Next Step 2014 presentation by Kusum Mohapatra from Magic Bus India Foundation
MỘT TIỂU SỬ NGẮN GỌN CỦA ĐỨC ORGYEN KUSUM …lienhoaquang.org/files/MOT TIEU SU NGAN...
Transcript of MỘT TIỂU SỬ NGẮN GỌN CỦA ĐỨC ORGYEN KUSUM …lienhoaquang.org/files/MOT TIEU SU NGAN...
1
MỘT TIỂU SỬ NGẮN GỌN CỦA
ĐỨC ORGYEN KUSUM LINGPA
của Rikdzin Namnang Dorje
Chökyi Nyima (Richard Barron) dịch sang
Anh ngữ từ Tiếng Tây Tạng
2
Orgyen Kusum Lingpa
(1934-26/2/2009)
Thân tướng kim cương của ngài là thân tướng
chói lọi dữ dội của Kim Cương Hung nộ Vĩ đại
[Kim Cương Thủ].
Vị hộ trì những bí mật kim cương, tiếng cười kim
cương của ngài vang dội từ xa.
Ngài là một vầng mây kim cương, thấm đẫm
trạng thái không thể hủy diệt của tâm kim
cương,
3
trị vì như vương miện của giác tánh bất biến vô
tận của mọi đấng chiến thắng.
Tôi xin nói về sự vĩ đại của vị Đạo sư các giáo
lý này. Ngài đã xuất hiện như một phần của
mạng lưới thần diệu của giác tánh vô tận, vật
trang sức không mệt mỏi và phát triển liên tục
của thân, ngữ và tâm giác ngộ của tất cả các
đấng chiến thắng. Ngài là một chuyển luân
thánh vương vĩ đại trong những vị có thành tựu
tâm linh và không thể ly cách với Đức Liên Hoa
Sanh, Đức Phật thứ hai. Đạo sư Orgyen
Kusum Lingpa linh thánh và tôn quý của chúng
ta, người cũng được gọi là Padma Tumdrak
Duddul Dorje Rolpatsal, sở hữu lòng bi mẫn
siêu việt và tuyệt đối của Đức Kim Cương Trì
vương giả. Ở đây tôi chỉ có thể cung cấp một ít
giọt từ đại dương bao la tiểu sử của ngài, chỉ
để bảo đảm rằng chủ đề không được biết đến
một cách đầy đủ.
4
Có một đoạn tiên tri trong kho tàng ẩn dấu, hay
terma, sự trao truyền của nhà khám phá vĩ đại
các kho tàng ẩn dấu Nyima Drakpa, trong đó nói:
“Ở miền bắc xứ Achakdru, trong một gia đình
của những người thực hành Kim Cương thừa,
ngày nay ngài sẽ là tái sinh của Lhalung Palgyi
Dorje. Sinh vào năm được gọi là ‘canh giữ sự
giàu có,’ ngài sẽ mang danh hiệu Oddiyana
[tiếng Tây Tạng là Orgyen]. Ngài sẽ có năm nốt
ruồi ở bụng. Vào năm Thìn Mộc, trong vùng
Achak, ngài sẽ khám phá kho tàng ẩn dấu của
một mạn đà la các Bổn Tôn, của chín bậc đi tới
Cực Lạc, khiến hạnh phúc và an bình sẽ tăng
trưởng trong xứ Tây Tạng và nỗi khổ của
Achakdru ở miền bắc sẽ được xua tan.” Mingyur
Namkhai Dorje, vị Dzogchen Rinpoche thứ năm,
đã tiên tri: “Một hóa thân của Kim Cương Thủ sẽ
xuất hiện vào năm được gọi là ‘canh giữ sự giàu
có,’ là một bé trai tên là Tumdrak ở phương bắc,
miền Achakdru. Sinh trong một gia đình của
5
những người khám phá kho tàng ẩn mật của Kim
Cương Thừa, ngài sẽ bừng nở như một bông
huệ tây và sau đó tự giải phóng mình như một
trận bão sấm. Ngài sẽ thiết lập một trung tâm
thực hành giáo lý Kim Cương thừa của sự ẩn
mật siêu việt trong thung lũng Ma và có những
đoàn đệ tử anh hùng, cả cư sĩ lẫn tu sĩ, bảo đảm
rằng giáo lý của Đấng Chiến Thắng nở rộ tới cực
điểm. Ngài sẽ dẫn dắt tất cả những ai có nối kết
với ngài tới Sukhavati, cõi Cực Lạc.” Từ vị
Dodrup Rinpoche tiền nhiệm cũng có một tiên tri
như sau: “Ở phía bắc của miền này, trong một
vùng được các tinh linh dạ xoa canh giữ, thuộc
tỉnh Golok, sẽ xuất hiện một vị không thể phân
biệt được với đấng bảo hộ Padmakara (Liên Hoa
Sanh), một vị mang tên của một người có năm
chùm tóc, sẽ dấn mình vào các vui thích giác
quan của thủ ấn. Ngài sẽ là bậc làm cho giáo lý
nở rộ và chúng sinh trải nghiệm hạnh phúc và an
lạc. Đoàn tùy tùng của ngài sẽ gồm cả những
6
người theo phái ‘mũ đỏ’ và ‘mũ vàng.’ Ở một môi
trường như-công viên, các gia hộ của Padma sẽ
chuyển sang ngài. Tại những nơi ngài thực
hành, các gia hộ của Ba Gốc sẽ tụ hội như
những đám mây. Mọi nỗ lực khi lễ lạy, cúng
dường, và đi nhiễu ở những nơi này sẽ cho thấy
sự thành công." Vị khám phá các kho tàng ẩn
dấu Apang Tertön đã tiên tri: “… vào thời điểm
đó, một hiển lộ của Denma Tsemang sẽ xuất
hiện ở Achakdru. Ngài sẽ may mắn quán triệt ba
câu chuyện về giáo lý kho tàng ẩn dấu. Ngài sẽ
sinh vào một năm tuất, trong gia đình các hành
giả Kim Cương thừa, và tên là Oddiyana. Nếu
ngài có thể khám phá một kho tàng ẩn dấu của
Yamantaka Văn Thù, điều này bảo đảm rằng
giáo lý của Đấng Chiến Thắng sẽ trở nên vô
cùng vĩ đại. Tất cả những ai có nối kết với ngài
sẽ được dẫn dắt tới cõi thuần tịnh Khechara, ‘sự
vui thú của không gian.’” Một tiên tri khác được
Choktsang Dotrul đưa ra: “Với sự tinh thông ba
7
kho tàng ẩn dấu, một nhà khám phá khùng điên
những kho tàng như thế sẽ xuất hiện ở
Achakdru; ngài sẽ mang tên Oddiyana và được
sinh vào một năm tuất. Tất cả những ai thiết lập
một nối kết với ngài chắc chắn sẽ được dẫn dắt
tới Padma Ö, cõi Nguyệt Quang (Ánh sáng Hoa
Sen).” Cuối cùng, trong kho tàng tiên tri ẩn dấu
của Üza Khandro, chúng ta đọc dòng sau đây:
“Một hóa thân của tâm giác ngộ Padma trong
miền Achakdru, một người con trai tên là
Oddiyana Lakshmi, người cỡi con chó gỗ (mộc
tuất), sẽ xuất hiện.”
Phù hợp với những điều này và nhiều tiên tri
khác trong các giáo lý kho tàng ẩn dấu, Orgyen
Kusum Lingpa sinh trong một bộ tộc của dòng
Apo Dong, một trong những dòng lớn nhất trong
sáu bộ tộc ban đầu của Tây Tạng. Dòng dõi gia
đình ngài được gọi là Walshul, được coi là nhánh
tuyệt hảo nhất trong mười tám nhánh mà bộ tộc
Dong được phân chia. Cha ngài là Chöngak
8
Lhundrup Gönpo, một hiện thân của Padampa
Sanggyay xứ Ấn Độ và là một hành giả xuất sắc
mà sự ra đời của vị này đã được nhiều Đạo sư
linh thánh tiên tri. Mẹ ngài là Padma Yutso. Con
trai của hai vị sinh vào năm chó gỗ đực [19??],
được hiểu một cách bóng bảy là ‘chất thể đích
thực,’ năm thứ tám trong chu kỳ sáu mươi năm
thứ mười sáu từ sự khởi đầu của niên lịch này ở
Tây Tạng. Cậu bé sinh ra giữa nhiều dấu hiệu kỳ
diệu trên Cao nguyên Magyi Metok (Hoa Ngôn
ngữ), một vùng do vị thủ lãnh của Achakdru kiểm
soát. Khi còn ở trong bụng mẹ, cậu có một cái
nhìn trong trẻo về một cột mây trắng trải rộng
thành một ngàn nhánh với một vị Phật trên đầu
mỗi nhánh. Cậu bé nghe hàng ngàn vị Phật này
tụng hát thần chú Vajra Guru và thân cậu ướt
đẫm cảm giác hạnh phúc. Trong thời gian bảy
ngày sau khi cậu bé sinh ra, mọi người trong gia
đình đều nghe sự lặp lại tinh khôi của thần chú
9
sáu-âm [Om Mani Padme Hum], thần chú vĩ đại
nhất trong mọi thần chú.
Năm lên ba tuổi, đứa trẻ thọ nhận giới nguyện
quy y và lễ xuống tóc từ Đức Ban Thiền Lạt ma
thứ chín Chökyi Nyima vĩ đại và toàn trí. Vị này
ban cho cậu bé danh hiệu Orgyen Puntsok
Gönpo. Trong năm đó, cậu cũng nhận các gia hộ
của Tsultrim Dargyay, vị tu sĩ xứ Tra, và Đạo sư
này bảo cậu giữ danh hiệu mà Ban Thiền Lạt ma
ban cho bởi ý nghĩa vĩ đại và kiết tường của nó.
Năm lên tám tuổi, cậu bé bắt đầu việc học tập
với người chú tên là Sönam Khedrup. Cậu lập
tức có một thị kiến về việc kết hợp với một nhóm
trước sự hiện diện của Đức Di Lặc, vị Phật sắp
đến. Trong thị kiến này, vẻ lộng lẫy của các chiếc
y trắng mà chúng ta mặc rạng rỡ hơn những
chiếc y của nhiều tu sĩ tụ họp ở đó, và mọi người
biểu lộ lòng tôn kính cậu. Trong một dịp khác,
cậu bé có một linh kiến về một bảo tháp bằng
vàng, sự chói lọi của nó ngập tràn vũ trụ, và bên
10
trong nó cậu nhìn thấy Lozang Drakpa, Đức vĩ
đại Tsongkhapa, như mẫu mực của Đấng bảo
hộ Văn Thù, thân tướng của vị này chiếu rọi vẻ
huy hoàng vô song. Từ thời điểm này trở đi, đứa
trẻ hiểu biết các nghi lễ và những bản văn khác
mà cậu đã đọc mà không phải nghiên cứu
chúng. Trong vài trường hợp cậu đã trải nghiệm
các linh kiến gặp gỡ Đức Milarepa tôn quý.
Năm mười ba tuổi, cậu nhận từ Lạt ma Sönam
Khedrup thuộc bộ tộc Washul các thực hành
chuẩn bị về Giọt Tâm yếu của thời khóa
Longchenpa (Longchen Nyingtik), truyền thống
Mindroling về Đức Kim Cương Tát Đỏa, giáo
khóa liên quan đến các Bổn Tôn an bình và phẫn
nộ mang tên Giải thoát Tự nhiên của Tất cả
những người được Nối kết (Tretsay Rangdrol),
và các giáo lý về sáu trạng thái bardo.
Lozang Dorje, học giả-tu viện trưởng của Akong,
được tiên tri là dakini Yeshe Tsogyal hiển lộ
trong thân tướng của một Đạo sư tâm linh bởi
11
hai Đạo sư khác Là Chaktrul Rolpai Dorje (chính
là một hiện thân của Ngenlam Gyalwa
Chokyang) và Garlong Padma Duddul
Wangchuk Lingpa (một hiện thân của Langdro).
Chính từ Đạo sư vĩ đại Lozang Dorje này mà
Đức Kusum Lingpa đã có ý định thọ nhận cấp độ
thứ nhất của sự thọ giới tu viện, nhận các giới
nguyện của một tu sĩ dự bị. Trong dịp đó ngài có
một kinh nghiệm thiền định về việc gặp Đức Kim
Cương Thủ (Vajrapani) trong một thân tướng
bán-phẫn nộ. Vị này nói với ngài: “Việc con nhận
các y màu vàng nghệ của giải thoát cá nhân
không phải là điều tốt nhất cho con. Con là người
nên giữ lối sống của một tantrika cư sĩ. Năm con
hai mươi bảy tuổi, con sẽ thừa hưởng sự kế
thừa—sự trao truyền tâm của Đức Kim Cương
Thủ. Ô cửa dẫn tới các kho tàng ẩn dấu toàn mỹ
sẽ bật mở: sadhana guru là thực hành của tâm
giác ngộ của ba bộ Phật; các thực hành sadhana
của các Bổn Tôn được chọn lựa của chín phạm
12
vi giác tánh vô tận; giáo khóa Vajrapani vĩ đại
được nối kết với Samyak Heruka; Bánh xe giáo
khóa Lửa Đỏ của Văn Thù Yamantaka; giáo
khóa về Hayagriva và Vajravarahi tên là Sự Hợp
nhất Bình đẳng của Tất cả Chư Phật; ba giáo
khóa thực hành sadhana tập trung vào các thiên
nữ tôn kính Varahi, Krodhikali, và Simhamukha;
các giáo khóa liên quan đến thực hành tài bảo,
chẳng hạn như các giáo khóa của Orgyen
Norlha. Nếu con có thể mở dấu niêm phong năm
kho tàng như thế trên quy mô rộng lớn, điều này
sẽ bảo đảm là các giáo lý của Đấng Chiến Thắng
sẽ được phục hồi ở nơi chúng bị suy yếu, và như
thế đem lại một đời sống mới.”
Có lần, khi ngài đang nhìn bức tường của một
điện thờ rộng lớn, ngài nhìn thấy ở đó Đạo sư vĩ
đại Padmasambhava, “Đấng Làm Tràn ngập Vũ
trụ bằng sự Lộng lẫy” (Nangsi Zilnön), vị Thầy
này đặt chày kim cương của mình trên đầu ngài,
và sau đó ngài đạt được xác tín lớn lao trong
13
việc hiểu biết giáo lý Kinh điển và tantra (Mật
điển).
Sau đó, ngài nhận lãnh từ Akong Khenpo các
giáo lý về các thực hành chuẩn bị của Truyền
thống Giọt Tâm yếu, các Giai đoạn về Con
Đường dẫn tới Giác ngộ, luận thuyết vĩ đại Nhập
Bồ Tát Hạnh (Bodhicarya-vatara), luận giảng Ba
Cấp độ của sự Thọ giới, các giai đoạn phát triển
và thành tựu của thực hành Vajrakilaya, và
Hayagriva đen “với mớ tóc sắt,” cũng như nhiều
giáo lý của Jamyang Zhepa.
Sau đó, ngài sống ba năm tại tu viện Palyul
Dartang. Trong thời gian này ngài học với
Choktrul Jampal Gyeypai Dorje, vị này ban cho
ngài giáo lý về tất cả các giáo khóa của Ratna
Lingpa, các Giáo lý Không gian (Namchö), sự
Hợp nhất Ý hướng Giác ngộ (Gongdü), Jatsön
Nyingpo, Longsal Nyingpo, và những giáo lý
khác, cũng như các giáo khóa như Giọt Tâm yếu
và ba trao truyền chính yếu của Tám Mệnh lệnh
14
(Kagyay). Từ Dongön Tulku Karma Jikme
Chökyi Sengge, ngài thọ nhận các giáo huấn
chín muồi về Đại Ấn và nhiều giáo lý về các
trường phái Zhije và Chöd. Sau đó Jedro Önpo
Lozang Namdak dạy ngài các giáo lý tổng quát
về Giọt Tâm yếu của Chetsun (Chetsun Nyingtik)
và Giọt Tâm yếu của các giáo khóa Longchenpa,
và đặc biệt là trong một trao truyền một-sang-
một, vị Thầy này ban cho ngài bản văn có tựa đề
là Guru Giác tánh Vô tận (Yeshe Lama), giáo
khóa Ý hướng Giác ngộ Không bị Chướng ngại
(Gongpa Zangtal), và các giáo lý về cách tiếp
cận “cắt đứt sự vững chắc” (trekchö) từ Giọt
Tâm yếu Sâu xa của Vimalamitra (Bima
Nyingtik) và Giọt Tâm yếu của Dakini (Khandro
Nyingtik), cả hai giáo lý này từ các giáo khóa tên
là Bốn Giáo lý Cao cấp về Giọt Tâm yếu
(Nyingtik Yabzhi). Ngài cũng nghiên cứu nhiều
giáo lý từ truyền thống Sakya về triết học Trung
Đạo (Madhyamaka), văn học Sự Viên mãn của
15
Trí tuệ (Prajnaparamita, Bát Nhã Ba La Mật), các
siêu hình học trong Kho tàng các Giáo lý Cao
cấp (Abhidharmakosha), giới luật và đạo đức tu
viện, và luận lý học. Trong ba năm sống tại
Palyul Dartang, ngài cũng nhận các giáo khóa về
con đường phương tiện thiện xảo, các yoga về
kinh mạch và năng lực vi tế, từ các kho tàng ẩn
dấu được Sangyay Lingpa khám phá, và các giai
đoạn phát triển và thành tựu từ Giáo lý Thiêng
liêng của Giọt Tâm yếu của Hóa Thân (Damchö
Tulkui Nyingtik) do Ratna Lingpa khám phá.
Thêm vào đó, ngài đã học với Dodrup Rikdzin
Jalü Dorje, thọ nhận vô số quán đảnh, các trao
truyền kinh điển, và các giáo huấn, bao gồm Bốn
Giáo lý Cao cấp về Giọt Tâm yếu; Hai Tiết mục;
Tinh túy các Mật nhiệm (Guhyagarbha Tantra),
các yoga về kinh mạch và năng lực vi tế đối với
Giọt Tâm yếu theo các khẩu truyền của dòng
Dodrup; các giáo khóa về các giai đoạn phát
triển và thành tựu đối với các thực hành tập trung
16
về Ba Gốc; các giáo khóa về tâm, sự phát triển,
và truyền dạy trực tiếp trong Đại viên mãn là các
kho tàng ẩn dấu do Jamyang Khyentsei Wangpo
khám phá; các bản văn tuyển tập của Kongtrul
Yöntan Gyatso; các giáo khóa về các giai đoạn
phát triển và thành tựu đối với các thực hành và
giáo khóa về Sáu Giáo lý của Naropa. Hài lòng
với đệ tử, Đức Dodrup Rikdzin ban cho ngài
danh hiệu Padma Tumdrak Duddul Dorje
Rolpatsal và tỏ ra tán dương ngài khi tiên tri về
tương lai của ngài.
Từ Đức Dodrup Tupten Trinlay Palzangpo, ngài
thọ nhận toàn bộ trao truyền về Kho tàng các
Kho tàng Ẩn dấu Quý báu (Rinchen Terdzö),
cũng như nhiều kho tàng ẩn dấu khác không tìm
thấy trong tuyển tập này. Chakhung Terchen
Kunzang Nyima ban cho ngài toàn bộ giáo khóa
được gọi là Kho tàng Ẩn dấu Mới (Tersar), và từ
các giáo lý kho tàng do chính mình khám phá,
Wura Tertön Sangdak Duddul Dorje đã ban cho
17
ngài thực hành sadhana tập trung vào Ba Gốc
và đặc biệt là nhiều giáo huấn về Phạm trù Rộng
lớn (Longde). Kusum Lingpa đã nghiên cứu Một
Trăm Ngàn Tinh thông về Thần chú Mani (Mani
Kabum), Nhập Bồ Tát Hạnh, Tóm tắt việc Tu tập
(Shikshasamucchaya), và những giáo lý khác về
Kinh điển và Mật điển với Mani Lama Padma
Siddhi. Puru Lama Kunzang đã chỉ dạy sâu rộng
cho ngài nhiều giáo lý sâu xa như bản văn Đại
Viên mãn Ba Câu Kệ Đánh vào các Điểm Trọng
yếu (Tsiksum Naydek). Từ một vị Thầy tên là
Chamdo Gyara Tulku, ngài nhận các trao truyền
“Năm Luận thuyết của Di Lặc” và các Mật điển
như các tantra của Chakrasamvara,
Guhyasamaja, và Vajrabhairava. Và từ Gojo
Ratri Tertön, cũng được gọi là Tertön Jangchup
Dorje, ngài nhận một trao truyền một-truyền-một
gồm các quán đảnh, giáo lý, và các giáo huấn
truyền dạy trực tiếp giáo khóa sâu xa về kho tàng
mục đích giác ngộ ẩn giấu của vị Thầy đó, một
18
giáo khóa tập trung vào Yamantaka Văn Thù và
vị được gọi là Chiến thắng Mọi Ác ý (Dukpa
Kunjom).
Sau đó ngài du hành đến Lhasa, ở đó ngài sống
khoảng ba năm tại một học viện thuộc Sera
Tekchen Chöling. Trong khi ở đó ngài nghiên
cứu năm pho sách lớn về các bản văn gốc và
luận giảng với những vị Thầy như đại học giả và
tu viện trưởng Khenchen Jamyang Choklay
Namgyal; việc nghiên cứu của ngài bao gồm triết
học Trung Đạo, văn học Trí tuệ Viên mãn,
abhidharma (Luận tạng), quy tắc ứng xử và đạo
lý, luận lý, và những chủ đề khác. Ngài cũng thọ
nhận các quán đảnh và trao truyền Kinh điển
trong nhiều khóa Mật điển, chẳng hạn như
Phương diện Mật nhiệm Tuyệt đối của
Hayagriva (Tamdrin Yangsang) và
Chakrasamvara vinh quang. Trong các bài diễn
thuyết mùa đông về các tác phẩm của Jamyang
Zhepa, ngài học với các học giả trao truyền cho
19
ngài Mười sáu Phạm vi (Tigle Chödruk) của phái
Kadampa và nhiều giáo lý được gọi là giáo lý
vàng đã được trao truyền trong xu thế của dòng
Sakya. Ngài cũng có cơ hội học với Đức Đạt Lai
Lạt Ma thứ mười bốn Tenzin Gyatso, từ vị Thầy
này ngài thọ nhận thiện tâm của nhiều giáo lý
sâu xa, của các quán đảnh và trao truyền Kinh
điển đối với những Bổn Tôn như hình tướng
Jinasagara của Đức Quán Thế Âm và hình
tướng Khechari của Đức Vajrayogini. Từ Minling
Chung Rinpoche, ngài đã thọ nhận truyền thống
Mindroling về Vajrasattva, và nhận từ
Ngakchang Rinpoche của phái Sakya các quán
đảnh, các trao truyền Kinh điển, và giáo lý về các
giai đoạn phát triển và thành tựu đối với
Khechari theo truyền thống Ghantapada.
Kusum Lingpa, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và
Hungkar Dorje Rinpoche
Ngài cũng gặp Đức Ban Thiền Lạt ma thứ mười
Chökyi Gyaltsen, nhờ thiện tâm của vị Thầy này,
20
ngài đã nhận những giáo lý như Một trăm Bổn
Tôn của Cõi trời Đâu suất (Gaden Lhagyama) và
các trao truyền thân tướng sáu tay của Bổn Tôn
bảo hộ Mahakala. Trong số các vị Thầy khác mà
ngài may mắn được học tập có: Dzongsar
Khyentse; Dilgo Khyentse; vị hộ trì ngai vàng của
Tu viện Gaden; Karmapa thứ mười sáu Rigpai
Dorje; Ahang Tertön; Tsangdrup Jampa
Chödzin; Dongön Lama Mönlam Zangpo;
Jonang Lama Rinchen Dargyay; Khenpo Sang-
ngak xứ Lamkho; Sharö Lama Tsultrim
Namgyal; Dungkar Ngedön Gyatso; Tulku Dorje
Dradul; Katok Siti; Moktrul Jikdral Choklay
Namgyal; Hóa Thân Dzogchen thứ sáu;
Drupwang Padma Norbu [Đức Penor Rinpoche];
Tulku Do-ngak Nyima; Gyangwa Maday;
Tsepche Tulku Rinchen Drakpa; Ma Rinpoche
thuộc phái Taklung; Đức Adrak Lama Nangsel
Namkha Gyaltsen; Patrul xứ Tso; và nhiều vị
khác.
21
Tổng cộng, Đức Kusum Lingpa đã học với
khoảng một trăm năm mươi Lạt ma của mọi
truờng phái không phân biệt xu hướng, thọ nhận
một đại dương giáo lý thực sự về Kinh điển và
Mật điển là suối nguồn của mười dòng học giả
và tám dòng hướng về sự thực hành trong Xứ
Tuyết. Đặc biệt là ngài đã nhận các quán đảnh
chín muồi, các giáo lý giải thoát, và những trao
truyền Kinh điển hỗ trợ đối với tất cả giáo lý—
những truyền dạy lịch sử (kama), các kho tàng
ẩn dấu (terma), và các thị kiến thanh tịnh (dag-
nang)—thuộc trường phái dịch thuật lúc ban đầu
của Nyingma, chúng xuống tới chúng ta nhờ
thiện tâm của học giả và tu viện trưởng
Shantarakshita, Đạo sư Padmakara (Liên Hoa
Sanh), và vị vua tâm linh Trisong Detsen, và đã
được trao truyền từ miệng đến tai bởi một triệu
Đạo sư học giả và thành tựu. Trong việc học tập
và lắng nghe giáo lý, ngài không chỉ du hành tới
bến bờ xa xăm của đại dương này; ngài cũng
22
đưa sự thiền định và thực hành tâm linh của ngài
tới mức độ tràn đầy, giải thoát dòng tâm thức
của mình qua sự chứng ngộ và sau đó giải thoát
dòng tâm thức của chúng sinh qua lòng bi mẫn,
làm chủ những phẩm tính vô tận của ba bí mật
là thân, ngữ và tâm.
Từ năm mười bảy tuổi cho tới nay, ngài đã viếng
thăm Lhasa khoảng năm lần, và đã lập các
chuyến hành hương để viếng thăm mọi tu viện
chính và phụ và mọi thánh địa trong ba miền ở
phía tây Tây Tạng và bốn khu của các tỉnh trung
tâm Ü và Tsang. Tại những thánh địa này, ngài
đã dấn mình vào rất nhiều thực hành tâm linh. Ở
Trung quốc, hướng bắc của quê hương ngài,
ngài đã viếng thăm Ngũ Đài Sơn, Bắc Kinh, Núi
Voi Chồm, Thành phố Ngát Hương, và tất cả
những thánh địa chính yếu, cũng như hơn mười
trung tâm tu viện chính yếu. Tương tự, ngài đã
tới nhiều trung tâm tu viện ở các tỉnh Kham và
Amdo ở miền đông Tây Tạng—ba trung tâm
23
Katok, Palyul, và Dzogchen, bốn trung tâm tu
viện chính yếu ở các thảo nguyên phía bắc, và
những nơi khác. Ở những nơi đó, ngài đã thực
hiện những lễ lạy và kinh hành, tiến hành các
thực hành tâm linh, và bảo đảm lợi lạc cho chúng
sinh trên bình diện rộng lớn bởi sự khám phá các
kho tàng ẩn dấu của ngài. Từ đỉnh cao nhất của
Núi Kailash chạm đến bầu trời ở miền tây Tây
Tạng, cho tới các cao độ thấp nhất nơi những
con sông hùng vĩ đổ vào các đại dương vĩ đại,
ngài đã chuyển Pháp luân đến một phạm vi rộng
lớn, giảng dạy vô số người thuộc các chủng tộc,
văn hóa và ngôn ngữ khác nhau và chăm sóc họ
bằng những hoạt động giác ngộ của ngài, khiến
cho tên ngài lừng danh khắp mười phương.
Đối với các biểu thị của sự thành tựu tâm linh
của ngài, tôi đã ghi nhớ các linh kiến ngài đã có
trước khi ra đời và khi học đọc và viết, vì thế
không cần phải lập lại. Trong một dịp khác, khi
mười bảy tuổi, ngài đang viếng thăm điện thờ
24
huyền diệu Mingyur Lhundrup tại Samye, và ở
đó ngài đã nhớ lại những đời trước, khi dòng tâm
thức của ngài hóa thân là đại thành tựu giả Ấn
Độ vĩ đại Ghantapada và ở Tây Tạng ngài là
dakini Yeshe Tsogyal, Lanchen Palgyi Sengge,
người sao chép bản thảo Dangma Tsemang,
dịch giả, và những vị khác. Ngài đã có thể nhớ
lại nhiều sự kiện từ những đời trước này, chẳng
hạn như khi ngài được Guru Padmakara dẫn
dắt, khi ngài mời nhiều học giả và thành tựu giả
từ Phật giáo Ấn Độ, và khi [là Lhalung Palgyi
Dorje] ngài đã ám sát vua Tây Tạng xấu ác
Langdharma bằng cách bắn ông ta bằng một
mũi tên. Chính khi ở Samye, ngài cũng có một
linh kiến thiền định về một cung điện bằng lửa
cháy rực trên bầu trời, trong đó vị Thầy Zhönnu
Pawo Topden an trụ, ban cho ngài các gia hộ và
quán đảnh; thêm vào đó, vị Thầy đưa ra điềm
báo về việc giao phó các kho tàng ẩn dấu cho
25
ngài. Ngài đã viết lại một bản ghi chép về tất cả
những gì diễn ra trong kinh nghiệm này.
Trong một dịp khác khi ngài du hành đến
Makhok, một nhân vật giống như sadhu Ấn Độ
dường như chẳng xuất hiện ở nơi đâu và ban
cho ngài một thần chú về Đức Kim Cương Thủ
làm ngưng lại sương giá, mưa đá, và mưa. Một
lần khác, ngài mơ thấy mười ba con rồng vàng
vui mừng nhảy lên giữa một dải mây trắng; ngài
leo lên chúng để tới một ngôi chùa Phật giáo
khổng lồ có một ngọn tháp vàng tuyệt đẹp. Trong
một giấc mơ khác ngài nhìn thấy dakini Yeshe
Tsogyal, thân bà bị che khuất một nửa giữa một
dải mây trắng, bà tịnh hóa ngài bằng một nghi lễ
tắm gội. Ngài cũng mơ thấy kinh nghiệm khó
chịu về mọi vị trời và quỷ ma của ba ngàn vũ trụ
chia sẻ thịt ngài, và sau đó đại thành tựu giả
Tangtong Gyalpo nắm tay ngài dẫn đi và ngài tới
điện heruka trong cõi Oddiyana, ở đó một số lớn
các bản văn được ban cho ngài. Ở rừng Doyi
26
Aru gần tu viện Drupchen, ngài mơ được gặp
Longchen Rabjam, thân tướng của vị này tràn
ngập bầu trời, và từ bầu trời một trận mưa nhiều
bản văn Phật giáo rơi xuống bàn tay ngài.
Đạo sư linh thánh này thực hiện bốn loại hoạt
động giác ngộ mà không bị trở ngại, bởi Ba Gốc
và các vị bảo vệ ràng buộc-lời thề đi theo ngài
như một cái bóng theo sau thân thể loại bỏ nó.
Có nhiều tường thuật về cách ngài cung cấp sự
bảo vệ và quy y cho những người hộ trì samaya,
hay làm thế nào ngài trừng phạt những người vi
phạm samaya, nhưng vào lúc này ngài không
cho phép ghi lại những điều đó. Tuy nhiên, có
những tường thuật rất nổi tiếng về việc ngài làm
đổ mưa tại Lhundrup Teng trong miền Derge; về
việc ngài nuôi một con rồng màu lam ngọc từ đất
trong thung lũng Shingnak tại quê nhà của ngài;
về việc ngài làm sống lại một ông lão ở Sendrong
tên là Chimay Dorje, người đã chết vì bệnh hủi,
chỉ bằng cách chạm tay ngài vào thi thể. Ngài
27
cũng đã chữa lành mười người cùi và mười
ngàn người bệnh bằng cách sử dụng thực hành
Vajrapani từ việc khám phá kho tàng ẩn dấu của
riêng ngài, đem lại kết quả mà mọi người đều có
thể nhìn thấy. Trong việc cải tạo hợp tác xã của
Trung quốc, ngài đã lo liệu cho các gia đình di
dời thoát khỏi nguy hiểm. Những người thông
minh có thể tìm hiểu bản chất các hoạt động của
ngài, chúng được biểu thị bằng sự kiện là ngày
nay tên ngài trở nên nổi tiếng khắp mọi nơi.
Các giai đoạn hoạt động xuất sắc khác của ngài
bao gồm những việc cúng dường pho tượng
Đức Phật trong thánh đường chính ở Lhasa—
hai khối vàng để làm mũ miện, hai ngàn bảy trăm
yuan gấm thêu kim tuyến may áo choàng, và
năm trăm tiêu chuẩn bơ để cúng dường đèn. Đối
với pho tượng Phật tên là Mikyö Dorje, ngài cúng
dường các áo choàng trị giá một ngàn yuan. Tại
tu viện Drepung Drayang Ling, ngài đã đặt mua
một pho tượng Guru Rinpoche lớn bằng đồng và
28
vàng. Ngài đã cúng dường hai ngàn năm trăm
yuan để hỗ trợ các dự án tại Tu viện Dodrak.
Ngài đã cúng dường trà cho các cộng đồng tổng
quát gồm các tu sĩ tại ba đại tu viện Sera, Gaden
và Drepung, cũng như tại chính Lhasa. Tương
tự, ngài đã bảo trợ các dự án và thiết lập những
mối quan hệ tại tất cả các trung tâm tu viện chính
yếu của tỉnh trung ương Ü và các tỉnh miền đông
thuộc Amdo và Kham, cũng như tại Trung quốc.
Khi gặp Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ mười, Kusum
Lingpa cúng dường một chiếc khăn lụa trắng
đẹp, sau đó là một lễ cúng dường mạn đà la rộng
lớn. Đức Ban Thiền Rinpoche hài lòng và dành
một thời gian dài để trò chuyện với ngài về các
đề tài tâm linh, sau đó trao tặng Kusum Lingpa
các chiếc y của vị Ban Thiền tiền nhiệm, cũng
như hình ảnh của mình và một lá thư riêng;
những món này vẫn được lưu giữ như những
vật lưu niệm tại tu viện của Kusum Lingpa.
29
Thực ra, trong hơn một trăm năm mươi năm, tu
viện của của Đức Kusum Lingpa là một trại gồm
những chiếc lều nỉ đen di chuyển từ nơi này sang
nơi khác. Điều này có những lý do: các cư dân
của vùng Golok Akyong này là những người du
mục sống trong cộng đồng những chiếc lều như
thế, và vì thế họ luôn luôn di chuyển. Theo lịch
sử địa phương, cũng thường xuyên xảy ra sự đe
dọa từ việc xâm lăng của các bộ tộc Mông Cổ,
khiến người ta không thể thiết lập bất kỳ địa điểm
cố định nào cho tu viện. Lối sống du mục này là
do bởi nhiều hoàn cảnh như thế, cả ngoại tại lẫn
nội tại. Giờ đây các điều kiện trong phần đất của
thế giới này đã cải thiện, thịnh vượng vật chất đã
phát triển, các giáo lý của Đấng Chiến Thắng
đang nở rộ, và hạnh phúc cùng sự an bình của
mọi người đang phát triển. Do bởi nhiều điều
kiện như thế ở các mức độ ngoài, trong và bí
mật, một nền tảng kiên cố hơn để xây dựng một
tu viện đã tụ hội cùng một lúc, với sự cho phép
30
của các nhà cầm quyền và hai tích tập công đức
và giác tánh về phía người sùng mộ ước mong
bảo trợ một công việc như thế. Dự án xây cất
một địa điểm cố định cho tu viện này đã bắt đầu
năm hổ lửa [199??]. Từ thời gian đó cho đến
nay, chỉ khoảng năm năm rưỡi đã trôi qua, tuy
thế nhờ tác dụng thần diệu của động lực của
ngài, trong thời gian ngắn ngủi này trung tâm tu
viện đã trỗi dậy như một lực lượng rất đáng ngạc
nhiên và có quy mô rộng lớn trên mọi lãnh vực
ngoài, trong, và bí mật. Rõ ràng đối với mọi
người, sự thành tựu như thế chỉ có thể được
thực hiện bởi các năng lực phi thường và kỳ diệu
của chư Phật và Bồ Tát, không nhờ sức lực của
những người bình thường. Tiến trình này được
hỗ trợ bởi sự kiện là tất cả các Lạt ma và tulku—
mọi người với bất kỳ địa vị quyền thế nào trong
tu viện—mọi người đã làm việc cùng nhau như
một, trong sự hòa hợp và không lãng phí một
ngày. Thêm nữa, không ai được quyền “thoát
31
khỏi gánh nặng” và không từng có lợi lạc riêng
tư, tham ô, hay xuyên tạc trong việc tạo nên sự
hỗ trợ cho dự án xây dựng. Đúng hơn, các phẩm
tính vĩ đại của Lạt ma này đã hấp dẫn sự quan
tâm của những người ủng hộ giống như những
con ong kéo tới một bông hoa thơm ngát; những
người đã có thể cúng dường những con ngựa
và bò, trong khi những người khác không thể
cúng dường kim và chỉ, bảo đảm rằng sự hỗ trợ
cho nhiệm vụ tâm linh này đã tăng trưởng như
một vầng trăng tròn dần. Những cư dân địa
phương tin tưởng nơi ngài đã hiến dâng để
mang lại sự hỗ trợ hiện tại, trong khi những
người khác từ xa hơn, khắp ba tỉnh Amdo, Ling,
và Kham, đã chứng minh là đáng tin cậy như
cách các sự vật phát triển trong các tháng mùa
hạ, khiến ngài không cần phải gắng gượng dựa
trên một ít người có thể không kiên định và nịnh
hót với những phô bày nông cạn về sự hỗ trợ.
Ngài cũng vượt xa các cách thức mà ngày nay
32
những cá nhân nào đó có địa vị cao trọng sử
dụng mọi vật cúng dường rơi vào tay mình, dù
từ người sống hay nhân danh người chết, và cất
dấu những thứ này dưới những tấm nệm trong
nhà, không dùng những món cúng dường này
như dự định mà sử dụng chúng cho con cái hay
các cháu trai ưa thích, hay bảo đảm rằng các
bạn gái trẻ trung của họ có những món trang sức
tuyệt đẹp. Trong một phương cách ít gặp, ta có
thể có niềm tin rằng tất cả những món cúng
dường lọt vào tay ngài được hoàn toàn sử dụng
như một phương tiện vinh danh Tam Bảo hay
mang lại hạnh phúc và lợi lạc cho chúng sinh.
Trong một nguồn cảm hứng tương tự, ngài khéo
léo trong lý thuyết và khi áp dụng thực tiễn của
truyền thống y học Phật giáo, và đã đặc biệt nỗ
lực làm việc với những người khốn khổ bởi bệnh
phong, ma nhập, và những chứng rối loạn tâm
thần khác nhau. Ngài nổi danh về sự rộng lượng
trong việc làm khuây khỏa nỗi đau đớn và lo âu
33
đối với vô số bệnh nhân, không từng đòi hỏi tiền
thù lao cho những việc phụng sự của mình. Ngài
cũng hoàn toàn hiến mình cho sự chăm sóc dài
hạn, cả vật chất lẫn tâm linh, của tất cả những
người già nua và nghèo khó mà bản thân họ
không có của cải và không được trông nom
chăm sóc. Bằng chứng hiển nhiên là ngài hoàn
thành vô số phương cách trong đó các Bồ Tát,
những đứa con của các đấng chiến thắng, dấn
mình vào những hoạt động giác ngộ. Hãy cho
phép những người có đôi mắt tìm kiếm chính
mình, và tôi cảm thấy chắc chắn là họ sẽ nhận
ra rằng sự hiện diện của ngài trong những cảnh
giới tâm linh và xã hội thì hoàn toàn không thiếu
đức hạnh.
Orgyen Kusum Lingpa tại Golok, 2007
Thêm vào đó, Đức Kusum Lingpa chịu trách
nhiệm xây dựng và điều chỉnh mọi số lượng dinh
thự dành cho việc giảng dạy tâm linh, thực hành,
và các hoạt động liên quan. Những việc này bao
34
gồm hội trường tụ họp lớn Tukpo Köpa (“Cõi
Thuần tịnh của Hàng ngũ Dày đặc”); trung tâm
nhập thất Kusum Podrang (“Cung điện Ba
Thân”); con đường kinh hành chính yếu Ngöngai
Temkay (“Cầu thang lên Cõi Hỉ lạc Hiển lộ”); bảo
tháp Tongdrol Chenmo (“Đại Bảo tháp Mang lại
Giải thoát khi Nhìn thấy”); trụ xứ của Lạt ma
được gọi là Shambhala Podrang (”Cung điện Cõi
Thuần tịnh Shambhala Podrang”); trung tâm y
học Dragong Dupai Gatsal (“Khu rừng Tụ hội các
Nhà Tiên tri”); trung tâm chăm sóc người hấp hối
và thua thiệt tên là Pendai Norbui Kyeytsal
(“Công viên Châu báu của sự Lợi lạc và Hạnh
phúc”); và một trung tâm dành cho các nghiên
cứu thế tục Riknay Podrang (“Cung điện Các
Lãnh vực Hiểu biết”). Nhưng trên thực tế, việc
liệt kê mọi dự án như thế cũng sẽ khiến cho bản
báo cáo này trở nên quá dài dòng. Những người
có thể ước muốn có được một ý thức lớn lao hơn
về phạm vi công việc của ngài nên tham khảo
35
tiểu luận riêng biệt của tôi về đề tài này. Điều này
sẽ đủ mang lại cho ta một ý niệm về những hoạt
động vĩ đại và giác ngộ của Đạo sư này.
Bây giờ tôi xin đưa ra một cái nhìn khái quát về
các giáo lý kho tàng ẩn dấu do Đức Kusum
Lingpa khám phá. Trong phạm vi rộng lớn được
gọi là Phạm trù Giáo lý từ Kho tàng Không gian
(Namkha Dzökyi Chöday), một “kho tàng tâm”
được khám phá qua mục đích giác ngộ ẩn dấu
là những giáo khóa thực hành liên hệ với mức
độ cao cấp nhất của thần chú, là cấp độ của
anuttarayoga, hay sự hợp nhất vô song. Trong
tác phẩm rộng lớn này, được dựa trên Tantra
Tâm Giác ngộ: Giọt Tâm yếu của Padma, ta tìm
thấy những giáo lý sau đây:
(1) một quyển sách lớn có tựa đề Những Khối
Lửa Khải huyền, một thực hành tập trung vào ba
phương diện phẫn nộ của Guru Rinpoche—
Hayagriva, Vajrapani và Garuda
36
(2) một quyển sách thực hành tập trung vào
Vajrapani (Kim Cương Thủ), các giáo khóa theo
thân tướng Atsarya và thân tướng Drangsong
Tsoje của Bổn Tôn này
(3) một quyển sách thực hành tập trung vào
những Bổn Tôn như Khechari Vajrayogini, hình
thức bảo hộ trắng của Chakrasamvara, các vị
bảo hộ Citipati, khía cạnh hoạt động của
Yamantaka, thiên nữ Tara, và v.v..
(4) một quyển sách bao gồm một buổi lễ nhằm
tôn vinh Đức Tsongkhapa, Giọt Tinh túy của
Tâm Giác ngộ (một nghi lễ tập trung vào Di Lặc),
Chuỗi Ánh sáng (một nghi lễ tập trung vào Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni), và Cây Như ý (một nghi
lễ để quán tưởng tám Đại Bồ Tát)
(5) một quyển sách bao gồm Con Sông Ngọc
bích Tuôn chảy (một giáo khóa thực hành tập
trung vào đức Phật Dược Sư), quán đảnh sinh
lực và sự trao truyền mệnh lệnh tâm linh tập
37
trung vào tám Như Lai, và một buổi lễ để sám
hối các giới nguyện bị gãy bể
(6) một quyển sách thực hành tài bảo tập trung
vào Bổn Tôn tài bảo Orgyen Norlha
(7) hai quyển sách thực hành về các Bổn Tôn
của Tám Mệnh lệnh và giai đoạn phát triển để
đạt được Chín Phạm vi của Giác tánh Vô tận
(8) hai quyển sách tập trung vào Chakjya Zilnön,
thân tướng mạnh mẽ áp đảo tượng trưng của
Đức Văn Thù Yamantaka
(9) năm quyển sách bao gồm khóa các giáo lý
về Hayagriva và Vajravarahi mang tên Sự Hợp
nhất Bình đẳng của Tất cả chư Phật và giáo
khóa của Hayagriva vô cùng mạnh mẽ, Bổn Tôn
ngữ giác ngộ của Padma
(10) một quyển sách về một khóa giáo lý tập
trung vào Đức Vajrakilaya
(11) một quyển sách giáo lý tập trung vào tantra
Chuỗi Ảo ảnh Thần diệu và thân tướng của Đức
Quán Thế Âm được gọi là Amoghapasha
38
(12) một quyển sách về một khóa giáo lý tập
trung vào Đức Tara cao quý
(13) một quyển sách về các thực hành để đạt
Nút Vô tận (sadhana của tâm dành cho các vị hộ
trì giác tánh nội tại) và giáo khóa thực hành tập
trung vào thiên nữ đen Krodhi
(14) một quyển sách về các sadhana Guru thứ
yếu tập trung vào các nhân vật như Đức
Milarepa, Tangtong Gyalpo, Pachik Dampa
Sanggyay, Đạo sư Vajrapani (Kim Cương Thủ),
Đạo sư Manjushri (Văn Thù), Đạo sư
Avalokiteshvara (Quán Thế Âm), Đạo sư
Maitreya (Di Lặc), và những vị khác
(15) một quyển sách bao gồm một giáo khóa về
các thực hành sadhana và các kỹ thuật làm trẻ
trung tập trung vào Đức bảo hộ Di Lặc, một
sadhana về sự thịnh vượng tập trung vào Đức
Di Lặc, một sadhana Đạo sư tập trung vào Đức
Tsongkhapa, và những thực hành khác
39
(16) một quyển sách gồm các thực hành khẩn
cầu hoạt động của các Bổn Tôn bảo hộ và các
tinh linh địa phương, chẳng hạn như giáo khóa
sadhana thực hành tập trung vào mười hai chị
em tenma bảo vệ Tây Tạng
(17) một quyển sách về các giáo lý như Tiên tri
Các Tượng trưng Thần diệu Tiết lộ Ẩn dụ (tường
thuật của Kusum Lingpa về linh kiến riêng của
ngài về việc du hành đến Shambhala), các Trò
chuyện Bí mật của các Dakini (một tường thuật
của tám vị hộ trì vĩ đại của giác tánh nội tại ở Ấn
Độ), và những quyển khác
(18) một quyển sách về các bài ca của ngài,
chẳng hạn như Bài Ca Không Giả tạo và Tự
nhiên của Anh hùng (một bài ca về quan điểm
của Đại viên mãn), một bài ca tán thán địa điểm
nhập thất tên là “Cung điện của các vị Trời,” và
v.v..
(19) một quyển sách về lời khuyên dạy riêng tư,
chẳng hạn như tác phẩm có tên khôi hài Giữ
40
chặt Con Bọ Chét bằng Ngón tay Tôi, Giai điệu
của Anh hùng (một bài ca tự nhiên để khuyến
khích người tên là Kalzang Losel Zhönnu thực
hành Phật Pháp) và những tác phẩm khác.
Thêm vào đó, có nhiều tác phẩm phụ và khóa
giáo lý được sáng tác để đáp ứng các khẩn cầu
đặc biệt của nhiều cá nhân, chẳng hạn như Giọt
của các Dakini về Không gian Căn bản (một cẩm
nang minh họa về việc làm các món cúng dường
torma), các Giai điệu Kim Cương (một cẩm nang
chú giải âm nhạc về các nghi lễ tập trung vào Ba
Gốc) và có thể còn có những tác phẩm tương tự.
Tổng cộng, tính đến nay có khoảng hai mươi lăm
quyển sách trong tuyển tập của ngài. Vị đạo sư
này đã luôn luôn ban tặng sự bảo đảm riêng của
ngài rằng từ lúc ngài còn là một đứa trẻ được
nuôi bằng bầu ngực của người mẹ cho tới hiện
tại, ngài đã không ngừng có những linh kiến về
Đức Mật nhiệm Kim Cương Thủ (Vajrapani) vinh
quang. Dù chỉ một chốc lát, ngài không bao giờ
41
xa lìa Đức Kim Cương Thủ, đấng dẫn dắt ngài,
nói những lời tiên tri, ban các quán đảnh, khám
phá các ý nghĩa giác ngộ, và trong những cách
thế khác, dấn mình vào một tiến trình liên tục các
hoạt động giác ngộ. Điều này có nghĩa là ngài
thực sự là một vị hộ trì siêu việt kho tàng bí mật
gồm ngữ giác ngộ của tất cả các đấng chiến
thắng, và không thể liệt kê một cách chính xác
các giáo lý tạo thành ngữ giác ngộ của ngài. Mặc
dù thế, tôi đã cung cấp một tường trình gồm một
ít giáo lý đã đến tay chúng ta như những người
được điều phục bởi những giáo lý đó, và sẽ hoàn
toàn thích đáng để thêm vào những giáo lý như
thế khi đưa ra ánh sáng trong tương lai.
Trong số những đệ tử chính yếu của Đức Kusum
Lingpa, sau đây là những vị vừa là Thầy vừa là
đệ tử của ngài, hay những vị giữ gìn giáo lý hoặc
ở một phương cách nào đó, là những vị lỗi lạc
nhất trong các đệ tử của ngài: Akong Khenpo
Lozang Dorje; Katok Moktsa Jikdral Choklay
42
Namgyal; Lhapzo Lama Damchö; Choktrul
Nyida; Katok Lama Lhunli; Dora Lama Lochö;
Jonang Lama Lodrak; Tokgi Lama Padtse;
Sanglung Tulku Kalzang Dorje; Wangdai
Gyangtrul Döndrop Dorje; Dibar Chöjay Loyak
Tulku; Choktrul Garwang Nyima; Khenpo Zhilii
Tendzin Zangpo; Gyalsay Padma Tsewang;
Mukyang Khenpo Lozang Tsultrim; Kirtii Geshay
Takrang Könchok; Amo Lama Wangrap;
Khangsar Dazer; Dzogchen Khenpo Tsering
Nyima; Lama Paldrak; Dodrup Khenpo
Ngaksher; Ragyai Lama Khyenrap Gyatso;
Derge Pewar Tulku; Rekong Kyaplo; Tulku
Godey; Barchung Sangdrak; Mukyang Tuden;
Durbü Ngawang Rikdzin; Chung Opo; Katok
Khenpo Padma Chöjor; Chyaktsa Tulku; và
nhiều vị khác, đa số các ngài là những vị canh
giữ các giáo khóa khám phá kho tàng ẩn dấu của
Kusum Lingpa. Đối với những đệ tử có một nối
kết tâm linh qua việc thỉnh cầu giáo lý, tôi đã
43
nghe nói đến các tường thuật về nhiều ngàn Lạt
ma và tu sĩ, và khoảng một trăm ba mươi ngàn
nam nữ cư sĩ.
http://www.blazingwisdom.org/learning/read/19
5-a-brief-biography-of-his-holiness-orgyen-
kusum-lingpa
Nguyên tác: “A Brief Biography of His
Holiness Orgyen Kusum Lingpa”
của Rikdzin Namnang Dorje
Chökyi Nyima (Richard Barron) dịch sang Anh
ngữ từ tiếng Tây Tạng
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ