he thong moi.pdf
Transcript of he thong moi.pdf
ÔN TẬP
HỆ THỐNG DẦU KHÍ
Vào thế kỷ 19, nguồn gốc của dầu khí từ lò
magma, dầu được di chuyển từ những đứt gãy
sâu trong vỏ trái đất được tin tưởng rộng rãi.
Tuy nhiên, rất nhiều chứng cứ hiện tại cho
rằng vật liệu gốc của đá chứa dầu từ những vật
liệu hữu cơ được tạo ở bề mặt trái đất.
Vật liệu sinh dầu
• Sự hình thành bắt đầu từ quá trình quang hợp, trong
thực vật sự hiện diện của ánh sáng mặt trời đả chuyển
nước và CO2 thành Glucozơ, nước và oxy:
6CO2 + 12H2O C6H12O6 + 6H2O + 6O2
• Quang hợp là một phần trong chu trình của Cacbon
(Hình 01).
• đa phần VLHC được sản sinh bởi quá trình quang
hợp sẽ trở lại bầu khí quyển thành CO2 .
• Quá trình này xảy ra từ thực vật, từ hô hấp của động vật
hay từ quá trình oxi hóa và từ sự thối rửa vi khuẩn khi cơ
thể đã chết.
Tất cả VLHC ở đại dương được thành tạo thông qua
quang hợp. Vật liệu chính là từ phytoplankton – là
những vi sinh vật sống trôi nổi như các loại tảo,
“dinoflagellates” và “blue-green algae”.
Tảo nằm ở đáy là thành phần đóng góp chính tạo
VLHC ở biển nông, môi trường thềm lục địa.
Sự bảo tồn và sản sinh chất hữu cơ
• Những khu vực sản sinh chất hữu cơ cao thì không phải
là nơi bảo tồn tốt.
• Nơi phá hủy VLHC cần được ngăn chặn.
• Sự bảo tồn được thực hiện thuận lợi ở hai điều kiện:
- tỉ lệ lắng đọng nhanh
- hiếm khí oxi
• sự lắng đọng nhanh chóng rất cần thiết trong việc giữ
VLHC không bị phá hủy.
• Sự bảo tồn được do mật độ của các lớp đá – nơi đáy
biển rất hiếm khí oxi
• Sự phân tầng nước và hiếm oxi được biết tại Biển
Đen
Giai đoạn biến đổi của VLHC
Có 3 giai đoạn quan trong trong việc chôn vùi và
trưởng thành của VLHC thành Hydocarbon:
- Giai đoạn tạo đá (diagenesis)
- Giai đoạn nhiệt xúc tác (catagenesis)
- Giai đoạn biến chất (metagenesis)
Giai đoạn tạo đá được xem là giai đoạn cơ bản của
VLHC, nó bao gồm tất cả các thay đổi xảy ra trong
giai đoạn hình thành dầu khí.
Những bùn mới được lắng đọng vẫn chưa thành đá,
chúng có thể chứa đến 80% nước trong khe rỗng.
Những chất bùn này sẽ gắn kết lại rất nhanh chóng.
Đa phần lỗ rỗng bị mất đi ở 500m chôn vùi đầu tiên.
Sau đó, qua trình gắn kết để thành đá bùn hay đá
phiến sét vẫn tiếp tục nhưng chậm hơn.
• Dưới KHV, kerogen xuất hiện thành những mãnh hữu
cơ nằm phân tán. Một vài thì được sắp xếp.
• những bào tử, tảo và những loài sinh vật khác với
những cấu trúc sinh học rõ ràng.
• Những mãnh dẫn xuất thực vật này có thể nhóm lại
thành những bộ phận sinh học riêng biệt gọi là
“macerals”. “Macerals” trong kerogen được xem
như tương đương với những khoáng vật trong đá
Những hợp phần Kerogen
• Vitrinite là loại “maceral” chiếm ưu thế trong nhiều
loại kerogen và là thành phần chính của than.
• Nó được dẫn xuất hoàn toàn từ những mãnh gỗ của
vùng thực vật bậc cao. Bởi vì chúng chúng được tạo
thành từ chất lignin – rất khó bị phá hủy nên vitrinite
có thể xuất hiện hầu hết ở các môi trường lắng đọng
như ở môi trường biển, lục địa. Vitrinite là loại rất
phổ biến.
• Exinite macerals được dẫn xuất chính từ tảo, phấn
hoa, bào tử và từ lớp sáp biểu bì của lá.
• Tỉ lệ chứa nhiều Exinite không phổ biến nhưng nếu
có thì có thể biết đó là ở môi trường ao hồ hay môi
trường biển nông.
• Inertinite macerals có từ rất nhiều nguồn mà đã bị oxi
hóa trước khi lặng đọng. Ví dụ: than củi. Inertinite là
một hợp phần rất nhỏ trong kerogen và khi chúng dư
thừa thì chỉ ở những nơi mà VLHC đã được tái chế.
Một loại maceral trong kerogen là những hạt vô định
hình.
Những hạt này bị phá hủy cơ học hay bị thay thế hóa
học bởi những vi khuẩn và nấm.
Loại maceral này thực chất là những loại maceral cũ
nhưng đã bị phá hủy để trở thành những sản phẩm
thay thế.
Loại Kerogen Nguồn gốc Thành phần hữu cơ
I Tảo Tảo biển, đầm hồ, Đa phần là tảo từ exinite
(alginite); vài vật liệu vô
định hình từ tảo
II “Mixed Marine” Môi trường thối rữa, đa phần
là biển
Những hạt vô định hình
được sinh ra từ sinh vật và
động vật trôi nổi; vài
maceral cũng từ những loại
này
III Coaly Từ những rừng trên lục địa
bị chôn vùi (gỗ, bào tử, lớp
sáp biểu bì của lá, nhựa
thông, mảnh thực vật)
Đa phần là vitrinite, một vài
exinite (không phải là tảo) và
những sản phẩm phá hủy vô
định hình
IV Inert Hóa thạch than củi, và
những vật chất bị oxi hóa
của rừng trên lục địa
Đa phần là inertinite; một vài
sản phẩm vô định hình
Bảng 1: Những loại kerogen, nguồn gốc và thành phần hữu cơ của chúng
Những loại kerogen
Mối liên quan giữa độ sâu trung bình, tối đa và tối thiểu của
độ sâu chôn vùi
Mối liên quan giữa sự tạo dầu và nhiệt độ
Độ sâu và nhiệt độ ở vùng bắt đầu tạo dầu
Đá sinh dầu
Tầng đá mẹ là tầng đá có thành phần hạt mịn (bột kết và
sét kết), có đủ độ giàu các vật chất hữu cơ, vẫn chưa bị
oxy hóa và có thể chuyển thành dầu khí bởi sự chôn vùi ở
nhiệt độ và áp suất cao
Tính chất hoá học của quá trình chuyển hoá vật liệu
hữu cơ.
Quá trình tiến hoá VLHC sinh dầu và khả năng tích luỹ
HC có thể tóm tắt thành năm giai đoạn như sau:
Giai đoạn sinh CO2 và phần không đáng kể CH4 ở
protokatagenez (PK1 - PK3).
Giai đoạn sinh dầu chủ yếu của VLHC sapropel cũng
như humic-sapropel ở giai đoạn đầu mezokatagenez
(MK1 –MK2).
Sinh rất mạnh khí HC và hệ thống khí condensat đầu
tiên ở giai đoạn (MK3 và đầu MK4).
Sinh khí chủ yếu khí metan ở giai đoạn (MK5 –
AK2).
Giai đoạn sinh khí với hàm lượng chủ yếu là khí axit
(CO2 , H2S) ở giai đoạn (AK3 –AK4).
Mô hình chung của quá trình hình thành bitum
Chỉ tiêu của dầu ở đới chủ yếu sinh dầu
Các quá trình chuyển hóa VLHC:
1. Trong giai đoạn tạo đá Diagenez:
2. Trong giai đoạn nhiệt xúc tác Catagenes :
Giai đoạn PK: giai đoạn thủy phân, mất COOH, OH
Giai đoạn MK1- MK2: giai đoạn sinh dầu (bitum hóa)
Giai đoạn MK3- MK4: sinh condensat và khí (phân
hủy bitum)
Giai đoạn MK5-AK2: sinh khí (metan hóa)
Giai đoạn AK3-AK4: sinh khí với hàm lựong chủ yếu
khí acid (CO2, H2S)
Đá chứa dầu
Đá chứa dầu là nơi dầu di chuyển và được giữ lại ở
dưới mặt đất .
Tất cả các đá có độ lỗ hổng thông với nhau đều có thể
trở thành đá chứa dầu .
Như cát kết, loại đá này có độ lỗ hổng cao để dầu và
khí có thể được bẫy lại trong đó; và vì thế đá cát kết
chính là một trong những đá chứa dầu phổ biến .
Tuy nhiên, trên 50% trữ lượng của các tích tụ
hydrocacbon lớn trên thế giới được tìm thấy trong đá
cacbonat như đá vôi và đá dolomit , trong các khối
ám tiêu san hô cổ .
Hai thông số cơ bản của đá chứa là: độ rỗng và độ
thấm thuận lợi.
Độ rỗng phản ảnh số lượng dầu khí có thể chứa
trong một thể tích đá.
Độ thấm phản ánh khả năng dầu khí có thể thấm
thấu trong đá.
ĐỘ RỖNG CỦA ĐÁ:
Định nghĩa:
Độ rỗng: là tỉ số được tính theo % của tổng thể tích các
khoảng trống trong đá chia cho tổng thể tích của khối đá
bao gồm lỗ rỗng có thông nhau hay không.
Độ rỗng chia làm hai loại:
Độ rỗng lí thuyết: là tỉ số của tổng thể tích các lỗ
rỗng trong đá trên tổng thể tích đá. Gồm: độ rỗng
hiệu dụng và độ rỗng cô lập
+ Độ rỗng hiệu dụng: là tỉ số giữa tổng thể tích rỗng
hiệu dụng (các lỗ rỗng liên thông với nhau) trên tổng
thể tích đá
+
ng liên thông
ng xung quanh.
t
c.
Lỗ rỗng liên thông Lỗ rỗng liên kết Lỗ rỗng cô lập
Trong công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí có thể sơ
bộ đánh giá khả năng chứa dầu của đá dựa vào độ
rỗng theo tiêu chuẩn sau:
–
15 –20%.
Độ rỗng hiệu dụng chiếm 40-
70% độ rỗng lý thuyết.
i
ng
Bản chất của lỗ rỗng
Gồm: độ rỗng nguyên sinh và độ rỗng thứ sinh
Độ rỗng nguyên sinh: hình thành đồng thời quá trình
tạo đá.
Với các lỗ rỗng nguyên sinh là lỗ rỗng của các hạt và
phần tử cấu tạo đá trầm tích.
Lỗ rỗng nguyên sinh có nguồn gốc:
Là các khoảng trống giữa các hạt, phân tử tạo nên chỗ
trống trong đá trầm tích
Là khoảng trống giữa các mặt phân lớp đá trầm tích
Các lỗ rỗng ở dạng bọt trong đá magma (không đáng kể)
Lỗ rỗng giữa
các hạt tinh thểLỗ rỗng liên hạt
Độ rỗng thứ sinh: hình thành do quá trình biến đổi
muộn hơn, sau khi thành tạo đá. Với các lỗ rỗng thứ
sinh:
Khe nứt xuất hiện khi có sự co rút của đá.
Khe nứt và lỗ rỗng hình thành do sự tái kết tinh, thay
đổi bản chất, co rút tạo đường nứt.
Khe nứt và lỗ rỗng sinh ra do hoạt động kiến tạo của
vỏ trái đất.
Khe nứt và lỗ rỗng sinh ra do phong hóa của đá.
Khe nứt và lỗ rỗng sinh ra do sự thay thế các KV có
kích thước lớn các KV có kích thước nhỏ.
Lỗ rỗng trong đá do sự hòa tan trong quá trình thành
đá tạo lỗ rỗng.
a dolomite
ch
do khe nứt
do đứt
gãy tạo vết nứt
Các yếu tố ảnh hưởng đến độ rỗng:
1. Kích thước hạt:
Thực tế: giảm kích thước hạt thì gặp sự ma sát độ dính và
các hạt bị cong, do đó tỉ lệ tiếp xúc các hạt trong đá tăng
lên
Phân tử HC bám bề mặt hạt, hạt kích thước càng nhỏ →
diện tích tiếp xúc giữa các hạt tăng lên → độ rỗng của đá
vụn càng lớn.
Kích thước hạt càng nhỏ, hình dạng hạt không đều đặn,
do đó hạt sắp xếp không chặt → độ rỗng của đá tăng lên
Ellis A.J. và Lee K.G. nghiên cứu 36 mẫu đá
trầm tích vụn khác nhau từ đá hạt thô → sét
Cát thô 39 - 42%
Cát vừa 41- 48%
Cát nhỏ 48 - 49%
Sét chứa cát nhỏ 50 - 54%
Sét vừa lắng đọng 50 - 85%
Trong điều lý tưởng không bị nén ép thì độ lỗ
rỗng tăng khi kích thước hạt giảm
2. Độ lựa chọn hạt
Nếu trên quả cầu kích thước khác nhau →
kích thước có ảnh hưởng đến độ rỗng của đá.
Độ rỗng của đá càng giảm khi hạt nhỏ và hạt
lớn trộn lẫn nhau (chênh lệch lớn).
Có lựa chọn tốt → đá có độ rỗng lớn.
Chọn lọc kém → đá có độ rỗng thấp.
3. Hình dạng hạt (độ mài tròn, độ cầu hạt)
Với giả thuyết đá trầm tích hình thành từ các hạt cầu
lý tưởng → độ rỗng nhỏ vì những hạt hình cầu có xu
hướng sắp xếp ở những vị trí cân bằng khoảng trống
giữa chúng nhỏ nhất.
Khi hạt ở dạng góc cạnh, các phần góc cạnh của hạt
sẽ chen vào làm mất bớt khoảng trống do nén ép, xô
lệch.
Thực nghiệm cho thấy độ rỗng lớn nhất và tìm
thấy ở các đá hạt ½ góc cạnh → góc cạnh, chọn
lọc tốt và tùy vào vị trí sắp xếp.
Quan hệ giữa hình dạng hạt và độ rỗng hết sức
phức tạp và còn nhiều yếu tố khác
4. Độ nén dẽ:
Độ rỗng của đá giảm theo độ sâu chôn vùi.
Đối với trầm tích vụn giữa cát – bột sét, thì sét
giảm thể tích nhiều nhất, cát – bột cũng giảm
nhưng nhỏ hơn nhiều.
Tốc độ giảm độ rỗng ngày càng chậm theo độ sâu
lớn, nhưng thời gian chôn vùi cũng có ảnh hưởng
đến độ rỗng.
Cùng loại đá nhưng tuổi khác nhau → độ rỗng khác
nhau. Cát kết càng xưa độ rỗng càng nhỏ.
Tốc độ giảm độ rỗng phụ thuộc vào gradien địa nhiệt:
Bồn có gradien địa nhiệt cao tốc độ giảm theo độ sâu
chôn vùi sẽ giảm đi. Gradien địa nhiệt cao thì độ rỗng
cát kết càng cao.
Độ nén dẽ còn tùy thuộc vào loại đá: Đá sét chịu nén
dẽ khác đá cát, nhìn chung có ba bước nén dẽ khác
nhau:
Xuống 450m sâu, nước trong lỗ rỗng bị ép ra mất đi
với tốc độ nhanh. Càng xuống sâu thì càng giảm
Từ 450-1700m sâu, mất nước liên kết với tốc độ đều
theo chiều sâu.
Lớn hơn 1700m sâu, độ rỗng giảm xuống dưới 15%
khi kích thước lỗ rỗng giảm xuống còn 10– 3 mm lúc đó
sự mất nước trong lỗ rỗng rất chậm.
ĐỘ THẤM CỦA ĐÁ
Định nghĩa
Độ thấm là đặc tính của môi trường lỗ rỗng cho phép
chất lưu di chuyển đi qua khi có sự chênh lệch áp lực
mà không làm biến đổi cấu trúc của môi trường đó.
Độ thấm được rút ra từ định luật Darcy: “Độ thấm có
giá trị 1 Darcy khi từ diện tích 1cm2 của bề mặt đá cho
thoát ra 1cm3 chất lưu có độ nhớt là 1 đơn vị/ 1 giây
dưới sự chênh lệch áp là atm/cm”.
Đối với hầu hết đá chứa dầu khí độ thấm nhỏ hơn 1
Darcy rất nhiều do đó người ta sử dụng đơn vị nhỏ
hơn l mD.
Thường độ thấm của các đá chứa từ 5-500mD.
Công thức:
Suy ra :
Với :
Q : Lưu lượng tổng cộng tính sau một đơn vị
thời gian (cm3/s )
A : Tiết diện thẳng góc với hướng chảy (cm2)
L : Chiều dài đường chảy (cm)
J : Mật độ chất lưu (g/cm3)
M: Độ nhớt cùa chất lưu (m Pa)
: Sự giảm áp lực theo hướng chảy (atm)
K : Hệ số thấm (D hoặc mD)
Độ thấm không phụ
thuộc vào kích thước
hạt khi nó ở trạng
thái cân bằng
Tuy nhiên khi ở
trạng thái khác kích
thước hạt của vật
liệu giảm theo độ
thấm.
Vì khi kích thước
nhỏ không gian lỗ
hổng hẹp hơn do vậy
chất lỏng khó di
chuyển xuyên qua
Độ thấm và Độ lỗ rỗng phụ
thuộc vào kích thước hạt
Độ chọn lọc tốt--->độ lỗ
rỗng cao, độ thấm tốt.
Độ chọn lọc thấp--->độ lỗ
rỗng thấp, độ thấm không
tốt.
Định nghĩa: Đá chắn là loại đá có độ thấm rất kém đối
với dầu, khí, nước, có khả năng cách ly chúng gọi là
đá chắn hay còn gọi là lớp phủ, nằm ngay bên trên
của bồn chứa dầu hoặc khí.
Tầng chắn – những loại đá không thấm, nó giữ vai trò
như một màn chắn, một mái phủ không cho chất lỏng
đi xuyên qua được .
Đá chắn dầu :
Đá chắn có khả năng ngăn cản ngay cả quá trình
khuyến tán phân tán dầu khí khi giảm áp, khi hình
thành vỉa.
Tốc độ thấm lọc của dầu khí qua lớp chắn (lớp phủ)
bao giờ cũng nhỏ hơn rất nhiều tốc độ tích luỹ, kể cả
trong suốt thời gian tồn tại lâu dài của vỉa (nếu không
có hoạt động kiến tạo và vận động thuỷ lực của nước
ngầm …)
Đá chắn tốt nhất là các tầng chứa muối ghips,
anhydrit, nhưng phổ biến hơn là sét, đặc biệt là sét
montmo. Ngoài ra, trong điều kiện nào đó đá macma
cũng chắn tốt. Đá trầm tích có tính dẻo: đá sét hay đá
phiến (hầu hết là cát kết, trên 60% bẫy dầu được tìm
thấy đều có tầng chắn là đá phiến sét).
Đá phiến sét là loại đá chắn chủ yếu của những mỏ
dầu trữ lượng lớn trên thế giới và được chôn vùi trong
các bồn lục địa giàu chất trầm tích.
Trong trường hợp có
thành tạo nếp lồi (A), chỉ
cần bộ phận tầng chắn
hay đá chắn bên trên và
bên dưới; nhưng đối với
những bẫy đứt gãy (B) và
các bẫy địa tầng (C,D)
phải được chắn cả bên
trên, dưới và hai bên.
Bẫy dầu là một tổng những điều kiện giữ dầu trong đá
chứa ngăn sự di chuyển của dầu .
Trong tự nhiên, các đá chứa dầu nằm giữa các đá có độ
thấm xấu được gọi là két chứa tự nhiên.
Trong các két này thường chứa nước; dầu khí nằm
trong két sẽ chứa dạng giọt phân tán hoặc bọt .
Bẫy dầu
Do sự khác nhau về tỷ trọng, các giọt dầu và bọt khí
sẽ nổi lên trên mặt lớp và di chuyển lên trên tới lớp đá
mái, rồi sau đó nếu mái nằm nghiêng chúng lại di
chuyển theo hướng nhô lên của két chứa.
Nếu quá trình di chuyển cứ tiếp tục như vậy thì dầu
khí luôn ở trạng thái phân tán .
Các tích tụ dầu khí trong các két chứa tự nhiên chỉ có
thể xuất hiện khi trên đường di chuyển chúng bị ngăn
lại không di chuyển được nữa .
Bộ phận của két chứa tự nhiên, nơi có điều kiện thuận
lợi cho sự tích tụ dầu khí trên đường di chuyển của
chúng được gọi là bẫy dầu và khí .
- Đỉnh nếp uốn (crest): điểm cao nhất của bẫy nếp lồi
- Điểm tràn (spill point): khi lấp đầy một bẫy kiến trúc , điểm tràn
chính là điểm mà tại đó mực dầu là thấp nhất .
- Đê bao khép kín của bẫy (closure): khoảng cách thẳng đứng từ
đỉnh nếp uốn đến mặt phẳng đi qua điểm tràn .
- Mặt phân cách dầu - nước (oil - water contact): mặt phẳng phân
chia dầu và nước trong bẫy (dầu nằm trên nước)
- Mặt phân cách khí - dầu (gas – oil contact): mặt phẳng phân chia
khí và dầu trong bẫy (khí nằm trên dầu)
Một loại bẫy phổ biến nhất là nếp lồi. Dầu từ phía dưới đi lên theo
hướng tới đỉnh nếp lồi, nếu bên trên là lớp đá chắn thì nó sẽ đọng lại .
Từ đó có một số định nghĩa có liên quan đến bẫy dầu:
Phân loại bẫy dầu Bẫy kiến trúc (Structural traps ).
* Bẫy kiến trúc nếp lồi (Anticline trap) .
* Bẫy kiến trúc phay phá (Fault trap ).
* Bẫy kiến trúc xâm nhập (Diapiric trap ).
Bẫy địa tầng (Stratigraphic traps ).
* Bẫy nêm vát (Pinchout trap ).
* Bẫy bất chỉnh hợp ( Unconformity trap ).
* Bẫy ám tiêu (Reef trap ).
Bẫy màn chắn thủy lực ( Hydrodynamic traps ).
Bẫy hỗn hợp (Combination traps ).
Bẫy kiến trúc – Structural traps
Bẫy nếp lồi – Anticline traps :
Nguyên nhân thành tạo
do các lớp đá bị biến dạng
uốn nếp , đôi khi do hiện
tượng xâm nhập hay hiện
tượng nén chặt gây ra .
Trong bẫy kiến trúc nếp lồi, các tích tụ được tạo nên ở vòm các
nếp uốn do sự di chuyển của dầu và khí dưới tác dụng của trọng
trường .
Bẫy kiến trúc – Structural trapsBẫy kiến trúc phay phá – Fault traps :
Bẫy kiến trúc – Structural trapsBẫy kiến trúc xâm nhập - Diapiric trap :
Khi khối magma hay vòm muối đi lên các loạt đá kề trên một cấu trúc vòm muối có 3 tác
dụng : + Đẩy lùi các lớp đất đá mà nó đi qua và tạo ra cấu trúc nêm vát ở 2 bên sườn .
+ Nâng các lớp đất đá kề trên thành nếp lồi nếu nó không chọc thủng các lớp này .
+ Ngay trên phần đỉnh của chỏm muối, gọi là mũ đá thường được thành tạo bởi thạch
cao , đá vôi , dolomit , những chất cặn không tan của chỏm muối → tạo nên tầng chứa sản
phẩm .
Bẫy địa tầng - Stratigraphic traps :Bẫy nêm vát - Pinchout trap :
Được thành tạo cơ bản ở sườn các khối nâng và những cấu trúc lớn khác do sự giảm chiều
dày theo đường phương từ trên xuống cũng như sự thay đổi theo chiều hướng giảm đi tính
chứa dầu và đến khi vát nhọn, mất hoàn toàn những tầng chứa dầu .
Loại đơn giản nhất là thân cát thuộc loại thấu kính .
Trong trường hợp này đá chứa có dạng như một cái nêm được bao bọc xung quanh bởi các
đá không thấm (đá chắn) .
Bẫy địa tầng - Stratigraphic traps :
Bẫy bất chỉnh hợp - Unconformity trap :
Liên quan với bất chỉnh hợp địa tầng tại các cấu trúc kiến tạo . Liên quan với bất
chỉnh hợp địa tầng ở bề mặt bóc mòn các phần sót lại bị chôn vùi của địa hình cổ hay
các phần lồi của móng kết tinh . Trong trường hợp này những lớp đá nằm bên dưới có
thể bị nghiêng , bị xói mòn và sau đó được phủ không khớp đều lên trên bởi một lớp
đất đá không thấm trẻ hơn và tại đó dầu – khí có thể được bẫy lại .
Bẫy địa tầng - Stratigraphic traps :Bẫy ám tiêu - Reef trap :
Bẫy hình thành do các khối ám tiêu do độ nứt nẻ hay hang hốc tạo điều kiện cho dầu tích
tụ lại . Các ám tiêu này được chắn bởi các lớp trầm tích không thấm . Quá trình tạo hang
hốc trong các thành hệ cacbonat do nước hòa tan cacbonat tạo nên tầng chứa dầu tốt .
Các bẫy ám tiêu thường khó phát hiện . Chúng thường nằm ở một chỗ đối với độ dốc đáy
biển , giữa bồn và nền ven bờ .
Bẫy màn chắn thủy lực
Hydrodynamic traps Nước từ những khoảng trống có
áp lực lớn trong đá đi theo đứt
gãy thẩm thấu vào những bẫy
chứa dầu và đẩy dầu di chuyển ra
khỏi bẫy tạo lên màn chắn thủy
lực .
Đặc biệt, trong bẫy màn chắn
thủy lực thường có mặt phân cách
dầu – nước ở trạng thái nghiêng .
Các tầng chứa nước ít khi đứng
yên và di chuyển với một tốc độ
mạnh làm thay đổi điều kiện
thành tạo bẫy thay vì chỉ chịu lực
trọng trường. Tỷ trọng của khí
luôn nhỏ hơn dầu nên vỉa khí bị
biến dạng và di chuyển yếu , vỉa
dầu bị biến dạng và di chuyển
mạnh hơn. Do đó nhân tố thủy
tĩnh và thủy động lực kéo theo sự
thay đổi vị trí của bẫy .
Bẫy hỗn hợp - Combination traps Hầu hết các trường dầu và khí trên thế giới
không chỉ là đơn độc hoặc bẫy cấu trúc hoặc
bẫy địa tầng hoặc bẫy màn chắn thủy động
lực mà là sự tổ hợp của hai hay nhiều yếu tố
trên .
Trong thực tế, các bẫy dầu thường là tổ hợp
của 2 yếu tố cấu trúc và yếu tố địa tầng ,
trường hợp có thêm yếu tố màn chắn thủy
động lực thì rất hiếm gặp .
Các kiểu bẫy hỗn hợp:
* Nêm vát địa tầng nằm trên
sườn của một nếp lồi .
* Bẫy có thể được tạo nên do
sự kết hợp của một nếp lồi bị
cắt bởi mặt bất chỉnh hợp .
* Đa số các bẫy liên kết với
vòm muối cũng được coi là bẫy
hỗn hợp .
Các yếu tố đánh giá tiềm năng của bẫy
Yếu tố kiến tạo :
• Các hoạt động kiến tạo khống chế: lượng vật liệu
trầm tích, tốc độ lún đáy, bào mòn, loại vật liệu trầm
tích tạo đá chứa, đá chắn, tạo bẫy, sự chuyển hóa vật
liệu hữu cơ tạo HC, đường di trú HC.
• Hoạt động kiến tạo luôn xảy ra truớc hoặc đồng thời
với thời kỳ tạo dầu.
Yếu tố cổ địa lý:
• Các hạt mịn chỉ được hình thành trong điều kiện cổ
địa lý nhất định, kể cả đá hạt thô.
• Do đó sự phân bố của loại vật liệu trầm tích (vô cơ,
hữu cơ), đá sinh dầu, đá chứa, đá chắn sẽ quy định sự
phân bố của dầu khí.
Yếu tố cổ địa chất thủy văn:
• Sự dịch chuyển của nước ngầm liên quan đến sự dịch
chuyển và tích tụ của HC.
• Do đó ta phải xét đến lịch sử phát triển của địa chất
thuỷ văn của vùng qua từng giai đoạn, cũng như
phương hướng và tốc độ dịch chuyển của nước ngầm,
bất kể các yếu tố nào của các yếu tố trên không thuận
lợi thì xác suất tìm thấy dầu bằng 0.
Sự phân bố các loại bẫy trên thế giới
SỰ DI CHUYỂN CỦA HYDROCARBON
1. Dấu vết nguyên sinh của sự di chuyển dầu
2. Định nghĩa về sự di chuyển
3. Quá trình của sự di chuyển
3.1 Sự di chuyển nguyên sinh
3.2 Sự di chuyển thứ sinh
1. Dấu vết nguyên sinh của sự di chuyển dầu
• Sự tích tụ tại những vùng cấu trúc cao
• Giếng phun
• Nhiều tầng chứa nằm ngang tại những vỉa độc lập
• Dấu vết sự tích tụ dầu cổ xưa
• Dấu vết trực quan về sự di chuyển lên trên của
dầu
2. Định nghĩa về sự di chuyển của HC
+ Sự di chuyển nguyên sinh: là pha đầu tiên của sự
di chuyển, liên quan đến sự giải phóng dầu và khí
từ đá mẹ sang tầng vận chuyển.
+ Sự di chuyển thứ sinh: là di chuyển HC trong đá
chứa giàu lỗ rỗng, hoặc từ đá chứa sang đá chứa.
Đó là quá trình tập hợp dầu vào trong những bể
chứa mang tính thương mại.
Sự di chuyển nguyên sinh và thứ sinh thể hiện ở giai đoạn đầu và giai đoạn
sau.
3. Quá trình của sự di chuyển
3.1 Sự di chuyển nguyên sinh
A. Tính cơ học của sự di chuyển nguyên sinh.
• Điều này thật sự có thể được mô tả như một điều bí
ẩn kỳ diệu trong địa chất dầu khí do nguyên nhân lỗ
rỗng nhỏ trong đá phiến sét và tính tan thấp của dầu
trong nước.
• Ngày nay chỉ có 3 đặc tính cơ học của sự di chuyển
nguyên sinh được nhận định sâu sắc bởi phần lớn các
nhà địa chất :
- Sự phân tán
- Sự giải phóng pha dầu
- Sự hòa tan của khí
• Sự gắn kết của đá phiến sét
có thể làm tăng áp suất, mặt
khác, và điều này có thể tạo ra
mạng lưới các vi khe nứt với
đường kính lớn hơn các lỗ
rỗng.
• Quá trình tạo methane bên
dưới độ sâu từ 3 đến 4 km
cũng có thể làm tăng áp suất và
tạo ra vi khe nứt.
Vấn đề đầu tiên là lỗ rỗng nhỏ của đá mẹ
Vấn đề chính thứ hai của sự di chuyển nguyên
sinh là tính tan thấp của dầu trong nước.
• Có 2 con đường để tính tan của hydrocarbon trong
nước được gia tăng, qua quá trình thành tạo dầu và
qua quá trình thành tạo các Micelle.
• Điều đầu tiên từ những mô hình này nhận định rằng
không chỉ có dầu và khí đi ra khỏi đá mẹ, mà bao
gồm cả nhiều hỗn hợp phân tử NSO ở dạng hòa tan,
như là acid và alcohol.
Hình 21
• Sự phân tán là quá trình di chuyển chậm của vật chất
từ môi trường có nồng độ hoặc áp suất cao sang môi
trường có nồng độ áp suất thấp hơn.
• Sự phân tán thể hiện hoạt tính trong một quy mô nhỏ
và khoảng cách ngắn.
SỰ PHÂN TÁN
SỰ GIẢI PHÓNG PHA DẦU
Có ba cách riêng biệt sự giải phóng pha dầu có thể xảy ra:
- Một xảy ra thường xuyên như là hệ quả của vi khe nứt hình
thành do áp suất cao trong quá trình tạo dầu.
- Cách thứ hai sự giải phóng pha dầu có thể xảy ra ở đá rất
giàu hữu cơ trước khi đi vào quá trình sinh dầu mạnh mẽ.
- Cuối cùng, sự giải phóng pha dầu có thể xảy ra khi bitum ở
dạng mạng lưới nối tiếp nhau có vai trò giữ ẩm thay thế
nước trong đá mẹ (điểm quan trọng trong tầng chứa đá
móng - Ex White Tiger).
Đặc tính cơ học thứ ba , sự giải phóng dầu hòa tan ở dạng
khí, cần thiết phải có một pha khí độc lập.
• Một pha chỉ có thể tách ra khi hàm lượng của khí vượt quá
khỏi hàm lượng của hydrocarbon lỏng.
• Do vậy, điều này chỉ xảy ra ở giai đoạn muộn của quá trình
catagenesis hoặc ở đá mẹ có khả năng sinh khí là chính.
• Độ hoà tan trong khí càng cao của các HC parafin, sau đó
giảm đối với naften theo chu trình sau: HC parafin> naften>
HC aromatic
SỰ HÕA TAN CỦA KHÍ
B. Khoảng cách và định hướng của sự di chuyển nguyên
sinh.
• Ở hầu hết trường hợp, khoảng cách của sự di chuyển nguyên
sinh thường ngắn (hầu như ở khoảng 10cm đến 100m). Sự di
chuyển nguyên sinh dừng lại chỉ khi quãng đường thấm vượt
quá giới hạn.
• Vì đá mẹ chịu áp suất lớn, sự giải phóng có thể xảy ra ở mặt
bên, bên trên hoặc bên dưới phụ thuộc vào khả năng chứa của
đá vây quanh. Theo cách đó, một đá mẹ nằm giữa 2 tầng đá
cát sẽ giải phóng hydrocarbon vào cả 2 tầng chứa này.
3.2 Sự di chuyển thứ sinh
Sự di chuyển thứ sinh được biết phổ biến hơn sự di
chuyển nguyên sinh.
Trong sự di chuyển thứ sinh, dầu sinh ra phần lớn
như những giọt lỏng riêng biệt có khả năng di chuyển
qua lỗ rỗng, lớp thấm, và mạch nước.
Vì đường kính lỗ rỗng lớn, bất kỳ giọt dầu lớn thông
thường nào cũng đều có thể qua lọt.
98
3.2.1. Tổng quát về sự di cư thứ sinh
Dầu có thể di cư trong môi trường nước, môi
trường HC có áp suất và trong môi trường có khí
hòa tan hay độc lập.
Di cư thứ sinh thực chất là sự phân bố lại áp lực.
Sự chênh lệch áp lực càng lớn, tạo xung càng cao,
sự di cư diễn ra càng mạnh, do đó mà tốc độ di cư
càng cao và khả năng di cư càng xa.
Sự di cư thứ sinh có thể thành dòng hay tia tùy điều
kiện thủy động lực và các lớp chắn. Chế độ thủy động
lực khép kín hay vận động.
Chế độ hoạt động kiến tạo thuận lợi cho việc bảo tồn
hay phá hủy (tạo khe nứt, đứt gãy).
Đôi khi ở điều kiện nhiệt áp thấp còn phụ thuộc vào
sự thâm nhập hay không của vi khuẩn khử HC...
99
100
3.2.2. Các dạng di cư thứ sinh
1. Di cư do lực nổi của dầu
Là quá trình di cư thứ sinh của dầu đến vùng có
áp suất thấp, nơi độ bão hòa thấp hơn.
Nguyên nhân : Nhiệt độ tăng do lún chìm, độ nhớt,
tỷ trọng, sức căng bề mặt giảm, tính linh động tăng,
bổ sung thành phần nhẹ, lực mao dẫn yếu dần đã làm
cho lực nổi của dầu tăng cao dẫn đến sự di cư.
2. Di cư do áp lực mao dẫn
Sự chuyển động của chất lỏng trong vỉa luôn bị
cản trở bởi lực mao dẫn đặc biệt, dầu ở các mao
dẫn thường có đường kính hẹp (<0,05mm). Trong
trường hợp này, dầu di cư khó hơn nước. Do đó để
di cư được các dòng dầu phải thắng được sức căng
bề mặt.
Vì vậy, nếu nhiệt độ tăng cao sẽ làm giảm lực căng
bề mặt, giảm sự cản trở đối với chất lỏng chuyển
động.
102
3. Sự di chuyển do khí đẩy
Áp lực khí có tác dụng vận chuyển dầu rất tốt và đẩy
dầu đi xa khi có điều kiện. Nếu nước vận động có khí
hòa tan cũng làm tăng áp lực của dòng chảy về phía
có thế năng thấp.
Khí có cấu trúc phân tử nhỏ, lại dễ hòa tan trong
chất lỏng do đó đã làm tăng tính linh động của chất
lỏng.
103
Khi áp suất lớn sẽ làm giảm sức căng bề mặt ở ranh
giới tiếp xúc dầu – nước, giảm áp lực mao dẫn, giảm
tính dính ướt của chất lỏng, khi đó các quả cầu khí vận
chuyển các quả cầu lỏng sẽ lách theo các khe nứt nhỏ
và di cư nhanh hơn.
Tuy nhiên, khả năng di cư của dầu hay khí hoặc hỗn
hợp dầu khí còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố: bản
chất của VLHC (nguồn cung cấp khí hay dầu), các điều
kiện nhiệt áp thuận lợi để sinh ra dầu khí…
104
Như vậy, dầu khí muốn di cư phải vượt qua áp suất bão
hòa trong nước hoặc khí vượt qua áp suất bão hòa trong
dầu, thì chúng mới tách ra khỏi lưu chất để vận động tự
do.
105
4. Di cư do sự thẩm thấu
Là dạng di cư thứ sinh diễn ra trong đá chứa do sự
vận động của dầu khí theo nguyên tắc do áp lực trọng
trường, lực mao dẫn, áp lực thủy động theo định luật
Darcy. Được thể hiện qua các công thức :
+ Đối với khí: Q = .k.S. (P12 – P2
2) / 2. . H
106
+ Đối với dầu, nước: Q = .k.S. ( P1 – P2 ) / . h
Với:
+ k - hệ số thấm
+ P12 – P2
2 - chênh áp ở ranh giới trên và dưới
của vỉa
+ h - bề dầy của vỉa
+ S - tiết diện thấm
+ - độ nhớt
+ - tỷ trọng của chất lỏng