CHỈ THỊ - bantuyengiao.cantho.gov.vnbantuyengiao.cantho.gov.vn/bantuyengiao_files/files/Thong...

68

Transcript of CHỈ THỊ - bantuyengiao.cantho.gov.vnbantuyengiao.cantho.gov.vn/bantuyengiao_files/files/Thong...

3

Thời gian qua, công tác thông tin cơ sở đã góp phần phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cơ sở; cung cấp thông tin, kiến thức cần thiết tới người dân trên địa bàn dân cư; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn, xã hội ở cơ sở (xã, phường, thị trấn).

Tuy nhiên, nhìn chung, công tác thông tin cơ sở còn hạn chế, bất cập, hiệu quả thấp; nội dung thông tin còn ít thiết thực, chưa được phổ cập rộng rãi tới đa số người dân; phương thức truyền thông chủ yếu vẫn theo cách làm truyền thống, chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.

Những hạn chế, bất cập trên chủ yếu là do chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác này; cấp ủy, chính quyền các cấp ở nhiều nơi nhận thức chưa đầy đủ về phạm vi, ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác thông tin cơ sở; thiếu sự phối hợp, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của các cấp, các ngành về phương thức truyền thông, về lựa chọn thông tin, kiến thức thiết thực cho cuộc sống, lao động, sản xuất kinh doanh của người dân trên địa bàn dân cư ở cơ sở.

Hiện nay, các loại hình, phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản, Internet, mạng xã hội… phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng, người dân được tiếp cận và hưởng thụ thông tin rất phong phú, đa dạng thông qua nhiều hình thức, phương thức khác nhau.

Để đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác thông tin cơ sở trong tình hình mới, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp quán triệt, tổ chức thực hiện tốt các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp sau:

1- Công tác thông tin cơ sở là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ các phương tiện truyền thông hiện đại với cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết chế văn hóa thông tin cơ sở hiện có và chương trình nông thôn mới để làm tốt công tác thông tin ở cơ sở; bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin, kiến thức cần thiết cho cuộc sống lao động, sản xuất kinh doanh của người dân trên địa bàn dân cư xã, phường, thị trấn; đồng thời chủ động đấu tranh, phản bác các thông tin sai trái, xấu độc, xuyên tạc, góp phần củng cố sự đoàn kết và đồng thuận xã hội ở cơ sở và từ cơ sở.

CHỈ THỊCỦA BAN BÍ THƯ

Về đẩy mạnh công tác thông tin cơ sở trong tình hình mới_______

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG *

Số 07-CT/TW

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2016

4

2- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại về viễn thông, truyền thông đa phương tiện để tổ chức thông tin cơ sở; đồng thời chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền miệng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.

Việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác thông tin cơ sở cần được lồng ghép trong Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các bộ, ngành, địa phương để khai thác, sử dụng có hiệu quả, tránh chồng chéo, lãng phí.

3- Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các đài phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kênh hoặc chương trình truyền thông chuyên đề cơ sở theo hướng đa dạng, hấp dẫn, có sức thuyết phục, phù hợp với trình độ, nhu cầu của người dân ở từng vùng, miền, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đồng bào theo đạo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ít có điều kiện tiếp cận thông tin.

4- Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, củng cố, tổ chức lại theo thẩm quyền (nếu cần thiết, song phải bảo đảm không tăng biên chế và đầu mối trực thuộc) nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa - thông tin cơ sở hiện có (đài truyền thanh cấp huyện và cấp xã, đội tuyên truyền lưu động cấp huyện, điểm bưu điện - văn hóa xã, tủ sách pháp luật, cụm thông tin cổ động nhà văn hóa, trung tâm văn hóa - học tập cộng đồng, thư viện, đội chiếu phim lưu động,…) đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và phù hợp với thực tế địa phương trong tình hình mới.

5- Tổ chức thực hiệnBan Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và

Truyền thông và các cơ quan liên quan chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng nội dung thông tin và các hoạt động thông tin cơ sở; chỉ đạo việc xây dựng, kiện toàn và hướng dẫn hoạt động của các ban tuyên giáo, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở; biên soạn, cung cấp tài liệu tuyên truyền, bảo đảm sự thống nhất, đúng định hướng của Đảng; đôn đốc, kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết và báo cáo Ban Bí thư về tình hình thực hiện Chỉ thị này.

Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo tổ chức hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác thông tin ở cơ sở; đảm bảo quản lý thống nhất về hạ tầng thông tin ở cơ sở; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện quy trình tiếp nhận thông tin và trả lời phản ánh của người dân thông qua công tác thông tin cơ sở.

Hằng năm, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Chỉ thị này.

Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ.

T/M BAN BÍ THƯ (đã ký)

Đinh Thế Huynh

5

Vừa qua, sau khi nghe Ban Tuyên giáo Trung ương trình Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 04-3-2005 của Ban Bí thư khóa IX về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (sau đây gọi là Chỉ thị 50) và ý kiến của các cơ quan liên quan, Ban Bí thư kết luận:

1- Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 50 đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển công nghệ sinh học từng bước được hoàn thiện. Cơ sở vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực về công nghệ sinh học được quan tâm đầu tư. Đã chọn tạo được nhiều giống cây năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng kháng bệnh, chống chịu với các điều kiện sinh thái bất lợi.

Tuy nhiên, trong 10 năm qua, việc thực hiện Chỉ thị 50 còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đạt mục tiêu Chỉ thị đã đề ra. Trình độ công nghệ sinh học nước ta vẫn chưa đạt mức tiên tiến trong khu vực. Công nghiệp sinh học chưa trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật công nghiệp cao, chưa tạo ra được nhiều sản phẩm chủ lực và chưa có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quốc dân. Các phòng thí nghiệm công nghiệp sinh học được đầu tư với kinh phí lớn, nhưng hiệu quả thấp, chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhân lực nghiên cứu, phát triển công nghệ, quản lý và sản xuất kinh doanh công nghệ sinh học còn nhiều hạn chế, bất cập, còn ít các nhà doanh nghiệp, khoa học, các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực này.

Thiếu sự liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu với doanh nghiệp và thị trường. Nhiều mô hình ứng dụng mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm, chậm nhân ra diện rộng trong sản xuất và đời sống.

Những hạn chế, yếu kém trên chủ yếu là do: Cơ chế tài chính, cơ chế hoạt động của các cơ sở nghiên cứu công nghệ sinh học công lập còn chậm đổi mới, nhiều bất cập, hạn chế; nguồn đầu tư chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước. Chưa có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất ở quy mô công nghiệp và thương mại hóa các sản phẩm công nghệ sinh học. Một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển công nghệ sinh học và xây dựng nền công nghiệp sinh học. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả. Công tác tuyên truyền chưa được tiến hành sâu rộng

KẾT LUẬN CỦA BAN BÍ THƯ

về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW của Ban Bí thư khóa IX về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước____________

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG*

Số 06-KL/TW

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 01 tháng 9 năm 2016

6

và thường xuyên. Chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ, công nghiệp sinh học chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.

2- Trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 50, cần tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

2.1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Người đứng đầu các cấp, các ngành có liên quan trực tiếp tăng cường chỉ đạo công tác phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, coi đây là những nhiệm vụ trọng tâm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo khung khổ pháp lý thuận lợi theo cơ chế thị trường để khuyến khích phát triển công nghệ, công nghệ sinh học, hỗ trợ hiệu quả vận hành thị trường công nghệ sinh học, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò chủ lực của doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mở về công nghệ sinh học. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mở về công nghệ sinh học. Xây dựng mạng lưới quản lý và kiểm định an toàn sinh học trong cả nước. Khuyến khích sử dụng các sản phẩm công nghệ sinh học có thương hiệu Việt Nam. Có chính sách hỗ trợ đối với các dự án nghiên cứu ứng dụng, sản xuất thử nghiệm về công nghệ sinh học.

2.2- Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, công nghiệp sinh học phải theo cơ chế thị trường. Đầu tư phát triển công nghiệp sinh học là một nhiệm vụ ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội, là giải pháp quan trọng để phát triển một nền kinh tế xanh, bền vững. Đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2020, chủ động được phần lớn các loại giống phục vụ sản xuất nông nghiệp và tự chủ hầu hết các loại vắc-xin phục vụ cho Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong khai thác, chế biến, nuôi trồng thủy, hải sản, phát huy tiềm năng kinh tế biển của Việt Nam. Ưu tiên chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới. Khuyến khích phát triển thị trường sản phẩm công nghệ sinh học.

2.3- Chú trọng đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, công nghiệp sinh học theo cơ chế thị trường. Hiện đại hóa và đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với hệ thống các phòng thí nghiệm, các trung tâm kiểm định tại các vùng, miền nhằm đưa nhanh, có hiệu quả các tiến bộ khoa học - kỹ thuật về công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống. Tập trung đầu tư phát triển công nghệ sinh học trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2.4- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về vai trò, vị trí của công nghệ sinh học đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

2.5- Ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả công nghệ sinh học trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; xây dựng các chương trình phát triển nông nghiệp hiệu quả dựa vào công nghệ sinh học để thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng bảo tồn các nguồn gen quý; tạo các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, có khả năng chống chịu tốt với biến đổi khí hậu. Sớm đưa các quy trình công nghệ tiên tiến vào trồng trọt, chăn nuôi, quản lý rừng, khai thác và nuôi trồng, bảo quản và chế biến nông, lâm, thủy sản. Tập trung xây dựng một số sản phẩm có thương hiệu quốc tế.

7

Đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng nghiêm ngặt các quy định về an toàn sinh học. Chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong công tác an toàn thực phẩm bảo đảm sức khỏe và đời sống của nhân dân. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào gốc trong chẩn đoán, giám định và điều trị các loại bệnh hiểm nghèo và trong công nghiệp thực phẩm, dược phẩm; công nghệ AND trong các hoạt động nhân đạo, dân sinh. Bảo tồn và phát triển các vùng dược liệu.

Tăng cường ứng dụng và chuyển giao các giải pháp công nghệ sinh học nhằm góp phần tạo ra một nền sản xuất xanh, sạch; xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái và sự cố môi trường; khuyến khích sản xuất năng lượng mới, năng lượng sạch, có khả năng tái tạo từ phế liệu, phế thải, thực vật và thân thiện với môi trường để thay thế một phần các nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt.

Đẩy mạnh nghiên cứu để làm chủ, đưa vào ứng dụng rộng rãi các sản phẩm, quy trình công nghệ để phát hiện nhanh, chính xác và đối phó có hiệu quả với tấn công sinh học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2.6- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về công nghệ sinh học. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức, cá nhân nhằm tiếp cận và chuyển giao công nghệ. Chủ động xây dựng các chương trình, đề tài, dự án hợp tác song phương và đa phương với các nước có nền công nghệ sinh học tiên tiến để trao đổi thông tin dữ liệu, tranh thủ những kinh nghiệm, tiếp nhận tài trợ và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghệ sinh học Việt Nam.

3- Tổ chức thực hiện- Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện tốt các nội

dung của Chỉ thị 50 và kết luận này. - Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc rà soát để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống

văn bản pháp luật, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho việc phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp sinh học và bảo đảm an toàn sinh học.

- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo phát triển công nghiệp sinh học trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao; xác định các tiêu chí, lộ trình phát triển ngành Công nghiệp sinh học đến năm 2030. Quy hoạch và xây dựng các trung tâm kiểm định an toàn sinh học tại các vùng, miền.

- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Ban Bí thư hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và báo cáo tình hình thực hiện Kết luận này.

Kết luận này được phổ biến đến chi bộ.

T/M BAN BÍ THƯ (đã ký)

Đinh Thế Huynh

8

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở nước ta trong 30 năm qua đã giành

được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để Đảng và nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng: sự nghiệp cách mạng vĩ đại đó trong thời kỳ phát triển mới hiện nay đang diễn ra dưới sự tác động đan xen của những thời cơ và thách thức lớn... Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, diễn biến phức tạp…, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức cảnh giác, ngăn chặn đẩy lùi những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, xấu độc của âm mưu “diễn biến hòa bình” trong giai đoạn hiện nay càng trở nên cấp thiết và cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.

Cần nhận thức một cách đầy đủ rằng: “diễn biến hòa bình” là chiến lược rất thâm độc, tấn công toàn diện, lâu dài và đã được các thế lực thù địch sử dụng từ lâu nhằm chống phá

NÂNG CAO CẢNH GIÁC, NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI THÔNG TIN XUYÊN TẠC, BỊA ĐẶT TRONG ÂM MƯU “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Ảnh: CV

9

nước ta. Vì vậy, các thế lực thù địch cho rằng hiện nay đây là thời cơ thuận lợi nên chúng ra sức đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc và điên cuồng, chống phá cách mạng nước ta toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Và, không loại trừ khi có điều kiện và thời cơ, chúng kết hợp cả bạo loạn lật đổ… Song, trọng tâm, then chốt vẫn là phá hoại về chính trị - tư tưởng, coi đó là khâu đột phá, là mũi nhọn của cuộc tấn công thọc sâu và có sức lan tỏa rộng, đưa lại hiệu quả cao. Trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch cho rằng: làn sóng điện sẽ thay thế các thanh gươm, còn cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc của những người đang sống, 1 USD chi phí cho tuyên truyền có tác dụng bằng 5 USD chi cho quốc phòng. Vì vậy, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch rất chú trọng đến việc sử dụng các công cụ truyền thông đại chúng để tiến công vào Việt Nam. Chúng triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet, các trang mạng xã hội để tuyên truyền kích động nhằm hạ uy tín về vai trò lãnh đạo của Đảng, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, khuyến khích lối sống thực dụng, hưởng thụ..., núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để truyền bá tư tưởng và các quan điểm tư sản; phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc; đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân…

Như đã thành quy luật, cứ vào dịp đất nước ta tổ chức các sự kiện chính trị, các lực lượng thù địch trong và ngoài nước lại tung ra những thông tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật nhằm bôi nhọ lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ với hy vọng làm lung lay niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Trước và trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp vừa qua, vẫn với chiêu bài cũ rích, các thế lực thù địch, phản động ra sức

chống phá, “hướng mũi” công kích vào công tác chuẩn bị và tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Ngoài việc kêu gọi, cổ vũ cho xu hướng “ứng cử tự do”; bôi nhọ, hạ thấp chất lượng ứng cử đại biểu Quốc hội, thổi phồng một số khuyết điểm, hạn chế trong công tác quản lý kinh tế - xã hội của đất nước…, chúng còn lớn tiếng hô hào “tẩy chay bầu cử”, ráo riết kêu gọi cử tri không nên đi bầu; lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc… một bộ phận quần chúng tham gia tụ tập đông người gây rối, biểu tình, làm mất ổn định chính trị, xã hội…, chống phá công tác tổ chức bầu cử tại một số địa bàn nhạy cảm… Trên một số diễn đàn, mạng xã hội, chúng hồ đồ suy diễn và kết luận rằng: “Dân chúng sẽ không đi bầu”; “Cuộc bầu cử ở Việt Nam lần này sẽ nhận quả đắng”; “Bầu cử là sự gò ép chứ không phải ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân dân”… Một số người tự cho là “cấp tiến”, “yêu nước”, đã hô hào vận động tranh cử trên mạng, có nhóm lập facebook “Vận động ứng cử đại biểu Quốc hội 2016”, một tờ báo điện tử giả danh, ngang nhiên cử người xưng là “phóng viên” đi phỏng vấn, viết bài “đánh bóng”, lăng xê một số người tự ứng cử. Các cá nhân này đã vi phạm các quy định của pháp luật: Điều 20, Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin điện tử trên internet; Điều 65 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Một số trang mạng và đài, báo nước ngoài còn đưa ra các luận điệu xuyên tạc cuộc bầu cử này là không chính danh, chỉ là hội nghị Đảng Cộng sản mở rộng. Họ bày tỏ rõ ý định phá hoại cuộc bầu cử, trên trang của cái gọi là “Hội nhà báo độc lập Việt Nam”, họ phát động “thảo luận đầu xuân” về tự ứng cử đại biểu Quốc hội và đưa ra tuyên bố yêu cầu “xóa cơ chế Đảng cử, dân bầu”... Cùng trong thời gian này, trên mạng xã hội và đài, báo nước ngoài xuất hiện nhiều thông tin về việc những người tự ứng cử bị “gây khó dễ”, “phân biệt đối xử”; thậm chí có người còn cho rằng “đang

10

có một chiến dịch “tẩy chay”, “đấu tố” những người tự ứng cử”... Vậy, sự thực là gì?

Một số cá nhân tự ứng cử đại biểu Quốc hội kỳ này có người là thành viên Đảng Dân chủ Việt Tân (một tổ chức phản động), đã tham gia tụ tập đông người gây rối trật tự nơi công cộng trái pháp luật, vi phạm Nghị định số 08/2005/NĐ-CP của Chính phủ. Ngoài ra, có người tự ứng cử đã có những phát ngôn, bài viết trên mạng xã hội với những nội dung thiếu văn hóa, phản cảm, cổ vũ các đối tượng lợi dụng bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ môi trường, tụ tập đông người gây rối... Việc làm của họ được nhân dân, chính quyền nơi cư trú đóng góp, phê bình, không tín nhiệm và ghi nhận xét, điều đó không thể coi là “bị phân biệt đối xử, bị đấu tố”. Thực tế cho thấy những người đưa ra các luận điệu trên đã quên mất rằng, mỗi quốc gia có một thể chế chính trị khác nhau. Tại Việt Nam, việc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc bầu cử đã được hiến định rõ ràng trong Điểm 1, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”…

Sau quá trình chuẩn bị khẩn trương, chu đáo theo đúng quy định của pháp luật, ngày bầu cử 22/5 vừa qua thực sự là ngày hội của toàn dân. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đã diễn ra trong phạm vi cả nước và thành công tốt đẹp, tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao. Đây là cuộc bầu cử lớn nhất từ trước tới nay với hơn 69 triệu cử tri tại 91.476 tổ bầu cử trong cả nước đã đồng loạt đi bỏ phiếu tham gia lựa chọn những đại biểu ưu tú nhất để bầu 500 đại biểu Quốc hội, gần 4.000 đại biểu Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; gần 25.000 đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và 124.000 đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Trên các phố phường, ngõ xóm, hệ thống loa truyền thanh liên tục gửi tới người dân những thông tin về cuộc bầu cử nhiệm kỳ này.

Đến 17 giờ ngày 22/5, cả nước đã hoàn thành chương trình bầu cử với 95,84% cử tri

cả nước từ miền xuôi đến vùng cao biên giới, từ đồng bằng đến thành phố tới các đảo tiền tiêu đã đi bầu cử với tinh thần trách nhiệm và quyền lợi công dân. Có những nơi giao thông cách trở, đi lại khó khăn, nhưng cử tri vẫn đi bầu đông đủ. Nhiều người bị ốm đau, bệnh tật vẫn thực hiện trọn vẹn quyền và nghĩa vụ của mình khi hòm phiếu được đưa tới tận giường bệnh của các cơ sở y tế với niềm tin gửi trọn vào lá phiếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Kết quả bầu cử đạt được thật khác xa với luận điệu mà các lực lượng thù địch từng rêu rao; đã phản ánh sinh động, chân thực về một cuộc bầu cử thực sự dân chủ ở Việt Nam; khẳng định vai trò, trách nhiệm của cử tri và nhân dân cả nước trong tham gia cuộc bầu cử có ý nghĩa quan trọng này. Hơn thế, cuộc bầu cử còn là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng của toàn dân, thực sự là ngày hội của non sông. Theo báo cáo của Ủy ban bầu cử một số địa phương cho thấy: tất cả đều đạt yêu cầu và đúng quy định của Luật.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban bầu cử thành phố cho biết đã bầu đủ 105 đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ mới, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của thành phố đều đạt tỷ lệ phiếu bầu cao với tỷ lệ trên 70%; trong số 105 đại biểu trúng cử có 7 người ngoài Đảng, 33 người tái cử, 15 người dưới 35 tuổi, 46 nữ..; 04 người tự ứng cử thì có 02 đã người trúng cử. Tại Hà Nội, theo Ủy ban bầu cử thành phố, cuộc bầu cử trên địa bàn thành phố đã diễn ra an toàn, đúng quy định của pháp luật, ngày bầu cử thực sự là ngày hội của toàn dân, số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 98,98%. Kết quả là thành phố đã bầu đủ 30 đại biểu Quốc hội và 105 đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố. Thành công của cuộc bầu cử lần này, một lần nữa góp phần khẳng định bản chất ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và những giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc Việt Nam, quyền làm chủ của nhân dân thực sự được phát huy. Đó là việc người dân luôn chủ động, trách

(Xem tiếp trang 14)

11

Qua 6 kỳ đại hội, cùng với đổi mới tư duy lý luận và công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, việc xác định các phương hướng và mục tiêu chiến lược của Đảng nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại ngày càng rõ ràng, cụ thể và chính xác hơn.

Đại hội XII của Đảng đã đề ra quyết sách lớn: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Xin mạo muội có đôi điều bình luận, liên quan đến mục tiêu và nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một là, quá trình phát triển nhận thức và việc xác định mục tiêu chiến lược của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Khái niệm “công nghiệp hóa” hay “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” đã được Đảng ta sử dụng từ lâu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước đây và trong cả nước sau khi nước nhà thống nhất.

Vượt qua nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế,

“Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ.

Đến thời kỳ đổi mới, nhất là từ Đại hội VII trở đi, Đảng ta đã gắn liền khái niệm “công nghiệp hóa” với tư tưởng hiện đại hóa. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng nêu luận điểm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại” và coi đây là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chủ trương: “Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, và chỉ rõ: “Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới”.

Đại hội VIII của Đảng (1996) nhận định: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa

SỚM THÀNH MỘT NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI

12

đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Và: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.

Đại hội IX của Đảng (2001) với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, đề ra mục tiêu: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Đại hội X của Đảng (2006) chủ trương: Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đến Đại hội XI, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta một lần nữa xác định mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và trọng tâm phương hướng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ này, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi

trường và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là hai phương hướng cơ bản đầu tiên. Có thể nói đó là hai cánh cùng bay của đổi mới kinh tế thời kỳ mới.

Như vậy, qua 6 kỳ đại hội, cùng với đổi mới tư duy lý luận và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xác định các phương hướng và mục tiêu chiến lược của Đảng nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại ngày càng rõ ràng, cụ thể và chính xác hơn.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa - thành tựu, hạn chế và hai nhận định rất đáng quan tâm.

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII khẳng định những thành tựu đạt được là to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bức tranh kinh tế được miêu tả như sau: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển...

Bên cạnh những thành tựu đạt được là những hạn chế, khuyết điểm. Nổi lên là: kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường...

13

Trong đánh giá tình hình, có hai nhận định rất đáng quan tâm: 1) Việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại (vào năm 2020) không đạt được yêu cầu đề ra. 2) Bốn nguy cơ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến việc tạo nền tảng nói trên không đạt được yêu cầu? Chắc chắn là có nhiều. Nhưng trực tiếp là những yếu kém, bất cập trong thực hiện hai nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nhận thức của chúng ta về hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại cũng ngày càng rõ ràng hơn, cho phép chúng ta soi lại những gì đã làm được và chưa làm được. Đó không chỉ là những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ trọng đô thị hóa, điện bình quân đầu người...) mà còn là những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo...), và cả những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường, tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính...). Đối chiếu những tiêu chí nói trên với thực tế tình hình thì đến năm 2020, dự kiến có tới 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí nước công nghiệp.

Về nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, cũng xin có đôi điều nói thêm.

Trong 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao

nhưng còn thấp so với tốc độ tăng trưởng mà các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông Á đạt được trong thời gian thực hiện công nghiệp hóa. Khoảng cách chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với mức chuẩn của một nước công nghiệp còn lớn. Nếu coi đây là tiêu chí quan trọng để xem xét mức độ công nghiệp hóa thì phải sau năm 2020, nước ta mới đạt tới một nước công nghiệp. Việt Nam vẫn chưa thuộc nhóm nước công nghiệp mới nổi mà Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) coi là những nước có thành tựu đáng ghi nhận trên con đường công nghiệp hóa. Xét về mức độ công nghiệp hóa, nước ta đang tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan và Malaixia... (1)

Điều cần nhận rõ là, trong thời kỳ hội nhập, cuộc đua tranh giữa các quốc gia, dân tộc nhằm đưa đất nước mình phát triển, tiến lên là có tính quốc tế. Nước ta tiến thì nước khác cũng tiến; còn tiến nhanh, tiến chậm hay dừng lại, thậm chí thụt lùi hay suy thoái, khủng hoảng là tùy thuộc ở những điều kiện khách quan và chủ quan của mỗi nước, ở khả năng nắm bắt và khai thác thời cơ, thuận lợi; hay ngược lại, lún sâu vào khó khăn, thách thức. Ta đang nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhiều nước đang phát triển ở thứ bậc cao hơn ta cũng đang lo sa bẫy thu nhập trung bình. Và sa bẫy thu nhập trung bình không phải chuyện không đặt ra trước mắt chúng ta.

Ba là, phương hướng và giải pháp nào?Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa mấy chục năm qua đã đạt được những thành quả quan trọng. Đó là sự thật.

Việc tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

14

hướng hiện đại không đạt được yêu cầu đề ra và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn tồn tại, đó cũng đều là sự thật.

Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã không giấu giếm, không né tránh mà công khai nói ra sự thật đó. Nói không phải để chùn bước mà là để nâng cao hơn nữa quyết tâm và có quyết sách đúng.

Đại hội XII quyết định: “Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại? “Sớm” ở đây được hiểu là sớm nhất sau năm 2020 - Đây là một sự điều chỉnh mục tiêu so với Đại hội XI, vừa thể hiện quyết tâm cao vừa thể hiện cách nhìn thực tế hơn đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Đại hội cũng đã đề ra những giải pháp lớn, kể cả những giải pháp có tính đột phá để đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thiết nghĩ, quá trình tiến tới một nước công nghiệp theo hướng hiện đại cũng đồng thời là quá trình khắc phục và giải thoát khỏi các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế.

Có thể trong mười năm tới, khi nước ta đã cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì cụm từ “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế” sẽ được thay thế bằng cụm từ “bẫy thu nhập trung bình”, cái bẫy mà chúng ta nhất thiết phải vượt qua.

Hà Đăng(Nguồn: tuyengiao.vn)

(1) 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2015

NÂNG CAO CẢNH GIÁC, NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI...(Tiếp theo trang 10)

nhiệm, thực hiện trọn vẹn trách nhiệm, bổn phận công dân đối với Tổ quốc.

Thực tiễn cho thấy, từ khi có chính quyền cách mạng, nhân dân ta luôn biết cách trân trọng, bảo vệ và thực hiện quyền, nghĩa vụ chính đáng. Quyền và nghĩa vụ công dân không chỉ thể hiện trong ngày bầu cử, mà hơn thế, còn được minh chứng trong suốt quá trình tham gia đề cử, giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu. Việc mở thùng phiếu được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và minh bạch. Các ứng cử viên, người được ứng cử viên ủy quyền, cơ quan của ứng cử viên, phóng viên báo chí được tiếp cận, chứng kiến việc mở hòm phiếu và kiểm phiếu, bảo đảm tính công khai, công bằng trong bầu cử. Tất cả các tổ bầu cử đã thực hiện việc kiểm phiếu theo đúng quy trình và đúng luật. Điều đó đã khẳng định bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa; khẳng định chân lý: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước; góp phần thiết lập ra bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội.

Một số tờ báo nước ngoài đã ghi nhận phản ánh, phân tích, đánh giá cao tính dân chủ trong công tác bầu cử và cho rằng: Tất cả công dân Việt Nam đều đã thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc ứng cử và bầu cử theo đúng nguyên tắc và quy định của pháp luật. Thắng lợi của cuộc bầu cử ở nước ta vừa qua đã khẳng định niềm tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và là đòn đáp trả mạnh mẽ làm thất bại âm mưu thủ đoạn đen tối, thâm độc của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”.

TS. Vũ Ngọc Am(Nguồn: TCCS)

15

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

Để tích cực triển khai, thực hiện các quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm

vụ và giải pháp phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TU của Thành ủy Cần Thơ đi vào cuộc sống; trước hết đảng bộ cơ sở cần xác định những vấn đề trọng tâm sau:

(1) Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nền tảng của hệ thống tổ chức hành chính ở nước ta, là nơi sinh sống và trực tiếp làm việc của cán bộ, công nhân, viên chức, cùng các tầng lớp nhân dân; mọi hoạt động sản xuất và đời sống đều diễn ra ở cơ sở. Do vậy, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương có đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực hay không, phần lớn là phải được triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả ở cơ sở;

(2) Phát triển, ứng dụng KH&CN, trước hết phải xuất phát từ những đòi hỏi thiết yếu của sản xuất và đời sống ở cấp cơ sở. Bởi vì,

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẢNG BỘ CƠ SỞ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 02-NQ/TU

CỦA THÀNH ỦY CẦN THƠ VỀ PHÁT TRIỂN, ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Ngày 01 tháng 8 năm 2016, Thành ủy Cần Thơ ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU “Về phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ”. Để việc phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ thực sự là khâu đột phá, là động lực trong việc xây dựng và phát triển thành phố văn minh, hiện đại, Nghị quyết của Thành ủy phải được triển khai đồng bộ trong các ngành, các cấp. Trong đó, phát huy vai trò của đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là đảng bộ cơ sở) là một trong những giải pháp quan trọng đưa nghị quyết đi vào thực tiễn cuộc sống.

cấp cơ sở là nơi sát với thực tiễn nên càng có ưu thế trong việc phát hiện những yêu cầu bức xúc, càng có ưu thế hơn khi tiếp cận và ứng dụng tiến bộ của KH&CN và càng cần đến sự lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở trên lĩnh vực nầy;

(3) Đảng bộ cơ sở lãnh đạo ứng dụng KH&CN trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế hiện nay như thế nào đạt hiệu quả cao nhất là điều không phải dễ dàng, nhất là trong điều kiện về cơ cấu, tổ chức bộ máy ở cơ sở và trước tình hình có quá nhiều thông tin, thông tin có nhiều chiều, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trên nhiều phương tiện thông tin như hiện nay;

(4) Phát huy vai trò lãnh đạo của đảng bộ cơ sở về phát triển, ứng dụng KH&CN trong điều kiện không có bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN ở cơ sở, do vậy cần khẳng định rằng: không có bộ máy quản lý nhà nước về

16

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

KH&CN không có nghĩa là không có hoạt động KH&CN ở cấp cơ sở. Và chính điều nầy cần phải tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với hoạt động KH&CN; Đảng bộ cơ sở hoàn toàn có thể lãnh đạo phát triển, ứng dụng KH&CN trong phạm vi trách nhiệm của mình;

(5) Đảng bộ cơ sở phải coi việc đẩy mạnh phát triển, ứng dụng KH&CN sẽ quyết định đến chất lượng trên tất cả các mặt hoạt động của đảng bộ, quyết định trong việc cơ cấu lại nền kinh tế gắn liền với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của địa phương. Đây là nội dung quan trọng cần đưa vào nghị quyết, sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức đảng. Các tổ chức đảng phải quán triệt quan điểm “khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”, đồng thời phải coi trọng việc huy động nguồn lực tri thức và trí thức trên địa bàn. Trên cơ sở đó để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của KH&CN trong công cuộc đổi mới ở nước ta nói chung và của thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay;

(6) Phát triển, ứng dụng KH&CN ở cơ sở nhằm phục vụ cho cấp ủy, chính quyền cụ thể hoá những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương, nghiên cứu giải quyết những vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở; cấp ủy đảng bộ cơ sở phải bảo đảm tính khoa học trong lãnh đạo của mình. Có nghĩa là, phải nắm vững qui luật khách quan, không nóng vội hoặc tuỳ tiện trong việc đưa ra các quyết định quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng… cần nghiên cứu sâu sắc từng vấn đề để bảo đảm tính lý luận, khoa học và thực tiễn, nhất là thực tiễn tình hình địa phương; nắm vững những nhu cầu, yêu cầu của nhân dân; nguồn lực xã hội trên địa bàn để đưa ra các quyết định đúng đắn.

Đảng bộ cơ sở cần căn cứ vào đặc điểm tình hình về tự nhiên và xã hội, những lợi thế về nguồn lực trên địa bàn để xác định mục tiêu, nhiệm vụ, lựa chọn những giải pháp thích hợp để lãnh đạo phát triển, ứng dụng KH&CN trên địa bàn cơ sở. Chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp chung như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở trong phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ.

Nâng cao trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể cơ sở “trong việc tuyên truyền, quán triệt trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khoa học và công nghệ; xác định khoa học và công nghệ là khâu đột phá, là động lực quan trọng để xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ văn minh, hiện đại, xứng tầm với vai trò trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long; phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước, gắn liền với nhiệm vụ chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong thời gian tới” (i)

Thứ hai, phát động phong trào “Toàn dân tiến quân vào khoa học và công nghệ”

Đây là giải pháp nhằm huy động nguồn lực KH&CN trên địa bàn cơ sở. Muốn làm tốt điều nầy, trước tiên cấp ủy phải dựa vào các nhà khoa học đã nghỉ hưu, cán bộ đảng viên đương chức là nhà khoa học, trí thức, cán bộ đang công tác tại các Viện, Trường, cơ sở khoa học và công nghệ đóng trên địa bàn, số cán bộ đảng viên được giới thiệu giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú; lấy lực lượng này làm nòng cốt phát động phong trào “Toàn dân tiến quân vào khoa học và công nghệ”

17

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

trong việc phát huy sáng kiến, kinh nghiệm, cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống; làm nòng cốt trong việc quảng bá, giới thiệu những thành tựu khoa học và công nghệ với nhân dân địa phương thông qua nhiều hoạt động, sinh hoạt đa dạng phù hợp với trình độ, nhu cầu tiếp cận thông tin khoa học của các tầng lớp dân cư trên địa bàn. Mặt khác, cấp ủy có thể khai thác tiềm năng trí tuệ của lực lượng này trong vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; hoặc giải quyết yêu cầu phát triển một số lĩnh vực nào đó của địa phương.

Trong điều kiện hiện nay, việc tuyên truyền, phổ biến và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống là nội dung quan trọng của cấp ủy trong việc lãnh đạo phát triển, ứng dụng KH&CN tại cơ sở. Điều quan trọng là cấp ủy phải lựa chọn và giới thiệu những điển hình, mô hình sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao nhờ vào việc ứng dụng thành tựu KH&CN để giới thiệu, quảng bá trong quần chúng nhân dân tại cơ sở.

Đảng bộ cơ sở lãnh đạo việc xã hội hoá hoạt động KH&CN từ nhiều nguồn lực trong xã hội, nhất là từ phía các cơ sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở khoa học, Viện, Trường trên địa bàn; huy động các đoàn thể quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia tích cực vào phong trào “Toàn dân tiến quân vào khoa học và công nghệ”.

Thứ ba, chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực

Chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo là giải pháp có tính mấu chốt và căn cơ nhất để Đảng bộ cơ sở có thể lãnh đạo tốt việc phát triển, ứng dụng KH&CN tại cơ sở. Về phương diện khoa học, lãnh đạo phát triển giáo dục và đào tạo cũng là lãnh đạo phát triển KH&CN. Bởi vì mục tiêu hàng đầu

của giáo dục và đào tạo hiện nay chính là tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học và công nghệ ngày càng cao đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Vấn đề quan tâm trước tiên của đảng ủy cơ sở là tạo điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của cả hệ thống chính trị có trình độ bảo đảm theo tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, có khả năng vận dụng sáng tạo trình độ, năng lực của mình vào việc hoạch định, tham mưu đề xuất các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tác phong làm việc khoa học, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, điều hành; quan tâm tạo động lực, nguồn lực và môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng KH&CN phát triển cho đến việc đề ra những hình thức tổ chức, phương pháp và cơ chế hoạt động hợp lý để phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân của cán bộ, của các nhà khoa học hợp tác với địa phương, đơn vị.

Đảng bộ cơ sở tập trung lãnh đạo việc huy động, hỗ trợ, giúp đỡ học sinh trong độ tuổi đến trường đạt yêu cầu kế hoạch đề ra. Cụ thể là hoàn thành công tác xoá mù chữ, phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập giáo dục trung học. Có hoàn thành việc phổ cập như trên thì mới có cơ sở để nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho địa phương, đơn vị tiến quân mạnh mẽ vào lĩnh vực KH&CN, tạo động lực cho sự phát triển bền vững ở từng cơ sở.

Ghi chú: (i) Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 01 tháng 8 năm 2016, của Thành ủy Cần Thơ “Về phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ”.

Trần Văn Kiệt

18

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

Thực hiện tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhiệm vụ đầu tiên của

toàn Đảng là phải tổ chức triển khai, nghiên cứu nghiêm túc, quán triệt sâu sắc và có hiệu quả những tư tưởng, quan điểm, chủ trương, chính sách trong văn kiện Đại hội để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, đưa Nghị quyết vào cuộc sống sinh động toàn xã hội. Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, hai vấn đề cơ bản cần giải quyết tốt là tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết. Nếu không học tập kỹ, quán triệt sâu thì tổ chức thực hiện sẽ phạm phải những sai lầm, lệch lạc, trái với chủ trương, đường lối của Đảng.

Cùng góp phần đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống, Học viện Chính trị Khu vực IV là đơn vị được phân công phụ trách công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trong khu vực, sẽ có đóng góp rất quan trọng trong việc đưa nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng vào thực tiễn sinh động nếu như làm tốt công tác nghiên cứu, vận dụng những nội dung cơ bản của các văn kiện Đại hội vào chương trình giảng dạy cao cấp lý luận chính trị của Học viện. Nghiên cứu, vận dụng những nội dung cơ bản của

VẬN DỤNG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VÀO GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, GÓP PHẦN ĐƯA NGHỊ QUYẾT VÀO THỰC TIỄN CUỘC SỐNG

các văn kiện Đại hội vào chương trình giảng dạy lý luận chính trị cao cấp của Học viện trên cơ sở hai yêu cầu cơ bản:

Trước hết là, để vận dụng và truyền đạt một cách tốt nhất những tư tưởng, quan điểm của văn kiện Đại hội vào giảng dạy cao cấp lý luận chính trị ở học viện, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc những thành tựu, hạn chế của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và các bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng. Để nghiên cứu, vận dụng tốt các nội dung cơ bản nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu bối cảnh lịch sử, tình hình quốc tế, điều kiện cụ thể trong nước trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và những bối cảnh lịch sử tác động đến quá trình đổi mới đường lối lãnh đạo của Đảng trong 30 năm qua. Nhằm mục đích truyền tải và tác động đến người học một cách chính xác tình hình thực tiễn mà nội dung các văn kiện đã nêu lên.

Đồng thời, chúng ta cần tập trung lưu ý tới dự báo tình hình những năm sắp tới, xu hướng phát triển của khu vực và thế giới,

19

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

tình hình trong nước, những thuận lợi và khó khăn. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có được nhận thức đúng đắn về sự sáng suốt của Đảng ta khi đưa ra mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2016 - 2020 là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu chúng ta cũng cần phải hết sức chú ý các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế, về xã hội, về môi trường mà Nghị quyết đã đề ra trên tinh thần phấn đấu có thể đạt được một cách khả thi phù hợp với mục tiêu và điều kiện cụ thể của ta.

Tiếp theo là, hiện nay trong hệ thống Học viện Chính trị, thực hiện Quyết định 1677/QĐ-TTg ngày 10-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh đã đổi mới chương trình Cao cấp lý luận chính trị trên cơ sở hợp lý hóa kết cấu, đã đưa ra khỏi chương trình những kiến thức cũ, những nội dung đã có trong các chương trình đào tạo khác, cập nhật những vấn đề

mới nhất trong đường lối của Đảng cũng như những thành tựu về phát triển lý luận, mà sau đây gọi tắt là “đề án 1677”.

Thực hiện “đề án 1677”, chương trình mới được xây dựng theo 4 khối kiến thức. Trong mỗi khối kiến thức có các môn học hoặc các chuyên đề. Nội dung của chương trình bảo đảm phần các kiến thức, kỹ năng chung, đồng thời có tính đến những kiến thức đặc thù cho các đối tượng học viên khác nhau ở Học viện trung tâm và các Học viện khu vực. Nhằm trang bị cho người học các kiến thức nền tảng về lý luận chính trị và đường lối của Đảng làm cơ sở cho việc củng cố lập trường cách mạng, nâng cao năng lực tư duy khoa học, năng lực chuyên môn, hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Như vậy, sẽ tùy vào từng khối kiến thức, thậm chí là từng môn học hoặc từng chuyên đề mà các khoa chuyên môn cần có sự phân công cụ thể cho từng bộ môn (có giáo viên phụ trách) nghiên cứu vận dụng những nội dung cơ bản của văn kiện Đại hội có liên quan đến nội dung của chương trình.

Chẳng hạn, đối với khối kiến thức thứ nhất (khối các môn nền tảng lý luận chính trị, như Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh). Đối với các môn học về nền tảng lý luận chính trị thì người giảng phải vận dụng được những tư tưởng đổi mới về lý luận trên cơ sở từ sự nhận thức đúng đắn về thực tiễn vận động của cách mạng Việt Nam trên những lĩnh vực cụ thể, như:

- Từ thực tiễn hoạt động thực hiện nhiệm vụ Đại hội XI của Đảng để tiếp tục phát triển tư duy lý luận của Đảng trong văn kiện của Đại hội XII theo hướng toàn diện hơn,

20

sâu sắc hơn. Tư duy về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã có bổ sung thêm thành tố phát huy “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Tư duy về “sự lãnh đạo của Đảng” với yêu cầu mới lớn hơn là “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, tư duy về đổi mới phải “đồng bộ” hơn, tư duy về “bảo vệ Tổ quốc” lần đầu tiên được xác định là “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”.

- Tư duy về phát huy các nhân tố tạo thành động lực để phát triển đất nước, đây là vấn đề mới mà các văn kiện Đại hội trước ít đề cập. Đó là cần nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập, kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ trong đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách, tổ chức, v.v.

Hay, đối với khối kiến thức thứ hai (Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam). Đối với khối kiến thức này, người dạy cần phải nghiên cứu để vận dụng những nội dung cơ bản của nghị quyết Đại hội nhất là các nội dung có tính phát triển mới của Đại hội XII, cụ thể như:

- Đối với môn Xây dựng Đảng, người dạy bên cạnh việc nắm vững nội dung cơ bản về nhiệm vụ “xây dựng Đảng là then chốt” thì còn cần phải lĩnh hội được yêu cầu mới, lớn hơn và toàn diện hơn, đó là “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” so với yêu cầu trước đây là “tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, v.v.

- Còn đối với bộ môn Giáo dục quốc phòng - an ninh, đây là nhiệm vụ thường

xuyên liên tục thì tư tưởng đổi mới của Đại hội XII là bên cạnh nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” thì nhiệm vụ “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” để xây dựng và phát triển đất nước cũng vô cùng quan trọng, v.v.

Tương tự như vậy đối với các khối kiến thức thứ ba về các vấn đề khoa học chính trị và lãnh đạo, quản lý và khối kiến thức thứ tư về các chuyên đề đặc thù và bổ trợ. Tùy theo từng bộ môn, thậm chí từng bài giảng mà các Khoa chuyên môn phân công cho từng giáo viên cụ thể, nhanh chóng nghiên cứu để vận dụng, lồng ghép được những nội dung cơ bản của các văn kiện Đại hội XII của Đảng vào chương trình giảng dạy ở các lớp Cao cấp lý luận chính trị. Với nội dung chương trình lồng ghép như trên, qua thời gian học tập, học viên sẽ kết hợp giữa nắm vững hệ thống những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng theo tinh thần đổi mới của Đại hội XII; đồng thời nâng cao những kỹ năng trong hoạt động thực tiễn. Từ đó, giúp cho mỗi học viên nâng cao nhận thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, vững vàng về tư tưởng theo tinh thần đổi mới của Văn kiện Đại hội, có phương pháp tư duy và hành động đúng đắn, có khả năng vận dụng lý luận gắn với việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở đơn vị, địa phương mình đang công tác một cách chủ động, sáng tạo và có hiệu quả. Qua đó, nhanh chóng tạo nên những phong trào hành động cách mạng thi đua thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống sinh động ở các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Tây Nam Bộ.

TS. Nguyễn Tiến Dũng

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016).

Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016).Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016).Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016).Tài liệu hỏi - đáp các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, (dùng cho đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội và tuyên truyền trong nhân dân), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016).Những điểm mới trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2014. Quyết định 3166/QĐ-HVCTQG, của Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về việc ban hành khung chương trình cao cấp lý luận chính trị, Hà Nội ngày 18 tháng 7 năm 2014.

8. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ nhất, tập 1, Triết học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

9. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ nhất, tập 2, Kinh tế chính trị học Mác-Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

10. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ nhất, tập 3, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

11. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ nhất, tập 4, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

12. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ nhất, tập 6, Xây dựng Đảng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

13. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ hai, tập 7, Giáo dục quốc phòng - an ninh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

14. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ hai, tập 8, Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

15. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ tư, tập 14-IV, các chuyên đề bổ trợ dành cho Học viện Chính trị khu vực IV, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

22

Một vài tiếp cận về đô thị sinh tháiThứ nhất, tiếp cận từ các khái niệm

và nguyên tắc chung trong xây dựng đô thị sinh thái.

Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, một số nước phát triển trên thế giới đã quan tâm đến vấn đề xây dựng đô thị sinh thái nhằm tạo ra không gian sinh sống và làm việc hài hòa với điều kiện tự nhiên và xã hội của từng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Cho đến nay, chưa có một khái niệm về đô thị sinh thái nào được xem là khái niệm hoàn chỉnh. Có thể tiếp cận một vài khái niệm về đô thị sinh thái sau: (1) Một đô thị sinh thái là “một đô thị mà trong quá trình tồn tại và phát triển

THÀNH ĐÔ THỊ SINH THÁI

của nó không làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường, không gây tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng và tạo điều kiện thuận tiện cho mọi người sống, sinh hoạt và làm việc trong đô thị, đảm bảo mật độ cây xanh đô thị”; (2) Theo định nghĩa của Tổ chức Sinh thái đô thị của Úc: “Một thành phố sinh thái là thành phố đảm bảo sự cân bằng với thiên nhiên”; (3) Theo cách hiểu hiện đại: “đô thị sinh thái là đô thị có chất lượng môi trường sống cao, có quan hệ hài hòa với thiên nhiên, có mật độ xây dựng hợp lý, có công trình và hạ tầng kỹ thuật đảm bảo yêu cầu sinh thái, có cảnh quan kiến trúc đẹp đẽ, có nền công

Trong những năm qua, việc xây dựng đô thị sinh thái được xem là xu thế phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Song, đây là vấn đề mới; do vậy, việc xây dựng và phát triển huyện Phong Điền thành đô thị sinh thái cần thiết phải có nhiều cách tiếp cận để có nhận thức về đô thị sinh thái vừa phù hợp với xu thế chung, phù hợp với tiềm năng và lợi thế của huyện Phong Điền.

NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

Huyện Phong Điền

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

Quang cảnh hội thảo khoa học Phong Điền xây dựng và phát triển đô thị sinh thái. Ảnh: CTV

23

THÀNH ĐÔ THỊ SINH THÁI

nghiệp hoạt động hiệu quả về mặt sinh thái, có áp dụng thành công các giải pháp về năng lượng và giao thông”.

Ở Việt Nam, hiện nay chưa văn bản pháp quy nào quy định cụ thể về tiêu chí đánh giá đô thị sinh thái. Và, ngay cả những khu đô thị sinh thái đã, đang hình thành ở các địa phương trong nước cũng không có mô hình nào là đồng nhất. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về đô thị sinh thái ở nước ta, các tiêu chí quy hoạch đô thị sinh thái có thể được khái quát trên các phương diện sau: (1) Về kiến trúc, các công trình trong đô thị sinh thái phải đảm bảo khai thác tối đa nguồn năng lượng từ ánh nắng của mặt trời, gió và nước mưa để cung cấp và đáp ứng nhu cầu của người sử dụng; (2) Sự đa dạng sinh học của đô thị phải được đảm bảo với các hành lang cư trú tự nhiên, nuôi dưỡng sự đa dạng sinh học và đem lại sự tiếp cận với thiên nhiên để nghỉ ngơi, giải trí; (3) Giao thông và vận tải cần hạn chế bằng cách cung cấp lương thực và hàng hóa chủ yếu nằm trong phạm vi đô thị hoặc các vùng lân cận. Sử dụng các phương tiện giao thông công cộng nối liền các trung tâm để phục vụ nhu cầu di chuyển xa hơn của người dân; (4) Công nghiệp của đô thị sinh thái sẽ sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa có thể tái sử dụng, tái sản xuất và tái sinh. Các quy trình công nghiệp bao gồm cả việc tái sử dụng các sản phẩm phụ và giảm thiểu sự vận chuyển hàng hóa; (5) Kinh tế đô thị sinh thái là một nền kinh tế tập trung sức lao động thay vì tập trung sử dụng nguyên liệu, năng lượng và nước, nhằm duy trì việc làm thường xuyên và giảm thiểu nguyên liệu sử dụng.

Theo GS.TS. Lê Huy Bá, xây dựng đô thị sinh thái ở nước ta theo 4 nguyên tắc chính

sau: (1) Xâm phạm ít nhất đến môi trường tự nhiên; (2) Đa dạng hóa nhiều nhất việc sử dụng đất, chức năng đô thị và các hoạt động khác của con người; (3) Trong điều kiện có thể, cố giữ cho hệ thống đô thị được khép kín và tự cân bằng; (4) Giữ cho sự phát triển dân số đô thị và tiềm năng của môi trường được cân bằng một cách tối ưu.

Thứ hai, tiếp cận từ văn bản pháp luật của Nhà nước.

(1) Tại khoản 1, Điều 2, Nghị định số 02/2006/NĐ-CP, ngày 05/01/2006 của Chính phủ quy định về “Qui chế khu đô thị mới” qui định: “Dự án khu đô thị mới (sau đây gọi là dự án cấp 1) là dự án đầu tư xây dựng một khu đô thị đồng bộ có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu dân cư và các công trình dịch vụ khác, được phát triển nối tiếp đô thị hiện có hoặc hình thành khu đô thị tách biệt, có ranh giới và chức năng được xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; khu đô thị mới có địa giới hành chính thuộc một tỉnh”.

(2) Tại khoản 1, Điều 3, Luật Quy hoạch đô thị (do Quốc hội thông qua năm 2009) qui định: “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”.

(3) Tại khoản 1, Điều 3, Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, ngày 07/5/2009, của Chính phủ về “Phân loại đô thị” qui định:

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

24

“Đô thị mới là đô thị dự kiến hình thành trong tương lai, được đầu tư xây dựng từng bước đạt các tiêu chuẩn của đô thị theo quy định của pháp luật”.

(4) Theo Quyết định số 207/2006/QĐ- TTg, ngày 07/09/2006, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng thành phố Cần Thơ đến năm 2025” xác định: (i) Xây dựng và phát triển khu đô thị sinh thái gắn với các khu bảo tồn tự nhiên sông nước, vườn cây ăn trái; (ii) Khu ở thuộc khu đô thị sinh thái Phong Điền bố trí ven sông Cần Thơ thuộc các xã Mỹ Khánh, Giai Xuân và Nhơn Nghĩa (diện tích 350 ha, dân số khoảng 70.000 người) phát triển các khu ở thấp tầng; (iii) Khu du lịch sinh thái vườn cây ăn trái, hồ và sông, rạch (khoảng 250- 300 ha) được bố trí tại khu đô thị sinh thái Phong Điền; (iv) Nâng cấp đường Vòng Cung và đường Nguyễn Văn Cừ nối dài. Nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết và dự án các khu du lịch sinh thái. Đồ án điều chỉnh quy hoạch thành phố Cần Thơ đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, xác định khu đô thị truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy sẽ là trung tâm hành chính, thể dục thể thao, y tế đa khoa, chuyên khoa cấp thành phố và cấp vùng; khu đô thị - công nghiệp Cái Răng, Trà Nóc (Bình Thủy), Thốt Nốt có các chức năng là trung tâm công nghiệp chuyên ngành, công nghiệp điện năng cấp vùng, trung tâm tiếp vận về dịch vụ cảng và trung tâm công nghiệp chế biến nông thủy sản..; khu đô thị trung tâm mới Ô Môn, khu đô thị sinh thái Phong Điền dự kiến là một quận của thành phố Cần Thơ.

Thời cơ, thuận lợi và thách thức trong xây dựng và phát triển huyện Phong Điền thành đô thị sinh

Về mặt tổng thể, huyện Phong Điền có nhiều thuận lợi trong việc xây dựng và phát triển đô thị sinh thái. Có thể nhận thấy những thuận lợi sau: Thứ nhất, thuận lợi cơ bản nhất là môi trường tự nhiên của huyện. Phong Điền là vùng đất gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Cần Thơ qua hàng trăm năm. Từ lâu, vùng đất này đã nổi tiếng qua câu ca dao được truyền tụng trong dân gian: Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền/Anh có thương em thì cho bạc, cho tiền; đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê. Điều này, đã nói lên sự trù phú của vùng đất đai màu mỡ, điều kiện tự nhiên ưu đãi, có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch chằng chịt, nước ngọt quanh năm, nhiều vườn cây ăn trái. Phong Điền cũng là vùng địa linh nhân kiệt, là cái nôi cách mạng, ghi đậm dấu ấn lịch sử qua hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; có nhiều danh thắng và di tích lịch sử, nổi bật là khu mộ của Cụ cử Phan Văn Trị, tuyến lộ Vòng Cung lịch sử. Nét đặc trưng của Phong Điền là chợ nổi trên sông, làng nghề truyền thống, nhiều điểm tham quan, du lịch, đờn ca tài tử, thể hiện nét văn hóa độc đáo của vùng sông nước miệt vườn. Phong Điền là huyện ở phía Tây Nam của thành phố Cần Thơ; có 11.948,24 ha diện tích tự nhiên; 102.699 nhân khẩu; có 7 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Tân Thới, Giai Xuân, Mỹ Khánh, Trường Long và thị trấn Phong Điền. Phong Điền tiếp giáp với khu đô thị truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy, khu đô thị - công nghiệp mới Cái Răng, Ô Môn; tiếp giáp với huyện Thới Lai, Châu Thành A (Hậu Giang), tạo nên mối giao lưu, liên kết trong phát triển trên các mặt sản xuất, kinh doanh, du lịch, sinh hoạt văn hóa và đời sống xã hội.

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

25

Thứ hai, có chủ trương, có cơ sở pháp lý từ các văn bản của Trung ương và của địa phương, Đảng bộ, chính quyền huyện Phong Điền đã có bước chuẩn bị về nhiều mặt cho bước chuyển thành đô thị sinh thái; điều này thể hiện qua các chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua; Thứ ba, không phải cải tạo đô thị cũ, mà là xây dựng đô thị hoàn toàn mới cho nên việc quy hoạch, triển khai thực hiện quy hoạch sẽ nhanh và ít tốn kém hơn là cải tạo đô thị cũ.

Tuy vậy, bước chuyển đổi thành đô thị sinh thái của huyện Phong Điền cũng còn không ít những khó khăn, vướng mắc, bất cập: Trước hết cũng phải nhìn nhận rằng, kinh tế - xã hội của huyện còn tồn tại những hạn chế cần phải tiếp tục khắc phục, do điểm xuất phát thấp; tiềm năng, thế mạnh tuy có khai thác nhưng chưa đúng mức; công tác quy hoạch tổng thể huyện chậm thực hiện; kết cấu hạ tầng có phát triển, nhưng vẫn còn hạn chế so với yêu cầu phát triển của huyện; khả năng huy động các nguồn lực còn thấp so với yêu cầu; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn mang tính tự phát, qui mô nhỏ, số lượng cơ sở ít, công nghệ lạc hậu; dịch vụ du lịch qui mô nhỏ, phân tán. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động còn nhiều khó khăn. Hệ thống chính trị được kiện toàn, nhưng trong quá trình vận hành đôi lúc phối hợp chưa chặt chẽ và chưa thật sự đồng bộ. Đội ngũ cán bộ, viên chức còn hẫng hụt nhiều mặt, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là ở cơ sở.

Nhận thức về xây dựng và phát triển huyện Phong Điền thành đô thị sinh thái

Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Đô thị sinh thái Phong Điền là đô thị xanh,

có sắc thái đặc trưng sông nước, miệt vườn, phát triển hài hòa giữa đô thị và nông thôn; phát triển kinh tế - xã hội một cách năng động, có giá trị, hiệu quả kinh tế cao; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa; bảo đảm cho nhân dân có chất lượng cuộc sống tốt đẹp và bền vững; đồng thời góp phần xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ thành thành phố đồng bằng cấp quốc gia văn minh hiện đại.

Xây dựng huyện Phong Điền thành đô thị sinh thái mang đặc điểm và tính chất: (1) Chuyển đổi địa bàn nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch… làm nền tảng; hình thành khu vực tập trung dân cư với mật độ cao. Khai thác, sử dụng một cách hợp lý, gắn với bảo tồn tài nguyên về đất đai, sông ngòi, nguồn lợi thủy sản, vườn cây ăn trái… Giữ gìn sắc thái sông nước, miệt vườn không có nghĩa là giữ nguyên hiện trạng mà phải có định hướng khai thác, sử dụng từng vùng sinh thái đi đôi tôn tạo cảnh quan môi trường như chống sạt lở, ngụp úng, xây dựng kết cầu hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông, thương mại, dịch vụ, giáo dục, y tế, thông tin truyền thông…(2) Sự hoạch định phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội phải có tính đến sự tác động của môi trường, tới ý thức của người dân về sử dụng và bảo vệ môi trường; phải đáp ứng truyền thống văn hóa, lối sống, nhu cầu giao tiếp của người dân, và xây dựng các tiêu chí quy hoạch đô thị sinh thái phù hợp với tiêu chí chung và phù hợp với đặc thù của huyện - Điều này, cần có sự tham gia của các nhà khoa học chuyên ngành, nhà quản lý và sự tham gia của cấp ủy đảng, chính quyền Phong Điền; (3) Xây dựng và phát triển huyện Phong Điền thành đô thị sinh

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

26

thái phải nhằm khai thác tiềm năng lợi thế và nhu cầu phát triển khách quan của huyện; tạo nên vành đai xanh, là lá phổi xanh cho các khu vực đô thị trung tâm công nghiệp truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy và đô thị công nghiệp mới Cái Răng, Ô Môn. Là một khu đô thị sinh thái trong tổng thể quy hoạch cấu trúc không gian đô thị thành phố Cần Thơ nhằm phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố đồng bằng cấp quốc gia văn minh, hiện đại, sáng, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ lưu sông Mekong.

Xây dựng và phát triển đô thị sinh thái là quá trình lâu dài, có nguyên tắc, phương pháp, có quy hoạch, phân chia lộ trình thích hợp từng giai đoạn. Xây dựng đô thị sinh thái phải có cái nhìn tổng thể, toàn diện trên tất cả các mặt. Trước hết là quy hoạch tổng thể, quy hoạch cấu trúc không gian đô thị có trọng tâm, trọng điểm, có khu đô thị trung tâm, từng khu sinh thái (dân cư, nhà ở, sản xuất, kinh doanh, khu du lịch, khu

nghỉ dưỡng…) tạo nên mối liên kết chặt chẽ của đô thị sinh thái Phong Điền; tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế phù hợp với đô thị sinh thái; quan tâm tạo mối quan hệ, liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và doanh nghiệp; khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp và phát triển tiểu thủ công nghiệp; mở rộng phát triển những vườn cây ăn trái đặc sản, chất lượng cao; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội và đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ các cấp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Đây là những vấn đề vừa cơ bản vừa có tầm chiến lược, đòi hỏi phải có sự quan tâm của Thành ủy, chính quyền, các ngành cấp thành phố; sự chủ động, tích cực của Đảng bộ, chính quyền huyện Phong Điền, sự đồng thuận cao trong hệ thống Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và phải có quyết tâm chính trị cao trong chỉ đạo triển khai thực hiện.

Triều Thái

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số

45-NQ/TW, ngày 17-02-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) “về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

2. Chính phủ (2006), Nghị định số 02/2006/NĐ-CP, ngày 05/01/2006 của Chính phủ quy định về “Qui chế khu đô thị mới”.

3. Chính phủ (2006), Quyết định số 207/2006/QĐ-TTg, ngày 07/9/2006, của

Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng thành phố Cần Thơ đến năm 2025”.

4. Chính phủ (2009), Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, ngày 07/5/2009, của Chính phủ về “Phân loại đô thị”.

5. Đảng bộ thành phố Cần Thơ (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ, lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015-2020.

6. Quốc hội (2009), Luật Quy hoạch đô thị (do QH thông qua năm 2009).

ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP VÀO CUỘC SỐNG

27

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Ngày 15/5/2016, Tổng Bí thư

Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Theo đó, so với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XI về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thì Chỉ thị 05-CT/TW có sáu điểm mới:

Thứ nhất, Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 (Chỉ thị 05), gắn với nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống xã hội nhưng trước hết và đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng. Và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thì nhận thức về công tác xây dựng Đảng đã có sự khác biệt so với trước kia, điều đó được thể hiện rõ nét nhất là trong chủ đề của Đại hội và Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XII, lần đầu tiên Đảng ta đặt vấn đề “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” so với trước đây là “Nâng cao năng lực lãnh đạo và

Những điểm mới của Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về

sức chiến đấu của Đảng, tăng cường năng lực lãnh đạo”. Cho nên trong Chỉ thị 05 này như một giải pháp, một nội dung quan trọng để thực hiện yêu cầu đó, phương pháp để làm như thế nào để Đảng ta thực sự là Đảng cầm quyền trong sạch, vững

mạnh đủ bản lĩnh, đạo đức, năng lực, trí tuệ để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ hạnh phúc của nhân dân. Đó là yêu cầu đầu tiên cần quán triệt, phổ biến, lưu ý cho cán bộ, đảng viên.

Thứ hai: nếu như trước đây, chúng ta đề cập đến những giá trị trong di sản Hồ Chí Minh đến từng mảng khác nhau, tách biệt nhau. Cụ thể:

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951), Đảng ta đề cập đến tác phong, đường lối, đạo đức của Hồ Chí Minh.

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27 tháng 3

“ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH”

Đ/c Trần Quốc Trung - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy tặng cờ lưu niệm cho các đơn vị tham gia hội thi tiểu phẩm gương người tốt việc tốt.

Ảnh: TT

28

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

năm 2003 của Ban Bí thư về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, Đảng ta đặt vấn đề đẩy mạnh nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07 tháng 11 năm 2006 của Bộ Chính trị về tổ chức Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", vấn đề được chú trọng là: Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh trong đó: có tư tưởng về đạo đức và tấm gương Hồ Chí Minh.

- Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: nhấn mạnh vào học tập và làm theo tấm gương và đạo đức Hồ Chí Minh.

Đến Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đặt vấn đề học tập và làm theo các di sản Hồ Chí Minh một cách toàn diện, một cách đồng bộ trên ba mặt lớn: tư tưởng, đạo đức, phong cách và như vậy nếu chúng ta thực hiện tốt Chỉ thị 05 thì qua đó chúng ta hình dung một cách đầy đủ hơn và hệ thống, toàn diện hơn những giá trị nằm trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và làm thế nào để chúng ta có thể áp dụng một cách tốt nhất trong đời sống xã hội.

Thứ ba: Thực hiện Chỉ thị 05 gắn với nhiệm vụ Nghị quyết 29-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam” và thông qua việc thực hiện chỉ thị này chúng ta hy vọng tạo ra một sinh lực mới, một động lực mới cho nền giáo dục nước ta, để nền giáo dục Việt Nam không chỉ là nền giáo dục dân tộc, khoa học, nhân văn, hiện đại mà còn có

khả năng hội nhập ở khu vực và trên thế giới. Tạo ra một sự kết nối rất chặt với việc đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thứ tư: thực hiện Chỉ thị 05 gắn chặt với việc thực hiện Nghị quyết trung ương 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước nhằm tạo ra một xung lực mới để làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thấm sâu vào mọi đối tượng dân cư, tạo thành nền tảng phát triển của xã hội chúng ta để rồi cùng với 4 trụ cột: xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, phát triển văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội và xây dựng an ninh - quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu.

Vậy việc thực hiện Chỉ thị 05 này gắn rất chặt với toàn bộ nền tảng phát triển của Đảng ta và cùng với thực hiện Chỉ thị 05 Bộ Chính trị giao cho Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo cụ thể hóa các nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để lồng ghép vào toàn bộ chương trình của giáo dục quốc dân Việt Nam từ bậc tiểu học đến sau đại học. Nói như vậy để thấy rằng thực hiện Chỉ thị 05 không phải là vấn đề gì đó mang tính chất phong trào mà tạo thành một nhiệm vụ thường xuyên, thành một nền nếp trong sinh hoạt tinh thần, trong văn hóa tinh thần của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Thứ năm: Chỉ thị 05 chỉ rõ thực hiện bằng được phương châm việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, “học đi đôi với làm theo”. Người đứng đầu phải

29

gương mẫu xây dựng kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên theo chức năng, nhiệm vụ của mình, xây dựng báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch với chi bộ hoặc với tập thể cơ quan đơn vị nơi công tác. Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm và cả nhiệm kỳ. Phương châm đó đã trở thành nguyên tắc mà lần này Chỉ thị 05 yêu cầu nghiêm túc thực hiện từ trên Bộ Chính trị, từ Tổng Bí thư sau đó là các đảng viên bình thường; “trong trước” tức là trong Đảng, trong nội bộ, trong Ban Thường vụ, trong Ban Chấp hành, trong Đảng sau đó là ra ngoài xã hội đến các đối tượng dân cư khác nhau. Cán bộ chủ chốt học tập và làm theo đến đảng viên, cán bộ bình thường học tập và làm theo. Và việc thực hiện trên trước, dưới sau, trong trước ngoài sau, chủ chốt trước bình thường sau là đi vào thực chất, gắn rất chặt với việc xây dựng chương trình, các tiêu chuẩn, thực hiện vị trí, chức năng của từng người trên từng cương vị công tác của mình được giao.

Thứ sáu: Nếu như Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27 tháng 3 năm 2003 của Ban Bí thư về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới là nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Chỉ thị 06-CT/TW gắn với nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; Chỉ thị 03-CT/TW gắn với nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, thì lần này Chỉ thị 05-CT/TW Đảng ta không giới hạn về mặt thời gian, tức là không gắn với nhiệm kỳ mà Đảng ta coi việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh sẽ là một việc làm lâu dài, căn cốt gắn với tiến trình vận động của con người Việt Nam. Gắn với việc đổi mới căn bản toàn diện của xã hội chúng ta và làm thế nào để chúng ta hiểu về Bác, nhận thức về Bác để đưa vào, áp dụng vào đời sống xã hội.

Trên cơ sở đó, ngày 25/7/2016, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kế hoạch số 03-KH/TW về việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; chú trọng chỉnh đốn tác phong công tác của cán bộ, khắc phục, ngăn ngừa bệnh thành tích, hình thức, phô trương, xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng viên gần dân, sát dân, lắng nghe, đối thoại với nhân dân, giản dị, khiêm tốn, tận tụy, trung thực và liêm khiết; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên, liên tục, có hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo.

Lê Chí Phương

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

30

* Tập trung khôi phục các kênh, rạch, hồ

Để thực hiện được việc khôi phục lại hệ thống kênh, rạch, hồ trên địa bàn thành phố, trong thời gian qua bên cạnh sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự đồng thuận của người dân thì phải kể đến vai trò quan trọng của dự án phát triển TP. Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị. Đồng chí Võ Thị Hồng Ánh, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ nhấn mạnh: “Các hợp phần của dự án phát triển TP. Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị được lãnh đạo thành phố chỉ đạo tập trung vào việc cải tạo những tuyến kênh, rạch, hồ chính nhằm tạo ra sức chứa tối đa cho khu vực nội thị khi mưa xuống, đảm bảo điều tiết nước, khôi phục lại giao thông thủy phục vụ cho sinh hoạt của người dân cũng như phát triển du lịch, đồng thời vệ sinh môi trường, giải quyết vấn đề ô nhiễm tại một số tuyến kênh, rạch”.

Sáng - xanh - sạch - đẹp

Theo các ngành chức năng của TP. Cần Thơ, từ năm 2006 đến nay, bằng các khoản vay và tín dụng của Ngân hàng Thế giới đã giúp cho thành phố triển khai khôi phục lại các tuyến kênh, rạch có chức năng lưu trữ nước mưa tạm thời và là kênh thoát nước chính khi các cống ngăn triều đóng lại như: rạch Cái Khế - rạch Ngỗng, rạch Bà Bộ - rạch Hàng Bàng, rạch Đầu Sấu… Bên cạnh đó, các tuyến kênh, rạch nhỏ còn lại nằm trên địa bàn quận Ninh Kiều như: rạch Mương Củi, rạch Bà Lễ, rạch Ngã Bát, rạch Xẻo Nhum, rạch Cây Me, rạch Từ Hổ, rạch Ông Tà, rạch Xẻo Lá, rạch Ông Đạo, rạch Sao Ninh Kiều cũng được cải tạo để làm tăng dung tích chứa nước và điều kiện thoát nước cho từng khu vực dân cư nhỏ, tạo cảnh quan thông thoáng, đảm bảo mỗi trường cho thành phố.

Song song với việc nạo vét, khôi phục lại hệ thống kênh, rạch, thì TP. Cần Thơ cũng đã tiến hành nạo vét, khôi phục lại Hồ Xáng

Thành phố Cần Thơ:NỖ LỰC KHÔI PHỤC CÁC KÊNH, HỒ, TẠO CẢNH QUAN

Trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, TP. Cần Thơ đã tập trung chỉ đạo và triển khai hàng loạt các công trình khôi phục kênh, rạch, hồ đã bị bồi lắng, lấn chiếm, ô nhiễm môi trường tại các quận trung tâm của thành phố. Với những công trình này đã và đang góp phần giúp TP. Cần Thơ khắc phục được tình trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, điều tiết dòng chảy… ứng phó với biến đổi khí hậu, tạo cảnh quan thông thoáng, sáng - xanh - sạch - đẹp thành phố.

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

31

Thổi và Hồ Bún Xáng, đây được xem là 2 công trình có vai trò rất quan trọng trong việc tăng lưu lượng dự trữ nước, điều tiết nước, chống ngập cho vùng trung tâm thành phố…

* Khắc phục ô nhiễm, ứng phó với biến đổi khí hậu

Những năm gần đây, các khu đô thị tại TP. Cần Thơ ngày càng tăng về số lượng, cộng với các hoạt động kinh tế, thương mại, du lịch, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã làm cho hệ thống tiêu thoát nước không theo kịp, nguồn nước mặt ở hầu hết các tuyến kênh, rạch hồ chính tại các quận nội thị TP. Cần Thơ bị ô nhiễm trầm trọng bởi rác thải, nước thải từ khu dân cư, xí nghiệp…, gây khó khăn trong việc lấy nguồn nước mặt để sản xuất, xử lý thành nguồn nước sạch cung cấp cho nhu cầu xã hội và tiêu thoát nước cho khu vực trung tâm thành phố vào mùa mưa hàng năm. Song song đó, cách nay chưa lâu, nhắc đến nguồn nước tại rạch Tham Tướng thuộc các phường An Phú và Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, chính quyền, người dân phải “lắc đầu” vì mức độ ô nhiễm nguồn nước, không khí tại đây. Nguồn nước mặt có màu đen khịt, bốc mùi hôi thối, thêm vào đó lòng rạch Tham Tướng hiện diện đủ các loại rác thải được tích tụ nhiều năm làm cho nguồn nước không thể lưu thông được. Bà Nguyễn Thị Tuyết, ở phường An Phú, quận Ninh Kiều nhớ lại, trước khi được nạo vét, những hộ dân sinh sống cặp tuyến rạch Tham Tướng hàng ngày phải sống khổ sở vì mùi hôi thối bốc lên từ con kênh này, nhưng chẳng còn cách nào khác, các hộ gia đình ở đây phải cùng sống chung với ô nhiễm…

Từ đó, để khắc phục tình trạng này, năm 2011 thành phố đã triển khai khôi phục rạch Tham Tướng nối liền rạch Bần với chiều dài khoảng 2km. “Sau khi rạch Tham Tướng

hoàn thành việc cải tạo không chỉ giải quyết được tình trạng ô nhiễm đã tồn tại trong một thời gian dài, mà còn tạo được cảnh quan môi trường, chất lượng cuộc sống người dân được nâng lên”- Bà Nguyễn Thị Tuyết phấn khởi cho biết.

Còn Hồ Xáng Thổi nằm ở trung tâm quận Ninh Kiều, với diện tích khoảng 6,5ha, trước khi được khôi phục vào năm 2006, nơi đây cũng thường xuyên bị ngập, ngoài ra nước thải, rác thải sinh hoạt của người dân được thải trực tiếp ra Hồ Xáng Thổi trở thành điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới, TP. Cần Thơ đã triển khai cải tạo lại Hồ Xáng Thổi, với một số hạng mục chính như: nạo vét bùn lòng hồ, làm đường giao thông, bờ kè bảo vệ, đập tràn…“Sau gần 3 năm xây dựng Hồ Xáng Thổi đã góp phần điều hòa nhiệt độ, điều tiết nguồn nước cho khu vực trung tâm thành phố, nhất là vào mùa mưa, cải tạo môi trường, cảnh quan đô thị, đồng thời việc triển khai khôi phục, nạo vét Hồ Xáng Thổi cũng đã giúp cho thành phố nâng cao năng lực ứng phó với các yếu tố cực đoan của biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn ra gay gắt…”- Ông Dương Tấn Hiển, Chủ tịch UBND quận Ninh Kiều cho hay.

Có thể nói, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các ngành, các cấp thành phố về việc khôi phục các kênh, hồ đã hạn chế tình trạng ô nhiễm, tạo cảnh quan sáng - sạch cho đô thị thành phố. Theo bà Võ Thị Hồng Ánh, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ, sau khi các kênh, rạch hồ như: Hồ Xáng Thổi, rạch Tham Tướng… được nạo vét, về cơ bản đã giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường, khơi thông dòng chảy, tạo không gian thông thoáng bằng các tuyến đường, vẻ hè khang

(Xem tiếp trang 34)

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

32

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

Trần Ngọc Quế (có tên là Trần Quốc Đỉnh), sinh năm 1902, quê làng Tân An,

tổng Định Bảo, tỉnh Cần Thơ1. Lớn lên trong một gia đình luôn coi trọng học vấn và cần mẫn khai khẩn đất đai, làm ăn, tạo dựng một cuộc sống đầy đủ, khá giả. Trước bối cảnh xã hội rối ren, chứng kiến cảnh người dân lao động sống cơ cực, nghèo khổ lại bị bọn thực dân phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề nên ông rất căm phẫn. Vừa tròn 16 tuổi, Trần Ngọc Quế luôn ấp ủ một mong muốn là làm thế nào giải phóng dân tộc thoát khỏi cảnh đời nô lệ, nghèo khổ, được sống cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc. Ngay sau khi được giác ngộ cách mạng và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí luôn là người tiên phong hăng hái trong công tác xây dựng cơ sở Đảng, thường xuyên liên hệ với các chi bộ để hoạt động vì mục tiêu giải phóng dân tộc. Đặc biệt, sau cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940) để thoát khỏi vòng vây, truy bắt của địch, Trần Ngọc Quế phải thường xuyên thay đổi chỗ ở, tìm cách gầy dựng lại cơ sở Đảng bị tổn thất.

Tháng 3/1943, Chi bộ Thị xã Cần Thơ hình thành và bí mật hoạt động, đồng chí Trần Ngọc Quế được phân công làm Bí thư.

1 Nay là phường An Bình, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ

Kỷ niệm 42 năm ngày mất đồng chí Trần Ngọc Quế (03/10/1974 - 03/10/2016) Bí thư Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cần Thơ

Chi bộ đã tiến hành lập đoàn thể cứu quốc và phát triển thêm đảng viên mới. Đầu năm 1945, cơ sở Đảng và quần chúng trong tỉnh Cần Thơ dần dần được khôi phục, đi vào hoạt động.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 09/3/1945, Trung ương Đảng và Mặt trận Việt Minh kêu gọi các tầng lớp Nhân dân đoàn kết đấu tranh giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Tháng 5/1945, tại rạch Cái Muồng, làng Thường Phước, quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ, Hội nghị thành lập Liên Tỉnh ủy miền Tây, đồng chí Trần Ngọc Quế được đề cử vào Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy miền Tây. Hội nghị giao nhiệm vụ cho từng đồng chí có trách nhiệm về địa phương mình thành lập Tỉnh ủy, chuẩn bị cơ sở vật chất, đề ra phương hướng hoạt động và lãnh đạo phong trào cách mạng khi có thời cơ nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Tháng 6/1945, Tỉnh ủy Cần Thơ được thành lập, đồng chí Trần Ngọc Quế được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Tiếp theo đó, được sự lãnh đạo của Xứ ủy và Liên Tỉnh ủy, ngày 19/8/1945, với cương vị Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trần Ngọc Quế triệu tập cuộc họp khẩn cấp thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh Cần Thơ, nhiệm vụ là thực hiện cuộc khởi nghĩa, kêu gọi mọi người đoàn kết xung

DẤU ẤN TRẦN NGỌC QUẾ ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ở CẦN THƠ

33

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

quanh Mặt trận Việt Minh, quyết tâm vùng lên giải phóng dân tộc. Hội nghị nhất trí bầu đồng chí Trần Ngọc Quế làm Chủ tịch Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh Cần Thơ.

Trước khí thế sôi sục cách mạng, ngày 22/8/1945, Tỉnh ủy Cần Thơ dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Ngọc Quế tiến hành họp nhận định tình hình, bàn kế hoạch khởi nghĩa. Thời điểm này bộ máy tay sai của thực dân Pháp ở các làng và nhiều nơi bị tan rã, bọn phát xít Nhật dồn về Cần Thơ khoảng 600 tên, án ngữ những nơi quan trọng trong thị xã, đôi lúc rất hung hăng, sẵn sàng đàn áp các cuộc nổi dậy của Nhân dân ta. Ngày 25/8/1945, Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh Cần Thơ họp khẩn cấp dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Ngọc Quế thống nhất ngày giờ hành động, đồng thời Tỉnh ủy tổ chức cuộc họp quân sự để bố trí lực lượng khởi nghĩa. Tại cuộc họp, đồng chí Trần Ngọc Quế khẳng định dùng lực lượng chính trị của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang để giành chính quyền, còn lực lượng vũ trang chuẩn bị sẵn sàng để đối phó khi có tình huống bất trắc xảy ra. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 26/8/1945, Nhân dân thị xã và các vùng lân cận với lực lượng đông đảo kéo về Sân vận động tỉnh lỵ Cần Thơ. Các xung phong đội, tổ chức vũ trang của Thanh niên Tiền phong đã sẵn sàng bảo vệ cuộc mít tinh đề phòng kẻ thù phá rối. Sau khi Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh Cần Thơ lên đọc diễn văn kêu gọi các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh đoàn kết chung quanh Mặt trận Việt Minh vùng lên giành chính quyền, lực lượng quần chúng bắt đầu tuần hành trên đường phố và cuối cùng tập trung tại Dinh xã Tây1 buộc Tỉnh trưởng Lưu Văn Tào ra trình diện, giao chính quyền về tay nhân dân. Đại diện cho Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh, đồng chí Trần Ngọc Quế tiếp

1 Nay là Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ

nhận và long trọng tuyên bố từ giờ phút này chính quyền bù nhìn, tay sai bán nước bị xóa bỏ, chính quyền đã về tay nhân dân. Nhân danh Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh, đồng chí tuyên bố bãi bỏ các chính sách thuế khóa của thực dân Pháp, tịch thu toàn bộ tài sản của đế quốc và tay sai để đem phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Tiếp theo, đồng chí tuyên bố ân xá tù nhân đang bị thực dân giam cầm, kêu gọi mọi người ủng hộ, giúp đỡ chính quyền Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được trong tiếng reo hò và cổ vũ nồng nhiệt của Nhân dân.

Ngày 27/8/1945, Ủy ban hành chính tỉnh Cần Thơ được thành lập, đồng chí Trần Ngọc Quế phụ trách công tác Đảng làm Bí thư Tỉnh ủy. Chính quyền cách mạng tỉnh Cần Thơ còn non trẻ phải đương đầu với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm… Bên cạnh đó, Tỉnh ủy được Trung ương giao nhiệm vụ tổ chức đón, rước các đồng chí bị địch bắt, tù đày ở Côn Đảo trở về đất liền. Lúc này, đồng chí Trần Ngọc Quế được phân công chuẩn bị đón, rước và lo bố trí nơi ăn nghỉ chu đáo, điều trị bệnh cho những đồng chí còn đang yếu, trong những lần đón rước ấy có cả Bác Tôn Đức Thắng, đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh… Mặc dù trong hoàn cảnh rất khó khăn nhưng đồng chí Trần Ngọc Quế vẫn luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ Trung ương giao phó, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng các đồng chí, đồng đội về sự ân cần, chu đáo, tấm lòng thân thương, chí tình, chí nghĩa của mình.

Từ năm 1946 đến năm 1963, đồng chí Trần Ngọc Quế với tinh thần cách mạng kiên cường vẫn hăng hái hoàn thành nhiệm vụ cách mạng với nhiều cương vị khác nhau. Đặc biệt, những lúc bị địch bắt và hành hạ nhưng đồng chí Trần Ngọc Quế vẫn kiên quyết giữ vững khí tiết cách mạng trung kiên của người chiến sĩ Cộng sản Việt Nam, quyết hi sinh vì cách

34

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

mạng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc nước nhà. Đến năm 1964, do đồng chí nhiều lần bị tù đày và tra tấn bằng cực hình dẫn đến tình hình sức khỏe của đồng chí giảm sút nhanh chóng, được tổ chức cho nghỉ hưu và điều trị bệnh. Tuy nhiên, do tuổi cao sức yếu nên sức khỏe đồng chí ngày càng suy kiệt. Đến ngày 03/10/1974, trong một cơn bạo bệnh đồng chí Trần Ngọc Quế đã vĩnh biệt mọi người ra đi mãi mãi. Có thể nói rằng, đồng chí Trần Ngọc Quế là một tấm gương sáng của người chiến sĩ cộng sản trọn đời nêu cao tinh thần liêm khiết, thủy chung với Đảng, với nước và Nhân dân.

Đảng bộ và Nhân dân thành phố Cần Thơ vô cùng tự hào về sự hy sinh, cống hiến của đồng chí Trần Ngọc Quế - Bí thư Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cần Thơ. Kỷ niệm 42 năm ngày mất của đồng chí Trần Ngọc Quế, Đảng bộ và Nhân dân thành phố Cần Thơ xin nguyện suốt đời ghi nhớ công ơn của đồng chí đối với quê hương, Tổ quốc và xem đây là một tấm gương tiêu biểu để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ noi theo.

Trần Nghĩa

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cần Thơ,

Những viên ngọc quý, tập 1, xuất bản 1995.2. Tỉnh ủy Cần Thơ, Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Cần Thơ, tập 1 (1929 - 1945), xuất bản 1995.3. Tỉnh ủy Cần Thơ, Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Cần Thơ, tập 2 (1945 - 1954), xuất bản 1998.4. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố

Cần Thơ, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cần Thơ, tập 3 (1954 - 1975), xuất bản 2006.

trang, sạch đẹp, đời sống tinh thần người dân được nâng lên. Tuy nhiên, sau một thời gian đưa vào sử dụng, nguồn nước mặt tại rạch Tham Tướng cũng như Hồ Xáng Thổi vẫn còn mùi hôi do nguồn nước thải trong các khu dân cư vẫn chảy trực tiếp ra hồ, tình trạng người dân xả rác thải xuống kênh, hồ vẫn còn xảy ra… “Để giải quyết tình trạng này, thành phố sẽ sớm hoàn thiện việc đấu nối các cống đang xả thải vào Hồ Xáng Thổi vào hệ thống thu gom nước thải chung của thành phố, khi đó sẽ không còn tình trạng xả nước thải xuống hồ nữa, đồng thời tiến hành nạo vét bùn, bơm rửa nguồn nước tại các rạch, hồ này”- Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ Võ Thị Hồng Ánh cho biết.

Bên cạnh đó, bà Võ Thị Hồng Ánh cũng mong muốn chính quyền, đoàn thể tăng cường công tác tuyên truyền để làm sao mỗi người dân ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xả rác thải xuống các kênh, rạch, đồng thời cũng cần có biện pháp xử lý đối với những cá nhân có hành vi vi phạm này…

Lê Hùng

Thành phố Cần Thơ:...(Tiếp theo trang 31)

35

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

1. Thành lập Cảnh sát PCCC thành phố Cần Thơ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Thành phố Cần Thơ có vị trí trung tâm khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, là cửa ngõ giao lưu chính của vùng Tây Nam sông Hậu với vùng tứ giác Long Xuyên, vùng Bắc sông Tiền và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam; là trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ du lịch; trung tâm giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ; trung tâm y tế và văn hoá là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế; là địa bàn trọng điểm giữ vị trí chiến lược về quốc phòng an ninh của vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước. Với những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội đặc thù của thành phố, nhất là sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đối với sự phát triển của thành phố Cần Thơ cho thấy Cần Thơ là địa bàn trọng điểm về công tác đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ.

Xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, đòi hỏi lực

Chào mừng kỷ niệm ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy 4/10:

lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy phải sớm hoàn thiện về mô hình tổ chức, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, được trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu đảm bảo công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trong tình hình mới, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước với công tác phòng cháy, chữa cháy, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về công tác phòng cháy chữa cháy… Trên cơ sở đó, ngày 30/12/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg về việc thí điểm thành lập Sở Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy trực thuộc Bộ Công an ở 07 tỉnh, thành phố trọng điểm về phòng cháy chữa cháy (trong đó có thành phố Cần Thơ). Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu bước trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy thành phố Cần Thơ.

Thực hiện quyết định của Thủ tướng và chỉ đạo của Bộ Công an, sau một thời gian tích cực chuẩn bị về cơ sở vật chất và nhân

LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY THÀNH PHỐ CẦN THƠ

5 NĂM THÀNH LẬP (Tháng 7/2011 ĐẾN NAY)

36

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

sự, ngày 13/7/2011, Bộ Công an, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ và Công an thành phố Cần Thơ tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Sở Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Cần Thơ. Thành phố Cần Thơ là đơn vị thứ hai trong số 07 tỉnh, thành phố chính thức triển khai tổ chức hoạt động của Sở Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Sở Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy thành phố Cần Thơ có trách nhiệm tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công an, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn thành phố; trực tiếp tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy, công tác cứu nạn cứu hộ trong đám cháy và thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ hàng ngày theo quy định của pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tổ chức xây dựng lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

2. Những kết quả công tác đạt được qua 5 năm hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC thành phố Cần Thơ

2.1. Công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC

Từ khi thành lập Cảnh sát PCCC thành phố tháng 7 năm 2011 đến nay, xác định công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC là công tác trọng tâm nhằm nâng cao ý thức về công tác PCCC của người đứng đầu các cơ quan, lãnh đạo chính quyền các địa phương, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các tầng

lớp nhân dân để từ đó mỗi cơ sở và khu dân cư đều thực hiện tốt công tác phòng cháy và chữa cháy. Qua 5 năm hoạt động, Cảnh sát PCCC thành phố đã tổ chức thực hiện 5.842 cuộc tuyên truyền miệng về PCCC cho 127.985 lượt cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên và nhân dân trong thành phố; tuyên truyền về PCCC trên màn hình Led hơn 4.800 giờ; kết hợp với Công ty xổ số kiến thiết Hậu Giang, xổ số kiến thiết Cần Thơ tuyên truyền về công tác PCCC trên 32 triệu tấm vé số, phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình thành phố Cần Thơ thực hiện chương trình “Toàn dân phòng cháy, chữa cháy” phát sóng vào lúc 18 giờ 30 ngày thứ tư và phát lại vào sáng thứ năm hàng tuần trong chương trình thời sự địa phương. Xây dựng được 316 phóng sự phản ánh về công tác PCCC phát trên các đài truyền hình của thành phố và Trung ương, đưa 388 lượt tin, bài về công tác PCCC trên các báo, đài trung ương và địa phương; cấp, phát 2.450 băng casset, đĩa CD tuyên truyền về công tác PCCC trên các đài truyền thanh xã, phường, thị trấn, bến xe, bến tàu, chợ, siêu thị, cơ sở sản xuất, kinh doanh có tính chất nguy hiểm cháy nổ cao; sử dụng xe, ca nô phát loa phóng thanh tuyên truyền công tác PCCC trên đường phố, trên sông hàng trăm lượt; in, cấp phát 20.890 áp phích, tờ rơi khuyến cáo tuyên truyền về công tác an toàn PCCC, vận động cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn treo 4.125 băng rôn, khẩu hiệu PCCC tại trụ sở làm việc và nơi công cộng. Tổ chức cho 36.654 lượt cơ quan, đơn vị, cơ sở, hộ kinh doanh có nguy hiểm về cháy, nổ cao ký cam kết thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn về PCCC. Lực lượng PCCC chuyên nghiệp thường

37

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

xuyên kết hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan, xí nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, tổ chức mở 632 lớp tập huấn về công tác PCCC cho lực lượng dân phòng, lực lượng PCCC cơ sở và chuyên ngành với 74.473 lượt người dự. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã xây dựng được 291 đội dân phòng với 2.616 thành viên tại 85 phường, xã, thị trấn; đã xây dựng được 2.397 đội PCCC cơ sở với 22.478 thành viên và 09 đội PCCC chuyên ngành với 244 thành viên tại các cơ sở đang hoạt động trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó, Cảnh sát PCCC thành phố Cần Thơ đã xây dựng và duy trì hoạt động 104 mô hình “Kiểm tra an toàn PCCC 12/1” (trong đó tại các hộ gia đình là 94 mô hình; tại các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại là 01 mô hình; tại các nhà trọ là 03 mô hình; tại các cơ sở tôn giáo, thờ tự là 04 mô hình; tại các trường học là 01 mô hình và tại các cơ sở y tế là 01 mô hình); xây dựng và duy trì hoạt động 40 cụm dân cư an toàn PCCC, 13 mô hình dân vận khéo về PCCC và 40 cơ sở điển hình tiên tiến về PCCC.

2.2. Công tác hướng dẫn, kiểm tra an toàn PCCC

Công tác hướng dẫn, kiểm tra an toàn PCCC là công tác nghiệp vụ rất quan trọng của lực lượng Cảnh sát PCCC, trong 5 năm qua, lực lượng Cảnh sát PCCC thành phố đã tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất tại 24.973 lượt cơ sở, phương tiện và khu dân cư, lập 24.973 biên bản kiểm tra có 58.631 kiến nghị; qua đó kịp thời yêu cầu người đứng đầu các cơ sở, chủ phương tiện và lãnh đạo chính quyền các địa phương khắc phục những sơ hở, thiếu sót về công tác phòng cháy và chữa cháy nhằm hạn chế

đến mức thấp nhất nguy cơ gây cháy, nổ tại các cơ sở, phương tiện và khu dân cư. Lực lượng Cảnh sát PCCC thành phố đã kiểm tra và cấp 1.532 biên bản xác nhận đủ điều kiện về công tác PCCC cho 1.532 cơ sở thuộc một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc Nghị định số 72/2009/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ. Bên cạnh công tác kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với các cơ sở, phương tiện và khu dân cư, Ban Giám đốc Cảnh sát PCCC thành phố đã chỉ đạo kiểm tra 15 chuyên đề như: chuyên đề chợ - trung tâm thương mại; chuyên đề cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài; chuyên đề cơ sở trường học; chuyên đề cơ sở sản xuất, kinh doanh và sử dụng khí đốt hoá lỏng; chuyên đề cơ sở sản xuất, kinh doanh xăng dầu; chuyên đề cơ sở trường mầm non, nhà trẻ mẫu giáo; chuyên đề cơ sở có mặt bằng kinh doanh cho thuê; chuyên đề nhà máy điện, trạm biến áp; chuyên đề nhà cao tầng; chuyên đề bệnh viện và cơ sở y tế khám, chữa bệnh; chuyên đề cơ sở hoá chất; chuyên đề cơ sở phế liệu; chuyên đề cơ sở sử dụng biển quảng cáo, hộp đèn; chuyên đề cơ sở khách sạn, nhà nghỉ, karaoke; chuyên đề cơ sở chung cư và khu dân cư. Qua kiểm tra các chuyên đề nhằm đánh giá đúng thực trạng công tác PCCC tại các loại hình cơ sở đặc thù trên địa bàn thành phố từ đó đưa ra giải pháp để tăng cường hiệu lực và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PCCC đối với các cơ sở.

2.3. Công tác hướng dẫn, thẩm duyệt về PCCC

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố kéo theo sự gia tăng số lượng các dự án, công trình xây dựng và

38

phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an toàn PCCC, Cảnh sát PCCC có trách nhiệm hướng dẫn, thẩm duyệt về PCCC đối với các dự án, công trình xây dựng và phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an toàn PCCC theo đúng yêu cầu thiết kế tại các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC hiện hành và đảm bảo về thời gian thực hiện gắn với công tác cải cách thủ tục hành chính. Từ tháng 7 năm 2011 đến nay, Cảnh sát đã tiến hành thẩm duyệt 1.064 công trình, hạng mục công trình và phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an toàn PCCC, trong đó thẩm duyệt 863 công trình, 194 hạng mục công trình và 7 phương tiện giao thông cơ giới; đã tiến hành nghiệm thu tổng cộng 584 công trình, hạng mục công trình và phương tiện giao thông cơ giới, trong đó nghiệm thu 460 công trình, 119 hạng mục công trình và 5 phương tiện giao thông cơ giới.

2.4. Công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ

Trong thời gian qua, lãnh đạo Cảnh sát PCCC thành phố đã quan tâm đặc biệt đến công tác nâng cao trình độ nghiệp vụ cho chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ làm công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Từ tháng 7 năm

2011 đến nay, đã tổ chức cho lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ học nghiệp vụ chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được 35.628 giờ, có 197.376 lượt đồng chí tham gia; tổ chức luyện tập thao tác xe thang, xe cứu hộ được 6.478 giờ, có 75.849 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia; tổ chức cho lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ học 574 phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được 986 giờ, có 15.437 lượt đồng chí tham gia. Đã tổ chức thực tập 623 lượt phương án chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại các cơ sở trọng điểm, cơ sở lớn có nguy cơ cháy, nổ cao, phối hợp nhiều lực lượng, có tổng số 35.681 lượt người tham gia. Song song với công tác học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, Cảnh sát PCCC thành phố đã làm tốt công tác thường trực chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có sự cố cháy, nổ và tai nạn xảy ra. Từ khi thành lập đến nay, Cảnh sát PCCC thành phố Cần Thơ đã xuất trên 600 lượt xe cùng với hơn 4.200 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; đã cứu được lượng tài sản trên 500 tỷ đồng từ các vụ cháy, nổ và trực tiếp cứu cũng như tổ chức thoát nạn và cứu nạn cho hàng trăm người trong các vụ cháy, nổ và tai nạn.

SỞ CẢNH SÁT PCCC THÀNH PHỐ CẦN THƠ

CHÀO MỪNG CÁC NGÀY LỄ, KỶ NIỆM

39

A- THÔNG TIN TRONG THÀNH PHỐI. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÁNG 9 VÀ 9 THÁNG

NĂM 20161. Tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP - giá so sánh 2010) 9 tháng năm 2016 ước đạt

46.328,7 tỷ đồng, tăng 7,22% so cùng kỳ (kế hoạch (KH) cả năm tăng 7,5%).Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): Tỷ trọng khu vực nông nghiệp - thủy sản chiếm

10,47% (KH chiếm 9,33%), khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 26,89% (KH 31,81%) và khu vực thương mại - dịch vụ chiếm 62,64% (KH 58,86%) trong GRDP.

2. Sản xuất công nghiệp: - Trong tháng, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 5,69% so với tháng

trước; lũy kế trong 9 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 11,04% so cùng kỳ; các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố đều tăng so cùng kỳ.

- Lũy kế trong 9 tháng/2016, thu hút 07 dự án với tổng vốn đầu tư 189,4 triệu USD, thu hồi 04 giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 24 triệu USD. Trong 9 tháng, tổng doanh thu của các doanh nghiệp ước đạt 1.181,3 triệu USD, tăng 1%; số lao động đang làm việc 31.083 người, giảm 161 người so cùng kỳ.

3. Thương mại - dịch vụ:a. Giá cả - Thương mại - xuất nhập khẩu:- Giá cả: Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2016 tăng 0,35% so với tháng trước, tăng 3,11% so

tháng 12/2015 và bình quân tăng 1,96% so cùng kỳ.- Về nội thương: tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ ước thực hiện 7.434 tỷ

đồng; nâng tổng số trong 9 tháng ước thực hiện 68.915,5 tỷ đồng, đạt 74,9% KH, tăng 10,9% so cùng kỳ.

- Xuất khẩu: Lũy kế trong 9 tháng năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước thực hiện 1.035,9 triệu USD, đạt 62,8% KH, giảm 1,9% so với cùng kỳ; trong đó: xuất khẩu hàng hóa ước thực hiện 806,5 triệu USD, đạt 54,9% KH, giảm 13,2%.

- Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu tháng 9/2016 ước thực hiện 20,4 triệu USD; nâng tổng số trong 9 tháng ước thực hiện 217,4 triệu USD, đạt 43,5% KH, giảm 24,6% so với cùng

Tài liệu THỜI SỰ - SỰ KIỆN

PHỤC VỤ SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 10 NĂM 2016

40

kỳ; chủ yếu do nhập khẩu một số mặt hàng nguyên phụ liệu sản xuất giảm như: vải may mặc, xăng dầu, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu chế biến.

b. Giao thông vận tải: Trong tháng, ước vận chuyển hàng hóa 799 ngàn tấn, tăng 1,7% so tháng trước; vận

chuyển hành khách ước thực hiện 1.029,7 ngàn lượt hành khách, tăng 0,6%. Lũy kế trong 9 tháng năm 2016, ước thực hiện vận chuyển hàng hóa 7.188,4 ngàn tấn, đạt 75,3% KH, tăng 1,4% so cùng kỳ; vận chuyển hành khách 8.827 ngàn lượt hành khách, đạt 71,6% KH, tăng 1%.

c. Du lịch: Đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch, hợp tác liên kết

phát triển du lịch; xây dựng kế hoạch bình chọn các điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố và cấp vùng năm 2016. Trong tháng, các doanh nghiệp dịch vụ lưu trú ước phục vụ 135.000 lượt khách; nâng tổng số trong 9 tháng/2016, tổng lượt khách đến ước đón 4 triệu lượt, tăng 5% so cùng kỳ; đón và phục vụ 1,314 triệu lượt khách lưu trú, đạt 90,6% KH, tăng 03% so cùng kỳ; doanh thu ước đạt 1.446 tỷ đồng, vượt 3,3% KH, tăng 06% so cùng kỳ.

4. Sản xuất nông nghiệp: a. Trồng trọt:- Sản xuất lúa: Tổng diện tích gieo trồng 240.023 ha, vượt 10,2% KH, tăng 0,9% so

cùng kỳ, thu hoạch 201.798 ha, sản lượng ước đạt 1,393 triệu tấn, vượt 6,5% KH (khoảng 84.900 tấn).

- Diện tích gieo trồng cây hàng năm 17.079 ha; trong đó diện tích gieo trồng rau màu, đậu các loại 9.584 ha và cây công nghiệp ngắn ngày 7.495 ha; thu hoạch 15.935 ha.

b. Chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, gia cầm giảm so cùng kỳ, không xảy ra dịch lở mồm long móng gia

súc; từ ngày 01/01/2016 đến ngày 24/4/2016, dịch cúm gia cầm xảy ra tại 08 hộ chăn nuôi, có 10.548 con gia cầm mắc bệnh, xử lý tiêu hủy 100%. Từ ngày 25/4/2016 đến nay, không phát sinh thêm ổ dịch mới; tiếp tục tăng cường công tác tiêm phòng, vệ sinh tiêu độc khử trùng, kiểm dịch vận chuyển, kiểm soát giết mổ gia súc gia cầm.

c. Nuôi thủy sản: Tổng diện tích nuôi thủy sản 11.052 ha, vượt 5,3% KH, giảm 4,6% so cùng kỳ; tổng sản

lượng nuôi thu hoạch 141.678 tấn, đạt 72,5% KH, tăng 23,8% so cùng kỳ; đến nay, diện tích nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn quốc gia đạt 122 ha.

5. Khoa học công nghệ: Trong 9 tháng/2016, tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ;

phê duyệt danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực hiện năm 2017. Hướng dẫn thực hiện xác lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho 159 trường hợp. Hoạt

động thử nghiệm, kiểm định và hiệu chuẩn ổn định, hỗ trợ 254 cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài thành phố thực hiện công tác quản lý, kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa và đảm bảo đo lường.

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

41

6. Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển: a. Đầu tư xây dựng cơ bản: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 31.453,9 tỷ đồng, đạt 71,5% KH, tăng 9,1%

so cùng kỳ. Đến ngày 20 tháng 9 năm 2016, giá trị giải ngân vốn xây dựng cơ bản do UBND thành phố giao 2.473,7 tỷ đồng, đạt 72,5% KH phân bổ (KH 3.411,6 tỷ đồng), tỷ lệ giải ngân tăng 1% so cùng kỳ.

b. Đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp: Lũy kế trong 9 tháng đầu năm 2016, cấp mới đăng ký kinh doanh cho 839 doanh nghiệp

các loại hình với tổng vốn đăng ký 3.811,6 tỷ đồng (tăng 14,3% về số doanh nghiệp và tăng 67,5% về số vốn đăng ký so cùng kỳ); giải thể 64 doanh nghiệp các loại hình với tổng vốn 335,6 tỷ đồng (giảm 12,3% về số doanh nghiệp và giảm 27,1% về số vốn).

c. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng, điều chỉnh 01 dự án tăng vốn 1,1 triệu USD; lũy kế trong 9 tháng/2016, cấp

giấy chứng đầu tư 03 dự án với vốn đầu tư 175,7 triệu USD, 01 dự án tăng vốn 1,1 triệu USD; tính đến tháng 9/2016, thành phố có 71 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 1.133 triệu USD, vốn thực hiện 360 triệu USD (trong đó vốn thực hiện 9 tháng năm 2016 là 9,2 triệu USD). Doanh thu của các doanh nghiệp ước 9 tháng/2016 đạt 316 triệu USD.

Thành phố hiện có 15 chương trình, dự án vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); trong tháng, ước giải ngân 66,4 tỷ đồng (bao gồm nguồn vốn ODA 59,1 tỷ đồng, vốn đối ứng 7,3 tỷ đồng); lũy kế trong 9 tháng năm 2016, ước giải ngân 852,8 tỷ đồng (bao gồm nguồn vốn ODA 685 tỷ đồng, vốn đối ứng 167,8 tỷ đồng).

Trong 9 tháng năm 2016, tiếp nhận từ nguồn viện trợ phi Chính phủ (NGO) 06 dự án với tổng kinh phí 9,4 tỷ đồng, tương đương 430.513 USD.

7. Tài chính - ngân hàng:a. Thu chi ngân sách:Từ đầu năm đến ngày 20/9/2016, tổng thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 9.749 tỷ đồng,

đạt 82,5% dự toán HĐND thành phố giao. Tổng thu ngân sách nhà nước theo chỉ tiêu giao thực hiện 6.311,7 tỷ đồng, đạt 68,3% dự

toán Trung ương và HĐND thành phố giao, tăng 3,5% so cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương 5.965 tỷ đồng, đạt 78,9% dự toán Trung ương giao và đạt

61,5% dự toán HĐND thành phố giao, giảm 9,6% so cùng kỳ.b. Hoạt động ngân hàng: Tăng cường các giải pháp huy động vốn và mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho các lĩnh

vực ưu tiên và các chương trình, chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; mặt bằng lãi suất huy động và cho vay ổn định. Ước đến cuối tháng 9/2016, tổng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trên địa bàn đạt 58.500 tỷ đồng, tăng 19,1% so đầu năm; tổng dư nợ cho vay nền kinh tế ước đạt 58.400 tỷ đồng, tăng 8%; nợ xấu 2.800 tỷ đồng, chiếm 4,79% tổng dư nợ cho vay.

8. Công tác quản lý xây dựng, đất đai, môi trường và xây dựng nông thôn mới:

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

42

a. Công tác quản lý đô thị, xây dựng: Tập trung rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các đồ án quy hoạch xây dựng. Công tác

quản lý đầu tư xây dựng, hạ tầng kỹ thuật được đẩy mạnh; tổng diện tích sàn xây dựng nhà ở của thành phố tăng thêm 61.790m2 so năm 2015, nâng mức bình quân 20m2/sàn/người, tăng 0,12m2/sàn/người. Tiếp tục thực hiện, nâng cao chất lượng các chương trình phát triển nhà ở.

b. Công tác quản lý đất đai, môi trường: Hoàn thành: công tác lập kế hoạch sử dụng đất năm 2016 cấp huyện; công tác thống kê

đất đai, điều chỉnh kiểm kê đất đai; phương án khai thác và phát triển quỹ đất sạch (04 khu), kế hoạch đấu giá các khu đất năm 2016 (09 khu). Tiếp tục đẩy nhanh công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư các công trình, dự án trọng điểm; thường xuyên kiểm tra việc thu hồi 5-10% quỹ đất các dự án. Tiếp tục tăng cường kiểm tra công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; kiểm soát chặt chẽ quy chế phối hợp trong công tác cấp GCNQSDĐ giữa Văn phòng Đăng ký đất đai và các Chi nhánh quận, huyện. Triển khai xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai quận Thốt Nốt, huyện Cờ Đỏ và Thới Lai.

c. Công tác xây dựng nông thôn mới: Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí chưa đạt và củng cố, nâng chất các tiêu chí đã đạt

chuẩn; có 04 xã được công nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới (chỉ tiêu phấn đấu 7 xã), 14/36 xã đạt 15-19 tiêu chí, 06/36 xã đạt 12-14 tiêu chí. Lũy kế có 16/36 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 01 huyện Phong Điền đạt huyện nông thôn mới.

II- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC VĂN HÓA, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH, NỘI CHÍNH

1. Công tác Giáo dục - Đào tạo: Tổ chức tổng kết năm học 2015-2016 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm

năm học 2016-2017; kết quả tuyển sinh đầu cấp năm học 2016-2017: tuyển sinh lớp 1 đạt 100%, lớp 6 đạt 99,16% và lớp 10 đạt 84,95%.

Tổ chức kiểm tra công nhận trường đạt chuẩn quốc gia, đến nay đã công nhận 27 trường đạt chuẩn (KH công nhận 45 trường), đạt 60% KH.

Tổ chức thực hiện kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ năm học 2016-2017.

2. Lao động - Thương binh và Xã hội:Trong 9 tháng/2016, giải quyết việc làm cho 44.786 lao động, đạt 89,2% KH, giảm 10%

so cùng kỳ; tuyển mới và đào tạo nghề cho 30.794 lao động, đạt 79% KH, tăng 1,6%. Khai giảng 105 lớp dạy nghề cho lao động nông thôn với 3.675 người tham gia, đạt 86,2% KH.

Công tác chăm lo đời sống gia đình người có công với cách mạng, người nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội chu đáo, kịp thời; khởi công xây dựng và sửa chữa 13 căn nhà tình nghĩa, xây dựng 455 căn nhà Đại đoàn kết từ nguồn vận động xã hội hóa.

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

43

Tổ chức Lễ hội Nụ cười xuân năm 2016 với chủ đề “Thắp sáng ước mơ thiếu nhi Cần Thơ”; Diễn đàn trẻ em cấp thành phố năm 2016 với chủ đề “Vì cuộc sống an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích cho trẻ em”. Tổ chức Hội thảo tham vấn giải pháp thực hiện bình đẳng giới và Chương trình công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2016. Ban hành Kế hoạch tổ chức Tháng hành động vì Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2016.

3. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng:Ngành y tế chủ động xây dựng kế hoạch phòng chống dịch chủ động, kịp thời điều tra

và xử lý ca bệnh, không để dịch bùng phát, không xảy ra vụ dịch nguy hiểm. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được quan tâm đầu tư; góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các dịch vụ y tế. Duy trì tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng, tiêm chủng cho trẻ em, vận động người nghiện chất dạng thuốc phiện tham gia điều trị Methadone. Tăng cường kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn.

4. Hoạt động Văn hóa - Thể dục thể thao: Trong 9 tháng/2016, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao sôi

nổi, liên tục chào mừng các ngày lễ, tết, kỷ niệm, sự kiện lớn của đất nước, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của thành phố. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được chú trọng, công nhận 03 xã, phường văn hóa, đạt 75% KH. Tổ chức phục vụ khách tham quan tại Bảo tàng, Trạm vệ tinh ngân hàng dữ liệu văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam tại Cần Thơ,… thu hút 139.392 lượt khách, vượt 39% KH. Sưu tầm và xác minh được 282 hiện vật, vượt 41% KH. Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, kiểm tra các hoạt động quảng cáo, đảm bảo vẻ mỹ quan đô thị.

Thể thao thành tích cao đã tổ chức 09 giải thể thao toàn quốc; đăng cai tổ chức Giải Bóng chuyền bãi biển nữ Châu Á. Cử 157 HLV và 807 VĐV tham dự 66 giải thể thao, kết quả đạt 340 huy chương các loại.

5. Công tác quản lý nhà nước về dân tộc - tôn giáo: Tăng cường công tác quản lý dân tộc, triển khai có hiệu quả các chính sách đối với đồng

bào dân tộc; chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số nhân các dịp lễ, tết, đời sống của đồng bào dân tộc được nâng lên. Các hoạt động tôn giáo thực hiện đúng hiến chương của giáo hội và quy định pháp luật; đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của công dân theo quy định. Công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về tôn giáo, công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được quan tâm, kịp thời giải quyết những nhu cầu chính đáng của các tôn giáo.

6. Công tác Thanh tra - Tư pháp:a. Thanh tra:Trong 9 tháng/2016, triển khai thực hiện 190 cuộc thanh tra, kiểm tra, đạt 100% KH,

tăng 23 cuộc so cùng kỳ. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; đã tiếp 2.498 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, giảm 316 lượt; tiếp nhận 2.552 đơn khiếu nại, tố cáo (trong đó có 34 đơn kỳ trước chuyển sang); đã giải quyết 491/497 đơn thuộc thẩm quyền (trong đó khiếu nại giải quyết 453/457 đơn và tố cáo 38/40 đơn), đạt tỷ lệ 98,8% số đơn.

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

44

b. Công tác Tư pháp: Công tác xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật từng bước nâng cao chất

lượng; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND thành phố đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và phù hợp tình hình thực tế địa phương. Tăng cường công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, lý lịch tư pháp phục vụ tốt nhu cầu của tổ chức và công dân. Tổ chức triển khai, phổ biến các Bộ Luật, Luật được Quốc hội thông qua, có hiệu lực trong năm 2016, 2017.

7. Quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội: Tổ chức tập huấn diễn tập khu vực phòng thủ quận Thốt Nốt, huyện Vĩnh Thạnh; chỉ đạo

các quận, huyện còn lại chuẩn bị tổ chức diễn tập CH-TM 01 bên 01 cấp trên bản đồ; tổ chức diễn tập chiến đấu phòng thủ, phòng không nhân dân cho 15/15 xã, phường, thị trấn, bảo đảm an toàn. Thực hiện đúng quy trình các bước tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và tổ chức đăng ký nghĩa vụ quân sự đạt 100% chỉ tiêu giao. Tổ chức tập huấn, huấn luyện, kiểm tra bắn đạn thật cho các đối tượng đúng kế hoạch.

Thành phố mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra 260 vụ, giảm 34 vụ so với cùng kỳ, điều tra làm rõ 226 vụ, đạt tỷ lệ 87%. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông và công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông được đẩy mạnh; tai nạn giao thông xảy ra 53 vụ, giảm 07 vụ so cùng kỳ; làm chết 56 người, giảm 10 người; bị thương 25 người, tăng 05 người.

B- THÔNG TIN TRONG NƯỚC 1. CHÍNH PHỦ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH KẾ

HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2016Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm và nhiều rủi ro, trong nước chịu ảnh hưởng

nặng nề bởi thiên tai, bão lũ và nhiều sự cố xảy ra, song nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2016 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả: lạm phát được kiểm soát ở mức thấp (lạm phát 8 tháng tăng 1,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2015); tỷ giá và thị trường ngoại tệ diễn biến ổn định, dự trữ ngoại hối tăng; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng cao (8 tháng ước tính đạt 9,8 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2015); khu vực dịch vụ phát triển mạnh (8 tháng, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 6.452,4 nghìn lượt người, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2015); công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả (8 tháng có 73.404 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 19,7% về số doanh nghiệp và tăng 50,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015); an ninh chính trị và trật tự xã hội được bảo đảm;…

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn một số hạn chế, khó khăn: Nợ công cao, xử lý nợ xấu còn chậm; sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

45

khăn do ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lũ (tổng giá trị thiệt hại do thiên tai trong 8 tháng năm 2016 ước tính gần 8,7 nghìn tỷ đồng); xuất khẩu tăng thấp; tình trạng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng còn gây bức xúc cho người dân; diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá còn lớn (8 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 2.990 ha, gấp 2,5 lần cùng kỳ năm trước); số hộ, số nhân khẩu thiếu đói tăng (8 tháng tăng 14% so với cùng kỳ năm 2015)…

Để phấn đấu thực hiện được các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Chính phủ yêu cầu:

Một là, các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, tư nhân tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục các mặt còn hạn chế yếu kém; đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành; chú trọng khâu tổ chức thực hiện để các chính sách mới đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả; thực hiện các nhiệm vụ, công việc được giao với trách nhiệm cao nhất gắn với vai trò người đứng đầu, đặc biệt là các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế nêu tại các Nghị quyết của Chính phủ đã đề ra. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan chịu trách nhiệm giải trình trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân nếu các chỉ tiêu thuộc ngành, lĩnh vực không đạt kế hoạch đề ra.

Hai là, các hiệp hội ngành nghề, cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nhân và nhân dân tranh thủ thời cơ, khắc phục những khó khăn, thách thức, tổ chức lao động sản xuất, đầu tư, kinh doanh có hiệu quả. Yêu cầu cơ quan quản lý Nhà nước các cấp tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và nhân dân tổ chức sản xuất, kinh doanh, đầu tư hiệu quả, đúng pháp luật; truyền cảm hứng sáng tạo và khởi nghiệp tới các doanh nhân, các nhà đầu tư, khát vọng vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước.

Ba là, đề nghị các cơ quan của Quốc hội, HĐND các địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân tăng cường giám sát, tích cực phối hợp, tạo sự đồng thuận cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương theo luật định. Cơ quan Trung ương, các đoàn thể chỉ đạo tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên cùng quần chúng nhân dân tiếp tục đoàn kết, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2016.

2. TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG BIỂN MIỀN TRUNG SAU VỤ FORMOSA HÀ TĨNH GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Chương trình quan trắc từ tháng 4 đến hết tháng 5 năm 2016 trên phạm vi 8 tỉnh từ Thanh Hóa đến Quảng Nam đã góp phần quan trọng vào việc xác định nguyên nhân gây hiện tượng hải sản chết bất thường và tìm ra thủ phạm buộc Công ty Formosa Hà Tĩnh phải nhận lỗi, chấp nhận bồi thường thiệt hại, phục hồi môi trường và xin lỗi Nhân dân và Chính phủ Việt Nam.

Sau sự cố trên, từ tháng 6/2016 đến ngày 11/7/2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai các hoạt động điều tra, khảo sát đánh giá mức độ, phạm vi ô nhiễm môi trường, mức độ suy thoái của các hệ sinh thái và sinh vật biển. Theo kết quả phân tích của 1.080 mẫu (tháng 5/2016), 331 mẫu (tháng 6/2016) và 68 mẫu kiểm chứng (tháng 8/2016), đồng thời

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

46

so sánh, đối chiếu với quy chuẩn Việt Nam cho thấy diễn biến môi trường biển miền Trung ngày một tốt hơn, cụ thể:

- Về diễn biến chất lượng nước biển: cơ bản các thông số lý hóa, dinh dưỡng, kim loại nặng, nhóm hợp chất hữu cơ và tổng Coliform đều nằm trong giới hạn cho phép. Giá trị các thông số sắt, tổng phenol và xyanua biến động theo chiều hướng giảm dần. Cụ thể, đối với sắt, tháng 6-2016 còn 1,8% (tháng 5 là 3,8%); hàm lượng xyanua tháng 6-2016 cao nhất là 0,002 mg/l (tháng 5 là 0,1 mg/l)...

Qua phân tích thông số quan trắc nước biển tại 19 bãi tắm thuộc 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế đều nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 43:2012/BTNMT - đảm bảo đáp ứng yêu cầu đối với vùng bãi tắm, thể thao dưới nước.

- Về diễn biến chất lượng trầm tích biển: Về cơ bản các thông số được quy định trong quy chuẩn Việt Nam đều có giá trị nằm trong giới hạn. Hàm lượng tổng phenol có xu hướng giảm rõ rệt, đến tháng 6-2016 chỉ còn khoảng 0,35-1,2 mg/kg (tháng 5 là 6-12,5 mg/kg); hàm lượng xyanua đến tháng 6-2016 giảm xuống khoảng 0,11-0,21 mg/kg (tháng 5 là khoảng 0,16-0,3 mg/kg).

- Diễn biến tồn lưu trong màng bám hệ keo sắt: Hàm lượng phenol trong màng bám hệ keo sắt ở 9 khu vực được khảo sát đã giảm mạnh trong giai đoạn tháng 6 và 7-2016, dao động trong khoảng 0,32-1,75 ppm (tháng 5 là khoảng 3,80-7,79 ppm). Nhiều nơi hàm lượng phenol đã giảm trên 90% so với tháng 4 và 5-2016 (hòn Sơn Dương, Sơn Chà, Chân Mây, Hải Vân, Thừa Thiên Huế).

- Diễn biến các hệ sinh thái: Trong tháng 4 và 5-2016, 100% các rạn san hô trong khu vực khảo sát đều có dấu hiệu bị tẩy trắng, nhóm san hô cành hầu hết bị chết hàng loạt. Sinh vật trên rạn san hô rất nghèo nàn, mật độ cá rất thấp... Đến giai đoạn tháng 6 và 7-2016, không còn xảy ra hiện tượng san hô bị tẩy trắng, đã thấy hiện tượng san hô và cá kích thước nhỏ phục hồi tích cực.

- Về chất lượng hải sản đánh bắt: Theo số liệu giám sát của Bộ Y tế, từ 28/4 đến 8/8/2016, kết quả kiểm nghiệm đánh giá mức độ an toàn của các mẫu hải sản lấy tại 4 tỉnh miền Trung cho thấy hàm lượng một số chất ô nhiễm trong hải sản đã giảm dần. Tuy nhiên, cần tiếp tục giám sát hải sản đánh bắt tại các vùng biển an toàn đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố.

Mặc dù chất lượng môi trường nước biển và trầm tích biển đã dần hồi phục, các chỉ số trong giới hạn cho phép, đạt quy chuẩn đối với vùng bãi tắm, thể thao dưới nước, nuôi trồng thủy sản và bảo tồn thủy sinh, nhưng sự cố môi trường biển nghiêm trọng vừa qua đã ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất, kinh doanh của người dân các tỉnh miền Trung. Để sớm ổn định cuộc sống nhân dân, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan tiếp tục triển khai khẩn trương và đồng bộ các giải pháp:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền về mức độ an toàn của các vùng biển để người dân và các doanh nghiệp yên tâm ra khơi bám biển, ổn định sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm thủy hải sản.

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

47

Hai là, xây dựng và sớm triển khai đề án thiệt hại, bồi thường cho các đối tượng bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường; tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, của tỉnh, nhất là việc hỗ trợ, chuyển đổi nghề cho bà con ngư dân bảo đảm công khai minh bạch, dân chủ, chính xác, đúng quy định, sát thực tế.

Ba là, tiếp tục giám sát và yêu cầu Công ty Formosa Hà Tĩnh thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trách nhiệm đã cam kết; triển khai lắp đặt hệ thống giám sát môi trường biển tại 4 tỉnh, công khai thông tin chất lượng môi trường; triển khai việc xử lý và phục hồi môi trường biển bị ô nhiễm.

Bốn là, tăng cường giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, không để kẻ xấu, các tổ chức phản động lợi dụng xuyên tạc, kích động biểu tình, gây rối làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật những tổ chức, cá nhân có sai phạm liên quan đến sự cố môi trường tại các tỉnh miền Trung.

3. MỘT SỐ KẾT QUẢ CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ NĂM 2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2016

- Công tác xây dựng ban hành văn bản pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quan tâm thực hiện, bảo đảm chất lượng, tiến độ và quy trình, nhiều văn bản đã được ban hành. Các cấp, các ngành đã kiểm soát chặt chẽ việc mua sắm tài sản nhà nước; sắp xếp, điều chuyển phương tiện, thiết bị làm việc từ nơi thừa sang nơi thiếu, những nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả hơn.

- Việc phân bổ vốn trong đầu tư xây dựng được thực hiện công khai, minh bạch theo đúng các tiêu chí, định mức quy định. Quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ từng bước đi vào nền nếp; tình trạng quản lý, sử dụng lãng phí, sai mục đích trụ sở làm việc được chấn chỉnh, khắc phục. Năm 2015, cả nước đã thực hiện báo cáo kê khai và đề xuất phương án xử lý đối với gần 154,7 nghìn cơ sở nhà đất (tăng 1.400 cơ sở so với năm 2014); cấp có thẩm quyền đã phê duyệt phương án đối với trên 123,4 nghìn cơ sở. Công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ bản hoàn thành mục tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội. Năm 2015, cả nước đã đo đạc lập bản đồ địa chính trên 70% tổng diện tích tự nhiên; đã cấp 41,8 triệu Giấy chứng nhận với tổng diện tích hơn 22,9 triệu ha (đạt 94,9% diện tích các loại đất cần cấp và đạt 06,7% tổng số trường hợp sử dụng đất đủ điều kiện cấp giấy.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đã được tăng cường, tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tiền, tài sản nhà nước. Năm 2015, toàn ngành Thanh tra đã triển khai gần 250,2 nghìn cuộc thanh tra hành chính và thanh tra, kiểm tra chuyên ngành trên các lĩnh vực; kiến nghị xử lý về tài chính gần 109,9 nghìn tỉ đồng và thu hồi gần 16,5 nghìn ha đất.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2015 còn một số khuyết điểm, hạn chế: Trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước vẫn còn tình trạng vi phạm tiêu chuẩn, định mức, chế độ. Hiệu quả thực hiện một số chương trình mục tiêu quốc gia chưa cao. Tiến độ tái cơ cấu, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chậm; một số bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp chưa chỉ đạo quyết liệt việc triển khai sắp xếp,

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

48

cổ phần hóa. Tình trạng vi phạm pháp luật, lãng phí đất đai còn xảy ra ở nhiều nơi; việc giao, cho thuê và thu hồi đất không đúng quy định vẫn diễn ra; công tác rà soát, sắp xếp, đổi mới các nông, lâm trường còn chậm. Một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quyết liệt trong triển khai, thực hiện công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; vẫn còn không ít cơ quan, tổ chức chậm trễ trong việc tổng hợp, báo cáo, đánh giá kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

- Phương hướng công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2016: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội để sử dụng hiệu quả nguồn lực và góp phần tích cực bổ sung nguồn lực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống, tiêu dùng của nhân dân, bảo đảm an sinh, xã hội.

- Nhiệm vụ công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2016: Tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, hạn chế tối đa những lỗ hổng trong thực thi pháp luật nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, tạo sự thống nhất; biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân làm tốt, đồng thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu.

4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH GIÁO DỤC NĂM HỌC 2015 - 2016 VÀ NHIỆM VỤ NĂM HỌC 2016 - 2017

- Trong năm 2015 - 2016, việc đổi mới hoạt động dạy học, thi, kiểm tra, đánh giá các hoạt động giáo dục có chuyển biến tích cực: Việc tổ chức kỳ thi trung học phổ thông quốc gia đã có những điều chỉnh phù hợp hơn, nội dung đề thi chủ yếu trong chương trình lớp 12, có tính phân loại cao, đáp ứng yêu cầu xét công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông và xét tuyển sinh đại học, cao đẳng. Kỳ thi đã diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, nhận được sự đồng thuận, hưởng ứng và ủng hộ tích cực của xã hội: Cả nước có 120 cụm thi, với trên 887,4 nghìn thí sinh đăng ký dự thi; tỉ lệ thí sinh dự thi đạt gần 99%; tổng số đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông là 749.020 thí sinh (đạt tỉ lệ 93%).

- Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo được tăng cường: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng cường phân cấp và giao quyền tự chủ, tăng cường quản lý chất lượng và hiệu quả giáo dục; công tác cải cách thủ tục hành chính được triển khai; việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành đạt kết quả bước đầu. So với năm học 2014 - 2015, số lượng trường đạt chuẩn quốc gia ở tất cả các cấp học đều tăng trong năm học 2015 - 2016. Ước chi ngân sách nhà nước cho toàn ngành giáo dục và đào tạo năm 2016 đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước.

- Chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên: Tính đến hết năm học 2015 - 2016, cả nước có 50/63 tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non; 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 và trung học cơ sở mức độ 1. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non, chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên. Chất lượng

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

49

giáo dục đại học có bước chuyển biến tích cực. Nhiều chương trình đào tạo được các tổ chức kiểm định quốc tế công nhận; hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị đại học dân tộc tiếp tục được củng cố, phát triển về quy mô, mạng lưới, chất lượng từng bước được nâng cao.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách giáo dục - đào tạo năm 2015 - 2016 còn một số hạn chế, yếu kém: Công tác xây dựng và thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập, công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật còn chậm, phát hiện, điều chỉnh, bổ sung chưa kịp thời, theo dõi, kiểm tra việc thực thi các văn bản chưa triệt để. Việc quy hoạch lại hệ thống giáo dục quốc dân còn chậm; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, trình độ không đồng đều; chất lượng dạy và học ngoại ngữ còn nhiều hạn chế; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm còn nhiều. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật, đạo đức lối sống.

Nhiệm vụ của ngành giáo dục trong năm học 2016-2017: (1) Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục; (2) Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; (3) Đẩy mạnh phân luồng và hướng nghiệp; (4) Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ; (5) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; (6) Đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ cho các trường đại học; (7) Tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo; (8) Tăng cường cơ sở vật chất; (9) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

C- THÔNG TIN THẾ GIỚI1. QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC- Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm chính thức nước CHND Trung Hoa từ ngày 10

đến 15/9/2016: Chuyến thăm nhằm tăng cường sự tin cậy chính trị giữa hai nước và tiếp tục khẳng định: Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một luôn coi trọng việc củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống và đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời, thể hiện vai trò của Việt Nam là một thành viên tích cực và trách nhiệm của Cộng đồng ASEAN trong việc thúc đẩy sự phát triển của Cộng đồng ASEAN nói chung và quan hệ ASEAN - Trung Quốc nói riêng. Hai bên tập trung thảo luận các biện pháp thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ổn định, lành mạnh trong thời gian tới; nhất trí cùng nhau thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đã đạt được trong thời gian qua, nhất là trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 4-2015) và chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (tháng 11-2015); duy trì gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, khuyến khích các cấp, các ngành của hai bên tăng cường giao lưu, hợp tác cùng có lợi; tích cực phối hợp giải quyết những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc, đưa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước bước vào giai đoạn phát triển mới, chất lượng, hiệu quả và bền vững; cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển, kiên trì giải

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

50

quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.

Hai bên đã ký 9 văn kiện hợp tác, trong đó nhấn mạnh Trung Quốc: “sớm triển khai khoản vay bổ sung trị giá 250 triệu USD cho dự án đường sắt đô thị tuyến Cát Linh - Hà Đông, bảo đảm tiến độ, chất lượng, đưa công trình này vào sử dụng theo đúng dự kiến”. Trong chuyến thăm, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dự Lễ khai mạc Hội chợ Trung Quốc - ASEAN (CAEXPO) lần thứ 13 tại Nam Ninh, Quảng Tây và có bài phát biểu quan trọng; tham dự Hội nghị bàn tròn với các doanh nghiệp Trung Quốc.

- Tổng thống Pháp Ph.Ô-lăng-đơ thăm cấp Nhà nước Việt Nam từ ngày 05 đến 07/9/2016. Hai bên nhất trí thúc đẩy sớm ký kết và phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên hiệp châu Âu (EVFTA); ký Thỏa ước tín dụng cho Dự án hỗ trợ quản lý nguồn nước và cơ sở hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tỉnh Ninh Bình, Hà Tĩnh và thành phố Cần Thơ, đồng thời nhất trí xem xét khả năng Pháp tham gia vào các “dự án xanh” ở Việt Nam về điện mặt trời, năng lượng tái tạo, cải thiện hệ sinh thái, quy hoạch tổng hợp đa ngành thân thiện với môi trường, xây dựng đô thị thông minh. Pháp cam kết tiếp tục duy trì các kênh viện trợ cho Việt Nam với tư cách là nhà tài trợ song phương. Hai bên ra Tuyên bố chung gồm 19 điểm, trong đó dành riêng điểm 18 cho vấn đề biển Đông: “hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực… Sau phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực ngày 12-7-2016, hai bên khẳng định tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), ủng hộ các nỗ lực nhằm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”.

2. MỘT SỐ TÌNH HÌNH THẾ GIỚI ĐÁNG CHÚ Ý THỜI GIAN GẦN ĐÂY- Tình hình bạo động, khủng bố ở khu vực Đông Nam Á thời gian gần đây:Trong những năm qua, các nước ASEAN đã có nhiều nỗ lực để duy trì hoà bình, ổn định

khu vực. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã xảy ra liên tiếp các vụ bạo động và khủng bố: Tại Thái Lan, từ ngày 11 đến 12/8/2016 đã liên tiếp xảy ra 8 vụ đánh bom tại tỉnh Trang, miền Nam Thái Lan và khu nghỉ dưỡng Hủa Hỉn, làm ít nhất 4 người thiệt mạng và hàng chục người bị thương. Tại In-đô-nê-si-a, tháng 01/2016 đã xảy ra vụ tấn công ở thủ đô Gia-các-ta do tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) tiến hành, làm 8 người thiệt mạng. Ngày 05/8/2016, chính phủ In-đô-nê-si-a đã bắt giữ 6 đối tượng liên quan đến âm mưu tấn công Vịnh Marina (Xinhgapo) bằng rocket từ đảo Batam của Inđônêxia. Tại Ma-lai-xi-a: Tháng 6/2016, một vụ nổ đã xảy ra tại câu lạc bộ đêm ở Puchong (Ma-lai-xi-a) khiến 8 người bị thương. Tháng 7/2016, cảnh sát đã bắt giữ 14 người Ma-lai-xi-a bị tình nghi có liên quan đến IS.

Nhận thức sâu sắc về hiểm họa của chủ nghĩa khủng bố, ngày 10/8/2016, tại Bali, In-đô-nê-si-a đã diễn ra Hội nghị quốc tế về chống khủng bố và Hội nghị cấp cao về chống tài trợ khủng bố. Tại Hội nghị đã công bố bản báo cáo về “Nguy cơ khủng bố tại châu Á” trong đó nhấn mạnh việc hợp tác chống khủng bố trong khu vực cần được nâng lên cấp độ mới.

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

51

Đánh giá về tình hình bạo động, khủng bố ở khu vực, Việt Nam nêu rõ: “Các nước ASEAN thời gian qua đã có nhiều nỗ lực để duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và đảm bảo cuộc sống bình yên cho người dân, nhưng Đông Nam Á cũng đang đối diện với nguy cơ tiềm ẩn, trở thành mục tiêu của khủng bố, bạo lực, cực đoan. Với phương châm chủ động phòng ngừa, không để xảy ra khủng bố, Việt Nam chú trọng và nâng cao năng lực phòng, chống khủng bố cho lực lượng chuyên trách; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự, kiểm soát biên giới, cửa khẩu nhằm phát hiện và ngăn chặn các đối tượng khủng bố, nghi khủng bố xâm nhập, ẩn náu và hoạt động thiết lập khủng bố; đồng thời đẩy mạnh quan hệ hợp tác chống khủng bố các nước”.

- Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 11 Nhóm 20 nước có nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) tổ chức ngày 04 và 05/9/2016 tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Với chủ đề “Hướng tới một nền kinh tế thế giới đổi mới, năng động, liên kết và tổng thể”, sau 2 ngày thảo luận, Hội nghị đã đạt được sự đồng thuận về nhiều vấn đề: Tăng cường điều phối chính sách, sáng tạo phương thức tăng trưởng mới; tìm kiếm cơ chế quản lý kinh tế tài chính toàn cầu hiệu quả hơn; thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư và thương mại toàn cầu,... ; nhất trí thúc đẩy xây dựng “Lộ trình sáng tạo tăng trưởng G20”; ban hành “Nguyên tắc chỉ đạo đầu tư toàn cầu G20” và “Chiến lược tăng trưởng thương mại toàn cầu G20”; đưa ra kế hoạch hành động nghị trình phát triển bền vững đến năm 2030 nhằm giải quyết căn bản vấn đề thiếu hụt động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Đáng chú ý là, tại Hội nghị này, Trung Quốc và Mỹ đã cùng nộp văn kiện phê chuẩn “Hiệp định Paris” về chống biến đổi khí hậu, tham gia kế hoạch cắt giảm lượng khí thải CO2 đến trước năm 2030. Hy vọng những đồng thuận mà G20 thông qua sẽ là chương trình hành động đối với kinh tế toàn cầu, dẫn dắt con đường tương lai của nền kinh tế thế giới.

3. MỘT SỐ KẾT QUẢ HỘI NGHỊ CẤP CAO ASEAN LẦN THỨ 28-29 VÀ 9 HỘI NGHỊ CẤP CAO LIÊN QUAN

Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 28-29 và 9 hội nghị Cấp cao liên quan (Hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia; Ấn Độ, Mỹ, Liên hợp quốc, Hội nghị cấp cao ASEAN+3 và Hội nghị cấp cao Đông Á lần thứ 4 (EAS)) tổ chức từ ngày 06 đến 08/9/2016 tại thủ đô Viêng Chăn (Lào).

Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 28-29 với chủ đề “Đưa tầm nhìn thành hiện thực vì một Cộng đồng ASEAN năng động”. Tại các phiên họp, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thảo luận về Kế hoạch tổng thể để triển khai thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 trên cả 3 trụ cột (chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội); thúc đẩy hợp tác với các đối tác bên ngoài ASEAN; về vấn đề biển Đông, tiếp tục bày tỏ quan ngại sâu sắc về các diễn biến gần đây trên Biển Đông, đồng thời ghi nhận quan ngại của một số lãnh đạo về việc tôn tạo, bồi đắp và sự gia tăng các hành động ở khu vực, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng; tái khẳng định việc cần tăng cường lòng tin, tiến hành kiềm chế và tránh các hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC…; ký Tuyên bố về một ASEAN, một ứng phó: ASEAN ứng phó với thảm họa như

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

52

là một thực thể trong và ngoài khu vực; tiến hành Lễ chuyển giao chức Chủ tịch ASEAN cho Phi-lip-pin trong năm 2017.

Hội nghị cấp cao ASEAN với các đối tác đều khẳng định coi trọng quan hệ với ASEAN, mong muốn tăng cường hợp tác thực chất và toàn diện với ASEAN thông qua nhiều chương trình, sáng kiến và biện pháp cụ thể. Đáng chú ý là, Hội nghị cấp cao ASEAN -Trung Quốc (lần thứ 19) đạt được nhận thức chung về Biển Đông và thông qua Tuyên bố chung, trong đó tái khẳng định tầm quan trọng của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố chung của các Ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc về thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC; thông qua Bộ quy tắc ứng xử nhanh, tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) và Tài liệu hướng dẫn vận hành đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo cao cấp của Bộ Ngoại giao các nước trong ASEAN và Trung Quốc về ứng phó với các sự cố khẩn cấp trên Biển Đông.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự hội nghị lần này. Đoàn Việt Nam đã tích cực tham gia xây dựng các văn kiện cho các hoạt động của ASEAN… đóng góp trách nhiệm chung vào thành công của các hội nghị. Tại tất cả 11 Hội nghị Cấp cao, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đều có phát biểu, chia sẻ các đánh giá và đề xuất các phương hướng và biện pháp thiết thực để làm sâu sắc hơn hợp tác ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác, cũng như quan điểm của Việt Nam về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Liên quan đến vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ Việt Nam chia sẻ lo ngại sâu sắc của khu vực và quốc tế về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông, nhấn mạnh Việt Nam ủng hộ những nỗ lực thúc đẩy tình hình ở Biển Đông chuyển biến theo hướng có lợi cho hòa bình, hợp tác và phát triển, đề nghị mong các đối tác tiếp tục đóng góp tích cực cho việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, thúc đẩy các bên tự kiềm chế, không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý.

D-VĂN BẢN MỚINghị định số 119/2016/NĐ-CP ngày 23/8/2016 của Chính phủ về một số chính sách

quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu. Nghị định gồm 14 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 10/10/2016. Một số nội dung chủ yếu của Nghị định:

- Đối tượng áp dụng: Cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng ven biển ở Việt Nam.

- Chính sách đầu tư của nhà nước trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ven biển:(1) Ngân sách các địa phương bảo đảm kinh phí cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng

ven biển theo kế hoạch, dự toán được duyệt và quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, gồm: a) Thống kê rừng, kiểm kê rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; b) Tổ chức giao,

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

53

cho thuê rừng ven biển; c) Hoạt động của bộ máy Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ven biển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định; d) Tuyên truyền, giáo dục; khuyến lâm; nâng cao năng lực, nhận thức về vai trò, chức năng của rừng ven biển trong ứng phó với biến đổi khí hậu; đ) Nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng ven biển; e) Đầu tư, hỗ trợ kinh phí ngoài mức hỗ trợ và đầu tư từ ngân sách trung ương nêu tại khoản 2, khoản 3 Điều này theo điều kiện thực tế của địa phương.

(2) Ngân sách trung ương bảo đảm kinh phí sự nghiệp kinh tế cho khoán bảo vệ rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên rừng ven biển: a) Mức kinh phí hỗ trợ khoán bảo vệ rừng ven biển tối đa bằng 1,5 lần so với mức bình quân khoán bảo vệ rừng phòng hộ theo quy định hiện hành; b) Mức kinh phí khoanh nuôi tái sinh tự nhiên 4 triệu đồng/hécta trong thời gian 5 năm (bình quân 800.000 đồng/hécta/năm); c) Kinh phí lập hồ sơ khoán bảo vệ rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên 50.000 đồng/hécta, chỉ thực hiện năm đầu tiên đối với diện tích mới khoán.

(3) Ngân sách trung ương đầu tư phát triển rừng ven biển theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, gồm: a) Điều tra, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ven biển; b) Trồng rừng mới, cải tạo rừng ven biển chất lượng kém không có khả năng phục hồi theo định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế, dự toán được duyệt với thời gian trồng và chăm sóc 5 năm; c) Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung theo định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế, dự toán được duyệt đối với rừng phòng hộ và rừng đặc dụng ven biển là rừng tự nhiên chất lượng kém, chưa đủ tiêu chí thành rừng; d) Xây dựng công trình chống sạt lở, gây bồi, tạo bãi để khôi phục, phát triển rừng ven biển trong các dự án lâm sinh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; đ) Xây dựng các công trình, mua sắm trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng ven biển; e) Công tác quản lý, kiểm tra, nghiệm thu các dự án bảo vệ và phát triển rừng ven biển.

(4) Việc lập, thẩm định, trình phê duyệt các dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng ven biển nêu tại khoản 2, khoản 3 Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư công.

TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO TỔNG HỢP. (Theo nguồn: Tài liệu Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn; báo cáo Sở Kế hoạch và

Đầu tư thành phố).

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

54

Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg

ngày 18 tháng 04 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng và Nghị định 99/2005/NĐ-CP ngày 28 tháng 07 năm 2005 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân trên địa bàn thành phố.

Trong thời gian qua, thành phố Cần Thơ tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng có trọng tâm, trọng điểm. Một số công trình giao thông quan trọng được ưu tiên đầu tư, nâng cấp và hoàn thành đưa vào sử dụng; nhiều khu đô thị, tái định cư mới được đầu tư xây dựng, cùng với việc cải tạo nâng cấp, chỉnh trang, tạo cảnh quan, trật tự đô thị theo hướng văn minh, hiện đại; đặc biệt, một số công trình lớn được đầu tư xây dựng, tạo điểm nhấn cho thành phố phát triển, góp phần nâng chất các tiêu chí của đô thị loại I trực thuộc Trung ương. Hoạt động du lịch gắn với các sự kiện, lễ hội văn hóa - thể thao cấp vùng, quốc gia và quốc tế được tổ chức ngày càng chuyên

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN THANH TRA NHÂN DÂN VÀ BAN GIÁM SÁT ĐẦU TƯ CỦA CỘNG ĐỒNG,

GÓP PHẦN THÚC ĐẨY THÀNH PHỐ CẦN THƠ PHÁT TRIỂN

nghiệp, quy mô hơn, tạo ấn tượng tốt đẹp đối với du khách, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của thành phố.

Toàn thành phố Cần Thơ có 85 Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở các xã, phường, thị trấn, với 727 thành viên; các thành viên được tập huấn nghiệp vụ và có quy chế làm việc. Trong hoạt động, Ban Thanh tra nhân dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát của mình và tập trung ở các lĩnh vực chủ yếu là: Giám sát thực hiện chính sách pháp luật, nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND), quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân (UBND), hoạt động của HĐND, UBND, phẩm chất, đạo đức của Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND và các Ủy viên UBND, cán bộ, công chức làm việc tại xã, phường, thị trấn và Trưởng ấp và những người đảm nhận nhiệm vụ tương đương. Giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư, công trình do nhân dân đóng góp xây dựng, do Nhà nước, các tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho xã, phường, thị trấn; giám sát việc quản lý và sử dụng đất đai; thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của nhà nước, các khoản đóng góp

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

55

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

của nhân dân tại xã, phường, thị trấn. Ban Thanh tra nhân dân xã đã làm nòng cốt giúp UBMTTQ thực hiện chức năng giám sát, trong đó tập trung giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân như xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước; giám sát việc thu chi ngân sách, công khai tài chính tại xã, phường, thị trấn. Giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn: Ngoài việc nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thì việc phát huy vai trò giám sát của Ban Thanh tra nhân dân xã là rất cần thiết, góp phần tích cực vào việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ngay từ cơ sở, hạn chế tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo kéo dài, đông người, vượt cấp. Theo báo cáo của các quận, huyện thì trong hơn 10 năm qua Ban Thanh tra nhân dân xã đã nhận được 26.042 đơn thư các loại, đã xử lý chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 22.496 đơn, được các cơ quan giải quyết trả lời 22.471, chiếm 99,98%.

Thực hiện Nghị định 79/CP của Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nay được thay thế bằng Pháp lệnh số 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tập trung giám sát hoạt động của HĐND và UBND; thực hiện nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND, hoạt động của đại biểu HĐND và cán bộ xã, phường, thị trấn; việc nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp; thu chi các loại quỹ, các khoản đóng góp của nhân dân; giám sát việc bầu

Trưởng ấp, khu vực. Qua khảo sát và tổng hợp báo cáo của 9 quận, huyện hơn 10 năm (2006-2015) Ban Thanh tra nhân dân trên địa bàn thành phố đã thực hiện 15.410 cuộc giám sát, đã kiến nghị xử lý 1.114 việc, được các cơ quan có thẩm quyền xử lý giải quyết 1.060 việc, đạt tỷ lệ 95,15%. Thu hồi cho Nhà nước cho Nhân dân trên 7,6 tỷ đồng, 54,570 m2 đất các loại. Từ những kết quả trên, các Ban Thanh tra nhân dân đã phát huy tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.

Bên cạnh đó, 85 Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (BGSĐTCCĐ) đã được thành lập với 716 thành viên là những người có năng lực, nhiệt tình, trách nhiệm, uy tín và có hiểu biết về chính sách pháp luật, các ban thường xuyên được củng cố, kiện toàn về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động. Trong 10 năm qua, các Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng đã tổ chức giám sát được 22.293 công trình về xây dựng trụ sở UBND, đường giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa, nhà đại đoàn kết… với nguồn vốn hỗ trợ chủ yếu của nhà nước, của cộng đồng. Qua đó, kiến nghị 1.700 việc, được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết và trả lời 1.471 việc. Từ đó, các công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, về cơ bản đảm bảo chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

Thời gian qua Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố đã phối hợp chặt chẽ trong việc tập huấn nghiệp vụ cho Ban GSĐTCCĐ; các

56

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

dự án đầu tư trên địa bàn được công khai hóa thông tin; thành viên Ban GSĐTCCĐ được mời tham dự kỳ họp của UBND xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắm bắt thông tin, cũng như phản ánh những đề xuất, kiến nghị; đặc biệt Ủy ban MTTQ thành phố có văn bản hướng dẫn MTTQ các xã, phường, thị trấn tăng cường thực hiện công tác GSĐTCCĐ trên địa bàn, góp phần thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

Tuy nhiên, hoạt động của Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ cũng gặp những khó khăn, hạn chế như: Trình độ chuyên môn của Ban TTND ở một số nơi còn thụ động trong giám sát, phát hiện các vấn đề tiêu cực để phản ánh, đề xuất; một vài địa phương chưa tạo điều kiện thuận lợi trong việc hướng dẫn cấp và quyết toán kinh phí hoạt động của Ban TTND; vẫn còn một số Ban GSĐTCCĐ chưa xây dựng kế hoạch thực hiện, chưa tiếp cận được các công trình do quận, huyện, thành phố đầu tư và các công trình bằng nguồn vốn khác…

Phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, trong thời gian tới Ban Thường trực Ủy ban MTTQ các cấp xác định một số nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện đối với Ban Thanh tra Nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, như sau:

Một là, Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung, mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác TTND và GSĐTCCĐ nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên công chức và nhân dân.

Hai là, tiếp tục tổ chức quán triệt sâu rộng các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tăng cường vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; hướng dẫn các Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ thực hiện tốt các qui định của nhà nước.

Ba là, Phối hợp với các ngành chức năng mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho các thành viên Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; thường xuyên củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay; thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo, công tác thi đua khen thưởng để kịp thời động viên những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác TTND và GSĐTCCĐ.

Nguyễn Văn Mun

57

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

Trong những năm qua, được sự quan

tâm chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố, sự phối hợp của các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện, chính sách bảo hiểm y tế nói chung, bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên nói riêng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Theo báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm y tế (BHYT) học sinh, sinh viên (HSSV) năm học 2015-2016 toàn thành phố có 316 trường học, trong đó có 15 trường đại học và cao đẳng, 11 trường trung cấp, 9 trung tâm

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ

TRONG HỌC SINH, SINH VIÊN

giáo dục thường xuyên, 33 trường trung học phổ thông, 248 trường THCS và tiểu học với tổng số HSSV là 273.616 em. Trong năm học 2015-2016 có 270.739 HSSV tham gia BHYT, đạt tỷ lệ 98,95% (số HSSV tham gia mới là 248.638 em và số HSSV có thẻ thuộc đối tượng khác là 22.101 em), trong đó

Đ/c Nguyễn Thị Mỹ Phương, Phó Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Thành phố tặng cờ lưu niệm cho các đơn vị tham gia hội thi

Ảnh: Kim Nhiên

58

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

có 09 quận, huyện đạt tỷ lệ 100% học sinh tham gia là: Ninh Kiều, Ô Môn, Bình Thủy, Cái Răng, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai. Tuy nhiên công tác thu tại văn phòng các trường chỉ đạt tỷ lệ (96,53%) do một số trường đại học, trung học chuyên nghiệp ngoài công lập tham gia BHYT còn thấp như Trường Đại học Nam Cần Thơ (đạt 82,30%), Trung tâm liên kết đào tạo của Trường Đại học Cần Thơ (đạt 62,75%), Trường Trung cấp Phạm Ngọc Thạch (đạt 81,55%), Trường Trung cấp Văn hóa nghệ thuật Cần Thơ (đạt 66,67%), Trường Trung cấp Miền Tây (85,96%), Trường Trung cấp Y dược Mekong (đạt 69,97%), Trường Trung cấp Giao thông vận tải Miền Nam (đạt 28,98%). Nguyên nhân chủ yếu là do HSSV là đối tượng vừa học, vừa làm nên vận động tham gia BHYT gặp khó khăn.

Đạt kết quả cao trong tổ chức thực hiện công tác BHYT HSSV, thời gian qua nhờ sự phối hợp thống nhất của Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài chính, Sở Y tế, Bảo hiểm xã hội TP. Cần Thơ trong chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT HSSV. Qua đó, các trường đã thực hiện đồng bộ đạt kết quả tốt, các cơ sở khám chữa bệnh BHYT từng bước được đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và đội ngũ cán bộ y tế phục vụ bệnh nhân nói chung và bệnh nhân có thẻ BHYT nói riêng ngày càng tốt hơn.

Một trong những ưu điểm nổi bật của BHYT HSSV là dành một phần kinh phí để chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV ngay tại trường học. Quỹ BHYT học sinh đã huy động được nguồn tài chính đáng kể giúp các nhà trường khôi phục, xây dựng và phát triển mạng lưới y tế trường học. Trong năm học

qua Bảo hiểm xã hội thành phố Cần Thơ đã trích 7% nguồn kinh phí để chăm sóc sức khỏe ban đầu với số tiền: là 13.624 triệu đồng.

Nhờ nguồn kinh phí này một số trường đã tổ chức lại hệ thống y tế trường học, phục vụ mục tiêu giáo dục toàn diện cho HSSV, trong đó có giáo dục thể chất, trang bị tủ thuốc thông thường, túi thuốc cấp cứu, kết hợp thực hiện chương trình nha học đường, mắt học đường, khám và lập sổ theo dõi sức khỏe cho học sinh. Điều này khẳng định tính hơn hẳn của loại hình BHYT HSSV, y tế trường học, mà các loại hình bảo hiểm thương mại khác không thể thực hiện được.

Về công tác khám chữa bệnh BHYT HSSV năm học 2015-2016, có 289.709 lượt HSSV KCB nội trú, ngoại trú, tổng kinh phí điều trị là: 49.815 triệu đồng, trong đó, điều trị ngoại trú: 273.180 lượt với số tiền là: 21.766 triệu đồng; Điều trị nội trú: 16.529 lượt với số tiền là: 28.049 triệu đồng. Ngoài ra còn có nhiều trường hợp được sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn như trường hợp của em Trần Huỳnh Quốc Khánh - Học sinh Trường THPT chuyên Lý Tự Trọng bị bệnh bạch cầu, tổng chi phí điều trị bệnh trên 417 triệu đồng, được thanh toán tiền khám chữa bệnh BHYT trong năm 2015 trên 334 triệu đồng; hoặc em Nguyễn Văn Tiến - Học sinh Trường TH Lê Bình 2, bị bệnh tim, tổng chi phí điều trị bệnh trên 280 triệu đồng, được thanh toán tiền khám chữa bệnh BHYT trong năm 2015 trên 179 triệu đồng; hay như em Nguyễn Thanh Vân - Học sinh Trường THCS Định Môn, bị bệnh Luput ban đỏ, tổng chi phí điều trị bệnh trên 155

59

triệu đồng, được thanh toán tiền khám chữa bệnh BHYT trong năm 2015 trên 124 triệu đồng.

Tại hội nghị tổng kết công tác BHYT HSSV năm học 2015-2016, được tổ chức vừa qua, đồng chí Lê Văn Tâm, Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố biểu dương những trường đạt tỷ lệ 100% HSSV tham gia, đồng thời phê bình những đơn vị có tỷ lệ HSSV đạt thấp. Đồng chí Lê Văn Tâm chỉ đạo:

Thứ nhất, trong năm học 2016-2017 ngành Giáo dục phải phối hợp với ngành Bảo hiểm xã hội nỗ lực tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện công tác BHYT cho học sinh, sinh viên, nhất là đối với phụ huynh, học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục bằng các hình thức phù hợp, hiệu quả, từ đó, góp phần nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên và phụ huynh về tính ưu việt, tính chia sẻ cộng đồng cũng như quyền lợi của chính sách BHYT để tự

giác tích cực tham gia tiến tới lộ trình thực hiện BHYT toàn dân.

Thứ hai, các cơ sở giáo dục phải đạt chỉ tiêu 100% HSSV tham gia BHYT, gắn trách nhiệm với người đứng đầu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm trong tổ chức thực hiện Luật BHYT cho học sinh, sinh viên và coi đây là một trong những chỉ tiêu thi đua hàng năm của trường. Đồng chí cũng kêu gọi cán bộ, giáo viên của các trường học vận động người thân tham gia BHYT góp phần đạt tỷ lệ độ bao phủ năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ giao.

Thứ ba, ngành Bảo hiểm xã hội thành phố phối hợp với Sở Giáo dục Đào tạo phát động đợt thi đua đối với công tác BHYT HSSV năm học 2016-2017, đồng thời chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tiến hành kiểm tra các trường đạt tỷ lệ thấp, kịp thời khen thưởng đột xuất những đơn vị đạt xuất sắc.

Ngọc Uyên

THỜI SỰ - SỰ KIỆN

60

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

Văn học - nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và

hoàn thiện nhân cách con người, thể hiện khát vọng “chân - thiện - mỹ” của con người, là động lực to lớn và trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển con người.

TRONG VIỆC XÂY DỰNG NGƯỜI CẦN THƠ

Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 6/6/2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” đã đề ra mục tiêu: “Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về

Văn học, nghệ thuật PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA

Chương trình văn nghệ tại lễ kỷ niệm. Ảnh: TT

61

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” (ngày 04/10/2015 tại TP.Hồ Chí Minh), đồng chí Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã khẳng định: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”. Đồng chí Hồng Vinh cho rằng, các văn nghệ sĩ - chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng cần phải dấn thân và tác phẩm phải “Văn dĩ tải đạo” chứ không nhợt nhạt, mang tính thị hiếu rẻ tiền.

Tại Hội thảo này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng nhắc nhở: “Văn học, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối sống tốt đẹp. Chúng ta cần phát huy ưu thế đặc thù của văn học nghệ thuật trong nhiệm vụ cao cả là xây dựng nền tảng tinh thần xã hội. Văn nghệ sĩ không chỉ chuyên chở “đạo làm người” trong tác phẩm của mình mà phải sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức cảm hóa, thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối sống tốt đẹp theo quy luật của tình cảm, của cái đẹp, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật cao, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tinh thần ngày càng tăng lên của nhân dân…. Đội ngũ các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ có sứ mệnh cao quý là chiến sĩ xung kích trong sự

nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”…

Theo tác giả Đào Duy Quát (2015): “Mối quan hệ giữa văn học, nghệ thuật với nhân cách đạo đức của con người là mối liên hệ bản chất, biện chứng. Mối liên hệ giữa hai lĩnh vực của ý thức xã hội, của hai thành tố rất quan trọng của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt nhạy cảm và tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người, có tác dụng đặc biệt trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách đạo đức cho các thế hệ công dân”.

Tác giả Đào Duy Quát cho rằng, văn học, nghệ thuật có ưu thế đặc thù, ưu thế đặc biệt trong quá trình giáo dục hình thành và hoàn thiện nhân cách, đạo đức của con người: “Những ưu thế đặc thù này do chính đặc trưng: “Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ minh đạo” của văn học, nghệ thuật. Đặc trưng này vừa là nhiệm vụ tự thân, là sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật, đòi hỏi văn nghệ sĩ không chỉ chuyên chở trong tác phẩm của mình những chuẩn mực đạo đức nhân cách của đạo làm người mà phải sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức rung động, cảm hóa mạnh mẽ, cổ vũ con người vươn tới sự hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối sống theo quy luật của tình cảm, của cái đẹp. Ưu thế đặc thù của văn học, nghệ thuật đối với quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách, đạo đức con người đó là, con người rung động, thẩm thấu các giá trị đạo đức, nhân cách thông qua thưởng thức các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu thiết yếu, khát vọng chân, thiện, mỹ của chính mỗi con người”.

62

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

Tác phẩm văn học nghệ thuật có tác động trực tiếp vào tâm tư tình cảm của con người, tạo ra sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn. Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt đã đi vào lòng người để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đánh bại giặc ngoại xâm. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã trở thành vũ khí tinh thần sắc bén, góp phần chiến thắng giặc Nguyên Mông. Tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky đã từng lay động tâm hồn bao bạn đọc trẻ và đã trở thành phương châm sống của nhiều thế hệ thanh niên.

Tuy nhiên, nếu như các tác phẩm văn học nghệ thuật có tư tưởng xấu, thấp kém, rẻ tiền thì nó cũng sẽ tác động ngược theo hướng tiêu cực. Sự tác động này cũng có thể có sức tàn phá ghê gớm nếu như công chúng không có được sức đề kháng mạnh mẽ, đặc biệt là giới trẻ.

Do nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của văn học, nghệ thuật, Nghị quyết 05-NQ/TW tháng 11/1987 của Bộ Chính trị (Khóa VI) đã khẳng định: “Văn hóa và văn học, nghệ thuật giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người”. Đến năm 1998, trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật: “Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người”. Năm 2008, trong Nghị quyết chuyên đề: Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị khóa X đã xác định mục tiêu: “Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân

cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân”.

Cần Thơ là thành phố đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đóng vai trò là trung tâm động lực cho sự phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển, Cần Thơ luôn gắn bó với sự phát triển chung của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp của người Cần Thơ cũng mang những nét đặc trưng của cả vùng.

Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 17/02/2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng con người Cần Thơ trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”. Có thể nói rằng, Nghị quyết đã nêu ra 5 tiêu chí cơ bản của người Cần Thơ mà chúng ta cần tập trung xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển văn hóa, con người của thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Để xây dựng người Cần Thơ theo 5 tiêu chí được nêu trong Nghị quyết 45-NQ/TW, rất cần phát huy vai trò của văn học nghệ thuật và sự đóng góp tích cực của đội ngũ văn nghệ sĩ. Làm sao để Cần Thơ chúng ta có những tác phẩm văn học, nghệ thuật đi vào lòng người và có sức lan tỏa, góp phần định hướng công chúng giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống đã hình thành từ bao đời nay của người Cần Thơ. Đồng thời tạo động lực cho người Cần Thơ vươn lên, tiếp thu và phát triển những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại.

Với những suy nghĩ như vậy, xin đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong việc xây dựng

63

người Cần Thơ “trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch” như sau:

- Cần chú trọng xây dựng những tác phẩm văn học nghệ thuật về các danh nhân đất Cần Thơ như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Châu Văn Liêm, Lưu Hữu Phước, v.v... Đây là những tấm gương rất tiêu biểu cho các phẩm chất tốt đẹp của người Cần Thơ mà chúng ta cần xây dựng.

- Giới thiệu những người tốt việc tốt của người Cần Thơ trong thực tiễn cuộc sống hiện nay; nhất là những hành động, việc làm tốt đẹp của người lao động bình thường. Từ đó tạo thành chất liệu để các văn nghệ sĩ có thể xây dựng thành tác phẩm có giá trị.

- Tổ chức những chương trình truyền hình trên Đài Truyền hình TP. Cần Thơ về chủ đề “Xây dựng người Cần Thơ” để tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về việc xây dựng người Cần Thơ theo 5 tiêu chí đã nêu trong Nghị quyết 45-NQ/TW.

- Tổ chức trại sáng tác, giải thưởng văn học nghệ thuật về chủ đề “Xây dựng người Cần Thơ” để tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ hướng đến chủ đề và có những tác phẩm tốt, góp phần xây dựng người Cần Thơ “trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”.

Tóm lại, văn học, nghệ thuật đã có những đóng góp lớn trong suốt quá trình

dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; đặc biệt trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập và trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế với hàng loạt tác phẩm có giá trị thức tỉnh, bồi đắp tâm hồn, trí tuệ, lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, hướng tới những phẩm chất đạo đức mới, bồi đắp lẽ sống và lý tưởng, nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam.

Đối với Cần Thơ, trong lịch sử phát triển cũng đã xuất hiện nhiều văn nghệ sĩ có tài năng và nhân cách, không những đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị mà còn là những tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức như: Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Lưu Hữu Phước, v.v...

Hy vọng và tin tưởng rằng những văn nghệ sĩ của Cần Thơ hôm nay sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ văn nghệ sĩ tiền bối để sáng tạo những tác phẩm có giá trị, góp phần xây dựng người Cần Thơ “trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch” như các tiêu chí mà Nghị quyết 45-NQ/TW đã đề ra.

TS. Đào Ngọc Cảnh

Khoa KHXH&NV, Trường Đại học Cần Thơ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Quát (2015), Phát triển văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn học nghệ thuật, Báo điện tử Đảng CSVN ngày 20/10/2015.

2. Thân Thị Thư (2014), Phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong xây

dựng đạo đức con người Việt Nam - www.tuyengiao.vn/ 27/11/ 2014

3. Hồng Vinh (2015), Tổng kết hội thảo “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, ngày 04/10/2015 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

(Trích bài tham luận hội thảo)

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

64

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

Theo số liệu thống kê của Trung tâm Y tế dự

phòng TP. Cần Thơ, tính từ đầu năm đến đầu tháng 9 năm 2016, TP Cần Thơ ghi nhận có trên 410 ca mắc bệnh tay chân miệng (TCM), giảm 49 ca so với cùng kỳ năm 2015, không có ca tử vong. Tuy nhiên theo đánh giá của ngành Y tế thành phố những tháng cuối năm bệnh TCM sẽ có những diễn biến phức tạp, cộng thêm đang là cao điểm bùng phát dịch nên công tác phòng chống bệnh đang được ngành Y tế đặc biệt chú trọng.

Nỗi lo đầu năm học mới

Tại khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ, anh Đỗ Ngọc Thế (36 tuổi, ngụ tại phường An Khánh, quận Ninh Kiều) cha của bé Đỗ Ngọc Hoàng Khôi, 13 tháng tuổi đang được điều trị ở đây, cho biết: “Ban đầu cháu khó chịu, quấy khóc và nóng sốt nhẹ, nổi vài mụn nước. Tôi tưởng cháu chỉ bị cảm sốt nên đưa khám ở phòng

Chủ động phòng, chống bệnh tay chân miệng cho trẻ em trong những tháng cuối năm 2016

khám tư. Ngày hôm sau, cháu sốt cao hơn, bóng nước lan ra toàn thân, ói nhiều, bứt rứt không ngủ được, gia đình đưa cháu đến Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ khám rồi nhập viện luôn”.

Nằm cùng phòng với Khôi là bé Lâm Hoàng Khanh, 17 tháng tuổi, ở phường An Hòa, quận Ninh Kiều cũng có dấu hiệu bệnh tương tự. Mẹ Hoàng Khanh kể: “Ban đầu bé bị sốt, không chịu ăn, nổi mụn ở lưỡi, uống sữa là ói. Tôi nghi ngờ bé bị TCM vì hai,

Thành phố Cần Thơ:

Bác sĩ khoa Truyền nhiễm - Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ đang khám cho trẻ bị bệnh tay chân miệng.

65

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

ba ngày trước có một bé học cùng lớp con tôi cũng bị TCM và đã nhập viện. Thấy bé có dấu hiệu bệnh nên tôi quyết định đưa bé đến Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ rồi được bác sĩ chẩn đoán là TCM”.

Đó chỉ là 2 trong số nhiều em bị TCM trong thời gian qua. Có những trường hợp, cha mẹ bận bịu việc làm nên gởi con cho người quen cũng có con nhỏ giữ giúp, kết quả là cả hai đứa trẻ đều bị bệnh TCM và cùng nhập viện một lượt.

Theo số liệu báo cáo của Phòng Kế hoạch - Tổng hợp Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ, trong 9 tháng đầu năm 2016, số ca mắc bệnh TCM ở TP. Cần Thơ đã giảm 12,2% so với cùng kỳ năm 2015. Số ca độ nặng (từ độ 2b trở lên) cũng giảm 14 ca so với cùng kỳ. ThS.BS Thái Thanh Lâm, Trưởng Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ cho biết: “Năm nay, bệnh TCM có giảm hơn so với cùng kỳ năm 2015. Thông thường, bệnh nhân bị bệnh TCM nhập viện điều trị quanh năm nhưng cao điểm thường rơi vào những tháng cuối năm như từ tháng 9 đến tháng 12. Bệnh TCM lây lan chủ yếu theo đường tiêu hóa. Nguồn lây chính từ nước bọt do ăn chung, uống chung với trẻ nhiễm bệnh. Trong thời gian ủ bệnh, chưa nổi bóng nước, trẻ mang mầm bệnh đã có thể lây cho trẻ khác. Vì thế, bệnh rất dễ lây lan, đặc biệt ở các trường mầm non, mẫu giáo do trẻ sinh hoạt chung, chưa biết tự giữ gìn vệ sinh. Gia đình tránh cho trẻ đến nơi tập trung đông trẻ, điều kiện vệ sinh không tốt để chơi vì rất dễ lây bệnh”.

Thực hiện tốt vệ sinh cá nhân và vệ sinh trường lớp

Nhằm chủ động trong công tác phòng, chống bệnh TCM cho trẻ em trong thời gian tới, BS.CKI Trần Văn Tuấn, Trưởng Khoa Kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm và vắc xin - sinh phẩm, Trung tâm Y tế dự phòng TP. Cần Thơ, cho biết: “Cho đến nay, chưa có vắc xin phòng bệnh TCM. Tuy nhiên, có thể giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm bệnh bằng việc thực hiện tốt vệ sinh cá nhân và chăm sóc y tế kịp thời cho những trẻ em bị bệnh, như: thực hiện vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt); đảm bảo sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày; rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà (lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn sau đó khử trùng bằng các chất tẩy rửa thông thường hoặc bằng dung dịch Cloramin B 0.5%); tránh tiếp xúc gần (ôm, hôn, dùng chung đồ dùng...) với trẻ em bị bệnh TCM”.

Song song đó không nên cho trẻ sơ sinh và trẻ em bị bệnh đi mẫu giáo, nhà trẻ, trường học hoặc nơi đông người cho tới khi khỏe hẳn; theo dõi chặt chẽ tình trạng bệnh và chăm sóc y tế kịp thời nếu trẻ sốt cao, li bì, mất tỉnh táo; che miệng và mũi khi hắt hơi và ho; xử lý khăn giấy và tã lót đã dùng bằng cách bỏ vào thùng rác và thải bỏ rác đúng cách; luôn lau dọn nhà cửa, nhà trẻ, trường học sạch sẽ. Riêng tại nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường học, cô nuôi dạy trẻ/thầy cô giáo cần theo dõi tình trạng sức khỏe cho trẻ hàng ngày và đảm bảo có đủ xà phòng rửa tay tại từng lớp học. Khi phát hiện trong lớp, trong trường có trẻ nghi ngờ mắc bệnh phải thông báo cho gia đình và cán bộ y tế để xử lý kịp thời. Phải nhắc nhở cha mẹ cho trẻ mắc bệnh TCM không đến

66

TRAO ĐỔI - KINH NGHIỆM

lớp ít nhất là 10 ngày kể từ khi khởi bệnh và chỉ đến lớp khi hết loét miệng và các mụn nước.

Chủ động phòng ngừa bệnh ngay từ đầu năm học mới

Bệnh TCM có biểu hiện: sốt, tổn thương niêm mạc miệng, nổi bóng nước ở lòng bàn tay, bàn chân, mông, gối… Đa số các trường hợp mắc TCM là độ nhẹ, có thể điều trị tại nhà theo hướng dẫn của bác sĩ. Tuy nhiên, đôi khi bệnh không có biểu hiện triệu chứng điển hình mà chỉ sốt nhẹ, mệt mỏi, biếng ăn hoặc xuất hiện vết loét nhỏ trong miệng. Bệnh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như: viêm màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp... Trường hợp trẻ có dấu hiệu bệnh trở nặng như: sốt cao liên tục hơn 2 ngày (trên 39 độ C), bứt rứt, quấy khóc nhiều, ngủ li bì, giật mình, hốt hoảng, vã mồ hôi, run giật tay chân, hôn mê, nôn ói nhiều... phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay. Trong trường học, hàng ngày, các cô giáo kiểm tra sức khỏe của trẻ trước khi vào lớp, nếu thấy dấu hiệu trên cần thông báo gia đình biết để sớm đưa trẻ đến cơ sở y tế, tránh lây lan bệnh trong lớp.

Mặc dù bệnh TCM giảm so với cùng kỳ nhưng trước những diễn biến phức tạp của bệnh, cộng thêm đang là cao điểm bùng phát dịch nên công tác phòng chống bệnh đang được ngành Y tế đặc biệt chú trọng. Trong những tháng cuối năm 2016, Ngành Y tế đang tăng cường các kênh truyền thông phòng chống dịch bệnh, tập trung vào tuyên truyền nguyên nhân, cách nhận biết bệnh, phương thức lây truyền và biện pháp phòng, chống dịch bệnh TCM. Bác sĩ Trần Văn Tuấn cũng cho biết thêm: “Để

có thể chủ động phòng chống bệnh TCM ngay từ đầu năm học, ngành Y tế phối hợp chặt chẽ với các Phòng Giáo dục - Đào tạo giám sát tình hình bệnh TCM tại các trường mầm non, mẫu giáo, nhà trẻ từ đó phát hiện sớm các ổ dịch và có biện pháp xử lý kịp thời; đồng thời, tiến hành giám sát số ca mắc bệnh TCM đến khám và điều trị tại các bệnh viện trên địa bàn thành phố như: Bệnh viện Nhi Đồng, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, Bệnh viện Đa khoa thành phố, Bệnh viện 121 và các bệnh viện tư nhân,... Trung tâm Y tế dự phòng thành phố cũng phối hợp với bệnh viện lấy mẫu các trường hợp bệnh TCM có biến chứng thần kinh (độ 2b trở lên) để giám sát sự lưu hành của type vi rút gây bệnh, bảo quản vận chuyển lên Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh xét nghiệm và phản hồi kết quả cho các đơn vị gởi mẫu.

Ngoài ra, Trung tâm Y tế dự phòng thành phố còn tổ chức Tháng cao điểm Truyền thông, vệ sinh môi trường phòng chống bệnh TCM, qua đó nhằm tăng cường phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng quận/huyện tiến hành điều tra sớm và xử lý triệt để ổ dịch. Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe trên các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông trực tiếp tại cộng đồng qua mạng lưới y tế cơ sở, cộng tác viên truyền thông để mọi người, đặc biệt là các đối tượng trực tiếp chăm sóc trẻ em dưới 5 tuổi tự giác thực hiện phòng bệnh cho bản thân gia đình và cộng đồng; tăng cường thông tin truyền thông giáo dục cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

Bài, ảnh: Kim Nhiên