Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

9
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BÌNH ĐỊNH TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ THƠ CHO HỌC SINH (KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY) GIÁO VIÊN : TRẦN HÀ NAM TỔ BỘ MÔN VĂN 1

Transcript of Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

Page 1: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BÌNH ĐỊNHTRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN

GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ THƠ

CHO HỌC SINH(KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY)

GIÁO VIÊN : TRẦN HÀ NAMTỔ BỘ MÔN VĂN

2002

1

Page 2: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ THƠ CHO HỌC SINH

TRẦN HÀ NAM

I. TỔNG QUAN :

1. Những năm gần đây, cùng với việc thay đổi, giảm tải chương trình bộ môn Văn ở cấp THPT, đội ngũ giáo viên không ít người băn khoăn khi phải tiếp cận với một dung lượng thơ khá lớn ở cả ba khối lớp 10, 11, 12. Khi chương trình đã chú trọng nhiều hơn đến chất văn, không những học sinh mà giáo viên cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước những tác phẩm mới, đặc biệt là có khá nhiều tác phẩm thơ cổ điển và lãng mạn. Định hướng đúng nhưng làm thế nào để hiểu thấu đáo cái hay cái đẹp của một bài thơ, phong cách độc đáo của một nhà thơ quả là điều không dễ dàng. Hàng năm, giáo viên được tham gia chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên, nhưng để vận dụng được những kiến thức mới, những phương pháp hay cũng không hề đơn giản.

2. Thực tế việc cảm thụ thơ luôn là một lĩnh vực đòi hỏi phải bỏ nhiều tâm sức của cả giáo viên và học sinh vì một bài thơ có thể có nhiều cách hiểu khác nhau, hạn chế thời lượng trong tiết dạy, hạn chế về dung lượng kiến thức và phương pháp truyền thụ. Bên cạnh đó, cũng phải nhận thấy tác độngkhông nhỏ của đời sống xã hội trong thời kỳ giao lưu hộinhập kinh tế thị trường, việc dạy thơ học thơ nhiều khi chưa giúp các em đủ thời gian lĩnh hội cái tinh tế, lắng đọng, dạt dào, thâm thúy của thi ca. Học sinh còn thờ ơ với môn văn.Giáo viên phải đảm trách dạy xuyên suốt từ ca dao dân ca đến thơ cổ điển, thơ lãng mạn, thơ cách mạng… cũng không có điều kiện thật chín muồi để nghiền ngẫm đầu tư tốt cho bài giảng. Làm thế nào để giúp các em nâng cao năng lực cảm thụ, thẩm định một tác phẩm thơ thật tốt luôn là điều trăn trở của các giáo viên tâm huyết với nghề.

3. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới hạn trong phạm vi bộ phận văn học viết, gồm thơ luật, thơ hiện đại, tập trung ở một số tác giả tác phẩm mới được học trong chương trình cải cách và chỉnh lý hợp nhất. Nội dung trình bày là những điều rút ra từ thực tế giảng dạy của bản thân tại trường THPT Trưng Vương (1994 – 2000) và trường THPT chuyên Lê Quý Đôn ( 2000 – 2002).

II. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH HỌC THƠ CỦA HỌC SINH:

Theo chúng tôi, trong quá trình học thơ, học sinh thường gặp phải những khó khăn, vướng mắc sau đây :

1. Thơ luật – thơ trung đại : Các em được học trong chương trình lớp 10, lớp 11 và “Nhật ký trong tù” (Hồ Chí Minh) trong chương trình lớp 12. Khó khăn phổ biến của các em là không nắm vững luật thơ, không hiểu rõ các biện pháp nghệ thuật đặc trưng của thơ cổ điển, không biết điển tích, điển cố. Vì vậy khi ghi chép và kiềm tra, các em chỉ tái hiện máy móc lời giảng của giáo viên, hầu như không có rung động cảm xúc thật sự. Những trường hợp học thơ có nguyên tác chữ Hán, các em thiếu sự đối chiếu giữa nguyên tác với bản dịch thơ, dịch nghĩa nên đôi khi thoát ly khá xa ý trong văn bản gốc.Phần lớn mới chỉ cảm thụ vào nội dung, ít khai thác nghệ thuật. Từ đó, một số em nhớ chữ “tác” thành chữ “tộ”, hiểu bài thơ

2

Page 3: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

ngô nghê, trình bày lúng túng thụ động, lẫn lộn chữ Hán chữ Việt. Chẳng hạn, khi được kiểm tra thuộc lòng bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, nhiều em đọc và viết câu “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” (Thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu) thành “Tu thích nhân gian thuyết Vũ hầu” hay “… thiết Vũ hầu”. Khi cảm thụ nội dung các tác phẩm đụng chạm đến các vấn đề nhạy cảm như Truyện Kiều của Nguyễn Du các em có những suy diễn không đúng đắn về bi kịch ở lầu xanh của Thúy Kiều, hay hồn nhiên gọi tình bạn “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp/ Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân” của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê là “bạn nhậu” (!) . Tai hại hơn, có em tùy tiện suy diễn lịch sử, cho rằng thời Nguyễn Trãi là thời “thực dân phong kiến”, thơ Hồ Xuân Hương lên án “những kẻ theo giặc bán lương tâm”, Nguyễn Khuyến là một người anh hùng của dân tộc (!), hoặc giả gán ghép địa danh cho rằng Nam Định quê Tú Xương ở Nam Bộ vì thế cho nên hiểu thơ không được. Liên quan đến những đặc trưng thi pháp, các em đều lúng túng khi diễn giải các khái niệm sùng cổ, ước lệ, “phi ngã” của thơ xưa. Học sinh lớp 12 cứ thoải mái tán thơ Bác là cổ điển – hiện đại, nhưng khi yêu cầu chỉ ra cụ thể thì không nắm được. Dù cho các em đã được bổ trợ phần Tiếng Việt về Biện pháp tu từ ở lớp 10, Thi luật tiếng Việt ở lớp 11 , số em thông thạo thi luật cổ điển như niêm – vần – luật – đối – bố cục rất ít, hầu như chỉ cảm nhận mơ hồ đại khái. Vì vậy giờ học thơ cổ điển thành “cực hình” với học sinh.

2. Thơ hiện đại : Nhìn chung, các em cảm thụ phần thơ hiện đại tốt hơn vì ngôn ngữ thơ dễ hiểu dễ cảm. Tuy nhiên những vướng mắc nhiều nhất là ở phần Thơ Mới lãng mạn 1932 – 1945 và một số bài thơ kháng chiến chống Pháp. Căn bệnh phổ biến trong cảm thụ thơ của các em là cảm nhận chủ quan tùy tiện, “tán” một cách vô căn cứ. Tình trạng học sinh hiểu sai chi tiết rồi trên cơ sở hiểu sai lại bình giảng say sưa không phải là ít. Bên cạnh đó, việc sử dụng sách tham khảo, bài văn mẫu đã tạo cho các em thói quen ỷ lại, chép sách, không chú trọng tìm hiểu nội dung nghệ thuật tác phẩm đã thành phổ biến. Ở những em có năng lực diễn đạt, vẫn còn tình trạng hiểu nghĩa bề mặt, không đầu tư tìm hiểu những lớp nghĩa ẩn dụ, tượng trưng trong tác phẩm. Chẳng hạn, bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử, phần lớn các em mới chỉ dừng lại ở mối quan hệ Hoàng Cúc – Hàn Mạc Tử mà không đi sâu khai thác vẻ đẹp không gian Vỹ Dạ, tâm sự Hàn Mạc Tử gửi gắm trong từng khổ thơ, chưa ý thức về giọng điệu tác phẩm , phong cách nhà thơ trong tương quan với văn học giai đoạn, khuynh hướng lãng mạn. Vì vậy, cách hiểu còn hạn chế. Khi phân tích thơ thời kỳ 45 – 75, nhiều em nắm mơ hồ về hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm, hiểu chung chung về nội dung, không biết phân tích bèn nghĩ ra cách “hô khẩu hiệu”. Cách phân tích khen “tưới hạt sen” mà không chỉ ra được nét đặc sắc độc đáo là phổ biến trong học sinh. Kết quả là các tác phẩm đều được cảm thụ rập khuôn như : thơ lãng mạn là phải đẹp và buồn, gắn với cái tôi, thơ cách mạng là phải yêu quê hương đất nước, căm thù giặc quyết tâm chiến đấu cho lý tưởng. Lâu dần, việc cảm thụ này biến các em thành những người dễ dãi, học vẹt, làm tác phẩm trở nên xơ cứng vô hồn.

III. CON ĐƯỜNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ THƠ CỦA HỌC SINH:

1. Cơ sở lý luận :

Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Dù thể hiện cuộc sống ở khía cạnh nào chăng nữa cũng là khoảnh khắc nhà thơ phơi bày tâm trạng của mình trước thế giới. Phần lý luận về thơ cũng như những kỹ năng phân tích bình giảng thơ trong chương trình trung học phổ thông luôn nhấn mạnh đến yêu cầu khai thác cảm xúc trữ tình của tác phẩm và làm rõ vai trò của chủ thể trữ tình. Chính vì vậy, đối với học sinh, trong quá trình tiếp cận tác phẩm thơ, các em không chỉ hiểu mà còn phải cảm được tác phẩm. Mối quan hệ giữa hiểu và cảm đã được nhiều sách lý luận, phương pháp bàn đến, xin không được nhắc lại ở đây. Nhưng xin được nhấn mạnh là nếu các em chỉ hiểu mà không cảm có nghĩa là các em chưa lĩnh hội được cái hay, cái đẹp của bài thơ. Theo suy nghĩ của chúng tôi, chỉ có giúp học sinh cảm thụ được sau khi hiểu tác phẩm thì người giáo viên mới có thể gọi là thành công bước đầu trong quá trình giảng dạy thơ. Những biện pháp chúng tôi đã tiến hành chủ yếu hướng tới việc giúp các em có thể cảm được tác phẩm, từ cảm nhận, ấn tượng ban đầu đến hiểu biết cơ bản, sau đó mới có thể cảm thụ sâu sắc về tác phẩm.

3

Page 4: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

2. Xây dựng nền tảng :

Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên luôn phải ý thức việc tạo nền tảng căn bản cho học sinh là nhân tố hàng đầu, vì “có bột mới gột nên hồ”. Trước khi cho các em tiếp xúc với một tác phẩm thơ cụ thể nào cũng cần phải có một sự chuẩn bị thật chu đáo. Theo tôi, có một số biện pháp hữu hiệu mà trong quá trình dạy thơ người giáo viên có thể giúp học sinh có hứng thú tiếp nhận thật sự :

a. Trước hết, khâu chuẩn bị bài giảng không đơn thuần chỉ bó hẹp trong phạm vi yêu cầu chung, giáo án đứng lớp mà người giáo viên cần có sổ ghi chép, tích lũy bổ sung tư liệu thật phong phú xung quanh một tác giả, tác phẩm. Trong yêu cầu này, không nhất thiết chúng ta phải ghi chép thật nắn nót, tỉ mỉ để thanh tra về kiểm tra thấy sổ sạch sẽ, hình thức đẹp. Điều quan trọng là phải làm cho những kiến thức thu lượm được trở nên sống động bổ ích hơn là để kiến thức nằm chết trên trang giấy. Trong quá trình ghi chép, có thể bổ sung ngay những nhận xét, phát hiện của riêng bản thân, hoặc người giáo viên có thể viết thành dạng bình giảng, xử lý ngay những điều vừa thu lượm. Có như vậy, khi đứng lớp, giáo viên mới có kiến thức vững vàng và tạo được tâm thế tiếp nhận tốt cho học sinh. Công việc này phải tiến hành trong nhiều năm và phải tiến hành tỉ mỉ công phu. Cách làm việc này cũng có thể hướng dẫn cho học sinh, với những em có năng khiếu và đam mê thật sự với bộ môn văn.

b. Khi chuẩn bị cho một giờ giảng thơ, giáo viên cũng cần chú trọng đến cả phần tiếng Việt có liên quan. Đây là khâu chuẩn bị cần được làm tốt để có thể khai thác nghệ thuật của tác phẩm làm cơ sở tìm hiểu nội dung tư tưởng, cảm hứng của tác giả. Chú trọng đến những đặc điểm thi luật của tác phẩm. Cần chú trọng đến giờ dạy phân môn Tiếng Việt ở lớp 10 và lớp 11. Trong thực tế, không ít giáo viên xem nhẹ hoặc giảng giờ Tiếng Việt theo kiểu cho đúng phân phối chương trình, nặng về lý thuyết xem nhẹ thực hành. Để cảm thụ thơ tốt, học sinh cần được trang bị kiến thức về các biện pháp tu từ, thi luật thật vững. Vì vậy, khi thực hành tiếng Việt, giáo viên có thể trích dẫn những ví dụ sinh động từ những tác phẩm thơ hay trong và ngoài chương trình.

c. Khâu học thuộc lòng và đọc diễn cảm là yêu cầu không thể thiếu đối với học sinh, cần phải cho các em chuẩn bị trước ở nhà một cách chu đáo. Có như vậy, học sinh mới có những ấn tượng ban đầu về bài thơ để chuẩn bị tiếp thu bài giảng của giáo viên được tốt. Thực tế nhiều em rất ngại đọc ở nhà hoặc trả bài thuộc lòng như máy không ngừng nghỉ, ngắt nhịp lộn xộn, giáo viên cần uốn nắn ngay và cũng cần động viên, biểu dương những em diễn đạt đúng giọng điệu, cảm xúc trong tác phẩm. Dẫu không yêu cầu cao như một nghệ sĩ biểu diễn thơ nhưng giáo viên cũng phải rèn luyện đọc thơ, ngâm thơ để có thể đọc mẫu cho học sinh.

3. Kiến thức bổ sung :

a. Có nhiều con đường để bổ sung kiến thức, kỹ năng cho học sinh nâng cao năng lực cảm thụ thơ. Một câu thơ hay có thể được học sinh khai thác tốt nếu như các em có một nền tảng kiến thức văn chương vững và vốn văn hóa – tri thức rộng. Trong tình hình hiện nay, văn hóa đọc có chiều hướng giảm sút, học sinh quen đọc truyện tranh và giải trí bằng các phương tiện nghe nhìn.đó cũng là một thuận lợi vì đáp ứng nhu cầu trực quan, cập nhật kiến thức văn hóa của học sinh nhanh chóng. Vì vậy, phải triệt để khai thác sở thích hứng thú của chính các em. Chẳng hạn, khi giảng bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, có câu thơ :

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

có thể liên hệ với những sinh hoạt ở nông thôn miền Bắc, hình thức hát quan họ, những nụ cười nổi tiếng của tranh Mona Lisa, tượng tháp Bayon… mà các em ít nhiều đã được biết đến trong các chương trình truyền hình; sau đó, mới liên hệ đến ý nghĩa biểu cảm đặc biệt của nụ cười cô gái Kinh Bắc trong bài thơ. Những kiến thức văn hóa – lịch sử cần thiết luôn phải được trau dồi cho học sinh vì sẽ tạo được không khí cho giờ giảng, đôi khi làm cho hình tượng thơ sống động hơn. Đặc biệt gần gũi với thơ là những kiến thức về hội họa, âm nhạc vì

4

Page 5: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

sẽ giúp các em thấu đáo hơn “trong thơ có nhạc, có họa”. Nhưng cũng cần điều tiết thời gian hợp lý để tránh biến giờ giảng thơ thành buổi “biểu diễn văn nghệ” của giáo viên. Điều tốt nhất là phải hình thành cho các em thói quen biết liên hệ những vấn đề trong tác phẩm với đời sống thực tiễn.

b. Phần khó nhất đối với cả giáo viên và học sinh là cảm thụ thi ca cổ điển vì không gian văn hóa hiện nay đã có nhiều khác biệt so với thời xưa. Đối với các tác phẩm cổ điển có nhiều điển tích điển cố, giáo viên cần dẫn ra một cách sinh động qua những câu chuyện nhỏ. Chẳng hạn, khi giảng Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, câu thơ “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” có thể kể giai thoại Nguyễn Công Trứ buộc mo cau sau đuôi bò để “che miệng thế gian”; câu thơ “Được mất dương dương người tái thượng” có thể kể chuyện “Tái ông thất mã” dựa vào chú thích của sách giáo khoa, vì khi biến thành lời kể của giáo viên, các em mới lưu ý kỹ hơn đến điển cố được chú thích, từ đó mới hứng thú hơn trước tư thế “ngất ngưởng” của nhà thơ.

c. Ngoài ra, người giáo viên hoàn toàn có thể bổ sung kiến thức thực tế cho học sinh trong quá trình giảng thơ, trên cơ sở của địa phương. Khi giảng về bài thơ Đêm đại dương của V. Hugo, liên hệ bài viết của Phạm Hổ, đề nghị các em cảm nhận trực quan khi ra trước biển; khi giảng về Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, giáo viên hướng dẫn hoặc tổ chức cho các em thăm khu lưu niệm Xuân Diệu ở Gò Bồi, đi thăm nhà lưu niệm Hàn Mạc Tử ở Gành Ráng – Qui Hòa; khi giảng Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận, liên hệ với Bảo tàng Tây Sơn cho các em được xem phiên bản 18 tượng La Hán… Những dịp dã ngoại, ngoại khóa nếu tiến hành tốt bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc và cảm hứng mãnh liệt cho học sinh khi tiếp xúc với các tác phẩm. Tùy theo điều kiện của nhà trường, giáo viên có thể tổ chức các hình thức câu lạc bộ thơ, thi viết bình thơ, thi đọc diễn cảm… cũng là những hình thức bổ trợ tốt năng lực cảm thụ văn thơ cho học sinh.

4. Kiểm tra – chấm bài :

Khi ra bài kiểm tra phần thơ, giáo viên cần chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu khai thác nghệ thuật để làm rõ nội dung tác phẩm, tránh ra đề kiểu “Phân tích bài thơ A” Hay “Bình giảng tác phẩm B” dễ tạo cho các em cách làm bài chung chung đại khái. Cần uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong học sinh như chép bài văn mẫu, rập khuôn bài giảng của thầy. Biểu dương những bài làm tốt, suy nghĩ sáng tạo, có cảm xúc, dấu ấn riêng của học sinh, kể cả những cách hiểu chưa đúng nhưng chứng tỏ học sinh có suy nghĩ cảm xúc thật sự vẫn phải trân trọng thành quả của các em. Bảo đảm việc phân hóa trình độ học sinh và nâng cao chất lượng, có thể cho bài làm về nhà, sau đó giới thiệu một số cách phân tích, cảm thụ độc đáo tiêu biểu để các em tham khảo, yêu cầu học sinh đọc và tự làm bài. Khi chấm bài, cần lọc ra những bài rập khuôn, chép mẫu, yêu cầu làm lại. Có như vậy mới tránh cho các em thói quen ỷ lại vào tài liệu có sẵn, các lần kiểm tra sau sẽ biết thực chất học sinh hơn. Giờ trả bài cần chú trọng rèn luyện năng lực diễn đạt, sửa mẫu một số đoạn phân tích bình giảng tiêu biểu cũng giúp các em ý thức hơn về phương pháp làm bài phân tích bình giảng thơ.

IV. ĐÔI ĐIỀU RÚT TỈA :

1. Trên đây là những nhận xét và biện pháp tôi đã tiến hành để nâng cao chất lượng giờ giảng thơ và bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ nói riêng, cảm thụ văn chương nói chung cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy có những thành công và thất bại, tôi đã rút ra những điều tâm đắc để trao đổi cùng đồng nghiệp. Với biện pháp đã tiến hành, những học trò trong lớp dạy của tôi những năm qua đã quan tâm hơn đến giờ Văn và có hứng thú trong quá trình học thơ, cảm thơ. Trên cơ sở đó, từ những lớp bình thường có thể lọc ra những em có năng khiếu và say mê thực sự với môn Văn để bồi dưỡng nâng cao. Có em là học sinh trung bình môn Văn ở cấp THCS đã trở thành học sinh giỏi Văn cấp tỉnh dự thi toàn quốc (năm học 97 - 98). Nhiều em vào đội tuyển dự thi cấp tỉnh và đạt giải (ở trường Trưng Vương).

5

Page 6: Nâng cao năng lực cảm thụ thơ

2. Từ khi dạy học sinh trường chuyên Lê Quý Đôn, tôi có điều kiện áp dụng tốt hơn những biện pháp đã nêu đối với học sinh các lớp chuyên và không chuyên. Kết quả là phần lớn các em đều có hứng thú học tập hơn và đạt tỷ lệ điểm khá giỏi cao, ngay cả những học sinh chuyên các môn tự nhiên cũng có nhiều em cảm thụ rất tốt.

3. Tất nhiên, những suy nghĩ của cá nhân tôi không khỏi có những khiếm khuyết và có những biện pháp khó thực hiện trong điều kiện hiện nay. Nhưng với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Văn, xin được trao đổi rộng rãi với đồng nghiệp và rất mong được các thầy cô lâu năm trong nghề, các đồng nghiệp tận tình chỉ bảo góp ý.

Quy Nhơn, ngày 27 tháng 2 năm 2002

Người viết

Trần Hà Nam

(Bài đăng trong Kỷ yếu Hội nghị bồi dưỡng học sinh giỏi 2003 - Bộ Giáo dục Đào tạo)

6