CƠ SỞ LÝ LUẬN - Web viewĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN: ... từ trên 12...
Transcript of CƠ SỞ LÝ LUẬN - Web viewĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN: ... từ trên 12...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ II
GVHD: Th. Sĩ Phạm Hải Châu
Lớp HP: 210810204
Nhóm :
TP Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 10 năm 2011
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
KHOA TAÌ CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ II
STT Họ và Tên MSSV Ghi chú1 Nguyển Thái Bình 10026311
2 Phan Ngọc Diệp 10025461
3 Đào Thị Mỹ Hoài 10033011 Nhóm trưởng4 Châu Ngọc Thiên Hương 10025411
5 Lê Hoàng Lộc 10031541
6 Trần Thị Thanh Nhàn 10267111
7 Trần Thị Ngọc 10015761
8 Trịnh Thị Thiên Thanh 10015511
9 Nguyển Thị Ngọc Thương 10051111
10 Huỳnh Thị Kim Tuyền 10012305
GVHD: Th. Sĩ Phạm Hải Châu
Lớp HP: 210810204
Nhóm :
TP Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 10 năm 2011
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ II
Nhận xét của giáo viên:
………………………………………………………………………….....
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………
GVHD: Th. sĩ Phạm Hải Châu
Lớp HP: 210810204
Nhóm :
TP Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 10 năm 2011
3
M ỤC L ỤC
Câu hỏi 1: CÁC VẤN ĐỀ CẦN CHÚ TRỌNG VỀ CHỨC NĂNG
TẠO LẬP VỐN TRONG TÀI CHÍNH
I. Chức năng của tài chính………………………………………..………………6
1.Chức năng phân phối……………………………………………………..….6
2. Chức năng giám đốc………………………………………………….……..6
3. Chức năng của tạo lập vốn………………………………………….……....7
3.1 Khái niệm về vốn…………………………………………………………7
3.2 Khái niệm tạo lập vốn……………………………………………….…..7
3.3 Các khâu tạo lập vốn……………………………………………….…...8
3.4 Phân loại chức năng tạo lập vốn………………………………….……10
II.Các vấn đề cần chú trọng về chức năng tạo lập vốn trong tài chính………….12
Câu hỏi 2 : NGUYÊN TẮC PHÂN CÔNG PHÂN CẤP
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GẮN LIỀN VỚI QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM
I.Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nước 1. Khái niệm ngân sách nhà nước…………………………………..…………..16
2.Đặc điểm ngân sách nhà nước……………………………………….………..16
II. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước 1.Bản chất của ngân sách nhà nước…………………………………….………17
2. Vai trò của ngân sách nhà nước………………………………………..…….18
3. Phân cấp ngân sách nhà nước………………………………………………..19
4
4.Nội dung phân cấp ngân sách nhànước…………………………………..….20
5. Nguyên tắc phân công ngân sách nhà nước………………………………….22
IV. Quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phân
cấp ngân sách nhà nước…………………………………………….26
Câu hỏi 3: HÃY NÊU SỰ HÌNH THÀNH VỐN NGẮN HẠN VÀ
DÀI HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………….…………….36
1. Khái niệm vốn đầu tư ngắn hạn và dài hạn………………………………..37
2. Vốn đầu tư ngắn hạn, dài hạn và các hình thức huy động vốn…………..38
B . THỰC TRẠNG…………………….…………………………...45
1. Tình hình kinh tế xã hội…………………….……………………………….46
2.Thực trạng huy động nguồn vốn trong doanh nghiệp……..……………………………………………………………………….48
3. Giải pháp…………………………………………………………….............49
C KẾT LUẬN
5
Câu hỏi 1: CÁC VẤN ĐỀ CẦN CHÚ TRỌNG VỀ CHỨC NĂNG
TẠO LẬP VỐN TRONG TÀI CHÍNH
II. Chức năng của tài chính
Chức năng của tài chính là những đặc tính khách quan vốn có của phạm trù tài chính,
là khả năng bên trong theo biểu lộ tác dụng xã hội của tài chính.
Tài chính có các chức năng là: chức năng phân phối của cải xã hội dưới hình thức
giá trị( gọi tắt là chức năng phân phối), chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với cá quá
trình phân phối( gọi tắt là chức năng giám đốc) và chức năng tạo lập vốn
1. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực
đại diện cho những bộ phận của cả xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ
khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo cho những nhu cầu,
những lợi ích khác nhau của chủ thể trong nền kinh tế xã hội
2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng
đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập cac
quỹ tiền tệ và sử dụng chúng theo các mục đích đã định.
3. Chức năng của tạo lập vốn
6
Vốn rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng
hóa. Vốn tiền tệ trỏ thành tiền đề cho sản xuất lưu thông hàng hóa, vốn tiền tệ có được
nhờ tài chính có chức năng tạo lập vốn. trong bất cứ phương thức sản xuât nào, việc tạo
vốn đều dựa vào sản xuất thặng dư tiết kiệm được, tích lũy được các quỹ khác nhau.
Thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cho thấy doanh nghiêp nào có lượng
vốn càng lớn thì càng có thể chủ động trong kinh doanh. Ngược lại, doanh nghiệp nào
thiếu vốn không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất cơ hội
kinh doanh.
3.1 Khái niệm về vốn
Là lượng tiền nhất định cần thiết ban đầu nhằm đảm bảo cho các yếu tố ban đầu
của sản xuất ( mua sắm nguyên vất liệu, tài sản, trả công…). Trong nền kinh tế thị trường
vốn kinh doanh còn được coi là một quỹ tiền tệ đặc biệt không thể thiếu của doanh nghiệp
Vốn là các công cụ tài chính mà các công ty sử dụng để
tài trợ cho việc mua tư bản được gọi là vốn tài chính. Vốn là các
công cụ tài chính mà các công ty sử dụng để tài trợ cho việc mua
tư bản được gọi là vốn tài chính.
Vốn kinh doanh luôn là điều kiện để cá doanh nghiệp
nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi
phí, hạ giá thành , tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, do đó doanh
nghiệp cần sử dụng hợp lí nguồn vốn để nâng cao hiệu quả sản
xuất để nâng cao sản xuất kinh doanh.
3.2 Khái niệm tạo lập vốn
Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh
nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nhưng sử dụng hình thức nào phù hợp
nhất mang lại hiệu quả cao còn là vấn đề khó khăn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt, trong 7
nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ ở thị trường tiêu thụ mà cả ở thị
trường vốn, vấn đề tạo lập vốn trở nên hết sức cấp thiết, luôn được các nhà quản lí đặt lên
hàng đầu. Để giải quyết nó thì trước hết doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm kiếm
các nguồn để thu hút được một lượng vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh
Tạo lập vốn được hiểu là các hình thức huy động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm
thiết lập nguồn tài chính để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình tạo lập vốn được bắt đầu từ khâu xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển, sau đó là việc lập các kế hoạch huy động vốn, có gắn với thời gian và phương thức
huy động. Cuối cùng tiến hành huy động vốn.
Để công tác tạo lập vốn thành công thì trong mỗi giai đoạn của quá trình tạo lập
vốn được phân tích và lựa chọn cho phù hợp với điều kiện từng môi trường hoạt động và
lĩnh vực mà mình kinh doanh.
3.3 Các khâu tạo lập vốn
Ở khâu ngân sách nhà nước với tư cách nhà nước là chủ thể có quyền lực chính trị
mạnh nhất, thông qua luật luật pháp do nhà nước bna hành, chức năng tạo lập vốn thể hiện
việc tạo lập cá quỹ tiền tệ tập trung trong tay nhà nước. nhà nước bắt buộc các doanh
nghiệp, dân cư phải đóng thuế, phí, lệ phí,…..để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
những lúc thiếu hụt ngân sách, nhà nước phát hành các trái phiếu nhà nước để tạo lập vốn.
Nếu muốn huy động được nguồn lực tốt, Nhà nước là phần quan trọng để định hướng đầu
tư, đồng thời phải huy động các nguồn lực khác trong xã hội thông qua các cơ chế chính
sách, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, doanh nghiệp ngoài Nhà nước cũng như
người dân tham gia đầu tư. Như cách nói hiện nay là công tư kết hợp.
Thuế là một nguồn thu của Nhà nước từ sản xuất kinh doanh. Cho nên, quan điểm xây
dựng chính sách thuế trước hết là phải làm thế nào để có được nguồn thu. Tuy nhiên, điều
8
quan trọng hơn là phải thúc đẩy được sản xuất, kinh doanh chứ không phải thu thuế lại
làm cho doanh nghiệp và người dân nói chung gặp khó khăn.
Ở khâu tài chính doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp đều phải có vốn, vốn là điều kiện
không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Vốn được tạo lập từ nhiều nguồn như: vốn chủ sở hữu, vay ngân hàng, phát
hành trái phiếu, mua hàng trả chậm.......
Nhằm thực hiện chức năng nói trên, trước hết doanh nghiệp phải dự toán nhu cầu vốn, tiếp
đến cần lựa chọn nguồn vốn phù hợp. Khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp cần chú
trọng những điều sau:
Thứ nhất, cần những chuẩn mực trong hệ thống kế toán.
Thứ hai, các hồ sơ về hoạt động kinh doanh cần được lưu giữ đầy đủ.
Thứ ba, sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh cũng như trong quản trị điều hành cần
được cải thiện hơn nữa. Thực tế chứng minh, những DN nào càng minh bạch thì họ sẽ
hoạt động tốt hơn. Thời gian thực hiện việc cải thiện và mức độ cải thiện tính minh bạch
như thế nào xuất phát từ chính nhu cầu và yêu cầu của các nhà đầu tư và các cổ đông.
Thứ tư, chuẩn bị để có được các mức xếp hạng từ các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Khâu
xếp hạng tín nhiệm này rất quan trọng và là sẽ chiến lược rất khôn ngoan cho các DN VN.
Nếu đã có mức xếp hạng tín nhiệm thì DN sẽ nhận được sự quan tâm từ nhiều nhà đầu tư
hơn bởi các nhà đầu tư có thông tin và lòng tin về DN này thông qua các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm uy tín. Khi đã có nhiều nhà đầu tư hơn thì sự cạnh tranh mua sẽ làm lãi suất phát
hành trái phiếu của DN được giảm đi.
Ở các khâu tài chính khác trong xã hội như các tổ chức, hộ gia đình….đều thông
qua chức năng tạo lập vốn tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ phù hợp với hoạt động
của mình.9
3.4 Phân loại chức năng tạo lập vốn
3.4. 1 Chức năng huy động
Đây là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, thể hiện khả năng tổ chức khai thác
các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế..
3.4. 2 Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách quan của phạm trù tài chính.
Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó để tổ chức việc phân phối của
cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó, tài chính được sử dụng với tư cách một công cụ
phân phối.
- Khái niệm
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ đó, các nguồn tài lực
đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau, để sử
dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, những lợi ích khác nhau
của đời sống xã hội.
Phân phối qua tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá
10
trị. Thông qua chức năng này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình
thành và sử dụng theo những mục đích nhất
- Chủ thể phân phối
Chủ thể phân phối: nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, hộ gia đình, cá nhân.
- Kết quả phân phối
Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định
cho các mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
- Đặc điểm của phân phối
Là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không kèm theo sự thay đổi hình
thái giá trị;
Là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định;
Là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao gồm cả phân phối lần
đầu và phân phối lại.
- Quá trình phân phối
Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất
cho những chủ thể tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch
vụ. Chủ thể phân phối: doanh nghiệp, người lao động, nhà nước, ngân hàng,... Kết quả
phân phối: Hình thành nên các phần thu nhập của các chủ thể phân phối.
Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình thành
qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, thỏa
mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội.
3.4.3. Chức năng giám sát
Đây là chức năng kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập
và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua chức năng này để kiểm tra và điều chỉnh các quá trình phân phối tổng sản
phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của mỗi
thời kỳ, kiểm tra các chế độ tài chính của Nhà nước...
11
III. Các vấn đề cần chú trọng về chức năng tạo lập vốn trong tài chính
Để tạo lập vốn đạt được hiệu quả cần chú trọng đến các vấn đề sau:
Một là: Hoàn thiện và đòi hỏi công cụ tạo lập vốn phù hợp với điều kiện của đất nước:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc
đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ
mô.
+ Xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
+Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất
lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế.
+Tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách về
thu nhập, tiền lương, tiền công
+ Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ chính phủ, nợ quốc
gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai trò giám sát ngân sách của Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp.
+Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm
soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.
12
+Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền
mặt.
+Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới
chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn
+Tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm
phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam
+Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá. Kiện toàn công tác
thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
+Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty.
+ Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế
mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể phát triển đa dạng, mở rộng quy mô; có
cơ chế, chính sách hợp lý trợ giúp các tổ chức kinh tế hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, tiếp cận vốn.
+ Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
+ Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường
sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước.
+Hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành
các doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển doanh nhân về số
lượng và năng lực quản lý, đề cao đạo đức và trách nhiệm xã hội.
13
+Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng lao
động và người lao động.
+Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng tự do hoá thương mại và đầu tư.
Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi
hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và
kiểm soát có hiệu quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh, bền vững thị trường
bất động sản, ngăn chặn tình trạng đầu cơ; hoàn thiện cơ chế vận hành sàn giao dịch bất
động sản. Phát triển thị trường lao động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm.
Hai là: hỗ trợ những công cuộc cải cách khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ phát
triển ngành nghề mới như công nghệ thông tin,công nghệ hóa dầu, y dược, các dịch vụ
công cộng,….., sản phẩm mới, đổi mới cơ cấu sản xuất kinh doanh
Phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt
động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường, phát minh sáng chế các dây chuyền
sản xuất hiện đại.
Ba là đầu tư phát triển lực
lượng sản xuất hiện có và lực lượng sản xuất mới.
14
+Với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân không đổi thì tích lũy chỉ được tăng lên
khi tiêu dùng giảm
+Với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân thay đổi thì tổng sản phẩm quốc dân tăng
lên thì tích lũy trong nền kinh tế sẽ tăng nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng tích lũy.
Như vậy tạo lập qua tổng sản phẩm quốc dân sẽ tạo lập được lượng vốn lớn về mặt vật
chất cũng như lượng, vì thế nhiệm vụ đặt ra là nên phát huy vai trò của kênh tạo lập này
để có thể thực hiệ được cá mục tiêu cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ví dụ về vốn tài chính: Cổ phần, các loại chứng từ có giá như công trái do nhà
nước phát hành, chứng khoán do doanh nghiệp phát hành, trái phiếu do các tổ chức tài
chính phát hành, các dạng kỳ phiếu, séc,…
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực.
đặc biệt là khi nước ta gia nhập WTO, một làn sóng đầu tư mới đang ồ ạt “chảy” vào Việt
Nam. Những cơ hội đang mở ra phía trước, những con số thống kê nguồn vốn FDI thời
gian qua cũng hết sức khả quan. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm cho hình ảnh Việt Nam
hấp dẫn hơn trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài
Chúng ta cần tranh thủ nguồn vốn của nước ngoài để đầu tư vào các lĩnh vực mà Nhà
nước xác định là cần thiết. Tuy nhiên, điều này phải dựa trên cơ sở phải đảm bảo được an
ninh tài chính quốc gia. Cho nên, việc lựa chọn nguồn vốn đề đầu tư vào từng lĩnh vực,
hoặc từng dự án là điều vô cùng quan trọng, sao cho tạo ra được sản phẩm, trả được nợ.
Và phải có cơ chế thông thoáng để xã hội có tiết kiệm, dành nguồn vốn để đầu tư phát
triển chung.
Ngoài các vấn đề trên, chức năng tạo lập vốn còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách
quan và chủ quan sau:
Các nhân tố khách quan:
Trạng thái nền kinh tế
15
Trạng thái nền kinh tế có các thăng bậc từ tăng trưởng, phát triển và suy thoái, mỗi một
trạng thái đều có tác động đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp
Khi nền kinh tế suy thoái việc sử dụng nợ không những không tạo hiệu ứng đòn bẩy tài
chính dương mà còn làm giảm thu nhập của chủ sở hữu. hiệu ứng đòn bẩy dương nghĩa là
doanh nghiệp sử dụng nợ với tỷ tronjgtoongr nguồn của doanh nghiệp càng cao thì thu
nhập dành cho các chủ sở hữu càng lớn
Chính sách kinh tế của nhà nước
Trước khi đưa ra bất kì một quyết định nào thì các doanh nghiệp cũng phải đề cập đến các
quy định của nhà nước
Một mặt quan trọng trong chính sách pháp luật của nước ta là chính sách về thuế, nó ảnh
hưởng đến doanh nghiệp thông qua ảnh hưởng đến chi phí nợ vay. Nó tác động trực tiếp
đến chi phí sử dụng vốn cũng như việc doanh nghiệp có được vay vốn hay không.
Sự phát triển của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi mà doanh nghiệp có thể thu hút vốn và tạo lập vốn một cách
nhanh chóng và hiệu quả
Ngoài ra còn một số các yếu tố khách quan khác thuộc về môi trường tự nhiên như thiên
tai lụt bão…. Xảy ra ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp làm ảnh hưởng trực tiếp đến
việc huy động vốn của doanh nghiệp.
Các yếu tố thuộc về địa bàn dân cư như thu nhập, mức sống, điều kiện kinh tế địa phương
cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn
Các nhân tố chủ quan
Mục đích sử dụng vốn16
Doanh nghiệp cần xác định mục đích cho việc tạo lập vốn của mình.
Doanh nghiệp phải tìm hình thức tạo lập phù hợp như nguồn vốn chủ sở hữu hay nguồn
vay dài hạn ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán….
Doanh nghiệp phải có chiến lược đầu tư toàn diện.
Ngoài ra việc sử dụng vốn có ý nghía quyết định đến hoạt động tạo lập vốn của doanh
nghiệp
Uy tín doanh nghiệp
Là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghệp
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc tạo dựng uy tín của doanh
nghiệp là rất quan trọng, bởi sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở chất lượng, số lượng giá trị
sản phẩm mà cón ở uy tín doanh nghiệp, hình ảnh doanh nghiệp trong lòng nhà đầu tư..
Câu hỏi 2 : NGUYÊN TẮC PHÂN CÔNG PHÂN CẤP NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC GẮN LIỀN VỚI QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH
NHIỆMI. Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nước.
1. Khái niệm ngân sách nhà nước.
- Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước, các quan hệ kinh tế tài
chính giữa nhà nước với nền kinh tế trong quá trình phân phối, sử dụng các nguốn lực tài
chính và quản lí nhà nước.
- Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, để đảm bảo nhà nước thực hiện
nhiệm vụ chức năng của mình.
2. Đặc điểm ngân sách nhà nước.
17
- Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công
khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
- Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê
chuẩn quyêt toán ngân sách nhà nước.
- Có tính pháp lí cao: gắn liền với địa vị pháp lí, khiến các khoản thu và chi thực hiện
nghiêm ngặt.
- Có hai mặt thu và chi: giữ vai trò quyết định, có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao nguồn
thu của ngân sách nhà nước.
- Phục vụ lợi ích chung của nền kinh tế.
- Gồm nhiều quỹ khác nhau có các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng, góp phần thu
chi có hiệu quả hơn.
II. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước.
1. Bản chất của ngân sách nhà nước.
- Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực nhà nước
- Tại Việt Nam, ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu và chi của nhà nước trong
dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
- Trong thực tiễn, hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu (sử
dụng) quỹ tiền tệ của nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa một bên là các chủ
thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị
và một bên là nhà nước. Đó chính là bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước. Đứng sau các
hoạt động thu chi là mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể kinh tế - xã hội.
Ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước với các chủ thể trong
phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập
của nhà nước và nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể đó để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
18
2. Vai trò của ngân sách nhà nước.
- Ngân sách nhà nước là một công cụ hữu hiệu để nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế,
xã hội. Ngân sách nhà nước ngoài việc duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước còn phải xây
dựng kinh tế, xã hội để tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
- Ngân sách nhà nước được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm
đảm bảo cân đối hợp lí của cân đối cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kì kinh doanh.
3. Phân cấp ngân sách nhà nước.
3.1 Phân cấp ngân sách nhà nước.
- Phân cấp ngân sách nhà nước là sự phân chia quyền hạn và trách nhiệm trong việc quản
lí điều hành thu chi ngân sách nhà nước.
3.2 Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp ngân sách nhà nước.
- Chế độ phân cấp và quản lí ngân sách ở nước ta ra đời vào năm 1967, tới nay qua nhiều
lần bổ sung, sữa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định nhằm giải quyết nhiều
vấn đế phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung ương và chính quyền các cấp trong
quản lí ngân sách nhà nước.
- Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lí giữa chính phủ và các cấp chính quyền địa
phương là tất yếu khách quan, khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gồm nhiều cấp.
Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản lí về hành
chính.
- Phân cấp ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của ngân sách nhà
nước với các hoạt động kinh tế xã hội nhằm tập trung đầy đủ và kịp thời, đúng chính sách,
chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng hợp lí, tiết kiệm
và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Phân cấp ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lí không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính
cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ tung ương
đến địa phương mà còn tạo điều kiện phát huy lơi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa
phương trong cả nước. Nó cho phép quản lí và kế hoạch hóa ngân sách nhà nước được tốt 19
hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân
sách nhà nước được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách
nhà nước.
Tóm lại, phân cấp ngân sách đúng đắn, hợp lí tức là việc giải quyết mối quan hệ giữa
chính quyền nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương trrong việc xử lí các
vấn đề hoạt động và điều hành ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lí sẽ là một giải pháp
quan trong quản lí ngân sách nhà nước.
4 . Nội dung phân cấp ngân sách nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các chính quyền trong thu chi ngân sách nhà
nước.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình thực hiện ngân sách nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc lập, chấp hànhvà quyết toán
ngân sách nhà nước.
- Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với
nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách.
- Tại nước ta, tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ
máy nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước tho hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện
vậy chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh
thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Chính sự
ra đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ
thống ngân sách nhà nước nhiều cấp.
- Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền nhà nước, phù hợp với mô
hình tổ chức hệ thống chính quyền nhà nước ta hiện nay.
- Hệ thống ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
- Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo
trong hệ thống ngân sách nhà nước. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung
20
ương được Hiến Pháp quy định đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước.Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước trung ương. Nó còn là trung tâm điều hòa hoạt động ngân sách của
địa phương, Trên thực tế, ngân sách trung ương là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ
phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mach
của cả nước, ngân sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp nà, mỗi bộ, mỗi cơ
quan trung ương là một đơn vị dự toán của ngân sách trung ương. Ngân sách trung ương bao
gồm:
- Ngân sách tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh)
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp
huyện).
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn ( gọi chung là ngân sách cấp xã).
Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ ngân sách các cấp của ngân sách chính quyền
bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoái ngân sách xã chưa có đơn vị dự
toán, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.
+ Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện các
nhiệm vụ tổ chức quản lí toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương. Chính quyến cấp tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên
khai thác các thế mạnh trên địa bàn tỉnh để tăng nguồn thu, đả bảo chi và thực hiện cân đối
ngân sách cấp mình.
+ Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt
và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được
bố trí để phục vụ trực tiếp của cộng đồng dân cư trong xã hội mà không thông qua một khâu
trung gian nào. Ngân sách xã là cấp ngân sách cấp cơ sở trong hệ thống ngân sách nhà
nước, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về
đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội ,
giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn.21
- Trong hệ thống ngân sách nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối phần lớn các
khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ được giao nhiệm vụ đảm nhận
các khoản thu và chi có tính chất địa phương. Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực
hiện theo nguyên tắc sau:
Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được phân định
nhiệm vụ thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa
phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới.Trường hợp cơ quan quản lí
nhà nước ủy quyền cho cơ quan quản lí nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chức năng
của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực
hiện nhiệm vụ đó. Ngoài việc bổ sung nguồn thu và ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi,
không được dung ngân sách cấp này trừ trường hợp theo quy định của chính phủ.
5. Nguyên tắc phân công ngân sách nhà nước.
Vì sao phải phân cấp quản lí nhà nước về ngân sách ?
- Quản lý Nhà nước về ngân sách là một trong những nội dung quan trọng của công tác
quản lý Nhà nước, đó là sự tác động, điều chỉnh của nhà nước vào các quan hệ phát sinh
trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, chính
sách nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực tài chính quốc gia.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách sẽ giúp cho việc xác định một cách rõ ràng
thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp quản lý Nhà nước về ngân sách, đảm bảo giải
quyết kịp thời các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngân sách.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách làm tăng quyền chủ động, linh hoạt, khắc phục
sự thụ động, trông chờ và cơ chế xin cho trong hoạt động quản lý Nhà nước của cấp chính
quyền, cơ quan Nhà nước cấp dưới đồng thời tạo điều kiện để các cơ quan quản lý Nhà
nước ở trung ương tập trung vào thực hiện chức năng điều hành, chỉ đạo, xây dựng và
22
hoạch định các kế hoạch, chính sách, pháp luật chiến lược quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã
hội đất nước.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách cũng tạo điều kiện tăng cường kiểm tra , thanh
tra công tác quản lý Nhà nước về ngân sách đối với hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước các
cấp, góp phần làm lành mạnh, minh bạch nền tài chính Quốc gia.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách đảm bảo cho việc tương thích giữa thẩm quyền
và trách nhiệm, giữa tổ chức bộ máy và việc cung cấp các nguồn lực và điều kiện hoạt
động của các cơ quan quản lý Nhà nước, như vậy sẽ góp phần đảm bảo hiệu lực, từng bước
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách sẽ góp phần quan trọng tạo môi trường đầu tư
sản xuất - kinh doanh, dịch vụ phát triển nền kinh tế trong điểu kiện nước ta đã trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại Quốc tế WTO, đang hội nhập mạnh mẽ vào
nền kinh tế Quốc tế.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách cũng là phương pháp tốt để Nhà nước ta quản
lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài chính Quốc gia.
- Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay nhà nước ta đã và đang tiến hành cải cách, đổi mới tổ
chức và hoạt động bộ máy nhà nước, chúng ta đã thu được những thành tựu rất có ý nghĩa
nhưng hiện tượng vi phạm pháp luật, nạn tham nhũng, sử dụng lãng phí ngân sách Nhà
nước còn khá phổ biến, còn khá nhiều bất cập, tồn tại trong công tác Quản lý và sử dụng
ngân sách Nhà nước, phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách là một trong phương thức
tốt để khắc phục những biểu hiện tiêu cực trên.
- Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách cũng là yêu cầu khách quan, tất yếu trong lộ
trình xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại,từng bước hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc:
23
+ Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của Nhà nước và
năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;
+ Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi
cụ thể :
Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược,
quan trọng của quốc gia như : các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có
tác động đến cả nước hoặc nhiều địa phương, các chương trình, dự án quốc gia, các chính
sách xã hội quan trọng, điều phối hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, đối ngoại và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách.
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong
phạm vi quản lý.
+ Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương
do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, thời gian thực hiện phân cấp này phải phù hợp
với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa phương; cấp xã được tăng cường nguồn thu, phương
tiện và cán bộ quản lý tài chính - ngân sách để quản lý tốt, có hiệu quả các nguồn lực tài
chính trên địa bàn được phân cấp;
+ Kết thúc mỗi kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào khả năng nguồn thu và nhiệm vụ chi của
từng cấp, theo thẩm quyền quy định tại các Điều 15, 16 và 25 của Luật Ngân sách nhà
nước, Quốc hội, Hội đồng nhân dân điều chỉnh mức bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên
cho ngân sách cấp dưới; Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết
định việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp.
Quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo các nguyên tắc sau :
- Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia
giữa ngân sách các cấp và bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
để bảo đảm công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung
từ ngân sách cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dưới;
24
- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên
cho ngân sách cấp dưới quy định tại điểm a Khoản 2 Điều này, được ổn định từ 3 đến 5 năm
(gọi chung là thời kỳ ổn định ngân sách). Chính phủ trình Quốc hội quyết định thời kỳ ổn
định ngân sách giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định thời kỳ ổn định ngân sách giữa các cấp ở
địa phương.
- Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm. Trường
hợp cần ban hành chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách sau khi dự toán đã
được cấp có thẩm quyền quyết định thì phải có giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù
hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp.
- Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu
ngân sách hàng năm (phần ngân sách địa phương được hưởng) để chi cho các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả
năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân
sách cấp trên (đối với địa phương nhận bổ sung từ ngân sách cấp trên) hoặc tăng tỷ lệ
phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên (đối với những địa phương có
điều tiết về ngân sách cấp trên).
- Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà
nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
- Ủy ban nhân dân các cấp được sử dụng ngân sách cấp mình để hỗ trợ cho các đơn
vị do cấp trên quản lý đóng trên địa bàn trong các trường hợp:
+ Khi xảy ra thiên tai và các trường hợp cấp thiết khác mà địa phương cần khẩn trương huy
động lực lượng để bảo đảm ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
+ Các đơn vị do cấp trên quản lý khi thực hiện chức năng của mình, kết hợp thực hiện
một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới.
25
III. Quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phân cấp ngân sách nhà
nước.
1. Trách nhiệm, quyền hạn của Quốc hội.
- Làm luật và sửa đổi luật trong lĩnh vực tài chính - ngân sách.
- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
cân đối thu, chi ngân sách nhà nước.
- Quyết định dự toán ngân sách nhà nước:
Tổng số thu ngân sách nhà nước, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu và
nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại.
Tổng số chi ngân sách nhà nước, bao gồm chi ngân sách trung ương và chi ngân sách
địa phương, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và
viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Trong chi đầu tư phát triển
và chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ.
Mức bội chi ngân sách nhà nước và nguồn bù đắp.
- Quyết định phân bổ ngân sách trung ương:
Tổng số và mức chi từng lĩnh vực.
Dự toán chi của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở
trung ương theo từng lĩnh vực.
Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương, bao gồm bổ sung
cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu.
- Quyết định các dự án, các công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách
nhà nước.26
- Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết.
- Giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị
quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng
khác.
- Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về lĩnh vực tài chính -
ngân sách trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
2. Quyền hạn, trách nhiệm của ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách được Quốc hội giao.
- Cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân
sách do Chính phủ trình Quốc hội.
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách
trung ương năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia
giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương.
- Ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước,
phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
- Giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách, chính sách tài chính, nghị quyết của Quốc
hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; đình chỉ việc thi hành
các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn
bản đó; hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính -
ngân sách trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ các nghị
27
quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
3. Quyền hạn, trách nhiệm của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội.
- Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách
do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao.
- Chủ trì thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương,
các báo cáo về thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính
phủ trình Quốc hội.
- Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách
nhà nước và chính sách tài chính.
- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách.
- Kiến nghị các vấn đề về quản lý lĩnh vực tài chính - ngân sách.
4. Quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội.
- Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Uỷ ban kinh tế và ngân sách
của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, dự toán ngân sách nhà nước, phương án
phân bổ ngân sách trung ương và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính
phủ trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách và việc thực hiện nghị
quyết của Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách.
28
- Kiến nghị các vấn đề về tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ trách.
5. Quyền hạn, trách nhiệm của Chủ tịch nước.
- Công bố luật, pháp lệnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc tiến hành
đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã
trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần trình
Quốc hội quyết định về lĩnh vực tài chính - ngân sách.
- Yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác tài chính - ngân sách khi cần thiết.
6. Quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ.
- Trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác
về lĩnh vực tài chính - ngân sách; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài
chính - ngân sách theo thẩm quyền.
- Lập và trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung
ương hàng năm; dự toán điều chỉnh ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết.
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách
trung ương, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương theo nhiệm vụ thu, chi và mức bổ
sung từ ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, căn cứ vào
nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giao tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân
sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu phân chia, quy định
nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách địa phương đối với một số lĩnh vực
chi được Quốc hội quyết định.
29
- Thống nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản
lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước.
- Tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, kiểm tra
việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình
hình thực hiện ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng
khác.
- Quyết định việc sử dụng dự phòng ngân sách; quy định việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính
và các nguồn dự trữ tài chính khác của Nhà nước theo quy định của Luật này.
- Quy định hoặc phân cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức
phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây
dựng, phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước; đối với
những định mức phân bổ và chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên
quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, báo
cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản trước khi ban hành.
- Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán ngân sách, quyết toán
ngân sách và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực tài chính - ngân sách; trường hợp nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan
nhà nước cấp trên thì Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thực hiện và đề nghị Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
- Lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án và công trình
quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định.
- Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
30
7. Quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Tài chính.
- Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách và
xây dựng chiến lược kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ; ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách theo thẩm quyền.
- Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế
độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo
cáo, công khai tài chính - ngân sách trình Chính phủ quy định hoặc quy định theo phân cấp
của Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước.
- Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân
bổ ngân sách trung ương; tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; chóng nhất quản lý và chỉ
đạo công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của ngân sách nhà nước, các nguồn
viện trợ quốc tế' tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước theo đúng dự toán được giao; lập
quyết toán ngân sách trung ương; tổng hợp, lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính
phủ; tổ chức quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản của Nhà nước.
- Kiểm tra các quy định về tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp quy định
trong các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên,
có quyền kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đình chỉ việc thi hành hoặc
bãi bỏ đối với những quy định của Bộ, cơ quan ngang Bộ; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ
đình chỉ việc thi hành đối với những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đình chỉ
việc thi hành hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ đối với những quy định của Uỷ
ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc gia.31
- Thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật đối với các vi phạm về chế độ quản lý tài chính - ngân sách
của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, các
địa phương, các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp và các đối tượng khác
có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và sử dụng ngân sách nhà nước.
- Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước
theo quy định của pháp luật.
8. Quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và các cân đối chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ
bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách.
- Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán ngân sách nhà nước. Lập phương án phân bổ ngân
sách trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo phân công của Chính phủ.
- Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của
vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.
9. Quyền hạn, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và
ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước.
- Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
10. Quyền hạn, trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
cơ quan khác ở trung ương.
32
- Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan mình.
- Phối hợp với Bộ Tài chính trong quá trình lập dự toán ngân -sách nhà nước, phương án
phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
- Kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
- Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách
theo chế độ quy định.
- Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân
sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
- Quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán đối với ngân sách được giao; bảo đảm sử dụng
có hiệu quả tài sản của Nhà nước được giao.
11. Quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân các cấp.
- Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa
phương, quyết định:
- Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất
khẩu và nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại.
- Dự toán thu ngân sách địa phương, bao gồm các khoản thu ngân sách địa phương hưởng
100%, phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần
trăm (%), thu bổ sung từ ngân sách cấp trên.
- Dự toán chi ngân sách địa phương, bao gồm chi ngân sách cấp mình và chi ngân sách địa
phương cấp dưới, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả
nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Trong chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ.
33
- Quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình:
Tổng số và mức chi từng lĩnh vực.
Dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực.
Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới, gồm bổ sung cân đối, bổ sung có
mục tiêu.
- Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
- Quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương.
- Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.
- Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.
- Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ
quan nhà nước cấp trên.
- Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn:
Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương.
Quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa
phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu và các khoản thu
phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương.
Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp
luật.
Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
theo quy định của Chính phủ.
34
12. Quyền hạn, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo
cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
- Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính - ngân sách.
- Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu,
chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho
ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương
đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán
ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân.
- Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia phương.
- Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn.
- Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
13. Quyền hạn, trách nhiệm của các đơn vị dự toán ngân sách.
- Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý, thực hiện phân bổ dự toán
ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự
toán theo thẩm quyền.
- Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản
phải nộp ngân sách theo quy định của pháp luật; chi đúng chế độ, đúng mục đích, đúng đối
tượng và tiết kiệm; quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo
đúng chế độ quy định.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với các đơn vị trực thuộc.
35
- Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; báo cáo, quyết toán ngân
sách và công khai ngân sách theo quy định của pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn
vị dự toán cấp dưới.
14. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm, nghĩa vụ.
- Nộp đẩy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào ngân
sách theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo dự toán được giao thì phải
quản lý, sử dụng các khoản vốn và kinh phí đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có
hiệu quả và quyết toán với cơ quan tài chính.
- Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và công khai ngân sách.
C. KẾT LUẬN
Quản lý Nhà nước về ngân sách là một trong những nội dung quan trọng của công tác
quản lý Nhà nước, đó là sự tác động, điều chỉnh của nhà nước vào các quan hệ phát sinh
trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, chính
sách nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực tài chính quốc gia.Thông qua
một số kiến thức chúng ta vừa timd hiểu trên thì ta nhận thấy phân công phân cấp trong ngân
sách nhà nước là vấn đề quan trọng và cần thiết đối với từng cơ quan trong từng bộ máy nhà
nước:Quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội, ủy ban kinh tế và ngân sách Quốc hội, chủ tich
nước, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ tài chính, ngân hang, ủy ban nhân dân các cấp, hội đồng
nhân dân các cấp… . Ngoài ra, nguyên tắc phân công phân cấp trong ngân sách nhà nước
còn gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm
36
Câu hỏi 3: Hãy nêu sự hình thành vốn ngắn hạn và dài hạn
trong doanh nghiệp
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm vốn đầu tư ngắn hạn và dài hạn:
* Vốn đầu tư ngắn hạn:
Vốn ngắn hạn là thời gian chiếm dụng vốn ngắn thường nhỏ hơn 1 năm: đó là các khoản chiếm
dụng của nhà cung cấp, khách hàng thanh toán trước, phải trả công nhân viên nhưng chưa trả,
phải nộp thuế, vay ngắn hạn .... vốn ngắn hạn bao gồm cả trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là
mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao.
* Vốn đầu tư dài hạn:
Vốn dài hạn là thời gian chiếm dụng vốn dài: Vốn chủ sở hữu, vốn vay dài hạn ...
Vốn ngắn hạn và dài hạn đều nằm trên phần nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán. Khi ta
đem nguồn vốn này đầu tư vào tài sản lúc đó mới hình thành nên tài sản.
37
Thường thì vốn dài hạn sẽ đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) nếu còn dư thì sẽ đầu tư vào tài
sản lưu động (ngắn hạn) và vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản ngắn hạn.
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai trò quan trọng hàng
đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn cấp địa phương và quốc gia, cả trong
quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp cận theo nghĩa hẹp
là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các nguồn vốn huy động trên 5 năm
là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong các thống kê hiện có, nên vốn đầu tư dài hạn ở đây được
hiểu là các khoản tín dụng và đầu tư tài chính - tiền tệ trung và dài hạn theo cách hiểu của
ngành ngân hàng nước ta, tức có thời hạn từ trên 12 tháng. Ngoài ra, đề tài cũng mới giới hạn
phạm vi nghiên cứu là ở các nguồn đầu tư dài hạn trong nước, chứ không đề cập các nguồn vốn
nước ngoài hoặc chỉ xem xét nó với tư cách nhân tố để thúc đẩy vốn đầu tư dài hạn trong nước.
2. Vốn đầu tư ngắn hạn , dài hạn và các hình thức huy động vốn:
Các phương thức huy động vốn
Huy động vốn bao gồm huy động vốn ngắn hạn và huy động vốn dài hạn. Huy động vốn bao
gồm nhiều khâu công việc từ việc xác định số lượng vốn cần huy động là bao nhiêu và cơ cấu
các loại vốn huy động từ các cách thức khác nhau thế nào, đặc biệt là đối với huy động vốn dài
hạn thì phương án huy động vốn đòi hỏi chất lượng rất cao, tính minh bạch, cụ thể và chi tiết là
điều bắt buộc phải đáp ứng.
Xét cho cùng, trong cơ cấu vốn của DN thì ngoài vốn chủ sở hữu, các nguồn vốn huy động
được chính là những khoản vốn vay từ các nguồn khác nhau và được gọi dưới các hình thức
38
khác nhau. Với đặc trưng được phép khấu trừ các chi phí vay khi tính thuế thu nhập DN, lợi
ích cơ bản khi DN tài trợ vốn bằng nợ vay chính là tạo ra lá chắn thuế cho DN.
Huy động vốn ngắn hạn là để đáp ứng nhu cầu tài trợ ngắn hạn của DN bao gồm nhu cầu tài trợ
thường xuyên và nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Trong đó, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường
xuyên phát sinh từ sự chênh lệch nhau về thời gian và quy mô giữa dòng tiền vào và dòng tiền
ra của DN. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ do đặc điểm thời vụ của hoạt động sản xuất kinh
doanh khiến nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến. Nguồn vốn ngắn hạn của DN về nguyên tắc
là dùng để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động, thường bao gồm tiền giao dịch, các
khoản phải thu và tồn kho. Các nguồn vốn tài trợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản nợ phải
trả người bán; các khoản ứng trước người mua; Thuế và các khoản phải nộp nhà nước; các
khoản phải trả công nhân viên; các khoản phải trả khác; và vay ngắn hạn từ ngân hàng. Trên
thực tế, DN cần tận dụng mọi nguồn vốn ngắn hạn nói trên, nếu vẫn thiếu hụt thì DN mới phải
sử dụng tới nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng.
DN vay ngắn hạn ngân hàng hoặc huy động bằng phát hành tín phiếu công ty. Khi cân nhắc
việc vay hay là sử dụng tín dụng thương mại cần hiểu rõ tín dụng thương mại là các khoản tín
dụng phát sinh trong quan hệ mua chịu hàng hóa và nguồn này cũng không phải miễn phí cho
DN bởi khi mua chịu hàng hóa thì điều kiện nhà cung cấp đặt ra khác hẳn so với việc mua bán
thanh toán ngay. Chính vì vậy DN cần phải có tính toán cụ thể để so sánh với chi phí lãi vay
làm căn cứ quyết định có sử dụng tín dụng thương mại của đối tác hay không.
Khi quyết định đi vay thì DN lại cần cân nhắc giữa việc vay ngân hàng hay phát hành tín phiếu
công ty (là giấy chứng nhận nợ ngắn hạn do DN phát hành để huy động vốn ngắn hạn bù đắp
cho thiếu hụt vốn tạm thời) thì phải tính toán cụ thể các khoản chi phí trong từng trường hợp để
quyết định. Chi phí vay ngân hàng bao gồm lãi và chi phí giao dịch, còn phát hành tín phiếu là
vay trên thị trường tiền tệ sẽ bao gồm lãi phải trả và chi phí phát hành. Bởi vậy, thông thường
thì các công ty nhỏ chưa có uy tín lớn thì việc đi vay ngân hàng sẽ rẻ hơn vay trên thị trường
39
tiền tệ vì uy tín DN thấp thì ứng với rủi ro cao, cũng có nghĩa là DN phải trả lãi cao hơn lãi
ngân hàng thì mới có khả năng huy động được vốn.
Huy động vốn dài hạn là để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư hay tài trợ cho những
kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên bị thiếu hụt. Vốn
dài hạn của DN bao gồm vốn chủ dưới dạng cổ phần thường, nguồn vốn vay dài hạn và nguồn
vốn cổ phần ưu đãi. Nguồn vốn chủ sở hữu gồm vốn do chủ sở hữu đóng góp hình thành hoặc
phần lợi nhuận được chia thuộc quyền của chủ sở hữu nhưng chưa phân chia mà giữ lại để tái
đầu tư. Vốn chủ sở hữu được phản ánh bằng cổ phiếu là cổ phần thường, giá trị thặng dư vốn
và lợi nhuận giữ lại. Còn nguồn vốn cổ phần ưu đãi cũng là vốn chủ sở hữu tuy nhiên còn có
tính chất của nợ vì được chia cổ tức và tài sản trước các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường.
Kênh phát hành thêm cổ phần mới trên thị trường chứng khoán là một phương thức huy động
vốn rất quan trọng của nhiều DN.
Nguồn vốn vay dài hạn theo thông lệ là nguồn vốn DN có thể huy động được dưới hình thức nợ
vay có thời hạn từ một năm trở lên. Nguồn vốn vay bao gồm nguồn vay nợ ngân hàng và nợ
huy động qua thị trường vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu. Vay nợ ngân hàng có thể có
thế chấp tài sản ứng với số vốn đi vay, cũng có thể thế chấp bằng chính tài sản mà ngân hàng
tài trợ cho vay để trang bị (điển hình là trường hợp thuê mua tài sản là máy móc thiết bị) hay
dựa vào tính hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn và tính khả thi của
phương án trả nợ. Mỗi ngân hàng đều có những chuẩn mực, tiêu chí riêng để xem xét đánh giá
phương án vay của DN.
Về huy động vốn dài hạn thông qua thị trường vốn, trên thị trường vốn, nợ dài hạn là một cam
kết của công ty đi vay sẽ trả lại vốn gốc vào một thời điểm nhất định. Nợ dài hạn có thể chia
thành nợ trung hạn (notes) và nợ dài hạn nếu căn cứ vào thời hạn. Căn cứ vào nhu cầu vốn dài
hạn của DN, vào thực tiễn của thị trường vốn, DN triển khai phát hành trái phiếu để huy động
vốn trên thị trường.
40
Thực tế cho thấy các nước châu Âu thường sử dụng nợ vay từ ngân hàng còn ở Mỹ thì thường
vay nợ để huy động vốn dài hạn từ phát hành trái phiếu.
Một số lưu ý trong quá trình lựa chọn phương thức huy động vốn
Do tính chất quan trọng của huy động vốn dài hạn ở đây bài viết xin đề cập đến các lưu ý khi
lựa chọn phương thức huy động vốn dài hạn. Đối với DN, cổ phần thường, cổ phần ưu đãi và
nợ dài hạn là 3 nguồn tài trợ dài hạn.
Về kênh đi vay, vay ngân hàng cũng gồm nhiều loại vay, phát hành trái phiếu cũng gồm nhiều
loại như trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có kèm quyền chọn bán, kèm
điều khoản mua lại, trái phiếu có lãi suất thả nổi,… Như vậy, ngoài năng lực vốn tự có, DN có
nhiều kênh và nhiều sản phẩm huy động vốn nhưng cũng chính vì sự phức tạp này mà gây bối
rối cho nhà đầu tư. Lựa chọn nguồn nào phụ thuộc vào chi phí huy động vốn và những thuận
lợi hoặc bất lợi của việc huy động đó, cũng như phụ thuộc vào dòng tiền DN có thể sử dụng để
hoàn trả chi phí huy động vốn (tiền gốc hay mệnh giá khoản vay, lãi suất và cách thức trả lãi,
thời hạn khoản vay, các điều khoản phụ…).
Về kênh huy động vốn chủ sở hữu, chi phí sử dụng vốn cổ phần được xác định thông qua các
mô hình xác định suất sinh lời yêu cầu của chủ sở hữu, chi phí sử dụng nợ là lãi suất vay của
các tổ chức tài chính trung gian hoặc là lợi suất đáo hạn mà DN phải trả cho nhà đầu tư nếu
phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, nguồn vốn chi phí thấp không phải lúc nào cũng được chọn vì
còn tùy thuộc vào khả năng thương lượng để có nguồn vốn và những tác động của nguồn vốn
đó (thuận lợi hay bất lợi).
Lựa chọn phương thức huy động vốn bằng vay nợ hay huy động thêm vốn chủ sở hữu cần hiểu
rõ lợi thế cũng như bất lợi của từng phương thức. Đối với vay nợ, ưu điểm của phương thức
này là được khấu trừ thuế, có thể tận dụng lợi thế đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận cho
cổ đông nhưng bắt buộc phải trả vốn gốc và lãi, gây ra áp lực tài chính, làm gia tăng rủi ro tài
chính và xấu đi hệ số nợ của DN. Đối với phương thức sử dụng cổ phần ưu đãi có lợi thế là 41
không phải trả vốn gốc, có thể tùy chọn trả hoặc không trả cổ tức nhưng cổ tức không được
khấu trừ thuế và khó huy động được với khối lượng lớn. Đối với phương thức huy động bằng
phát hành cổ phần thường thì tuy không phải trả vốn gốc, không bị áp lực trả cổ tức nhưng
không được khấu trừ thuế đồng thời còn bị phân chia phiếu bầu và chịu tác động đến quản trị
công ty với các cổ đông mới.
Nếu là công ty cổ phần với mục tiêu chính của quản lý tài chính là đem lại lợi ích tối đa cho cổ
động thông qua chỉ tiêu thu nhập trên cổ phần (EPS) thì việc lựa chọn phương thức huy động
vốn còn tùy thuộc vào EBIT (thu nhập trước thuế và lãi suất) kỳ vọng của DN. Nếu EBIT kỳ
vọng vượt qua điểm hòa vốn giữa phương án sử dụng vốn cổ phần thường và cổ phần ưu đãi thì
chọn vốn cổ phần ưu đãi sẽ mang lại EPS cao hơn, nếu EBIT vượt qua điểm hòa vốn giữa
phương án sử dụng cổ phần thường và nợ vay thì chọn nợ vay sẽ mang lại EPS cao hơn.
Một số vấn đề về thực tế huy động vốn của doanh nghiệp Việt Nam
Lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, dù trong nền kinh tế nào, việc huy động vốn dù là huy động từ
việc phát hành cổ phiếu hay từ vay nợ bằng rất nhiều hình thức khác cũng cần phải cân nhắc kỹ
ưu điểm, nhược điểm thuộc về bản chất của từng phương thức mà sử dụng. Tuy nhiên, với mỗi
một điều kiện kinh tế khác nhau, những yếu tố vĩ mô cũng là những nhân tố quan trọng chi
phối phương thức huy động vốn của DN ở từng thời kỳ.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển với xuất phát điểm thấp nên có những đặc
thù về phía DN cũng như về phía các định chế tài chính, ngân hàng chi phối phương thức huy
động vốn của các DN, kể cả huy động vốn vay từ ngân hàng hay huy động vốn từ thị trường
vốn, và các kênh huy động vốn khác.
Đối với những nhu cầu vốn ngắn hạn, các DN, nhất là các DN nhỏ đang lạm dụng những
nguồn tín dụng phi chính thức từ người thân, từ nhân viên nội bộ DN, thậm chí nhiều DN
chiếm dụng vốn của bạn hàng với ý nghĩ rằng lượng vốn chiếm dụng này là “miễn phí” nhưng
chưa hề tính toán chi phí thực của vốn chiếm dụng được khi tính toán số tiền phải trả nếu thanh 42
toán ngay cho bạn hàng hoặc số tiền trả chậm để chiếm dụng. Sự thiếu minh bạch khi huy động
vốn nội bộ hay vay nợ người thân trong nhiều trường hợp đã khiến mục tiêu vay nợ của DN
không đạt được. Thậm chí nhiều DN không huy động được nguồn vốn dài hạn đã đi vay ngắn
hạn để tài trợ cho mục tiêu dài hạn khiến cho mức chi phí tăng cao mà nhiều trường hợp mục
tiêu tài trợ cũng bị đổ bể.
Về nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng, hiện nay đây vẫn là kênh tín dụng được coi là rất khó
tiếp cận đối với các DN. Ngân hàng đáp ứng được phần vốn còn rất nhỏ so với nhu cầu vay
ngân hàng của DN. Đặc biệt là đối với các DN nhỏ và vừa thì các số liệu điều tra cho thấy nhu
cầu vay vốn ngân hàng của các DN loại này mới chỉ được đáp ứng khoảng 1/3. Theo tính toán
từ các cuộc điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của các DN nhỏ và vừa năm 2005-2006 thì tỷ
trọng DN vừa và nhỏ tư nhân được các ngân hàng cho vay vốn chỉ chiếm 62,5% tổng số DN
nhỏ và vừa khối tư nhân được điều tra còn 100% các DN nhà nước điều tra có quy mô vốn lớn
đều được vay vốn từ các NHTM. Thêm vào đó, quy mô các khoản vay, mức vay bình quân cho
một DN nhà nước trong diện điều tra lớn hơn gần 10 lần mức vay bình quân của DN tư nhân.
Thực tế này xuất phát từ những đặc thù từ phía ngân hàng cũng như từ thực trạng công tác quản
trị, tài chính của các DN. Một đặc thù của hệ thống ngân hàng nước ta là cho tới nay, hệ thống
4 NHTM quốc doanh vẫn chiếm tới khoảng 70-80% tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng
và hiện nay các NHTM này vẫn đang trong quá trình đổi mới chính sách cho vay trong bối
cảnh nợ khó đòi còn ở mức cao và chịu áp lực của việc xóa bỏ các chính sách cho vay ưu đãi.
Bới vậy, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các NHTM gốc gác là ngân hàng quốc doanh đang
đứng trước áp lực phải tiếp cận được các số liệu quản lý tài chính có giá trị của các DN, nếu
không thì việc cho DN vay vốn không thể giải quyết được, cũng có nghĩa là các DN sẽ bị hạn
chế khả năng tiếp cận tín dụng từ nguồn ngân hàng. Tuy nhiên, các DN, đặc biệt là các DN nhỏ
và vừa lại không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng về giá trị tài sản thế chấp cho khoản vay
(còn thấp), tính minh bạch của các số liệu tài chính – kế toán hoặc nếu đáp ứng được thì không
đủ tiêu chuẩn xét cho vay do tính hiệu quả của dự án xin vay thấp hoặc thực tế thì có hiệu quả
nhưng do DN thường hạ lợi nhuận để trốn thuế thu nhập DN nên hồ sơ tài chính xin vay không
43
đủ tiêu chuẩn. Còn không ít DN lập phương án sản xuất kinh doanh làm hồ sơ vay vốn còn
mang tính đối phó, kế hoạch trả nợ chưa rõ ràng, nên không đủ tiêu chuẩn cho vay theo yêu cầu
của ngân hàng. Một vấn đề khác là nhiều khi năng lực phân tích hiệu quả dự án cho vay của
cán bộ ngân hàng trong nhiều trường hợp còn chưa theo kịp thực tế DN nên sự đánh giá chưa
xác thực khiến DN khó tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các cuộc điều tra cũng chỉ ra rằng
50% DN nhỏ và vừa ít hoặc không tin tưởng vào cán bộ tín dụng, nhiều DN cho rằng cán bộ tín
dụng chưa quan tâm đúng mức đến DN. Do đó, để cải thiện tình hình, chỉ tiêu “quan hệ nghiệp
vụ” giữa cán bộ tín dụng và DN cần được cải thiện vượt bậc. Về phía DN cần chủ động hơn
trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng về tính minh bạch trong quản trị tài chính, tính hiệu
quả trong phương án sản xuất kinh doanh và sự rõ ràng trong kế hoạch trả nợ. Về phía ngân
hàng cũng nên làm rõ việc cho vay không chỉ dựa trên tài sản thế chấp mà cần mở rộng hạn
mức cho vay tín chấp khi DN có kết quả kinh doanh tốt, có uy tín trong thanh toán vốn vay, có
phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ đáp ứng tiêu chuẩn cho vay của ngân
hàng.
Về nguồn vốn từ hình thức tín dụng thuê tài chính, theo kết quả điều tra khả năng tiếp cận tín
dụng của DN vừa và nhỏ năm 2006 thì nguyên nhân không sử dụng hình thức thuê tài chính
chủ yếu do thiếu hiểu biết về hình thức này còn DN có hiểu biết về hình thức này thì e ngại thủ
tục và mức phí cao. Mặt khác, thế mạnh của các tổ chức cho thuê tài chính là ngoài nguồn vốn
sẵn sàng cung ứng thì phải có am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ (lĩnh vực kinh doanh của các DN
nhắm tới) và chủ động về nguồn cung ứng máy móc thiết bị về lĩnh vực đó. Tuy nhiên, các tổ
chức thuê mua tài chính ở Việt Nam theo nhiều chuyên gia còn thiếu tính chuyên nghiệp. Bới
vậy, hình thức tín dụng này trong nhiều năm qua không phát triển như kỳ vọng. Điều nay chỉ
có thể thay đổi khi các tổ chức cho thuê tài chính tự nâng cao năng lực và phát triển phương
thức kinh doanh hiệu quả hơn, tăng cường tiếp cận DN, gắn với nhu cầu thực tế của DN. Nhà
nước có thể có những hỗ trợ về chính sách đối với loại hình hoạt động kinh doanh này cũng
như cân nhắc hỗ trợ khuyến khích cho các DN sử dụng hình thức tín dụng thuê mua tài chính
thông qua chính sách khấu hao máy móc thiết bị thuê mua tài chính…
44
Về nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành cho các ngành nghề, lĩnh vực cần khuyến
khích thì khả năng tiếp cận của các DN lớn tốt hơn hẳn so với các DN nhỏ và vừa. Việc sử
dụng bảo lãnh tín dụng của các ngân hàng cũng trong tình trạng tương tự.
Về nguồn vốn huy động từ thị trường tài chính qua kênh phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu thì
trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô còn chứa đựng nhiều nhân tố bất ổn, thị trường chứng khoán
thiếu sôi động và sụt giảm kéo dài, phương thức huy động vốn này vẫn rất hạn chế trong giai
đoạn từ 2008 tới nay, khác hẳn với thực tế huy động vốn qua kênh thị trường chứng khoán rất
thành công của năm 2007 (thậm chí trong giai đoạn 2006-2007 thì phần giá trị thặng dư thu lại
từ việc phát hành cổ phiếu mới của nhiều DN đạt giá trị rất lớn). Thực tế này chỉ có thể được
cải thiện khi các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô phát huy hiệu quả, nền kinh tế trong nước và
thế giới bước sang giai đoạn phát triển mới. Khi ấy thị trường chứng khoán mới có nền tảng để
phục hồi và mở ra các cơ hội mới cho DN huy động vốn. Trong giai đoạn còn nhiều khó khăn
hiện nay, việc huy động vốn qua kênh này dù là phát hành cổ phiểu hay vay nợ bằng trái phiếu
thì phương thức huy động vốn chỉ có thể thành công nếu DN có dự án thật sự khả thi và được
thể hiện bằng các kế hoạch cụ thể, chi tiết. Các đối tác của DN trong quá trình huy động vốn
cần được chọn lọc kỹ để lựa chọn ra đối tác hiểu dự án của DN, có kế hoạch công bố thông tin
và thu hút đầu tư hiệu quả và tư vấn cho DN những giới hạn hiệu quả nhất của các chỉ tiêu phát
hành huy động thêm vốn chủ sở hữu (phát hành cổ phần) hay huy động vốn vay (phát hành trái
phiếu) với quy mô, tỷ trọng nào là phù hợp nhất.
Cũng cần lưu ý rằng đối với các DN nhỏ thì uy tín còn thấp, việc phát hành trái phiếu để vay nợ
trên thị trường chứng khoán sẽ rất khó khăn so với các DN lớn. Một nguồn vốn chuyên nhằm
vào tài trợ cho các DN vừa và nhỏ nên được xem xét là nguồn cung ứng từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm (venture capital). Các quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm vào các DN chưa có thương hiệu, thị
phần còn nhỏ, đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhưng có dự án hiệu quả và còn
thiếu vốn. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đem lại khá nhiều lợi ích cho DN vì ngoài lợi ích về vốn,
DN còn đựoc hưởng lợi về danh tiếng, về khả năng chuyên môn hóa quản lý, về thông tin
ngành, lĩnh vực của dự án - là những thế mạnh của các quỹ này.45
Và suy cho cùng, nguồn vốn nội tại mà bản thân DN tự tài trợ cho mình từ lợi nhuận ròng cũng
như việc tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn trong quá trình hoạt động là phương thức tự chủ
nhất, hiệu quả nhất mà dù trong giai đoạn nào, đối với DN loại nào, đây cũng là phương thức
hữu dụng và bền vững nhất.
B. THỰC TRẠNG
1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI:
Sản xuất đình đốn nên doanh nghiệp phải cho lao động nghỉ việc dẫn đến thất nghiệp gia tăng.
Doanh nghiệp không phát triển thì an sinh xã hội không thể bảo đảm mặc dù đây là mục tiêu
Chính phủ rất muốn thực hiện.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tiếp tục làm ăn thua lỗ thì thị trường chứng khoán sẽ kéo dài
thời kỳ ảm đạm.
Chính phủ tập trung vào chống lạm phát một cách quyết liệt sẽ để lại hậu quả lâu dài cho các
doanh nghiệp vốn sẽ mất nhiều thời gian để phục hồi trở lại.
Chúng ta phải có giải pháp dài hơi chứ không phải giải pháp tình thế như hiện nay vốn chỉ tập
trung vào ưu tiên ngắn hạn là chống lạm phát.
Tuy nhiên cũng thừa nhận là rất khó để cân bằng giữa các mục tiêu chống lạm phát và phát
triển sản xuất.
46
Hiện nay cả Chính phủ và các doanh nghiệp đều đang cố gắng hết sức để chống chọi với tình
hình khó khăn.
Hơn 60% doanh nghiệp lấy quá nhiều vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn, đa số doanh nghiệp
đều đầu tư ngoài ngành nên 40% sử dụng vốn không hiệu quả.
Sử dụng vốn vay không hiệu quả đang trở thành vấn đề khiến nhiều doanh nghiệp phải quan
tâm. Theo báo cáo mới đây được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra
tại hội thảo “Ngân hàng và DN trước tác động của chính sách tiền tệ”, có hơn 60% doanh
nghiệp lấy quá nhiều vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn, đa số doanh nghiệp đều đầu tư ngoài
ngành. Lãi phải trả là cho 100% khoản vay trong khi chỉ có 60% vốn sử dụng có hiệu quả.
Theo điều tra gần đây của Vietnam Report, chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của
500 công ty lớn nhất Việt Nam (VNR500) đang có xu hướng giảm dần đều trong 3 năm gần
đây. Tỷ lệ sụt giảm về hiệu quả sử dụng vốn đang nghiêm trọng nhất ở các doanh nghiệp ngành
viễn thông và ngành vận tải đường thủy (với tỷ lệ sụt giảm hiệu quả vốn tới 50% từ BXH
VNR500 năm 2009 tới BXH năm 2010).
Còn theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp vừa và nhỏ của VCCI năm 2010, năng lực sử
dụng vốn của doanh nghiệp ở cả 8 ngành được nghiên cứu, gồm viễn thông, bảo hiểm, sản xuất
47
và phân phối điện, vận tải đường thủy, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, may mặc, sản
xuất sản phẩm từ cao su - plastic và xây dựng đều có xu hướng giảm, trong đó các ngành viễn
thông, sản xuất và phân phối điện giảm mạnh hơn cả.
2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN TRONG DOANH NGHIỆP:
Lãi suất quá cao sẽ tạo áp lực lạm phát mới
Theo nghiên cứu của VCCI, có đến 75% doanh nghiệp muốn tìm vốn bằng hình thức
vay ngân hàng, nhưng thực chất không phải đơn vị nào cũng tiếp cận được. Tại buổi tọa đàm
"Giải pháp vốn cho doanh nghiệp" tổ chức ngày 10/5, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho hay, tiếp cận vốn đang là một trong những
rào cản chính cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo ông Lộc, đa số những doanh nghiệp
lớn, có uy tín, thương hiệu mới đáp ứng được những yêu cầu của ngân hàng.
Đa số các chuyên gia cho rằng, mức lãi suất trần huy động vốn của ngân hàng Nhà nước là
14% mỗi năm nhưng một số trường hợp đã phá rào nâng lên 15%-19% mỗi năm, kéo theo lãi
suất cho vay lên 20-22%. Thậm chí một số ngân hàng còn đặt ra nhiều loại phí, khiến lãi suất
có thể lên tới 27%
chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được vốn vay ngân hàng
48
Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố gần đây cũng khẳng định, chỉ có khoảng một phần
ba doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng, số còn lại khó tiếp cận
hoặc không tiếp cận được. Không ít doanh nghiệp cho rằng, thủ tục các ngân hàng đặt ra quá
sức với họ, thậm chí ngay cả khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có rất ít số doanh
nghiệp vừa và nhỏ được vay.
Các kênh huy động vốn như cổ phiếu, trái phiếu chưa phát huy đúng mực. Thị trường chứng
khoán được xem là kênh huy động vốn quan trọng nhưng việc phát hành cổ phiếu ồ ạt khiến thị
trường chứng khoán bị bội thực nguồn cung. Lãi suất ngân hàng lại quá cao khiến doanh
nghiệp chỉ còn biết "cắn răng chịu đựng".
Trong quý một, giá cả nguyên liệu đầu vào tăng mạnh, đặc biệt là giá nông sản tăng gấp 2-3 lần
cùng kỳ. Cùng một số lượng hàng hóa như năm ngoái nhưng doanh nghiệp cần vốn gấp đôi để
thu mua. Trong khi các chi phí đầu vào đang tăng cao khiến doanh nghiệp sống dở chết sở thì
ngân hàng giảm mức tăng trưởng tín dụng từ 45% xuống còn 16%.
Chính phủ cần phải xem xét bằng mọi cách giảm lãi suất đầu vào cho doanh nghiệp. Đặc biệt,
Chính phủ cần có chế tài xử lý ững ngân hàng lách luật. "Trong khi lạm phát tháng 5 nguy cơ
lên tới 2,2%, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho ngân hàng thương mại và
xử phạt nghiêm với những trường hợp huy động vốn vượt trần.
49
Nhận xét.
Thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng và hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế.
Để thực hiện điều này, cần tập trung vào tái cơ cấu, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư,
đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Nghiên cứu lại việc phân bổ và sử dụng nguồn lực theo
hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ lan tỏa lớn, có giá trị gia tăng
cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi và những doanh
nghiệp có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải
tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất của thế giới.
3. GIẢI PHÁP
Giờ đây có nhiều cách để huy động vốn như: cổ phiếu , trái phiếu chính phủ, trái phiếu
công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp…các công cụ vay vốn
ngắn hạn và dài hạn khác. Và một số cách huy động vốn mới như :
Phát hành DR (Chính phủ vừa có quyết định chấp thuận cho các doanh nghiệp
đủ điều kiện được thí điểm phát hành chứng chỉ lưu ký toàn cầu (DR). Sự kiện
này được kỳ vọng sẽ mở đường cho dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam ) .
Mới đây Công ty cổ phần Vincom (Mã: VIC) trình đại hội cổ đông kế hoạch
phát hành riêng lẻ cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài hoặc cổ đông bảo lãnh
50
cho “Hợp đồng vay chuyển đổi của công ty”. Theo đó, ông Phạm Nhật Vượng là
cổ đông lớn của VIC đứng ra đảm bảo nghĩa vụ của Công ty thông qua việc ký
một Hợp đồng cầm cố với Bên nhận cầm cố, đại diện của bên cho vay. Với
phương án phát hành này, điểm thuận lợi nhất chính là việc trái chủ có quyền
chuyển đổi thành cổ phiếu trong bất cứ thời điểm nào. Sau đó, có thể bán ngay
số cổ phiếu đó mà không phải công bố do tỷ lệ phát hành dưới 5%. Trái chủ
chuyển đổi và lấy ngay cổ phiếu của chủ tịch, thực hiện giao dịch bán khi thấy
giá cổ phiếu có lời như mong muốn.
Việc xuất hiện ngày càng nhiều hình thức thu hút vốn đồng nghĩa với việc các nhà doanh
nghiệp sẽ có nhiều lựa chọn cho việc huy động vốn cho doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, để
huy động được vốn cần sự nỗ lực của doanh nghiệp cũng như từ phía cơ quan nhà nước.
Trước mắt, các doanh nghiệp cần phải minh bạch về mặt quản trị, minh bạch trong báo cáo tài
chính ( đặc biệt là đối với huy động vốn dài hạn thì phương án huy động vốn đòi hỏi chất lượng
rất cao, tính minh bạch, cụ thể và chi tiết là điều bắt buộc phải đáp ứng ). Chỉ có sự minh bạch
mới tạo nên sức hấp dẫn của các doanh nghiệp. Tính thanh khoản cũng là một yếu tố quan
trọng đối với quyết định của các nhà đầu tư quốc tế. Do vậy, trước hết doanh nghiệp phải nỗ
lực xây dựng thương hiệu để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư và tạo nên tính thanh khoản
cho cổ phiếu niêm yết trong nước.
Về phía các cơ quan quản lý, các văn bản tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp phát hành
những công cụ vay nợ và các chứng khoán được mua bán. Khung pháp lý này phải đưa ra được
các điều kiện cụ thể về quy mô vốn, quản trị công ty... đáp ứng tiêu chuẩn niêm yết hay phát
hành những công cụ vay nợ và các chứng khoán trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Bên cạnh đó, Ủy ban Chứng khoán cũng quy định các điều kiện cụ thể về chế độ công bố thông
tin, báo cáo tài chính nhằm tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện.
51
Xác định việc vay vốn của ngân hàng trong thời điểm hiện tại là vô cùng khó khăn và
mạo hiểm, nhiều DN đã tự tìm cách vừa “bơi”, vừa “chống”, vừa “trụ” trong tình hình thiếu
thốn đủ bề hiện nay. Một số cách huy động vốn trong thời buổi khó khăn của nhưng doanh
nghiệp vừa và nhỏ :
Vốn từ trong “nhà”
Trong bối cảnh lãi suất lên cao, đầu ra sản phẩm khó khăn, đối tượng có thể huy động vốn với
“chính sách linh hoạt” đầu tiên mà các ông chủ doanh nghiệp nghĩ đến là người thân, gia đình
và bạn bè. Hình thức vay này nhìn chung là đơn giản vì không cần phải thế chấp tài sản do dựa
trên mối quan hệ thân thiết giữa người vay và người cho vay. Song nếu doanh nghiệp không
hạch toán nguồn vốn này như một khoản vay chính thức thì rất dễ đến tình trạng chủ sở hữu tín
dụng tự ý quyết định hoạt động vốn. Đã có nhiều doanh nghiệp bị phá sản và thua lỗ, mối quan
hệ quý báu cũng bị tổn hại.
Thiết lập nghiệp vụ mua – bán chịu, gối vốn
Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại Việt Hàn Lý Văn Quang thì cho rằng nên chia sẻ tình
hình khó khăn của công ty với các đối tác, bạn hàng thân thiết. Điều này vừa giúp các bên hiểu
nhau hơn lại còn có thể tìm ra hướng tháo gỡ chung. Nhưng để có được sự hỗ trợ từ đối tác như
thế này thì doanh nghiệp phải có lịch sử thanh toán minh bạch, rõ ràng. Mặt khác, đây cũng là
lúc các doanh nghiệp nên tận dụng và phát huy vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp trong việc
bảo lãnh để tạo uy tín trao đổi.
Thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công, triệt để thực hành tiết kiệm
Nếu việc huy động vốn từ bên ngoài càng khó khăn bao nhiêu thì việc tận dụng nguồn vốn nội
tại càng được các ông chủ sử dụng triệt để bấy nhiêu. Cũng do đặc trưng của mỗi ngành nghề,
yêu cầu về tay nghề, trình độ của nhân sự ở một số ngành như: xây dựng, cơ khí, nha khoa…
nên các chủ doanh nghiệp không thể cắt giảmchi phí, nhân công hoàn toàn được vì khi cần
52
không thể có ngay nhân sự đáp ứng. Giải pháp thường thấy là cho nhân viên nghỉ luân phiên
hoặc tạm nghỉ việc nhưng vẫn được đảm bảo trả 80% lương cơ bản.
“Tín dụng đen”
Vạn bất đắc dĩ các doanh nghiệp mới phải sử dụng nguồn vốn này vì lãi suất của nó quá lớn và
độ rủi ro cao. Tuy nhiên, đây lại là nguồn vốn dồi dào và linh động không kém so với ngân
hàng. Nhiều người còn ví các tổ chức tín dụng không công khai này như là ngân hàng thu nhỏ
bởi lượng tiền giao dịch khá lớn. Sở dĩ, các doanh nghiệp tìm đến nguồn tín dụng này là do sự
cấp bách về tài chính trong một khoảng thời gian ngắn.
Có những khi đến kỳ trả lương cho nhân viên mà lượng tiền công nợ chưa thu về được thì buộc
doanh nghiệp phải tính đến việc “vay nóng”. Thủ tục vay rất đơn giản, giải ngân nhanh chóng,
tất nhiên là lãi suất cũng “nóng”.
Thông thường, lãi suất vay tại thị trường “tín dụng đen” này được tính theo kiểu nghìn
đồng/triệu/ngày, dao động từ 2.500đ/triệu/ngày đến 3.000đ/triệu/ngày… Đây là giá phổ biến
với các tổ chức tín dụng được coi là “uy tín”.
Nếu tính mức phí 2.500đ/triệu/ngày thì tỷ lệ lãi suất của cả tháng đã rơi vào khoảng 7,5%. Vì
lãi suất cao nên đa số các công ty chỉ vay trong khoảng thời gian rất ngắn và thanh toán sớm để
giảm tải cho người vay và đồng vốn của các quỹ tin dụng này lại được quay vòng nhanh.
Thủ tục vay được giải quyết hết sức đơn giản và nhanh gọn hơn ngân hàng mặc dù vẫn phải có
thế chấp tài sản, đánh giá và kiểm định. Vì vây, các quỹ đen này giao dịch hàng chục tỷ đồng
trong một ngày là chuyện dễ hiểu.
Theo khảo sát của phóng viên VTC News, nhiều cửa hàng cầm đồ hiện nay cũng áp dụng cách
cho vay như vậy nhưng số lượng giao dịch ít hơn và tỷ lệ lãi suất cũng phổ biến ở mức
3.000đ/triệu/ngày. Có nhiều kiểu tín dụng mức cho vay lên đến 10.000 hoặc
53
20.000đ/triệu/ngày. Với tỷ lệ lãi suất “ngất ngưởng” như vậy thì cả bên vay và bên cho vay đều
đã ngầm hiểu với nhau về mức độ rủi ro lớn thế nào.
Trong cái khó thường “ló” cái khôn nên các chủ doanh nghiệp rất năng động tìm mọi cách để
tháo gỡ khó khăn. Kênh huy động từ thị trường chứng khóan, phát hành trái phiếu cũng được
các doanh nghiệp tầm trung áp dụng triệt để. Tuy nhiên với sắc đỏ bao trùm thị trường chứng
khoán hiện nay nên các ông chủ không kỳ vọng quá nhiều từ nguồn này.
Kết luận:
Xét cho cùng, trong cơ cấu vốn của DN thì ngoài vốn chủ sở hữu, các nguồn vốn huy động
được chính là những khoản vốn vay từ các nguồn khác nhau và được gọi dưới các hình thức
khác nhau nhưng chúng chỉ thuộc hai loại :vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Sự hình thành của vốn
ngắn hạn và vốn dài hạn trong doanh nghiệp cũng là từ nguồn vốn huy động của doanh nghiệp.
Với đặc trưng được phép khấu trừ các chi phí vay khi tính thuế thu nhập DN, lợi ích cơ bản
khi DN tài trợ vốn bằng nợ vay chính là tạo ra lá chắn thuế cho DN.
Nguồn vốn ngắn hạn của DN về nguyên tắc là dùng để tài trợ cho việc đầu tư vào
tài sản lưu động, thường bao gồm tiền giao dịch, các khoản phải thu và tồn kho.
Các nguồn vốn tài trợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản nợ phải trả người bán;
các khoản ứng trước người mua; Thuế và các khoản phải nộp nhà nước; các
khoản phải trả công nhân viên; các khoản phải trả khác; và vay ngắn hạn từ ngân
hàng. Trên thực tế, DN cần tận dụng mọi nguồn vốn ngắn hạn nói trên, nếu vẫn
thiếu hụt thì DN mới phải sử dụng tới nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng.
DN vay ngắn hạn ngân hàng hoặc huy động bằng phát hành tín phiếu công ty.
Vốn dài hạn của DN bao gồm: vốn chủ dưới dạng cổ phần thường, nguồn vốn
vay dài hạn và nguồn vốn cổ phần ưu đãi. Kênh phát hành thêm cổ phần mới trên
thị trường chứng khoán là một phương thức huy động vốn rất quan trọng của
nhiều DN. Căn cứ vào nhu cầu vốn dài hạn của DN, vào thực tiễn của thị trường
vốn, DN triển khai phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị trường. Huy 54
động vốn dài hạn là để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án đầu tư hay tài trợ
cho những kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc đầu tư vào tài sản lưu động thường
xuyên bị thiếu hụt.
Thực tế cho thấy các nước châu Âu thường sử dụng nợ vay từ ngân hàng còn ở Mỹ thì thường
vay nợ để huy động vốn dài hạn từ phát hành trái phiếu.
Trong nền kinh nào cũng vậy, một doanh nghiệp lớn mạnh là doanh nghiệp có nguồn vốn lớn
mạnh bất kể ngắn hạn hay dài hạn. nguồn vốn này một phần là huy động từ các nguồn vốn
nhàn rỗi từ những người cho vay. Trong giai đoạn còn nhiều khó khăn hiện nay, việc huy động
dù là hình thức gì thì phương thức huy động vốn chỉ có thể thành công nếu DN có dự án thật sự
khả thi và được thể hiện bằng các kế hoạch cụ thể, chi tiết. Các đối tác của DN trong quá trình
huy động vốn cần được chọn lọc kỹ để lựa chọn ra đối tác hiểu dự án của DN, có kế hoạch
công bố thông tin và thu hút đầu tư hiệu quả và tư vấn cho DN những giới hạn hiệu quả nhất
của các chỉ tiêu phát hành huy động thêm vốn chủ sở hữu (phát hành cổ phần) hay huy động
vốn vay (phát hành trái phiếu) với quy mô, tỷ trọng nào là phù hợp nhất.
Doanh nghiệp có nhiều kênh và nhiều sản phẩm huy động vốn nhưng cũng chính vì sự phức tạp
này mà gây bối rối cho nhà đầu tư. Lựa chọn nguồn nào phụ thuộc vào chi phí huy động vốn và
những thuận lợi hoặc bất lợi của việc huy động đó, cũng như phụ thuộc vào dòng tiền DN có
thể sử dụng để hoàn trả chi phí huy động vốn (tiền gốc hay mệnh giá khoản vay, lãi suất và
cách thức trả lãi, thời hạn khoản vay, các điều khoản phụ…
C LỜI CẢM ƠN
Lúc đầu, chúng em đã rất lo lắng khi nhận được đề tài này - một đề tài còn khá lạ và
đòi hỏi nhiều kinh nghiệm thực tế. Nhưng chúng tôi cũng hoàn thành xong bài tiểu luận. Chúng
em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Phạm Hải Châu – giảng viên môn “Tài chính tiền tệ 2”
trường Đại học Công Nghiệp TP. Hồ Chí Minh. Thầy đã giúp chúng tôi chọn được đề tài hay,
phù hợp với hoàn cảnh của mình và luôn động viên chúng em rất nhiều để chúng em dễ dàng đi 55
sâu vào đề tài đồng thời có thêm nhiều vốn kiến thức về nó. Và cũng trong quá trình tìm hiểu
và hoàn tất bài thuyết trình, chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự tư vấn, giúp đỡ nhiệt tình của
thầy. Nhờ sự giúp đỡ đó mà từ cách chúng em hình thành ý tưởng, tìm kiếm thông tin cho đến
việc soạn thảo đề cương, sắp xếp và trình bày bài hoàn chỉnh đều diễn ra tốt đẹp.
Đồng thời chúng em cũng xin gởi lời cảm ơn đến trường Đại học Công Nghiệp TP.
Hồ Chí Minh, môi trường làm việc và học tập chuyên nghiệp của trường tạo điều kiện thuận lợi
cho chúng em tìm kiếm thông tin trên internet, các phương tiện thông tin khác của trường.
Mặc dù bài thuyết trình của nhóm còn nhiều sai sót nhưng chúng tôi mong thầy và các
bạn thông cảm. Chúng em cũng rất mong nhận được nhiều lời góp ý từ phía thầy cùng các bạn
để bài thuyết trình được hoàn thiện hơn. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm tất cả mọi
người
56