 14 – NQ/TU, Nghị quyết của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh về môi trường đầu tư của tỉnh, Hà Đông.
79. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 59 – KH/TU, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết
của Ban thường vụ tỉnh ủy về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư, Hà Đông.
80. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 783-TB/TU, thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban
thường vụ tỉnh ủy về thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm và công tác sắp
xếp doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh, Hà Đông.
48
81. Tỉnh ủy Hà Tây (8/2005), Số 203 – BC/TU, Báo cáo tình hình và kết quả
bước đầu thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TU, Kế hoạch 59-KH/TU ngày
4/6/2005 của Ban thường vụ tỉnh ủy Về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư của tỉnh. Hà Đông.
82. Tỉnh ủy Hà Tây (9/2005), Số 925-TB/TU, Thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban
thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện một số cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng
cụm, điểm công nghiệp của tỉnh, Hà Đông.
83. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2005,
Hà Đông.
84. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Nghị quyết số 03 về phát triển nông nghiệp nông
thôn giai đoạn 2006 – 2010, Hà Đông.
85. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Chỉ thị số 08 CT/TU của Ban thường vụ tỉnh uỷ về
việc đẩy nhanh tiến độ dồn điền đổi thửa gắn với chuyển dịch cơ cấu cây
trồng vật nuôi, Hà Đông.
86. Tỉnh uỷ Hà Tây (2007), Thông báo số 195 TB/TU: Kết luận của Ban
Thường vụ tỉnh uỷ về đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông,
khuyến công trên địa bàn tỉnh, Hà Đông.
87. UBND tỉnh Hà Tây (1994), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
thời kỳ 1995 – 2010 (Báo cáo tổng hợp), Hà Đông.
88. UBND tỉnh Hà Tây (1994), Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh
Hà Tây đến năm 2010, Hà Đông.
89. UBND tỉnh Hà Tây (1997), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm
1997, Hà Đông.
90. UBND tỉnh Hà Tây (1999), Số 124 BC/UB – TH, Báo cáo tình hình thực
hiện kinh tế - xã hội 10 tháng năm 1999 và nhiệm vụ kế hoạch năm 2000, Hà
Đông.
49
91. UBND tỉnh Hà Tây (2000), Số 138 – BC/UB-TH, Báo cáo Chương trình và
giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005,
Hà Đông.
92. UBND tỉnh Hà Tây (11/2003), Số 116 –BC/UB-CN, Báo cáo tình hình quy
hoạch và triển khai thực hiện các khu, cụm, điểm công nghiệp – thủ công
nghiệp trên địa bàn tỉnh và công tác giải phóng mặt bằng khu công nghệ cao
Hòa Lạc – tái định cư Hòa Phú, Hà Đông.
93. UBND tỉnh Hà Tây (3/2004), Kế hoạch thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế
của tỉnh Hà Tây, Hà Đông.
94. UBND tỉnh Hà Tây (7/2004), Số 2280-KH/UB-NC, Kế hoạch triển khai thực
hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý các vi phạm trong quản
lý, sử dụng đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số cụm,
điểm công nghiệp, Hà Đông.
95. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 166-BC/UB-CN, Báo cáo tình hình và kết
quả thực hiện năm phát triển công nghiệp 2004, Hà Đông.
96. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 169-BC/UB-TNMT, Báo cáo kiểm tra
quản lý, sử dụng đất tại các cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây,
Hà Đông.
97. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 1452a/2004/QĐ-UB, Quyết định về việc
ban hành Kế hoạch thực hiện cơ chế “một cửu” ở xã, phường, thị trấn trên
địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông.
98. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 1545/2004/QĐ-UB, Quyết định về việc
ban hành quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông.
99. UBND tỉnh Hà Tây (2005), Số 21 BC/UB-NL, Báo cáo tình hình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001 – 2004 và định hướng tới
năm 2010, Hà Đông.
50
100. UBND tỉnh Hà Tây (11/2005), Báo cáo tình hình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tới năm 2005 theo tinh thần Nghị
quyết TW5 (Khoá IX), Hà Đông.
101. UBND tỉnh Hà Tây (5/2006), Số 904/2006/QĐ – UBND, Quyết định về
việc ban hành chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn
2006 - 2010 theo hướng sản xuất hàng hoá hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
(Số 904/2006/QĐ – UBND ngày 25/5/2006), Hà Đông.
102. UBND tỉnh Hà Tây (7/2007), Số 69 BC/UBND-NN, Báo cáo tình hình
phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001 – 2005 - Những vấn đề cần
tập trung giải quyết tạo thuận lợi để hoàn thành mục tiêu đề ra đến năm
2010, Hà Đông.
103. Lê Thị Anh Vân (2003), “Một số giải pháp kinh tế - tài chính thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay”, Nghiên cứu kinh tế, 296(1),
(38-43)