KHãA LUËN TèT NGHIÖPdulieu.tailieuhoctap.vn/books/kinh-doanh-tiep-thi/... · Phƣơng pháp...
Transcript of KHãA LUËN TèT NGHIÖPdulieu.tailieuhoctap.vn/books/kinh-doanh-tiep-thi/... · Phƣơng pháp...
1
Trêng ®¹i häc ngo¹i th¬ng
khoa QU¶N TRÞ KINH DOANH
chuyªn ngµnh KINH DOANH QUèC TÕ
-------***-------
KHãA LUËN TèT NGHIÖP
§Ò tµi:
Mét sè gi¶i ph¸p n©ng cao hiÖu qu¶ qu¶n trÞ
rñi ro tÝn dông doanh nghiÖp nhá vµ võa t¹i
Vietcombank thêi kú khñng ho¶ng kinh tÕ
Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn Th¶o Quúnh
Líp : Anh 4
Khãa : 44A
Gi¸o viªn híng dÉn: TS. §µo ThÞ Thu Giang
Hµ Néi, th¸ng 5/2009
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đào Thị Thu Giang, người đã tận tình hướng dẫn
tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị
thuộc Phòng Tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Sở giao dịch Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam và Phòng Chính sách tín dụng, Hội sở chính Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam đã hết sức tạo điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thảo Quỳnh
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 7
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ 8
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG DNNVV CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 9
I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DNNVV CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 9
1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 9
2 Hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại 12
3 Phân loại tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 16
4 Vai trò của tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 17
II. RỦI RO TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 18
1 Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng ngân hàng 18
2 Phân loại rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 20
3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 21
4 Những căn cứ chủ yếu xác định mức độ rủi ro tín dụng DNNVV 21
5 Hậu quả của rủi ro tín dụng 24
6 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 25
III. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 26
1 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng DNNVV 26
2 Nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 27
3 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV 27
4 Đo lường rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa 28
5 Nguyên tắc Basel về quản lý rủi ro tín dụng 31
6 Quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam 34
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DNNVV TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM 38
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT
NAM VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA
NGÂN HÀNG 38
II. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI TỪ NĂM 2008
ĐẾN NAY VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DNNVV
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 40
1 Tóm tắt diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới từ năm 2008
đến nay và những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới 40
4
2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đến hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 47
3 Một số chính sách tác động của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008
và đầu năm 2009 52
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG DNNVV TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2005 – 2008 55
1 Tổng quan về hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam 55
2 Phân tích cụ thể hoạt động tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam giai đoạn 2005 - 2008 57
3 Thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng 60
4 Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank 68
5 Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank 74
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG DNVVN TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ -
TÀI CHÍNH THẾ GIỚI 78
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA VIETCOMBANK VỀ CHÍNH SÁCH TÍN
DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN NĂM 2015 78
1 Quan điểm 78
2 Mục tiêu 80
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG DNNVV TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH
TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI 81
1 Hoàn thiện Tổ chức bộ máy cấp tín dụng & Quy trình tín dụng 81
2 Hoàn thiện các văn bản liên quan đến cấp tín dụng 84
3 Xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả 85
4 Xây dựng chính sách khách hàng 86
5 Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng 90
6 Các giải pháp phòng ngừa rủi ro 92
7 Các giải pháp hạn chế, bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro 97
8 Các giải pháp về nhân sự 100
9 Một số kiến nghị khác 101
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, thị trường tín dụng dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hết sức quan tâm. Đây là một khu vực thị
trường có nhiều tiềm năng, vừa góp phần làm tăng doanh thu lại vừa góp phần phân
tán rủi ro cho các ngân hàng. Nhận thấy rõ vai trò của phân khúc thị trường tín dụng
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tương lai, từ năm 2002 đến nay, Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam đã hết sức chú trọng đầu tư cả về nhân lực và vật lực để phát
triển mảng thị trường này.
Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới diễn ra từ nửa cuối
năm 2008 đến nay, hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam nói chung và tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt
Nam nói riêng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, biểu hiện rõ nét nhất là tỷ lệ
nợ xấu tăng cao trong năm 2008, vượt quá tỷ lệ cho phép theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước. “Làm thế nào để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế?” là một vấn đề hết sức cấp thiết đối với Vietcombank.
Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là hoạt động mà tôi dành nhiều sự
quan tâm, cùng với những kinh nghiệm thực tế có được sau thời gian ba tháng thực tập
tại Phòng Tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Sở giao dịch Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao
hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank thời kỳ
khủng hoảng kinh tế” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản như sau:
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản trị rủi ro tín
dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại.
Phân tích ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới đến
hoạt động tín dụng DNNVV tại Vietcombank và thực trạng công tác quản trị rủi ro tín
6
dụng DNNVV tại Vietcombank, từ đó đưa ra những mặt tích cực và những mặt hạn
chế của công tác quản trị này.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng
DNNVV tại Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam giai đoạn 2005 - 2008.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp nghiên cứu
thống kê, so sánh, phân tích…đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và
làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong khóa luận.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV tại
Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới.
7
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu Giải thích
CBTD Cán bộ tín dụng
CIC Credit information center (Trung tâm thông tin tín dụng)
CAR Capital Adequacy Ratio (Hệ số an toàn vốn)
CDS Credit default swaps (Hợp đồng hoán đổi tín dụng)
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
FDI Foreign Direct Investment (Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài)
FED Federal Reserve System (Cục dự trữ Liên bang Mỹ)
LSCB Lãi suất cơ bản
LSHĐ Lãi suất huy động
LSCV Lãi suất cho vay
MBS
Mortgage-backed securities (chứng khoán được đảm bảo
bằng các khoản vay thế chấp)
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
PR Public Relations (Quan hệ cộng đồng)
TCTD Tổ chức tín dụng
TRS Total return swap ( Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập)
TMCP Thương mại Cổ phần
8
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Hình Tên hình Trang
Hình 1-1 Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay 7
Hình 1-2 Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng 11
Hình 1-3 Phân loại rủi ro tín dụng 16
Hình 3-4 Quy trình của một Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (TRS) 88
Bảng Tên bảng
Bảng 2-1 Một số chỉ tiêu chủ yếu của Vietcombank từ năm 2003 – 2008 34
Bảng 2-2 Chỉ tiêu phản ánh tình hình kinh tế năm 2008 của một số quốc gia 38
Bảng 2-3 Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm từ 2003-2008 40
Bảng 2-4 Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại Việt Nam năm 2008
45
Bảng 2-5 Số liệu dư nợ tín dụng cho các DNNVV giai đoạn 2005 - 2008 52
Bảng 2-6 Nợ quá hạn 56
Bảng 2-7 Tổng hợp phân loại nợ cho các DNNVV của Vietcombank 57
Bảng 2-8 Lãi suất cho vay tại Vietcombank cuối 2008 - đầu 2009 63
Bảng 2-9 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV 68
Bảng3-10 Xếp hạng khách hàng 81
Biểu đồ Tên biểu đồ
BĐ 2-1 Tốc độ tăng trưởng GDP tại một số quốc gia trong các quý năm
2008 và cả năm 2008, 2009
39
BĐ 2-2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-2008 41
BĐ 2-3 Diễn biến các lãi suất chủ chốt tại Việt Nam trong năm 2008 42
BĐ 2-4 Biến động tỷ giá USD/VND theo tháng trong năm 2008 43
BĐ 2-5 Dư nợ cho vay đối với các DNNVV tại Vietcombank giai đoạn
2005-2008
53
BĐ 2-6 So sánh nợ quá hạn và nợ xấu trong tín dụng cho DNNVV giai
đoạn 2005-2008
58
9
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG DNNVV CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DNNVV CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thƣơng mại
1.1 Sự ra đời của ngân hàng
Ngân hàng ra đời vào khoảng năm 2000 trước công nguyên. Nhân tố quan trọng
nhất thúc đẩy sự hình thành các ngân hàng đầu tiên là việc sử dụng tiền vàng của
người nguyên thủy.
Khi hoạt động sản xuất trong xã hội nguyên thủy ngày càng phát triển và mọi
người bắt đầu có nhiều của cải dư thừa, họ đã biết dùng hàng hóa mình có được để
trao đổi với nhau. Tuy nhiên, một khó khăn nảy sinh là khi một người có gà và muốn
đổi lấy cừu thì phải tìm được đúng người có cừu và muốn đổi lấy gà. Hoạt động trao
đổi diễn ra dễ dàng hơn khi có sự xuất hiện của vàng làm vật ngang giá chung. Khi đó,
người ta có thể đổi gà lấy vàng và đem vàng đó đi đổi lấy cừu. Việc dùng vàng trong
xã hội nguyên thủy ngày càng phổ biến.
Vàng được đúc thành những đồng xu có khối lượng nhất định. Tuy vậy, vận
chuyển một khối lượng vàng lớn trên một quãng đường xa, phương tiện giao thông
chưa phát triển là một công việc khó khăn và chứa đựng nhiều rủi ro. Các chủ cửa hiệu
vàng đã nghĩ ra dịch vụ giúp người chủ sở hữu trông giữ vàng, các vật quý giá và nhận
một khoản tiền công. Thay vào đó, họ sẽ cấp cho những người chủ sở hữu vàng một
giấy chứng nhận để những người này mang đi giao dịch và có thể lấy vàng ra bất cứ
lúc nào họ muốn. Sau một thời gian, người chủ hiệu vàng nhận thấy khách hàng của
mình rất ít khi quay lại để rút vàng ra và họ đang ngồi trên một đống vàng nhàn rỗi.
Đầu óc kinh doanh của họ lại lóe lên ý tưởng sinh lời mới, đó là mang những món tiền
nhàn rỗi đó cho những người thiếu vốn vay lấy lãi. Lượng tiền trong tay họ không phải
bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có độ chênh lệch giữa lượng tiền
cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu.
10
Những hoạt động này chính là những nghiệp vụ đầu tiên cơ bản nhất của ngân
hàng nói chung là huy động vốn và cho vay vốn. Sự kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản này
đã tạo nên những ngân hàng thương mại đầu tiên.
1.2 Khái niệm ngân hàng, ngân hàng trung ương và ngân
hàng thương mại
Ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vậy mà vẫn có nhiều
sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa về ngân hàng.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Theo luật pháp của Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền
gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc
rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ
được xem là một ngân hàng. Trong Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam 1997 (bổ
sung, sửa đổi năm 2004), khái niệm ngân hàng cũng được giải thích khá rõ, theo đó
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng, bao gồm hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” [6].
Về cơ bản, nội dung của khái niệm ngân hàng quy định trong luật pháp của Mỹ và
trong Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam giống nhau ở điểm ngân hàng là nơi
nhận tiền gửi, và sau đó sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cũng như cung cấp các
dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, trong luật pháp của Mỹ có quy định rõ cho vay thương
mại cũng là một hoạt động của ngân hàng, trong khi đó ở Việt Nam đối tượng kinh
doanh của ngân hàng thường được nói đến là tiền tệ.
Trong hệ thống ngân hàng gồm có ngân hàng trung ương và ngân hàng thương
mại với các chức năng và nhiệm vụ khác nhau. “Ngân hàng trung ương là cơ quan
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và ngân hàng; là ngân hàng phát hành
tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm các dịch vụ tiền tệ cho chính phủ” [7];
“Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ
với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cho vay và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
11
Ngân hàng trung ương giữ vai trò quản lý các ngân hàng thương mại thể hiện qua
một số cách. Một, ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù
trừ của các ngân hàng thương mại. Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính
trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn
thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như đối với
những thân chủ có quan hệ mua bán với nhau và cùng có một tài khoản ở một ngân
hàng. Hai, ngân hàng trung ương quản lý các khoản dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng thương mại. Dự trữ bắt buộc là tiền mặt và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ %
tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thương mại phải
lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng mình hay kí gửi tại ngân hàng trung ương,
không được cho vay hết. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương còn thực hiện vai trò
“cứu cánh cuối cùng” khi các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng bị rút tiền ồ ạt
và không thể huy động vốn vay từ nguồn nào khác.1
1.3 Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là tổ chức chuyên nghiệp trong việc tạo lập và cung cấp các dịch vụ
quản lý tài chính cho các cá thể, hộ gia đình và các doanh nghiệp, đồng thời còn thực
hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế (xem hình 1-1).
Hình 1 - 1: Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay
1 Lê Vinh Danh (1996), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của NHTW, NXB Chính Trị Quốc Gia,
[32- 66]; GS.TS Lê Văn Tư (2004), Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
12
Nguồn: Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
Thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại. Việc
hợp nhất các dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán… dưới
một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ,
Canada và Anh; là Allginanz ở Đức; và là Bancassurance ở Pháp [12].
2 Hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thƣơng mại
2.1 Khái niệm về Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mỗi quốc gia có quy định khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với đặc
điểm tình hình kinh tế - chính trị của các quốc gia đó. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP
ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đã quy
định về việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta theo hai chỉ tiêu là vốn và
lao động: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã
hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương
trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc
một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Nghị định cũng nêu cụ thể các đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (Công ty
cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân);
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước;
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã;
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Cơ sở xác định vốn và lao động:
- Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh nghiệp đã
đăng kí với cơ quan quản lí lao động và có tham gia đóng bảo hiểm xã hội (không bao
gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc).
13
- Vốn đăng kí: đối với DNNN là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với các
doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư.
2.2 Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
nền kinh tế thị trường
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một thành phần kinh tế năng động có vị trí và vai
trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, khối doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm ưu thế trên nhiều phương diện.
DNNVV chiếm tỷ lệ cao về số lượng doanh nghiệp, về thu hút lao động và về
đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước
Do có nhiều lợi thế như: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công
ty; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí quản lý thấp, tính
năng động và tính linh hoạt cao; có khả năng thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay
đổi của người tiêu dùng… nên số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong
những năm qua phát triển khá nhanh. Theo con số thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, tính đến tháng 6/2008 nước ta có 349,305 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, trong
đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 93.96% trên tổng số doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm đóng góp khoảng 40% GDP của cả nước,
thu hút khoảng 50.13% tổng số lao động trong doanh nghiệp, vốn chiếm 28.92%,
doanh thu chiếm 22.07%, lợi nhuận chiếm 11.78% và nộp ngân sách chiếm 17.46%.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là nửa cơ giới, lao động
sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, hải sản, xây
dựng và giao thông vận tải... nên có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều việc
làm cho xã hội và tăng thu nhập bảo đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó
các doanh nghiệp lớn với kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối
với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất và sử dụng công nghệ người máy đã làm cho số
người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.
DNNVV đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa
dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được
14
Ngày nay, trong thực tế tiêu dùng xã hội có nhiều mặt hàng mà người tiêu dùng
yêu cầu về chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong
trường hợp này các doanh nghiệp lớn với dây truyền sản xuất chuyên môn hóa cao
không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô sản xuất nhỏ,
có khả năng điều chỉnh hoạt động linh hoạt nên có khả năng đáp ứng những nhu cầu
nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng.
DNNVV có thế mạnh trong lĩnh vực lưu thông phân phối sản phẩm
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng
phải thông qua mạng lưới phân phối trung gian. Công việc lưu thông phân phối hầu
hết là do các đại lý, cửa hàng thương nghiệp dịch vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận với
những ưu điểm như: phân tán rộng, vốn đầu tư nhỏ và tận dụng cơ sở hạ tầng của gia
đình sẵn có nên chi phí lưu thông thấp.
DNNVV có vai trò quan trọng trong sản xuất, chế biến hàng hóa xuất khẩu
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền thống do
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả thành phần kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến
chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc...
DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác
tiềm năng thế mạnh của từng vùng
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện có văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở
khắp mọi nơi trên lãnh thổ của đất nước, kể cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển
như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và
thế mạnh của từng vùng.
2.3 Khái niệm tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong các NHTM
Tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa được hiểu đơn giản là hoạt động tín dụng hay
các khoản tín dụng mà các ngân hàng thương mại cấp cho khách hàng là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận trong
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, được phân chia dựa trên tiêu chí là
đối tượng khách hàng.
15
Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng là: “Tín dụng là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và
bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán” [14]. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao
dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng được chuyển giao
theo hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản). Thứ hai,
xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho
người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Thứ ba,
sự hoàn trả trong quan hệ tín dụng là bắt buộc và không kèm theo bất cứ một điều kiện
nào, đó là sự hoàn trả vô điều kiện. Thứ tư, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn
giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn
gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ
lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi suất
danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát).
Hình 1 - 2: Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
2.4 Quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc
cấp tín dụng, trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ
khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là
một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn có tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất
định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Quy trình tín dụng doanh
nghiệp nhỏ và vừa là quy trình tín dụng được thiết kế riêng nhằm áp dụng cho việc cấp
16
tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nói chung, các quy trình tín
dụng đều có năm bước cơ bản giống nhau, đó là:
1. Hướng dẫn và thiết lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
2. Phân tích tín dụng
3. Quyết định tín dụng
4. Giải ngân
5. Giám sát tín dụng, thu nợ và thanh lý tín dụng.
Quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò to lớn trong việc hạn chế
và kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Một quy trình tín dụng hợp lý sẽ hướng dẫn cho các nhân viên tín dụng và các bộ phận
có liên quan thực hiện việc cho vay nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Một số vai trò
thường thấy của quy trình tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với hoạt động quản
trị của ngân hàng là: Quy trình tín dụng phân định rõ trách nhiệm của từng cá nhân,
phòng ban trong hoạt động cho vay, do đó mỗi nhân viên đều biết được trách nhiệm và
quyền hạn của mình, từ đó có thái độ đúng đắn trong công việc. Bên cạnh đó, quy
trình tín dụng giúp định hướng cho việc xây dựng mô hình tổ chức thích hợp tại ngân
hàng và công tác quản trị nhân sự tại ngân hàng sẽ được điều chỉnh kịp thời cho hợp lý
và hiệu quả nhất. Hơn nữa, một quy trình tín dụng được quy chuẩn hóa, được thiết kế
rõ ràng và thích ứng với từng nhóm khách hàng sẽ giúp cho việc giao dịch với khách
được thuận tiện, nhanh chóng, tránh những thiếu sót, nhầm lẫn, mang lại lợi ích cho cả
đôi bên. Và cuối cùng, quy trình tín dụng còn là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp tín
dụng và có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn.
Những vai trò nêu trên đã cho thấy việc thiết lập một quy trình tín dụng cẩn trọng,
khoa học và hợp lý trong hoạt động cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân
hàng là vô cùng cần thiết. Các ngân hàng đều cần đầu tư kĩ lưỡng cho việc thiết lập
quy trình tín dụng riêng của ngân hàng mình.
3 Phân loại tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tương tự như việc phân loại tín dụng ngân hàng nói chung, có nhiều căn cứ để
phân loại tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tùy theo mục đích phân loại.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn.
17
- Tín dụng trung hạn.
- Tín dụng dài hạn.
Căn cứ vào mục đích cấp tín dụng
- Tín dụng xuất khẩu.
- Tín dụng nhập khẩu.
Ngoài ra, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa còn được phân loại theo phương pháp
hoàn trả và theo khả năng bao tín dụng.
4 Vai trò của tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
tuy là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng lại chiếm giữ một vai trò quan trọng cho sự
phát triển của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam, tín dụng
là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển
dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có
xu hướng giảm xuống và thu nhập từ dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ
tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập ngân hàng. Bởi vậy, các ngân hàng luôn
muốn tìm mọi biện pháp nhằm tăng nguồn thu từ tín dụng đồng thời đảm bảo giảm
thiểu hóa rủi ro. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một lực lượng đông đảo trong nền
kinh tế, là một thành phần kinh tế năng động và đang phát triển với tốc độ rất nhanh
chóng. Do vậy, thị trường tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là một thị trường tín dụng
giàu tiềm năng. Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ giúp cho các
ngân hàng tăng doanh thu từ tín dụng mà đồng thời sự đa dạng hóa về khách hàng sẽ
giúp ngân hàng phân tán và hạn chế rủi ro, rất phù hợp với mục tiêu của ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng ngân hàng cũng có vai trò
rất to lớn đối với sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa thể hiện ở bốn điểm sau:
Thứ nhất, tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp để duy trì liên tục quá trình sản xuất đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh
tế. Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó kích thích tiết kiệm và cũng là
phương tiện cho đầu tư phát triển, thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất xã hội.
Thứ hai, tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, thúc đẩy
sự chuyên môn hóa và tăng cường quy mô hoạt động của các doanh nghiệp. Hoạt động
18
của các ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, trên cơ sở đó cho
vay các đơn vị tạm thời thiếu vốn. Bởi vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện
vay được nguồn vốn lớn từ ngân hàng để đầu tư chuyên môn hóa sản xuất.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát
triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Với các ngành kinh tế mũi nhọn được ưu tiên phát
triển, Nhà nước thu hút tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo điều kiện
phát triển các ngành khác.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở
hoàn trả và có lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích các doanh nghiệp
sử dụng vốn có hiệu quả, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện
nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
II. RỦI RO TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1 Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng ngân hàng
Rủi ro (trong hoạt động ngân hàng) là những biến cố không mong đợi khi xảy ra
dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến
hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài
chính nhất định. Trong các hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng đem lại nhiều lợi
nhuận nhất nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Các thống kê và nghiên
cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng.
Trong tài liệu “Measuring local government credit risk and improving
creditworthiness”, George E. Peterson định nghĩa rủi ro tín dụng là khi người đi vay
không thanh toán đủ và đúng hạn các khoản nợ. Mức độ rủi ro phụ thuộc vào quy mô
khoản nợ và thời gian chậm trả nợ. Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) – tổ chức này hàng năm đều bỏ phiếu xếp hạng để phân hạng rủi ro
tín dụng của các nước – thì rủi ro tín dụng là rủi ro mà trong đó một bên của hợp đồng
tài chính không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện các điều khoản và bởi
vậy bên kia phải chịu thiệt hại. Các trung gian tài chính là nơi khách hàng gửi tiền
nên khách hàng đánh giá về năng lực tài chính của các trung gian này thông qua kết
quả giám sát rủi ro tín dụng của họ được thể hiện trên các thông số tài chính, ví dụ
như lấy các khoản cho vay không hiệu quả chia cho tổng các khoản cho vay. Còn tại
19
khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, rủi
ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết.
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các nội
dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau: Rủi ro tín dụng là khi người vay sai hẹn
(default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn và/ hoặc lãi. Sự
sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed payment) hoặc không thanh toán (nonpayment); Rủi
ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị
trường của vốn, trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao
hơn có thể dẫn đến phá sản; Đối với các nước đang phát triển, các ngân hàng thiếu đa
dạng trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, vì
vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu, thậm chí gần như là duy nhất, đặc
biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ quyết định đến
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng; Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân
hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ
vọng càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn); Rủi ro là yếu tố khách quan nên người ta
không thể loại trừ hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng
như tác hại do chúng gây ra.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất. Điều này có
nghĩa là một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn
thất. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao
nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ
động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi
rủi ro xảy ra.
20
2 Phân loại rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
tùy theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu. Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro,
rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau đây:
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa mà
nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho
vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên
quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, lựa chọn phương án vay vốn để
quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn
đảm bảo như mức cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo); rủi ro nghiệp vụ
(rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả
việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề).
Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại (xuất
phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế)
và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách
hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại
hình cho vay có rủi ro cao).
Hình 1 - 3: Phân loại rủi ro tín dụng
Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro thì
rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi
ro chủ quan. Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai,
địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất
21
thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro
chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô
tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu quả,
nhận biết các đặc điểm của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có
những đặc điểm cơ bản sau:
Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển
giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng gặp
tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; Hay nói cách khác những rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng
của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa
dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặc trưng
ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa và xử lý
rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất
và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Rủi ro tín dụng có tính tất yếu, tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng
không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện, điều này làm cho bất
cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực
chất là kinh doanh rủi ro ở mức độ phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
4 Những căn cứ chủ yếu xác định mức độ rủi ro tín dụng DNNVV
Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa người ta
dùng các chỉ tiêu: tổng dư nợ, nợ quá hạn và kết quả phân loại nợ.
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu tổng dư nợ được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay
doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng trong một kỳ (một năm) là bao nhiêu.
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép
và không đủ tiêu chuẩn để được gia hạn nợ.
22
Dư nợ quá hạn
Hệ số nợ quá hạn = ------------------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các ngân hàng thương mại thường chia nợ quá hạn
thành các nhóm sau:
- Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi
- Nợ quá hạn từ 181- 360 ngày, có khả năng thu hồi
- Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi).
Phân loại nợ
Cách phân loại dư nợ tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tuân thủ quy định của
Ngân hàng Nhà nước theo nội dung Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại dư nợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa thành 5 nhóm như sau:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá có khả năng thu hồi đầy
đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời
hạn còn lại;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 1 theo quy định.
Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả
năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2 theo quy định.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
thanh toán lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
23
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo quy định.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lần
thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5 theo quy định.
Bên cạnh đó, quy định này cũng nêu rõ thời gian thử thách để thăng hạng nợ (ví dụ
từ nhóm 2 lên nhóm 1…) là 6 tháng đối với khoản nợ trung dài hạn và 3 tháng đối với
khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày khách hàng trả đầy đủ gốc và lãi của khoản vay bị quá
hạn hoặc khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Và toàn bộ dư nợ của khách hàng tại
các tổ chức tín dụng được phân vào cùng một nhóm nợ, ví dụ: khách hàng có hai khoản
nợ trở lên tại cùng một tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào được phân vào
nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ còn lại thì toàn bộ các khoản nợ còn lại của khách
hàng phải được tổ chức tín dụng phân vào nhóm nợ có độ rủi ro cao nhất đó.
Nợ xấu (hay các tên gọi khác như nợ có vấn đề, nợ khó đòi…) là các khoản nợ
thuộc các nhóm 3, 4 và 5 và có các đặc trưng sau: Khách hàng không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã đến hạn; Tình hình tài chính của khách
hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu được đầy đủ
gốc và lãi; Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ để trang trải nợ
gốc và lãi; Thông thường là những khoản nợ đã được gia hạn nợ, hoặc những khoản
nợ quá hạn trên 90 ngày.
24
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ----------------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu dưới 5% được coi là nằm trong giới hạn cho
phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá tỷ lệ 5% thì tổ chức đó cần phải xem xét, rà soát lại
danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chỉ tiết và thận trọng hơn.
5 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng có
thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia, thậm chí có thể lan rộng trên phạm vi toàn cầu.
Đối với ngân hàng bị rủi ro: Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí)
làm cho nguồn vốn ngân hàng bị thất thoát, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền
lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút, thậm chí nếu trầm trọng
hơn thì có thể bị phá sản.
Đối với hệ thống ngân hàng: Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có
liên quan đến hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền
kinh tế. Do vậy nếu một ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất
khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu
các ngân hàng và các bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của
Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người
gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng thương mại làm cho các ngân
hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Đối với nền kinh tế: Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh
thu hút và bơm tiền cho nền kinh tế, vì vậy rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân
hàng sẽ làm cho nền kinh tế rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng trệ, mất
bình ổn về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng, tình hình an
ninh chính trị bất ổn.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại: Ảnh hưởng lớn của rủi ro có thể làm ảnh hưởng
đến vị thế và hình ảnh của hệ thống ngân hàng – tài chính quốc gia cũng như toàn bộ
nền kinh tế của quốc gia đó.
25
6 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác hoạt động ngân
hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm thiệt hại. Có 3 nhóm
nguyên nhân cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa sau đây:
Những nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Đây là những nguyên nhân mang tính chủ quan đối với ngân hàng, ngân hàng có
thể chủ động khắc phục những nguyên nhân này nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi
ro của mình, nhưng một thực tế là nó vẫn tồn tại khá phổ biến.
Nguyên nhân thường gặp là chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, quá
nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung
nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.
Bên cạnh đó, do sự cạnh tranh gay gắt, các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng, thị
phần cao hơn ngân hàng khác nên cho vay, đầu tư ồ ạt và không chú trọng đến chất
lượng tín dụng.
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ, thiếu am hiểu thị trường, thiếu
thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ cũng dẫn đến việc ra quyết định cho
vay và đầu tư không hợp lý. Nghiêm trọng hơn, cán bộ tín dụng không tuân thủ chính
sách tín dụng, không chấp hành đúng quy trình cho vay, vi phạm đạo đức kinh doanh,
gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng.
Cuối cùng, việc định giá tài sản đảm bảo không chính xác gây ra rủi ro đối với
việc thu hồi vốn vay. Nguyên nhân có thể do khách hàng không thực hiện đầy đủ các
thủ tục pháp lý cần thiết hoặc do cán bộ tín dụng không tuân thủ các nguyên tắc của tài
sản đảm bảo là: dễ định giá; dễ chuyển nhượng quyền sở hữu; dễ tiêu thụ.
Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
Bất kỳ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro vỡ nợ từ phía khách hàng. Khả
năng không trả được nợ của khách hàng đến từ nhiều nguyên nhân mà cán bộ tín dụng
có thể đề phòng trước ngay từ khi chưa cấp tín dụng và cả trong quá trình giải ngân.
Một điều mà các cán bộ tín dụng cần cẩn trọng khi cho vay đó là khách hàng vay
vốn thiếu năng lực pháp lý, khách hàng không đủ thẩm quyền để đi vay. Sau khi tiếp
nhận vốn vay, việc khách hàng sử dụng vốn vay này sai mục đích, kém hiệu quả sẽ có
26
ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. Nếu khách hàng thường
xuyên kinh doanh thua lỗ, hàng hóa không tiêu thụ được thì cũng sẽ không có khả
năng trả nợ; khách hàng có năng lực quản lý vốn không tốt, quản lý vốn không hợp lý
sẽ dẫn đến thiếu thanh khoản. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng phải đi kiện để đòi
lại vốn vay, thường gặp nhất là khi doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành,
tham ô, lừa đảo. Việc mất đoàn kết trong nội bộ Hội đồng quản trị, ban điều hành của
doanh nghiệp cũng gây ảnh hưởng đến việc khách hàng trả nợ cho ngân hàng.
Các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường bên ngoài
Các nguyên nhân liên quan đến môi trường bên ngoài luôn có tác động không nhỏ
đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Các yếu tố ảnh hưởng này có thể là: do thiên
tai, dịch bệnh, hỏa hoạn; do tình hình an ninh trong nước, trong khu vực bất ổn; do
khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc
tế, tỷ giá hối đoái biến động bất thường; do môi trường pháp lý không thuận lợi, quá
thắt chặt hoặc quá lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.
III. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng DNNVV
Để hạn chế rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng phải có các biện
pháp để thực hiện tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải quyết hậu quả của rủi ro.
Đầu tiên, ngân hàng phải đề ra phương án nhằm dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn,
bao gồm phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi
đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng, giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế
các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng. Đây là quá trình logic chặt chẽ,
do đó cần có quản trị để đảm bảo tính thống nhất.
Việc phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, các cán bộ lãnh đạo
ngân hàng. Tuy nhiên, trong ngân hàng, các nhân viên có suy nghĩ và hành động khác
nhau, có thể trái ngược hoặc cản trở nhau. Vì vậy, cần phải có quản trị để mọi người
hành động một cách thống nhất.
Như vậy, công tác quản trị rủi ro tín dụng rất cần thiết trong việc hạn chế rủi ro,
giúp ngân hàng đề ra những mục tiêu cụ thể để ngân hàng đi đúng hướng và xây dựng
các kế hoạch hành động chi tiết, có hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra.
27
2 Nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để công việc hạn chế rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt hiệu quả, công
tác quản trị rủi ro cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Hoạch định phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro. Phương hướng
nhằm vào dự đoán xác định rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào, nguyên
nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả ra sao.
- Tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra những mục tiêu cụ thể
cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp nhận được.
- Thực hiện xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát phòng chống
rủi ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những công cụ kỹ
thuật phòng chống, xử lý rủi ro và nghiêm túc giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra.
- Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng
chống rủi ro đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện giao
dịch, đánh giá hiệu quả công tác phòng chống rủi ro trên cơ sở đó đề nghị các biện
pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro.
3 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV
Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận là mục đích cao nhất của một ngân hàng, do vậy mọi biện pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng đều vì mục đích nâng cao lợi nhuận. Công
tác quản trị rủi ro càng hiệu quả, lợi nhuận thu được sẽ càng tăng trưởng mạnh và bền
vững. Hiệu quả của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa được
thể hiện trên chỉ số tương đối và chỉ số tuyệt đối về lợi nhuận thu được từ tín dụng:
Lợi nhuận năm n
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận = (-------------------------------- - 1) x 100%
Lợi nhuận năm (n-1)
Mức tăng lợi nhuận = Lợi nhuận năm n – Lợi nhuận năm (n-1)
Chất lượng tín dụng của ngân hàng
Công tác quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp hoặc có biểu hiện đi
xuống chứng tỏ việc quản trị rủi ro của ngân hàng chưa được tốt. Chất lượng tín dụng
28
của ngân hàng được đánh giá thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu (xem cách xác
định tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu trong chương I, mục II.4). Các tỷ lệ này càng cao
thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém và ngược lại.
Hai tiêu chí này có mối liên hệ mật thiết với nhau và thường biến động cùng
chiều. Nếu chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp sẽ làm tăng các khoản trích lập dự
phòng rủi ro, làm tăng chi phí và dẫn đến lợi nhuận giảm.
4 Đo lƣờng rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro và vì vậy, tất
cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường rủi ro. Do đó, cần
thiết phải có một khái niệm rủi ro theo quan điểm lượng và phải xây dựng công cụ để
đo lường nó.
Các mô hình đánh giá rủi ro là công cụ vô cùng hữu ích trong quản trị rủi ro tín
dụng, bởi nó hỗ trợ cho tất cả các yêu cầu mà nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín
dụng đề ra. Tổ chức tín dụng có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi
ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng, bao gồm các mô hình định lượng và mô hình
định tính. Khóa luận xin giới thiệu một số mô hình thường được sử dụng sau đây:
4.1 Mô hình định tính về rủi ro tín dụng – Mô hình
6C
Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có
thiện chí và khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên
quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh – 6C” của khách hàng bao gồm:
Tư cách người vay (Character): cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người vay
có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ vay.
Năng lực của người vay (Capacity): người đi vay phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự, người đi vay phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp
và có đủ thẩm quyền đi vay.
Thu nhập của người vay (Cashflow): cán bộ tín dụng phải xác định rõ ràng các
nguồn trả nợ của khách hàng vay.
Bảo đảm tiền vay (Collateral): là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho
ngân hàng.
29
Các điều kiện (Conditions): ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách
tín dụng trong từng thời kỳ.
Kiểm soát (Control): đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp đến
quy chế hoạt động của các ngân hàng và đánh giá khả năng khách hàng đáp ứng
các tiêu chuẩn của ngân hàng.
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là
sự phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo
cũng như trình độ phân tích, đánh giá của cán bộ tín dụng.
4.2 Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng. Hiện
nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại hơn, đó
là lượng hóa rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng
thường được sử dụng nhiều nhất khi xét tín dụng cho các doanh nghiệp:
4.2.1 Mô hình điểm số Z (của Altman)
Mô hình này phụ thuộc vào: (i) chỉ số các yếu tố tài chính của người vay – X; (ii)
tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay
trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”.
X2: tỷ số “lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”.
X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản”.
X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, khi trị số Z thấp hoặc
là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng đi vay vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1.81: Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
1.81 < Z <2.99: Không xác định được.
Z > 2.99: Khách hàng hầu như không có khả năng vỡ nợ.
30
Bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi
ro tín dụng cao.
Ưu điểm của mô hình này là kỹ thuật đo lường rủi ro được sử dụng tương đối đơn
giản. Tuy nhiên, mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro
và không có rủi ro trong khi thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách
hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến mức mất
hoàn toàn cả vốn và lãi của khoản vay. Hơn nữa, không có lý do thuyết phục để chứng
minh rằng các thông số phản ánh tầm quan trọng của các chỉ số X trong công thức là
bất biến. Tương tự như vậy, bản thân các chỉ số X được chọn cũng không phải là bất
biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính
đang thay đổi liên tục. Mô hình cũng không tính đến một số nhân tố khó định lượng
nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay
(danh tiếng của khách hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay
các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế…).
4.2.2 Mô hình xếp hạng tín nhiệm
Hiện nay, theo khuyến khích của Ngân hàng Thế giới (WB) và theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam đã thuê các
công ty kiểm toán có uy tín xây dựng phần mềm xếp hạng tín dụng nội bộ cho ngân
hàng của mình, dựa trên các tiêu chí về tài chính và phi tài chính để xếp loại các khách
hàng là doanh nghiệp. Mô hình này thường sử dụng 7-12 hạng mục, mỗi hạng mục
được cho điểm từ 1-10.
Mô hình có ưu điểm là đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan của cán bộ tín dụng
trong quá trình cho vay, giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng và khắc phục
được một số nhược điểm của mô hình điểm số Z như: phân hạng được rủi ro của tín
dụng theo mức độ rủi ro; tính đến các các nhân tố khó định lượng (phi tài chính).
Nhưng hạn chế là việc xây dụng mô hình này khá tốn kém, mặt khác các yếu tố được
đưa ra làm tiêu chí vẫn chưa đủ linh hoạt để có thể tự điều chỉnh một cách nhanh
chóng nhằm thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.
4.2.3 Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor’s
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng
trái phiếu và khoản cho vay, trong đó Moody và Standard & Poor là những công ty
31
cung cấp dịch vụ này tốt nhất. Moody và Standard & Poor xếp hạng trái phiếu và
khoản cho vay theo 9 hạng theo chất lượng giảm dần, trong đó 4 hạng đầu ngân hàng
nên cho vay, còn các hạng sau thì không nên đầu tư, cho vay.
Tóm lại, việc một ngân hàng áp dụng phương thức nào để đánh giá xác suất rủi ro
của người vay, yêu cầu định giá các khoản vay hoặc khoản nợ chính xác đến đâu phụ
thuộc vào quy mô của khoản vay và chi phí thu thập thông tin. Các yếu tố liên quan
đến quyết định cho vay bao gồm:
Nhóm các yếu tố liên quan đến người vay vốn
Uy tín của khách hàng: thể hiện qua lịch sử vay trả của khách hàng. Nếu trong
suốt quá trình đi vay, khách hàng luôn trả đủ và đúng hạn sẽ tạo được lòng tin.
Cơ cấu vốn của khách hàng: thể hiện thông qua tỷ số giữa vốn huy động/vốn tự
có. Nếu tỷ lệ càng cao thì xác suất rủi ro càng lớn.
Mức độ biến động của thu nhập: với bất kỳ cơ cấu vốn nào, thu nhập sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ của người vay. Chính vì vậy, thường các công ty có
lịch sử thu nhập ổn định thường xuyên lâu dài sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
Tài sản đảm bảo: là điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay nào
nhằm khuyến khích việc sử dụng vốn có hiệu quả đồng thời nâng cao trách nhiệm của
khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng.
Nhóm các yếu tố liên quan đến thị trường:
Chu kỳ kinh tế: chu kỳ kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng cần phân tích chu kỳ kinh tế nhằm lựa
chọn quyết định đúng thời điểm và nên đầu tư vào ngành nào có mức độ rủi ro thấp.
Mức lãi suất: mức lãi suất cao là biểu hiện kết quả của chính sách thắt chặt tiền tệ,
thường gắn với mức độ rủi ro cao. Nguyên nhân là do giá vốn quá đắt nên nhà đầu tư
thường bị hấp dẫn bởi những dự án nhiều lợi nhuận, mà lợi nhuận càng cao thì độ rủi
ro càng lớn.
5 Nguyên tắc Basel về quản lý rủi ro tín dụng
Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng là một ủy ban bao gồm các chuyên gia giám
sát hoạt động ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc Ngân hàng
Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển,
32
Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại thành phố Basel (Thụy Sĩ).
Quan điểm của Ủy ban Basel: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc
gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe dọa đến sự ổn định về tài chính
trong cả nội bộ quốc gia đó. Vì vậy nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính là điều
mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel không chỉ bó hẹp hoạt động trong phạm vi
các nước thành viên mà mở rộng mối liên hệ với các chuyên gia trên toàn cầu và ban
hành 2 ấn phẩm:
- Những nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân hàng một
cách hiệu quả (hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực về biện pháp thận trọng).
- Tài liệu hướng dẫn (được cập nhật định kỳ) với các khuyến cáo, các hướng
dẫn và tiêu chuẩn của Ủy ban Basel.
Như vậy từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về thanh tra và
giám sát ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ngày nay đã trở thành cơ
quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế công nhận. Ủy
ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các
nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt
động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung này, Ủy
ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi
ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt
động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban
Tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng này và phát triển các chính
sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt
động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác
định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là
các sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của Hội
đồng quản trị.
Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): các ngân hàng cần xác định rõ
ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng,
33
điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín
dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại
hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp
hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với
sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phận tích tín dụng và bộ phận phê duyệt
tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời cần phát
triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức nhằm đưa
ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng.
Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc
biệt cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho các
khách hàng có quan hệ.
Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên
tắc): các ngân hàng cần có hệ thống quản lý cập nhật đối với các danh mục đầu tư có
rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông tin tài chính hiện
hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô và mức độ phức tạp của
ngân hàng. Đồng thời hệ thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm soát tình hình
tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng… để phát hiện kịp thời những
khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín
dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của
ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối
với các khoản tín dụng này có thể được giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ
hoặc kết hợp cả hai bộ phận này, tùy theo quy mô và bản chất của mỗi khoản tín dụng.
Ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín
dụng trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng.
Như vậy trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một
số điểm cơ bản:
- Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín
dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như nêu rõ trách nhiệm của các bộ phận.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
34
- Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một
quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và
quản lý rủi ro tín dụng.
6 Quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các ngân hàng thƣơng
mại Việt Nam
6.1 Bộ phận cấp tín dụng
Hiện nay, xu hướng của hầu hết các ngân hàng thương mại ở Việt Nam là phân
chia hoạt động tín dụng ra làm ba khu vực riêng biệt: tín dụng tiêu dùng cho các cá
nhân và hộ gia đình, tín dụng cho các doanh nghiệp lớn và tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Sự phân chia này dựa trên điều kiện thực tế là nhu cầu tín dụng
cho từng khu vực đều đang tăng lên, mặt khác do tính đặc thù trong quản trị tín dụng
cho mỗi khu vực nên cần phải tách ra để thực hiện việc quản lý được tốt hơn.
Về cách thức tổ chức bộ phận cấp tín dụng, Ngân hàng Thế giới đã tư vấn cho các
ngân hàng thương mại Việt Nam xây dựng mô hình cấp tín dụng hiện đại gồm ba bộ
phận là: bộ phận quan hệ khách hàng, bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận quản lý nợ.
Theo mô hình này, các nghiệp vụ sẽ được chuyên môn hóa cao cho từng bộ phận.
Trong đó, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tiếp xúc với khách hàng, thu
thập thông tin về khách hàng; bộ phận thẩm định rủi ro chịu trách nhiệm phân tích,
đánh giá thông tin, đề xuất cấp tín dụng; khi khách hàng được chấp thuận cấp tín dụng,
phòng quản lý nợ sẽ thực hiện quản lý hồ sơ và giải ngân. Ưu điểm của mô hình này là
giảm thiểu cảm tính chủ quan của người thẩm định rủi ro vì không tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng; phân tách rõ trách nhiệm của từng bộ phận, qua đó dễ dàng kiểm tra,
rà soát lại các bước của quy trình cấp tín dụng.
Tuy nhiên, trong khi các ngân hàng ở nước ngoài thực hiện rất tốt mô hình này thì
ở Việt Nam việc áp dụng chưa thành công. Nguyên nhân lớn nhất là do nguồn thông
tin về khách hàng không minh bạch và thiếu chuẩn xác, không phản ánh đúng về đối
tượng cần nghiên cứu: các doanh nghiệp cung cấp thông tin không chính xác, thông tin
ngành do Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cung cấp thường có
độ trễ và không đầy đủ, giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt nên tính minh bạch về tình
hình tài chính của các doanh nghiệp không cao, kiểm toán còn thiếu chuẩn xác…
35
Vì những lý do như trên, mô hình cấp tín dụng gồm 3 bộ phận hiện mới chỉ được
triển khai ở một số ngân hàng lớn và áp dụng cho việc cấp tín dụng đối với các khách
hàng là doanh nghiệp lớn, các dự án có quy mô lớn. Hoạt động cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thường được tiến hành theo mô hình gồm 2 phòng, đó là
phòng quan hệ khách hàng và phòng quản lý nợ, trong đó bộ phận quan hệ khách hàng
thực hiện thêm nhiệm vụ phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng cho khách hàng.
6.2 Đánh giá khoản vay
Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, các ngân hàng thường sử dụng mô hình định
tính để đánh giá khoản vay từ khâu thẩm định đến việc quản lý, theo dõi, kiểm tra và
giám sát các khoản nợ vay cho cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ
thể, trong các bước của quy trình cho vay, việc đánh giá các khoản vay thường dựa
trên các yếu tố được nêu ở sau đây.
Về thẩm định cho vay
Nhìn chung các ngân hàng đều có quy định về quy trình thẩm định khoản vay bao
gồm việc thẩm định các các yếu tố cơ bản như thẩm định tính pháp lý, uy tín của
khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng…
Khi thẩm định tính pháp lý, cán bộ tín dụng sẽ phải kiểm tra tư cách pháp nhân,
năng lực pháp luật của khách hàng, tính hợp pháp của hồ sơ vay vốn, mục đích vay
vốn của khách hàng. Khách hàng đáp ứng đủ các yêu cầu về tính pháp lý là điều kiện
tiên quyết để cho vay. Ngoài ra, việc thẩm tra uy tín của khách hàng vay vốn, năng lực
quản lý điều hành của khách hàng hay là ban quản lý doanh nghiệp cũng rất quan
trọng. Việc thẩm tra này bao gồm các nhiệm vụ cụ thể như: tìm hiểu về phẩm chất đạo
đức, thiện chí, uy tín trong giao dịch, năng lực quản lý điều hành của khách hàng, hệ
thống kiểm tra – kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp. Song song với quá trình đó, cán
bộ tín dụng cần phải thẩm tra về khả năng tài chính, năng lực hoạt động của khách
hàng thông qua các chỉ số như khả năng thanh toán, tỷ trọng vốn tự có, vòng quay
hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng tài sản, tỷ suất lợi nhuận.
Phương án vay vốn có hiệu quả hay không sẽ có ảnh hưởng lớn đến khả năng trả
nợ của khách hàng. Vì vậy, cán bộ tín dụng cũng phải xét đến khả năng thực hiện
phương án kinh doanh, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, về nguồn
36
vốn tài trợ cho phương án, về tính hợp lý của mục đích vay vốn. Một nhiệm vụ nữa
cũng không kém phần quan trọng là xác định nguồn trả nợ của khách hàng và thẩm tra
về tài sản thế chấp khoản vay. Đây là các nguồn giúp ngân hàng có thể thu hồi vốn
vay. Nguồn thu mà khách hàng dự kiến dùng để thanh toán nợ gốc và lãi cần phải ổn
định cũng như tài sản thế chấp phải thuộc sở hữu hợp pháp của người vay, dễ chuyển
nhượng, dễ bán, không bị hao mòn vô hình.
Về kiểm tra tín dụng
Các nguyên tắc chung nhất về kiểm tra tín dụng đang được áp dụng tại các ngân
hàng là: tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định; xây dựng kế
hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra thận trọng và chi tiết, cụ thể là:
Ngân hàng thường xuyên kiểm tra kế hoạch trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo
khách hàng trả nợ đúng hạn theo đúng kế hoạch. Bên cạnh đó, ngân hàng phải kiểm tra
chất lượng và các điều kiện pháp lý liên quan đến tài sản đảm bảo, gồm có tính đầy đủ,
hợp lệ của hợp đồng tín dụng và tính hợp pháp để sở hữu các tài sản khi người vay
không trả được nợ.
Theo định kỳ, ngân hàng đánh giá điều kiện tài chính và những kế hoạch kinh
doanh của người vay, trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng, đồng thời đánh giá
sự tuân thủ của khoản tín dụng đó với chính sách cho vay của ngân hàng để khách
hàng không sử dụng khoản vay sai mục đích.
Ngân hàng phải kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn vì chúng có ảnh
hưởng lớn đến tình trạng tài chính của ngân hàng, nâng cao công tác quản lý các khoản
tín dụng có vấn đề và tăng cường giám sát khi phát hiện những dấu hiệu xấu liên quan
đến khoản vay, tăng cường công tác kiểm tra các khoản tín dụng khi nền kinh tế có
nhiều hướng đi xuống hoặc khi ngành nghề cho vay có biểu hiện nghiêm trọng trong
phát triển.
Về việc xử lý các khoản tín dụng có vấn đề
Khi một khoản tín dụng trở nên có vấn đề thì cần đến sự xử lý nghiệp vụ của cán
bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải tìm ra được nguyên nhân của tín dụng có vấn đề
và hợp tác cùng khách hàng để tìm ra giải pháp để ngân hàng thu hồi vốn. Các chuyên
gia đưa ra các giải pháp thu hồi những khoản tín dụng có vấn đề như sau:
37
Cán bộ xử lý nghiệp vụ có nhiệm vụ khẩn trương khám phá và báo cáo kịp thời vấn
đề thực chất liên quan đến tín dụng. Ngay khi phát hiện thấy dấu hiệu xấu liên quan đến
khả năng trả nợ của khách hàng, cán bộ tín dụng phải tiến hành khảo sát các hoạt động
kinh doanh và các tài sản của doanh nghiệp.
Các cán bộ tín dụng cần tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi nợ và phải cân nhắc
mọi phương án có thể để hoàn thành việc thu hồi nợ có vấn đề, bao gồm cả việc thỏa
thuận gia hạn tạm thời nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn trước mắt. Các khả năng khác
là có thể bổ sung tài sản đảm bảo, yêu cầu có bảo lãnh của bên thứ ba.
38
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP
NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT
NAM VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA
NGÂN HÀNG
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam được thành lập ngày 01/04/1963.
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam là một trong những ngân hàng lớn nhất
Việt Nam, được cộng đồng tài chính trong nước và quốc tế biết đến như một ngân
hàng hoạt động lâu đời và có uy tín nhất Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
ngân hàng quốc tế. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam đến nay đã phát triển
lớn mạnh cả về quy mô và chất lượng hoạt động để tiếp tục giữ vững vị trí hàng đầu
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chủ
trương thực hiện cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước, sau 45 năm hoạt động theo
cơ chế ngân hàng thương mại quốc doanh từ 01/04/1963 cho đến 02/06/2008 Ngân
hàng Ngoại Thương Việt Nam đã chính thức chuyển sang hoạt động theo cơ chế ngân
hàng thương mại cổ phần, với tên gọi chính thức là Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Ngoại thương Việt Nam, tên giao dịch tiếng anh là Joint Stock Commercial Bank For
Foreign Trade Of Viet Nam, với thương hiệu là Vietcombank (VCB). Đến nay, hệ
thống Vietcombank bao gồm 1 sở giao dịch, 59 chi nhánh và trên 157 phòng giao dịch
tại các thành phố lớn và vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước; 3 công ty trực thuộc
(Công ty Chứng khoán, Công ty Quản lý quỹ, Công ty Cho thuê tài chính), 1 công ty
tài chính hoạt động tại Hong Kong và 3 văn phòng đại diện tại Singapore, Nga và
Pháp; góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh
bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và quỹ tín dụng; tham gia liên
doanh với 4 tổ chức tài chính nước ngoài. Vietcombank hiện có quan hệ đại lý với trên
1275 ngân hàng tại 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Vietcombank luôn duy trì vị trí hàng đầu về tài trợ thương mại với tỷ trọng thanh
toán quốc tế chiếm gần 30% tổng kim ngạch thanh toán quốc tế của cả nước.
39
Vietcombank là ngân hàng dẫn đầu thị trường về các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ,
các sản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại như thẻ, AutoBanking, VCB-
money, Internet Banking… ngân hàng hiện đang sở hữu một hệ thống máy ATM lớn
nhất Việt Nam với 1,090 máy và 5,500 POS ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. Đồng
thời Vietcombank đã hoàn thành kết nối với hơn 20 ngân hàng đại lý trong số thành
viên liên minh thẻ của Vietcombank.
Kết thúc giai đoạn 5 năm thực hiện đề án tái cơ cấu (2001 - 2005), với sự nỗ lực
tăng cường công tác kiểm soát nội bộ và quản lý, Vietcombank đã được những kết quả
rất khả quan đối với tất cả các mục tiêu đề ra. Đến 31/12/2005 Vietcombank đã cơ bản
làm sạch bảng tổng kết tài sản với việc xử lý gần 5,000 tỷ đồng nợ tồn đọng, nâng cao
năng lực tài chính đảm bảo hệ số an toàn vốn theo chuẩn quốc tế (CAR đạt trên 8%).
Năm 2008 vừa qua tiếp tục đánh dấu một năm hoạt động thành công của
Vietcombank. Đến 31/12/2008 tổng tài sản của Vietcombank đạt gần 220,000 tỷ đồng
(tương đương 13 tỷ USD), gấp 3.25 lần so với năm 2000 và gấp hơn 200 lần so với
năm 1988, vốn chủ sở hữu và các quỹ đạt trên 13,316 tỷ đồng (tương đương 784 triệu
USD) và Vietcombank cũng là ngân hàng có mức lợi nhuận cao nhất đạt hơn 3,557 tỷ
đồng lợi nhuận trước thuế (2,680 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế) cao nhất trong các
NHTM tại Việt Nam, nộp ngân sách 877 tỷ đồng. Hệ số an toàn vốn năm 2007 đạt hơn
12%, cao hơn mức yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Tỷ trọng dư nợ/huy động của
Vietcombank đạt khoảng 60% - đây cũng đồng thời là mức trung bình của ngành.
Bảng 2 - 1 Một số chỉ tiêu chủ yếu của Vietcombank từ năm 2003 – 2008
(ĐVT: Tỷ VND)
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng nguồn vốn 97,653 120,006 136,721 167,128 197,408 219,910
Dư nợ 39,630 51,773 61,044 67,743 97,532 111,643
Vốn chủ sở hữu 5,924 7,181 8,416 11,228 13,552 13,316
Lợi nhuận sau thuế 617 1,104 1,290 2,875 2,407 2,680
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2003 – 2008 của Vietcombank)
Để tăng hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng, Vietcombank đã thành lập Ban Quản lý
Rủi ro và Hội đồng Quản lý Tài sản Nợ - Tài sản Có để quản lý danh mục rủi ro của
ngân hàng với hy vọng không lặp lại một số sai lầm trong quá khứ. Giống như tất cả
40
các ngân hàng quốc doanh khác, Vietcombank đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các tổ
chức như Ngân hàng Thế giới nhằm xây dựng khung quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả.
Theo mô hình cũ, hoạt động tín dụng cho khách hàng tại Vietcombank được thực
hiện qua hai phòng, đó là Phòng tín dụng tiêu dùng (đối với khách hàng là cá nhân) và
Phòng khách hàng (đối với khách hàng là doanh nghiệp). Kể từ tháng 01/08/2007,
Phòng Tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một mô hình thí điểm được tách ra từ
Phòng khách hàng (trước đây Phòng khách hàng bao gồm tín dụng cho cả doanh
nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp lớn) trở thành một phòng độc lập và hiện nay
mới chỉ được mở ở hai địa điểm là tại Sở giao dịch và tại chi nhánh TP. Hồ Chí Minh.
Phòng Tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập từ nhận thức thực tiễn về
vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế, quy mô và đặc điểm của hoạt động tín dụng
cho các DNNVV có những nét đặc thù cần được tách ra để quản lý hiệu quả hơn.
II. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI TỪ NĂM
2008 ĐẾN NAY VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
DNNVV CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1 Tóm tắt diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới từ năm
2008 đến nay và những ảnh hƣởng của nó đến nền kinh tế thế giới
1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng2
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ năm 2008 đến nay có bắt nguồn từ
cuộc khủng hoảng thị trường bất động sản tại Mỹ vào cuối năm 2007, đầu năm 2008.
Ở Mỹ, việc các ngân hàng cho vay mua nhà rất phổ biến. Kể từ năm 2001 đến
năm 2007, thị trường cho vay mua nhà tại Mỹ diễn ra rất sôi động. Tham gia vào thị
trường này không chỉ có ngân hàng, các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản
và người đi vay mà còn có các công ty chuyên mua lại khoản vay có thế chấp, các
công ty bảo hiểm và các nhà đầu tư ở Phố Walls. Sự nhộn nhịp này đã tạo nên một
“bong bóng” trong thị trường bất động sản. Khi bong bóng “vỡ” vào cuối năm 2007,
2 Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng, Tác giả: Trần Văn Thọ: GS. Kinh tế, Đại học Waseda,
Tokyo, đang nghiên cứu ở Đại học Harvard, Cambridge; Trần Lê Anh: PGS. Kinh tế & QTKD, Đại học Lasell,
Boston.
41
có rất nhiều công ty, tập đoàn lớn trên khắp thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề. Cuộc
khủng hoảng đã lan ra khắp thế giới bắt đầu từ đầu năm 2008.
Có ba yếu tố chính tạo nên sự nhộn nhịp trong thị trường bất động sản ở Mỹ:
Thứ nhất, từ năm 2001 đến năm 2005, việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) hạ
thấp lãi suất cơ bản nhằm bình ổn nền kinh tế đã kéo theo lãi suất cho vay mua bất
động sản hạ thấp, nhà đầu tư và người dân dễ dàng hơn trong việc đi vay mua nhà.
Thứ hai, trong thời gian này, Chính phủ Mỹ khuyến khích và tạo điều kiện cho
dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Những
người dân này được vay mua nhà có thế chấp tại ngân hàng và các công ty chuyên cho
vay thế chấp bất động sản.
Thứ ba, các khoản cho vay mua nhà trên thị trường tín dụng được biến thành các
công cụ đầu tư ở Phố Walls.
Hai công ty được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac mua lại
các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại và các công ty chuyên cho vay thế
chấp bất động sản, biến chúng thành các loại “chứng khoán được bảo đảm bằng các
khoản vay thế chấp” (mortgage-backed securities - MBS) rồi bán lại cho các nhà đầu
tư ở Phố Walls. Bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư nên
thị trường tín dụng cho vay mua nhà không chỉ có các ngân hàng thương mại hoặc các
công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa, nó thu hút các nhà đầu tư và dòng
vốn từ khắp nơi trên thế giới. Các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn
như AIG, cũng tham gia bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này
được gọi là credit default swaps (CDS), với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư
MBS là trong trường hợp MBS mất giá thì sẽ được bồi thường.
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản ở Mỹ diễn ra rất nhộn nhịp. Tuy nhiên,
những nguy cơ của một “bong bóng” trong thị trường bất động sản đã xuất hiện.
Rất nhiều người có thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đi mua
nhà. Nhóm người này phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho vay dưới hình thức
lãi suất điều chỉnh theo thời gian, gọi chung là lãi suất dưới chuẩn (subprime rate). Bất
kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm
này đã tăng rất nhanh. Theo các số liệu ước tính thì tổng số tiền cho vay tăng từ 160 tỉ
USD vào năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1,300 tỉ vào năm 2007.
42
Bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay cho các công ty khác, các ngân hàng
thương mại đã mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người
vay. Việc hình thành, mua bán và bảo hiểm MBS rất phức tạp nên Chính phủ gần như
không kiểm soát được các nhà đầu tư. Các công ty bảo hiểm cũng mạnh tay hơn trong
việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình.
Do vay vốn dễ dàng nên nhu cầu mua nhà rất cao, kéo theo việc bất động sản tăng
giá liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 đến
2005. Cho rằng giá nhà sẽ tiếp tục lên, mọi người sẵn sàng mua nhà và đầu cơ bất
động sản với giá cao vì họ nghĩ rằng nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có
lãi. Do đó, “bong bóng” của thị trường bất động sản đã hình thành.
Thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006 khi FED tăng lãi
suất cơ bản để kiềm chế lạm phát. Lúc này, lãi suất cho vay mua nhà cũng tăng theo và
cường độ vay để mua nhà giảm xuống. Giá nhà giảm mạnh vì cung vượt cầu. Rất
nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ
khi lãi suất của họ bị điều chỉnh theo lãi suất hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để
trả nợ cũng không được vì giá nhà hiện tại thấp hơn so với khoản nợ. Kết quả, họ buộc
phải để cho ngân hàng trưng thu lại nhà của mình.
Ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng dẫn đến
việc trị giá của MBS giảm mạnh. MBS mất giá tức là tài sản của các nhà đầu tư cũng
mất theo. Các công ty nhận bảo hiểm MBS cũng gặp khó khăn khi phải bảo lãnh ngày
càng nhiều khoản vay xấu. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho
vay thế chấp còn giữ lại lượng lớn các khoản vay đều không có khả năng thu hồi vốn.
Đến cuối năm 2007, bong bóng thị trường bất động sản ở Mỹ thực sự “vỡ”. Hàng
loạt công ty và ngân hàng khổng lồ của Mỹ đồng loạt phá sản.
1.2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến
nền kinh tế thế giới
Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp mua nhà tại Mỹ đã lan rộng thành khủng
khoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy tình trạng nợ xấu, vỡ nợ tăng cao
khiến số lượng ngân hàng và các tập đoàn ở Mỹ và ở nhiều nền kinh tế khác bị phá sản
ngày càng tăng. Chỉ tính riêng ở Mỹ, trong năm 2008 đã có 23 ngân hàng Mỹ bị giải
43
thể, đóng cửa. Theo Standard & Poor’s, năm 2008 trên thế giới có 85 tập đoàn phá sản
thì có tới 70 tập đoàn là của Mỹ.
Những khó khăn mà các nền kinh tế trên thế giới phải đối mặt trong năm 2008 vô
cùng phức tạp, khó lường. Trong 6 tháng đầu năm, bất động sản và chứng khoán sụt
giá mạnh, trong khi đó giá dầu và giá lương thực sự tăng mạnh, cùng với những bất ổn
chính trị tại nhiều nơi trên thế giới đã gây ra áp lực lạm phát toàn cầu. Ngược lại, trong
6 tháng cuối năm, giá dầu giảm từ mức kỷ lục 147USD/thùng vào giữa tháng 7 xuống
mức thấp dưới 40 USD/thùng vào giữa tháng 12, giá lương thực cũng giảm mạnh cùng
với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao gây ra áp lực giảm phát và thiểu phát [15].
Dưới đây là một số chỉ tiêu về kinh tế trong năm 2008 của các nước: Mỹ, Nhật,
EU(15) (nhóm các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu), Trung Quốc và Việt Nam.
Bảng 2 - 2 Chỉ tiêu phản ánh tình hình kinh tế năm 2008 của một số quốc gia
(tăng trưởng GDP năm 2009 là dự đoán của IMF)
Quốc gia Tăng trƣởng GDP các quý năm 08 (%) GDP 08
(%)
GDP
09 (%)
Thất nghiệp
08 (%) Quý 1 Quý 2 Quý 3 Quý 4
Mỹ 0.9 2.8 (0.5) (3.8) 1.1 (2.6) 7.2
Nhật 0.8 (0.6) (0.1) (12.7) (0.7) (5.8) 4.4
EU (15) - (0.2) (0.2) (1.5) 0.7 (2) 7.4
Trung Quốc 10.6 10.1 9 6.8 9 6 4.2
Việt Nam 7.4 6.5 6.5 5.7 6.2 5.5 -
(Tổng hợp của tác giả từ các website của: Cafef, Vietstock, Vnexpress, Vitinfo, VCCI)
Một nền kinh tế có mức tăng trưởng âm hai quý liên tiếp được coi là rơi vào tình
trạng suy thoái. Bảng trên cho thấy tam cực kinh tế mạnh nhất của thế giới gồm Mỹ -
Nhật – EU(15) đều đã rơi vào suy thoái bắt đầu từ quý 2/2008. Đây cũng là những khu
vực phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính lần này.
Năm 2009 sẽ tiếp tục là một năm tồi tệ của nền kinh tế Mỹ với mức tăng trưởng
được dự báo là âm 2.6%. Trong năm 2008, số người thất nghiệp của Mỹ theo công bố
vào cuối tháng 12 là 2,589 triệu người, cao mức kỉ lục kể từ năm 1945.
Quý 4/2008, GDP của Nhật sụt giảm 12.7% (so với cùng kỳ năm 2007). Đây là
mức sụt giảm trầm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1974. Nền kinh tế
này còn được dự báo là sẽ đi xuống nữa trong năm 2009.
44
Kinh tế trong khu vực EU(15) đang trải qua sự suy thoái nghiêm trọng. Tình trạng
thất nghiệp tăng cao ở tất cả các quốc
gia, trong đó có cả Đức, Pháp và Italia.
Tại khu vực Đông Á và Đông Nam
Á, chịu ảnh hưởng nhiều nhất là các
nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Đài
Loan và Singapore, những nền kinh tế
có thị trường chứng khoán và tài chính
phát triển. Tại các quốc gia đang phát
triển như Trung Quốc và Việt Nam, tuy
tốc độ tăng trưởng GDP có sụt giảm
đáng kể nhưng vẫn ở mức cao. Vấn đề
nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc
là nạn thất nghiệp. Ngoài 8.9 triệu
người thất nghiệp trong nước được
công bố chính thức vào cuối tháng
12/2008, có đến 25 triệu công nhân di
dân của nước này thất nghiệp theo các
thống kê không chính thức.
1.3 Ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
đến nền kinh tế Việt Nam
So với cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam Á năm 1997, trong cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới lần này Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng hơn do đã hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 vừa phải
đối mặt và giải quyết những khó khăn nội tại: lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân
thương mại đạt mức kỷ lục (hơn 14% GDP) lại phải tiếp tục đối mặt với những diễn
biến khó lường của kinh tế thế giới.
Khủng hoảng tài chính thế giới đã có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường
chứng khoán ở Việt Nam. Nếu như trong hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển với tốc độ nhất nhì thế giới thì sang năm 2008 cũng suy giảm
Biểu đồ 2 - 1: Tốc độ tăng trƣởng GDP
tại một số quốc gia trong các quý năm
2008 và cả năm 2008, 2009
-15
-10
-5
0
5
10
15
Quý 1 Quý 2 Quý 3 Quý 4 Năm
2008
Năm
2009
Tốc độ (% )
Mỹ Nhật EU(15) Trung Quốc Việt Nam
45
mạnh nhất. VN-Index mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921.07 điểm nhưng đến
ngày 29/12/2008 chỉ là 308 điểm, bằng 1/3 so với đầu năm, đã có lúc chỉ đạt 286.85
điểm vào ngày 10/12. Mức thấp nhất của HASTC-Index trong năm 2008 là 97.61 điểm
vào ngày 27/11/2008. Cuối năm 2007, vốn hóa thị trường chiếm 40% GDP (30 tỷ
USD). Tuy nhiên cuối năm 2008, giá trị vốn hóa thị trường chỉ còn 13 tỷ USD, tương
đương 17% GDP. VN-Index mất gần 70% giá trị [20].
Tuy vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam không bị ảnh hưởng
nhiều từ cuộc khủng hoảng. Theo thống kê sơ bộ của Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế
hoạch - Đầu tư, tổng vốn FDI đăng kí năm 2008 đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần so
với năm 2007. Đây là mức thu hút vốn FDI lớn nhất từ trước đến nay của Việt Nam.
Trong các lĩnh vực đầu tư, vốn FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng, chiếm 54,12% vốn đầu tư đăng ký; tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 45,4% vốn
đầu tư đăng ký; số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp.
Bảng 2 - 3 Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm từ 2003-2008
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Q1/09
Tăng trưởng GDP (%) 7.34 7.79 8.44 8.23 8.48 6.18 3.1
Nông-lâm-
thủy sản
Tốc độ (%) 3.62 4.36 4.02 3.69 3.40 4.07 0.9
% GDP 22.54 21.81 20.97 20.40 20.30 21.99 -
CN - XD Tốc độ (%) 10.48 10.22 10.69 10.38 10.60 6.11 2.1
% GDP 39.47 40.21 41.02 41.54 41.58 39.91 -
Dịch vụ Tốc độ (%) 6.45 7.26 8.48 8.29 8.68 7.18 6.5
%GDP 37.99 37.98 38.01 38.06 38.10 38.10 -
Xuất khẩu Tốc độ (%) 18.80 31.31 21.60 22.10 21.50 29.50 2.4
Kim ngạch (tỷ USD) 20.2 26.5 32.5 39.8 48.6 62.7 13.5
Nhập khẩu Tốc độ (%) 26.70 26.48 15.40 20.01 39.64 28.30 (45)
Kim ngạch (tỷ USD) 25.3 32.0 36.8 44.9 62.7 80.7 11.8
FDI Tốc độ (%) 18.40 28.50 49.10 69.30 100.00 215.27 -
Vốn đăng kí (tỷ USD) 2.6 4.0 5.8 10.2 20.3 64.0 -
Lạm phát (%) 3 9.5 8.4 6.6 12.6 19.9 1.32*
(Nguồn: Tổng hợp từ website của Tổng cục thống kê các năm 2003-2008, theo giá so
sánh 1994, Cơ cấu GDP tính theo giá thực tế các năm
* CPI tháng 3/2009 so với tháng 12/2008)
46
Bảng số liệu trên cho ta một cái nhìn khái quát về tình hình phát triển kinh tế Việt
Nam qua các năm. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng đều qua các năm với những
con số ấn tượng, đạt tốc độ cao nhất vào năm 2007. Nhiều nhà phân tích đã dự đoán
trong năm 2008, con số này sẽ là 8 - 9%. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế, mức tăng trưởng GDP đã giảm sút.
Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-
2008 (%)
0 10 20 30 40 50
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tốc độ (%)
NK
XK
DV
CN-XD
Nông-lâm-thủy sản
GDP
Cuộc khủng hoảng kinh tế cũng tác động đến cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng, tỷ trọng nông-lâm-ngư
nghiệp có xu hướng giảm trong các năm 2003-2007. Tuy nhiên tỷ trọng nông-lâm-ngư
nghiệp đã tăng vào năm 2008, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng giảm.
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu năm 2008 vẫn ở mức cao. Tuy
tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu (29.5%) cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập
khẩu (28.3%) nhưng nhập siêu vẫn lớn (18 tỷ USD).
Tỷ lệ lạm phát tăng cao trong năm 2007 và đầu năm 2008. Lạm phát cao trong 6
tháng đầu năm 2008 do nhiều nguyên nhân, đó là: giá dầu mỏ và lương thực trên thế
giới tăng mạnh ảnh hưởng đến giá cả trong nước; thị trường bất động sản “đóng băng”
ở giá cao; giá vàng trong nước cao hơn giá vàng trên thế giới đến hơn 10%; USD cũng
lên giá rất mạnh so với VND ngay cả khi chính đồng USD lúc đó đang bị mất giá
mạnh so với các đồng tiền thông dụng quốc tế khác; USD tăng giá cùng với nhập siêu
47
tăng dẫn đến lạm phát qua nhập siêu. Đến 6 tháng cuối năm, do các chính sách tác
động của chính phủ và ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát đã giảm
và thậm chí còn dẫn đến giảm phát [16].
2 Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đến hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam
2.1 Ảnh hưởng đến lãi suất
Năm 2008, lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại biến động liên tục
theo sự tăng, giảm của lãi suất cơ bản.
Biểu đồ 2 - 3: Diễn biến các lãi suất chủ chốt tại Việt Nam năm 2008
8.258.75
12
1413
1211
10
8.57.5
13
1514
1312
11
9.5
11
13
1110
9
7.5
12
6
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1/1 1/2 19/5 11/6 21/10 5/11 21/11 5/12 22/12
Lãi suất (%) Lãi suất cơ bản Lãi suất tái cấp vốn Lãi suất chiết khấu
Trước nguy cơ lạm phát cao, Ngân hàng Nhà nước đưa ra nhiều chính sách nhằm
thắt chặt tiền tệ ngay từ những tháng đầu năm 2008: tăng LSCB từ 8.25% lên 8.75%,
nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1%, bắt buộc 41 tổ chức tín dụng mua tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước với lãi suất 7.8%/364 ngày (thấp hơn LSCB) nhằm rút 20.3 nghìn tỷ
đồng ra khỏi lưu thông. Lãi suất tăng cao nhất là vào thời gian giữa năm (có lúc, lãi
suất cho vay của các ngân hàng thương mại là 23-24%).
Cuối năm 2008, hoạt động kinh tế trong nước giảm sút do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới. Bởi vậy, từ tháng 10/2008 chính sách thắt chặt tiền tệ
bắt đầu được nới lỏng. LSCB được điều chỉnh giảm liên tiếp vào những tháng cuối
năm. Lãi suất cho vay trên thị trường chỉ còn từ 12.75% đến 16.5%/năm. Đối với một
số dự án, lĩnh vực sản xuất ưu tiên như doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, nông dân, một số ngân hàng thương mại chỉ cho vay với lãi suất 10-11%/năm.
48
Tuy lãi suất giảm mạnh nhưng dư nợ tín dụng tăng không đáng kể. Nguyên nhân
là dù lãi suất giảm nhưng sự thận trọng đang tăng lên, không chỉ từ phía ngân hàng mà
cả từ phía doanh nghiệp đi vay, khiến tín dụng rất khó giải ngân.
2.2 Ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các ngân hàng
thương mại vào cuối năm 2008 đã tăng khoảng 9%, cao hơn nhiều so với mức chưa
đến 1% của những năm trước. Tuy nhiên, sự tăng lên này không diễn ra đồng đều
trong cả năm. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng “ứ đọng” ngoại
tệ, tỷ giá có lúc xuống mức thấp nhất là 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng mua vào USD, giúp doanh nghiệp tháo
gỡ khó khăn. Nhưng bắt đầu từ tháng 5, sự khan hiếm ngoại tệ diễn ra trên cả thị
trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua USD ở thị
trường tự do với giá trên 18.000 VND.
Biểu đồ 2 - 4: Biến động tỷ giá USD/VND theo tháng năm 2008
15000
15500
16000
16500
17000
17500
18000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng
Tỷ g
iá U
SD
/VN
D
2.3 Ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng
Lợi nhuận của nhiều ngân hàng giảm sút trong năm 2008 và cả trong 6 tháng đầu
năm 2009 do các nguyên nhân:
Thứ nhất, trong những tháng nửa đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát cao và khó khăn
thanh khoản của các doanh nghiệp vay vốn khiến lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị
ảnh hưởng nặng nề. Cũng trong giai đoạn này, LSCV cao nên cường độ cho vay giảm,
49
làm giảm nguồn thu từ tín dụng. Mặt khác, chi phí huy động vốn cao (do lãi suất huy
động cao) cũng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Thứ hai, trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009, hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp bị đình trệ, do vậy cầu đối với tín dụng giảm sút.
Ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính đến hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại đó là suy thoái kinh tế toàn cầu đẩy nhiều doanh nghiệp trong
nước vào tình trạng khó khăn, dẫn đến không dám vay vốn hoặc không đủ điều kiện để
được vay vốn.
Thứ ba, trong 6 tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng kiếm được lợi nhuận cao từ
hoạt động cho vay trên thị trường liên ngân hàng (do lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng rất cao, có thời điểm lên đến 43%/năm), nhưng đến 6 tháng cuối năm lãi suất hạ
nên các ngân hàng không còn kiếm được lợi nhuận cao từ nguồn này nữa.
Thứ tư, trong năm 2008 hoạt động cho vay đầu tư bất động sản, đầu tư chứng
khoán và tín dụng tiêu dùng không còn tăng trưởng mạnh và mang đến nhiều lợi nhuận
cho ngân hàng như trong năm 2007. Sự sụt giảm nhanh và mạnh của thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng rất lớn, không còn là
thị trường hấp dẫn cho các ngân hàng. Riêng với tín dụng tiêu dùng, cơ chế cho vay
theo lãi suất trần theo Quyết định 16 của NHNN là một trở ngại. Cho vay tiêu dùng
thường có rủi ro và chi phí cao hơn so với cho vay các doanh nghiệp, bởi vậy lãi suất
cho vay thường cao hơn lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, với cơ
chế cho vay theo lãi suất trần, cả cho vay doanh nghiệp và cho vay tiêu dùng đều có
trung một “trần”, như vậy sẽ không khuyến khích các ngân hàng cho vay tiêu dùng.
Thứ năm, trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu tăng làm tăng chi phí tài
chính và giảm lợi nhuận. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế khiến các khoản nợ xấu của
ngân hàng gia tăng nên các khoản trích lập dự phòng cũng tăng. Trong năm 2007, hầu
hết các ngân hàng thương mại quốc doanh có tỷ lệ nợ xấu chỉ trên dưới 3%, các ngân
hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu phổ biến dưới 2% thì trong năm 2008, tỷ lệ
nợ xấu của toàn hệ thống là 3.5% và ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất là 4.5%.
2.4 Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của
các ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2008
50
Trong năm 2008, tuy tài sản có rủi ro của các ngân hàng tăng lên nhưng hệ số an
toàn vốn CAR được xác định bằng tỷ lệ Vốn tự có/Tổng tài sản có rủi ro của các ngân
hàng lại tăng khá cao so với năm 2007. Nguyên nhân chủ yếu là do trong năm 2008,
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, nhiều ngân hàng có mức vốn điều lệ thấp đã
phải bổ sung mức vốn điều lệ của mình để đạt được tối thiểu là 1000 tỷ đồng, điều này
góp phần làm tăng vốn tự có, làm tăng hệ số CAR của các ngân hàng.
Một số chỉ tiêu khác phản ánh hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
trong năm 2008 được thể hiện trong Bảng 2 – 4:
Bảng 2 - 4 Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động của các NHTM Việt Nam 2008
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Huy động:
- Tốc độ (%)
- VND (%)
- USD (%)
Tỷ trọng của NHTM QD
-
33.20
33.73
31.96
-
-
26.86
27.87
24.50
73.93
-
36.53
40.99
25.31
68.67
-
47.64
53.99
28.66
58.07
-
-
-
-
-
Dư nợ (nghìn tỷ đồng)
- Tốc độ (%)
Tỷ trọng của NHTM QD
420
41.65
-
550
31.04
70.80
690
25.44
63.49
1,062
53.89
57.05
1.296
21-22
-
Kết cấu dư nợ (%):
- Nông-lâm-thủy sản(%)
- Công nghiệp (%)
- Thương nghiệp-DV(%)
- Xây dựng (%)
100
29.7
24.9
23.2
14.4
100
29.7
25.4
17.7
14.4
100
29.2
25.5
17.7
14.5
100
28.92
26.02
18.24
14.15
-
-
-
-
-
Tỷ lệ nợ xấu / ∑dư nợ 2.85 3.18 14 3 3.5
Lãi suất theo năm
- Huy động VND (%)
- Cho vay VND (%)
- Huy động USD (%)
- Cho vay USD (%)
6-7.56
8.76-14.4
1.2-2.4
3.5-4.5
2.4-8.4
9.6-16.2
3-4.5
5.25-7.5
7.56-9.36
9.6-16.2
3.9-5
5.8-8
7.62-9.48
9.6-16.2
4.2-5.1
11.48-16.2
-
(24- 12.75)
-
-
Tỷ giá
- Tăng (%)
- Biên độ
0.84
.25
ổn định
.25
ổn định
.25
0.08
.25/.5/.75
8-9
.75/3.00
51
CAR 8.9 9.7
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN các năm 2004-2007; Báo cáo Kết quả hoạt
động ngân hàng năm 2008, định hướng nhiệm vụ năm 2009 của NHNN ngày 30/12/2008)
2.5 Thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam
Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng. Mặc dù tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là một phân khúc thị trường rộng lớn và có nhiều tiềm năng, thực
trạng hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy các kết quả đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực thị trường này.
Tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng là
163,673 doanh nghiệp (chiếm trên 50% số doanh nghiệp nhỏ và vừa) với tổng nguồn
vốn kinh doanh là 482,092 tỷ; trong đó vốn tự có chiếm tỷ trọng là 36.25%, vốn vay
ngân hàng chiếm tỷ trọng 45.31%, còn lại vốn khác chiếm 18.44%. Vốn tự có bình quân
của một doanh nghiệp tính đến ngày 31/7/2008 là 1.33 tỷ đồng; bình quân vốn vay ngân
hàng của một doanh nghiệp là 1.79 tỷ đồng.
Dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tính đến ngày 31/7/2008 của các ngân
hàng thương mại đạt 299,472 tỷ đồng, chiếm 27.3% tổng dư nợ cho vay trong nền
kinh tế, tăng 16.65% so với thời điểm 31/12/2007 và tăng 70.5% so với thời điểm
31/12/2006. Trong đó: cho vay ngắn hạn chiếm 73,05%; cho vay, trung dài hạn chiếm
26,95%. Dư nợ trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 5.1%, lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 38.51%, lĩnh vực thương mại và dịch vụ chiếm 56.39% trên tổng dư nợ.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh đi đầu trong việc cho vay các DNNVV,
đạt dư nợ là 170,481 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56.98%; tiếp đến là các ngân hàng
thương mại cổ phần với dư nợ đạt 120,936 tỷ đồng, chiếm 40.42% tổng dư nợ toàn
ngành; các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt dư nợ 8,053
tỷ đồng, chiếm 2.6%. Tỷ lệ nợ xấu cho vay DNNVV của toàn hệ thống là 3.64% (số
tuyệt đối là 10,886 tỷ đồng), tăng 1% so với năm 2007 và giảm 0.19% so với năm
2006. Tỷ lệ nợ xấu của khối ngân hàng thương mại quốc doanh là 4.59%, ngân hàng
thương mại cổ phần là 2.44%, ngân hàng liên doanh và nước ngoài là 1.45%.
52
Theo các số liệu trên, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tiếp cận được nguồn
vốn vay của ngân hàng là rất lớn, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dư
nợ cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 27.3%, một tỷ lệ khá khiêm tốn trong
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, chưa tương xứng với số lượng doanh nghiệp (trên
93% tổng số doanh nghiệp) và đóng góp của các doanh nghiệp cho nền kinh tế (đóng
góp hơn 40% GDP và tạo việc làm cho hơn 50% số lao động). Hơn nữa, tỷ lệ vốn cho
vay trung dài hạn còn thấp, trong khi đó nguồn vốn vay trung dài hạn có vai trò rất
quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất. Ngoài ra, tỷ lệ dư nợ tín dụng cấp cho khu vực nông nghiệp còn quá thấp.
3 Một số chính sách tác động của Nhà nƣớc và Ngân hàng Nhà nƣớc trong
năm 2008 và đầu năm 2009
3.1 Các chính sách của Chính phủ
Trước tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu, tại phiên họp Thường trực Chính phủ
ngày 27/11/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, Ngành, địa phương, doanh
nghiệp tập trung mọi nỗ lực, biện pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, hỗ trợ sản
xuất kinh doanh, duy trì mức tăng trưởng hợp lý theo gói giải pháp đồng bộ gồm 5
điểm chính:
Nhóm giải pháp thứ nhất: Thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu. Tập trung giải quyết
dứt điểm những thủ tục còn phiền hà, giảm đến mức thấp nhất thời gian và chi phí cho
doanh nghiệp. Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng, nhất là các mặt hàng xuất khẩu có
kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao.
Nhóm giải pháp thứ hai: Kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Thực hiện các biện pháp
thúc đẩy đầu tư xây dựng nhà giá rẻ cho người thu nhập thấp, các đối tượng chính
sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở
cho học sinh, sinh viên.
Nhóm giải pháp thứ ba: Chính sách tài chính, tiền tệ phải hết sức linh hoạt, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp và nhân dân sản xuất, kinh doanh, nâng
cao đời sống.
Nhóm giải pháp thứ tư: Đảm bảo an sinh xã hội, tăng cường chăm lo cho đồng
bào nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng thiên tai, lũ lụt không để bị thiếu đói.
53
Nhóm giải pháp thứ năm: Tổ chức, chỉ đạo điều hành năng động, quyết liệt.
Trong đó chú trọng rà soát lại các loại thủ tục, nhất là thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản;
tiếp cận vốn; nộp thuế, hoàn thuế…
Tiếp đó, nhằm mục đích giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay,
kích thích đầu tư, trong những tháng đầu năm 2009 Thường trực Chính phủ và lãnh
đạo các Bộ, Ngành đã thông qua hai chương trình hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp,
bao gồm hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn hạn và hỗ trợ lãi suất cho vay trung dài hạn.
Ngày 15/1/2009, Thường trực Chính phủ và lãnh đạo các Bộ, Ngành đã thông qua
kế hoạch sử dụng 17.000 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD) để kích thích đầu tư, thực
hiện thông qua bù lãi suất 4% khi doanh nghiệp vay vốn lưu động phục vụ cho sản
xuất kinh doanh. Thời điểm thực hiện bắt đầu từ tháng 2/2009. Thời hạn hỗ trợ lãi suất
tối đa không quá 12 tháng. Riêng các doanh nghiệp vay vốn lưu động để nhập khẩu
hàng tiêu dùng chưa thiết yếu, vay kinh doanh chứng khoán, tài chính, ngân hàng, vay
vốn để trả nợ các hợp đồng tín dụng khác… không được hưởng chính sách ưu đãi này.
Ngày 4/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 443/QĐ-TTg về việc hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng nhằm thực hiện
đầu tư mới để phát triển sản xuất - kinh doanh. Mức lãi suất hỗ trợ cho khách hàng vay
là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế, nằm trong khoảng thời
gian từ ngày 1/4/2009 đến 31/12/2011. Các khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi
suất này bị quá hạn trả nợ, được gia hạn nợ vay, thời hạn vay thực tế vượt quá 24
tháng thì không được tính hỗ trợ lãi suất đối với khoảng thời gian quá hạn trả nợ, gia
hạn nợ và vượt quá 24 tháng.
3.2 Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước 3
Đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động triển khai đồng bộ, quyết liệt
nhiều giải pháp nhằm kiềm chế có hiệu quả lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Các
giải pháp này bao gồm:
- Thu hút tiền về từ lưu thông nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng, đồng thời, hỗ trợ kịp thời vốn ngắn hạn cho
các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản.
3 Kết quả hoạt động ngân hàng năm 2008, định hướng nhiệm vụ năm 2009 của Ngân hàng Nhà nước
54
- Quy định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm kể từ ngày 26/2/2008
đến 18/5/2008. Từ ngày 19/5/2008, thay đổi cơ chế điều hành LSCB phù hợp với Luật
Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do Ngân hàng Nhà
nước công bố trong từng thời kỳ; đồng thời từng bước điều chỉnh tăng LSCB và các
mức lãi suất khác cho phù hợp với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ.
Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và kết quả kiềm chế lạm phát ở
nước ta từ tháng 7/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước nới lỏng chính
sách tiền tệ bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và
chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế:
- Điều chỉnh linh hoạt lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, lãi suất tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ; từng bước
giảm dần LSCB và các mức lãi suất khác phù hợp với xu hướng giảm của LSCB.
- Giảm dần tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc trong các giao dịch tái cấp vốn với Ngân hàng
Nhà nước và thanh toán trước hạn nếu có nhu cầu.
Trong năm 2008, diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường không ổn định do
biến động tăng, giảm luồng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam, nhập siêu tăng cao và yếu
tố tâm lý, đầu cơ. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng linh hoạt các giải pháp để ổn định
thị trường ngoại tệ, hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập siêu:
- Mở rộng từng bước biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ từ mức
0,75% lên 3%; điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với cung cầu
ngoại tệ và mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Phối hợp với Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ nhập siêu. Can thiệp mua,
bán ngoại tệ phù hợp với mục tiêu kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán,
đảm bảo mức tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, cân đối cung cầu ngoại tệ, đáp ứng các
nhu cầu ngoại tệ thiết yếu cho nền kinh tế.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại
hối; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về quản lý ngoại hối, quản lý các đại
lý thu đổi ngoại tệ nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và mua bán ngoại tệ bất hợp pháp
trên thị trường tự do.
55
Để góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý
trong điều kiện thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, NHNN đã thực hiện linh hoạt,
đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, đồng
thời kiểm soát chặt chẽ quy mô, chất lượng tín dụng. Cụ thể:
- Chỉ đạo các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và cơ cấu tín
dụng phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của
Ngành đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng; ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản
xuất, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp, nông thôn, DNNVV,
các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn; tăng cường cho
vay và thực hiện có hiệu quả chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, học sinh,
sinh viên và các đối tượng chính sách khác.
- Thành lập Tổ công tác xử lý khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thành phố Hà Nội
và Hồ Chí Minh.
Ngân hàng Nhà nước đưa ra các quyết định và chính sách nhằm đẩy nhanh
chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các
tổ chức tín dụng trong nước.
- Theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có mức vốn điều lệ
dưới 1.000 tỷ đồng cần khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch tăng vốn lên
1.000 tỷ đồng trước thời điểm 31/12/2008.
- Các tổ chức tín dụng tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm tra,
kiểm soát, kiểm toán nội bộ và xếp hạng tín dụng, tạo cơ sở nâng cao năng lực quản trị
rủi ro, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Mạng lưới hoạt động được chú trọng
củng cố, nâng cấp.
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG DNNVV TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2005 – 2008
1 Tổng quan về hoạt động tín dụng DNNVV của Ngân hàng TMCP Ngoại
Thƣơng Việt Nam
So với bề dày hoạt động hơn 45 năm của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt
Nam, hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng còn khá mới
56
mẻ. Tuy vậy, trong những năm gần đây, vai trò của tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong mục tiêu phát triển của ngân hàng luôn được ban lãnh đạo của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh.
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam bắt đầu chú trọng đến mảng hoạt
động này từ năm 2002. Được Chính phủ khuyến khích, nhóm các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có tốc độ tăng trưởng khá cao kể từ năm 2001. Để đáp ứng nhu cầu vốn của nhóm
doanh nghiệp này Vietcombank đã đề ra chương trình tín dụng thêm 500 tỷ VND cho
vay các DNNVV dự kiến thực hiện trong hai năm 2002 và 2003, tuy nhiên số vốn đã
được cho vay hết chỉ trong một năm.
Tính đến ngày 31/12/2002, dư nợ tín dụng cho các DNNVV của Vietcombank đạt
4,267 tỷ VND, tăng 85% so với năm 2001. Trong năm 2003, dư nợ tín dụng cho các
DNNVV tiếp tục tăng trưởng mạnh với tốc độ gần 80% so với năm 2002.
Trong giai đoạn 2004-2006, do tập trung nguồn lực và thời gian vào việc triển
khai áp dụng chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực quản trị rủi ro nên Vietcombank thực
hiện chủ trương tăng trưởng tín dụng thận trọng hơn. Các chính sách được triển khai
trong giai đoạn này bao gồm:
- Áp dụng quy trình tín dụng mới theo tiêu chuẩn quốc tế: tách bạch hoạt động
quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và hoạt động xử lý tác nghiệp.
- Mở rộng cho vay với các nhóm khách hàng mà hoạt động kinh doanh có độ
an toàn cao; hạn chế cho vay đối với nhóm khách hàng hoạt động kinh doanh
thiếu ổn định, có độ rủi ro lớn và kém hiệu quả.
- Phát triển tín dụng tại các khu vực có môi trường kinh tế thuận lợi; cho vay
thận trọng tại các khu vực kinh tế chưa phát triển đồng đều, ổn định.
- Mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, các mặt hàng có thị
trường tiêu thụ ổn định; thận trọng cho vay đối với các mặt hàng có nhiều biến
động về thị trường, giá cả.
Sau khi hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro theo định hướng như trên, hoạt
động tín dụng cho DNNVV của Vietcombank lại tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm
2007, với tốc độ tăng trưởng là 27.41% so với năm 2006.
Năm 2008, thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank đã áp dụng
các biện pháp nhằm hạn chế sự tăng trưởng nóng trong hoạt động tín dụng. Ngoài ra,
57
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng từ cuối năm 2008 cũng làm cho hoạt động
trên thị trường tín dụng giảm sút. Do vậy, dư nợ tín dụng cho các DNNVV trong năm
2008 tăng trưởng chậm lại. Đến 31/12/2008 tổng dư nợ cho vay các DNNVV của
Vietcombank đạt 25,343 tỷ VND, tăng 16.52% so với năm 2007.
2 Phân tích cụ thể hoạt động tín dụng cho DNNVV tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thƣơng Việt Nam giai đoạn 2005 - 2008
Tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam luôn được ban
lãnh đạo của ngân hàng quan tâm và khuyến khích phát triển. Do vậy, dư nợ tín dụng
tăng đều qua các năm 2002 – 2008. Trong Bảng 2 – 5 là các số liệu cụ thể về tình hình
dư nợ tín dụng DNNVV tại Vietcombank giai đoạn 2005 – 2008.
Bảng 2 - 5 Số liệu dư nợ tín dụng cho các DNNVV giai đoạn 2005 - 2008
(ĐVT: Tỷ VND)
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
Dƣ nợ (%) Dƣ nợ (%) Dƣ nợ (%) Dƣ nợ (%)
Theo thời hạn
- Ngắn hạn
- Trung dài hạn
14,528
8,285
6,243
100
57.03
42.97
17,071
9,734
7,337
100
57.02
42.98
21,750
12,276
9,474
100
56.44
43.56
25,343
13,969
11,374
100
55.12
44.88
Theo loại tiền vay
- VND
- USD
14,528
7,005
7,523
100
48.22
51.78
17,071
8,484
8,587
100
49.70
50.30
21,750
10,419
11,331
100
47.91
52.09
25,343
13,530
11,813
100
53.39
46.61
∑TD DNNVV 14,528 17,071 21,750 25,343
Tốc độ (%) 16.91% 17.50% 27.41% 16.52%
%∑ dư nợ của NH 23.8% 25.2% 22.3% 22.7%
(Nguồn: Báo cáo tín dụng DNNVV của Phòng Chính sách tín dụng, Hội sở chính VCB)
Như vậy, dư nợ tín dụng cho các DNNVV của ngân hàng tăng lên qua các năm,
tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2007. Trong hai năm 2005 và 2006, tốc độ tăng
trưởng thấp hơn, chỉ vào khoảng 17% nhưng kết quả đó phù hợp với chủ trương tăng
trưởng tín dụng thận trọng của ngân hàng trong giai đoạn này. Năm 2008 vừa qua, do
việc áp dụng chính sách hạn chế sự tăng trưởng nóng tín dụng vào nửa đầu năm và ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế vào nửa cuối năm nên cường độ cho vay giảm,
tốc độ tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh so với năm trước đó cả về số tuyệt đối và số
tương đối: năm 2007 dư nợ tín dụng tăng 4,679 tỷ VND so với năm 2006, tương
58
đương tốc độ tăng 27.41% nhưng năm 2008 dư nợ tín dụng chỉ tăng 3,593 tỷ VND,
tương đương với tốc độ tăng là 16.52%.
Ngoài ra, cho vay các DNNVV tại Vietcombank trong giai đoạn 2005-2008 vẫn
chiếm tỷ trọng thấp (từ 22% đến 25%) trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
Nhìn vào bảng số liệu trên, tôi xin đưa ra một vài nhận xét về cơ cấu tín dụng cho
các DNNVV tại Vietcombank trong giai đoạn 2005 – 2008 như sau:
Về cơ cấu theo kỳ hạn vay
Biểu đồ 2 - 5: Dư nợ cho vay đối với các DNNVV tại
Vietcombank giai đoạn 2005-2008
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
2005 2006 2007 2008
Tỷ VND Tổng dư nợ Ngắn hạn Trung dài hạn
Tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn tín dụng trung dài hạn trong danh mục
cho vay (tỷ trọng tín dụng ngắn hạn năm 2005: 57.03%, năm 2006: 57.02%, năm
2007: 56.44%, năm 2008: 55.12%). Tuy vậy, tỷ trọng tín dụng trung dài hạn có xu
hướng tăng lên và tỷ trọng tín dụng ngắn hạn có xu hướng giảm xuống. Nhìn chung,
cơ cấu dư nợ giữa cho vay ngắn hạn và trung dài hạn là khá ổn định và cân bằng phù
hợp với tính chất của các nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Theo chủ trương của NHNN, các ngân hàng thương mại cần tăng cường các
khoản cho vay trung dài hạn đối với DNNVV nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này đầu
tư dài hạn, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao trình độ khoa
học kỹ thuật. Như vậy, xu hướng tăng lên của tỷ trọng tín dụng trung dài hạn trong
59
danh mục cho vay của Vietcombank hoàn toàn phù hợp với chủ trương mà NHNN đề
ra. Bên cạnh đó, so với cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV của toàn ngành ngân hàng (tính
đến ngày 31/7/2008, dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm 73.05%, dư nợ tín dụng ngắn
hạn chiếm 26.95%) thì cơ cấu dư nợ tại Vietcombank cân bằng và phù hợp hơn.
Về cơ cấu theo loại tiền vay
Số liệu trong Bảng 2 -5 cho thấy tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đồng VND và đồng
ngoại tệ (USD) tương đối đồng đều qua các năm. Do đặc điểm của Vietcombank là
ngân hàng hàng đầu cả nước về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ
nên tỷ trọng dư nợ USD trong danh mục cho vay thường cao bằng hoặc hơn so với tỷ
trọng dư nợ VND. Tuy nhiên, trong năm 2008, tỷ lệ cho vay USD đã giảm đáng kể và
ở mức thấp hơn so với tỷ lệ cho vay VND. Một nguyên nhân ảnh hưởng đến sự giảm
sút này là do biến động tỷ giá USD/VND trong năm vừa qua có nhiều bất lợi đến hoạt
động cho vay; bên cạnh đó, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, hàng hóa nhập
khẩu gặp khó khăn trong tiêu thụ nên hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa bị đình trệ và không có nhu cầu vay vốn ngoại tệ. Tính đến ngày 31/12/2008,
cơ cấu dư nợ VND/USD tương ứng là 53%/47%.
Ngoài ra, cơ cấu dư nợ tín dụng cho các DNNVV phân theo khách hàng, theo
ngành hàng và theo phân vùng địa lý có một số đặc điểm chính như sau:
Theo loại hình khách hàng
Cùng với tiến trình cổ phần hóa DNNN cũng như chuyển dịch hướng đầu tư, giảm
tỷ trọng cho vay DNNN yếu kém, chú trọng cho vay các loại hình doanh nghiệp khác,
cơ cấu dư nợ cho vay của Vietcombank đã có sự chuyển dịch.
Sự chuyển hướng đầu tư này thể hiện cả trong cơ cấu dư nợ cho vay các DNNVV
của ngân hàng. Trong dư nợ cho vay các DNNVV, tỷ trọng dư nợ cho vay doanh
nghiệp nhà nước có xu hướng giảm dần (năm 2005: 56%, năm 2006: 49%, năm 2007:
36%, năm 2008: 30%), dư nợ cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên tục
tăng về số lượng và tỷ trọng (năm 2005: 44%; năm 2006: 51%; năm 2007: 64%). Năm
2008, tỷ trọng dư nợ cho vay của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở mức 70%, trong đó Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần
chiếm khoảng 60%, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 10%.
Theo ngành hàng
60
Cơ cấu ngành hàng trong cho vay các DNNVV của Vietcombank khá đa dạng,
tuy nhiên vẫn còn tập trung vào một số ngành hàng như thương mại (dệt may, giày
dép, vận tải, đồ gỗ, phân bón) và chế biến (thủy, hải sản)… chưa đáp ứng được yêu
cầu phân tán rủi ro trong đầu tư tín dụng.
Theo phân vùng địa lý
Dư nợ cho vay các DNNVV của Vietcombank chủ yếu tập trung tại các thành
phố, đô thị lớn, các khu công nghiệp như Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, vùng
Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, trừ TP. Hồ Chí Minh) và Tây Nam Bộ (Cần
Thơ). Hiện tại, mô hình Phòng tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa mới chỉ được thí
điểm tại hai địa điểm là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Như vậy, hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank
trong các năm qua có những nét chính sau: Với chính sách tập trung cho các khu vực
phát triển năng động về kinh tế, tại các khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và
khu vực miền Đông Nam Bộ, dư nợ tín dụng có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng cao
hơn; Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với nhóm khách hàng là DNNN trong tổng dư nợ có
xu hướng giảm dần, tỷ trọng của nhóm khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
xu hướng tăng dần; Tăng trưởng tín dụng có tốc độ đồng đều đối với VND và ngoại tệ;
Tăng trưởng đồng đều đối với tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn.
3 Thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng
Sự tăng trưởng, mở rộng đầu tư tín dụng luôn đi kèm với những rủi ro tiềm ẩn
có thể xảy ra trong tương lai. Kinh nghiệm và thực tế cho thấy, sự tăng trưởng nóng
tín dụng một giai đoạn nào đó thường để lại hậu quả về tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu
trong những năm tiếp theo. Vietcombank dường như cũng không thoát ra được quy
luật khắc nghiệt đó của thị trường.
Trong giai đoạn 2005-2007, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, hoạt động
tín dụng cũng ở trong thời kỳ phát triển mạnh. Nhưng ngay sau đó, vào năm 2008,
do tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ và những diễn biến khó lường của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, hoạt động tín dụng có thời gian gần như đóng băng.
Chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong giai đoạn 2005-2007
tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của Vietcombank luôn được duy trì ở mức rất thấp khoảng
61
trên dưới 2%/tổng dư nợ; tuy nhiên trong năm 2008, chất lượng tín dụng của
Vietcombank đã giảm sút thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu ngày càng tăng.
3.1 Nợ quá hạn
Giai đoạn 2005-2006 tỷ lệ nợ quá hạn trong tín dụng cho các DNNVV tại
Vietcombank có xu hướng giảm, tuy nhiên, trong năm 2007, đặc biệt là trong năm
2008, tỷ lệ nợ quá hạn lại có xu hướng tăng cao. Tình hình nợ quá hạn trong các
khoản cho vay DNNVV của Vietcombank thể hiện trong Bảng 2 – 6 sau đây:
Bảng 2 - 6 Nợ quá hạn (ĐVT: Tỷ VND)
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
Dư nợ tín dụng DNNVV 14,528 17,071 21,750 25,343
Các khoản NQH 273 203 272 705
% Nợ quá hạn 1.88% 1.19% 1.25% 2.78%
Nguồn: Báo cáo tín dụng DNNVV của phòng Chính sách tín dụng, Hội sở chính VCB
Năm 2006, nợ quá hạn giảm mạnh một phần là do Vietcombank sử dụng nguồn
dự phòng hơn 800 tỷ để xử lý nợ xấu làm sạch báo cáo tài chính của ngân hàng,
chuẩn bị cho công tác cổ phần hóa Vietcombank. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn trong
năm 2007, đặc biệt là trong năm 2008 có xu hướng tăng cao bởi các nguyên nhân:
Sự tăng trưởng nóng tín dụng DNNVV trong năm 2007 để lại hậu quả là chất
lượng tín dụng giảm sút trong năm 2008: trong năm 2007, do sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng trên thị trường tín dụng diễn ra khá gay gắt nên để thu hút được
nhiều khách hàng, các ngân hàng sẵn sàng thực hiện các khoản cho vay tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Vì vậy, tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2007 đã có xu hướng tăng. Vào
đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát trong nước tăng cao, nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do chi phí đầu vào tăng trong khi sản
phẩm đầu ra rất khó tiêu thụ. Kết quả là rất nhiều doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán nợ vay đúng hạn cho ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp trước đây luôn
có các khoản tín dụng chất lượng tốt.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 đến nay
khiến cho không chỉ tốc độ tăng trưởng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
62
của Vietcombank chậm lại mà chất lượng tín dụng cũng giảm sút rõ rệt. Hầu hết
các khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa đều gặp rất nhiều khó khăn trong kinh
doanh nên không thể trả nợ đúng hạn.
Trong năm 2008, tỷ lệ nợ quá hạn trong các khoản tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại Vietcombank đã tăng cao ở mức đáng lo ngại, do đó tăng cường nâng cao
chất lượng tín dụng là một đòi hỏi cấp bách của Vietcombank.
3.2 Phân loại nợ
Kết quả phân loại nợ trong thời gian gần đây càng khẳng định thêm rằng chất
lượng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank có dấu hiệu
giảm sút, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng ngày càng tăng cao.
Bảng 2 - 7 Tổng hợp phân loại nợ cho vay các DNNVV của Vietcombank
(ĐVT: tỷ VND)
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
1. Tổng dư nợ tín dụng 39,630 51,773 61,044 67,743
2. Dư nợ DNNVV 14,528 17,071 21,750 25,343
- Nhóm 1 13,801 16,460 20,662 23,468
- Nhóm 2 225 217 351 704
- Nhóm 3 193 194 382 695
- Nhóm 4 140 91 213 263
- Nhóm 5 169 108 141 213
3. Tổng nợ xấu DNNVV 502 394 737 1,171
4. Tỷ lệ nợ xấu DNNVV 3.46% 2.31% 3.39% 4.62%
5. (3)/(1) 1.26% 0.76% 1.21% 1.73%
Nguồn: Báo cáo Phân loại nợ của Phòng Chính sách tín dụng, Hội sở chính VCB
Trong những năm trước đây, Vietcombank là ngân hàng dẫn đầu khối các ngân
hàng thương mại trong nước về chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu thấp và có xu
hướng giảm dần. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (năm 2007, 2008), tỷ lệ nợ xấu
của Vietcombank tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối, thậm chí có dấu hiệu tăng
cao hơn so với các ngân hàng thương mại khác. Tính đến ngày 31/12/2008 tỷ lệ nợ
xấu của toàn hệ thống Vietcombank là 4.5%, tỷ lệ cao nhất của các ngân hàng
63
thương mại trong năm 2008. Trong đó, nợ xấu trong khu vực tín dụng cho các
DNNVV có tỷ lệ là 4.62%, chiếm 38% trong tổng nợ xấu của cả ngân hàng.
So với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn hệ thống Vietcombank (năm 2005: 3.44%,
năm 2006: 2.28%, năm 2007: 3.38%, năm 2008: 4.5%) thì tỷ lệ nợ xấu trong khu vực
tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có xu hướng cao hơn. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu
trong khối các DNNVV năm 2005: 3.46%, năm 2006: 2.31%, năm 2007: 3.39% và
năm 2008: 4,62%. Như vậy, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nghiệp vụ chứa
đựng nhiều rủi ro, cần có hình thức quản trị hợp lý và riêng biệt. Mặt khác, diễn biến
tăng giảm của tỷ lệ nợ xấu trong khu vực tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có
nét tương đồng với diễn biến tỷ lệ nợ xấu của cả hệ thống, điều này cho thấy công tác
quản trị rủi ro tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank cũng phải
gắn liền với công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cả hệ thống ngân hàng.
Một trong những nguyên nhân chủ quan khiến tỷ lệ nợ xấu trong năm 2007, 2008
tăng cao là do ngân hàng đã tiến hành phân loại nợ sát với chuẩn mực quốc tế; tuy
nhiên Vietcombank vẫn cần phải xem xét, đánh giá lại công tác quản trị rủi ro tín dụng
của ngân hàng: chính sách quản trị rủi ro tín dụng của Vietcombank chưa thực sự hiệu
quả cũng như yếu tố con người chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển là những nhân tố
chính gây nên sự giảm sút chất lượng tín dụng của Vietcombank.
Bên cạnh nhân tố chủ quan là các nhân tố khách quan, đó là sự tăng trưởng nóng
tín dụng trong năm 2007, những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm
2008 (như đã giải thích trong phần nợ quá hạn) và do một số bất cập còn tồn tại trong
cách phân loại nợ theo Quyết định 493 và Quyết định 18 của Ngân hàng Nhà nước.
Các yếu tố này cũng góp phần làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong khu vực tín dụng cho
các DNNVV tại
Vietcombank.
Quyết định 493 và Quyết
định 18 của Ngân hàng Nhà
nước quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng
Biểu đồ 2 - 6: So sánh nợ quá hạn và nợ xấu trong
tín dụng cho DNNVV giai đoạn 2005-2008
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
2005 2006 2007 2008
Tỷ VND
Nợ xấu Nợ quá hạn
64
của tổ chức tín dụng. Thực tiễn áp dụng cách phân loại nợ theo các Quyết định này tại
Vietcombank cho kết quả là tỷ lệ nợ xấu luôn cao hơn nhiều so với tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ xấu chủ yếu bao gồm các khoản nợ quá hạn từ trên 90 ngày và các khoản nợ
gia hạn. Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày chưa được xếp vào nhóm nợ xấu. Như
vậy, sự chênh lệch lớn giữa nợ xấu và nợ quá hạn là do tất cả các khoản nợ gia hạn đều
được xếp vào nhóm nợ xấu (nhóm 3, 4, 5).
Các khoản nợ quá hạn thì tuỳ thuộc vào thời gian quá hạn để phân loại vào các
nhóm khác nhau (quá hạn dưới 10 ngày thì phân vào nợ nhóm 1, quá hạn từ 10-90
ngày thì phân vào nợ nhóm 2, quá hạn từ 91-180 ngày thì phân vào nợ nhóm 3…);
Còn nếu nợ gia hạn thì không căn cứ vào thời gian gia hạn mà chỉ căn cứ vào số lần
gia hạn để phân loại vào các nhóm nợ khác nhau (gia hạn lần đầu thì phân vào nợ
nhóm 3, gia hạn lần thứ 2 thì phân vào nợ nhóm 4…).
Tuy nhiên, quy định của Quyết định 493 và Quyết định 18 là chưa phù hợp vì
không phải tất cả các khoản nợ gia hạn đều xấu; mặt khác, có những khoản nợ gia hạn
trong thời gian rất ngắn dưới 1tháng - thậm chí có khoản chỉ gia hạn 1, 2 tuần - và sau
đó khách hàng đều trả nợ đầy đủ, đúng hạn nhưng tất cả dư nợ của những khách hàng
có các khoản nợ gia hạn nói trên đều bị chuyển vào nhóm nợ xấu (vì theo quy định khi
khách hàng có 1 khoản nợ chuyển vào nhóm nợ xấu thì tất cả các khoản nợ còn lại
cũng phải chuyển vào nhóm nợ xấu) và phải mất thời gian thử thách ít nhất là 3 tháng
mới được thăng hạng chuyển sang nhóm nợ bình thường.
3.3 Nguyên nhân rủi ro tín dụng doanh nghiệp
nhỏ và vừa thời kỳ khủng hoảng kinh tế
Kết quả phân tích thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế từ cuối năm 2008 đến nay đã có
nhiều ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh doanh của ngân hàng, khiến cho hoạt động tín
dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giảm sút.
Một ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế là đã tạo ra rất nhiều rủi ro cho
hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhận biết các dấu hiệu có thể dẫn đến
rủi ro là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đưa ra biện pháp phòng tránh và xử lý hiệu
65
quả. Sau đây là 9 nhóm dấu hiệu tiềm tàng rủi ro chủ yếu từ phía khách hàng được sắp
xếp theo thứ tự mức độ thường xảy ra từ cao xuống thấp:
Một là, do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Rủi ro này thường thấy trong
các khoản vay có đặc điểm:
- Khách hàng đã triển khai nhiều phương án sản xuất kinh doanh nhưng do tác
động của cuộc khủng hoảng nên gặp nhiều khó khăn. Rủi ro: khách hàng có thể dùng
nguồn thu dự kiến của phương án kinh doanh được vay vốn của ngân hàng để làm
nguồn trả nợ cho các phương án kinh doanh khác.
- Khó quyết định chính xác hạn mức tín dụng cấp cho khách hàng vì không
đánh giá hết được mức độ rủi ro, chất lượng khách hàng. Rủi ro: cấp hạn mức tín dụng
quá cao cho khách hàng và khách hàng sẽ dùng vào mục đích khác.
- Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn lưu động thực sự của khách hàng. Rủi
ro: khách hàng sử dụng vốn vay vào mục đích khác.
- Khách hàng cùng lúc vay nhiều tổ chức tín dụng. Rủi ro: không kiểm soát
được dòng tiền của ngân hàng.
- Thời hạn cho vay (nhất là vay vốn lưu động) dài hơn mức cần thiết so với chu
kỳ dòng tiền. Rủi ro: khách hàng sử dụng tạm thời nguồn tiền khi chưa đến hạn trả nợ
cho ngân hàng, khoản tiền đó gặp rủi ro khi kinh tế khủng hoảng.
Hai là, khách hàng bị chiếm dụng vốn, mất vốn. Rủi ro này thường thấy trong các
khoản vay có đặc điểm:
- Khách hàng không có chính sách, biện pháp quản lý tốt các khoản phải thu.
Rủi ro: khách hàng khó thu hồi hoặc không thu hồi được các khoản phải thu.
- Do tác động của khủng hoảng, khách hàng gặp khó khăn. Rủi ro: các chủ đầu
tư khác trước đây góp vốn bằng tài sản, sau đó tìm cách rút vốn ra bằng tiền mặt.
Ba là, khách hàng không tiêu thụ được sản phẩm. Rủi ro này thường thấy trong
các khoản vay có đặc điểm:
- Khách hàng vay tiền để nhập hàng về tiêu thụ trong nước, thế chấp bằng hàng
hóa nhập về. Rủi ro: tiêu dùng trong nước giảm sút, hàng không tiêu thụ được.
- Thẩm định cho vay nhưng không thực sự hiểu các nội dung cơ bản về mặt kỹ
thuật, công nghệ của sản phẩm, đặc điểm kinh doanh mặt hàng. Rủi ro: hàng hóa khó
tiêu thụ, không tiêu thụ được.
66
Bốn là, khách hàng không đủ vốn lưu động để kinh doanh. Rủi ro này thường thấy
trong các khoản vay có đặc điểm:
- Khi cho vay không tính đúng, tính đủ nhu cầu vốn lưu động của doanh
nghiệp. Rủi ro: khách hàng thiếu vốn để thực hiện phương án kinh doanh nên kế hoạch
kinh doanh không hiệu quả.
- Khách hàng có hệ số nợ vay/vốn tự có cao. Rủi ro: tiềm lực về vốn của khách
hàng quá thấp, khách hàng không có đủ vốn để trả nợ.
Năm là, khách hàng không có đủ hoặc không thu xếp được nguồn vốn như kế
hoạch. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Cho vay ngắn hạn, mở L/C bảo lãnh nhập khẩu máy móc thiết bị khi chưa
thẩm định tổng thể phương án kinh doanh của khách hàng. Rủi ro: nếu các khâu khác
trong quy trình tổng thể không thực hiện tốt, phương án kinh doanh sẽ không tiến hành
được, như vậy vốn vay cũng khó thu hồi.
- Triển khai thực hiện phương án kinh doanh tại thời điểm thị trường tài chính
quá thuận lợi. Rủi ro: khách hàng chủ quan trong tính toán tính khả thi của việc thu
xếp nguồn vốn.
Sáu là, không đánh giá đúng tình trạng tổng thể của khách hàng. Rủi ro này
thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Khách hàng không minh bạch về các thông tin tài chính, thể hiện trong việc
không công khai về các khoản thuế phải thanh toán, giao dịch không có hóa đơn,
chứng từ, báo cáo tài chính không chuẩn xác.
- Thực tế khách hàng bị lỗ nhiều năm nhưng trên báo cáo tài chính (thường là
không có kiểm toán) vẫn có lãi (dấu hiệu thường thấy là giá trị các khoản phải thu,
hàng tồn kho tăng đột biến, giá trị lớn).
- Trong nhiều năm liên tục, giá bán sản phẩm của khách hàng không đủ để bù
đắp chi phí biến đổi.
- Các phương án từng lần trong cho vay theo hạn mức tín dụng đều có lãi,
nhưng tổng hợp cả năm thì lỗ.
Bảy là, do thay đổi chính sách thường xảy ra ở các khoản vay. Rủi ro này thường
thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
67
- Kinh doanh thương mại nhập hàng về bán trong nước (ô tô, xe máy, gỗ
tròn…). Chính sách về thuế của Nhà nước đối với các mặt hàng này thường xuyên
thay đổi. Rủi ro: thuế tăng cao, hàng hóa khó tiêu thụ được.
Tám là, khách hàng đầu cơ theo giá trị tài sản. Rủi ro này thường thấy trong các
khoản vay có đặc điểm:
- Dùng tài sản là bất động sản (máy móc, nhà xưởng… ) hoặc chứng khoán thế
chấp để vay vốn với mục đích khác nhau mà ngân hàng không kiểm soát được.
- Cho vay với nguồn trả nợ dựa quá nhiều vào giá trị tài sản thế chấp. Tuy
nhiên, phần lớn tài sản bảo đảm tiền vay là nhà xưởng, máy móc thiết bị, các quyền
đòi nợ… mà tính pháp lý chưa rõ ràng cũng như thanh khoản kém nên khả năng thu
hồi để giảm tổn thất khi rủi ro xảy ra chưa cao.
Chín là, khách hàng chủ đích lừa đảo. Rủi ro này thường thấy trong các khoản
vay có đặc điểm:
- Các doanh nghiệp thành lập nhiều công ty trong cùng một nhóm để vay vốn,
chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, Việt kiều đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị.
- Tính phức tạp trong hoạt động kinh tế với sự gia tăng các vụ lừa đảo tinh vi đã
gây nên rủi ro cho công tác tín dụng, đặc biệt trong điều kiện tình trạng thông tin bất cân
xứng mà chưa có hệ thống thông tin tín dụng hữu hiệu để hạn chế những rủi ro đó.
Bên cạnh những nguyên nhân từ phía khách hàng làm ảnh hưởng đến khả năng thu
hồi nợ vay, có nhiều nguyên nhân khác thuộc về phía ngân hàng. Đó có thể là những
nguyên nhân liên quan đến con người hoặc do quy trình cho vay chưa được hợp lý.
Điều đáng chú ý nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng DNNVV của
Vietcombank phần lớn còn trẻ, kinh nghiệm thực tế còn ít nên sự tự chủ, tính độc lập
trong thẩm định và quyết định cho vay rất hạn chế, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng.
Đôi khi, do năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế nên một số
phương án kinh doanh không được thẩm định chính xác về năng lực vốn, năng lực của
chủ doanh nghiệp nên phương án không đạt hiệu quả, không thể trả nợ vay ngân hàng.
Mặt khác, nếu cán bộ tín dụng xác định giới hạn tín dụng không hợp lý, quá cao so với
khả năng chịu nợ hoặc so với nhu cầu vốn của khách hàng, khách hàng sẽ không có
khả năng trả nợ hoặc dùng vốn vay sai mục đích. Trong khi đó, quá trình kiểm tra,
giám sát sau khi cho vay của ngân hàng còn tồn tại nhiều sơ hở, sai sót nên không thể
68
giám sát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như không kịp thời thu hồi
được tiền hàng để thu nợ.
4 Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank
4.1 Chính sách tín dụng
Từ những rủi ro đã gặp phải trong quá trình kinh doanh những năm qua, hiện nay
trong hoạt động tín dụng nói chung, Vietcombank đang thực hiện “Tăng trưởng tín
dụng trên cơ sở tập trung nâng cao chất lượng và hướng tới các chuẩn mực quốc tế”
với một số định hướng cơ bản: Tiếp tục tăng cường quản trị rủi ro, nâng cao chất
lượng tín dụng, mở rộng tín dụng an toàn, tập trung vào các dự án thật sự khả thi và
hiệu quả, đồng thời với việc tập trung giải quyết nợ xấu và kiểm soát chặt chẽ nợ quá
hạn; Chú trọng đầu tư tín dụng cho các DNNVV, cho vay bán lẻ, giảm dần cho vay đối
với các doanh nghiệp Nhà nước là khách hàng truyền thống của Vietcombank nhưng
tình hình tài chính chưa tốt, khả năng phát triển kinh doanh hạn chế, mạnh dạn cho vay
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Chú trọng công tác thẩm định tín dụng và nâng tỷ
lệ cho vay có bảo đảm để tăng trách nhiệm của khách hàng cũng như hạn chế tổn thất
khi rủi ro xảy ra. Phối kết hợp các dịch vụ ngân hàng đồng bộ để nâng cao chất lượng
phục vụ, đồng thời tăng cường khả năng thu hồi nợ; Tăng cường các giải pháp
marketing, phát triển thương hiệu. Có chính sách hợp lý để tiếp cận các dự án đầu tư,
các khách hàng trong các cụm công nghiệp và khu công nghiệp tập trung.
Trong những định hướng phát triển của Vietcombank thì “chú trọng đầu tư tín
dụng cho các DNNVV” luôn được ban lãnh đạo nhấn mạnh. Trong năm 2008 vừa qua,
thể hiện sự quyết tâm mở rộng thị trường tín dụng cho các DNNVV đồng thời góp
phần hỗ trợ sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn khó khăn, Vietcombank
đã quyết định dành thêm 3,000 tỷ đồng trong kế hoạch phát triển tín dụng năm 2008
để đẩy mạnh Chương trình cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa và đã luôn dẫn đầu trong
thực hiện cắt giảm lãi suất cho vay. Mức lãi suất cho vay của Vietcombank trong
những tháng cuối năm 2008 là thấp nhất trong khối các ngân hàng thương mại.
Bảng 2 - 8 Lãi suất cho vay VND tại Vietcombank cuối 2008 - đầu 2009
Ngày 1/10 21/10 5/11 17/11 21/11 2/12 5/12 22/12 1/2
69
LSCB 14 13 12 12 11 11 10 8.5 8.5
LS thường 19.5 18.5 16 16 13.5 13 12.48 11 10
LS ưu đãi 18.525 17.205 15.2 13.5 12 11 10.5 8.5 8.5
(Nguồn: vietcombank.com.vn)
4.2 Chính sách quản lý rủi ro tín dụng cho các
DNNVV tại Vietcombank
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh rủi ro, luôn đi cùng với rủi ro, bởi
vậy cần có các biện pháp quản trị rủi ro hiệu quả. Nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi
ro tín dụng, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã xây dựng cho mình
các chính sách quản lý rủi ro tín dụng rõ ràng, cụ thể và luôn thích nghi với thực tế.
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng của Vietcombank xác định mục tiêu quản lý rủi
ro tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo nguyên tắc toàn diện, liên tục ở tất
cả các giai đoạn có khả năng phát sinh rủi ro, thông qua các quy định cụ thể của từng
nghiệp vụ tín dụng. Chính sách áp dụng cho hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và
vừa bao gồm những vấn đề lớn sau đây:
Giới hạn tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa
Giới hạn tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa tuân thủ các
quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh đối với khách hàng theo Quyết định số
296/1999/QĐ-NHNN5 - Quyết định của Thống đốc NHNN Việt Nam về giới hạn cho
vay đối với một khách hàng của tổ chức tín dụng.
Cán bộ tín dụng thực hiện xếp hạng tín dụng của khách hàng theo quy định về xếp
hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam nhằm lượng hóa
mức độ rủi ro của từng khách hàng; theo đó sẽ xác định giới hạn tín dụng nhằm quản
lý tổng mức rủi ro tín dụng, bao gồm xác định giới hạn tín dụng tổng thể và giới hạn
tín dụng từng lần vay. Xếp hạng tín dụng nội bộ có 10 hạng: AAA, AA, A, BBB, BB,
B, CCC, CC, C, D, những khách hàng có mức xếp hạng tín dụng từ CC trở xuống sẽ
không cho vay. Cơ cấu điểm, mức điểm, kỹ thuật chấm điểm áp dụng trong xếp hạng
tín dụng được cải tiến liên tục thông qua thực tiễn triển khai để phù hợp với thực tế.
Quy định về hạn chế cấp tín dụng đối với khách hàng: tuân thủ các quy định của
pháp luật các trường hợp không được cấp tín dụng và hạn chế cấp tín dụng, đồng thời
70
thực hiện chủ trương giảm dư nợ tín dụng, hạn chế cấp tín dụng mới đối với các khách
hàng có dấu hiệu rủi ro (được quy định cụ thể cho từng loại khách hàng).
Chính sách phân bổ tín dụng
Tín dụng được phân bổ theo vùng địa lý: thực hiện phân chia phạm vi cấp tín
dụng theo khu vực địa lý dựa trên năng lực, vị trí của từng Chi nhánh; chủ trương ưu
tiên mở rộng hoạt động tín dụng tại những nơi có điều kiện mở rộng tín dụng và chất
lượng tín dụng bảo đảm, khống chế dư nợ tín dụng tối đa đối với những chi nhánh có
chất lượng tín dụng thấp.
Tín dụng được phân bổ bảo đảm sự phù hợp giữa cơ cấu kỳ hạn và loại tiền vay
với cơ cấu nguồn vốn, đa dạng hóa các sản phẩm, đa dạng hóa các đối tượng khách
hàng vay theo nguyên tắc hạn chế tối đa rủi ro, đa dạng hóa mặt hàng và lĩnh vực đầu
tư theo nguyên tắc phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế.
Thẩm quyền phán quyết
Thẩm quyền phán quyết bao gồm thẩm quyền phê duyệt giới hạn tín dụng, thẩm
quyền ra quyết định cấp tín dụng, thẩm quyền ký kết hợp đồng tín dụng. Các thẩm
quyền này được phân theo từng cấp bậc trong Vietcombank (Vietcombank quy định cụ
thể thẩm quyền phán quyết của Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc/Phó Tổng Giám
đốc phụ trách tín dụng, các Trưởng/Phó phòng chức năng tại Hội sở chính, Hội đồng
tín dụng cơ sở, Giám đốc Chi nhánh…).
Thẩm quyền phán quyết tín dụng được thực hiện theo Quy định về thẩm quyền
phê duyệt GHTD/cấp tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số
44/QĐ-VCB.CSTD ngày 08/03/2007 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam. Trong trường hợp GHTD/cấp tín dụng vượt thẩm quyền về giá trị
và/hoặc thời hạn thì Chi nhánh trình lên Hội sở chính phê duyệt.
Chính sách phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng
Vietcombank thực hiện phân loại nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt những
khoản nợ xấu sẽ tăng cường phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ với tần suất nhiều
hơn để phục vụ công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng. Định hướng của
Vietcombank trong thời gian tới sẽ thực hiện phân loại nợ trên cơ sở xếp hạng khách
hàng và tiến tới trích lập dự phòng theo thông lệ quốc tế tốt nhất.
Các quy định về báo cáo, kiểm tra, giám sát rủi ro
71
Tình hình chất lượng tín dụng trong toàn hệ thống được báo cáo theo định kỳ
nhằm giúp ngân hàng kịp thời đánh giá công tác quản lý rủi ro, đồng thời đề xuất các
biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng.
4.3 Bộ máy tổ chức cấp tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Tham gia trực tiếp vào hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
có các phòng chức năng tại Hội sở chính (phòng Chính sách tín dụng, Quan hệ khách
hàng, Quản lý nợ) và tại các Chi nhánh (phòng Quan hệ khách hàng, Quản lý nợ).
Giám đốc Chi nhánh phân công phê duyệt tín dụng trong Ban Giám đốc đối với các
khoản tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng cho DNNVV của Vietcombank có trình độ
chuyên môn, được đào tạo bài bản, tốt nghiệp các chuyên ngành kinh tế - tài chính -
ngân hàng. Tuy nhiên đa số cán bộ tín dụng đều còn trẻ, kinh nghiệm thực tiễn chưa
nhiều, chỉ có 40% cán bộ có thâm niên công tác trong ngành trên 3 năm. Nguyên nhân
là do, hoạt động tín dụng tăng cao mà chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về nguồn nhân lực,
do cơ cấu lại nhân lực, mặt khác do cơ chế đãi ngộ chưa thỏa đáng dẫn đến hiện tượng
một số cán bộ có năng lực và kinh nghiệm chuyển qua các tổ chức tín dụng khác.
4.4 Quy trình tín dụng
Hiện nay Vietcombank đang thực hiện song song 3 quy trình tín dụng dành cho
các đối tượng khách hàng khác nhau: khách hàng là người tiêu dùng, khách hàng là
các doanh nghiệp lớn và khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với khách
hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Vietcombank hiện đang áp dụng Quy trình tín
dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Quyết định 36/QĐ-VCB.CSTD ngày
28/01/2008 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (gọi là
Quy trình 36). Quy trình này được áp dụng đối với các khách hàng là doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo quy định của Vietcombank trong từng thời kỳ.
Theo Quy trình 36, hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank được thực hiện qua 2 bộ phận độc lập là Phòng Quan hệ khách hàng và
72
Phòng Quản lý nợ. Thẩm quyền phê duyệt GHTD/cấp tín dụng thuộc về Giám
đốc/Phó Giám đốc Chi nhánh.
Phòng Quan hệ khách hàng thực hiện chức năng bán hàng, là đầu mối dịch vụ một
cửa cung cấp tất cả các sản phẩm dịch vụ và đưa ra chính sách giá tổng thể đối với
khách hàng. Phòng Quan hệ khách hàng là nơi khởi tạo tín dụng, thực hiện thẩm định
chuyên sâu và đề xuất ý kiến về thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng.
Phòng Quản lý nợ thực hiện quản lý và trực tiếp thực hiện các tác nghiệp liên
quan đến việc giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ thống khớp đúng với số
liệu trên hồ sơ, lưu giữ hồ sơ và đảm bảo tính tuân thủ trong quy trình cấp tín dụng. Về
cơ bản, Phòng Quản lý nợ sẽ tham gia vào quá trình kiểm soát giải ngân, đảm bảo sự
độc lập và khách quan trong thực hiện các quyết định cấp tín dụng.
4.5 Bảo đảm tiền vay
Phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả là tiêu chí quyết định trong việc xem xét
cho vay. Tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn trong các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa là rất lớn và đa dạng, nhiều rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người mà
thẩm định tín dụng không thể lường hết được. Khách hàng cũng cần phải nâng cao
tính chịu trách nhiệm và chia sẻ rủi ro với ngân hàng. Bởi thế, hầu hết các khoản cho
vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank đều cần phải có bảo đảm,
góp phần vào giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra. Vietcombank rất chú trọng tăng
cường áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, đa dạng về hình thức: thế chấp, cầm
cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay…
Trong thực tế, vấn đề sử dụng tài sản đảm bảo để hạn chế tổn thất của các khoản
cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa gây ra rất nhiều khó khăn cho ngân hàng. Tài sản tự
có của hầu hết các doanh nghiệp đều rất nhỏ (bình quân giá trị các doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở Việt Nam là khoảng 1.33 tỷ đồng/doanh nghiệp). Hơn nữa, tính thanh khoản
của các tài sản còn hạn chế nên khả năng thu hồi nợ còn thấp. Một số tài sản không có
giấy tờ về quyền sở hữu (nhà xưởng, công trình xây dựng trên đất), một số tài sản là
quyền đòi nợ mà khả năng kiểm soát nguồn thu rất khó khăn. Do đó, khi xử lý tài sản
bảo đảm trên thực tế rất phức tạp, cả về mặt pháp lý cũng như khả năng chuyển
nhượng tài sản, mất rất nhiều thời gian và công sức.
73
4.6 Phòng ngừa, phát hiện và hạn chế rủi ro tín
dụng
Kiểm tra và phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro tín dụng là công việc không chỉ
của các cán bộ tham gia vào quy trình cấp tín dụng mà còn được quán triệt đến từng
cán bộ của Vietcombank. Tuy nhiên, thực tế những năm qua cho thấy, công tác phát
hiện rủi ro tín dụng của Chi nhánh mang tính thụ động, chủ yếu là xử lý khi những dấu
hiệu rủi ro đã xuất hiện (không trả được nợ đúng hạn, khách hàng có liên quan đến các
vụ án, kinh doanh thua lỗ, kết quả phân loại nợ không tốt…), khả năng dự báo và
phòng ngừa từ xa chưa tốt do sự hạn chế về trình độ, kinh nghiệm của cán bộ; hệ
thống thông tin thị trường và nghiệp vụ xử lý thông tin qua các phân tích, dự báo chưa
tốt; công tác kiểm tra sử dụng vốn còn hời hợt, chủ yếu dựa vào báo cáo trên giấy tờ
do khách hàng cung cấp, đặc biệt là các khách hàng ở xa…
Để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra, Vietcombank có chủ trương yêu cầu khách
hàng phải mua bảo hiểm khi thực hiện phương án hoặc khi kinh doanh xuất nhập khẩu.
Giải pháp này đã phát huy tác dụng đáng kể khi thiên tai xảy ra, vốn rất thường xuyên
ở nước ta, vì có nguồn hỗ trợ để bù đắp các tổn thất vốn vay.
4.7 Công tác xử lý nợ xấu
Để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả, Ban giám sát xử lý nợ xấu của Vietcombank
yêu cầu các Chi nhánh linh hoạt trong xây dựng các giải pháp xử lý nợ phù hợp với
tình hình thực tế. Những giải pháp cơ bản đã được triển khai trong thời gian qua là:
Vietcombank đã thành lập Ban xử lý nợ xấu tại các chi nhánh gồm những thành
viên là phụ trách phòng của các Phòng nghiệp vụ có liên quan để xây dựng kế hoạch
và các biện pháp cụ thể, tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh các quyết định thích hợp
để xử lý nợ xấu kịp thời và đúng tiến độ. Ban xử lý nợ xấu thực hiện họp định kỳ mỗi
tháng một lần để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động xử lý nợ
một cách toàn diện và liên tục.
Định hướng chung của Vietcombank trong xử lý nợ xấu là thực hiện các giải pháp
hợp lý trên cơ sở phân tích tình hình của từng khách hàng cụ thể. Chủ trương của
Vietcombank là thực hiện thương lượng, phối hợp với khách hàng trong xử lý nợ xấu
để quá trình triển khai được nhanh chóng và ít tốn thời gian. Đối với các khách hàng
74
có thái độ thiếu hợp tác, thoái thác trách nhiệm trả nợ, thì kiên quyết thực hiện các
biện pháp pháp lý, khởi kiện ra tòa để tăng cường khả năng thu hồi nợ.
5 Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank
Hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Vietcombank trong giai đoạn 2005 – 2008 được thể hiện qua một số chỉ tiêu dưới đây:
Bảng 2 - 9 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
Lợi nhuận (tỷ VND) 237.3 517.5 402.6 425.8
Tăng lợi nhuận (tỷ VND) 38.6 280.2 (114.9) 23.2
Tăng lợi nhuận (%) 19.43 118.08 (22.21) 5.76
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 1.88 1.19 1.25 2.78
Tỷ lệ nợ xấu (%) 3.46 2.31 3.39 4.62
Như vậy, nếu kết hợp các chỉ tiêu về lợi nhuận và chất lượng tín dụng để đánh giá
hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng DNNVV thì trong năm 2006, hoạt động này
đạt thành công nhất, thể hiện ở mức tăng trưởng lợi nhuận cao và tỷ lệ nợ xấu, nợ quá
hạn thấp. Trong hai năm 2007 và 2008, chất lượng quản trị rủi ro tín dụng có những
biểu hiện đi xuống nghiêm trọng, lợi nhuận tín dụng tăng trưởng ở mức thấp, thậm chí
còn giảm. Đó là do những hạn chế nhất định còn tồn tại trong những quy định và mô
hình quản trị rủi ro của Vietcombank, cụ thể có một số hạn chế cơ bản như sau:
Về quy định phân cấp xác định giới hạn tín dụng/cấp tín dụng
Theo phân cấp xác định GHTD/cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
cán bộ tín dụng thuộc phòng Quan hệ khách hàng tại các Chi nhánh có nhiệm vụ tiếp
nhận, phân tích, đánh giá các đề nghị cấp tín dụng của khách hàng và đề xuất
GHTD/cấp tín dụng lên Giám đốc/Phó Giám đốc Chi nhánh phê duyệt.
Giới hạn tín dụng là mức tín dụng tối đa mà ngân hàng đồng ý cấp cho khách
hàng, thể hiện mức độ rủi ro tổng thể xét trên toàn bộ hoạt động kinh doanh của khách
hàng. Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện rất nhiều giao dịch. Rủi ro
của một giao dịch không nhất thiết dẫn đến rủi ro hệ thống, nhưng nếu xảy ra rủi ro hệ
thống thì mọi giao dịch sẽ chịu rủi ro. Việc xác định giới hạn tín dụng rất quan trọng
trong quản trị rủi ro tín dụng và cần được một bộ phận độc lập và chuyên môn hóa
75
thực hiện để đảm bảo tính khách quan và hướng đến các chuẩn mực quốc tế như
nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu đã đề ra. Vì vậy sự phân cấp trong xác định giới
hạn tín dụng chưa đảm bảo được yêu cầu này.
Về cơ sở xác định giới hạn tín dụng
Hiện nay việc xác định giới hạn tín dụng cho doanh nghiệp dựa trên tình hình
kinh doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp, mức độ rủi ro và giới hạn tín dụng
tham khảo. Khi xác định giới hạn tín dụng, trước hết phải xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp và áp dụng công thức để tính giới hạn tín dụng tham khảo.
Tín dụng tham khảo là một số tham chiếu rất cần thiết trong việc ra quyết định
giới hạn tín dụng. Tuy nhiên, việc tính toán giới hạn tín dụng tham khảo đang trong
quá trình thử nghiệm, chưa phải là một căn cứ chặt chẽ. Giới hạn tín dụng đưa ra cũng
có thể lớn hơn giới hạn tín dụng tham khảo chỉ cần có các lý lẽ thuyết minh cho sự lớn
hơn đó. Do vậy, việc tính toán giới hạn tín dụng tham khảo và định lượng các yếu tố
tài chính, phi tài chính để xếp hạng tín dụng doanh nghiệp không còn nhiều ý nghĩa.
Nhiều khi, giới hạn tín dụng được xác định vượt khá xa so với giới hạn tín dụng tham
khảo và không có mối liên hệ nào cả. Do đó yếu tố định tính ảnh hưởng nhiều hơn đến
giới hạn tín dụng so với yếu tố định lượng, điều này là không phù hợp với xu hướng
phát triển trong quản trị rủi ro tín dụng hiện đại.
Về thời gian đánh giá lại giới hạn tín dụng
Trong các lần cho vay cụ thể đối với khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ thực hiện
đánh giá rủi ro của từng lần giao dịch và đề xuất hạn mức tín dụng của từng lần cho
vay không vượt quá GHTD. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng không thường xuyên đánh giá
lại GHTD, đặc biệt đối với những khách hàng quen đã giao dịch nhiều lần, tạo ra tâm
lý chủ quan, dẫn đến không kịp thời phát hiện những đe dọa đến chất lượng tín dụng.
Quy định về chính sách khách hàng
Các chính sách về chi phí, lãi suất của Vietcombank áp dụng đối với khách hàng
chưa rõ ràng và chưa có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro với lợi ích yêu cầu của ngân
hàng tương ứng với mức độ rủi ro.
Vietcombank chưa ban hành một chính sách khách hàng cụ thể và cơ sở phân loại
khách hàng để áp dụng vào chính sách đó. Các chính sách phí, lãi suất được đưa ra là
76
phí, lãi suất ưu đãi áp dụng đối với những khách hàng tốt nhất nhưng “chuẩn” về
khách hàng tốt nhất vẫn chưa rõ ràng, thống nhất mà chỉ là tiêu chuẩn định tính, chưa
được lượng hóa để việc áp dụng được hợp lý và khách quan.
Về định hướng khách hàng
Để có thể chủ động trong việc cấp tín dụng cho những thị trường mục tiêu phù
hợp với đặc thù của ngân hàng và ít rủi ro, Vietcombank cần phải xây dựng cho mình
các chiến lược dài hạn, kế hoạch tín dụng và định hướng thị trường, định hướng khách
hàng mục tiêu. Tuy nhiên hiện nay Vietcombank vẫn chưa xây dựng được một chiến
lược rõ ràng về phân khúc thị trường nhất định cho từng khu vực, từng chi nhánh.
Chính vì vậy hoạt động đầu tư tín dụng của Vietcombank còn mang tính thụ động, đầu
tư tín dụng theo phong trào nên khả năng phòng ngừa và hạn chế rủi ro còn thấp.
Về danh mục đầu tư
Hiện nay danh mục đầu tư của Vietcombank vẫn chủ yếu gồm các doanh nghiệp
lớn, các tổng công ty nhà nước; mặc dù đã có định hướng phát triển đối với loại hình
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho vay thể nhân nhưng do chỉ đạo chưa quyết liệt nên tỷ
trọng đầu tư tín dụng trong khu vực này còn thấp, chưa góp phần đa dạng hóa rủi ro.
Về sự tuân thủ quy trình tín dụng
Sự tuân thủ quy trình tín dụng của Vietcombank có những thời điểm chưa nghiêm
và thiếu thận trọng. Nhiều khoản tín dụng được phê duyệt một cách vội vàng, chạy
theo yêu cầu của khách hàng và được chỉ định của cấp phê duyệt từ trên xuống mà
thiếu đi sự phân tích, thẩm định tín dụng của cán bộ quản lý khoản vay. Việc cấp tín
dụng còn mang tính cảm tính, không dựa vào quá trình thu thập thông tin, phân tích và
xử lý thiếu thận trọng và chính xác. Quá trình giải ngân và giám sát sau khi cho vay rất
lỏng lẻo, có nhiều khoản giải ngân bằng tiền mặt theo sự lý giải của khách hàng một
cách bất hợp lý và đã thực sự trở thành nợ xấu, giám sát kiểm tra sau khi cho vay được
thực hiện qua loa. Nhiều Chi nhánh thực hiện đầu tư tín dụng ngoài địa bàn hoạt động
của Chi nhánh nên việc kiểm tra tình hình kinh doanh, năng lực tài chính, tính trung
thực trong sử dụng vốn vay và kiểm soát nguồn tiền của khách hàng không đảm bảo
tính chính xác và kịp thời. Tất cả những điều đó đã làm cho khả năng phòng ngừa,
chống đỡ rủi ro tín dụng của Vietcombank còn hạn chế, chất lượng tín dụng giảm sút.
Về đào tạo con người
77
Trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong năm 2007 và năm 2008 Vietcombank
đã chú trọng đến việc phát triển mở rộng mạng lưới các chi nhánh và hệ thống các
Phòng giao dịch, theo đó có 36 Chi nhánh được nâng cấp và 84 Phòng giao dịch được
thành lập. Tuy nhiên, công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị kịp thời, số
lượng cán bộ chủ chốt để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh thiếu khá nhiều.
Sau khi các Chi nhánh cấp 2 được nâng cấp thành Chi nhánh cấp 1, hoặc thành
lập mới các Phòng giao dịch, một số cán bộ cũ đi nắm giữ các chức vụ chủ chốt tại các
Chi nhánh và các Phòng giao dịch, một số khác chuyển sang làm lãnh đạo tại các ngân
hàng cổ phần nên lực lượng cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt, đặc biệt cán bộ làm
công tác tín dụng càng thiếu trầm trọng. Thêm vào đó, hầu hết cán bộ làm công tác tín
dụng tuổi đời còn trẻ, dưới 30 tuổi, phần lớn công tác trong lĩnh vực tín dụng từ 1 – 3
năm nên kinh nghiệm còn hạn chế. Khác với các nghiệp vụ khác tại Ngân hàng, cán bộ
làm công tác tín dụng ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn còn đòi hỏi phải có kinh
nghiệm thực tiễn và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng. Tổng Giám đốc Vietcombank,
ông Vũ Viết Ngoạn đã kết luận từ thực tiễn là muốn có một cán bộ tín dụng đủ năng
lực, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu công việc phải qua đào tạo, làm việc ít nhất là 3
năm. Điều này cho thấy với lực lượng cán bộ còn ít kinh nghiệm trong hoạt động thực
tiễn cũng như công tác đào tạo, quy hoạch nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng
mức, khả năng hạn chế rủi ro tín dụng sẽ rất khó khăn.
78
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG DNVVN TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA VIETCOMBANK VỀ CHÍNH SÁCH TÍN
DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN NĂM 2015
1 Quan điểm
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam đã đề ra nguyên tắc về việc xây dựng
chính sách tín dụng cho giai đoạn sắp tới: chính sách tín dụng có tác dụng đảm bảo
việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc sau đây khi cấp tín dụng cho khách hàng:
Tuân thủ pháp luật: tất cả cán bộ, nhân viên của Ngân hàng Thương Mại Cổ
Phần Ngoại Thương có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động
tín dụng và các quy định có liên quan. Việc cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ sở
lợi ích chính đáng và hợp pháp của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương,
không được lợi dụng tài sản và uy tín của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại
Thương vì mục đích cá nhân trong hoạt động tín dụng.
Phù hợp với chiến lược hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương Mại Cổ
Phần Ngoại Thương trong từng thời kỳ: mở rộng và phát triển tín dụng phải dựa trên
cơ sở chiến lược, định hướng kinh doanh tại từng thời kỳ và có sự kết hợp với các bộ
phận khác trong toàn bộ hệ thống.
Vừa tôn trọng quyền tự quyết của Giám đốc Chi nhánh vừa đảm bảo mục
tiêu quản lý rủi ro tín dụng: chính sách tín dụng vừa đảm bảo an toàn tín dụng, song
vừa đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động thực tế, dành cho chi nhánh khả năng
nắm bắt tốt nhất các cơ hội phát triển đầu tư tín dụng theo mục tiêu, định hướng kinh
doanh trong từng giai đoạn.
Quan điểm bình đẳng và hướng tới khách hàng: trong cấp tín dụng, Ngân
hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương thực hành thống nhất chính sách khách
hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu (ngoại trừ trường hợp cấp
tín dụng theo chỉ định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước) phù hợp với hoạt động
kinh doanh theo cơ chế thị trường. Các ưu đãi trong tín dụng chỉ căn cứ vào năng lực
tài chính, uy tín, mức độ rủi ro và thiện chí trả nợ của bản thân khách hàng.
79
Đề cao trách nhiệm cá nhân: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đề cao trách
nhiệm cá nhân nhằm nâng cao tính minh bạch và chất lượng trong hoạt động tín dụng.
Các cá nhân được giao quyền quyết định phải tự chịu trách nhiệm trước hết đối với
quyết định của mình.
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đã ban
hành Quyết định số 57/QĐ-NH TMCP NT.HĐQT ngày 22/03/2007 về việc xây dựng
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm mục đích:
- Thống nhất cơ chế quản lý rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống;
- Tạo môi trường quản lý rủi ro tín dụng minh bạch và hiệu quả;
- Đảm bảo hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, chủ động đối phó với
rủi ro tín dụng;
- Xác định và phân chia trách nhiệm quản lý rủi ro tín dụng đối với từng cấp
bậc trong ngân hàng.
Quan điểm tổng quát của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương về rủi ro tín dụng:
- Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho 1 khách hàng, 1 ngành nghề/lĩnh
vực; các nhóm khách hàng, ngành nghề/lĩnh vực có liên quan với nhau; 1 loại
tiền tệ và tại một địa bàn.
- Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải được thực hiện theo chế
độ tập thể (nhiều thành viên cùng tham gia quyết định cho vay thông qua nhiều
mức xét duyệt và biểu quyết hoạt động của Hội đồng tín dụng), bảo đảm tính
khách quan trong việc cấp tín dụng.
- Áp dụng hạn mức quyết định cấp tín dụng và/hoặc thời hạn cấp tín dụng tùy
thuộc vào năng lực của Chi nhánh.
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng là văn bản cao nhất trong lĩnh vực quản lý rủi
ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Trong chính sách quản lý
rủi ro tín dụng, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam phân định rõ bộ máy tổ
chức quản lý rủi ro tín dụng; thẩm quyền ban hành các văn bản quản lý rủi ro tín dụng;
chính sách quản lý tín dụng đối với khách hàng; chính sách phân bổ tín dụng; chính
sách về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng; thẩm quyền phán
quyết; quy định về báo cáo và kiểm tra giám sát rủi ro. Đây là những cơ sở quan trọng
cho các Chi nhánh trong thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng.
80
Hình thức quản trị rủi ro tín dụng:
Hội đồng quản trị ban hành các văn bản nhằm tạo môi trường quản lý rủi ro tín
dụng chung, đề ra các mức rủi ro có thể chấp nhận được và phê duyệt chiến lược rủi ro
từng thời kỳ. Hội đồng quản trị cũng ban hành Quy chế/quy định cho vay, Quy
chế/quy định bảo lãnh, Quy chế/quy định bảo đảm tiền vay, Quy chế/quy định miễn
giảm lãi đối với khách hàng…
Tổng Giám đốc ban hành các văn bản có tính chất hướng dẫn, triển khai các quy
định của Hội đồng quản trị liên quan đến quản lý rủi ro tín dụng như quy trình tín
dụng, cẩm nang tín dụng, chính sách phân bổ tín dụng trong từng thời kỳ, các quy định
liên quan về việc đo lường và nhận biết rủi ro, thẩm quyền xét duyệt…
2 Mục tiêu
Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro nhưng ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro,
tức là không cho vay, mà chỉ có thể tìm cách để hoạt động tín dụng trở nên an toàn
hơn và hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất thông qua nâng cao chất lượng quản trị rủi ro
tín dụng. Do vậy, quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương cần phải đáp ứng được các mục tiêu sau:
- Giảm thiểu rủi ro tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng nhưng đảm
bảo tăng trưởng theo chính sách và định hướng tín dụng đã đề ra. Mục tiêu về chất
lượng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu dưới 2%, tăng trưởng tín dụng đạt mức 25 - 30%/năm.
- Phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư tín dụng theo định hướng lựa chọn
những ngành nghề, lĩnh vực và nhóm khách hàng có khả năng phát triển và đạt hiệu
quả; không đầu tư quá mạnh, đầu tư theo phong trào vào một nhóm ngành hàng/khách
hàng cho dù ngành nghề/khách hàng đó đang có sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ
nhưng có khả năng bão hòa hoặc cung vượt cầu trong tương lai.
- Tăng khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương thông qua nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường kiểm
soát, giám sát liên tục, toàn diện và kịp thời trong quá trình cấp tín dụng.
- Xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu linh hoạt, hiệu quả, nhằm giữ được sự hợp tác
của khách hàng trong quá trình xử lý nợ xấu, giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và hướng đến các chuẩn mực quốc
tế trong quản trị rủi ro tín dụng.
81
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG DNNVV TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI
1 Hoàn thiện Tổ chức bộ máy cấp tín dụng & Quy trình tín dụng
1.1 Về cơ cấu tổ chức bộ máy cấp tín dụng doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy cấp tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Vietcombank vẫn còn tồn tại một số bất cập, cần được dần dần khắc phục qua hai giai
đoạn: trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và hậu khủng hoảng kinh tế.
Có thể thấy rõ hiệu quả hoạt động được thể hiện qua lợi nhuận. Lợi nhuận bị ảnh
hưởng bởi hai yếu tố: doanh thu (tăng trưởng tín dụng) và chi phí (chi phí trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng). Nếu xét trên góc độ quản trị rủi ro, thì cần giảm thiểu chi phí
để tăng lợi nhuận và qua đó sẽ nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro. Do tác động của cuộc
khủng hoảng, cả khách hàng và ngân hàng đều rất thận trọng trong việc đi vay và cho
vay khiến cho doanh thu tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank rất khó
tăng trưởng – đây là yếu tố khách quan. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu gia tăng – chủ yếu
do các yếu tố chủ quan – làm tăng chi phí trích lập dự phòng rủi ro. Vì vậy khi cuộc
khủng hoảng vẫn đang diễn ra, Vietcombank cần chú trọng hơn vào chất lượng tín
dụng (giảm tỷ lệ nợ xấu) so với việc mở rộng quy mô tín dụng, đồng thời xây dựng cơ
cấu tổ chức bộ máy cấp tín dụng theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả.
Cơ cấu tổ chức cấp tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua 2 bộ phận như
hiện tại là hết sức phù hợp, vừa giúp tinh giản bộ máy, vừa giảm thiểu số nhân viên, do
đó góp phần tiết kiệm chi phí hoạt động. Tuy nhiên, chất lượng thẩm định rủi ro và
hiệu quả kiểm tra, giám sát các khoản tín dụng của cán bộ cần được nâng cao.
Vietcombank có thể tận dụng thời gian công việc chưa dồn dập để đưa các cán bộ tín
dụng trẻ đi đào tạo nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai. Mô hình phòng tín
dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện đang được thí điểm tại Sở giao dịch và tại Chi
nhánh TP. Hồ Chí Minh cũng chưa cần triển khai áp dụng tại các chi nhánh khác trong
thời điểm này mà nên được tối ưu hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động. Như vậy, khi mô
hình được áp dụng cho các chi nhánh khác sẽ đạt được thành công lớn hơn.
82
Khi nền kinh tế đã phục hồi và phát triển, Vietcombank cần nhanh chóng tái cơ
cấu tổ chức các bộ phận tham gia vào quá trình cấp tín dụng theo hướng mở rộng và
hoàn thiện hơn, khắc phục được các hạn chế hiện tại. Song song với quá trình cơ cấu
lại tổ chức là công việc xây dựng mới các quy định cụ thể về thẩm quyền phán quyết
tín dụng của các Chi nhánh cho phù hợp.
Với mục tiêu tăng cường khả năng phân tích, đánh giá các khoản tín dụng doanh
nghiệp nhỏ và vừa và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát của bộ phận
kiểm tra nội bộ, Vietcombank cần xây dựng một bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, bộ
phận kiểm tra nội bộ độc lập, có đầy đủ thẩm quyền và tách biệt về lợi ích với các Chi
nhánh. Đồng thời, bộ máy tổ chức mới này phải đảm bảo giảm thiểu thủ tục hành
chính, thời gian xử lý hồ sơ, không làm ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ khách
hàng, không làm mất nhiều thời gian cho quá trình cấp tín dụng. Dựa trên những tiêu
chí đó, tôi xin đưa ra một số đề xuất về xây dựng bộ máy cấp tín dụng doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Vietcombank như sau:
Vietcombank nên thành lập Phòng Quản lý rủi ro tín dụng, Phòng Kiểm tra nội bộ
tại các khu vực nhưng không trực thuộc các Chi nhánh mà trực thuộc Hội sở chính để
thực thi chức năng quản lý trong từng khu vực. Phòng Quản lý rủi ro tín dụng khu vực
có nhiệm vụ thẩm định và ra quyết định đối với các khoản tín dụng (cho các doanh
nghiệp, cả doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp lớn). Phòng Kiểm tra nội bộ
khu vực có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Việc
thành lập này sẽ đảm bảo tính độc lập và khách quan trong các quyết định tín dụng của
bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, nâng cao khả năng kiểm tra, kiểm soát của bộ phận
kiểm tra nội bộ. Đồng thời việc đặt tại các khu vực giúp cho các phòng này có điều
kiện nắm bắt được những đặc điểm, tình hình của địa phương nhằm giải quyết kịp thời
các yêu cầu của Chi nhánh và rút ngắn thời gian xử lý công việc. Đồng thời với quá
trình đó, ngân hàng thành lập Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng cho các Doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong Phòng Quản lý rủi ro tín dụng khu vực. Bộ phận này có nhiệm vụ
phân tích, đánh giá các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng
thời xác định giới hạn tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa và đánh giá lại giới
hạn tín dụng theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Tại Chi nhánh, ngân hàng từng bước
83
triển khai mô hình cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo mô hình hiện
đang được thí điểm tại Sở giao dịch ở Hà Nội và tại Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh.
Cơ cấu tổ chức như trên hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế thể hiện
trong nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu và phù hợp với sự tư vấn của Ngân hàng Thế
giới đối với Vietcombank. Để phù hợp với cơ cấu tổ chức mới như trên, thẩm quyền
phán quyết của các Chi nhánh cũng cần được điều chỉnh tương ứng. Phân cấp, phân
quyền là một yêu cầu bắt buộc trong công tác quản lý và đây cũng là một nghệ thuật
bởi nếu có sự bất hợp lý trong phân cấp, phân quyền thì hoặc là dẫn đến sự thụ động, ỷ
lại, hoặc là sự lạm dụng quyền hạn, dẫn đến Hội sở chính không kiểm soát được các
Chi nhánh. Thẩm quyền phán quyết nên thực hiện theo hướng:
Sử dụng hệ thống xếp hạng Chi nhánh đã được triển khai để phân loại Chi nhánh,
xác định năng lực Chi nhánh và căn cứ vào chất lượng khách hàng, môi trường kinh
doanh và khả năng phát triển để xác định thẩm quyền phán quyết.
Giảm thẩm quyền phán quyết của các Chi nhánh đối với giới hạn tín dụng cho các
doanh nghiệp: Xác định giới hạn tín dụng đem lại cái nhìn tổng thể về tình hình kinh
doanh, tài chính và mức độ rủi ro của doanh nghiệp dựa trên sử dụng công cụ định
lượng mang tính khoa học và được thực hiện định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Đây là một
công việc quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
phòng ngừa, đến mức độ rủi ro và tổn thất trong hoạt động tín dụng. Do đó, công việc
xác định giới hạn tín dụng cho các doanh nghiệp nên được giao cho Phòng Quản lý rủi
ro tín dụng khu vực thực hiện, là một bộ phận quản lý giám sát tín dụng độc lập với
hoạt động của Chi nhánh, nơi kinh doanh tạo ra rủi ro. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc giảm thẩm quyền phán quyết của các Chi nhánh.
1.2 Về quy trình tín dụng
Quy trình 36 áp dụng trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa qua triển khai thực tế đã cho thấy nhiều ưu điểm của nó. Trong Quy trình 90
áp dụng chung cho doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa trước đây, việc
cấp tín dụng được thực hiện qua ba bộ phận: Phòng Quan hệ khách hàng, Phòng
Quản lý rủi ro và Phòng Quản lý nợ. Đối với Quy trình 36, việc cấp tín dụng cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện chỉ thông qua hai bộ phận là Phòng
84
Quan hệ khách hàng và Phòng Quản lý nợ nên đã giản lược thời gian và thủ tục cấp
tín dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa được tiếp cận vốn vay dễ
dàng hơn và nhanh chóng hơn.
Tuy nhiên, theo như phân tích ở trên thì bước thẩm định rủi ro và xác định giới
hạn tín dụng nên do một bộ phận độc lập thực hiện để đảm bảo sự khách quan. Do
đó cùng với việc sửa đổi cơ cấu tổ chức cấp tín dụng thì quy trình tín dụng nên thực
hiện theo hướng: Trong quy trình tín dụng áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, Phòng Quan hệ khách hàng sẽ là bộ phận tiếp nhận hồ sơ, thu thập các
thông tin cần thiết liên quan đến khách hàng để phục vụ cho quá trình thẩm định rủi
ro. Hồ sơ và thông tin được chuyển đến Bộ phận Quản lý rủi ro tín dụng cho các
Doanh nghiệp nhỏ và vừa để bộ phận này thực hiện thẩm định, đánh giá rủi ro và
xác định giới hạn tín dụng cho doanh nghiệp. Sau đó, Giám đốc/Phó giám đốc chi
nhánh sẽ là người ra quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Cuối cùng, khi khách
hàng được đồng ý cấp tín dụng, hồ sơ của khách hàng sẽ được chuyển đến Phòng
Quản lý nợ, phòng này sẽ tiến hành giải ngân và quản lý, cập nhật hồ sơ.
2 Hoàn thiện các văn bản liên quan đến cấp tín dụng
Các văn bản liên quan đến cấp tín dụng của Nhà nước liên tục được sửa đổi, bổ
sung. Với chủ trương hướng đến các chuẩn mực quốc tế, trên cơ sở những quy định
của Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank đã ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết
về quy chế cho vay theo hướng chặt chẽ hơn so với quy định mà NHNN đặt ra. Cụ
thể, Vietcombank quy định tổng thời gian gia hạn nợ ngắn hạn không quá thời hạn
cho vay ban đầu, quy định các phương án vay để trả thuế thu nhập doanh nghiệp…
Tuy nhiên thời gian ban hành các quy định hướng dẫn thường rất lâu, thậm chí một
số quy định đã được nhà nước bãi bỏ nhưng Vietcombank vẫn chưa có sự thay đổi
những hướng dẫn của quy định đó, dẫn đến việc thực hiện các quy định rất lúng
túng. Bởi vậy, Vietcombank cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản hướng
dẫn, đảm bảo cập nhật những thay đổi cho phù hợp với quy định của NHNN.
Hoàn thiện quy định về cơ sở xác định giới hạn tín dụng
Quy định về xác định giới hạn tín dụng cần chặt chẽ hơn để giảm thiểu các
trường hợp vận dụng không hợp lý và mang tính chủ quan, có nguy cơ dẫn đến rủi
ro tín dụng. Cần quy định cụ thể về hệ số điều chỉnh của giới hạn tín dụng so với
85
giới hạn tín dụng tham khảo. Hệ số điều chỉnh được xác định dựa vào các phân tích
định tính khác về tình hình kinh doanh, uy tín khách hàng, mức độ rủi ro và mức
điều chỉnh tối đa so với giới hạn tín dụng tham khảo.
Hoàn thiện quy định về thời gian đánh giá lại giới hạn tín dụng
Thời gian đánh giá lại giới hạn tín dụng của các khách hàng doanh nghiệp nhỏ và
vừa của Vietcombank trong thời điểm hiện tại là 6 tháng hoặc 1 năm. Tuy nhiên,
khoảng thời gian này cần được điều chỉnh linh hoạt theo từng thời kỳ khác nhau cho
phù hợp với thực tiễn. Nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, giới hạn tín dụng
cấp cho khách hàng nên được đánh giá lại theo từng quý để ngân hàng kịp thời nắm
bắt những thay đổi của khách hàng. Đối với những khách hàng có uy tín, có tình hình
hoạt động kinh doanh phát triển tốt và có yêu cầu nâng giới hạn tín dụng thì có thể
thực hiện đánh giá lại theo yêu cầu của khách hàng khi thời gian chưa đến 6 tháng.
3 Xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam, là định hướng cơ bản cho việc xác định các
mục tiêu cần thực hiện trong hoạt động cấp tín dụng. Chính sách tín dụng hợp lý và
hiệu quả giúp cho hoạt động tín dụng được định hướng rõ ràng, tăng khả năng phòng
ngừa rủi ro trên cơ sở phân tích và nghiên cứu thị trường một cách đầy đủ và kỹ càng.
Chính sách tín dụng cần được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu mà Vietcombank
đã đề ra, đồng thời phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đặc thù của từng địa bàn
của từng chi nhánh. Chính sách tín dụng phải đảm bảo sự cân bằng giữa mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, không ngừng tăng trưởng trên cơ sở nâng cao
chất lượng tín dụng và đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Chính sách này cần được công bố rộng rãi cho toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng, là
cơ sở để cán bộ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực tín dụng thực hiện công việc theo
định hướng mà ngân hàng đặt ra và chủ động trong hoạt động tác nghiệp.
Định hướng của Vietcombank là “Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất
lượng và hướng tới chuẩn mực quốc tế”. Như vậy, một chính sách tín dụng hợp lý và
hiệu quả dựa trên định hướng này cần thỏa mãn các yêu cầu sau: Chính sách tín dụng
phải bao quát được các vấn đề tổng thể và bảo đảm cho sự quản lý thống nhất trong
toàn hệ thống Vietcombank, phải phản ánh được các chính sách của Vietcombank
trong từng thời kỳ; Bên cạnh đó, chính sách tín dụng cũng phải phù hợp với tính chất
86
đặc thù của địa bàn đầu tư của Chi nhánh, phát huy được những thế mạnh của địa
phương; Chính sách tín dụng phải đưa ra các giải pháp hạn chế đầu tư tín dụng đối với
những lĩnh vực, ngành nghề không có lợi thế trong cạnh tranh, trong kinh doanh;
Chính sách tín dụng cần phải đáp ứng được các yêu cầu về hiệu quả kinh doanh, giúp
gia tăng thị phần của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương, cân bằng giữa mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo khả năng tăng trưởng tín dụng và đầu tư
an toàn trong phạm vi tỷ lệ nợ xấu chấp nhận được, đồng thời phải góp phần phát huy
năng lực và lợi thế so sánh của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương so với các ngân hàng
thương mại khác trong cả nước.
Để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro của Vietcombank trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế, việc hoàn thiện chính sách tín dụng là một yêu cầu hết sức cấp bách.
4 Xây dựng chính sách khách hàng
Mục tiêu định hướng khách hàng của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đề ra rất
phù hợp trong môi trường kinh doanh hiện đại. Mục tiêu này đã được ngân hàng triển
khai trên thực tế nhưng do chưa có một chính sách khách hàng rõ ràng và mang tính
pháp lý cao nên việc áp dụng còn lúng túng và mang nặng cảm tính.
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, ngân hàng nên tăng cường mối quan hệ đối
với các khách hàng quen thuộc, đã giao dịch nhiều lần và có sự tin tưởng nhằm giảm
thiểu rủi ro. Ngân hàng nên hạn chế tiếp thị đối với các khách hàng mới, chỉ cho vay
các khách hàng tốt. Tuy nhiên, hiện tại tiêu chuẩn về khách hàng tốt của Vietcombank
vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng, do vậy rất khó để đánh giá. Các chính sách thu hút
khách hàng tốt của ngân hàng cũng chưa được cụ thể hóa, chủ yếu là thông qua lãi suất
cho vay ưu đãi mà việc xác định lãi suất này cũng chưa được dựa trên tiêu chí nhất
quán. Do vậy, Vietcombank cần nhanh chóng xây dựng chính sách khách hàng cho
mình, bao gồm: chính sách tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng, chính sách lãi suất cho
vay, chính sách bảo đảm tiền vay, chính sách về dịch vụ, phí dịch vụ. Dựa trên điều
kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam, chính sách khách hàng cụ thể của Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương nên tập trung vào các nội dung sau:
Xếp hạng khách hàng: Trước tiên, cán bộ tín dụng phải thực hiện xếp hạng
khách hàng, lấy đó làm căn cứ chính để áp dụng các chính sách khách hàng. Việc xếp
hạng khách hàng có thể dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ bởi vì kết quả này là
87
tổng hợp của sự phân tích, đánh giá các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu phi tài chính của
doanh nghiệp và phân định mức độ rủi ro của khách hàng. Sau đây là một số đề xuất
của tôi về chính sách khách hàng áp dụng cho các thứ hạng khách hàng:
Bảng 3 - 10 Xếp hạng khách hàng
Hạng khách
hàng
Mức độ
rủi ro Chính sách khách hàng áp dụng
AAA, AA, A Thấp - Đáp ứng tối đa và kịp thời nhu cầu tín dụng của khách hàng trên
cơ sở đảm bảo các tỷ lệ an toàn và tuân thủ các quy định pháp luật.
- Có thể cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay tín chấp
hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản chỉ là biện
pháp bảo đảm bổ sung, không áp dụng các quy định về tỷ lệ.
- Áp dụng lãi suất ưu đãi
BBB, BB Trung
bình
- Đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng của khách hàng.
- Cần phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
trong một số trường hợp, tuy nhiên có thể áp dụng 50% dư nợ vay
không cần phải bảo đảm bằng tài sản.
- Áp dụng lãi suất ưu đãi + mức bù rủi ro
B Rủi ro - Tiếp tục duy trì quan hệ với khách hàng nhưng chỉ áp dụng các
nhu cầu phù hợp của khách hàng. Khách hàng phải có vốn tự có
tham gia vào phương án cho vay với mức tối thiểu 15-30%.
- Các khoản vay phải áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
- Áp dụng lãi suất vay cao hơn các mức xếp hạng trên.
CCC Rủi ro
khá cao
- Chỉ đáp ứng nhu cầu vốn thực sự phù hợp, ngân hàng có khả
năng kiểm soát được toàn bộ nguồn tiền của phương án và khách
hàng phải có tối thiểu 30% vốn tự có tham gia phương án vay vốn.
Khi có biến động xấu liên quan đến nhóm khách hàng này, cần
phải tăng cường các điều kiện hạn chế cấp tín dụng đến nhóm
khách hàng này.
- Các khoản vay phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản. Các tài sản nhận bảo đảm cần có tính thanh khoản và
hạn chế áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn
vay.
88
CC trở
xuống
Rất rủi
ro
Không tiếp thị các khách hàng mới thuộc nhóm này. Đối với các
khách hàng cũ, cần áp dụng các điều kiện chặt chẽ và hạn chế tín
dụng.
Định hướng khách hàng: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần chú trọng đầu
tư tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, khối doanh nghiệp đang nhận được sự
quan tâm khuyến khích, hỗ trợ lớn từ phía Nhà nước và các tổ chức nước ngoài.
Sự quan tâm đó được biểu hiện trên nhiều hoạt động thực tế như: Ngày
23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm
vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số 236/2006/QĐ-
TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai
đoạn 5 năm (2006 – 2010). Nhiều giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được
triển khai như thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, chương trình
trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa… Các định chế tài
chính quốc tế cũng đang đẩy mạnh đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa như IFC (Công ty tài chính quốc tế thuộc WB), SMEDF
(Quỹ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa do Liên minh châu Âu tài trợ và được
quản lý bởi Quỹ hỗ trợ phát triển), JBIC (Chương trình tài trợ cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa do JBIC tài trợ vốn vào năm 2002), JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại
của Nhật Bản hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động thương mại và
đầu tư quốc tế)… Do đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có khả năng phát triển mạnh
mẽ về chất và lượng trong tương lai, là điều kiện thuận lợi cho đầu tư tín dụng.
Mặt khác, đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp lớn gặp khá nhiều rủi ro do quy
mô hoạt động của các doanh nghiệp này rộng và phức tạp, các khoản vay thường lớn
nên nếu xảy ra tổn thất thì hậu quả rất nghiêm trọng. Thêm vào đó, với sự xuất hiện
ngày càng nhiều các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài
chính mạnh như ngân hàng của Tập đoàn dầu khí, ngân hàng HSBC… thì thị trường
tín dụng cho các doanh nghiệp lớn của Vietcombank sẽ bị thu hẹp.
Từ những lý do đã nêu, việc lựa chọn phát triển phân khúc thị trường doanh
nghiệp nhỏ và vừa là một hành động hợp lý, phù hợp với điều kiện nền kinh tế Việt
89
Nam, phù hợp với năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân
hàng. Tuy vậy đầu tư tín dụng thực tế cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Vietcombank còn thấp (khoảng 22% trên tổng dư nợ), chưa tương xứng so với tiềm
năng của khu vực thị trường này.
Hoàn thiện gói sản phẩm dành cho khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thị trường tín dụng cho các DNNVV đang phát triển nhanh chóng, bởi vậy ngày
càng có nhiều ngân hàng tập trung khai thác. Để khu vực tín dụng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank tăng trưởng bền vững trong dài hạn, ngân hàng
có khả năng thu hút các khách hàng tốt về phía mình và có những khách hàng gắn bó,
Vietcombank cần hoàn thiện các gói sản phẩm dành riêng cho khách hàng là DNNVV
hơn nữa, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng và phù hợp với khách hàng, cụ thể:
Vietcombank cần tích cực sử dụng nguồn vốn tự huy động hoặc kết hợp với
nguồn vốn vay từ các tổ chức quốc tế với lãi suất thấp để tài trợ cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Ngân hàng cần nghiên cứu, thiết kế các sản phẩm/gói sản phẩm dành riêng cho
khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa (đặc biệt là các sản phẩm tín dụng) trong đó
đảm bảo tiết kiệm tối đa chi phí tài chính cho các doanh nghiệp này.
Ngoài ra, Vietcombank nên thiết lập chính sách ưu đãi để thu hút các khách hàng
tốt. Chính sách ưu đãi này bao gồm: tăng cường các sản phẩm đầu tư dài hạn đối với
khách hàng tốt; ưu đãi về lãi suất, về điều kiện vay vốn (ví dụ, không cần tài sản đảm
bảo) đối với các khách hàng có vị trí cao trong bảng xếp hạng doanh nghiệp, đồng thời
cũng khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ trọn gói tại ngân hàng.
Song song với việc hoàn thiện các gói sản phẩm và các dịch vụ tiện ích khác,
Vietcombank có thể thực hiện thêm các hoạt động hỗ trợ phi tài chính cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Những hoạt động này như một phương thức PR giúp các doanh
nghiệp gắn bó hơn với ngân hàng và rất hữu ích, thiết thực trong việc hỗ trợ các doanh
nghiệp nâng cao kết quả kinh doanh. Thực chất, các hoạt động này cũng giúp cho
Vietcombank tiếp cận doanh nghiệp và có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về khu vực
tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một số gợi ý của tôi về các hoạt động hỗ trợ này là:
Hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng; tổ chức diễn đàn, hội thảo; tạo một mục thông tin riêng dành cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trên website của ngân hàng; Thực hiện các hoạt động tư vấn, hướng
90
dẫn doanh nghiệp về lập kế hoạch kinh doanh, quản lý ngân quỹ, lập dự án, thủ tục
vay vốn, kiểm toán năng lượng, củng cố tài sản, đánh giá thiết bị và các thông tin liên
quan đến hoạt động tín dụng… ; Mở các khóa đào tạo về quản trị doanh nghiệp cho
các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ
hội tham gia các hội thảo, hội chợ, triển lãm, sự kiện bình chọn doanh nghiệp trong và
ngoài nước, làm tăng vị thế và hình ảnh doanh nghiệp của mình.
5 Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Trong thời đại ngày nay, muốn thành công trong kinh doanh cần có những thông
tin hữu ích. Khi mà tính kém minh bạch trong các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
còn khá phổ biến thì yêu cầu thiết lập kho dữ liệu thông tin nhằm sử dụng cho hoạt
động kinh doanh là hết sức cần thiết.
Mặc dù trong những năm gần đây, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân
hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin tín dụng của Vietcombank đã có nhiều nỗ lực
trong tạo lập kho dữ liệu về các doanh nghiệp vay vốn cũng như xây dựng đánh giá về
các ngành sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc phân tích tín dụng nhưng chất
lượng của kho dữ liệu này còn nhiều hạn chế. Thông tin tín dụng mới chỉ tập trung vào
nội dung phản ánh, ít có tính dự báo, ít đưa ra các giải pháp phòng ngừa và không
phản ánh được đặc thù tình hình kinh tế xã hội tại địa phương. Vì thế, khả năng sử
dụng các thông tin này cho công tác thẩm định tín dụng chưa cao và chưa đáp ứng
được yêu cầu phòng ngừa rủi ro. Do đó hệ thống thông tin tín dụng cần được tạo lập
có tính hữu ích cao hơn. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, hệ thống thông
tin minh bạch và thông suốt sẽ hỗ trợ rất lớn cho ngân hàng trong việc thẩm định rủi ro
của khách hàng và sớm phát hiện các dấu hiệu rủi ro.
Dựa trên cơ sở hợp tác, NHNN cần thực hiện kết nối kho thông tin dữ liệu giữa
các ngân hàng để bổ sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của kho dữ liệu, không chỉ
là các dữ liệu về khách hàng mà còn các đánh giá và dự báo về ngành, làm nền tảng
trong phân tích và thẩm định tín dụng.
Dựa trên thông tin về các doanh nghiệp, ngành hàng, dự án đã cấp tín dụng, Trung
tâm thông tin tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần tổng hợp và đưa ra các
đánh giá, phân tích và cung cấp các thông tin hữu ích cho toàn bộ hệ thống để sử dụng
trong thẩm định tín dụng. Kho dữ liệu này cần có tính mở để có khả năng tích hợp với
91
kho dữ liệu của các ngân hàng khác nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác trong cạnh tranh
được đặt ra trong môi trường hội nhập. Các thông tin cần liên tục được cập nhật.
Vietcombank cần thành lập ban quản trị thông tin có nhiệm vụ thường xuyên nâng cấp
và tổng hợp thông tin trong hệ thống, giúp những thông tin cần thiết có thể được tiếp
cận nhanh nhất bởi cán bộ của ngân hàng trong khắp cả nước.
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần thiết lập các mối liên hệ với các tổ chức,
dịch vụ cung cấp thông tin trên thế giới để có thể khai thác, mua tin khi cần thiết để
đáp ứng yêu cầu thông tin từ các Chi nhánh, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài
chính, hoạt động của các công ty mẹ - đối tác ở nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở mô hình tổ chức hướng đến khách hàng đã được triển khai, hệ thống
thông tin khách hàng cần được tổ chức một cách hợp lý, tránh trùng lặp trong thu thập
dữ liệu, đảm bảo có những thông tin toàn diện và đầy đủ theo đúng tính chất và đặc
thù khách hàng. Đồng thời với việc thu thập thông tin, cần sử dụng các công cụ phân
tích thông tin hiện đại để tăng độ chính xác của các kết quả đánh giá nhằm đưa ra các
quyết định đúng đắn. Trong điều kiện các chương trình hỗ trợ thông tin về khách hàng
thuộc Chương trình Siverlake (một chương trình hợp tác giữa Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương và Tập đoàn Siverlake) đang áp dụng còn nhiều hạn chế, Ngân hàng
TMCP Ngoại Thương cần thiết lập các phần mềm hỗ trợ cung cấp thông tin về khách
hàng (doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ, tình trạng nợ), phân loại nợ tự động để đáp ứng
nhu cầu thu thập, xử lý thông tin được nhanh nhạy, chính xác.
Ngân hàng cũng cần cập nhật và bổ sung thường xuyên cẩm nang tín dụng. Cẩm
nang này hướng dẫn cho cán bộ những vấn đề cơ bản trong tác nghiệp. Bởi đặc thù của
hoạt động tín dụng là dựa vào các quy định của pháp luật, sự phát triển của các sản
phẩm tín dụng, do đó nó luôn luôn biến động và cần cập nhật một cách kịp thời. Năm
2003 Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đã ban hành cẩm nang tín dụng để nâng cao
hiểu biết nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Từ đó đến nay, mặc dù đã có nhiều thay đổi
về quy trình tín dụng, văn bản pháp lý, sự phát triển của các sản phẩm tín dụng mới…
nhưng cẩm nang tín dụng vẫn chưa có sự cập nhật và thay đổi, bổ sung kịp thời. Điều
này đã làm hạn chế khả năng hệ thống và nắm bắt các vấn đề mới trong nghiệp vụ tín
dụng của cán bộ. Do đó cần thực hiện việc rà soát, tái bản có điều chỉnh cẩm nang tín
92
dụng, có thể 2 năm một lần để cập nhật các văn bản pháp lý, các quy định, quy trình,
mẫu biểu mới đáp ứng các yêu cầu về đào tạo và nghiên cứu chuyên môn.
6 Các giải pháp phòng ngừa rủi ro
6.1 Nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích tín
dụng
Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn trọng
và thiếu chính xác dẫn đến các quyết định cho vay sai lầm. Đây là bước cực kỳ quan
trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả cao nhất, ít tốn kém nhất. Quá
trình thẩm định cần đáp ứng được yêu cầu về chất lượng phân tích và thời gian ra
quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro
cũng như đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng. Trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế, công tác thẩm định rủi ro tín dụng cần đặc biệt được chú trọng.
Cán bộ tín dụng phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể của khách hàng
thông qua xác định giới hạn tín dụng theo các quý (trong thời kỳ kinh tế ổn định, phát
triển thì theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm). Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng có
cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính, chất lượng kinh doanh và đánh giá triển vọng
phát triển của doanh nghiệp để nhận thấy những rủi ro của doanh nghiệp, định ra một
giới hạn tín dụng hợp lý, nằm trong giới hạn chịu nợ của khách hàng đối với hệ thống
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương (không bao gồm giới hạn tín dụng của các TCTD
khác bởi không thể kiểm soát được mức cho vay của các TCTD khác). Nỗ lực xác
định giới hạn tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng luôn ở thế chủ động và có giải
pháp kiểm soát rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần
chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh
giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích môi trường vĩ mô,
vi mô, môi trường nội bộ của doanh nghiệp, lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…)
để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của
ngân hàng.
Trong phân tích định lượng, ứng dụng và hoàn thiện hệ thống cho điểm và xếp
hạng tín dụng khách hàng. Hệ thống này cần được thường xuyên điều chỉnh cho phù
hợp với thực tế và điều kiện kinh tế Việt Nam, không nên cứng nhắc theo những tính
93
toán của các nước có điều kiện không tương đồng. Thông qua việc sử dụng các mô
hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý, có khả năng phản ánh một
cách chính xác hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến và giúp xây dựng những
biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín dụng với khách hàng.
Tuy nhiên mỗi khách hàng không chỉ vay tại một ngân hàng mà có thể vay tại
nhiều ngân hàng khác nhau và sự đổ vỡ của bất kỳ khoản vay tại ngân hàng nào cũng
sẽ gây ra rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó bên cạnh
việc định ra giới hạn tín dụng cần các điều kiện tín dụng khác, đặc biệt là điều kiện về
tổng dư nợ vay và cơ cấu tài chính của khách hàng, nhằm đảm bảo mức độ an toàn
trong kinh doanh.
Trên cơ sở giới hạn tín dụng đã được phê duyệt, trong từng lần cấp tín dụng, cán
bộ tín dụng chủ yếu tập trung phân tích rủi ro của chính phương án vay đó để giảm bớt
thời gian xử lý các giao dịch. Trong phân tích này, cần tập trung đến tính pháp lý của
phương án vay, đến nguồn cung cấp, thị trường và khả năng tiêu thụ… Đồng thời cần
đưa ra những rủi ro dự kiến, khả năng kiểm soát của ngân hàng và kịch bản xử lý khi
những tình huống xấu xảy ra. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp cần thường xuyên cập
nhật thông tin về tình hình kinh doanh tổng thể của khách hàng để nhận biết sớm
những rủi ro có thể xảy ra.
Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi
suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án, các tài sản bảo đảm… để đảm bảo lợi ích thu
được phải tương xứng với mức độ rủi ro. Dựa trên mức LSCB do Ngân NHNN ban
hành và chi phí vốn của mình, Vietcombank chỉ nên xây dựng mức lãi suất tham khảo
và giao cho các Chi nhánh quyền chủ động xác định mức lãi suất phù hợp với từng
khách hàng, đồng thời cần xây dựng biểu lãi suất theo thang bậc sử dụng vốn vay của
doanh nghiệp (phần dư nợ vay vượt quá giới hạn tín dụng tham khảo nhưng vẫn trong
giới hạn tín dụng được phê duyệt phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao hơn). Các
khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng càng thấp thì cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn
tự có, cần lựa chọn những tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao… Các điều kiện
pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm bảo các quyền lợi của Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương khi rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
khách hàng trong sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra.
94
6.2 Sử dụng công cụ tài chính phái sinh (credit
derivatives)
Một công cụ hiệu quả trong các nghiệp vụ tự phòng vệ rủi ro tín dụng là các phái
sinh tín dụng. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi
ro tín dụng, chúng cho phép chuyển rủi ro từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ
tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Các phái sinh tín dụng
chủ yếu là “total return swap”, “credit default swaps”, các trái phiếu ràng buộc (credit
linked notes). Nhờ các công cụ này, các tổ chức tín dụng có thể tự bảo vệ mình khỏi
các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này.
6.2.1 Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (total return swaps – TRS, còn gọi là
Total rate of return – TROR)
Hình 3 - 4: Quy trình của một Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (TRS)
Ngân hàng nên phát triển công cụ này như một phương pháp hữu hiệu để giảm
thiểu rủi ro. Ngân hàng (bên bán - Payer of TRS) ký một hợp đồng hoán đổi tổng thu
nhập (TRS) với một nhà đầu tư (nhà bảo hiểm, quỹ tự bảo hiểm – bên mua – Receiver
of TRS), trong đó cho phép nhà đầu tư quản lý tài sản của ngân hàng trong một thời
gian nhất định. Tài sản trong hợp đồng TRS có thể là cổ phiếu, trái phiếu, các khoản
tín dụng… mà lợi nhuận thu được từ một bên thứ ba và quyền sở hữu của các tài sản
này vẫn thuộc về phía ngân hàng.
Nhà đầu tư và ngân hàng sẽ thỏa thuận trong hợp đồng về giá trị ban đầu của tài
sản và các khoản phí định kỳ với lãi suất cố định hoặc thả nổi mà nhà đầu tư phải trả
cho ngân hàng. Lãi suất thả nổi có thể là lãi suất LIBOR cộng với một biên độ nhất
95
định. Nhà đầu tư sẽ được hưởng các dòng tiền thu được từ tài sản đó trong thời gian
hiệu lực của hợp đồng và phải chịu mọi rủi ro liên quan đến tài sản trong thời gian đó.
Khi hợp đồng hết hạn hiệu lực, hai bên sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng. Lúc này, nếu
như giá trị của tài sản giảm đi, nhà đầu tư sẽ phải bù đắp phần chênh lệch giữa giá trị
thỏa thuận ban đầu và giá trị mới. Nếu giá trị tài sản không thay đổi, nhà đầu tư không
phải trả gì cả. Nếu giá trị tài sản tăng lên, nhà đầu tư sẽ được hưởng phần tăng lên đó.
Điều đáng chú ý là nếu trong thời gian hiệu lực của hợp đồng mà tài sản đó gặp
rủi ro (ví dụ như một khoản tín dụng bị đổ vỡ) thì hợp đồng sẽ chấm dứt và nhà đầu tư
phải trả cho ngân hàng số tiền bằng giá trị của tài sản ban đầu.
6.2.2 Hợp đồng hoán đổi tín dụng (credit default swaps - CDS)
Hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) là một công cụ tài chính giống như một hợp đồng
bảo hiểm tín dụng và phổ biến hơn so với TRS. Ngân hàng ký hợp đồng CDS với một
ngân hàng đầu tư hoặc công ty bảo hiểm khác để được bảo hiểm rủi ro cho cổ phiếu,
trái phiếu hoặc khoản tín dụng... của mình. Hàng năm, ngân hàng sẽ phải trả cho nhà
bảo hiểm một khoản phí. Khoản phí này cao hay thấp phụ thuộc vào xếp hạng (rating)
của tài sản, tài sản càng nhiều rủi ro (xếp hạng càng thấp) thì phí càng cao. Nếu xếp
hạng của tài sản quá thấp, nhà bảo hiểm sẽ phải ứng trước cho ngân hàng một khoản
làm thế chấp (upfront collateral).
Nhà bảo hiểm sẽ phải trả cho ngân hàng dòng tiền bù đắp rủi ro của tài sản (credit
default cashflow) bằng chênh lệch giữa giá trị của tài sản (face value) và giá trị còn lại
(recovery value). Dòng "credit default cashflow” sẽ bằng không nếu sự mất vốn
(default) không xảy ra và bằng giá trị của tài sản (face value) nếu như tài sản gặp rủi ro
do bên thứ ba không thanh toán cho ngân hàng.
Thông qua hai nghiệp vụ tài chính phái sinh trên, ngân hàng có thể hoán đổi rủi ro
của các khoản tín dụng của mình với một bên thứ hai khác. Ngân hàng sẽ không còn
phải lo lắng với các rủi ro xảy đến với các khoản tín dụng này nữa.
6.3 Quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quá
trình giải ngân và sau khi cho vay
Phòng Quản lý nợ thực hiện giải ngân theo đúng các quyết định cấp tín dụng của
cấp phê duyệt, đối chiếu giữa mục đích vay, yêu cầu giải ngân và cơ cấu các chi phí
96
trong nhu cầu vốn của khách hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có đầy đủ chứng từ
chứng minh và hợp lệ. Hạn chế giải ngân bằng tiền mặt trừ những trường hợp đặc thù
do hoạt động kinh doanh của khách hàng như cho vay thu mua nông, lâm, thủy sản của
các hộ dân, trả lương công nhân, chỉ áp dụng phương thức thanh toán chuyển khoản để
có thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay của khách hàng…
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, việc sử dụng vốn vay của khách hàng tiềm ẩn
rất nhiều nguy cơ rủi ro. Những rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi cho vay không chỉ do
bản thân phương án kinh doanh kém hiệu quả, khách hàng vay sử dụng vốn sai mục
đích mà còn do ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi kết thúc phương án
kinh doanh, dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng nguồn tiền này vào các mục đích
kém hiệu quả hay không minh bạch. Để phòng ngừa những rủi ro này, cần thực hiện
kiểm soát chặt chẽ sau khi cho vay bằng các biện pháp sau:
Phòng Quản lý nợ thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay phù hợp với đặc thù
của các khoản vay, chất lượng khách hàng. Do mỗi khoản vay, mỗi khách hàng vay có
sự khác biệt nhất định mà cần xây dựng và lựa chọn một kế hoạch kiểm tra sử dụng
vốn hợp lý, đảm bảo an toàn cho ngân hàng nhưng cũng tạo thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của khách hàng và mối quan hệ giữa các bên. Nên sử dụng xếp hạng tín
dụng khách hàng làm cơ sở cho việc xác định định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc nửa
năm kiểm tra sử dụng vốn vay, trong đó những khách hàng có xếp hạng tín dụng cao,
có uy tín trong quan hệ tín dụng thì thời hạn kiểm tra sử dụng dài hơn, các khách hàng
xếp hạng tín dụng càng thấp thì mật độ kiểm tra nhiều hơn. Đối với những khách hàng
có nợ xấu, cần kiểm tra và phân loại nợ 1 lần/tháng để theo sát tình hình của khách
hàng, có nhận định, phân tích và giải pháp đúng đắn nhằm hạn chế rủi ro.
Trong kiểm tra sử dụng vốn, cần nghiêm túc thực hiện kiểm tra trên thực tế, có
đánh giá về việc sử dụng vốn, về tài sản bảo đảm của khách hàng, kịp thời phát hiện
những rủi ro và có biện pháp xử lý, tránh tình trạng thực hiện kiểm tra mang tính đối
phó, thực hiện trên giấy tờ.
Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời những dấu hiệu của rủi ro như khách
hàng có khó khăn trong việc trả nợ, sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tình hình
thị trường ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh, có dấu hiệu vi phạm pháp
97
luật…, dựa trên hệ thống các tín hiệu cảnh báo sớm về rủi ro tín dụng để nắm bắt khả
năng xử lý chủ động, kịp thời các rủi ro có nguy cơ xảy ra.
Ngân hàng theo dõi chặt chẽ các nguồn tiền của khách hàng trên cơ sở xây dựng
cơ chế tra soát đối với từng loại vay (các khoản vay để xuất khẩu thì kiểm tra ngày
xuất hàng, các yêu cầu đòi tiền, bộ chứng từ hàng xuất và thời gian thanh toán; các
khoản vay thương mại cần kiểm tra tồn kho, công nợ hàng tháng và kiểm tra việc sử
dụng các nguồn thu của khách hàng, quy định nguồn tiền hàng từ phương án vay phải
trả nợ ngay sau khi thu được tiền, cho dù khoản vay chưa đến hạn…). Kiểm tra chặt
chẽ nguồn tiền từ phương án kinh doanh sẽ giúp ngân hàng kịp thời thu nợ đúng hạn.
6.4 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ
Đồng thời với việc thiết lập cơ chế “giám sát song song” thông qua chức năng của
Phòng Quản lý nợ, cần chú trọng công tác “hậu kiểm” của kiểm tra nội bộ để tăng
cường khả năng kiểm soát tính tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng, giảm thiểu
những rủi ro tín dụng. Trước mắt, khi chưa thực hiện lập Phòng Kiểm tra nội bộ khu
vực để đảm bảo đủ thẩm quyền và độc lập trong kiểm tra kiểm soát, nên tạo ra sự
không phụ thuộc và độc lập nhất định của Phòng Kiểm tra nội bộ của Chi nhánh bằng
cách quy định lương của cán bộ kiểm tra nội bộ sẽ do Hội sở chính trả và nhân sự của
Phòng này do Hội sở chính chỉ định, bổ nhiệm và miễn nhiệm. Có như vậy thì Phòng
kiểm tra nội bộ mới đủ thẩm quyền để thực thi các nhiệm vụ của mình.
Trong công tác kiểm tra nội bộ, ngoài thực hiện kiểm tra theo định kỳ, cần tập
trung và tăng tần suất kiểm tra các khách hàng có nợ xấu, đánh giá việc thực thi các
biện pháp quản lý nợ có vấn đề và khả năng thu hồi nợ. Công tác kiểm tra nội bộ
cần thực hiện có trọng điểm, theo các ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn nguy cơ
rủi ro để kịp thời chấn chỉnh và đề xuất các giải pháp để tăng cường khả năng
phòng ngừa rủi ro tín dụng.
7 Các giải pháp hạn chế, bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro
Tăng cường hiệu quả xử lý nợ có vấn đề
Nợ xấu của Vietcombank trong năm 2008 đã tăng cao, do đó thiết lập cơ chế xử
lý nợ có vấn đề là một đòi hỏi cấp thiết. Để giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra, cần có
98
sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận có liên quan cũng như một
bộ máy đủ mạnh, đủ tầm để giải quyết những vấn đề phát sinh trong tiến trình xử lý.
Trên cơ sở Ban xử lý nợ xấu đã được Ngân hàng TMCP Ngoại Thương thành lập
tại Trung ương và tại các Chi nhánh, cần tăng cường tham mưu cho Ban Giám đốc về
hướng xử lý những khoản nợ có vấn đề khi có báo cáo về dấu hiệu rủi ro từ các phòng
nghiệp vụ. Là nơi tập trung lãnh đạo các Phòng có liên quan như Quan hệ khách hàng,
Kiểm tra nội bộ, Ban xử lý nợ xấu sẽ đảm bảo sự phối kết hợp giữa các bộ phận nhằm
đưa ra các giải pháp thích hợp, tham mưu kịp thời cho Giám đốc Chi nhánh cách thức
xử lý nợ uyển chuyển, đúng đắn, phù hợp với những khách hàng khác nhau.
Trong xử lý nợ có vấn đề, cần thực hiện các bước tuần tự và thận trọng cần thiết,
không nên nóng vội mà phá vỡ những mối quan hệ đã được thiết lập với khách hàng,
đặc biệt là các khách hàng truyền thống, cụ thể: Cán bộ tín dụng làm rõ thực trạng
kinh doanh, tài sản bảo đảm, thái độ của khách hàng, phân tích về khả năng phục hồi
tình hình sản xuất kinh doanh, mức độ trả nợ, sự hợp tác của khách hàng; tình trạng và
khả năng xử lý tài sản bảo đảm. Sau đó, cán bộ tín dụng sẽ lựa chọn phương pháp xử
lý phù hợp: phương pháp khai thác (work – out) hay phương pháp thanh lý
(liquidation). Việc lựa chọn phương pháp xử lý cần uyển chuyển, áp dụng phù hợp với
đặc thù của từng khách hàng và khả năng của từng Chi nhánh, đảm bảo hiệu quả cao
với chi phí hợp lý.
Trên thực tế, khi xử lý nợ xấu nếu giao cho Phòng Quan hệ khách hàng thì hiệu
quả và tốc độ thực hiện rất chậm bởi những mối quan hệ ràng buộc trước đây khiến
cho cán bộ chần chừ, thiếu kiên quyết. Do đó nhiệm vụ xử lý nợ xấu nên giao cho
Phòng Quản lý nợ, một bộ phận ít quan hệ với khách hàng nhưng lại thường xuyên
nắm bắt được các thông tin về khoản vay sẽ nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu hơn.
Sử dụng các công cụ bảo hiểm và bảo đảm tiền vay
Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân rất đa dạng mà đôi khi những rủi
ro đó ngân hàng không thể lường trước được. Vì vậy sử dụng các công cụ bảo hiểm và
áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra là cực kỳ
quan trọng.
Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải mua các loại bảo hiểm cho hàng hóa… Trên
thực tế thời gian qua, nhờ sử dụng yêu cầu này mà những tổn thất vốn vay do thiên tai
99
gây ra đã được cơ quan bảo hiểm thanh toán, giảm thiểu đáng kể những tổn thất. Bên
cạnh đó, cán bộ tín dụng cần yêu cầu khách hàng hoàn thiện về mặt pháp lý của các tài
sản bảo đảm tiền vay để thuận lợi trong xử lý tài sản bảo đảm, nguồn thu nợ thứ hai
khi rủi ro tín dụng xảy ra. Qua xử lý một số tài sản bảo đảm tiền vay cho thấy sở hữu
về tài sản không rõ ràng, không có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nên việc bán tài
sản rất khó khăn (cơ quan công chứng không chịu công chứng hợp đồng, người mua e
ngại… ). Nguyên nhân của tình trạng này là do khách hàng ngại tốn chi phí và thời
gian, công sức nên không đăng ký sở hữu tài sản (đặc biệt là đối với nhà xưởng,
công trình trên đất), ngân hàng không đôn đốc khách hàng hoàn thiện các thủ tục về
tài sản bảo đảm, việc đăng ký sở hữu tài sản trên đất gặp nhiều khó khăn về thủ
tục… nên khá nhiều tài sản trên đất, đặc biệt là nhà xưởng, công trình xây dựng
trên đất thế chấp tại Chi nhánh chưa có giấy tờ về sở hữu tài sản. Do đó hồ sơ bảo
đảm tiền vay không đầy đủ, gây khó khăn cho quá trình xử lý tài sản thu hồi nợ. Để
giảm những rủi ro về mặt pháp lý, cần thỏa thuận việc hoàn thiện về thủ tục đăng
ký sở hữu tài sản là một điều kiện tín dụng, đồng thời thực hiện nghiêm túc công
tác kiểm tra, liên tục rà soát hồ sơ pháp lý và thực trạng của tài sản bảo đảm. Việc
định giá tài sản đảm bảo cần phải được giao cho bộ phận độc lập với bộ phận tín dụng,
nhằm chuyên môn hoá nghiệp vụ này. Nếu doanh nghiệp không bằng lòng với kết quả
định giá, doanh nghiệp có thể thuê tư vấn độc lập để có thể định giá trị tài sản đảm bảo
sát với giá thị trường.
Bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua – bán nợ chuyên nghiệp
Đây là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh
doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình hình
tài chính. Hiện nay, tại Việt Nam mới chỉ có Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng
của doanh nghiệp (Debt and Assets trading Company - DATC) của Bộ Tài chính đang
thực hiện nghiệp vụ này. Tính đến nay, DATC đã trực tiếp giúp xử lý nợ xấu cho các
ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần và các chủ nợ khác.
DATC đã trở thành chủ nợ của gần 80 doanh nghiệp với giá trị sổ sách khoản nợ xấu
đã mua trên 5.000 tỷ đồng.
Thực hiện nghiêm túc phân loại nợ và trích lập dự phòng
100
Việc phân loại nợ cần phải được thực hiện nghiêm túc, tránh tình trạng vì kết quả
kinh doanh mà không tuân thủ tính chính xác các quy định về phân loại nợ và trích lập
dự phòng rủi ro. Cán bộ tín dụng chủ động phân loại nợ theo tính chất, khả năng thu
hồi nợ của khoản vay, kiên quyết chuyển thành nợ quá hạn đối với các trường hợp vi
phạm hợp đồng tín dụng có nguy cơ gây ra rủi ro và hạ bậc nợ, thực hiện nghiêm túc
trích lập dự phòng nhằm bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
8 Các giải pháp về nhân sự
Con người là yếu tố trung tâm, vừa là nền tảng để phát hiện, đánh giá và hạn chế
kịp thời những rủi ro tín dụng nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra tổn thất
tín dụng từ những rủi ro xuất phát từ yếu tố đạo đức, năng lực yếu kém. Khả năng
kiểm soát và phòng ngừa các rủi ro từ thiên tai, địch họa, những rủi ro hệ thống
không thể đa dạng hóa được thuộc về bản chất gắn liền với mỗi ngành nghề kinh
doanh nhất định là rất hạn chế, vì vậy chỉ có thể nâng cao hiệu quả của quản trị rủi ro
tín dụng bằng cách sử dụng con người là yếu tố tiên quyết trong vận hành cơ chế
quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Một mô hình quản trị rủi ro tín dụng có
hoàn hảo, một quy trình cấp tín dụng có chặt chẽ đến mấy nhưng những con người
cụ thể để vận hành mô hình đó bị hạn chế về năng lực hoặc không đáp ứng được các
yêu cầu về đạo đức thì sự thiệt hại, tổn thất tín dụng vẫn xảy ra, thậm chí là rất nặng
nề. Do đó các giải pháp về nhân sự giữ một vai trò cốt yếu trong xây dựng các biện
pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Một số nội dung trong giải pháp này là:
Ngân hàng lựa chọn những cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn và đạo
đức tốt để bố trí vào bộ phận tín dụng. Trong các công việc ngân hàng, tín dụng là một
nghề đòi hỏi phải có năng lực về phân tích, đánh giá, tính chịu trách nhiệm rất cao và
luôn có những cạm bẫy nên cần có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp. Do đó cần tiêu
chuẩn hóa cán bộ hoạt động tín dụng theo các tiêu chí chuyên môn, đạo đức rõ ràng,
làm cơ sở để chuẩn hóa và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm việc trong một
môi trường đầy rủi ro. Đồng thời cần có kế hoạch tuyển dụng phù hợp, đáp ứng các
yêu cầu về mở rộng mạng lưới, quy mô kinh doanh của Vietcombank trong tương lai.
Tình trạng kế hoạch tuyển dụng cán bộ công tác tín dụng không hợp lý trong thời gian
qua, trên thực tế đã dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng cán bộ trước yêu cầu mở rộng
mạng lưới để nâng cao năng lực cạnh tranh của Vietcombank.
101
Ngân hàng cần bố trí đủ và phân công công việc hợp lý cho cán bộ, tránh tình
trạng quá tải cho cán bộ để đảm bảo chất lượng công việc, giúp cho cán bộ có đủ thời
gian nghiên cứu, thẩm định và kiểm tra giám sát các khoản vay một cách có hiệu quả.
Thêm vào đó, Vietcombank phải tăng cường công tác đào tạo, tái đào đạo, thực
hiện đào tạo định kỳ và thường xuyên để nâng cao trình độ kiến thức cũng như khả
năng vận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật mới trong thẩm định tín dụng, quản trị rủi
ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Đào tạo phải theo đúng định hướng, chú trọng đào
tạo ngắn hạn theo các chuyên đề bổ trợ cho công việc trực tiếp hàng ngày, đào tạo
nâng cao cho các cán bộ chủ chốt và đã được quy hoạch để xây dựng bộ khung cho sự
phát triển ổn định và vững chắc sau này.
Chế độ đánh giá, khen thưởng và kỷ luật phải được xây dựng dựa trên chất lượng
tín dụng và hiệu quả công việc mà cán bộ đó thực hiện. Các quy định về khen thưởng
và kỷ luật phải được sự thống nhất trong toàn hệ thống và phải được thực hiện nghiêm
túc triệt để. Nhờ vậy mới nâng cao tính chịu trách nhiệm trong các quyết định tín dụng
của các cán bộ có liên quan.
Cuối cùng, ngân hàng cần đề ra biện pháp nhằm thực hiện luân chuyển cán bộ
trong quản lý khách hàng để giảm trừ những tiêu cực do những mối quan hệ được
tạo lập quá dài, đồng thời giúp tạo điều kiện cho các cán bộ tiếp cận những khách
hàng khác nhau sẽ có khả năng xử lý công việc được nhanh chóng.
9 Một số kiến nghị khác
Bên cạnh các biện pháp nhằm tự củng cố, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín
dụng của Vietcombank trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thì các chính sách điều tiết
vĩ mô của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng chiếm một vai trò quan trọng trong
việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Sau đây tôi xin đề xuất một số kiến
nghị với Ngân hàng Nhà nước và với Chính phủ về các biện pháp nhằm hỗ trợ nâng
cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại nói chung và Vietcombank
nói riêng.
9.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần có các giải pháp nhằm chống sự cạnh tranh kém lành
mạnh xuất hiện giữa các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Với sự mở
102
rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại, NHNN đã đề
cao tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh, tranh giành khách hàng vay
vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả các khoản vay của các ngân hàng
khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng tăng
cao. Do đó NHNN cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường ứng dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát
ngân hàng hữu hiệu (25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel) trong
thực thi chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước và giám sát thị trường, hoàn
thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng và hướng
tới các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống giám sát ngân hàng nên được hoàn thiện theo
hướng nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh
báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh nói chung và cấp tín dụng nói
riêng, thực hiện các cảnh báo sớm cho các ngân hàng thương mại, đảm bảo thị trường
phát triển bền vững.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu và triển khai các công
cụ bảo hiểm tín dụng như hoán đổi tín dụng (credit swaps)... Đây là các công cụ của
một thị trường tài chính phát triển cao nhằm giúp các ngân hàng thương mại phòng
ngừa và bảo hiểm rủi ro tín dụng, san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt trong quản lý danh
mục các khoản cho vay của mỗi ngân hàng.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định
về phân loại nợ có một số điểm chưa phù hợp, cần được xem xét điều chỉnh theo
hướng: đối với nợ gia hạn cần căn cứ vào thời gian gia hạn và số lần gia hạn để phân
loại nợ (hiện nay chỉ căn cứ vào số lần gia hạn, mà không căn cứ vào thời gian gia hạn
nên đã đánh đồng và xếp tất cả các khoản nợ gia hạn vào nhóm nợ xấu).
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin tín
dụng của Trung tâm CIC Ngân hàng Nhà nước. Để nâng cao tính hiệu quả và thúc đẩy
động lực làm việc, có thể nghiên cứu chuyển đổi Trung tâm này sang hình thức công
ty cổ phần có sự góp vốn của các ngân hàng thương mại.
103
Ngân hàng Nhà nước có thể nghiên cứu và cho áp dụng mô hình công ty xếp hạng
tín nhiệm độc lập ở Việt Nam để hỗ trợ cho các ngân hàng trong hoạt động kinh
doanh, có thể thu hút sự chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm của các công
ty xếp hạng tín dụng trên thế giới.
9.2 Kiến nghị đối với Chính phủ
Chính phủ cần có những quy định cụ thể liên quan đến việc công bố thông tin tài
chính doanh nghiệp có xác minh của kiểm toán, quy định chặt chẽ hơn về những điều
kiện để được thành lập công ty kiểm toán và quy định rõ trách nhiệm của công ty kiểm
toán cũng như các kiểm toán viên có liên quan khi cho ra đời những báo cáo kiểm toán
sơ sài, hoặc thiếu trung thực. Vì thực tế hiện nay cho thấy chất lượng của rất nhiều
công ty kiểm toán là chưa đảm bảo (có những báo cáo tài chính đã được kiểm toán
nhưng thậm chí sai ở tiêu chí cơ bản nhất là đơn vị tiền tệ USD thành VND).
Bên cạnh đó, Chính phủ cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến
quyền chủ nợ của ngân hàng và bảo đảm tiền vay nhằm giúp cho các ngân hàng thuận
lợi khi phải thực hiện các biện pháp xử lý tài sản để thu hồi nợ, tránh tình trạng dây
dưa, kéo dài. Cần xây dựng hệ thống quy định đảm bảo quyền chủ nợ của ngân hàng
trong xử lý tài sản bảo đảm, chỉ đạo các bộ ngành liên quan quy định về thủ tục, trình
tự xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả.
Cuối cùng, Chính phủ cần hoàn chỉnh các quy định pháp luật liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng như quy định về giao dịch bảo
đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, quy định về cấp các giấy tờ sở hữu tài sản, quy định
về các ngành kinh doanh… hiện là những vấn đề liên quan đến nhiều Bộ, Ngành khác
nhau, có ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng. Chính phủ cần điều phối kết hợp các
bộ ngành có liên quan cùng NHNN thống nhất, chia sẻ quan điểm về phòng ngừa, hạn
chế rủi ro tín dụng, cùng nhau phối kết hợp để giải quyết những vấn đề vướng mắc
trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng.
104
KẾT LUẬN
Cùng với những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính trên
phạm vi toàn cầu, chất lượng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam đang có những dấu hiệu giảm sút
nghiêm trọng. Do đó nâng cao chất lượng tín dụng thông qua hoàn thiện công tác quản
trị rủi ro tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, khóa
luận đã nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng cũng như công tác quản
trị rủi ro tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Ngoại thương Việt Nam, chỉ ra những mặt còn hạn chế cần khắc phục. Từ đó, tác
giả đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi
ro tín dụng trên cơ sở những quan điểm định hướng và mục tiêu của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam trong giai đoạn phát triển sắp tới. Một
số giải pháp nằm ngoài tầm quyết định của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, tác giả đã đề xuất và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Chính phủ để hỗ trợ cho sự tăng trưởng tín dụng bền vững.
Đề tài được viết trên cơ sở kết hợp lý thuyết về rủi ro tín dụng trong kinh doanh
ngân hàng cùng với kinh nghiệm thực tiễn còn ít ỏi trong thời gian thực tập ba tháng
của tôi tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Phòng tín dụng
Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do những hạn chế về mặt kiến thức lý thuyết và thực tiễn
nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô./.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (2002-2008), Báo cáo thường niên.
2. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, website www.vietcombank.com.vn.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004-2007), Báo cáo thường niên.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kết quả hoạt động ngân hàng năm 2008, định
hướng nhiệm vụ năm 2009.
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, website http://www.sbv.gov.vn.
6. Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX.
7. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 06/1997/QHX.
8. Vụ các ngân hàng – Ngân hàng nhà nước (2007), “Quản lý nợ xấu – nguyên tắc
Basel về quản lý nợ xấu”.
9. Lê Vinh Danh (1996), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
Trung Ương, NXB Chính Trị Quốc Gia [32- 66].
10. TS. Hồ Diệu (Chủ biên) cùng tập thể biên soạn (2000), Giáo trình Tín dụng
ngân hàng, NXB Thống kê.
11. GS.TS Lê Văn Tư (2004), Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
12. George Cooper (2008), Nguồn gốc khủng hoảng tài chính, NXB LĐXH [61-92].
13. Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại (Commercial Bank
Management), NXB Tài Chính.
14. Đại học Ngoại thương, Giáo trình Lý thuyết tài chính – tiền tệ.
15. TS. Nguyễn Văn Giàu (2009), “Hoạt động ngân hàng Việt Nam thực hiện mục
tiêu kiểm soát lạm phát và góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế”, Tạp chí Ngân
hàng, Số 1+2.
16. TS. Nguyễn Đại Lai (2009), “Chiến thắng lạm phát năm 2008 và hoạt động
ngân hàng Việt Nam năm 2009 góp phần chống suy giảm và kích cầu kinh tế”,
Tạp chí Ngân hàng, Số 4.
17. Nguyễn Đào Tố (2008), “Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng từ những
ứng dụng nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng, Số 5.
106
18. TS. Nguyễn Đại Lai, “Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc trong chính sách
tiền tệ đến cung ứng tiền và mặt bằng lãi suất tín dụng”, website Ngân hàng Nhà
nước: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=487.
19. GS. Trần Văn Thọ, PGS.Trần Lê Anh (2008), “Khủng hoảng tài chính Mỹ và
những ảnh hưởng”, website Báo điện tử thanhnienonline:
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200842/20081016011937.aspx
20. “Thị trường chứng khoán Việt Nam 2008: Một năm đầy biến động”, website
Công ty chứng khoán FPT: http://www.fpts.com.vn/VN/Tin-tuc/Trong-
nuoc/Thi-truong/2008/12/3B9BB8C3/
21. “50% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng”,
website Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:
http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=4263&
Itemid=30
22. Website của các báo điện tử khác: vnexpress.net, vitinfo.com.vn, cafef.vn,
fpts.com.vn.
Tiếng Anh:
1. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD, tra cứu thuật ngữ:
http://stats.oecd.org/glossary/detail.asp?ID=6199
2. George E. Peterson (1998), Measuring local government credit risk and
improving creditworthiness.
3. Janet Tavakoli (2001), Credit derivatives and synthetic structures, 2nd edition,
John Wiley and Sons.