GIÁO TRÌNH ĐẠO ĐỨC HỌC -...
Transcript of GIÁO TRÌNH ĐẠO ĐỨC HỌC -...
GIÁO TRÌNH ĐẠO ĐỨC HỌC
GIÁO TRÌNH ĐẠO ĐỨC HỌC
(In lần thứ hai)
Đồng Chủ biên:
PGS.TS. TRẦN ĐĂNG SINH - TS. NGUYỄN THỊ THỌ
Chương 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC
1. Đạo đức và cấu trúc của đạo đức
1.1. Khái niệm đạo đức và Đạo đức học
- Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức đã được xuất hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc,
Ấn Độ và Hi Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Còn "luân lí” được xem
như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hi Lạp là ethicos - lề thói, tập
tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối
quan hệ nhất định giữa nụ cười với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày.
Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm: moral là đạo đức còn
ethicos là Đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, trong đó những quan niệm về đạo và đức của họ được
biểu hiện khá rõ nét. Đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất
của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con dường, đường đi, về
sau khái niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói
đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của đạo, là đạo
nghĩa, là nguyên tắc, luân lí. Như vậy, có thể nói đạo đức theo quan niệm của
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469 - 399 TCN) là
người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học Đạo đức học. Còn Arixtốt (384 -
322 TCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ
biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông nói: Chúng ta bàn về đạo đức
không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Trong lịch sử Đạo đức học, Êpiquya (341 - 271 TCN) là người đầu tiên
đưa phạm trù lẽ sống vào Đạo đức học và là một trong những người có công
luận giải về sự tự do của con người.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Trong định nghĩa trên có mấy điểm cần chú ý như sau:
- Một là, đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các
quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của
kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về
đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo điều kiện kinh tế - xã
hội. Ví dụ: Thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những
người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức xã hội nông nô. Thích
ứng với chế độ tư bản dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê là
đạo đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra một nền đạo đức biểu hiện
mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn nhau của
những người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột. Như vậy, sự phát
sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển
của phương thức sản xuất quyết định.
- Hai là, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: phong tục,
tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức... Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi
con người theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Và
trong xã hội có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích của một
giai cấp nhất định. Những khuôn phép (chuẩn mực) và quy tắc đạo đức là yêu
cầu của cá xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi
cá nhân. Bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (tổ quốc, nhà nước, giai
cấp mình và giai cấp đối lập...) và đối với người khác. Những chuẩn mực và
quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp,
dân tộc thừa nhận. Hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến
khích, những chuẩn mực cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội... Do vậy
sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bán chất, đạo đức là
sự tự do lựa chọn của con người.
- Ba là, đạo đức là một hệ thống các giá trị, các hiện tượng đạo đức
thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc phủ nhận lợi ích chính
đáng hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay
phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân
với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung
hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ
thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức
đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức.
- Khái niệm Đạo đức học
Đạo đức học là môn khoa học nghiên cứu về đạo đức, về những quy
luật phát sinh, phát triển, tồn tại của đời sống đạo đức con người và xã hội.
Đạo đức học có hệ thống những khái niệm, phạm trù, những chuẩn mực đạo
đức cơ bản, làm cơ sở cho ý thức đạo đức và hành vi đạo đức của con người
Đạo đức học là khoa học cùng với Lôgic học và Mĩ học tạo thành bộ ba
khoa học nghiên cứu cái chân, cái thiện và cái mĩ. Nếu Lôgic học nghiên cứu
nhận thức đúng và sai; Mĩ học nghiên cứu cái thẩm mĩ; thì Đạo đức học
nghiên cứu cái thiện và cái ác.
Đạo đức học là một khoa học đã xuất hiện từ thời cổ đại. Nhiệm vụ của
Đạo đức học là xây dựng các lí thuyết về đạo đức. Trong lịch sử phát triển
của các khoa học, quan niệm về đạo đức như thế nào thì có các lí thuyết về
đạo đức như vậy.
Những nhà triết học duy tâm khách quan từ Platôn đến Hêghen nghiên
cứu đạo đức gắn liền ý niệm với gia đình, nhà nước, công dân; gắn đạo đức
với pháp luật, với trật tự thiên định của các tầng lớp xã hội. Đạo đức học của
các nhà thần học ở phương Tây đã gắn chặt đạo đức với ý niệm về Chúa.
Những nhà triết học duy tâm chủ quan coi những mệnh lệnh tuyệt đối, ý
chí tự do, linh hồn bất diệt là đối tượng nghiên cứu của Đạo đức học. Cantơ
cố chứng minh sự hoà giải giữa khoa học và tôn giáo, giữa tri thức và tín
ngưỡng.
Những nhà triết học duy vật từ cổ đại đến L. Phoiơbắc (1804 - 1872)
coi lĩnh vực nghiên cứu của Đạo đức học là các quan hệ của con người với
con người trong cách ứng xử xã hội. Đó là các quan hệ về gia đình, làng xóm,
vua tôi, cha con, bạn bè, tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc. L. Phoiơbắc nghiên
cứu tình yêu vĩnh cửu, coi nó như một tôn giáo, tuy vậy, không có tính giai
cấp và tính dân tộc và tính thời đại.
Đạo đức gắn với các phương thức sản xuất, khi phương thức sản xuất
thay đổi thì các quan niệm về đạo đức cũng nhanh hay chậm thay đổi theo sự
phát triển của xã hội loài người, từ các phương thức sản xuất đã tạo nên
nhiều kiểu đạo đức khác nhau: đạo đức trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ,
đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức trong xã hội phong kiến, đạo
đức trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đạo đức trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, đạo đức là một hiện tượng xã hội, vì vậy, Đạo đức học là một khoa
học xã hội và nhân văn. Nó phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực từ bản
thân cuộc sống con người. Trong cuộc sống, con người phải ý thức được ý
nghĩa hoạt động của mình, cần biết được những điều đã, đang và sẽ phải
làm.
Đạo đức thuộc ý thức xã hội, là trình độ phát triển cao của các tư tưởng
đạo đức, là một bộ phận của thế giới quan con người. Còn Đạo đức học là
triết hoc của đời sống thực tiễn.
Giữa đạo đức và Đạo đức học có sự khác biệt nhau. Ý thức đạo đức là
tồn tại xã hội được ý thức. Nó được biểu hiện qua những giá trị khách quan
của dời sống đạo đức con người, trải qua các thời kì lịch sử và cuộc sống
hiện thực, nó được phản ánh thành ý thức đạo đức. Còn Đạo đức học là khoa
học nghiên cứu về đời sống đạo đức, là tri thức khoa học về đạo dức (bao
hàm cả những cái đã biết và những cái đang tìm kiếm) của con người. Dù
chúng có chung một đối tượng phản ánh là tồn lại khách quan của các quan
hệ đạo đức và thực tiễn đạo đức của con người, nhưng mỗi lĩnh vực có sự
phản ánh khác nhau. Sự khác nhau giữa Đạo đức học và đạo đức chính là sự
khác nhau giữa một khoa học và đối tượng của khoa học này.
Ngày nay, đạo đức được nhiều khoa học nghiên cứu. Ngoài Đạo đức
học, các khoa học khác cũng nghiên cứu đạo đức như: Dân tộc học, Tâm lí
học, Xã hội học, Giáo dục học, Giá trị học... Tất nhiên, các khoa học này
không nghiên cứu bản chất quy luật vận động và phát triển của đạo đức như
là một hệ thống trọn vẹn thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội mà chủ yếu
nghiên cứu đạo đức là yếu tố hợp thành đối tượng của chúng, phù hợp với
khả năng và nhiệm vụ mà các khoa học này định ra.
1.2. Cấu trúc của đạo đức
Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta xem xét nó dưới nhiều góc
độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng
hạn: xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo
đức được hợp thành từ hai yếu tố là ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Nếu xét nó trong quan hệ giữa người với người thì ta nhìn ra quan hệ đạo
đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, cái
phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức
xã hội và đạo đức cá nhân.
- Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức
Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức đạo đức và thực tiễn
đạo đức.
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành
vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn
bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người.
Trong quan hệ giữa người với người đều có những ranh giới của hành
vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa
cá nhân ích kỉ và tinh thần tập thể. Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có
ranh giới: lao động là hành vi thiện, ăn bám, bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả
trong hành vi thiện, mức độ giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang
nhau, mà nó cũng có những thang bậc nhất định (cao cả, tốt, được). Ý thức
đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của
mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những nguyên
tắc đạo đức xã hội đặt ra; nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và
hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý
thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình đạo đức con người. Tóm lại, ý thức
đạo đức (về mặt cấu trúc) gồm tri thức đạo đức, tình cảm và ý chí đạo đức.
Mọi ý thức đạo đức được thể hiện thông qua thực tiễn đạo đức.
Thực tiễn đạo (tức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm
tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong cuộc
sống. Ở đây, các hành vi đạo đức vừa là biểu hiện của nhận thức và tình cảm
đạo đức cá nhân, vừa bị chi phối bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội.
Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác là
tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Sự lựa chọn tự do trong ứng xử giữa
người này với người khác là do những tính cách quyết định.
Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn luôn có quan hệ biện chứng với nhau,
bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con người, của một giai cấp,
của một chế độ xã hội và của một thời đại lịch sử.
Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động thì mới đem lại
những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có thực tiễn đạo đức thì
ý thức đạo đức không đạt tới giá trị đạo đức. Thực tiễn đạo đức được biểu
hiện như sự tương trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành động nghĩa vụ...
Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy
sinh trên sơ sở của ý thức đạo đức.
- Quan hệ đạo đức
Quan liệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người
và con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức là
một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tính hiện thực của bản chất xã hội
của con người. Các quan hệ đạo đức không chỉ hình thành nên giữa các cá
nhân mà còn giữa cá nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt của xã hội
(chẳng hạn: với lao động, với văn hoá tinh thần) trong chừng mực, những mặt
này liên quan đến các lợi ích, chứa đựng trong các mối quan hệ đạo đức.
Quan hệ đạo đức được hình thành và phát triển như những quy luật tất
yếu của xã hội, nó xác định những nhu cầu khách quan của xã hội, nó “tiềm
ẩn” trong những quan hệ xã hội. Quan hệ đạo đức tồn tại một cách khách
quan và luôn luôn biến đổi qua các thời kì lịch sử và chính nó là một trong
những cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức.
Tóm lại, ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là
những yếu tố tạo nên cấu trúc của đạo đức. Mỗi yếu tố không tồn tại độc lập
mà liên hệ tác động lẫn nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hoá
bên trong của hệ thống đạo đức.
- Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác
định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng
nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy.
Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích và
hoạt động của cá nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là hệ thống kinh
nghiệm xã hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức của cộng đồng.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng,
phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện
riêng rẽ của tồn tại xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình, các nhân
thu nhận đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội những lí tưởng,
chuẩn mực, tư tưởng, đánh giá đạo đức đã được hình thành nên trong lịch sử
cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân.
Trước mắt cá nhân, đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà
trong cuộc sống của mình cá nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp thu và thực
hiện.
Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữa
cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. Đạo
đức cá nhân là biểu hiện đặc thù của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm
hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân lĩnh hội, tiếp
thu đạo đức xã hội khác nhau và ảnh hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác
nhau. Đạo đức xã hội không thể là tổng số giản đơn của đạo đức các cá
nhân, mà nó là tổng hợp những nhu cầu phổ biến được đúc kết từ đạo đức cá
nhân. Đạo đức xã hội trở thành cái chung của một giai cấp, một cộng đồng xã
hội, một thời đại nhất định, nó được duy trì và củng cố bằng những phong tục,
tập quán, truyền thống, những di sản văn hoá vật chất và tinh thần, được biến
đổi và phát triển thông qua hoạt động sản xuất tinh thần và giao tiếp xã hội.
Quan hệ giữa đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là quan hệ giữa
chuẩn mực chung mang tính phát triển đặc thù trong trong xã hội với những
phẩm chất, hành vi, những yêu cầu cụ thể hàng ngày, quan hệ giữa lí tưởng
xã hội và hiện thực của cá nhân, giữ trí tuệ, tri thức xã hội với tình cảm, ý chí
và năng lực hoạt động đạo đức cụ thể của cá nhân.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Đạo đức học Mác - Lênin
2.1. Đối tượng của Đạo đức học Mác - Lênin
Trước C. Mác và Ph. Ăngghen có rất nhiều khuynh hướng Đạo đức
Học xây dựng các học thuyết về đạo đức khác nhau. Ở phương Đông và
phương Tây, có các lí thuyết quan niệm đạo đức như một hiện tượng vĩnh
cửu chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi giai cấp; có lí thuyết nghiên cứu
về đạo làm người, về tính thiện và tính ác của con người như một phẩm chất
đạo đức bẩm sinh; có lí thuyết gắn đạo đức của con người với xã hội. Có lí
thuyết quan niệm đạo đức như là một sự ban phát của thượng đế, đạo đức
như một lí trí tối cao, đạo đức như một tinh thần tự do bất diệt... nên đã hình
thành những hệ thống khái niệm, các quy luật, các phạm trù đạo đức theo các
quan niệm về đạo đức của lí thuyết đó.
Trong các học thuyết về đạo đức, người ta thường quan tâm đến bốn
hệ thống lí thuyết tiêu biểu, bốn khuynh hướng tiếp cận với đạo đức:
Một là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm khách
quan và của các nhà thần học. Những đại diện chính cho khuynh hướng này
là lí luận về Đạo đức của Xôcrát, Platôn, Hêghen và những nhà thần học.
Hai là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan. Người đại diện cho khuynh hướng này là Cantơ.
Ba là, khuynh hướng tiếp cận với đạo đức của chủ nghĩa duy vật.
Người đại diện cho khuynh hướng này là L. Phoiơbắc.
Bốn là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của các nhà kinh điển mácxít.
Đạo đức học của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời là một cuộc cách mạng
trên lĩnh vực Đạo đức học. Các lí thuyết đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen
đều phát triển sâu sắc các quan niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Khi nghiên cứu các quan hệ, những phương diện đạo đức của đời sống xã
hội, hai ông đã nghiên cứu vấn đề nguồn gốc, bản chất, các chuẩn mực và
vai trò của đạo trong đời sống xã hội trên cơ sở các quan điểm về mối liên hệ
phổ biến và sự phát triển. Vấn để quan hệ giữa cá nhân và xã hội, v.tn đề kết
họp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, các chuẩn mực, các quy tắc, các
phẩm chất đạo đức của con người được Mác và Ph. Ăngghen quan tâm sâu
sắc trong các lí thuyết về đạo đức của mình.
Trong các tác phẩm như Gia đình thần thánh, Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản, Chống Đuyrinh, Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điểu
Đức..., khi bác bỏ lí luận duy tâm coi đạo đức đứng trên và đứng ngoài lịch
sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã coi phạm vi nghiên cứu của Đạo đức học gắn
với sự vận động của hiện thực, gắn với lợi ích giai cấp và lợi ích xã hội.
Phát triển các tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I.
Lenin đã nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong sáng tạo, trong giao tiếp, các
phong tục, tập quán, các dư luận xã hội, tính kỉ luật, các quy tắc lao động và
lối sống gắn liền với các chuẩn mực thiện và ác. V.I. Lênin đề xuất các vấn đề
quan trọng mà Đạo đức học phải nghiên cứu, đó là các vấn đề về lao động xã
hội chủ nghĩa, năng suất lao động, các vấn đề về chủ nghĩa yêu nước, vấn đề
chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân, hôn nhân gia đình, chủ nghĩa nhân
đạo...
Từ các ý kiến chung của các nhà sáng lập ra Đạo đức học Mác - Lênin,
có thể đưa ra một cách hiểu khái quát về Đạo đức học Mác - Lênin như:
Đạo đức học Mác - Lênin là một khoa học, chia trên cơ sở của chủ
nghĩa vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu sự vận động
của các quan hệ đạo đức giữa con người và con người, giữa con người với
tư nhiên, coi các vấn đề chuẩn mực và thiện ác là trung tâm, lợi ích là khâu
cơ bản, nhân cách đạo đức là biểu hiện tập trung nhất.
Như vậy, Đạo đức học Mác - Lênin trước hết dựa trên cơ sở triết học
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét các
quan hệ, các quá trình đạo đức như một hiện tượng xã hội. Nó có mối liên hệ
phổ biến với các hiện tượng khác của đời sống con người, coi đạo đức là một
tồn tại người, có sinh thành và phát triển. Nó khác hoàn toàn với các lí thuyết
đạo đức vĩnh cửu, ngoài tồn tại người và xã hội.
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, Đạo đức học Mác - Lênin trở thành bộ phận hợp thành hữu cơ của
triết học Mác - Lênin. Nó nghiên cứu các quan hệ đạo đức trong toàn bộ sự
phát triển của con người. Nó nghiên cứu sự vận động của các quan hệ đạo
đức chính là nghiên cứu các quan hệ giữa chủ thể đạo đức và đối tượng đạo
đức. Đó là những quan hệ phổ biến về đạo đức trong đời sống xã hội. Đó là
các vấn đề của đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Trước hết, đó là các
chuẩn mực, các giá trị do sự chung sống, sự quy định giữa con người với con
người tạo thành.
Đạo đức học Mác - Lênin nghiên cứu đạo đức như là một hệ thống trọn
vẹn có lôgíc vận động và phát triển của riêng mình, có “cuộc sống” riêng của
mình với những quy luật đặc thù, với những hình thức và chất lượng khác
nhau phụ thuộc vào điều kiện thời đại và cộng đồng khác nhau. Đồng thời, nó
còn nghiên cứu các giá trị đạo đức của đời sống xã hội mà đặc biệt là nghiên
cứu đạo đức cộng sản chủ nghĩa - đạo đức của giai cấp công nhân cách
mạng, luận chứng cho vai trò cải tạo cách mạng của đạo đức này.
“Đạo đức học Mác - Lênin là khoa học về bản chất của đạo đức, về các
quy luật hình thành và phát triển lịch sử của đạo đức, đặc biệt là của đạo đức
cộng sản, về chức năng đặc trưng của đạo đức, về các giá trị đạo đức của
đời sống xã hội”.
Ở đây có giá trị đạo đức được sáng tạo ra không chỉ tồn tại trong ý thức
mà điều quan trọng phải được thể hiện trong đời sống xã hội. Vì vậy, Đạo đức
học Mác - Lênin nghiên cứu không chỉ ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức mà
còn nghiên cứu cả thực tiễn đạo đức.
Có thể nói, Đạo đức học Mác - Lênin có một phạm vi nghiên cứu rất
rộng, là khoa học nghiên cứu bản chất xã hội và các quy luật phát triển của
đạo đức như một hình thái ý thức xã hội đặc biệt; là khoa học nghiên cứu quá
trình phát sinh, phát triển và tiến bộ đạo đức gắn với sự tiến bộ xã hội. Đạo
đức học Mác - Lênin khẳng định đạo đức của chủ nghĩa xã hội cao hơn hẳn
đạo đức của chủ nghĩa tư bản về các vấn đề giải quyết cái thiện, cái ác, về
các vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đạo đức học Mác - Lênin là
một giai đoạn phát triển mới của các học thuyết đạo đức trong lịch sử phát
triển của loài người.
2.2. Nhiệm vụ của Đạo đức học Mác - Lênin
Cũng như bất cứ một khoa học nào khác, Đạo đức học Mác - Lênin có
nhiệm vụ nhận thức đối tượng và trên cơ sở nhận thức ấy góp phần biến đổi,
cải tạo, đổi mới đối tượng cho phù hợp với nhu cầu của tiến bộ xã hội.
Thứ nhất, xác định ranh giới giữa sự khác nhau về bản chất của quan
hệ đạo đức so với các quan hệ xã hội khác. Thực chất là làm rõ nội dung và
yêu cầu của những quan hệ đạo đức chứa đựng trong các quan hệ xã hội
khác. Trong hiện thực, đạo đức không biểu hiện ra những quan hệ thuần túy
mà chứa đựng trong các quan hệ xã hội khác như: quan hệ kinh tế, chính trị
và những quan hệ trong những cộng đồng người khác nhau: dân tộc, tập thể,
gia đình. Vì thế, Đạo đức học Mác - Lênin cần làm sáng tỏ nội dung và yêu
cầu đạo đức trong các quan hệ ấy.
Thứ hai, vạch ra tính tất yếu về nguồn gốc, bản chất đặc trưng và chức
năng của đạo đức trong đời sống xã hội, nêu lên con đường hình thành và
phát triển của đạo đức. Đồng thời nó tái tạo lại đời sống đạo đức dưới hình
thức lí luận và đạt tới trình độ nhất định.
Thứ ba, góp phần hình thành đạo đức mới trong đời sống xã hội, nó
khẳng định những giá trị của đạo đức xã hội chủ nghĩa; đồng thời phê phán,
đấu tranh chống lại những tàn dư đạo đức cũ, những biểu hiện đạo đức
không lành mạnh, đi ngược lại lợi ích chân chính của con người. Đạo đức học
Mác - Lênin mang bản chất khoa học và cách mạng. Bởi vì những tri thức của
nó là chân lí, nó là công cụ không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục đạo đức
nói riêng và giáo dục con người nói chung.
Các nhiệm vụ này của Đạo đức học Mác - Lênin gắn bó mật thiết với
nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội tạo thành Đạo đức học lao
động, Đạo đức học giao tiếp và Đạo đức học giáo dục.
Đạo đức học lao động xây dựng các chuẩn mực, các quy phạm đạo
đức trong lao động nói chung, trong lao động nghề nghiệp nói riêng, trong đó
có các hoạt động đạo đức trong đấu tranh, trong học tập. Phạm trù trung tâm
của Đạo đức học trong lao động là nghĩa vụ xã hội.
Đạo đức học giao tiếp hướng tới các chuẩn mực về sự tôn trọng các
giá trị đạo đức và sự tôn trọng nhau giữa con người với con người trong xã
hội. Phạm trù trung tâm của Đạo đức học giao tiếp là sự công bằng, ý nghĩa
cuộc sống trong giao tiếp gắn với sự bình đẳng giữa cá nhân và xã hội.
Đạo đức học giáo dục tập trung xây dựng các nhân cách đạo đức theo
mục tiêu và chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội và lí tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Phạm trù trung tâm của Đạo đức học giáo dục là nhân cách đạo đức. Việc
hình thành các nhân cách đạo đức mới là mục tiêu quan trọng của giáo dục
đạo đức.
Trong các nhiệm vụ của Đạo đức học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay
có một nhiệm vụ trung tâm là gắn giáo dục đạo đức với xây dựng, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đạo đức học
Mác - Lênin phải xác lập trong hệ chuẩn mực đạo đức của nó sự phát triển
của các giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu tinh hoa đạo đức hiện đại, gắn
lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng, coi sự cộng đồng các lợi ích cơ bản là
điều kiện phát triển các giá trị đạo đức cá nhân.
Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới xác
lập các quan hệ đạo đức mà ở đó, cá nhân phải chịu trách nhiệm với sản
phẩm của mình, ngăn chặn mọi sự làm dối, làm ẩu phương hại đến sản xuất
và tiêu dùng. Như vậy, định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế kinh tế thị
trường của chúng ta liên quan đến ý thức tự giác, tính năng động xã hội và
trách nhiệm đạo đức của các hành vi cá nhân và hướng tới sự phát triển các
giá trị đạo đức tốt đẹp của đời sống xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu của Đạo đức học Mác - Lênin
Mỗi khoa học đều có khách thể và đối tượng nghiên cứu của nó, nên
chúng đều có phương pháp nghiên cứu nhất định.
Thứ nhất, Đạo đức học cũng như các khoa học khác phải lấy phương
pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử làm phương pháp
nghiên cứu của mình. Nghĩa là, trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu Đạo đức
học phải vận dụng triệt để, nhất quán những nguyên lí, quy luật của triết học
Mác - Lênin, đặc biệt là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử mới
khắc phục được hạn chế, những sai lầm cực đoan của chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ nghĩa duy lí, duy thần học.
Coi đạo đức là một hiện tượng xã hội, là một hình thái ý thức xã hội, có
bản chất xã hội, dân tộc, giai cấp, thời đại. Phương pháp xem xét các quan
hệ đạo đức của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
khác hẳn với các phương pháp trước đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử có một hệ thông quan điểm tiếp cận. Với đạo đức
một cách khách quan, khoa học và vô cùng phong phú. Trong các phương
pháp tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin có các nguyên tắc, các
quan điểm và những phương pháp cụ thể làm rõ các tầng, các lớp, các
phương diện khác nhau cũng như sự vận động của các quan hệ đạo đức xã
hội. Cụ thể là:
- Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái
phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất trong các phân tích về đạo đức.
- Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ giữa phương pháp
diễn dịch và phương pháp quy nạp.
- Nguyên tắc phương pháp luận về mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái
lôgíc.
Trong các phương pháp nghiên cứu đạo đức và Đạo đức học của chủ
nghĩa Mác - Lênin có các quan điểm làm sáng tỏ chiều sâu của các quan hệ
đạo đức đa dạng và phức tạp như:
- Ọuan điểm khách quan
- Quan điểm toàn diện
- Quan điểm phát triển
- Quan điểm thực tiễn
- Quan điểm lịch sử - cụ thể
- Quan điểm hệ thống
Thứ hai, phương pháp liên ngành
Đạo đức học là môn khoa học xã hội, vì thế nghiên cứu nó phải đặt
trong mối quan hệ biện chứng với những thành tựu của các bộ môn khoa học
xã hội khác như: Luật học, Mĩ học, Chính trị học, đặc biệt là Giáo dục học,
Tâm lí học. Bởi vì các môn đó vừa là phương thức thực hiện chức năng thực
hành đạo đức vừa là ngọn nguồn, bộ phận của đạo đức.
Thứ ba, phương pháp lịch sử, so sánh
Đạo đức học là một phạm trù lịch sử, nó phát sinh, tồn tại, phát triển
trong từng giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Do đó, quan niệm về đạo đức
trong lịch sử phải được xem như những nấc thang giá trị nhất định của xã hội
loài người. Nó luôn luôn bị phủ định, lọc bỏ, kế thừa để phát triển không
ngừng với sự tiến bộ xã hội nói chung. Mỗi hiện tượng đạo đức hiện thực đều
có cội nguồn từ cơ sở của quá khứ, truyền thống lịch sử; đồng thời đạo đức
hiện tại là tiền đề để phát triển trong tương lai như là quá trình phủ định biện
chứng. Vì thế phương pháp lịch sử, so sánh giúp ta thấy được cái lôgic bản
chất hiện tượng đạo đức trong tiến trình lịch sử xã hội.
Thời đại của chúng ta hiện nay là thời đại nhân dân lao động đứng lên
làm chủ vận mệnh của mình. Trong thời đại hiện nay, vấn đề áp bức giai cấp,
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được đặt ra rất nghiêm
túc xung quanh các vấn đề đạo đức. Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đã khẳng định đạo đức cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao
nhất của đạo đức. Ở đó, như C. Mác và Ph. Ăngghen nói, sẽ hình thành một
liên hiệp mới, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người. Ở đó, nhân dân lao động sẽ được sống một cuộc
sống tốt đẹp, con người đối với con người nhân ái và khoan dung. Các quan
điểm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã giúp cho việc phân tích các quá trình đạo đức trở nên khoa học,
sáng rõ hơn khi phấn đấu xây dựng những lí tưởng đạo đức tốt đẹp và một
nền đạo đức lí tưởng.
Chương 2. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC
1. Nguồn gốc của đạo đức
1.1. Các quan điểm trước C. Mác và ngoài mácxít về nguồn gốc của đạo đức
- Quan điểm tôn giáo
Xuất phát từ nguyên lí "Đấng sáng thế" trong giáo lí của các tôn giáo,
những nhà lí luận tôn giáo và các tín đồ hoặc là ngộ nhận hoặc cố tình khẳng
định đạo đức có nguồn gốc tôn giáo.
Thiên Chúa giáo cho rằng Thượng đế đã ban phước lành và cứu rỗi
loài người. Hạnh phúc trong cuộc sống của con người là do Chúa ban phát.
Vì vậy, con người phải có bổn phận thực hiện nghĩa vụ của mình trước
Thượng đế. Quan niệm của Ôguytxtanh (354 - 430) về đạo đức, thể hiện
trong Kinh Thánh như sau: Chúa hãy cho chúng con những gì mà Chúa cai
quản, Chúa hãy sai khiến chúng con làm gì mà Chúa muốn.
Phật giáo thì quan niệm đạo đức bắt nguồn từ triết lí nhân sinh của
Phật, thể hiện tập trung ở "Tứ diệu đế” (bốn chân lí huyền diệu): Khổ đế là
chân lí về cuộc đời - bể khổ của chúng sinh; Tập đế là chân lí đề cập nguyên
nhân gây ra nỗi khổ (thập nhị nhân duyên); Diệt đế là chân lí khẳng định nỗi
khổ có thể diệt được để đạt tới "cõi niết bàn"; Đạo đế là chân lí về con đường
giải thoát khỏi nỗi khổ - đó là con đường tu đạo, hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Giải thoát là cơ sở để hình thành các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, đồng
thời là cơ sở của lương tâm, hạnh phúc, danh dự... của cá nhân.
Còn Nho giáo lại có hai quan điểm đối lập nhau "Nhân chi sơ tính bản
thiện" và "Nhân chi sơ tính bản ác". Theo quan điểm của nho giáo thì tính
thiện - ác của con người, sự sướng - khổ của đời người là do mệnh trời (thiên
định).
Như vậy, theo quan điểm tôn giáo, đạo đức nảy sinh từ lòng tin tôn
giáo. Mọi nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức của con người là sự ban
phát, sự quy định của Thần thánh, Thượng đế, Chúa trời... Đó là quan điểm
đồng nhất giữa tôn giáo và đạo đức.
- Quan điểm tự nhiên
Những người theo quan điểm tự nhiên đều cho đạo đức bắt nguồn từ
bản năng động vật.
Quan điểm của thuyết Đácuyn xã hội cho rằng, ở động vật bậc cao có
những hiện tượng bản năng giống như tình cảm đạo đức ở con người.
Thuyết này đi từ lí giải những hiện tượng tình cảm như sinh con, nuôi con,
bảo vệ con, buồn vui của động vật để suy ra con người cũng là một sinh vật
nên tất yếu phải phục tùng quy luật tự nhiên. Như vậy, quan điểm của thuyết
Đácuyn xã hội đã đồng nhất liền đề lịch sử tự nhiên của tình cảm đạo đức với
tình cảm đạo đức của con người.
Quan điểm duy vật nhân bản với đại biểu tiêu biểu là L. Phoiơbắc. Ông
là nhà duy vật lớn nhất trước C. Mác, nhưng khi bàn về đạo đức thì lại rơi vào
quan điểm tự nhiên, chỉ thấy một mặt tự nhiên mà không thấy mặt xã hội, lịch
sử trong con người. Con người cũng như đạo đức của con người theo quan
điểm của L. Phoiobắc là bắt nguồn từ tự nhiên và mang tính tộc loài.
- Quan điểm duy tâm xã hội
Các quan điểm duy tâm xã hội đều lí giải đạo đức là sản phẩm của ý
thức, tư tưởng con người hoặc của những lực lượng tinh thần siêu tự nhiên
như "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối".
Phái "Khế ước xã hội" cho rằng đạo đức là kết quả của sự thoả thuận
có tính quy ước chung của xã hội. Từ đó đặt ra các quy tắc, chuẩn mực có
tính khuôn mẫu để điều chỉnh, đánh giá suy nghĩ và hành vi đạo đức của con
người trong xã hội, nhằm bảo đảm cho xã hội trong vòng trật tự.
Platôn (427 - 347 TCN), đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy tâm khách
quan thời kì cổ đại. Đề cập nguồn gốc của đạo đức trên cơ sở "Học thuyết về
linh hồn", ông đã dùng trạng thái "vĩnh cửu của ý niệm" và sự "bất tử của linh
hồn" để lí giải các hiện tượng đạo đức, tất cả đều được quy về một lực lượng
tinh thần siêu tự nhiên là "ý niệm".
Hêghen (1770 - 1831), người kế tục, phát triển tư tưởng Platôn đến
đỉnh cao. Ông coi đạo đức là một giai đoạn phát triển của tinh thần khách
quan - một bộ phận của "ý niệm tuyệt đối". Khi nó phát triển đầy đủ nó sẽ "tha
hoá" thành các quan hệ đạo đức thực tế trong gia đình, xã hội công dân và
nhà nước.
Hiện nay, quan điểm duy tâm về nguồn gốc đạo đức vẫn tồn tại với
những biêu hiện như biện hộ cho sự suy đồi đạo đức trong xã hội tư bản chủ
nghĩa bằng cách cố chứng minh tính phi thực tế của đạo đức trong xã hội.
Tóm lại, các quan điểm trước C. Mác và ngoài mácxít do hạn chế lịch
sử bởi thế giới quan duy tâm, phương pháp siêu hình và lợi ích giai cấp thống
trị bóc lột nên đã không lí giải được một cách khoa học về nguồn gốc đạo
đức.
1.2. Quan điểm mácxít về nguồn gốc đạo dức
Trên cơ sở thế giới quan - phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, quan điểm mácxít khẳng định: đạo đức là một hiện tượng tinh
thần, một hình thái ý thức xã hội nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, do
cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quyết định.
Ph. Ăngghen viết: "Chúng ta khẳng định rằng xét cho đến cùng mọi
thuyết đạo đức đã có trước tới nay là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ. Như vậy, đạo đức là sản phẩm và là biểu hiện của nền sản
xuất vật chất. Trên cơ sở phát triển của nền sản xuất vật chất mà đạo đức
nảy sinh và hoàn thiện. Trong đó lao động sản xuất vật chất là nguồn gốc xét
đến cùng của đạo đức và quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất nền tảng
quyết định sự hình thành, biến đổi của đạo đức trong lịch sử.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ do trình độ lao động thấp kém, công
cụ lao động thô sơ, trình độ lực lượng sản xuất chưa phát triển đã quy định
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mang tính sơ
khai. Tình hình kinh tế đó đã quyết định đạo đức của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ là hết sức trong sáng và tốt đẹp. Bởi trong quan hệ cộng đồng chưa có
các thói hư, tật xấu, chưa biết đến cái ác. Khi tồn tại xã hội thay đổi, đánh dấu
bằng cuộc cách mạng về công cụ lao động đồ đồng thay thế cho đồ đá, đã
làm cho lực lượng sản xuất thay đổi về trình độ, kéo theo sự thay đổi về quan
hệ sản xuất. Kết quả đó là xã hội cộng sản nguyên thuỷ taan rã, xã hội chiếm
hữu nô lệ dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời. Đời
sống đạo đức xã hội lúc này có sự biến đổi căn bản, đó là sự xuất hiện các tư
tưởng ăn bám, xuất hiện hành vi chiếm đoạt thành quả lao động của người
khác, thói lừa gạt, chủ nghĩa cá nhân vị kỉ nảy sinh và ngày càng phát triển
đạt đến mức đỉnh cao của nó trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Lịch sử phát triển
của sản xuất tất yếu dẫn đến sự ra đời của xã hội cộng sản văn minh mà giai
đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, thì nền đạo đức xã hội cũng có sự thay đổi về
chất. Đó là lối sống mình vì mọi người, mọi người vì mình dần được hình
thành với tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, chủ
nghĩa tập thể được xác lập; lao động tự giác sáng tạo trở nên phổ biến...
Nghĩa là nội dung đạo đức không ngừng được hoàn thiện để dẫn tới một kiểu
đạo đức ngày càng mang tính nhân đạo hiện thực.
Ngoài ra, đạo đức nảy sinh, phát triển còn chịu sự tác động của những
yếu tố như:
- Đạo đức chịu sự tác động trực tiếp của điều kiện hoàn cảnh sống của
con người, bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Con người ở
môi trường sống khác nhau thì cảm xúc, tình cảm, quan niệm, hành vi đạo
đức của họ có những biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn, lời mời trước khi ăn là
một quy tắc trong đạo đức ứng xử đối với người Việt Nam, còn đối với người
phương Tây thì không được coi là điều bắt buộc.
- Đạo đức luôn chịu sự tác động của những phương thức điều chỉnh
khác của xã hội như tập tục của gia đình, dòng họ "đào giang tuỳ khúc, nhập
gia tuỳ tục"; các nguyên tắc chuẩn mực pháp luật; các quy tắc sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo; các nguyên tắc, quy chế, quy định của các tổ chức chính trị
mà con người tham gia.
- Đạo đức còn luôn chịu sự tác động của triết học, pháp luật, nghệ thuật
và khoa học. Sự biến đổi, phát triển của các lĩnh vực này đều ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến sự biến đổi, phát triển của đạo đức trong lịch sử,
nhưng xét đến cùng thì triết học, nghệ thuật, khoa học đều bị quy định bởi
những điều kiện kinh tế - xã hội.
2. Bản chất của đạo đức
2.1. Các quan điểm trước C. Mác và ngoài mácxít về bản chất của đạo đức
- Quan điểm tôn giáo:
Xuất phát từ quan niệm đồng nhất tôn giáo với đạo đức và đạo đức nảy
sinh từ lòng tin tôn giáo, cho nên các tôn giáo đều cho rằng bản chất của đạo
đức là sự phản ánh ý chí của Thần thánh, Thượng đế, Chúa trời... Các
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của con người đều là sản phẩm
sáng tạo của các đấng tối cao. Họ sáng tạo ra các tôn giáo nhằm răn dạy,
cứu vớt nhân loại. Đây là quan điểm sai lầm, vì từ góc độ lịch sử, thì đạo đức
ra đời tồn tại cùng với con người và xã hội loài người. Đạo đức ra đời trước
tôn giáo. Mặt khác, đạo đức phản ánh nhu cầu trần thế chứ không phải nhu
cầu ở thế giới bên kia của con người.
- Quan điểm tự nhiên:
Từ chỗ cho đạo đức có nguồn gốc từ bản năng động vật, những người
theo quan điểm tự nhiên đi tới khẳng định đạo đức mang bản chất tự nhiên.
Chẳng hạn "hổ dữ không ăn thịt con", "một con ngựa đau cả tàu không ăn
có"...
Tiêu biểu cho quan điểm đạo đức mang bản chất tự nhiên là L.
Phoiơbắc. Ông đã siêu hình, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên - sinh vật khi xem xét
bán chất con người và đạo đức con người tách khỏi thực tiễn lịch sử - xã hội.
Từ đó, dẫn tới sai lầm cho đạo đức của con người cũng giống như con vật
mang bản chất tộc loài.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan (ý chí luận)
Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho cơ sở của đạo đức
là ở trong con người, từ đó họ xem xét bản chất đạo đức như là những quy
ước chung có tính chất chủ quan của xã hội. Các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức tồn tại trong xã hội là do chủ quan của con người đặt ra gắn với
tên tuổi của các vĩ nhân, những người sáng lập. Vì theo quan điểm duy tâm
chủ quan, đạo đức là một thứ trí tuệ đặc biệt, một tình cảm nhân từ, một trách
nhiệm cao ca, một lương tâm vị tha, một ý chí không khuất phục. Những
phẩm chất đó không thể có ở con người bình thường, nhất là những người tự
do, vị kỉ.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan:
Xuất phát từ một lực lượng tinh thần siêu tự nhiên gồm "ý niệm", "ý
niệm tuyệt đối" là cơ sở của hiện thực, các nhà duy tâm khách quan đã khẳng
định đạo đức mang bản chất của "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối", chứ không phải
là sự phản ánh đời sống hiện thực. Platôn cho rằng cái thiện là "ý niệm tối
cao" - đó là sự thông thái và lòng dũng cảm, là cái mà chỉ ít người như quý
tộc mới có thể hướng tới, còn người lao động thì không thể có đạo đức, vì họ
là "động vật biết nói". Hêghen coi đạo đức là một giai đoạn phát triển của "tinh
thần khách quan", khi phát triển đầy đủ thì sẽ "tha hoá" thành hiện thực đạo
đức và Nhà nước Phổ là hiện thân hoàn thiện nhất của "ý niệm đạo đức".
- Quan điểm Đạo đức học và xã hội học tư sản:
Các nhà Đạo đức học và xã hội học tư sản xem đạo đức là sản phẩm
của xã hội nhằm kiềm chế lòng ham muốn vị kỉ của con người. Trong thuyết
"kẻ có của, người có công" quan điểm trên đã áp dụng để lí giải theo nghĩa
hai bên cùng có lợi. Từ đó, đi đến kết luận chủ nghĩa cá nhân, đạo đức vị kỉ là
bản chất vĩnh viễn của con người trước hết là sống vì “cái tôi”, cho “cái tôi”.
Đây là sự biện hộ cho chủ nghĩa cá nhân tư sản và sự tồn tại của chủ nghĩa
tư bản.
Các quan điểm trước C. Mác và ngoài mácxít đều chưa vạch ra được
bản chất đích thực của đạo đức.
2.2. Quan điểm mácxít về bản chất của đạo đức
Với việc sáng tạo ra một triết học mới về chất - chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu giải quyết những vấn đề
của đạo đức nói chung, đặc biệt là vấn đề bản chất đạo đức.
Theo quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen, cơ sở của đạo đức xét đến
cùng là lợi ích xã hội và quy luật phát triển của lịch sử. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh quy luật phát triển xã hội đưới hình thái giá trị - giá
trị đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh những chuẩn mực giá trị đạo
đức chung của con người, còn có chuẩn mực đạo đức phản ánh lợi ích, vị trí
vai trò của mỗi giai cấp.
Từ cơ sở trên, quan điểm mácxít khẳng định: Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức. Trong xã hội có giai
cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp đồng thời man tính nhân loại.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội - tức
phản ánh những điều kiện vật chất hiện thực mà trong đó con người sống và
hoạt động. Nó là tính thứ hai so với tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Vì vậy, khi tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo, tồn tại xã hội
khác nhau thì có các kiểu đạo đức xã hội khác nhau như đạo đức cộng sản
nguyên thuỷ, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư bản
chủ nghĩa và đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, trong đó trực tiếp và tập trung nhất là
phán ánh quan hệ lợi ích giữa người với người - mặt biểu hiện của quan hệ
sản xuất. Bởi lẽ quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất nền táng, cơ sở của
quan hệ đạo đức và các quan hệ xã hội. Lợi ích, mặt biểu hiện của quan hệ
sản xuất là lợi ích vật chất - động lực xét đến cùng của mọi hoạt động con
người, C. Mác chỉ rõ rằng "lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của
toàn bộ đạo đức"; nghĩa là cơ sở và nguyên tắc của đạo đức chính là sự công
bằng về lợi ích giữa người với người. Trong quan hệ sản xuất, thì đạo đức
phản ánh và bị quy định bởi yếu tố quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất vì nó là yếu tố quy định quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ phân
phối; đồng thời quan hệ sở hữu là yếu tố quyết định bản chất của một chế độ
xã hội nhất định. Do đó, để có một nền đạo đức thực sự thì phải thiết lập sự
công bằng về quyền của mọi người đối với tư liệu sản xuất tức xác lập chế độ
công hữu bằng cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp thì đạo đức bao giờ cũng
mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bởi mỗi giai cấp có lợi ích, địa vị khác nhau
do tồn tại xã hội, quan trọng nhất là quan hệ kinh tế của mỗi giai cấp quy định.
Cho nên mỗi giai cấp có quan niệm, chuẩn mực riêng về đạo đức.
Bản chất giai cấp của đạo đức được thể hiện trước hết ở đạo đức xã
hội chia thành hai nền đạo đức đối lập nhau. Đạo đức của giai cấp thống trị
chi phối đời sống đạo đức xã hội. Để bảo vệ cho lợi ích thống trị, giai cấp
thống trị thông qua nhà nước của nó tiến hành định ra những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi đối với các thành viên trong giai
cấp mình; đồng thời áp đặt, buộc các giai cấp khác phải thừa nhận nền đạo
đức của giai cấp thống trị như một chân lí, một tất yếu lịch sử. Còn đạo đức
của giai cấp bị trị thường bị đạo đức của giai cấp thống trị chèn ép. Nó tồn tại
như cái không chính thống, không phổ biến bằng đạo đức của giai cấp thống
trị. Đúng như Ph. Ăngghen đã viết: “và cũng như xã hội cho tới nay đã phát
triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho
nên, hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc
giả khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy
chống kẻ thống trị và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp
bức”. Mặc dù đạo đức của giai cấp thống trị và đạo đức của giai cấp bị trị là
đối lập nhau, song chúng không cô lập mà luôn có sự ảnh hưởng, tác động
qua lại lẫn nhau.
Bản chất giai cấp của đạo đức còn được thể hiện trong toàn bộ cấu trúc
của đạo đức từ ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức đến thực tiễn (hành vi) đạo
đức.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp đồng thời
mang tính nhân loại. Tính nhân loại của đạo đức được biểu hiện ở hình thức
thấp là các quy tắc thông thường, giản đơn trong cuộc sống của con người
như lòng trắc ẩn, tình nhân ái giữa người với người, lòng vị tha, độ lượng...
Hình thức cao của tính nhân loại là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất ở từng
thời đại lịch sử và các giá trị đạo đức của các giai cấp tiến bộ cách mạng đại
diện cho đạo đức nhân loại ở thời đại lịch sử đó.
Bản chất giai cấp và tính nhân loại là hai mặt của đạo đức xã hội trong
xã hội có giai cấp. Chúng luôn tác động quy định, ảnh lưỡng lẫn nhau. Trong
đó tính giai cấp chi phối tính nhân loại, tính nhân loại được biểu hiện thông
qua lăng kính giai cấp. Tính giai cấp là phạm trù lịch sử, tính nhân loại là vĩnh
hằng chừng nào còn tồn tại con người nói chung.
3. Chức năng của đạo đức
Đạo đức có nhiều chức năng như: giáo dục, nhận thức, điều chính
hành vi, giao tiếp, đánh giá, thông tin, dự báo... Trong đó tập trung ở ba chức
năng cơ bản sau:
3.1. Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi là chức năng cơ bản nhất của đạo đức,
là một trong những phương thức không thể thiếu để điều chỉnh hoạt động của
con người nhằm đáp ứng những yêu cầu và lợi ích chung của xã hội. Không
có chức năng này thì đạo đức sẽ trở nên trừu tượng, vô nghĩa và không đạt
tới giá trị.
Điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện từ hai phía: xã hội và
chủ thể đạo đức.
Điều chỉnh từ phía xã hội: Đó là bằng các chuẩn mực đạo đức, quy tắc
đạo đức có tính khuyến khích hoặc ngăn cấm đối với hành vi của các cá
nhân. Xã hội khuyến khích hành vi của các cá nhân làm điều thiện, điều tốt vì
lợi ích chung của con người, đồng thời ngăn cấm các hành vi làm điều ác,
điều xấu, làm tổn hại đến lợi ích người khác. Sự điều chỉnh hành vi đạo đức
từ phía xã hội được thực hiện thông qua cơ chế dư luận xã hội. Cho nên điều
chỉnh hành vi đạo đức khác với điều chỉnh hành vi của pháp luật bằng cơ chế
quyền lực.
Điểu chính hành vi đạo đức từ phía chủ thể được thực hiện thông qua
sự nhận thức về những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã
hội, chủ thể tự giác điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân mình cho phù
hợp với yêu cầu đạo đức của xã hội. Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức từ
phía chủ thể được thực hiện bằng cơ chế tự nguyện, tự giác của mỗi người.
Nó khác với pháp luật mang tính cưỡng chế bắt buộc.
Ba chức năng cơ bản của đạo đức có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chức
năng giáo dục tạo cơ sở để thực hiện chức năng nhận thức. Đến lượt nó,
chức năng nhận thức tạo ra điều kiện để phát huy giáo dục và điều chỉnh
hành vi. Thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi sẽ góp phần tích cực để
phát triển nhận thức và nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức.
Tóm lại, các quan điểm tự nhiên, quan điểm duy tâm và tôn giáo coi
đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn mực được rút ra từ nguồn gốc phi hiện
thực lịch sử - chẳng hạn: "Thượng đế", hoặc "ý niệm tuyệt đối". Tự ý thức
hoặc một bản tính người trừu tượng nào đó rồi đem áp đặt vào đời sống hiện
thực của con người. Quan điểm mácxít coi đạo đức là một hiện tượng xã hội -
lịch sử, một hiện tượng tinh thần của xã hội, xem xét nó trong quan hệ với tồn
tại xã hội. Sự phát sinh, phát triển và hoàn thiện của đạo đức được bắt nguồn
và bị quy định bởi sự phát sinh, phát triển và hoàn thiện của tồn tại xã hội.
Bản chất của đạo đức là sự phản ánh những điều kiện vật chất hiện thực
trong đó con người sống và hoạt động. Khi xã hội có sự phân chia thành giai
cấp thì đạo đức xã hội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp, đồng thời mang
tính nhân loại. Đạo đức là một hiện tượng xã hội đa chức năng, trong đó giáo
dục, nhận thức và điều chỉnh hành vi là các chức năng cơ bản thể hiện vai trò
to lớn của đạo đức đối với sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội.
3.2. Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của đạo đức nhằm góp phần hình thành, phát triển
nhân cách con người đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của xã hội. Đặc
biệt, giáo dục đạo đức cách mạng có ý nghĩa lớn trong việc hình thành, phát
triển nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, giáo dục đạo đức là
con đường cơ bản nhằm hình thành cho con người hệ thống những quan
điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội. Qua đó tạo cơ sở cho
con người biết đánh giá các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như đánh giá
thái độ hành vi đạo đức của bản thân mình theo chuẩn mực xã hội. Thông
qua giáo dục đạo đức giúp con người có khả năng đánh giá, lựa chọn, tiếp
thu các giá trị đạo đức xã hội để hình thành phẩm chất đạo đức cá nhân. Giáo
dục đạo đức còn làm tăng tính tích cực xã hội của con người, giúp con người
có ý thức trách nhiệm trước cuộc sống (tạo niềm tin, hạnh phúc, thanh thản
lương tâm...).
Giáo dục đạo đức là một quá trình thống nhất của hai mặt là giáo dục
và tự giáo dục. Giáo dục đạo đức được thực hiện từ gia đình, nhà trường đến
đoàn thể, xã hội. Tự giáo dục là của bản thân mỗi người bằng rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức theo yêu cầu của xã hội.
Hiệu quả của giáo dục đạo đức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội gắn với tiến bộ đạo đức và nhân đạo hoá các
quan hệ xã hội; cách tổ chức giáo dục, phương pháp, hình thức giáo dục và
đặc biệt là mức độ tự giác của đối tượng giáo dục đạo đức.
3.3. Chức năng nhận thức (chức năng phản ánh)
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, cho nên đạo đức là
phương thức đặc biệt giúp con người chiếm lĩnh thế giới. Tính chất đặc biệt
của đạo đức là nó đưa con người vào thế giới của giá trị để con người nhận
thức, đánh giá, lựa chọn, lĩnh hội những giá trị phù hợp với lợi ích của mình
và của xã hội.
Nhận thức đạo đức của con người là một quá trình thống nhất của hai
mặt: nhận thức hướng ngoại và nhận thức hướng nội.
Nhận thức hướn ngoại là lấy hệ thống quan điểm, nguyên tắc. chuẩn
mực, hệ giá trị đạo đức xã hội làm đối tượng nhận thức. Nhờ đó con người
với tư cách chủ thể đạo đức chuyển hoá những yêu cầu của đạo đức xã hội
thành ý thức, phẩm chất đạo đức cá nhân thông qua rèn luyện tu dưỡng theo
chuẩn mực đạo đức đã lựa chọn.
Nhận thức hướng nội là chủ thể đạo đức lấy chính bản thân mình làm
đối tượng nhận thức, thể hiện sự tự nhận xét, tự đánh giá về nhận thức, thái
độ hành vi của bản thân mình so với nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức
chung của xã hội. Từ đó, các chủ thể đạo đức hình thành và phát triển các
quan điểm, nguyên tắc sống của mình như: tích cực, sáng tạo hay thụ động ỷ
lại, hi sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỉ...
Nhận thức đạo đức có hai trình độ là nhận thức thông thường và nhận
thức lí luận:
Nhận thức đạo đức thông thường chính là ý thức về những quy tắc,
những giá trị đạo đức đơn lẻ được hình thành trực tiếp trong đời sống hàng
ngày. Mặc dù ở trình độ thấp, song nhận thức đạo đức thông thường có tác
dụng to lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của con người,
góp phần ổn định trật tự xã hội. Chẳng hạn: các nguyên tắc trong đối nhân xử
thế như "Trên kính dưới nhường", "Đói cho sạch, rách cho thơm"...
Nhận thức đạo đức ở trình độ lí luận là nhận thức có tính hệ thống về
những nguyên tắc, những chuẩn mực, những giá trị đạo mang tính phố biến.
Nhận thức đạo đức ở trình độ lí luận là đòi hỏi khách quan của sự phát triển
đạo đức và của sự tiến bộ xã hội. Nó là một bộ phận cấu thành hệ tư tưởng
của các giai cấp, nhất là giai cấp thống trị xã hội.
Chương 3. CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI KHÁC
1. Các kiểu đạo đức trong lịch sử
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội được hình thành rất
sớm trong lịch sử. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức phản
ánh sự tồn tại và phát triển của tồn tại xã hội, thông qua mối quan hệ giữa
người với người ở các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Lịch sử xã hội loài người đã, đang và sẽ trải qua năm hình thái kinh tế -
xã hội, tương ứng với nó là năm kiểu hình thái ý thức đạo đức xã hội khác
nhau. Đó là, đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ; đạo đức trong xã hội
chiếm hữu nô lệ; đạo đức trong xã hội phong kiến; đạo đức trong xã hội tư
bản chủ nghĩa và đạo đức trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu
của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1. Đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ
Khi xã hội loài người mới xuất hiện, con người còn sống cuộc sống bầy
đàn, ăn lông, ở lỗ và hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên bên ngoài, chưa
có sự phân chia giai cấp, không có hiện tượng người bóc lột người. Cùng với
sự phát triển của xã hội, con người từng bước ý thức được sự cần thiết phải
hợp tác, tương trợ nhau trong cuộc sống săn bắt, hái lượm. Việc ý thức được
sự cần thiết này làm nảy sinh khát vọng về sự công bằng, nguyên tắc về sự
bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội với nhau. Sự ý thức đó dần dần
được nội tâm hoá, trở thành nhu cầu bên trong, thành thói quen, tình cảm đạo
đức. Lúc đó tính tất yếu trở thành tự do. Đây chính là những biểu hiện đầu
tiên của các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ.
Những nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: “đặc điểm của con người lúc bấy
giờ là thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm, theo đúng nghĩa giữa
người với người và đối với toàn bộ thị tộc”.
Nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển, mối quan hệ giữa con người
với người ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và phong phú lơn trong sự
chế định tự nhiên của đời sống cộng đồng. Điều đó đã làm nảy sinh những
chuẩn mực đạo đức mới, biểu hiện ở những hành vi giao tiếp, ứng xử trong
các điều cấm kị: không được lấy phần của nhau, không được đàn áp lẫn
nhau, không được nói dối. Ngoài ra, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ (đặc
biệt là giai đoạn đầu), thông qua các phong tục, tập quán, lễ nghi tôn giáo các
quy ước, chế định có tác dụng điều chỉnh hành vi con người đã mang ý nghĩa,
giá trị đạo đức. Các quy ước, chế định đó được hình thành trong quá trình
hoạt động tập thể và từng bước trở thành các chuẩn mực được xã hội thừa
nhận. Có thể xem đây là một trong những dấu hiệu xuất hiện của đạo đức
trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Những phẩm chất của con người được xã
hội đề cao trong giai đoạn này gắn liền với điều kiện sinh sống của họ. Đó là
sức khoẻ, lòng dũng cảm, chí kiên cường, chịu đựng gian khổ, dám hi sinh vì
tập thể, đoàn kết và thông cảm với nhau.
Đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ có những đặc điểm chủ
yếu sau đây:
Trước hết, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, ý thức đạo đức xuất hiện
trong sự xuất hiện của một ý thức chung ở dạng tổng hợp, chưa được phân
chia thành một hình thái ý thức xã hội riêng biệt. Trong xã hội đó, ý thức đạo
đức tiềm ẩn, chứa đựng trong ý thức xã hội nói chung, đặc biệt là trong ý thức
tôn giáo (đạo đức ngẫu tượng giáo), điều này do chính đời sống kinh tế - xã
hội lúc bấy giờ quy định. Phù hợp với trình độ phát triển thấp kém của lực
lượng sản xuất, ý thức của con người lúc này “cũng mang tính động vật như
chính đời sống xã hội ở giai đoạn ấy; đó là một ý thức quần cư đơn thuần”.
Mầm mống đạo đức đã xuất phát từ chính những hoạt động chung của thị tộc
với những chế định tự nhiên của chúng. Những chế định tự nhiên này xét về
mặt nào đó chính là những chế định có tính chất đạo đức. Nói cách khác, đó
là những hình thức đầu tiên bộc lộ ý thức và quan hệ đạo đức. Việc coi trọng,
tuân thủ các hành vi giao tiếp, ứng xử và hoạt động cụ thể của cộng đồng là
biểu hiện đặc điểm rõ nét của ý thức đạo đức của người nguyên thuỷ. Mọi
thành viên thực hiện bất kì một hành vi đạo đức nào bao giờ cũng theo thói
quen.
Thứ hai, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đạo đức mang tính cụ thể -
cảm tính, trực quan và kinh nghiệm. Đặc điểm này cũng do chính điều kiện
kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Trong xã hội đó, việc tuân thủ một cách
nghiêm ngặt các hành vi giao tiếp, ứng xử và hoạt động cụ thể - cảm tính của
cá nhân và cộng đồng được coi là hợp đạo đức. Các chế định đạo đức đầu
tiên bao giờ cũng là sự lặp lại các kinh nghiệm thực tiễn trong dạng trực quan
sinh động, không đòi hỏi phải suy xét, cân nhắc có tính lôgíc, tính phản tư lí
luận. Chính vì vậy, đối với người nguyên thuỷ, việc bắt chước các mẫu hành
vi đạo đức của người đi trước được coi là một yêu cầu có tính nguyên tắc, bắt
buộc, đòi hỏi mọi người phải tuân theo. Thông qua sự đòi hỏi có tính bắt buộc
này mà các phong tục, tập quán trong lao động và sinh hoạt; các điều cấm kị
và lễ nghi tôn giáo được giữ gìn và tồn tại một cách cụ thể - cảm tính trong
đời sống cộng đồng. Nhiều nhà khảo cổ học đã khẳng định rằng, khó mà nói
đến những quan niệm về cái thiện và cái ác của người nguyên thủy; nhưng lại
có thể thấy được họ đã hành động trong mọi việc theo các mẫu nào đó của
cái thiện hoặc cố tránh các mẫu của cái ác. Ở châu Mĩ, châu Phi, Ôxtrâylia và
một số khu vực khác, đến nay nhiều bộ lạc còn lưu giữ truyền thống tốt đẹp
như: không cãi cọ nhau, biết nghe lời những người lớn tuổi, tương trợ và giúp
đỡ nhau trong cuộc sống. Họ xem đây là điều thiện cần phải tuân thủ. Ngược
lại, bất kì hành vi nào không theo đúng phong tục, tập quán đều bị xem là cái
ác.
Thứ ba, trong đạo đức cộng sản nguyên thuỷ hành vi thể hiện cái thiện
hao hàm nhiều ý nghĩa: cái tốt, cái có ích, cái chân thật, trong đó sự hợp tác,
sự công bằng giữ vai trò nền tảng. Sự hợp tác giản đơn trong điều kiện kinh
tế tự nhiên của người nguyên thuỷ là yếu tố hàng đầu tạo nên hiệu quả trong
lao động tập thể. Tính công bằng trong hưởng thụ vật phẩm và các quan hệ
xã hội đã tạo ra sự ổn định hợp lí và bình đẳng xã hội trong điều kiện chưa có
sản phẩm dư thừa. Không có sự hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau này,
con người không thể đủ sức để chống chọi lại thiên nhiên, thú dữ. Chính giá
trị đạo đức này đã góp phần to lớn trong việc tạo sự ổn định hợp lí và bình
đẳng xã hội, là điều kiện cơ bản đảm bảo cho xã hội phát triển trong sự ổn
định. Song, sự ổn định này không thể tiếp tục kéo dài mãi tổ chức xã hội cộng
sản nguyên thuỷ được. Vì như vậy, theo tiến trình phát triển của lịch sử, một
xã hội mới sẽ ra đời thay thế xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Đó chính là xã hội
chiếm hữu nô lệ.
1.2. Đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội dẫn đến sự xuất hiện chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Từ đó đã tạo nên sự khác biệt giữa quyền lợi
và nghĩa vụ cũng như vai trò và địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Chính
thời điểm này đã đánh dấu sự xuất hiện của nền đạo đức mới, đạo đức mang
tính giai cấp. So với xã hội cộng sản nguyên thuỷ, thì xã hội chiếm hữu nô lệ
đã có bước tiến lớn, phù hợp với sức sản xuất tiến bộ của xã hội. Quan hệ
sản xuất chiếm hữu nô lệ là một quan hệ sản xuất mới, mà cơ sở là chủ nô
chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu cả bản thân người lao động. Loài
người bắt đầu hình thành một nền đạo đức mới phức tạp hơn - đạo đức chủ
nô.
Đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ được hình thành trên cơ sở sự
phát triển của lực lượng sản xuất, là việc tăng năng suất lao động, là việc tạo
ra sản phẩm thặng dư - điều kiện để người này bóc lột người khác. Trong lịch
sử lần đầu tiên xuất hiện một nền đạo đức mang tính giai cấp.
Đúng như nhận xét của C. Mác và Ph. Ăngghen viết trong tác phẩm Hệ
tư tưởng Đức: “Sau này, ý thức quần cư hay ý thức bộ lạc đó phát triển và
được hoàn thiện nhờ sự tăng thêm năng suất, sự tăng thêm nhu cầu và nhờ
sự tăng thêm dân số - cơ sở của sự tăng thêm năng suất và tăng thêm nhu
cầu. Cùng với những cái đó, phân công lao động cũng phát triển. Bắt đầu từ
lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây
dựng lí luận “thuần tuý”, thần học, triết học, đạo đức
Cùng với sự phát triển của yếu tố kinh tế, thì về mặt xã hội, có sự phân
công xã hội đối với các tù trưởng, tộc trưởng. Lúc đầu, những người này chỉ
đơn thuần thực hiện các chức năng quản lí điều hành xã hội, sau đó, họ dựa
vào các chức năng này để chiếm đoạt sản phẩm thặng dư, trở thành những
người giàu có, và dần dần, bằng cách tự nhiên nào đó, họ hợp lại với nhau,
trở thành giai cấp thống trị. Những tù binh bắt được trong các cuộc chiến
tranh giữa các thị tộc, bộ lạc được sử dụng làm nô lệ phục vụ cho việc sản
xuất. Những người nghèo đói ngày càng bị khinh rẻ và cuối cùng vì nợ nần
chồng chất không có khả năng thanh toán cũng rơi vào số phận như các tù
binh.
Được hình thành trên cơ sở kinh tế - xã hội có sự phân chia giai – cấp
như vậy, đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất, tính chất đối kháng về đạo đức xuất hiện. Đó là sự đối kháng
về đạo đức của chủ nó và đạo đức của nô lệ. Sự đối kháng này trước hết
biểu hiện ở thái độ đối với lao động. Chính chế độ sở hữu chủ nô dẫn đến sự
phân phối không công bằng tức là sự chiếm đoạt của cải do cả cộng đồng
làm ra của một lớp người đã dần phá vỡ tính hợp tác, công bằng, bình đẳng
của công xã thị tộc. Sự khác biệt này là một trong những nguyên nhân làm
cho giai cấp thống trị và những nhà tư tưởng của họ ngày càng xa lánh lao
động (đặc biệt là lao động chân tay) và không quan tâm gì đến người lao
động. Họ cho rằng, nô lệ chẳng qua chỉ là “động vật biết nói” Platôn), là “động
vật xã hội” (Arixtốt), là hạng người “hạ đẳng, hạ ngu” (Khổng Tử) không thể
cảm hoá được, không có đạo đức.
Tầng lớp người có đặc quyền, đặc lợi tự cho phép mình là người đức
hạnh, còn nô lệ là kẻ thấp hèn, hạ ngu, không có phẩm hạnh. Platôn nói rằng:
“Chỉ có tầng lớp quý tộc, những người có ý thức mới thể hiện được đạo đức
cao cả của mình, còn những người nô lệ thì không có đạo đức, nếu có, đó
cũng chỉ là sự khuất phục, là chế ngự những dục vọng kích thích họ nổi loạn
chống lại giai cấp quý tộc mà thôi”. Còn Khổng Tứ quan niệm: “Có thể có
người quân tử bất nhân, nhưng chưa hề có kẻ tiểu nhân có nhân”.
Sự nô dịch của số ít đối với số đông giờ đây được bảo đảm bởi một lực
lượng xã hội mới - nhà nước. Tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đảng
cấp. Nội dung cơ bản của đạo đức được đẩy tới hai cực đối lập gay gắt: chủ -
tớ, trên - dưới, mệnh lệnh - phục tùng. Điều này có thể thấy ngay từ thời kì
tan rã của chế độ công xã thị tộc. Qua những nội dung đạo đức thể hiện trong
các anh hùng ca của giới quý tộc, và các chuyện kể dân gian, người ta đã
thấy có sự phân chia thành hai quan niệm, hai hệ thống đạo đức khác nhau.
Cũng từ đó, hình thành hai loại lí tưởng đạo đức mâu thuẫn nhau trong xã
hội.
Thứ hai, nếu ý thức đạo đức trong xã hội nguyên thuỷ là sự hoà trộn
giữa ý thức và hành vi muốn vươn tới điều thiện, thì trong xã hội chiếm hữu
nô lệ, quá trình tách biệt đạo đức khỏi sự hỗn dung nguyên thuỷ ngày một
tăng lên. Con người đã biết làm các thử nghiệm đầu tiên, khái quát về mặt
triết học đối với các quy định phát triển của đời sống đạo đức và biện minh có
tính triết học cho quá trình phát triển đó.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, trình độ nhận thức của con người ngày
càng dược nâng lên, quá trình phân công lao động giữa lao động trí óc và lao
động chân tay ngày càng sâu sắc đã làm xuất hiện tầng lớp những người lao
động trí óc có khả năng xây dựng nên các lí thuyết đạo đức để cuối cùng hình
thành nên ngành Đạo đức học. Đến đây, người ta đã biết phân biệt ý thức
đạo đức với thực tiễn đạo đức. Với sự phân biệt này, tính hỗn dung trong đạo
đức của người nguyên thuỷ coi như chấm dứt. C. Mác và Ph. Ăngghen cho
rằng: “Phân công lao động chỉ trở thành phân công lao động thực sự từ khi
xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần. Bắt đầu
từ lúc đó, ý thức có thể thực sự tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ
không phái là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sự đại biểu cho
cái gì đó mà không đại biểu cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý
thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lí luận
"thuần túy”, thần học, triết học, Đạo đức học”.
Ngoài hai đặc trưng cơ bản trên, những quan niệm về thiện và ác,
chính nghĩa và phi nghĩa, hạnh phúc và bất hạnh, cũng là những vấn đề nóng
bỏng đặt ra cho xã hội đương thời về mặt đạo đức.
1.3. Đạo đức trong xã hội phong kiến
Chế độ phong kiến xuất hiện dựa trên cơ sở sở hữu ruộng đất. Đó là
một giai đoạn mới cao hơn trong sự phát triển của sản xuất. Trong xã hội này,
khác với nô lệ, người nông dân có công cụ sản xuất riêng và có nền kinh tế
riêng dựa vào lao động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống
cần thiết. Địa chủ phong kiến vẫn có quyền điều nông dân ra khỏi lãnh địa của
mình, nhưng không có quyền giết họ.
Mặc dù vậy, ở phương Đông hay phương Tây, giai cấp địa chủ, phong
kiến luôn luôn muốn trói buộc con người vào những luật lệ hà khác, sơ cứng
của sự phụ thuộc đẳng cấp nghiêm ngặt, tạo nên sự đối kháng về mặt đạo
đức trong xã hội. Dĩ nhiên, tư tưởng đạo đức thống trị trong xã hội này là tư
tưởng đạo đức của giai cấp địa chủ, phong kiến. Lịch sử chứng tỏ rằng:
“Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng
thống trị... giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là
lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu
sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần”.
Yêu cầu chung của nền đạo đức thống trị trong xã hội phong kiến là
bầy tôi phải trung với vua, chư hầu phải trung với thiên tử, nông dân phải
trung với địa chủ. Do đó, quan điểm đạo đức của giai cấp phong kiến và quan
điểm đạo đức của nông dân về thực chất vẫn đối lập nhau. Tuy nhiên, sự đối
lập đó đã có những biến đổi nhất định. Những mâu thuẫn trái ngược và
những sự khác biệt trong quan điểm đạo đức giai cấp đã thu hẹp lại, những
yếu tố giống nhau được mở rộng ra. Điều đó chứng tỏ, về hình thức những
quan hệ giữa giai cấp phong kiến và nông dân “hoà bình” hơn so với chủ nô
và nô lệ. Tuy nhiên, không phải điều đó làm giảm nhẹ xung đột giai cấp, trái
lại nó tăng thêm mâu thuẫn đối kháng giai cấp. Bởi vì, người nông dân một
mặt ý thức được về quyền của mình, tự do hơn nô lệ; mặt khác, chính có
quyền tự do tương đối lớn hơn đó đã kích thích người nông dân bộc lộ nhiều
năng lực và nghị lực hơn trong cuộc đấu tranh chống địa chủ phong kiến.
Ở phương Tây tư tưởng đạo đức trong xã hội phong kiến thường xuất
hiện từ những tín điều tôn giáo. Những giáo lí của giáo hội đồng thời cũng là
những định lí chính trị, những đoạn kinh thánh cũng có hiệu lực trước mọi toà
án như là luật pháp và ngay cả khoa học trong một thời gian dài vẫn còn đặt
dưới sự giám hộ của thần học. Còn ở phương Đông (chủ yếu là Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam), tư tưởng đạo đức không hoàn toàn hay
đúng hơn là ít phụ thuộc vào tôn giáo (tuy nhiên, tư tưởng đạo đức Phật giáo,
Nho giáo cũng ảnh hưởng ít nhiều, với mức độ nông, sâu, đậm, nhạt khác
nhau ở các nước) mà thường xuất phát từ quan hệ giữa người với người,
giữa người với tự nhiên, được nhìn nhận qua lăng kính học thuyết Nho giáo
của Khổng Tử.
Lẽ sống của người quân tử mà Nho giáo nêu lên là: tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Với những luân thường đạo lí, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín đã
đòi hỏi mọi người từ vua chúa đến người bình dân phải luôn luôn rèn luyện và
nghiêm khắc với bản thân trong cuộc sống hàng ngày. Khổng Tử không chỉ
khuyên mọi người mà ông còn là một tấm gương sáng trong việc thực hiện
các điều “nhân”, “lễ” để mọi người noi theo. Ví như, để tỏ lòng kính cẩn, khi lễ
quỷ thần ông coi quỷ thần đang ngồi tại đó. Để giữ lòng mình trong sạch và
thẳng thắn, chiếu trải không ngay ngắn ông không ngồi, thịt thái không vuông
vắn ông không ăn. Ông nêu lên những yêu cầu chi tiết trong việc tiếp đón
khách khứa, thăm viếng bạn bè. Giáo huấn của ông về “lễ” đã đạt tới mức độ
sâu sắc, đã trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người ông.
Tuy nhiên, bên cạnh một số mặt tích cực (tuy không phải là cơ bản, tư
tưởng đạo đức phong kiến cũng bộc lộ mâu thuẫn, biểu hiện tình trạng đối
kháng với những quan điểm đạo đức của nhân dân lao động, đó là: tư tưởng
địa vị, đẳng cấp, tư tưởng trọng nam, khinh nữ, thói đạo đức giả, bệnh gia
trưởng - gia đình chủ nghĩa, khuyên người ta phục tùng các đấng bề trên một
cách mù quáng). Nhìn chung, đạo đức phong kiến phương Đông trói buộc
con người vào các mối quan hệ: ngũ luân, tam cương, ngũ thường và coi đó
là sức mạnh để quản lí và cải tạo xã hội.
Có thế nói, so với đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái đạo
đức trong xã hội phong kiến đã đạt được những tiến bộ nhất định. Tiến bộ lớn
nhất là sự giải phóng con người về mặt thể xác và trong những giới hạn nhất
định, một số quyền lợi của con người cũng được thực hiện.
1.4. Đạo đức trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, xã hội phong kiến sẽ được thay thế
bằng xã hội tư bản chủ nghĩa. Ngay từ khi mới xuất hiện, giai cấp tư sản đã
muốn thủ tiêu những đặc quyền và các rào cản của chế độ phong kiến trên
con đường phát triển công nghiệp và thương nghiệp. Trên cơ sở thực tiễn
sản xuất vật chất và những biến đổi xã hội, cùng với sự phát triển của các
ngành khoa học tự nhiên, những tư tưởng triết học, Đạo đức học, nghệ thuật
cũng đạt được những tiến bộ đáng kể. Thay thế cho đạo đức trong xã hội
phong kiến là đạo đức của giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Khi mới xuất hiện, giai cấp tư sản từng đóng vai trò tiến bộ cách mạng
trong lịch sử. Nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xoá bỏ tình trạng cát
cứ phong kiến, tạo điều kiện mở rộng thị trường trong nước và thế giới.
Quyền con người được mở rộng hơn nhiều so với xã hội phong kiến (quyền
về chính trị, dân sự, kinh tế văn hoá - xã hội). Cá nhân được giải phóng.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra năng suất lao động cao,
thúc đẩy khoa học không ngừng phát triển.
Gắn liền với thắng lợi đó, giai cấp tư sản đã thẳng tay xoá bỏ quan hệ
đạo đức phong kiến với đặc trưng cơ bản là: sự phụ thuộc phục tùng những
đấng bề trên; phụ thuộc và phục tùng vươn, quyền và thần quyền, những luật
lệ hà khắc, nghiêm ngặt thay vào đó là các quan hệ đạo đức tư sản. Bên cạnh
những mặt tiến bộ (kể cả tiến bộ đạo đức), giai cấp tư sản và xã hội tư bản đã
tạo nên nhiều bất công cho xã hội.
Khi quan hệ hàng hoá, tiền tệ thâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã
hội; khi mà giai cấp tư sản đề cao vị kỉ, vị lợi; khi mà chủ nghĩa cá nhân trở
thành nguyên tắc đạo đức đặc trưng cho hệ tư tưởng và luân lí tư sản thì “tự
do, bình đẳng, bác ái” chỉ còn là danh nghĩa, những sợi dây đạo đức trói buộc
con người bị phá tan. Giai cấp tư sản đề cao lẽ sống: mỗi người vì mình,
Chúa vì tất cả, lợi nhuận là cái đáng quý nhất và là mục tiêu của thời đại này.
Cơ sở lí luận của lí thuyết đạo đức này là sự thừa nhận sự tự trị và
những quyền tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội. Với tư cách là một
nguyên tắc đạo đức, chủ nghĩa cá nhân đem cá nhân đối lập với tập thể, với
xã hội, đòi hỏi lợi ích xã hội phải phục tùng lợi ích cá nhân. Đạo đức tư sản
coi chủ nghĩa cá nhân là “bản tính tự nhiên của con người”, bản tính ấy là bất
biến.
Xét vê mặt lịch sử của sự phát triển xã hội, giai cấp tư sản từng đóng
vai trò tích cực trong một giai đoạn nhất định của xã hội tư sản. Trong quá
trình tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản đã đấu tranh xoá bỏ quan hệ chật hẹp
đẳng cấp, giải phóng cá nhân khỏi mọi áp bức của xã hội phong kiến và giáo
hội Thiên Chúa giáo. Nhưng khi giai cấp tư sản xác lập được địa vị xã hội của
mình với tư cách là giai cấp thống trị, thì việc truyền bá và thực hiện chủ
nghĩa cá nhân ngày càng trở nên phản nhân đạo. Giai cấp tư sản cố dùng
chủ nghĩa cá nhân để biện hộ về mặt tư tưởng cho những quan hệ bóc lột tư
bản chủ nghĩa. Song, tất cả mọi sự biện hộ ấy đều không thể khắc phục được
sự khủng hoảng đạo đức đang ngày càng trầm trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Xã hội tư bản hiện đại đã và đang sản sinh ra một lớp người sống trong
xa hoa trên sự đau khổ của người khác, đó là thái độ của những kẻ vô tâm về
đạo đức. Nền đạo đức xã hội bị suy thoái, nhân cách con người ngày càng bị
tha hoá. Nói theo Mác và Ăngghen, xã hội tư bản đã không để lại giữa người
với người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng và lối trả tiền
này không tình, không nghĩa. Tệ hại hơn, giai cấp tư sản đã xé toang tấm
màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy
chỉ còn là những quan hệ tiền nông đơn thuần. Nó biến giá trị con người
thành giá trị đổi chác. Tất cả các hoạt động, cùng với trí tuệ và tình cảm, danh
dự và lương tâm con người đều trở thành đối tượng mua bán.
Xã hội tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, cùng
nền sản xuất nhỏ, phân tán được xã hội hoá ngày càng cao, phân công lao
dộng phát triển, năng suất lao động có hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, ngoài
những mặt tích cực đó, giai cấp tư sản đã để lại cho xã hội không ít những
hậu quả tiêu cực: vấn đề công lí và nền đạo đức trong xã hội không được bảo
đảm bình thường, con người trở nên ích kỉ, đạo lí trong xã hội ngày càng suy
giảm.
Hiện nay chủ nghĩa tư bản đang có những sự điều chính nhất định về
các mặt trong quan hệ sản xuất của mình, nhưng dù điều chỉnh thế nào đi
chăng nữa thì bản chất của nó vẫn không thay đổi - đó vẫn là xã hội dựa trên
quan hệ người bóc lột người. Những mâu thuẫn trong nền đạo đức của xã hội
tư bản cần phải được khắc phục, được xoá bỏ bởi sự ra đời của một nền đạo
đức mới tiến bộ hơn: đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
1.5. Đạo đức trong xã hội cộng sản chủ nghĩa
Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp bóc lột về cơ bản đã bị
xoá bỏ, người lao động từng bước dược giải phóng về mặt kinh tế, chính trị
và xã hội. Giai cấp vô sản là giai cấp bị áp bức cuối cùng trong lịch sử loài
người. Đạo đức của giai cấp vô sản là mầm mống của đạo đức cộng sản chủ
nghĩa tương lai, có tính chất thống nhất, có ý nghĩa phổ biến toàn nhân loại.
Vì, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng,
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng mình và giải phóng nhân loại thoát khỏi mọi áp bức, bất công, đem
lại hạnh phúc chân chính cho con người.
Ngay từ khi giai cấp vô sản cách mạng chưa nắm được chính quyền,
nhưng do bản chất cách mạng và khoa học của nó, đạo đức cách mạng của
giai cấp vô sản vẫn “là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân
tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”.
Với sự thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản, từ đạo đức giai cấp của
giai cấp vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa biến thành quy luật đạo đức của
toàn xã hội. Cùng với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức cơ bản
chung của loài người, giai cấp vô sản đã nêu lên những quy phạm đạo đức
riêng của mình, như: Tinh thần đoàn kết giai cấp; chủ nghĩa quốc tế và chủ
nghĩa tập thể; lao động sáng tạo với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao;
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản... Trong quá trình vận động và phát triển,
những nguyên tắc, quy phạm đạo đức cộng sản không ngừng được bỗ sung
và được áp dụng với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức cộng sản thể
hiện ra như là thành quả tiến bộ đạo đức của loài người, toàn bộ nội dung
chân chính của nó, hợp với nhân tính chứa đựng trong nền đạo đức của các
giai cấp tiến bộ trong tất cả các thời đại lịch sử trước đây, nay đã được phát
triển cao độ.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn cao trên con đường tiến lên
của đạo đức loài người. Nó kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất
được nhân loại sáng tạo ra trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh chống áp
bức, bất công xã hội cũng như những thói hư, tật xấu, phản đạo đức. Đạo
đức cộng sản là một nền đạo của tương lai, một nền đạo đức mang ý nghĩa
nhân văn cao cả. Tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: tất cả vì
con người, tôn trọng con người, thương yêu con người, giải phóng con người,
tạo mọi điều kiện cho con người được phát triển tự do và toàn diện trong mối
quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng và tự nhiên. Chỉ có chủ
nghĩa cộng sản mới đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. Trong xã hội
cộng sản chủ nghĩa, “mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kì
lĩnh vực nào ích”. Đó chính là lúc chủ nghĩa nhân đạo cộng sản đạt đến mức
“hoàn bị” nhất.
Để có được một chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, loài người phải trải qua
quá trình đấu tranh lâu dài và vô cùng gian khổ, đặc biệt là trong giai đoạn
đầu - giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ,
bản thân xã hội đó cũng như nền đạo đức của nó không thể không chứa
đựng những tàn dư của xã hội trước đó để lại. Để hình thành đạo đức mới -
đạo đức trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, chúng ta phải tích cực đấu tranh
với những quan điểm đạo đức lạc hậu, phản động đang ngăn cản quá trình
phát triển lịch sử. Đại diện cho đạo đức cộng sản là giai cấp vô sản, sứ mệnh
của nó là thủ tiêu tận gốc sự bóc lột và áp bức dưới bất cứ hình thức nào, và
về khách quan, nó tiêu biểu cho lợi ích của toàn thể quần chúng lao động, nó
bao hàm nhiều nhân tố đạo đức chung của cả loài người.
Trong xã hội ta hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc và của nhân loại đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần vô
cùng to lớn của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thì cũng đang còn
không ít những vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức cần phải giải quyết. Đó là
cuộc đấu tranh giữa lối sống lành mạnh, trung thực, nhân ái, vị tha, thấm
đượm tình người sâu sắc, với lối sống thực dụng, ích kỉ, chạy theo đồng tiền
bất chính, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm của người khác.
Đứng trước sự suy thoái đạo đức, sự phát triển lệch chuẩn nhân cách
so với yêu cầu xã hội trong một bộ phận nhân dân đòi hỏi chúng ta “phải tăng
cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân”, lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội - đây là
một trong nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2. Quan hệ giữa ý thức đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác
Trên cơ sở những tiêu chuẩn vật chất khách quan, phương thức phản
ánh và tổ chức thực hiện chức năng xã hội, người ta phân ý thức xã hội thành
các hình thái, trong đó có ý thức đạo đức.
Các hình thái ý thức xã hội này phản ánh các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội và luôn luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này
làm cho mỗi hình thái ý thức mang tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội
(đặc biệt là tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội). Đây là vấn đề
có tính quy luật, về điều này, Ph. Ăngghen cho rằng, sự phát triển của chính
trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh
hưởng đến cơ sở kinh tế. Đây là một đóng góp quan trọng về nhận thức,
phương pháp luận để khảo sát và phân tích những hiện tượng đạo đức cũng
như tiến trình phát triển của nó một cách khoa học. Điều này đòi hỏi chúng ta
không thể giải thích sự xuất hiện, vận động và phát triển của một hình thái ý
thức xã hội này từ những hình thái ý thức xã hội khác một cách giản đơn như
một số quan điểm lí luận duy tâm tư biện. Song, cũng không được đơn giản
hoá các mối quan hệ qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội chỉ truy tìm mọi lí
do phát triển của ý thức xã hội từ nguyên nhân duy nhất - nguyên nhân kinh
tế. Chính Ph. Ăngghen trong bức thư gửi cho Iôdép Blốc (ngày 21/9/1890) đã
viết rằng: “Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử
xét đến nay là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác
chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm
này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó
biến lời khẳng định này thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.
Ý thức đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, với một số
hình thái ý thức xã hội khác, không tồn tại biệt lập mà tồn trong mối quan hệ
biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác, như: ý thức chính trị, ý thức
pháp quyền, ý thức tôn giáo, ý thức khoa học, ý thức nghệ thuật.
2.1. Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với ý thức chính trị
Về mặt lịch sử, ý thức đạo đức xuất hiện sớm hơn ý thức chính trị. Sự
xuất hiện của ý thức đạo đức gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người;
còn chính trị, với tư cách là hình thái ý thức xã hệ chỉ xuất hiện khi xã hội có
sự phân chia giai cấp, khi nhà nước đời. Vì, theo Lênin, chính trị là mối quan
hệ giữa các giai cấp đối với vấn đề nhà nước. Đứng về mặt lịch sử, chính trị
chỉ xuất hiện khi có sự phân chia giai cấp trong xã hội.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái
xúc cảm tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội.
Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế xã hội
giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai
cấp đối với quyền lực nhà nước.
Khi ý thức chính trị chưa xuất hiện, đạo đức giữ vai trò to lớn trong việc
giữ gìn trật tự xã hội. Là phương thức cơ bản để điều chỉnh các mối quan hệ
giữa người với người, đảm bảo sự ổn định cho xã hội phát triển. Khi nhà
nước xuất hiện, ý thức chính trị ra đời, lập tức ý thức chính trị đóng vai trò
chính trong việc điều tiết các quan hệ xã hội, nó thay thế một phần chức năng
điều chỉnh hành vi con người của đạo đức.
Không chỉ dừng lại ở việc thay thế một phần chức năng điều tiết các
quan hệ xã hội của đạo đức, ý thức chính trị còn làm biến đổi tinh thần đạo
đức. Từ chỗ là sự thể hiện lợi ích cơ bản của mọi thành viên trong cộng đồng,
đạo đức trở thành đại diện cho lợi ích giai cấp (giai cấp thống trị xã hội), làm
cho tính phổ biến của đạo đức bị thu hẹp lại. Đến đây, đạo đức mang tính giai
cấp, ý thức đạo đức chịu sự quyết định của nhiệm vụ chính trị. Nhưng điều
không có nghĩa là đạo đức mất đi vai trò xã hội và tính độc lập của mình. Vì,
đạo đức với tư cách là một quan hệ tinh thần sâu sắc luôn luôn tồn tại và giữ
vai trò điều tiết tất cả các quan hệ xã hội, trong đó có cả quan hệ chính trị. Ý
thức chính trị, vì thế một mặt chi phối tinh thần đạo đức, nhưng mặt khác lại
gắn liền với đạo đức và xem đạo đức như nền tảng tinh thần.
Ý thức chính trị là sự thể hiện dưới hình thức khái quát những lợi ích cơ
bản của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, để có thể trở thành ý thức thống
trị xã hội, thì ý thức chính trị đó không thể xuất phát từ chủ nghĩa vị kỉ, độc
đoán của một giai cấp, dù đó là giai cấp thống trị. Ngược lại những lợi ích cơ
bản của giai cấp thống trị chỉ có thế được bảo tồn và thừa nhận nếu trong ý
thức chính trị, nó đồng thời được thể hiện ra như lợi ích chung của xã hội,
hàm chứa những giá trị nhân đạo, giá trị đạo đức. Vì thế, ý thức chính trị cũng
không thể tách rời ý thức đạo đức.
Lịch sử tư tưởng phương Đông cổ đại (đặc biệt ở Ấn Độ cổ đại, Trung
Hoa cổ đại) đã chứng tỏ rằng giữa ý thức đạo đức với ý thức chịnh trị không
chỉ tác động qua lại lẫn nhau mà nhiều khi còn hoà quyện” vào nhau, thâm
nhập trong nhau. Biểu hiện rõ nét nhất là sự thâm nhập này là ở đường lối
“đức trị” của Khổng Tử. Với ông, đạo đức và chính trị không tách rời nhau.
Khổng tử đã “đạo đức hoá” chính trị. Tất cả triết lí chính trị của ông có thể tóm
tắt trong thuật ngữ “đức trị”. Nội dung của đức trị đòi hỏi người trị dân phải có
đức, cai trị dân bằng đức. Khổng Tử nói: “Làm chính trị bằng đức, thì tự mình
sẽ giống như sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ mà mọi vì sao khác chầu
quanh mình”.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mặc dù giai cấp tư sản quản lí xã hội
chủ yếu bằng pháp luật, nhưng đạo đức không vì thế mà mất đi chức năng
điều chỉnh hành vi của mình. Nhiều giá trị đạo đức tiêu biểu như: tự do, bình
đẳng, bác ái, quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc... vẫn được thể
hiện trong các bản tuyên ngôn chính trị (Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kì năn 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hoà
Pháp năm 1789...).
Trên danh nghĩa, đạo đức tư sản truyền bá tư tưởng tự do, bình đẳng,
nhưng trên thực tế, xã hội tư bản luôn luôn dựa vào bạo lực và sự nô dịch
con người (mà trước hết là nhân dân lao động) đi củng cố địa vị chính trị của
mình. Ở đây có sự xung đột giữa đạc đức với chính trị.
Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp có sứ mệnh lịch sử giải
phóng nhân dân lao động thoát khỏi mọi áp bức bất công, vươn tới đỉnh cao:
sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điểu kiện của sự phát triển
tự do và toàn diện của mọi người. Mục đích tối cao này vừa chứa đựng lí
tưởng chính trị cao cả, vừa chứa đựng giá trị đạo đức tốt đẹp. V.I. Lênin cho
rằng: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và
góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản
đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”.
Trong xã hội mới, ý thức đạo đức và ý thức chính trị càng gắn bó mật
thiết với nhau. Trong đường lối chính trị, chính sách của Đảm và Nhà nước ta
luôn luôn lấy việc phục vụ độc lập tự do cho Tổ quốc, phục vụ hạnh phúc của
nhân dân làm cơ sở. Mặt khác, trong hệ thống nguyên tắc, quy phạm của đạo
đức mới cũng phải hướng vào việc xây dựng chế độ chính trị mới, chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Quan hệ giữa ý thức chính trị với ý thức đạo đức cộng sản còn thể hiện
trong hoạt động chính trị thực tiễn của Nhà nước vô sản những nguyên tắc
đạo đức cộng sản. Chẳng hạn những biện pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội nhằm đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Bản thân hình thức hoạt động
chính trị thực tiễn này đã chứa đựng giá trị đạo đức tốt đẹp.
Sự thống nhất biện chứng giữa chính trị với đạo đức còn được thể hiện
cụ thể trong việc xây dựng con người mới, trong đó tài và đức phải được kết
hợp chặt chẽ và lấy đức làm gốc, Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà không có
đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Mỗi
cán bộ cách mạng phải là người vừa có tài lại vừa có đức, như vậy mới được
dân tin, dân phục, dân yêu, mới đủ sức tập hợp quần chúng xung quanh
Đảng để thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
2.2. Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai
cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước,
các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con
người trong việc thực thi luật pháp của nhà nước.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc
chung, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế. Nói cách khác,
pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện ra thành luật lệ (các đạo
luật, bộ luật...) của Nhà nước. Ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và
Nhà nước, pháp luật luôn luôn mang tính giai cấp, là công cụ sắc bén và hiệu
quả nhất trong việc giữ gìn trật tự xã hội, trong việc bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, pháp luật và đạo đức giai cấp
thống trị thống nhất với nhau. Pháp luật đó chỉ mâu thuẫn với quan điểm đạo
đức của giai cấp bị trị. Trong xã hội cụ thể, ý thức đạo đức và ý thức pháp luật
có những điểm giống nhau đồng thời cũng có những khác biệt nhất định.
Sự giống nhau giữa ý thức đạo đức và ý thức pháp luật thể hiện ở các
điểm sau đây:
Thứ nhất, về mục đích, ý thức pháp luật và ý thức đạo đức điều góp
phần vào việc điều chỉnh hành vi con người sao cho phù hợp với yêu cầu và
lợi ích xã hội. Pháp luật và đạo đức được coi là những người bạn đồng hành
trên con đường giữ gìn trật tự xã hội.
Thứ hai, xét về những yếu tố trách nhiệm, quan điểm đạo đức và quan
điểm pháp luật không khác nhau. Cả đạo đức lẫn pháp luật đều bao hàm yếu
tố khách quan và yếu tố chủ quan.
Thứ ba, sự đánh giá đạo đức và sự đánh giá pháp luật đều liên quan
đến hành vi có tính chất tự giác hay không tự giác của con người và liên quan
đến lợi ích của những cá nhân khác, của xã hội.
Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật thể hiện ở những điểm cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, về phương thức biểu hiện, pháp luật thường được biểu hiện
ra thành các điều luật, bộ luật có tính chất cụ thể, nó chú trọng đến việc quy
định các hành vi ngày càng cụ thể cho cá nhân và tập thể, buộc cá nhân và
tập thể phải tuân theo. Ngược lại, đạo đức không thiên về việc quy định hành
vi một cách cụ thể, mà chỉ là những nguyên tắc, chuẩn mực, niềm tin, lí
tưởng... có ý nghĩa định hướng tinh thần, giúp các thành viên trong xã hội
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng.
Thứ hai, sức mạnh của pháp luật là ở sự cưỡng chế, bắt buộc trừng
phạt; sức mạnh của đạo đức được đảm bảo bằng quá trình giáo dục, thuyết
phục, ủng hộ hoặc lên án của dư luận xã hội và sự kiểm soát của lương tâm
con người.
Tác dụng của đạo đức là ngăn cấm, khuyên răn người ta dừng cho cái
gì đó xảy ra, tức là cái chưa có và không nên có. Còn tác dụng của pháp luật
là xét xử, giải quyết cái đã có, đã xảy ra. Với ý nghĩa này, chúng ta có thể coi
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là quan hệ giữa tự do và tất yếu.
Thứ ba, phạm vi hoạt động của pháp luật hẹp hơn rất nhiều so với
phạm vi hoạt động của đạo đức. Luật pháp, kể cả khi nó đạt đến trình độ cao,
cũng chí có thể điều chỉnh hành vi con người trên một số mặt nhất định nào
đó của đời sống xã hội. Trong khi đó, đạo đức lại có vai trò điều tiết trong tất
cả các quan hệ xã hội, thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên thực tế, có lúc người ta chấp hành luật pháp một cách nghiêm
chỉnh, không làm những điều pháp luật ngăn cấm, nhưng có thể có hành vi
(hợp pháp) bị lên án về mặt đạo đức. Ở đây, sức mạnh của pháp luật chưa
vươn tới nhưng đã có sự hiện diện của đạo đức. Sức mạnh của đạo đức có
độ xuyên thấm sâu hơn, rộng hơn sức mạnh của pháp luật. Với ý nghĩa này,
người ta thường nói rằng pháp luật là đạo đức tối thiểu còn đạo đức là pháp
luật tối đa. (Yêu cầu tối thiếu là yêu cầu của pháp lí, nội dung cơ bản là:
không được làm hại bất cứ ai. Yêu cầu tối đa là yêu cầu của đạo đức, nội
dung cơ bản là: phải hết lòng giúp đỡ mọi người).
Thứ tư, về mặt lịch sử, đạo đức ra đời từ khi loài người xuất hiện và tồn
tại mãi mãi, chừng nào còn có con người thì chừng đó còn tồn tại đạo đức, xã
hội càng phát triển thì nhân loại càng cần đến đạo đức. Ngược lại, sự ra đời
và tồn tại của pháp luật gắn liền với sự ra đời và tồn tại của giai cấp, nhà
nước. Khi chưa có và không còn giai cấp thì pháp luật chưa có và không có
cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật không xoá nhòa ranh giới
giữa hai hình thái ý thức xã hội này. Chính vì thế trong thực tế thường xảy ra
trường hợp luật pháp trừng phạt nhưng đạo đức không lên tiếng, hoặc đạo
đức lên án mạnh mẽ nhưng pháp luật lại không xem là thuộc trách nhiệm điều
chỉnh của mình.
Pháp luật và tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, phản ánh lợi ích của toàn thể
nhân dân lao động, bảo vệ cơ sở kinh tế của chú nghĩa xã hội cũng như mọi
lợi ích chính đáng của mọi thành viên và cả cộng đồng. Đảng ta khẳng định:
tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lí mọi mặt đời sống
xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với việc phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỉ luật, kỉ cương,
tăng cường pháp chế, quản lí xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục
toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến việc giáo dục ý thức đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp xã hội khác.
2.3. Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với ý thức tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lí
tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lí tôn giáo là toàn bộ những biểu
tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống tư tưởng quan điểm tôn giáo được thể hiện
tập trung trong giáo lí do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá
trong xã hội.
- Nét tương đồng giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo
Thứ nhất, giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo có mối quan hệ lâu
dài. Trong lịch sử hình thành các hình thái ý thức xã hội, đạo đức và tôn giáo
có quan hệ gắn bó đan xen trực tiếp trong đời sống lao động sản xuất của
những tập đoàn người nguyên thuỷ. Nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng của
các thời đại khác nhau đã giải thích những hiện tượng đạo đức gắn liền với
niềm tin tôn giáo; đi tìm nguồn gốc của đạo đức từ trong tôn giáo. Một số nhà
thần học khẳng định rằng, đạo đức chân chính không thể thực hiện được ở
ngoài tôn giáo. Mức độ và những hình thức của sự "kết dính" tôn giáo với đạo
đức có thể tìm thấy trong các tôn giáo lớn như: Kitô giáo, Nho giáo, Phật giáo,
Hồi giáo... Các tiêu chuẩn, các giá trị lao đức không phải chỉ tồn tại theo một
trật tự lôgíc của lí trí mà điều quan trọng là nó thấm sâu vào tâm hồn con
người, như những nhu cầu tất yếu, cao cả mà mọi người xem đó như thước
đo phẩm như nghĩa vụ của đạo làm người. Những cảm thức luân lí mà ở đó
chứa đựng những tình cảm nồng nàn của tình yêu thương và trách nhiệm
nhiều khi được biểu hiện rất gần gũi với những phẩm chất của đời sống tinh
thần tôn giáo.
Thứ hai, tôn giáo và đạo đức đều hướng con người đi tới cái thiện,
sống nhân ái, vị tha; tránh cái ác, cái giả dối, vô lương tâm, thiếu trách nhiệm;
cả hai đều mong muốn con người có cuộc sống hạnh phúc, lương tâm trong
sạch, thanh thản. Đạo đức và tôn giáo đều thấy được nỗi đau khổ của con
người và hướng tới việc làm giảm nỗi đau khổ ấy để con người đi đến hạnh
phúc.
- Sự khắc biệt giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo
Thử nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đạo đức và tôn giáo đều
phản ánh tồn tại xã hội, đều có cơ sở là tồn tại xã hội. Tuy nhiên, mỗi hình
thái ý thức xã hội đó phản ánh tồn tại xã hội dưới một góc độ, khía cạnh khác
nhau. Ý thức tôn giáo phản ánh tồn tại xã hội thông qua hoạt động tôn giáo.
Đó là sự phản ánh thế giới một cách hư ảo, là niềm tin vào sự tồn tại của các
đấng siêu nhiên, thần thánh. Nói về bản chất của tôn giáo, Ph. Ăngghen viết
rằng: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu
óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế".
Thứ hai, lí tưởng của tôn giáo là hư ảo, nó nảy sinh từ sự bất lực của
con người đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Các tôn giáo đều khuyên
con người sống nhẫn nhục, từ bỏ mọi lạc thú ở trần gian, sợ hãi trước mọi lực
lượng siêu nhiên, không tin vào sức mạnh kì diệu và khả năng sáng tạo to lớn
của con người. Còn đạo đức xem nỗi khổ đau của con người trong tính hiện
thực, lịch sử, cụ thể của nó. Để có hạnh phúc thực sự, con người cần phải
hoạt động thực tiễn trước hết là lao động sản xuất và đấu tranh xã hội chứ
không phải dựa vào một lực lượng siêu nhiên nào đó. Cội nguồn của những
giá trị và chuẩn mực đạo đức là từ hoạt động thực tiễn của con người chứ
không phải từ niềm tin tôn giáo. Xuyên suốt các học thuyết đạo đức bao giờ
cũng chứa đựng những giá trị cao cả. những nguyện vọng tha thiết, những lí
tưởng phấn đấu vì hạnh phúc hiện thực của con người.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Đạo đức học mácxít, nét tương đồng
giữa đạo đức và tôn giáo chỉ là biểu hiện hình thức bên ngoài và mang tính
tạm thời, còn sự khác biệt là cơ bản và mang tính bản chất. Vì đạo đức và tôn
giáo là hai hình thái ý thức xã hội mang bản chất hoàn toàn khác nhau.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa, về căn bản, đối lập với đạo đức của các
tôn giáo. Đạo đức tôn giáo thường tuyên truyền cho tư tưởng nô lệ và phục
tùng, gieo rắc tư tưởng cuồng tín tôn giáo, đề cao chủ nghĩa cá nhân... Trong
lúc đó, đạo đức cộng sản, trên cơ sở tôn trọng tự do, danh dự và phẩm giá
con người, giáo dục con người ý thức nghĩa vụ pháp lí và nghĩa vụ đạo đức,
coi chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới.
Đảng ta xác định rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Vì vậy, Đảng luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau... Đồng bào theo đạo và các vi chức
sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công nhân đối với Tổ quốc,
sống “tốt đời, đẹp đạo". Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng "nghiêm cấm
lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia".
Nghiên cứu, tìm hiểu và kế thừa những tinh hoa văn hoá của nhân loại,
của dân tộc là vấn đề rất cấp thiết hiện nay nhất là vấn đề đạo đức trong tôn
giáo nhằm rút ra các yếu tố tích cực, gạt bỏ những gì không còn phù hợp với
xã hội, với sự nghiệp giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
2.4. Mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức
khoa học là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgíc trừu tượng
về thế giới, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Khoa học, hiểu một cách
khái quát, là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của loài người, nhằm nghiên
cứu và hệ thống hoá thành lí luận những tri thức về các sự vật, hiện tượng,
quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự ra đời và phát triển của khoa học là thành quả vĩ đại của trí tuệ con
người trên bước đường chinh phục thế giới hiện thực khách quan. Khoa học
là kết quả của những lao động tìm tòi, sáng tạo khám phá những quy luật của
thế giới khách quan và vận dụng các quy luật đó phục vụ đời sống của con
người, làm cho con người có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Chính
vì thế, bản thân khoa học đã chứa đựng những lí tưởng đạo đức hết sức cao
cả. Những lí tưởng đạo đức đã đóng vai trò không nhỏ làm thành một trong
những động lực của sự phát triển khoa học. Trong thời đạt ngày nay, mọi
bước tiến quan trọng của lịch sử đều gắn với sự tiến bộ của khoa học, công
nghệ.
Khoa học là hình thái đặc thù của ý thức xã hội. Phạm vi phản ánh của
khoa học hết sức rộng lớn. Tri thức khoa học xâm nhập vào các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, hình thành nên các khoa học khác nhau. Dưới góc
độ khái quát nhất, người ta có thể phân khoa học thành ba lĩnh vực chính:
khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật, khoa học xã hội và nhân văn.
Mối quan hệ giữa ý thức đạo đức với ý thức khoa học là một trong
những vấn đề quan trọng của cuộc sống con người. Xã hội càng phát triển,
khoa học càng đạt được nhiều thành tựu to lớn nhân loại càng cần đến đạo
đức.
Không phải hiện nay mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học mới được
đặt ra. Ngay từ thời cổ đại các nhà tư tưởng, các nhà triết học, Đạo đức học
đã đưa vấn đề này ra xem xét. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469 -
399) là người đầu tiên đã nghiên cứu mối quan hệ này. Theo ông, quan hệ
giữa khoa học với đạo đức là quan hệ giữa sự hiền minh với đức hạnh. Thậm
chí, ông còn đồng nhất khoa học với đạo đức, coi tri thức là đức hạnh của con
người. Ông nói: “Mỗi điều thiện đó là tri thức, và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”.
Sau này, một số nhà triết học của phái Khắc Kỉ (phái Xtôích) như D. Zenon
(333 - 262) cũng cùng quan điểm này, coi “tri thức là nền tảng của đạo đức”.
Quan niệm này tiếp tục được phát triển trong các xã hội tiếp theo.
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, bất kì tri thức khoa học nào
cũng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đạo đức, ngay cả khoa học tự
nhiên. Ở đây, khoa học tự nhiên đóng vai trò là cơ sở khoa học cho việc xác
lập thế giới quan khoa học và phát triển ý thức đạo đức. Quan hệ giữa khoa
học với đạo đức là quan hệ giữa cái chân với cái thiện. Lí tưởng của khoa
học và lí tưởng của đạo đức là thống nhất với nhau. Trong cái thiện (đạo đức)
đã bao hàm cái chân (chân lí khoa học) và trong cái chân lí đã bao hàm cái
thiện. Khoa học chân chính không thể thù địch với đạo đức tiến bộ. Chủ nghĩa
nhân đạo và khoa học luôn gắn bó với nhau. Không một phát minh khoa học
nào không đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Nhiều phát minh
khoa học vĩ đại đã nảy sinh từ nhu cầu của cuộc sống con người. Nhiều nhà
khoa học và tư tưởng đã lao động không biết mệt mỏi vì hạnh phúc của nhân
loại. Mỗi bước tiến của khoa học đều đem lại niềm vui cho cuộc sống của con
người. Con người trong quá trình chiếm lĩnh các tri thức khoa học đều hình
thành thế giới quan thì cũng đồng thời hình thành nhân sinh quan. Đạo đức là
một mặt của nhân sinh quan, biểu hiện cụ thể bằng thái độ, hành vi, cách ứng
xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên, xã hội, với bản
thân mình.
So với ý thức đạo đức, ý thức khoa học thường mang tính vượt trước.
Khoa học không chỉ mang trong mình những lí tưởng, ước mơ đạo đức mà
còn đóng góp làm cho những lí tưởng, ước mơ đạo đó biến đổi ngày càng
gần với cuộc sống, góp phần loại bỏ những nhân tố lạc hậu trong đạo đức,
làm cho cái thiện trong đạo đức ngày càng gắn liền với cái chân lí trong khoa
học. Tri thức khoa học còn giúp cho chủ thể đạo đức nhận thức, lựa chọn,
đánh giá đúng đắn các giá trị đạo đức. Thiếu tri thức khoa học sẽ ảnh hưởng
đến việc đánh giá đạo đức. Đến lượt mình, chính ý thức đạo đức, đặc biệt là lí
tưởng đạo đức, đóng vai trò không nhỏ tạo ra một trong những động lực của
sự phát triển khoa hoc của sự tìm tòi chân lí.
Tuy nhiên, giữa tiến bộ khoa học với tiến bộ đạo đức không phải bao
gồm cũng phát triển theo đường thẳng, đồng thuận với nhau. Trình độ nhận
thức khoa học của một thời đại cụ thể, của những nhóm xã hội nhất định và
của các cá nhân có thể không trùng khớp với trình độ nhận thức về đạo đức
của họ. Không ít trường hợp, trình độ nhận thức khoa học cao nhưng trình độ
nhận thức đạo đức thấp. Trường hợp này sẽ gây nên nhiều tổn thất cho cá
nhân và xã hội. Chính sự phát triển khoa học trong xã hội tư bản chủ nghĩa là
một ví dụ điển hình. Kể từ khi nhân loại bước và cuộc cách mạng khoa học -
kĩ thuật đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Nhưng sự tiến bộ khoa học
ấy đã không đem lại hạnh phúc cho người lao động. Trong xã hội đó. “người
công nhân càng tạo ra nhiều hàng hoá, anh ta lại trở thành một hàng hóa
càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm cũng tăng thêm giá trị thì thế giới con người
càng mất giá trị”.
Tri thức khoa học giúp cho các chủ thể đạo đức nhận thức, lựa chọn,
đánh giá đúng đắn các giá trị và tìm ra những hành vi, biện pháp hợp lí trong
đời sống đạo đức. Trái lại, đạo đức có vai trò thúc đẩy quá trình tìm tòi chân lí
khoa học để phục vụ cho thực tiễn đời sống của xã hội. Dưới góc độ đạo đức,
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phải
đem lại niềm vui hạnh phúc chân chính cho con người, đó phải là môi trường
tốt nhất và thuận lợi nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của con người.
Chưa bao giờ sự kết hợp giữa cái chân với cái thiện lại được đặt một cách
nghiêm túc và nóng bỏng như hiện nay.
Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vai trò và sự phát
triển của khoa học. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp”, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương
và chính sách nhằm thúc đẩy khoa học phát triển, đóng góp ngày càng nhiều
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, vì hội công bằng, dân chủ và văn minh. Mục tiêu chính trị ấy bản
thân nó đã chứa đựng các giá trị đạo đức do khoa học - công nghệ mang lại.
2.5. Mối quan hệ giữa đạo đức với nghệ thuật
Nghệ thuật - với tư cách là dạng cao nhất của hoạt động thẩm mĩ, là
hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ - xuất hiện tương đối sớm từ
khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp. Ý thức thẩm mĩ là sự phản ánh hiện
thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng
tạo cái đẹp. Trong các hình thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp
thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ. Nghệ thuật
phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình tượng nghệ thuật.
Quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động, với hoạt động
thực tiễn của con người, với những ưu thế đặc thù của mình, nghệ thuật phản
ánh đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thông qua những hình
tượng nghệ thuật để chuyển tải những hình ảnh sinh động và hiện thực về
con người và xã hội loài người, cùng những đam mê, khát khao, hạnh phúc;
những ước mơ, hoài bão, lí tưởng của con người.
Nghệ thuật vị nhân sinh, với những hình tượng của mình phản ánh cái
bản chất của đời sống hiện thực thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh
động. Nghệ thuật tô đậm tính người trong các hình tượng của mình, làm cho
con người trong nghệ thuật mang tính lịch sử - cụ thể, hiện thực nhưng sâu
sắc, hoành tráng và tự hào hơn. Chính ở đây, nghệ thuật đem lại cho con
người những khoái cảm thẩm mĩ, niềm vui trước cái đẹp và nhiều giá trị tinh
thần khác. Nghệ thuật ngay từ buổi sơ khai đã là một phương thức quan
trọng phản ánh, sáng tạo và chuyển tải những giá trị nhân bản, giá trị đạo
đức. Đồng thời cũng là phương thức để bày tỏ chí hướng, thái độ của con
người trong cuộc sống, phân biệt thiện - ác, hạnh phúc - bất hạnh, lương tâm
- vô lương tâm...
Vì vậy, giữa đạo đức và nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
tuy là hai hình thái ý thức xã hội khác nhau nhưng lại luôn luôn gắn bó với
nhau, nương tựa và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trong triết học Hi Lạp cổ đại, quan hệ giữa đạo đức với nghệ thuật đã
được Platôn, Arixtốt và nhiều nhà tư tưởng khác đề cập tới. Theo Platôn, cái
thiện cao nhất và cái đẹp cao nhất trong bản chất liên hệ mật thiết với nhau,
chỉ cái gì là thiện thì mới có thể đẹp. Thậm chí Platôn còn cho rằng: “Cái thiện
là nguyên nhân của cái đẹp, soi đường cho cái đẹp, giống như mặt trời soi
đường cho con người trong cuộc sống”.
Bước sang thời kì trung cổ, ở châu Âu, nhà thờ có vai trò to lớn. Toàn
bộ đời sống tinh thần của xã hội, trong đó có đời sống đạo đức và thẩm mĩ,
đều đặt dưới sự thống trị của nhà thờ.
Trong thời kì Phục hưng và Khai sáng, quan hệ giữa đạo đức và nghệ
thuật tiếp tục được nghiên cứu và đã có những đóng góp nhất định. Những
nhà mĩ học và nghệ sĩ thời Phục hưng đã nỗ lực tìm kiếm mối quan hệ giữa
cái thiện và cái mĩ ngay ở cuộc sống trần tục của con người. Còn các nhà mĩ
học khai sáng đặt ra cho nghệ thuậi nhiệm vụ lên án cái xấu, cái ác, cái giả
dối. Nghệ thuật phải là kẻ thuyết giáo về điều thiện...
Vấn đề quan hệ giữa đạo đức và nghệ thuật chỉ được giải quyết một
cách triệt để trên lập trường mĩ học và Đạo đức học mácxít trong đó lao động
là cơ sở khách quan của mối quan hệ này.
Nghệ thuật tác động trực tiếp đến cơ sở tâm lí của đạo đức, góp phần
nâng cao yếu tố tình cảm đạo đức - một trong những ngọn nguồn của cái
thiện. Các tác phẩm nghệ thuật sở dĩ sống được, đứng vững được với thời
gian là do nhiều yếu tố tạo nên, nhưng có một yếu tố quan trọng và không thể
thiếu được, đó là yếu tố hướng thiện. Mọi tác phẩm nghệ thuật chân chính
đều thực hiện chức năng giáo dục con người hướng tới cái thiện, ngợi ca
những đức tính tốt đẹp và phê phán những thói hư tật xấu của con người.
Những quan niệm nhân sinh tiến bộ về lẽ sống, hạnh phúc, nghĩa lương
tâm... đều chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ đời sống nghệ thuật.
Cái thiện sở dĩ làm say mê lòng người, không phải chỉ xuất phát từ bản
thân nó, mà còn chính vì trong bản thân cái thiện đã bao hàm cái đẹp. Cái
thiện nếu thiếu cái đẹp sẽ không trở thành cái thiện chân chính, cái thiện của
lòng nhân ái, vị tha. Cái dũng trong đạo đức nếu thiếu cái cao thượng, cái trác
tuyệt của nghệ thuật, nhiều khi trở thành cái “dũng” của kẻ vô lương tâm,
thiếu đạo đức. M. Goocki có lí khi nói rằng: “Chỉ cái gì được nhân phẩm hoá
mới là đẹp, và cái đẹp trước hết là ở chính nghĩa; nó không có điểm chung
với cái gì phi tính xã hội và trái ngược với tính người”.
Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân; là
nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu
cầu thẩm mĩ của con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình
tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động
đến lí trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực của con người,
xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Quan hệ giữa đạo đức và nghệ thuật biểu hiện rõ nét nhất trong quá
trình lao động. Trong lao động và thông qua quá trình lao động, lốt thú hoang
dã được đổi thay và biến chất, từ động vật tự nhiên từng bước trở thành con
người xã hội, thị hiếu thẩm mĩ, ý thức đạo đức từng bước hình thành và phát
triển.
Quy luật về sự tương quan giữa đạo đức với nghệ thuật là quy luật
chung của mọi giai đoạn lịch sử. Nghệ thuật càng phát triển cao, xã hội càng
dành nhiều thời gian cho nghệ thuật thì ảnh hưởng của đến đạo đức càng
lớn. Đến lượt mình, sự tiến bộ đạo đức, sự hoàn thiện nhân cách con người,
cũng góp phần không nhỏ đến sự phát triển nghệ thuật. Hơn thế nữa, đó còn
là đối tượng, nguồn cảm hứng dồi dào và vô tận cho những sáng tạo nghệ
thuật. Do đó, giữa đạo đức và nghệ thuật không có gì cách biệt, cái này làm
tiền đề cho cái kia và bổ sung cho nhau cùng phát triển.
Chương 4. MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC
1. Phạm trù Đạo đức học và đặc điểm cơ bản của phạm trù Đạo đức học
1.1. Phạm trù Đạo đức học
Mỗi khoa học với tư cách là một khoa học độc lập bao giờ cũng xây
dựng cho mình một hệ thống các khái niệm, phạm trù để phản ánh những
mặt, những khía cạnh, những thuộc tính, những mối liên hệ giữa các đối
tượng thuộc phạm vi nghiên cứu của khoa học đó. Chẳng hạn: Toán học có
các phạm trù: số, điểm, đường, các hình hình học... Vật lí học có các phạm
trù: nhiệt, điện, từ, ánh sáng, năng lượng, công... Kinh tế chính trị học có các
phạm trù: hàng, tiền, tiền lương, giá trị, giá trị sử dụng... Mĩ học có các phạm
trù: cái đẹp, cái bi, cái hài...
Vậy phạm trù là gì?
Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, bản chất, phổ biến giữa những sự vật,
hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định của hiện thực.
Đạo đức học cũng như bất cứ một khoa học nào khác xây dựng một hệ
thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của mình để phản ánh đời sống đạo
đức xã hội, con người.
Vì vậy, có thể hiểu phạm trù Đạo đức học là những khái niệm đạo đức
chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ
bản, bản chất, phổ biến giữa các hiện tượng đạo đức của đời sống xã hội.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của phạm trù Đạo đức học
Khi quan sát đời sống xã hội, mỗi người chúng ta đều nhận thấy có các
hiện tượng thể hiện niềm vui sướng hay sự bất hạnh, sự thờ ơ hay sự tận
tuỵ, tốt hay xấu... ở con người. Những hiện tượng ấy được các nhà Đạo đức
học khái quát lên thành những phạm trù như lẽ sống, nghĩa vụ, hạnh phúc,
lương tâm, thiện, ác... Những phạm trù này được coi như những tiêu chuẩn
để xem xét, đánh giá những suy nghĩ và hành động của con người về mặt
đạo đức. Như vậy, cũng như các phạm trù của các khoa học khác, các phạm
trù Đạo đức học mang tính phổ biến và khái quát cao.
Ngoài ra, các phạm trù Đạo đức học còn có những đặc điểm riêng biệt
như:
Các phạm trù Đạo đức học mang nội dung thông báo và đánh giá. Một
mặt, các phạm trù Đạo đức học thông báo về tính chất của hành vi con người
như thiện, ác, có lương tâm hay vô lương tâm, tốt hay xấu... Mặt khác chúng
còn thể hiện thái độ của con người đối với các hành vi đó. Chẳng hạn, trước
những hành vi thiện, có lương tâm, tốt, thì được dư luận xã hội đồng tình, cổ
vũ, động viên, khích lệ, noi theo, còn trước những hành vi ác, vô lương tâm,
xấu thì bị phê phán, lên án, đấu tranh để xoá bỏ...
Các phạm trù Đạo đức học mang tính phân cực rất rõ rệt, mà ít có các
phạm trù trung gian. Chẳng hạn:
- Thiện - Ác.
- Lương tâm - Vô lương tâm.
- Hạnh phúc - Bất hạnh.
- Trách nhiệm - Vô trách nhiệm.
Các phạm trù Đạo đức học là sự thống nhất giữa tính khách quan và
tính chủ quan. Tính khách quan của các phạm trù Đạo đức học chính là
những mối quan hệ và hành vi của con người được phản ánh vào trong các
phạm trù Đạo đức học. Còn tính chủ quan của các phạm trù Đạo đức học
chính là những xúc cảm, ý thức trách nhiệm và sự lựa chọn của con người
trước những hiện tượng đạo đức cũng như sự nỗ lực phấn đấu của mỗi con
người nhằm có được những giá trị đạo đức đích thực trong cuộc sống.
Các phạm trù Đạo đức học còn mang tính giai cấp và tính lịch sử bởi
các giai cấp khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về các phạm trù
Đạo đức học, thậm chí đối lập nhau, đồng thời các phạm trù Đạo đức học
không phải là nhất thành bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi cùng với
sự vận động, biến đổi của xã hội. Qua các giai đoạn lịch sử, các phạm trù
Đạo đức học không chỉ phát triển về mặt số lượng mà cả về mặt nội dung.
Nội dung của các phạm trù Đạo đức học luôn luôn được bổ sung, được làm
giàu bởi những hiện tượng đạo đức xã hội, con người ngày càng trở nên đa
dạng, phong phú.
2. Một số phạm trù cơ bản
2.1. Lẽ sống
Mỗi người trong chúng ta, nhất là khi còn trẻ sắp bước vào cuộc sống
tự lập thường có nhiều mơ ước, khát vọng như muốn trở thành người thầy
giáo, kĩ sư, bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà khoa, nhà kinh doanh giỏi, phi công
hay nhà du hành vũ trụ... cũng có người lại ước muốn một cuộc sống vật chất
dư dả, có nhà lầu, xe hơi, có những tiện nghi sinh hoạt hiện đại, vợ đẹp, con
khôn... những ước mơ, khát vọng này của con người là những biểu hiện của
lẽ sống.
Lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống, có thể nói, là vấn đề trung tâm của đời
sống con người. Nó chi phối và liên quan mật thiết rất nhiều đến định hướng
sống của mỗi con người. Người có lẽ sống tốt đẹp sẽ có khả năng vượt qua
mọi khó khăn, thử thách để vươn lên trong cuộc sống, hướng tới cái đẹp, cái
thiện, cái tiến bộ, loại bỏ được sự thấp hèn, xấu xa, đê tiện. Ngược lại, sự
khủng hoảng về lẽ sống có thể sẽ dẫn con người tới sự đổ vỡ, mất niềm tin
vào cuộc sống, chao đảo tinh thần, rối loạn hành vi, dẫn tới những hậu quả
khó lường.
Lẽ sống được coi là một trong những phạm trù trung tâm của Đạo đức
học. Nó là phạm trù có tính chất xuất phát điểm quy định, chi phối nội dung và
tính chất của các phạm trù khác trong Đạo đức học (ví dụ: Phạm trù hạnh
phúc và phạm trù nghĩa vụ). Chính do vị trí và vai trò lớn lao của vấn đề lẽ
sống trong đời sống xã hội như đã trình bày ở trên, mà từ xưa đến nay trong
lịch sử tư tưởng đạo đức đã từng tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về lẽ
sống.
Ở thời kì cổ đại Êpiquya cho rằng, lẽ sống là làm được nhiều việc tốt để
giúp ích cho đời, rằng ý nghĩa cuộc sống của con ngưới là niềm vui do sự
thanh thản đem lại.
Ở Trung Hoa cổ đại, các đại biểu của Nho giáo như Khổng Tử Mạnh
Tử, Tuân Tử thì cho rằng, con người lí tưởng của xã hội là người quân tử và
lẽ sống của người quân tử là: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Người
quân tử phải biết chăm lo, tu dưỡng các điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung,
hiếu, dũng.
Thời kì Phục hưng và cận đại (thế kỉ XV - thế kỉ XVIII), cùng với sự xác
lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật và sự khẳng định vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội thì
các nhà triết học và khoa học quan niệm lẽ sống của con người là quá trình
tìm kiếm, trau dồi tri thức khoa học. Họ rất đề cao giá trị của con người ở sự
tồn tại Đềcáctơ đã từng nói: "Tôi tư duy vậy tôi tồn tại".
Từ giữa thế kỉ XIX trở đi, đặc biệt khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi lối sống cá nhân, vị kỉ đã bao trùm lên
toàn bộ đời sống xã hội thì nhiều người quan niệm lẽ sống của con người là
tiền và đã gán cho nó một sức mạnh vạn năng theo kiểu “tiền là tiên là phật,
là sức bật tuổi thơ, là giấc mơ của tuổi trẻ, là sức khoẻ tuổi già...”.
Các tôn giáo lại quan niệm lẽ sống được xác lập ở bên ngoài cuộc
sống, chứ không phải trong đời sống hiện thực của con người, rằng giá trị cao
nhất của con người là hướng đến Thiên đàng, cõi Niết bàn... còn cuộc sống
hiện thực chỉ là sự chịu đựng và chuộc tội mà thôi.
Như vậy, trước khi Đạo đức học mácxít ra đời, đã từng tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về phạm trù lẽ sống. Mỗi quan
niệm đề cập đến một mặt, một khía cạnh nào đó của vấn đề lẽ sống. Nhưng
tất cả những quan niệm này tựu trung lại hoặc rơi vào phái nghĩa vụ luận khi
cho rằng cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi làm tròn nghĩa vụ đối với
người khác. Ví dụ, cha mẹ hoàn thành nghĩa vụ đối với con cái và ngược lại,
kẻ bề dưới hoàn thành nghĩa vụ đối với bề trên, tôi phục tùng vua, con cái
phục tùng cha mẹ, vợ phục tùng chồng... Hoặc rơi vào phái hạnh phúc luận
khi cho rằng toàn bộ hoạt động của con người chi cốt nhằm thoả mãn mọi
khát vọng tinh thần hay vật chất của bản thân. Cho nên, có những người
dành cả cuộc đời, cả tâm trí, sức lực đi tìm kiếm hạnh phúc. Họ say xưa trong
những khát vọng tìm kiếm tiền bạc, thoả mãn dục vọng cá nhân, chạy theo
danh vọng. Hoặc rơi vào phái nguỵ biện khi cho rằng, trong cuộc đời con
người làm gì có lẽ sống, con người cần cái gì thì hành động theo cái đó. Con
người chẳng cần làm nghĩa vụ với ai, và cũng chẳng bao giờ đạt đến hạnh
phúc. Những quan niệm như vậy đã làm cho con người không có được lẽ
sống đúng đắn, chân chính, làm thui chột và triệt tiêu những động lực phát
triển của con người, xã hội.
Khắc phục những hạn chế trong các quan niệm trên, Đạo đức học
mácxít cho rằng, lẽ sống là quan niệm sống của mỗi người, trong đó có sự
thống nhất giữa hạnh phúc và nghĩa vụ thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt
động xã hội của con người.
Hoặc, lẽ sống chính là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức
được và tự giác hành động vì nó. Chính vì vậy, từ xưa đến nay nhiều nhà tư
tưởng đồng nhất lẽ sống với lí tưởng tối cao.
Lẽ sống không phải tự nhiên mà có, nó không phải là cái gì bẩm sinh,
có sẳn, mà là kết quả của quá trình lao động gian khổ sáng tạo và sự đấu
tranh anh dũng, hi sinh của cá nhân, xã hội. Vì vậy, cơ sở để hình thành lẽ
sống chính là đời sống hiện thực của con người mà trước hết là lao động sản
xuất, bởi lao động không chỉ là yếu tố giữ vai trò quyết định tạo ra mọi của cải
vật chất cho xã hội, mà còn là cơ sở làm nảy sinh mọi nhu cầu, khát vọng
cuộc sống của con người - một yếu tố rất cơ bản làm nên lẽ sống. Chính
trong quá trình lao động, con người thể hiện được những năng lực sáng tạo
và phẩm chất của mình, đồng thời, con người cũng tự hoàn thiện bản thân.
Trong lao động, con người chẳng những loại bỏ được những thói xấu như
tính lười biếng, ỷ lại, ăn bám, ích kỉ, ti tiện, mà còn kích thích tính năng động,
tích cực cũng như những đức tính quý báu của con người, như lòng nhân ái,
tính vị tha, sự cao cả và tính kỉ luật tự giác. Mặt khác, khi con người đạt được
nhiều thành tích trong lao động thì cảm thấy giá trị và ý nghĩa công việc của
mình, cảm thấy hạnh phúc. Chẳng hạn, một người lính chỉ cảm thấy hạnh
phúc khi tự giác hoàn thành nhiệm vụ được giao người nông dân chỉ hạnh
phúc khi hoàn thành công việc lao động của mình trên đồng ruộng bội thu;
người công nhân cảm thấy hạnh phúc khi sản xuất ra những sản phẩm bền,
đẹp, có ích cho xã hội người thầy giáo chỉ thấy hạnh phúc khi các thế hệ học
trò của mình trưởng thành, làm được nhiều việc tốt cho đời... Chỉ trên cơ sở
xác định lẽ sống cụ thể như vậy, gắn liền với công việc của mỗi cá nhân con
người mới không cảm thấy gánh nặng của công việc và tránh được những
mặc cảm nghề nghiệp theo kiểu sang trọng, thấp hèn vi một khi xác định
được lẽ sống đúng đắn, con người sẽ tự giác hành động và luôn cảm thấy
yêu đời, yêu nghề hơn.
Tất nhiên, khi nói rằng lẽ sống được hình thành và phát triển thông qua
lao động sản xuất, thì đó là muốn nói đến lao động của con người đã được
giải phóng, lao động tự giác, sáng tạo và tự do. Còn lao động bị bóc lột, bị
cưỡng bức, lao động dưới làn roi vọt trong chế độ dựa trên loại hình sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến,
chế độ tư bản, thì như Mác đã chỉ ra, đó là thứ lao động bị tha hoá. Trong
điều kiện đó hoạt động lao động sản xuất của con người vẫn mang những ý
nghĩa xã hội nào đó nhưng phiến diện, què quặt, không thể là điều kiện, môi
trường làm nảy sinh ý nghĩa cuộc sống chân chính của con người.
Đạo đức học mácxít cũng chỉ ra rằng trong các xã hội có giai cấp thì
quan niệm về lẽ sống bao giờ cũng mang tính giai cấp, bởi các giai cấp khác
nhau có quan niệm khác nhau về lẽ sống. Các giai cấp thống trị bao giờ cũng
tự coi mình là những kẻ ăn trên, ngồi chốc, có sức mạnh cai trị dân, nên chỉ
có họ mới có quyền và được quyền xây dựng cho mình một lẽ sống. Còn
những người lao động làm thuê chỉ có nghĩa vụ phục tùng, tuân theo. Vì vậy,
các giai cấp thống trị thường tìm mọi cách chạy theo danh vọng, quyền lợi và
địa vị, hướng tới lối sống hưởng lạc.
Còn quần chúng lao động trong bất kì hoàn cảnh nào, xã hội nào họ
đều quan niệm ý nghĩa cuộc sống là ở lao động sáng tạo, ở việc tạo ra những
của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội đồng thời nuôi dưỡng ước
mơ, hi vọng về một xã hội lí tưởng không còn áp bức, bóc lột, không có sự
bất công, mọi người đều được hưởng hạnh phúc và tự do.
Như vậy, lẽ sống của con người là ở sự lao động và sáng tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, là ở sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình,
dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội, ở sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản, ở cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự
phồn vinh của đất nước và nền văn minh nhân loại. Và như thế, nó không
hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào thời gian sống, mà phụ thuộc rất nhiều vào chất
lượng sống.
2.2. Hạnh phúc
Hạnh phúc là một trong những phạm trù cơ bản của Đạo đức học, là
một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống con
người, xã hội. Nó là một trong những nền tảng tinh thần giúp con người từ đó
xây dựng được những lí tưởng, mục tiêu, thái độ sống, đồng thời là thước đo,
định hướng giúp con người xác lập các quan niệm về Thiện, Ác, phẩm giá và
hàng loạt những quan niệm đạo đức khác, vì vậy nó tạo ra một động lực thúc
đẩy con người hành động và tự hoàn thiện bản thân. Vì thế, bất cứ người
nào, sống ở bất cứ thời đại nào thì cũng khát khao hạnh phúc, mơ ước được
hạnh phúc và luôn luôn kiếm tìm hạnh phúc.
Vậy hạnh phúc là gì?
Từ xưa đến nay có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau
về hạnh phúc.
Chẳng hạn, ở Hi Lạp cổ đại, Xôcrát đã hướng triết học của mình vào
tôn giáo và đạo đức, mà đạo đức tức là nhận thức được "cái thiện" phổ biến,
đó là hạnh phúc. Đêmôcrit coi hạnh phúc của con người là không có những
đau khổ, dằn vặt, mà là sự yên tĩnh, thanh thản của tâm hồn. Arixtốt cho rằng,
hạnh phúc của con người hoàn toàn phụ thuộc vào lí trí và quan điểm của mỗi
người. Theo ông, hạnh phúc là những điều tốt đẹp nhất, cao quý nhất, đồng
thời là niềm vui sướng nhất trong hết thảy mọi sự. Êpiquya cho rằng, hạnh
phúc của con người là sức khoẻ. Vì vậy, con người cần làm việc vừa phải,
không nên cố quá.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo đều cho rằng hạnh phúc là cái gì đó
không có ở trần gian, bởi cuộc sống của con người ở trần gian đầy rẫy những
sự khổ ải, bất công và tai hoạ. Theo họ, hạnh phúc chỉ có ở thế giới bên kia -
thế giới sau khi chết như trên Thiên đàng, ở cõi Niết bàn hoặc ở kiếp sau. Vì
vậy Thiên Chúa giáo hay Phật giáo... đều ra sức khuyến khích con người
sống ép xác, khổ hạnh, nhẫn nhục ở trần thế, để được hưởng hạnh phúc cực
lạc ở thế giới bên kia.
Hoặc các đại biểu của Nho giáo ở Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh
Tử... đều cho rằng hạnh phúc của con người là do Thiên định (“sống chết có
mệnh, giàu sang tại trời”, “mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên”).
Các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVII - XVIII như R. Đềcáctơ 1596 - 1650),
Henvetiuyt (1715 - 1771) thì cho rằng hạnh phúc là thoả mãn thường xuyên
các nhu cầu vật chất và tinh thần, là sự hùng mạnh và giàu có xuất phát từ lợi
ích cá nhân, nhưng lợi ích cá nhân không thống nhất với lợi ích xã hội. Họ
cho rằng "Hạnh phúc xã hội là quy tắc tối cao" nhưng nó không phải là một
khái niệm tuyệt đối, nhất thành bất biến. Theo Hônbách (1723 - 1789) thì trí
tuệ giúp con người ta nhận thức được quy luật tự nhiên và sống hợp với quy
luật tự nhiên, đó là hạnh phúc.
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Cantơ - nhà triết học cổ điển Đức coi
hạnh phúc là do định mệnh (trời định), Hêghen lại khẳng định rằng chỉ những
con người lao động trí óc mới có hạnh phúc, còn những người lao động chân
tay thì không có quyền hưởng hạnh phúc.
Như vậy, hạnh phúc là một phạm trù hết sức phức tạp, đã tồn tại vô số
các quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn đề này.
Phuriê - một trong những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng vĩ đại của
Pháp ở thế kỉ XVIII đã làm một bản thống kê và nhận thấy rằng cho đến thời
đại ông, chỉ tính riêng ở Rôm đã có tới 278 ý kiến với những nội dung khác
nhau, đối lập nhau về phạm trù này. Vì vậy, khó có thể đưa ra được một định
nghĩa nào về hạnh phúc mà thoả mãn được các ý kiến, các khuynh hướng
khác nhau, chung cho tất cả mọi người, mọi thời đại được. Tuy nhiên, trên
bình diện khái quát, có thể thấy các quan niệm trên đây hoặc đã tách rời hạnh
phúc với cuộc sống thực tại của con người, xã hội, coi nó là một cái gì đó xa
lạ với cuộc sống thường nhật, không có nội dung xác định; hoặc coi hạnh
phúc chỉ là sự thoả mãn những nhu cầu cá nhân, nhất là những nhu cầu vật
chất (ăn, ở, mặc, sức khoẻ, tuổi thọ, đông con, nhiều cháu...); hoặc coi hạnh
phúc là sự thoả mãn những nhu cầu tinh thần mà bản chất của nó là sự yên
tĩnh, thanh thản của tâm hồn.
Trái với những quan điểm trên, Đạo đức học mácxít cho rằng, trong đời
sống xã hội, con người, về cơ bản có thể phân chia thành hai loại nhu cầu:
nhu cầu vật chất (ăn, uống, ở, mặc, đi lại...), và nhu cầu tinh thần (thưởng
thức và sáng tạo ra cái đẹp, nhu cầu học tập, nghiên cứu khoa học, nhu cầu
giao tiếp, giúp đỡ lẫn nhau...).
Trong đó, loại nhu cầu có ý nghĩa hơn, sâu sắc hơn, chiếm ưu thế hơn
chính là những nhu cầu tinh thần, bởi những nhu cầu vật chất đến một lúc
nào đó sẽ trở nên bão hoà và sự khoái cảm vật chất quá mức thường gây
nên cho con người cảm giác khó chịu. Nhưng việc thoả mãn những nhu cầu
tinh thần chẳng những có tính xã hội cao, mà còn để lại cho con người những
ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc và có những cái sống mãi với thời gian, nhiều khi
tạo nên những động lực xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ, hướng con người phấn
đấu vươn tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Hơn thế nữa, con người còn có thể
hạn chế được những nhu cầu vật chất và bắt chúng phục tùng những nhu cầu
tinh thần. Như thế, rõ ràng các nhu cầu tinh thần phức tạp hơn và là vô tận so
với những nhu cầu vật chất.
Từ đó có thể hiểu hạnh phúc là sự thoả mãn lâu dài và sâu sắc những
nhu cầu của con người về giá trị cuộc sống, về phẩm giá. Nó là sự thống nhất
giữa tính khách quan và tính chủ quan.
Tính khách quan của phạm trù này chính là những nhu cầu vật chất và
tinh thần được thoả mãn. Đây là những nhu cầu được hình thành một cách
khách quan, độc lập với ý thức của con người, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của mỗi người.
Tính chủ quan của phạm trù này biểu hiện ở chỗ bằng năng lực, ý chí
và sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân để thoả mãn những nhu cầu đó. Điều
này cũng nói lên rằng hạnh phúc không phải là cái gì có sẵn, bẩm sinh hay
trời phú cho, mà nó được hình thành trong hoạt động thực tiễn của con
người, đó là hoạt động lao động sản xuất, là đấu tranh xã hội, là hoạt động
nghiên cứu khoa học, thức nghiệm khoa học... đó là cả một quá trình phấn
đấu, kiên trì, bền bỉ đôi khi có cả những mất mát, đau thương, đúng như quan
niệm của Mác: "Hạnh phúc là đấu tranh". Chính vì vậy, con người không thể
thụ động chờ đón hạnh phúc và cũng không được thoả mãn hoặc dừng lại khi
nhu cầu được đáp ứng. Muốn có hạnh phúc, con người phải không ngừng lao
động, học tập và sáng tạo.
Hạnh phúc không phải là cái gì đó chung chung, trừu tượng, cũng
không phải là cái gì đó nhất thành bất biến, mà nó luôn luôn vận động, biến
đổi cùng với sự vận động, biến đổi của xã hội. Nó mang tính lịch sử, vì vậy khi
xem xét hạnh phúc phải đứng trên quan điểm lịch sử - cụ thể. Mỗi thời đại lịch
sử, mỗi con người trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, có quan
niệm khác nhau về hạnh phúc.
Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất
ở trình độ rất thấp, nên nhu cầu của con người cũng rất đơn giản. Chính vì
vậy, người nguyên thuỷ quan niệm hạnh phúc chỉ là sự thoả mãn những nhu
cầu tối thiểu như được ăn no, sống được yên ổn, săn được nhiều thú rừng,
hái được nhiều hoa quả, được sống trong những hang động ấm cúng...
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp (xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa) thì hạnh phúc của người này có thể là
nỗi bất hạnh của người khác. Các giai cấp thống trị thường coi hạnh phúc là
của riêng họ, đó là sự giàu có, là cuộc sống xa hoa, đồng thời lại là sự đau
khổ, khốn khó của người lao động. Còn người lao động quan niệm hạnh phúc
là được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, khỏi những bất công xã hội, có
được cuộc sống ấm no, tự do, dân chủ, bình đẳng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì hạnh phúc chân chính của mỗi cá
nhân không mâu thuẫn với hạnh phúc của toàn xã hội, bởi mỗi cá nhân vừa là
người tạo dựng hạnh phúc cho bản thân, lại vừa là người làm nên hạnh phúc
của toàn xã hội, do đó hạnh phúc không chỉ quy tụ lại trong sự thoả mãn nhu
cầu của cá nhân, mà một phần thuộc về xã hội. Hạnh phúc của cá nhân là
niềm tự hào chung của xã hội. Đúng như Kalinin - nhà giáo dục học người
Nga đã viết: "Kẻ nào muốn có hạnh phúc cá nhân, kẻ ấy phải là người tham
gia vào việc xây dựng hạnh phúc của toàn dân". Như vậy trong xã hội xã hội
chủ nghĩa hạnh phúc của con người là được cống hiến nhiều nhất những giá
trị của mình cho xã hội và được sống trong xã hội thực sự tự do, dân chủ,
giàu mạnh và văn minh.
Nhưng nếu quan niệm về hạnh phúc ở mỗi thời đại có những yếu tố
căn bản thống nhất, thì ở từng con người cụ thể điều đó chỉ có tính chất
tương đối. Chẳng hạn, đối với anh A, khi được thoa mãn nhu cầu ăn, ở, mặc
được coi là rất hạnh phúc, nhưng đối với anh B thì hạnh phúc là được thoả
mãn về nhu cầu đi lại bằng xe máy, có nhà cao tầng với những tiện nghi sinh
hoạt hiện đại, còn hạnh phúc đối với chị C là gia đình sống trong không khí
hòa thuận, con cái chăm ngoan, học hành tiến bộ... Vì vậy, khi nói về hạnh
phúc phải xuất phát, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi cá nhân
gắn với mức sống, lối sống, nhu cầu cụ thể... phản ánh sinh động, trung thực
nhân sinh quan của người đó.
Với những quan niệm như vậy, hạnh phúc không loại trừ hoàn toàn mọi
nỗi đau khổ. Nhiều khi chính nỗi đau khổ hay sự trăn trở của con người cũng
tham gia vào làm thành một mặt của hạnh múc. Những nỗi trăn trở, đau khổ
có tính tích cực là những trăn trở trong sáng tạo, đau khổ khi vượt qua lỗi
lầm, đau khổ hi sinh vì nghĩa lớn, đau khổ vì nỗi khổ của người khác, những
gian truân, khổ ải phải vượt qua trong lao động và cuộc sống. Chính những
niềm tin, niềm hạnh phúc mà con người nhận được lại phụ thuộc rất nhiều
vào những trăn trở và đau khổ đó. Đau khổ ở mức độ càng cao mục đích hoạt
động càng trong sáng, sự hướng tới cái tốt đẹp, cái thiện, cái cao cả càng lớn
bao nhiêu, thì niềm vui, niềm hạnh phúc mà họ nhận được sau khi đã hoàn
thành công việc càng lớn bấy nhiêu. Như vậy, rõ ràng hạnh phúc không bao
giờ biến mất trước bất kì sự đau khổ nào, nó chính là khả năng đi qua được
những điều đau khổ riêng lẻ, biết chống lại những hoàn cảnh bất lợi, những
tâm trạng tiêu cực, biết đi qua sự hiểm nguy và biết huy động sức lực trong
những giây phút cần thiết. Đúng như ai đó đã "Hạnh phúc luôn mỉm cười với
những ai kiên trì, dũng cảm, hăng say làm việc", "Nếu sợ bất hạnh thì không
thể có hạnh phúc”, "hạnh phúc là kết quả của hành vi đạo đức”. Hạnh phúc
đích thực bền vững đến từ nội tâm, từ chính suy nghĩ của mỗi con người. Mỗi
con người mới là người tạo dựng nên hạnh phúc, còn những yếu tố như cuộc
sống giàu sang, cơ hội thăng tiến, sự nổi tiếng chỉ là những nhân tố bên ngoài
không thể đem lại hạnh phúc thực sự. Chúng chỉ có thể đem lại những cảm
xúc hạnh phúc thoáng qua. Vì vậy, nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong
chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác. Hạnh phúc ở
ngay trên con đường chúng ta đang đi, chứ không phải ở nơi chúng ta sẽ
đến.
2.3. Nghĩa vụ
Nghĩa vụ là một trong những phạm trù cơ bản của Đạo đức học. Nghĩa
vụ là một trong những nét đặc trưng cơ bản của đời sống con người. Chỉ có ở
xã hội loài người mới có ý thức về nghĩa vụ, còn ở loài vật mọi hành động đều
được thực hiện theo bản năng. Phạm trù nghĩa vụ phản ánh mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể và giữa cá nhân với xã
hội. Nghĩa vụ có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Việc thực
hiện nghĩa vụ tốt hay xấu là thước đo đặc thù nói lên tình trạng tiến bộ hay
suy thoái của một xã hội nhất định. Chính vì vậy mà phạm trù này đã được
nhiều nhà tư tưởng của các thời đại luận bàn, quan tâm sâu sắc.
Ở thời kì cổ đại: người đầu tiên đưa phạm trù nghĩa vụ vào Đạo đức
học là Đêmôcrit, ông hiểu nghĩa vụ là động cơ sâu kín bên trong của con
người, là động lực thúc đẩy con người tự giác hành động.
Các tôn giáo coi nghĩa vụ là ý thức trách nhiệm của con người trước
đấng tối cao (Thượng đế, Chúa hay một lực lượng siêu nhiên nào đó). Nghĩa
vụ của con người là hi sinh mọi quyền lợi và nhu cầu của mình trước các lực
lượng siêu nhiên để sau này được hưởng hạnh phúc ở kiếp sau, đúng như
kinh thánh đã viết: "Chúa hãy sai khiến chúng con làm những gì mà Chúa
muốn".
Các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVII - XVIII coi nghĩa vụ đạo đức gắn liền
với lợi ích cá nhân, vì cá nhân. Họ không thấy được ý nghĩa xã hội của việc
thực hiện nghĩa vụ, vì vậy họ đã khuyến khích tính vị kỉ thấp hèn, dung túng
cho chủ nghĩa cá nhân.
Cantơ - nhà triết học cổ điển Đức coi nghĩa vụ là một mệnh lệnh tuyệt
đối, là chân lí tất yếu con người bắt buộc phải làm, phải phục tùng dù muốn
hay không, không được chống lại. Đây chính là lí thuyết "Nghĩa vụ vì nghĩa
vụ" của Cantơ. Lí thuyết này của Cantơ sau này đã bị lợi dụng làm cơ sở biện
hộ cho chủ nghĩa phát xít, chế độ nô lệ tàn bạo chống lại con người.
Các nhà Đạo đức học tư sản hiện đại giải thích phạm trù nghĩa vụ theo
tính chất chủ quan cảm tính, không có nội dung khách quan. Họ chủ trương
trong giáo dục đạo đức chỉ dạy cho con người biết hành động chứ không cần
giáo dục cho họ ý thức về nghĩa vụ vì lợi ích chung và sự phát triển của xã
hội.
Đạo đức học mácxít cho rằng nghĩa vụ là một phạm trù dùng chỉ trách
nhiệm của cá nhân đối với người khác và đối với xã hội tùy theo địa vị của
người đó và tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Mỗi cá nhân có thể gắn với nhiều nghĩa vụ khác nhau: Chẳng hạn trong
gia đình: nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái và ngược lại nghĩa vụ giữa vợ
và chồng đối với nhau, nghĩa vụ anh em đối với nhau; ngoài xã hội thì nghĩa
vụ của công dân đối với đất nước, Tổ quốc như nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ đi bầu cử, nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho Nhà
nước...; trong quan hệ bạn bè thì có nghĩa vụ của người này đối với người
khác. Nói tóm lại, nghĩa vụ của con người bao gồm nghĩa vụ pháp lí và nghĩa
vụ đạo đức.
Nghĩa vụ pháp lí là những nghĩa vụ do pháp luật quy định, có tính chất
bắt buộc phải thực hiện.
Còn nghĩa vụ đạo đức là những nghĩa vụ do những yêu cầu của đạo
đức quy định.
Hay nói cách khác ở nghĩa vụ pháp lí chưa có sự thống nhất lí trí của
cá nhân với lí trí của toàn xã hội. Con người hành động tự do, nhưng hành
động tự do đó chưa trở thành cái tất yếu bên trong, chưa trở thành nhu cầu
đạo đức của chủ thể. Còn ở nghĩa vụ đạo đức đã có sự phù hợp giữa lí trí và
tình cảm của cá nhân với những yêu cầu đạo đức của xã hội.
Tuy nhiên, việc phân biệt nghĩa vụ pháp lí và nghĩa vụ đạo đức chỉ có ý
nghĩa tương đối. Có những nghĩa vụ vừa là nghĩa vụ pháp lí vừa là nghĩa vụ
đạo đức, hoặc có những chuẩn mực pháp lí mang tính cưỡng chế, bắt buộc
chuyển thành các chuẩn mực đạo đức mang tính tự do, tự nguyện.
Như vậy, có thể hiểu nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện trách nhiệm đạo
đức của con người trước lợi ích chung (cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân
loại) vì lơi ích của người khác, là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn
được làm vị những lợi ích đó.
Để có nghĩa vụ đạo đức nhất thiết phải có 3 điều kiện: tự giác, tự do và
vì cái thiện.
Tự giác tức là chủ thể nhận thức được trách nhiệm, bổn phận của
mình, nhận thức được cái cần phải làm.
Tự do là biểu hiện cao nhất của tính tự giác. Ở đây chủ thể thực hiện
hành vi đạo đức không bị sức ép nào từ bên ngoài, mà hoàn toàn hành động
theo tiếng gọi của lương tâm, của sự công bằng, bác ái, khát vọng được phục
vụ, được cống hiến cho xã hội.
Vì cái thiện, cái tốt đẹp, đây là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt nghĩa vụ
đạo đức với nghĩa vụ pháp lí. Nếu để mất đi tính thiện thì không còn là nghĩa
vụ đạo đức nữa, mà nó trở thành nghĩa vụ pháp lí. Chẳng hạn, một người
thầy thuốc không thật sự làm việc với tinh thần "lương y như từ mẫu", hoặc
người thầy giáo không tận tụy với học sinh sẽ làm mất đi tính cao cả của
nghề nghiệp, lúc đó đơn thuần họ chỉ là người làm công, ăn lương.
Để đạt được 3 điều kiện trên đây, đòi hỏi công tác giáo dục đạo đức
phải được tiến hành thường xuyên và lâu dài, mặt khác các chủ thể đạo đức
cũng phải không ngừng tự rèn luyện, tự tu dưỡng. Chỉ khi nào ý thức nghĩa
vụ phát triển, chuyển thành tình cảm nghĩa vụ, thành niềm tin vững chắc như
động cơ thôi thúc từ bên trong, thành bản tính thường trực của các chủ thể thì
lúc đó cái tất yếu mới trở thành cái hoàn toàn tự do. Từ đó mới có điều kiện
để nảy sinh những giá trị đạo đức chân chính, lành mạnh.
Ngoài ra, khi thực hiện nghĩa vụ, các chủ thể phải hiểu được mục đích
và hậu quả của nó. Nếu không hiểu rõ được điều này, các chủ thể chẳng
những không đem lại lợi ích cho xã hội, mà còn gây nên những thảm hoạ cho
con người. Thí dụ, những tên lính phát xít, những tên tội phạm chiến tranh đã
tuân lệnh các thủ lĩnh của mình một cách tuyệt đối mà tàn sát nhà cửa, ruộng
vườn và ngang nhiên chém giết biết bao người dân lương thiện. Ngược lại,
trong lịch sử nhân loại, chúng ta cũng bắt gặp nhiều danh nhân, nhiều nhà
khoa học, chiến sĩ cộng sản, do nhận thức rõ mục đích và hậu quả của việc
thực hiện các nghĩa vụ mà đã chấp nhận hi sinh, chấp nhận tù đày, chứ nhất
định không chịu hợp tác với kẻ thù để giữ gìn phẩm chất đạo đức của mình
và bảo vệ cuộc sống bình yên cho người lao động. Chẳng hạn, Trần Bình
Trọng đã khẳng khái thét vào mặt kẻ thù rằng: “Ta thà làm quỷ nước Nam,
còn hơn làm vương đất Bắc”; Trần Quốc Tuấn, khi quân Nguyên xâm lược
nước ta, vận mệnh của Tổ quốc đang bị lâm nguy, nhà vua đang cân nhắc
nên hay không nên rút lui để bảo toàn lực lượng đã khẳng khái tâu với nhà
vua: “Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”; hoặc Brunô khi bị toà án
giáo hội kết án tử hình, trên giàn thiêu ông đã thét vào mặt tên đao phủ:
“Chúng mày tuyên bố bản án còn run sợ hơn là tao nghe bản án ấy”, hoặc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”... Họ là những người
có nghĩa vụ đạo đức cao cả và tốt đẹp.
Như vậy, động cơ thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức không phải
do sự ép buộc hay sợ hãi bị trừng phạt từ bên ngoài như hành vi thực hiện
nghĩa vụ pháp lí. Đó cũng không phải từ những động cơ vì lợi ích của bản
thân chủ thể như mọi hành vi thông thường khác. Hành vi thực hiện nghĩa vụ
đạo đức bao giờ cũng chứa đựng ý nghĩa trong sáng, cao thượng, gắn liền
với những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc. Vì thế điều quan tâm lớn nhất đối
với người thực hiện nghĩa vụ đạo đức không phải mong được xã hội tôn vinh,
đề cao, để mọi người biết đến hay nhằm đạt được mục đích cá nhân (sự phú
quý, sang giàu... mà chính là niềm tự hào, niềm tin do họ có những cống hiến
có giá trị đối với xã hội và được xã hội thừa nhận.
2.4. Lương tâm
Cảm xúc lương tâm là một trong những tình cảm xuất hiện sớm nhất.
Có thể nói nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người và xã hội loài
người và cũng chỉ mất đi khi nào con người không còn nữa, nó tồn tại vĩnh
viễn trong đời sống xã hội. Ngay từ thời kì tiền sử, khi con người vừa thoát
thai khỏi thế giới động vật, còn đang sống trong trạng thái mông muội, người
ta đã thấy xuất hiện các từ "xấu hổ", "hổ thẹn", "tự hổ thẹn" để chỉ những cảm
xúc dằn vặt của sự tự trách mình. Đến thời kì đầu của Hi Lạp cổ đại, các khái
niệm "hổ thẹn», "tự hổ thẹn" vẫn được sử dụng với nội dung giống như khái
niệm "lương tâm". Vì vậy, có thể coi, phạm trù lương tâm là một trong những
phạm trù xuất hiện sớm nhất trong lịch sử tư tưởng Đạo đức học.
Lương tâm là một đặc trưng cơ bản nhất của hiện tượng đạo đức, nó là
dấu hiệu, thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân, xã hội.
Lương tâm luôn tồn tại như một minh chứng cho sự hiện diện của đời sống
đạo đức cá nhân. Các khái niệm “lương tâm” và “vô lương tâm” thường được
sử dụng như sự khẳng định hay phủ định tình trạng có đạo đức hay vô đạo
đức ở con người.
Cũng như các phạm trù khác của Đạo đức học, phạm trù lương tâm
được nhiều nhà tư tưởng luận bàn và lí giải. Chẳng hạn, Platôn - nhà triết học
duy tâm khách quan của Hi Lạp cổ đại cho rằng lương tâm là tinh thần của
Thượng đế nằm ngay trong bản chất tinh thần của con người mách bảo con
người nhận ra những việc làm đúng, sai của mình.
Đêmôcrit - nhà triết học duy vật cổ đại Hi Lạp không thừa nhận nguồn
gốc thần thánh của lương tâm, coi lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, tức là hổ
thẹn với bản thân mình. Nhờ có sự tự hổ thẹn này mà con người tránh được
những suy nghĩ, những việc làm sai trái, thiếu đạo đức, giúp cho đời sống đạo
đức xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Sau này Cantơ - nhà triết học cổ điển Đức cho rằng lương tâm chính là
sự thao thức của tinh thần con người, như là một cái gì đó bẩm sinh, có sẵn,
như là người làm chứng của Chúa trời phán xét chúng ta.
Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức
cho rằng lương tâm chính là sản phẩm của tinh thần khách quan. Ông là
người đầu tiên đặt vấn đề về nội dung khách quan của lương tâm. Tuy nhiên
tính khách quan đó lại chỉ là sản phẩm của "tinh thần khách quan" thông qua
sự "tự tha hoá". Theo ông, lương tâm có hai phần: đó là "chân lí" và "hình
thức" biểu hiện của lương tâm. "Chân lí của lương tâm" là những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức trong các xã hội khác nhau. Còn "hình thức biểu hiện"
phụ thuộc vào các cá nhân khác nhau. Giữa chân lí của lương tâm và hình
thức biểu hiện của nó có thể phù hợp hoặc mâu thuẫn nhau. Điều đó phụ
thuộc vào nhận thức và những đặc điểm cá nhân.
L. Phoiơbắc không đồng thuận với quan điểm của Cantơ và Hêghen về
lương tâm, ông cho rằng lương tâm có nội dung khách quan, đố là sự nhận
thức về lợi ích của người khác. Chính sự nhận thức đó giúp con người kiểm
soát hành vi của mình trong quan hệ với người khác và với xã hội.
Một số người theo khuynh hướng duy tâm chủ quan lại muốn giải thích
sự xuất hiện của lương tâm như là một hiện tượng hoàn toàn chủ quan thuần
cảm. Nó là kết quả của những tình cảm có tính riêng biệt của từng cá nhân.
Như vậy, lương tâm không có nội dung khách quan, không mang ý nghĩa xã
hội, chỉ tính cá biệt.
Theo quan điểm của Đạo đức học mácxít, lương tâm là một phạm trù
Đạo đức học thể hiện năng lực của con người, tự kiểm tra, tự đánh giá hành
vi đạo đức của mình trong mối quan hệ với người khác và với xã hội.
Lương tâm vừa là một hiện tượng tình cảm, vừa là một hiện tượng trí
tuệ. Nó là một hiện tượng tình cảm bởi lương tâm chính là chức năng của
tình cảm đạo đức, nó có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ đạo đức.
Nếu ý thức nghĩa vụ đạo đức là kết quả nhận thức những yêu cầu đạo đức xã
hội đối với các chủ thể đạo đức thì lương tâm là ý thức, là tình cảm, là sự thôi
thúc bên trong của các chủ thể trước nghĩa vụ của bản thân mình. Lương tâm
còn là một hiện tượng trí tuệ vì nó thực hiện chức năng tự kiểm tra, tự đánh
giá hành vi của con người là đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp với
các yêu cầu đạo đức xã hội. Thực chất lương tâm con người không chỉ chi
phối các quan hệ tình cảm, mà nó còn chi phối cả nghĩa vụ đạo đức. Nhờ có
lương tâm trong sáng mà con người biết hướng thiện, tự thức tỉnh, tránh làm
điều xấu xa, bỉ ổi, mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vì vậy ở đây có sự
tham gia của yếu tố ý thức.
Lương tâm không phải là cái có sẵn để rồi ban phát cho mọi người,
cũng không phải là cái bẩm sinh ở mỗi con người, mà nó được hình thành
gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Đó là một quá trình phát triển
lâu dài từ thấp lên cao. Lúc đầu, con người nhận thức được cái cần phải làm
vì sợ bị trừng phạt từ bên ngoài. Chẳng hạn một chị thủ kho không dám lấy
cắp của công vì sợ bị pháp luật trừng phạt nếu bị phát hiện. Đó là ý thức pháp
luật.
Cùng với quá trình trưởng thành, con người nhận thức được cái cần
phải làm vì xấu hổ trước người khác, trước dư luận xã hội. Một học sinh, sinh
viên không thể cứ đi học muộn mãi vì xấu hổ trước thầy cô và bạn bè trong
lớp khi ngày nào cũng bị nhắc nhở. Đó là bước đầu của ý thức nghĩa vụ đạo
đức.
Ở giai đoạn sợ bị trừng phạt và xấu hổ chưa phải là hành vi có lương
tâm đạo đức. Bởi vì, chủ thể hành động chưa xuất phát từ tiếng gọi của trái
tim hoặc của lí trí, mà chỉ do những tác động từ bên ngoài. Ngay cả khi con
người có cảm giác xấu hổ vì một cử chỉ không tốt đẹp trước bản thân mình,
thì cảm giác xấu hổ chỉ là bước đầu của lương tâm, chưa phải là tình cảm
đạo đức của lương tâm, vì cảm giác xấu hổ này chưa bền vững, nó có thể
thoáng qua.
Nói chung, người có lương tâm là người biết hổ thẹn, còn người biết hổ
thẹn chưa chắc là người có lương tâm. Người biết xấu hổ là người có cảm
giác trách nhiệm trước người khác là chủ yếu. Người có lương tâm cũng xấu
hổ, nhưng là cảm giác trách nhiệm trước bản thân mình là chủ yếu. Vì vậy,
người ta nói sự hổ thẹn là nỗi tức giận quay về phía bản thân mình. Đúng như
Lép Tônxtôi đã từng viết: “Biết xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt.
Nhưng tốt hơn hết là biết xấu hổ trước chính bản thân mình”. Cảm giác hổ
thẹn giữ vai trò tích cực để điều chỉnh hành vi của con người trong đời sống
hàng ngày của mình và biết hướng tới sự chú ý của dư luận xã hội. Cảm giác
tự hổ thẹn ngày càng cao, làm cho con người càng dễ thức tỉnh. Đặc biệt, khi
sự lừa dối bị bóc trần trước dư luận xã hội, trước những người quen và người
có uy tín, có vị trí trong gia đình và xã hội thì sự hổ thẹn càng cao.
Như vậy, chỉ khi nào các chủ thể nhận thức được cái cần phải làm vì
xấu hổ trước bản thân, tức là tự xấu hổ thì đó mới là bước đầu của cảm giác
lương tâm và từ cảm giác lương tâm phát triển đến chỗ các chủ thể tự phán
xét các suy nghĩ, hành vi và cách cư xử của mình trong mối quan hệ với
người khác và xã hội. Đây mới chính là lương tâm.
Lương tâm đòi hỏi ở con người những yêu cầu rất cụ thể: phải bằng
những hành động của mình để cho mọi người tin yêu, mến phục; phải có tinh
thần phê phán, đánh giá như nhau đối với hành động của mình và của người
khác, sao cho phù hợp với những yêu cầu khách quan của xã hội; phải có
tinh thần trách nhiệm không những đối với hành động của bản thân mà còn
đối với tất cả những gì xảy ra xung quanh mình.
Lương tâm biểu hiện ở hai trạng thái tích cực và tiêu cực (khẳng định
và phủ định). Ở trạng thái khẳng định có sự thanh thản, thư thái, trong sạch
của lương tâm. Trạng thái này có được khi hành vi của cá nhân phù hợp với
các chuẩn mực, quy tắc đạo đức chính thống của xã hội. Trạng thái này có
tác dụng nâng cao con người, làm cho con người sảng khoái, vui vẻ, tự tin
vào mình, kích thích tính tích cực hoạt động của con người.
Ở trạng thái phủ định thì có sự cắn rứt, sự không trong sạch của lương
tâm. Trạng thái này nảy sinh khi hành vi của cá nhân không phù hợp với các
chuẩn mực, quy tắc đạo đức chính thống của xã hội, tức là các chuẩn mực
yêu cầu một đằng, chủ thể lại làm một nẻo. Tất nhiên cả trong hai trường
hợp, đặc biệt là ở trường hợp thứ hai (trạng thái phủ định) cá nhân phải ý
thức được các chuẩn mực đạo đức, bởi nếu không ý thức được điều này thì
hành động của họ dù có vi phạm các chuẩn mực đạo đức đi chăng nữa thì
lương tâm cũng không hề cắn rứt. Ở đây, cả trạng thái khẳng định lẫn phủ
định của lương tâm đều có vai trò điều chỉnh và nâng cao tính tích cực trong
hành vi đạo đức của con người. Ngay cả những người mắc phải những lỗi
lầm nếu người đó biết hối hận, sửa chữa thì vẫn trở thành người tốt và tiến
bộ. Những chủ thể đạo đức nào có trong mình cả hai trạng thái đó được gọi là
con người có lương tâm. Ngược lại, những chủ thể nào thường xuyên làm
điều ác, gây nên những mất mát, đau thương cho người khác (như giết
người, cướp của, hãm hiếp phụ nữ, trẻ em, tham ô, lãng phí, phá hoại tài sản
công...) mà không có cảm giác xấu hổ, không ăn năn hối hận thì bị coi là
người không có lương tâm (bất lương), vô đạo đức. Lương tâm xuất hiện và
tồn tại trong suốt quá trình hành động từ lúc các chủ thể dự kiến cho đến sau
khi kết thúc hành vi đạo đức. Quan niệm này có thái độ tích cực và phù hợp
với tình cảm và trách nhiệm của con người. Điều này khác với ý kiến sai lầm
cho rằng, lương tâm chỉ xuất hiện sau khi kết thúc hành vi (giết người rồi mới
cắn rứt lương tâm); hoặc quan niệm lương tâm chỉ xuất hiện khi con người
chuẩn bị hành động (tự vẫn). Tình cảm của người có lương tâm thường bền
vững và sâu kín trong tâm hồn. Lương tâm được nảy sinh, xây dựng trên cơ
sở của tình cảm tự giác, từ sức mạnh nội tại của chủ thể. Vì thế, lương tâm
không có tội, lương tâm là sự hối cải, biết phục thiện để nhanh chóng tiến bộ.
Vì vậy, việc giáo dục lương tâm có vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống đạo đức xã hội. Giáo dục lương tâm gắn liền với giáo dục ý thức nghĩa
vụ và làm cho ý thức nghĩa vụ trở thành tình cảm thiêng liêng, thành niềm tin,
thành ý thức thường trực. Sự hình thành lương tâm không thể một sớm, một
chiều mà là quá trình phấn đấu, rèn luyện bền bỉ, lâu dài, thường xuyên trong
suốt cả cuộc đời mỗi con người.
2.5. Thiện, ác
Thiện, ác là hai phạm trù xuất hiện rất sớm trong đời sống đạo đức xã
hội. Có thể nói chúng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người và xã hội
loài người và chúng chỉ mất đi chừng nào con người và xã hội loài người
không còn nữa. Nói chung, từ khi con người thoát thai khỏi thế giới động vật
cho đến nay, qua mọi thời đại, con người đều muốn sống thiện, khát khao làm
việc thiện, ghét bỏ điều ác, đấu tranh để loại trừ cái ác ra khỏi đời sống xã hội
để có một môi trường sống trong lành, bao dung, độ lượng.
Vậy Thiện là gì? Ác là gì?
Trong lịch sử phát triển của những tư tưởng Đạo đức học đã tồn tại rất
nhiều quan niệm khác nhau về thiện và ác.
Chẳng hạn ở phương Tây cổ đại, Platôn cho rằng con người phải biết
sống thiện. Chính Thượng đế đã đem lại cho con người điều thiện. Do đó con
người phải biết vâng lệnh Thượng đế để sống thiện và làm điều thiện.
Arixtốt thì quan niệm lòng tốt của con người là ở thiện tâm, thiện ý. Còn
ở phương Đông cổ đại: Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiên (nhân
tri sơ, tính bản thiện). Trong tính thiện đã bao hàm đủ nhân, lễ, nghĩa, trí mà
ông gọi là tứ đoan, đồng thời nó còn bao chứa cả đức trung với bề trên (vua),
đức hiếu với cha mẹ, người thân. Còn ác chẳng qua là do hoàn cảnh, do vật
dục mê hoặc, vì vậy ông ra sức tuyên truyền, đề cao đức “tính thiện” với
mong muốn giáo hoá con người để họ trở lại với bản chất thiện của mình.
Khổng Tử - người sáng lập ra đạo Nho thường nói nhiều đến nhân
nghĩa. Nhân trước hết được hiểu là lòng yêu người, thương người, muốn cho
mọi vật luôn luôn tươi tốt. Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác; mình muốn thành đạt, thì nên giúp người thành đạt; mình muốn lập
thân, thì cũng nên giúp người lập thân. Lòng mong muốn ấy là hoàn toàn tự
nhiên, không miễn cưỡng, không điều kiện.
Tuân Tử thì ngược lại, coi bản tính con người là ác, là tự tư, tự lợi
(nhân tri sơ, tính bản ác). Theo ông, con người làm gì cũng có sự tính toán lợi
hại cá nhân, vì vậy phải dùng đến luật pháp thì mới thay đổi được cái ác.
Thời kì Phục hưng - cận đại ở phương Tây xuất hiện trào lưu tư tưởng
nhân văn, đề cao cái thiện và đã lấy hình tượng người mẹ là biểu tượng của
lòng nhân ái.
Bên cạnh đó, Hốpxơ lại cho rằng bản chất con người là ích kỉ, vì vậy
cuộc đấu tranh giữa con người với con người là tất yếu, không tránh khỏi.
Ông hoàn toàn đồng tình với quan điểm của Ploute cho rằng: "Người với
người là chó sói". Chính vì vậy ông quan niệm: "Con người là một động vật
độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn". Lépnít cũng quan niệm ác là
sự thử thách của Chúa trời đối với con người nhằm củng cố niềm tin của con
người vào cái thiện.
Trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, Cantơ đã
quy cái thiện vào cái thiện của ý chí. Ông cho rằng trong thế giới này không ở
đâu lại có thể hình dung được một cái gì khác hơn là cái thiện vô hạn và cái
thiện vô hạn là cái thiện của ý chí. Cuối cùng ông giải thích cái thiện này là
Chúa ban cho con người.
Hêghen thì ngược lại, phản bác việc quy cái thiện vào chúa trời, nhưng
ông lại cho rằng cái thiện, ác đều là kết quả tha hoá của "tinh thần tuyệt đối".
Tuy nhiên, ông đã có công lao trong việc trình bày mối quan hệ biện chứng
giữa thiện và ác, rằng chúng có thể chuyển hoá cho nhau. Nhưng ông lại đề
cao cái ác, xem cái ác là hình thức thể hiện những lực lượng phát triển lịch sử
và bản thân nó có hai ý nghĩa tích cực và tiêu cực.
Còn L. Phoiơbắc - đại diện xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật trước
Mác thì cho rằng cái thiện không phải là bản chất của Thượng đế, Chúa trời
mà nó mang bản chất như đặc tính của con người. Ông tin tưởng rằng, con
người bao giờ cũng tránh cái ác và hướng tới cái thiện. Vì vậy, ông kêu gọi
mọi người hãy hạn chế mình một cách hợp lí để đi đến một tình yêu phổ biến
theo kiểu: "Hãy yêu nhau đi, hãy hôn nhau đi, không phân biệt gái trai, già,
trẻ, giai cấp". Như vậy ông đã thừa nhận cái thiện mang tính phổ quát.
Các tôn giáo xem cái thiện là những hành động từ bi, bác ái, là ý muốn
của Thượng đế. Abrelia cho rằng: "ý muốn Thượng đế, đó là cái thiện", và
giải thích rằng, Chúa là người duy nhất sáng tạo và mang cái thiện. Xung
quanh chúng ta toàn là cái ác và do đó con người sa ngã và mất hết tự do để
vươn tới cái thiện, nên Chúa phải cứu vớt con người ra khỏi cái ác và đó
chính là cái Thiện của Chúa.
Ở nước ta trong lịch sử thời phong kiến, các sĩ phu yêu nước cũng đã
rất đề cao cái thiện. Các vua nhà Trần (thế kỉ XIII) đã lấy Thiện để trị nước và
tập hợp nhân dân tạo nên sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên. Hưng Đạo Vương lúc lâm chung đã dặn lại: “Trên thì luyện binh mã,
dưới thì chăn dân, phải luôn luôn khoan thư sức dân, đó là kế sâu gốc, bền
rễ, là thượng sách để giữ nước lâu dài vậy”.
Nguyễn Trãi (thế kỉ XV) cũng quan niệm: Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân; lấy chí nhân để thay cường bạo. Vì vậy, các nhà cầm quyền phải chăn
dân, an dân và huệ dân, để tận nơi hang cùng, ngõ hẻm không còn tiếng oán
giận, than sầu.
Như vậy, trước khi Đạo đức học mácxít ra đời, đã có nhiều quan niệm
khác nhau về thiện, ác. Mỗi quan niệm đề cập đến một mặt, một khía cạnh
nào đó của thiện, ác, nhưng tất cả những quan niệm đó đều bộc lộ một hạn
chế là quy thiện, ác về những cái có sẵn trong tâm con người, coi chúng là
bản chất vốn có của con người hay của một lực lượng siêu nhiên nào đó mà
chưa hiểu được bản chất xã hội và tính lịch sử - cụ thể của hai phạm trù này.
Từ khi Đạo đức học mácxít ra đời đã có cách lí giải đúng đắn về thiện,
ác. Thiện là tất cả những gì tốt đẹp, những gì có ích cho con người và xã hội,
phù hợp với tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội.
Với quan niệm như vậy thì cái thiện trước hết và cao cả nhất là giải
phóng con người khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội không
còn giai cấp để con người có những điều kiện kinh tế - xã hội phát huy mọi
khả năng của mình, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, mang lại hạnh phúc cho
nhân dân và như thế cái thiện không chỉ là những giá trị hiện thực, mà còn
hàm chứa trong mình những lí tưởng đạo đức cao quý.
Còn ác là cái đối lập với cái thiện, có nghĩa là tất cả những gì gây trở
ngại, có hại cho con người và xã hội. Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính
yêu của chúng ta nhiều lần nói về điều thiện, ác với mong muốn mọi người
nhận thức được điều đó để hướng tới cái Thiện và đấu tranh loại bỏ cái ác,
cái xấu ra khỏi đời sống đạo đức xã hội. Theo Người, thiện và ác là hai cái
mang tính phổ quát, chúng tồn tại không chỉ ở người này hay người kia, ở
dân tộc này hay dân tộc khác mà có thể nói là ở cả thế giới: “Trong xã hội có
thiện và cũng có ác. Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước có
thiện và có ác. Theo nghĩa hẹp bản thân và tư tưởng mỗi người cũng có
Thiện và có ác”.
Vậy thiện là gì? Ác là gì? Người chỉ rõ: “Thực hành chí công vô tư, cần,
kiệm, liêm, chính là thiện. Nếu phạm phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười
biếng là ác”. Theo Người, thiện và ác “là hai cái mâu thuẫn luôn luôn đấu
tranh gay gắt với nhau”, đây là “cuộc đấu tranh trường kì, gian khổ. Nhưng
cuối cùng thì cái ác nhất định bại, Thiện nhất định thắng”. Mỗi chúng ta phải
làm thế nào để cho phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần
đi, đó chính là thái độ của người cách mạng. Người luôn luôn nhắc nhở
chúng ta như vậy.
Đạo đức học mácxít cũng chỉ ra rằng thiện - ác không phải là sản phẩm
thuần tuý của tư duy con người, do con người ta nghĩ ra, hay của một lực
lượng siêu nhiên nào đó, chúng cũng không phải là cái gì đó nhất thành bất
biến, mà chúng là kết quả của những điều kiện kinh tế - xã hội của một thời
đại nhất định và luôn luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi
của xã hội. Vì vậy, khi xem xét thiện, ác chúng ta phải quán triệt quan điểm
lịch sử - cụ thể. Có những cái hôm nay được mọi người coi là thiện, thì ngày
mai có thể lại trở thành nếp sống của xã hội, trở thành những cái bình
thường, thậm chí là cái ác và ngược lại. Hoặc có những cái đối với dân tộc
này, ở thời đại này là thiện, nhưng đối với dân tộc khác, ở thời đại khác lại là
ác và ngược lại đúng như Ăngghen đã nhận xét: "Từ dân tộc này sang dân
tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện, ác đã
biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau".
Điều đó cũng cho thấy, thiện, ác là hai mặt đối lập, nhưng sự đối lập
giữa chúng không phải là tuyệt đối, mà chỉ là tương đối, bởi chúng có thể
chuyển hoá lẫn nhau. Trong đời sống hiện thực, nhiều khi cái ác còn là yếu tố
tất yếu mà con người phải vượt qua để thực hiện cái thiện. Ví như người thầy
thuốc buộc phải áp dụng những biện pháp gây đau đớn để cứu chữa bệnh
nhân, hoặc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhận định: “Chỉ
có thể thoát khỏi tình trạng dã man bằng một hành động dã man, rằng cái ác
là cái đầu tiên bước vào lịch sử, tức là chế độ chiếm hữu nô lệ, mà ở đó đại
bộ phận dân cư không có quyền lợi gì, ngay cả quyền tự do thân thể. Họ
không được coi là con người, chỉ được coi là “công cụ biết nói”, là “vật sở
hữu” của chủ nô”. Tuy nhiên, các nhà kinh điển lại khẳng định rằng, nếu
không có chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Tây thời cổ đại thì cũng không
thể có được chủ nghĩa tư bản trong xã hội hiện đại.
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp thì khi xem xét thiện, ác chúng ta
còn phải gắn liền với quan điểm giai cấp, bởi các giai cấp khác nhau có quan
niệm khác nhau về thiện, ác. Các giai cấp thống trị quan niệm thiện chính là
sự khuất phục người khác, giai cấp khác, bắt họ phải phục tùng, lệ thuộc vào
mình. Còn các giai cấp bị trị lại quan niệm thiện là được giải phóng khỏi mọi
áp bức, bóc lột, là công bằng.
Cái thiện còn là sự thống nhất giữa mục đích và kết quả, động cơ và
phương tiện. Điều này giúp chúng ta nhận thức rõ bản chất thật của cái thiện.
Bởi trong cuộc sống của con người còn nhiều hiện tượng đạo đức giả và
những suy nghĩ bệnh hoạn, những thói bất lương, ngụy biện, cũng như sự
thiện tâm, thiện ý của những người có đạo đức không phải lúc nào cũng được
triển khai một cách thuận lợi, suôn sẻ trong thực tế. Nhiều khi gặp phải mâu
thuẫn giữa lòng tốt và khả năng thực hiện lòng tốt, giữa cái tất nhiên và cái
ngẫu nhiên. Chính vì thế sự thống nhất giữa mục đích, động cơ, phương tiện
và kết quả được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa động cơ và kết quả
như sau:
- Động cơ tốt dẫn đến kết quả tốt đó là thiện.
- Động cơ tốt dẫn đến kết quả xấu, đó không coi là ác.
- Động cơ xấu dẫn đến kết quả xấu, đó là ác.
- Động cơ xấu dẫn đến kết quả tốt, đó là ác.
Về nguyên tắc, động cơ xấu không thể dẫn đến kết quả tốt. Cái tốt ở
đây chỉ là ngẫu nhiên, nằm ngoài dự kiến, ngoài mục đích của chủ thể hành
động.
Như vậy, động cơ là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với
việc thực hiện hành vi đạo đức của con người, nó là cơ sở, là động lực chính
cho hành vi đạo đức. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy rằng cái thiện phải là
cái được thể hiện ra bên ngoài thông qua các hành động của con người, chứ
nếu mới chỉ dừng lại ở suy nghĩ, tư tưởng thì chưa thể được coi là thiện. Vì
vậy để vươn tới cái thiện, để sống thiện là cả một quá trình tu dưỡng, rèn
luyện, bồi đắp những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mỗi con người trong xã
một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng - đó là lòng tốt”. Điều đó chỉ ra rằng
lương thiện là một giá trị đạo đức hàng đầu, đi trước mọi giá trị chân chính và
cả những giá trị thẩm mĩ nữa.
Chương 5. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA ĐẠO ĐỨC MỚI
1. Vai trò của đạo đức mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm đạo đức mới
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức
xã hội chủ nghĩa, là đạo đức cộng sản theo nghĩa rộng. Xã hội loài người vận
động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên. Các
hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên cơ sở của các tất yếu kinh tế.
Phản ánh cái lôgíc kinh tế - xã hội đó, đạo đức cũng có lôgíc tương ứng, đạo
đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao là đạo đức xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.
Trả lời các câu hỏi: Có đạo đức cộng sản hay không? Có lí luận cộng
sản hay không? V.I. Lênin khẳng định rằng: “Tất nhiên là có. Người ta thường
bảo chúng ta không có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội
những người cộng sản chúng ta là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách
đánh lộn sòng các khái niệm làm công nhân và nông dân bị lầm lạc”.
V.I. Lênin nêu rõ rằng đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản; đạo đức là từ những lợi ích của đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra; là đạo đức nhằm đoàn kết những
người lao động chống mọi sự bóc lột. Vì vậy, "đối với một người cộng sản, tất
cả đạo đức là nằm trong cái kỉ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu
tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột... Đạo đức giúp xã hội loài
người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động”.
Theo phương pháp biện chứng mácxít: “Khi xem xét bất cứ một hiện
tượng xã hội nào trong quá trình phát triển của nó, thì bao giờ người ta cũng
tìm thấy trong đó những vết tích của quá khứ, những cơ sở của hiện tại và
những mầm mống của tương lai” thì đạo đức mới là kết quả của cuộc đấu
tranh chống lại cái cũ, cái lỗi thời để khẳng định cái mới. Trong mỗi hình thái
kinh tế - xã hội thường có những yếu tố của ba loại đạo đức: đạo đức cũ tồn
tại như là tàn dư, đạo đức hiện tại có địa vị thống trị và đạo đức mới là cái
đang lớn lên. Đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, thắng lợi của cái mới, cái tiến
bộ là quy luật khách quan của thế giới vật chất, của mọi sự phát triển nói
chung, của đạo đức nói riêng. Trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
thắng lợi, với sự xác lập địa vị thống trị của đạo đức xã hội chủ nghĩa, những
yếu tố của đạo đức tư sản trở thành tàn dư và quan hệ đạo đức cộng sản chủ
nghĩa ra đời trong lòng xã hội chủ nghĩa hoạt động chống lại những tàn dư
đạo đức tư sản.
Đồng thời với việc khẳng định đạo đức mới, chủ nghĩa Mác - Lênin phủ
định học thuyết đạo đức nhất thành bất biến, phủ định tính chất tiên thiên,
bẩm sinh của đạo đức, phủ định khả năng tồn tại của một nền đạo đức chung,
phi giai cấp trong xã hội có giai cấp. Bác bỏ cái gọi là “đạo đức do một bề trên
nào đó xác lập ở ngoài xã hội loài người”, V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Tất cả
những thứ đạo đức, xuất phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài
các giai cấp, chúng ta đều bác bỏ. Chúng ta cho rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối
trá, nhồi sọ công nhân và nông dân để mưu lợi ích riêng cho bọn địa chủ và
bọn tư sản”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thừa nhận tính giai cấp của đạo đức, khẳng định
những chuẩn mực đạo đức phát sinh và phát triển từ những điều kiện sinh
hoạt vật chất, đời sống vật chất của con người, từ thạc tiễn của đời sống xã
hội và một khi những điều kiện sinh hoạt vật chất và đời sống vật chất biến
đổi thì những chuẩn mực đạo đức cũng biến đổi theo. Chủ nghĩa Mác - Lênin
một mặt thừa nhận tính biến đổi lịch sử của đạo đức, mặt khác chứng minh
rằng, đạo đức của chủ nghĩa xã hội không xây dựng trên mảnh đất trống
không mà nó phải kế thừa những thành tựu đạo đức của các xã hội trước và
khắc phục những hạn chế đạo đức của các xã hội đó. Chính nền đạo đức xã
hội chủ nghĩa đã kế thừa, lĩnh hội và phát triển những yếu tố hợp lí trong đạo
đức đã được sáng tạo trong lịch sử hàng ngàn năm của những người lao
động. Đạo đức mới bao hàm những chuẩn mực đạo đức cơ bản, là sự tổng
kết lịch sử phát triển đạo đức của những người lao động, mục tiêu đạo đức
mới là tạo tiền đề hiện thực để con người phát triển hài hòa và phong phú.
Chủ nghĩa xã hội là hình thái vận động lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư
bản. Ở đó, lần đầu tiên đạo đức có tiền đề hiện thực phát triển tương hợp,
toàn diện, đồng đều với bản thân con người như chủ nhân của xã hội văn hoá
cao. Đấu tranh xóa bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, xây dựng xã
hội mới đó là sứ mệnh toàn thế giới của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cách mạng vô sản. Đây là lần đầu tiên và là lần cuối cùng đạo đức của
một giai cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm địa vị thống trị
trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó cũng là vũ khí tinh thần mạnh mẽ của
giai cấp công nhân sử dụng để xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó
thực hiện bước phủ định của phủ định; hoàn thành một vòng khâu phát triển
làm nên bước tiến bộ toàn diện của đạo đức.
Như vậy, khái niệm đạo đức mới là hoàn toàn mới trong lịch sử xã hội,
nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và giai cấp bóc lột khác. Nó cũng
khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ. Xét về bản chất và theo V.I.
Lênin, đạo đức mới là những gì góp phần đoàn kết tất cả những người lao
động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ
nghĩa.
1.2. Vai trò của đạo đức mới
Với thắng lợi bước đầu của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân xác lập
địa vị thống trị về chính trị của mình và dùng địa vị đó xác lập sự thống trị về
kinh tế, văn hoá và tư tưởng.
Đạo đức mới là sản phẩm tổng hợp của quá trình xây dựng xã hội mới,
cho nên mỗi bước thắng lợi của sự nghiệp xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa là mỗi bước khẳng định địa vị thống trị của giai cấp công nhân về kinh
tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá trong đó có đạo đức của nó. Đạo đức xã hội
chủ nghĩa dần dần khẳng định địa vị thống trị của mình trong đời sống đạo
đức xã hội, và là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong quá trình xây dựng xã hội mới.
V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Uy tín tinh thần lớn đạt được trong quá trình đấu
tranh có một ý nghĩa rất quan trọng, uy tín này không một người nào phủ
nhận được và sức mạnh của nó, tất nhiên, không phải là bắt nguồn từ đạo
đức trừu tượng mà là từ đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, đạo đức của
quần chúng cách mạng”. Cụ thể là:
Thứ nhất, các lí tưởng và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa là cơ sở
để các đảng mácxít và chính quyền nhà nước vô sản hoạch định chiến lược,
sách lược, chính sách kinh tế, chính trị và văn hoá - tư tưởng. Ở đây, đạo đức
và chính trị đều có chung một mục đích là khẳng định lợi ích của giai cấp
công nhân. Kết quả là đạo đức xã hội chủ nghĩa, theo một ý nghĩa nhất định,
nó vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp quyền.
Thứ hai, đạo đức xã hội chủ nghĩa đã nhân đạo hoá một cách phổ biến
mọi quan hệ xã hội nhờ tính phổ biến của các giá trị nhân đạo của mình. Dù
trong thời kì đấu tranh giành chính quyền hay trong thời kì xây dựng xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, hành vi của giai cấp vô sản đều nhằm mục đích
cao cả là giải phóng cả loài người. Bởi vì, với giai cấp vô sản, muốn giải
phóng mình phải giải phóng cả nhân loại; muốn một người được tự do thì mọi
người phải được tự do. Ở đây, nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất
về chính trị, tinh thần và đạo đức trong các giai cấp và tầng lớp xã hội là cơ
sở quy định tính phổ biến của các giá trị nhân đạo trong xã hội. Mặt khác, nội
dung nhân đạo của đạo đức xã hội chủ nghĩa còn là tư tưởng về con đường
và phương thức của sự khẳng định sự tồn tại, hạnh phúc và phát triển tự do
của con người.
Thứ ba, đạo đức xã hội chủ nghĩa xâm nhập vào các tầng lớp xã hội,
các lĩnh vực hoạt động xã hội tạo nên hai kết quả:
Một là, sự hoàn thiện cấu trúc đạo đức của cá nhân, các tập thể lao
động công tác và chiến đấu.
Hai là, sự điều chỉnh, điều tiết đạo đức có tính thống nhất trên phạm vi
toàn xã hội. Sự phản ánh, điều chỉnh đạo đức mang tính tự giác, tự nguyện,
tự do, thống nhất.
Ở đây, Đảng và Nhà nước vô sản là người giáo dục, động viên, lãnh
đạo toàn thể nhân dân lao động tham gia vào phong trào cách mạng. Và sự
phát triển của đạo đức mới mang tính tự giác có tổ chức, có kế hoạch và có
pháp lệnh. Điều đó đảm bảo cho các giá trị đạo đức mới tồn tại phổ biến trong
đời sống xã hội. Chỉ có đạo đức xã hội chủ nghĩa mới thực hiện được sự
đoàn kết những người lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ bọn áp bức để
xây dựng xã hội mới. “Chỉ có giai cấp vô sản mới có thể sáng tạo ra một sức
mạnh đoàn kết để lôi kéo theo nó giai cấp nông dân phân tán và tản mạn, sức
mạnh đó đã chống lại tất cả các cuộc tấn công của bọn bóc lột. Chỉ có giai
cấp đó mới có thể giúp quần chúng lao động đoàn kết nhau lại, thắt chặt hàng
ngũ, triệt để bảo vệ, triệt để củng cố, triệt để xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa”.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn và thử thách nghiêm
trọng. Thế giới quan và đạo đức tư sản đã ảnh hưởng khá rõ nét trong đời
sống tinh thần và đạo đức ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, trong quá
trình đổi mới cơ chế, do tác động của kinh tế thị trường, bên cạnh mặt tích
cực đã xuất hiện những hiện tượng “trượt dốc đạo đức”, “đánh mất giá trị”.
Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác, vừa phải
đấu tranh tự đổi mới, tự khẳng định vai trò của mình trong điểu kiện mới.
2. Những nguyên tắc của đạo đức mới
Nguyên tắc đạo đức không phải rút ra từ những lí thuyết đạo đức có
sẵn; ngược lại nó là kết quả của sự khái quát từ đời sống hiện thực, như
những nhu cầu đạo đức của xã hội. Vì thế, nội dung nguyên tắc đạo đức
không phải là vĩnh viễn không thay đổi mà vận động cùng với quá trình phát
triển của lịch sử.
Nguyên tắc đạo đức trong những xã hội có giai cấp bao giờ cũng có
tính chất giai cấp. Nó không chỉ phản ánh những quan hệ vật chất xã hội mà
còn phản ánh quan điểm giai cấp của xã hội đó.
Nội dung các nguyên tắc của đạo đức mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa)
mang tính khách quan, được quy định bởi địa vị và vai trò của giai cấp vô sản
trong nền sản xuất vật chất xã hội, bởi bản chất cách mạng và nhân đạo của
giai cấp vô sản. Đây là những chuẩn mực khuyến khích, định hướng, căn bản
cho đạo đức xã hội chủ nghĩa, do đó chúng đòi hỏi cao đối với chủ thể đạo
đức. Trong thực tiễn đạo đức, các chủ thể phải nhận thức một cách sâu sắc,
nỗ lực vươn lên để đáp ứng những đòi hỏi của chúng, các nguyên tắc đạo
đức mới chẳng những là nhu cầu khách quan của tiến trình lịch sử, là yêu cầu
đối với toàn xã hội mà còn là trách nhiệm đạo đức của mỗi người trước lợi ích
chung của sự tiến bộ xã hội. Ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản, khi cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chuyển từ tự phát sang tự giác thì tư tưởng về
những nguyên tắc đạo đức mới đã xuất hiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi giai cấp
vô sản thiết lập được chính quyền thì nội dung của những nguyên tắc đạo
đức mới mới được xác lập một cách vững chắc và trở thành nguyên tắc đạo
đức chung của toàn xã hội. Đạo đức mới có những nguyên tắc cơ bản sau:
2.1. Chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới
Tập thể là một cộng đồng người (một nhóm người) được tổ chức trên
cơ sở phân công và hợp tác với nhau, cùng hoạt động nhằm mục đích chung,
qua đó đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho từng thành viên trong cộng đồng và
cho xã hội.
Một tập thể chân chính phải có đặc trưng sau:
- Mục đích đúng đắn, nghĩa là lợi ích tập thể thống nhất với lợi ích xã
hội. Không ai gọi một băng cướp, một tổ chức mafia với hoạt động phi nghĩa
của chúng là một tập thể cả.
- Phải có tổ chức nhất định và bộ máy thực sự hoạt động. Nếu bộ máy
tê liệt, các thành viên không hoạt động (hoặc mạnh ai nấy làm) thì thực chất
không còn là tập thể nữa.
- Các lợi ích của tập thể, cá nhân, xã hội phải được tôn trọng và phải
được xử lí một cách hài hoà. Khi gặp mâu thuẫn, xung đột thì thứ tự phải
được sắp xếp ưu tiên: lợi ích xã hội - lợi ích cộng đồng (tập thể) - lợi ích cá
nhân.
Tính tập thể, tính cộng đồng người xuất hiện rất sớm, do nhu cầu lao
động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Và chính lao động, nhờ
lao động mà con người càng ngày càng phát triển, hoạt động của con người
càng phong phú. Bởi vì, lao động sản xuất - cơ sở của tồn tại xã hội, chỉ có
thể diễn ra trong những quan hệ xã hội nhất định. Trong quá trình sản xuất,
con người chẳng những dựa trên những quan hệ có sẵn, do các giai đoạn
trước để lại, mà hơn nữa còn làm phong phú những quan hệ ấy và mở ra
những quan hệ mới ngày càng đa dạng và sâu sắc hơn. Quá trình đó cũng
đồng thời là quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Như vậy,
hoạt động của con người càng phong phú, quan hệ xã hội của họ càng mở
rộng và sâu sắc, thì nhân cách của họ càng hoàn chỉnh. Vì thế, con người
vừa là chủ thể xã hội, đồng thời, với tư cách ấy họ vừa là sản phẩm xã hội.
Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt động cộng
đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt động độc lập, có tính
chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một giá trị cao đẹp,
được coi như là một triết lí sống, một nguyên tắc sống thì phát triển thành chủ
nghĩa tập thể.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những lí
tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tính đồng chí, tinh
thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho
các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và trung tâm của
đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà còn
vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn
nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để cho
các cá nhân phát triển.
Chủ nghĩa tập thể là kết quả của sự phát triển quy luật của lịch sử loài
người. Quan hệ đạo đức cũng như các quan hệ khác, nó phát triển qua từng
giai đoạn lịch sử, mỗi giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải có kiểu người thích hợp
với nó. Phương thức sản xuất là ngọn nguồn của mỗi kiểu đạo đức và tính
tồn tại trong lịch sử.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để, sự thay đổi
các điều kiện kinh tế - xã hội một cách căn bản và tiến bộ đã dẫn đến sự thay
đổi các mặt trong đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hội đem lại giá trị của con
người trả lại cho con người, coi con người là mục đích cao nhất. Ở đây, biểu
hiện quan hệ cá nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thống nhất
với nhau. Nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa tập thể là “mình vì mọi người và
mọi người vì mình”. Quan hệ giữa người với người trong tập thể là quan hệ
tình đồng chí giữa các cá nhân có mục tiêu chung là sự phát triển cá nhân
làm tiền đề, sự phát triển tự do, toàn diện của con người là mục đích, sự phát
triển tự do cho cá nhân mỗi người là điều kiện phát triển tự do cho mọi người.
Vì thế, nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất. Những tập thể anh
hùng trong chiến đấu, lao động, sáng tạo là biểu tượng tốt đẹp của chủ nghĩa
tập thể. Tuy nhiên, ngay trong những tập thể ấy, không phải mọi thành viên
đều phát triển như nhau, không phải mọi lợi ích cá nhân đều nhất trí hoàn
toàn với lợi ích tập thể mà vẫn có sự khác biệt, đòi hỏi cần phải có sự điều
chỉnh để đảm bảo sự phát triển của tập thể và cá nhân.
Khi giải quyết những sự khác biệt giữa cá nhân và tập thể như vậy,
nguyên tắc đạo đức đòi hỏi các cá nhân phải đặt lợi ích của tập thể lên trên
lợi ích của cá nhân. Nhưng nguyên tắc ấy cũng đòi hỏi tập thể phải luôn luôn
chú ý tôn trọng lợi ích chân chính của cá nhân bằng cách chăm sóc, bồi
dưỡng để lợi ích cá nhân vươn lên và hòa vào lợi ích tập thể. Mọi hành vi
xâm phạm đến nhân cách cá nhân, đối xử thô bạo với các lợi ích cá nhân đều
trái với nguyên tắc chủ nghĩa tập thể. Bởi vì xét đến cùng, trong những tập
thể tốt đẹp, lợi ích tập thể chính là sự phản ánh dưới hình thái tập thể, hình
thái xã hội, lợi ích cao nhất của tất cả các cá nhân thành viên.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa phường hội vì chủ nghĩa phường hội chẳng qua chỉ là sự biến tướng
của chủ nghĩa cá nhân. Biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân không chỉ dừng
lại ở việc giáo dục cá nhân mà điều quan trọng là phải xây dựng những tập
thể thực sự tốt đẹp. Ở đâu tập thể tốt thì ở đó chủ nghĩa cá nhân ít có điểu
kiện nảy nở. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn nhắc nhở cán bộ và
nhân dân ta phải nâng cao tinh thần tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân. Theo
Người, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mọi người chúng ta phải
luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt, về bản chất của chủ nghĩa
cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ rằng: “Cái gì trái với đạo đức cách
mạng đều là chủ nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu,
thiên hình vạn trạng, như lười biếng, ngại khó khăn, gian khổ; tranh việc dễ về
mình, đẩy việc khó cho người; sống tranh công, đổ lỗi, sa đọa, hủ hóa, suy
tính tiền đồ, dĩ hòa vi quý, trung dung trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm;
nịnh hót cấp trên, dọa nạt cấp dưới, đòi hỏi đãi ngộ, công thần địa vị. Biện
pháp chống chủ nghĩa cá nhân không chỉ dừng lại ở việc giáo dục cá nhân
mà điều quan trọng là phải xây dựng những tập thể thực sự tốt đẹp. Bởi vì,
chỉ có tập thể tốt đẹp mới tạo điều kiện cho con người kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội Người nêu rõ rằng: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng
cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt
được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản
phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ
dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Người cũng nhấn mạnh, chống chủ nghĩa cá
nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, phải kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức, chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không
“giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng để
nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng điều đó lại không đơn giản chút nào. Bởi
lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân con người sẽ dễ sa vào chủ nghĩa cá
nhân, và ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ “giày xéo”
lên lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn tới kết
quả là cản trở sự nghiệp giải phóng cá nhân, khó thực hiện mục tiêu đem lại
tự do, hạnh phúc cho mỗi cá nhân con người trong chế độ xã hội mới - xã hội
chủ nghĩa.
Cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa tập thể ngày càng giữ vai trò quan trọng, chỉ đạo mọi suy nghĩ và
hành động của con người.
2.2. Lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, “là lực lượng bản chất
của con người”, dùng để cải biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với
nhu cầu, lợi ích của con người, vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Động vật tồn tại nhờ vào những thứ sẵn có trong tự nhiên. Trái lại, con
người vì cuộc sống của mình mà phải tiến hành lao động sản xuất, chủ động
biến đổi giới tự nhiên theo hướng thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của
bản thân. Rõ ràng, lao động là hoạt động đặc trưng của con người. Nếu
không có lao động thì con người không thể tồn tại được: “Có thể phân biệt
con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái
gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là
một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình”.
Trong cuộc sống, người ta có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của
mình. Chẳng hạn: lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp đạo đức, có
tinh thần và xã hội phát triển cao, lành mạnh, thực hiện tốt các chuẩn mực
đạo đức..., thái độ đối với lao động. Trong đó thái độ đối với lao động là thước
đo quan trọng, bởi vì, căn cứ vào nó mà ta đánh giá con người đó lao động
nghiêm túc, trung thực, có trách nhiệm, hay dối trá, qua quýt, tiết kiệm hay
hoang phí. Và người lao động chỉ được kính trọng khi có thái độ lao động
đúng đắn, biểu hiện cụ thể là:
- Lao động cần cù, khoa học, sáng tạo; lao động có năng suất, chất
lượng, hiệu quả.
- Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí.
- Coi trọng lao động trí óc và lao động chân tay.
- Yêu quý lao động của mình, lao động của người khác.
Xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều của cải
vật chất, do đó người lao động phải lao động một cách nhiệt tình, sáng tạo với
năng suất, chất lượng cao. Theo V.I. Lênin, chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ chỗ
nào mà những công nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hi sinh
và không quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn
đề mà V.I. Lênin cho là quan trọng nhất, căn bản nhất cho thắng lợi của chế
độ mới.
Khi so sánh nhiệm vụ chiến đấu để đánh đổ chế độ cũ với nhiệm vụ lao
động để xây dựng xã hội mới, V.I. Lênin cho rằng, nhiệm vụ thứ hai - nhiệm
vụ lao động để xây dựng xã hội mới - khó hơn nhiều, vì nhiệm vụ này không
thể giải quyết nhất thời, một hành động nhất thời mà đòi hỏi phải có một tình
cảm lâu dài nhất, bền bỉ nhất, khó khăn nhất của công tác quần chúng hàng
ngày.
Thái độ lao động tự giác, có kỉ luật, lao động sáng tạo thể hiện bản chất
con người lao động cho xã hội, cho mình, mà mình làm chủ. Đạo đức của con
người trước hết được thẩm định bằng thái độ lao động, hiệu quả lao động,
đóng góp của họ đối với xã hội, lời nói đi đôi với việc làm, động cơ và hiệu
quả. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém
hiệu quả và vụ lợi. Chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa trừu tượng trong việc
đánh giá đạo đức con người, một lối đánh giá tách rời lí tưởng với hiện thực
cần được phê phán.
2.3. Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước
mình (Tổ quốc). Lòng yêu nước không phải là đặc trưng riêng của một dân
tộc nào. Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước, dân
tộc mình. Mọi người đều có quyền yêu cội nguồn, quê hương, dân tộc mình
(ngôn ngữ, văn hoá, tập quán dân tộc...) và đất nước mình. Đây là một thuộc
tính tự nhiên có ý nghĩa phổ biến.
Gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi ghi đậm những ấn tượng
vui buồn của tuổi ấu thơ là một nét tình cảm và tâm lí phổ biến của con ngưòi.
Do đó, dù chốn quê hương có là đồng khô cỏ cháy, nắng trải mưa dầm, nó
vẫn có sức gợi nhớ, sức lay động của những gì ẩn kín tận đáy tâm hồn mỗi
người. Người nào cũng tìm thấy nét tự hào về quê hương của mình. Song,
niềm tự hào chính đáng nhất, cao cả nhất, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhất là tự
hào về truyền thống dân tộc. Chính lòng tự hào đó đem lại cho tình yêu Tổ
quốc một nội dung phong phú, sâu sắc ở mỗi con người.
Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lí nhân sinh, triết lí xã
hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối một
cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ nghĩa
yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với
Tổ quốc và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Chủ
nghĩa yêu nước theo V.I. Lênin “là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã
được củng cố qua hàng trăm nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập”.
Chủ nghĩa yêu nước có quá trình phát triển lâu dài, có tính lịch sử và
trong xã hội có giai cấp nó mang tính giai cấp. Yêu nước theo quan niệm của
giai cấp phong kiến là trung quân (trung với vua); yêu nước theo quan niệm
của giai cấp tư sản là yêu chế độ tư bản. Chủ nghĩa yêu nước tư sản chứa
đựng trong lòng nó tính bản vị dân tộc và tham vọng thống trị các dân tộc
khác, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Chính vì thế cái gọi là lợi ích
dân tộc mà giai cấp tư sản vẫn thường tuyên truyền chẳng qua thực chất chỉ
là lợi ích riêng, ích kỉ của bản thân giai cấp tư sản. Yêu nước trên lập trường
giai cấp công nhân khác hẳn vể chất với quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội
dung của nó được thể hiện như sau:
- Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, yêu nhân dân lao động. Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là Tổ quốc của nhân dân, chứ không là tài sản của riêng cá
nhân nào. Yêu nước xã hội chủ nghĩa đó là niềm tự hào của dân tộc, lòng tự
hào về sức sáng tạo trong lao động sản xuất, lòng tự hào về những gương
anh hùng bất khuất bảo vệ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, là tinh thần xả
thân vì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, tự do của Tổ
quốc. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với
lợi ích của nhân dân lao động, gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao
động khỏi mọi áp bức bóc lột, nâng cao phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá,
làm cho người lao động làm chủ thực sự đất nước.
- Yêu nước trên lập trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai
cấp công nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn
thế giới khỏi mọi xiềng xích áp bức, bóc lột của kẻ thống trị. Thực tế lịch sử
cho thấy, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế có quan hệ hữu cơ
không thể tách rời. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc phải làm
tốt nhiệm vụ quốc tế. Đồng thời, làm nhiệm vụ quốc tế cũng là để góp phần
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng dân tộc. Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới.
Đây không chỉ là một nguyên tắc chính trị giữa các dân tộc mà là nguyên tắc
đạo đức mới. Ở đây, đòi hỏi phải chú ý những vấn đề sau:
+ Trong khi bảo vệ độc lập về lãnh thổ, kinh tế, chính trị và văn hoá của
dân tộc mình, thì cũng phải trân trọng dân tộc khác, trân trọng nền độc lập
của họ. Cần chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đồng thời chống chủ nghĩa
“nước lớn”, chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức và tạo nên sự bình đẳng
dân tộc mà thực chất là bình đẳng giữa những người lao động sống ở những
quốc gia khác nhau.
+ Yêu Tổ quốc, nhân dân mình đồng thời yêu nhân dân lao động của
dân tộc khác. Chống lại mọi thành kiến dân tộc, kì thị và phân biệt chủng tộc.
+ Lao động, chiến đấu, hoạt động với tinh thần đạo đức cộng sản để
bảo vệ, xây dựng Tổ quốc mình và đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ tích cực đối với
phong trào công nhân, phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới.
+ Chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản là hai thế giới
quan đối lập, là hai chính sách đối lập về vấn để dân tộc, Đồng thời, đó cũng
là hai nguyên tắc đạo đức đối lập giữa dân tộc này với dân tộc khác và giữa
nhân dân các nước. Nếu nguyên tắc dân tộc chủ nghĩa biểu thị sự thù hằn và
ghen ghét giữa nhân dân các dân tộc, thì nguyên tắc quốc tế chủ nghĩa lại đòi
hỏi giữa người với người hoặc giữa nhân dân các dân tộc này với các dân tộc
khác đều phải có quan hệ chân chính hợp với nhân tính. Đây là một nguyên
tắc nổi nên tính chất đạo đức chân chính của con người, là đặc trưng không
thể thiếu được của đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã luôn
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, Đảng ta đã
sử dụng, phát huy được sức mạnh tổng hợp của thời đại và sức mạnh của
dân tộc để đánh bại mọi kẻ thù, giữ vững nền độc lập tự do Tổ quốc.
2.4. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa nhân đạo, tiếng Latinh là Humanus, có nghĩa là thuộc về con
người, về tính người, có học thức. Thái độ tốt và tình yêu đối với người lương
thiện và chân chính là chủ nghĩa nhân đạo.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu tư tưởng của thời
đại Phục hưng, gắn với việc nghiên cứu các di sản cổ đại trong triết học, luân
lí học, nghệ thuật và mô tả đặc điểm của nền văn hoá thời kì Phục hưng.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là
tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự
phát triển toàn diện, bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.
Ngay từ xa xưa, những tư tưởng nhân đạo của nhân dân lao động đã
hình thành một cách tự phát trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và
chống lại những hành vi vi phạm đạo đức. Chủ nghĩa nhân đạo chỉ được hình
thành rõ nét từ phong trào Phục hưng văn hoá thế kỉ XV - XVI ở Italia. Các đại
biểu tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên, đòi hỏi giải phóng con người, đòi
hỏi tự do, bình đẳng, bác ái cho con người, những tư tưởng nhân đạo chủ
nghĩa thời Phục hưng được các nhà Khai sáng thế kỉ XVIII và sau đó là
những tư tưởng gia tư sản tiến bộ thế kỉ XIX tiếp thu. Đó là những tư tưởng
tiến bộ phù hợp với yêu cầu của quần chúng đông đảo, vì thế nó trở thành
ngọn cờ tư tưởng của cách mạng tư sản.
Như vậy, trước C. Mác tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa đã hình thành ra
hai xu hướng chính:
Thứ nhất, chủ nghĩa nhân đạo của các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ thế
kỉ XVII - XVIII dựa trên cơ sở vật chất là chế độ tư hữu, cơ sở đạo đức là chủ
nghĩa cá nhân. Xu hướng này biểu hiện lợi ích và hệ tư tưởng của giai cấp tư
sản đang lên, tiến tới nắm chính quyền.
Thứ hai, gắn với chủ nghĩa xã hội không tưởng là chủ nghĩa nhân đạo
biểu hiện lợi ích của những người lao động, những người nông dân, công
nhân, kể cả “giai cấp bình dân” thành thị. Họ chống lại hệ tư tưởng phong
kiến và giáo quyền, bảo vệ lợi ích cá nhân. Nhưng trọng tâm chú ý của họ là
vấn đề các hình thức giao tiếp và liên hệ giữa người với người. Họ phê phán
mọi khuynh hướng phản nhân đạo của xã hội, chỉ trích những khuyết tật của
chính xã hội hiện tồn, đề ra yêu cầu mọi người bình đẳng về tài sản, đối lập
một chế độ xã hội công bằng. Phuriê và các nhà không tưởng khác phủ nhận
việc giải quyết các đối kháng giai cấp bằng phương pháp cách mạng.
Hai khuynh hướng này tuy có khác nhau nhưng quan hệ với nhau, để
chống phong kiến, chống giáo hội. Song, cả hai khuynh hướng này đều có
nhược điểm chung là: trừu tượng, kêu gọi tình thương chung chung và không
thể thực hiện được trong thực tế.
Để giải phóng con người khỏi những hạn chế đạo đức tư sản, để thiết
lập lại các giá trị đạo đức mới trong thế giới con người, suốt cả thế kỉ XX,
nhân loại đã tiến hành các cuộc đấu tranh rộng lớn giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Các phong trào ấy bao chứa các giải pháp
đạo đức của mục tiêu xóa bỏ các hạn chế tư sản nhằm thiết lập các giá trị
đạo đức mới. Mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội có nội dung xuyên suốt là giải phóng con người. Giải phóng sự áp bức
giai cấp là để giải phóng các hạn chế tư sản trong phương thức tiến hành tổ
chức lao động bằng cách người này đi áp bức, bóc lột người khác trong xã
hội. Giải phóng dân tộc, thủ tiêu chế độ thực dân là để giải phóng con người
ở các dân tộc mà giai cấp tư sản đã ngang nhiên dưới chiêu bài khai hóa để
đè nén, áp bức bóc lột, làm ngu dân hóa hàng tỉ con người trên hành tinh này.
Giải phóng xã hội là nấc thang giải phóng con người cao nhất, là nấc thang
khắc phục toàn diện các hạn chế đạo đức của con người, phát triển toàn diện
con người, mang các giá trị thật của con người để trả lại cho con người. Ba
cuộc giải phóng đó là ba cuộc giải phóng vĩ đại, cũng là mục tiêu đạo đức
trong sự phát triển xã hội. Ba cuộc giải phóng đó gắn bó chặt chẽ với nhau
trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Và, chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có thể khắc phục được các hạn chế của đạo đức tư sản
trong hành trình con người tìm kiếm mục tiêu văn hoá nhân đạo cho sự phát
triển xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa cộng sản mới có
điều kiện phát huy toàn diện năng lực bản chất của con người, tự do, nhu
cầu, khát vọng, năng khiếu của con người, C. Mác viết rằng: “Trong chủ nghĩa
xã hội sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Đối lập với chủ nghĩa nhân đạo tư sản là chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và phát triển
trên quan điểm biện chứng những tinh hoa lí tưởng nhân đạo trong lịch sử
nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc đạo đức
mới thể hiện tình thương yêu sâu sắc của con người đối với con người. Đó là
tình thương yêu, kính trọng đối với những phẩm giá con người và sự tận tụy
phục vụ lợi ích con người, làm cho những lí tưởng cao đẹp nhất của họ về tự
do, hạnh phúc trở thành hiện thực của đời sống. Đây là chủ nghĩa nhân đạo
“có tính chất hiện thực và trực tiếp nhằm vào hành động, nhằm giải phóng
con người chứ không phải chỉ là những cảm nhận thương xót về thân phận
con người”. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là nội dung
cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo đức, của luân lí là lòng nhân ái”.
Như vậy, xét về bản chất, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là lí
tưởng nhân đạo triệt để, là giải pháp thực tế nhất, biến mong ước nhân đạo
thành hiện thực phổ biến, tạo lập điều kiện xoá bỏ tận gốc mọi hình thức áp
bức, bóc lột và nô dịch con người. Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa
nhân đạo triệt để, là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
Cần chú ý là, chủ nghĩa nhân đạo mácxít đề cập đến tình yêu thương
con người, thì đồng thời tỏ rõ thái độ phẫn nộ với những thế lực đối địch của
con người. Chủ nghĩa nhân đạo ở đây mang tính lịch sử cụ thể, nghĩa là mỗi
thời đại, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp đều đưa vào chủ nghĩa nhân đạo những
nội dung phù hợp với mình.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa khác hoàn toàn về chất so với
chủ nghĩa nhân đạo tư sản vì:
- Thứ nhất, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện,
triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc lột trong xã hội; mọi
người đều được tự do, được thực hiện đầy đủ quyền làm người. Đây là chủ
nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là chủ nghĩa nhân đạo
hoàn bị nhất trong lịch sử.
- Thứ hai, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là ước mơ, là
sự mong muốn mà đang từng bước trở thành hiện thực trong mọi hoạt động
của Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi con người phải không ngừng học tập để nâng cao giác ngộ xã
hội chủ nghĩa, phải rèn luyện mình trong thực tiễn đấu tranh cách mạng nhằm
cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, trọng lẽ phải, tình thương. Chủ
nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa phải trở thành hạt nhân của đạo đức mới,
phải trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi quan hệ xã hội của con người mới.
3. Tính quy luật của sự hình thành đạo đức mới
3.1. Đạo đức mới bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng
Xét về mặt lịch sử, đạo đức mới đã xuất hiện, tồn tại và phát triển trước
tồn tại xã hội xã hội chủ nghĩa, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của
mình. Khi xác lập được chính quyền và nền chuyên chính của mình, giai cấp
công nhân lãnh đạo xã hội xây dựng nền kinh tế mới, một cơ cấu xã hội - giai
cấp mới, một đời sống văn hoá - tinh thần mới có tính xã hội chủ nghĩa. Đây
là cơ sở kinh tế - xã hội - giai cấp và tinh thần bền vững cho sự phát triển đạo
đức mới. Như vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức mới
hình thành và phát triển từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản và ngày
càng trở thành đạo đức chung của nhân dân, và trong tương lai sẽ trở thành
đạo đức chung của nhân loại - đó là đạo đức cộng sản. Để có được đạo đức
mới, đạo đức cộng sản theo nghĩa rộng phải trải qua các giai đoạn phát triển
nhau sau:
- Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản.
- Đạo đức xã hội chủ nghĩa.
- Đạo đức cộng sản.
Như vậy, đạo đức xã hội chủ nghĩa chỉ là một giai đoạn trong sự hình
thành đạo đức cộng sản.
Bản chất nhân đạo của đạo đức xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất
nhân đạo của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa quy định, đồng thời nó là kết quả
của quá trình hình thành và phát triển của xã hội mới và con người mới. Đây
là giai đoạn triển khai, phổ biến của đạo đức xã hội chủ nghĩa trên quy mô
toàn xã hội.
Đạo đức cộng sản, theo nghĩa hẹp là đạo đức mới được phát triển cao
nhất trong lịch sử.
3.2. Đạo đức mới là sản phẩm tổng hợp của quá trình xây dựng xã hội
Đời sống xã hội sản sinh ra đạo đức, quyết định nội dung và khuynh
hướng phát triển của đạo đức. Quá trình xây dựng xã hội mới cũng là quá
trình hình thành và phát triển của đạo đức mới. Điều đó được thể hiện như
sau:
Thứ nhất, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là cơ sở kinh tế của đạo đức
mới. Khác với mọi nền sản xuất khác, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa có mục
đích cao nhất là lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động. Nó tạo ra sự
công bằng trong hưởng thụ và sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội. Nó từng bước giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động về
mặt kinh tế và theo nghĩa đó, nó mang tính nhân đạo cao cả. Nền sản xuất xã
hội chủ nghĩa càng phát triển bao nhiêu thì đạo đức mới càng nhân đạo bấy
nhiêu. Đạo đức mới vận hành, phát triển và hoàn thiện một cách vững chắc
trên cơ sở kinh tế của nó.
Thứ hai, quan hệ bình đẳng giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa là cơ sở xã hội - giai cấp của đạo đức
mới. Do có sự thay đổi căn bản của cơ cấu kinh tế nên cơ cấu xã hội - giai
cấp có sự thay đổi theo, ở đây, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng
lớp trí thức và tầng lớp lao động khác đã được giải phóng, họ trở thành chủ
thể của mọi quá trình phát triển xã hội, là nguồn sáng tạo chân chính. Đó là
cơ sở trực tiếp quyết định hiệu quả phản ánh và điều chỉnh đạo đức mới dựa
trên sự thống nhất về lợi ích của các chủ thể, các giai cấp, các tầng lớp trong
xã hội.
Thứ ba, nền văn hoá tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa là cơ sở tinh
thần của đạo đức mới. Đảng và Nhà nước vô sản quan tâm đặc biệt đến giáo
dục chính trị - đạo đức trong phạm vi toàn xã hội. Điều đó được thể hiện rõ
trong đường lối, chính sách và các biện pháp giáo dục con người mới nói
chung, đạo đức mới nói riêng. Khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa luôn
tác động tích cực đến đời sống đạo đức bằng cách làm phong phú nội dung
đạo đức mới, nâng cao sự phản ánh, điều chỉnh của đạo đức mới lên trình độ
ngày càng cao hơn. Do đó, nó giúp con người điều chỉnh đời sống đạo đức
trong phạm vi xã hội, vận hành đúng quy luật, phù hợp với lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Khoa học còn là phương tiện hữu hiệu để
giáo dục đạo đức mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nghệ thuật có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần nói chung, đời sống
đạo đức nói riêng, khi nó thực hiện chức năng giáo dục của mình. Trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, sự phát triển, hoàn thiện nên nghệ thuật không nhằm
mục đích tự thân mà là nhằm xây dựng con người mới, đạo đức mới.
Nhu vậy, cơ sở kinh tế - xã hội quyết định nội dung của đạo đức mới,
bảo đảm sự tồn tại vững chắc của nó. Cơ sở tinh thân làm phong phú nội
dung và hoàn thiện cấu trúc của đạo đức mới. Nó tồn tại như công cụ,
phương tiện giáo dục và hoàn thiện đạo đức mới. Chính xã hội xã hội chủ
nghĩa mới tạo ra những tiền đề kinh tế và chính trị cho sự khẳng định và
thắng lợi trọn vẹn của đạo đức mới.
3.3. Đạo đức mới là sản phẩm được hình thành một cách tự giác, là kết quả của giáo dục và tự giáo dục
Giáo dục có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách. Nhờ có giáo dục đạo đức mới dần dần được phát triển
và hoàn thiện trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội, trở thành yếu tố phổ
biến, thống trị trong đời sống xã hội. Quá trình giáo dục đạo đức mới cần chú
ý tuân theo một số yêu cầu sau:
Một là, cùng với việc đổi mới các quan hệ xã hội, việc giáo dục ý thức
đạo đức xã hội chủ nghĩa có một ý nghĩa đặc biệt. Đó cũng là quá trình giáo
dục tổng hợp, bao gồm giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm
mĩ, giáo dục văn hoá, giáo dục lao động... và chúng luôn gắn bó với nhau.
Hai là, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa phải là một quá trình thống
nhất giữa lí luận và thực tiễn, quá trình hình thành thế giới tinh thần cao đẹp
và hoạt động thực tiễn phong phú.
Ba là, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa giáo
dục và tự giáo dục. Quá trình tự giáo dục là sự tiếp tục giáo dục đạo đức ở
chủ thể, là mặt bên trong, nội tâm của quá trình giáo dục đạo đức do xã hội
thực hiện đối với mỗi cá nhân. Sự tự giáo dục biểu hiện tính tích cực của ý
thức, khi bản thân ý thức trở thành nguyên nhân tác động. Đó cũng là quá
trình con người tự phán xử, tự giáo dục, tự điều chỉnh và làm cho lương tâm
trong sạch. Những tri thức về đạo đức trở thành đối tượng của những rung
cảm sâu lắng, trở thành những nội dung cơ bản của sự vận động nội tâm của
đối tượng giáo dục. Chính điều đó đòi hỏi quá trình giáo dục phải kết hợp chặt
chẽ với quá trình tự giáo dục.
Chương 6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI
Ngày nay, vấn đề kinh tế thị trường có cần thiết hay không đã có câu
trả lời khẳng định, ở những trình độ khác nhau và với những tính chất khác
nhau, kinh tế thị trường đang được thực hiện trên phạm vi toàn thế giới. Ưu
thế của kinh tế thị trường đối với tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tiến bộ khoa
học - công nghệ, tạo ra những điều kiện vật chất, những tiện nghi cho đời
sống và sự phát triển con người là hiển nhiên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tự
nó không thể giải quyết được mọi vấn đề của phát triển. Bên cạnh những ưu
thế trên, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề nan giải, nhiều
nghịch lí liên quan đến tiến bộ xã hội và sự phát triển con người, đặc biệt là
sự phát triển đạo đức.
Cho đến nay, sự đánh giá kinh tế thị trường về mặt đạo đức vẫn chưa
có được một tiếng nói chung, thống nhất. Tuy vậy, điểm gặp gỡ của những
tìm tòi về mặt lí luận là làm sao cho kinh tế thị trường không chỉ là nhân tố của
tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện của tiến bộ đạo đức.
Với tư cách là cơ sở vật chất của xã hội, kinh tế thị trường tác động và
làm biến đổi các lĩnh vực hoạt động, các quan hệ giữa con người và con
người cũng như giữa con người và tự nhiên.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động khoa học - công nghệ trở
nên năng động hơn bao giờ hết. Cũng như kinh tế thị trường và trong điều
kiện kinh tế thị trường, các thành tựu của khoa học - công nghệ vừa tác động
tích cực đến sự phát triển xã hội lại vừa gây ra những hậu quả khó lường đối
với sự phát triển nhân cách đạo đức. Lí giải tình trạng này và khắc phục tình
trạng này để khoa học - công nghệ thực sự trở thành biểu hiện sức mạnh bản
chất của con người đang là vấn đề thu hút sự quan tâm về mặt lí luận, đặc
biệt là từ góc độ đạo đức.
Kinh tế thị trường và tiến bộ khoa học - công nghệ là hai nhân tố căn
bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm gia tăng nhu cầu và khả năng khai thác
tự nhiên, dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi
trường, thậm chí có nguy cơ đe doạ cả sự sinh tồn của nhân loại. Để khắc
phục tình trạng này, từng dân tộc và cả nhân loại phải có những thay đổi cả
quan niệm và thái độ đối với tự nhiên, cả phương thức phát triển xã hội, cả lối
sống và đạo đức. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là vấn để của kinh tế
và công nghệ mà còn vấn đề của đạo đức.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề đặc trưng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hoá xã hội; chúng nảy sinh và gắn liền với quá trình hiện
đại hoá xã hội, vừa mang tính cấp bách, vừa tồn tại lâu dài, đòi hỏi phải liên
tục giải quyết trong suốt quá trình hiện đại hoá xã hội.
1. Kinh tế thị trường và đạo đức
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế với các quan hệ kinh tế,
hoạt động kinh tế được thực hiện thông qua thị trường; là nền kinh tế vận
động theo các quy luật thị trường trong đó, quy luật giá trị giữ vai trò chi phối
thông qua quan hệ cung - cầu trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường,
mặc dù có sự điều chỉnh nhất định từ phía nhà nước, song nhìn chung, các
hoạt động sản xuất, dịch vụ, trao đổi được quyết định trên thị trường. Với tư
cách là cơ sở vật chất của xã hội, kinh tế thị trường có quan hệ qua lại với
mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Trong quan hệ kinh tế thị trường và đạo
đức, hiện nổi lên hai vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài. Đó là
vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức và vấn đề vai trò của
đạo đức trong kinh tế thị trường.
1.1. Vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức
Tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức là hiện tượng rất đa
dạng và phức tạp. Bởi vậy, cho đến nay, vẫn tồn tại ba quan điểm khác nhau
về vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức.
- Quan điểm khẳng định tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với
đạo đức:
Những người theo quan điểm này cho rằng, hành vi đạo đức là hành vi
được đặc trưng bởi: tính tự chủ của động cơ, tính tự chủ của quyết định, tính
mục đích của hành vi và tính lợi tha của kết quả. Tính tự chủ của động cơ có
nghĩa là, động cơ đạo đức được biểu hiện trực tiếp, xuất phát từ nhu cầu bên
trong chủ thể, không chịu sự quy định từ bên ngoài. Tính tự chủ của quyết
định có nghĩa là, sự lựa chọn hành vi đạo đức là sự lựa chọn tự nguyện, chủ
thể tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tính mục đích của hành vi có
nghĩa là, hành vi đạo đức phải có mục đích đạo đức chứ không phải là
phương tiện, thủ đoạn nhằm mục đích khác bên ngoài đạo đức. Tính lợi tha
của kết quả chứng tỏ rằng hành vi đạo đức không nhằm mục đích thu lợi cá
nhân, đồng thời, là biểu hiện ra bên ngoài của tính tự chủ, tính tự chủ và tính
mục đích của hành vi đạo đức.
Trái với hành vi đạo đức, hành vi thị trường (tức là hành vi kinh tế trong
điều kiện kinh tế thị trường) trước hết là hành vi thực hiện lợi ích vật chất (lợi
ích kinh tế) của chủ thể với tư cách là pháp nhân kinh tế. Theo đuổi lợi ích tối
đa, gia tăng vô hạn lợi nhuận là nguyên tắc và là yêu cầu khách quan của
cạnh tranh thị trường. Điều đó có nghĩa là, trong giao dịch thị trường, mọi sự
đáp ứng yêu cầu của đối tác đều là thủ đoạn, phương tiện nhằm thu lợi cho
chủ thể; bởi thế, chúng chỉ là sự lựa chọn bất đắc đĩ, không phải là sự lựa
chọn xuất phát từ nhu cầu tự nguyện, từ thiện tâm của chủ thể hành vi. Chính
vì vậy, hành vi thị trường, về bản chất, là hành vi lợi kỉ và đối lập có tính loại
trừ với hành vi đạo đức. Vì vậy, việc chuyển sang kinh tế thị trường chỉ đáp
ứng được tính tất yếu, tính hợp lí vể mặt lịch sử; nhưng đổi lại, xã hội phải trả
giá bằng những xuống cấp nhất định về mặt đạo đức, chí ít là trong lĩnh vực
hoạt động kinh tế.
- Quan điểm khẳng định tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với
đạo đức:
Nếu những người khẳng định tác động tiêu cực của kinh tế thị trường
đối với đạo đức chỉ thừa nhận tính hợp lí về mặt lịch sử của kinh tế thị trường
thì những người khẳng định tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với
đạo đức không chỉ thừa nhận tính hợp lí về mặt lịch sử mà còn thừa nhận và
biện minh cho tính chính đáng về mặt đạo đức của kinh tế thị trường. Sự biện
minh này dựa trên tinh thần của chủ nghĩa vị lợi (utilitarianism)
Những người theo chủ nghĩa vị lợi cho rằng, có thể và cần thiết lượng
hoá hạnh phúc của con người, loài người. Hướng tới hạnh phúc, né tránh đau
khổ (bất hạnh) là bản tính của con người; vì vậy, nguyên tắc và tiêu chí cao
nhất cho đạo đức là hạnh phúc lớn nhất của số dân chúng đông đảo nhất.
Hạnh phúc đó được đảm bảo bằng tổng công lợi mà xã hội thu được. Điều đó
có nghĩa là, một hành vi hay một chế độ kinh tế cũng vậy, nếu góp phần nâng
cao tổng công lợi xã hội thì nó có tính chính đáng về mặt đạo đức. Kinh tế thị
trường là một chế độ kinh tế có ưu thế nhất trong việc huy động các nguồn
lực tự nhiên và xã hội để thúc đẩy sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất
và thu nhập xã hội.
Với cách nhìn nhận như vậy thì kinh tế thị trường tự nó đã chứa đựng
khả năng tác động một cách tích cực đối với đạo đức. Và những người theo
quan điểm này cho rằng, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức hiện nay ở
những xã hội mới bước vào kinh tế thị trường chẳng qua chỉ là hậu quả của
bước chuyển từ kinh tế tiền thị trường sang kinh tế thị trường, chỉ là hậu quả
của một cơ chế đang hình thành còn những khiếm khuyết nhất định. Khi cơ
chế thị trường được kiện toàn, nền kinh tế thị trường phát triển thì những
khiếm khuyết về đạo đức sẽ được khắc phục hoàn toàn.
- Quan điểm khẳng định kinh tế thị trường tác động có tính hai mặt đối
với đạo đức:
Theo quan điểm này, trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế có thể
xuất phát từ nhu cầu thoả mãn lợi ích của bản thân mà tiến hành kinh doanh.
Những nguyên tắc thị trường (được pháp chế hoá thành luật và những quy
định pháp quy) buộc họ phải trung thực trong kinh doanh, phải tôn trọng đối
tác, phải giữ chữ tín... Đồng thời, một tầm nhìn xa trông rộng cũng khiến họ
biết rằng, muốn có lợi ích lâu dài thì phải tuân thủ những nguyên tắc thị
trường. Hành vi của họ vừa chịu sự chế ước của pháp luật, vừa chịu sự chế
ước của tính tất yếu kinh tế nghĩa là của khát vọng thu lợi. Nếu chỉ dừng lại ở
sự chế ước này thì hành vi kinh tế hoàn toàn chỉ là hành vi kinh tế, nó chưa
mang tính đạo đức.
Nhưng một khi sự tuân thủ những nguyên tắc thị trường vượt quá giới
hạn cưỡng chế của ý chí, của lòng hám lợi thuần tuý mà trở thành nhu cầu
của con người tự thể hiện nghĩa vụ tinh thần, thì khi đó, hành vi kinh tế không
thuần tuý chỉ là hành vi kinh tế nữa, nó đã được điều tiết bởi nhu cầu, tình
cảm, quan niệm, chuẩn mực đạo đức..., mà trong trường hợp này, là đạo đức
kinh doanh.
Hơn nữa, cần thấy rằng, trong một cơ chế thị trường được kiện toàn,
hoàn thiện (cố nhiên với những mức độ nhất định) thì về cơ bản, những chế
định mang tính pháp luật sẽ khá chặt chẽ. Những người không tuân thủ các
nguyên tắc thị trường sẽ bị pháp luật đào thải khỏi quan hệ thị trường với tư
cách là chủ thể của hành vi kinh tế, hành vi thị trường.
Một cơ chế thị trường trưởng thành sẽ làm cho việc tuân thủ các
nguyên tắc thị trường trở thành thói quen, tập quán và do đó trở thành nhu
cầu bên trong của chủ thể kinh tế. Như thế, hành vi kinh tế không chỉ là hành
vi kinh tế nữa, nó đã đồng thời mang nội dung đạo đức và có thể được đánh
giá về mặt đạo đức. Các nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường cũng do vậy
mà được nâng lên thành các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức.
Như vậy, cơ chế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng làm cho hành
vi thị trường từ chỗ thuần tuý là hành vi mang tính tất yếu về mặt kinh tế
chuyển thành hành vi tự do về mặt đạo đức. Điều ấy cũng có nghĩa rằng, kinh
tế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng tác động một cách tích cực đến đạo
đức.
Ở nước ta, sau hơn 20 năm thực hiện cơ chế thị trường, “nhiều nét mới
trong giá trị đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực
công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích.
Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến
thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Tuy vậy, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
xác định: “Cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với chủ
nghĩa xã hội”.
Sở dĩ kinh tế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng tác động tiêu cực
đến đạo đức là vì:
Thứ nhất, chủ thể của kinh tế thị trường là các con người kinh tế; mà
con người kinh tế thì cứ có lợi ích kinh tế là nó hoạt động. Nếu không có mục
đích thu lợi cá nhân thì con người không tham gia vào các hoạt động, các
quan hệ thị trường. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường
cũng giả định sự trưởng thành của một nền pháp chế phổ biến làm cho lợi ích
cá nhân trong kinh tế thị trường trở thành lợi ích chính đáng, đảm bảo sự
công bằng kinh tế và công bằng xã hội tương ứng với trình độ phát triển của
kinh tế thị trường. Tuy vậy, phương thức tác động thông qua pháp luật đó chỉ
có tính chất kiềm chế từ bên ngoài. Sự hoạt động của nguyên tắc tối đa hoá
lợi ích cá nhân vẫn tạo ra xu thế vi phạm đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật
trong hoạt động kinh tế. Điều đó không chỉ cản trở sự phát triển của đạo đức
cá nhân trong lĩnh vực kinh tế mà còn có thể tạo ra xu thế khuyến khích chủ
nghĩa cá nhân trong tất cả các lĩnh vực hoạt động ngoài kinh tế của con
người.
Thứ hai, trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị của con người kinh tế
được đo bằng hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Giá trị ấy có xu thế trở
thành thước đo phổ biến của nhân cách. Đây chính là một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng một số giá trị đạo đức truyền thống
bị xem nhẹ, bị lãng quên trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, hoạt động của quy luật giá trị, của nguyên tắc tối đa hoá lợi ích
cá nhân khiến cho con người một khi đã tham gia vào quan hệ thị trường là
phải chấp nhận cạnh tranh. Trong cạnh tranh, con người luôn phải vượt lên
trên bản thân mình, khẳng định sự hiện diện của mình, vượt trội hơn người
khác. Điều đó có nghĩa là, con người không được thụ động trông chờ, ỷ lại,
không được bằng lòng với những gì đã có, mà luôn phải học hỏi, hành động,
nỗ lực vươn lên. Tuy vậy, bên cạnh ý nghĩa tích cực đó, cạnh tranh lại tạo ra
điều kiện cho sự nảy sinh và phát triển thói quen phô trương, hãnh tiến, tạo ra
một sự đối lập, một sự không phù hợp giữa giá trị đích thực của con người
với hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị đó. Thói kiêu căng, hợm mình
và những thói xấu đạo đức khác dễ xuất hiện.
Tuy vậy, kinh tế thị trường, tự nó chỉ bao chứa những khả năng, những
xu thế tác động đến đạo đức. Tác động thực tế và mức độ tác động của kinh
tế thị trường đối với đạo đức còn tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể, nhất
định. Những điều kiện đó là: truyền thống đạo đức của mỗi dân tộc, tính chủ
động và tích cực của các chủ thể xã hội trong việc lựa chọn và thực thi các
mục tiêu, các giải pháp xây dựng đạo đức. Tính đến những khả năng, những
điều kiện đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương và tăng cường định
hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường; đồng thời coi trọng việc giữ
gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống; đẩy mạnh giáo dục đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao đạo đức cho con người Việt Nam
hiện nay. Đó chính là những giải pháp căn bản và quan trọng nhất nhằm khắc
phục những tác động tiêu cực, phát huy những tác động tích cực của kinh tế
thị trường đối với đạo đức.
1.2. Vấn đề vai trò của đạo đức trong kinh tế thị trường
Cùng với vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, vấn
đề vai trò của đạo đức đối với hoạt động kinh tế cũng là vấn đề có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn vừa cấp thiết vừa lâu dài.
Như trên đã trình bày, tối đa hoá lợi ích cá nhân, pháp nhân là yều cầu
quan trọng nhất mà nếu không thực hiện được thì hoạt động kinh tế trong
điều kiện kinh tế thị trường cũng chẳng còn ý nghĩa nữa. Cố nhiên, trong điều
kiện kinh tế thị trường vẫn tồn tại những đơn vị kinh tế mà hiệu quả xã hội
được coi trọng hơn hiệu quả kinh tế. Tuy vậy, một nền kinh tế được gọi là
kinh tế thị trường thì về cơ bản, đại bộ phận các lĩnh vực hoạt động kinh tế
phải đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu. Nói cách khác, đặc trưng bản chất của
kinh tế thị trường là kinh doanh, hoạt động kinh tế thị trường chính là hoạt
động kinh doanh với sự điều tiết của nguyên tắc nhỏ nhất - lớn nhất, nghĩa là
làm sao với một chi phí nhỏ nhất, chủ thể kinh doanh thu được lợi nhuận lớn
nhất.
Nếu thực chất của hoạt động kinh doanh là như vậy thì đạo đức với tư
cách là nhân tố điều tiết hoạt động của con người có vai trò gì trong kinh
doanh không? Nói cách khác, nếu đạo đức tham gia vào quá trình điều tiết
hoạt động kinh doanh thì nó thúc đẩy hay là kìm hãm kinh doanh? Trả lời câu
hỏi này, hiện vẫn tồn tại hai đáp án loại trừ nhau, một là phủ nhận và hai là
khẳng định.
Những người phủ nhận tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với
đạo đức cũng chính là những người phủ nhận vai trò của đạo đức đối với kinh
doanh (và do đó, là cả đối với kinh tế).
Đặt đối lập một cách tách rời hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức,
những người phủ nhận vai trò của đạo đức đối với kinh doanh cho rằng, hành
vi kinh doanh hoàn toàn không có mối liên hệ nội tại với hành vi đạo đức, do
đó, nó không có tính cách của hành vi đạo đức. Trong hoạt động thị trường,
hành vi kinh doanh với tư cách là hành vi kinh doanh chỉ chịu sự điều tiết của
các nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường, về cơ bản, những nguyên tắc, quy
tắc thị trường được pháp chế hoá thành luật kinh doanh và những quy định
có tính pháp quy đối với kinh doanh.
Để đảm bảo cho kinh doanh có hiệu quả tối đa, các chủ thể kinh doanh
thường (và thậm chí tự giác) đáp ứng những lợi ích nhất định của đối tác
hoặc người tiêu dùng. Chẳng hạn, các doanh nghiệp thành đạt thường là các
doanh nghiệp luôn đảm bảo chất lượng hàng hoá, cố gắng hạ giá bán, thực
hiện tinh thần phục vụ đối tác một cách tận tụy. Thế nhưng, từ quan điểm phủ
nhận vai trò của đạo đức trong kinh doanh, điều đó chỉ hiện diện như là
những thủ đoạn nhằm thu nhiều lãi nhất. Sự phục vụ người khác của các
doanh nghiệp, doanh nhân không phải là sự lựa chọn tự nguyện (dù là tự
giác), không mang tính tự luật mà mang tính tha luật. Ở đây chỉ có sự điều tiết
của các chuẩn mực thị trường mà không có sự điều tiết của các chuẩn mực,
các nguyên tắc đạo đức.
Nếu hành vi kinh doanh không phải là hành vi đạo đức thì trong lĩnh
vực kinh doanh chúng ta không nên bận tâm với những ràng buộc đạo đức.
Mục đích và động lực đích thực của hành vi kinh doanh là lợi ích của chủ thể.
Tuy nhiên, vì lợi ích của từng chủ thể kinh doanh có thể ngược chiều và triệt
tiêu lẫn nhau nên yêu cầu của một thị trường ổn định là, các doanh nhân
tham gia vào quan hệ thị trường phải tự giác tuân thủ những nguyên tắc,
những chuẩn mực thị trường. Vì vậy, để phát triển kinh tế, đảm bảo quyền lợi
của các doanh nhân, đảm bảo sự công bằng trong kinh doanh, nhà nước cần
nhanh chóng hoàn thiện cơ chế thị trường. Đồng thời, khi hoạch định chính
sách kinh tế, chế định luật kinh doanh và các quy định có tính pháp quy trong
kinh doanh, cần căn cứ vào hiện trạng, xu thế và yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường, mà trong điều kiện ở nước ta hiện nay đó là thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư cách của người trọng tài, Nhà nước quản lí và
điều tiết thị trường bằng chính sách và luật pháp. Với tư cách là người tham
gia vào các hoạt động thị trường, các doanh nhân cần tuân thủ một cách tự
giác và triệt để các nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường. Trong khuôn khổ
đó, tức là trong khuôn khổ của sự điểu chỉnh có tính cưỡng chế cả từ phía
Nhà nước lẫn từ phía lợi ích bản thân, các doanh nhân cạnh tranh một cách
bình đẳng, qua đó thu lợi nhiều nhất cho bản thân một cách hợp pháp, đồng
thời góp phần phát triển thị trường, phát triển kinh tế.
Theo cách lí giải trên, toàn bộ vấn đề được quy vào cơ chế. chính sách,
pháp luật và việc giải quyết vấn đề, cũng chỉ nên và chỉ cần thực hiện ở các
khâu, các lĩnh vực đó. Do vậy, việc “đưa” đạo đức vào trong kinh doanh là bất
hợp pháp, không cần thiết; thậm chí còn cản trở hành vi kinh doanh, cản trở
sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, theo quan điểm của những người khẳng định mối quan hệ
hữu cơ giữa kinh tế thị trường và đạo đức, từ đó khẳng định vai trò tích cực
của đạo đức đối với kinh tế thị trường, thì vấn đề không chỉ đơn giản như vậy.
Việc đối lập một cách tách rời giữa hành vi đạo đức và hành vi kinh tế là
không khoa học. Đành rằng đặc trưng quan trọng nhất của hành vi đạo đức là
sự tự nguyện giúp đỡ người khác, phục vụ xã hội, là sự tự nguyện hi sinh lợi
ích cá nhân. Nhưng nếu chỉ như vậy thì hành vi đạo đức tựa hồ như là kết
quả của một năng lực bẩm sinh; nó chẳng có mối liên hệ gì với những điều
kiện sinh sống của con người.
Thực tế cho thấy, nếu tách rời đạo đức khỏi kinh doanh, tìm động lực
kinh doanh chỉ ở lợi nhuận và do đó, quản lí xã hội chỉ duy nhất dựa vào cơ
chế, chính sách, pháp luật để điều tiết kinh doanh thì hiệu quả điều tiết sẽ bị
hạn chế. Các chủ thể kinh doanh, trong chừng mực không có sự phát triển
tương ứng về đạo đức kinh doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi các chuẩn
mực đạo đức, bởi tình cảm và lương tâm ở tầng sâu tâm lí, thì lòng hám lợi
sẽ kích thích họ lách qua những khiếm khuyết của pháp luật và chính sách,
phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho hoạt động thị trường không diễn
ra một cách bình thường, lành mạnh được. Pháp luật và chính sách, dẫu
hoàn thiện đến đâu cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Hơn thế, hiện nay, chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều mới
mẻ, chưa có tiền lệ. Những khiếm khuyết của cơ chế và quản lí trong thời
gian qua đã tạo điều kiện cho hàng loạt các trường hợp kinh doanh vừa vi
phạm pháp luật, vừa vi phạm đạo đức. Hậu quả của điều đó là những tổn hại
to lớn không chỉ đối với công quỹ mà cả đối với ngay bản thân các doanh
nghiệp, doanh nhân đã vi phạm đạo đức trong kinh doanh.
Vì thế, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế và tăng cường pháp chế trong
kinh doanh, nhà nước cần chủ động và tích cực đạo đức hoá lĩnh vực kinh
doanh tạo ra sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong quản lí. Sự thống
nhất này đòi hỏi rằng, trong quá trình chế định chính sách, luật, các quy định
có tính pháp quy đối với kinh doanh, nhà nước cần dựa vào không chỉ các
yêu cầu về kinh tế, kĩ thuật mà cả những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức
xã hội nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng. Việc mở rộng hành lang pháp
luật, luật hoá những yêu cầu đạo đức trong kinh doanh chính là một hình thức
“đưa” đạo đức vào trong kinh doanh. Thông qua, chẳng hạn, những ưu đãi,
những hạn chế, những quy định về chất lượng sản phẩm hàng hoá, về bảo vệ
môi trường trong kinh doanh, về quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp, doanh
nhân..., Nhà nước điều chỉnh lợi ích trên phạm vi toàn xã hội, giữa các ngành
nghề, các lĩnh vực kinh tế dựa trên nguyên tắc công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường. Sự điều chỉnh như thế chính là sự điều chỉnh được chi
phối bởi các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nói khác đi, thông
qua các chính sách, các quy đinh có tính pháp quy đối với kinh doanh, các
chuẩn mực, các nguyên tắc đạo đức xã hội thể hiện vai trò điều tiết, vai trò
động lực trong kinh doanh.
Trên bình diện đạo đức cá nhân, cũng không thể và không nên tách
đạo đức khỏi kinh doanh. Việc coi đạo đức là đạo đức, kinh doanh là kinh
doanh vô hình chung sẽ bật đèn xanh cho các doanh nhân vi phạm đạo đức
trong hoạt động kinh doanh. Việc vi phạm đạo đức trong kinh doanh trước
sau cũng sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Vì vậy, vấn đề đặt ra không phải là:
Con người khi là con người kinh doanh thì không cần biết đến đạo đức, chỉ
cần biết đến đạo đức khi ra khỏi lĩnh vực kinh doanh. Vấn đề là: Làm sao cho
các doanh nhân không chỉ tự giác mà còn tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc
thị trường, biến việc thực hiện nguyên tắc thị trường thành nhu cầu tinh thần -
đạo đức. Điều đó đương nhiên không cản trở hoạt động kinh doanh, mà
ngược lại, còn thúc đẩy việc hợp lí hoá sự vận hành của thị trường, góp phần
phát triển kinh tế.
Yêu cầu của thực tiễn phát triển đạo đức kinh doanh trong điều kiện
hiện đại đã làm xuất hiện một lí thuyết đạo đức chuyên biệt gọi là đạo đức
kinh doanh (Business Ethics). Lí thuyết này có nhiệm vụ biện minh về mặt đạo
đức cho kinh doanh, nghiên cứu phạm vi tác động của đạo đức kinh doanh,
tính đặc thù của đạo đức kinh doanh; từ đó xây dựng các nguyên tắc, các
chuẩn mực đạo đức kinh doanh, làm cơ sở đạo đức cho quản lí nhà nước về
kinh tế, kinh doanh và định hướng cho các doanh nghiệp xây dựng, giáo dục
đạo đức doanh nghiệp.
Tất cả những điều đó khẳng định tính tất yếu và vai trò động lực của
đạo đức trong kinh doanh. Đẩy mạnh nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu tính
đặc thù của đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó, xây dựng và áp dụng đạo đức kinh doanh là
một trong những nhiệm vụ, một trong những phương diện gắn liền với chính
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
2. Khoa học - công nghệ và đạo đức trong điều kiện hiện đại hóa xã hội
2.1. Khoa học - công nghệ trong điều kiện hiện đại hóa xã hội và tác động của nó tới đạo đức
Ngày nay, không thể nói đến phát triển nếu không thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là áp dụng những thành tựu khoa
học - công nghê vào sản xuất và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã xác
định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa
học và công nghệ” “Khoa học - công nghệ phải trở thành nền tảng và động
lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến bộ khoa học - công nghệ
tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến xã hội nói chung và các lĩnh vực cụ thể
của xã hội nói riêng. Cũng như cơ chế thị trường và trong điều kiện kinh tế thị
trường, tiến bộ khoa học - công nghệ tác động có tính hai mặt đối với sự phát
triển xã hội nói chung và đối với đạo đức nói riêng.
Tác động của khoa học - công nghệ đối với đạo đức rất đa dạng với
những biểu hiện chủ yếu như sau:
Thứ nhất, trong điều kiện kinh tế thị trường, tiến bộ khoa học - công
nghệ tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất và tăng năng suất lao động. Với
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhịp độ
phát triển kinh tế của nhân loại gia tăng hơn bao giờ hết. Sự phát triển của
kinh tế có nghĩa là sự gia tăng thu nhập tạo điều kiện cho con người tham gia
rộng rãi vào các hoạt động, các quan hệ xã hội. Sự phát triển của kinh tế và
khoa học - công nghệ làm cho các lĩnh vực sản xuất; các lĩnh vực hoạt động
nghề nghiệp gia tăng và mở rộng. Cùng với sự phát triển kinh tế và kĩ thuật là
những tiện nghi phục vụ cuộc sống tạo ra nhũng điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển năng lực nhân cách đảm bảo cho con người có thể tham gia sâu
rộng vào các quan hệ, các hoạt động xã hội. Toàn bộ những điều đó tác động
thuận lợi đến sự phát triển đạo đức cá nhân, đồng thời mở rộng phạm vi điều
chỉnh của đạo đức trên bình diện xã hội.
Tuy nhiên, tiến bộ khoa học - công nghệ trong điều kiện kinh tế thị
trường lại đẩy mạnh quá trình cạnh tranh kinh tế. Những người đi tiên phong
trong việc đổi mới công nghệ sẽ thu được nhiều lợi nhuận, lợi nhuận siêu
ngạch so với những người khác. Thu nhập xã hội tăng lên nhanh chóng
nhưng phân phối lại không công bằng. Cùng với tiến bộ khoa học - công nghệ
là sự phân cực giàu nghèo ngày một sâu sắc. Hơn thế, đổi mới công nghệ và
chuyển giao công nghệ vào các nước đang phát triển đã gạt ra ngoài lề nền
sản xuất xã hội hàng loạt người lao động trong các ngành nghề truyền thống.
Điều đó, vừa làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng tại các quốc gia đang
phát triển, vừa làm gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia phát triển với các
quốc gia đang phát triển. Đối lập quá mức giữa giàu nghèo, bất bình đẳng,
thất nghiệp, đó chính là điều kiện kinh tế - xã hội dẫn tới sự thù hận, bạo lực,
sự xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện đại.
Thứ hai, trong điều kiện kinh tế thị trường, những thành tựu khoa học -
công nghệ chính là tác nhân trực tiếp và quyết định nhất làm tăng vòng quay
và mở rộng đầu tư tư bản. Nhưng để mở rộng sản xuất và rút ngắn chu trình
sản xuất thì cần phải khuyến khích tiêu thụ. Trong điều kiện của xã hội hiện
đại, khuyến khích tiêu thụ (kích cầu) chính là một trong những động lực trực
tiếp để phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập xã hội.
Hơn thế, trên bình diện cá nhân, kích cầu nghĩa là khuyến khích tiêu dùng cho
phát triển thể chất cũng như phát triển tinh thần tạo ra nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu mở rộng và phát triển sản xuất trong điều kiện hiện đại. Nhưng
cùng với vai trò và ý nghĩa đó, việc khuyến khích tiêu thụ từ chỗ chỉ là một
yêu cầu có tính tất yếu về mặt kinh tế lại dẫn tới sự hình thành lối sống tiêu
thụ đặc trưng cho xã hội hiện đại.
Với tư cách là đặc trưng của xã hội hiện đại, lối sống tiêu thụ không chỉ
thể hiện ở tầng lớp giàu có mà với những độ khác nhau cũng ảnh hưởng tới
toàn xã hội, trong đó có cả người nghèo. Khi nhu cầu tiêu dùng vượt quá khả
năng kinh tế thì trong không ít trường hợp người ta sẽ vi phạm pháp luật và
đạo đức, thực hiện những hành vi tiêu cực như: làm ăn phi pháp, biển thủ
công quỹ, trộm cướp...
Thứ ba, dưới tác động của khoa học - công nghệ, nhịp độ công nghiệp
hóa, đô thị hóa ngày một gia tăng. Nhịp độ này được thể hiện rõ nét nhất ở
mức độ gia tăng dân số đô thị. Sản xuất công nghiệp lôi cuốn lực lượng lao
động vào các khu công nghiệp, đô thị; các khu công nghiệp, đô thị được mở
rộng hoặc xây dựng mới nhằm đáp ứng nhu cầu của phát triển sản xuất, của
công nghiệp hoá. Dân số đô thị tăng lên quá nhanh và thông thường là nhanh
hơn khả năng cung ứng những dịch vụ hạ tầng, chẳng hạn giao thông, điện
nước, cơ sở giáo dục, y tế... Con người bị cách biệt với thiên nhiên và bị dồn
nén vào những khu dân cư đông đúc. Điều đó dẫn đến tình trạng gia tăng áp
lực cuộc sống, kích thích bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Quá trình đồ thị hoá còn dẫn đến tình trạng xáo trộn dân cư, sự li
hương cư dân nông thôn. Khi con người rời bỏ quê hương, rời bỏ nghề nông
để vào thành phố, vào các khu công nghiệp với nghề nghiệp mới, cuộc sống
mới thì mối dây liên hệ với gia đình, quê hương bị suy yếu đi; đó chính là một
trong những tác nhân làm suy yên các giá tri văn hóa, đạo đức truyền thông.
Thứ tư, khi cả thế giới đang từng bước trở thành một đại thị trường thì
sự đồng nhất hoá các tiêu chuẩn của công nghệ sản xuất, của tiêu dùng trở
thành một tất yếu. Sự đồng nhất hoá các tiêu chuẩn của công nghệ, của tiêu
dùng là nhằm đáp ứng các yêu cầu của sản xuất, kinh doanh trong điều kiện
hiện đại. Nhưng sự đồng nhất hoá đó lại là tác nhân dẫn tới sự đồng nhất hoá
các chuẩn mực của lối sống, hành vi ứng xử, của quan niệm, thói quen và thị
hiếu..nghĩa là của các giá trị văn hoá, đạo đức.
Thứ năm, truyền thông, đặc biệt là viễn thông (Telecommunication) là
một thành tựu kì diệu của khoa học - công nghệ hiện đại. Vai trò và tiện ích
của nó là điều hiển nhiên. Tuy vậy trên bình diện văn hoá, đạo đức, ít ra vẫn
có hai điều đáng lo ngại dưới tác động của thành tựu kì diệu này.
Do có ưu thế vượt trội trong việc cung cấp thông tin, truyền thông đại
chúng thường bị lạm dụng trong việc đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con
người với ngoại giới. Thay vì tham gia trực tiếp vào các hoạt động hay các
quan hệ giao tiếp của cuộc sống sinh động, con người ngồi lì hàng giờ trước
màn hình ti vi hoặc vi tính, giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua một thế
giới ảo. Cái thế giới ảo ấy thực sự có ích khi nó không tiêu tốn quá mức thời
gian của con người. Còn trong trường hợp ngược lại thì, nó trở thành một thứ
phán tác dụng, đặc biệt là với trẻ em. Về mặt tâm lí, điều đó cản trở sự phát
triển tình cảm ở trẻ em. Tình cảm chính là cơ sở tâm lí của hoạt động đạo
đức. Một trong những biểu hiện xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện đại là
tính ích kỉ, là chứng vô cảm về mặt xã hội của con người. Điều đó có nguyên
nhân từ cơ chế thị trường và cũng có nguyên nhân từ sự lạm dụng và không
làm chủ được các thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay, với sự xuất hiện và hoạt động của mạng
Internet trên phạm vi toàn cầu, nhân loại lại phải đối mặt với một tình huống
đạo đức khó giải quyết. Cũng như truyền thông nói chung, Internet xúc tiến sự
giao tiếp giữa người và người, góp phần tạo ra tiếng nói chung và sự hiểu
biết lẫn nhau, sự đồng cảm và tinh thần hữu nghị. Nhưng một khi không có cơ
chế và một thái độ tích cực đối với việc quản lí thì mặt trái của Internet lập tức
thể hiện tác dụng. Thực tế cho thấy, hiện nay, nhiều quốc gia không quản lí
được hoạt động của thông tin trên Internet. Những văn hoá phẩm độc hại
được đưa vào mạng và tác động tiêu cực đến sự phát triển đạo đức của hàng
loạt quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phương Đông. Lo ngại về tình trạng
này, một vài học giả đã lên tiếng đòi đình chỉ hoạt động của Internet. Cố
nhiên, đòi hòi đó chẳng qua chí là sự cảnh báo và nhắc nhở trách nhiệm của
xã hội và con người đối với sự sáng tạo và sử dụng những thành tựu khoa
học - công nghệ, mà khách quan, chúng luôn có xu hướng vượt ra khỏi tầm
kiểm soát của con người.
Thứ sáu, nói đến tiến bộ khoa học - công nghệ trong điều kiện hiện nay
không thể không kể đến những thành tựu trong lĩnh vực sinh học, sinh học
người, y học... Nhân bản vô tính, biến đổi gen, sinh sản nhân tạo, cấy ghép
các cơ quan, các phủ tạng người..., mỗi thành tựu như vậy đều mở ra những
triển vọng lớn đối với sản xuất, y tế và phát triển người; nhưng mỗi thành tựu
như vậy lại đặt ra những nan giải, những thách thức về đạo đức. Bởi nếu
không có được một cơ chế pháp lí và một cơ chế đạo đức đủ để nhân đạo
hoá các thành tựu đó thì chúng có thể trở thành những sức mạnh hủy hoại
cuộc sống và đạo đức con người.
Sau cùng, đặc trưng của xã hội hiện đại là sự thay đổi nhanh chóng các
thế hệ công nghệ và sản phẩm công nghệ. Một thế hệ công nghệ hay một sản
phẩm công nghệ cụ thể đang có giá trị thậm chí, đang là thời thượng, mốt, thì
chỉ trong tương lai gần đã trở thành lạc hậu hoặc hết mốt, nghĩa là không còn
giá trị nữa. Sự thay đổi nhanh chóng ấy khuyên người ta không nên nhìn
nhận giá trị của sự vật một cách bất biến, trường tồn. Trong các xã hội nông
nghiệp, công nghệ không phát triển, đời sống tinh thần của con người được
an bài bởi những giá trị, những định hướng được coi là vĩnh hằng. Các giá trị
đạo đức của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Nho giáo... đã định hướng
tinh thần cho con người hàng ngàn năm; và hàng ngàn năm, con người yên
tâm nương gửi tâm hồn vào những giá trị đó. Nhưng với sự biến động của
kinh tế và công nghệ, con người không còn những giá trị trường tồn để mà tin
tưởng, để mà nương gửi nữa. Vì thế, trong xã hội hiện đại, thường xuất hiện
tâm trạng hoài nghi, bất an về mặt tinh thần, chủ nghĩa hư vô về mặt đạo đức.
2.2. Vấn đề khắc phục những tác động tiêu cực của khoa học - công nghệ đối với đạo đức
Như trên đã trình bày, tác động của khoa học - công nghệ đối với tiến
bộ xã hội nói chung và đối với đạo đức nói riêng là có tính mâu thuẫn, hai
mặt. Một mặt, tiến bộ khoa học - công nghệ tạo điều kiện vật chất và tinh thần
cho sự phát triển kinh tế, hợp lí hoá và nâng cao hiệu quả của các thiết chế
xã hội, mở rộng phạm vi tác động của đạo đức, đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống và làm xuất hiện những giá trị, những chuẩn mực đạo đức mới.
Nhưng mặt khác, tiến bộ khoa học - công nghệ, trong nhiều trường hợp, lại
khiến con người trở nên bất lực trong việc sử dụng sức mạnh của mình để
thực hiện những mục tiêu cao thượng.
Vậy đâu là nguyên nhân đích thực, nguyên nhân sau cùng của tính
phức tạp trên? Những người theo quan điểm phi lí (irrationalism) quy tất cả về
khoa học - công nghệ. Đối với họ, tiến bộ của khoa học - công nghệ và đi liền
với nó là tiến bộ của tổ chức, thiết chế... chỉ làm méo mó con người, biến con
người thành cái trừu tượng, tiêu chuẩn hoá hoạt động và sinh hoạt của con
người, tước đi tính chân thực của nó. Sự xuống cấp về đạo đức, tình trạng
không có năng lực trách nhiệm và vô trách nhiệm của con người chính là hậu
quả của những thành tựu khoa học - công nghệ, những lực lượng ở bên
ngoài bản chất đích thực của con người.
Nếu tiến bộ khoa học - công nghệ dẫn tới sự xuống cấp đạo đức thì,
hoặc là, tiếp tục sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, đồng thời phải
chấp nhận sự trả giá bằng sự suy thoái về tinh thần, đạo đức và nhân loại chỉ
còn một việc là nuối tiếc thời đại hoàng kim về đạo đức đã trở thành quá khứ;
hoặc là, cự tuyệt khoa học - công nghệ trong phát triển.
Năm 1972, Câu lạc bộ Rôm công bố bản báo cáo “Giới hạn cuối cùng
của sự tăng trưởng". Báo cáo đã phân tích nhũng tổn hại về kinh tế - xã hội
và môi trường do quá trình áp dụng khoa học - công nghệ, thực hiện công
nghiệp hoá gây ra. Những người soạn thảo báo cáo này đã cảnh báo rằng,
nếu nhân loại cứ khai thác tự nhiên như hiện thời thì chỉ sau 100 năm nữa,
Trái Đất sẽ đi đến giới hạn cuối cùng của sức chịu đựng. Như vậy, tiến bộ
khoa học - công nghệ không đơn giản chỉ làm suy thoái đời sống tinh thần,
đạo đức mà còn có nguy cơ dẫn tới hủy diệt cả Trái Đất và con người.
Từ sự phê phán quá trình công nghiệp hoá bởi câu lạc bộ Rôm, một số
học giả đã đề xuất một giải pháp phát triển gọi là Giải pháp tăng trưởng số
không. Theo đó, để tránh đụng phải cái giới hạn cuối cùng của sự tăng
trưởng, từ nay nhân loại cần cự tuyệt việc áp dụng những tiến bộ khoa học -
công nghệ trong phát triển.
Nói một cách chặt chẽ và chính xác thì không thể coi là giải pháp phát
triển đối với việc chấp nhận tiến bộ khoa học - công nghệ cùng với chấp nhận
luôn sự xuống cấp đạo đức cũng như đối với việc từ bỏ khoa học - công
nghệ. Với tư cách là một biểu hiện sức mạnh bản chất của con người, khoa
học - công nghệ, một khi đã được sinh ra thì nó sẽ mãi mãi đồng hành với lịch
sử nhân loại. Không thể hình dung được sự tồn tại của nhân loại hiện nay nếu
không có hệ thống công nghệ nói chung hoặc những loại hình cụ thể của nó
nói riêng, chẳng hạn, công nghệ giao thông, công nghệ truyền thông hiện đại.
Vấn đề là làm sao cho tiến bộ công nghệ trở nên đồng hành với tiến bộ xã
hội, tiến bộ đạo đức.
Vì rằng việc sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong thực tế
và thực tế tác động của các thành tựu đó đối với xã hội và con người không
chỉ biểu hiện một trình độ nhất định của con người trong nhận thức và chinh
phục tự nhiên, mà còn phản ánh một trình độ nhất định của các quan hệ kinh
tế - xã hội của con người, cho nên việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa tiến bộ
khoa học - công nghệ và tiến bộ đạo đức phải được đặt trong một khuôn khổ,
một phạm vi rộng lớn hơn, đó là quan hệ giữa văn hoá và phát triển.
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, UNESCO đã đưa ra tư tưởng rằng,
chỉ có thể đạt được sự thống nhất giữa hiện đại và tiến bộ bằng cách đưa văn
hoá vào trong phát triển, nghĩa là làm cho văn hoá trở thành động lực, hệ điều
tiết vì mục tiêu của phát triển. UNESCO quan niệm rằng, một xã hội (một
quốc gia) hiện đại là một xã hội giàu có, kinh tế năng động, thị trường tự do,
tiến bộ công nghệ, nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao; còn một xã hội tiến bộ là
xã hội phải có công bằng, bình đẳng, phúc lợi xã hội cao, sinh thái nhân văn,
đạo đức lành mạnh. Trong điều kiện kinh tế thị trường và tiến bộ công nghệ,
một xã hội có thể là hiện đại nhưng chưa hẳn là một xã hội tiến bộ khi nó
chưa đáp ứng được các yêu cầu của tiến bộ xã hội.
Để quá trình hiện đại hoá đồng thời là quá trình tiến bộ xã hội, tiến bộ
đạo đức, UNESCO chủ trương và khuyến khích các quốc gia bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá trong phát triển, kết hợp văn hóa với tăng trưởng kinh
tế. Hơn thế, vào năm 1988, UNESCO đã phát động Thập kỉ thế giới phát triển
văn hóa (1988 - 1997) (Việt Nam là thành viên tích cực của thập kỉ này). Thập
kỉ được phát động với 2 mục đích chủ yếu:
- Làm sống động lại khái niệm về văn hoá trong các xã hội -đương thời
và nâng nó lên tầm quan tâm như đối với sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã
hội.
- Làm cho vị trí của văn hoá trong sự phát triển được nhìn nhận một
cách rộng rãi và đại chúng trong các nhà hoạch định chình sách của mỗi quốc
gia và trên phạm vi thế giới.
UNESCO quan niệm rằng, không thể quy giản văn hoá chí về một hoặc
một số yếu tố, một số hình thức biểu hiện của văn hóa, chẳng hạn, văn hoá
nghệ thuật hoặc các giá trị tinh thần... Việc quy giản như vậy sẽ dẫn đến chỗ
coi thường nhân tố văn hoá trong phát triển nói chung cũng như trong việc áp
dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ nói riêng. Những hậu quả xã hội, đạo
đức sẽ nảy sinh từ chính sự xem nhẹ nhân tố văn hoá trong việc hoạch định
và thực thi các dự án, các chiến lược phát triển.
Để bao quát đầy đủ các bình diện, các cấp độ của văn hoá, UNESCO
quan niệm: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các
cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỉ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền
thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Như vậy, văn hoá gắn liền với con người, với các cộng đồng người, với
lịch sử xã hội loài người. Văn hoá chính là sự thể hiện và thực hiện các sức
mạnh bản chất của con người trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động người, là
tổng thể các giá trị được sáng tạo bởi hoạt động người, bao gồm cả con
người như là giá trị trung tâm và giá trị cao nhất. Nói rằng văn hoá được thể
hiện trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động người không có nghĩa rằng bất kì
một hoạt động cụ thể nào của con người cũng là nơi thể hiện văn hoá. Những
hoạt động có hiệu quả phục vụ lợi ích con người đương nhiên là những hoạt
động có tính văn hóa. Ngược lại, những hoạt động thù địch con người chính
là những hoạt động phản văn hóa. Mức độ thể hiện văn hóa trong các hoạt
động người tuỳ thuộc vào mục đích và hiệu quả của các hoạt động đó, nghĩa
là tuỳ thuộc vào điều là các hoạt động đó thể hiện đến đâu những sức mạnh
bản chất của con người.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã tạo điều kiện cho
việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển xã hội, đồng thời đòi hỏi các quốc gia, các
dân tộc chủ động đẩy nhanh nhịp độ phát triển. Sự chủ động đó đã dẫn đến
việc hoạch định và thực thi các mô hình, các chương trình, các dự án phát
triển. Đã có nhiều chương trình, dự án đạt được những thành tựu to lớn trên
những phương diện nhất định. Nhưng cũng có không ít những chương trình,
những dự án không thu được kết quả mong muốn, thậm chí gây phản tác
dụng vì đã đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển, coi tăng trưởng kinh
tế tự nó sẽ giúp giải quyết các vấn để về chính trị, xã hội, đạo đức và môi
trường. Những chương trình, những dự án đó không tính đến hoặc không
tính đầy đủ vai trò của văn hoá trong phát triển.
Từ lập trường của chủ nghĩa Mác, thống nhất với quan điểm của
UNESCO, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “đẩy mạnh công nghiệp hoá,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể tách rời việc xây dựng đồng
bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, Việt Nam không những không cự tuyệt việc áp dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ, mà còn đẩy mạnh công nghiệp hoá, tức là
đẩy mạnh việc áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ. Để phát
huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực của việc áp
dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ trong điều kiện kinh tế thị
trường, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương định hướng xã hội chủ nghĩa
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể coi định
hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp văn hóa của phát triển, hơn thế còn là
giải pháp văn hóa triệt để nhất hiện nay. Bởi, bản thân mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã đòi hỏi đặt con người vào trung tâm của sự phát triển. Chính
vì thế, Đảng khẳng định phải “lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ
bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ”.
Việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ không đơn thuần chỉ
là nhằm mục tiêu kinh tế mà cùng với mục tiêu kinh tế là mục tiêu xã hội, mục
tiêu phát triển con người. Tuy nhiên, quan điểm đưa văn hoá vào trong phát
triển không chỉ giới hạn ở chỗ, các dự án kinh tế và các chính sách xã hội
phải nhằm vào sự phát triển con người mà đồng thời, bản thân con người với
tư cách là chủ thể của sự phát triển, chủ thể của sự sáng tạo và áp dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ cũng phải là con người có sự phát triển về
văn hoá, đạo đức đủ để làm chủ được sự vận động của xã hội, của kinh tế và
công nghệ. Nói cách khác, sự phát triển của xã hội, của kinh tế và công nghệ
phải thể hiện được các sức mạnh bản chất của con người. Điều đó có nghĩa
là phải “đưa các nhân tố văn hoá, tinh thân, nhân văn thấm sâu vào các lĩnh
vực của đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình, trường học, xã hội,
đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao tiếp..,”.
Coi con người là trung tâm của phát triển; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội
làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định các phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ; xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực xã hội tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người đáp ứng các yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là những đảm bảo cho hiện đại hoá
và tiến bộ xã hội trở thành một quá trình thống nhất; tiến bộ khoa học - công
nghệ trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển con người nói chung, nhân
cách đạo đức con người nói riêng.
3. Đạo đức môi trường trong điều kiện hiện đại hoá xã hội
3.1. Sự xuất hiện Đạo đức học môi trường và những khuynh hướng cơ bản của nó
Như đã chỉ ra, hai nhân tố căn bản nhất đang tác động đến tiến trình
phát triển của xã hội hiện đại là cơ chế thị trường và tiến bộ khoa học - công
nghệ. Sự vận hành của cơ chế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện cho việc
đẩy nhanh những nghiên cứu sáng tạo và áp dụng các thành tựu khoa học -
công nghệ. Việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ lại thúc đẩy quá
trình mở rộng các quan hệ thị trường, phát triển sản xuất. Điều đó dẫn đến sự
gia tăng nhu cầu khai thác tự nhiên và khả năng khai thác tự nhiên của con
người.
Trong điều kiện của nền văn minh nông nghiệp, mức độ khai thác tự
nhiên chưa vượt quá khả năng tự điều chỉnh của tự nhiên nên bảo vệ môi
trường chưa trở thành vấn đề cả về mặt thực tiễn cũng như về mặt lí luận.
Nhưng, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khả năng tự phục
hồi của tự nhiên không cân bằng được với mức độ khai thác của con người.
Tình trạng cạn kiệt tài nguyên (bao gồm cả tài nguyên không tái tạo được và
tài nguyên tái tạo được), tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường (do chất
thải công nghiệp và chất thải sinh hoạt, do sử dụng hoá chất trong nông
nghiệp...) không chỉ tạo ra những trở ngại cho tăng trưởng kinh tế, bảo vệ sức
khoẻ của con người mà còn dẫn đến nguy cơ huỷ diệt cả Trái Đất.
Khi môi trường trở thành vấn đề của phát triển thì nó cũng trở thành
vấn đề của đạo đức.
Cuối những năm bốn mươi của thế kỉ XX, trong việc giải quyết vấn đề
môi trường, ở phương Tây đã xuất hiện một lí thuyết đạo đức gọi là Đạo đức
học môi trường (Environmental Ethics). Có thể coi Đạo đức học môi trường là
một nỗ lực lí luận nhằm xây dựng và biện minh cho những quy phạm, những
chuẩn mực hướng dẫn con người trong việc thiết lập một quan hệ đạo đức
mới với tự nhiên, theo đó không cho phép con người khai thác tự nhiên chỉ vì
lợi ích của con người (cá nhân hay tập thể) mà không biết đến lợi ích của tự
nhiên.
Để xây dựng đạo đức mới đó, các nhà Đạo đức học môi trường cho
rằng, cần thiết phải phê phán và đoạn tuyệt với cơ sở nhận thức của đạo đức
truyền thống về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Theo một số nhà Đạo đức học môi trường phương Tây, quan hệ truyền
thống giữa con người và tự nhiên được xây dựng trên ba trụ cột căn bản là:
quan niệm coi con người là trung tâm của vũ trụ, thuyết Sáng thế của Thiên
Chúa giáo và quan niệm duy lí thời Khai sáng.
Quan niệm coi con người là trung tâm (anthropocentrism) đã dẫn tới sự
tuyệt đối hoá vị thế của con người so với phần còn lại của giới tự nhiên.
Theo thuyết Sáng thế của Thiên Chúa giáo thì Thiên Chúa sáng tạo ra
thế giới bao gồm vạn vật và con người. Khác với vạn vật, con người nhận
được một đặc ân là được sáng tạo theo hình ảnh của Chúa. Được sáng tạo
theo hình ảnh của Chúa nên con người là sinh thể duy nhất có được năng lực
sáng tạo. Có năng lực sáng tạo, con người tự tách ra và đứng cao hơn vạn
vật.
Triết học Khai sáng đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trò của lí trí, tư
duy. B. Paxcal từng cho rằng, con người là một cây sậy biết tư duy. Với luận
điểm đó, ông ngụ ý nói rằng, so với vạn vật con người chỉ là một sinh thể yếu
ớt như cây sậy; nhưng ưu thế của con người là ở năng lực tư duy, điều mà
vạn vật không có được. R. Đềcáctơ còn tiến xa hơn trong việc tuyệt đối hoá
vai trò của tư duy. Trong tác phẩm Luận về phương pháp, ông đã thể hiện rất
rõ quan điểm này khi cho rằng, một khi thu thập được nhận thức về lực, tác
động của lửa, nước, không khí, thiên thể, tinh tú, bầu trời và tất cả vật thể ở
xung quanh..., chúng ta có thể sử dụng chúng để biến thành chủ nhân và kẻ
chiếm hữu tự nhiên.
Những nhà Đạo đức học môi trường cho rằng, do bị chi phối bởi ba
quan niệm truyền thống đó, nhân loại đã rơi vào chủ nghĩa duy nhân loại, coi
con người là sinh thể trung tâm, thượng đẳng, là nguồn gốc của mọi giá trị, là
kẻ duy nhất có giá trị nội tại, trong khi vạn vật của tự nhiên chỉ có giá trị thực
dụng. Đây chính là chủ nghĩa vị kỉ chủng loại và là nguyên nhân sâu xa của
vấn đề môi trường đang đè nặng lên nhân loại hôm nay.
Để khắc phục chủ nghĩa vị kỉ chủng loại, những nhà Đạo đức học môi
trường chủ trương xây dựng mối quan hệ bình đẳng, hài hoà giữa con người
(xã hội) và tự nhiên, môi trường dựa trên một định đề (postulation) căn bản là:
Tất cả mọi sinh thể, vật thể đều có giá trị nội tại.
Theo các nhà Đạo đức học môi trường, tất cả mọi sinh thể, vật thể đều
có giá trị thực dụng và giá trị nội tại. Giá trị thực dụng (Instrumental Value)
của vật thể là giá trị của vật thể đối với con người (loài người), là khả năng
đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người. Khác với giá trị thực dụng, giá trị
nội tại (Inherent Value) của vật thể là giá trị của vật thể đó tự có, không tuỳ
thuộc vào việc nó có đáp ứng được hay không đáp ứng được nhu cầu nào đó
của con người hay xã hội loài người.
Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa vị kỉ chủng loại, con người chỉ thấy
được giá trị thực dụng của vạn vật. Do chỉ thấy bản thân con người là kẻ duy
nhất có giá trị nội tại còn vạn vật chỉ có giá trị thực dụng nên con người tự cho
mình quyền được thống trị, khai thác tự nhiên một cách tuỳ tiện và vô hạn.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc khai thác và phá huỷ tự nhiên, môi
trường đã diễn ra đến mức độ mà chính sự sống của con người, loài người
đang có nguy cơ bị huỷ diệt cùng với sự huỷ diệt của Trái Đất, môi trường
sống của con người.
Như vậy, nhận thức sai lầm về quan hệ giữa con người và tự nhiên đã
dẫn đến hành động sai lầm và vô đạo đức của con người đối với tự nhiên. Để
bảo vệ tự nhiên và bảo vệ chính con người, cần xây dựng một nền đạo đức
mới với nhận thức mới, một lối ứng xử mới đối với tự nhiên trên cơ sở bình
đẳng môi trường (Biospherical Egalitarianism) nghĩa là trên cơ sở thừa nhận
vạn vật đều có giá trị nội tại.
Trên đây là những ý tưởng, những quan điểm chung của những người
chủ trương xây dựng đạo đức môi trường như là một nền đạo đức mới, đối
lập và cao hơn đạo đức truyền thống. Tuy vậy, từ khi xuất hiện đến nay, Đạo
đức học môi trường đã phát triển thành 3 khuynh hướng với những quan
điểm cụ thể ít nhiều khác biệt nhau:
- Đạo đức học duy sinh vật (Biocentric Ethics)
Những nhà Đạo đức học duy sinh vật cho rằng, sự sống tạo nên giá trị
nội tại của tự nhiên. Theo bản tính tự nhiên (chứ không phải bằng lí trí) con
người nhận ra rằng, tất cả mọi sinh vật kể cả con người, đều thuộc về một
giồng sinh lực như nhau và cảm thấy mọi hành vi vi phạm đến sự sống của
một sinh vật khác là một tội ác. Khi con người có được một ý thức sâu sắc về
sự đồng nhất giữa các sinh vật, về giá trị của sự sống thì con người sẽ biết
tôn trọng và bảo vệ môi trường.
P. Taylor là người sáng lập ra Đạo đức học duy sinh vật dưới cái tên
Đạo đức tôn trọng tự nhiên (The Ethics of Respect for Nature). Theo ông, tự
nhiên chỉ được tôn trọng khi người ta thừa nhận các luận điểm sau:
+ Mọi sinh vật, mọi cộng đồng đều có lợi ích riêng.
+ Mọi sinh vật đều có giá trị nội tại. Giá trị nội tại không phải là đặc tính
khách quan, chẳng hạn, màu sắc, hình dáng của sinh vật mà ta có thể nhận
biết bằng lí trí, khoa học; giá trị nội tại là một ý niệm triết lí - đạo đức. Nói cách
khác, con người chỉ có thể nhận biết được giá trị nội tại của sinh vật thông
qua một ý niệm mang tính triết lí - đạo đức về giá trị đó. Theo P. Taylo, ý niệm
về giá trị nội tại của sinh vật là kết quả của một hệ thống niềm tin.
Đạo đức học duy sinh vật của P. Taylo có tham vọng xác lập một bổn
phận đạo đức có tính phổ quát đối với toàn bộ thế giới hữu sinh. Nó đòi hỏi
phải tôn trọng giá trị nội tại, lợi ích riêng của từng sinh vật. Vì thế trên thực tế,
yêu cầu đạo đức mà nó xác lập không thể thực hiện được với tư cách là một
yêu cầu có tính phổ quát. Trong tự nhiên, để tồn tại, mọi sinh vật đều sử dụng
sinh vật khác như là nguồn thức ăn; chúng không thể tôn trọng quyền sống
của nhau. Do đó, đòi hỏi của P. Taylo về việc tôn trọng lợi ích của cá thể là
không thể thực hiện được một cách phổ biến.
- Đạo đức học duy môi trường (Environmentcentric Ethics)
Người sáng lập, đồng thời là đại diện tiêu biểu của Đạo đức học duy
môi trường là A. Leopol. Theo ông, quan hệ giữa nhân loại với các giống sinh
vật, với đất đai, nghĩa là với môi trường nói chung là một quan hệ có tính hữu
cơ tương tự như quan hệ giữa các bộ phận của cơ thể. Mỗi cộng đồng sinh
vật, mỗi loài vật sống trong một môi trường nhất định là một thành phần tất
yếu của môi trường tự nhiên rộng lớn, một thành phần mà nếu thiếu đi sẽ làm
cho môi trường mất cân bằng. Do vậy, không một loài sinh vật nào có quyền
tàn sát một loài sinh vật khác, kể cả đối với thú dữ vốn bị coi là có hại; những
con thú này cũng là một yếu tố quan trọng của sự cân bằng hệ môi sinh.
Nếu Đạo đức học duy sinh vật chỉ đề cập đến giá trị nội tại của sinh vật
thì Đạo đức học duy môi trường còn đề cập đến giá trị nội tại của vạn vật. A.
Leopol khẳng định quyền sống (biotic right) tự nhiên của các vật thể vô cơ
cũng như hữu cơ với tư cách là các cộng đồng; nhưng ông không đòi hỏi con
người và vạn vật phải tôn trọng sự sống của cá thể, điều mà trên thực tế
không thực hiện được.
Tuy nhiên, nếu coi đạo đức môi trường là một loại đạo đức có ý nghĩa
phổ quát mà lại chỉ tôn trọng sự sống của cộng đồng thì khi vận dụng vào xã
hội loài người sẽ rất nguy hiểm. Bởi vì, người ta có thể nhân danh cộng đồng
để chà đạp, thậm chí huỷ diệt lợi ích cá nhân hoặc cộng đồng nhỏ hơn. Vì
thế, một số học giả đã phản đối quan điểm của A. Leopol và cho rằng, quan
điểm đó có thể dẫn tới chủ nghĩa phát xít môi trường (Environmental fassism).
- Sinh thái học bề sâu (Deep Ecology) với tư cách Đạo đức học môi
trường.
Nhà triết học Nauy A. Naes đã đề xuất một lí thuyết đạo đức môi
trường mới, dưới tên gọi Sinh thái học bề sâu với tham vọng khắc phục
những nhược điểm của Đạo đức học duy sinh vật và Đạo đức học duy môi
trường. Cụ thể là, ông muốn đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi, làm thế nào con
người biết tôn trọng cộng đồng, toàn thể mà vẫn không mắc phải khuyết điểm
phi cá thể. A. Naes gọi tất cả những quan niệm khác về môi trường và đạo
đức môi trường là Sinh thái học bề mặt (Shallow Ecology), vì theo ông, chúng
không tiếp cận được thực chất của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,
môi trường.
A. Naes cho rằng, những chuẩn mực và định hướng hành động của
sinh thái học bề sâu không phải là những nguyên tắc được rút ra từ sinh thái
học nhờ suy luận lôgíc (quy nạp hay diễn dịch). Khởi điểm của sinh thái học
bề sâu là một trực giác (intuition). Có thể hiểu trực giác trong sinh thái học bề
sâu là một biểu tượng về thực tại trong đó bản chất mỗi vật thể kể cả con
người đều được xác định bởi các quan hệ giữa chúng với nhau; khi những
quan hệ này thay đổi, bản chất của chúng cũng thay đổi theo.
Nếu bản chất của mỗi vật thể bị quy định bởi quan hệ của vật thể đó
với các vật thể khác thì điều đó cũng có nghĩa rằng, bản chất con người bị
quy định bởi quan hệ của con người với vạn vật tức là với môi trường tự
nhiên. Từ trước tới nay, dưới ảnh hưởng của những quan niệm, những tư
tưởng sai lầm, con người đã cư xử với tự nhiên như một kẻ toàn quyền, một
kẻ thống trị. Quan hệ đó đã làm cho bản chất con người trở thành một bản
chất vô đạo đức. Bởi vậy, con người cần thay đổi quan hệ của mình với tự
nhiên, tôn trọng giá trị nội tại của vạn vật; khi đó, con người sẽ lấy lại được
bản chất đích thực của mình.
Nhấn mạnh tính quy định lẫn nhau, sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa con
người và vạn vật là điểm nổi bật trong quan điểm của những nhà sinh thái học
bề sâu. Thừa nhận tính quy định ấy cũng có nghĩa là thừa nhận rằng, tôn
trọng và bảo vệ tự nhiên cũng chính là tôn trọng và bảo vệ bản thân con
người.
Để tôn trọng và bảo vệ con người, bảo vệ tự nhiên, cần phải xây dựng
một ý thức môi trường sâu sắc. Nhưng làm thế nào để xây dựng được ý thức
đó. A. Naes cho rằng, mỗi chúng ta cần tự thực hiện bản ngã của mình (self -
realization) như một sự đồng hoá giữa cái ngã của cá nhân với cái ngã của vũ
trụ, làm cho bản ngã của mình lan rộng ra khắp nơi. Trong quá trình đó, mỗi
chúng ta sẽ nhận thấy lợi ích của một vật thể khác có giá trị như lợi ích của
chính mình. Quá trình thực hiện bản ngã sẽ đi từ mỗi cá nhân đến người
thân, người đồng hương, người đồng loại, rồi tới loài cầm thú và cuối cùng là
vũ trụ với tư cách là một toàn thể sống.
Cùng với mức độ đồng hoá và trong mức độ bản ngã được thực hiện,
mỗi cá nhân sẽ biết tôn trọng, biết yêu mến đồng loại và thiên nhiên và biết
chọn một lối sống thanh đạm, đầy an lạc, qua đó tạo nên sự hoà hợp giữa
con người với đồng loại,với tự nhiên, vũ trụ. Theo nghĩa đó, sinh thái học bề
sâu không phải là một thứ Đạo đức học thông thường mà là một nghệ thuật
sống của những nhà hiền triết, một thứ đạo đức của các nhà triết học cổ đại
Hi Lạp.
Mặc dù muốn vượt lên trên Đạo đức học duy sinh vật và Đạo đức học
duy môi trường, nhưng sinh thái học bề sâu vẫn không khắc phục được tính
phi cá thể. Vì thế, không thể áp dụng nó như một thứ Đạo đức học có ý nghĩa
phổ quát như tham vọng của những nhà Đạo đức học môi trường.
3.2. Đạo đức môi trường nhìn từ góc độ Đạo đức học Mác - Lênin
- Bảo vệ môi trường với tư cách là vấn đề đạo đức:
Với định đề xuất phát: mọi sinh thể, mọi vật thể đều có giá trị nội tại,
Đạo đức học môi trường có tham vọng đối lập và đứng cao hơn mọi hệ thống
Đạo đức học từng có trong lịch sử; bởi nó xây dựng căn cứ lí luận và biện
minh cho việc xây dựng một nền đạo đức mới có tính toàn thể (holist) cao
hơn mọi nền đạo đức truyền thống của nhân loại. Theo các nhà Đạo đức học
môi trường thì sự nảy sinh cũng như việc giải quyết vấn đề môi trường chỉ tuỳ
thuộc vào nhận thức. Dưới ảnh hưởng của những quan điểm sai lầm, không
thấy được giá trị nội tại của vạn vật, con người đã xác lập một quan hệ vô đạo
đức, quan hệ có tính chủ - tớ với tự nhiên, mặc sức khai thác và hủy diệt tự
nhiên vì lợi ích có tính vị kỉ chủng loại của mình. Con người đã và đang phải
trả giá cho những sai lầm đó. Để giải quyết vấn đề môi trường cần từ bỏ quan
niệm sai lầm trước đây, xây dựng lại mối quan hệ với môi trường trên cơ sở
thừa nhận giá trị và sự bình đẳng của vạn vật mà trong đó con người cũng chỉ
là một hữu thể như mọi hữu thể khác.
Quan niệm mácxít không phủ nhận nhân tố nhận thức nhưng không
tuyệt đối hoá nhân tố này. Đằng sau nhân tố nhận thức, quan niệm mácxít
nhìn nhận tính quy định, xét tới cùng của nhân tố kinh tế - xã hội. Như vậy,
vấn đề bảo vệ môi trường nảy sinh trước hết do sự phát triển của kinh tế,
công nghệ. Rõ ràng là trong điều kiện của văn minh nông nghiệp, bảo vệ môi
trường hoàn toàn không phải là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự phát
triển xã hội. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá vừa có nhu cầu và vừa
tạo ra khả năng khai thác tự nhiên vượt khỏi khả năng tự điều chỉnh của tự
nhiên. Sự tàn phá môi trường tự nhiên đã phương hại đến lợi ích của con
người trên nhiều phương diện:
+ Tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, làm thiệt hại kinh tế do cạn
kiệt tài nguyên, sa mạc hoá đất nông nghiệp, ô nhiễm môi trường nuôi thuỷ
hải sản, hạn hán, lụt lội...
+ Làm mất cân đối về mặt tự nhiên - sinh học giữa con người và môi
trường sống. Đó là các hiện tượng: ô nhiễm môi trường do chất thải công
nghiệp, hoá chất dùng trong nông nghiệp; thủng tầng ôzôn, tăng hiệu ứng nhà
kính... Những hiện tượng này tác động xấu tới sức khoẻ con người, thậm chí
có nguy cơ tiêu diệt con người.
+ Tạo ra sự phát triển không bển vững, làm thiệt hại lợi ích của các thế
hệ tương lai.
+ Sự phát triển không đồng đều trên thế giới hiện nay khiến cho việc
khai thác tự nhiên và phát triển kinh tế ở các quốc gia phát triển làm thiệt hại
lợi ích các quốc gia chậm phát triển...
Như vậy, quá trình khai thác tự nhiên bất hợp lí, thậm chí, trong nhiều
trường hợp là tàn phá tự nhiên đã ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của nhân loại
nói chung, các dân tộc, các thế hệ nói riêng. Bảo vệ môi trường đã trở thành
vấn đề của phát triển, vấn đề có tính chất toàn cầu. Để bảo vệ môi trường
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, con người cần phải có những sự điều
chỉnh nhất định trong phát triển, trong quản lí và khai thác tự nhiên. Thực chất
của những sự điều chỉnh ấy chính là điều chỉnh lợi ích: giữa lợi ích trước mắt
và lợi ích lâu dài; giữa lợi ích cộng đồng, dân tộc này với lợi ích cộng đồng,
dân tộc kia; giữa lợi ích của thế hệ hôm nay với lợi ích của thế hệ mai sau.
Chính vì vậy mà, Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) đã
nhấn mạnh: phát triển bền vững (Sustainable Development) là “phát triển để
đáp ứng nhu cầu của đời nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của đời sau».
Trên bình diện đạo đức, sự phản ánh những yêu cầu của phát triển bền
vững, của việc bảo vệ môi trường vào ý thức đạo đức con người, loài người,
sự thể hiện ý thức đó trong thực tiễn phát triển xã hội và bảo vệ môi trường
chính là ý thức và thực tiễn đạo đức môi trường. Đạo đức môi trường, do vậy,
là một phương diện của đạo đức nói chung, là sự thể hiện và thực hiện đạo
đức xã hội trong lĩnh vực quan hệ giữa con người và tự nhiên. Không có và
không cần thiết có một thứ đạo đức môi trường đối lập và cao hơn truyền
thống đạo đức của nhân loại. Nhưng cần phải xây dựng đạo đức môi trường
vì đằng sau quan hệ đạo đức giữa con người và môi trường là quan hệ đạo
đức giữa người và người. Để bảo vệ môi trường thì sự điều chỉnh bằng các
công ước, luật môi trường hay các quy chế là chưa đủ. Đạo đức có vai trò to
lớn và không thể thiếu được trong việc điều chỉnh mọi hành vi, mọi quan hệ
người. Sự điều chỉnh bằng đạo đức là sự điều chỉnh không chỉ tự giác mà còn
tự nguyện, điều mà sự điều chỉnh bằng pháp lí không có được. Đặc biệt là
trong các quan hệ quốc tế, luật môi trường hay các công ước chỉ có tác dụng
khi các quốc gia kí kết và tự nguyện tuân thủ. Thực tế cho thấy, trong điều
kiện hiện nay, một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, vì lợi ích
riêng của mình đã thiếu trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường. Trong bối
cảnh như vậy, vai trò của đạo đức môi trường cùng trở nên quan trọng. Tất
cả các quốc gia cần phải tự nguyện nêu cao trách nhiệm đạo đức trong việc
bảo vệ môi trường.
- Vấn đề xây dựnq đạo đức môi trường hiện nay:
Bảo vệ môi trường đang là vấn đề có tính toàn cầu; nó đòi hỏi trách
nhiệm và sự phối hợp hành động trên phạm vi toàn cầu. Bảo vệ môi trường
không có nghĩa là ngừng hoặc hạn chế khai thác tự nhiên mà là khai thác tự
nhiên một cách hợp lí. Bởi vì, con người và xã hội loài người, trong chừng
mực còn tồn tại và phát triển thì còn phải tiếp tục khai thác tự nhiên để đáp
ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Khai thác tự nhiên một cách hợp lí
tức là thiết lập một quan hệ hài hoà giữa tự nhiên và con người (xã hội). Điều
đó đòi hỏi con người phải có một hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn về mối quan
hệ, tính quy định lẫn nhau giữa con người và tự nhiên trong phát triển. Hiểu
biết đó một mặt tạo điều kiện cho sự phát triển tình yêu và trách nhiệm bảo vệ
tự nhiên, mặt khác tạo cơ sở cho việc hoạch định các chiến lược, các dự án
phát triển không chỉ con người, xã hội mà cả tự nhiên như một hệ thống hữu
cơ, một chỉnh thể thống nhất: con người - xã hội - tự nhiên.
Như vậy, việc bảo vệ tự nhiên không tự giới hạn trong quan hệ giữa
con người và tự nhiên mà bao gồm cả quan hệ giữa con người và con người.
Do đó, đạo đức môi trường cũng không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa con
người và môi trường mà còn được thể hiện trong quan hệ giữa con người và
con người. Với quan hệ giữa con người và tự nhiên, đạo đức môi trường đòi
hỏi, trong sự phát triển của mình, con người phải yêu quý và bảo vệ tự nhiên,
tôn trọng sự đa dạng sinh học. Tuy nhiên, để bảo vệ tự nhiên, con người phải
giải quyết thoả đáng những vấn đề kinh tế - xã hội, những quan hệ giữa con
người và con người trên tất cả các phạm vi: cộng đồng, dân tộc, toàn nhân
loại. Chẳng hạn, để khắc phục tình trạng đốt rừng, cần tổ chức định canh,
phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào du canh; để bảo vệ voi Nam Phi cần
tạo công ăn việc làm cho những người dân chuyên sống bằng nghề săn bắt
voi; để phát triển tình cảm đạo đức của con người với tự nhiên cần giáo dục
nâng cao dân trí và ý thức sinh thái; để bảo vệ môi trường, các quốc gia giàu
cần giúp các nước nghèo trong chuyển giao và sử dụng công nghệ sạch;
ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hoà bình, bình đẳng trong phát triển, tôn trọng
sự đa dạng văn hoá... đều là những yêu cầu liên quan đến bảo vệ môi
trường. Nâng những yêu cầu đó lên thành cúc yêu cầu đạo đức, thực hiện
chúng một cách tự giác tự nguyện là bổn phận đạo đức của tất cả mọi người,
mọi cộng đồng, mọi quốc qia.
Như thế, theo nghĩa rộng, đạo đức môi trường hiện diện trong tất cả
các phương diện của cuộc sống con người, loài người; thực hiện đạo đức
môi trường là bổn phận của tất cả mọi người, của toàn nhân loại.
Trong tinh thần đó, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN);
Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ thế giới về bảo vệ thiên
nhiên (WWF) đã phối hợp xây dựng và đề xuất một chiến lược cho cuộc sống
bền vững dưới tiêu đề “Cứu lấy Trái Đất” công bố năm 1991. Để cứu lấy Trái
Đất, tức là bảo vệ môi trường sống và cuộc sống của nhân loại, cần xây dựng
một cuộc sống bền vững trên phạm vi toàn cầu.
Những người soạn thảo chiến lược cứu lấy Trái Đất đã đánh giá cao
vai trò của đạo đức trong việc bảo vệ môi trường nói riêng và xây dựng cuộc
sống bền vững nói chung. Họ đã đề xuất những yếu tố đồng thời cũng là
những yêu cầu căn bản của đạo đức thế giới về cuộc sống bền vững. Những
yếu tố, những yêu cầu đó được diễn đạt như sau:
+ “Mỗi con người là thành viên của cộng đồng sinh vật, bao gồm toàn
bộ các loài đang sống. Cộng đồng này liên kết tất cả mọi xã hội loài người
thuộc thế hệ hiện tại và tương lai với phần còn lại của thế giới tự nhiên. Nó
bao gồm tất cả mọi sự đa dạng về văn hoá và tự nhiên.
+ Mỗi người đều có những quyền cơ bản ngang nhau: quyền được
sống, quyền tự do và an toàn cá nhân, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng,
quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tham gia chính quyền; quyền được đi
học và trong phạm vi Trái Đất, được quyền hưởng nguồn tài nguyên cần thiết
cho một cuộc sống tạm đủ của mình:
- Không một cá nhân, một cộng đồng hay một quốc gia nào có quyền
tước đoạt phương tiện sống của người khác.
- Mỗi cá nhân hoặc mỗi xã hội đều được hưởng những quyền này và
có nghĩa vụ bảo vệ chúng cho tất cả mọi người.
- Mỗi dạng sống đều phải được bảo đảm quyền tồn tại, bất kể nó có giá
trị như thế nào đối với con người. Sự phát triển của loài người không được đe
doạ đến tính toàn vẹn của tự nhiên và sự sống còn của các loài khác. Con
người phải đối xử tử tế với tất cả các sinh vật khác và bảo vệ chúng chống lại
những hành vi hung bạo, những đau đớn có thể tránh được, cũng như sự giết
chóc không cần thiết.
+ Tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về những hành động của
mình gây tác hại đối với tự nhiên. Con người cần phải bảo vệ quá trình sinh
thái và tính đa dạng của tự nhiên, biết sử dụng mọi nguồn tài nguyên một
cách hết sức tiết kiệm và có hiệu quả, đảm bảo việc sử dụng bền vững các tài
nguyên có thể tái tạo được.
+ Tất cả mọi người đều phải ý thức được sự phân chia công bằng phúc
lợi và tổn phí của việc sử dụng nguồn tài nguyên giữa các cộng đồng khác
nhau và các nhóm khác có liên quan, giữa những vùng nghèo và những vùng
giàu, giữa thế hệ hiện tại và thế hệ mai sau. Mỗi thế hệ phải để lại cho thế hệ
mai sau một thế giới ít nhất cũng phong phú và đa dạng như thế giới mà mình
được thừa kế. Sự phát triển của một xã hội hay một thế hệ không được hạn
chế khả năng phát triển của xã hội hoặc thế hệ khác.
+ Việc bảo vệ quyền con người và quyền của các loài khác trong tự
nhiên là một nghĩa vụ của toàn thế giới, vượt lên trên tất cả mọi ranh giới về
văn hoá, tư tưởng và địa lí. Nghĩa vụ đó là của mỗi cá nhân và của cả tập
thể.”
Như vậy, theo nghĩa rộng, đạo đức môi trường chính là đạo đức của
cuộc sống bền vững, là mục tiêu và động lực của cuộc sống bền vững, cuộc
sống gắn kết toàn nhân loại và giới tự nhiên thành một chỉnh thể trong đó con
người là trung tâm. Có thể coi những yếu tố đạo đức thế giới về cuộc sống
bền vững được đề xuất bởi IUCN, UNEP, WWF là nội dung chủ yếu, những
yêu cầu chủ yếu của đạo đức môi trường trong điều kiện hiện nay. Mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia có thể căn cứ vào những yêu cầu chung đó và những điều
kiện cụ thể về kinh tế - xã hội, văn hoá và tự nhiên của mình để xây dựng một
hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường cụ thể, thích hợp nhằm điều
chỉnh toàn bộ các hoạt động sống theo tinh thần của xã hội bền vững, cuộc
sống bền vững.
Ở nước ta, mặc dù nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mới được thực hiện chưa lâu, nhưng không ít vấn đề môi trường
đã xuất hiện và đang tác động tiêu cực đến phát triển. Hiện nay, những vấn
đề môi trường ở nước ta hầu như chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa
được thoả đáng. Tài nguyên thiên nhiên liên tục bị tàn phá. Nhiều thành phần
môi sinh cùng với nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm bị suy thoái, ô
nhiễm, cạn kiệt. Nước thải, khí thải, chất thải rắn... không được quản lí hợp lí,
đặc biệt là trong các đô thị và trong các khu công nghiệp. Vệ sinh môi trường
nông thôn quá thấp kém. An toàn lao động bị vi phạm, đặc biệt nặng nề ở khu
vực kinh tế tư nhân. An toàn thực phẩm không đảm bảo và ngày một nguy
hiểm hơn. Biển cũng đang bắt đầu bị ô nhiễm và có chiều hướng tăng lên.
Các sự cố về môi trường cũng ngày một nhiều thêm..
Tinh trạng đáng báo động về môi trường ở nước ta hiện nay có cả
nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, nghĩa là có nguyên
nhân thuộc về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có nguyên nhân thuộc về
quản lí, nhận thức...
Như vậy, chỉ có thể báo vệ môi trường trong khuôn khổ chung của sự
phát triển bền vững. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nhấn
mạnh: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”.
Trong khuôn khổ chung đó, trên bình diện đạo đức, chúng ta cần đẩy
mạnh việc xây dựng đạo đức môi trường, biến các chuẩn mực đạo đức môi
trường thành sức mạnh nội tâm của mỗi người để những chuẩn mực đó thôi
thúc chúng ta trên tất cả các cấp độ, các lĩnh vực hoạt động nhằm xây dựng
một xã hội bền vững, cuộc sống bền vững.
Trong việc xây dựng đạo đức môi trường, chúng ta dựa trên cơ sở lí
luận là triết học, Đạo đức học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin đã khẳng
định tính thống nhất vật chất của thế giới, khẳng định con người là sản phẩm
của sự phát triển của tự nhiên, khẳng định mối quan hệ qua lại giữa con
người (xã hội) và tự nhiên. Nếu con người và tự nhiên có mối liên hệ qua lại
quy định lẫn nhau như vậy thì không thể tuỳ tiện phá vỡ mối liên hệ ấy. Có
điều, để tồn tại và phát triển thì con người phải khai thác tự nhiên, thậm chí
mức độ khai thác tự nhiên ngày càng phải gia tăng theo mức độ tăng dân số
và phát triển xã hội. Vấn đề chỉ là khai thác như thế nào cho hợp lí để vừa
phát triển vừa bảo vệ được tự nhiên, cải thiện môi trường. Tất cả những điều
có tính phương pháp luận như vậy đã có trong trước tác của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác. Cố nhiên, trong việc kế thừa các luận điểm có ý
nghĩa phương pháp luận đó, cần phải tính đến bối cảnh chung của tình trạng
môi trường ở nước ta, truyền thống văn hoá, đặc biệt là truyền thống hoà hợp
với tự nhiên trong triết lí phương Đông và Việt Nam.
Nếu coi những yếu tố căn bản của đạo đức thế giới về cuộc sống bền
vững là sự phản ánh những nỗ lực hiện nay của nhân loại trong việc xây
dựng những chuẩn mực, những yêu cầu của đạo đức môi trường thì chúng ta
cần tiếp nhận và luận giải chúng trên tinh thần của triết học, Đạo đức học Mác
- Lênin và truyền thống hoà hợp với tự nhiên ở nước ta để từ đó cụ thể hoá
thành những chuẩn mực phù hợp với điều kiện hiện nay ở nước ta. Làm sao
cho chiến lược cũng như mỗi dự án phát triển đều kết hợp được các mục tiêu
kinh tế - xã hội và môi trường, làm sao cho mỗi người dân thấu hiểu và quán
triệt được những chuẩn mực đạo đức vì xã hội và cuộc sống bền vững. Đó là
mục tiêu của phát triển và cũng đồng thời là mục tiêu của đạo đức và Đạo
đức học môi trường ở nước ta hiện nay.
Chương 7. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
1. Khái niệm giáo dục đạo đức và nội dung giáo dục đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội nhằm điều chỉnh
hành vi của con người, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử xã hội và
góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Đạo đức có vai trò rất
lớn trong đời sống xã hội của con người, nó là vấn đề thường xuyên được đặt
ra và giải quyết nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại,
phát triển. Sống trong xã hội, bất cứ ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề
đạo đức để tìm ra con đường, phương tiện hoạt động phù hợp, đúng đắn.
Trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người, suy cho cùng
nhân tố kinh tế là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, sự tiến bộ và phát triển của xã
hội không thể thiếu vai trò, chức năng của đạo đức. Và đặc biệt, khi xã hội có
sự phân chia giai cấp, có áp bức, có bất công, ngang trái thì cuộc đấu tranh
cho cái thiện, đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát vọng của nhân loại.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của phát triển xã hội. Để xây dựng xã hội mới,
chúng ta rất cần có những con người mới, những con người xã hội chủ nghĩa.
Những người phát triển toàn diện cả đức, cả tài, vừa "hồng" vừa "chuyên".
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý, nhắc nhở chúng ta phải coi trọng cả tài
và đức nhưng phải lấy đức làm gốc. Bởi tài năng chỉ có thể phát triển lâu bền
trên nền của đức và tài năng chỉ có thể hướng thiện trên gốc của đức.
Xuất phát từ đánh giá vai trò, chức năng của đạo đức đối với sự phát
triển của xã hội, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử
và luôn được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Trong xã hội ta
hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc đang trở
thành một nguồn sức mạnh tinh thần của sự nghiệp đổi mới đất nước, có
không ít vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa
hai lối sống: lối sống có lí tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động
của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của
cộng đồng và lối sống thực dụng, ích kỉ, dối trá, ăn bám, chạy theo đồng tiền
bất chính... Vì vậy, giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức mới làm lành mạnh
đời sống tinh thần xã hội là một nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở
nước ta.
1.1. Khái niệm và mục tiêu giáo dục đạo đức
- Khái niệm giáo dục đạo đức:
Giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành
văn hoá đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, những kinh
nghiệm, những chuẩn mực và lí tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm
chất đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và
thực hiện hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã
hội.
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác
định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng
nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng,
phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện
riêng rẽ của tồn tại xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình, các cá nhân thu
nhận đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng,
những chuẩn mực, đánh giá đạo đức đã được hình thành trong lịch sử cộng
đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân. Đối với cá nhân,
đạo đức xã hội tồn tại một cách khách quan mà trong cuộc sống của mình, cá
nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp thu, thực hiện.
Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hoá đạo đức xã hội
thành văn hóa đạo đức cá nhân. Đây cũng chính là quá trình tìm ra sự thống
nhất, biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và
cái đơn nhất.
- Mục tiêu của giáo dục đạo đức:
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm làm hình thành và phát triển ý
thức đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức của con người. Ý thức
đạo đức là toàn bộ những quan niệm về cái thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm,
trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong
xã hội. Ý thức đạo đức cá nhân là sự phản ánh hoạt động đạo đức của cá
nhân và là điều kiện của hoạt động đó.
Hành vi đạo đức là hoạt động của con người chịu ảnh hưởng của niềm
tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức.
Ý thức đạo đức không phát triển tách rời sự phát triển của xã hội. Nó
phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con
người (bằng dư luận xã hội). Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự
trọng... phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của
đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là
biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa này thì sự phát triển của
ý thức đạo đức thông qua giáo dục đạo đức là nhân tố biểu hiện rõ nhất sự
tiến bộ của xã hội.
Như vậy, ý thức đạo đức và hành vi đạo đức luôn có quan hệ biện
chứng với nhau, tạo nên bản chất đạo đức của con người. Ý thức đạo đức là
điều kiện, là cơ sở tâm lí cho sự thực hiện hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức
là sự thể hiện ý thức đạo đức trong thực tiễn, là thước đo sự phát triển ý thức
đạo đức và nhân cách đạo đức nói chung. Nếu không có hành vi đạo đức thì
ý thức đạo đức không đem lại những giá trị, những lợi ích cho xã hội, ý thức
đạo đức không mang tính thực tiễn.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức đạo đức, tình cảm và lí
tưởng đạo đức, trong đó, tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu
thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu
nhận được bằng con đường lí tính không thể chuyển hoá thành hành vi đạo
đức.
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử.
Con người sinh ra trong mỗi một gia đình lịch sử xã hội nhất định sẽ chịu sự
tác động mạnh mẽ của hệ thống đạo đức xã hội và chính bản thân con người
cũng tác động trở lại hệ thống đó. Môi trường đạo đức tác động đến cá nhân
bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức giúp cho
đạo đức xã hội chuyển hoá thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức
là hiện thực hoá nội dung giáo dục đạo đức bằng hành vi đạo đức trong cuộc
sống. Các hành vi này lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân hình
thành nên thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Giáo dục đạo đức phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kinh tế - xã hội. cách
thức tổ chức, mức độ tự giác của chủ thể...
Giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tiến bộ xã hội. Để giáo dục đạo đức
đạt hiệu quả cao, chúng ta cần giáo dục đạo đức với những nội dung cơ bản
sau:
- Giáo dục tri thức đạo đức:
Tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi của ý thức con người. Nó là kết quả
của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách
quan. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều cấp độ khác nhau, trong đó
tri thức đạo đức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành, phát
triển nhân cách con người.
Tri thức đạo đức là một yếu tố, một cấp độ của ý thức đạo đức. Về bản
chất, tri thức đạo đức là kết quả của nhận thức đạo đức, là sự phản ánh đời
sống đạo đức của xã hội và con người.
Tri thức đạo đức thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người được hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. Tri thức đạo đức lí luận là
những tư tưởng, quan điểm đạo đức được hệ thống hoá, khái quát hoá thành
các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù
đạo đức. Tri thức đạo đức thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp, nhiều
mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối hành vi đạo
đức của con người trong cuộc sống đó. Trình độ tri thức đạo đức thông
thường tuy ở cấp độ thấp hơn so với tri thức đạo đức lí luận nhưng sự phong
phú của tri thức kinh nghiệm là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành,
phát triển các lí thuyết đạo đức khoa học. Tri thức đạo đức lí luận có khả năng
phản ánh đời sống đạo đức của con người một cách khái quát, sâu sắc, chính
xác cao, vạch ra các mối liên hệ bản chất giữa con người với con người, giữa
con người với xã hội, với gia đình, bè bạn...
Sự phát triển của tri thức đạo đức từ trình độ thông thường lên trình độ
lí luận là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội, của sự đa dạng và sự
phức tạp hoá các quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội.
Tương ứng với điều đó, sự phát triển từ trình độ thông thường lên trình độ lí
luận trong tri thức đạo đức của cá nhân biểu hiện sự phát triển của ý thức cá
nhân đáp ứng yêu cầu đạo đức của xã hội và tạo điều kiện cho cá nhân tham
gia tích cực hơn trong đời sống xã hội. Tầm quan trọng của tri thức ở trình độ
lí luận làm cho giáo dục đạo đức bằng các học thuyết đạo đức trở thành một
trong những nhiệm vụ trọng yếu của giáo dục đạo đức.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị, quyền lợi xã hội của mỗi giai
cấp quy định, tri thức đạo đức xã hội của mỗi giai cấp có nội dung, hình thức
phát triển khác nhau hoặc thậm chí đối lập nhau. Tính giai cấp của tri thức
đạo đức biểu hiện rõ nét ở tâm lí xã hội, hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lí xã
hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, quan niệm, tâm trạng, truyền thống, thói
quen đạo đức riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc
tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của tri thức đạo
đức xã hội biểu hiện ở mức độ sâu sắc hơn. Trong xã hội có đối kháng, giai
cấp bao giờ cũng có những quyết định, tư tưởng đạo đức đối lập nhau. Tư
tưởng đạo đức thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai
cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó. Nếu quan điểm, tư tưởng
đạo đức của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì
quan điểm tư tưởng đạo đức của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện
vọng, lợi ích của quần chúng lao động chống lại chế độ người bóc lột người,
mơ ước xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng. Ph.Ăngghen viết “Xét cho
đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm
của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận
động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo
đức của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp
thống trị, hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự
nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của
những người bị áp bức”.
- Giáo dục tình cảm đạo đức:
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản
ánh mối quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới
khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở
thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
Tình cảm đạo đức là một yếu tố cấu thành, là một hình thái biểu hiện,
một cấp độ của ý thức đạo đức. Ở cấp độ này, tình cảm đạo đức biểu hiện ra
như là phản ứng tình cảm của con người đối với các hiện tượng đạo đức.
Tình cảm đạo đức vừa biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá đạo đức
(đúng, sai) vừa biểu hiện xu hướng nhân cách đạo đức (tích cực hay tiêu
cực). Nhận thức đạo đức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và
phải thông qua tình cảm đạo đức thì nhận thức đạo đức mới biến thành hoạt
động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình. Người có tình cảm đạo
đức phát triển là người nhạy cảm trước cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai, cái
xấu, cái đẹp là người có xúc cảm, có sự rung động trước cái đẹp của tự
nhiên, xã hội nhưng cũng sẵn sàng phản ứng mạnh trước cái xấu; có thái độ
kiên quyết ủng hộ, bảo vệ cái tốt, lên án, loại bỏ những hiện tượng phi đạo
đức. Sự nhạy cảm ấy là điều kiện tiên quyết của hành vi đạo đức. Nó tạo ra
động cơ và sự ràng buộc bên trong của hành vi đạo đức. Chính vì vậy, giáo
dục tình cảm đạo đức là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc giáo
dục đạo đức.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay giáo dục tình cảm đạo đức càng có
ý nghĩa cấp thiết. Cơ chế thị trường với sự thừa nhận và khuyến khích lợi ích
cá nhân (cố nhiên đó là lợi ích cá nhân hợp pháp, chính đáng) tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của mỗi cá nhân trên nhiều phương diện, đặc biệt
là tài năng, trí tuệ, mặc dù là một “nhân tố khách quan cần thiết của xây dựng
và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”, vẫn có những tác
động tiêu cực tới sự phát triển. Một trong những tác động tiêu cực ấy là nó có
xu hướng làm suy yếu tình cảm đạo đức, tình cảm gắn kết con người với con
người, với tập thể và với xã hội. Đời sống đạo đức trong gia đình, nhất là gia
đình ở đô thị đang có chiều hướng suy giảm gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự
bền vững cuộc sống gia đình, hạnh phúc của mỗi thành viên, tới tình cảm,
niềm tin, đạo đức của con người. Giáo dục và tự giáo dục đạo đức đối với
cán bộ đảng viên bị xem nhẹ, việc rèn luyện và đánh giá đạo đức bị buông
lỏng. Giáo dục và y tế là những lĩnh vực mà tình cảm đạo đức luôn được đặt
lên hàng đầu, là những hoạt động luôn chứa đựng lòng vị tha, nhân ái, nhân
đạo, thì giờ đây, những giá trị tốt đẹp đó phần nào đang bị giá trị vật chất làm
vẩn đục. Do vậy, cùng với sự điều tiết cơ chế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, giáo dục tình cảm đạo đức sẽ góp phần tích cực vào việc khắc
phục tình trạng đó, bồi đắp lại những tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người
trong điều kiện hiện đại.
- Giáo dục lí tưởng đạo đức:
Cùng với tình cảm và tri thức đạo đức, lí tưởng đạo đức là một yếu tố
quan trọng cấu thành ý thức đạo đức cá nhân. Chức nắng của lí tưởng đạo
đức được thể hiện ở chỗ nó là cơ sở lựa chọn giá trị, là mục tiêu cao nhất của
hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức. Lí tưởng đạo đức chính là định hướng
giá trị, là mục đích của hành vi đạo đức; nó tạo ra hứng thú, khát vọng và
động cơ thúc đẩy con người trong hoạt động thực hiện đạo đức.
Lí tưởng đạo đức là quan niệm về cái cần vươn tới và cũng như mọi lí
tưởng xã hội khác, lí tưởng đạo đức bao hàm yếu tố lựa chọn, mong muốn,
khao khát vì vậy nó chứa đựng yếu tố tình cảm đạo đức. Nó là sự thống nhất
giữa tình cảm và lí trí. Việc cá nhân lĩnh hội được lí tưởng đạo đức tiên tiến
của thời đại vừa khẳng định sự phát triển đạo đức của anh ta vừa là điều kiện
bảo đảm chắc chắn nhất cho anh ta trong mọi hoạt động mang ý nghĩa xã hội.
Sự phát triển đồng bộ và phong phú của tình cảm, tri thức và lí tưởng
đạo đức là cơ sở để con người nhận thức, đánh giá và thực hiện hành vi đạo
đức. Vì vậy, giáo dục đạo đức với tư cách là quá trình làm hình thành và phát
triển tình cảm, tri thức và lí tưởng đạo đức hình thành và phát triển ý thức đạo
đức con người, cũng đồng thời là quá trình làm phát triển năng lực hoạt động
đạo đức tức là các năng lực nhận thức đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức
của con người.
- Giáo dục giá trị đạo đức:
Giá trị đạo đức bao gồm: Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giá
trị đạo đức cách mạng và tinh hoa đạo đức nhân loại.
+ Về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc:
Truyền thống đạo đức dân tộc là mạch chủ đạo, chi phối suy nghĩ, hành
vi ứng xử, đạo lí làm người của người Việt Nam. Nó trở thành chuẩn mực để
xác định thiện - ác, phải - trái, tốt - xấu; chi phối lương tâm, hạnh phúc, nghĩa
vụ của người Việt Nam. Vì thế, nó trở thành một triết lí xã hội, một hình thức
giáo dục đạo đức sâu sắc. Dân tộc Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng
nước, giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú, bền
vững với những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, cao quý. Thứ nhất, đó là
chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước, giữ nước.
Thứ hai, truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân tuơng ái “lá lành đùm
lá rách”. Thứ ba, dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan, yêu đời, tin
tưởng ở tương lai. Trong muôn vàn khó khăn, nguy hiểm vẫn động viên nhau
“chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan của dân tộc ta có cơ
sở xuất phát từ niềm tin vào sức mạnh bản thân, tin vào sự tất thắng của
chân lí, của chính nghĩa. Thứ tư, Việt nam là một dân tộc có truyền thống cần
cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu; là một dân
tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng đón nhận tinh hoa văn hoá, đạo đức
nhân loại.
+ Về giá trị đạo đức cách mạng:
Quan niệm chung về đạo đức nói đến nội dung của đạo đức làm cơ sở
để con người tuân theo. Còn đạo đức cách mạng chính là đạo đức hành
động. Nó không chỉ hàm chứa nội dung của đạo đức mà còn chỉ rõ phương
pháp, cách thức để thực hiện nội dung đó. Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng
là “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ
chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi
ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư
tưởng và cải tiến công tác của mình cùng đồng chí mình tiến bộ”.
+ Về tinh hoa đạo đức nhân loại:
Giá trị đạo đức phương Đông được thể hiện rõ nét trong Nho giáo, Phật
giáo... Trong đạo Nho, mặc dù có những yếu tố hạn chế nhưng lại chứa đựng
nhiều giá trị đạo đức tiến bộ, những hạt nhân hợp lí tạo nên sức sống mãnh
liệt của nó trong mấy ngàn năm qua. Mặt tích cực của đạo đức Nho giáo đó là
triết lí hành động, tư tưởng nhập thế, lãnh đạo, giúp đời; là lí tưởng về một xã
hội bình trị; tức là ước vọng về một xã hội an ninh, hoà mục, một “thế giới đại
đồng”; là triết lí nhân sinh, tu thân dưỡng tính... Bên cạnh đó những giá trị đạo
đức trong Phật giáo lại thể hiện dưới góc độ: Thứ nhất là tư tưởng vị tha, từ
bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, một tình
yêu bao la dành cho cả chim muông; cây cỏ. Thứ hai là nếp sống có đạo đức,
giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba là tinh thần bình đẳng, dân chủ, chất
phác chống lại sự phân biệt đẳng cấp. Thứ tư là tinh thần đề cao lao động,
chống lười biếng.
Giá trị đạo đức phương Tây thể hiện: Thứ nhất ở tư tưởng đạo đức
truyền thống Cơ Đốc giáo, trong Tân ước, Cựu ước; qua lời nói, việc làm của
Chúa Giêsu với lòng nhân ái, thương người. Thứ hai là chủ nghĩa nhân văn,
nhân đạo tư sản thời kì khai sáng thông qua các khẩu hiệu: tự do, bình đẳng,
bác ái. Thứ ba là tư tưởng dân chủ, nhân quyền, dân quyền Pháp (1789);
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc
lập của nước Mĩ năm 1776...
1.3. Các hình thức giáo dục đạo đức cơ bản
Cũng như tất cả các loại hình giáo dục khác, giáo dục đạo đức đòi hỏi
một hệ thống các hình thức giáo dục thống nhất và đa dạng. Điều đó bị quy
định trước hết tính đa dạng của đối tượng giáo dục. Nói cụ thể hơn, đó là sự
khác biệt của đối tượng giáo dục về mặt tuổi tác, nghề nghiệp, điều kiện sinh
sống, học vấn và những đặc điểm xu hướng, tính cách. Trong quá trình xã hội
hoá giáo dục nói chung, xã hội hoá giáo dục đạo đức nói riêng, đã và đang
xuất hiện nhiều hình thức giáo dục cụ thể và hiệu quả. Tuy nhiên, về đại thể
có và cần thiết chú ý đến những hình thức giáo dục đạo đức cơ bản sau:
- Giáo dục đạo đức thông qua lao động và hoạt động xã hội:
Theo quan niệm của triết học và Đạo đức học mácxít để có thể giải
quyết một cách khoa học nội dung giáo dục đạo đức cần phải xuất phát từ
những tiền để hiện thực, khách quan, gắn liền với những hoạt động cơ bản,
hoạt động xã hội của con người. Để có thể tồn tại và phát triển, con người
phải dựa vào lao động sản xuất. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho
rằng: trong lao động sản xuất, con người không chỉ bó hẹp một mục đích duy
nhất là duy trì sự sinh tồn của thể xác mà còn biến bản thân hoạt động ấy
thành đối tượng của ý thức và lí trí, khiến cho nó trở nên chủ động, sáng tạo
theo quy luật của cái đẹp. Cũng trong lao động và trong các hoạt động xã hội,
con người thể hiện một cách trực tiếp quan hệ của mình với người khác, với
xã hội. Và chính trong lao động và các hoạt động xã hội, con người phải giải
quyết quan hệ lợi ích giữa mình với người khác và giữa mình với xã hội. Cho
nên, lao động và các hoạt động xã hội của con người vừa là điều kiện, vừa là
phương thức hình thành nhân cách và nhân cách đạo đức, hoàn thiện con
người kể cả về trí tuệ lẫn tinh thần, khẳng định sự trưởng thành của mỗi cá
nhân cũng như phương diện đạo đức của cá nhân.
Đạo đức học mácxít khẳng định: lao động và các hoạt động xã hội bao
giờ cũng mang tính xã hội. Các cá nhân tham gia vào lao động sản xuất và
hoạt động xã hội tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần đóng góp vào
thành quả chung của xã hội. Việc các cá nhân lao động sản xuất, đóng góp
vào xã hội vừa mang tính tự nguyện, tất yếu vừa là đòi hỏi của xã hội - đó
chính là sự thực hiện nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội. Và chính các cá
nhân làm cho lao động sản xuất và hoạt động xã hội trở nên có ý nghĩa đối
với bản thân. Toàn bộ những ý nghĩa đó đối với chủ thể hoạt động chính là
hạnh phúc của họ. Như vậy, ý nghĩa cuộc sống, nghĩa vụ, hạnh phúc... của
con người luôn được hình thành và phát triển thông qua lao động sản xuất và
các hoạt động xã hội của con người.
Đó cũng là quá trình mỗi chủ thể hoạt động hoàn thiện thể chất, nâng
cao năng lực hoạt động, phát triển tài năng, mài sắc tư duy lành mạnh, làm
phong phú tri thức và tinh thần, tư tưởng, cảm xúc, làm giàu các quan hệ xã
hội một cách tích cực. Kết quả đó đưa lại cho con người niềm vui, niềm tự
hào, sung sướng, nâng cao ý thức phẩm giá, tin tưởng vào xã hội và con
người, gắn bó mỗi cá nhân với cộng đồng trong tình yêu thương, quý trọng
lẫn nhau.
Đạo đức của con người trước hết được thẩm định bằng thái độ lao
động, hiệu quả lao động, đóng góp của họ đối với xã hội, lời nói đi đôi với việc
làm, động cơ và hiệu quả. Tránh kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu
quả, vụ lợi. Trong cuộc sống, có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của con
người. Ví dụ: lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp đạo đức, có nhu
cầu tinh thần lành mạnh, thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức, thái độ đối với
lao động. Trong đó, thái độ với lao động là thước đo quan trọng bởi vì căn cứ
vào nó mà ta có thể đánh giá con người lao động nghiêm túc, trung thực,
trách nhiệm hay dối trá, qua quýt, tiết kiệm hay hoang phí. Và người lao động
chỉ được kính trọng khi có thái độ lao động đúng đắn, biểu hiện cụ thể:
+ Lao động cần cù, khoa học, sáng tạo, năng suất, chất lượng, hiệu
quả.
+ Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.
+ Coi trọng lao động trí óc và lao động chân tay.
+ Yêu quý lao động của mình và lao động của người khác.
Xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều của cải
vật chất, do đó, người lao động phải lao động một cách nhiệt tình, sáng tạo
với năng suất, chất lượng cao. Theo V.I. Lênin: "Chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ
chỗ nào mà những công nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hi
sinh và không quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao động”.
Những huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức con người đã
đóng một vai trò to lớn trong việc giáo dục thái độ lao động đối với mỗi người
lao động Việt Nam. Đó là giáo dục thái độ nhận thức mới đối với người lao
động cho người lao động; thái độ trân trọng đối với sở hữu công cộng, biết
phát huy tính tập thể, cương quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống
vi phạm kỉ luật lao động, chống tệ quan liêu, hối lộ...
Để các hoạt động nghề nghiệp của con người trở thành phương thức
phát triển đạo đức, ngoài việc tạo ra những điều kiện phù hợp với tính người,
còn phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho người lao động. Giáo dục đạo
đức thông qua lao động như vậy không chỉ góp phần làm phát triển đạo đức
người lao động mà còn tạo ra uy tín cho các đơn vị sản xuất, các xí nghiệp,
công ty, góp phần tăng cường hiệu quả kinh doanh sản xuất.
Trong đời sống xã hội ta hiện nay, đạo đức của người lao động, của
nhân dân lao động nước ta về cơ bản vẫn giữ được những giá trị, chuẩn mực
tốt đẹp của truyền thống đạo đức dân tộc. Biểu hiện tốt đẹp này có trong ý
thức tình cảm, hành vi đạo đức của cá nhân và cộng đồng. Đó là sự cưu
mang giúp đỡ đồng bào bị nạn với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “thương
người như thể thương thân”..., đó là những tấm lòng từ thiện luôn hướng tới
những cảnh đời bất hạnh, khốn cùng, đó là sự hi sinh quên mình vì hạnh
phúc bình yên của cuộc sống nhân dân của những chiến sĩ công an, những
bác sĩ hết lòng cứu chữa bệnh nhân... Song, bên cạnh đó, cũng không ít
những hiện tượng suy thoái đạo đức trong lao động: không ít người chỉ muốn
hưởng thụ mà không muốn lao động, hơn nữa, tham vọng làm giàu và trở
nên giàu có bằng con đường bất chính, phi pháp, trái với lương tâm, đạo lí.
Nó gây tổn hại tới lợi ích chung về mặt vật chất và xã hội và trực tiếp làm
băng hoại đạo đức. Vì vậy, giáo dục đạo đức bằng lao động sẽ góp phần
khắc phục tình trạng trên và có thể phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay.
- Giáo dục đạo đức thông qua truyền đạt các tri thức đạo đức:
Tri thức đạo đức là một trong những thành tố quan trọng nhất của ý
thức đạo đức. Nó vừa là cơ sở của tình cảm, vừa là cơ sở của lí tưởng đạo
đức. Tình cảm đạo đức có mạnh mẽ, sâu sắc và ổn định hay không là tuỳ
thuộc vào tính đúng đắn, sự phong phú và chiều sâu của tri thức đạo đức. Lí
tưởng đạo đức có hiện thực và thuyết phục hay không cũng tuỳ thuộc vào
tính đúng đắn của tri thức đạo đức.
Tri thức đạo đức được hình thành và phát triển trong toàn bộ hoạt động
sống của con người, nhưng được hình thành một cách trực tiếp và rõ rệt nhất
thông qua hình thức truyền đạt giảng giải.
Giáo dục bằng truyền đạt tức là trực tiếp truyền đạt cho con người
những hiểu biết từ trình độ thông thường đến trình độ lí luận về đạo đức để
con người tự điều chỉnh hành vi của mình, biết đánh giá hành vi của mình và
của người khác.
Đạo đức học Mác - Lênin với tư cách là sự phản ánh về mặt lí luận quá
trình xây dựng nền đạo đức và những nhân cách đạo đức xã hội chủ nghĩa,
có vai trò to lớn trong sự nghiệp giáo dục của chúng ta. Giáo dục Đạo đức
học Mác - Lênin là một hình thức giáo dục đạo đức vừa cấp thiết vừa lâu dài.
- Giáo dục đạo đức thông qua tấm gương đạo đức:
Giáo dục đạo đức bằng những tấm gương đạo đức là một trong những
hình thức giáo dục đạo đức cơ bản đã được sử dụng từ lâu trong lịch sử.
Những tấm gương đạo đức chính là những mẫu đạo đức mà con người có
thể trực tiếp làm theo. Ngay ở thời kì đầu của xã hội loài người, dưới điều
kiện chế độ công xã nguyên thuỷ, hình thức này đã được áp dụng trong xã
hội không có sự phân chia giai cấp, không có hiện tượng người bóc lột người,
họ cùng nhau săn bắt, hái lượm. Kỉ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng
sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội và sự tôn kính đối với
người Tộc trưởng. Người Tộc trưởng chính là một tấm gương để mọi người
trong xã hội lúc bấy giờ noi theo.
Những tấm gương đạo đức thông thường nhất là những ứng xử đạo
đức hàng ngày giữa con người với con người trong gia đình cũng như ngoài
xã hội. Mỗi cá nhân với tính chất là đối tượng của giáo dục đạo đức sẽ tiếp
nhận, những cách ứng xử hàng ngày của mọi người là vận dụng chúng vào
trong những tình huống tương tự mà mình gặp phải trong cuộc sống.
Một trong những nét độc đáo của giáo dục đạo đức là sự tham gia và
vai trò của phẩm chất đạo đức của chủ thể giáo dục đạo đức. Hiệu quả của
giáo dục đạo đức không chỉ tuỳ thuộc đơn thuần vào phương thức giáo dục,
nội dung giáo dục có phù hợp hay không mà phần lớn tuỳ thuộc vào tính
gương mẫu của chủ thể giáo dục. Thực tế cuộc sống chứng minh: Không thể
nói đến hiệu quả của việc giáo dục đạo đức nếu người đi giáo dục lại không
phải là người mô phạm, không tuân theo những chuẩn mực đạo đức. Mỗi con
người chịu sự chi phối của rất nhiều mối quan hệ, mỗi mối quan hệ, mỗi cách
cư xử của các cá nhân này là một bài học đạo đức đối với các cá nhân khác.
Trong gia đình, người cha, người mẹ là nhân tố quan trọng nhất phát huy hiệu
quả cao nhất biện pháp giáo dục đạo đức thông qua tấm gương. Vì cha mẹ là
người sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái từ thuở lọt lòng, đứa trẻ chịu ảnh
hưởng đầu tiên, lớn nhất và suốt đời về tri thức, tình cảm đạo đức cũng từ
chính hành vi đạo đức của mẹ cha. Sự ảnh hưởng của lối sống đạo đức của
cha mẹ đối với con cái mang tính hai chiều: cha mẹ làm gương cho con học
tập và chính bản thân cha mẹ cũng phải luôn tự rèn luyện trau dồi đạo đức
cho xứng đáng với niềm tin, tình yêu của con cái.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử cần có một đội ngũ cán bộ, lãnh đạo vừa có
phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực để đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ
cách mạng. Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương, cuộc sống của
Đảng và Nhà nước, đưa nó đến với nhân dân, vận động tổ chức nhân dân
thực hiện. Vì vậy, hơn ai hết, trong sự phát triển của kinh tế - xã hội hiện nay
mỗi cán bộ phải tự phấn đấu, rèn luyện mình trở thành một tấm gương trước
nhân dân. Cán bộ càng cao thì càng phải gương mẫu, càng phải gìn giữ
phẩm chất đạo đức.
Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tổ chức, động viên, khích lệ quần chúng nhân dân đấu tranh giành độc lập
và chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội. Hơn ai hết Người đã đi đầu trong cuộc đấu
tranh vĩ đại đó, là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, lòng yêu
nước, về đức hi sinh, về tinh thần nhân văn cao cả. Hồ Chí Minh là người
ham hiểu biết và bền bỉ phấn đấu vì lí tưởng độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh là
nhà chính trị vĩ đại, Người đã cống hiến toàn bộ sức lực và kiến thức của
mình cho nhân dân mà còn yêu thương sâu sắc các tầng lớp nhân dân lao
động trên thế giới... Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh hiện nay là sự thể hiện sinh động phương pháp giáo dục đạo
đức theo hình thức nêu gương.
- Giáo dục đạo đức thông qua hình tượng nghệ thuật:
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, quá hình hình thành nghệ thuật gắn liền
với lao động của con người, với thực tiễn xã hội. Cũng như các hình thái ý
thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã
hội. Nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình
tượng nghệ thuật.
Giáo dục đạo đức bằng nghệ thuật là một hình thức không thể thiếu
được trong giáo dục đạo đức. Hình tượng nghệ thuật với tư cách là phương
thức và kết quả của sự phản ánh hiện thực là sự thống nhất giữa tình cảm và
lí trí, giữa cái cá biệt và cái phổ biến, cái chủ quan và khách quan, cái bản
chất và cái hiện tượng. Vì thế, nghệ thuật có thể tác động tới thế giới tinh thần
của con người bằng sức mạnh tổng hợp của các giá trị chân - thiện - mĩ được
thể hiện trong các hình tượng nghệ thuật.
Sự phát triển của nghệ thuật, cả nội dung và hình thức, không thể tách
rời khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính độc lập
tương đối rất rõ nét trong sự phát triển của mình. Nó không phải bao giờ cũng
phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, dễ thấy. Nghệ thuật đích thực
không thuyết lí một cách lộ liễu, nhưng tiếp xúc với nghệ thuật người ta lĩnh
hội được cái chuẩn mực đạo đức một cách tự nhiên, biết được cách ứng xử
hợp đạo lí một cách sâu sắc; học được cách làm người thông qua các hình
tượng nghệ thuật. Nghệ thuật chứa đựng những nhân tố tình cảm, nó tác
động đến con người không chỉ bởi những nội dung tình cảm, mà điều quan
trọng, đối với giáo dục đạo đức là nó tuyên truyền nội dung giáo dục đạo đức
bằng con đường tình cảm, bằng niềm tin. Chính bằng con đường độc đáo đó,
nghệ thuật đem tri thức, kinh nghiệm, quan điểm đạo đức đến với người cảm
thụ có sức thuyết phục và cảm hoá đặc biệt sâu sắc.
M. Goocki cho rằng: Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng thèm khát tự
do. Trong tự do bao giờ cũng chứa đựng cái tốt, cái đẹp, sức mạnh của nghệ
thuật chân chính là ở chỗ: nó đấu tranh, phấn đấu cho cái đẹp, nêu lên khát
vọng thiết tha của những con người chân chính, hướng tới cuộc sống cao cả.
Nghệ thuật chân chính là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội
thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mĩ của con người. Khi phản ánh
thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị
thẩm mĩ cao, nghệ thuật, đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người,
kích thích tính tích cực của con người, xây dựng ở con người những hành vi
đạo đức tốt đẹp.
Vấn đề giáo dục đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật là sự tác động
tích cực có định hướng vào ý thức đạo đức từng cá nhân. nhưng không có
nghĩa là mỗi cá nhân chỉ thụ động chờ đợi sự tác động từ bên ngoài. Sự giáo
dục đạo đức có hiệu quả phải do tính tự giác của mỗi cá thể. Giáo dục đạo
đức bằng hình tượng nghệ thuật cần được hiểu, được vận dụng vừa như là
sự tác động bên ngoài từ hình tượng nghệ thuật vào đối tượng được giáo
dục, vừa như là sự tự vận động từ bên trong đối tượng.
Bản thân nghệ thuật là sự cô đặc của cuộc sống, nó thể hiện tư tưởng
lí tưởng của nhà sáng tạo nói lên khát vọng cao đẹp và tiến bộ của tập đoàn
người, có thể nó còn là đại diện cho khát vọng cao đẹp của một giai cấp, một
thời đại. Khát vọng cao đẹp ấy được nhân lên rất nhiều lần cho người tiếp xúc
với nó, đem lại tình cảm đạo đức mãnh liệt hơn bất cứ hình thức giáo dục đạo
đức nào. Đọc một cuốn tiểu thuyết, xem một bộ phim, chúng ta được sống với
các nhân vật, các cảnh đời điển hình với tất cả tâm tư, tình cảm, ước mơ...
của những hình tượng đã được điển hình hoá. Chúng ta có thể thông qua
những hình tượng nghệ thuật để rút ngắn được nhiều lần sự tích luỹ tri thức
kinh nghiệm đạo đức đời thường, tránh được những sai lầm vừa có tính cá
nhân, vừa có tính xã hội.
Sống với nghệ thuật là sống với cái tốt, cái đẹp; nếu có những cái xấu,
cái thấp hèn thì cũng là để con người hướng tới cái tốt, cái đẹp trong nghệ
thuật. Vì vậy, nghệ thuật có khả năng to lớn trong sự tác động tới tình cảm, tư
tưởng con người giúp cho con người tự xây dựng cho mình những tư tưởng
đúng, những tình cảm đẹp, làm cơ sở vững chắc, cho sự hình thành hành vi
đạo đức lành mạnh, vươn tới một cuộc sống tốt hơn.
Giáo dục đạo đức bằng nghệ thuật là hình thức hấp dẫn, nó đi vào lòng
người một cách tự nguyện, vì vậy nó có hiệu quả rộng lớn và lâu bền. Cái đẹp
của nghệ thuật làm cho con người say mê và hoàn toàn tự nguyện đi theo
định hướng đạo đức gợi mở của nó. Nếu nghệ thuật là công cụ sắc bén thì
giáo dục đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật giúp cho con người sử dụng
công cụ đó để làm phong phú thế giới tinh thần của mình, hoàn thiện hành vi,
lối sống đạo đức của mình một cách hiệu nghiệm.
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá
cao vai trò giáo dục đạo đức bằng nghệ thuật. Tuy nhiên, đó phải là nghệ
thuật chân chính, nghệ thuật thật sự thể hiện được những giá trị chân - thiện -
mĩ của dân tộc và thời đại. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng chi rõ: “Văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong nền
văn hoá, gắn bó với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo. Khuyến khích tự do sáng tác, nghệ thuật vì sự hoàn thiện của con
người bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào dân tộc,
ý chí tự lực, tự cường, phấn đấu làm cho dân giàu nước mạnh, phê phán
những thói hư tật xấu, cái dộc ác, cái thấp hèn”.
2. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Vai trò của đạo đức Hố Chí Minh
Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại và vô cùng kính yêu của Đảng và nhân dân
ta - người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời hoạt động
cách mạng và tư tưởng đạo đức của Người đã để lại cho chúng ta những di
sản quý báu. Nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiễn tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, trong quá trình dạy và học nói chung, môn Đạo đức học nói
riêng, chúng ta luôn chú trọng việc nghiên cứu, rèn luyện, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trăn trở về sự nghiệp “trồng người”.
Người đòi hỏi “tự do học tập”, “thực hành giáo dục cho toàn dân” và “một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người thường nhấn mạnh việc kết hợp giáo dục
đạo đức và tri thức đạo đức cho sinh viên, học sinh, trong đó đạo đức phải là
cái gốc cho sự phát triển nhân cách của con người và xã hội. Người nói “giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản... thì còn làm nổi việc gì". Người
nêu mục tiêu học tập cho thanh thiếu niên: “Học để làm việc, làm người”, “Học
để tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Người yêu cầu thế hệ trẻ luôn phải thấm
nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và luôn phải học tập, tu dưỡng đạo đức
cách mạng vì: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng thì phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân”. Và suốt cả cuộc đời, Người đã sống, chiến đấu, hi sinh
cho lí tưởng cao đẹp đó. Người dành tất cả tình yêu thương cho đồng bào,
đồng chí, già trẻ, trai gái, miền ngược, miền xuôi... mỗi một lời nói, bài viết,
một buổi gặp gỡ, làm việc của Người là một tấm gương đạo đức cho toàn
Đảng, toàn dân, đặc biệt thế hệ trẻ chúng ta noi theo.
Hồ Chí Minh là một trong ít người nhấn mạnh nhiều nhất đến đạo đức
và thấy được vai trò, tầm quan trọng của đạo đức từ rất sớm. Một trong
những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên trí thức yêu nước đầu tiên của
Việt nam những năm 20 là bài giảng về “Tư cách người cách mạng”. Sự quan
tâm của Hồ Chí Minh về đạo đức thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt từ cách
mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đạo đức
của Người thể hiện nhiều trong các tác phẩm: Đường kách mệnh (1927), sửa
đổi lối làm việc (1947), Cần, kiệm, liêm, chính (1949), Đạo đức cách mạng
(1958), Nâng cao đạo đức cách mạng (1969), Di chúc (1965 - 1969).
Hồ Chí Minh quan tâm đến cả hai phương diện lí luận và thực tiễn. Về lí
luận đạo đức: Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và
toàn diện về đạo đức. Thứ nhất, đối với mọi đối tượng: công nhân, nông dân,
văn nghệ sĩ, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên nhi đồng... Thứ hai, trên mọi lĩnh
vực hoạt động của Người: từ đời tư đến công việc, trong sinh hoạt, học tập,
lao động... Thứ ba là trên mọi phạm vi: gia đình, xã hội; giai cấp, dân tộc;
quốc gia, quốc tế... Thứ tư là đối với cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi
người: đối với mình, đối với người, đối với việc, về thực tiễn đạo đức: Người
luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của cán bộ, đảng viên,
thanh thiếu niên. Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh đào tạo các chiến sĩ cách
mạng không chỉ bằng chiến lược mà còn bằng chính tấm gương đạo đức
trong sáng của mình.
2.2. Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về Nhân, Nghĩa, Lễ, Tin
- Nhân:
Hồ Chí Minh đã tách ba yếu tố tích cực nhất của “Ngũ thường” trong
Nho giáo là: nhân, nghĩa, trí và kết hợp với hai yếu tố dũng, liêm thành “nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm” thành những yếu tố đạo đức cơ bản, cần thiết nhất cho
con người. Trong quan niệm về “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”, Hồ Chí Minh
chú ý nhiều nhất tới đức nhân của con người.
Đức nhân trong quan niệm của Hồ Chí Minh là sự kế thừa truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu
tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỉ cùng với việc thể nghiệm
của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh xác định:
tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp
nhất.
Trong bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá II Trường Đại
học Nhân dân Việt Nam, Người đưa ra định nghĩa về chữ nhân “Nhân nghĩa
là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân". Như vậy, với
Người, “nhân” trước hết phải là yêu dân, kính dân, quan tâm đến dân; quý
trọng sinh mạng của con người; đấu tranh giành cuộc sống hoà bình, ấm no
cho nhân dân. Lòng yêu nước thương dân của Hồ Chí Minh gắn liền với việc
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức
của giặc ngoại xâm. Đó không phải là lòng thương người chung chung không
giai cấp như tôn giáo. Tình yêu thương ấy hướng tới một đối tượng cụ thể là
những con người cực khổ cần lao, là nhân dân lao động bị áp bức bóc lột.
Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Diễn đạt tư tưởng của Nho giáo về đức nhân, Hồ Chí Minh cho rằng:
“Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân
dân. Sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ,
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người
đã không ham, không e, không sợ thì việc gì họ cũng làm được”.
Với đối tượng là cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ trong quân sự, Người
dạy “Nhân là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của
mình”. Hay “Nhân là phải thương yêu cấp dưới, phải đồng cam cộng khổ với
họ. Đối với địch hàng ta phải khoan dung”. Dân ta có câu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở tình
yêu thương với nhân dân Việt Nam mà còn dành cho tất cả những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới. Tình yêu
thương con người ở Hồ Chí Minh đã vượt phạm vi dân tộc, mang tính nhân
loại, bốn biển năm châu, bốn phương vô sản. Năm 1924, Bác viết: “Vậy là, dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người, người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi:
Tình hữu ái vô sản!".
Người khẳng định:
"Lọ là thân chí ruột rà
Công nông thế giới đều là anh em"
Đây cũng là nội dung cơ bản của tinh thần quốc tế.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong mối
quan hệ với bạn bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong cuộc sống
hàng ngày với từng số phận, từng cảnh đời. "Bác thương các cụ già, xuân về
gửi biếu lụa; Bác thương đàn cháu nhỏ, Trung thu gửi cho quà; Bác thương
đoàn dân công, đêm nay ngủ ngoài rừng; Bác thương người chiến sĩ, đứng
gác ngoài biên cương".
Hay:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người chung giai cấp thì thương nhau cùng”.
Càng nêu cao đức nhân bao nhiêu Hồ Chí Minh càng phê phán những
hành động trái với nhân nghĩa bấy nhiêu. Người kịch liệt lên án những việc
làm trái với đạo nhân và chính nghĩa. Người khẳng định: “Triết lí của đạo
Khổng và triết lí của phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức kỉ
sở bất dục vật thi ư nhân”. Điều đó có nghĩa là điều mình không muốn thì
không làm cho người khác.
Tình yêu thương con người của Bác còn thể hiện đối với những người
có sai lầm, khuyết điểm nhưng đã nhận rõ sai lầm, khuyết điểm của mình và
luôn cố gắng sửa chữa, phấn đấu. Chính tình yêu thương bao la đó đã đánh
thức, khơi dậy những điều tốt đẹp và làm mất dần đi những xấu xa trong mỗi
con người; tạo điều kiện cho họ sau mỗi lần vấp ngã đứng dậy, vươn lên,
hoàn thành nhiệm vụ. Lòng yêu thương đó của Người có cơ sở vững chắc là
niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con người, dù nhất thời họ
bị lầm lạc nhưng với sức cảm hoá của cách mạng và giáo dục, Người luôn tin
tưởng họ có thể vươn tới cái đẹp, cái lương thiện trong cuộc đời. Tình yêu
thương con người của Bác đã nhắc nhở chúng ta phải luôn biết yêu thương,
tôn trọng, biết giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với mọi người; biết đánh thức những
điều tốt đẹp trong mỗi người, cùng nhau phấn đấu cho lí tưởng sự nghiệp,
hình thành lối sống thật thà, trung thưc “mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”.
Như vậy, đức nhân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nhân nghĩa
trong đời sống hàng ngày, nhân nghĩa trong ngoại giao, nhân nghĩa trong đấu
tranh, nhân nghĩa đối với chính kẻ thù của mình... Có thể nói, tư tưởng nhân
nghĩa rộng lớn của Nguyễn Trãi được thể hiện rõ nét nhất trong bài Bình Ngô
đại cáo một lần nữa được tái hiện sâu sắc trong thế kỉ XX ở tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh.
- Nghĩa:
Tiếp thu quan điểm đạo đức Nho giáo về nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
xây dựng, phát triển nội dung của nghĩa phù hợp với lợi ích của Đảng, của
nhân dân và thời đại. Người viết “nghĩa là ngay thẳng, không có tâm tư,
không làm việc bậy, không có việc gì phải dấu Đảng, không có lợi ích riêng
phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc thì bất cứ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn
thận. Thấy việc gì phải làm, thấy việc thì phải nói. Không sợ người ta phê
bình mình mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩa cũng tức là chính “chính nghĩa là
không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn, thẳng thắn
tức là tà”, “làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác”.
Như vậy, phạm trù nghĩa trong đạo đức Nho giáo đã có bước phát triển
mới trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nghĩa ở Hồ Chí Minh mang nội
dung sâu sắc và rộng lớn với mục tiêu vì dân, vì nước, vì Đảng chứ không
đơn thuần là nghĩa trong mối quan hệ gia đình, dòng tộc, vua tôi như đạo đức
Nho giáo. Với nội dung nhân nghĩa mà Hồ Chí Minh đã nêu và đặc biệt, chính
bản thân Người, cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về nhân, nghĩa,
đã có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với cán bộ và nhân dân, làm cho họ
luôn trung thành, tận tụy với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc.
- Lễ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy, chọn lọc đức lễ trong quan
niệm truyền thống và quan niệm đạo đức Nho giáo. Người phát triển nội dung
mới của lễ là: lễ với nhân dân, với đất nước.
Đối tượng của đức lễ không chỉ giới hạn ở một số người hay một tầng
lớp người, không giới hạn ở cán bộ hay lãnh đạo mà bao trùm mọi đối tượng.
Với từng đối tượng Người lại khuyên dạy việc thực hiện lễ một cách khác
nhau. Nội dung lễ của mỗi đối tượng là khác nhau nhưng luôn cùng chung
một mục đích: lễ chủ yếu là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Như vậy,
trong mỗi hành vi lễ nghĩa nhỏ nhất của mỗi cá nhân đã chứa đựng nhiều cao
cả lớn lao với sự nghiệp chung của đất nước.
Trong bài gửi báo Vệ quốc quân, Người nói: “Vì Vệ quốc quân là quân
đội của nhân dân, để bảo vệ đồng bào, giữ gìn Tổ quốc nên cần: Nói năng cử
động phải lễ phép, phải kính người già yêu trẻ con”. Với thiếu niên nhi đồng
trong Thư gửi nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Tám,
Người viết: “Cháu nào cũng biết siêng học, siêng làm, biết ăn ở sạch sẽ, biết
giữ kỉ luật thế là tốt lắm”. Với Công an Nhân dân: “Tự mình phải luôn giữ lễ
phép tránh hách dịch; khi đối xử với nhân dân phải “kính trọng, lễ phép”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng phạm trù lễ của Nho giáo chủ yếu
nói về đạo đức chứ nó không thiên về chính trị như Nho giáo. Nếu như ở
quan điểm Nho giáo lễ được nâng lên thành biện pháp trị nước đó là lễ trị thì
ở Chủ tịch Hồ Chí Minh lễ được hiểu là sự kính trọng lễ phép. Đó là sự vượt
bậc của Người so với các nhà tư tưởng tiền bối trong việc tiếp thu phạm trù lễ
nói riêng, cũng như các phạm trù đạo đức Nho giáo nói chung.
- Tín:
Tín là phạm trù đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh ít bàn đến hơn so
với các phạm trù đạo đức Nho giáo khác. Người quan niệm tín là: “không lừa
dối, thưởng phạt công bình, tài chính phân minh”. Trong bài: “Nói chuyện tại
Hội nghị quân sự lần thứ năm” Người bổ sung thêm: “Tín là phải làm cho
người ta tin mình. Thí dụ đã hứa thưởng thì phải thưởng. Tín cũng có nghĩa
là tự tin vào bản thân mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa các phạm trù đạo đức của Nho giáo
và đạo đức truyền thống theo quan điểm tiến bộ. Những phạm trù đạo đức ấy
đều được vận dụng một cách linh hoạt và nâng lên thành đạo đức của nhân
dân, của người cán bộ phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng con
người mới. Trên tinh thần ấy, các phạm trù đạo đức trung, hiếu, trí, dũng cũng
được Hồ Chí Minh kế thừa, sáng tạo đưa vào nội dung mới mẻ phát triển phù
hợp với hoàn cảnh mới.
2.3. Học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Hố Chí Minh về trung, hiếu, trí, dũng
- Trung, hiếu:
Có thể khẳng định đây là hai phạm trù đạo đức có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong tư tưởng đạo đức của Người, luôn luôn được Người đề cao.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông. Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa
yêu nước truyền thống của dân tộc; khắc phục, vượt qua những hạn chế của
tư tưởng phong kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nội dung của trung,
hiếu là: «Trung với nước, hiếu với dân”.
Trước kia, trung là trung tâm, trung thành với vua, còn phạm trù hiếu thì
chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình: con cái hiếu thảo với cha mẹ. Giữ lại khái
niệm truyền thống nhưng Người đã đưa vào đó một nội dung mới mang tính
cách mạng, phạm vi phản ánh rộng: trung là trung với nước, với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước ngàn năm của cha ông. Nước ở đây là nước của dân,
dân là chủ nhân của đất nước. Người viết “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành lực lượng đều ở
nơi dân”. Người chỉ rõ “ngày xưa trung là trung với vua, hiếu là hiếu với cha
mẹ thôi. Ngày nay, nước ta là nước dân chủ cộng hoà... trung là trung với Tổ
quốc, hiếu là hiếu với nhân dân. Ta không chỉ thương cha mẹ ta mà còn phải
thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết thương cha mẹ”. Với
ý nghĩa rộng lớn này, “hiếu trung” luôn luôn gắn liền với “hiếu thảo” và “hiếu
thảo” tất yếu sẽ “hiếu trung”.
Trung với nước trước hết được thể hiện ở tinh thần yêu nước nồng
nàn, tuy nhiên điều này không phải chỉ đề cập đến những vấn đề lớn lao mà
nó được thể hiện ngay trong suy nghĩ, hành động nhỏ, diễn ra hàng ngày của
mỗi người. Trung với nước là làm sao cho dân giàu, nước mạnh.
Trung với nước còn là trung với Đảng, rèn luyện cho bản thân mình
những đức tính như trung thực, ngay thẳng, trung thành với lí tưởng của
Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng. Suốt đời đấu tranh cho
cách mạng. Giữ vững kỉ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”. “Tuyệt đối trung
thành với Đảng với nhân dân”. Ngược lại, Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn
xứng đáng là người lãnh đạo tiên phong, là đầy tớ trung thành với nhân dân,
quan tâm toàn diện đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân dốt Đảng và Chính phủ có lỗi... Vì vậy Đảng phải gần gũi nhân dân,
lấy dân làm gốc.
Với lực lượng vũ trang Người dạy: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt
đời hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính
trị - đạo đức cho mỗi người dân Việt Nam.
Với thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải khiêm
tốn, thật thà, dũng cảm... trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với
Tổ quốc, không sợ gian khổ, khó khăn “đâu cần thanh niên có, đâu khó có
thanh niên”. Gian khổ đi trước, hưởng thụ sau cùng.
Trung với nước - quan niệm này đã thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, cá nhân và cộng đồng, cá nhân và tập thể, thể hiện trách
nhiệm của cá nhân với sự nghiệp, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong mối quan hệ cá nhân và xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi
người phải tự hỏi mình đã làm được gì cho nước nhà chứ không phải hỏi
nước nhà đã làm cho mình những gì?
Về “Hiếu với dân ”
Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm khác về chất so với quan niệm
đạo đức truyền thống về nội dung đạo đức “hiếu với dân”. Khác hoàn toàn với
tư tưởng: Dân là đối tượng cần phải dạy bảo, ban ơn, ở đây dân là đối tượng
được cán bộ, đảng viên phục vụ tận tâm. Người dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn,
kẻ dưới, kẻ luôn bị sai khiến nay trở thành lực lượng cơ bản làm nên lịch sử.
Người dân từ vị trí của kẻ phụ thuộc đã bước lên địa vị người làm chủ vận
mệnh dân tộc.
Người không dừng lại ở lí luận “hiếu với dân” một cách chung nhất mà
còn cụ thể hoá những hành động cần phải làm. Hiếu với dân là phải gần dân,
gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, luôn dựa vào dân, lấy dân
làm gốc. Học tập, rèn luyện, làm việc, chiến đấu... vì nhân dân. Luôn tích cực
vượt qua khó khăn, gian khổ của cuộc sống để phát triển sản xuất, đời sống
xã hội. Dũng cảm đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu nhân dân.
Người làm lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải
thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí cho nhân dân để
giúp dân hiểu được quyền và trách nhiệm làm chủ đất nước của mình.
Rèn luyện, phấn đấu có được những đức tính cao quý đó thì người
cách mạng nói chung, người giáo viên nói riêng sẽ luôn được nhân dân tin
yêu, quý trọng; điều này sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn cho thành công của
sự nghiệp giáo dục cũng như cả tiến trình cách mạng của nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa phạm trù trung và hiếu một cách sáng
tạo. Người đã chuyển hoá đạo đức cũ thành tư tưởng đạo đức mới - đạo đức
cách mạng và Người chính là một tấm gương tiêu biểu cho tư tưởng đạo đức
trung với nước, hiếu với dân. Phạm trù trung hiếu không còn cứng nhắc,
trong phạm vi hẹp thậm chí có lúc khắc nghiệt mà trở nên mềm dẻo, phổ biến
trong tư tưởng yêu nước, thương dân.
- Trí
Trên cơ sở quan niệm về phạm trù trung, hiếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trí là không có việc tư túi nó làm cho mù quáng, cho nên đầu óc
trong sạch sáng suốt, dễ hiểu lí luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người.
Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì
Đảng mà cất nhắc người tốt đề phòng người gian”.
Đối với người làm tướng thì trí là sáng suốt biết địch biết mình, biết
người tốt thì nâng đỡ, biết người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà
phát triển lên, biết cái xấu của mình mà tránh. Trí là phải có óc sáng suốt để
nhìn mọi việc, để suy xét cho đúng. Với người làm tướng biết được “thiên
thời, địa lợi, nhân hoà” đó là người trí. Nhân hoà là quan trọng hơn cả. Muốn
đạt được nhân hoà thì phải có sự đồng cam cộng khổ của anh em, bè bạn,
đồng chí, đồng bào thì mới có sự đồng tâm nhất trí cao giữa mọi người. Sự
đồng tâm nhất trí của nhân dân là cơ sở vững chắc cho thành công của sự
nghiệp cách mạng. Nhân hoà là biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
trí, dũng và liêm.
Như vậy, theo Người phạm trù trí không đơn thuần chỉ là việc học
hành, để phân biệt chính, tà mà trí được mở rộng với nghĩa là để phục vụ và
bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân.
- Dũng
Trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dũng có nghĩa là “dũng
cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa.
Cực khổ có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý không
chính đáng. Nếu cần thì có gan hi sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc,
không bao giờ rụt rè nhút nhát”.
Với Đảng, Đảng phải có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ
vì đâu mà có khuyết điểm, vạch rõ hoàn cảnh rồi tìm cách sửa chữa. Người
nêu cao tinh thần phê và tự phê trong Đảng.
Với người cán bộ quân sự lại càng cần có dũng, cần mạnh dạn, quả
quyết không làm liều, có kế hoạch rồi kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng
phải làm nghĩa là phải có lòng dũng cảm trong công tác.
Thấm nhuần lời dạy của Người cả dân tộc ta đã anh dũng chiến đấu hi
sinh giành lại nền độc lập cho dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp thu và phát triển các phạm trù cần, kiệm,
liêm, chính coi đó là những phẩm chất cần phải có của người cán bộ cách
mạng.
2.4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất gán bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”. Đây cũng là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt
động hàng ngày của mọi người. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến
phẩm chất này nhiều nhất. Các khái niệm “cần, kiệm, liêm, chính” là những
khái niệm của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam,
Người đã tiếp thu, chọn lọc và đưa vào những yêu cầu, nội dung mới. Cần,
kiệm, liêm, chính được Người coi như những phẩm chất chính của người
cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra
cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải
tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm,
liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước cho dân”.
Người đề cập đến cần, kiệm, liêm, chính từ tác phẩm Đường kách
mệnh ở chương “Tư cách người kách mệnh” cho đến bản Di chúc cuối cùng.
Tháng 6 năm 1949 Hồ Chí Minh viết tác phẩm: Cần, kiệm, liêm, chính.
Theo Người, Cần là siêng năng, chăm chỉ,cố gắng, dẻo dai. Tục ngữ ta
có câu: nước chảy mãi đá cũng mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Nghĩa là cần thì việc
gì khó khăn đến mấy cũng làm được. Dao siêng mài thì sắc bén. Ruộng siêng
làm cỏ thì lúa tốt. Điều đó rất dễ hiểu. Siêng học tập thì mau biết. Siêng nghĩ
ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng làm thì nhất định thành công. Siêng hoạt
động thì sức khoẻ. Chữ cần chẳng những có nghĩa hẹp như: tay siêng làm thì
hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải cần, cả nước đều
phải cần. Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm
no. Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì nước
mạnh giàu. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn thì phải có kế hoạch cho
mọi công việc nghĩa là phải tính toán cho cẩn thận, sắp đặt gọn gàng. Cần
không phải là làm sổi. Nếu làm cố chết cố sống trong một ngày, một tuần hay
một tháng đến nỗi sinh ốm đau phải bỏ việc. Như vậy không phải là cần. Lười
biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì vậy lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.
Một người lười biếng có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của hàng nghìn
hàng vạn người khác... Nếu có một người, một địa phương hoặc một ngành
mà lười biếng, thì khác nào toàn chuyến xe chạy, mà một bánh xe trật ra khỏi
đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có
tội với đồng bào, với Tổ quốc.”
- Kiệm
Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí không bừa
bãi. Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một con người. Cần
mà không kiệm “thì làm chừng nào, xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng
không có đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra chừng ấy, không lại hoàn
không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà
vật gì không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước,
không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến
khi khô kiệt. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi cho đồng bào, Tổ
quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới
đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải tiêt
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong 1 giờ, mà
kéo dài 2, 3 giờ, là xa xỉ. Hao phí vật liệu là xa xỉ... Vì vậy, xa xỉ là có tội với
Tổ quốc, với đồng bào.
- Liêm
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phạm vi đối tượng cần được xây dựng đức
liêm không chỉ đối với “người làm quan” mà được mở rộng ra toàn xã hội.
Trong xã hội mọi người, mọi tầng lớp đều phải liêm. Trước hết, cán bộ, đảng
viên, thanh niên thực hành liêm để tạo phong trào, làm gương cho nhân dân
noi theo.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của dân”. Phải “trong sạch
không tham lam”, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến
bộ”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ những hành vi trái với chữ liêm:
“ …cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công
làm của tư”.
"Dìm người giỏi để giữ địa vị danh tiếng của mình là đạo vị”. Gặp việc
phải mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham vật uý lạo. Gặp giặc
mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử".
- Chính
Theo Người, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Một người phái cần,
kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là trọn vẹn. Chính nghĩa là không tà,
thẳng thắn, đứng đắn. Phạm trù chính phải được thực hiện trên cả ba mặt xử
thế đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình: Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó, học tập, cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều tốt, sửa điều chưa tốt của bản thân.
Nghiêm khắc với chính mình.
Đối với người: Không nịnh hót người trên, không xem khinh người
dưới; luôn giữ thái độ rộng lượng, chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà,
không gian trá, lừa lọc.
Đối với việc: Luôn để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Có
trách nhiệm cao với công việc, không sợ khó khăn nguy hiểm. Việc thiện dù
nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh.
“Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia
thành hai hạng: người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công
nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và
việc tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc tà là người ác. Siêng năng
(cần), tằn tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham
lam, là tà, là ác..
- Chí công vô tư
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người,
với việc”. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau, “lo trước thiên lạ, vui sau thiên hạ”. Người giải thích:
“Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Như vậy, về thực chất, chí
công vô tư là sự nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính.
Mỗi người chúng ta khi học tập, rèn luyện theo gương đạo đức Bác Hồ
cần phải thấy rõ cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư có mối quan hệ rất
mật thiết với nhau. Nếu chúng ta ra sức cần mà không kiệm thì chẳng khác
nào “gió vào nhà trống”, “muối bỏ biển”, “dã tràng xe cát biển đông. Nhọc
nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Cần và kiệm phải đi liền với nhau như hai
chân của một con người “cần mà không kiệm thì làm chừng nào, xào chừng
ấy. Cũng như một cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra
hết chừng ấy, không lại hoàn không”. Đối với việc lớn hay việc nhỏ luôn phải
tiết kiệm. Đối với thời gian càng phải tiết kiệm bởi của cải tiêu hết còn có thể
làm thêm, còn thời gian thì trôi qua không lấy, không làm lại được. Vì vậy, đời
người sống chỉ có một lần, phải sống sao cho có ích, phải biết cần, kiệm,
liêm, chính để sau này nhìn lại, chúng ta không cảm thấy hối tiếc vì những
năm tháng đã sống hoài, sống phí.
Tiết kiệm theo Người không phải là bủn xỉn “việc đáng tiêu mà không
tiêu là bủn xỉn chứ không phải tiết kiệm”.
Người nhắc nhở cán bộ và nhân dân, ngược lại với cần kiệm là tham ô,
lãng phí, quan liêu, Người coi đó là kẻ thù nguy hiểm của đất nước, nó là con
sâu gặm nhấm, phá hoại thành quả cách mạng từ bên trong mà chúng ta cần
phải kiên quyết loại bỏ.
Ngược lại, kiệm mà không cần thì của cải vật chất không đủ dùng, sản
xuất cũng như mọi lĩnh vực của đời sống không có sự sáng tạo phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của con
người, thiếu một đức thì không thành người, cũng như trời có bốn mùa, đất
có bốn hướng, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một hướng thì không
thành đất”.
Mặt khác, nếu chúng ta thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính tất sẽ dẫn
đến chí công vô tư. Chúng ta một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định
sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư sẽ giúp
cho con người vững vàng trước mọi thử thách “giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Học tập, rèn
luyện phẩm chất trên chúng ta phải kết hợp đồng thời với việc đấu tranh loại
bỏ chủ nghĩa cá nhân và rất nhiều căn bệnh khác như quan liêu, bè phái,
tham ô, lãng phí, xa hoa, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền...
Trong giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất chú trọng đến giáo dục phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Đó là sự khiêm tốn, giản dị, là tinh thần lao động tích cực, siêng năng, làm
việc hết mình, gan dạ, táo bạo; là đức tính trung thành, thật thà, chính trực
trong đời tư và việc công. Trong buổi lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân
Việt Nam ngày 19/1/1955, Người nói: “Chống tâm lí ích riêng và sinh hoạt
riêng của mình. Chống tâm lí ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay, chống lười biếng xa xỉ. Chống
các sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo giả dối, khoe khoang”. Vì đó là những
thói xấu kìm hãm chí tiến thủ của thanh niên. Người nêu năm điều dạy thanh
niên: “Luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị. Chống
kiêu hãnh tự mãn. Chống lãng phí xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình
nghiêm chỉnh để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là thước đo văn minh tiến bộ của
dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Phẩm chất này rất
cần thiết đối với mỗi người dân Việt Nam khi đất nước còn chìm trong khói
lửa chiến tranh. Thì nay, trong thời kì đổi mới đất nước, xây dựng và phát
triển chủ nghĩa xã hội lại càng cần thiết hơn. Đây không còn đơn thuần là yêu
cầu về đạo đức mà còn là yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị,
văn hoá.
Học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức sáng ngời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với những phẩm chất cơ bản trên là một vấn đề không đơn giản, nói
dễ làm khó và trong cuộc sống hàng ngày mọi người vẫn thường vi phạm ở
nhiều mức độ khác nhau vì nó đụng chạm tới lợi ích cá nhân của mỗi người.
Vì vậy, muốn học tập đạo đức Bác Hồ chúng ta luôn phải chú ý đến con
đường, phương pháp thực hiện, luôn quyết tâm xây dựng đạo đức mới với
những nguyên tắc cơ bản: nói đi đôi với làm; xây đi đôi với chống; tu dưỡng
đạo đức suốt đời, phải duy trì việc tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng
ngày, tu dưỡng bền bỉ thông qua thực tiễn cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. Bandzeladze. Đạo đức học (2 tập). NXB Giáo dục, 1985.
2. A.I. Côchêtôp. Những vấn đề lí luận đạo đức. NXB Giáo dục, 1995.
3. A. Leopold. A Sand County Alnmana. New York University Press,
1994.
4. A. Smith. Của cải của các dân tộc. NXB Giáo dục, 1995.
5. Vũ Đình Bách. Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
6. Trần Lê Bảo (Chủ biên). Triết lí phát triển ở Việt Nam. NXB Khoa học
Xã hội, 2002.
7. B. Devall, Deep Ecology, Salt Lake City, Pregrine Smith Book, 1985.
8. Mai Ngọc Cường. Đạo đức kinh doanh, Lí thuyết và thực hành. NXB
Thống kê, 1996.
9. Kim Woo Choong. Văn hoá làm giàu. Tạp chí văn nghệ, 1994, số 46,
tr 46.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên). Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề cấp
bách. NXB Khoa học Xã hội, 2000.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đồng Chủ biên). Những
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. NXB
Chính trị Quốc gia, 2003.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. NXB Chính trị Quốc gia, 1989.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII. NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, IX, X. NXB Chính trị Quốc gia, 1996, 2001, 2006.
15. Vu Trọng Dung (Chủ biên). Giáo trình Đạo đức học Mác - Lênin.
NXB Chính trị Quốc gia, 2006.
16. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường
đối với đạo đức người cán bộ quản lí. Tạp chí Nghiên cứu lí luận (2), tr 25,
26,31.
17. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.
NXB Khoa học Xã hội, 1980.
18. Tô Tử Hạ, Trần Anh Thảo, Nguyễn Thị Kim Thảo. Đạo đức trong
nền công vụ. NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
19. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới -
chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX- 07, 1994.
20. Phạm Minh Hạc (Chủ biên). Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
21. Mã Hồng. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. NXB Chính trị Quốc
gia, 1995.
22. Đỗ Đức Hùng. Từ đạo đức kinh doanh đến trách nhiệm xã hội trong
kinh doanh. Tạp chí phát triển kinh tế 1995, số 69, tr 5.
23. Vũ Hiền. Tăng trưởng kinh tế nghịch lí của sự tăng trưởng. Tạp chí
Thông tin lí luận, 1995, số 12, tr 7 - 11.
24. Đoàn Đức Hiếu. Cá nhân và sự phát triển của cá nhân trước những
yêu cầu và trong điều kiện hiện nay của nước ta. Tạp chí Triết học, 1996, số
3, tr 3 - 6.
25. Đỗ Trung Hiếu. Một số suy nghĩ về xây dựng đạo đức mới hiện nay.
NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
26. Dương Phú Hiệp. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người
Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường. Tạp chí Triết học, 1992, số 4, tr 8 - 11.
27. Trần Văn Hượu. Đến hiện đại từ truyền thống. NXB Văn hoá Thông
tin, 1995.
28. Đỗ Huy. Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức
trong cơ chế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Triết học,
1995, số 1, tr 15 - 19.
29. Nguyễn Văn Huyên. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá và vấn đề giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tạp chí Triết học, 1999, số 2, tr 5.
30. Nguyễn Thế Kiệt. Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc đinh
hướng các giá trị đạo đức hiện nay. Tạp chí Triết học, 1996, số 6, tr 9 - 11.
31. Trần Hồng Kì (TQ). Về vấn đề xây dựng đạo đức mới. Tạp chí
Thông tin lí luận, 1998, số 4, tr 42 - 44.
32. Kỉ yếu Hội nghị khoa học Quốc tế KX - 07. Nghiên cứu con người,
giáo dục và phát triển.
33. Vũ Khắc Liêm. Nhân cách văn hóa trong bản giá trị văn hóa. NXB
Khoa học Xã hội, 1993.
34. Nguyễn Ngọc Long. Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế với đạo
đức. Tạp chí nghiên cứu lí luận, 1987, số 1.
35. Nguyễn Chí Mỳ. Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường đối với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lí ở
nước ta. NXB Chính trị Quốc gia, 1999.
36. Phạm Xuân Nam (Chủ biên). Triết lí phát triển ở Việt Nam. NXB
Khoa học Xã hội, 2002.
37. Trần Sĩ Phán. Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Luận án Tiến sĩ. Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
38. Lê Đức Phúc. Bàn về định hướng giá trị khi nước ta chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Tạp chí Cộng sản, 1995, số 1, tr 12 - 14.
39. Lê Đức Phúc. Hình thành và phát triển nhân cách trong kinh tế thị
trường. Tạp chí Cộng sản, 1995, số 1, tr 29 - 32.
40. Nguyễn Văn Phúc. Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, 1995, số 3, tr 14 - 18.
41. Nguyễn Văn Phúc. Một số vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường Ở Việt Nam. Tập bài giảng.
42. Richard, Bergeron. Phản phát triển, cái giá của chủ nghĩa tự do.
NXB Chính trị Quốc gia, 1995.
43. Nguyễn Hồng Sơn. Văn hoá và phát triển sự nhận thức và vận
dụng trong thực tiễn. NXB Lao động - xã hội, 2004.
44. State University of New York. Environmental Ethics. 1992.
45. Nguyễn Tài Thư. Suy nghĩ về một số giá trị tinh thần trong thời kì
đổi mới ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, 1995, số 1, tr 36 - 41.
46. Hà Huy Thành (Chủ biên). Những tác động tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường ở Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, 2000.
47. Song Thành. Mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức. Tạp chí Triết
học, 1992, số 1, tr 41- 58.
48. Nguyễn Thị Xuân Thảo, Nguyễn Văn Tuyền. Phát huy nhân tố
truyền thống trong kinh doanh dịch vụ ở nước ta hiện nay. NXB Chính trị
Quốc gia, 1999.
49. Lê Thị Hoài Thanh. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và đạo đức.
Tạp chí Giáo dục lí luận, 1999, số 1, tr 42 - 43.
50. Lê Thanh (Chủ biên). Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu
hóa. NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
51. Lê Thị Thuỷ. Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách
cách mạng Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay. Luận án Tiến sĩ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
52. Thái Duy Tiên. Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên trong
điều kiện kinh tế thị trường. Tạp chí Triết học, 1995, số 1, tr 36-41.
53. Đặng Hữu Toàn. Vui trò của văn hoá trong sự phát triển lâu bền
theo hướng CNH, HĐH. Tạp chí Triết học, 1999, số 2, tr 5.
54. Nguyễn Quang uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị, định
hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. Hà Nội, 1995.
55. Văn hoá và phát triển kinh tế - xã hội. Hà Nội, 1994.
56. Nguyễn Hữu Vượng. Về tiến bộ trong kinh tế thị trường. NXB Chính
trị Quốc gia, 2004.
57. Huỳnh Khái Vinh. Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội. NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
58. Hồ Sĩ Vịnh. Văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới. NXB Chính
trị Quốc gia, 1999.
59. Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường. NXB Thông tin KHXH - Chuyên đề, 1996.
60. Viện thông tin KHXH. Truyền thống và hiện đại trong văn hoá. NXB
Thông tin KHXH, 1999.
61. V.E. Henderson. Đạo đức kinh doanh. NXB Văn hoá Thông tin,
1996.
62. Zolotukhina - Abôlina. Đạo đức học. NXB Matxcơva, 1999 (Tiếng
Nga).
MỤC LỤC
Chương 1. Đối tượng, nhiệm vụ của Đạo đức học
Chương 2. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức
Chương 3. Các kiểu đạo đức trong lịch sử, quan hệ giữa đạo đức với
các hình thái ý thức xã hội khác
Chương 4. Một số phạm trù cơ bản của Đạo đức học
Chương 5. Những nguyên tắc của đạo đức mới
Chương 6. Một số vấn đề đạo đức trong điều kiện hiện đại hóa xã hội
Chương 7. Giáo dục đạo đức
Tài liệu tham khảo
---//---
GIÁO TRÌNH ĐẠO ĐỨC HỌC
(In lần thứ hai)
Tập thể tác giả:
PGS.TS. TRẦN ĐĂNG SINH (Chủ biên) - TS. NGUYỄN THỊ THỌ (Đồng chủ
biên) - PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT - PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÚC - ThS.
NGUYỄN THỊ TUẤT - ThS. NGUYỄN THỊ VÂN
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Địa chỉ: 136 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 04.37547735 - Fax: 04.37547911
Email: [email protected] - Website: www.nxbdhsp.edu.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập ĐINH VĂN VANG
Hội đồng thẩm định:
PGS. TS. VŨ TRỌNG DUNG
PGS.TS. HÀ NGUYÊN CÁT
Biên tập nội dung: ỨNG QUỐC CHỈNH
Kĩ thuật vi tính: ĐÀO PHƯƠNG DUYẾN
Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG
Mã số: 01.01.696/1503. ĐH 2011-119
In 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm, tại Xưởng in Trung tâm NC & SX Học liệu
Trường ĐHSP Hà Nội. Đăng kí KHXB số: 64-2011/CXB/696-01/ĐHSP ngày
11/1/2011. In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2011.