CẢM HỨNG KITÔ GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN...
Transcript of CẢM HỨNG KITÔ GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN...
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM VĂN HẢI
CẢM HỨNG KITÔ GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Xuân Thạch
Hà Nội – 2016
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………………………3
2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………….6
3. Lịch sử vấn đề……………………………………………….……………….…..6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................9
6. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………………….……..9
Chƣơng 1: KITÔ GIÁO VÀ VĂN CHƢƠNG NGUYỄN VIỆT HÀ………….....11
1.1. Kitô giáo, Kitô giáo ở Việt Nam…………...………………………………...11
1.2. Văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà……………………………………....……20
Chƣơng 2: NHỮNG YẾU TỐ KITÔ GIÁO QUA NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN,
NGHI LỄ, BIỂU TƢỢNG VÀ LỊCH SỬ………………………………….……..37
2.1. Tên tác phẩm …………………………………………………………...……37
2.2. Không gian…………………………………………………………..…….…40
2.3. Ngôn ngữ………………………………………………………………..……42
2.4. Nghi lễ, biểu tƣợng, ngày lễ………………………….....………………...….44
2.5. Lịch sử Kitô giáo ở Việt Nam trong bộ ba tiểu thuyết………………....…….48
Chƣơng 3: NHỮNG YẾU TỐ TÔN GIÁO Ở CẤP ĐỘ NHÂN VẬT……….…..52
3.1.Quan niệm về nhân vật, nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà ……..…52
3
3.2. Các loại nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà…………………..….…55
3.3. Thành công trong xây dựng nhân vật, những con ngƣời tôn giáo và xã
hội............................................................................................................................69
Chƣơng 4: VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG,
CHỦ ĐỀ…………………………………………………………………………..72
4.1. Sự xung đột, bộ mặt đƣơng đại của xã hội……………………...…………....72
4.2. Đức tin và con ngƣời tinh thần qua tôn giáo…………………………………76
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….…84
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………...86
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tôn giáo bản chất là một hiện tƣợng xã hội mang tính lịch sử, văn hóa. Đây là một
trong những cảm hứng quan trọng trong các sáng tác văn chƣơng. Bàn về mối quan
hệ giữa tôn giáo và văn học, Phƣơng Lựu trong giáo trình Lý luận văn học tập 1, đã
khẳng định:“Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn
nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”.[30] Trong kho tàng
văn học nhân loại, nhiều tác phẩm đƣợc viết ra dựa trên cảm hứng tôn giáo. Tùy
vào đức tin, tôn giáo và tín ngƣỡng của mỗi tác giả hay đặc điểm của của thời đại,
địa điểm sinh sống mà những tác phẩm có thể chứa đựng ít hay nhiều những yếu tố
tôn giáo. Qua đó, tác giả chuyển tải những thông điệp sâu xa đến độc giả.
Việt Nam là một đất nƣớc nằm ở trung tâm Đông Nam Á. Từ xƣa đã là nơi giao
thoa của nhiều nền văn hóa với những luồng tƣ tƣởng khác nhau nhƣ Phật giáo,
Khổng giáo, Hồi giáo, Kitô giáo… Những tôn giáo này cùng với những tín ngƣỡng
bản địa đã là nguồn cảm hứng, ảnh hƣởng và tác động đến đời sống văn hóa tinh
thần, đặc biệt là cả trong đời sống văn học. Trong đó, Kitô giáo chiếm một vị trí
quan trọng. Văn học thế giới từng có nhiều tác phẩm nổi tiếng lấy hình tƣợng tôn
giáo làm đối tƣợng phản ánh nhƣ Tây du kí (1590) của Ngô Thừa Ân, Nhà thờ Đức
bà (1831), Những người khốn khổ (1862) của Victo Huygo, Nghệ nhân và
Margarita (1840) của Mikhail Bulgacov, Lũ người quỷ ám (1872) của
Dostoyevsky, Tiếng chim hót trong bụi mận gai (1977) của Colleen McCulloug,
Đoạn đầu đài (1986) của Aimatov, , và gần đây là Thiên thần và ác quỷ (2000),
Mật mã Da Vinci (2003) của Dan Brown. Hầu nhƣ các nền văn học lớn nhƣ Trung
Quốc, Nga, Ấn Độ… đều mang đậm dấu ấn tôn giáo.
5
Văn học Việt Nam từ xƣa đã có rất nhiều tác phẩm đƣợc sáng tác dựa trên cảm
hứng tôn giáo nhƣ thơ văn Phật giáo thời kì trung đại, thơ văn ảnh hƣởng của Nho
giáo, Đạo giáo hiện diện thƣờng xuyên kể từ khi hai hệ tƣ tƣởng xã hội này ảnh
hƣởng tới Việt Nam. Theo thời gian, sự tiếp nhận Kitô giáo sau đó đã tạo nên
nhiều tác phẩm mang cảm hứng từ tôn giáo mới này ở Việt Nam dù chƣa nhiều,
sâu đậm nhƣ những những tác phẩm văn chƣơng Phật giáo, Nho giáo...
Trong văn học hiện đại và đƣơng đại của Việt Nam, cảm hứng tôn giáo tiếp tục có
mặt trong các tác phẩm văn học có tiếng vang nhƣ Hồn bướm mơ tiên của Khái
Hƣng, Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, Nhân sứ, Bụt mệt của Hòa Vang,
Đường Tăng của Trƣơng Quốc Dũng, Thợ may của Phạm Hải Vân, Giàn thiêu của
Võ Thị Hảo, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Cõi
người rung chuông tận thế, Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái, Đêm
thánh vô cùng của Sƣơng Nguyệt Minh, Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ,
Gióng của Nguyễn Minh Hà, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng nhƣ Tàn đen
đốm đỏ, Những đứa trẻ chết già hay Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp… và đặc
biệt là trong những tiểu thuyết của cây bút Nguyễn Việt Hà. So với những tôn giáo,
tín ngƣỡng khác thì Kitô giáo mới chỉ đƣợc truyền bá tại Việt Nam với thời gian
chƣa lâu và cũng chƣa thực sự ảnh hƣởng sâu rộng trong các tác phẩm văn học
hiện đại, đƣơng đại. Chính vì thế, việc tìm hiểu cảm hứng tôn giáo mà cụ thể là
Kitô giáo vẫn là một mảng đề tài còn mới mẻ trong việc nghiên cứu văn học Việt
Nam.
Trong các tác giả của văn học Việt Nam đƣơng đại, Nguyễn Việt Hà là một trong
những cái tên đáng chú ý nhất. Nhà văn này đã tạo đƣợc dấu ấn cho mình ở nhiều
thể loại khác nhau nhƣ tiểu thuyết, tản văn... Mỗi nhà văn đều có những nét đặc
trƣng trong sáng tác của mình. Nguyễn Việt Hà là một ngƣời có thể khiến cho độc
giả nhớ tới mình bằng những “đứa con tinh thần” rất Tây, rất độc đáo đầy giọng
6
giễu nhại của mình. Là con ngƣời của Hà Thành nên các sáng tác của ông mang
đậm dấu ấn đô thị Hà thành từ văn hóa, con ngƣời... dù vẫn ẩn chứa ở đó cái nhìn
xót xa trƣớc sự biến chất của xã hội hiện đại. Bên cạnh yếu tố thành thị đặc trƣng,
độc giả còn dễ dàng nhận thấy yếu tố tôn giáo trong những sáng tác của ông, đặc
biệt là Kitô giáo. Nó thể hiện từ ngôn ngữ, nhân vật, cốt chuyện.... và là đề tài vẫn
chƣa đƣợc nhắc nhiều đến khi nghiên cứu về những sáng tác của Nguyễn Việt Hà.
Việc nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Nguyễn Việt Hà, một trong những hiện
tƣợng khá thú vị của văn chƣơng Việt Nam đƣơng đại là một điểu đáng chú ý. Bởi
lẽ, trong vô số những cây bút hiện tại, ít ngƣời tạo đƣợc dấu ấn thực sự với những
tác phẩm của mình nhƣ Nguyễn Việt Hà. Nguyễn Việt Hà mƣợn cảm hứng tôn
giáo không chỉ vì ông là ngƣời Công giáo, là ngƣời Hà Nội mà qua đó ông còn
khéo léo bằng cách thể hiện đức tin để có thể khắc họa nên những chân dung,
những con ngƣời của thời đại. Chúng ta đã quá quen thuộc với việc đi vào phân
tích nhân vật qua tính cách, qua lý tƣởng sống hay bản chất trong xã hội mà chƣa
nhiều ngƣời đi vào nghiên cứu nhân vật bằng những ẩn ức về đức tin, về tôn giáo
để thấy đƣợc một mặt rất mới mẻ trong cách hiểu đƣợc con ngƣời không chỉ trong
các tác phẩm văn học mà còn ở ngoài thực tế. Việc nghiên cứu tác phẩm văn học,
nhân vật từ cảm hứng tôn giáo của nhà văn cũng là cách để phát hiện ra những tƣ
tƣởng, những giá trị mà nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.
Nhiều ngƣời cho rằng, những tác phẩm mang nặng màu sắc tôn giáo là tác phẩm
không thực tế, nhìn nhận không khách quan hay khó có thể có những điểm đặc sắc.
Thế nhƣng, khi đi vào nghiên cứu ta mới thấy những quan niệm trên không đúng
và tôn giáo thực sự tạo nên những giá trị đặc biệt cho tác phẩm. Không phải tự
nhiên mà Nguyễn Việt Hà dành hẳn gần hai chục năm của mình để viết bộ ba tác
phẩm mà thấp thoáng đâu đó sự ảnh hƣởng của Kitô giáo ngay từ cái tên, hình ảnh
bìa cũng là hình ảnh những con ngƣời nhộn nhạo xung quanh cây thánh giá thiêng
7
liêng. Ông muốn đặc tả lại cả một xã hội với đầy đủ góc cạnh, tạo nên những con
ngƣời của thời đại thông qua cảm hứng tôn giáo.
Ngƣời ta từng thấy những tác phẩm mang đậm màu sắc tôn giáo, hệ tƣ tƣởng xã
hội trong các giai đoạn trung đại nhƣng ở văn học hiện đại, thì những tác phẩm mà
yếu tố tôn giáo đƣợc nhìn thấy ngay từ tên gọi không nhiều. Nguyễn Bình Phƣơng,
Nguyễn Xuân Khánh và Nguyễn Việt Hà là ba cái tên đáng chú ý trong việc này.
Tuy nhiên, nếu nhƣ hai nhà văn đàn anh lấy cảm hứng từ những tín ngƣỡng dân
gian, những tôn giáo thuần Á đông nhƣ đạo Phật, tín ngƣỡng thờ mẫu thì Nguyễn
Việt Hà lại rất “Tây”, nhà văn này tạo cho mình “những đứa con tinh thần của
Chúa” trên cảm hứng Kitô giáo. Nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Việt Hà trên
phƣơng diện cảm hứng tôn giáo sẽ thấy, vì sao anh xứng đáng là một trong những
nhà văn tiêu biểu hiện nay và không nhạt nhòa giữa hàng loạt nhà văn thị trƣờng
khác.
2. Mục đích nghiên cứu
Nguyễn Việt Hà với những điểm đặc biệt, đáng chú ý trong sáng tác của mình thời
gian gần đây đã là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đánh giá. Thế
nhƣng, những nghiên cứu này vẫn chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cảm thức đô thị,
văn hóa hay con ngƣời đô thị... còn yếu tố tôn giáo, mà cụ thể là Kitô giáo đƣợc
thể hiện rõ nét vẫn chƣa thực sự đƣợc quan tâm nghiên cứu. Chính vì thế, mục đích
của luận văn mong muốn phân tích vai trò của yếu tố Kitô giáo trong tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà và xác định đây là những tiểu thuyết Kitô giáo hay những tiểu
thuyết có yếu tố Kitô giáo.
3. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu tôn giáo mà cụ thể là nghiên cứu Kitô giáo trong văn học Việt Nam từ
trƣớc đến nay chƣa nhiều. Ngƣời ta có thể nghiên cứu những tôn giáo thuần Á
8
đông nhƣng còn chƣa chú trọng vào tôn giáo mang màu sắc phƣơng Tây này. Có
thể kể đến việc nghiên cứu Kitô giáo hay một khía cạnh nào đó của tôn giáo này
trong một số công trình nhƣ:
- “Cơ hội của Chúa” – từ nhật kí hậu trường đến văn học, Đoàn Cầm Thi, Pari
tháng 6/2014, evan.com.vn.
- Cảm quan tôn giáo trong văn xuôi Việt Nam đương đại, Lê Dục Tú, Tạp chí Sông
Hƣơng số 304.
- “Đau thương” và “Xuân như ý” nhìn trong sự ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo
đến văn học, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Vân, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội.
Nguyễn Việt Hà là một cây viết đặc sắc trong nền văn chƣơng Việt Nam đƣơng
đại. Chính vì thế, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu những đặc điểm đặc
sắc từ nội dung, tƣ tƣởng cho tới nghệ thuật của ông. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu về những sáng tác của nhà văn này nhƣ:
- Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Bùi Việt Thắng, Tạp chí văn học
số 6/1991.
- Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại, Phùng Gia Thế,
evan.com.vn.
- Đọc “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Tạp chí Sông
Hƣơng số 130, tháng 12/1999.
- “Khải huyền muộn” – cảm hứng và những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật
đương đại trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí Văn học số 4/2016.
9
- “Khải huyền muộn” – cuốn tiểu thuyết về chính nó, Nguyễn Chí Hoan, báo Ngƣời
Hà Nội số ngày 4 và 11/11/2005.
- Không gian và thời gian của vô cùng Hà Nội, Nguyễn Trƣơng Qúy, lời giới thiệu
“Ba ngôi của ngƣời”, Nxb Trẻ, 7/2014.
- Cốt truyện và người kể truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ
Lí luận văn học, Đào Ánh Diệp, Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
- Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ Văn học Việt
Nam, Lê Thị Loan, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Việc nghiên cứu tôn giáo trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là rất hiếm hoi.
Hầu hết các nhà nghiên cứu, học giả chỉ mới đi vào khía cạnh nội dung, nghệ thuật
hay đô thị cũng nhƣ bức tranh xã hội trong các tiểu thuyết của ông. Về tôn giáo
trong sáng tác Nguyễn Việt Hà, đáng chú ý nhất có công trình sau:
- Vấn đề tôn giáo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Báo cáo khoa học, Nguyễn Thị
Thuyên, Tạp chí khoa học tập XXXVII số 4B/2008, Đại học Vinh.
Khái lƣợc lại những vấn đề từng nghiên cứu có liên quan ít nhiều tới đề tài của
luận văn này thì mức độ tìm hiểu, tiếp cận tới tôn giáo trong bộ ba tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà vẫn chƣa nhiều, sâu và rộng. Có lẽ, bởi sự ra đời cách quãng của
những tiểu thuyết trong thời gian gần hai năm và vấn đề tôn giáo cũng là vấn đề
khá nhạy cảm đối với nhiều ngƣời. Trong những công trình nghiên cứu về tôn giáo
trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, những ngƣời nghiên cứu trƣớc đây đã khái
quát đƣợc về những yếu tố tôn giáo trong các tiểu thuyết, sự hiện diện của các tôn
giáo trong tiểu thuyết nhƣng chƣa nói lên đƣợc cụ thể tôn giáo đậm nét nhất là Kitô
giáo cũng nhƣ vai trò của tôn giáo với tƣ tƣởng, chủ đề của tác phẩm.
10
4. Phạm vi nghiên cứu
Nhƣ đã nói ở trên, Nguyễn Việt Hà là một trong những nhà văn nổi bật của văn
học Việt Nam đƣơng đại. Bên cạnh những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Xuân Khánh... thì những tác phẩm của Nguyễn Việt Hà thời gian gần đây
cũng là đối tƣợng đƣợc nghiên cứu khá nhiều. Vấn đề đô thị, những trăn trở về con
ngƣời cùng bi kịch của các nhân vật chính là những đề tài đƣợc nghiên cứu khá
nhiều khi đến với tác phẩm của nhà văn này. Trong khi đó, tôn giáo với những sự
biểu hiện rõ rệt và truyền tải những nội dung đáng chú ý lại chỉ đƣợc coi nhƣ một
khía cạnh nhỏ bổ trợ cho những nghiên cứu trên. Vì thế, việc nghiên cứu cảm hứng
tôn giáo với tƣ cách một đề tài riêng rẽ sẽ là một cách để có thể hiểu hơn những giá
trị mà Nguyễn Việt Hà thể hiện qua tác phẩm của mình.
Đƣợc biết đến với nhiều tiểu thuyết và tản văn nhƣng khi nghiên cứu về tôn giáo,
cụ thể là Kitô giáo trong tác phẩm văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà thì bộ ba tiểu
thuyết gồm: “Cơ hội của Chúa”, “Khải huyền muộn” và “Ba ngôi của Ngƣời” là
những tác phẩm tiêu biểu về đề tài này. Đây là ba tác phẩm mà yếu tố tôn giáo
đƣợc thể hiện rõ rệt nhất ngay từ tiêu đề của tiểu thuyết cho tới những thông điệp,
nội dung, nhân vật bên trong của nó. Hơn nữa, bộ ba tiểu thuyết dƣờng nhƣ có sự
tiếp nối nhau trong cùng chủ đề. Việc dừng lại ở ba tác phẩm tiêu biểu này cũng đã
tiếp cận và đáp ứng đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong công trình nghiên cứu luận văn này, tác giả sử dụng hai phƣơng pháp nghiên
cứu chính là thi pháp thể loại và văn hóa học. Đây là hai phƣơng pháp để thực hiện
việc ngiên cứu các tác phẩm từ nhiều góc độ khác nhau nhƣ ngôn ngữ, biểu tƣợng,
văn hóa, nhân vật, chủ đề và tƣ tƣởng. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng nhiều thao
tác nhƣ so sánh, thống kê, phân tích…
11
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung luận văn đƣợc
triển khai thành bốn chƣơng:
Chƣơng 1: Kitô giáo và văn chƣơng Nguyễn Việt Hà
Chƣơng 2: Những yếu tố Kitô giáo qua ngôn ngữ, không gian, nghi lễ, biểu tƣợng
và lịch sử
Chƣơng 3: Những yếu tố Kitô giáo qua nhân vật
Chƣơng 4: Vai trò của Kitô giáo trong việc thể hiện chủ đề, tƣ tƣởng
12
Chƣơng 1: KITÔ GIÁO VÀ VĂN CHƢƠNG NGUYỄN VIỆT HÀ
Mỗi tôn giáo đều trải qua quá trình ra đời, định hình và phát triển. Trên mỗi chặng
đƣờng đều để lại những dấu ấn riêng. Kitô giáo trải qua khoảng thời gian dài đã
định hình đƣợc chỗ đứng của mình với những đặc trƣng riêng biệt. Tìm hiểu Kitô
giáo, đặc biệt đặc điểm Kitô giáo ở Việt Nam giúp mang lại cái nhìn khái quát, là
cơ sở cho việc tìm hiểu mối liên hệ giữa Kitô giáo và văn chƣơng Nguyễn Việt Hà.
1.1. Kitô giáo, Kitô giáo ở Việt Nam
1.1.1 Kitô giáo – lịch sử hình thành và phát triển
Kitô giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới cùng với Phật giáo và Hồi giáo.
Tầm ảnh hƣởng của Kitô giáo đƣợc cho là rộng lớn, trải dài nhiều quốc gia trên thế
giới, từ phƣơng Tây hiện đại tới phƣơng Đông vẫn còn nhiều bí ẩn, từ những đất
nƣớc hiện đại của châu Âu, Bắc Mỹ cho tới những đất nƣớc còn kém phát triển ở
châu Phi, châu Á. Tôn giáo này có một lịch sử ra đời, hình thành và phát triển lâu
dài. Nếu Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, vùng đất thuộc Nam Á, Hồi giáo ra đời ở tại
bán đảo Ả Rập thì Kitô giáo ra đời trên vùng đất của đế quốc La Mã cổ đại. Kitô
giáo ra đời trên cơ sở của Do Thái giáo vốn tồn tại ở vùng Trung cận đông, nơi tiếp
giáp của ba châu lục, cƣ dân vốn theo đa thần giáo. Tại vùng đất này, những mâu
thuẫn xã hội thực sự gay gắt dƣới những cuộc chiến tranh xâm lƣợc mở rộng thuộc
địa của đế chế La Mã. Sự ra đời của Ki tô giáo gắn liền với tên tuổi của Jesus
Christ hay còn gọi là Chúa Giê su. Theo những gì đƣợc truyền lại, chúa Giê su là
ngƣời đã sáng lập ra đạo Kitô, là con của Chúa Trời đã đầu thai vào một ngƣời con
gái đồng trinh tên là Maria. Với Kitô giáo, sự sinh nở thần kì của bậc tối cao cũng
nhƣ các tôn giáo khác, Chúa Giê su đƣợc sinh ra dù cho Đức Mẹ Maria vẫn đồng
trinh. Ngài sinh ra ở Palextin, một vùng đất thuộc vào lãnh thổ của La Mã trƣớc kia
vào khoảng thế kỉ thứ V hoặc thế kỉ thứ IV trƣớc công nguyên.
13
Hình thành trên cơ sở của Do Thái giáo cùng với nhu cầu một sự độc tôn về tôn
giáo ở vùng đất này, dƣới chế độ chiếm hữu nô lệ, các tín đồ ban đầu của Kitô giáo
bao gồm nô lệ, các nô lệ đƣợc giải phóng, dân nghèo thành thị. Ban đầu, họ thành
lập những công xã nhỏ, những tổ chức có vai trò giúp đỡ lẫn nhau và làm việc từ
thiện. Các công xã này tồn tại với nguyên tắc sự bình đẳng giữa các thành viên
trong đó. Quyền lành đạo công xã thuộc về các nhà truyền giáo lƣu động và các sứ
đồ của họ, những đại biểu của quần chúng nghèo khổ. Với nguyên tắc bình đẳng,
rõ ràng những gì mà đạo Kitô thủa ban đầu đƣa ra trái ngƣợc hẳn với bản chất xã
hội chiếm hữu nô lệ và vì thế, nó bị chính quyền La Ma đàn áp thẳng tay. Tiêu biểu
là vụ chính quyền thời hoàng đế Nê rôn đã ra tay tàn sát tín đồ Ki tô giáo một cách
thảm khốc. Sau giai đoạn đó, đến thế kỉ thứ II, các công xã nhỏ của Kitô giáo đã
liên hiệp lại và tổ chức thành giáo hội. Điều này khiến cho cách hoạt động của giáo
hội có nhiều thay đổi, đặc biệt là những tín đồ không còn chỉ là những ngƣời nô lệ,
thƣờng dân mà đã có cả những ngƣời khá giả, giàu có tham gia vào.
Bị chính quyền La Mã đàn áp nhƣng sự phát triển của tôn giáo này lại mang một
dấu ấn, một bƣớc ngoặt dƣới triều đại của Hoàng đế Constantine khi vị hoàng đế
này nuôi tham vọng chinh phục toàn cầu. Dƣới triều đại của ông, không còn những
vụ tàn sát, bách hại nhƣ các hoàng đế tiền nhiệm. Điều đặc biệt chính là mẹ của
hoàng đế là một tín đồ Kitô giáo và ông rất tôn trọng mẹ. Ông nhận thấy rằng
nhiều tín đồ của tôn giáo này chấp nhận cái chết nhƣng không chịu bỏ đạo, tuy
không có ý định theo tôn giáo này tại thời điểm đó nhƣng với sự thông minh của
mình, ông đã muốn biến Kitô giáo thành một công cụ hữu hiệu cho mục đích chinh
phục thế giới của mình. Ngày càng có nhiều ngƣời thuộc giai cấp quý tộc, chủ nô
tìm đến với Kitô giáo nhƣ một chỗ dựa tinh thần và dần dần họ đã tham gia vào bộ
máy của tôn giáo này vào cuối thế kỉ thứ III. Những ngƣời lãnh đạo của Kitô giáo
cũng dần thuộc về những ngƣời thuộc tầng lớp trên. Giai cấp quý tộc, chủ nô sau
14
khi tham gia vào Kitô giáo đã nhận thấy sức mạnh tinh thần của tôn giáo này và
việc cần thiết phải sử dụng nó nhƣ một công cụ để cai trị.
Chính quyền La Ma cũng chính thức ra lệnh ngừng sát hại những tín đồ đạo Kitô.
Năm 313, Hoàng đế Constantine còn ra sắc lệnh Milano, chính thức công nhận địa
vị hợp pháp của đạo Kitô. Sau đó, ông cũng triệu tập cuộc đại hội của các giáo chủ
trong đạo để xác định giáo lý, chấn chỉnh tổ chức của giáo hội. Trƣớc lúc chết, ông
cũng chịu phép rửa tội và trở thành hoàng đế đầu tiên theo đạo Kitô. Một trong
những dấu mốc quan trọng của đạo Kitô là việc chính thức đƣợc thừa nhận là quốc
giáo của La Mã vào cuối kế kỉ thứ IV. Bộ Kinh Thánh chính thức của đạo Kitô
cũng đƣợc Gierôm dịch từ tiếng Hi Lạp ra tiếng La Tinh bao gồm kinh Cựu ƣớc và
Tân ƣớc. Cựu ước là kinh thánh của đạo Do Thái mà đạo Kitô tiếp nhận, còn Tân
ước là kinh thánh thực sự của đạo Kitô. Kinh Tân ước vốn viết bằng tiếng Hy Lạp,
gồm có 4 phần là Phúc âm, Hoạt động của các sứ đồ, Thư tín và Khải thi lục. Nhờ
việc này mà đạo Kitô phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng, tƣ tƣởng thần học, các
triết lý và giáo lý.
Trong lịch sử phát triển của mình, cũng nhƣ nhiều tôn giáo khác thì Kitô giáo cũng
không còn giữ đƣợc nhƣ lúc ban đầu mà cũng bắt đầu có những sự phân chia thành
các bộ phận khác nhau. Điều này là do số lƣợng tín đồ đông đảo trải dài khắp thế
giới, rộng lớn nhất trong các tôn giáo. Kitô giáo bị phân chia thành Đông và Tây
mặc cho những nỗ lực của phong trào đại đoàn kết. Nhiều chi phái của Kitô giáo,
Chính thống phƣơng Đông chiếm ƣu thế tại những vùng Đông Âu, Cận đông, châu
Phi trong khi giáo hội phƣơng Tây thì chia thành Kitô giáo La Mã và Tin lành.
Chính sự phân chia này tạo thành một cộng đồng Kitô giáo với nhiều bộ mặt khác
nhau:
15
- Ở châu Âu với mô thức những giáo hội quốc gia thì Kitô giáo tĩnh lại. Tôn
giáo này đƣợc sự ủng hộ của các chính phủ quốc gia và thực sự có uy tín
trong cộng đồng. Việc đào tạo những học giả của Kitô giáo cũng đƣợc các
trƣờng đại học, giáo hội thực hiện. Tuy nhiên, số lƣợng ngƣời đi nhà thờ
không quá nhiều tại các quốc gia này.
- Một trong những sự phát triển đáng chú ý nhất của Kitô giáo là ở Mỹ, đặc
biệt là vị thế ngày một cao của nhóm Tin Lành Phúc âm. Nhóm này ngày
một phát triển và có tầm ảnh hƣởng rộng trong cộng đồng.
- Ở châu Phi nơi là thuộc địa của những quốc gia châu Âu thì tín đồ Kitô
giáo ngày một đông đảo, hơn cả Hồi giáo. Điều này cũng tƣơng tự với số
lƣợng tín đồ tại các quốc gia châu Á. Ngay tại nhiều quốc gia mà Phật giáo
có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan... thì
số lƣợng tín đồ Kitô giáo cũng ngày một tăng và tôn giáo này cũng có chỗ
đứng trong cộng đồng.
Hiện nay, Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất với con số ƣớc tính khoảng
2,2 tỷ ngƣời vào năm 2010, chiếm 32% dân số thế giới. Theo thời gian phát triển,
những biến động và cải cách thì Kitô giáo hiện giờ đƣợc chia làm nhiều nhánh nhƣ
Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo... Ngoài ra còn những giáo hội ngoại vi với
số lƣợng tín đồ ít hơn. Tỉ lệ ngƣời theo Kitô giáo vẫn chiếm đa số ở các nƣớc
phƣơng Tây nhƣ châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Đại dƣơng. Ở châu Á số
lƣợng ngƣời theo Kitô nhiều nhất là ở Philippines, một quốc gia từng là thuộc địa
của Tây Ban Nha. Số lƣợng tín đồ Kitô cũng có mặt ở nhiều quốc gia khác tại châu
lục này.
Tƣ tƣởng nhân văn của Kitô giáo đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở của thế giới quan
thần sáng tạo vũ trụ và vạn vật, quan phòng, chi phối mọi sự. Trên cơ sở nhân sinh
16
quan, Kitô giáo xem con ngƣời là một sản phẩm kết hợp hai thực thể linh hồn và
thể xác, linh hồn luôn có tính thiêng liêng, bất tử còn thể xác thuộc về thế giới vật
chất. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng nhân văn Kitô giáo chính là đề cao vị trí và vai
trò của con ngƣời, xem con ngƣời là tinh hoa của vũ trụ, một chỉnh thể đƣợc kết
hợp bởi những yếu tố vật chất và phi vật chất, bởi cái hữu hình và cái vô hình, bởi
cái hữu hạn và cái vô hạn, bởi cái khả tử và cái bất tử…; đề cao quyền tự do và
bình đẳng của con ngƣời nhƣ những nguyên tắc bất khả xâm phạm, vấn đề giải
phóng con ngƣời khỏi những ràng buộc của những luật lệ và hủ tục phi nhân tính.
Nội dung tƣ tƣởng đạo đức cơ bản của Kitô giáo là bàn về các phạm trù công bằng,
bác ái, khiêm nhƣờng, nhẫn nhục, khoan dung và tha thứ nhƣ những chuẩn mực
luân lý Kitô giáo. Tƣ tƣởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo có những tính chất nhƣ
tính duy lý, tính hệ thống, tính kết hợp, tính duy tâm - siêu hình và tính nhân loại
phổ biến. Các tính chất đó vừa thể hiện đặc trƣng của tƣ tƣởng nhân văn và đạo
đức Kitô giáo, vừa thể hiện tính ƣu điểm và nhƣợc điểm của tƣ tƣởng ấy đối với
thực tiễn cuộc sống.
Về giáo lý, những xác tín căn cốt của Kitô tập trung vào sự nhập thể làm ngƣời, sự
đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu. Trọng
tâm của Kitô là việc đặt yếu tố Thiên Chúa sai Con Một của mình đến thế gian để
cứu nhân loại, đây là một điểm khác biệt với tƣ tƣởng con ngƣời tự giải thoát mình
của những tôn giáo khác. Dù phân chia làm nhiều nhánh nhƣng các xác tín cơ bản
của Kitô vẫn là Thiên Chúa có Ba Ngôi, là thực thể vĩnh cửu duy nhất hiện hữu
trong ba thân vị gồm: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; Chúa Giêsu vừa
là Thiên Chúa lại vừa là ngƣời, cả hai bản tính đó đều trọn vẹn trong Ngƣời; Đức
mẹ Maria - ngƣời đã cƣu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh
cửu đã đƣợc hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa
Thánh Thần. Ngài nhận lãnh từ Maria trí tuệ và ý chí con ngƣời và mọi điều khác
17
nhƣ một đứa trẻ bình thƣờng nhận lãnh từ mẹ mình; Chúa Giêsu đồng thời cũng là
Đấng Messiah mà ngƣời Do Thái vẫn hằng mong đợi, Ngài là niềm tin, niềm hy
vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại; Chúa Giê su không
bao giờ phạm tội, qua cái chết và sự phục sinh của Ngƣời, tín đồ đƣợc tha thứ tội
lỗi và hòa giải với Thiên Chúa, tín đồ chịu lễ rửa tội là biểu tƣợng cho sự cùng chết
và cùng sống của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh khi đó sẽ ban cho tín đồ hi vọng,
dẫn họ vào sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngƣời giúp họ sống
trong đời sống thánh khiết; Chúa Giê su cũng trở lại để phán xét toàn thể nhân loại,
tiếp rƣớc những ngƣời tin vào Ngài về với Chúa; Kinh Thánh cũng là lời của Thiên
Chúa.
Tôn giáo là một hệ thống các biểu tƣợng. Hệ thống biểu tƣợng là một phần quan
trọng của Kitô giáo cũng nhƣ nhiều tôn giáo khác. Chúng không đơn giản chỉ là
phƣơng tiện truyền đạt thông tin mà còn đƣợc truyền tải một cách đầy xúc động.
Các biểu tƣợng tôn giáo có tác dụng mạnh mẽ và lâu dài trên các tín hữu. Kitô giáo
có nhiều biểu tƣợng, quy về đức tin Kitô giáo. Cây thập giá tƣợng trƣng cho nơi
mà Đức Kitô đã chịu chết. Nó cũng tƣợng trƣng cho sự đau khỏ của con ngƣời,
nhƣng gì khó chấp nhận trong đời sống, sự trông đợi cái chết của mỗi ngƣời và lời
mời gọi tranh đấu cho công bằng và bác ái. Tùy theo sự cảm nghiệm của mỗi
ngƣời mà cây thập giá có ý nghĩa khác nhau. Bồ câu tƣợng trƣng cho Chúa Thánh
Thần ngự trên Đức Giêsu khi Ngƣời chịu thanh tẩy. Bồ câu tƣợng trƣng cho sự
bình an, thanh thản, sự tràn đầy thần khí Chúa Thánh Thần, sự trong trắng của
ngƣời mới đƣợc rửa tội, sự tự do của tâm linh khi hƣớng tới thiên đàng. Đức Maria
biểu tƣợng cho sự vâng phục thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ cũng là biểu tƣợng cho
sự khôn ngoan, đạo đức, tin tƣởng vào quyền năng của Chúa, mẹ của Hội Thánh.
Nƣớc rửa tội biểu trƣng cho sự cứu rỗi, tha thứ, thanh tẩy, nghi lễ nhập đạo. Ngoài
ra các bí tích, ngôn ngữ, Giáo hội cũng đƣợc coi là những biểu tƣợng. Nhờ những
18
biểu tƣợng của tôn giáo mà mỗi tín hữu thấu hiểu hơn các ý nghĩa sâu xa của tôn
giáo mình.
1.1.2 Kitô giáo và con đƣờng truyền bá, phát triển ở Việt Nam
Những mầm mống đầu tiên Kitô giáo xuất hiện tại Việt Nam vào khá sớm. Theo
bài Ảnh hưởng của Công giáo tới nền văn hóa Việt Nam đăng trên trang web của
Ban tuyên giáo trung ƣơng cho biết, theo sách Khâm định Việt sử thông ghi nhận
vào năm Nguyên Hòa thứ nhất đời vua Lê Trang Tông (1533) có một ngƣời Tây
dƣơng tên là I-nê-khu (Ignatio) theo đƣờng biển lẻn vào giảng đạo Gia Tô ở các
làng Ninh Cƣờng, Quần Anh, Trà Lũ (thuộc Nam Định cũ). Từ đó các giáo sỹ Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông. Ban đầu, do chƣa quen thông
thổ và không thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo lý ít thu đƣợc kết quả. Dần dần
công việc tiến triển ngày càng khá hơn. Theo tài liệu của giáo hội thì năm 1593, ở
Nghệ An đã có 12 làng Công giáo toàn tong.
Cuôi năm 1642, giáo sỹ ngƣời Pháp là Alexandre de Rhodes, sau mấy năm truyền
đạo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài Việt Nam đã trở về châu Âu vận động tòa thánh
Roma giao cho ngƣời Pháp quyền truyền đạo ở Viễn Đông. Kết quả là năm 1658,
Giáo hoàng đã phong cho hai giáo sỹ Pháp là Francois Pallu và Lambert de la
Motte làm giáo mục cai quản hai địa phận Đàng Ngoài và Đàng Trong. Những câu
chuyện về con đƣờng truyền giáo này vào Việt Nam chúng ta cũng sẽ gặp lại trong
tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà. Năm 1664, Hội thừa sai Paris, thƣờng gọi là Hội
truyền giáo nƣớc ngoài của Pháp đƣợc thành lâp . Cuôc nội chiến Nguyễn Ánh –
Tây Sơn vào thế kỷ XVIII là một cơ hội tốt cho sự bành trƣớng của Hội truyền
giáo nƣớc ngoài và sự can thiệp của thực dân Pháp. Giám mục Pièrre Pignenaux de
Béhaine đã trở thành ngƣời đỡ đầu tích cực cho Nguyễn Ánh. Ông đƣa Hoàng tử
Cảnh đi Pháp, và năm 1787 đại diện cho Nguyễn Ánh ký với Pháp Hiệp ƣớc
Versailles. Sau đó, do xảy ra cách mạng Pháp 1789, Hiệp ƣớc này không thực hiện
19
đƣợc, Béhaine đã tự mình mộ quân và sắm vũ khí giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn.
Hoạt động của Béhaine giúp cho nƣớc Pháp có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam cả
về chính trị và tôn giao.
Sau khi lên ngôi vào năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long, Nguyễn Ánh lâm vào
một tình thế nƣớc đôi: Một mặt thì chịu ơn các giáo sỹ và ân nhân ngƣời Pháp, do
vậy ông đã ban thƣởng hậu và sử dụng một số ngƣời làm cố vấn và quan lại trong
triều; mặt khác lại lo ngại sự phát triển của Kitô giáo trƣớc mắt sẽ ảnh hƣởng xấu
đến truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục cổ truyền, sau nữa có thể làm mất
ổn định chính trị và dẫn đến nguy cơ mất nƣơc . Đê đố i phó với tình hình, nhà
Nguyễn chủ trƣơng “bế môn tỏa cảng” trong giao lƣu và giữ nguyên trạng đạo Kitô
chứ không khuyến khích phát triên . Cùng với sự đô hộ của thực dân Pháp, quá
trình truyền bá đạo Kitô vào Việt Nam trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. Nhiều
nhờ thờ, các giáo xứ đƣợc thành lập nhất là tại các đô thị lớn nhƣ Hà Nội, Nam
Định, Ninh Bình, Sài Gòn... Số lƣợng bà con giáo dân cũng ngày một tăng lên và
sự ảnh hƣởng của tôn giáo này tới đời sống của một bộ phận ngƣời dân đã đƣợc
ghi nhận. Mặc dù sau đó Pháp bị thất bại trong cuộc đô hộ Việt Nam, xã hội Việt
Nam mới đƣợc thành lập và lãnh đạo chính quyền nhƣng theo thời gian, sự hiện
diện của Kitô giáo vẫn tồn tại theo thời gian. Thế kỉ thứ XX, đây là giai đoạn khá
trầm lắng trong sự phát triển của Kito giới bởi những đặc điểm của xã hội. Không
có nhiều tài liệu về sự phát triển hay hoạt động của giáo hội ở Việt Nam thời kì
này. Thế nhƣng, cùng với quá trình đô thị hóa và hội nhập với thế giới, thâp niên
cuôi cung cua thê ky XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI co thê đƣơc ghi nhơ nhƣ
là một trong những thời ky lớn nhất về sự phát triển của Kitô giáo tại Việt Nam.
Hiện giờ, Kitô giáo là một tôn giáo lớn tại Việt Nam bên cạnh Phật giáo, Hồi giáo
và những tôn giáo, tín ngƣỡng nhỏ hơn khác. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm vì
nhiều lý do chủ quan và khách quan, đến nay, số lƣợng tín đồ Kitô giáo có khoảng
7 triệu ngƣời. Trong đó, khoảng 6 triệu ngƣời Công giáo và khoảng 1 triệu ngƣời
20
Tin Lành phân bố gần nhƣ khắp các vùng trên lĩnh thổ Việt Nam nhƣng tập trung ở
một số nơi nhƣ Ninh Bình, Sài Gòn,... Kitô giáo ở Việt Nam gồm hai nhánh: Công
giáo La Mã và Tin Lành. Cả hai cộng đồng này ở Việt Nam đều đƣợc thừa
nhận[36].Tầm ảnh hƣởng của tôn giáo này cũng ngày một rộng hơn, sâu hơn. Tôn
giáo này có ảnh hƣởng tới đời sống nghệ thuật từ ki xuất hiện tại Việt Nam và
ngày càng có những dấu ấn nhất định. Về văn học, Kitô giáo cũng có ảnh hƣởng
tới văn học, điển hình là trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Việt Hà.
Kitô giáo là một tôn giáo ra đời từ rất sớm. Trải qua hơn 20 thế kỷ, tuy có những
giai đoan thăng trâm , những biến thiên theo thời gian và thời cuộc, có lúc tƣơng
chƣng nhƣ diêt vong , nhƣng cuôi cung thi Kitô giao đa chiêm môt vi tri kha vƣng
vàng trên thế giới. Trong giai đoan hiên nay, Kitô giao hiện là một trong những tôn
giáo phát triển nhanh nhất ở mọi nơi trên thế giới . Hâu hêt sƣ phat triên nay co ve
không do sƣ truyên giao tƣ nhƣng ngƣơi Kitô giao phƣơng Tây ma là một điều tất
yếu của thời đại. Ở Việt Nam, theo chân ngƣời phƣơng Tây và những giáo sĩ tới
muộn hơn so với những tôn giáo khác nhƣng hiện tại , Kitô giao qua những bƣớc
thăng trầm đã có một vị trí quan trọng đối với ngƣời Việt. Ta có thể thấy, tuy
không hiện diện rộng lớn nhƣ Phật giáo nhƣng những vùng đất có giáo dân cũng
ngày một nhiều, đặc biệt là ở những vùng đất đô thị, những vùng đất mà Kitô giao
ảnh hƣởng từ rất sớm . Những nhà thờ , những nghi lễ , những tác phẩm tinh thần
của Kitô giao cũng không còn xa lạ với mọi ngƣời và trở thành một phần quan
trọng của cuộc sống hiện nay.
1.2. Văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà
1.2.1. Vài nét về con ngƣời Nguyễn Việt Hà
21
Nguyễn Việt Hà tên thật là Trần Quốc Cƣờng, sinh năm 1962, tự nhận mình là
ngƣời Công giáo (một nhánh của Kitô giáo). Ông xuất thân là một tiểu thị dân
ngƣời Hà Nội, với tuổi thơ bụi bặm và lang thang hè phố. Đó là những năm tháng
cho ông những âm thanh hỗn tạp của đô thị, những cảnh đời lam lũ đến những bản
thánh ca trong giáo đƣờng phố Nhà Chung. Sau khi tốt nghiệp trƣờng Đại học
Kinh tế, ông làm việc cho một Ngân hàng. Ông tham gia viết kịch bản phim Của
rơi năm 2001. Đến tháng 12 năm 2004 ông trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Với
Nguyễn Việt Hà, văn nghiệp là sự trải nghiệm đồng thời là sự giãi bày, cảm nhận,
chiêm nghiệm. Có lẽ vì thế mà khi đọc tác phẩm của ông, độc giả cảm thấy hết sức
gần gũi và thân thiện, nhƣ gặp những con ngƣời đâu đó xung quanh mình. Ngƣời
đọc không hết thú vị và nhanh chóng yêu mến cách viết, cách xây dựng nhân vật,
nghệ thuật tự sự rất đỗi nhẹ nhàng, hài hƣớc mà thông minh, sắc sảo của nhà văn.
Để rồi từ đó, công chúng đồng cảm, chia sẻ với ông về những lo toan bộn bề của
cuộc sống, những xô bồ, nhốn nháo, biến dạng của đô thị đƣơng đại. Ông còn là
nhà văn của nhiều hứa hẹn phía trƣớc.
1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Việt Hà
Gần hai mƣơi năm cầm bút, cho đến nay, Nguyễn Việt Hà đang ở độ chín, trở
thành một cây viết quen thuộc của độc giả và đƣợc khẳng định là một cây bút đô
thị đặc sắc trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại. Nhìn lại lộ trình sáng tác của ông
cũng là dịp ta đƣợc đồng hành khám phá thành quả lao động nghệ thuật miệt mài
và không kém đam mê của một ngƣời viết văn chân chính.
Những năm 1989-1990, Nguyễn Việt Hà đã yêu sâu sắc Hà Nội tạo đƣợc những
dấu ấn đầu tiên của mình trên văn đàn Việt Nam. Đó cũng là thời điểm ông viết Cơ
hội của Chúa với bao nhiêu trăn trở, suy tƣ, với tâm trạng "Hồi đó mình rất muốn
viết những trang về đƣờng tàu điện ở Hà Nội. Tàu điện từng là thứ rất đặc trƣng
cho phố phƣờng của Hà Nội"… nhƣng điều cuốn hút hơn cả đối với ông vẫn là
22
cuộc sống "nội đô" Hà Nội. Bởi theo ông, nội đô là nơi sinh ra tầng lớp thị dân,
"những người ngoại tỉnh do hoàn cảnh xô đẩy về đô thị, cái đầu tiên mà họ tiếp
xúc là văn hóa cửa ô. Cửa ô mang hình ảnh đô thị nhưng cũng là sự tha hóa của
nội ô”. Đọc Cơ hội của Chúa, chúng ta nhận thấy "ba vạn chín nghìn tổng, chánh,
phó giám đốc trong và ngoài quốc doanh đều mù và điếc theo mọi nghĩa" [6, tr.
397], lại thấy "Quan buôn lậu có thế hơn dân buôn lậu" và nhất là thấy "Thương
trường chân chính… đầy rẫy kỹ xảo. Phương châm chủ yếu là đôi bên cùng có lợi.
Một sự hợp tác mang tính chất trí thức và trung thực. Thương gia ở các nước tiên
tiến được coi như một bộ phận tinh hoa của Hà Nội" [6, tr. 122]. Sinh ra, lớn lên
rồi trƣởng thành ở Hà Nội, ngƣời đọc dễ nhận thấy sự lịch lãm, thâm thúy vốn có
của một nhà văn gốc Hà thành ngay trong sáng tác đầu tay của ông, mặc dù tác giả
tự nhận đó là cuốn tiểu thuyết thể hiện sự hồn nhiên của một thời nông nổi. Thực
ra, đó đã là một khởi đầu thuận lợi của một cây bút có tố chất chuyên nghiệp. Sự
chào đón một cách hồ hởi của độc giả và giới phê bình ngay khi cuốn tiểu thuyết
này ra đời khẳng định điều đó.
Từ năm 2003 đến năm 2013, chỉ trong khoảng thời gian khoảng mƣời năm,
Nguyễn Việt Hà đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết, một tập truyện ngắn, bốn tập
tạp văn dày dặn và ngày càng thể hiện sự già dặn trong lối viết. Tiểu thuyết Khải
huyền muộn (2003, tái bản lần thứ hai 2013) của ông đƣợc độc giả chờ đợi và càng
đọc càng thấy hài lòng sau sự thành công của tiểu thuyết Cơ hội của Chúa hơn
mƣời năm trƣớc. Tất nhiên đây vẫn là cuốn sách rất khó đọc đối với tất cả bạn đọc,
kể cả những "siêu độc giả" (những ngƣời cầm bút nhƣ ông). Văn học, nói nhƣ nhà
văn tiền bối Nam Cao "chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" (Đời thừa - 1943). Nếu nhƣ
trong Cơ hội của Chúa, Nguyễn Vệt Hà vẫn còn "chuyện", đƣợc kể khá liền mạch
để ngƣời đọc dễ theo dõi thì đến “Khải huyền muộn” ngƣời ta có một độ hoang
mang nhất định, rất khó xác định nó hay dở thế nào, thành công đến đâu. Nhà văn
23
Nguyễn Huy Thiệp trong lời giới thiệu cuốn sách này đã có những nhận xét khá
sâu sắc về dấu ấn đƣơng đại trong văn xuôi Nguyễn Việt Hà: "anh…. cố tình vi
phạm các "nguyên tắc vàng" sau đó trình bày ra một nội dung khác với các nhà
văn đương thời, là một câu hỏi "chơi thẳng" vào "trái tim" văn học: "Thế mà các
vị coi đấy là văn học à?". Tinh thần khủng bố trắng trợn với các giá trị cổ điển
ngoài nội dung lại được nhấn mạnh thêm bằng một hình thức cấu trúc ngữ pháp và
bố cục không cân đối, làm cho độc giả đã khó đọc lại thêm một lần nữa khó đọc
hơn nếu không muốn nói là không thể đọc được"[20]. Đọc Khải huyền muộn, nhà
văn dẫn dắt ngƣời đọc bằng cách kể chuyện "không có truyện", mở đầu rất vu vơ,
tầm phào và không định thần kịp trƣớc kết thúc của một "tiểu truyện" mới bắt đầu
đƣợc tung ra. Đó là một nhân vật xƣng tôi với anh đi lang thang quanh Hà Nội,
đang ngắm cảnh, tả cảnh chợt chuyển sang kí ức, kể về thời trung học… rồi nhảy
cóc sang chuyện nhà văn đi tìm nhân vật,…chƣa xong lại chuyển sang chuyện tôi
với Vũ… và kết thúc lại là hình ảnh nhà văn Bạch "đôi khi ngồi quán lạ, chợt thấy
ai đó to giọng văng tục thì tự biết ngay đấy là khách hàng đã thâm niên ngồi ở
quán Vinh. Rồi đây, Bạch và cô bé cũng chỉ đến quán Vinh thêm một lần nữa" [7,
tr. 338]… Nghĩa là tác phẩm kết thúc trong tâm thế ngƣời đọc hầu nhƣ còn muốn
biết sau đó nhƣ thế nào, vì họ chƣa kịp hiểu, chƣa thể ngay tức thì ngộ ra ý nghĩa
của hồi kết. Lâu nay chúng ta vẫn tâm niệm về một "cốt truyện là chuỗi sự kiện, có
mở đầu và một kết thúc có ý nghĩa". Đến Nguyễn Việt Hà, lối kết cấu cổ điển ấy
dƣờng nhƣ hết dấu vết. Tất cả các tiểu truyện và các liên tƣởng đều không có một
kết thúc nào (đã đành rồi), thậm chí chúng còn không có một ý nghĩa nào liên quan
gì với nhau nhiều lắm nữa. "Điều này giống như người ta nói "thúng gạo này nặng
mười mét" vậy", (Nguyễn Huy Thiệp).
Tập truyện ngắn Của rơi (2004) và các tập tạp văn lần lƣợt xuất bản ngay sau đó
nhƣ Nhà văn thì chơi với ai (2005), Mặt của đàn ông (2008), Đàn bà uống rượu
(2010), Con giai phố cổ (2013) cho thấy sức sáng tạo ngày một dồi dào của
24
Nguyễn Việt Hà. Có nhiều độc giả dƣờng nhƣ đƣợc xả hơi một cách thật sự khoan
khoái khi tìm đến tạp văn của ông bởi một lối "u mua đen" - "món hài Hà Nội" rất
Nguyễn Việt Hà. Ông viết hóm hỉnh, nhẹ tênh mà lại tỉ mỉ chân thực đến đỉnh về
hình ảnh đàn ông dự yến, đàn ông dở hơi óng ánh, đàn ông khỏa thân, bi tráng anh
em rể, mồm của đàn ông… và sống động đến bất ngờ về đàn bà uống rượu, đàn bà
có võ, đàn bà đọc Tam quốc, thiếu phụ ngoại tình, thiếu nữ đánh cờ, và một ngày
dài hơn thế kỉ… Nếu so sánh đời sống và con ngƣời vùng đồng bằng Nam bộ bộc
trực trong truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Ngọc Tƣ hay cùng chủ đề thị dân đậm
chất triết luận trong văn xuôi Hồ Anh Thái, ta vẫn dễ nhận thấy một lối viết riêng,
không thể trộn lẫn của truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Việt Hà. Đó là một lối hài
sâu cay. Đùa đấy nhƣng cũng là thực đấy. Anh đi suốt từ chợ Đồng Xuân, qua chợ
Hôm đến chợ Đuổi của Hà Nội để lật tung những sâu xa tính toán buôn bán đất Kẻ
Chợ nhƣng cũng không quên dành đất ƣu ái cho những khoảng lịch lãm của ngƣời
có học, trân trọng kiến thức và sĩ khí truyền đời. Đọc tạp văn của ông, thấy nóng
hổi chuyện phố xá với cái duyên không dễ có mà vẫn rƣng rƣng, tinh tế cảm xúc.
Hà Nội trong ông hiện lên hƣ hao nề nếp pha lẫn sự nuối tiếc, khinh bạc. Tuy
nhiên, phải thừa nhận rằng, đằng sau tiếng cƣời hồ hởi, giòn dã, Nguyễn Việt Hà
để lại trong lòng ngƣời đọc những dƣ vị thâm hậu, cứ mải miết hồi hộp, phấn chấn
đọc hết từ đầu đến cuối. Ngay nhan đề của bài viết đã lôi cuốn ngƣời đọc muốn
biết: đàn bà uống rượu, đàn bà có võ, đàn ông dở hơi…óng ánh… là bởi vì tất thảy
đều hi hữu. Mỗi bài viết "xinh xinh" của ông đậm đà một khẩu vị lạ, tƣởng "biết
rồi, khổ lắm…!" mà vô vàn mộng mị, xa xăm, nhất là khi ông viết về lần đầu nghe
nhạc Trịnh hay tự tình về bạn ở cùng phố. Hình nhƣ với ông, càng viết càng mới.
Không đƣợc rộng rãi địa hạt nhƣ những nhà văn có sở trƣờng viết về nông thôn
Nguyễn Ngọc Tƣ, xoay xở trong một Hà Nội nội đô thật đấy nhƣng văn xuôi
Nguyễn Việt Hà chƣa từng gợn một cảm giác chật hẹp, vất vả trong cách lựa chọn
đối tƣợng miêu tả, cũng chẳng hề thiếu thốn cách giễu nhại, hài hƣớc vốn phóng
25
khoáng phong phú của một ngƣời đọc nhiều, biết nhiều. Có lẽ vốn sống, sự lịch
lãm và khả năng hấp thu tinh tế tinh hoa chất phố phƣờng Hà Nội đã làm nên bản
sắc, văn phong độc đáo của ông với phong vị khó quên, khó trộn lẫn.
Khai xuân 2015, tại Trung tâm văn hóa Pháp - Hà Nội, Nguyễn Việt Hà đã làm
nóng lên không khí văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI bằng cuốn tiểu thuyết thứ
ba, tiểu thuyết “Ba ngôi của ngƣời”, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành. Tác phẩm vừa
ra mắt ít lâu đã đƣợc tái bản ngay. Đó thực sự là một hiện tƣợng hiếm hoi và đáng
mừng của văn học nƣớc nhà. Nó cũng cho thấy bản lĩnh sáng tạo vững vàng của
nhà văn đam mê nghề nghiệp, đam mê khám phá Hà Nội và rộng ra là muôn mặt
đời thường, mang nặng hơi thở của những số phận, những kiếp ngƣời trôi nổi trên
dòng lịch sử bão tố của dân tộc. Nếu nhƣ trong hai cuốn tiểu thuyết trƣớc, yếu tố
đơn và tĩnh vẫn còn là điểm tựa để xây dựng tình huống, thì đến “Ba ngôi của
ngƣời”, Nguyễn Việt Hà đã "đa thanh hóa" tiểu thuyết, đặt nhân vật sống trong
một không - thời gian nhiều chiều, trong đó có cả thời gian tâm linh. Một sự bứt
phá ngoạn mục, nếu không nói là ở thế kỉ XX, các tiểu thuyết gia chƣa đủ điều
kiện khai thác. Nhà văn để ba nhân vật thành ba ngôi kể, chính là những hóa thân
lúc ẩn, lúc hiện của tác giả, tấu lên bản giao hƣởng của ngƣời Hà Nội giữa những
biến cố thời thế.
1.2.3. Sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà
Sự phong phú đa dạng về thể loại trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà là một trong
những biểu hiện rõ rệt sức sáng tạo dồi dào của một bút lực khỏe, có năng khiếu
văn chƣơng nghệ thuật, có ý thức nghề nghiệp một cách sâu sắc và cả những đam
mê, những trải nghiệm phong phú, độc đáo. Tâm trạng và những day dứt về nghề
nghiệp cũng là biểu hiện của một cốt cách Hà Nội lịch lãm, uyên bác, xuất phát từ
nhân tâm trong sáng của nhà văn.
Nguyễn Việt Hà với tiểu thuyết
26
Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Nguyễn Việt Hà bắt đầu đƣợc độc giả chú ý với
một số truyện ngắn hoạt kê hài hƣớc, hóm hỉnh nhƣ Thiền giả, Của rơi, Bậc cuối…
chủ yếu là để giễu chuyện đời nay. Nhƣng phải đến khi sự ra đời của các tập tiểu
thuyết: Cơ hội của Chúa năm 1999, Khải huyền muộn năm 2005, đƣợc giải thƣởng
của Hội Nhà văn và năm 2014 là sự ra đời của tiểu thuyết thứ ba Ba ngôi của
người, Nguyễn Việt Hà mới thực sự gây ấn tƣợng mạnh đối với giới nghiên cứu và
ngƣời đọc.
Từ đây ông dƣợc đánh giá là cây bút đô thị xuất sắc, lão luyện. Tuy xuất hiện sau
so với các cây bút kì cựu nhƣng Nguyễn Việt Hà là gƣơng mặt mới, tiêu biểu của
thế hệ trẻ bƣớc vào làng văn với tâm thế hoàn toàn chủ động nhập cuộc. Cũng là
niềm hạnh phúc của nền văn chƣơng Việt khi đƣợc đón nhận một nhà văn Hà Nội,
nói cƣời rổn rảng cả một góc phố, có biệt tài nói nhƣ viết, tấu lên khúc khải huyền
độc đáo qua những áng tiểu thuyết đầy đặn mà ngổn ngang bao nhiêu sự đời, nỗi
đời đang chạy qua trƣớc mắt nhƣ những thƣớc phim tỉ mỉ.
Nguyễn Việt Hà với truyện ngắn
Phải chăng truyện ngắn mới là địa hạt thể hiện tài năng của nhà văn? Viết thì dễ
nhƣng viết cho đậm đà một khẩu vị đặc trƣng chứ không nhạt hoét, dễ dãi mới
khó. Truyện ngắn đòi hỏi nhà văn phải có những năng lực đặc biệt. Trƣớc hết là
khả năng nắm bắt thời sự một cách nhạy bén và một tƣ duy sắc sảo để phân tích,
nhào nặn những hỗn độn từ cuộc sống thành chất sống cụ thể, có hình hài, mang
tính tƣ tƣởng và cả chất triết lí sâu xa. Hơn nữa lại phải tối thiểu hạn chế dung
lƣợng, dùng ít chữ nhất mà vẫn phản ánh một cách chính xác, sâu sắc nhất về bức
tranh đời sống mà nhà văn đã công phu lựa chọn. Nguyễn Việt Hà là nhà văn của
nội đô Hà Nội, có một thời tuổi trẻ vất vả, lang thang hè phố. Chính những năm
tháng nhƣ thế đã giúp ông thu vào tầm mắt, in một dấu ấn rất đậm về những ngƣợc
xuôi, bộn bề và cả những bi hài vốn có của cuộc sống đô thị với cơ chế kinh tế thị
trƣờng thời mở cửa. Nhà văn Thạch Lam (1910-1942) có những năm tháng tuổi
27
thơ sống ở phố huyện Cẩm Giàng (Hải dƣơng), để rồi sau này, cái phố huyện heo
hút, hiu quạnh ấy trở thành không gian nghệ thuật trở đi trở lại trong nhiều truyện
ngắn của ông. Văn hào Nga M. Gorki tổng kết đời mình thành kiệt tác Thời thơ
ấu…. Hà Nội cũng nhƣ thế trong truyện ngắn của Nguyễn Việt Hà. Đó là những
khoảnh khắc ít ỏi Nắng bắt đầu đậm vàng qua kẽ xanh tán lá… nắng vàng long
lanh trong giọt mưa sót mong manh bám trên những cành hồng đỏ… (Từng vòng
khói thuốc, Của rơi, 2004, Nxb Phụ nữ). Chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn
Việt Hà là một không gian Hà Nội náo nhiệt với những căn buồng tƣơng tự nhƣ
buồng hoàng tử Phở nồng nặc mùi nước hoa Cologne (Người đi thi hộ - Sđd) hay
Ngột ngạt người trong ăm ắp rượu và đủ loại món ăn nóng nguội. Khách sạn nổi
tiếng với những món Tầu nhưng làm tiệc đứng kiểu Tây… (Rửa tội - Sđd). Không
những có năng khiếu chọn lọc đề tài theo một lối riêng, đậm bản sắc, ông còn tạo
nên một giọng điệu văn chƣơng mang thƣơng hiệu Nguyễn Việt Hà: lúc hóm hỉnh,
sinh động một cách tự nhiên nhƣ nói, lúc lại thâm trầm sâu xa. Nhất là khi ông
dành một góc riêng để khắc họa hình tƣợng những trí thức Hà Nội, những cốt cách
Hà Nội gốc mà theo ông, không bao giờ mai một, dù thời thế có thăng trầm và bụi
bặm hơn nữa. Thành công trong tiểu thuyết thể hiện sự trƣởng thành của nhà văn
thì đặc sắc của truyện ngắn chính là biểu hiện của độ bền vững, của kĩ năng viết đã
trở nên sành sỏi, nhuần nhuyễn. Năm 2001, đạo diễn Vƣơng Đức thích truyện ngắn
của ông và đã yêu cầu Nguyễn Việt Hà chuyển thành kịch bản phim với ý tƣởng
Của rơi mang ý nghĩa kép: ở một mức độ nào đó, ngƣời trí thức là một thứ của rơi,
ai nhặt đƣợc và sử dụng nó nhƣ thế nào lại là vấn đề khác. Tình yêu cũng tựa nhƣ
một thứ của rơi, ai may mắn thì nhặt đƣợc. Phúc họa ở đời không lƣờng hết là vì
thế.
Tập truyện ngắn Của rơi (2004) với hơn hai mƣơi tác phẩm cho thấy Nguyễn Việt
Hà đang vƣơn đến một địa hạt văn chƣơng mới, phong phú hơn, thú vị hơn. Ông là
nhà văn Hà Nội, là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn chƣơng Việt hiện nay.
28
Nguyễn Việt Hà với tạp văn
Tạp văn là một thể loại có lịch sử lâu đời, phổ biến từ thời Chiến quốc. Thế kỉ XX
ghi danh nhà văn Lỗ Tấn cũng chính ở thể loại tạp văn hiện đại, dùng để phê phán
một cách hữu hiệu những vấn nạn của quốc dân Trung Hoa mà ông cho là căn
bệnh tinh thần, ngu dốt, u mê, lạc hậu, tự mãn và đớn hèn. Cho đến nay, tạp văn
vẫn phát triển với diện mạo và nội dung ngày càng phong phú. Những nhà tạp văn
tiêu biểu của nƣớc ta hôm nay nhƣ Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn
Khải, Nguyễn Ngọc Tƣ, Phan Thị Vàng Anh, Dƣơng Ngọc Dũng, Nguyễn Việt
Linh, Nguyễn Văn Thọ… cho thấy sự nở rộ và tính ƣu việt của thể loại. Nhìn
chung đây là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, linh hoạt, dễ bắt nhịp với nhu cầu
thƣởng thức của nhiều giới độc giả. Tuy dung lƣợng ngắn nhƣng tạp văn chứa
đựng những nội dung phong phú đa dạng, có thể liên quan đến các vấn đề chính trị
- xã hội mang tính chính luận sắc sảo, cũng có thể là những thiên “tạp cảm” giàu
cảm xúc trữ tình, đặc trƣng cho phong cách nghệ thuật của tác giả văn chƣơng. Thể
văn này thƣờng chớp lấy một ý nghĩ, khoảnh khắc suy tƣ, một thoáng liên tƣởng
bất ngờ, độc đáo, đậm dấu ấn cá nhân của nhà văn. Do đó, ngắn nhƣng tạp văn lại
chứa đựng những ý tƣởng ngầm, sắc và sâu.
Ngoài tiểu thuyết và truyện ngắn, Nguyễn Việt Hà còn nổi danh với những tập tạp
văn đặc biệt. Những ngƣời từng gặp Nguyễn Việt Hà đều nhận xét, ít ai nghĩ ông là
nhà văn bởi cái dáng cao lớn, khuôn mặt mang nhiều nét phôi pha và trải nghiệm
cuộc đời. Nhƣng khi nói chuyện mới thấy ông là một con ngƣời khá thú vị. Ông
thƣờng làm chủ đƣợc câu chuyện và có cách nói rất thu hút. Nhà văn lại có biệt tài
viết nhƣ đang nói, nhƣ đang ngồi nhậu ba la bông lơn với bạn bè, chẳng biết câu
nào đùa, câu nào thật. Ấn tƣợng chung của mọi ngƣời là đọc tạp văn của ông thấy
nhƣ lúc ông nói chuyện với mình vậy. Khởi đầu là tiểu thuyết, song tạp văn chính
là cái duyên mặn mòi trên con đƣờng văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà.
29
Một trong những lí do độc giả yêu tạp văn Nguyễn Việt Hà chính là ở lối viết nhẹ
nhàng mà thu hút của ông. Nhà văn có lần tâm sự “Thật ra có rất nhiều ngƣời, nhƣ
nhà báo Trịnh Tú nhận xét về tôi: “Cậu viết về đàn bà hay hơn đàn ông”. Nói
chung là do cảm giác đọc chi phối thôi, vì thật sự tạp văn viết về đàn ông hay đàn
bà thì đều phải “điêu toa” nhƣ nhau. Tôi quan niệm viết văn không dựa trên câu
chuyện cụ thể nào, mà chính là cách dẫn dắt, câu chữ sao cho hấp dẫn”. Ông viết
về đàn bà uống rượu, mặt của đàn ông, tá lả tiến sĩ, anh hùng tuyệt lộ, bi kịch của
lạ… hay con giai phố cổ đều bằng một giọng văn dí dỏm mà sâu sắc lạ lùng.
Không thiếu những văn phẩm nhƣ thế, chẳng hạn một đoạn trong tạp văn Anh hùng
tuyệt lộ của Nguyễn Việt Hà: “Đàn ông đƣợc coi là anh hùng (từ điển Hán Việt
Đào Duy anh chú: Anh là vua loài hoa, Hùng là vua loài thú, chỉ người hào kiệt
xuất chúng), khi lâm tuyệt lộ thì tuyệt nhiên khác. Một phần do cái sự họ gặp phải
bi thảm đến cực cùng, một phần là do cái cách họ ứng xử với những bất thƣờng bi
thƣơng ấy. Cố nhiên, vì là đàn ông nên cũng có lúc họ bị tán gia bại sản, cũng có
lúc họ gặp ác phụ phản thùng. Có điều, với tất thảy bọn họ, tiền bạc hay hôn nhân
chƣa hẳn quá trọng, nó nhỏ nhƣ bò ăn cỏ. Chuyện làm họ lao đao day dứt hơn cả lẽ
sinh tử chính là chữ Hiếu, chữ Nghĩa, chữ Tín. Ngƣời đọc đến với tạp văn của
Nguyễn Việt Hà để thƣởng thức một phong vị hài hƣớc sâu cay, tƣởng là bông lơn
nhƣng thực ra là nhiều hàm ý. Nhà văn mƣợn một hiện tƣợng cụ thể nhƣng không
hoàn toàn cá biệt, ngƣợc lại, rất phổ biến trong cuộc sống đƣơng đại (chẳng hạn
nhƣ chuyện khôn ngoan nhận hối lộ, chơi chứng khoán, sự bất ổn của giá cả thị
trƣờng…). Qua những trang tạp văn ngắn gọn, xinh xinh của ông, độc giả nhận
thấy bức tranh hiện thực xã hội đƣơng đại thật phong phú, đa dạng. Những vấn đề
nhạy cảm nhất liên quan đến chính trị, việc giáo dục những con ngƣời bình dị, vấn
đề văn hóa thời kinh tế thị trƣờng… đi vào tạp văn của ông một cách tự nhiên,
sống động, linh hoạt. Khác với những đao to búa lớn mà ngƣời ta hay bàn về tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà, đọc tạp văn của ông chúng ta có cảm giác nhƣ trút
30
đƣợc gánh nặng mà vẫn không mất đi sự đồng cảm khi nhà văn bộc lộ nhận thức
và tình cảm của mình với cuộc sống, con ngƣời, xã hội bằng một mĩ cảm hiện đại
mà gần gũi, dung dị. Chính Nguyễn Việt Hà cũng đầy trăn trở về thể loại này: “Nói
cho cùng, tản văn là thứ văn mƣu sinh, là thể loại “tủi thân” nếu miễn cƣỡng phải
so với tiểu thuyết hay truyện ngắn. Đàn ông viết ra nó đều là những ngƣời có nhân
cách, thậm chí còn tử tế. Ngày hôm nay, số ngƣời mua và đọc tạp văn thƣờng đông
hơn hẳn số ngƣời mua và đọc tiểu thuyết. Điều này không biết nên lo hay mừng”.
1.2.4. Các vấn đề xuyên suốt trong văn xuôi Nguyễn Việt Hà
Hiện thực đời sống đương đại trong tiểu thuyết Nguyễn Vệt Hà
Trƣớc hết phải thấy một thực tế, Nguyễn Việt Hà lớn lên ở thời hậu chiến (chỉ
những năm 1975-1985 ở nƣớc ta) nhƣng bƣớc vào văn nghiệp ở buổi đầu của nền
kinh tế thị trƣờng thời mở cửa (sau 1986). Các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa (1999),
Khải huyền muộn (2003), Ba ngôi của người (2014) và các tập tạp văn của ông
không có dấu vết của quá khứ đậm chất sử thi trƣớc đó. Tác phẩm của Nguyễn
Việt Hà đã phản ánh hiện thực đời sống đƣơng đại một cách sinh động và đặc biệt
phong phú, đa dạng, tinh tế theo một cách riêng. Ngƣời đọc cảm nhận đƣợc một
cách sâu sắc về "cái thời buổi nhố nhố nhăng nhăng, ông không ra ông, thằng
không ra thằng" [11, tr.331] đang phơi bày trƣớc mắt. Nhà văn dựng "chân dung"
và miêu tả khá chi tiết, một đô thị đầy rẫy những "gã quan tham đã có biệt thự còn
cố chiếm lấy một suất phân nhà bé tí trong khu tập thể rồi thanh thản hạ cánh an
toàn… [7, tr.12]. Một cô Hoa hậu "mặc bikini… uyên bác vanh vách trả lời các
câu hỏi của giám khảo". Tiêu biểu hơn là tiểu sử quái đản của những giám đốc
"chưa học hết cấp Một… được báo chí khen là biết tám ngoại ngữ và trong giao
tiếp không bao giờ dùng tiếng Việt [11, tr.398]. Đó còn là một Nguyễn Văn Mƣời
Hai, "một thằng vô học móc cống dám len vào điều hành kinh tế ở tầm vĩ mô" [11,
tr.397]. Đọc những câu nhƣ thế chợt nhiên nhớ đến cảnh quê nhà bỗng xoay ra phố
với những kẻ "Chí cha chí chát khua giày dép. Đen thủi đen thui cũng lượt là"
31
trong thơ Trần Tế Xƣơng xƣa kia. Lại nhớ cái thời của những Xuân Tóc Đỏ, từ
một thằng ma cà bông, sống bằng nghề trèo me trèo sấu và thổi kèn quảng cáo
thuốc lậu, nhặt ban quần, không cha không mẹ bỗng nhiên trở thành vĩ nhân, nhà
Âu hóa, anh hùng cứu quốc trong sáng tác đƣợc xem là mẫu mực về đề tài đô thị
hiện đại của nhà văn Vũ Trong Phụng, tiểu thuyết Số đỏ.
Khái quát mặt trái xã hội đƣơng đại, Nguyễn Việt Hà không quên chỉ rõ nguyên
nhân sâu xa của nó. Nhà văn bật lên những câu cảm thán tƣởng bâng quơ nhƣng
thực ra là chua chát trong tạp văn Đàn bà uống rượu: "Khốn nạn thay cho cái nhân
loại đã bị đục ngầu này" hay "cõi đời bất trắc đang dần dần bị ô nhiễm này" [10,
tr.189]. Những năm 90 của thế kỉ XX ở nƣớc ta cho đến nay, những yếu kém về
năng lực quản lí của Nhà nƣớc; sự sơ hở, chắp vá của luật và dƣới luật tạo nên
những kẽ hở cho những kẻ cơ hội và những mẫu người không chính danh kia nổi
lên nhƣ rƣơi, làm mai một những thuần phong mĩ tục vốn sâu xa quý báu của
ngƣời Việt. Tất cả hiện lên sống động chân thực dƣới ngòi bút châm biếm sắc sảo
của Nguyễn Việt Hà.
Tuy nhiên, không phải bao giờ nhà văn hiện thực cũng chỉ nhìn đời một phía và
Nguyễn Việt Hà cũng nhƣ thế. Cuộc sống đƣơng đại vừa có những xô bồ, phức
tạp, thậm chí cả những nhốn nháo (chữ dùng của Vũ Trọng Phụng), nhố nhăng của
một xã hội đầy biến động, nóng lên để hội nhập lại vừa giữ lại những nét trong
trắng xƣa cũ, vƣơng vấn bản sắc mà đậm đà hồn Việt. Văn xuôi Nguyễn Việt Hà
không ít lần chạm khắc hình ảnh "Một đô thị đã ngoài nghìn tuổi thì đương nhiên
phải có linh hồn…, nó thăm thẳm mơ màng rêu phong tạo riêng một bản sắc. Phố
cổ chính là nơi giữ gìn được những mảnh hồn độc đáo ấy"[38]. Không thể tránh
những ồn ã phồn tạp nhƣng Hà Nội trong văn Nguyễn Việt Hà có lúc chợt tĩnh
lặng, thâm trầm đến nao lòng, cảm xúc nhƣ nâng cánh cho ta có thể hát lên những
ca từ duyên dáng nhất về Hà Nội của ta "Gió khuya lá rụng", "dịu dàng những góc
phố heo may".
32
Gắn với hình ảnh phố nhỏ, phố cổ mơ màng rêu phong ấy là những con ngƣời
chính danh Hà Nội. Đó có thể là hình ảnh "một nhạc sĩ già, ông là người chơi
đại phong cầm duy nhất của ca đoàn giáo xứ. Ông nhạc sĩ là kiểu ẩn sĩ tinh hoa
nhiều kĩ tính của Hà Nội cũ phố cổ" trong Đàn bà uống rượu; cũng có thể là
những thiếu phụ phố cổ "kiêu sa áo dài nhung", "phong độ của họ là tinh tế
đoan trang cực kì sang trọng" trong Con giai phố cổ. Trong tiểu thuyết mới
nhất, Ba ngôi của người thì Nguyễn Việt Hà đã dựng lại hình ảnh những ngƣời
mẹ nấu ăn ngon đứt lƣỡi, những ngƣời cha yêu con theo cách riêng của họ, đám
con trai, con gái phố cổ đã hấp thu cái tinh hoa và cả những văn hóa lai căng tứ
xứ đổ về. Đó là dòng chảy của kí ức, nói nhƣ chính tác giả là "ngồn ngộn những
kí ức về Hà Nội", một đô thị phức tạp với những góc khuất và cả "văn hóa ngƣời
Hà Nội" mà ngày nay chúng ta vẫn tiếc nhớ. Giữa một Hà Nội trong quá trình
đổi thay, những ngƣời Hà Nội gốc ấy hiện ra. Họ sinh ra ở mảnh đất đƣợc gọi là
nghìn năm văn hiến, lớn lên ở đây và dƣờng nhƣ mọi biến cố, tâm lí đều có một
phần nguyên do từ không gian, nếp sống của nơi này. Họ là những ngƣời ngƣời
Hà Nội và sống rất Hà Nội.
Có thể nói những không gian đặc trƣng và những con ngƣời nhƣ thế đã làm nên
một phố phƣờng Hà Nội có khuôn mặt kinh thành riêng theo cốt cách và phong vị
độc đáo của Nguyễn Việt Hà. Dấu ấn đa dạng của lịch sử trong cuộc sống đƣơng
đại in đậm trong sáng tác của nhiều nhà văn cùng thời với ông thêm một lần nữa
cho thấy tính dân chủ sâu sắc của văn học thời nay.
Đô thị với cảm quan hậu hiện đại của con người
Cảm quan hậu hiện đại là một thuật ngữ của chủ nghĩa hậu cấu trúc và chủ nghĩa
hậu hiện đại, là hình thức cảm nhận thế giới đặc thù và là phƣơng thức phản xạ suy
tƣ lí thuyết tƣơng ứng với nó, tiêu biểu cho tƣ duy khoa học của các nhà nghiên
cứu văn học hiện thời thuộc định hƣớng hậu cấu trúc - hậu hiện đại. Cảm quan hậu
hiện đại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà chính là cách cảm nhận về con
33
ngƣời trong xã hội hỗn độn, của những cơn khủng hoảng niềm tin vào những giá
trị tồn tại từ lâu. Những hoài nghi với mọi thứ và xung đột, phá vỡ những giá trị
thƣờng thấy của văn học. Cùng với cuộc sống đặc trƣng đô thị, cảm quan hậu hiện
đại càng đƣợc thể hiện rõ nét qua những tác phẩm của nhà văn này.
Không phải đến nay đô thị mới xuất hiện trong văn học, gắn với cảm quan - cách
quan sát và cảm nhận của con ngƣời nói chung. Các nhà văn luôn đồng thời là nhà
xã hội học theo một nghĩa nhất định nào đó ở khả năng phân tích hiện thực và cả
những dự cảm nhạy bén, sâu xa thâm thúy vốn là tố chất của ngƣời cầm bút chuyên
nghiệp. Đô thị trong văn học, qua mỗi thời thế có một sắc thái riêng. Cũng nhƣ thế,
cảm quan về đô thị của con ngƣời không hoàn toàn lặp lại một khi xã hội đã biến
đổi từ thể chế này sang mô hình khác. Nó là một trƣờng thẩm mĩ độc đáo đƣợc
nhào nặn, đƣợc tạo tác bởi mĩ cảm riêng, không lặp lại giữa nhà văn này với nhà
văn khác.
Đô thị qua thế giới nhân vật của Nguyễn Việt Hà cũng muôn màu nhƣng sắc điệu
của nó đã khác, là cái nhìn của con ngƣời thời hậu công nghiệp, vừa đầy giễu cợt,
mỉa mai vừa không khỏi những xót xa, lo lắng. Văn xuôi của ông đã mạnh dạn đề
cập tới nhiều vấn đề, vấn nạn trong xã hội, mang lại cho ta cái nhìn phức hợp,
phong phú về cuộc sống luôn luôn vận động, thay đổi mà ở đó các chuẩn mực,
quan niệm cũng thay đổi theo. Ông không ngần ngại tung lên hình ảnh một thành
phố Hải Phòng những năm đầu Đổi mới "dân tình ham hố làm giàu…", "cuộc sống
sôi sục mùi đồng" và cả những "phi vụ buôn lậu xuyên dọc chiều dài đất nước có
thể là của dân nhưng muốn xuyên ngang qua các quốc gia thì phải là của quan"
[8, tr.99]; lại có cả những "cái hay của nước ngoài học được thì ít, cái dở của
ngoại bang mót được thì nhiều"… Từ những chấm phá nhƣ thế, Nguyễn Việt Hà
đã đƣa hình tƣợng trong những sáng tác của mình phù hợp với thực tại luôn biến
đổi, xô bồ, nhộn nhịp, cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn toàn diện hơn về mọi mặt
của đời sống, phù hợp với tinh thần dân chủ hóa trong văn học của thời đại. Cũng
34
có thể nói, đọc tác phẩm của ông, ta cũng nhƣ đƣợc cháy hết mình, chợt vỡ ra, giật
mình vì hình nhƣ soi thấy một phần chính mình trong đó. Văn học là thế, nó lặng lẽ
mà mãnh liệt trong quá trình khơi gợi sự đồng cảm từ phía ngƣời đọc. Nhất là qua
những sáng tác hoàn toàn chủ động về tâm thế và một bút lực khỏe khoắn, thông
minh nhƣ Nguyễn Việt Hà.
Nhìn một cách bao quát, Nguyễn Việt Hà là nhà văn đã có những bƣớc tiến dài,
chắc chắn, độc đáo trong sự nghiệp văn học đang còn rộng mở. Sáng tác của ông
hấp dẫn ngƣời đọc ở một lối văn tinh tế, giọng điệu phong phú, cái nhìn đa diện và
cả sự mẫn cảm về cuộc đời, thời thế. Xoay, soi, ngắm nghía… văn xuôi của ông đã
và đang đƣợc ngƣời đọc chờ đợi, bởi càng đọc càng thấy "ghét" một cóc cụ Hà Nội
lắm mồm tán nhảm mà sâu sắc đến điều.
Nổi lên trên văn đàn Việt chƣa lâu nhƣng Nguyễn Việt Hà đã có những thành công
đáng kể và tiến những bƣớc dài, khá vững chắc trên con đƣờng văn nghiệp. Với
tiểu thuyết và truyện ngắn, ông là ngƣời khai phá một lối viết mới, đậm chất hậu
hiện đại. Ngƣời đọc cũng bị chinh phục bởi những tạp văn xinh xắn, hài hƣớc
nhƣng là cả một pho kiến thức đƣợc chắt lọc, tổng hợp từ nhiều nguồn, từ kiến
thức sách vở cổ kim đến hết thảy những gì đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra trƣớc
mắt. Trong cảm quan của ông và hầu hết những nhà văn viết cùng đề tài, con ngƣời
đô thị hiện lên với tất cả dở hay, xấu tốt. Bức tranh đời sống trong văn xuôi
Nguyễn Việt Hà thực chất là sự tái hiện một cách sáng tạo, vừa gắn với không khí
dân chủ thời mở cửa vừa tạo riêng một giọng điệu, một góc nhìn. Xung quanh sáng
tác của ông có nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi. Nhƣng dù thẩm định ở phƣơng
diện nào, chúng ta cũng có cơ sở khẳng định rằng đây là nhà văn Hà Nội độc đáo
và giàu bản sắc. Chắc chắn, ông còn có nhiều đột phá trong sự nghiệp văn chƣơng
của mình, bởi đây là lúc bút lực của anh đang ở độ chín với phong độ dồi dào, khỏe
khoắn nhất.
Một cái nhìn về Kitô giáo qua văn học
35
Với rất đông độc giả, ngƣời ta mới chỉ biết đến Kitô giáo qua những cuốn sách,
những câu chuyện hay bộ phim nhƣng tất cả đều dƣờng nhƣ không gần gũi với
cuộc sống. Chính vì thế, một cái nhìn toàn diện về Kitô giáo vẫn còn là điều gì đó
xa lạ hay mơ hồ với nhiều ngƣời, đặc biệt là những ngƣời không theo đạo. Thế
nhƣng, nhờ có bộ ba tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn và Ba ngôi
của người thì Nguyễn Việt Hà đã nhờ những yếu tố tôn giáo thể hiện từ ngôn ngữ,
biểu tƣợng, lịch sử, nhân vật… để đƣa tới một cái nhìn tƣơng đối toàn diện hơn về
Kitô giáo cũng nhƣ mối quan hệ giữa tôn giáo và thời đại.
Một bức tranh về Kitô giáo đƣợc viết lên với những không gian nhà thờ, những
ngôn ngữ của ngƣời theo đạo, những ngày lễ, lịch sử của tôn giáo này ở Việt Nam
cũng đƣợc khéo léo đƣa vào câu chuyện. Những con ngƣời tôn giáo cũng hiện lên
rõ ràng hơn, ở đó có những sâu thẳm, những ẩn ức trên cơ sở đức tin. Những con
ngƣời theo đạo với cuộc sống nhƣ bao con ngƣời khác trong cuộc sống. Họ cũng là
những con ngƣời bình thƣờng, những con ngƣời thuộc mọi tầng lớp với nhiều công
việc khác nhau, cũng có những yêu ghét đời thƣờng nhƣng ẩn trong họ là một đức
tin, một sự cứu rỗi của Chúa. Những nhân vật này chính là đại diện cho tất cả
những con ngƣời của xã hội, đức tin của Kitô giáo trong các nhân vật cũng mở
rộng ra là niềm tin, là sự cứu rỗi của con ngƣời với thực tại cuộc sống.
Bằng việc tạo nên những tiểu thuyết mang đậm dấu ấn Kitô giáo, nhà văn đã tái
hiện lại một bức tranh của cuộc sống. Nhờ cảm hứng tôn giáo Nguyễn Việt Hà đã
thành công trong việc xây dựng nên một xã hội thu nhỏ trong tác phẩm của mình.
Ở đó, tôn giáo nhƣ một màu sắc thú vị, một đòn bẩy giúp cho những thông điệp,
những giá trị đƣợc thể hiện một cách sâu sắc và chân thực nhất. Xã hội đã tác động
lớn đến tôn giáo, một xã hội càng phát triển, càng lộn xộn thì chỗ đứng của tôn
giáo càng bị hẹp đi nhƣng ngƣợc lại. Tôn giáo ra đời dựa trên nhu cầu cần chỗ dựa
tinh thần của con ngƣời vì thế con ngƣời càng đau khổ thì tôn giáo càng có chỗ
36
đứng cho mình. Một xã hội đem đến cho con ngƣời những nỗi đau, sự cùng quẫn
thì ở đó họ chỉ có thể tìm cho mình niềm tin nơi tôn giáo. Cuộc sống thực tại là
vậy, càng phát triển thì càng khiến con ngƣời thay đổi, nhiều nỗi đau hơn và khi
tôn giáo tƣởng nhƣ mất đi vị thế của mình thì cũng là lúc nó thể hiện đƣợc vai trò
không thể thay thế. Những thông điệp, những quan điểm về cuộc sống, con ngƣời
và thời đại đã đƣợc thể hiện trọn vẹn và một trong những điều giúp tạo nên thành
công đó chính là cảm hứng tôn giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Bakhtin (Phạm Vĩnh Cƣ tuyển chọn dịch) (2003), Lý luận và thi pháp tiểu
thuyết, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội
2. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
4. Jean Francois Froger và Jean Piere Durand (2014), Biểu tượng và ý nghĩa của
các loài thú trong Thánh Kinh, Lê Thành dịch, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Việt Hà (2015), Ba ngôi của Người, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Việt Hà (2016), Buổi chiều ngồi hát, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Việt Hà (2013), Con giai phố cổ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Việt Hà (2013), Cơ hội của Chúa, Nxb trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Việt Hà (2004), Của rơi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
10. Nguyễn Việt Hà (2010), Đàn bà uống rượu, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Việt Hà (2013), Khải huyền muộn, Nxb trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
37
12. Nguyễn Việt Hà (2008), Mặt của đàn ông, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
13. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết đến hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
14. G.N. Pôpxpêlôp (Chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
15. Phƣơng Lựu (chủ biên): Lí luận văn học, tập 1. Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà
Nội, 2002, tr.110.
16. Nguyễn Ƣớc (2005), Giáo lý mới thời đại mới, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
17. Carol Smith - Roddy Smith (2011), Lịch sử Thiên chúa giáo, Nxb Thời đại, TP.
Hồ Chí Minh.
18. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, NxbTrẻ, Hồ Chí Minh.
20. Tzvetan Todorov (2011), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào- Lê Hồng
Sâm dịch), Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội
21. Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (2006), Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
22. Hoàng Tâm Xuyên (2016), 10 tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
23. Linda Woodhead (2016), Dẫn luận về Kitô giáo, Nguyễn Tiến Văn dịch, Nxb
Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
24. Rosemary Ellen Guiley, Từ điển Tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt, Nguyễn
Kiên Trƣờng dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
38
25. Nhiều tác giả (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội.
26. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Đọc ' Cơ hội của Chúa' của Nguyễn Việt Hà, Tạp
chí sông Hƣơng, số 130, Huế.
27. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Tạp chí
văn học, số 6/1991, Hà Nội.
28. Nguyễn Huy Thiệp (2016), “Khải huyền muộn” – cảm hứng và những dấu
hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết, Tạp chí văn học, số
4/2016.
29. Nguyễn Thị Thuyên (2008), Vấn đề tôn giáo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà,
Tạp chí khoa học tập XXXVII, số 4B/2008, Đại học Vinh, Nghệ An.
30. Lê Khánh Hà (2011), Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.
31. Trần Việt Hà (2015), Cảm thức đô thị trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận
văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, Hà Nội.
32. Lê Thị Loan (2008), Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn
thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
33. Thu Hà (2014), Nhà văn Nguyễn Việt Hà: Đã là văn chương thì không có biên
giới!, Báo Sài Gòn giải phóng,
http://sggp.org.vn/vanhoavannghe/nguoicuacongchung/2014/1/337628/.
34. Đỗ Thị Hiên (2014), Người kể chuyện và ngôn ngữ người kể chuyện trong tác
phẩm văn chương, Ngôn ngữ và đời sống, Số 1 (219),
http://www.vjol.info/index.php/NNDS/article/view/19277>
39
35. Thụy Oanh (2016), Nguyễn Việt Hà - 'Gã giai phố cổ' nặng lòng với Hà Nội,
Báo điện tử Zing.vn, http://news.zing.vn/nguyen-viet-ha-ga-giai-pho-co-nang-
long-voi-ha-noi-post637287.html.
36. Khái quát về lịch sử truyền giáo và phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam
Phƣơng Liên, Ban tuyên giáo trung ƣơng,
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1217/Khai_quat_ve_lich_su_tru
yen_giao_va_phat_trien_dao_Cong_giao_o_Viet_Nam
37. Công giáo, http://www.conggiao.org/
38. PV (2010), Con giai phố cổ, Đẹp Plus, http://dep.com.vn/Living/Con-trai-pho-
co/4017.dep.
39. Đoàn Cầm Thi (2004), Cơ hội của Chúa: Từ nhật ký đến hậu trƣờng văn học,
Báo điện tử VNE, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/co-hoi-cua-
chua-tu-nhat-ky-den-hau-truong-van-hoc-2140783.html.
40. Thu Hƣơng (2003), Nguyễn Việt Hà: 'Tôi luôn khát khao sự trong trẻo', Báo
điện tử VNE, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nguyen-viet-
ha-toi-luon-khat-khao-su-trong-treo-1876010.html.