Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã...

181
74 Chđề: Ba lô mang thêm hthơ văn Đinh Cường KHI VLI THDU MT Tôi ra trường BBinh ThĐức khóa 5-68 được kêu trong danh sách đi hc trường Công Binh - Bình Dương tht ltôi li trvnơi tui nhtôi, tôi nhngày xưa tQung Li, Hn Qun ra đó như tquê ra tnh, mà ra tnh tht khi vào hc tiu hc trường Nam - ThDu Mt, để ri sau đó thi đậu vào Trung Hc Petrus Ký – Sàigòn, được coi như là may mn hiếm có. Sau này ThDu Mt có trường trung hc Trnh Hoài

Transcript of Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã...

Page 1: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

74 74

Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn

Đinh Cường KHI VỀ LẠI THỦ DẦU MỘT Tôi ra trường Bộ Binh Thủ Đức khóa 5-68 được kêu trong danh sách đi học trường Công Binh - Bình Dương thật lạ tôi lại trở về nơi tuổi nhỏ tôi, tôi nhớ ngày xưa từ Quảng Lợi, Hớn Quản ra đó như từ quê ra tỉnh, mà ra tỉnh thật khi vào học tiểu học ở trường Nam - Thủ Dầu Một, để rồi sau đó thi đậu vào Trung Học Petrus Ký – Sàigòn, được coi như là may mắn hiếm có. Sau này Thủ Dầu Một có trường trung học Trịnh Hoài

Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn

Đinh Cường KHI VỀ LẠI THỦ DẦU MỘT Tôi ra trường Bộ Binh Thủ Đức khóa 5-68 được kêu trong danh sách đi học trường Công Binh - Bình Dương thật lạ tôi lại trở về nơi tuổi nhỏ tôi, tôi nhớ ngày xưa từ Quảng Lợi, Hớn Quản ra đó như từ quê ra tỉnh, mà ra tỉnh thật khi vào học tiểu học ở trường Nam - Thủ Dầu Một, để rồi sau đó thi đậu vào Trung Học Petrus Ký – Sàigòn, được coi như là may mắn hiếm có. Sau này Thủ Dầu Một có trường trung học Trịnh Hoài

Page 2: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

75 75

Đức, Thanh Tâm Tuyền về dạy. Có chùa Tây Tạng ghi bao kỷ niệm của chúng tôi với Thầy Tịch Chiếu trụ trì lâu năm. Đám cưới Nguyễn Đức Sơn và Phượng ở đó. Nguyên Giác Phan Tấn Hải xem Thầy Tịch Chiếu như bổn sư của mình. Nay Thầy đã già lắm, và tôi nhớ Phùng Ngộ, một vị sư trẻ hay ra đón tôi cuối tuần ở trường Công Binh cùng đi bộ về chùa, nay Thầy ở đâu… Trong ba-lô tôi luôn có một, hai cuốn sách ruột, loại livre de poche, tôi còn nhớ như Le repos du guerrier của Germaine Beaumont, Paroles của Jacques Prévert… tôi ghi chằng chịt trên những khoảng trống của trang sách những ý nghĩ của mình. Trưa nằm trên nền xi-măng mát lạnh bên cạnh chiếc đại hồng chung ở chùa đọc vài trang sách, viết vài trang thư gởi về Huế nhớ vợ nhớ con vô cùng. Nhớ Cao Đông Khánh, nhà thơ miền Nam, thơ anh làm ra và chính giọng đọc của anh mới nói lên được hết cái ngang tàng. Nay anh đã mất. Khi biết tôi sinh ở Thủ Dầu Một, quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ trái, đi về Bình Phước, Lái Thiêu, Bún… dựa theo bờ sông Cái Bè, có những lớp vườn trái cây, sầm uất, mướt màu, che bóng mát u tịch… Cái màu vàng, đỏ của trái cây chín tới, như tự nó phát quang. Trái cây đó, màu sắc đó, hương thơm đó, vị ngọt đó là tinh túy được kết hợp bởi đất đai khí hậu ngàn năm ở đó. Và từ đó mà đi, nhà thơ Bùi Giáng “vào đất rộng, kính chào Bình Dương” tức là vào sâu đến quận Phú Cường tỉnh Thủ Dầu Một ngày xưa, tức là vào đến vùng đất sét, vào đến vùng nước suối, nước mội, vào đến vùng canh chua lá giang, vào đến vùng tiểu công nghệ, lò chén, lò gốm, vào đến vùng tranh sơn mài… Đến Thủ Dầu Một còn là, đến nơi chôn nhau cắt rốn của họa sĩ Đinh Cường. Với tranh của Cường, vật chất, như tự nó, tự phát quang (Cao Đông Khánh - Ánh sáng tự phát của Đinh Cường tỉnh Thủ Dầu Một - Brochure Triển

Đức, Thanh Tâm Tuyền về dạy. Có chùa Tây Tạng ghi bao kỷ niệm của chúng tôi với Thầy Tịch Chiếu trụ trì lâu năm. Đám cưới Nguyễn Đức Sơn và Phượng ở đó. Nguyên Giác Phan Tấn Hải xem Thầy Tịch Chiếu như bổn sư của mình. Nay Thầy đã già lắm, và tôi nhớ Phùng Ngộ, một vị sư trẻ hay ra đón tôi cuối tuần ở trường Công Binh cùng đi bộ về chùa, nay Thầy ở đâu… Trong ba-lô tôi luôn có một, hai cuốn sách ruột, loại livre de poche, tôi còn nhớ như Le repos du guerrier của Germaine Beaumont, Paroles của Jacques Prévert… tôi ghi chằng chịt trên những khoảng trống của trang sách những ý nghĩ của mình. Trưa nằm trên nền xi-măng mát lạnh bên cạnh chiếc đại hồng chung ở chùa đọc vài trang sách, viết vài trang thư gởi về Huế nhớ vợ nhớ con vô cùng. Nhớ Cao Đông Khánh, nhà thơ miền Nam, thơ anh làm ra và chính giọng đọc của anh mới nói lên được hết cái ngang tàng. Nay anh đã mất. Khi biết tôi sinh ở Thủ Dầu Một, quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ trái, đi về Bình Phước, Lái Thiêu, Bún… dựa theo bờ sông Cái Bè, có những lớp vườn trái cây, sầm uất, mướt màu, che bóng mát u tịch… Cái màu vàng, đỏ của trái cây chín tới, như tự nó phát quang. Trái cây đó, màu sắc đó, hương thơm đó, vị ngọt đó là tinh túy được kết hợp bởi đất đai khí hậu ngàn năm ở đó. Và từ đó mà đi, nhà thơ Bùi Giáng “vào đất rộng, kính chào Bình Dương” tức là vào sâu đến quận Phú Cường tỉnh Thủ Dầu Một ngày xưa, tức là vào đến vùng đất sét, vào đến vùng nước suối, nước mội, vào đến vùng canh chua lá giang, vào đến vùng tiểu công nghệ, lò chén, lò gốm, vào đến vùng tranh sơn mài… Đến Thủ Dầu Một còn là, đến nơi chôn nhau cắt rốn của họa sĩ Đinh Cường. Với tranh của Cường, vật chất, như tự nó, tự phát quang (Cao Đông Khánh - Ánh sáng tự phát của Đinh Cường tỉnh Thủ Dầu Một - Brochure Triển

Page 3: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

76 76

lãm tranh ĐC tại Đại Học George Mason, Virginia 1994). Thủ Dầu Một với mặt trận An Lộc khét tiếng, những đêm cùng đại đội của trường Công Binh ứng chiến ven bìa rừng cao su, trong hầm trú ẩn, tôi đã nhớ và ghi lại : Tiếng đại hồ cầm nào rơi trong hồn tôi chiều nay chiều muộn sầu trên hàng phi lao tôi bước ngu ngơ cùng đá sỏi mặt trời giã từ mặt trời bắt tay Tiếng bom nào rơi trong hồn tôi đêm nay đêm hãi hùng như loài thú dữ tôi bước lạnh người sợ bãi mìn chông nhìn vì sao sa thấy lòng tức tưởi vì sao biệt tăm Tiếng cười nào rơi trong hồn tôi sáng nay sáng mù sương trên đồi cỏ dại tôi trở về còn đủ chân tay cơn mưa đầu mùa trở lại tôi gọi thầm em trong mưa mưa mưa… (Một ngày – Văn số 131, Lệ đá đêm sâu, 6-1969) Ra trường Công Binh, tôi được chọn về làm ở Cục Công Binh, phòng 5, cùng phụ trách tờ báo Công Binh, sau đó biệt phái về dạy lại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế … Nhớ lại một thời, rừng cao su đầy bom đạn, mùa hoa vẫn nở trắng. Nhớ chiếc ba-lô chứa đựng những câu thơ của Prévert: Oh Barbara

lãm tranh ĐC tại Đại Học George Mason, Virginia 1994). Thủ Dầu Một với mặt trận An Lộc khét tiếng, những đêm cùng đại đội của trường Công Binh ứng chiến ven bìa rừng cao su, trong hầm trú ẩn, tôi đã nhớ và ghi lại : Tiếng đại hồ cầm nào rơi trong hồn tôi chiều nay chiều muộn sầu trên hàng phi lao tôi bước ngu ngơ cùng đá sỏi mặt trời giã từ mặt trời bắt tay Tiếng bom nào rơi trong hồn tôi đêm nay đêm hãi hùng như loài thú dữ tôi bước lạnh người sợ bãi mìn chông nhìn vì sao sa thấy lòng tức tưởi vì sao biệt tăm Tiếng cười nào rơi trong hồn tôi sáng nay sáng mù sương trên đồi cỏ dại tôi trở về còn đủ chân tay cơn mưa đầu mùa trở lại tôi gọi thầm em trong mưa mưa mưa… (Một ngày – Văn số 131, Lệ đá đêm sâu, 6-1969) Ra trường Công Binh, tôi được chọn về làm ở Cục Công Binh, phòng 5, cùng phụ trách tờ báo Công Binh, sau đó biệt phái về dạy lại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế … Nhớ lại một thời, rừng cao su đầy bom đạn, mùa hoa vẫn nở trắng. Nhớ chiếc ba-lô chứa đựng những câu thơ của Prévert: Oh Barbara

Page 4: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

77 77

Quelle connerie la guerre… Virginia, 22 Sept. 2012 Đinh Cường

▄▄▄▄▄▄▄

NGÔ ĐÌNH KHOA Người Lên Mặt Trận

Tranh Thắm Nguyễn – Báo Trẻ Online

Chiếc tẩu thuốc gõ gõ lên hư không trong đầu tôi những âm thanh khô. Buổi sáng trắng những bụi nước, có thể một ngày đẹp trời và cũng có thể một cơn mưa bão. Những

Quelle connerie la guerre… Virginia, 22 Sept. 2012 Đinh Cường

▄▄▄▄▄▄▄

NGÔ ĐÌNH KHOA Người Lên Mặt Trận

Tranh Thắm Nguyễn – Báo Trẻ Online

Chiếc tẩu thuốc gõ gõ lên hư không trong đầu tôi những âm thanh khô. Buổi sáng trắng những bụi nước, có thể một ngày đẹp trời và cũng có thể một cơn mưa bão. Những

Page 5: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

78 78

vũng nước trải mỏng trên sân lấp loáng trong gầm những chiếc xe không trùng trùng trong bến còn lại trong trận mưa đêm và những vệt ánh sáng mềm như sương trên bức tường trơn thẳng những mái cao. 6 kém 5. Chuyến xe đầu đã chật cứng hành khách đợi giờ chuyển bánh. Tôi bắt đầu nhận ra hắn trong mù mù tối hình người bẻ gập về phía trước, thở rất nhỏ lẫn trong tiếng máy nổ lẫn trong mùi thuốc ẩm. Chiếc tẩu lại gõ lên hư không trên một đốt xương lóng tay hay của một bàn tay lật úp. Hai bàn tay tôi run giá ngắt trong đôi găng ấm. Những giòng nước chảy ngoằn trên tấm kính xe trước mặt một quán nước như lật nghiêng, nhòe nhoẹt cổ quái và hỗn độn. Mọi chiều cao như thấp xuống và lớn ngang như treo trên một sợi dây mảnh không gốc ngọn. Tôi có thể nhìn thấy rõ gã đàn ông mặc đồ xanh đu đưa trong không khí chiếc ghế và hai chân gã khuất trong một giọt nước, một ông lão có chiếc mũi ở ngoài khuôn mặt. Nỗi tuyệt vọng tôi ở trong một giọt nước mỏng manh, trong ngực tôi hơi thở lặng lẽ của trái tim, sự sống tôi ở đó những người tàn tật chỉ mình tôi tưởng thấy. (Tôi đang thấy những sinh hoạt phía trước mặt qua tấm kính sũng hơi nước hay qua một ý thức điên rồ trên một chuyến xe sớm tất cả chỉ là những hình thức đáng thương). Bây giờ hắn bật lên một ngọn lửa vàng. Ngọn lửa cháy một thoáng bên vai trái tôi, chảy trong tấm kính trước mặt, chảy lên trong những kim khí sáng rồi tắt ngấm. Tôi nghe những tiếng bập bập và ngó lòng tay hắn đỏ óng mùi thuốc sặc sụa trong lòng xe. Một tiếng la lối đột ngột của người nào phía sau và tiếng máy nổ gừ gừ dữ dội, chiếc xe tách bến. Phố xá nhà cửa người ngợm và xe cộ tất cả như mặc một chiếc áo bong sương. Xe đã lên một dốc cầu. Những cơn gió đánh tạt vào mặt tôi những hạt bụi nước. Hắn đã ngủ? Chiếc tẩu thuốc gài trên túi áo ngực ưỡn về phía trước thoải mái trong tư thế ngủ ngồi quen thuộc, một cảm giác tê dại nửa khuôn mặt bên phải tôi, cơn gió phả vào trăm mũi kim rất nhỏ, một cánh tay hắn bỏ thõng hai ngón nhịp nhịp hư không. Tất cả đã ổn định, đời sống đã ổn định chốc lát trên ghế ngồi buông xuôi. Những cơn gió ù ù phần phật như chạm vào một vật cứng thổi trên một lá cờ, một

vũng nước trải mỏng trên sân lấp loáng trong gầm những chiếc xe không trùng trùng trong bến còn lại trong trận mưa đêm và những vệt ánh sáng mềm như sương trên bức tường trơn thẳng những mái cao. 6 kém 5. Chuyến xe đầu đã chật cứng hành khách đợi giờ chuyển bánh. Tôi bắt đầu nhận ra hắn trong mù mù tối hình người bẻ gập về phía trước, thở rất nhỏ lẫn trong tiếng máy nổ lẫn trong mùi thuốc ẩm. Chiếc tẩu lại gõ lên hư không trên một đốt xương lóng tay hay của một bàn tay lật úp. Hai bàn tay tôi run giá ngắt trong đôi găng ấm. Những giòng nước chảy ngoằn trên tấm kính xe trước mặt một quán nước như lật nghiêng, nhòe nhoẹt cổ quái và hỗn độn. Mọi chiều cao như thấp xuống và lớn ngang như treo trên một sợi dây mảnh không gốc ngọn. Tôi có thể nhìn thấy rõ gã đàn ông mặc đồ xanh đu đưa trong không khí chiếc ghế và hai chân gã khuất trong một giọt nước, một ông lão có chiếc mũi ở ngoài khuôn mặt. Nỗi tuyệt vọng tôi ở trong một giọt nước mỏng manh, trong ngực tôi hơi thở lặng lẽ của trái tim, sự sống tôi ở đó những người tàn tật chỉ mình tôi tưởng thấy. (Tôi đang thấy những sinh hoạt phía trước mặt qua tấm kính sũng hơi nước hay qua một ý thức điên rồ trên một chuyến xe sớm tất cả chỉ là những hình thức đáng thương). Bây giờ hắn bật lên một ngọn lửa vàng. Ngọn lửa cháy một thoáng bên vai trái tôi, chảy trong tấm kính trước mặt, chảy lên trong những kim khí sáng rồi tắt ngấm. Tôi nghe những tiếng bập bập và ngó lòng tay hắn đỏ óng mùi thuốc sặc sụa trong lòng xe. Một tiếng la lối đột ngột của người nào phía sau và tiếng máy nổ gừ gừ dữ dội, chiếc xe tách bến. Phố xá nhà cửa người ngợm và xe cộ tất cả như mặc một chiếc áo bong sương. Xe đã lên một dốc cầu. Những cơn gió đánh tạt vào mặt tôi những hạt bụi nước. Hắn đã ngủ? Chiếc tẩu thuốc gài trên túi áo ngực ưỡn về phía trước thoải mái trong tư thế ngủ ngồi quen thuộc, một cảm giác tê dại nửa khuôn mặt bên phải tôi, cơn gió phả vào trăm mũi kim rất nhỏ, một cánh tay hắn bỏ thõng hai ngón nhịp nhịp hư không. Tất cả đã ổn định, đời sống đã ổn định chốc lát trên ghế ngồi buông xuôi. Những cơn gió ù ù phần phật như chạm vào một vật cứng thổi trên một lá cờ, một

Page 6: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

79 79

cây phướn. Người ta bắt buộc phải đi và về và không chắc chắn gì về sinh mạng mình trên chuyến xe sớm này. Trăm nghìn cái bất hạnh có thể chờ đợi trên con đường bốn bánh cao su bon chạy. Xe đã ra hết khu ngoại ô ghé vào một trạm kiểm soát, những người lính hiện ra như những bóng tối nhạt (lục soát gì trên thân thể chúng ta mang theo? Điều đáng cười là họ sẽ không thể thấy những điều muốn thấy – dù là những thứ phản động), những cây súng lạnh lùng trên tay, những cây súng để lỏng trong bao da đã mở, sẵn sàng. Sắt thép mà. Cánh cửa xe phía tay mặt đã mở ra lần lượt tiếng dội mạnh vào thân xe. Một người cảnh sát có đôi mắt lộ sâu vì thiếu ngủ dướn lên nhìn trừng vào từng băng hơi thở cuộn như khói. Hắn hơi cựa mình về phía trước, lưng rời khỏi thành ghế, tay rút lên, tiếng máy gừ gừ một chút như một đoạn phim đã qua tất cả rớt lại phía sau như những tờ giấy. Phía đông trời ửng đỏ như máu tươi chảy từ vết thương còn mới loang trên những vùng xa tối thẫm, loang trên cây cỏ gần vũng nước có màu đỏ loãng. Bây giờ tôi có thể thấy hắn rõ hơn: một người lính. Một người lính của sắc phục, tầm vóc vừa đủ lộ một sinh động thông minh, tay những ngón xương xây xước, những vết thẹo thay da non, những sợi râu đen nổi thô bạo. Bụi nước đã loãng trong không khí cùng hơi lạnh, tấm kính trong, mùa gặt đã qua ở đây, đã qua thật rồi trong tâm trí, những gốc rạ bờ cỏ tươi cây dại hồn nhiên trong cảnh tượng xa lắc. Con lộ đen thẫm mềm nhũn một cảm giác lún tôi xuống sâu, những vỏ đạn đồng vàng óng trong vũng nước chùi sạch, những thửa ruộng cỏ hoang ngôi mộ mới. Xe đã qua bao nhiêu chặng đường, những chặng đường an toàn đã qua và tôi hiểu trong tôi những thứ gì đã hết. Ngoại cảnh vùn vụt trước mặt trong tâm trí tôi vần vũ. Hắn thức, không, nói theo một mình tôi hiểu, hắn không ngủ trong tư thế một giấc ngủ ngồi dửng dưng và tham lam, đôi mắt hắn nhắm lại chứa dấu dành dụm. Hắn không ngủ. Bàn tay hắn thức lăn trên mép ghế, đôi giày trận hắn thức cọ quậy, chà xát và hơi thở hắt ra bất thường chứng tỏ một xúc động mãnh liệt đang diễn ra bên trong. Một chút thất vọng nào đó chợt căng lên trong lồng ngực tôi dầy cộm, tức thở. Tôi

cây phướn. Người ta bắt buộc phải đi và về và không chắc chắn gì về sinh mạng mình trên chuyến xe sớm này. Trăm nghìn cái bất hạnh có thể chờ đợi trên con đường bốn bánh cao su bon chạy. Xe đã ra hết khu ngoại ô ghé vào một trạm kiểm soát, những người lính hiện ra như những bóng tối nhạt (lục soát gì trên thân thể chúng ta mang theo? Điều đáng cười là họ sẽ không thể thấy những điều muốn thấy – dù là những thứ phản động), những cây súng lạnh lùng trên tay, những cây súng để lỏng trong bao da đã mở, sẵn sàng. Sắt thép mà. Cánh cửa xe phía tay mặt đã mở ra lần lượt tiếng dội mạnh vào thân xe. Một người cảnh sát có đôi mắt lộ sâu vì thiếu ngủ dướn lên nhìn trừng vào từng băng hơi thở cuộn như khói. Hắn hơi cựa mình về phía trước, lưng rời khỏi thành ghế, tay rút lên, tiếng máy gừ gừ một chút như một đoạn phim đã qua tất cả rớt lại phía sau như những tờ giấy. Phía đông trời ửng đỏ như máu tươi chảy từ vết thương còn mới loang trên những vùng xa tối thẫm, loang trên cây cỏ gần vũng nước có màu đỏ loãng. Bây giờ tôi có thể thấy hắn rõ hơn: một người lính. Một người lính của sắc phục, tầm vóc vừa đủ lộ một sinh động thông minh, tay những ngón xương xây xước, những vết thẹo thay da non, những sợi râu đen nổi thô bạo. Bụi nước đã loãng trong không khí cùng hơi lạnh, tấm kính trong, mùa gặt đã qua ở đây, đã qua thật rồi trong tâm trí, những gốc rạ bờ cỏ tươi cây dại hồn nhiên trong cảnh tượng xa lắc. Con lộ đen thẫm mềm nhũn một cảm giác lún tôi xuống sâu, những vỏ đạn đồng vàng óng trong vũng nước chùi sạch, những thửa ruộng cỏ hoang ngôi mộ mới. Xe đã qua bao nhiêu chặng đường, những chặng đường an toàn đã qua và tôi hiểu trong tôi những thứ gì đã hết. Ngoại cảnh vùn vụt trước mặt trong tâm trí tôi vần vũ. Hắn thức, không, nói theo một mình tôi hiểu, hắn không ngủ trong tư thế một giấc ngủ ngồi dửng dưng và tham lam, đôi mắt hắn nhắm lại chứa dấu dành dụm. Hắn không ngủ. Bàn tay hắn thức lăn trên mép ghế, đôi giày trận hắn thức cọ quậy, chà xát và hơi thở hắt ra bất thường chứng tỏ một xúc động mãnh liệt đang diễn ra bên trong. Một chút thất vọng nào đó chợt căng lên trong lồng ngực tôi dầy cộm, tức thở. Tôi

Page 7: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

80 80

đã thấy trong lòng hai bàn tay (ngón mềm mại) những vết chai rạn, đôi giày mòn nứt rách nhem nhuốc, hắn đã giẫm xéo chà đạp bao nhiêu thứ dưới chân hắn? Hắn đã bắn bao nhiêu đạn? Những bể nát, nứt rạn quanh đây hẳn không liên hệ gì thực tại này hết. Vẻ tàn nhẫn mê muội, lạnh lẽo trước nguy hiểm biến động hẳn lạ hoắc trong cái xã hội nhỏ bé trên xe này. Tiếng nổ lớn đột ngột rung chuyển của một viên đạn trái phá lan rộng âm âm trong không khí xô lắc những tàn lá cây mặt ruộng thẳng tắp những gốc rạ chợt dãn ra rồi co lại gợn sóng như một viên sỏi ném xuống ao nước tù đọng, âm thanh lao xao lanh canh của kim khí vụn dưới sàn xe âm vang suốt thân thể tôi tiếng rớt bể của khối thủy tinh. Tiếng súng đã đánh thức những mê muội thù hận một ngày: cuộc bắn giết bắt đầu và tiếp tục. Đánh thức cái số phận khốn nạn quanh tôi những sự sống câm nín nhẫn nhục dưới sức nặng truyền đời thảng thốt không dứt một ngày nào sẽ tan vào hơi thở của ngoại vật như ném trả một viên đất vào ruộng sâu, đá về núi, giọt nước về biển cả. Không kẻ nào cưỡng lại được. Nỗi tuyệt vọng từ đó đã nổ tung trong tôi những viên trái phá hiện tại, từ đó đời sống váng vất như những hình nhân, những tên múa rối không mặt mũi. Không còn ai nhớ được gì dù là trí nhớ mình. Xe như đùn lại một độ cong gấp trước tiếng lết của bánh cao su chà xát bỏng trên mặt đường, vẻ hoảng hốt của người tài xế và tiếng rú đồng loạt không kềm lại được trong cổ họng hành khách, chiếc xe khựng lại nhiều lần trước khi ngừng lại hẳn. Mọi người xô lấn túa ra, vật vã chới với như cơn lốc thổi tung trên đống lá khô cùng trong tiếng nổ gần sát bên tiếng thất thanh đau đớn, tiếng sắt thép chạm nhau bụi và đất, phía trước mặt, rất gần chắc đang xảy ra cuộc chạm súng. Mặt trời đã lên cao, những tia nắng nóng bật lên từ những mặt phẳng sáng bình yên, nỗi tuyệt vọng từ đó mỏng manh nhưng dai dẳng truyền đời trên lưng còn nặng trên đôi vai xây xước trong ngực mỏng trái tim không còn thở những

đã thấy trong lòng hai bàn tay (ngón mềm mại) những vết chai rạn, đôi giày mòn nứt rách nhem nhuốc, hắn đã giẫm xéo chà đạp bao nhiêu thứ dưới chân hắn? Hắn đã bắn bao nhiêu đạn? Những bể nát, nứt rạn quanh đây hẳn không liên hệ gì thực tại này hết. Vẻ tàn nhẫn mê muội, lạnh lẽo trước nguy hiểm biến động hẳn lạ hoắc trong cái xã hội nhỏ bé trên xe này. Tiếng nổ lớn đột ngột rung chuyển của một viên đạn trái phá lan rộng âm âm trong không khí xô lắc những tàn lá cây mặt ruộng thẳng tắp những gốc rạ chợt dãn ra rồi co lại gợn sóng như một viên sỏi ném xuống ao nước tù đọng, âm thanh lao xao lanh canh của kim khí vụn dưới sàn xe âm vang suốt thân thể tôi tiếng rớt bể của khối thủy tinh. Tiếng súng đã đánh thức những mê muội thù hận một ngày: cuộc bắn giết bắt đầu và tiếp tục. Đánh thức cái số phận khốn nạn quanh tôi những sự sống câm nín nhẫn nhục dưới sức nặng truyền đời thảng thốt không dứt một ngày nào sẽ tan vào hơi thở của ngoại vật như ném trả một viên đất vào ruộng sâu, đá về núi, giọt nước về biển cả. Không kẻ nào cưỡng lại được. Nỗi tuyệt vọng từ đó đã nổ tung trong tôi những viên trái phá hiện tại, từ đó đời sống váng vất như những hình nhân, những tên múa rối không mặt mũi. Không còn ai nhớ được gì dù là trí nhớ mình. Xe như đùn lại một độ cong gấp trước tiếng lết của bánh cao su chà xát bỏng trên mặt đường, vẻ hoảng hốt của người tài xế và tiếng rú đồng loạt không kềm lại được trong cổ họng hành khách, chiếc xe khựng lại nhiều lần trước khi ngừng lại hẳn. Mọi người xô lấn túa ra, vật vã chới với như cơn lốc thổi tung trên đống lá khô cùng trong tiếng nổ gần sát bên tiếng thất thanh đau đớn, tiếng sắt thép chạm nhau bụi và đất, phía trước mặt, rất gần chắc đang xảy ra cuộc chạm súng. Mặt trời đã lên cao, những tia nắng nóng bật lên từ những mặt phẳng sáng bình yên, nỗi tuyệt vọng từ đó mỏng manh nhưng dai dẳng truyền đời trên lưng còn nặng trên đôi vai xây xước trong ngực mỏng trái tim không còn thở những

Page 8: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

81 81

số phận khốn nạn. Tôi lau mặt bằng chiếc khăn tay và quay lại chỗ ngồi. Tất cả cũng trở lại chỗ ngồi. Hắn vẫn ở đó tay quay một cây súng dửng dưng, hắn là cây súng hay cây súng đồng lõa, lạnh lẽo, mê muội, tàn nhẫn - một thỏi thép không nguy hiểm gì hết. Xe tiếp tục, cảnh tượng trước mắt thu gọn trong ô kính kéo lại gần như một miếng bia cứng mỗi phút mỗi đập vào mặt. Những cuộn khói đen cao đùn như chiếc nấm dưới chân những chấm li ti di động. Đã nghe thấy mùi thuốc súng trong không khí, mùi máu người lẫn cùng hơi đất ẩm rải rác dọc theo hai ven lộ những vỏ đạn còn mới như bốc hơi, những vết đạn cày sướt trên mặt lộ máu trộn lẫn với bùn đất và nước quánh sệt, một vài người lính đứng sững còn trong tư thế phòng thủ. Xe như ngừng hẳn lại khi vượt “mô” những cây, gạch ngói và đất bùn, phía trong họ đang tìm kiếm thu nhặt vũ khí của kẻ bại trận bỏ lại xác chết cũng được mang kiểm nhận tại chỗ để nằm vắt ngang ven lộ. Những tên ngu xuẩn cuồng tín đáng thương nằm kia tênh hênh trơ trọi với nỗi thù hận những giòng máu còn rỉ rả từ mỗi vết thương trên nước da vàng nghệ (những vết thương sưng lên từ khuôn mặt lời nguyền rủa phỉ báng). Những thân thể trần trụi, vạm vỡ, những bàn tay, những bắp thịt tạo dựng, đôi chân trần chắc nịch theo sau trâu trên luống cày, mùa gặt đã qua trong tâm trí thật rồi, đã phung phí những hạt thóc giống, đã phung phí máu xương. Tiếng xe cấp cứu ré thảm thiết ngọn cờ trắng chữ thập đỏ run phần phật gấp rút. Họ tải thương và thân xác các chiến hữu của họ chỉ còn thấy những đôi giày trận bê bết bùn đất lú ra đầu những chiếc băng ca cá nhân thân thể đã bọc kín không còn gì cả dù ước vọng của riêng họ. Hắn vẫn tiếp tục với cây súng quay trên tay những vòng vô nghĩa trong một tư thế không thay đổi đôi mắt như thèm ngủ mà không phải ngủ. Xe đã tới khoảng trống rộng (có thể thấy được chiếc tháp, tháp nhà thờ cao sáng bạc dưới nắng và những cơn gió ấm) bỏ lại máu và những xác chết cũng có gia đình quê hương và tuổi trẻ quả cảm. Một ngày nào cơn mưa lũ sẽ cuốn đi những vết máu bầm đọng tẩy rửa con lộ sáng trơn dưới nắng trong buổi sáng chợt rực rỡ khi thân thể họ đã thối rữa trong đất không còn chút

số phận khốn nạn. Tôi lau mặt bằng chiếc khăn tay và quay lại chỗ ngồi. Tất cả cũng trở lại chỗ ngồi. Hắn vẫn ở đó tay quay một cây súng dửng dưng, hắn là cây súng hay cây súng đồng lõa, lạnh lẽo, mê muội, tàn nhẫn - một thỏi thép không nguy hiểm gì hết. Xe tiếp tục, cảnh tượng trước mắt thu gọn trong ô kính kéo lại gần như một miếng bia cứng mỗi phút mỗi đập vào mặt. Những cuộn khói đen cao đùn như chiếc nấm dưới chân những chấm li ti di động. Đã nghe thấy mùi thuốc súng trong không khí, mùi máu người lẫn cùng hơi đất ẩm rải rác dọc theo hai ven lộ những vỏ đạn còn mới như bốc hơi, những vết đạn cày sướt trên mặt lộ máu trộn lẫn với bùn đất và nước quánh sệt, một vài người lính đứng sững còn trong tư thế phòng thủ. Xe như ngừng hẳn lại khi vượt “mô” những cây, gạch ngói và đất bùn, phía trong họ đang tìm kiếm thu nhặt vũ khí của kẻ bại trận bỏ lại xác chết cũng được mang kiểm nhận tại chỗ để nằm vắt ngang ven lộ. Những tên ngu xuẩn cuồng tín đáng thương nằm kia tênh hênh trơ trọi với nỗi thù hận những giòng máu còn rỉ rả từ mỗi vết thương trên nước da vàng nghệ (những vết thương sưng lên từ khuôn mặt lời nguyền rủa phỉ báng). Những thân thể trần trụi, vạm vỡ, những bàn tay, những bắp thịt tạo dựng, đôi chân trần chắc nịch theo sau trâu trên luống cày, mùa gặt đã qua trong tâm trí thật rồi, đã phung phí những hạt thóc giống, đã phung phí máu xương. Tiếng xe cấp cứu ré thảm thiết ngọn cờ trắng chữ thập đỏ run phần phật gấp rút. Họ tải thương và thân xác các chiến hữu của họ chỉ còn thấy những đôi giày trận bê bết bùn đất lú ra đầu những chiếc băng ca cá nhân thân thể đã bọc kín không còn gì cả dù ước vọng của riêng họ. Hắn vẫn tiếp tục với cây súng quay trên tay những vòng vô nghĩa trong một tư thế không thay đổi đôi mắt như thèm ngủ mà không phải ngủ. Xe đã tới khoảng trống rộng (có thể thấy được chiếc tháp, tháp nhà thờ cao sáng bạc dưới nắng và những cơn gió ấm) bỏ lại máu và những xác chết cũng có gia đình quê hương và tuổi trẻ quả cảm. Một ngày nào cơn mưa lũ sẽ cuốn đi những vết máu bầm đọng tẩy rửa con lộ sáng trơn dưới nắng trong buổi sáng chợt rực rỡ khi thân thể họ đã thối rữa trong đất không còn chút

Page 9: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

82 82

dấu vết gì của hôm nay (còn chăng trong tâm trí chỉ là những hình họa thê thảm) như tuổi trẻ cùng mọi thứ khác chúng ta đã mất tuyệt vời như thả một nắm muối xuống biển mặn và tôi đang tiếp tục một đời buồn phiền, một đời sống trách nhiệm định đặt trong những công thức ước định và trói buộc như đã làm dấu sẵn bằng bút chì màu trên thời khóa biểu luồn trong tấm kính bàn làm việc ghi ngày nghỉ và ngày làm việc: 4 ngày ở đó và ba ngày nghỉ ở Sài Gòn. Ở Sài Gòn tôi có những bữa cơm đủ mặt nguời thân, những đêm no ngủ sưng mí mắt, những buổi chiều đi dạo thênh thang cuộc vui được ngưỡng mộ tán tụng để được thấy tuổi trẻ Kim quý. Khách quan chỉ như thế đó, tôi không dối gạt ai hết. Và mỗi buổi sáng, nhất định khi chui vào lòng xe chờ đợi chuyến xe đưa tôi xa thành phố bỏ Sài Gòn sau lưng bỏ đời sống tôi không thương yêu không thù hận. Tôi là tôi. Kim, hai mươi sáu tuổi, giáo sư, đẹp, gia đình trưởng giả, ngần ấy nhãn hiệu đủ cho tôi chọn được đời sống. Và cũng có thể nói Kim khốn nạn đủ rồi. Tôi không lừa gạt tôi được. Tôi đang ở giữa sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm và sự chà đạp tột cùng. Người ta chỉ thấy tôi ở một bề mặt. Như bề mặt hiện tại, như tôi và hắn, những người đồng loại trong cái xã hội nhỏ bé trên xe này một định mệnh, chung một cảnh tượng một sự sống có thật nhưng đã cách chia đã chết cứng lạnh lẽo trong tuyệt vọng, cô đơn (điều tưởng như một hạt cát trơ trọi trong sa mạc mà có thật). Hắn vẫn tiếp tục những cử động vô ích riêng tư cho một mình hắn - Bập bập tẩu thuốc và chà xát nghiêng cây súng dọc theo hông thở và nhả khói xanh um, một mình hắn trên chuyến xe, nghĩ xa hơn nữa có thể một mình hắn trong tập thể đồng phục, một mình hắn trong cái xã hội đang chuyển động những cơn lốc lật sấp. Một người lính với cây súng trên tay thỏi thép không nguy hiểm gì hết. (Thỏi thép vô nghĩa có thể giết đi một mạng người, trăm người, nghìn người, có thể tàn phá nhà cửa, ruộng đồi cây cỏ và những sinh vật khác, hết thảy) nhưng thỏi thép không giải quyết được gì? Nỗi tuyệt vọng từ đó, tôi trôi nổi vật vờ trong một thế giới lạ mặt thù hận, tù đầy trong trạng thái mê tỉnh lố nhố những người chết bên kẻ sống như trên

dấu vết gì của hôm nay (còn chăng trong tâm trí chỉ là những hình họa thê thảm) như tuổi trẻ cùng mọi thứ khác chúng ta đã mất tuyệt vời như thả một nắm muối xuống biển mặn và tôi đang tiếp tục một đời buồn phiền, một đời sống trách nhiệm định đặt trong những công thức ước định và trói buộc như đã làm dấu sẵn bằng bút chì màu trên thời khóa biểu luồn trong tấm kính bàn làm việc ghi ngày nghỉ và ngày làm việc: 4 ngày ở đó và ba ngày nghỉ ở Sài Gòn. Ở Sài Gòn tôi có những bữa cơm đủ mặt nguời thân, những đêm no ngủ sưng mí mắt, những buổi chiều đi dạo thênh thang cuộc vui được ngưỡng mộ tán tụng để được thấy tuổi trẻ Kim quý. Khách quan chỉ như thế đó, tôi không dối gạt ai hết. Và mỗi buổi sáng, nhất định khi chui vào lòng xe chờ đợi chuyến xe đưa tôi xa thành phố bỏ Sài Gòn sau lưng bỏ đời sống tôi không thương yêu không thù hận. Tôi là tôi. Kim, hai mươi sáu tuổi, giáo sư, đẹp, gia đình trưởng giả, ngần ấy nhãn hiệu đủ cho tôi chọn được đời sống. Và cũng có thể nói Kim khốn nạn đủ rồi. Tôi không lừa gạt tôi được. Tôi đang ở giữa sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm và sự chà đạp tột cùng. Người ta chỉ thấy tôi ở một bề mặt. Như bề mặt hiện tại, như tôi và hắn, những người đồng loại trong cái xã hội nhỏ bé trên xe này một định mệnh, chung một cảnh tượng một sự sống có thật nhưng đã cách chia đã chết cứng lạnh lẽo trong tuyệt vọng, cô đơn (điều tưởng như một hạt cát trơ trọi trong sa mạc mà có thật). Hắn vẫn tiếp tục những cử động vô ích riêng tư cho một mình hắn - Bập bập tẩu thuốc và chà xát nghiêng cây súng dọc theo hông thở và nhả khói xanh um, một mình hắn trên chuyến xe, nghĩ xa hơn nữa có thể một mình hắn trong tập thể đồng phục, một mình hắn trong cái xã hội đang chuyển động những cơn lốc lật sấp. Một người lính với cây súng trên tay thỏi thép không nguy hiểm gì hết. (Thỏi thép vô nghĩa có thể giết đi một mạng người, trăm người, nghìn người, có thể tàn phá nhà cửa, ruộng đồi cây cỏ và những sinh vật khác, hết thảy) nhưng thỏi thép không giải quyết được gì? Nỗi tuyệt vọng từ đó, tôi trôi nổi vật vờ trong một thế giới lạ mặt thù hận, tù đầy trong trạng thái mê tỉnh lố nhố những người chết bên kẻ sống như trên

Page 10: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

83 83

một màn ảnh ký ức mê muội và sáng suốt. Xe vào một khoảng đường hẹp, khô, cong (mặt trời đã cao đứng bóng) những tia nắng gắt lấp lóa nhọn hút những mũi kim cứng xuyên qua đầu xe và tấm kính trước mặt. Tôi che tay lên trán tránh một quãng đường hắt ngược ánh sáng chói lòa cành lá mọc chĩa dọc lộ phía tay mặt. Những nhà cửa mới cất (vách đất mái tôn) ấn cong xuống như trong một bức tranh trừu tượng nhức mắt, những đứa trẻ trần truồng nô giỡn trong sân đất nắng trơn trợt vô duyên không một cụm cỏ, bóng cây, những bà già gầy gò lùng nhùng trong bộ đồ màu sắc lạ mắt thất thần như những bộ xương bọc trong giẻ rách, những con chó cái lang thang, tất cả phơi bày dưới ánh nắng mặt trời, trước mắt tôi thấp thoáng một quê hương đang được thay thế bằng những thứ khác. Đời sống đang cho chúng ta những thứ hạnh phúc cay đắng. Như cô bác đang có nhà cửa, cơm gạo, áo ấm, như tôi đang có nghề dạy học cao quý, người lính có cây súng và quê hương, con ngựa có hai miếng da che mắt để nhìn về phía trước mặt và đi theo ý muốn của người xà ích. Người xà ích cho mỗi chúng ta… Tôi như bị bật ngửa ra sau trùng trùng tiếng va chạm kim khí rung chuyển của hàng trăm thanh sắt và rớt hẫng vào một khoảng trống không khi xe lên và đổ dốc cầu. Thấp thoáng những người lính ở trần bên những hầm phòng thủ nổi đắp bằng bao cát, những cây súng lớn lú đầu vào những lỗ châu mai trông xuống dọc ven sông và mặt lộ trống dẫn lên dốc cầu, dưới sông tiếng máy nổ ầm ĩ và mùi khói dầu bốc lên từ những giang thuyền lớn cuộn sóng ào ào những lời nói tắt trong gió và tiếng động, những người lính Mỹ phơi nắng trên những chiếc phao nổi tênh hênh trên mặt sông. Tôi nhìn ngang sang hắn nắng nóng trên tấm kính trước mặt và một nửa thân thể phía dưới. Bây giờ tôi có thể nghe lời xì xầm từ phía sau những hàng ghế (tôi ngồi ở băng đầu) và giọng ho khan của một người đàn bà có tuổi nào đó, người ta nói về sự mới có mặt của một đơn vị Mỹ tăng cường phòng thủ cho chiếc cầu này (chiếc cầu này đã bị giật sập hai nhịp cách đây mấy tháng một đơn vị

một màn ảnh ký ức mê muội và sáng suốt. Xe vào một khoảng đường hẹp, khô, cong (mặt trời đã cao đứng bóng) những tia nắng gắt lấp lóa nhọn hút những mũi kim cứng xuyên qua đầu xe và tấm kính trước mặt. Tôi che tay lên trán tránh một quãng đường hắt ngược ánh sáng chói lòa cành lá mọc chĩa dọc lộ phía tay mặt. Những nhà cửa mới cất (vách đất mái tôn) ấn cong xuống như trong một bức tranh trừu tượng nhức mắt, những đứa trẻ trần truồng nô giỡn trong sân đất nắng trơn trợt vô duyên không một cụm cỏ, bóng cây, những bà già gầy gò lùng nhùng trong bộ đồ màu sắc lạ mắt thất thần như những bộ xương bọc trong giẻ rách, những con chó cái lang thang, tất cả phơi bày dưới ánh nắng mặt trời, trước mắt tôi thấp thoáng một quê hương đang được thay thế bằng những thứ khác. Đời sống đang cho chúng ta những thứ hạnh phúc cay đắng. Như cô bác đang có nhà cửa, cơm gạo, áo ấm, như tôi đang có nghề dạy học cao quý, người lính có cây súng và quê hương, con ngựa có hai miếng da che mắt để nhìn về phía trước mặt và đi theo ý muốn của người xà ích. Người xà ích cho mỗi chúng ta… Tôi như bị bật ngửa ra sau trùng trùng tiếng va chạm kim khí rung chuyển của hàng trăm thanh sắt và rớt hẫng vào một khoảng trống không khi xe lên và đổ dốc cầu. Thấp thoáng những người lính ở trần bên những hầm phòng thủ nổi đắp bằng bao cát, những cây súng lớn lú đầu vào những lỗ châu mai trông xuống dọc ven sông và mặt lộ trống dẫn lên dốc cầu, dưới sông tiếng máy nổ ầm ĩ và mùi khói dầu bốc lên từ những giang thuyền lớn cuộn sóng ào ào những lời nói tắt trong gió và tiếng động, những người lính Mỹ phơi nắng trên những chiếc phao nổi tênh hênh trên mặt sông. Tôi nhìn ngang sang hắn nắng nóng trên tấm kính trước mặt và một nửa thân thể phía dưới. Bây giờ tôi có thể nghe lời xì xầm từ phía sau những hàng ghế (tôi ngồi ở băng đầu) và giọng ho khan của một người đàn bà có tuổi nào đó, người ta nói về sự mới có mặt của một đơn vị Mỹ tăng cường phòng thủ cho chiếc cầu này (chiếc cầu này đã bị giật sập hai nhịp cách đây mấy tháng một đơn vị

Page 11: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

84 84

công binh Mỹ sửa chữa xong rút đi và một đơn vị khác mới đến thay thế). Hoặc một vài câu chuyện phiếm lạnh lẽo về cuộc chạm súng vừa qua. Hắn trầm tĩnh bí mật như một con cọp ngủ giấu hết móng vuốt chỉ còn bộ lông. Tiếng nói đẩy từ một dĩ vãng mơ hồ những thảm họa lung lay thực tại chút hạnh phúc mỏng manh thổi tắt cái sinh khí chợt sáng lên những khuôn mặt lặng lẽ câm nín. Một chút giao động nôn nao trong tôi. Ông xuống đây, hắn búng hai ngón tay giữa và ngón cái vào nhau một tiếng khô khan. Ông xuống đây, hắn lắc lắc tiếp búng những tiếng nhỏ hơn, cây súng ở bên cánh tay mặt thõng xuống một trọng lượng, người tài xế tiếp tục nói một mình. Người tài xế có tuổi già trên tay bánh, hắn có cây súng, những người đàn bà vô danh trên xe có nỗi sợ hãi. Chiến tranh có trái mìn sửa soạn nổ trên đường dưới gầm xe, tôi có học trò, lũ học trò già yếu trước tuổi có sách vở, người lớn có quyền thế và lũ trẻ nhỏ èo uột có sự bất hạnh. Hết thảy chúng ta đều có hai miếng da trên mắt ngựa trên những thứ đang có. Tôi là Kim giai cấp trí thức ưu đãi ở Sài Gòn, tôi là kẻ khốn nạn vật vờ trên xe, tôi là một thứ gì ở đó? Mỗi buổi sáng thức dậy làm công việc vệ sinh nhàm chán của một thân thể còn thở, tự tay pha một ly cà phê sữa nhấm nháp và ngồi vào bàn trang điểm trước khi đi dạy. Tôi phải trang điểm cho tôi một kiểu cách, một hình thức của một nữ giáo sư - của một giai cấp phải có (một cái bình yên còn sót lại trong cái quận lỵ nhỏ bé xơ xác sợ hãi nín thở trong chiến tranh). Tôi phải “kịch” với cục phấn trắng, “kịch” với bảng đen, “kịch” với lũ học trò lơ láo, “kịch” với đồng nghiệp và ngay chính tôi để cố giữ một thể thống nghề nghiệp, giai cấp. Tôi hiểu nhưng không thể làm hơn được. Tôi sống cho tôi hay cho họ lúc này thực không thể phân biệt. Buổi trưa về ăn một bữa cơm tập thể (nơi tôi trọ có 4, 5 nữ đồng nghiệp cùng trọ) ngủ chợp một giấc dửng dưng hay chỉ là một thói quen nhắm mắt (làm như ngủ) gửi tâm hồn mình đến một cõi khác đâu đâu, trở dậy làm vệ sinh, đi dạy, trở về ăn, làm vệ sinh, ngồi coi tiểu thuyết kiếm hiệp đăng trang

công binh Mỹ sửa chữa xong rút đi và một đơn vị khác mới đến thay thế). Hoặc một vài câu chuyện phiếm lạnh lẽo về cuộc chạm súng vừa qua. Hắn trầm tĩnh bí mật như một con cọp ngủ giấu hết móng vuốt chỉ còn bộ lông. Tiếng nói đẩy từ một dĩ vãng mơ hồ những thảm họa lung lay thực tại chút hạnh phúc mỏng manh thổi tắt cái sinh khí chợt sáng lên những khuôn mặt lặng lẽ câm nín. Một chút giao động nôn nao trong tôi. Ông xuống đây, hắn búng hai ngón tay giữa và ngón cái vào nhau một tiếng khô khan. Ông xuống đây, hắn lắc lắc tiếp búng những tiếng nhỏ hơn, cây súng ở bên cánh tay mặt thõng xuống một trọng lượng, người tài xế tiếp tục nói một mình. Người tài xế có tuổi già trên tay bánh, hắn có cây súng, những người đàn bà vô danh trên xe có nỗi sợ hãi. Chiến tranh có trái mìn sửa soạn nổ trên đường dưới gầm xe, tôi có học trò, lũ học trò già yếu trước tuổi có sách vở, người lớn có quyền thế và lũ trẻ nhỏ èo uột có sự bất hạnh. Hết thảy chúng ta đều có hai miếng da trên mắt ngựa trên những thứ đang có. Tôi là Kim giai cấp trí thức ưu đãi ở Sài Gòn, tôi là kẻ khốn nạn vật vờ trên xe, tôi là một thứ gì ở đó? Mỗi buổi sáng thức dậy làm công việc vệ sinh nhàm chán của một thân thể còn thở, tự tay pha một ly cà phê sữa nhấm nháp và ngồi vào bàn trang điểm trước khi đi dạy. Tôi phải trang điểm cho tôi một kiểu cách, một hình thức của một nữ giáo sư - của một giai cấp phải có (một cái bình yên còn sót lại trong cái quận lỵ nhỏ bé xơ xác sợ hãi nín thở trong chiến tranh). Tôi phải “kịch” với cục phấn trắng, “kịch” với bảng đen, “kịch” với lũ học trò lơ láo, “kịch” với đồng nghiệp và ngay chính tôi để cố giữ một thể thống nghề nghiệp, giai cấp. Tôi hiểu nhưng không thể làm hơn được. Tôi sống cho tôi hay cho họ lúc này thực không thể phân biệt. Buổi trưa về ăn một bữa cơm tập thể (nơi tôi trọ có 4, 5 nữ đồng nghiệp cùng trọ) ngủ chợp một giấc dửng dưng hay chỉ là một thói quen nhắm mắt (làm như ngủ) gửi tâm hồn mình đến một cõi khác đâu đâu, trở dậy làm vệ sinh, đi dạy, trở về ăn, làm vệ sinh, ngồi coi tiểu thuyết kiếm hiệp đăng trang

Page 12: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

85 85

trong nhật báo nơi băng đá sau vườn trông ra con sông nước mặn căng phồng (có thể một ngày nước rút cạn khô như xác chết một con rắn lớn thối rữa, tanh tưởi) hơi nước mặn thổi lên từ đó, bên kia sông con đường liên tỉnh nhìn nghiêng những khúc vặn cong lên bóng thẫm, một chuyến xe đò về muộn màu đỏ loang trên nền trời bầm dập, ở đó chuyến trực thăng mỗi buổi chiều trở về đổ quân và buổi sáng hôm sau lại đến đón đi, hai chiếc võ trang chúi xuống những vùng cây cối nghi ngờ ở xa, mười chiếc khác từ từ đáp xuống dọc theo lộ, hơi gió phát ra từ những chong chóng sầm sập như trận bão đè bẹp cây cỏ thổi bật lên bụi cát mù mịt, ấn cong những người lính xuống sát mặt đất, rồi tất cả nhẹ tênh vùn vụt chỉ còn những cái chấm trên cao, xa. Trang báo tôi đọc không biết bao nhiêu lần khi màu mực những giòng chữ đã lẫn vào đêm đen, phía bên kia sông những góc hình rõ rệt nhất cũng đã biến mất và thắp lên những chiếc đèn bão nhỏ treo trước cửa mỗi căn nhà (tôi tưởng tượng chứ không thấy) đu đưa lay động hiu hắt những vệt sáng lấp loáng trên sông. Và tôi trở vào mang tôi ném vào một góc tối nào đó mở mắt ráo hoảnh, tôi có thể thấy (cũng trong tưởng tượng) những đồng nghiệp của tôi đang ngồi làm việc chung một chiếc bàn rộng bên những tách trà ấm nóng, ngoài con lộ phía trước nhà, những người lính ngồi lắc lư trên những chiếc nón sắt khum mặt sụp xuống những đốm lửa đỏ rực trên môi, ba bốn tên đứng trước sân bật ngọn đèn pin nhỏ dí sát mặt vào bản đồ ánh sáng chạy quanh khu đóng quân đêm, một tên mang súng ngắn bên hông, một tên tì khuỷu tay trên giá súng chống ngược mũi súng dựng trên giày trận và nhất định sẽ có những tên ngủ ngồi đầu gục xuống hai cánh tay khoanh gọn tì trên hai đầu gối. Tiếng máy sè sè và lời chửi tục, tiếng lách cách kim khí của cơ bầm súng được kiểm soát lại đã lên nòng chưa. Họ đợi lệnh vượt tuyến xuất phát, cùng trong giờ khắc ấy những loạt đạn trọng pháo từ một căn cứ Mỹ ở xa bắn quấy

trong nhật báo nơi băng đá sau vườn trông ra con sông nước mặn căng phồng (có thể một ngày nước rút cạn khô như xác chết một con rắn lớn thối rữa, tanh tưởi) hơi nước mặn thổi lên từ đó, bên kia sông con đường liên tỉnh nhìn nghiêng những khúc vặn cong lên bóng thẫm, một chuyến xe đò về muộn màu đỏ loang trên nền trời bầm dập, ở đó chuyến trực thăng mỗi buổi chiều trở về đổ quân và buổi sáng hôm sau lại đến đón đi, hai chiếc võ trang chúi xuống những vùng cây cối nghi ngờ ở xa, mười chiếc khác từ từ đáp xuống dọc theo lộ, hơi gió phát ra từ những chong chóng sầm sập như trận bão đè bẹp cây cỏ thổi bật lên bụi cát mù mịt, ấn cong những người lính xuống sát mặt đất, rồi tất cả nhẹ tênh vùn vụt chỉ còn những cái chấm trên cao, xa. Trang báo tôi đọc không biết bao nhiêu lần khi màu mực những giòng chữ đã lẫn vào đêm đen, phía bên kia sông những góc hình rõ rệt nhất cũng đã biến mất và thắp lên những chiếc đèn bão nhỏ treo trước cửa mỗi căn nhà (tôi tưởng tượng chứ không thấy) đu đưa lay động hiu hắt những vệt sáng lấp loáng trên sông. Và tôi trở vào mang tôi ném vào một góc tối nào đó mở mắt ráo hoảnh, tôi có thể thấy (cũng trong tưởng tượng) những đồng nghiệp của tôi đang ngồi làm việc chung một chiếc bàn rộng bên những tách trà ấm nóng, ngoài con lộ phía trước nhà, những người lính ngồi lắc lư trên những chiếc nón sắt khum mặt sụp xuống những đốm lửa đỏ rực trên môi, ba bốn tên đứng trước sân bật ngọn đèn pin nhỏ dí sát mặt vào bản đồ ánh sáng chạy quanh khu đóng quân đêm, một tên mang súng ngắn bên hông, một tên tì khuỷu tay trên giá súng chống ngược mũi súng dựng trên giày trận và nhất định sẽ có những tên ngủ ngồi đầu gục xuống hai cánh tay khoanh gọn tì trên hai đầu gối. Tiếng máy sè sè và lời chửi tục, tiếng lách cách kim khí của cơ bầm súng được kiểm soát lại đã lên nòng chưa. Họ đợi lệnh vượt tuyến xuất phát, cùng trong giờ khắc ấy những loạt đạn trọng pháo từ một căn cứ Mỹ ở xa bắn quấy

Page 13: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

86 86

rối yểm trợ Quận và các đơn vị bạn “làm ăn” đêm nổ rền âm âm, tiếng rung chuyển vang vọng gạch ngói, cửa kính thốn trong đầu óc tôi lùng bùng hai lỗ tai những trái đạn rớt gần. Tôi vẫn có thể thấy (vẫn trong tưởng tượng) vẻ vội vã hấp tấp cùng giọng khẩn thiết của tên mang máy kêu gọi các “thẩm quyền” của họ về họp tại Bộ Chỉ Huy Đại Đội. Tin tình báo từ B2/TRD cho biết có mấy trăm “bê bối” đang di chuyển từ “số nhà”… đến… Họ hò hét ra lệnh cho “con cái” phải thận trọng khi di chuyển và canh gác cẩn mật đặt thêm những toán “kích” “tiền đồn” báo động. Tên Đại Đội Trưởng nhỏ bé khôn ngoan, tên to lớn thẳng, tên cao ốm đen đúa lì lợm. Buổi sáng họ trở về xôn xao bên quán chợ mở sớm đợi chuyến trực thăng tới “bốc đi”. Tôi đã thuộc từng tên họ, quen từng mặt mũi, nhận ra từng giọng nói, thuộc từng tiếng “lóng” truyền tin thông thường sử dụng trong đơn vị họ từ cửa miệng của những người lính. Khi ném tôi vào một xó tối trong hầm trú ẩn đêm ngọn đèn dầu lung lay hắt dội những cái bóng lớn hơn người gấp bội cùng những tiếng rung chuyển nạt nộ sinh mạng mình. Tôi vẫn có thể tưởng thấy khuôn mặt những kẻ chết trong trận chạm súng S trong vụ tấn công C kẻ mất tích thuyên chuyển. Tôi thấy rõ như chính tôi đang sống đời sống một chiến sĩ. Tôi ngó ngang hắn một lần nữa khuôn mặt căm căm lừ lừ cặp mắt lớn phồng lên một cách đáng sợ những sợi gân xanh vằn trên thái dương mồ hôi sắp giọt một sự căng thẳng nào trong tâm trí hắn sắp sửa phựt đứt, một sự đột ngột kích động trong đầu óc chợt có khuôn mặt ấy biến dạng dị thường những sợi râu đen run trên cằm trên cánh tay cầm súng bắp thịt nổi phồng một trạng thái chuyển động tưởng tượng làm tôi chóng mặt, muốn nôn, tôi muốn la lên hay làm một cử động mạnh bạo để làm đứt đi sợi dây căng vô hình khó chịu giữa tôi và hắn ít nhất cũng là hai hành khách đồng loại trên xe. Hai má tôi nóng đỏ vì giận

rối yểm trợ Quận và các đơn vị bạn “làm ăn” đêm nổ rền âm âm, tiếng rung chuyển vang vọng gạch ngói, cửa kính thốn trong đầu óc tôi lùng bùng hai lỗ tai những trái đạn rớt gần. Tôi vẫn có thể thấy (vẫn trong tưởng tượng) vẻ vội vã hấp tấp cùng giọng khẩn thiết của tên mang máy kêu gọi các “thẩm quyền” của họ về họp tại Bộ Chỉ Huy Đại Đội. Tin tình báo từ B2/TRD cho biết có mấy trăm “bê bối” đang di chuyển từ “số nhà”… đến… Họ hò hét ra lệnh cho “con cái” phải thận trọng khi di chuyển và canh gác cẩn mật đặt thêm những toán “kích” “tiền đồn” báo động. Tên Đại Đội Trưởng nhỏ bé khôn ngoan, tên to lớn thẳng, tên cao ốm đen đúa lì lợm. Buổi sáng họ trở về xôn xao bên quán chợ mở sớm đợi chuyến trực thăng tới “bốc đi”. Tôi đã thuộc từng tên họ, quen từng mặt mũi, nhận ra từng giọng nói, thuộc từng tiếng “lóng” truyền tin thông thường sử dụng trong đơn vị họ từ cửa miệng của những người lính. Khi ném tôi vào một xó tối trong hầm trú ẩn đêm ngọn đèn dầu lung lay hắt dội những cái bóng lớn hơn người gấp bội cùng những tiếng rung chuyển nạt nộ sinh mạng mình. Tôi vẫn có thể tưởng thấy khuôn mặt những kẻ chết trong trận chạm súng S trong vụ tấn công C kẻ mất tích thuyên chuyển. Tôi thấy rõ như chính tôi đang sống đời sống một chiến sĩ. Tôi ngó ngang hắn một lần nữa khuôn mặt căm căm lừ lừ cặp mắt lớn phồng lên một cách đáng sợ những sợi gân xanh vằn trên thái dương mồ hôi sắp giọt một sự căng thẳng nào trong tâm trí hắn sắp sửa phựt đứt, một sự đột ngột kích động trong đầu óc chợt có khuôn mặt ấy biến dạng dị thường những sợi râu đen run trên cằm trên cánh tay cầm súng bắp thịt nổi phồng một trạng thái chuyển động tưởng tượng làm tôi chóng mặt, muốn nôn, tôi muốn la lên hay làm một cử động mạnh bạo để làm đứt đi sợi dây căng vô hình khó chịu giữa tôi và hắn ít nhất cũng là hai hành khách đồng loại trên xe. Hai má tôi nóng đỏ vì giận

Page 14: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

87 87

dữ hay vì cơn nắng cháy giữa trưa; một cơn gió chạy rất xa như một con ngựa vằn hất tung bụi trắng kéo theo những cây cành mềm lả ngọn. Hắn có cây súng, giá như lúc này, nếu được chết, cái chết của hắn được gọi là một chiến sĩ, chúng ta chỉ là nạn nhân. Có phải thực sự chúng ta chỉ là nạn nhân không? Chúng ta chỉ là nạn nhân đáng thương được chết trên quê hương bằng cái chết những giọt máu vô giá trị như súc vật đang làm nạn nhân cho sự tàn bạo con người. Tiếng súng đột ngột chát chúa ngay trên xe, người tài xế già hoảng hốt đạp thắng người xô về phía trước tôi cũng chúi về phía trước đầu va vào thành xe gượng lại một cảm giác đau điếng một vài tiếng rú lạc giọng phía sau rồi im bặt. Cây súng còn bốc khói nơi bàn tay hắn còn run rẩy trong một thoáng hắn như trút bỏ được lốt cũ vẻ mặt dịu lại xúc động trên hai viền mắt ửng đỏ một giọt nước mắt. Viên đạn bay sượt qua chân hắn xước một miếng da dòng máu đỏ và lỏng xanh. Xe lại tiếp tục chạy, tôi nghĩ đến số phận hắn, số phận những tên như hắn ngồi ở bãi đáp trực thăng, ngồi đợi đến phiên mình. Mỗi ngày vội thức dậy, vội uống một ly cà phê, vội ăn nắm xôi, vội đến tuyến xuất phát, vội đi, vội ăn một miếng cơm, vội ngủ giấc ngắn ở mục tiêu an toàn, vội sống từng ngày để vội chết. Trong tim óc họ phải có một điều gì muốn nói, thân thể họ phải có một chút gì của riêng, những thứ đó nín nhịn hoài trong ngực không thể thốt ra cửa miệng. Ông xuống đây, chiếc xe như khựng lại; ông xuống đây, chiếc xe ngừng lại hẳn. Hắn với tay tự mở lấy cửa loạng choạng khi hắn bước xuống mặt đất, quay đi, đôi vai rung trơn trượt trên bờ đất lún. Một vài lời tục tằn thô lỗ nguyền rủa khi xe tiếp tục chạy nốt quãng đường còn lại. Đồ điên khùng. Tôi thấy một chút xót thương hắn hay cho chính mình, nỗi tuyệt vọng trong chúng ta khởi từ những nín nhịn không thể thốt

dữ hay vì cơn nắng cháy giữa trưa; một cơn gió chạy rất xa như một con ngựa vằn hất tung bụi trắng kéo theo những cây cành mềm lả ngọn. Hắn có cây súng, giá như lúc này, nếu được chết, cái chết của hắn được gọi là một chiến sĩ, chúng ta chỉ là nạn nhân. Có phải thực sự chúng ta chỉ là nạn nhân không? Chúng ta chỉ là nạn nhân đáng thương được chết trên quê hương bằng cái chết những giọt máu vô giá trị như súc vật đang làm nạn nhân cho sự tàn bạo con người. Tiếng súng đột ngột chát chúa ngay trên xe, người tài xế già hoảng hốt đạp thắng người xô về phía trước tôi cũng chúi về phía trước đầu va vào thành xe gượng lại một cảm giác đau điếng một vài tiếng rú lạc giọng phía sau rồi im bặt. Cây súng còn bốc khói nơi bàn tay hắn còn run rẩy trong một thoáng hắn như trút bỏ được lốt cũ vẻ mặt dịu lại xúc động trên hai viền mắt ửng đỏ một giọt nước mắt. Viên đạn bay sượt qua chân hắn xước một miếng da dòng máu đỏ và lỏng xanh. Xe lại tiếp tục chạy, tôi nghĩ đến số phận hắn, số phận những tên như hắn ngồi ở bãi đáp trực thăng, ngồi đợi đến phiên mình. Mỗi ngày vội thức dậy, vội uống một ly cà phê, vội ăn nắm xôi, vội đến tuyến xuất phát, vội đi, vội ăn một miếng cơm, vội ngủ giấc ngắn ở mục tiêu an toàn, vội sống từng ngày để vội chết. Trong tim óc họ phải có một điều gì muốn nói, thân thể họ phải có một chút gì của riêng, những thứ đó nín nhịn hoài trong ngực không thể thốt ra cửa miệng. Ông xuống đây, chiếc xe như khựng lại; ông xuống đây, chiếc xe ngừng lại hẳn. Hắn với tay tự mở lấy cửa loạng choạng khi hắn bước xuống mặt đất, quay đi, đôi vai rung trơn trượt trên bờ đất lún. Một vài lời tục tằn thô lỗ nguyền rủa khi xe tiếp tục chạy nốt quãng đường còn lại. Đồ điên khùng. Tôi thấy một chút xót thương hắn hay cho chính mình, nỗi tuyệt vọng trong chúng ta khởi từ những nín nhịn không thể thốt

Page 15: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

88 88

ra cửa miệng, không thể nói cho kẻ khác thấy cho nguôi vơi. Khi ngó xuống chiếc vỏ đạn đồng ong óng lăn lóc trên băng xe, tôi nghĩ đến hắn; thiếu gì kẻ còn ăn còn thở mà như đã chết, thiếu gì đời sống trong chúng ta như viên đạn được bắn đi vô tình hay cố ý chỉ còn chiếc vỏ như chiếc vỏ vô dụng kia. Và chuyến xe đưa tôi tới đó như một định mệnh du tôi gần về cái chết ở cả hai định nghĩa đều được cả. Khoa Hữu (Khởi Hành Số 18 ra ngày Thứ năm ngày 28 tháng 8 năm 1969)

▄▄▄▄▄▄▄

LÊ BÁ LĂNG Buổi dừng quân

Thằng Nuôi cầm chai "33" vừa múa vừa gọi tôi: Thiếu úy, thiếu úy. Tôi định bỏ đi thẳng nhưng thằng Bảy đã rời bàn rượu chạy kéo tôi vào: - Ngồi với em út cho vui đi đại ca. - "33" nghe đại ca. - Ừ, chi cũng được. Buổi trưa trời nắng gắt, con nắng như muốn làm khô đi lượng nước đã ngập đầy những cánh đồng sau mấy tuần mưa lụt. Trên mặt bàn, mấy gói mực khô Đại Hàn xé dở; gương mặt thằng Nuôi chưa tái nhưng cặp mắt hắn đã đỏ ké. Thằng Bảy vừa rót rượu vào cốc vừa réo người đàn bà chủ quán:

ra cửa miệng, không thể nói cho kẻ khác thấy cho nguôi vơi. Khi ngó xuống chiếc vỏ đạn đồng ong óng lăn lóc trên băng xe, tôi nghĩ đến hắn; thiếu gì kẻ còn ăn còn thở mà như đã chết, thiếu gì đời sống trong chúng ta như viên đạn được bắn đi vô tình hay cố ý chỉ còn chiếc vỏ như chiếc vỏ vô dụng kia. Và chuyến xe đưa tôi tới đó như một định mệnh du tôi gần về cái chết ở cả hai định nghĩa đều được cả. Khoa Hữu (Khởi Hành Số 18 ra ngày Thứ năm ngày 28 tháng 8 năm 1969)

▄▄▄▄▄▄▄

LÊ BÁ LĂNG Buổi dừng quân

Thằng Nuôi cầm chai "33" vừa múa vừa gọi tôi: Thiếu úy, thiếu úy. Tôi định bỏ đi thẳng nhưng thằng Bảy đã rời bàn rượu chạy kéo tôi vào: - Ngồi với em út cho vui đi đại ca. - "33" nghe đại ca. - Ừ, chi cũng được. Buổi trưa trời nắng gắt, con nắng như muốn làm khô đi lượng nước đã ngập đầy những cánh đồng sau mấy tuần mưa lụt. Trên mặt bàn, mấy gói mực khô Đại Hàn xé dở; gương mặt thằng Nuôi chưa tái nhưng cặp mắt hắn đã đỏ ké. Thằng Bảy vừa rót rượu vào cốc vừa réo người đàn bà chủ quán:

Page 16: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

89 89

- Thêm nhiều "33" nữa đi chị Hai. Mụ Hồng vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trước trán, liếc tình thằng Nuôi: - Mấy chai nữa anh? - Chừng nào say thôi. Thằng Nuôi vỗ vỗ túi áo trả lời. Trời vẫn im gió, mồ hôi thấm ướt lần vải mỏng sau lưng áo mụ Hồng, để lộ khoảng da trắng muốt. Bên kia cánh đồng, dòng sông Lại Giang trải dài bao quanh con đường đá đỏ gồ ghề dẫn lên Quốc lộ Một. Con đường đã mang tôi về phố những giờ phép ngắn ngủi hiếm hoi, con đường nhắc tôi những mất mát ngày một nhiều, một cuộc tình, một căn nhà cũ, đổ nát, tan hoang; những bạn bè mỗi thằng một nẻo... tôi không còn gì ngoài nỗi buồn mỗi lần trở lại nhìn những thềm gạch vụn, những chỗ ngồi của Lữ, của Hùng, của Xuân, của Ngọc... những kỷ niệm dập dồn nổi sóng. Tôi thấy mình bất lực và đã bao lần muốn trốn chạy, muốn bỏ đi. Thằng Bảy đưa ly cụng vào ly tôi nói thiếu úy cứ uống. Tụi em chịu chơi lắm mà. Uống đi ông. Tôi nhìn thằng Nuôi rồi nhìn mụ Hồng. Gần ba mươi mấy tuổi rồi, mụ vẫn chưa tìm được người đàn ông chung thủy. Thằng Nam bảo trước kia mụ làm điếm ở Sài Gòn có tiếng, sau về đây chôn ông già bị Việt Cộng giết rồi gặp lúc quân đội về bình định quận này, mụ ở nán lại mở quán nhậu luôn. Những lời đồn đại về mụ cũng nhiều nhưng không vì vậy mà quán mụ ít khách. Những buổi dừng quân như thế này, ngoài đám khách hàng quen thuộc thường ngày gồm mấy toán nghĩa quân, mấy nhân viên hành chánh quận, còn có chúng tôi nên quán lúc nào cũng có người, có tiếng cười, tiếng nói. Mụ Hồng cũng khôn ngoan, biết chiều khách nên đã hơn năm trời buôn bán ở đây mà chẳng ai ăn lường hay có ý định phá phách quán này. Tôi bấm thằng Nuôi hỏi nhỏ : - Có vụ hả mày? Hắn kề miệng vào tai tôi: - Dạ, đại khái thôi thiếu úy. Thằng Bảy được dịp chen vào: - Thật tiếc quá, bữa nay tôi còn tiếc.

- Thêm nhiều "33" nữa đi chị Hai. Mụ Hồng vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trước trán, liếc tình thằng Nuôi: - Mấy chai nữa anh? - Chừng nào say thôi. Thằng Nuôi vỗ vỗ túi áo trả lời. Trời vẫn im gió, mồ hôi thấm ướt lần vải mỏng sau lưng áo mụ Hồng, để lộ khoảng da trắng muốt. Bên kia cánh đồng, dòng sông Lại Giang trải dài bao quanh con đường đá đỏ gồ ghề dẫn lên Quốc lộ Một. Con đường đã mang tôi về phố những giờ phép ngắn ngủi hiếm hoi, con đường nhắc tôi những mất mát ngày một nhiều, một cuộc tình, một căn nhà cũ, đổ nát, tan hoang; những bạn bè mỗi thằng một nẻo... tôi không còn gì ngoài nỗi buồn mỗi lần trở lại nhìn những thềm gạch vụn, những chỗ ngồi của Lữ, của Hùng, của Xuân, của Ngọc... những kỷ niệm dập dồn nổi sóng. Tôi thấy mình bất lực và đã bao lần muốn trốn chạy, muốn bỏ đi. Thằng Bảy đưa ly cụng vào ly tôi nói thiếu úy cứ uống. Tụi em chịu chơi lắm mà. Uống đi ông. Tôi nhìn thằng Nuôi rồi nhìn mụ Hồng. Gần ba mươi mấy tuổi rồi, mụ vẫn chưa tìm được người đàn ông chung thủy. Thằng Nam bảo trước kia mụ làm điếm ở Sài Gòn có tiếng, sau về đây chôn ông già bị Việt Cộng giết rồi gặp lúc quân đội về bình định quận này, mụ ở nán lại mở quán nhậu luôn. Những lời đồn đại về mụ cũng nhiều nhưng không vì vậy mà quán mụ ít khách. Những buổi dừng quân như thế này, ngoài đám khách hàng quen thuộc thường ngày gồm mấy toán nghĩa quân, mấy nhân viên hành chánh quận, còn có chúng tôi nên quán lúc nào cũng có người, có tiếng cười, tiếng nói. Mụ Hồng cũng khôn ngoan, biết chiều khách nên đã hơn năm trời buôn bán ở đây mà chẳng ai ăn lường hay có ý định phá phách quán này. Tôi bấm thằng Nuôi hỏi nhỏ : - Có vụ hả mày? Hắn kề miệng vào tai tôi: - Dạ, đại khái thôi thiếu úy. Thằng Bảy được dịp chen vào: - Thật tiếc quá, bữa nay tôi còn tiếc.

Page 17: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

90 90

Tôi bảo mày lại định nhắc chuyện cũ à. Hắn tớp một ngụm bia rồi ra dấu tiếc rẻ nói: - Thì cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng thì tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lã là nó chỉ, nó khai hết. Ông để tụi Quân Báo mập quá trời... Tôi nói thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đội, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền mãi, chán phèo… Thằng Nuôi vẫn lè nhè, chặc lưỡi: - Hai trăm ngàn? Hai trăm ngàn tui chỉ nạp thiếu úy một nửa, một nửa tui nhậu lai rai với bạn bè, sức mấy Đại Bàng biết được. Tui tác chiến mấy năm rồi, lên lon xuống cấp mãi cũng vì mấy thằng kinh tài Việt Cộng đó. Ông mới ra trường, xin lỗi ông đừng giận, ông đâu kinh nghiệm bằng tui. Tôi cầm chai "33" dằn mạnh xuống bàn hét im đi - rồi tu một hơi và đứng dậy bỏ ra khỏi quán. Sau lưng tôi, tiếng thằng Bảy vọng theo: Thiếu úy, thiếu úy, hắn say nói bậy, ông giận tụi tui làm gì. Tôi nghe như một chuỗi âm vang từ cõi lạ nào. Trời vẫn nắng gay. Một vài tên lính lang thang gặp tôi đưa tay chào. Tôi mỉm cười với chúng, đi thẳng về phía quận, tôi muốn tìm một giấc ngủ để nguôi quên, để đuổi xua những mỏi mệt sau mỗi lần hoạt động trở về. Trước mặt tôi, bộ chỉ huy hành quân trung đoàn chờn vờn nhảy nhịp. Tôi gục xuống cửa "tăng-xê" và có cảm giác được dìu lên võng nằm. oOo Cuộc lục soát bắt đầu từ mười giờ sáng đến mười hai giờ trưa nhưng vẫn chẳng thấy dấu vết gì ngoài những căn hầm trú ẩn đã bị phá, những ngôi nhà đổ, vườn tược bỏ hoang. Đại Bàng cho lệnh tạm ngừng để cơm nước. Tôi nghĩ thầm phải chăng vùng này đã hết Việt Cộng? Những cuộc hành quân lục soát cấp tiểu đoàn trước đây năm sáu tháng đã thành công đến thế sao? Tôi chọn một căn nhà tranh gần con lộ nhỏ, chia vị trí canh

Tôi bảo mày lại định nhắc chuyện cũ à. Hắn tớp một ngụm bia rồi ra dấu tiếc rẻ nói: - Thì cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng thì tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lã là nó chỉ, nó khai hết. Ông để tụi Quân Báo mập quá trời... Tôi nói thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đội, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền mãi, chán phèo… Thằng Nuôi vẫn lè nhè, chặc lưỡi: - Hai trăm ngàn? Hai trăm ngàn tui chỉ nạp thiếu úy một nửa, một nửa tui nhậu lai rai với bạn bè, sức mấy Đại Bàng biết được. Tui tác chiến mấy năm rồi, lên lon xuống cấp mãi cũng vì mấy thằng kinh tài Việt Cộng đó. Ông mới ra trường, xin lỗi ông đừng giận, ông đâu kinh nghiệm bằng tui. Tôi cầm chai "33" dằn mạnh xuống bàn hét im đi - rồi tu một hơi và đứng dậy bỏ ra khỏi quán. Sau lưng tôi, tiếng thằng Bảy vọng theo: Thiếu úy, thiếu úy, hắn say nói bậy, ông giận tụi tui làm gì. Tôi nghe như một chuỗi âm vang từ cõi lạ nào. Trời vẫn nắng gay. Một vài tên lính lang thang gặp tôi đưa tay chào. Tôi mỉm cười với chúng, đi thẳng về phía quận, tôi muốn tìm một giấc ngủ để nguôi quên, để đuổi xua những mỏi mệt sau mỗi lần hoạt động trở về. Trước mặt tôi, bộ chỉ huy hành quân trung đoàn chờn vờn nhảy nhịp. Tôi gục xuống cửa "tăng-xê" và có cảm giác được dìu lên võng nằm. oOo Cuộc lục soát bắt đầu từ mười giờ sáng đến mười hai giờ trưa nhưng vẫn chẳng thấy dấu vết gì ngoài những căn hầm trú ẩn đã bị phá, những ngôi nhà đổ, vườn tược bỏ hoang. Đại Bàng cho lệnh tạm ngừng để cơm nước. Tôi nghĩ thầm phải chăng vùng này đã hết Việt Cộng? Những cuộc hành quân lục soát cấp tiểu đoàn trước đây năm sáu tháng đã thành công đến thế sao? Tôi chọn một căn nhà tranh gần con lộ nhỏ, chia vị trí canh

Page 18: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

91 91

phòng cho các tiểu đội rồi bảo thằng Nam đem thức ăn nguội kiếm bếp hâm. Căn nhà không có ai ngoài một người đàn bà cùng ba đứa bé. Tôi hỏi lúc người đàn bà bước ra cửa: - Đi đâu hết chị? - Dạ chỉ có mấy mẹ con em đây thôi. - Chồng chị đâu? - Dạ vào làm ăn trong Đà Nẵng. - Đà Nẵng? Tôi hỏi lại và nhìn kỹ bốn góc nhà. Thằng Bảy cầm sẵn lưỡi lê đưa vào bụng người đàn bà uy hiếp: - Làm ăn con mẹ gì? Đà Nẵng hay lên bưng? Người đàn bà vẫn bình tĩnh lặp lại: - Dạ ảnh lái xe trong Đà Nẵng thật mà. Tôi giật tay thằng Bảy nói thôi được, để tụi này ăn xong hẳn rõ. Thằng Nuôi háy tôi bảo coi bộ bà này khó tin quá thiếu úy. Thằng Bảy cũng lộ vẻ nghi ngờ. Mấy đứa bé thấy chúng tôi ôm nhau ngồi nép dưới một góc tường, vẻ sợ hãi. Mái tranh nhiều nơi đã dột nát. Người đàn bà giúp chúng tôi dọn thức ăn ra chiếc phản mọt giữa nhà. Tôi vừa ăn vừa hỏi tiếp sao chị không đem con vào Đà Nẵng theo anh cho tiện? Ở đấy yên lắm sao chị chẳng chịu đi. Người đàn bà ngồi mân mê chéo áo dài đen đã bạc màu nói dạ dạ có đi rồi mà phải về lại, ảnh không thích ảnh nói về đây chịu khó chịu cực khổ chi cũng được, sống qua ngày, trong nớ vật giá mắc mỏ, làm sao cho đủ ăn. Vả lại còn ngày đơm tháng kỵ còn nhà cửa ruộng vườn, mồ mả. Thằng Nuôi trợn mắt ý chừng muốn chửi thề hay rủa một câu gì, chợt nghe tiếng thằng Hải tiểu đội một hét phía hông nhà: - Lên! Lên không tao bắn nát óc ngay. Cả bọn chạy ùa ra. Tôi mở khóa an toàn cây M.16 và cho lệnh giữ người đàn bà tức khắc. Tiểu đội thằng Hải đã bố trí mặt sau nhà. Tôi hỏi lớn: - Gì thế Hải ? - Vi-xi. Vi-xi lại đây mau thiếu úy! Trong lùm tre rậm, dáng một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đang lồm cồm bò lên từ vũng nước. Thằng Hải

phòng cho các tiểu đội rồi bảo thằng Nam đem thức ăn nguội kiếm bếp hâm. Căn nhà không có ai ngoài một người đàn bà cùng ba đứa bé. Tôi hỏi lúc người đàn bà bước ra cửa: - Đi đâu hết chị? - Dạ chỉ có mấy mẹ con em đây thôi. - Chồng chị đâu? - Dạ vào làm ăn trong Đà Nẵng. - Đà Nẵng? Tôi hỏi lại và nhìn kỹ bốn góc nhà. Thằng Bảy cầm sẵn lưỡi lê đưa vào bụng người đàn bà uy hiếp: - Làm ăn con mẹ gì? Đà Nẵng hay lên bưng? Người đàn bà vẫn bình tĩnh lặp lại: - Dạ ảnh lái xe trong Đà Nẵng thật mà. Tôi giật tay thằng Bảy nói thôi được, để tụi này ăn xong hẳn rõ. Thằng Nuôi háy tôi bảo coi bộ bà này khó tin quá thiếu úy. Thằng Bảy cũng lộ vẻ nghi ngờ. Mấy đứa bé thấy chúng tôi ôm nhau ngồi nép dưới một góc tường, vẻ sợ hãi. Mái tranh nhiều nơi đã dột nát. Người đàn bà giúp chúng tôi dọn thức ăn ra chiếc phản mọt giữa nhà. Tôi vừa ăn vừa hỏi tiếp sao chị không đem con vào Đà Nẵng theo anh cho tiện? Ở đấy yên lắm sao chị chẳng chịu đi. Người đàn bà ngồi mân mê chéo áo dài đen đã bạc màu nói dạ dạ có đi rồi mà phải về lại, ảnh không thích ảnh nói về đây chịu khó chịu cực khổ chi cũng được, sống qua ngày, trong nớ vật giá mắc mỏ, làm sao cho đủ ăn. Vả lại còn ngày đơm tháng kỵ còn nhà cửa ruộng vườn, mồ mả. Thằng Nuôi trợn mắt ý chừng muốn chửi thề hay rủa một câu gì, chợt nghe tiếng thằng Hải tiểu đội một hét phía hông nhà: - Lên! Lên không tao bắn nát óc ngay. Cả bọn chạy ùa ra. Tôi mở khóa an toàn cây M.16 và cho lệnh giữ người đàn bà tức khắc. Tiểu đội thằng Hải đã bố trí mặt sau nhà. Tôi hỏi lớn: - Gì thế Hải ? - Vi-xi. Vi-xi lại đây mau thiếu úy! Trong lùm tre rậm, dáng một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đang lồm cồm bò lên từ vũng nước. Thằng Hải

Page 19: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

92 92

cười nói : - Đ. m, cha nội đội bèo có lẽ từ sáng giờ, ngộp quá nên ngoi đầu lên, gặp lúc tôi đi cầu, thật rủi cho ông bà nó quá. Tôi chỉ người đàn ông bảo tới đây coi cha nội. Khuôn mặt hắn tái bầm vì lạnh, trên lưng trần, mấy con đỉa no tròn còn đeo cứng. Thằng Nuôi móc túi quần lấy dây vừa trói vừa nạt : - Súng đâu mày? - Dạ em không có súng. - Em em gì, mày muốn chết hả? - Dạ không. - Vậy hầm bí mật đâu? - Dạ em không biết, em nghe bộ đội lên, chạy không kịp, em trốn đại dưới này chứ em không làm gì hết. Thằng Nuôi tát ngay mặt hắn một cái: - Đ.m., mày láo hả ? Rồi quay sang người đàn bà đang ôm mặt khóc, hắn hỏi : - Mẹ mày đây phải không? - Dạ... không, vợ em. Tôi gạt thằng Nuôi qua một bên, châm cho người đàn ông điếu thuốc, nâng cằm hắn lên, nhìn và bảo : - Mày giữ chức vụ gì ở đây? Thuộc đơn vị nào? Súng đâu? Biết gì hãy nói đi, lập công chuộc tội, tao sẽ đề nghị cho chiêu hồi, bị bắt rồi, đừng dối quanh, vô ích. Hắn vẫn chối dài, bộ thiểu não : - Dạ em không biết chi hết, thật mà. - A, lại ngoan cố. Thằng Bảy vừa khoa chân định đá một cú "genou" vào bụng tên Việt Cộng, nhưng tôi đã kịp cản lại. Cùng lúc, lệnh di chuyển cũng bắt đầu. Mấy đứa nhỏ đã bỏ nhà chạy ra đứng vây quanh người đàn bà khóc ngất. Tôi bảo thằng Đắc hiệu thính viên gọi máy xin ý kiến Đại Bàng : - Hãy cho dẫn đến gặp tôi. Cả hai vợ chồng. * Buổi chiều, lúc chúng tôi đã lục soát xong mục tiêu kế cận trở về, ngang qua căn nhà buổi sáng người đàn bà đã được trả tự do đang ngồi ôm mấy đứa con ngó mông xuống ngả

cười nói : - Đ. m, cha nội đội bèo có lẽ từ sáng giờ, ngộp quá nên ngoi đầu lên, gặp lúc tôi đi cầu, thật rủi cho ông bà nó quá. Tôi chỉ người đàn ông bảo tới đây coi cha nội. Khuôn mặt hắn tái bầm vì lạnh, trên lưng trần, mấy con đỉa no tròn còn đeo cứng. Thằng Nuôi móc túi quần lấy dây vừa trói vừa nạt : - Súng đâu mày? - Dạ em không có súng. - Em em gì, mày muốn chết hả? - Dạ không. - Vậy hầm bí mật đâu? - Dạ em không biết, em nghe bộ đội lên, chạy không kịp, em trốn đại dưới này chứ em không làm gì hết. Thằng Nuôi tát ngay mặt hắn một cái: - Đ.m., mày láo hả ? Rồi quay sang người đàn bà đang ôm mặt khóc, hắn hỏi : - Mẹ mày đây phải không? - Dạ... không, vợ em. Tôi gạt thằng Nuôi qua một bên, châm cho người đàn ông điếu thuốc, nâng cằm hắn lên, nhìn và bảo : - Mày giữ chức vụ gì ở đây? Thuộc đơn vị nào? Súng đâu? Biết gì hãy nói đi, lập công chuộc tội, tao sẽ đề nghị cho chiêu hồi, bị bắt rồi, đừng dối quanh, vô ích. Hắn vẫn chối dài, bộ thiểu não : - Dạ em không biết chi hết, thật mà. - A, lại ngoan cố. Thằng Bảy vừa khoa chân định đá một cú "genou" vào bụng tên Việt Cộng, nhưng tôi đã kịp cản lại. Cùng lúc, lệnh di chuyển cũng bắt đầu. Mấy đứa nhỏ đã bỏ nhà chạy ra đứng vây quanh người đàn bà khóc ngất. Tôi bảo thằng Đắc hiệu thính viên gọi máy xin ý kiến Đại Bàng : - Hãy cho dẫn đến gặp tôi. Cả hai vợ chồng. * Buổi chiều, lúc chúng tôi đã lục soát xong mục tiêu kế cận trở về, ngang qua căn nhà buổi sáng người đàn bà đã được trả tự do đang ngồi ôm mấy đứa con ngó mông xuống ngả

Page 20: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

93 93

quận, đôi mắt đỏ ngầu. Thằng Nuôi nói lớn với lũ bạn sau lưng. - Đ.m., đã theo Việt Cộng còn nói lái xe trong Đà Nẵng. Cả bọn cười ồ. Tôi xếp tấm bản đồ nhét vào bụng và liên lạc máy với thằng Ba, trung sĩ tiểu đội trưởng quân báo ở toán tiền sát : - Có gì không Ba? - Thằng hồi trưa hả? - Cảnh giới kiêm du kích địa phương, cũng xoàng thôi. - Thế hầm ? - Có chứ, hắn mới chịu dẫn đi chỉ đó. Bắt thêm một thằng huyện đội và hai tên tiểu đội trưởng bị thương. Lấy một colt Trung Cộng, hai tiểu liên Tiệp Khắc, một súng trường Nga. - Mông tại hay cổ tại? ... - Hai trăm thiên. Đã trình Đại Bàng. - Vậy là mày đỏ ngực nữa. - Cũng nhờ anh đó. Tôi nghe tiếng hắn cười cùng lúc với tiếng Đại Bàng bảo di chuyển nhanh kẻo trời tối. Tôi nhìn đồng hồ và chợt thấy lòng buồn nản lạ. Xuân giờ này chắc đang bãi lớp. Hai bên đường, nước mưa đã làm trôi nhiều lớp đất cát để lộ những hố chông đã mục. Cuộc chiến đã quá dài ngày. Hy vọng hòa bình vẫn như đốm lửa hạnh phúc của chúng mình, lóe lên rồi phụt tắt hoài mãi phải không Xuân? * Khi hai chiếc xuồng máy chở chúng tôi vừa cập bến thì toán Việt Cộng bên kia làng cũng vừa vượt khỏi con kinh trước mặt. Cuộc đột kích đã bị lộ. Tôi nhảy lên bờ, khoát tay làm hiệu, hét : - Xung phong! Thằng Bảy cầm cây M16 dẫn tiểu đội vừa chạy hàng ngang vừa bắn như điên ở cánh trái, tôi, tiểu đội thằng Hải, thằng Nuôi chạy cánh phải. Tiếng hò hét, tiếng súng át cả tiếng máy C.25 ra lệnh của Đại Bàng, nhưng chỉ mười phút sau, tiếng súng im hẳn, nhiều xác chết đã nằm phơi trên cỏ. Thằng Bảy vừa thở vừa dẫn một lúc bốn thằng bị trói cặp

quận, đôi mắt đỏ ngầu. Thằng Nuôi nói lớn với lũ bạn sau lưng. - Đ.m., đã theo Việt Cộng còn nói lái xe trong Đà Nẵng. Cả bọn cười ồ. Tôi xếp tấm bản đồ nhét vào bụng và liên lạc máy với thằng Ba, trung sĩ tiểu đội trưởng quân báo ở toán tiền sát : - Có gì không Ba? - Thằng hồi trưa hả? - Cảnh giới kiêm du kích địa phương, cũng xoàng thôi. - Thế hầm ? - Có chứ, hắn mới chịu dẫn đi chỉ đó. Bắt thêm một thằng huyện đội và hai tên tiểu đội trưởng bị thương. Lấy một colt Trung Cộng, hai tiểu liên Tiệp Khắc, một súng trường Nga. - Mông tại hay cổ tại? ... - Hai trăm thiên. Đã trình Đại Bàng. - Vậy là mày đỏ ngực nữa. - Cũng nhờ anh đó. Tôi nghe tiếng hắn cười cùng lúc với tiếng Đại Bàng bảo di chuyển nhanh kẻo trời tối. Tôi nhìn đồng hồ và chợt thấy lòng buồn nản lạ. Xuân giờ này chắc đang bãi lớp. Hai bên đường, nước mưa đã làm trôi nhiều lớp đất cát để lộ những hố chông đã mục. Cuộc chiến đã quá dài ngày. Hy vọng hòa bình vẫn như đốm lửa hạnh phúc của chúng mình, lóe lên rồi phụt tắt hoài mãi phải không Xuân? * Khi hai chiếc xuồng máy chở chúng tôi vừa cập bến thì toán Việt Cộng bên kia làng cũng vừa vượt khỏi con kinh trước mặt. Cuộc đột kích đã bị lộ. Tôi nhảy lên bờ, khoát tay làm hiệu, hét : - Xung phong! Thằng Bảy cầm cây M16 dẫn tiểu đội vừa chạy hàng ngang vừa bắn như điên ở cánh trái, tôi, tiểu đội thằng Hải, thằng Nuôi chạy cánh phải. Tiếng hò hét, tiếng súng át cả tiếng máy C.25 ra lệnh của Đại Bàng, nhưng chỉ mười phút sau, tiếng súng im hẳn, nhiều xác chết đã nằm phơi trên cỏ. Thằng Bảy vừa thở vừa dẫn một lúc bốn thằng bị trói cặp

Page 21: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

94 94

cánh đến trước mặt tôi: - Một mình em hạ hai thằng, bắt sống hai tên, phần thằng Nuôi hai tên đó. Tôi nhìn lui hai chiếc xuồng, bảo mày dẫn xuống giao cho thằng Nam giữ, chúng ta tiếp tục lục soát. Bỗng thằng Hải ở đàng xa vẫy tay tôi gọi lớn : - Súng, súng đây thiếu úy ơi. - Đâu? Tôi chạy đến chỗ hắn vừa chỉ, dưới bờ kinh, một cái xác lềnh bềnh nằm úp mặt xuống nước, hai tay còn ghì chặt một cây M16 bên cạnh năm khẩu tiểu liên 47. Thằng Hải nhắm cái xác bóp cò; một băng đạn nổ, hắn cười : - Thế cho chắc ăn, thiếu úy. Tôi nói thôi, xuống lật xác đi. Hải vươn mình nhảy ùm xuống nước. Bỗng hắn bưng mặt thét : - Trời! Thằng Nuôi sao lại nằm đây thiếu úy? Tôi thất thanh hỏi lại : - Ai? - Dạ, thằng Nuôi! * Tám giờ đêm, lúc cái xác thằng Nuôi đã được chở về quân y viện tôi bỏ bữa cơm tối, ra đứng trước bờ sông, gần phòng hội nhìn vơ vẩn. Đã qua mùa Đông nhưng trời còn lạnh. Lượng nước mưa trên mấy cánh đồng sau lưng quận và trước quán mụ Hồng lúc chiều ngồi uống rượu tôi thấy đã cạn nhiều. Con đường đất đỏ dẫn lên Quốc lộ Một nhập nhòa trong bóng tối vẽ một nét mờ trên mặt sông đêm. Tôi lại thấy nhớ Xuân, nhớ Lữ, nhớ Hùng... Không còn gì nữa: những cuộc đột kích như đùa giỡn với tử thần tôi đã quen nhưng sao trưa nay thằng Nuôi có thể chết âm thầm và dễ dàng như vậy được? Sao không là thằng Bảy, không là tôi? Trong “tăng-xê” thằng Nam vẫn đốt đèn ngồi cùng bọn thằng Hải, thằng Đắc. Trên một tấm ván thông vừa mới dựng, thằng Nam đã đặt cái cốc bằng nhựa đựng đầy gạo Mỹ, cắm mấy chân hương. Chỗ ngồi của mày đó Nuôi. Chỗ ngồi không bao giờ mày còn thấy, còn nhìn tao, còn say rượu nói tao mới ra trường chưa kinh nghiệm, chưa biết lấy tiền Việt Cộng đem xài...

cánh đến trước mặt tôi: - Một mình em hạ hai thằng, bắt sống hai tên, phần thằng Nuôi hai tên đó. Tôi nhìn lui hai chiếc xuồng, bảo mày dẫn xuống giao cho thằng Nam giữ, chúng ta tiếp tục lục soát. Bỗng thằng Hải ở đàng xa vẫy tay tôi gọi lớn : - Súng, súng đây thiếu úy ơi. - Đâu? Tôi chạy đến chỗ hắn vừa chỉ, dưới bờ kinh, một cái xác lềnh bềnh nằm úp mặt xuống nước, hai tay còn ghì chặt một cây M16 bên cạnh năm khẩu tiểu liên 47. Thằng Hải nhắm cái xác bóp cò; một băng đạn nổ, hắn cười : - Thế cho chắc ăn, thiếu úy. Tôi nói thôi, xuống lật xác đi. Hải vươn mình nhảy ùm xuống nước. Bỗng hắn bưng mặt thét : - Trời! Thằng Nuôi sao lại nằm đây thiếu úy? Tôi thất thanh hỏi lại : - Ai? - Dạ, thằng Nuôi! * Tám giờ đêm, lúc cái xác thằng Nuôi đã được chở về quân y viện tôi bỏ bữa cơm tối, ra đứng trước bờ sông, gần phòng hội nhìn vơ vẩn. Đã qua mùa Đông nhưng trời còn lạnh. Lượng nước mưa trên mấy cánh đồng sau lưng quận và trước quán mụ Hồng lúc chiều ngồi uống rượu tôi thấy đã cạn nhiều. Con đường đất đỏ dẫn lên Quốc lộ Một nhập nhòa trong bóng tối vẽ một nét mờ trên mặt sông đêm. Tôi lại thấy nhớ Xuân, nhớ Lữ, nhớ Hùng... Không còn gì nữa: những cuộc đột kích như đùa giỡn với tử thần tôi đã quen nhưng sao trưa nay thằng Nuôi có thể chết âm thầm và dễ dàng như vậy được? Sao không là thằng Bảy, không là tôi? Trong “tăng-xê” thằng Nam vẫn đốt đèn ngồi cùng bọn thằng Hải, thằng Đắc. Trên một tấm ván thông vừa mới dựng, thằng Nam đã đặt cái cốc bằng nhựa đựng đầy gạo Mỹ, cắm mấy chân hương. Chỗ ngồi của mày đó Nuôi. Chỗ ngồi không bao giờ mày còn thấy, còn nhìn tao, còn say rượu nói tao mới ra trường chưa kinh nghiệm, chưa biết lấy tiền Việt Cộng đem xài...

Page 22: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

95 95

Bên tai tôi, giọng thằng Nam từ tốn đọc bức thư tìm thấy trong túi áo thằng Nuôi lúc chiều : “ Em Soạn. Anh đổi ra xứ Huế này gần trọn một năm nhưng vẫn chưa có phép về Sài Gòn để thăm em và các con, thăm tía má, bởi đơn vị bận hành quân mãi. Tháng trước, thằng Tính bạn anh đã về Sài Gòn bảy hôm nhờ nó tìm được một hầm súng của Việt Cộng. Anh thấy thế mà thèm. Anh vẫn khoẻ mạnh, còn hơn dạo ở Pleiku nữa. Dạo đó, anh gặp hầm luôn, có tiền lại có phép nữa, bây giờ nghĩ lại, anh thấy anh tồi quá, nhất là để em phải khổ một mình. Tuần trước, nếu ông trung đội trưởng anh chịu chơi một chút, anh đã kiếm được cả phép lẫn tiền rồi. Ông nhân đạo quá. Đ.m., Việt Cộng nó giết mình như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập. Anh thương ổng quá chứ không thì anh xin qua tiểu đội quân báo rồi. Nãy giờ anh nói nhiều vậy chắc em cũng khó hiểu. Thôi để lúc nào về phép được anh sẽ kể rõ hơn...” ( Văn 121, năm 1969) Sơ lược tiểu sử. Lê Bá Lăng là tên thật. Sinh năm 1943 tại Huế. Tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn. Động viên vào Thủ Đức. Phục vụ ở đơn vị tác chiến một thời gian, rồi được biệt phái trở về dạy lại. Mất năm 1989, thọ 46 tuổi. ▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄

Bên tai tôi, giọng thằng Nam từ tốn đọc bức thư tìm thấy trong túi áo thằng Nuôi lúc chiều : “ Em Soạn. Anh đổi ra xứ Huế này gần trọn một năm nhưng vẫn chưa có phép về Sài Gòn để thăm em và các con, thăm tía má, bởi đơn vị bận hành quân mãi. Tháng trước, thằng Tính bạn anh đã về Sài Gòn bảy hôm nhờ nó tìm được một hầm súng của Việt Cộng. Anh thấy thế mà thèm. Anh vẫn khoẻ mạnh, còn hơn dạo ở Pleiku nữa. Dạo đó, anh gặp hầm luôn, có tiền lại có phép nữa, bây giờ nghĩ lại, anh thấy anh tồi quá, nhất là để em phải khổ một mình. Tuần trước, nếu ông trung đội trưởng anh chịu chơi một chút, anh đã kiếm được cả phép lẫn tiền rồi. Ông nhân đạo quá. Đ.m., Việt Cộng nó giết mình như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập. Anh thương ổng quá chứ không thì anh xin qua tiểu đội quân báo rồi. Nãy giờ anh nói nhiều vậy chắc em cũng khó hiểu. Thôi để lúc nào về phép được anh sẽ kể rõ hơn...” ( Văn 121, năm 1969) Sơ lược tiểu sử. Lê Bá Lăng là tên thật. Sinh năm 1943 tại Huế. Tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn. Động viên vào Thủ Đức. Phục vụ ở đơn vị tác chiến một thời gian, rồi được biệt phái trở về dạy lại. Mất năm 1989, thọ 46 tuổi. ▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄

Page 23: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

96 96

LÊ VĂN THIỆN

Một lối tiện lợi

Ngự đến ngồi bên trái tôi, chị kín đáo ngó xuống hai gối mình, vuốt nhanh mấy sợi tóc phủ trước trán rồi mới cầm đũa. Bà cụ bưng cây đèn lớn từ nhà trên đem đặt lên tủ ăn. Độ này điện hay cúp bất thường nên phải phòng hờ. Tiền đang xóc đũa lọc xọc, thấy vậy la lên: - Cụ lo xa quá, chắc chi điện tắt mà cụ lo. Phàm trừng mắt: - Lo thì sao. Mày chọn gì trong bó đũa dữ vậy, ồn ào. - Tìm hai chiếc đũa đồng nhau, ăn đũa so le xóc hông – nó cau mặt – đùa tí, gì mà ồn ào bà. - Mày đùa với cụ hở? - Phàm sừng sộ. Viết bưng chén xới xới cho cơm rời, la: - Thôi giảng hòa đi. Mời anh Trạng, mời quý vị. Bà cụ ra ngoài, Tiền thấy, kêu đón: - Ơ, cụ không dùng cơm luôn. - Tối tao ăn sau. Mới làm miếng bánh lúc xế, giờ còn nằm trong cổ. Chị Ngự nói: - Lâu lâu lại nghe bảo thức ăn nằm nơi cổ. Bánh chặn cổ mà cụ thở được. - Có lý chứ. Miếng bánh chỉ kẹt dính một nửa thực quản thôi, bên nửa còn lại trống tha hồ thở – Tiền nói xong cười hích hích. Cái bàn rộng bằng hai chiếc mâm, vừa dùng làm bàn vừa làm mâm. Chân nó quá thấp nên người ngồi thật khó tìm một lối ngồi thích hợp. Lần đầu ăn chung với tập đoàn này, tôi cố tạo cho mình một tư thế vững vàng, đẩy sự ngượng ngập đi xa, để khỏi mất mặt. Dù gì mình cũng là phái mạnh. Lại nữa là lính, lính tráng yếu chúng cười vào mũi. Tôi cẩn thận lùa cơm, cẩn thận gắp cá, và từ tốn múc canh chua. Tiền vẫn giữ tính làm rộn của nó:

LÊ VĂN THIỆN

Một lối tiện lợi

Ngự đến ngồi bên trái tôi, chị kín đáo ngó xuống hai gối mình, vuốt nhanh mấy sợi tóc phủ trước trán rồi mới cầm đũa. Bà cụ bưng cây đèn lớn từ nhà trên đem đặt lên tủ ăn. Độ này điện hay cúp bất thường nên phải phòng hờ. Tiền đang xóc đũa lọc xọc, thấy vậy la lên: - Cụ lo xa quá, chắc chi điện tắt mà cụ lo. Phàm trừng mắt: - Lo thì sao. Mày chọn gì trong bó đũa dữ vậy, ồn ào. - Tìm hai chiếc đũa đồng nhau, ăn đũa so le xóc hông – nó cau mặt – đùa tí, gì mà ồn ào bà. - Mày đùa với cụ hở? - Phàm sừng sộ. Viết bưng chén xới xới cho cơm rời, la: - Thôi giảng hòa đi. Mời anh Trạng, mời quý vị. Bà cụ ra ngoài, Tiền thấy, kêu đón: - Ơ, cụ không dùng cơm luôn. - Tối tao ăn sau. Mới làm miếng bánh lúc xế, giờ còn nằm trong cổ. Chị Ngự nói: - Lâu lâu lại nghe bảo thức ăn nằm nơi cổ. Bánh chặn cổ mà cụ thở được. - Có lý chứ. Miếng bánh chỉ kẹt dính một nửa thực quản thôi, bên nửa còn lại trống tha hồ thở – Tiền nói xong cười hích hích. Cái bàn rộng bằng hai chiếc mâm, vừa dùng làm bàn vừa làm mâm. Chân nó quá thấp nên người ngồi thật khó tìm một lối ngồi thích hợp. Lần đầu ăn chung với tập đoàn này, tôi cố tạo cho mình một tư thế vững vàng, đẩy sự ngượng ngập đi xa, để khỏi mất mặt. Dù gì mình cũng là phái mạnh. Lại nữa là lính, lính tráng yếu chúng cười vào mũi. Tôi cẩn thận lùa cơm, cẩn thận gắp cá, và từ tốn múc canh chua. Tiền vẫn giữ tính làm rộn của nó:

Page 24: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

97 97

- Ngày nay có mấy người đẻ, chị Phàm? Phàm giả lơ, chăm chăm ăn, dù hai người ngồi gần, tay muốn thúc vào hông nhau. - Mùa lạnh thiên hạ gieo giống, để mùa nóng gặt. Bây giờ còn là mùa nóng – Tiền gật gù như ngẫm nghĩ, rồi thêm – trách gì thấy chị Phàm làm phờ người ra. Viết xì: - Tiên sư, bà dốt. Sắp tháng chín mà kêu mùa nóng. Trời sụt sịt muốn trút nước đến nơi kìa. Chị Ngự ăn uống chậm rãi, không chú ý đến bọn nhỏ. - Mùa mưa lính khổ lắm anh Trạng hỉ? – Viết hỏi. Tôi ậm ừ: - Khổ, thường bị ướt. Tiền bắt bẻ: - Như anh ai nói không được. Khổ là khổ làm sao chứ. Khổ thường bị ướt, dở quá, hì! Hai đứa, Tiền và Viết, xòa ra cười. Tôi cũng cười. - Khổ lắm, nhưng thấy không có gì đáng nói. Ai cũng khổ cả. Như mọi người đang túng đói vì lương quá ít, mà mấy ai kêu than. Họ sao mình vậy. Tôi lùa miếng cơm chót chén thứ ba xong đứng dậy, chị Ngự khẽ hỏi: - Thôi à. - Thôi. - Anh mắc cỡ hả? – Viết ghẹo. Tôi nheo một mắt, làm như nguýt. Mấy đứa nhỏ dễ làm người ta mất bình tĩnh. Xong bữa, trừ bà cụ, mọi người dời lên nhà giữa. Phàm đem ra cho tôi hai tờ nhật báo và tập truyện. Ngự mang chiếc xách đồ bày giữa nhà để làm thêm một ít, theo thói quen trước khi ngủ. Chị soạn vung vãi những dao kéo, bột hồ, cùng từng xấp giấy báo lấy từ tạp chí cũ của Mỹ. Chị cắt, xếp, dán rất nhanh được hàng loạt túi vừa nhỏ vừa lớn. Túi dùng chứa nhiều món tạp nhạp tại mấy sạp hàng lẻ ngoài chợ. Phàm kể hôm nay trực nhưng rất nhàn, chẳng có bà thân chủ nào lê tới làm rộn. Chắc hẳn nhằm ngày xấu nên thiên hạ không thèm đẻ. Nghề nào cũng lúc khổ lúc sướng. Có

- Ngày nay có mấy người đẻ, chị Phàm? Phàm giả lơ, chăm chăm ăn, dù hai người ngồi gần, tay muốn thúc vào hông nhau. - Mùa lạnh thiên hạ gieo giống, để mùa nóng gặt. Bây giờ còn là mùa nóng – Tiền gật gù như ngẫm nghĩ, rồi thêm – trách gì thấy chị Phàm làm phờ người ra. Viết xì: - Tiên sư, bà dốt. Sắp tháng chín mà kêu mùa nóng. Trời sụt sịt muốn trút nước đến nơi kìa. Chị Ngự ăn uống chậm rãi, không chú ý đến bọn nhỏ. - Mùa mưa lính khổ lắm anh Trạng hỉ? – Viết hỏi. Tôi ậm ừ: - Khổ, thường bị ướt. Tiền bắt bẻ: - Như anh ai nói không được. Khổ là khổ làm sao chứ. Khổ thường bị ướt, dở quá, hì! Hai đứa, Tiền và Viết, xòa ra cười. Tôi cũng cười. - Khổ lắm, nhưng thấy không có gì đáng nói. Ai cũng khổ cả. Như mọi người đang túng đói vì lương quá ít, mà mấy ai kêu than. Họ sao mình vậy. Tôi lùa miếng cơm chót chén thứ ba xong đứng dậy, chị Ngự khẽ hỏi: - Thôi à. - Thôi. - Anh mắc cỡ hả? – Viết ghẹo. Tôi nheo một mắt, làm như nguýt. Mấy đứa nhỏ dễ làm người ta mất bình tĩnh. Xong bữa, trừ bà cụ, mọi người dời lên nhà giữa. Phàm đem ra cho tôi hai tờ nhật báo và tập truyện. Ngự mang chiếc xách đồ bày giữa nhà để làm thêm một ít, theo thói quen trước khi ngủ. Chị soạn vung vãi những dao kéo, bột hồ, cùng từng xấp giấy báo lấy từ tạp chí cũ của Mỹ. Chị cắt, xếp, dán rất nhanh được hàng loạt túi vừa nhỏ vừa lớn. Túi dùng chứa nhiều món tạp nhạp tại mấy sạp hàng lẻ ngoài chợ. Phàm kể hôm nay trực nhưng rất nhàn, chẳng có bà thân chủ nào lê tới làm rộn. Chắc hẳn nhằm ngày xấu nên thiên hạ không thèm đẻ. Nghề nào cũng lúc khổ lúc sướng. Có

Page 25: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

98 98

hôm từ sáng tới tối làm bù đầu, chẳng rỗi để dùng cơm nữa. Một lúc đến ba bà sinh, năm bà chuyển bụng, và hàng tá đang thập thò đợi thăm thai. Tôi biết Phàm có mấy cô bạn đồng nghiệp khá xinh, tôi hỏi: - Trông bà con sinh nở khốn khổ như vậy, quý vị chắc ngán vụ lấy chồng? Phàm nhíu mũi mấy cái liền, nhún vai: - Sao lại ngán? Như để nghĩ chín chắn Phàm không tiếp ngay, tôi thích thú chờ. - Ai cũng rõ chuyện đấy, nhưng rõ chỉ để mà biết rồi lo tí tị thôi. Nếu sợ thì nay dám không còn người để … để đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Tôi cười cười. Phàm bạo dạn và ranh mãnh. Không hiểu do bản tính hay ảnh hưởng của nghề nghiệp. Bữa trước Phàm hỏi tôi: - Tháng rồi về phép anh bắt cái vợ chưa? Tôi lắc đầu. Phàm tỏ ý không tin. - Tôi nghi sẽ phải lấy vợ miền này quá. Tôi vờ nói với giọng nghiêm trang: - Có triệu chứng gì chưa mà nghi đấy? Nhưng anh đùa, sức mấy mà chê gái quê mình. Trâu ta ăn cỏ… Mẹ tôi vẫn thường nhắc nhở về chuyện này. Mẹ nói vụ vợ con để trong nhà mẹ liệu cho. Hễ mày ừ là khi về có sẵn vợ mà dùng. Đừng lấy gái người – không hiểu vì sao mẹ chú trọng chuyện ấy. Mẹ bảo, sống phải biết tùy thời, mẹ ngại tôi chần chừ gia tộc sẽ tuyệt tự. Con một như sao treo bằng chỉ mành, dễ đứt dễ rơi. Mẹ làm như chuyện mua bán không bằng, thích lúc nào tậu ngay lúc đó. Phàm bảo: - Anh cũng chẳng lo gì, trai tráng sướng, không sợ muộn. Cực thân đàn bà con gái. Như bà Ngự bây giờ, hâm thiu ế ẩm ngó mà ngán… nay đến nước cùng chưa chắc beo mà lấy. - Cô bi thảm hóa vấn đề. - Thèm bi quan. Tính toán thực tế đấy chứ. Này, bấm đốt ngón tay làm con tính nhỏ thì biết. Các ông thi nhau ngỏm…

hôm từ sáng tới tối làm bù đầu, chẳng rỗi để dùng cơm nữa. Một lúc đến ba bà sinh, năm bà chuyển bụng, và hàng tá đang thập thò đợi thăm thai. Tôi biết Phàm có mấy cô bạn đồng nghiệp khá xinh, tôi hỏi: - Trông bà con sinh nở khốn khổ như vậy, quý vị chắc ngán vụ lấy chồng? Phàm nhíu mũi mấy cái liền, nhún vai: - Sao lại ngán? Như để nghĩ chín chắn Phàm không tiếp ngay, tôi thích thú chờ. - Ai cũng rõ chuyện đấy, nhưng rõ chỉ để mà biết rồi lo tí tị thôi. Nếu sợ thì nay dám không còn người để … để đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Tôi cười cười. Phàm bạo dạn và ranh mãnh. Không hiểu do bản tính hay ảnh hưởng của nghề nghiệp. Bữa trước Phàm hỏi tôi: - Tháng rồi về phép anh bắt cái vợ chưa? Tôi lắc đầu. Phàm tỏ ý không tin. - Tôi nghi sẽ phải lấy vợ miền này quá. Tôi vờ nói với giọng nghiêm trang: - Có triệu chứng gì chưa mà nghi đấy? Nhưng anh đùa, sức mấy mà chê gái quê mình. Trâu ta ăn cỏ… Mẹ tôi vẫn thường nhắc nhở về chuyện này. Mẹ nói vụ vợ con để trong nhà mẹ liệu cho. Hễ mày ừ là khi về có sẵn vợ mà dùng. Đừng lấy gái người – không hiểu vì sao mẹ chú trọng chuyện ấy. Mẹ bảo, sống phải biết tùy thời, mẹ ngại tôi chần chừ gia tộc sẽ tuyệt tự. Con một như sao treo bằng chỉ mành, dễ đứt dễ rơi. Mẹ làm như chuyện mua bán không bằng, thích lúc nào tậu ngay lúc đó. Phàm bảo: - Anh cũng chẳng lo gì, trai tráng sướng, không sợ muộn. Cực thân đàn bà con gái. Như bà Ngự bây giờ, hâm thiu ế ẩm ngó mà ngán… nay đến nước cùng chưa chắc beo mà lấy. - Cô bi thảm hóa vấn đề. - Thèm bi quan. Tính toán thực tế đấy chứ. Này, bấm đốt ngón tay làm con tính nhỏ thì biết. Các ông thi nhau ngỏm…

Page 26: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

99 99

Tôi kêu: - A! Phải rồi, con trai cũng có cái lo lớn đó chứ, lo ngỏm… Im một lúc, Phàm nói: - Nghĩ thật kỳ, sao lại cần đàn ông đến như vậy hỉ. Sống son son một thân không nổi, không kham. Rồi tán phét: - Thời trước, thiên hạ nói, có vùng nọ toàn đàn bà ở một nơi rất cách biệt với các xã hội loài người khác. Họ cũng tổ chức quy củ, có vua quan thần dân đàng hoàng. Họ sống với nhau độc lập tự chủ như thế được khá lâu. Nhưng bỗng một ngày, có lẽ một ngày giông bão mưa to gió lớn, vị vua không phải là đàn ông ấy ra lệnh cho đám thuộc hạ rằng trong vòng bảy ngày phải tìm cho vua một tên phái mạnh. Quá hạn không có sẽ lãnh tội mất đầu. Lần lượt ra đi từng người. Nhưng rồi lần lượt những kẻ đó được xem như mất tích. Chẳng rõ chúng bị lạc đường, chết theo bờ bụi. Hay tìm không được sợ, nên trốn. Hoặc giả, các y thị tìm thấy mà lười mang về vua, để riêng một mình khai thác. Chỉ biết vương quốc sau đó cạn người. Nữ hoàng buồn võ vàng rồi tịch… Tóm tắt, thì đàn bà sau trước cũng giống u mê, bụng luôn thích đời bị trị. Chị Ngự làm có vẻ không chăm lắm nhưng đều đặn. Trông Ngự ngồi có cái dáng cần cù nhẫn nhục. Chị đã ngồi như thế trong bao năm với sạp tạp hóa ngoài chợ. Hồi mới quen Hiếu, một lần tôi thấy ảnh chị Ngự trong ví nó. Tôi tưởng bậy ngỡ là bồ nó. Chị Ngự đẹp nhất nhà, chị trẻ, dáng điệu quý phái. Thấy thật không hợp chút nào với số tuổi lớn lao mà chị phải mang. Thằng Hiếu thương chị nhất. Bởi chị làm có tiền. Hiếu thân tôi trong những ngày còn ở quân trường. Sau ra tôi được đổi về quê nó, nhưng nó thì lại theo một đơn vị ở xa, quá xa nếu phải về thăm nhà theo đường bộ. Con đường bị cắt đứt từng đoạn, như sợi cao su răng cưa chằng chịt, tưởng không xài được nữa. Ba năm Hiếu chỉ về được một lần bảy ngày. Mỗi lần tôi ghé thăm, bà cụ lại nhớ Hiếu, và buồn. Sau đó tôi đi. Bà khóc. Bà cụ nói nhà đông

Tôi kêu: - A! Phải rồi, con trai cũng có cái lo lớn đó chứ, lo ngỏm… Im một lúc, Phàm nói: - Nghĩ thật kỳ, sao lại cần đàn ông đến như vậy hỉ. Sống son son một thân không nổi, không kham. Rồi tán phét: - Thời trước, thiên hạ nói, có vùng nọ toàn đàn bà ở một nơi rất cách biệt với các xã hội loài người khác. Họ cũng tổ chức quy củ, có vua quan thần dân đàng hoàng. Họ sống với nhau độc lập tự chủ như thế được khá lâu. Nhưng bỗng một ngày, có lẽ một ngày giông bão mưa to gió lớn, vị vua không phải là đàn ông ấy ra lệnh cho đám thuộc hạ rằng trong vòng bảy ngày phải tìm cho vua một tên phái mạnh. Quá hạn không có sẽ lãnh tội mất đầu. Lần lượt ra đi từng người. Nhưng rồi lần lượt những kẻ đó được xem như mất tích. Chẳng rõ chúng bị lạc đường, chết theo bờ bụi. Hay tìm không được sợ, nên trốn. Hoặc giả, các y thị tìm thấy mà lười mang về vua, để riêng một mình khai thác. Chỉ biết vương quốc sau đó cạn người. Nữ hoàng buồn võ vàng rồi tịch… Tóm tắt, thì đàn bà sau trước cũng giống u mê, bụng luôn thích đời bị trị. Chị Ngự làm có vẻ không chăm lắm nhưng đều đặn. Trông Ngự ngồi có cái dáng cần cù nhẫn nhục. Chị đã ngồi như thế trong bao năm với sạp tạp hóa ngoài chợ. Hồi mới quen Hiếu, một lần tôi thấy ảnh chị Ngự trong ví nó. Tôi tưởng bậy ngỡ là bồ nó. Chị Ngự đẹp nhất nhà, chị trẻ, dáng điệu quý phái. Thấy thật không hợp chút nào với số tuổi lớn lao mà chị phải mang. Thằng Hiếu thương chị nhất. Bởi chị làm có tiền. Hiếu thân tôi trong những ngày còn ở quân trường. Sau ra tôi được đổi về quê nó, nhưng nó thì lại theo một đơn vị ở xa, quá xa nếu phải về thăm nhà theo đường bộ. Con đường bị cắt đứt từng đoạn, như sợi cao su răng cưa chằng chịt, tưởng không xài được nữa. Ba năm Hiếu chỉ về được một lần bảy ngày. Mỗi lần tôi ghé thăm, bà cụ lại nhớ Hiếu, và buồn. Sau đó tôi đi. Bà khóc. Bà cụ nói nhà đông

Page 27: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

100 100

người nhưng thật ra thì bên trong trống rỗng. Nếu chị Ngự không muộn màng chị đã theo chồng con từ lâu, chỉ còn mỗi một Viết. Chị em Phàm thì sống tùy ý thích, khi buồn thì hai đứa lại kéo nhau về nhà ở với mẹ. Bà cụ nhận xét lũ con gái chúng nó chỉ tạo nên một sự nhộn nhịp vui vẻ từng đợt. Có lúc thì ầm ĩ vang vầy, nhưng sau đó vắng ngắt, buồn lạnh. Nhà thiếu bóng đàn ông. Tôi nghĩ, chắc là đúng. Đàn bà con gái sống với nhau có lẽ khó tìm được sự thương mến thân mật thật tình. Ngày mới quen, một lần Phàm dịu giọng nói với tôi: - Bà cụ em ruột mẹ Phàm. Tụi con Ngự là em, vai em, nhưng chúng ưa làm cha lắm đấy nghe. Tôi không hiểu ưa làm cha ra sao, tôi vẫn gật tỏ rằng đây hiểu. Tôi thừa rõ nếu chẳng cần nhờ vả thì chắc Phàm không trọ bên dì. Nhà Phàm trước ở làng quê, cách với tỉnh lỵ. Thời này nằm ngay trong ruột phố may ra, chứ có gần chăng nữa cũng vẫn dễ ngại. Làng quê gần thành phố, hay xa thành phố, cũng là làng quê. Nơi chứa sẵn ít nhiều khuấy động, bất an. Nay sợ giặc, còn trước kia thời mới xáo trộn thì sợ lũ độc mồm. Người mạnh khoẻ rục rịch đi hết, nên những đứa chức phận chút đỉnh còn rúc lại được dịp lên chân. Có những đứa lên đến nỗi đám bô lão, đàn bà, con nít nằm lại đã kiêng dè chúng còn hơn kiêng dè đám giặc núi. Làng xa quận nửa ngày đường bộ, cộng thêm rừng cây, truông cát cùng sự ngu dốt của đám dân. Nên chi những giấy tờ muốn xin được mau phải nộp tiền, tiền trăm hay ngàn, gọi là lộ phí trả công các ngài chức việc. Công đạp xe đi làm giấy cho. Thư người xa gửi về có thể sẽ không được nhận một cách bình thường, nếu trước đã làm các vị mích lòng. Ai có con đi lính Quốc gia được nể một ít. Nhưng thành phần ấy cũng chịu phép lắm. Bởi ngại là nếu sau gặp buổi mạt, con tử trận thì vẫn còn có thể sống yên được. Quyền thế ấy muốn giam nhốt thiên hạ lúc nào tùy hứng. Ai mở mồm lớn hơn người khác thì kẻ ấy chính là địch nằm vùng. Cách thế yên thân, là im lặng dọn đi, bỏ nhà, dời lên phố trú ngụ. Phàm sợ một hôm nào sẽ bị gán ghép chức vụ này nọ, đại loại nữ giao liên, hay rắp tâm dụng kế mỹ nhân phá hoại.

người nhưng thật ra thì bên trong trống rỗng. Nếu chị Ngự không muộn màng chị đã theo chồng con từ lâu, chỉ còn mỗi một Viết. Chị em Phàm thì sống tùy ý thích, khi buồn thì hai đứa lại kéo nhau về nhà ở với mẹ. Bà cụ nhận xét lũ con gái chúng nó chỉ tạo nên một sự nhộn nhịp vui vẻ từng đợt. Có lúc thì ầm ĩ vang vầy, nhưng sau đó vắng ngắt, buồn lạnh. Nhà thiếu bóng đàn ông. Tôi nghĩ, chắc là đúng. Đàn bà con gái sống với nhau có lẽ khó tìm được sự thương mến thân mật thật tình. Ngày mới quen, một lần Phàm dịu giọng nói với tôi: - Bà cụ em ruột mẹ Phàm. Tụi con Ngự là em, vai em, nhưng chúng ưa làm cha lắm đấy nghe. Tôi không hiểu ưa làm cha ra sao, tôi vẫn gật tỏ rằng đây hiểu. Tôi thừa rõ nếu chẳng cần nhờ vả thì chắc Phàm không trọ bên dì. Nhà Phàm trước ở làng quê, cách với tỉnh lỵ. Thời này nằm ngay trong ruột phố may ra, chứ có gần chăng nữa cũng vẫn dễ ngại. Làng quê gần thành phố, hay xa thành phố, cũng là làng quê. Nơi chứa sẵn ít nhiều khuấy động, bất an. Nay sợ giặc, còn trước kia thời mới xáo trộn thì sợ lũ độc mồm. Người mạnh khoẻ rục rịch đi hết, nên những đứa chức phận chút đỉnh còn rúc lại được dịp lên chân. Có những đứa lên đến nỗi đám bô lão, đàn bà, con nít nằm lại đã kiêng dè chúng còn hơn kiêng dè đám giặc núi. Làng xa quận nửa ngày đường bộ, cộng thêm rừng cây, truông cát cùng sự ngu dốt của đám dân. Nên chi những giấy tờ muốn xin được mau phải nộp tiền, tiền trăm hay ngàn, gọi là lộ phí trả công các ngài chức việc. Công đạp xe đi làm giấy cho. Thư người xa gửi về có thể sẽ không được nhận một cách bình thường, nếu trước đã làm các vị mích lòng. Ai có con đi lính Quốc gia được nể một ít. Nhưng thành phần ấy cũng chịu phép lắm. Bởi ngại là nếu sau gặp buổi mạt, con tử trận thì vẫn còn có thể sống yên được. Quyền thế ấy muốn giam nhốt thiên hạ lúc nào tùy hứng. Ai mở mồm lớn hơn người khác thì kẻ ấy chính là địch nằm vùng. Cách thế yên thân, là im lặng dọn đi, bỏ nhà, dời lên phố trú ngụ. Phàm sợ một hôm nào sẽ bị gán ghép chức vụ này nọ, đại loại nữ giao liên, hay rắp tâm dụng kế mỹ nhân phá hoại.

Page 28: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

101 101

Nên giục mẹ đùm túm đi trước. Với lại, lên đây gần sở làm. Trầm ngâm vài phút, Phàm lại nói về Ngự. Nói theo giọng tâm sự, nhỏ: - Quanh năm lết ở chợ mòn đít. Sắp-ba-mươi đến nơi chẳng ai chịu khó rước cho xong. Nhiều ngày tôi đã nghĩ mông lung về cái sắp-ba-mươi của Ngự. Ngự thật ít nói. Hay phải nói quá nhiều với đám đông hỗn độn từ sáng tới sẫm, rồi về chị không còn thích nói nữa. Ngự có nụ cười thật đẹp, nhưng Ngự không mấy khi cười. Hay là cái sắp-ba-mươi đã khiến Ngự chẳng thể nào cười được. Tiền rủ Phàm ra quán. Nhường chị đi trước, Tiền lùi lại tới rỉ tai tôi: - Có một chuyện đại bí mật Nó liếc chừng chị Ngự, véo tai tôi một cái: - Muốn đây tiết lộ không? Tôi ngờ vực, sợ mắc lừa. Tiền nhắm tít một mắt, cái miệng đẹp của nó chun lại nghịch ngợm. - Này, mấy tháng vừa rồi ông lính không ghé thăm con Viết nó nhớ, nhớ muốn phát đau. Báo hại phải nghỉ học gần tháng. Tôi nạt: - Suỵt, đa sự, bậy! Cô nàng vụt chạy và cười đắc chí. Đêm mai giờ này không rõ mình sẽ nằm ở đâu. Trên một ngọn đồi không cây, cỏ tranh phủ mịt, cuộn áo mưa lạnh ngủ đất. Hay trong một ngôi nhà sụp đổ nào của những xóm làng bỏ hoang. Hai ngày nghỉ qua lẹ không ngoái theo kịp. Trọn ngày ngủ yên trí chẳng ngại bị đánh thức bất thần, vì chó sủa, vì súng nổ, vì di chuyển. Đêm được quyền cởi bỏ đồ ngoài, chỉ mặc quần cộc áo thun. Nằm ngủ mà tai còn mơ hồ nghe tiếng máy hát nhà bên cạnh, tiếng chiếc đồng hồ bàn gõ nhẹ và đều, bầy ngỗng sau chuồng kêu bất chợt. Những thứ ấy tầm thường quá mà lâu lắm mình mới được gần. Tay chị Ngự đưa lên đưa xuống, chồng bao giấy thành

Nên giục mẹ đùm túm đi trước. Với lại, lên đây gần sở làm. Trầm ngâm vài phút, Phàm lại nói về Ngự. Nói theo giọng tâm sự, nhỏ: - Quanh năm lết ở chợ mòn đít. Sắp-ba-mươi đến nơi chẳng ai chịu khó rước cho xong. Nhiều ngày tôi đã nghĩ mông lung về cái sắp-ba-mươi của Ngự. Ngự thật ít nói. Hay phải nói quá nhiều với đám đông hỗn độn từ sáng tới sẫm, rồi về chị không còn thích nói nữa. Ngự có nụ cười thật đẹp, nhưng Ngự không mấy khi cười. Hay là cái sắp-ba-mươi đã khiến Ngự chẳng thể nào cười được. Tiền rủ Phàm ra quán. Nhường chị đi trước, Tiền lùi lại tới rỉ tai tôi: - Có một chuyện đại bí mật Nó liếc chừng chị Ngự, véo tai tôi một cái: - Muốn đây tiết lộ không? Tôi ngờ vực, sợ mắc lừa. Tiền nhắm tít một mắt, cái miệng đẹp của nó chun lại nghịch ngợm. - Này, mấy tháng vừa rồi ông lính không ghé thăm con Viết nó nhớ, nhớ muốn phát đau. Báo hại phải nghỉ học gần tháng. Tôi nạt: - Suỵt, đa sự, bậy! Cô nàng vụt chạy và cười đắc chí. Đêm mai giờ này không rõ mình sẽ nằm ở đâu. Trên một ngọn đồi không cây, cỏ tranh phủ mịt, cuộn áo mưa lạnh ngủ đất. Hay trong một ngôi nhà sụp đổ nào của những xóm làng bỏ hoang. Hai ngày nghỉ qua lẹ không ngoái theo kịp. Trọn ngày ngủ yên trí chẳng ngại bị đánh thức bất thần, vì chó sủa, vì súng nổ, vì di chuyển. Đêm được quyền cởi bỏ đồ ngoài, chỉ mặc quần cộc áo thun. Nằm ngủ mà tai còn mơ hồ nghe tiếng máy hát nhà bên cạnh, tiếng chiếc đồng hồ bàn gõ nhẹ và đều, bầy ngỗng sau chuồng kêu bất chợt. Những thứ ấy tầm thường quá mà lâu lắm mình mới được gần. Tay chị Ngự đưa lên đưa xuống, chồng bao giấy thành

Page 29: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

102 102

hình được xếp ngay ngắn cạnh lon hồ. Tôi sung sướng được sống những ngày thanh nhàn nơi đây. Bà cụ thương tôi như thương Hiếu. Hôm tháng Giêng sau lần đụng giặc dữ nơi làng nhỏ sát nách tỉnh lỵ, chúng tôi được nghỉ một ngày. Bà cụ sai chị Ngự ra thăm xem tôi yên lành không. Ngự đi xe đạp, đem thêm mấy phong bánh với bốn tập truyện. Gặp tôi Ngự mừng rỡ nhưng hơi lúng túng. Lũ bạn đông đảo của tôi lấp ló đằng sau làm chị nhát nói. Tôi cảm động, lần đầu tôi thấy Ngự ngượng nghịu. Tay mân mê bọc giấy làm như sợ mấy sợi cao su bong mất, chị thường phải quay nhìn nơi khác. Trưa đó, dù chị từ chối tôi cũng kéo được vào một ngôi nhà gần đó, bắt chị ăn một bữa cơm lính. Lũ anh em tỏ ý nghi ngờ, Ngự không có vẻ gì là chị tôi cả. Bà cụ xem tôi như người nhà. Cụ thố lộ, không hiểu đường tình duyên của Ngự ra sao mà gian nan bạc bẽo vậy. Từ mới lớn đến giờ cũng có vài nơi đánh tiếng, nhưng tất cả bất thành. Con nhỏ lạ, nó không chịu ai hết. Nòi ngu độn, còn nằm chờ chi nữa. Từ ấy, đã mười năm hơn. Hay do cái tuổi Dần nó trót đa mang. Sách chép đàn bà tuổi Dần cao số. Kỳ tháng Chạp có người muốn thăm dò con Viết. Nhưng đâu được, để nó học. Với tiện thể để chờ chị nó ít lâu – mười năm nay. Mười năm. Một thời gian đủ để người ta thực hiện được vài chương trình thuộc phạm vi quốc gia, quy mô dài hạn. Bao nhiêu dâu bể. Từng ấy ngày đủ để những nhà cách mạng hoàn thành nghiệp cả. Nhưng, cũng số năm tháng đó đã không đem lại cho Ngự được một tấm chồng. Chị em Phàm mang về bốn ly chè đá. Chị Ngự kêu còn no. Tôi cũng lắc đầu. Nhưng Phàm đã kéo tay tôi ra, nhét ly chè vào, ép buộc. Tôi kêu ép dầu ép mỡ ai nỡ ép chè. Tôi không cầm ly chè, mà bóp nhẹ tay Phàm. Mấy ngón tay thuôn và xinh. Tiền thì bỏ nhỏ: - Ăn đi nào, chờ người ta đút từng muỗng sao… Ờ, mà có làm vậy cho nhau cũng chờ lúc vắng vẻ đã chớ. Điện phụt tắt. Tiền kêu ồ thích thú. Phàm xuống mồi đèn xong bỏ đi ngủ. Chị Ngự dời lại gần tôi hơn, gần ánh đèn, lầm lì tiếp tục công việc. Tôi ngắm chiếc áo cánh trắng

hình được xếp ngay ngắn cạnh lon hồ. Tôi sung sướng được sống những ngày thanh nhàn nơi đây. Bà cụ thương tôi như thương Hiếu. Hôm tháng Giêng sau lần đụng giặc dữ nơi làng nhỏ sát nách tỉnh lỵ, chúng tôi được nghỉ một ngày. Bà cụ sai chị Ngự ra thăm xem tôi yên lành không. Ngự đi xe đạp, đem thêm mấy phong bánh với bốn tập truyện. Gặp tôi Ngự mừng rỡ nhưng hơi lúng túng. Lũ bạn đông đảo của tôi lấp ló đằng sau làm chị nhát nói. Tôi cảm động, lần đầu tôi thấy Ngự ngượng nghịu. Tay mân mê bọc giấy làm như sợ mấy sợi cao su bong mất, chị thường phải quay nhìn nơi khác. Trưa đó, dù chị từ chối tôi cũng kéo được vào một ngôi nhà gần đó, bắt chị ăn một bữa cơm lính. Lũ anh em tỏ ý nghi ngờ, Ngự không có vẻ gì là chị tôi cả. Bà cụ xem tôi như người nhà. Cụ thố lộ, không hiểu đường tình duyên của Ngự ra sao mà gian nan bạc bẽo vậy. Từ mới lớn đến giờ cũng có vài nơi đánh tiếng, nhưng tất cả bất thành. Con nhỏ lạ, nó không chịu ai hết. Nòi ngu độn, còn nằm chờ chi nữa. Từ ấy, đã mười năm hơn. Hay do cái tuổi Dần nó trót đa mang. Sách chép đàn bà tuổi Dần cao số. Kỳ tháng Chạp có người muốn thăm dò con Viết. Nhưng đâu được, để nó học. Với tiện thể để chờ chị nó ít lâu – mười năm nay. Mười năm. Một thời gian đủ để người ta thực hiện được vài chương trình thuộc phạm vi quốc gia, quy mô dài hạn. Bao nhiêu dâu bể. Từng ấy ngày đủ để những nhà cách mạng hoàn thành nghiệp cả. Nhưng, cũng số năm tháng đó đã không đem lại cho Ngự được một tấm chồng. Chị em Phàm mang về bốn ly chè đá. Chị Ngự kêu còn no. Tôi cũng lắc đầu. Nhưng Phàm đã kéo tay tôi ra, nhét ly chè vào, ép buộc. Tôi kêu ép dầu ép mỡ ai nỡ ép chè. Tôi không cầm ly chè, mà bóp nhẹ tay Phàm. Mấy ngón tay thuôn và xinh. Tiền thì bỏ nhỏ: - Ăn đi nào, chờ người ta đút từng muỗng sao… Ờ, mà có làm vậy cho nhau cũng chờ lúc vắng vẻ đã chớ. Điện phụt tắt. Tiền kêu ồ thích thú. Phàm xuống mồi đèn xong bỏ đi ngủ. Chị Ngự dời lại gần tôi hơn, gần ánh đèn, lầm lì tiếp tục công việc. Tôi ngắm chiếc áo cánh trắng

Page 30: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

103 103

điểm rải rác những hoa nhỏ xanh nhạt, cái gáy trắng nhờn nhợt màu đèn, mấy sợi tóc đi lạc. Bất thần Ngự ngửng lên, bắt gặp hai mắt tôi. Ngự cúi mặt ngay, và chớp mắt. - Khuya rồi, ngủ chứ Ngự – tôi nói, giọng dại đi, mơ hồ. - Ngự không buồn ngủ. Tôi nhớ, cũng câu đó nhưng nếu là trước kia thì Ngự sẽ nói “Tôi không buồn ngủ”. Ngự thu dọn đồ lại một góc. Tôi vặn thật nhỏ ngọn đèn, rồi ra ngoài, xuống sân. Tôi nghe tiếng chân Ngự nhẹ nhàng về hướng lu nước. Nhanh hơn, tôi tới giựt lấy chiếc gáo, đem móc lên cao. Không hiểu Ngự loay hoay thế nào, nhưng sau đó thì bị tôi ôm được vai. Ngự run lên trong bóng tối. Ngự run quá làm tôi lúng túng. Tôi chợt nhớ nụ cười thật đẹp của Ngự lúc ban ngày. Vội vàng tôi hôn lên nơi làm ra nụ cười đó. Một tay vòng sau lưng tôi, bấu chặt bên hông phải, Ngự nói như hơi thở: - Chúng nó sẽ cười anh… anh Trạng. Nhưng lúc đó tôi không nghĩ tới chuyện cười chê mà chợt lại thoáng nhớ đến mẹ tôi ở nhà. Và nghĩ rằng tối mai chắc mình chưa phải ngủ núi hay ngoài làng quê. Tôi sẽ còn ở đây, còn ở lại nơi bình yên này vài hôm nữa. _______ Giới thiệu tác giả: Sinh ngày 10.5.1947 tại Giã, Khánh Hòa. Học trường trung học Võ Tánh, Nha Trang. Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức. Đã từng có mặt trên khắp các chiến trường ác liệt nhất từ rừng núi Trung phần xuống vùng U Minh Đồng Tháp . Truyện ngắn đầu tiên, Ngoại Lệ, đăng trên tập san Văn số 47, 1.12.1965, ký bút hiệu Văn Lệ Thiên. Hiện tại: Làm ruộng Tác phẩm đã xuất bản: Một cách buồn phiền 1969 Sao không như ngày xưa 1971 Chuyện đời 2004 Mưa Lạ 2006 Quế 2007 Triuyện ngắn Lê văn Thiện toàn tập (Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ 2010)

điểm rải rác những hoa nhỏ xanh nhạt, cái gáy trắng nhờn nhợt màu đèn, mấy sợi tóc đi lạc. Bất thần Ngự ngửng lên, bắt gặp hai mắt tôi. Ngự cúi mặt ngay, và chớp mắt. - Khuya rồi, ngủ chứ Ngự – tôi nói, giọng dại đi, mơ hồ. - Ngự không buồn ngủ. Tôi nhớ, cũng câu đó nhưng nếu là trước kia thì Ngự sẽ nói “Tôi không buồn ngủ”. Ngự thu dọn đồ lại một góc. Tôi vặn thật nhỏ ngọn đèn, rồi ra ngoài, xuống sân. Tôi nghe tiếng chân Ngự nhẹ nhàng về hướng lu nước. Nhanh hơn, tôi tới giựt lấy chiếc gáo, đem móc lên cao. Không hiểu Ngự loay hoay thế nào, nhưng sau đó thì bị tôi ôm được vai. Ngự run lên trong bóng tối. Ngự run quá làm tôi lúng túng. Tôi chợt nhớ nụ cười thật đẹp của Ngự lúc ban ngày. Vội vàng tôi hôn lên nơi làm ra nụ cười đó. Một tay vòng sau lưng tôi, bấu chặt bên hông phải, Ngự nói như hơi thở: - Chúng nó sẽ cười anh… anh Trạng. Nhưng lúc đó tôi không nghĩ tới chuyện cười chê mà chợt lại thoáng nhớ đến mẹ tôi ở nhà. Và nghĩ rằng tối mai chắc mình chưa phải ngủ núi hay ngoài làng quê. Tôi sẽ còn ở đây, còn ở lại nơi bình yên này vài hôm nữa. _______ Giới thiệu tác giả: Sinh ngày 10.5.1947 tại Giã, Khánh Hòa. Học trường trung học Võ Tánh, Nha Trang. Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức. Đã từng có mặt trên khắp các chiến trường ác liệt nhất từ rừng núi Trung phần xuống vùng U Minh Đồng Tháp . Truyện ngắn đầu tiên, Ngoại Lệ, đăng trên tập san Văn số 47, 1.12.1965, ký bút hiệu Văn Lệ Thiên. Hiện tại: Làm ruộng Tác phẩm đã xuất bản: Một cách buồn phiền 1969 Sao không như ngày xưa 1971 Chuyện đời 2004 Mưa Lạ 2006 Quế 2007 Triuyện ngắn Lê văn Thiện toàn tập (Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ 2010)

Page 31: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

104 104

THẾ HOÀI Mùa Thu Gio Linh

Tặng tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.

1.

Bây giờ là ngày cuối thu. Những cơn mưa bất chợt kéo về thật đột ngột. Anh đã xa Sài Gòn thật lâu rồi. Nhưng anh cũng chưa quên những ngày vừa qua. Hình dáng em với nụ cười say đắm hôm nào trước khi anh lên đường. Em đến với anh thật bất ngờ như cơn mưa ở đây đến vội vã đổ xuống vùng chiến địa khô cằn vì bom lửa vì đạn đại bác của đôi bên cháy cỏ cây. Rồi chúng mình lại xa nhau không hẹn ước. Rồi anh lại lên đường, những tháng, những ngày thật dài. Để khi anh trở lại nét mặt lại sạm đen với bộ chiến phục thêm bạc màu nắng gió chiến trường. Nhưng em vẫn chưa quên và chúng mình lại tìm đến với nhau thật đẹp như thuở gặp ban đầu. Mùa thu thật sự đã về ở nơi đây với những cơn gió heo may lạnh đến da diết lòng người. Mùa thu mà anh đã đánh mất từ mười ba năm qua. Kể từ một ngày cuối thu năm 1954, anh và ba người bạn thân từ giã Hà Nội lên đường vào Nam, miền chỉ có hai mùa mưa nắng mà thôi. Anh đang ở đây, miền Gio Linh với những ngày khói lửa. Đơn vị anh đang đóng tại một căn cứ đối diện với cầu Hiền Lương, một tiền đồn tại địa đầu vùng giới tuyến. Anh tới nơi đây vào những ngày đang xảy ra các cuộc pháo chiến ác liệt nhất của cả đôi bên. Xuống xe từ thị trấn Đông Hà, các anh đã phải đi bộ một đoạn đường dài trên mười cây số để vào vùng máu lửa này. Từ xa các anh đã trông thấy cả một hàng rào khói đen bốc lên dầy đặc, đó là hàng loạt đạn đại bác đủ loại từ bờ Bắc pháo kích sang. Tiếng súng địch chưa ngưng thì những dàn đại bác của ta bắn trả lại. Tiếng nổ kéo dài từng loạt như bất tận. Rồi khi tiếng súng đôi bên vừa ngưng thì từng đoàn phi cơ phản lực vun vút bay

THẾ HOÀI Mùa Thu Gio Linh

Tặng tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.

2.

Bây giờ là ngày cuối thu. Những cơn mưa bất chợt kéo về thật đột ngột. Anh đã xa Sài Gòn thật lâu rồi. Nhưng anh cũng chưa quên những ngày vừa qua. Hình dáng em với nụ cười say đắm hôm nào trước khi anh lên đường. Em đến với anh thật bất ngờ như cơn mưa ở đây đến vội vã đổ xuống vùng chiến địa khô cằn vì bom lửa vì đạn đại bác của đôi bên cháy cỏ cây. Rồi chúng mình lại xa nhau không hẹn ước. Rồi anh lại lên đường, những tháng, những ngày thật dài. Để khi anh trở lại nét mặt lại sạm đen với bộ chiến phục thêm bạc màu nắng gió chiến trường. Nhưng em vẫn chưa quên và chúng mình lại tìm đến với nhau thật đẹp như thuở gặp ban đầu. Mùa thu thật sự đã về ở nơi đây với những cơn gió heo may lạnh đến da diết lòng người. Mùa thu mà anh đã đánh mất từ mười ba năm qua. Kể từ một ngày cuối thu năm 1954, anh và ba người bạn thân từ giã Hà Nội lên đường vào Nam, miền chỉ có hai mùa mưa nắng mà thôi. Anh đang ở đây, miền Gio Linh với những ngày khói lửa. Đơn vị anh đang đóng tại một căn cứ đối diện với cầu Hiền Lương, một tiền đồn tại địa đầu vùng giới tuyến. Anh tới nơi đây vào những ngày đang xảy ra các cuộc pháo chiến ác liệt nhất của cả đôi bên. Xuống xe từ thị trấn Đông Hà, các anh đã phải đi bộ một đoạn đường dài trên mười cây số để vào vùng máu lửa này. Từ xa các anh đã trông thấy cả một hàng rào khói đen bốc lên dầy đặc, đó là hàng loạt đạn đại bác đủ loại từ bờ Bắc pháo kích sang. Tiếng súng địch chưa ngưng thì những dàn đại bác của ta bắn trả lại. Tiếng nổ kéo dài từng loạt như bất tận. Rồi khi tiếng súng đôi bên vừa ngưng thì từng đoàn phi cơ phản lực vun vút bay

Page 32: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

105 105

từ biển vào đâm chúc xuống miền đất bên kia. Tiếng nổ lại rền trời rung đất. Những cột khói khổng lồ bốc lên cao với những đám mây mờ phía xa. Đó là những hình ảnh đầu tiên mà các anh trông thấy như đón tiếp như chờ đợi và hứa hẹn nhiều cho những ngày sắp tới. Đơn vị anh vẫn tiến vào vùng lửa đạn đó. Mỗi bước đi anh thấy như mình càng tiến gần về quê hương. Quốc lộ số 1 kéo dài thẳng tắp, từng đoạn đường cày lên vì vết mìn nổ còn mới nguyên. Đó là những vết thương lở lói đã bao năm qua làm đau đớn đất nước đau thương này. Những cột cây số cứ lùi dần, lùi dần và chữ Hà Nội với hàng chữ số bên dưới đã có lúc hiện ra như một hình ảnh từ lâu chợt quên trong tiềm thức. Quê hương miền Bắc của chúng mình ở bên kia dòng sông. Con sông Bến Hải ngăn cách đôi bờ đã bao năm qua. Miền đất bên kia mang bao nhiêu là kỷ niệm của tuổi ấu thơ và những ngày anh đầu tiên bước chân vào cuộc đời. Bây giờ thì các anh đang làm những người lính trấn giữ miền đất Gio Linh này. Vùng đất địa đầu nhất định không để lọt vào tay giặc và các anh cũng nhất định cản ngăn bước tiến của quân thù muốn xâm nhập qua đây. Vùng đất hẻo lánh khô cằn giờ đây tràn ngập bóng những người lính chiến áo hoa mũ đỏ. Mặc dù mức độ pháo kích càng ngày càng nặng nề ác liệt nhưng những người lính nhảy dù ngày đêm vẫn hoạt động thường trực chung quanh khu vực để bảo vệ căn cứ. Mỗi lần ngồi trên đài quan sát, anh chiếu ống viễn kính bao quát chung quanh. Tự nhiên anh nghĩ giá có em ở đây anh sẽ chỉ cho em thấy dải đất xanh ngút ngàn phía bờ Bắc con sông Bến Hải. Chúng mình sẽ thấy gần quê hương hơn bao giờ. Quốc lộ số 1 chạy ngoằn ngoèo lượn khúc rồi mất hút. Ngày nào, phải, ngày nào em nhỉ chúng ta sẽ được thanh thản trở lại quê hương yêu dấu ngàn đời. Thành phố Hưng Yên nhỏ bé đầy kỷ niệm của chúng ta. Giờ đây miền đất thân yêu ấy chắc cũng đã vào thu. Hồ Bán Nguyệt sẽ đìu hiu trong cô quạnh vì những cơn gió lạnh đã ào ào thổi về làm xơ xác hàng liễu bên bờ. Đám sen trên mặt hồ liệu

từ biển vào đâm chúc xuống miền đất bên kia. Tiếng nổ lại rền trời rung đất. Những cột khói khổng lồ bốc lên cao với những đám mây mờ phía xa. Đó là những hình ảnh đầu tiên mà các anh trông thấy như đón tiếp như chờ đợi và hứa hẹn nhiều cho những ngày sắp tới. Đơn vị anh vẫn tiến vào vùng lửa đạn đó. Mỗi bước đi anh thấy như mình càng tiến gần về quê hương. Quốc lộ số 1 kéo dài thẳng tắp, từng đoạn đường cày lên vì vết mìn nổ còn mới nguyên. Đó là những vết thương lở lói đã bao năm qua làm đau đớn đất nước đau thương này. Những cột cây số cứ lùi dần, lùi dần và chữ Hà Nội với hàng chữ số bên dưới đã có lúc hiện ra như một hình ảnh từ lâu chợt quên trong tiềm thức. Quê hương miền Bắc của chúng mình ở bên kia dòng sông. Con sông Bến Hải ngăn cách đôi bờ đã bao năm qua. Miền đất bên kia mang bao nhiêu là kỷ niệm của tuổi ấu thơ và những ngày anh đầu tiên bước chân vào cuộc đời. Bây giờ thì các anh đang làm những người lính trấn giữ miền đất Gio Linh này. Vùng đất địa đầu nhất định không để lọt vào tay giặc và các anh cũng nhất định cản ngăn bước tiến của quân thù muốn xâm nhập qua đây. Vùng đất hẻo lánh khô cằn giờ đây tràn ngập bóng những người lính chiến áo hoa mũ đỏ. Mặc dù mức độ pháo kích càng ngày càng nặng nề ác liệt nhưng những người lính nhảy dù ngày đêm vẫn hoạt động thường trực chung quanh khu vực để bảo vệ căn cứ. Mỗi lần ngồi trên đài quan sát, anh chiếu ống viễn kính bao quát chung quanh. Tự nhiên anh nghĩ giá có em ở đây anh sẽ chỉ cho em thấy dải đất xanh ngút ngàn phía bờ Bắc con sông Bến Hải. Chúng mình sẽ thấy gần quê hương hơn bao giờ. Quốc lộ số 1 chạy ngoằn ngoèo lượn khúc rồi mất hút. Ngày nào, phải, ngày nào em nhỉ chúng ta sẽ được thanh thản trở lại quê hương yêu dấu ngàn đời. Thành phố Hưng Yên nhỏ bé đầy kỷ niệm của chúng ta. Giờ đây miền đất thân yêu ấy chắc cũng đã vào thu. Hồ Bán Nguyệt sẽ đìu hiu trong cô quạnh vì những cơn gió lạnh đã ào ào thổi về làm xơ xác hàng liễu bên bờ. Đám sen trên mặt hồ liệu

Page 33: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

106 106

còn bông sen cuối mùa nào nở muộn không. Và cây Đa Voi cổ thụ bên trường trung học Phạm Ngũ Lão nghèo nàn xa xưa liệu có còn đứng vững với thời gian mười mấy năm qua. Tình yêu quê hương càng làm anh thấy xót xa vì anh nghĩ rằng vùng trời ruột thịt đó giờ đây còn nằm trong tay ngự trị của quân thù. Đó cũng là một lý do tại sao ngày xưa anh lại lên đường vào Nam. Tất cả gia đình anh ở lại. Anh ra đi với hai bàn tay trắng và mang tâm trạng của kẻ mất quê hương. Nhưng chính sự ra đi là để sửa soạn cho một ngày trở lại trong thanh bình. Ngày ấy quê hương chúng ta sẽ đẹp hơn bao giờ và chúng ta sẽ làm lại được cái khí hậu hiền hòa của nắng gió miền trung châu có sông Hồng mãi mãi mang đất phù sa bồi đắp đôi bờ. Còn bây giờ quê hương thật xa vời chỉ còn lại một ảnh hình thương yêu trong trí nhớ. Anh đã bỏ quê hương, bỏ gia đình bỏ trường để trở thành người lính chiến nhảy dù. Mười năm qua trong quân ngũ, anh đã có mặt trên khắp chiến trường miền Trung và miền Nam, nhưng anh vẫn nuôi trong lòng mộng ước ngày trở lại giải phóng miền Bắc. Các anh sẽ là những người trai đầu tiên nương theo bao cánh hoa dù nở giữa vùng trời yêu dấu cũ. Ngày đó, anh nghĩ sẽ chẳng còn bao xa; vì hôm nay biết bao người trai đã lên đường tự nguyện chiến đấu cho sự mất còn của phần nửa đất nước miền Nam này. Ngày chiến thắng cũng đã sắp đến gần. Vì thế anh đã phải xa em từng tháng ngày trong gian khổ hiểm nguy, nhưng anh tin rằng em đã hiểu nỗi lòng của những người con trai như anh đang làm nhiệm vụ giữa mùa chinh chiến. Như những lần ngồi bên em trong một quán nước ở đường Tự Do. Trong máy lạnh trong tiếng nhạc gợi cảm êm đềm nhìn dòng người thanh thản đi qua lại hay những đêm trong một khiêu vũ trường ấm cúng có ánh đèn mờ nhạt, có những màn vũ khêu gợi thì làm sao em có thể hình dung được bộ mặt thật của cuộc chiến hiện tại. Vì thế bây giờ anh muốn gởi về em những cảm nghĩ, những hình ảnh trung thực nhất của một mặt trận đã nổi danh: Gio Linh - vùng đất địa đầu miền giới tuyến với những ngày dài nhất trong khói lửa, trong tiếng đạn rít xé ngang đầu của các cuộc pháo chiến ác liệt nhất

còn bông sen cuối mùa nào nở muộn không. Và cây Đa Voi cổ thụ bên trường trung học Phạm Ngũ Lão nghèo nàn xa xưa liệu có còn đứng vững với thời gian mười mấy năm qua. Tình yêu quê hương càng làm anh thấy xót xa vì anh nghĩ rằng vùng trời ruột thịt đó giờ đây còn nằm trong tay ngự trị của quân thù. Đó cũng là một lý do tại sao ngày xưa anh lại lên đường vào Nam. Tất cả gia đình anh ở lại. Anh ra đi với hai bàn tay trắng và mang tâm trạng của kẻ mất quê hương. Nhưng chính sự ra đi là để sửa soạn cho một ngày trở lại trong thanh bình. Ngày ấy quê hương chúng ta sẽ đẹp hơn bao giờ và chúng ta sẽ làm lại được cái khí hậu hiền hòa của nắng gió miền trung châu có sông Hồng mãi mãi mang đất phù sa bồi đắp đôi bờ. Còn bây giờ quê hương thật xa vời chỉ còn lại một ảnh hình thương yêu trong trí nhớ. Anh đã bỏ quê hương, bỏ gia đình bỏ trường để trở thành người lính chiến nhảy dù. Mười năm qua trong quân ngũ, anh đã có mặt trên khắp chiến trường miền Trung và miền Nam, nhưng anh vẫn nuôi trong lòng mộng ước ngày trở lại giải phóng miền Bắc. Các anh sẽ là những người trai đầu tiên nương theo bao cánh hoa dù nở giữa vùng trời yêu dấu cũ. Ngày đó, anh nghĩ sẽ chẳng còn bao xa; vì hôm nay biết bao người trai đã lên đường tự nguyện chiến đấu cho sự mất còn của phần nửa đất nước miền Nam này. Ngày chiến thắng cũng đã sắp đến gần. Vì thế anh đã phải xa em từng tháng ngày trong gian khổ hiểm nguy, nhưng anh tin rằng em đã hiểu nỗi lòng của những người con trai như anh đang làm nhiệm vụ giữa mùa chinh chiến. Như những lần ngồi bên em trong một quán nước ở đường Tự Do. Trong máy lạnh trong tiếng nhạc gợi cảm êm đềm nhìn dòng người thanh thản đi qua lại hay những đêm trong một khiêu vũ trường ấm cúng có ánh đèn mờ nhạt, có những màn vũ khêu gợi thì làm sao em có thể hình dung được bộ mặt thật của cuộc chiến hiện tại. Vì thế bây giờ anh muốn gởi về em những cảm nghĩ, những hình ảnh trung thực nhất của một mặt trận đã nổi danh: Gio Linh - vùng đất địa đầu miền giới tuyến với những ngày dài nhất trong khói lửa, trong tiếng đạn rít xé ngang đầu của các cuộc pháo chiến ác liệt nhất

Page 34: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

107 107

trong cuộc chiến hiện tại. Cũng từ đài quan sát, anh nhìn sang trái, ngang với căn cứ trú quân của anh là đồn Cồn Thiên. Một địa danh ngày xưa chưa ai biết đến nhưng ngày nay tên Cồn Thiên đã được nhắc đến từng ngày. Cứ điểm đó do những người lính Hoa Kỳ trấn giữ kể từ ngày khu phi chiến đã trở thành khu chiến với những trận đánh đẫm máu cho cả đôi bên. Hàng ngày trăm trái đạn đại bác rơi phủ mờ đồi Cồn Thiên cũng như đồi Gio Linh nhưng những cứ điểm này vẫn vững bền như những cứ điểm thép đứng ngạo nghễ thách đố về bờ Bắc. Nhìn sang phải, anh trông thấy rõ dòng nước bạc chảy từ con sông lịch sử đổ xuôi ra cửa Tùng. Ngoài ra nữa là biển cả mênh mông nổi bật đoàn chiến hạm với những dàn hải pháo sẵn sàng yểm trợ cho Cồn Thiên và Gio Linh để phản pháo. Ngày ở đây thật dài, dài như những ngày mấy năm về trước khi anh còn tham chiến ở chung quanh đồn Đức Cơ. Vì ngoài những lúc tung quân tuần tiễu để bảo vệ căn cứ, tất cả đều sống trong tình trạng báo động thường trực. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trong những căn hầm xây ngầm dưới mặt đất và được che kín bằng những lớp bao cát thật dầy. Từ trong hầm anh đã nhìn mùa thu Gio Linh qua đi bằng lỗ châu mai. Ở đây chỉ có gió heo may lạnh buốt và tiếng đạn rít ngang đầu hay tiếng nổ rung chuyển cả đất hàng đêm bởi những cuộc oanh tạc dữ dội của từng đoàn pháo đài bay B.52 dội bom xuống địa điểm trú quân và vị trí pháo của địch phía bên kia bờ Bắc. Từ lâu anh thấy nhớ không khí của một mùa thu nhưng ở đây không có hình ảnh đẹp của những chiếc lá vàng rơi từ hàng cây cao dọc bờ đại lộ của thành phố. Đất ở đây đã khô cằn vì sỏi đá, cây ở đây đã ngã gục cháy đen vì đạn đại bác của đôi bên cày từng vuông đất. Chiến tranh là vậy. Thê thảm khôn cùng. Không một ai trong chúng ta thích chiến tranh. Nhưng các anh đã thực sự đối diện với chiến tranh từ bao năm qua. Các anh chiến đấu để bảo vệ quê hương thứ hai miền Nam này và để sửa soạn cho một ngày trở lại nơi chúng ta đã sinh trưởng hiện

trong cuộc chiến hiện tại. Cũng từ đài quan sát, anh nhìn sang trái, ngang với căn cứ trú quân của anh là đồn Cồn Thiên. Một địa danh ngày xưa chưa ai biết đến nhưng ngày nay tên Cồn Thiên đã được nhắc đến từng ngày. Cứ điểm đó do những người lính Hoa Kỳ trấn giữ kể từ ngày khu phi chiến đã trở thành khu chiến với những trận đánh đẫm máu cho cả đôi bên. Hàng ngày trăm trái đạn đại bác rơi phủ mờ đồi Cồn Thiên cũng như đồi Gio Linh nhưng những cứ điểm này vẫn vững bền như những cứ điểm thép đứng ngạo nghễ thách đố về bờ Bắc. Nhìn sang phải, anh trông thấy rõ dòng nước bạc chảy từ con sông lịch sử đổ xuôi ra cửa Tùng. Ngoài ra nữa là biển cả mênh mông nổi bật đoàn chiến hạm với những dàn hải pháo sẵn sàng yểm trợ cho Cồn Thiên và Gio Linh để phản pháo. Ngày ở đây thật dài, dài như những ngày mấy năm về trước khi anh còn tham chiến ở chung quanh đồn Đức Cơ. Vì ngoài những lúc tung quân tuần tiễu để bảo vệ căn cứ, tất cả đều sống trong tình trạng báo động thường trực. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trong những căn hầm xây ngầm dưới mặt đất và được che kín bằng những lớp bao cát thật dầy. Từ trong hầm anh đã nhìn mùa thu Gio Linh qua đi bằng lỗ châu mai. Ở đây chỉ có gió heo may lạnh buốt và tiếng đạn rít ngang đầu hay tiếng nổ rung chuyển cả đất hàng đêm bởi những cuộc oanh tạc dữ dội của từng đoàn pháo đài bay B.52 dội bom xuống địa điểm trú quân và vị trí pháo của địch phía bên kia bờ Bắc. Từ lâu anh thấy nhớ không khí của một mùa thu nhưng ở đây không có hình ảnh đẹp của những chiếc lá vàng rơi từ hàng cây cao dọc bờ đại lộ của thành phố. Đất ở đây đã khô cằn vì sỏi đá, cây ở đây đã ngã gục cháy đen vì đạn đại bác của đôi bên cày từng vuông đất. Chiến tranh là vậy. Thê thảm khôn cùng. Không một ai trong chúng ta thích chiến tranh. Nhưng các anh đã thực sự đối diện với chiến tranh từ bao năm qua. Các anh chiến đấu để bảo vệ quê hương thứ hai miền Nam này và để sửa soạn cho một ngày trở lại nơi chúng ta đã sinh trưởng hiện

Page 35: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

108 108

đang quằn quại điêu linh trong tay quân thù. Các anh cầm súng chiến đấu chỉ vì quê hương và để cho những người như các em được sống an lành chờ đợi ngày các anh trở lại. 2.

Sau mấy tháng trời hành quân, Luận theo đơn vị trở lại Sài Gòn. Những chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C.130 lần lượt hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày Luận về Sài Gòn là mùa nắng bây giờ trở lại trong những cơn mưa xối xả đến bất chợt. Chiếc Jeep đưa Luận về đến trại Nguyễn Trung Hiếu đã gần chiều. Đơn vị được nghỉ bảy ngày. Luận nghĩ đến bạn bè thân lâu ngày chưa gặp. Có lẽ phải đi thăm hết không thì gặp thằng nào cũng lại bị trách móc. Người đầu tiên Luận nghĩ đến là Chí. Phải, nó tên là Nguyễn Hồng Chí. Thằng bạn thân nhất và chơi với nhau cũng lâu nhất trong số bạn hữu hiện tại của Luận. Biết nhau những ngày hai đứa ngồi chung một ghế tại trường trung học Chu Văn An - Hà Nội. Tính Luận thì hay đùa nghịch, còn Chí thì chín chắn mang cái vẻ đăm chiêu của người lớn. Thật sự thì Chí cũng hơn Luận vài tuổi thật. Nhưng không phải vì thế mà Chí trở thành một người lớn trong bọn Luận. Những ngày xa xưa đó, Luận thì sống trong một gia đình sung túc lúc nào cũng được nuông chiều. Còn Chí mồ côi cả cha lẫn mẹ thật sớm. Chí được người chị cả đã lấy chồng đưa Chí về nuôi ăn học. Không lúc nào Luận thấy Chí đi chơi rong phố hay gặp Chí trong các rạp chiếu bóng vào ngày nghỉ. Chí học hành chăm chỉ và luôn luôn là một người học trò gương mẫu. Luận là người duy nhất trong lớp được Chí tâm sự về gia cảnh và Luận đã cảm thông được nỗi lòng của Chí. Điều ao ước duy nhất của Chí là cố gắng học để thi xong tú tài rồi đi làm để có thể tự lập. Chí không muốn nhờ vả người chị cả, gia đình chị cũng không được dư dả cho lắm. Mặc dầu người anh rể rất tốt lúc nào cũng săn sóc Chí như người anh ruột. Một buổi học vào giữa năm đệ tứ, trong một giờ toán được

đang quằn quại điêu linh trong tay quân thù. Các anh cầm súng chiến đấu chỉ vì quê hương và để cho những người như các em được sống an lành chờ đợi ngày các anh trở lại. 2.

Sau mấy tháng trời hành quân, Luận theo đơn vị trở lại Sài Gòn. Những chiếc phi cơ vận tải khổng lồ C.130 lần lượt hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày Luận về Sài Gòn là mùa nắng bây giờ trở lại trong những cơn mưa xối xả đến bất chợt. Chiếc Jeep đưa Luận về đến trại Nguyễn Trung Hiếu đã gần chiều. Đơn vị được nghỉ bảy ngày. Luận nghĩ đến bạn bè thân lâu ngày chưa gặp. Có lẽ phải đi thăm hết không thì gặp thằng nào cũng lại bị trách móc. Người đầu tiên Luận nghĩ đến là Chí. Phải, nó tên là Nguyễn Hồng Chí. Thằng bạn thân nhất và chơi với nhau cũng lâu nhất trong số bạn hữu hiện tại của Luận. Biết nhau những ngày hai đứa ngồi chung một ghế tại trường trung học Chu Văn An - Hà Nội. Tính Luận thì hay đùa nghịch, còn Chí thì chín chắn mang cái vẻ đăm chiêu của người lớn. Thật sự thì Chí cũng hơn Luận vài tuổi thật. Nhưng không phải vì thế mà Chí trở thành một người lớn trong bọn Luận. Những ngày xa xưa đó, Luận thì sống trong một gia đình sung túc lúc nào cũng được nuông chiều. Còn Chí mồ côi cả cha lẫn mẹ thật sớm. Chí được người chị cả đã lấy chồng đưa Chí về nuôi ăn học. Không lúc nào Luận thấy Chí đi chơi rong phố hay gặp Chí trong các rạp chiếu bóng vào ngày nghỉ. Chí học hành chăm chỉ và luôn luôn là một người học trò gương mẫu. Luận là người duy nhất trong lớp được Chí tâm sự về gia cảnh và Luận đã cảm thông được nỗi lòng của Chí. Điều ao ước duy nhất của Chí là cố gắng học để thi xong tú tài rồi đi làm để có thể tự lập. Chí không muốn nhờ vả người chị cả, gia đình chị cũng không được dư dả cho lắm. Mặc dầu người anh rể rất tốt lúc nào cũng săn sóc Chí như người anh ruột. Một buổi học vào giữa năm đệ tứ, trong một giờ toán được

Page 36: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

109 109

giảng dạy bởi một giáo sư nổi tiếng là khó. Lúc nào ông cũng sẵn sàng la hét, sẵn sàng cho điểm không và phạt công–si. Bàn Luận có bốn người. Chí thì lúc nào cũng nghiêm trang theo dõi lời giáo sư và rất ít khi tham dự những trò đùa nghịch của bọn Luận. Nhưng Luận và Khải, Luận thì sẵn sàng tìm những trò ngộ nghĩnh để phá giáo sư. Nhất là chọn những ông nào có tiếng là hóc búa. Những lần trước, các giáo sư không tìm ra thủ phạm nhưng chẳng may giờ toán này bọn Luận bị bắt gặp. Giáo sư phạt tất cả bàn hai chủ nhật liền phải đến trường ngồi chép phạt. Luận, Khải, Trụ đứng dậy nhận lỗi nhưng xin tha cho Chí vì anh ngồi cùng bàn nhưng không tham dự. Giáo sư vừa bằng lòng, thì Chí đứng dậy xin chịu lỗi cùng vì anh nhận có tham dự trò đùa nghịch đó. Giáo sư ngơ ngác. Nhưng cả lớp hiểu và bọn Luận hiểu Chí. Sau giờ đó Chí cự nự bọn Luận rất nhiều. Chí nói đời học sinh có học cũng có đùa nghịch, đó là những kỷ niệm sâu đậm nhất của những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Mai đây, chia tay nhau đã chắc gì tìm lại được những kỷ niệm đẹp ngày xưa. Thế là hai chủ nhật liền cả bàn đều chịu phạt cho có nhau. Nhưng từ đó tình thân càng trở nên mật thiết. Nhất là tình bạn của Luận với Chí. Ngày vào Nam, bọn Luận vẫn đủ bốn đứa như cũ theo học năm cuối cùng. Thi xong, Khải được gia đình cho sang Pháp học. Trụ theo đại học y khoa. Chí thi vào một trường cao đẳng chuyên nghiệp để sớm được đi làm. Gia đình Luận ở lại tất cả ngoài Bắc. Luận cũng bỏ trường đi dạy học một năm, rồi anh quyết định xin nhập ngũ. Luận theo một khóa học sĩ quan ba năm tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Trong thời gian này Chí và Luận vẫn nhận được thư của nhau hàng tuần. Chí ra trường trước Luận một năm. Ngày Luận mãn khóa, Chí lên tham dự. Hai người ở lại Đà Lạt một tuần để chơi. Luận tình nguyện về phục vụ tại binh chủng nhảy dù, đơn vị anh đóng ngay tại Sài Gòn. Vừa lúc đó, Chí cũng từ nhiệm sở tại Bến Cát - Bình Dương đổi về. Hai người thuê chung một căn nhà để ở. Với những tiện nghi tối thiểu. Luận và Chí đã làm gần tròn những mộng ước ngày xưa. Một tủ đầy sách quý của Luận, một quầy

giảng dạy bởi một giáo sư nổi tiếng là khó. Lúc nào ông cũng sẵn sàng la hét, sẵn sàng cho điểm không và phạt công–si. Bàn Luận có bốn người. Chí thì lúc nào cũng nghiêm trang theo dõi lời giáo sư và rất ít khi tham dự những trò đùa nghịch của bọn Luận. Nhưng Luận và Khải, Luận thì sẵn sàng tìm những trò ngộ nghĩnh để phá giáo sư. Nhất là chọn những ông nào có tiếng là hóc búa. Những lần trước, các giáo sư không tìm ra thủ phạm nhưng chẳng may giờ toán này bọn Luận bị bắt gặp. Giáo sư phạt tất cả bàn hai chủ nhật liền phải đến trường ngồi chép phạt. Luận, Khải, Trụ đứng dậy nhận lỗi nhưng xin tha cho Chí vì anh ngồi cùng bàn nhưng không tham dự. Giáo sư vừa bằng lòng, thì Chí đứng dậy xin chịu lỗi cùng vì anh nhận có tham dự trò đùa nghịch đó. Giáo sư ngơ ngác. Nhưng cả lớp hiểu và bọn Luận hiểu Chí. Sau giờ đó Chí cự nự bọn Luận rất nhiều. Chí nói đời học sinh có học cũng có đùa nghịch, đó là những kỷ niệm sâu đậm nhất của những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Mai đây, chia tay nhau đã chắc gì tìm lại được những kỷ niệm đẹp ngày xưa. Thế là hai chủ nhật liền cả bàn đều chịu phạt cho có nhau. Nhưng từ đó tình thân càng trở nên mật thiết. Nhất là tình bạn của Luận với Chí. Ngày vào Nam, bọn Luận vẫn đủ bốn đứa như cũ theo học năm cuối cùng. Thi xong, Khải được gia đình cho sang Pháp học. Trụ theo đại học y khoa. Chí thi vào một trường cao đẳng chuyên nghiệp để sớm được đi làm. Gia đình Luận ở lại tất cả ngoài Bắc. Luận cũng bỏ trường đi dạy học một năm, rồi anh quyết định xin nhập ngũ. Luận theo một khóa học sĩ quan ba năm tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Trong thời gian này Chí và Luận vẫn nhận được thư của nhau hàng tuần. Chí ra trường trước Luận một năm. Ngày Luận mãn khóa, Chí lên tham dự. Hai người ở lại Đà Lạt một tuần để chơi. Luận tình nguyện về phục vụ tại binh chủng nhảy dù, đơn vị anh đóng ngay tại Sài Gòn. Vừa lúc đó, Chí cũng từ nhiệm sở tại Bến Cát - Bình Dương đổi về. Hai người thuê chung một căn nhà để ở. Với những tiện nghi tối thiểu. Luận và Chí đã làm gần tròn những mộng ước ngày xưa. Một tủ đầy sách quý của Luận, một quầy

Page 37: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

110 110

rượu đủ loại của Chí. Trong những ngày ở chung đó, Luận lại có dịp nhìn thấy sự thực của con người trong sạch như Chí. Trong sở, Chí được trao phụ trách công việc đấu thầu. Anh đã làm việc thật thẳng thắn và công bằng. Nhiều lần, Luận đã thấy những người thật sang trọng đến tận nhà riêng của hai người để điều đình các áp-phe. Họ mang tiền bạc và cả gái đẹp ra sẵn sàng dâng hiến nhưng Chí đã từ chối. Đã có lần Luận muốn thử lòng Chí: - Này nhận cho họ vụ thầu này là tụi mình có xe hơi đi rồi đó. Hoặc là: - Mày thấy đấy. Trong cuộc sống hiện tại thiếu gì thằng lợi dụng chức tước để cho vợ chạy áp-phe, cho đàn em buôn lậu. Để rồi họ từ một thằng chẳng biết gì cả thế mà bây giờ cũng học ăn, học mặc, học nhảy cũng ra điều ăn chơi nay Tự Do mai Văn Cảnh, Maxim’s. Đối với cấp trên thì nịnh bợ, luồn cúi để che đậy công việc làm nhơ bẩn, còn đối với cấp dưới thì hống hách tự coi mình như mặt trời riêng của một vùng đất nhỏ bé biệt lập. Những lần nghe như vậy, Chí đều cười nói với Luận: - Mày muốn thử tao phải không? Chính vì tao không làm như vậy được thì tao mới là bạn mày. Tao mới không bị chúng mày khinh bỉ. Tao không thẹn với lương tâm. Mặc dù tao biết tao không làm những việc đó thì sẽ không thiếu gì những thằng sẽ làm. Chúng nó làm được, nhưng chắc chắn tao không làm được, mày không làm được. Và tất cả những thằng còn chút lương tâm, còn biết có danh dự thì cũng sẽ như chúng mình. Thế rồi, những ngày tháng đầm ấm của tình bạn cứ đều trôi qua. Nhưng cuộc chiến bắt đầu vào giai đoạn khốc liệt nhất. Luận phải theo đơn vị lên đường hành quân dài hạn từ hai đến ba tháng một lần. Khi thì Pleiku, Kontum, khi thì Tuy Hòa, Bình Định. Rồi vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, Đông Hà… Nhiều thanh niên được gọi nhập ngũ lớp sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Chí cũng ở trong lớp người sẽ bị gọi đó. Trong khi một số người hèn nhát tìm đủ mọi cách để xin hoãn dịch

rượu đủ loại của Chí. Trong những ngày ở chung đó, Luận lại có dịp nhìn thấy sự thực của con người trong sạch như Chí. Trong sở, Chí được trao phụ trách công việc đấu thầu. Anh đã làm việc thật thẳng thắn và công bằng. Nhiều lần, Luận đã thấy những người thật sang trọng đến tận nhà riêng của hai người để điều đình các áp-phe. Họ mang tiền bạc và cả gái đẹp ra sẵn sàng dâng hiến nhưng Chí đã từ chối. Đã có lần Luận muốn thử lòng Chí: - Này nhận cho họ vụ thầu này là tụi mình có xe hơi đi rồi đó. Hoặc là: - Mày thấy đấy. Trong cuộc sống hiện tại thiếu gì thằng lợi dụng chức tước để cho vợ chạy áp-phe, cho đàn em buôn lậu. Để rồi họ từ một thằng chẳng biết gì cả thế mà bây giờ cũng học ăn, học mặc, học nhảy cũng ra điều ăn chơi nay Tự Do mai Văn Cảnh, Maxim’s. Đối với cấp trên thì nịnh bợ, luồn cúi để che đậy công việc làm nhơ bẩn, còn đối với cấp dưới thì hống hách tự coi mình như mặt trời riêng của một vùng đất nhỏ bé biệt lập. Những lần nghe như vậy, Chí đều cười nói với Luận: - Mày muốn thử tao phải không? Chính vì tao không làm như vậy được thì tao mới là bạn mày. Tao mới không bị chúng mày khinh bỉ. Tao không thẹn với lương tâm. Mặc dù tao biết tao không làm những việc đó thì sẽ không thiếu gì những thằng sẽ làm. Chúng nó làm được, nhưng chắc chắn tao không làm được, mày không làm được. Và tất cả những thằng còn chút lương tâm, còn biết có danh dự thì cũng sẽ như chúng mình. Thế rồi, những ngày tháng đầm ấm của tình bạn cứ đều trôi qua. Nhưng cuộc chiến bắt đầu vào giai đoạn khốc liệt nhất. Luận phải theo đơn vị lên đường hành quân dài hạn từ hai đến ba tháng một lần. Khi thì Pleiku, Kontum, khi thì Tuy Hòa, Bình Định. Rồi vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, Đông Hà… Nhiều thanh niên được gọi nhập ngũ lớp sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Chí cũng ở trong lớp người sẽ bị gọi đó. Trong khi một số người hèn nhát tìm đủ mọi cách để xin hoãn dịch

Page 38: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

111 111

hoặc miễn vĩnh viễn thì Chí hăng hái thu xếp công việc để sẵn sàng khi có lệnh gọi sẽ lên đường. Chí bảo với Luận: - Dù trên cương vị nào thì cũng là phục vụ cho đất nước. Nhưng tao thấy chúng mày, những thằng lính là những người hy sinh gian khổ nhiều nhất. Không lẽ để chúng mày chiến đấu thay cho kẻ khác mãi. Chúng tao phải có bổn phận góp mặt chung dưới cờ với tụi mày. Mai đây sau thời gian phục vụ theo pháp định, chúng tao sẽ giải ngũ và như vậy tao sẽ không có mặc cảm nào đối với cuộc chiến hiện tại. Rồi Chí kể cho Luận nghe những bộ mặt sợ hãi, những kiểu cách xin miễn dịch của một số bạn đồng sở. Luận cũng kể cho Chí nghe một trường hợp: - Tao vừa được một thằng bạn kể lại - thằng trung úy Hòa chắc mày cũng biết chứ gì – nơi nó làm có một thằng em của một ông đơn vị trưởng. Thằng này đang dạy học tại Sài Gòn. Mỗi lần vào trại thăm anh, nó lên mặt với tất cả các sĩ quan trong đơn vị, nó muốn mọi người cũng phải sợ nó như ông anh nó vốn có tiếng hách nổi tiếng nhất. Mà ông anh nó mỗi lần họp các sĩ quan đều đập bàn rầm rầm để chỉ dẫn các thuộc hạ đủ những danh từ đẹp đẽ nhất nào tuổi trẻ, nào hy sinh, nào tổ quốc. Thế mà khi thằng em trai có lệnh gọi đi Thủ Đức thì sợ hãi cuống cuồng làm như đi là chết ngay. Còn ông anh thì hình như quên những điều thường nói với các sĩ quan thuộc quyền, ông ta bắt thằng Hòa mang đồ lễ đi mọi nơi để xin xỏ hoãn dịch cho thằng em ông ta từng khóa một. Cuộc đời tầm thường như vậy đó. Chí lên đường nhập học khóa 13 Thủ Đức. Sau bốn năm chiến đấu trên khắp các chiến trường. Anh giải ngũ với cấp bậc Trung úy với bốn anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và một chiến thương bội tinh. Chí trở lại nhiệm sở cũ và sau một thời gian ngắn anh lập gia đình với một người con gái miền Trung. Chí quen Hương và yêu nàng những ngày anh theo đơn vị lưu động tại vùng giới tuyến. Hương rời Huế, xa dòng sông thơ mộng, xa những đền đài lăng miếu cổ kính, để theo chồng vào Nam. Gia đình Chí thật hạnh phúc vô cùng. Luận nhận

hoặc miễn vĩnh viễn thì Chí hăng hái thu xếp công việc để sẵn sàng khi có lệnh gọi sẽ lên đường. Chí bảo với Luận: - Dù trên cương vị nào thì cũng là phục vụ cho đất nước. Nhưng tao thấy chúng mày, những thằng lính là những người hy sinh gian khổ nhiều nhất. Không lẽ để chúng mày chiến đấu thay cho kẻ khác mãi. Chúng tao phải có bổn phận góp mặt chung dưới cờ với tụi mày. Mai đây sau thời gian phục vụ theo pháp định, chúng tao sẽ giải ngũ và như vậy tao sẽ không có mặc cảm nào đối với cuộc chiến hiện tại. Rồi Chí kể cho Luận nghe những bộ mặt sợ hãi, những kiểu cách xin miễn dịch của một số bạn đồng sở. Luận cũng kể cho Chí nghe một trường hợp: - Tao vừa được một thằng bạn kể lại - thằng trung úy Hòa chắc mày cũng biết chứ gì – nơi nó làm có một thằng em của một ông đơn vị trưởng. Thằng này đang dạy học tại Sài Gòn. Mỗi lần vào trại thăm anh, nó lên mặt với tất cả các sĩ quan trong đơn vị, nó muốn mọi người cũng phải sợ nó như ông anh nó vốn có tiếng hách nổi tiếng nhất. Mà ông anh nó mỗi lần họp các sĩ quan đều đập bàn rầm rầm để chỉ dẫn các thuộc hạ đủ những danh từ đẹp đẽ nhất nào tuổi trẻ, nào hy sinh, nào tổ quốc. Thế mà khi thằng em trai có lệnh gọi đi Thủ Đức thì sợ hãi cuống cuồng làm như đi là chết ngay. Còn ông anh thì hình như quên những điều thường nói với các sĩ quan thuộc quyền, ông ta bắt thằng Hòa mang đồ lễ đi mọi nơi để xin xỏ hoãn dịch cho thằng em ông ta từng khóa một. Cuộc đời tầm thường như vậy đó. Chí lên đường nhập học khóa 13 Thủ Đức. Sau bốn năm chiến đấu trên khắp các chiến trường. Anh giải ngũ với cấp bậc Trung úy với bốn anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và một chiến thương bội tinh. Chí trở lại nhiệm sở cũ và sau một thời gian ngắn anh lập gia đình với một người con gái miền Trung. Chí quen Hương và yêu nàng những ngày anh theo đơn vị lưu động tại vùng giới tuyến. Hương rời Huế, xa dòng sông thơ mộng, xa những đền đài lăng miếu cổ kính, để theo chồng vào Nam. Gia đình Chí thật hạnh phúc vô cùng. Luận nhận

Page 39: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

112 112

đỡ đầu cho đứa con trai đầu lòng của Chí cũng như Chí đã đặt tên cho đứa bé. Điều đó chứng tỏ lòng quý mến của vợ chồng Chí đối với Luận. Vì thế sau mỗi lần hành quân trở lại hậu cứ, Luận nghĩ ngay đến việc đến thăm vợ chồng Chí trước tiên. Ở đấy, Luận có thể tìm thấy khung cảnh ấm cúng của một gia đình hạnh phúc, một tình bạn thiêng liêng đủ làm Luận quên những ánh lửa vừa trải qua. Mỗi lần đến như thế, Luận lại kể cho Chí nghe những mặt trận mà anh vừa mới trải qua, những chiến thắng đơn vị anh đoạt được. Những ly rượu cứ vơi dần và Hương thì bận rộn nhiều nhất vì phải sửa soạn bữa tiệc cho hai người. Hương đối xử rất khéo léo mỗi khi Luận đến thăm vì nàng đã được Chí kể cho nghe tình bạn thân thiết của hai người. Rồi vợ chồng Chí thấy Luận cứ kéo dài đời sống độc thân mãi, đã có lần nàng hỏi Luận: - Anh và Chí chơi thân với nhau. Bây giờ Chí đã có hai cháu rồi. Bộ anh định ở vậy mãi hay sao. Lần nào cũng vậy, Luận đều cười: - Thì gia đình của anh chị là gia đình của tôi. Hai cháu là con tôi. Đời lính suốt tháng năm ngoài chiến trường đâu dám nghĩ đến chuyện vợ con. Lấy ai, tôi chỉ sợ làm người ta khổ. Và chị Hương nhắm xem có ai dám lấy tụi tôi không. Tiếng Chí vang lên: - Hương đừng nói chuyện vợ con với thằng đó. Nó cãi bài bây cho mà xem. Hôm nào em xem trong số bạn gái có cô nào xinh mà thật dễ thương giới thiệu cho nó một cô. Chỉ sợ tới lúc đó nó lại phải năn nỉ vợ chồng mình đấy thôi. Anh chơi thân với Luận lâu, biết tính nó chả ai khuyên nổi nó đâu. Nhã, em gái nhỏ của Hương, vội nói láu táu: - Chị Hương có nhiều bạn gái dạy cùng trường, người bạn thân thiết là giáo sư Việt văn của em. Tụi em là con gái mà cũng phải mê. Đã đẹp lại dễ thương vô cùng. Trong những giờ dạy, lúc nào rảnh rỗi chị lại kể cho chúng em nghe về những kỷ niệm quê hương cũ. Chị ấy tả về thành phố Hưng Yên ngày xưa của chị… Luận vội ngắt lời:

đỡ đầu cho đứa con trai đầu lòng của Chí cũng như Chí đã đặt tên cho đứa bé. Điều đó chứng tỏ lòng quý mến của vợ chồng Chí đối với Luận. Vì thế sau mỗi lần hành quân trở lại hậu cứ, Luận nghĩ ngay đến việc đến thăm vợ chồng Chí trước tiên. Ở đấy, Luận có thể tìm thấy khung cảnh ấm cúng của một gia đình hạnh phúc, một tình bạn thiêng liêng đủ làm Luận quên những ánh lửa vừa trải qua. Mỗi lần đến như thế, Luận lại kể cho Chí nghe những mặt trận mà anh vừa mới trải qua, những chiến thắng đơn vị anh đoạt được. Những ly rượu cứ vơi dần và Hương thì bận rộn nhiều nhất vì phải sửa soạn bữa tiệc cho hai người. Hương đối xử rất khéo léo mỗi khi Luận đến thăm vì nàng đã được Chí kể cho nghe tình bạn thân thiết của hai người. Rồi vợ chồng Chí thấy Luận cứ kéo dài đời sống độc thân mãi, đã có lần nàng hỏi Luận: - Anh và Chí chơi thân với nhau. Bây giờ Chí đã có hai cháu rồi. Bộ anh định ở vậy mãi hay sao. Lần nào cũng vậy, Luận đều cười: - Thì gia đình của anh chị là gia đình của tôi. Hai cháu là con tôi. Đời lính suốt tháng năm ngoài chiến trường đâu dám nghĩ đến chuyện vợ con. Lấy ai, tôi chỉ sợ làm người ta khổ. Và chị Hương nhắm xem có ai dám lấy tụi tôi không. Tiếng Chí vang lên: - Hương đừng nói chuyện vợ con với thằng đó. Nó cãi bài bây cho mà xem. Hôm nào em xem trong số bạn gái có cô nào xinh mà thật dễ thương giới thiệu cho nó một cô. Chỉ sợ tới lúc đó nó lại phải năn nỉ vợ chồng mình đấy thôi. Anh chơi thân với Luận lâu, biết tính nó chả ai khuyên nổi nó đâu. Nhã, em gái nhỏ của Hương, vội nói láu táu: - Chị Hương có nhiều bạn gái dạy cùng trường, người bạn thân thiết là giáo sư Việt văn của em. Tụi em là con gái mà cũng phải mê. Đã đẹp lại dễ thương vô cùng. Trong những giờ dạy, lúc nào rảnh rỗi chị lại kể cho chúng em nghe về những kỷ niệm quê hương cũ. Chị ấy tả về thành phố Hưng Yên ngày xưa của chị… Luận vội ngắt lời:

Page 40: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

113 113

- Nhã nói sao? Cô ấy thường nói về thành phố Hưng Yên à. Chí hỏi Hương: - Cô nào ấy em. Luận nó cũng ở Hưng Yên đấy. Nói tên xem chàng ta có biết không? - Linh Phương, anh Luận ạ. Hoàng Thị Linh Phương, anh có biết không? Luận im lặng suy nghĩ. Những người con gái đẹp của Hưng Yên ngày xưa anh biết rõ. Trong đó có Tuyết Mai với mối tình đầu của anh. Có lẽ ngày đó Linh Phương còn nhỏ, vả lại anh theo học ở Hà Nội chỉ về Hưng Yên mỗi khi nghỉ hè. Luận trả lời Hương: - Chắc tôi không biết đâu chị ạ. Chị quen cô ấy từ hồi nào? -Từ dạo còn theo học ở ngoài trường Đồng Khánh. Phương di cư từ Hưng Yên vào thẳng Huế. Chúng tôi cùng đỗ, cùng vào sư phạm một năm. Phương theo gia đình vào Sài Gòn trước tôi. Tôi lấy Chí vào đây không ngờ gặp Phương cùng dạy một trường. Anh chịu không tôi làm mối cho. Luận cười nhìn Chí: - Để xem đã chị ạ. Nào bây giờ chúng ta ăn uống đi chứ? Hương mỉm cười nhìn hai người: -Thôi ông tướng uống vừa ở nhà thôi. Rồi kéo nhau đi chơi đâu đó thì đi. Nhớ đừng uống say quá rồi lái xe không nổi lại quên cả đường về. Tôi sửa soạn phòng cho anh Luận về đây nghỉ nhé. Luận cảm động cám ơn Hương. Còn Chí thì âu yếm nói: - Anh đi chơi, em không ghen à? Hương cười: - Có anh Luận về em cho phép anh đấy. Hai anh đi riêng mà tâm sự. Kẻo khi anh Luận đi hành quân rồi cứ nhắc anh ấy hoài. Luận nhìn đồng hồ tay. Mười bẩy giờ chiều. Anh nhấc điện thoại gọi đến sở của Chí. Có tiếng người nữ thư ký ở đầu máy: - Xin ông vui lòng chờ, tôi sẽ chuyển máy cho ông Chí ngay. Tiếng Chí hét trong máy: - A-lô, Luận đầu máy phải không? Mày về bao giờ vậy?

- Nhã nói sao? Cô ấy thường nói về thành phố Hưng Yên à. Chí hỏi Hương: - Cô nào ấy em. Luận nó cũng ở Hưng Yên đấy. Nói tên xem chàng ta có biết không? - Linh Phương, anh Luận ạ. Hoàng Thị Linh Phương, anh có biết không? Luận im lặng suy nghĩ. Những người con gái đẹp của Hưng Yên ngày xưa anh biết rõ. Trong đó có Tuyết Mai với mối tình đầu của anh. Có lẽ ngày đó Linh Phương còn nhỏ, vả lại anh theo học ở Hà Nội chỉ về Hưng Yên mỗi khi nghỉ hè. Luận trả lời Hương: - Chắc tôi không biết đâu chị ạ. Chị quen cô ấy từ hồi nào? -Từ dạo còn theo học ở ngoài trường Đồng Khánh. Phương di cư từ Hưng Yên vào thẳng Huế. Chúng tôi cùng đỗ, cùng vào sư phạm một năm. Phương theo gia đình vào Sài Gòn trước tôi. Tôi lấy Chí vào đây không ngờ gặp Phương cùng dạy một trường. Anh chịu không tôi làm mối cho. Luận cười nhìn Chí: - Để xem đã chị ạ. Nào bây giờ chúng ta ăn uống đi chứ? Hương mỉm cười nhìn hai người: -Thôi ông tướng uống vừa ở nhà thôi. Rồi kéo nhau đi chơi đâu đó thì đi. Nhớ đừng uống say quá rồi lái xe không nổi lại quên cả đường về. Tôi sửa soạn phòng cho anh Luận về đây nghỉ nhé. Luận cảm động cám ơn Hương. Còn Chí thì âu yếm nói: - Anh đi chơi, em không ghen à? Hương cười: - Có anh Luận về em cho phép anh đấy. Hai anh đi riêng mà tâm sự. Kẻo khi anh Luận đi hành quân rồi cứ nhắc anh ấy hoài. Luận nhìn đồng hồ tay. Mười bẩy giờ chiều. Anh nhấc điện thoại gọi đến sở của Chí. Có tiếng người nữ thư ký ở đầu máy: - Xin ông vui lòng chờ, tôi sẽ chuyển máy cho ông Chí ngay. Tiếng Chí hét trong máy: - A-lô, Luận đầu máy phải không? Mày về bao giờ vậy?

Page 41: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

114 114

- Tao vừa xuống máy bay cách đây nửa giờ. Có gì lạ không? - May cho tụi mình quá. Mày có nhớ ngày hôm nay là ngày gì của tao không? - Thú thật tao chả nhớ gì cả. Ngày gì đó mày? - Ngày kỷ niệm chúng tao lấy nhau. Vì thế tối nay tại nhà tao có buổi họp mặt của một số bạn thân. Tao và Hương đang tiếc vì không có mày. Chúng tao đều buồn vì thiếu mày thì coi như mất vui một nửa rồi. Bây giờ mày về là hoàn toàn. Tao lái xe đến đón mày nghe. - Thôi tao còn thu xếp một ít công việc của đơn vị. Rồi còn phải thay quần áo đã chứ. Mày muốn tao mặc bộ đồ trận đầy bụi đến mừng vợ chồng mày sao. Mày về trước phụ với Hương đi cho bà ấy bằng lòng. Cho tao biết mấy giờ bắt đầu? - 20 giờ mày nghe rõ chưa? À quên báo cho mày biết trước để mà hồi hộp chơi. Hôm nay có cả Linh Phương đến nữa đấy. Tao có gặp đương sự rồi. Điểm chúng mình phê bình các em ngày xưa khi còn đi học là 8/10. Tao nhắc lại là 8/10 nghe không. Xứng đôi với mày lắm. Được chứ Luận. - Mày nói thì tao tin. Nhưng để rồi xem đã. Bây giờ tao chỉ cần gặp mày và uống rượu thôi. - Xong rồi, tao để dành cho mày một chai rượu đặc biệt mà tao mang từ Phi Luật Tân về tháng trước. Hồi mày đi hành quân tao vừa đi công cán 15 ngày ở bên đó. Thôi tao cúp máy, đến sớm một chút nghe. Luận đặt ống nói điện thoại xuống bàn. Anh cho lệnh vắn tắt các nhân viên dưới quyền rồi trở về phòng riêng. Từ trong phòng, Luận nhìn ra ngoài khung cửa sổ mở rộng. Cây khế trước hiên đã nở hoa tím đầy cành. Mầu lá xanh ngắt còn lóng lánh ướt nước của cơn mưa vừa dứt. Mầu tím phơn phớt của hoa khế như nhắc nhở Luận đến những mối tình đẹp đã đi qua trong đời. Thoáng nhẹ nhớ thương dâng trong lòng. Một làn gió thổi nhẹ đưa những cành hoa tím rơi đầy trên thềm nhà. 3.

- Tao vừa xuống máy bay cách đây nửa giờ. Có gì lạ không? - May cho tụi mình quá. Mày có nhớ ngày hôm nay là ngày gì của tao không? - Thú thật tao chả nhớ gì cả. Ngày gì đó mày? - Ngày kỷ niệm chúng tao lấy nhau. Vì thế tối nay tại nhà tao có buổi họp mặt của một số bạn thân. Tao và Hương đang tiếc vì không có mày. Chúng tao đều buồn vì thiếu mày thì coi như mất vui một nửa rồi. Bây giờ mày về là hoàn toàn. Tao lái xe đến đón mày nghe. - Thôi tao còn thu xếp một ít công việc của đơn vị. Rồi còn phải thay quần áo đã chứ. Mày muốn tao mặc bộ đồ trận đầy bụi đến mừng vợ chồng mày sao. Mày về trước phụ với Hương đi cho bà ấy bằng lòng. Cho tao biết mấy giờ bắt đầu? - 20 giờ mày nghe rõ chưa? À quên báo cho mày biết trước để mà hồi hộp chơi. Hôm nay có cả Linh Phương đến nữa đấy. Tao có gặp đương sự rồi. Điểm chúng mình phê bình các em ngày xưa khi còn đi học là 8/10. Tao nhắc lại là 8/10 nghe không. Xứng đôi với mày lắm. Được chứ Luận. - Mày nói thì tao tin. Nhưng để rồi xem đã. Bây giờ tao chỉ cần gặp mày và uống rượu thôi. - Xong rồi, tao để dành cho mày một chai rượu đặc biệt mà tao mang từ Phi Luật Tân về tháng trước. Hồi mày đi hành quân tao vừa đi công cán 15 ngày ở bên đó. Thôi tao cúp máy, đến sớm một chút nghe. Luận đặt ống nói điện thoại xuống bàn. Anh cho lệnh vắn tắt các nhân viên dưới quyền rồi trở về phòng riêng. Từ trong phòng, Luận nhìn ra ngoài khung cửa sổ mở rộng. Cây khế trước hiên đã nở hoa tím đầy cành. Mầu lá xanh ngắt còn lóng lánh ướt nước của cơn mưa vừa dứt. Mầu tím phơn phớt của hoa khế như nhắc nhở Luận đến những mối tình đẹp đã đi qua trong đời. Thoáng nhẹ nhớ thương dâng trong lòng. Một làn gió thổi nhẹ đưa những cành hoa tím rơi đầy trên thềm nhà. 3.

Page 42: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

115 115

Đối với Luận, cuộc họp mặt này thật bất ngờ không định trước. Người con gái ngồi đó. Đối diện với chàng trong dáng điệu thật lạ lùng. Mái tóc xõa trên bờ vai thon nhỏ. Màu áo trắng đơn sơ điểm những bông hoa nhỏ màu tím xinh xinh. Tiếng nói trong và mang một âm điệu đặc biệt của người con gái sinh trưởng tại miền Bắc. Luận như ngỡ ngàng sống lại cái tuổi 17 ngày nào lần đầu đối diện với người yêu. Nhưng không phải người con gái đó là Tuyết Mai của mối tình non dại thuở học trò của Luận 13 năm về trước. Người con gái này là Linh Phương. Nhưng sao Luận vẫn mơ hồ tưởng như sống lại buổi tiệc mãn khóa hè ngày nào tại Phố Hiến của thành phố Hưng Yên quê hương yêu dấu cũ. Linh Phương như mang trọn hình ảnh của một Tuyết Mai bé nhỏ dịu dàng với một chút nũng nịu nụ cười má lúm đồng tiền trông duyên dáng vô cùng. Hiện tại đã kéo Luận về sự thực. Bầu không khí của buổi họp mặt trở nên mỗi lúc một sôi động. Tiếng nói của Chí vang lên: - Luận uống đi chứ? Ly thứ mấy rồi? Luận cười nâng ly với Chí trước khi uống cạn: - Mới có ly thứ ba… Chí quay sang nói với vợ: - Hương, em rót cho Luận ly nữa. Luận giơ tay vội nói: - Xin chị cho từ từ, buổi tiệc còn dài coi chừng tôi say đó. Tiếng Trụ ngồi cạnh Linh Phương: - Chị Hương cứ rót đi. Luận mới ở mặt trận về phải cho nó uống thoải mái cho bõ những lúc hành quân gian khổ. Tiếng rượu chảy róc rách trong ly. Nhã, em gái Hương ngồi bên cạnh Luận, gắp thêm đá và đổ đầy sô-đa, rồi nói: - Anh chị Chí giao cho em phải tiếp anh và chị Phương ngày hôm nay. Ánh mắt Phương thoáng nhìn Luận, rồi cúi xuống. - Cô làm như tôi là khách lạ không bằng. Nhã giọng trẻ con đùa nghịch: - Không lạ thì anh cũng coi chừng mọi người sẽ quên anh. Luận nâng ly hỏi:

Đối với Luận, cuộc họp mặt này thật bất ngờ không định trước. Người con gái ngồi đó. Đối diện với chàng trong dáng điệu thật lạ lùng. Mái tóc xõa trên bờ vai thon nhỏ. Màu áo trắng đơn sơ điểm những bông hoa nhỏ màu tím xinh xinh. Tiếng nói trong và mang một âm điệu đặc biệt của người con gái sinh trưởng tại miền Bắc. Luận như ngỡ ngàng sống lại cái tuổi 17 ngày nào lần đầu đối diện với người yêu. Nhưng không phải người con gái đó là Tuyết Mai của mối tình non dại thuở học trò của Luận 13 năm về trước. Người con gái này là Linh Phương. Nhưng sao Luận vẫn mơ hồ tưởng như sống lại buổi tiệc mãn khóa hè ngày nào tại Phố Hiến của thành phố Hưng Yên quê hương yêu dấu cũ. Linh Phương như mang trọn hình ảnh của một Tuyết Mai bé nhỏ dịu dàng với một chút nũng nịu nụ cười má lúm đồng tiền trông duyên dáng vô cùng. Hiện tại đã kéo Luận về sự thực. Bầu không khí của buổi họp mặt trở nên mỗi lúc một sôi động. Tiếng nói của Chí vang lên: - Luận uống đi chứ? Ly thứ mấy rồi? Luận cười nâng ly với Chí trước khi uống cạn: - Mới có ly thứ ba… Chí quay sang nói với vợ: - Hương, em rót cho Luận ly nữa. Luận giơ tay vội nói: - Xin chị cho từ từ, buổi tiệc còn dài coi chừng tôi say đó. Tiếng Trụ ngồi cạnh Linh Phương: - Chị Hương cứ rót đi. Luận mới ở mặt trận về phải cho nó uống thoải mái cho bõ những lúc hành quân gian khổ. Tiếng rượu chảy róc rách trong ly. Nhã, em gái Hương ngồi bên cạnh Luận, gắp thêm đá và đổ đầy sô-đa, rồi nói: - Anh chị Chí giao cho em phải tiếp anh và chị Phương ngày hôm nay. Ánh mắt Phương thoáng nhìn Luận, rồi cúi xuống. - Cô làm như tôi là khách lạ không bằng. Nhã giọng trẻ con đùa nghịch: - Không lạ thì anh cũng coi chừng mọi người sẽ quên anh. Luận nâng ly hỏi:

Page 43: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

116 116

- Tại sao vậy Nhã? Nhã nhìn Linh Phương như phân trần câu nói của mình: - Chị Phương xem, anh Luận đi hành quân gì mà biền biệt cả mấy tháng. Chả chịu thư từ gì về cả. Mọi người chẳng ai biết anh đi đâu và bao lâu. Ấy vậy khi thoáng thấy anh đến chơi rồi lại biến mất. Anh Chí gọi điện thoại hỏi đơn vị của anh thì lại nghe nói anh đi hành quân rồi. Tiếng Phương nhẹ nhàng: - Nghe nói anh mới đi hành quân về. Vùng Thừa Thiên, Quảng Trị phải không anh? Tôi cũng xa Huế mấy năm rồi chưa có dịp nào trở lại. Luận nhìn đôi mắt Phương: - Gần ba tháng ròng rã ngoài đó. Chúng tôi đi gần hết từ Phú Lộc, Phú Thứ, Nam Hòa, Quảng Điền và Phong Điền tới miền Hải Lăng, La Vang, Gia Đẳng rồi trở lại Lương Mai, Lại Hà và Phá Tam Giang. - Anh có dịp nào đi qua trường Đồng Khánh không ạ? - Thưa có. Những lần về nghỉ dưỡng quân ở Đàn Nam Giao, Long Thọ hay An Hòa, tôi có nhiều dịp đi qua trường. Bây giờ ngoài đó vào hè. Trường đóng cửa nhưng sân trường đỏ màu hoa phượng. Giọng Phương như trở nên xa xôi: - Đời tôi có hai kỷ niệm sâu đậm nhất. Đó là những ngày đầu bước chân vào trung học tại trường Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên quê hương tôi và sau này di cư tôi theo học tại trường Đồng Khánh - Huế. - Như vậy tôi có chung một hình ảnh kỷ niệm đầu với Phương vì tôi cũng học tại trường Phạm Ngũ Lão rồi sau đó mới lên Hà Nội theo học tại trường Chu Văn An. Phương trở nên cởi mở hơn: - Tôi cũng nghe anh chị Chí nói anh người Hưng Yên. Không gì bằng được gặp người đã cùng sống trong vùng trời kỷ niệm thuở ấu thơ của mình. Tôi thấy nhớ thương quê hương khôn cùng. Mười mấy năm rồi anh nhỉ? Tôi muốn nói đến Hưng Yên và tôi muốn nghe lại chuyện Hưng Yên. Suốt buổi họp mặt đó, Luận và Phương đã nói chuyện với nhau như quên cả mọi người xung quanh. Những đôi vợ

- Tại sao vậy Nhã? Nhã nhìn Linh Phương như phân trần câu nói của mình: - Chị Phương xem, anh Luận đi hành quân gì mà biền biệt cả mấy tháng. Chả chịu thư từ gì về cả. Mọi người chẳng ai biết anh đi đâu và bao lâu. Ấy vậy khi thoáng thấy anh đến chơi rồi lại biến mất. Anh Chí gọi điện thoại hỏi đơn vị của anh thì lại nghe nói anh đi hành quân rồi. Tiếng Phương nhẹ nhàng: - Nghe nói anh mới đi hành quân về. Vùng Thừa Thiên, Quảng Trị phải không anh? Tôi cũng xa Huế mấy năm rồi chưa có dịp nào trở lại. Luận nhìn đôi mắt Phương: - Gần ba tháng ròng rã ngoài đó. Chúng tôi đi gần hết từ Phú Lộc, Phú Thứ, Nam Hòa, Quảng Điền và Phong Điền tới miền Hải Lăng, La Vang, Gia Đẳng rồi trở lại Lương Mai, Lại Hà và Phá Tam Giang. - Anh có dịp nào đi qua trường Đồng Khánh không ạ? - Thưa có. Những lần về nghỉ dưỡng quân ở Đàn Nam Giao, Long Thọ hay An Hòa, tôi có nhiều dịp đi qua trường. Bây giờ ngoài đó vào hè. Trường đóng cửa nhưng sân trường đỏ màu hoa phượng. Giọng Phương như trở nên xa xôi: - Đời tôi có hai kỷ niệm sâu đậm nhất. Đó là những ngày đầu bước chân vào trung học tại trường Phạm Ngũ Lão ở Hưng Yên quê hương tôi và sau này di cư tôi theo học tại trường Đồng Khánh - Huế. - Như vậy tôi có chung một hình ảnh kỷ niệm đầu với Phương vì tôi cũng học tại trường Phạm Ngũ Lão rồi sau đó mới lên Hà Nội theo học tại trường Chu Văn An. Phương trở nên cởi mở hơn: - Tôi cũng nghe anh chị Chí nói anh người Hưng Yên. Không gì bằng được gặp người đã cùng sống trong vùng trời kỷ niệm thuở ấu thơ của mình. Tôi thấy nhớ thương quê hương khôn cùng. Mười mấy năm rồi anh nhỉ? Tôi muốn nói đến Hưng Yên và tôi muốn nghe lại chuyện Hưng Yên. Suốt buổi họp mặt đó, Luận và Phương đã nói chuyện với nhau như quên cả mọi người xung quanh. Những đôi vợ

Page 44: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

117 117

chồng bạn thân của Luận như Chí, Khải, Trụ đều đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Hương nhìn Luận và Phương ngồi nói chuyện, rồi hỏi nhỏ chồng: - Liệu lần này chị Phương buộc nổi chân anh Luận không? Chí gật gù nhìn chai rượu: - Xong rồi. Thằng Luận hôm nay say tình chứ nhất định rượu không làm nó say nổi đâu. Sau buổi tiệc, Luận lấy xe hơi của Chí đưa Linh Phương về nhà. Trên đường đi, từ Trần Quốc Toản về tới Thị Nghè, dù xe chạy thật chậm mà cả hai người còn thấy đoạn đường đưa nhau về quá ngắn. Xe dừng trước cửa đã từ lâu, nhưng không một ai muốn nói tiếng từ biệt trước. Hai người ngồi im lặng như muốn thời gian ngừng lại. Nhưng rồi Luận lên tiếng: - Phương đã cho tôi những giờ phút vui thật quý báu sau những tháng dài quên mình hành quân gian khổ ngoài chiến trường. Tôi sẽ xin gặp lại Phương. Tôi nghĩ rằng còn nhiều chuyện muốn nói với Phương. Thời gian tôi ở Sài Gòn thật ngắn ngủi. Tôi hy vọng chuyến đi sắp tới tôi sẽ mang theo một hình ảnh đẹp và một hy vọng của ngày trở lại. Tiếng nói của Phương như lạc giọng: - Phương sẽ chờ anh. Dù tháng năm khói lửa chiến tranh có dài đi bao lâu nữa… 4.

Đồi 46 là cao địa bao quát suốt vùng Gio Linh và Trung Lương. Căn cứ được thiết lập trên đỉnh đồi đã được san phẳng. Từ đó có thể quan sát rõ ràng phía bên kia bờ Bắc sông Bến Hải và là một điểm tựa vững chắc bảo vệ sườn trái của căn cứ Cồn Thiên. Hầm chỉ huy được xây bằng xi-măng cốt sắt nằm chìm sâu trong lòng đất. Bên ngoài là những chồng bao cát xếp gọn gàng giữ chặt những cột ăng-ten cao đầy nhánh bay đi bốn phương. Đơn vị của Luận trấn giữ ở đây đã tròn tháng. Trời cuối

chồng bạn thân của Luận như Chí, Khải, Trụ đều đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Hương nhìn Luận và Phương ngồi nói chuyện, rồi hỏi nhỏ chồng: - Liệu lần này chị Phương buộc nổi chân anh Luận không? Chí gật gù nhìn chai rượu: - Xong rồi. Thằng Luận hôm nay say tình chứ nhất định rượu không làm nó say nổi đâu. Sau buổi tiệc, Luận lấy xe hơi của Chí đưa Linh Phương về nhà. Trên đường đi, từ Trần Quốc Toản về tới Thị Nghè, dù xe chạy thật chậm mà cả hai người còn thấy đoạn đường đưa nhau về quá ngắn. Xe dừng trước cửa đã từ lâu, nhưng không một ai muốn nói tiếng từ biệt trước. Hai người ngồi im lặng như muốn thời gian ngừng lại. Nhưng rồi Luận lên tiếng: - Phương đã cho tôi những giờ phút vui thật quý báu sau những tháng dài quên mình hành quân gian khổ ngoài chiến trường. Tôi sẽ xin gặp lại Phương. Tôi nghĩ rằng còn nhiều chuyện muốn nói với Phương. Thời gian tôi ở Sài Gòn thật ngắn ngủi. Tôi hy vọng chuyến đi sắp tới tôi sẽ mang theo một hình ảnh đẹp và một hy vọng của ngày trở lại. Tiếng nói của Phương như lạc giọng: - Phương sẽ chờ anh. Dù tháng năm khói lửa chiến tranh có dài đi bao lâu nữa… 4.

Đồi 46 là cao địa bao quát suốt vùng Gio Linh và Trung Lương. Căn cứ được thiết lập trên đỉnh đồi đã được san phẳng. Từ đó có thể quan sát rõ ràng phía bên kia bờ Bắc sông Bến Hải và là một điểm tựa vững chắc bảo vệ sườn trái của căn cứ Cồn Thiên. Hầm chỉ huy được xây bằng xi-măng cốt sắt nằm chìm sâu trong lòng đất. Bên ngoài là những chồng bao cát xếp gọn gàng giữ chặt những cột ăng-ten cao đầy nhánh bay đi bốn phương. Đơn vị của Luận trấn giữ ở đây đã tròn tháng. Trời cuối

Page 45: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

118 118

thu mang gió heo may thổi lạnh. Luận kéo cao cổ áo sau bước vội vào hầm chỉ huy cùng thiếu tá Tịnh, Tiểu đoàn trưởng. Trước bản đồ toàn vùng hoạt động, Luận đã thấy các sĩ quan thuộc bộ chỉ huy đều đủ mặt. Thiếu tá Chương - Tiểu đoàn trưởng, Trung úy Duy - sĩ quan an ninh, Trung úy Văn - y sĩ trưởng, Thiếu úy Hiển - sĩ quan tiền sát viên pháo binh và viên thiếu tá cố vấn Mỹ. Kim đồng hồ vừa chỉ đúng 7 giờ sáng. Luận báo cáo kết quả cuộc chạm súng của toán phục kích đêm qua tại phía tây căn cứ. Toán giao liên của địch lọt ổ phục kích của ta hồi nửa đêm. Địch chết 6 bỏ lại 5 AK 47. Bên ta vô sự và vẫn kiểm soát được toàn vùng. Mọi người bắt đầu uống ly cà phê đầu tiên trong ngày. Chợt tiếng kẻng dồn dập vang lên từ các pháo đài quan sát báo hiệu địch pháo kích. Tiếng đạn đi xé không khí, rít lên những tiếng rợn người. Tiếng nổ ầm vang rung chuyển cả mặt đất. Luận nghĩ đến cuộc pháo chiến đã bắt đầu mở màn. Từ hộp loa khuyếch thanh của chiếc máy PRC.25 vang lên tiếng báo cáo của đài quan sát. Hướng súng và tầm xa. Thiếu tá Chương chấm vị trí súng địch trên bản đồ và cho lệnh phản pháo. Luận đọc to tọa độ. Mọi người đã ngồi trước các máy liên lạc. Các pháo đội của ta và hải pháo bắt đầu bắn trả buộc súng địch phải ngưng tiếng. Thiếu tá Chương cho lệnh liên lạc xin các phi tuần phản lực lên vùng. Từ loa khuếch thanh, tiếng các đại đội trưởng báo cáo kết quả vô sự sau đợt pháo kích vừa qua. Tiếng phi cơ ầm ầm vang bầu trời. Mọi người rời hầm quan sát. Từng chiếc phản lực thân bạc lóng lánh dưới ánh mặt trời bắt đầu lao xuống vùng nghi ngờ có vị trí đặt pháo binh của địch. Từng cột khói đen nhánh ánh lửa bốc lên cao. Mọi người đăm chiêu suy nghĩ hướng sang bờ Bắc. Luận rùng mình theo cơn gió lạnh vừa thổi lộng về. Anh và tất cả mọi người có mặt tại đây đang thật sự đối diện với chiến tranh. Duy gọi Luận chỉ về phía Nam căn cứ. Thị trấn Đông Hà trông nổi bật bên cạnh dòng sông. Một chiếc phi cơ vận tải vừa hạ cánh xuống phi trường. Luận nghĩ tới chuyến liên

thu mang gió heo may thổi lạnh. Luận kéo cao cổ áo sau bước vội vào hầm chỉ huy cùng thiếu tá Tịnh, Tiểu đoàn trưởng. Trước bản đồ toàn vùng hoạt động, Luận đã thấy các sĩ quan thuộc bộ chỉ huy đều đủ mặt. Thiếu tá Chương - Tiểu đoàn trưởng, Trung úy Duy - sĩ quan an ninh, Trung úy Văn - y sĩ trưởng, Thiếu úy Hiển - sĩ quan tiền sát viên pháo binh và viên thiếu tá cố vấn Mỹ. Kim đồng hồ vừa chỉ đúng 7 giờ sáng. Luận báo cáo kết quả cuộc chạm súng của toán phục kích đêm qua tại phía tây căn cứ. Toán giao liên của địch lọt ổ phục kích của ta hồi nửa đêm. Địch chết 6 bỏ lại 5 AK 47. Bên ta vô sự và vẫn kiểm soát được toàn vùng. Mọi người bắt đầu uống ly cà phê đầu tiên trong ngày. Chợt tiếng kẻng dồn dập vang lên từ các pháo đài quan sát báo hiệu địch pháo kích. Tiếng đạn đi xé không khí, rít lên những tiếng rợn người. Tiếng nổ ầm vang rung chuyển cả mặt đất. Luận nghĩ đến cuộc pháo chiến đã bắt đầu mở màn. Từ hộp loa khuyếch thanh của chiếc máy PRC.25 vang lên tiếng báo cáo của đài quan sát. Hướng súng và tầm xa. Thiếu tá Chương chấm vị trí súng địch trên bản đồ và cho lệnh phản pháo. Luận đọc to tọa độ. Mọi người đã ngồi trước các máy liên lạc. Các pháo đội của ta và hải pháo bắt đầu bắn trả buộc súng địch phải ngưng tiếng. Thiếu tá Chương cho lệnh liên lạc xin các phi tuần phản lực lên vùng. Từ loa khuếch thanh, tiếng các đại đội trưởng báo cáo kết quả vô sự sau đợt pháo kích vừa qua. Tiếng phi cơ ầm ầm vang bầu trời. Mọi người rời hầm quan sát. Từng chiếc phản lực thân bạc lóng lánh dưới ánh mặt trời bắt đầu lao xuống vùng nghi ngờ có vị trí đặt pháo binh của địch. Từng cột khói đen nhánh ánh lửa bốc lên cao. Mọi người đăm chiêu suy nghĩ hướng sang bờ Bắc. Luận rùng mình theo cơn gió lạnh vừa thổi lộng về. Anh và tất cả mọi người có mặt tại đây đang thật sự đối diện với chiến tranh. Duy gọi Luận chỉ về phía Nam căn cứ. Thị trấn Đông Hà trông nổi bật bên cạnh dòng sông. Một chiếc phi cơ vận tải vừa hạ cánh xuống phi trường. Luận nghĩ tới chuyến liên

Page 46: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

119 119

lạc này chắc sẽ có thư của Linh Phương từ Sài Gòn gửi ra. Trong những ngày thật dài ở đây, Luận chỉ mong có vậy. Một người lính trẻ vừa cầm chiếc máy thu thanh chạy vội qua dưới chân đồi quan sát. Mơ hồ thoảng trong gió lạnh cuối thu tiếng hát nghẹn ngào của Phương Hoài Tâm qua bài Thương Vùng Hỏa Tuyến. “…toàn dân thương Trung Lương, toàn quốc thương Gio Linh, thương Bến Hải, thương cầu Hiền Lương…”

Căn cứ Gio Linh cuối thu 67

(trích tạp chí Văn Học; vì quá cũ, bìa mất, nên không biết số mấy - phát hành vào khoảng 1967 ?)

Sơ lược tiểu sử: Không rõ

███████████

lạc này chắc sẽ có thư của Linh Phương từ Sài Gòn gửi ra. Trong những ngày thật dài ở đây, Luận chỉ mong có vậy. Một người lính trẻ vừa cầm chiếc máy thu thanh chạy vội qua dưới chân đồi quan sát. Mơ hồ thoảng trong gió lạnh cuối thu tiếng hát nghẹn ngào của Phương Hoài Tâm qua bài Thương Vùng Hỏa Tuyến. “…toàn dân thương Trung Lương, toàn quốc thương Gio Linh, thương Bến Hải, thương cầu Hiền Lương…”

Căn cứ Gio Linh cuối thu 67

(trích tạp chí Văn Học; vì quá cũ, bìa mất, nên không biết số mấy - phát hành vào khoảng 1967 ?)

Sơ lược tiểu sử: Không rõ

███████████

Page 47: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

120 120

VƯƠNG THANH Giờ Hưu Chiến

Hữu lái xe một vòng quanh thành phố. Người, xe cộ lố nhố trong một bể bụi. Từng cụm bụi đất đỏ tung lên sau những chiếc xe. Đường xá lở loét như những bàn chân ghẻ. Những mặt phố tráng nhựa cho các loại xe tải thường đã không chịu nổi các đoàn quân xa hạng nặng của quân đội Hoa Kỳ. Đồ hộp, thuốc lá là màu sắc nổi bật nhất của một thành phố quân đội đồng minh, một thành phố gần với sự chết chóc nhất. Thường quân đội đồng minh tỏ sự giàu sang của mình bằng các vỏ đồ hộp và ruồi bọ. Những ngả đường dẫn vào thành phố được chất đầy những rác, vỏ hộp như những ngọn núi và ruồi bọ sanh sống ở đấy lúc nhúc. Mọi người nháo nhác trên nét mặt, co ro trong chiếc áo của cơn lạnh mùa đông đến chậm. Hữu thấy chán nản. Phố xá như đang có một cơn dịch. Thì ra đâu cũng vậy thôi, chả sung sướng gì. Mình cứ ức là không có dịp về xả xui. Trang Thanh yêu, tối nay chắc em ngủ yên trong cánh tay của mẹ. Lớn quá rồi mà vẫn còn muốn rúc vào vai mẹ. Tiếng súng, tiếng bom sẽ không còn làm cho em lo sợ cho cái chết bất chợt nào đó, mà bất cứ một người nào có liên hệ đến kẻ đang chiến đấu ngoài mặt trận, thường nghĩ đến. “Anh yêu, cả đêm em không ngủ. Súng nổ nhiều quá, gần quá như ngay trước nhà mình. Em cầu khẩn cho anh cả đêm. Anh biết không, Trang Thanh đánh thức mẹ dậy và lại trước bàn thờ Phật lễ cho anh. Hai mẹ con ngồi nhìn nhau. Có lúc em đã khóc vì nhìn mái tóc của mẹ. Mẹ yếu quá mà anh thì ở xa quá, em con gái làm được gì?” Em yêu, phải cố dỗ cho những giấc ngủ bình thường. Đã mấy chục năm, các phụ nữ của chúng ta đã làm như vậy để cố quên đi một đe dọa bất ngờ nhưng thật tàn khốc.

VƯƠNG THANH Giờ Hưu Chiến

Hữu lái xe một vòng quanh thành phố. Người, xe cộ lố nhố trong một bể bụi. Từng cụm bụi đất đỏ tung lên sau những chiếc xe. Đường xá lở loét như những bàn chân ghẻ. Những mặt phố tráng nhựa cho các loại xe tải thường đã không chịu nổi các đoàn quân xa hạng nặng của quân đội Hoa Kỳ. Đồ hộp, thuốc lá là màu sắc nổi bật nhất của một thành phố quân đội đồng minh, một thành phố gần với sự chết chóc nhất. Thường quân đội đồng minh tỏ sự giàu sang của mình bằng các vỏ đồ hộp và ruồi bọ. Những ngả đường dẫn vào thành phố được chất đầy những rác, vỏ hộp như những ngọn núi và ruồi bọ sanh sống ở đấy lúc nhúc. Mọi người nháo nhác trên nét mặt, co ro trong chiếc áo của cơn lạnh mùa đông đến chậm. Hữu thấy chán nản. Phố xá như đang có một cơn dịch. Thì ra đâu cũng vậy thôi, chả sung sướng gì. Mình cứ ức là không có dịp về xả xui. Trang Thanh yêu, tối nay chắc em ngủ yên trong cánh tay của mẹ. Lớn quá rồi mà vẫn còn muốn rúc vào vai mẹ. Tiếng súng, tiếng bom sẽ không còn làm cho em lo sợ cho cái chết bất chợt nào đó, mà bất cứ một người nào có liên hệ đến kẻ đang chiến đấu ngoài mặt trận, thường nghĩ đến. “Anh yêu, cả đêm em không ngủ. Súng nổ nhiều quá, gần quá như ngay trước nhà mình. Em cầu khẩn cho anh cả đêm. Anh biết không, Trang Thanh đánh thức mẹ dậy và lại trước bàn thờ Phật lễ cho anh. Hai mẹ con ngồi nhìn nhau. Có lúc em đã khóc vì nhìn mái tóc của mẹ. Mẹ yếu quá mà anh thì ở xa quá, em con gái làm được gì?” Em yêu, phải cố dỗ cho những giấc ngủ bình thường. Đã mấy chục năm, các phụ nữ của chúng ta đã làm như vậy để cố quên đi một đe dọa bất ngờ nhưng thật tàn khốc.

Page 48: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

121 121

Hữu ngược xe về phía phi trường. Con đường dẫn ra ngoại ô bốc lên một luồng đất đỏ dài trên không. Còn mười phút nữa người yêu mới về. Mình đậu xe chờ vậy. À, phải giấu cái xe đi và làm cho cô ả thật ngạc nhiên. Thư nào cũng nói nhớ anh mong anh về. Nghĩ vậy, chàng lui xe vào sân một xưởng thợ mộc. Chàng cười xã giao với người thợ sau khi nói ý định gửi xe. Chàng đến chỗ người lính gác xin lửa châm điếu thuốc. Người lính như một công bộc với quần áo thẳng nếp, giầy dép bóng lộn, một mẫu lính thành phố, lính các nhà quan không phải thứ lính ngoài chiến tuyến một bộ quần áo mặc cả tuần lễ không thay với bùn lầy và nước mưa đã nhào nặn không biết bao nhiêu lần nhưng không có thời giờ để giặt. Rít mấy hơi thuốc liên tiếp, chàng thấy ấm trong buồng phổi. Thủ hai tay trong túi quần, điếu thuốc cắn trên môi, chàng thản nhiên ngắm sinh hoạt của thành phố. Trang Thanh ra kia rồi. Vóc dáng ấy yểu điệu quá. Em yêu, em khóc từng đêm là phải. Một sự yểu điệu ẩn hiện sau tà áo như có vẻ rộng ra. Cô ả biết thế nào được “mình sẽ đi phía sau tán cô ả thử.” Có tiếng guốc nhẹ ở sau lưng, một lát nghe êm. Cổ chàng lạnh buốt vì một bàn tay chạm vào. Hữu sụt cổ và quay lại. Trang Thanh thì thầm: - Anh mới về hả? Hữu mỉm cười. Mắt người con gái rạng rỡ, thật đẹp. Phải, anh mới về. Mong mỏi quá phải không em? - Trang Thanh xinh nhỉ? Giọng nàng hờn trách: - Anh ác. Nhìn kiểu đứng của anh em biết ngay. Sao không vào cho em biết. Định hành tội cho em khóc đó phải không? Khóc hết nước mắt rồi chứ bộ. Hữu vỗ về: - Anh muốn em ngạc nhiên vậy thôi. Ai lại ác với em. Từ bao nguy nan, anh về được đây chắc em đã hiểu. - Không cãi với anh nữa, anh ngụy biện lắm. Có anh về là được rồi. Em sẽ nhõng nhẽo cho anh biết tay. Lắm lúc mẹ

Hữu ngược xe về phía phi trường. Con đường dẫn ra ngoại ô bốc lên một luồng đất đỏ dài trên không. Còn mười phút nữa người yêu mới về. Mình đậu xe chờ vậy. À, phải giấu cái xe đi và làm cho cô ả thật ngạc nhiên. Thư nào cũng nói nhớ anh mong anh về. Nghĩ vậy, chàng lui xe vào sân một xưởng thợ mộc. Chàng cười xã giao với người thợ sau khi nói ý định gửi xe. Chàng đến chỗ người lính gác xin lửa châm điếu thuốc. Người lính như một công bộc với quần áo thẳng nếp, giầy dép bóng lộn, một mẫu lính thành phố, lính các nhà quan không phải thứ lính ngoài chiến tuyến một bộ quần áo mặc cả tuần lễ không thay với bùn lầy và nước mưa đã nhào nặn không biết bao nhiêu lần nhưng không có thời giờ để giặt. Rít mấy hơi thuốc liên tiếp, chàng thấy ấm trong buồng phổi. Thủ hai tay trong túi quần, điếu thuốc cắn trên môi, chàng thản nhiên ngắm sinh hoạt của thành phố. Trang Thanh ra kia rồi. Vóc dáng ấy yểu điệu quá. Em yêu, em khóc từng đêm là phải. Một sự yểu điệu ẩn hiện sau tà áo như có vẻ rộng ra. Cô ả biết thế nào được “mình sẽ đi phía sau tán cô ả thử.” Có tiếng guốc nhẹ ở sau lưng, một lát nghe êm. Cổ chàng lạnh buốt vì một bàn tay chạm vào. Hữu sụt cổ và quay lại. Trang Thanh thì thầm: - Anh mới về hả? Hữu mỉm cười. Mắt người con gái rạng rỡ, thật đẹp. Phải, anh mới về. Mong mỏi quá phải không em? - Trang Thanh xinh nhỉ? Giọng nàng hờn trách: - Anh ác. Nhìn kiểu đứng của anh em biết ngay. Sao không vào cho em biết. Định hành tội cho em khóc đó phải không? Khóc hết nước mắt rồi chứ bộ. Hữu vỗ về: - Anh muốn em ngạc nhiên vậy thôi. Ai lại ác với em. Từ bao nguy nan, anh về được đây chắc em đã hiểu. - Không cãi với anh nữa, anh ngụy biện lắm. Có anh về là được rồi. Em sẽ nhõng nhẽo cho anh biết tay. Lắm lúc mẹ

Page 49: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

122 122

phải gắt em cả ngày chỉ “con lo cho anh ấy quá”. Nghĩ tức mẹ ghê vậy đó. Có bữa mẹ không hưởng ứng khi nghe nói mãi về anh, em hờn mẹ không ăn cơm, làm mẹ lại phải dỗ. Thật tội, me chìu em đủ điều. Anh biết không mẹ bảo em hay hờn mát là tại ăn phải đũa của anh đó.Anh có hay hờn không anh. Mẹ đe hôm nào anh về, mẹ đánh đòn cả hai đứa. Nghe mẹ nói em thấy thích thích anh ạ. Giá giờ cả hai đều nằm xuống cho mẹ đánh nhỉ. Anh có chịu không? - Về nhà rồi hãy tâm sự cô. Làm gì mà choi choi như con bê đòi bú mẹ thế kia. Ngó kìa, mấy cô bạn em họ đang cười đó. Trang Thanh quay nhìn mấy người bạn. Nàng cười thật tươi, vẫy tay tỏ sự thông cảm. - Kệ họ. Em phải nói để bù lại những ngày ngậm cóc chứ. - Được rồi, anh sẽ cố gắng nghe hết. Lần này những bảy ngày lận, chỉ sợ máy nói hết chuyện thôi. Trang Thanh reo như một đứa trẻ, khuôn mặt nàng bừng sáng. Gió làm những lọn tóc nàng bay phất phơ che nửa vầng trán. Mình sẽ không bao giờ làm cho niềm vui ấy được trọn vẹn. Em yêu, có những điều không bao giờ chúng ta muốn nhưng chúng ta vẫn phải chấp nhận. - Bảy ngày cơ à? Vui nhỉ. Rồi anh sẽ được chim của anh hót cả ngày cho mà nghe, không bao giờ hết chuyện đâu. - Được rồi. Giờ mời cô về. Cứ làm như còn bé lắm ấy. Trang Thanh vênh mặt, nhí nhảnh: - Bộ em lớn lắm hả? Hữu cười: - Phải. Cô lớn lắm rồi chứ còn như ngày nào ở truồng lê la nghịch đất nữa đâu. Đã đi làm được này, lại sắp sửa lấy chồng nữa. Nếu bé thì làm sao nội trợ nổi, nhất là săn sóc cho lính hơi khó đấy. - Anh chỉ được châm chọc là tài. Em không thèm nói nữa cho anh biết tay. Cứ bắt nạt người ta hoài. Hai người ra xe. Người con gái phụng phịu một cách đáng yêu, trẻ thơ nhưng cũng thật tình tứ. Xe chạy một quãng, Hữu quay sang bạn hỏi: - Bé giở chứng đó hả? Trang Thanh làm nghiêm. Hai mắt đăm đăm, nhìn thẳng

phải gắt em cả ngày chỉ “con lo cho anh ấy quá”. Nghĩ tức mẹ ghê vậy đó. Có bữa mẹ không hưởng ứng khi nghe nói mãi về anh, em hờn mẹ không ăn cơm, làm mẹ lại phải dỗ. Thật tội, me chìu em đủ điều. Anh biết không mẹ bảo em hay hờn mát là tại ăn phải đũa của anh đó.Anh có hay hờn không anh. Mẹ đe hôm nào anh về, mẹ đánh đòn cả hai đứa. Nghe mẹ nói em thấy thích thích anh ạ. Giá giờ cả hai đều nằm xuống cho mẹ đánh nhỉ. Anh có chịu không? - Về nhà rồi hãy tâm sự cô. Làm gì mà choi choi như con bê đòi bú mẹ thế kia. Ngó kìa, mấy cô bạn em họ đang cười đó. Trang Thanh quay nhìn mấy người bạn. Nàng cười thật tươi, vẫy tay tỏ sự thông cảm. - Kệ họ. Em phải nói để bù lại những ngày ngậm cóc chứ. - Được rồi, anh sẽ cố gắng nghe hết. Lần này những bảy ngày lận, chỉ sợ máy nói hết chuyện thôi. Trang Thanh reo như một đứa trẻ, khuôn mặt nàng bừng sáng. Gió làm những lọn tóc nàng bay phất phơ che nửa vầng trán. Mình sẽ không bao giờ làm cho niềm vui ấy được trọn vẹn. Em yêu, có những điều không bao giờ chúng ta muốn nhưng chúng ta vẫn phải chấp nhận. - Bảy ngày cơ à? Vui nhỉ. Rồi anh sẽ được chim của anh hót cả ngày cho mà nghe, không bao giờ hết chuyện đâu. - Được rồi. Giờ mời cô về. Cứ làm như còn bé lắm ấy. Trang Thanh vênh mặt, nhí nhảnh: - Bộ em lớn lắm hả? Hữu cười: - Phải. Cô lớn lắm rồi chứ còn như ngày nào ở truồng lê la nghịch đất nữa đâu. Đã đi làm được này, lại sắp sửa lấy chồng nữa. Nếu bé thì làm sao nội trợ nổi, nhất là săn sóc cho lính hơi khó đấy. - Anh chỉ được châm chọc là tài. Em không thèm nói nữa cho anh biết tay. Cứ bắt nạt người ta hoài. Hai người ra xe. Người con gái phụng phịu một cách đáng yêu, trẻ thơ nhưng cũng thật tình tứ. Xe chạy một quãng, Hữu quay sang bạn hỏi: - Bé giở chứng đó hả? Trang Thanh làm nghiêm. Hai mắt đăm đăm, nhìn thẳng

Page 50: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

123 123

như đang chú ý một việc gì, không nghe tiếng hỏi của chàng. Hữu thấy vui vui đã làm cho người tình giận. Con gái đẹp nhất khi hờn dỗi. Em yêu, cứ giả vờ đi. Giữa chúng ta phải có một kẻ lép vế chứ. Một lúc chàng bảo, thật nghiêm: - Sáng mai anh đi vậy. Mắt người con gái chớp chớp, quay lại chàng. Nước mắt chạy quanh, long lanh: - Anh làm khổ em. Hữu giảng hòa: - Ai bảo hỏi không nói. Trang Thanh ngúng nguẩy: - Anh cứ chèn ép em mãi, chịu sao nổi. Anh chả thương em thì thôi. Em phải mách mẹ để mẹ trị anh mới được. Thấy người ta bé cứ ăn hiếp. - Thôi! Xin lỗi. Được chưa! Cô đa sự. - Được. Chiếc xe chồm qua một vũng nước, lắc lư. Chàng vẫn có cái thú cho xe chạy tốc độ dù đường xấu. Gió tung từng cụm tóc, lòa xòa mặt người con gái. - Chạy chậm anh. Em lạnh. Run đây này. Qua ngã tư quốc lộ, kẹt đoàn quân xa. Từng xe đầy nhóc lính và súng ống, lem luốc như nhúng từ những vũng bùn lên. Chiếc xe như một con trâu lăn nhẩy chồm trên những chỗ đường lở lói như điên cuồng, làm những rác giấy và bụi cát tung mù mịt. Thành phố như một bãi rác. Những tiếng la hét, chọc ghẹo của những người lính ném từ trên xe xuống. Từng bọn vừa hát, vừa hưởng ứng. Trang Thanh nhìn họ, thấy vừa vui vừa buồn. Nàng làm lành: - Ngày trước nhìn xe lính chạy qua phố em ghét thậm tệ. Có nhiều cha khả ố lắm anh ơi. Họ nói nhiều câu thô tục không thể chịu nổi. Ngôn ngữ của lính các anh thật ghê. - Bây giờ hết ghét rồi hả? - Hết ghét mà lại thương nữa chứ. - Sao vậy? - Ai mà biết. Anh thử hỏi anh xem. Thứ con trai gì đâu thấy gái là lăn vào như lân nghe pháo. Hữu giải thích:

như đang chú ý một việc gì, không nghe tiếng hỏi của chàng. Hữu thấy vui vui đã làm cho người tình giận. Con gái đẹp nhất khi hờn dỗi. Em yêu, cứ giả vờ đi. Giữa chúng ta phải có một kẻ lép vế chứ. Một lúc chàng bảo, thật nghiêm: - Sáng mai anh đi vậy. Mắt người con gái chớp chớp, quay lại chàng. Nước mắt chạy quanh, long lanh: - Anh làm khổ em. Hữu giảng hòa: - Ai bảo hỏi không nói. Trang Thanh ngúng nguẩy: - Anh cứ chèn ép em mãi, chịu sao nổi. Anh chả thương em thì thôi. Em phải mách mẹ để mẹ trị anh mới được. Thấy người ta bé cứ ăn hiếp. - Thôi! Xin lỗi. Được chưa! Cô đa sự. - Được. Chiếc xe chồm qua một vũng nước, lắc lư. Chàng vẫn có cái thú cho xe chạy tốc độ dù đường xấu. Gió tung từng cụm tóc, lòa xòa mặt người con gái. - Chạy chậm anh. Em lạnh. Run đây này. Qua ngã tư quốc lộ, kẹt đoàn quân xa. Từng xe đầy nhóc lính và súng ống, lem luốc như nhúng từ những vũng bùn lên. Chiếc xe như một con trâu lăn nhẩy chồm trên những chỗ đường lở lói như điên cuồng, làm những rác giấy và bụi cát tung mù mịt. Thành phố như một bãi rác. Những tiếng la hét, chọc ghẹo của những người lính ném từ trên xe xuống. Từng bọn vừa hát, vừa hưởng ứng. Trang Thanh nhìn họ, thấy vừa vui vừa buồn. Nàng làm lành: - Ngày trước nhìn xe lính chạy qua phố em ghét thậm tệ. Có nhiều cha khả ố lắm anh ơi. Họ nói nhiều câu thô tục không thể chịu nổi. Ngôn ngữ của lính các anh thật ghê. - Bây giờ hết ghét rồi hả? - Hết ghét mà lại thương nữa chứ. - Sao vậy? - Ai mà biết. Anh thử hỏi anh xem. Thứ con trai gì đâu thấy gái là lăn vào như lân nghe pháo. Hữu giải thích:

Page 51: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

124 124

- Có thể em khắt khe với họ. Không phải trong số đó có anh mà anh bênh vực đâu. Cô đa sự lại cho là anh ngụy biện. Em biết không, cả tháng hành quân, mệt mỏi, đói khát, chết chóc, không hề có một bóng đàn bà dù cho là như mai em đi nữa, khi trở về nhìn lại thành phố thấy xa lạ với mình quá, thấy mình bị hy sinh nhiều quá trong khi mọi người vẫn nhởn nhơ với những cái đau khổ thường trực của họ và họ biểu lộ. Dù biểu tỏ lòng cách nào đi nữa thì cũng chân thật cả. Ngay cả chính anh, sau những lần phá phách mà không ân hận. Các anh đã đánh mất những ăn năn cần thiết. Trang Thanh bĩu môi: - Phải anh không ngụy biện. Cứ làm như chỉ các anh chiến đấu đều gian khổ thôi. Nào cả tháng thèm đàn bà, đói khát… để bênh vực cho mình. Hữu thấy cần phải im lặng. Chàng biết người yêu không có ý trách. Một hình thức của biểu lộ tình cảm là nói lên những cái xấu của người yêu mình. Thái độ tố cáo nhưng che đậy. Thật ra chàng không muốn bi thảm cuộc chiến đấu này. Nhưng sự thật đã diễn ra. Từng phút, từng ngày lớp lớp thanh niên ngã xuống, không lý do, không hận thù. Cái đau xót của chúng ta đã chết đi không cho một hận thù nào cả. Có thể một người anh giết một đứa em, một người cha giết một người con, một người chồng giết một người vợ. Cái chết không hình thái, không đắn đo, không từ chối, không phân biệt. Một viên đạn bắn đi, một khối chất nổ ném ra giữa những ràng buộc vây quanh, sự chết nằm xuống. Cái của chúng ta khởi lên từ đó. Trang Thanh yêu, anh không phê phán nhưng anh muốn bày tỏ những ý nghĩ thật của lòng mình. Những khuôn mặt sạm đen vì nắng gió, bão táp, cát bụi mà từng đoàn xe đã mang về những nỗi vui mừng của người mẹ của người vợ và cũng mang đi những nỗi lo âu, cắn xé… Đoàn xe mang một nỗi kinh ngạc cho thành phố trong giây lát rồi sinh hoạt lại đâu vào đấy. Những tiếng nổ ầm nào đó, vây quanh họ từng ngày từng đêm như một âm thanh

- Có thể em khắt khe với họ. Không phải trong số đó có anh mà anh bênh vực đâu. Cô đa sự lại cho là anh ngụy biện. Em biết không, cả tháng hành quân, mệt mỏi, đói khát, chết chóc, không hề có một bóng đàn bà dù cho là như mai em đi nữa, khi trở về nhìn lại thành phố thấy xa lạ với mình quá, thấy mình bị hy sinh nhiều quá trong khi mọi người vẫn nhởn nhơ với những cái đau khổ thường trực của họ và họ biểu lộ. Dù biểu tỏ lòng cách nào đi nữa thì cũng chân thật cả. Ngay cả chính anh, sau những lần phá phách mà không ân hận. Các anh đã đánh mất những ăn năn cần thiết. Trang Thanh bĩu môi: - Phải anh không ngụy biện. Cứ làm như chỉ các anh chiến đấu đều gian khổ thôi. Nào cả tháng thèm đàn bà, đói khát… để bênh vực cho mình. Hữu thấy cần phải im lặng. Chàng biết người yêu không có ý trách. Một hình thức của biểu lộ tình cảm là nói lên những cái xấu của người yêu mình. Thái độ tố cáo nhưng che đậy. Thật ra chàng không muốn bi thảm cuộc chiến đấu này. Nhưng sự thật đã diễn ra. Từng phút, từng ngày lớp lớp thanh niên ngã xuống, không lý do, không hận thù. Cái đau xót của chúng ta đã chết đi không cho một hận thù nào cả. Có thể một người anh giết một đứa em, một người cha giết một người con, một người chồng giết một người vợ. Cái chết không hình thái, không đắn đo, không từ chối, không phân biệt. Một viên đạn bắn đi, một khối chất nổ ném ra giữa những ràng buộc vây quanh, sự chết nằm xuống. Cái của chúng ta khởi lên từ đó. Trang Thanh yêu, anh không phê phán nhưng anh muốn bày tỏ những ý nghĩ thật của lòng mình. Những khuôn mặt sạm đen vì nắng gió, bão táp, cát bụi mà từng đoàn xe đã mang về những nỗi vui mừng của người mẹ của người vợ và cũng mang đi những nỗi lo âu, cắn xé… Đoàn xe mang một nỗi kinh ngạc cho thành phố trong giây lát rồi sinh hoạt lại đâu vào đấy. Những tiếng nổ ầm nào đó, vây quanh họ từng ngày từng đêm như một âm thanh

Page 52: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

125 125

cần thiết và họ đã quen tai. Chiến tranh không còn là hình ảnh của chết chóc và súng đạn nữa. Nó thản nhiên, chợt đến, chợt đi. Ngó thấy thì nghĩ đến, khuất mắt thì quên đi những tiếng nổ từng đêm nếu bặt tiếng người ta mới hiểu là nó đang nằm yên tĩnh. Những vật dụng từ trên xe cam-nhông ném xuống chọc phá những kẻ đi đường, kèm theo những tiếng hò hét thô tục, mới ngó chàng nghĩ là mất dạy nhưng Hữu thấy như thoải mái, một nỗi ấm ức trong lòng chàng như cũng được bày tỏ. Đám người ngơ ngác giơ tay vẫy chào nửa rụt rè nửa sợ sệt. - Anh, sao lại chạy lên? Hữu bớt ga, vào số rồi bảo: - Qua bên cầu. Anh có hẹn. Mấy anh bạn chờ cả bên đó rồi. Anh mới gặp họ, mừng quá. Mai, anh Nguyễn vào Thủ Đức. Một bữa nhậu diễn hành. Đừng cho là khôi hài. Trang Thanh giãy nảy: - Chờ cơm mẹ chửi chết. Hay anh tạt ngang về nhà cho mẹ biết đã. - Yên chí, anh đã xin mẹ rồi. - Anh kỳ ghê. Mẹ sẽ buồn đấy. Vừa về là có bạn bè liền. - Anh biết. Em đừng khắt khe quá họ sẽ cười tụi mình. Anh hiểu bạn bè không lo cho anh bằng em bằng mẹ, nhưng anh không thể thiếu họ. Người con gái hờn mát: - Mấy ông bạn anh cũng tinh nhỉ? Bắt mạch giỏi nhỉ? Hữu cười: - Đừng có nói khích anh. - Ai dám. Để anh dỗi anh bỏ đi à. Hữu đùa: - Ấy không phải dỗi đâu. Thật đấy chứ. - Không nói anh nữa. Đi thì chờ về thấy mặt là trêu cho người ta giận. Hữu thấy vui. Em yêu cứ làm nũng đi để bù lại những đêm nhung nhớ, “lấy chồng lính thật khổ. Lo sợ từng đêm.” Anh biết điều đó. Trên quê hương chúng ta, không một mình Trang Thanh khổ vì có chồng lính. Em biết không,

cần thiết và họ đã quen tai. Chiến tranh không còn là hình ảnh của chết chóc và súng đạn nữa. Nó thản nhiên, chợt đến, chợt đi. Ngó thấy thì nghĩ đến, khuất mắt thì quên đi những tiếng nổ từng đêm nếu bặt tiếng người ta mới hiểu là nó đang nằm yên tĩnh. Những vật dụng từ trên xe cam-nhông ném xuống chọc phá những kẻ đi đường, kèm theo những tiếng hò hét thô tục, mới ngó chàng nghĩ là mất dạy nhưng Hữu thấy như thoải mái, một nỗi ấm ức trong lòng chàng như cũng được bày tỏ. Đám người ngơ ngác giơ tay vẫy chào nửa rụt rè nửa sợ sệt. - Anh, sao lại chạy lên? Hữu bớt ga, vào số rồi bảo: - Qua bên cầu. Anh có hẹn. Mấy anh bạn chờ cả bên đó rồi. Anh mới gặp họ, mừng quá. Mai, anh Nguyễn vào Thủ Đức. Một bữa nhậu diễn hành. Đừng cho là khôi hài. Trang Thanh giãy nảy: - Chờ cơm mẹ chửi chết. Hay anh tạt ngang về nhà cho mẹ biết đã. - Yên chí, anh đã xin mẹ rồi. - Anh kỳ ghê. Mẹ sẽ buồn đấy. Vừa về là có bạn bè liền. - Anh biết. Em đừng khắt khe quá họ sẽ cười tụi mình. Anh hiểu bạn bè không lo cho anh bằng em bằng mẹ, nhưng anh không thể thiếu họ. Người con gái hờn mát: - Mấy ông bạn anh cũng tinh nhỉ? Bắt mạch giỏi nhỉ? Hữu cười: - Đừng có nói khích anh. - Ai dám. Để anh dỗi anh bỏ đi à. Hữu đùa: - Ấy không phải dỗi đâu. Thật đấy chứ. - Không nói anh nữa. Đi thì chờ về thấy mặt là trêu cho người ta giận. Hữu thấy vui. Em yêu cứ làm nũng đi để bù lại những đêm nhung nhớ, “lấy chồng lính thật khổ. Lo sợ từng đêm.” Anh biết điều đó. Trên quê hương chúng ta, không một mình Trang Thanh khổ vì có chồng lính. Em biết không,

Page 53: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

126 126

có người chỉ ăn ở với nhau từ ngày cưới vỏn vẹn có 10 ngày phép rồi người chồng ra đi biền biệt tại một tiền đồn hẻo lánh nào, một năm hai năm chưa được phép về một lần, có người đã vội vàng mang một vành khăn trắng vì người chồng sau những giờ phút chiến đấu tuy can trường nhưng bất lực. Anh còn biết người cha ba năm chưa được nhìn mặt con kể từ khi nó ra chào đời, và cũng có người cha kém may mắn hơn chả bao giờ còn được nhìn giọt máu thân yêu của mình nữa. Anh còn thấy, một buổi sáng sau hôm đơn vị hành quân về, từng nét mặt thảm não của người mẹ già, nét mặt ngây thơ “sầu của người vợ trẻ, cùng nét mặt ngây thơ của các con dại, bao quanh những cỗ quan tài, kẻ vật vã khóc lóc, người kêu gào chửi bới”. Nhìn các chiến hữu của mình gục ngã đã là điều đau xót, nhưng phải nhìn các người thân yêu của họ ở trong cảnh ấy, anh dù có vững lòng mấy cũng không khỏi xúc động. Thà mình chết đi, nhiều lúc anh nghĩ thế để cho đứa con duy nhất của người mẹ già, người chồng thân yêu của cô vợ trẻ được sống còn hơn phải nhìn họ khóc lóc kêu gào như thế. Trang Thanh biết không, anh vẫn tự nghĩ, cuộc chiến này đã cướp đi bao nhiêu nguồn hy vọng, thì thân xác anh còn lại đây, là điều may mắn rồi; cũng là một đãi ngộ còn lại của Trời Phật. Hãy cầu nguyện cho anh và hãy vững tâm nếu một ngày nào đó… Sơn Kim ngày …tháng … Trang Thanh yêu dấu! Mấy ngày nay lạnh ghê em nhỉ. Cái lạnh của miền núi anh không thể nào tả nổi, nó như nứt từng mảnh thịt ra. Ban đêm, anh tính cho em nghe nhé: một áo lót, một áo lính, một áo len của em đan, hai cái mền, một cái đắp, một cái trải, anh vẫn không tài nào ngủ nổi. Cũng trong lúc đó, các chiến hữu của anh, súng ống trong tay, thu mình trong chiếc Poncho đang rình chờ kẻ thù từ những hố cá nhân, từ những hàng thép gai, trong cái giao thông hào. Một bóng đen vô hình nào đó sẽ xuất hiện cướp giựt sự sống của họ. Đời lính thú thật là tẻ nhạt. Sáng mở mắt đã bị bưng bít bởi

có người chỉ ăn ở với nhau từ ngày cưới vỏn vẹn có 10 ngày phép rồi người chồng ra đi biền biệt tại một tiền đồn hẻo lánh nào, một năm hai năm chưa được phép về một lần, có người đã vội vàng mang một vành khăn trắng vì người chồng sau những giờ phút chiến đấu tuy can trường nhưng bất lực. Anh còn biết người cha ba năm chưa được nhìn mặt con kể từ khi nó ra chào đời, và cũng có người cha kém may mắn hơn chả bao giờ còn được nhìn giọt máu thân yêu của mình nữa. Anh còn thấy, một buổi sáng sau hôm đơn vị hành quân về, từng nét mặt thảm não của người mẹ già, nét mặt ngây thơ “sầu của người vợ trẻ, cùng nét mặt ngây thơ của các con dại, bao quanh những cỗ quan tài, kẻ vật vã khóc lóc, người kêu gào chửi bới”. Nhìn các chiến hữu của mình gục ngã đã là điều đau xót, nhưng phải nhìn các người thân yêu của họ ở trong cảnh ấy, anh dù có vững lòng mấy cũng không khỏi xúc động. Thà mình chết đi, nhiều lúc anh nghĩ thế để cho đứa con duy nhất của người mẹ già, người chồng thân yêu của cô vợ trẻ được sống còn hơn phải nhìn họ khóc lóc kêu gào như thế. Trang Thanh biết không, anh vẫn tự nghĩ, cuộc chiến này đã cướp đi bao nhiêu nguồn hy vọng, thì thân xác anh còn lại đây, là điều may mắn rồi; cũng là một đãi ngộ còn lại của Trời Phật. Hãy cầu nguyện cho anh và hãy vững tâm nếu một ngày nào đó… Sơn Kim ngày …tháng … Trang Thanh yêu dấu! Mấy ngày nay lạnh ghê em nhỉ. Cái lạnh của miền núi anh không thể nào tả nổi, nó như nứt từng mảnh thịt ra. Ban đêm, anh tính cho em nghe nhé: một áo lót, một áo lính, một áo len của em đan, hai cái mền, một cái đắp, một cái trải, anh vẫn không tài nào ngủ nổi. Cũng trong lúc đó, các chiến hữu của anh, súng ống trong tay, thu mình trong chiếc Poncho đang rình chờ kẻ thù từ những hố cá nhân, từ những hàng thép gai, trong cái giao thông hào. Một bóng đen vô hình nào đó sẽ xuất hiện cướp giựt sự sống của họ. Đời lính thú thật là tẻ nhạt. Sáng mở mắt đã bị bưng bít bởi

Page 54: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

127 127

lớp sương mù dày đặc, mãi gần trưa mới le lói chút ánh sáng mặt trời và khoảng bốn năm giờ chiều đồi núi đã âm u. Nằm đây, anh mới thấy thấm thía những tách café với bạn bè. Thanh là gái nên không bao giờ hiểu hết bọn anh. Có lúc tụi anh chả có gì phải nói với nhau, nhưng nhất định phải tìm gặp nhau cho đã, quanh những ly café và chả có chuyện gì ngoài những lời đấu láo. Chính những lúc đó anh lại thấy vui, thấy mình thật vô tư. Như những tên đô vật, sau khi đã thi thố hết sức lực, chỉ còn giữ miếng trong sự dưỡng sức, phải không em. Giờ này nếu ở dưới đó, chắc Trang Thanh lại bực vì mấy ông bạn tới lôi anh đi. Nếu cô bé sợ lạnh không dám đi thì anh sẽ đi một mình vậy. Chả sao. Nhưng anh biết cô không dám để anh đi một mình đâu. Tụi bạn em vẫn gọi đùa “cái rờ-mọt của anh” mà. Em yêu dấu, Hai tháng xa nhau rồi phải không. Ở đây nếu anh ngồi đếm từng ngày chắc anh phải tự tử mất hoặc làm một cái gì khác. Tuần trước một người bạn của anh bỏ mình. Một cái huy chương đã được tưởng thưởng, nhưng thân nhân kẻ xấu số nhận được gì trong những vinh dự ấy? Anh có nên kể cho Thanh Trang nghe không nhỉ. Một sự thật rất phũ phàng và cũng rất là tủi nhục. Trong cuộc chiến của chúng ta anh tin còn không biết bao nhiêu trường hợp như thế. Một người nằm chờ chết với vết thương của mình, không một chiến hữu săn sóc, không một miếng băng cầm máu. Trong sự chống chỏi với tử thần, người bạn anh đã cố gắng với tất cả sức tàn của mình với một hy vọng thật mong manh đã không bao giờ đến, giữ cho máu đừng chảy. Chuyện khởi đầu như thế này, L đại đội trưởng của tiểu đoàn anh. Trang Thanh yêu, ngay khi viết những hàng chữ này, anh nghe cổ họng mình như có một sự uất nghẹn, như môt cục đá mắc trong thực quản. Một bàn tay, phải, bàn tay ấy với một mảnh sọ, ôm lấy cái đầu, bất động. Chín giờ

lớp sương mù dày đặc, mãi gần trưa mới le lói chút ánh sáng mặt trời và khoảng bốn năm giờ chiều đồi núi đã âm u. Nằm đây, anh mới thấy thấm thía những tách café với bạn bè. Thanh là gái nên không bao giờ hiểu hết bọn anh. Có lúc tụi anh chả có gì phải nói với nhau, nhưng nhất định phải tìm gặp nhau cho đã, quanh những ly café và chả có chuyện gì ngoài những lời đấu láo. Chính những lúc đó anh lại thấy vui, thấy mình thật vô tư. Như những tên đô vật, sau khi đã thi thố hết sức lực, chỉ còn giữ miếng trong sự dưỡng sức, phải không em. Giờ này nếu ở dưới đó, chắc Trang Thanh lại bực vì mấy ông bạn tới lôi anh đi. Nếu cô bé sợ lạnh không dám đi thì anh sẽ đi một mình vậy. Chả sao. Nhưng anh biết cô không dám để anh đi một mình đâu. Tụi bạn em vẫn gọi đùa “cái rờ-mọt của anh” mà. Em yêu dấu, Hai tháng xa nhau rồi phải không. Ở đây nếu anh ngồi đếm từng ngày chắc anh phải tự tử mất hoặc làm một cái gì khác. Tuần trước một người bạn của anh bỏ mình. Một cái huy chương đã được tưởng thưởng, nhưng thân nhân kẻ xấu số nhận được gì trong những vinh dự ấy? Anh có nên kể cho Thanh Trang nghe không nhỉ. Một sự thật rất phũ phàng và cũng rất là tủi nhục. Trong cuộc chiến của chúng ta anh tin còn không biết bao nhiêu trường hợp như thế. Một người nằm chờ chết với vết thương của mình, không một chiến hữu săn sóc, không một miếng băng cầm máu. Trong sự chống chỏi với tử thần, người bạn anh đã cố gắng với tất cả sức tàn của mình với một hy vọng thật mong manh đã không bao giờ đến, giữ cho máu đừng chảy. Chuyện khởi đầu như thế này, L đại đội trưởng của tiểu đoàn anh. Trang Thanh yêu, ngay khi viết những hàng chữ này, anh nghe cổ họng mình như có một sự uất nghẹn, như môt cục đá mắc trong thực quản. Một bàn tay, phải, bàn tay ấy với một mảnh sọ, ôm lấy cái đầu, bất động. Chín giờ

Page 55: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

128 128

tối lệnh tiểu đoàn cho đại đội L đột kích và chiếm giữ một ngọn đồi cách đơn vị khoảng một cây số ngàn. Bằng mọi cách và bằng mọi giá phải trấn được ngọn đồi vì hôm sau một phái đoàn ủy lạo chiến sĩ đến. Nếu địch quân còn kiểm soát ngọn đồi đơn vị anh sẽ nhận những quả đạn pháo kích bất cứ lúc nào. Ở đây pháo kích của ta và của địch như cơm bữa. Từng thước đất ở đây và từng thước đất trên đó, đạn và bom đã cày nát từng đêm. Suốt đêm, tụi anh ăn ngủ trong những đường hầm mù tối. Ngay cả khi nấu cơm cũng phải ngụy trang cho khói khỏi bốc lên. Địch sẽ rót đạn vào những nơi trú ẩn quá lộ liễu rất chính xác. Thành ra cả ngọn đồi, toàn là những ụ đất và hố trú ẩn. Chỗ nào địch cũng có thể ghi là lều trại nhưng thật ra địch không hề biết chính xác. Nếu kiểm soát được ngọn đồi mới có sự an ninh cho phái đoàn. Hai đại đội được tung ra trong số có L. Em yêu, cùng với lúc xuất quân, một phi vụ oanh tạc đã làm cỏ ngọn đồi. Từng đợt mưa bom trút xuống, đứng ở xa ngó như một biển lửa. Mục tiêu đã được san bằng. Nhưng Trang Thanh ạ, ngọn đồi nham hiểm kia không hề chịu khuất phục dưới những trận bom bão táp. Các địa đạo, các hầm hố đã làm cho L thất bại, kẻ thù, từ những nơi an toàn đó đã đón tiếp L hết sức quyết liệt, hết sức tàn khốc. Như một mụn ngứa, bom đạn không chế ngự được ngọn đồi, chỉ làm xây xát mảnh da. Sự chết từ những ung nhọt ấy thoát ra chận đứng sự xâm nhập của cánh quân L. Mười một giờ, máy truyền tin báo cáo địch đã tung toàn lực vào hai đại đội đột kích. Từ trong các hầm hố, địch đã nhắm bạn hữu L như những tấm bia rất chính xác, rất tài tình. L báo cáo xin yểm trợ hoặc cho lệnh rút. Phi pháo bất lực, bạn và địch đã cận chiến. Từng người, từng người ngã xuống, từng viên đạn bắn ra, đạn trong không gian những vệt lửa chi chít, L đã thua cuộc. Hai đại đội tán loạn không còn ai điều khiển nổi. Như một cơn hồng thủy, như một trận động đất, bạn hữu của L đã chìm xuống đó. Trang Thanh yêu dấu,

tối lệnh tiểu đoàn cho đại đội L đột kích và chiếm giữ một ngọn đồi cách đơn vị khoảng một cây số ngàn. Bằng mọi cách và bằng mọi giá phải trấn được ngọn đồi vì hôm sau một phái đoàn ủy lạo chiến sĩ đến. Nếu địch quân còn kiểm soát ngọn đồi đơn vị anh sẽ nhận những quả đạn pháo kích bất cứ lúc nào. Ở đây pháo kích của ta và của địch như cơm bữa. Từng thước đất ở đây và từng thước đất trên đó, đạn và bom đã cày nát từng đêm. Suốt đêm, tụi anh ăn ngủ trong những đường hầm mù tối. Ngay cả khi nấu cơm cũng phải ngụy trang cho khói khỏi bốc lên. Địch sẽ rót đạn vào những nơi trú ẩn quá lộ liễu rất chính xác. Thành ra cả ngọn đồi, toàn là những ụ đất và hố trú ẩn. Chỗ nào địch cũng có thể ghi là lều trại nhưng thật ra địch không hề biết chính xác. Nếu kiểm soát được ngọn đồi mới có sự an ninh cho phái đoàn. Hai đại đội được tung ra trong số có L. Em yêu, cùng với lúc xuất quân, một phi vụ oanh tạc đã làm cỏ ngọn đồi. Từng đợt mưa bom trút xuống, đứng ở xa ngó như một biển lửa. Mục tiêu đã được san bằng. Nhưng Trang Thanh ạ, ngọn đồi nham hiểm kia không hề chịu khuất phục dưới những trận bom bão táp. Các địa đạo, các hầm hố đã làm cho L thất bại, kẻ thù, từ những nơi an toàn đó đã đón tiếp L hết sức quyết liệt, hết sức tàn khốc. Như một mụn ngứa, bom đạn không chế ngự được ngọn đồi, chỉ làm xây xát mảnh da. Sự chết từ những ung nhọt ấy thoát ra chận đứng sự xâm nhập của cánh quân L. Mười một giờ, máy truyền tin báo cáo địch đã tung toàn lực vào hai đại đội đột kích. Từ trong các hầm hố, địch đã nhắm bạn hữu L như những tấm bia rất chính xác, rất tài tình. L báo cáo xin yểm trợ hoặc cho lệnh rút. Phi pháo bất lực, bạn và địch đã cận chiến. Từng người, từng người ngã xuống, từng viên đạn bắn ra, đạn trong không gian những vệt lửa chi chít, L đã thua cuộc. Hai đại đội tán loạn không còn ai điều khiển nổi. Như một cơn hồng thủy, như một trận động đất, bạn hữu của L đã chìm xuống đó. Trang Thanh yêu dấu,

Page 56: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

129 129

Chiều hôm sau quân nhẩy dù mới kiểm soát được ngọn đồi. Vẫn bi thảm, đêm trước tái diễn. Từng lớp người lại ngã xuống, từng lớp khác lại xông lên. Một giá thật đắt đã được trả, khi xác L được chở về đơn vị để chờ máy bay đem tử thi về, anh mới hiểu L. Chàng chết vì kiệt sức. L bị một viên đạn làm bể một miếng sọ nhỏ bằng mặt chiếc đồng hồ đeo tay. Một cánh tay trái chàng đã bị tiện sát bả vai, văng đâu mất. Trang Thanh ạ, phải nhìn vào đó em mới hiểu thế nào sự chết và sự sống. Giữa chết và sống L đã làm một cuộc vật lộn. Hai mắt chàng mở lớn, trừng trừng như ức một điều gì không thể nào nhắm mắt được. Không thể nào không uất nghẹn, L chết vì hết máu, vì không được đồng bạn tiếp cứu kịp thời. Sự chết khỏi ở kẻ thù, nhưng sự sống mất đi kết thúc do các chiến hữu của chàng. Mảnh sọ văng ra L đã tìm được. Trông năm ngón tay, chàng đắp cái tan vỡ ấy vào chỗ mất đi trên đầu chàng. Một hy vọng dù mong manh, cầm cho máu khỏi chảy để chờ quân tiếp viện. Lúc gỡ bàn tay L ra, anh không tài nào gỡ nổi. Tất cả gân lực chàng đã dồn vào năm đầu ngón tay, như một cái kìm cho đến tàn lực với một mảnh sọ. Bàn tay khum lại, giữ miếng sọ, úp vào gáy chàng. L đã nằm và ôm như thế cho đến lúc không còn giọt máu nào trong cơ thể. Trang Thanh yêu dấu, Không bao giờ anh quên được bàn tay và đôi mắt ấy. Nó như một ám ảnh thường trực, như một một tảng đá, lù lù trước mặt anh khi anh bước đi, nếu nhắm mắt mà tiến lên, chắc chắn phải đập cái trán mình vào đó mà nếu mở mắt (một hình thức của chấp nhận) nhìn thì không thể nào vượt qua nổi. Cuộc chiến của chúng ta là vậy.Trước một vực thẳm và tự sát. Đường nào thì anh cũng không muốn, lối giải quyết nào cũng không tốt đẹp, cũng đổ vỡ. Từng giờ, anh biết từng nguồn hy vọng của chúng ta biến đi. Trang Thanh hiểu anh không? Từ những trái bom, từ những mảnh đạn, cái chết tiềm ẩn trong đó, rình chờ, rất bất ngờ và cũng rất êm ái. Dù một ảo tưởng để đạt đến một chiến thắng vinh quang, chúng ta cùng gặp nhau ở một điểm, sự chết. Đúng không các người anh em ruột thịt của cả hai

Chiều hôm sau quân nhẩy dù mới kiểm soát được ngọn đồi. Vẫn bi thảm, đêm trước tái diễn. Từng lớp người lại ngã xuống, từng lớp khác lại xông lên. Một giá thật đắt đã được trả, khi xác L được chở về đơn vị để chờ máy bay đem tử thi về, anh mới hiểu L. Chàng chết vì kiệt sức. L bị một viên đạn làm bể một miếng sọ nhỏ bằng mặt chiếc đồng hồ đeo tay. Một cánh tay trái chàng đã bị tiện sát bả vai, văng đâu mất. Trang Thanh ạ, phải nhìn vào đó em mới hiểu thế nào sự chết và sự sống. Giữa chết và sống L đã làm một cuộc vật lộn. Hai mắt chàng mở lớn, trừng trừng như ức một điều gì không thể nào nhắm mắt được. Không thể nào không uất nghẹn, L chết vì hết máu, vì không được đồng bạn tiếp cứu kịp thời. Sự chết khỏi ở kẻ thù, nhưng sự sống mất đi kết thúc do các chiến hữu của chàng. Mảnh sọ văng ra L đã tìm được. Trông năm ngón tay, chàng đắp cái tan vỡ ấy vào chỗ mất đi trên đầu chàng. Một hy vọng dù mong manh, cầm cho máu khỏi chảy để chờ quân tiếp viện. Lúc gỡ bàn tay L ra, anh không tài nào gỡ nổi. Tất cả gân lực chàng đã dồn vào năm đầu ngón tay, như một cái kìm cho đến tàn lực với một mảnh sọ. Bàn tay khum lại, giữ miếng sọ, úp vào gáy chàng. L đã nằm và ôm như thế cho đến lúc không còn giọt máu nào trong cơ thể. Trang Thanh yêu dấu, Không bao giờ anh quên được bàn tay và đôi mắt ấy. Nó như một ám ảnh thường trực, như một một tảng đá, lù lù trước mặt anh khi anh bước đi, nếu nhắm mắt mà tiến lên, chắc chắn phải đập cái trán mình vào đó mà nếu mở mắt (một hình thức của chấp nhận) nhìn thì không thể nào vượt qua nổi. Cuộc chiến của chúng ta là vậy.Trước một vực thẳm và tự sát. Đường nào thì anh cũng không muốn, lối giải quyết nào cũng không tốt đẹp, cũng đổ vỡ. Từng giờ, anh biết từng nguồn hy vọng của chúng ta biến đi. Trang Thanh hiểu anh không? Từ những trái bom, từ những mảnh đạn, cái chết tiềm ẩn trong đó, rình chờ, rất bất ngờ và cũng rất êm ái. Dù một ảo tưởng để đạt đến một chiến thắng vinh quang, chúng ta cùng gặp nhau ở một điểm, sự chết. Đúng không các người anh em ruột thịt của cả hai

Page 57: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

130 130

mảnh đất quê hương. Anh hiểu những kẻ ra đi, dù ở những nơi xa xôi nào tìm đến đều biết như vậy. Bàn tay của L từng móng vuốt ôm lấy thịt da chúng ta, ngắc ngoải. Em yêu. Vũ khí vô tội nhưng chúng ta có tội. Đáng ra quê hương này, đồi núi này phải là những đất đai êm ái cho cuộc sống của chúng ta. Từng làng xóm thân yêu, từng ruộng nương nuôi sống chúng ta đã chối bỏ. Trong một cuộc hành quân khác, anh khai một hầm trú ẩn và đã gặp ba người thanh niên, hai thiếu nữ với những vũ khí. Tất cả đều còn trẻ, thật trẻ, trên dưới hai mươi tuổi trời. Năm người ấy chung nhau một căn hầm chừng hai thước vuông. Họ đã vĩnh viễn ở lại trong đó, với đất của chính quê hương mình? Một trái phá được đặt giữa những người ngồi, đứng vây quanh. Tất cả họ đã tự sát. Hai thiếu nữ nửa phần dưới thân thể đã bị lột trần truồng, nửa phần trên được che bằng một mảnh yếm vải xanh. Tự nhiên, anh hiểu ngay họ là người đồng bào miền Bắc, có thể cùng làng xã chúng ta, họ hàng chúng ta, biết đâu, hai thể xác ấy không mang một tấm thông hành quê ở Hà Đông hay Phủ Lý. Đọc đến đây chắc em nghĩ ngay đến một cảnh tượng dâm ô nào đó trên phim ảnh, một cuộc hãm hiếp chẳng hạn. Không phải chuyện giản dị như vậy. Hai thiếu nữ, có thể với bản năng sinh tồn nào đó, họ đã muốn sống, đã muốn thoát lên khỏi miệng hầm theo lời dọa nạt và kêu gọi của bọn anh vẫn làm khi tìm ra một căn hầm bí mật. Nhưng ba người thanh niên chắc không muốn thế. Chắc họ muốn tụi anh lầm tưởng gian hầm đã được bỏ hoang và dưới đó chả có một chiến công nào đó với tụi anh. Họ đã cưỡng bức hai thiếu nữ ở lại với họ để giấu kín sự bí mật. Tính e thẹn của phụ nữ đã được dùng đến, hai mảnh quần đã được lột ra bằng vũ lực để hai thiếu nữ không còn tính chuyện đến trước một đám đông bọn anh mà họ đã từng được tuyên truyền là tàn bạo và dâm ô. Họ đã ở lại với các chiến hữu của họ cho sự bí mật được an toàn. Trang Thanh yêu dấu, Một trái khói cay được liệng xuống, rồi hai ba trái khói liên tiếp mù mịt cả miệng hầm. Thật lâu, anh chưa nhận

mảnh đất quê hương. Anh hiểu những kẻ ra đi, dù ở những nơi xa xôi nào tìm đến đều biết như vậy. Bàn tay của L từng móng vuốt ôm lấy thịt da chúng ta, ngắc ngoải. Em yêu. Vũ khí vô tội nhưng chúng ta có tội. Đáng ra quê hương này, đồi núi này phải là những đất đai êm ái cho cuộc sống của chúng ta. Từng làng xóm thân yêu, từng ruộng nương nuôi sống chúng ta đã chối bỏ. Trong một cuộc hành quân khác, anh khai một hầm trú ẩn và đã gặp ba người thanh niên, hai thiếu nữ với những vũ khí. Tất cả đều còn trẻ, thật trẻ, trên dưới hai mươi tuổi trời. Năm người ấy chung nhau một căn hầm chừng hai thước vuông. Họ đã vĩnh viễn ở lại trong đó, với đất của chính quê hương mình? Một trái phá được đặt giữa những người ngồi, đứng vây quanh. Tất cả họ đã tự sát. Hai thiếu nữ nửa phần dưới thân thể đã bị lột trần truồng, nửa phần trên được che bằng một mảnh yếm vải xanh. Tự nhiên, anh hiểu ngay họ là người đồng bào miền Bắc, có thể cùng làng xã chúng ta, họ hàng chúng ta, biết đâu, hai thể xác ấy không mang một tấm thông hành quê ở Hà Đông hay Phủ Lý. Đọc đến đây chắc em nghĩ ngay đến một cảnh tượng dâm ô nào đó trên phim ảnh, một cuộc hãm hiếp chẳng hạn. Không phải chuyện giản dị như vậy. Hai thiếu nữ, có thể với bản năng sinh tồn nào đó, họ đã muốn sống, đã muốn thoát lên khỏi miệng hầm theo lời dọa nạt và kêu gọi của bọn anh vẫn làm khi tìm ra một căn hầm bí mật. Nhưng ba người thanh niên chắc không muốn thế. Chắc họ muốn tụi anh lầm tưởng gian hầm đã được bỏ hoang và dưới đó chả có một chiến công nào đó với tụi anh. Họ đã cưỡng bức hai thiếu nữ ở lại với họ để giấu kín sự bí mật. Tính e thẹn của phụ nữ đã được dùng đến, hai mảnh quần đã được lột ra bằng vũ lực để hai thiếu nữ không còn tính chuyện đến trước một đám đông bọn anh mà họ đã từng được tuyên truyền là tàn bạo và dâm ô. Họ đã ở lại với các chiến hữu của họ cho sự bí mật được an toàn. Trang Thanh yêu dấu, Một trái khói cay được liệng xuống, rồi hai ba trái khói liên tiếp mù mịt cả miệng hầm. Thật lâu, anh chưa nhận

Page 58: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

131 131

được một hiệu quả nhỏ nào của những hơi cay, có người chui ra chẳng hạn. Rồi một tiếng nổ từ dưới hầm vọng lên, tiếng nổ thật ngọt tan loãng trong những tiếng súng của quân bạn. Trang Thanh hiểu chứ. Cuộc chiến của chúng ta rất nhiều hình thái, rất nhiều bất ngờ. Sao cái chết lại không xảy ra trong một lũy tre làng nào đó, một cái chết bệnh tật, một cái chết già yếu, có cha mẹ anh em, có bà con làng xóm, một cái chết được khóc than, đưa tiễn, cái chết để lại cho người còn sống một hình tướng như nấm đất an ủi biết bao nhiêu. Nhưng cái chết đã diễn ra ở một làng xóm xa xôi, ở một núi đồi heo hút, trong rừng thẳm âm u, trong một căn phòng chật hẹp, như một định ước, cùng bước tới, cùng gặp mặt và cũng mãn nguyện. Trang Thanh yêu dấu, Cái chết mang cho người mẹ buồn rầu, người vợ khổ đau, đứa con thiếu thốn. Từng đêm Trang Thanh khóc à. Khóc có được gì đâu? Súng đó, đạn đó vẫn nhắm bắn từng phút từng viên. Đã hàng ngàn hàng vạn người khóc, nhưng cái gì đã mang lại, cái gì đã mất đi? Trước chúng ta đã có những người nằm xuống cho một lý tưởng nào, chúng ta đang đợi chờ cho một danh nghĩa nào và sau chúng ta lớp lớp sẽ nằm xuống cho một hận thù nào? Em yêu, giữa quê hương và tình đồng bào không có hận thù. Chúng ta chết đi không lý do. Em yêu. Có những điều em không bao giờ hiểu nổi chính anh, người mang danh là đang tham dự cuộc chiến này, cũng không hiểu nổi. Chiến tranh thật là kỳ cục và cũng thật là ngu muội. Như một con vật điên khùng nó lăn xả vào bất cứ vật gì, không đắn đo suy xét. Nó làm những điều người ta muốn tránh nghĩa là nó đi ngược lại tất cả. Trong một cuộc càn quét, nhà cửa được phá hỏng bằng lửa đỏ. Lửa bao quanh xóm làng mù mịt. Đến trước một căn nhà có bàn thờ Phật, người lính lưỡng lự. Phải kiếm một ngôi chùa nào đó để pho tượng vào rồi mới được đốt, anh bảo thế. Để bảo toàn tính mệnh, một sợi dây được cột vào cổ pho tượng. Lạy Phật, điều xúc phạm chúng con không

được một hiệu quả nhỏ nào của những hơi cay, có người chui ra chẳng hạn. Rồi một tiếng nổ từ dưới hầm vọng lên, tiếng nổ thật ngọt tan loãng trong những tiếng súng của quân bạn. Trang Thanh hiểu chứ. Cuộc chiến của chúng ta rất nhiều hình thái, rất nhiều bất ngờ. Sao cái chết lại không xảy ra trong một lũy tre làng nào đó, một cái chết bệnh tật, một cái chết già yếu, có cha mẹ anh em, có bà con làng xóm, một cái chết được khóc than, đưa tiễn, cái chết để lại cho người còn sống một hình tướng như nấm đất an ủi biết bao nhiêu. Nhưng cái chết đã diễn ra ở một làng xóm xa xôi, ở một núi đồi heo hút, trong rừng thẳm âm u, trong một căn phòng chật hẹp, như một định ước, cùng bước tới, cùng gặp mặt và cũng mãn nguyện. Trang Thanh yêu dấu, Cái chết mang cho người mẹ buồn rầu, người vợ khổ đau, đứa con thiếu thốn. Từng đêm Trang Thanh khóc à. Khóc có được gì đâu? Súng đó, đạn đó vẫn nhắm bắn từng phút từng viên. Đã hàng ngàn hàng vạn người khóc, nhưng cái gì đã mang lại, cái gì đã mất đi? Trước chúng ta đã có những người nằm xuống cho một lý tưởng nào, chúng ta đang đợi chờ cho một danh nghĩa nào và sau chúng ta lớp lớp sẽ nằm xuống cho một hận thù nào? Em yêu, giữa quê hương và tình đồng bào không có hận thù. Chúng ta chết đi không lý do. Em yêu. Có những điều em không bao giờ hiểu nổi chính anh, người mang danh là đang tham dự cuộc chiến này, cũng không hiểu nổi. Chiến tranh thật là kỳ cục và cũng thật là ngu muội. Như một con vật điên khùng nó lăn xả vào bất cứ vật gì, không đắn đo suy xét. Nó làm những điều người ta muốn tránh nghĩa là nó đi ngược lại tất cả. Trong một cuộc càn quét, nhà cửa được phá hỏng bằng lửa đỏ. Lửa bao quanh xóm làng mù mịt. Đến trước một căn nhà có bàn thờ Phật, người lính lưỡng lự. Phải kiếm một ngôi chùa nào đó để pho tượng vào rồi mới được đốt, anh bảo thế. Để bảo toàn tính mệnh, một sợi dây được cột vào cổ pho tượng. Lạy Phật, điều xúc phạm chúng con không

Page 59: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

132 132

bao giờ muốn, nhưng phải có phương cách an toàn. Tìm một chỗ nấp, người lính kéo sợi dây, pho tượng được nâng bổng lên, đu đưa như một món hàng mà thường ngày chúng ta vẫn thấy nó treo lủng lẳng trên sợi dây của cần trục ở bến tàu. Không có tiếng nổ. Anh thở phào nhẹ nhõm. Lạy đấng Từ Phụ, xin tha tội cho chúng sinh. Em biết không, ngay sau khi pho tượng được mang đi, căn nhà bùng lên như một ngọn đuốc. Nếu mẹ đọc những dòng này mẹ sẽ ghét anh lắm phải không em? Anh cũng chả biết nói sao. Có điều, khi pho tượng được mang xuống, anh nhớ mẹ vô cùng. Có thể nói giờ đó, bên quyển kinh, cái mõ, trước bàn thờ khói nhang nghi ngút, thật tôn nghiêm, mẹ đang cầu Trời Phật cho đứa con đang xông pha ngoài mặt trận. Lá thư trước gửi cho anh, em bảo: “Từ ngày anh lên tiền đồn, em bỗng trở thành người ngoan đạo một cách thành khẩn. Tối nào em cũng cùng mẹ làm lễ cầu an cho anh. Mẹ bảo, con trai của mẹ vất vả và nguy hiểm quá, phải lễ bái luôn cho nó thì mới tai qua nạn khỏi (Mẹ vẫn gọi anh là con trai đó. Sướng chưa!) Có lúc, hình như nhớ đến Ba, mẹ khóc và em cũng khóc. Đàn bà dễ khóc nhất phải không anh? Làm đàn bà con gái khổ quá anh ơi. Mẹ đã khóc cho Ba không biết bao nhiêu lần. Lạy Phật, em yếu đuối quá.” Trang Thanh yêu dấu, Chúng ta đã khóc một lần khi từ bỏ quê hương ra đi. Anh biết nỗi xót xa ấy chưa vơi trong lòng mẹ, nó như một nhắc nhở, khắc khoải trong tâm can tuổi già. Thật tội cho mẹ. Đáng ra với tuổi mẹ một lũy tre làng, một phiên chợ, sẽ ấm cúng biết mấy. Cái tuổi gần đất xa trời luôn luôn nghĩ về cội rễ. Anh hiểu tại sao mẹ lại thương anh. Em yêu, tất cả niềm tin của chúng ta đã mất, chẳng còn gì ngay cả phần đất còn lại trên quê hương này. Nếu một lần nào đó theo đoàn tiếp tế em lên đây, em sẽ nại lý do là em chịu vất vả được miễn là ở bên anh. Không phải giản dị như thế. Đúng ra có những điều mà đàn bà con gái không bao giờ nên nhìn và nghe thấy. Cứ giả dụ có em lên đây, anh sẽ cho em biết đâu là đất đai, làng xóm của đồng bào

bao giờ muốn, nhưng phải có phương cách an toàn. Tìm một chỗ nấp, người lính kéo sợi dây, pho tượng được nâng bổng lên, đu đưa như một món hàng mà thường ngày chúng ta vẫn thấy nó treo lủng lẳng trên sợi dây của cần trục ở bến tàu. Không có tiếng nổ. Anh thở phào nhẹ nhõm. Lạy đấng Từ Phụ, xin tha tội cho chúng sinh. Em biết không, ngay sau khi pho tượng được mang đi, căn nhà bùng lên như một ngọn đuốc. Nếu mẹ đọc những dòng này mẹ sẽ ghét anh lắm phải không em? Anh cũng chả biết nói sao. Có điều, khi pho tượng được mang xuống, anh nhớ mẹ vô cùng. Có thể nói giờ đó, bên quyển kinh, cái mõ, trước bàn thờ khói nhang nghi ngút, thật tôn nghiêm, mẹ đang cầu Trời Phật cho đứa con đang xông pha ngoài mặt trận. Lá thư trước gửi cho anh, em bảo: “Từ ngày anh lên tiền đồn, em bỗng trở thành người ngoan đạo một cách thành khẩn. Tối nào em cũng cùng mẹ làm lễ cầu an cho anh. Mẹ bảo, con trai của mẹ vất vả và nguy hiểm quá, phải lễ bái luôn cho nó thì mới tai qua nạn khỏi (Mẹ vẫn gọi anh là con trai đó. Sướng chưa!) Có lúc, hình như nhớ đến Ba, mẹ khóc và em cũng khóc. Đàn bà dễ khóc nhất phải không anh? Làm đàn bà con gái khổ quá anh ơi. Mẹ đã khóc cho Ba không biết bao nhiêu lần. Lạy Phật, em yếu đuối quá.” Trang Thanh yêu dấu, Chúng ta đã khóc một lần khi từ bỏ quê hương ra đi. Anh biết nỗi xót xa ấy chưa vơi trong lòng mẹ, nó như một nhắc nhở, khắc khoải trong tâm can tuổi già. Thật tội cho mẹ. Đáng ra với tuổi mẹ một lũy tre làng, một phiên chợ, sẽ ấm cúng biết mấy. Cái tuổi gần đất xa trời luôn luôn nghĩ về cội rễ. Anh hiểu tại sao mẹ lại thương anh. Em yêu, tất cả niềm tin của chúng ta đã mất, chẳng còn gì ngay cả phần đất còn lại trên quê hương này. Nếu một lần nào đó theo đoàn tiếp tế em lên đây, em sẽ nại lý do là em chịu vất vả được miễn là ở bên anh. Không phải giản dị như thế. Đúng ra có những điều mà đàn bà con gái không bao giờ nên nhìn và nghe thấy. Cứ giả dụ có em lên đây, anh sẽ cho em biết đâu là đất đai, làng xóm của đồng bào

Page 60: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

133 133

mình. Có những cánh đồng chỉ một màu xanh của cỏ, nham nhở những hố bom và đạn, không một dãy khoai, không một hạt đậu, không một cây lúa. Có những cánh đồng em sẽ đi cả buổi không gặp một cọng ngũ cốc. Anh không nói thêm. Ruộng đồng hoang vu, không có người cầy cấy. Làng xóm không có người, không một lửa khói từ những mái nhà còn lại. Từng bờ tre, từng túp lều xơ xác sau những cơn mưa bom đạn. Có những thôn làng khi hành quân qua anh chỉ thấy toàn những ông bà già cả và trẻ thơ. Không có bóng dáng của phụ nữ, thanh niên. Em hiểu họ đã đi đâu chứ. Đoàn quân như không đối thủ trước những đối tượng đầu tóc bạc phơ và trẻ con vô tội, nhưng chính sự chết đã nằm sẵn trong đó khi đoàn quân vượt qua. Cái nguy hiểm của cuộc chiến chúng ta là không tìm ra đối thủ. Có thể địch ở trước mặt, ở sau lưng, từ dưới lòng đất mà chúng ta không thấy, nhưng sự chết thì rình chờ. Từ những làng xóm hẻo lánh nào đó trên quê hương này, từ những đất đai xa xôi trên những phần khác, chúng đã đến cả đây, mảnh đất còn lại này, để đổi lấy một điều gì. Ai hiểu không? Một mảnh đất đã chia hai, núi sông đã đau xót, nhỏ lệ, còn lại gì mà ghét nhau nữa, phải không em. Đừng ai nghĩ anh có tinh thần chủ bại. Mọi hình thức gán ghép chỉ là mồm mép và ngụy tín. Không đem lại gì cho phần đất của tổ tiên này. Trang Thanh yêu dấu. Tết này gửi gì lên cho anh đấy. Một ký mứt, một gói hạt dưa, một hũ hành, những thứ đó hồi còn nhỏ chúng mình rất nô nức thèm muốn trong những ngày cuối cùng của năm. Giờ đã xa cả rồi. Anh phải ngưng đây, em yêu. Lệnh hành quân của tiểu đoàn vừa đưa xuống. Viết một lá thư cũng dở dang, em sẽ nghĩ thế. Đừng trách anh Trang Thanh ạ, lịnh là vậy. Có những lúc vừa ăn, vừa đi vừa ngủ vừa lê suối trèo đèo, thì ngồi viết được một lá thư, dù dở dang cũng là điều đáng quí. Em sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của ba-lô, súng đạn, cơm nắm và thuốc muỗi. Kia rồi, đoàn trực thăng chuyển quân đã tìm bãi đáp do những trái khói

mình. Có những cánh đồng chỉ một màu xanh của cỏ, nham nhở những hố bom và đạn, không một dãy khoai, không một hạt đậu, không một cây lúa. Có những cánh đồng em sẽ đi cả buổi không gặp một cọng ngũ cốc. Anh không nói thêm. Ruộng đồng hoang vu, không có người cầy cấy. Làng xóm không có người, không một lửa khói từ những mái nhà còn lại. Từng bờ tre, từng túp lều xơ xác sau những cơn mưa bom đạn. Có những thôn làng khi hành quân qua anh chỉ thấy toàn những ông bà già cả và trẻ thơ. Không có bóng dáng của phụ nữ, thanh niên. Em hiểu họ đã đi đâu chứ. Đoàn quân như không đối thủ trước những đối tượng đầu tóc bạc phơ và trẻ con vô tội, nhưng chính sự chết đã nằm sẵn trong đó khi đoàn quân vượt qua. Cái nguy hiểm của cuộc chiến chúng ta là không tìm ra đối thủ. Có thể địch ở trước mặt, ở sau lưng, từ dưới lòng đất mà chúng ta không thấy, nhưng sự chết thì rình chờ. Từ những làng xóm hẻo lánh nào đó trên quê hương này, từ những đất đai xa xôi trên những phần khác, chúng đã đến cả đây, mảnh đất còn lại này, để đổi lấy một điều gì. Ai hiểu không? Một mảnh đất đã chia hai, núi sông đã đau xót, nhỏ lệ, còn lại gì mà ghét nhau nữa, phải không em. Đừng ai nghĩ anh có tinh thần chủ bại. Mọi hình thức gán ghép chỉ là mồm mép và ngụy tín. Không đem lại gì cho phần đất của tổ tiên này. Trang Thanh yêu dấu. Tết này gửi gì lên cho anh đấy. Một ký mứt, một gói hạt dưa, một hũ hành, những thứ đó hồi còn nhỏ chúng mình rất nô nức thèm muốn trong những ngày cuối cùng của năm. Giờ đã xa cả rồi. Anh phải ngưng đây, em yêu. Lệnh hành quân của tiểu đoàn vừa đưa xuống. Viết một lá thư cũng dở dang, em sẽ nghĩ thế. Đừng trách anh Trang Thanh ạ, lịnh là vậy. Có những lúc vừa ăn, vừa đi vừa ngủ vừa lê suối trèo đèo, thì ngồi viết được một lá thư, dù dở dang cũng là điều đáng quí. Em sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của ba-lô, súng đạn, cơm nắm và thuốc muỗi. Kia rồi, đoàn trực thăng chuyển quân đã tìm bãi đáp do những trái khói

Page 61: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

134 134

màu. Lần này hành quân xa. Mục tiêu, đồi A.T, một ngọn đồi máu, lửa mà trước đây một tháng anh đã tham dự ở một cánh quân tiếp viện. Anh em chúng ta, ruột thịt chúng ta, đã nằm xuống, ở đó, từng lớp, từng lớp. Anh ngừng nghe. Cho anh gửi lời thăm mẹ. * Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày… Em yêu dấu, Em ngạc nhiên lắm phải không khi nhận ra kbc của ngoài phong thư: Phải, đúng là kbc 4600, nơi đã hơn một lần em đến đó với những giỏ cam, những lời an ủi, dù lần đó tiếng là nằm bệnh viện nhưng anh chỉ bị thương xoàng ở tay. Một mảnh đạn của một trái phá găm vào trong buổi thực tập. Một số bạn anh đã chết cho một chuyện rủi ro. Anh đã nghe sái lòng ngay từ ngày ấy. Trang Thanh lại an ủi anh: “Ở quân trường mình bị xui rồi, ra đơn vị chỉ gặp may thôi”. Anh mang lời an ủi ấy trên khắp các mặt trận từ rừng núi cao nguyên xuống đồng bằng ven biển, ở đâu anh cũng gặp may thật. Rất nhiều lần tử thần chỉ chờ anh trong gang tấc nhưng anh đã qua khỏi và anh vững tin cho đến bây giờ thì … Em có hiểu gì không? Có nhận được lá thư thật dài anh viết chưa có đoạn cuối không? Lá thư đang viết dở dang thì có lệnh hành quân trực thăng vận ấy? Đấy, chính lá thư ấy nên hôm nay Trang Thanh lại thêm những dòng này từ cái kbc mà anh nhớ em đã đùa bảo, không muốn nhận thư từ nơi ấy nữa, nó xui lắm. Chả biết có thật là nó xui hay không? Em cứ bình tĩnh mà đọc nhé: không có gì bi đát lắm đâu. Anh vẫn còn có thể cầm bút viết được những dòng chữ này, thì còn là điều may mắn. Em phải nghĩ như thế. Từng ngày trên mảnh đất thân yêu này biết bao nhiêu người vĩnh viễn không thấy mặt nhau, anh dù có phải nằm đây, với một thương tích nào đó trên mình, trên tay chân chẳng hạn, cũng còn có phước lắm, phước đức ông bà để

màu. Lần này hành quân xa. Mục tiêu, đồi A.T, một ngọn đồi máu, lửa mà trước đây một tháng anh đã tham dự ở một cánh quân tiếp viện. Anh em chúng ta, ruột thịt chúng ta, đã nằm xuống, ở đó, từng lớp, từng lớp. Anh ngừng nghe. Cho anh gửi lời thăm mẹ. * Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày… Em yêu dấu, Em ngạc nhiên lắm phải không khi nhận ra kbc của ngoài phong thư: Phải, đúng là kbc 4600, nơi đã hơn một lần em đến đó với những giỏ cam, những lời an ủi, dù lần đó tiếng là nằm bệnh viện nhưng anh chỉ bị thương xoàng ở tay. Một mảnh đạn của một trái phá găm vào trong buổi thực tập. Một số bạn anh đã chết cho một chuyện rủi ro. Anh đã nghe sái lòng ngay từ ngày ấy. Trang Thanh lại an ủi anh: “Ở quân trường mình bị xui rồi, ra đơn vị chỉ gặp may thôi”. Anh mang lời an ủi ấy trên khắp các mặt trận từ rừng núi cao nguyên xuống đồng bằng ven biển, ở đâu anh cũng gặp may thật. Rất nhiều lần tử thần chỉ chờ anh trong gang tấc nhưng anh đã qua khỏi và anh vững tin cho đến bây giờ thì … Em có hiểu gì không? Có nhận được lá thư thật dài anh viết chưa có đoạn cuối không? Lá thư đang viết dở dang thì có lệnh hành quân trực thăng vận ấy? Đấy, chính lá thư ấy nên hôm nay Trang Thanh lại thêm những dòng này từ cái kbc mà anh nhớ em đã đùa bảo, không muốn nhận thư từ nơi ấy nữa, nó xui lắm. Chả biết có thật là nó xui hay không? Em cứ bình tĩnh mà đọc nhé: không có gì bi đát lắm đâu. Anh vẫn còn có thể cầm bút viết được những dòng chữ này, thì còn là điều may mắn. Em phải nghĩ như thế. Từng ngày trên mảnh đất thân yêu này biết bao nhiêu người vĩnh viễn không thấy mặt nhau, anh dù có phải nằm đây, với một thương tích nào đó trên mình, trên tay chân chẳng hạn, cũng còn có phước lắm, phước đức ông bà để

Page 62: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

135 135

lại để bây giờ mình chỉ bán vứt đi một ít máu, một ít xương thịt, cũng chưa hại gì. Này đừng có hoảng lên nhé, anh biết cô đọc đến đây chắc đã khóc rồi. Chắc lại vừa nhớ ra hình ảnh một cặp nạng, một bên cánh tay chỉ có tay áo buông rũ. Đừng vội gán ghép cho những thứ đó. Cứ nhẫn nại đọc đến đâu sẽ hiểu đến đấy. Anh biết còn biết bao nhiêu người vợ, người mẹ mong được nhẫn nại như thế, nhưng đã không đến với họ. Từ lúc vào đây anh cũng đã có sự an ủi, và ngay cả những chiến hữu đã nằm ở đây cũng đều có sự an ủi như thế - không biết đó có phải là sự lừa dối mình không - anh còn có phúc hơn biết bao nhiêu người khác. Vào nằm đây, còn có thể viết những dòng chữ này kể như là khỏe rồi. Ít ngày nữa, hoặc ít tháng nữa anh sẽ ra hội đồng y khoa phân loại để làm việc nhẹ, chỉ làm việc nhẹ thôi, nghĩa là lại trở về với bàn giấy, với sai bảo, với phiền toái, giã từ vũ khí. Nắm đưọc cái giấy phân loại này kể như mình không lo sinh nghề tử nghiệp mà chỉ có thể vì tai nạn thông thường nào đó mới có thể làm cho anh chết đi, nhưng anh hiểu trong số các tai nạn rủi ro ấy còn hiếm xa những cảnh chết chóc trên chiến trường. Đọc tới đây, em thấy nhẹ nhõm rồi phải không? Nhưng mà… Trang Thanh yêu dấu, Bây giờ anh bắt đầu kể lại để cô bé hiểu nghe. Như em đã biết, lá thư anh viết đến đó thì được lệnh lên đường. Anh chả hiểu cái gì khẩn cấp đến thế mà bọn anh chỉ trong nửa ngày nữa có thể thong thả ăn chơi trong hai mươi bốn giờ. Giờ hưu chiến đó. Chỉ còn vỏn vẹn có 5 tiếng đồng hồ nữa thôi, anh sẽ được hưởng một chút thanh bình cho dù là thanh bình giả tạo ngắn ngủi. Nhưng cái điều nho nhỏ ấy cũng không đến nữa. Súng trên tay, ba-lô, gạo trên vai, rồi bản đồ địa bàn, anh đã từ thân tàu nhảy xuống trên một chiều cao gần ba thước, phía dưới là gì em cũng biết rồi. Chúng ta đã có bao nhiêu cuộc thanh bình giả tạo như thế? Đồi A.T, ngọn đồi mà anh đã nói qua trong lá thư trước nhưng anh quên một điều, không, không phải anh quên mà anh thấy có nói cô cũng chả hiểu, vì nó không phải là điều

lại để bây giờ mình chỉ bán vứt đi một ít máu, một ít xương thịt, cũng chưa hại gì. Này đừng có hoảng lên nhé, anh biết cô đọc đến đây chắc đã khóc rồi. Chắc lại vừa nhớ ra hình ảnh một cặp nạng, một bên cánh tay chỉ có tay áo buông rũ. Đừng vội gán ghép cho những thứ đó. Cứ nhẫn nại đọc đến đâu sẽ hiểu đến đấy. Anh biết còn biết bao nhiêu người vợ, người mẹ mong được nhẫn nại như thế, nhưng đã không đến với họ. Từ lúc vào đây anh cũng đã có sự an ủi, và ngay cả những chiến hữu đã nằm ở đây cũng đều có sự an ủi như thế - không biết đó có phải là sự lừa dối mình không - anh còn có phúc hơn biết bao nhiêu người khác. Vào nằm đây, còn có thể viết những dòng chữ này kể như là khỏe rồi. Ít ngày nữa, hoặc ít tháng nữa anh sẽ ra hội đồng y khoa phân loại để làm việc nhẹ, chỉ làm việc nhẹ thôi, nghĩa là lại trở về với bàn giấy, với sai bảo, với phiền toái, giã từ vũ khí. Nắm đưọc cái giấy phân loại này kể như mình không lo sinh nghề tử nghiệp mà chỉ có thể vì tai nạn thông thường nào đó mới có thể làm cho anh chết đi, nhưng anh hiểu trong số các tai nạn rủi ro ấy còn hiếm xa những cảnh chết chóc trên chiến trường. Đọc tới đây, em thấy nhẹ nhõm rồi phải không? Nhưng mà… Trang Thanh yêu dấu, Bây giờ anh bắt đầu kể lại để cô bé hiểu nghe. Như em đã biết, lá thư anh viết đến đó thì được lệnh lên đường. Anh chả hiểu cái gì khẩn cấp đến thế mà bọn anh chỉ trong nửa ngày nữa có thể thong thả ăn chơi trong hai mươi bốn giờ. Giờ hưu chiến đó. Chỉ còn vỏn vẹn có 5 tiếng đồng hồ nữa thôi, anh sẽ được hưởng một chút thanh bình cho dù là thanh bình giả tạo ngắn ngủi. Nhưng cái điều nho nhỏ ấy cũng không đến nữa. Súng trên tay, ba-lô, gạo trên vai, rồi bản đồ địa bàn, anh đã từ thân tàu nhảy xuống trên một chiều cao gần ba thước, phía dưới là gì em cũng biết rồi. Chúng ta đã có bao nhiêu cuộc thanh bình giả tạo như thế? Đồi A.T, ngọn đồi mà anh đã nói qua trong lá thư trước nhưng anh quên một điều, không, không phải anh quên mà anh thấy có nói cô cũng chả hiểu, vì nó không phải là điều

Page 63: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

136 136

quan trọng đối với con gái, nhưng đó lại là vấn đề sinh tử đối với bọn anh. A.T là ngọn đồi chiến thuật. Anh có nói hết ra đây cô cũng chả cần hiểu nó chiến thuật ở chỗ nào, chỉ có anh mới là điều hệ trọng phải không? Đừng mỉm cười bảo anh là tự cao nhé. Anh biết rõ điều ấy mà. A.T, ngọn núi cuối cùng của dẫy Trường Sơn, đứng cô độc, dân quanh vùng còn gọi nó với một cái tên dịu dàng lắm Núi Mồ Côi. Phải, nó mồ côi thật em ạ, nằm giữa 3 ngả đường, một dốc đèo khởi đầu lên cao nguyên, một thung lũng dài có con đường dẫn xuống cánh đồng bát ngát, và một nẻo đâm thẳng với con đường xương sống của đất nước. A. T quan trọng là nó nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn, phía dưới và từ đó nó có thể nhìn mặt cũng như ngăn chận các toán quân từ ngả biên giới muốn xâm nhập vào vùng đồng bằng. Cả ta và địch đều thấy cần phải chiếm A. T, vì thế một đơn vị đã được trấn giữ ở đó, và Trang Thanh đã hiểu, hơn một lần anh đã lên đó giải vây. Địch thường dùng chiến thuật biển người ồ ạt làm cỏ A.T để sau đó với hy vọng chúng sẽ kéo quân xuống các tỉnh lỵ phía dưới, nhưng chỉ sau vài giờ thất thủ, A.T đã anh dũng được giải vây bằng máu của các chiến sĩ. A.T không thể nào mất được. Mất A .T cả phần đồng ruộng phì nhiêu phía dưới sẽ lọt vào tay bọn chúng. Chúng chỉ chờ A.T ngã gục là tiến lên, nhưng A.T anh hùng quá và anh đã nói A.T có đôi lần thất thủ. A.T đã vùi dưới chân nó cả hàng ngàn tên giặc và cũng hòa trong lòng nó rất nhiều chiến hữu của chúng ta. Trang Thanh yêu dấu, Từ 3 giờ sáng địch đã ồ ạt tấn công A.T sau khi đã pháo kích những đạn nặng nề và trúng đích nhất từ trước đến nay mà chúng đã dành cho A.T. Một đại đội, đội bảo vệ A.T, không thể chịu đựng với sức mạnh gấp 8 lần nó. Cộng quân đã dùng 2 tiểu đoàn chủ lực với sự yểm trợ của một đại đội Sơn pháo, nhất loạt hướng về A.T. Sau 3 giờ giao tranh bằng tất cả sức lực và kiên trì, các chiến sĩ của chúng ta đã phải bỏ A.T cho địch tạm chiếm để chờ quân cứu viện. A.T quả như một con đĩ đắt giá, địch không thể không chiếm A.T, ta cũng không thể bỏ A.T và ngay 6 giờ

quan trọng đối với con gái, nhưng đó lại là vấn đề sinh tử đối với bọn anh. A.T là ngọn đồi chiến thuật. Anh có nói hết ra đây cô cũng chả cần hiểu nó chiến thuật ở chỗ nào, chỉ có anh mới là điều hệ trọng phải không? Đừng mỉm cười bảo anh là tự cao nhé. Anh biết rõ điều ấy mà. A.T, ngọn núi cuối cùng của dẫy Trường Sơn, đứng cô độc, dân quanh vùng còn gọi nó với một cái tên dịu dàng lắm Núi Mồ Côi. Phải, nó mồ côi thật em ạ, nằm giữa 3 ngả đường, một dốc đèo khởi đầu lên cao nguyên, một thung lũng dài có con đường dẫn xuống cánh đồng bát ngát, và một nẻo đâm thẳng với con đường xương sống của đất nước. A. T quan trọng là nó nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn, phía dưới và từ đó nó có thể nhìn mặt cũng như ngăn chận các toán quân từ ngả biên giới muốn xâm nhập vào vùng đồng bằng. Cả ta và địch đều thấy cần phải chiếm A. T, vì thế một đơn vị đã được trấn giữ ở đó, và Trang Thanh đã hiểu, hơn một lần anh đã lên đó giải vây. Địch thường dùng chiến thuật biển người ồ ạt làm cỏ A.T để sau đó với hy vọng chúng sẽ kéo quân xuống các tỉnh lỵ phía dưới, nhưng chỉ sau vài giờ thất thủ, A.T đã anh dũng được giải vây bằng máu của các chiến sĩ. A.T không thể nào mất được. Mất A .T cả phần đồng ruộng phì nhiêu phía dưới sẽ lọt vào tay bọn chúng. Chúng chỉ chờ A.T ngã gục là tiến lên, nhưng A.T anh hùng quá và anh đã nói A.T có đôi lần thất thủ. A.T đã vùi dưới chân nó cả hàng ngàn tên giặc và cũng hòa trong lòng nó rất nhiều chiến hữu của chúng ta. Trang Thanh yêu dấu, Từ 3 giờ sáng địch đã ồ ạt tấn công A.T sau khi đã pháo kích những đạn nặng nề và trúng đích nhất từ trước đến nay mà chúng đã dành cho A.T. Một đại đội, đội bảo vệ A.T, không thể chịu đựng với sức mạnh gấp 8 lần nó. Cộng quân đã dùng 2 tiểu đoàn chủ lực với sự yểm trợ của một đại đội Sơn pháo, nhất loạt hướng về A.T. Sau 3 giờ giao tranh bằng tất cả sức lực và kiên trì, các chiến sĩ của chúng ta đã phải bỏ A.T cho địch tạm chiếm để chờ quân cứu viện. A.T quả như một con đĩ đắt giá, địch không thể không chiếm A.T, ta cũng không thể bỏ A.T và ngay 6 giờ

Page 64: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

137 137

sáng hôm sau, một đơn vị thiện chiến của chúng ta đủ uy dũng nhẩy từ trên đầu A. T xuống. Chắc em hiểu sự gì đã xảy ra rồi. Đơn vị bách chiến bách thắng ấy cũng không làm cho A. T vinh dự. Sau 7 giờ ác chiến A.T vẫn nằm trong lòng địch. Em phải hiểu là đơn vị của chúng ta chưa bao giờ chiến đấu hào hùng đến như thế. Anh chắc là vậy và cho đến khi đơn vị anh từ trên trực thăng nhẩy xuống đầu A.T… Trang Thanh yêu dấu, Đừng có hồi hộp quá, bác sĩ đã bảo tim của em không được bình thường, cảm xúc dễ bị ngất xỉu đấy. Hãy cố gắng giữ bình tĩnh để đọc hết lá thư, đọc rồi kể lại để mẹ mừng. Chỉ còn có năm giờ đồng hồ nữa anh có thể tạm yên, ngủ ngon một giấc để không nghe tiếng pháo kích, để không nghe tiếng đạn đại bác của mình bắn đi quấy rối. Anh quên nói ở đây tụi anh thường ăn ngủ trong các đường hầm vì địch có thể pháo kích cả ban ngày, còn ban đêm thì chúng đánh trống cầm canh mà. Khi từ trên đầu A.T nhưng họ không tiến lên được. Đành phải rút xuống lưng chừng đồi. Và phi pháo lại được rót vào A. T những trái bom lớn nhất. Những trái Napalm đỏ ngút trời, ở xa nhìn A.T chỉ thấy lửa và khói, không ai có thể ngờ trong nó lại còn biết bao nhiêu con người vừa để cố thủ chờ chết, vừa vinh quang tiến lên tái chiếm cho kỳ được. A.T bị cầy nát, nhưng A.T vẫn là cái lò sát sinh nguy hiểm, vì địch không có đường rút chúng được lệnh phải cố thủ A.T và chúng đã điên cuồng làm việc ấy để chỉ một hy vọng được chết sớm hay chết muộn. Trang Thanh yêu dấu, Anh hiểu rõ các chiến hữu của anh. Họ đã dành tất cả quyền sống cũng như sự khôn ngoan của họ cho A.T. Bọn giặc đã điên rồ cho mục đích của chúng để đưa quân xuống đồng bằng, lẻn vào các thôn xóm đào đường, giật cầu. Các anh có nhiệm vụ phải phá vỡ cái dã tâm ấy. Và bây giờ thì em hiểu chứ, A.T ở trước mặt anh, một biển lửa mênh mông, khói cao ngút trời, anh làm sao có thể không vương

sáng hôm sau, một đơn vị thiện chiến của chúng ta đủ uy dũng nhẩy từ trên đầu A. T xuống. Chắc em hiểu sự gì đã xảy ra rồi. Đơn vị bách chiến bách thắng ấy cũng không làm cho A. T vinh dự. Sau 7 giờ ác chiến A.T vẫn nằm trong lòng địch. Em phải hiểu là đơn vị của chúng ta chưa bao giờ chiến đấu hào hùng đến như thế. Anh chắc là vậy và cho đến khi đơn vị anh từ trên trực thăng nhẩy xuống đầu A.T… Trang Thanh yêu dấu, Đừng có hồi hộp quá, bác sĩ đã bảo tim của em không được bình thường, cảm xúc dễ bị ngất xỉu đấy. Hãy cố gắng giữ bình tĩnh để đọc hết lá thư, đọc rồi kể lại để mẹ mừng. Chỉ còn có năm giờ đồng hồ nữa anh có thể tạm yên, ngủ ngon một giấc để không nghe tiếng pháo kích, để không nghe tiếng đạn đại bác của mình bắn đi quấy rối. Anh quên nói ở đây tụi anh thường ăn ngủ trong các đường hầm vì địch có thể pháo kích cả ban ngày, còn ban đêm thì chúng đánh trống cầm canh mà. Khi từ trên đầu A.T nhưng họ không tiến lên được. Đành phải rút xuống lưng chừng đồi. Và phi pháo lại được rót vào A. T những trái bom lớn nhất. Những trái Napalm đỏ ngút trời, ở xa nhìn A.T chỉ thấy lửa và khói, không ai có thể ngờ trong nó lại còn biết bao nhiêu con người vừa để cố thủ chờ chết, vừa vinh quang tiến lên tái chiếm cho kỳ được. A.T bị cầy nát, nhưng A.T vẫn là cái lò sát sinh nguy hiểm, vì địch không có đường rút chúng được lệnh phải cố thủ A.T và chúng đã điên cuồng làm việc ấy để chỉ một hy vọng được chết sớm hay chết muộn. Trang Thanh yêu dấu, Anh hiểu rõ các chiến hữu của anh. Họ đã dành tất cả quyền sống cũng như sự khôn ngoan của họ cho A.T. Bọn giặc đã điên rồ cho mục đích của chúng để đưa quân xuống đồng bằng, lẻn vào các thôn xóm đào đường, giật cầu. Các anh có nhiệm vụ phải phá vỡ cái dã tâm ấy. Và bây giờ thì em hiểu chứ, A.T ở trước mặt anh, một biển lửa mênh mông, khói cao ngút trời, anh làm sao có thể không vương

Page 65: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

138 138

vấn cái lò sát sinh ấy, chỗ này một cái đầu bể nát lìa khỏi thân mình, chỗ kia một cùm tay cùm chân treo lủng lẳng vất vưởng trên các hàng rào thép gai, trên các bụi bờ. A.T đúng là cái lò sát sinh thật. Với lực lượng gấp tám lần đơn vị cố thủ, chúng ta thanh toán đơn vị này trong cực nhọc và bền chí, nhưng chúng không thể cố thủ với bom xăng, với đạn nổ trút trên đầu chúng từng phút từng hàng trăm quả. Dù cho một mưu đồ gì, tự ở lại để cố thủ A.T, chúng đã tỏ ra mất trí và hy sinh nhân mạng một cách oan uổng. Khi anh đặt chân lên A .T, chả hiểu lúc đó có phải là giờ phút vinh quang của một chiến sĩ không, anh hiểu A. T đã có một cái giá quá đắt. Hầu như địch đã bị tiêu diệt gần phân nửa khi chạm trán với đơn vị thiện chiến từ sáng sớm của chúng ta và phi pháo đã làm cái nhiệm vụ thanh toán nốt chỗ còn lại. Khi anh để bàn chân thân yêu lên A.T thì các tên giặc chỉ còn kháng cự trong tuyệt vọng. Từ trong các giao thông hào, xác chúng nằm ngổn ngang. Từ trong các hố cá nhân, chúng bắn lẻ tẻ vào bọn anh. Anh làm sao có thể nói cho Trang Thanh hiểu chiến trận nó khốc liệt như thế nào nhỉ? Trang Thanh chỉ biết vắn tắt thế này: xác bạn anh và xác giặc đã chồng chất lên nhau, quanh A.T. Anh và các bạn thanh toán từng vị trí, chiếm từng mô đất, từng giao thông hào cho đến khi … Trang Thanh yêu dấu, Bây giờ anh nằm đây, Tổng Y Viện Cộng Hoà, Trang Thanh đã biết việc gì đến với anh rồi chứ, đến từ những mô đất, từ những giao thông hào ấy, đến từ viên đạn nào trên cây súng của kẻ thù, một viên đạn đã phá ngang bàn chân trái của anh. Lúc anh nghe nhức nhối thì vừa kịp ngã xuống và anh mơ màng còn nghe một tiếng nổ gần, ngay sát bên tai và anh thiếp đi. Trang Thanh hiểu gì không, chính lúc ấy là lúc phúc đức nhất đã đến với anh, anh nghĩ như thế. Vừa ngã xuống một giao thông hào, một trái lựu đạn đã tung vào đúng chỗ anh đứng, nhưng anh đã ngã xuống nên trái lựu đạn nổ ngang trên đầu và anh thiếp đi. Nếu một giây truớc đó nó đã không đến, bằng cả một trái phá như vậy, thân thể này sẽ tan vỡ từng mảnh và hình ảnh

vấn cái lò sát sinh ấy, chỗ này một cái đầu bể nát lìa khỏi thân mình, chỗ kia một cùm tay cùm chân treo lủng lẳng vất vưởng trên các hàng rào thép gai, trên các bụi bờ. A.T đúng là cái lò sát sinh thật. Với lực lượng gấp tám lần đơn vị cố thủ, chúng ta thanh toán đơn vị này trong cực nhọc và bền chí, nhưng chúng không thể cố thủ với bom xăng, với đạn nổ trút trên đầu chúng từng phút từng hàng trăm quả. Dù cho một mưu đồ gì, tự ở lại để cố thủ A.T, chúng đã tỏ ra mất trí và hy sinh nhân mạng một cách oan uổng. Khi anh đặt chân lên A .T, chả hiểu lúc đó có phải là giờ phút vinh quang của một chiến sĩ không, anh hiểu A. T đã có một cái giá quá đắt. Hầu như địch đã bị tiêu diệt gần phân nửa khi chạm trán với đơn vị thiện chiến từ sáng sớm của chúng ta và phi pháo đã làm cái nhiệm vụ thanh toán nốt chỗ còn lại. Khi anh để bàn chân thân yêu lên A.T thì các tên giặc chỉ còn kháng cự trong tuyệt vọng. Từ trong các giao thông hào, xác chúng nằm ngổn ngang. Từ trong các hố cá nhân, chúng bắn lẻ tẻ vào bọn anh. Anh làm sao có thể nói cho Trang Thanh hiểu chiến trận nó khốc liệt như thế nào nhỉ? Trang Thanh chỉ biết vắn tắt thế này: xác bạn anh và xác giặc đã chồng chất lên nhau, quanh A.T. Anh và các bạn thanh toán từng vị trí, chiếm từng mô đất, từng giao thông hào cho đến khi … Trang Thanh yêu dấu, Bây giờ anh nằm đây, Tổng Y Viện Cộng Hoà, Trang Thanh đã biết việc gì đến với anh rồi chứ, đến từ những mô đất, từ những giao thông hào ấy, đến từ viên đạn nào trên cây súng của kẻ thù, một viên đạn đã phá ngang bàn chân trái của anh. Lúc anh nghe nhức nhối thì vừa kịp ngã xuống và anh mơ màng còn nghe một tiếng nổ gần, ngay sát bên tai và anh thiếp đi. Trang Thanh hiểu gì không, chính lúc ấy là lúc phúc đức nhất đã đến với anh, anh nghĩ như thế. Vừa ngã xuống một giao thông hào, một trái lựu đạn đã tung vào đúng chỗ anh đứng, nhưng anh đã ngã xuống nên trái lựu đạn nổ ngang trên đầu và anh thiếp đi. Nếu một giây truớc đó nó đã không đến, bằng cả một trái phá như vậy, thân thể này sẽ tan vỡ từng mảnh và hình ảnh

Page 66: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

139 139

của chiếc Poncho lại thông dụng với chiến sĩ các anh lúc đó. Với chiếc Poncho, khi sống chiến sĩ làm áo mưa, lều che sương gió, làm phao để qua sông, nhưng khi một trái phá làm banh xác họ, thì nó là tấm vải liệm tiện lợi nhất. Ôi cái lối tiện nghi thật là tàn nhẫn. Trang Thanh yêu dấu, Em có nhận ra đó là giây phút an ủi nhất của cuộc đời không? Anh chỉ đi trên sợi giây mong manh của tử thần. Nếu không có viên đạn bắn vào chân làm anh ngã xuống, Trang Thanh chắc phải khổ rồi, mẹ chắc không sống nổi, phải vậy không? Thiệt ra trong chiến tranh, cái làm chết con người thật dễ nhưng anh tin còn một phút may mắn nào đó mà mình có thể vượt qua dù vô tình, như anh chẳng hạn. Giờ em yên tâm rồi chứ? Anh đã bảo từ đầu cứ bình tĩnh mà đọc, không có gì bi thảm lắm đâu dù chung quanh chúng ta hằng giờ hằng phút bi đát vây quanh như một mảng lưới khó mà thoát ra được. Có một điều anh vẫn còn áy náy, phải chi cái giây phút đó nó không đến, như bao lần khác anh đều tai qua nạn khỏi. Em có cho là số mạng không? Chỉ năm giờ đồng hồ nữa anh có thể tạm ngủ yên, gác súng, nhưng năm giờ ấy đã không đến. Đó có phải là điều ân hận lắm không? Bằng viên đạn ấy anh đã tránh được một trái phá và khỏi cần đến cái Poncho, chắc cô bé vui rồi phải không? Cho đến bây giờ, viết những dòng này cho em, anh vẫn cảm thấy vui mà không phải một điều oán trách dù chỉ quá năm giờ sau đó, chắc là anh đã không nằm đây. Nhưng Trang Thanh hiểu không, anh bảo mình còn phúc là có lý. Cũng chỉ trong những gang tấc, một số bạn hữu của anh đã bỏ mạng. Một người cầm lệnh kêu về trình diện quân đoàn để phục vụ tại phòng tâm lý chiến, trước giờ lên đường, cũng chỉ có nửa ngày, đơn vị hành quân. Người bạn đó đã trở về với một cái chân còn lại. Một trái mìn trên đường đi đã cắt đứt một chân bên phải của anh. Cũng một người bạn khác, sáng hôm sau trở về nguyên quán vì được lệnh giải ngũ, đêm hôm đó đã lãnh nguyên một trái pháo kích. Vậy! Cái chết có phải chỉ chờ chúng ta trong những giờ phút như vậy không? Tại sao trên khắp

của chiếc Poncho lại thông dụng với chiến sĩ các anh lúc đó. Với chiếc Poncho, khi sống chiến sĩ làm áo mưa, lều che sương gió, làm phao để qua sông, nhưng khi một trái phá làm banh xác họ, thì nó là tấm vải liệm tiện lợi nhất. Ôi cái lối tiện nghi thật là tàn nhẫn. Trang Thanh yêu dấu, Em có nhận ra đó là giây phút an ủi nhất của cuộc đời không? Anh chỉ đi trên sợi giây mong manh của tử thần. Nếu không có viên đạn bắn vào chân làm anh ngã xuống, Trang Thanh chắc phải khổ rồi, mẹ chắc không sống nổi, phải vậy không? Thiệt ra trong chiến tranh, cái làm chết con người thật dễ nhưng anh tin còn một phút may mắn nào đó mà mình có thể vượt qua dù vô tình, như anh chẳng hạn. Giờ em yên tâm rồi chứ? Anh đã bảo từ đầu cứ bình tĩnh mà đọc, không có gì bi thảm lắm đâu dù chung quanh chúng ta hằng giờ hằng phút bi đát vây quanh như một mảng lưới khó mà thoát ra được. Có một điều anh vẫn còn áy náy, phải chi cái giây phút đó nó không đến, như bao lần khác anh đều tai qua nạn khỏi. Em có cho là số mạng không? Chỉ năm giờ đồng hồ nữa anh có thể tạm ngủ yên, gác súng, nhưng năm giờ ấy đã không đến. Đó có phải là điều ân hận lắm không? Bằng viên đạn ấy anh đã tránh được một trái phá và khỏi cần đến cái Poncho, chắc cô bé vui rồi phải không? Cho đến bây giờ, viết những dòng này cho em, anh vẫn cảm thấy vui mà không phải một điều oán trách dù chỉ quá năm giờ sau đó, chắc là anh đã không nằm đây. Nhưng Trang Thanh hiểu không, anh bảo mình còn phúc là có lý. Cũng chỉ trong những gang tấc, một số bạn hữu của anh đã bỏ mạng. Một người cầm lệnh kêu về trình diện quân đoàn để phục vụ tại phòng tâm lý chiến, trước giờ lên đường, cũng chỉ có nửa ngày, đơn vị hành quân. Người bạn đó đã trở về với một cái chân còn lại. Một trái mìn trên đường đi đã cắt đứt một chân bên phải của anh. Cũng một người bạn khác, sáng hôm sau trở về nguyên quán vì được lệnh giải ngũ, đêm hôm đó đã lãnh nguyên một trái pháo kích. Vậy! Cái chết có phải chỉ chờ chúng ta trong những giờ phút như vậy không? Tại sao trên khắp

Page 67: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

140 140

các chiến trường anh chưa hề gì mà chỉ còn vài giờ nữa kể như tạm yên, viên đạn ấy nó đã đến bàn chân anh tuy không phải vứt đi một cái chân nhưng ít ra thịt xương và máu anh đã mất? Nghĩ như vậy và anh không còn thấy ân hận gì cả Trang Thanh ạ. Em yêu dấu, Anh đã bảo trên đất nước chúng ta có hàng trăm ngàn nỗi bi thảm nó đến rất tình cờ như vậy, mình không thể nào thoát ra được. Bây giờ còn một nguồn vui duy nhất, Trang Thanh vẫn là của anh và chắc trong ít tháng nữa anh sẽ xuất viện với một mảnh giấy làm việc nhẹ. Bổn mạng anh đã nằm trong đó. Hãy chấp nhận như vậy đi. Âu cũng là ân sủng mình đã theo đạt được. Cám ơn Trời Phật đã dành cho anh chút phần thưởng đó. Phải không Trang Thanh? Anh ở đây cũng thấy buồn, thấy nhớ các bạn hữu của anh. Có thể ngay giờ phút này, trên một ngọn đồi, một khu rừng, một xóm nào đó, một cánh quân đang tiến lên, trong lửa đạn ngùn ngụt và biết đâu, chả còn những người kém may mắn hơn anh cần một chiếc Poncho chẳng hạn. Trang Thanh cứ vui đi nhé. Cũng nên nói rõ để mẹ mừng. Từng đêm, tóc mẹ vốn đã bạc, đang rụng nốt những sợi còn lại. Thật khổ tâm cho mẹ. Chúng ta sinh ra, sống cho những điều đau khổ ấy. Anh ngừng ở đây. Nhớ gửi quà Tết vào cho anh. XI-67 (trích Văn Học- vì mất bìa, nên không biết số và ngày phát hành) Sơ lược tiểu sử: Tên thật: Trần Hữu Huy, sinh năm 1943 tại Bắc Việt. Vào Nam năm 1954. Cựu sĩ quan QLVNCH. Khởi viết năm 1964. Mất năm 1990 tại Hóc Môn. ████████

các chiến trường anh chưa hề gì mà chỉ còn vài giờ nữa kể như tạm yên, viên đạn ấy nó đã đến bàn chân anh tuy không phải vứt đi một cái chân nhưng ít ra thịt xương và máu anh đã mất? Nghĩ như vậy và anh không còn thấy ân hận gì cả Trang Thanh ạ. Em yêu dấu, Anh đã bảo trên đất nước chúng ta có hàng trăm ngàn nỗi bi thảm nó đến rất tình cờ như vậy, mình không thể nào thoát ra được. Bây giờ còn một nguồn vui duy nhất, Trang Thanh vẫn là của anh và chắc trong ít tháng nữa anh sẽ xuất viện với một mảnh giấy làm việc nhẹ. Bổn mạng anh đã nằm trong đó. Hãy chấp nhận như vậy đi. Âu cũng là ân sủng mình đã theo đạt được. Cám ơn Trời Phật đã dành cho anh chút phần thưởng đó. Phải không Trang Thanh? Anh ở đây cũng thấy buồn, thấy nhớ các bạn hữu của anh. Có thể ngay giờ phút này, trên một ngọn đồi, một khu rừng, một xóm nào đó, một cánh quân đang tiến lên, trong lửa đạn ngùn ngụt và biết đâu, chả còn những người kém may mắn hơn anh cần một chiếc Poncho chẳng hạn. Trang Thanh cứ vui đi nhé. Cũng nên nói rõ để mẹ mừng. Từng đêm, tóc mẹ vốn đã bạc, đang rụng nốt những sợi còn lại. Thật khổ tâm cho mẹ. Chúng ta sinh ra, sống cho những điều đau khổ ấy. Anh ngừng ở đây. Nhớ gửi quà Tết vào cho anh. XI-67 (trích Văn Học- vì mất bìa, nên không biết số và ngày phát hành) Sơ lược tiểu sử: Tên thật: Trần Hữu Huy, sinh năm 1943 tại Bắc Việt. Vào Nam năm 1954. Cựu sĩ quan QLVNCH. Khởi viết năm 1964. Mất năm 1990 tại Hóc Môn. ████████

Page 68: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

141 141

Y UYÊN Bão Khô

Chợ ở khúc quẹo của con đường dẫn từ ngoài lộ vào giữa làng. Ở chợ nhìn ra, mặt lộ cao bằng những mái tranh lụp xụp dưới chân lộ. Con đường chạy lên lộ mấy năm trước lụt bị nước phá bây giờ lổn ngổn những cục đá xanh. Những chiếc xích lô đón lính Mỹ lắc qua lắc lại vất vả mới vào tới chợ. Buổi sáng chợ họp lấn ra cả ngoài đường, trên lộ nhìn xuống thấy một hàng dài những người quần áo đen nón lá san sát lấp lánh. Trưa đến, trên đường thỉnh thoảng mới có một chiếc xe xích lô buông mui dập dình hoặc một chiếc xe nhà binh sao trắng ầm ì chở nước xuống bãi cát bên kia con đường làng. Trời cao nắng bỏng mặt đá ra đường lộ, mặt cát đường trong làng. Bụi cuốn từng cơn đột ngột xoay tròn trên đường, tan vào bụi tre rậm. Chợ trống trơn mái tôn mới sáng lóa. Mấy con chó lẩn quẩn trong chợ, lưỡi thè ra thở. Trước mặt chợ, sát bên đường, một dãy lều tranh mái lốm đốm hoa sầu đông màu tím nhạt. Có vài người đàn bà ngồi bán những mẹt mận, ổi choắt cheo, bán bánh, đồ uống. Mấy chiếc xe xích lô quay đít ra chiều gió, đậu rải rác dưới những bóng cây. Những người phu xe nằm trong lòng xe vấn thuốc hút hoặc ngủ lơ mơ. Đối diện với dãy lều, bên kia đường, tấm bảng gỗ hình mũi tên chỉ vào một mái nhà lợp rạ sau bụi tre với mấy chữ nguệch ngoạc “Laundry number one” chốc chốc lại khua lúc lắc lưng chừng một thân cây gòn cụt ngọn. Đường làng bên hông chợ mất hút sau những rặng cây trùng điệp. Bên kia đường, dưới sâu là bãi cát với làn nước cuối dòng sông tù hãm lấp lánh, với những chiếc xe sao trắng bên những chiếc lều màu cỏ thấp sát mặt đất bên những ruộng mía xanh non mới mọc. Một chiếc xe ba bánh bán giải khát có mui viền tua vàng rực rỡ, thùng xe kẻ đầy những chữ “Refreshment” nép khuất vào một bụi tre trên con dốc xẻ xuống bãi cát. Gió thổi từ bờ bể xa về lâu lâu lại ào lên như một hơi thở hắt. Từ một lối rẽ sau rặng cây trùng điệp, một bọn học trò con

Y UYÊN Bão Khô

Chợ ở khúc quẹo của con đường dẫn từ ngoài lộ vào giữa làng. Ở chợ nhìn ra, mặt lộ cao bằng những mái tranh lụp xụp dưới chân lộ. Con đường chạy lên lộ mấy năm trước lụt bị nước phá bây giờ lổn ngổn những cục đá xanh. Những chiếc xích lô đón lính Mỹ lắc qua lắc lại vất vả mới vào tới chợ. Buổi sáng chợ họp lấn ra cả ngoài đường, trên lộ nhìn xuống thấy một hàng dài những người quần áo đen nón lá san sát lấp lánh. Trưa đến, trên đường thỉnh thoảng mới có một chiếc xe xích lô buông mui dập dình hoặc một chiếc xe nhà binh sao trắng ầm ì chở nước xuống bãi cát bên kia con đường làng. Trời cao nắng bỏng mặt đá ra đường lộ, mặt cát đường trong làng. Bụi cuốn từng cơn đột ngột xoay tròn trên đường, tan vào bụi tre rậm. Chợ trống trơn mái tôn mới sáng lóa. Mấy con chó lẩn quẩn trong chợ, lưỡi thè ra thở. Trước mặt chợ, sát bên đường, một dãy lều tranh mái lốm đốm hoa sầu đông màu tím nhạt. Có vài người đàn bà ngồi bán những mẹt mận, ổi choắt cheo, bán bánh, đồ uống. Mấy chiếc xe xích lô quay đít ra chiều gió, đậu rải rác dưới những bóng cây. Những người phu xe nằm trong lòng xe vấn thuốc hút hoặc ngủ lơ mơ. Đối diện với dãy lều, bên kia đường, tấm bảng gỗ hình mũi tên chỉ vào một mái nhà lợp rạ sau bụi tre với mấy chữ nguệch ngoạc “Laundry number one” chốc chốc lại khua lúc lắc lưng chừng một thân cây gòn cụt ngọn. Đường làng bên hông chợ mất hút sau những rặng cây trùng điệp. Bên kia đường, dưới sâu là bãi cát với làn nước cuối dòng sông tù hãm lấp lánh, với những chiếc xe sao trắng bên những chiếc lều màu cỏ thấp sát mặt đất bên những ruộng mía xanh non mới mọc. Một chiếc xe ba bánh bán giải khát có mui viền tua vàng rực rỡ, thùng xe kẻ đầy những chữ “Refreshment” nép khuất vào một bụi tre trên con dốc xẻ xuống bãi cát. Gió thổi từ bờ bể xa về lâu lâu lại ào lên như một hơi thở hắt. Từ một lối rẽ sau rặng cây trùng điệp, một bọn học trò con

Page 69: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

142 142

trai con gái hiện trên đường làng. Chúng đeo trên vai, xách trên tay những gà-mèn, những mo cơm, vừa đi thơ thẩn, vừa đọc cho nhau nghe những lời sấm truyền về tai họa sắp xảy ra ở vùng này. “Ngày hai mươi ba tháng ba năm Bính Ngọ tới đây kể từ lúc trăng lên khỏi đám mây ngũ sắc ngoài mặt biển, trời đất không còn ngày đêm. Bốn phương mờ mịt âm u, ngang trời có khói màu đen bay tới đâu nghe có tiếng than khóc tới đó, núi phía tây tinh tú sa xuống tận mặt đất bốc cháy thành lửa. Cây gai lưỡi long thẩy lớn lên gấp năm gấp sáu mọc chật đường, chật ngõ, bông gai thẩy thẩy nở thành bông lan, người tu hành mới hửi được hương thơm. Gà không còn gáy, chó không còn sủa, ngoài đường đầy beo cọp yêu tinh. Kẻ ăn chay làm lành thì biết đóng cửa ở trong nhà, kẻ không tin thần tin quỷ thì chẳng đặng ngồi yên, lòng như có than hồng lửa đỏ, ra đứng trước nhà mà chịu chết thảm. Như kẻ nào mà đọc được lời dạy này biết sao thành ba bổn đưa cho người khác thì cũng đỡ phần tai họa”. Bọn trẻ kéo ra tới chợ, vào những túp lều bỏ trống dỡ cơm ra ăn. Mấy con chó lại gần chúng ngồi thè lưỡi chầu chực. Ăn xong chúng xúm lại bên đứa trẻ có tờ sấm ngồi bệt xuống đất vây quanh một cái phản bán hàng lâm râm đọc và cặm cụi chép. Những cơn gió ào lên đứt quãng bị bờ tre bên kia đường cản lại nhưng vẫn thổi rạt được mấy ngọn sầu đông bên này. Những tờ sấm trên mặt phản gỗ trong lều rắc đầy những hoa tím nhạt. Vài đứa chép xong ép giấy sấm vào sách vở lại mấy gian lều bán hàng phát cho mấy người đàn bà, ra đường bịt mũi giả tiếng Mỹ làm mấy người phu xe choàng tỉnh, đưa sấm cho họ. Chỉ còn người bán giải khát bên cái xe ép vào bụi tre trên dốc cát. Chúng ùa chạy tới, đứa nọ sợ đứa kia giành mất. Người bán nước bỏ đi đâu, chiếc xe thì đầy bụi, lớp tua vàng viền bên mui thì đập phần phật. Thấy một thằng bé ôm một mẹt hành đứng vơ vẩn nhìn xuống trại lính dưới bãi cát, bọn trẻ nhào tới. Thằng bé giật mình quay lại hai tay vòng chặt quanh mẹt hành. Một đứa con trai gỡ bàn tay nó ra nhét tờ giấy vào, một đứa con gái sẽ sàng đặt tờ giấy trải rộng lên mặt cái mẹt. Thằng bé hốt hoảng vứt mấy tờ giấy xuống mặt

trai con gái hiện trên đường làng. Chúng đeo trên vai, xách trên tay những gà-mèn, những mo cơm, vừa đi thơ thẩn, vừa đọc cho nhau nghe những lời sấm truyền về tai họa sắp xảy ra ở vùng này. “Ngày hai mươi ba tháng ba năm Bính Ngọ tới đây kể từ lúc trăng lên khỏi đám mây ngũ sắc ngoài mặt biển, trời đất không còn ngày đêm. Bốn phương mờ mịt âm u, ngang trời có khói màu đen bay tới đâu nghe có tiếng than khóc tới đó, núi phía tây tinh tú sa xuống tận mặt đất bốc cháy thành lửa. Cây gai lưỡi long thẩy lớn lên gấp năm gấp sáu mọc chật đường, chật ngõ, bông gai thẩy thẩy nở thành bông lan, người tu hành mới hửi được hương thơm. Gà không còn gáy, chó không còn sủa, ngoài đường đầy beo cọp yêu tinh. Kẻ ăn chay làm lành thì biết đóng cửa ở trong nhà, kẻ không tin thần tin quỷ thì chẳng đặng ngồi yên, lòng như có than hồng lửa đỏ, ra đứng trước nhà mà chịu chết thảm. Như kẻ nào mà đọc được lời dạy này biết sao thành ba bổn đưa cho người khác thì cũng đỡ phần tai họa”. Bọn trẻ kéo ra tới chợ, vào những túp lều bỏ trống dỡ cơm ra ăn. Mấy con chó lại gần chúng ngồi thè lưỡi chầu chực. Ăn xong chúng xúm lại bên đứa trẻ có tờ sấm ngồi bệt xuống đất vây quanh một cái phản bán hàng lâm râm đọc và cặm cụi chép. Những cơn gió ào lên đứt quãng bị bờ tre bên kia đường cản lại nhưng vẫn thổi rạt được mấy ngọn sầu đông bên này. Những tờ sấm trên mặt phản gỗ trong lều rắc đầy những hoa tím nhạt. Vài đứa chép xong ép giấy sấm vào sách vở lại mấy gian lều bán hàng phát cho mấy người đàn bà, ra đường bịt mũi giả tiếng Mỹ làm mấy người phu xe choàng tỉnh, đưa sấm cho họ. Chỉ còn người bán giải khát bên cái xe ép vào bụi tre trên dốc cát. Chúng ùa chạy tới, đứa nọ sợ đứa kia giành mất. Người bán nước bỏ đi đâu, chiếc xe thì đầy bụi, lớp tua vàng viền bên mui thì đập phần phật. Thấy một thằng bé ôm một mẹt hành đứng vơ vẩn nhìn xuống trại lính dưới bãi cát, bọn trẻ nhào tới. Thằng bé giật mình quay lại hai tay vòng chặt quanh mẹt hành. Một đứa con trai gỡ bàn tay nó ra nhét tờ giấy vào, một đứa con gái sẽ sàng đặt tờ giấy trải rộng lên mặt cái mẹt. Thằng bé hốt hoảng vứt mấy tờ giấy xuống mặt

Page 70: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

143 143

dốc: -Tôi không biết chữ, không đọc được truyền đơn. Đứa học trò con trai chạy lượm tờ giấy chìa trước mặt thằng bé: -Mầy không đọc được thì mang về cho cha mầy đọc, lời thần dạy mà mầy. -Tôi không có cha. -Mầy nói láo. Bộ gà vịt chúng đẻ ra mầy chắc? -Tôi cũng có cha mà cha tôi chết rồi. Thằng bé vừa nói vừa ôm mẹt hành đi. Đứa học trò chạy theo nhét vào túi áo nó. Thằng bé dừng lại nhìn mấy đứa học trò, có vẻ không hiểu. Bộ mặt cháy nắng của nó ửng lên. Nó móc túi vứt tờ giấy xuống đường: -Má tui cấm không được lượm giấy lạ về nhà. Mấy đứa học trò nhao nhao bảo nhau: -Thằng bán hành phách lối. Đứa học trò lượm tờ giấy rồi chỉ mặt thằng bán hành. -Có thiệt mầy không cầm? Thằng bé bán hành nhìn bọn trẻ, giọng bối rối: -Má tui cấm không được lượm giấy lạ về nhà. Đứa học trò bật lên một tiếng chửi, cả hai bàn tay móc vào mẹt hành giật xuống. Những củ hành vỏ tía, những trái ớt, trái chanh rơi vung vãi bắn vào bụi tre, lăn xuống dốc cát. Mắt thằng bé bán hành mở lớn, môi cắn chặt. Nó nhào sang bên kia vệ đường, lượm một cục đá. Lúc ngẩng lên, nó thấy bọn trẻ bên này đứng rải rác bên những bó hành. Đứa học trò gây với nó đá vào cái mẹt trỏ sang: -Mầy mà chọi đá, tụi tao bẻ gẫy cẳng, giậm nát cái đống hành nầy. Chọi thử coi. Thằng bé bán hành lưỡng lự trông sang, tay vẫn nắm chặt cục đá. Bên nầy, bọn trẻ nhìn nhau cười. Một đứa vạch quần tiểu trên những bó hành. Thằng bên kia nhìn ngược nhìn xuôi. Thấy từ phía đầu đường có một người đi lại, nó cầm cục đá chạy sang húc đầu vào bụng thằng học trò cầm đầu. Đứa học trò bất ngờ lộn nhào xuống dốc nhưng những đứa kia đã xúm lại. Thằng bé bán hành bị đè xuống đất, cục đá nơi tay bị đánh văng đi. Những quả đấm đập tới tấp trên mặt nó. Đứa học trò từ dưới dốc nhảy lên lượm lấy

dốc: -Tôi không biết chữ, không đọc được truyền đơn. Đứa học trò con trai chạy lượm tờ giấy chìa trước mặt thằng bé: -Mầy không đọc được thì mang về cho cha mầy đọc, lời thần dạy mà mầy. -Tôi không có cha. -Mầy nói láo. Bộ gà vịt chúng đẻ ra mầy chắc? -Tôi cũng có cha mà cha tôi chết rồi. Thằng bé vừa nói vừa ôm mẹt hành đi. Đứa học trò chạy theo nhét vào túi áo nó. Thằng bé dừng lại nhìn mấy đứa học trò, có vẻ không hiểu. Bộ mặt cháy nắng của nó ửng lên. Nó móc túi vứt tờ giấy xuống đường: -Má tui cấm không được lượm giấy lạ về nhà. Mấy đứa học trò nhao nhao bảo nhau: -Thằng bán hành phách lối. Đứa học trò lượm tờ giấy rồi chỉ mặt thằng bán hành. -Có thiệt mầy không cầm? Thằng bé bán hành nhìn bọn trẻ, giọng bối rối: -Má tui cấm không được lượm giấy lạ về nhà. Đứa học trò bật lên một tiếng chửi, cả hai bàn tay móc vào mẹt hành giật xuống. Những củ hành vỏ tía, những trái ớt, trái chanh rơi vung vãi bắn vào bụi tre, lăn xuống dốc cát. Mắt thằng bé bán hành mở lớn, môi cắn chặt. Nó nhào sang bên kia vệ đường, lượm một cục đá. Lúc ngẩng lên, nó thấy bọn trẻ bên này đứng rải rác bên những bó hành. Đứa học trò gây với nó đá vào cái mẹt trỏ sang: -Mầy mà chọi đá, tụi tao bẻ gẫy cẳng, giậm nát cái đống hành nầy. Chọi thử coi. Thằng bé bán hành lưỡng lự trông sang, tay vẫn nắm chặt cục đá. Bên nầy, bọn trẻ nhìn nhau cười. Một đứa vạch quần tiểu trên những bó hành. Thằng bên kia nhìn ngược nhìn xuôi. Thấy từ phía đầu đường có một người đi lại, nó cầm cục đá chạy sang húc đầu vào bụng thằng học trò cầm đầu. Đứa học trò bất ngờ lộn nhào xuống dốc nhưng những đứa kia đã xúm lại. Thằng bé bán hành bị đè xuống đất, cục đá nơi tay bị đánh văng đi. Những quả đấm đập tới tấp trên mặt nó. Đứa học trò từ dưới dốc nhảy lên lượm lấy

Page 71: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

144 144

cục đá nhào vào: -Đập nát ống chân nó ra nó mới sợ. -Để tao tiểu lên mặt nó coi nó làm gì tao. Một đứa khác kêu. Người mà thằng bé bán hành thấy ở đường đã đi tới. Đó là một người lính râu lởm chởm, lệch vai. Bọn trẻ thấy có người vội vàng ùn ùn bỏ chạy. Thằng bé bán hành chống tay ngồi dậy nấc lên khóc. Người lính dừng lại hỏi: -Chuyện gì đó? -Tụi nó muốn bẻ gãy cẳng tôi. Người lính cúi xuống nhìn những vết sưng trên mặt thằng bé. Anh ta dùng hai tay mở nút áo nó, nhìn vào trong xem xét rồi rờ nhè nhẹ lên hai cẳng nó: -Có nhức không? -Không. -Vậy thì chưa hề gì. Người lính kéo ống quần lên, rút trong ống quần một lưỡi dao sáng loá, một tay đỡ lấy ót thằng bé, một tay cầm dao lấy sống giập giập trên những vết sưng nơi mặt nó. Thằng bé nhắm mắt lim dim. Thỉnh thoảng lại nhăn mặt, rên nho nhỏ. Nó thuật lại chuyện cho người lính nghe. Lát sau, người lính nhét dao vào ống giầy, cúi xuống ôm lấy hai bên nách nó đưa người nó đứng lên. Nó khập khiễng xuống dốc lượm lần những quả chanh, quả ớt, bó hành. -Không hề gì mà. Người lính nói và đứng sát vào bóng tre. -Mầy ở làng nầy? -Tôi ở làng Hoà Mỹ. Người lính nhìn xuống những túp lều dưới bãi cát như tìm kiếm. -Mầy tới đây chi? -Đổi hành cho lính Đại Hàn lấy đồ hộp, thuốc hút rồi bán lại cho mấy người trong chợ. Bữa nay cấm không được tới hàng rào tới giờ vẫn không có người đổi. Người lính trỏ xuống bãi: -Dưới này cũng có Đại Hàn? -Đại Hàn ở đồn ngoài lộ. Người lính thè lưỡi liếm hai bên ria mép, bật nút áo ngực

cục đá nhào vào: -Đập nát ống chân nó ra nó mới sợ. -Để tao tiểu lên mặt nó coi nó làm gì tao. Một đứa khác kêu. Người mà thằng bé bán hành thấy ở đường đã đi tới. Đó là một người lính râu lởm chởm, lệch vai. Bọn trẻ thấy có người vội vàng ùn ùn bỏ chạy. Thằng bé bán hành chống tay ngồi dậy nấc lên khóc. Người lính dừng lại hỏi: -Chuyện gì đó? -Tụi nó muốn bẻ gãy cẳng tôi. Người lính cúi xuống nhìn những vết sưng trên mặt thằng bé. Anh ta dùng hai tay mở nút áo nó, nhìn vào trong xem xét rồi rờ nhè nhẹ lên hai cẳng nó: -Có nhức không? -Không. -Vậy thì chưa hề gì. Người lính kéo ống quần lên, rút trong ống quần một lưỡi dao sáng loá, một tay đỡ lấy ót thằng bé, một tay cầm dao lấy sống giập giập trên những vết sưng nơi mặt nó. Thằng bé nhắm mắt lim dim. Thỉnh thoảng lại nhăn mặt, rên nho nhỏ. Nó thuật lại chuyện cho người lính nghe. Lát sau, người lính nhét dao vào ống giầy, cúi xuống ôm lấy hai bên nách nó đưa người nó đứng lên. Nó khập khiễng xuống dốc lượm lần những quả chanh, quả ớt, bó hành. -Không hề gì mà. Người lính nói và đứng sát vào bóng tre. -Mầy ở làng nầy? -Tôi ở làng Hoà Mỹ. Người lính nhìn xuống những túp lều dưới bãi cát như tìm kiếm. -Mầy tới đây chi? -Đổi hành cho lính Đại Hàn lấy đồ hộp, thuốc hút rồi bán lại cho mấy người trong chợ. Bữa nay cấm không được tới hàng rào tới giờ vẫn không có người đổi. Người lính trỏ xuống bãi: -Dưới này cũng có Đại Hàn? -Đại Hàn ở đồn ngoài lộ. Người lính thè lưỡi liếm hai bên ria mép, bật nút áo ngực

Page 72: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

145 145

kéo cổ áo ra sau gáy, ngoắc tay ra gãi. Dáng người lệch vai của anh ta nhích mãi xuống bờ dốc cát, bóng anh ta nhích dần ra khỏi bóng tre. Thằng bé bán hành ngửng lên tò mò nhìn anh ta. Dường như anh ta vừa cất tiếng chửi tục. Anh ta móc túi lấy một điếu thuốc ngậm miệng, vừa quẹt lửa vừa lùng bùng hỏi: -Nghe nói ở đây có chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ mà sao không thấy? -Bữa nay chưa thấy tới. Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt. -Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không? Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe. -Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống. -Con đĩ. Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phía chợ. Bọn học trò ngồi chép sấm trong lều thấy anh ta, tản mát đi chỗ khác. Trời nắng gay gắt. Anh ta toan vào cái quán đầu dẫy, thấy có người đàn bà chít khăn tang ngồi đó, lại bỏ sang căn lều có mấy người ngồi nhậu với bánh tráng. Điếu thuốc trên miệng anh ta bốc khói hỗn loạn. Tay anh ta luôn luôn ngoắc ra sau gáy gãi sồn sột. Anh kêu cà phê phin. Người đàn bà áo dài đen bán quán cười nói không có. Anh ta lắc đầu chán nản, kêu la-de, mặt hếch lên nhìn một gã lính Mỹ da đen cao lớn bụi bặm ngồi phơi nắng trên bực gạch cửa chợ cúi đọc những chữ số trên những tờ giấy bạc Việt Nam, đếm tiền. Người đàn bà đặt ly-la de trước mặt, anh ta cầm lên lắc lắc rồi cau mặt hỏi: -Sao không có đá? Người đàn bà cười xoa hai tay: -Dạ hồi này đá hiếm lắm, không có mua được. Anh vui lòng uống đỡ. -Không có cà phê, không có đá, không có chi ráo cũng bày đặt bán giải khát. Người lính cầu nhầu rồi chỉ chai rượu đế: -Cho một xị pha uống đỡ vậy. Ai mà uống la-de không đá.

kéo cổ áo ra sau gáy, ngoắc tay ra gãi. Dáng người lệch vai của anh ta nhích mãi xuống bờ dốc cát, bóng anh ta nhích dần ra khỏi bóng tre. Thằng bé bán hành ngửng lên tò mò nhìn anh ta. Dường như anh ta vừa cất tiếng chửi tục. Anh ta móc túi lấy một điếu thuốc ngậm miệng, vừa quẹt lửa vừa lùng bùng hỏi: -Nghe nói ở đây có chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ mà sao không thấy? -Bữa nay chưa thấy tới. Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt. -Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không? Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe. -Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống. -Con đĩ. Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phía chợ. Bọn học trò ngồi chép sấm trong lều thấy anh ta, tản mát đi chỗ khác. Trời nắng gay gắt. Anh ta toan vào cái quán đầu dẫy, thấy có người đàn bà chít khăn tang ngồi đó, lại bỏ sang căn lều có mấy người ngồi nhậu với bánh tráng. Điếu thuốc trên miệng anh ta bốc khói hỗn loạn. Tay anh ta luôn luôn ngoắc ra sau gáy gãi sồn sột. Anh kêu cà phê phin. Người đàn bà áo dài đen bán quán cười nói không có. Anh ta lắc đầu chán nản, kêu la-de, mặt hếch lên nhìn một gã lính Mỹ da đen cao lớn bụi bặm ngồi phơi nắng trên bực gạch cửa chợ cúi đọc những chữ số trên những tờ giấy bạc Việt Nam, đếm tiền. Người đàn bà đặt ly-la de trước mặt, anh ta cầm lên lắc lắc rồi cau mặt hỏi: -Sao không có đá? Người đàn bà cười xoa hai tay: -Dạ hồi này đá hiếm lắm, không có mua được. Anh vui lòng uống đỡ. -Không có cà phê, không có đá, không có chi ráo cũng bày đặt bán giải khát. Người lính cầu nhầu rồi chỉ chai rượu đế: -Cho một xị pha uống đỡ vậy. Ai mà uống la-de không đá.

Page 73: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

146 146

Tôi đâu phải là người không rành chuyện ăn xài. Thằng này đã từng uống huýt-ky Mỹ rồi mà. Một ông già trong mấy người ngồi ăn bánh tráng cười bả lả đặt một miếng bánh trước mặt người lính: - Ăn miếng bánh, chú. Chú từ miệt trên xuống đây có nghe gì về vụ mìn nổ hôm trước ở bờ sông. Nghe nói có người mất chân, mất tay, mò hoài không thấy? Tiếng ông già nói lớn làm người đàn bà chít khăn tang ở quán đầu dẫy nhìn sang. Người lính vươn cổ gãi không đáp. Từ phía dốc cát, một người lính Mỹ da cổ đỏ vằn, quần áo dầy cộm rộng thùng thình dắt thằng bé bán hành vào quán có mấy người đàn bà khăn tang. Người lính kéo hai chiếc ghế dưới gầm bàn, ngồi đối diện với thằng bé. Ở bên này, ông già vẫn cười bả lả với người lính lệch vai. Ông nói với anh ta những thiếu sót của quán giải khát miền quê, nói mình muốn cất một cái quán đàng hoàng ở đây mà quận không cho phép. -Từ ngày quân đội đồng minh tới đây thiếu gì những người muốn cất quán mà không được. Chỉ có chiếc xe đò Vạn Hưng là tự do hốt bạc. Thiệt là một thứ phòng ngủ lưu động. Giang hồ lãng mạn quá mà. Người lính chằm chằm ngó ông già nghe ông nói. Anh ta hỏi: -Sao bữa nay chưa thấy tới? -Có khi chiều mới được phép xuống, chiều mới thấy tới. Người lính co chân lên gãi rồi cầm ly la-de pha rượu đế uống một hơi lớn. Anh ta bắt đầu nói nhiều với ông già. Giọng người Mỹ ở bên kia kêu “giời ôi” vọng sang. Thằng bé bán hành mặt nhô khỏi mặt bàn ngồi trước người Mỹ yên lặng nhai bánh. Trước mặt nó là một đống lá với một ly cam tươi. Trước mặt người Mỹ là một ly la-de lớn và vòng tay lông lá của anh ta. Anh ta nếu không đột ngột kêu “giời ôi” với nó thì yên lặng dựa vào lưng chiếc ghế mây, vòng tay nhìn nó ăn. Có lúc thằng bé cười rồi liếc nhìn thấy anh ta không hưởng ứng. Mặt anh ta lúc đó tỉnh như một người ngủ mở mắt. Người lính lệch vai càng uống càng ồn ào, yếu đuối. Vẻ gây gỗ của anh lúc mới tới mất dần khi thấy mấy người

Tôi đâu phải là người không rành chuyện ăn xài. Thằng này đã từng uống huýt-ky Mỹ rồi mà. Một ông già trong mấy người ngồi ăn bánh tráng cười bả lả đặt một miếng bánh trước mặt người lính: - Ăn miếng bánh, chú. Chú từ miệt trên xuống đây có nghe gì về vụ mìn nổ hôm trước ở bờ sông. Nghe nói có người mất chân, mất tay, mò hoài không thấy? Tiếng ông già nói lớn làm người đàn bà chít khăn tang ở quán đầu dẫy nhìn sang. Người lính vươn cổ gãi không đáp. Từ phía dốc cát, một người lính Mỹ da cổ đỏ vằn, quần áo dầy cộm rộng thùng thình dắt thằng bé bán hành vào quán có mấy người đàn bà khăn tang. Người lính kéo hai chiếc ghế dưới gầm bàn, ngồi đối diện với thằng bé. Ở bên này, ông già vẫn cười bả lả với người lính lệch vai. Ông nói với anh ta những thiếu sót của quán giải khát miền quê, nói mình muốn cất một cái quán đàng hoàng ở đây mà quận không cho phép. -Từ ngày quân đội đồng minh tới đây thiếu gì những người muốn cất quán mà không được. Chỉ có chiếc xe đò Vạn Hưng là tự do hốt bạc. Thiệt là một thứ phòng ngủ lưu động. Giang hồ lãng mạn quá mà. Người lính chằm chằm ngó ông già nghe ông nói. Anh ta hỏi: -Sao bữa nay chưa thấy tới? -Có khi chiều mới được phép xuống, chiều mới thấy tới. Người lính co chân lên gãi rồi cầm ly la-de pha rượu đế uống một hơi lớn. Anh ta bắt đầu nói nhiều với ông già. Giọng người Mỹ ở bên kia kêu “giời ôi” vọng sang. Thằng bé bán hành mặt nhô khỏi mặt bàn ngồi trước người Mỹ yên lặng nhai bánh. Trước mặt nó là một đống lá với một ly cam tươi. Trước mặt người Mỹ là một ly la-de lớn và vòng tay lông lá của anh ta. Anh ta nếu không đột ngột kêu “giời ôi” với nó thì yên lặng dựa vào lưng chiếc ghế mây, vòng tay nhìn nó ăn. Có lúc thằng bé cười rồi liếc nhìn thấy anh ta không hưởng ứng. Mặt anh ta lúc đó tỉnh như một người ngủ mở mắt. Người lính lệch vai càng uống càng ồn ào, yếu đuối. Vẻ gây gỗ của anh lúc mới tới mất dần khi thấy mấy người

Page 74: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

147 147

trong quán chú ý nghe chuyện của mình. Anh ta nói vợ anh ở trên chiếc xe đò có che màn đỏ đó. Anh tới đây để đâm nó chết. Hồi mới cưới, vợ anh không bao giờ làm mẹ con anh phiền lòng. Trong nhà không có chuyện gì nó không biết, không lo. Nó thuộc cả từng sợi tóc sâu trên đầu má ảnh, lấy than viết lên tường ghi cả ngày gà khởi ấp. Nhưng lần lần những săn sóc, chăm lo của nó thành những lời thôi thúc âm thầm muốn anh phải như thế này, thế nọ. “Nó luôn luôn muốn hơn thế nữa”. Những ngày anh đồn trú ở ngoài quận địa đầu tỉnh, anh nghe nó thường theo những người đi lấy lúa ở vùng địch. Mấy bữa vừa rồi, về tới nhà anh nghe nó chỉ mượn cớ đó để đi cho thỏa tính hoang. Có người nói chắc nó vẫn theo chiếc xe đò Vạn Hưng đi bán giải khát. Nó giấu mặt trong những tấm màn đỏ nhưng ai cũng biết hết. Anh tìm tới đây, giết nó rồi đi ở tù. Nó luôn luôn muốn hơn thế nữa thì lúc này xa anh nó cũng chẳng sung sướng chi. Lưỡi dao anh mang theo đây sẽ giúp anh khỏi buồn vì nó và cho nó khỏi buồn vì cả đời không đầy được nỗi khát khao tự bày đặt cho mình. Buổi trưa như một giấc ngủ trằn trọc nực nội. Người lính lệch vai vừa hung dữ vừa yếu đuối mặt mũi bơ phờ cuối cùng cũng im lặng uể oải. Còn tiếng gió lùng bùng thổi từng chập trên ngọn cây làm rụng từng lớp hoa sầu đông xuống hai bên dẫy lều. Từ ngoài lộ, có hai ông thầy tu đạp xe vào chợ. Chân họ đạp thoăn thoắt nhưng chiếc xe lăn nhấp nhổm, chậm chạp. Hai người đều đã có tuổi, tóc búi sau lưng, vận hai tấm áo dài xanh màu da trời óng ả, cổ đeo xâu chuỗi đen. Nơi tay lái xe, đeo lủng lẳng cái khăn gói. Họ mang dép đế dầy và cong của những người miền núi. Ở gian quán đầu dẫy, người đàn bà chít khăn tang, đội nón bước ra đường. Chị ta đi xuống phía làn nước cuối dòng sông dưới bãi cát. Người lính lệch vai đã banh hết nút áo, mồm ngậm ướt điếu thuốc đứng dậy ngó lên phía mặt lộ. Ông già và mấy người ngồi cùng với anh ta nhỏ to bàn tán về hai ông thầy tu áo xanh vừa vào một cái lều trống nghỉ chân. Người ta nói màu áo nom lạ mắt. Có người nói chắc họ ở Bình Định đi thuyền men theo bờ biển vô đây. “Phải là người gan dạ, võ nghệ cao cường mới dám xem

trong quán chú ý nghe chuyện của mình. Anh ta nói vợ anh ở trên chiếc xe đò có che màn đỏ đó. Anh tới đây để đâm nó chết. Hồi mới cưới, vợ anh không bao giờ làm mẹ con anh phiền lòng. Trong nhà không có chuyện gì nó không biết, không lo. Nó thuộc cả từng sợi tóc sâu trên đầu má ảnh, lấy than viết lên tường ghi cả ngày gà khởi ấp. Nhưng lần lần những săn sóc, chăm lo của nó thành những lời thôi thúc âm thầm muốn anh phải như thế này, thế nọ. “Nó luôn luôn muốn hơn thế nữa”. Những ngày anh đồn trú ở ngoài quận địa đầu tỉnh, anh nghe nó thường theo những người đi lấy lúa ở vùng địch. Mấy bữa vừa rồi, về tới nhà anh nghe nó chỉ mượn cớ đó để đi cho thỏa tính hoang. Có người nói chắc nó vẫn theo chiếc xe đò Vạn Hưng đi bán giải khát. Nó giấu mặt trong những tấm màn đỏ nhưng ai cũng biết hết. Anh tìm tới đây, giết nó rồi đi ở tù. Nó luôn luôn muốn hơn thế nữa thì lúc này xa anh nó cũng chẳng sung sướng chi. Lưỡi dao anh mang theo đây sẽ giúp anh khỏi buồn vì nó và cho nó khỏi buồn vì cả đời không đầy được nỗi khát khao tự bày đặt cho mình. Buổi trưa như một giấc ngủ trằn trọc nực nội. Người lính lệch vai vừa hung dữ vừa yếu đuối mặt mũi bơ phờ cuối cùng cũng im lặng uể oải. Còn tiếng gió lùng bùng thổi từng chập trên ngọn cây làm rụng từng lớp hoa sầu đông xuống hai bên dẫy lều. Từ ngoài lộ, có hai ông thầy tu đạp xe vào chợ. Chân họ đạp thoăn thoắt nhưng chiếc xe lăn nhấp nhổm, chậm chạp. Hai người đều đã có tuổi, tóc búi sau lưng, vận hai tấm áo dài xanh màu da trời óng ả, cổ đeo xâu chuỗi đen. Nơi tay lái xe, đeo lủng lẳng cái khăn gói. Họ mang dép đế dầy và cong của những người miền núi. Ở gian quán đầu dẫy, người đàn bà chít khăn tang, đội nón bước ra đường. Chị ta đi xuống phía làn nước cuối dòng sông dưới bãi cát. Người lính lệch vai đã banh hết nút áo, mồm ngậm ướt điếu thuốc đứng dậy ngó lên phía mặt lộ. Ông già và mấy người ngồi cùng với anh ta nhỏ to bàn tán về hai ông thầy tu áo xanh vừa vào một cái lều trống nghỉ chân. Người ta nói màu áo nom lạ mắt. Có người nói chắc họ ở Bình Định đi thuyền men theo bờ biển vô đây. “Phải là người gan dạ, võ nghệ cao cường mới dám xem

Page 75: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

148 148

thường nguy hiểm”.Người khác lại nói họ là bạn ông thầy pháp 9 vợ ở thôn trên, hồi mở hội bắt thăm người vợ út của ông dường như cũng có mặt hai người nầy. Cũng có thể là hai anh em họ Trần dong thuyền đánh cá ra khơi mất tích cả chục năm ít lâu nay lại nghe nói trở về hốt thuốc cứu độ cho những người dân miền bờ biển. Cũng có thể là người trong bọn chuyên môn đổi đô-la và buôn lậu bò sang bán bên kia đèo cải trang. Nhưng dù sao, mọi người cũng nhìn hai người lạ với sự e dè, kiêng nể. Những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ như có một liên lạc vu vơ. Người lính lệch vai mỗi lúc như mỗi thêm nóng ruột. Anh ta bỏ ra giữa đường, dáng điệu bứt rứt. Những điếu thuốc trên mồm anh ta không bao giờ cháy đều, không lần nào khô đầu ngậm. Lẽ nào đứa vợ hoang giấu mặt hổ thẹn trong những tấm màn đỏ biết được anh đang ở đây chờ nó. Nó vẫn chưa bao giờ nghĩ nó đáng chết sao. Từ lúc da thịt nó mang một mùi đàn ông khác với mùi da thịt anh, nó chết rồi đó. Thân xác nó lúc này đâu còn tươi mát như trước nữa. Nó mãi mãi không còn cái nhan sắc hồi cầm than viết trên tường ghi ngày gà khởi ấp. Nó chỉ còn vẻ tươi của vòng môi son tô vụng về và những tia máu phun có vòi lúc lưỡi dao của anh ngập trong da thịt. Anh ngoắt tay ra dấu cho thằng bé bán hành ra đường. Thằng bé lắc đầu. Nó cười với vẻ giận dữ của anh rồi lại ngồi yên. Trước mặt nó vẫn là đống lá bánh, ly bia và người lính Mỹ. Lúc này người lính Mỹ ngủ thiệt sự. Hai tay khoanh trước ngực, lưng tựa vào thành ghế, mũ úp xuống tới mũi. Thằng bé bán hành chỉ nom thấy cái mồm môi nhỏ và hồng khô, cái cổ ngửa lên, đỏ vằn. Nó nhìn hoài các thứ đó trước mắt và chưa dám bỏ đi. Người Mỹ đã nhặt được nó ngồi lê lượm những bó hành ở dốc cát giữa lúc anh ta có vẻ buồn. Bây giờ nó phải ngồi yên canh chừng nỗi buồn của anh ta. Nó mong anh ta ra khỏi quán để nó ôm mẹt hành trở lại đồn Đại Hàn xem có đổi đỡ được ít bó nào không. Tay nó vẫn xua những con ruồi bay qua bay lại trên mặt bàn. Người lính lệch vai ra đầu đường làng gây với người chủ

thường nguy hiểm”.Người khác lại nói họ là bạn ông thầy pháp 9 vợ ở thôn trên, hồi mở hội bắt thăm người vợ út của ông dường như cũng có mặt hai người nầy. Cũng có thể là hai anh em họ Trần dong thuyền đánh cá ra khơi mất tích cả chục năm ít lâu nay lại nghe nói trở về hốt thuốc cứu độ cho những người dân miền bờ biển. Cũng có thể là người trong bọn chuyên môn đổi đô-la và buôn lậu bò sang bán bên kia đèo cải trang. Nhưng dù sao, mọi người cũng nhìn hai người lạ với sự e dè, kiêng nể. Những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ như có một liên lạc vu vơ. Người lính lệch vai mỗi lúc như mỗi thêm nóng ruột. Anh ta bỏ ra giữa đường, dáng điệu bứt rứt. Những điếu thuốc trên mồm anh ta không bao giờ cháy đều, không lần nào khô đầu ngậm. Lẽ nào đứa vợ hoang giấu mặt hổ thẹn trong những tấm màn đỏ biết được anh đang ở đây chờ nó. Nó vẫn chưa bao giờ nghĩ nó đáng chết sao. Từ lúc da thịt nó mang một mùi đàn ông khác với mùi da thịt anh, nó chết rồi đó. Thân xác nó lúc này đâu còn tươi mát như trước nữa. Nó mãi mãi không còn cái nhan sắc hồi cầm than viết trên tường ghi ngày gà khởi ấp. Nó chỉ còn vẻ tươi của vòng môi son tô vụng về và những tia máu phun có vòi lúc lưỡi dao của anh ngập trong da thịt. Anh ngoắt tay ra dấu cho thằng bé bán hành ra đường. Thằng bé lắc đầu. Nó cười với vẻ giận dữ của anh rồi lại ngồi yên. Trước mặt nó vẫn là đống lá bánh, ly bia và người lính Mỹ. Lúc này người lính Mỹ ngủ thiệt sự. Hai tay khoanh trước ngực, lưng tựa vào thành ghế, mũ úp xuống tới mũi. Thằng bé bán hành chỉ nom thấy cái mồm môi nhỏ và hồng khô, cái cổ ngửa lên, đỏ vằn. Nó nhìn hoài các thứ đó trước mắt và chưa dám bỏ đi. Người Mỹ đã nhặt được nó ngồi lê lượm những bó hành ở dốc cát giữa lúc anh ta có vẻ buồn. Bây giờ nó phải ngồi yên canh chừng nỗi buồn của anh ta. Nó mong anh ta ra khỏi quán để nó ôm mẹt hành trở lại đồn Đại Hàn xem có đổi đỡ được ít bó nào không. Tay nó vẫn xua những con ruồi bay qua bay lại trên mặt bàn. Người lính lệch vai ra đầu đường làng gây với người chủ

Page 76: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

149 149

xe giải khát về tội không có đá cục. Người chủ xe chỉ cười và xin lỗi luôn mồm. Chán ngán, anh ta đứng trên dốc cát ngắm những vết xe hỗn loạn thằng bé bán hành chỉ anh lúc mới tới. Phía những làn nước lấp lánh cuối dòng sông, người đàn bà khăn tang tay giữ nón đang bước lò dò như một con chim kiếm mồi. Thấy một đám học trò ngồi dưới bóng bụi tre bên đường, người lính nạt một tiếng lớn, rút dao cầm tay múa một vòng. Bọn trẻ hè nhau ùn ùn chạy trốn. Người lính cúi xuống cắm dao vào ống giầy và ngửa mặt cười. Trời chiều dần dần, gió không còn đứt quãng, thổi ào ào liên tiếp. Bụi cát bay hỗn loạn vào lều vào lòng chợ mù mịt trên đường. Một vài tấm liếp dựng ngang mái lều che nắng được hạ xuống. Cơn buồn ngủ ráo khô trên những bộ mặt ngồi ở chợ không còn vẻ uể oải nhưng tỉnh táo đến thảng thốt. Mấy người ngồi trong lều với người lính đã đi vào đường làng. Người lính trở vào ngồi sau tấm liếp che với mặt đường. Một vài chiếc xe ầm ì kéo rờ-mọt chở nước chạy qua đều làm anh ta giật mình. Chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn chưa tới. Anh ta kêu thêm xá xị và rượu đế. Người đàn bà bán quán tóc búi, áo dài đen chân đất quen dần với vẻ bất thường của người khách độc nhất còn lại. Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai gấu quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán: -Chồng chết? -Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người. -Kiếm gì dưới đó? -Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại lúc khôn, biết sao mà tin. Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi: -Chồng chết lấy chồng khác mắc mớ gì mà điên. Anh ta dùng cùi chỏ đẩy mạnh tấm liếp ngó lên mặt lộ rồi lấy lưỡi dao lầm lì bào những lớp bụi trên tay, trên ngực. Người đàn bà nhỏ giọng: -Giờ chưa thấy tới, chắc bữa nay xe đi bán nơi khác. -Tôi chờ tới tối. Người lính nói và đưa tay chặn ngực “ợ” một tiếng lớn.

xe giải khát về tội không có đá cục. Người chủ xe chỉ cười và xin lỗi luôn mồm. Chán ngán, anh ta đứng trên dốc cát ngắm những vết xe hỗn loạn thằng bé bán hành chỉ anh lúc mới tới. Phía những làn nước lấp lánh cuối dòng sông, người đàn bà khăn tang tay giữ nón đang bước lò dò như một con chim kiếm mồi. Thấy một đám học trò ngồi dưới bóng bụi tre bên đường, người lính nạt một tiếng lớn, rút dao cầm tay múa một vòng. Bọn trẻ hè nhau ùn ùn chạy trốn. Người lính cúi xuống cắm dao vào ống giầy và ngửa mặt cười. Trời chiều dần dần, gió không còn đứt quãng, thổi ào ào liên tiếp. Bụi cát bay hỗn loạn vào lều vào lòng chợ mù mịt trên đường. Một vài tấm liếp dựng ngang mái lều che nắng được hạ xuống. Cơn buồn ngủ ráo khô trên những bộ mặt ngồi ở chợ không còn vẻ uể oải nhưng tỉnh táo đến thảng thốt. Mấy người ngồi trong lều với người lính đã đi vào đường làng. Người lính trở vào ngồi sau tấm liếp che với mặt đường. Một vài chiếc xe ầm ì kéo rờ-mọt chở nước chạy qua đều làm anh ta giật mình. Chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn chưa tới. Anh ta kêu thêm xá xị và rượu đế. Người đàn bà bán quán tóc búi, áo dài đen chân đất quen dần với vẻ bất thường của người khách độc nhất còn lại. Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai gấu quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán: -Chồng chết? -Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người. -Kiếm gì dưới đó? -Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại lúc khôn, biết sao mà tin. Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi: -Chồng chết lấy chồng khác mắc mớ gì mà điên. Anh ta dùng cùi chỏ đẩy mạnh tấm liếp ngó lên mặt lộ rồi lấy lưỡi dao lầm lì bào những lớp bụi trên tay, trên ngực. Người đàn bà nhỏ giọng: -Giờ chưa thấy tới, chắc bữa nay xe đi bán nơi khác. -Tôi chờ tới tối. Người lính nói và đưa tay chặn ngực “ợ” một tiếng lớn.

Page 77: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

150 150

Hai người tu sĩ áo xanh ở căn lều bỏ trống lên xe dướn người đạp vào đường làng. Người đàn bà khăn tang đến đứng trước lều có người lính, nền mắt đỏ, mặt ngơ ngẩn. -Tới đây từ hồi sớm, mấy mươi lần xuống bãi cát rồi đó. Người đàn bà bán quán nói rồi lớn tiếng hỏi: -Có thấy gì không? Không có tiếng trả lời. Người đàn bà có tang vào quán, mặt nhìn thẳng, ngồi xuống tấm băng, tay mân mê vành nón. Người lính nhìn, mắt ngó chằm chằm. Người đàn bà bán quán nhìn trước nhìn sau, mặt thoáng bối rối. -Chết ở trển, kiếm dưới này làm sao thấy? Người lính hỏi. Người đàn bà có tang vẫn ngẩng mặt, giọng thì thầm như nói một mình: -Đây cũng không có biết kiếm đâu giờ. Người lính “ợ” một tiếng, nhăn mặt: -Người chết nhiều vậy, thịt xương nát hết, cánh tay cũng ở đống đó chớ đâu. “Không có, không có”, giọng người đàn bà nho nhỏ như một tiếng cánh chim run. Người đàn bà bán quán lắc đầu. Chết vậy mà chỉ tét bụng, đứt chân, mất đầu chứ không nát bấy như hồi ở Dốc Đá. Mấy xác người vô thừa nhận có một người đàn bà đầu văng xuống sông tới hồi vớt lên mớ tóc dài vẫn còn như cũ. Người lính cau mặt, nhấc ly rượu uống ừng ực. -Chết là hết rồi nói qua nói lại chi cho mất công. Anh ta vịn vào cọc lều đứng dậy, lảo đảo ra đường, nhìn lên phía mặt lộ. Bụi kéo thành đám phủ xuống người anh. Anh đưa hai tay lên chụm mặt, quay lưng về hướng gió. Sao chiếc xe vẫn chưa tới? Sao nó chết cũng bắt anh chờ đợi nôn nao như hồi sắp cưới nhau? Người đàn bà nào chết ở trển mà vô thừa nhận? Cũng có đứa đàn bà trốn mẹ, giấu chồng đi lấy lúa như nó hồi trước sao? Người lính không muốn trở vào quán nữa nhưng anh cũng biết mình không thể đi đâu lúc này. Sống lưng lạnh khô và như có cát bám từ gáy trở xuống. Mắt anh nhức nhối, hai màng tang máu đập dồn dập. Nắng vẫn chói lòa nhức nhối. Như có những đốm hoa sầu đông bàng bạc hỗn loạn trên không. Len vào bên tấm liếp, người lính buông người trên mặt

Hai người tu sĩ áo xanh ở căn lều bỏ trống lên xe dướn người đạp vào đường làng. Người đàn bà khăn tang đến đứng trước lều có người lính, nền mắt đỏ, mặt ngơ ngẩn. -Tới đây từ hồi sớm, mấy mươi lần xuống bãi cát rồi đó. Người đàn bà bán quán nói rồi lớn tiếng hỏi: -Có thấy gì không? Không có tiếng trả lời. Người đàn bà có tang vào quán, mặt nhìn thẳng, ngồi xuống tấm băng, tay mân mê vành nón. Người lính nhìn, mắt ngó chằm chằm. Người đàn bà bán quán nhìn trước nhìn sau, mặt thoáng bối rối. -Chết ở trển, kiếm dưới này làm sao thấy? Người lính hỏi. Người đàn bà có tang vẫn ngẩng mặt, giọng thì thầm như nói một mình: -Đây cũng không có biết kiếm đâu giờ. Người lính “ợ” một tiếng, nhăn mặt: -Người chết nhiều vậy, thịt xương nát hết, cánh tay cũng ở đống đó chớ đâu. “Không có, không có”, giọng người đàn bà nho nhỏ như một tiếng cánh chim run. Người đàn bà bán quán lắc đầu. Chết vậy mà chỉ tét bụng, đứt chân, mất đầu chứ không nát bấy như hồi ở Dốc Đá. Mấy xác người vô thừa nhận có một người đàn bà đầu văng xuống sông tới hồi vớt lên mớ tóc dài vẫn còn như cũ. Người lính cau mặt, nhấc ly rượu uống ừng ực. -Chết là hết rồi nói qua nói lại chi cho mất công. Anh ta vịn vào cọc lều đứng dậy, lảo đảo ra đường, nhìn lên phía mặt lộ. Bụi kéo thành đám phủ xuống người anh. Anh đưa hai tay lên chụm mặt, quay lưng về hướng gió. Sao chiếc xe vẫn chưa tới? Sao nó chết cũng bắt anh chờ đợi nôn nao như hồi sắp cưới nhau? Người đàn bà nào chết ở trển mà vô thừa nhận? Cũng có đứa đàn bà trốn mẹ, giấu chồng đi lấy lúa như nó hồi trước sao? Người lính không muốn trở vào quán nữa nhưng anh cũng biết mình không thể đi đâu lúc này. Sống lưng lạnh khô và như có cát bám từ gáy trở xuống. Mắt anh nhức nhối, hai màng tang máu đập dồn dập. Nắng vẫn chói lòa nhức nhối. Như có những đốm hoa sầu đông bàng bạc hỗn loạn trên không. Len vào bên tấm liếp, người lính buông người trên mặt

Page 78: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

151 151

ghế. Hai tay ôm mặt, anh ta gục xuống mặt bàn. Có tiếng cử động sẽ sàng của một người đàn bà. Rồi một bàn tay đập nhẹ trên vai anh. Giọng người đàn bà bán quán: -Có nước chanh. Uống chút cho tỉnh. Người lính mở mắt ngửng cổ uống một hơi rồi đột ngột hỏi người đàn bà có tang: -Người đàn bà vô thừa nhận đó ra sao? Chết mà không nát mặt sao chớ? Người đàn bà hai tay thủ bọc, giọng buồn: -Tay ảnh có mang cà rá mà. Vàng thau lẫn lộn tùy thời, triều đình suy, thịnh tùy người nịnh, trung. Người lính lắc đầu. Người anh chấp chới. Người đàn bà khăn trắng đó cũng chấp chới theo. Người lính đột nhiên hoảng hốt. Anh cầm miếng vỏ chanh chà lên mặt, cố tĩnh trí. Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó. Miếng chanh vứt đi đầy cáu ghét và cát. Người lính vẫn không ngồi thẳng lên được. Đầu anh vẫn nặng nề nhức nhối. Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch trên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà xuôi ngược gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ lời cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng cũng mơ hồ nhưng có lý như nhau. -Ngư…ời… đàn… bà… đó…ó Mồm người lính mở lớn, nước mép chảy ứa. Anh muốn hỏi nhưng lưỡi líu lại và những giọt mồ hôi lạnh vẫn nhỉ trên trán. Anh kê mặt trên cánh tay vòng trên bàn, mắt nháy hoài. Nước mắt vẫn ứa ra và bộ mặt người đàn bà khăn tang thì mơ hồ. “Vàng thau lẫn lộn tùy thời, triều đình suy, thịnh tùy người nịnh, trung”. Nó là bầy tôi nịnh hay bầy tôi trung của anh đây? “Nó muốn hơn thế nữa”, ước muốn ấy bây giờ cũng vẫn là cánh tay vạch lên tường những chữ bằng than ngày gà khởi ấp. Nó giấu mặt sau

ghế. Hai tay ôm mặt, anh ta gục xuống mặt bàn. Có tiếng cử động sẽ sàng của một người đàn bà. Rồi một bàn tay đập nhẹ trên vai anh. Giọng người đàn bà bán quán: -Có nước chanh. Uống chút cho tỉnh. Người lính mở mắt ngửng cổ uống một hơi rồi đột ngột hỏi người đàn bà có tang: -Người đàn bà vô thừa nhận đó ra sao? Chết mà không nát mặt sao chớ? Người đàn bà hai tay thủ bọc, giọng buồn: -Tay ảnh có mang cà rá mà. Vàng thau lẫn lộn tùy thời, triều đình suy, thịnh tùy người nịnh, trung. Người lính lắc đầu. Người anh chấp chới. Người đàn bà khăn trắng đó cũng chấp chới theo. Người lính đột nhiên hoảng hốt. Anh cầm miếng vỏ chanh chà lên mặt, cố tĩnh trí. Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó. Miếng chanh vứt đi đầy cáu ghét và cát. Người lính vẫn không ngồi thẳng lên được. Đầu anh vẫn nặng nề nhức nhối. Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch trên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà xuôi ngược gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ lời cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng cũng mơ hồ nhưng có lý như nhau. -Ngư…ời… đàn… bà… đó…ó Mồm người lính mở lớn, nước mép chảy ứa. Anh muốn hỏi nhưng lưỡi líu lại và những giọt mồ hôi lạnh vẫn nhỉ trên trán. Anh kê mặt trên cánh tay vòng trên bàn, mắt nháy hoài. Nước mắt vẫn ứa ra và bộ mặt người đàn bà khăn tang thì mơ hồ. “Vàng thau lẫn lộn tùy thời, triều đình suy, thịnh tùy người nịnh, trung”. Nó là bầy tôi nịnh hay bầy tôi trung của anh đây? “Nó muốn hơn thế nữa”, ước muốn ấy bây giờ cũng vẫn là cánh tay vạch lên tường những chữ bằng than ngày gà khởi ấp. Nó giấu mặt sau

Page 79: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

152 152

những tấm màn đỏ trên chiếc xe đò chiều nay không tới bãi cát. Nó văng đầu xuống sông, mớ tóc còn nguyên. Người lính say thiệt sự rồi. Anh ta nhắm mắt thở khò khè với hai cái chết người vợ mình về tìm gặp. Người đàn bà có tang vẫn nhìn thẳng, hai tay thủ bọc. Người chủ quán nhìn người lính rồi nhìn chị ta, môi mấp máy như muốn nói. Bà ta lăng quăng chạy quanh lều, khép lại cánh phên, hớt những bông hoa sầu đông ra khỏi thùng nước, rồi lại nhìn từng người khách. Một đám lính Mỹ từ dưới bãi cát, quần áo xốc xếch, đi lên ồn ào cười nói. Những người phu xích lô nhảy vội xuống đất, hờm lòng xe trước lối đi của đám lính. Những tiếng hô hối hả của một chiếc xích lô đã có khách dẹp đường. Thằng bé bán hành ở lề bên kia đang dẹp mớ lá bánh trước mặt người lính Mỹ vừa tỉnh dậy. Nó tò mò nom sang người đàn bà có tang ngồi bên người lính say rượu. Người lính bỗng cất đầu khỏi mặt bàn vươn cổ mửa thốc tháo xuống mặt đất. Người đàn bà có tang ngơ ngác nhìn anh ta. Những con chó lang thang trong chợ chạy ra xúm trước mặt người lính. Người đàn bà có tang lấy nón đội đầu đứng dậy ra khỏi quán. Bằng những bước dài và nhẹ, chị ta khom người tiến từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gặm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía. Ở lều bên kia, thằng bé bán hành ôm cái mẹt bước ra đường. Bóng nó tần ngần đổ dài trên mặt cát bụi bặm. Nó nhìn những đốm hoa sầu đông lả tả trên mái rạ, nhìn người lính gục trong lều. -Coi kìa. Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang đang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương./.

(Văn số 58 ngày 15.5.1966)

những tấm màn đỏ trên chiếc xe đò chiều nay không tới bãi cát. Nó văng đầu xuống sông, mớ tóc còn nguyên. Người lính say thiệt sự rồi. Anh ta nhắm mắt thở khò khè với hai cái chết người vợ mình về tìm gặp. Người đàn bà có tang vẫn nhìn thẳng, hai tay thủ bọc. Người chủ quán nhìn người lính rồi nhìn chị ta, môi mấp máy như muốn nói. Bà ta lăng quăng chạy quanh lều, khép lại cánh phên, hớt những bông hoa sầu đông ra khỏi thùng nước, rồi lại nhìn từng người khách. Một đám lính Mỹ từ dưới bãi cát, quần áo xốc xếch, đi lên ồn ào cười nói. Những người phu xích lô nhảy vội xuống đất, hờm lòng xe trước lối đi của đám lính. Những tiếng hô hối hả của một chiếc xích lô đã có khách dẹp đường. Thằng bé bán hành ở lề bên kia đang dẹp mớ lá bánh trước mặt người lính Mỹ vừa tỉnh dậy. Nó tò mò nom sang người đàn bà có tang ngồi bên người lính say rượu. Người lính bỗng cất đầu khỏi mặt bàn vươn cổ mửa thốc tháo xuống mặt đất. Người đàn bà có tang ngơ ngác nhìn anh ta. Những con chó lang thang trong chợ chạy ra xúm trước mặt người lính. Người đàn bà có tang lấy nón đội đầu đứng dậy ra khỏi quán. Bằng những bước dài và nhẹ, chị ta khom người tiến từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gặm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía. Ở lều bên kia, thằng bé bán hành ôm cái mẹt bước ra đường. Bóng nó tần ngần đổ dài trên mặt cát bụi bặm. Nó nhìn những đốm hoa sầu đông lả tả trên mái rạ, nhìn người lính gục trong lều. -Coi kìa. Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang đang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương./.

(Văn số 58 ngày 15.5.1966)

Page 80: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

153 153

Sơ lược tiểu sử: Tên thật: Nguyễn văn Uy sinh ngày 6-8-1943 tại làng Dục Nội, quận Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt. Dạy học tại Tuy Hòa. Nhập ngũ khóa 27 Thủ Đức. Tử trận ngày 8-1-1969 tại Nora, Phan Thiết. ▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄ BÙI KHIẾT Đêm mưa hành quân Vào đêm em ngủ chưa em? Trong mơ có gặp ưu phiền nhiều không? Đèn xanh thành phố xa trông Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao Mưa rừng tiếng lá xôn xao Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn! Tương tư chìm ngập đáy hồn Dáng em thoáng hiện bên cồn đìu hiu Hành quân mưa ướt từng chiều Ôm hôn thân súng nhớ nhiều môi em Đêm rồi em ngủ cho yên Anh thân băng giá trên miền cát xa (1966)

Sơ lược tiểu sử: Tên thật: Nguyễn văn Uy sinh ngày 6-8-1943 tại làng Dục Nội, quận Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt. Dạy học tại Tuy Hòa. Nhập ngũ khóa 27 Thủ Đức. Tử trận ngày 8-1-1969 tại Nora, Phan Thiết. ▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄▄ BÙI KHIẾT Đêm mưa hành quân Vào đêm em ngủ chưa em? Trong mơ có gặp ưu phiền nhiều không? Đèn xanh thành phố xa trông Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao Mưa rừng tiếng lá xôn xao Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn! Tương tư chìm ngập đáy hồn Dáng em thoáng hiện bên cồn đìu hiu Hành quân mưa ướt từng chiều Ôm hôn thân súng nhớ nhiều môi em Đêm rồi em ngủ cho yên Anh thân băng giá trên miền cát xa (1966)

Page 81: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

154 154

Đỗ Chu Thăng Hong chút tình xưa chiều công tác anh qua trường em học trường em vui, ba dãy, học trò đông anh ghé dịp chung một giờ sinh hoạt trời tháng hai nắng tạt bức song hồng này mầu phấn mầu gỗ bàn và mầu mắt mầu quen quen và mầu của thương thương năm năm trước anh cũng thầy dạy học từng nghiêng lòng đắm đuối những văn chương em đâu biết nay ta người lính trận bước vào phòng mang nặng súng trên vai bẽn lẽn em nhìn, má anh mầu cháy nắng rồi nhủ thầm: thân phận trẻ hôm nay chiều công tác anh qua trường em học trường em xinh, cô giáo cũng đang xinh cô tươi cười nhường anh một giờ dạy nói cùng em chuyện ngưng bắn hòa bình em ngẩng nhìn chăm chăm mầu mắt biếc đâu phải lời anh, anh hiểu em rồi... anh muốn nói chi những đề tài cằn cỗi muốn nói cùng em câu chuyện vui vui chuyện Kim Trọng dò sang vườn Thúy chuyện Tam Nguyên làm thơ Cua chơi trăng chuyện Uy Viễn mê nàng Đào Hiệu chuyện Tản Đà bán áo viết lăng nhăng anh thèm quá, biết bao giờ trở lại trường ngày xưa thôi cơm áo hành quân

Đỗ Chu Thăng Hong chút tình xưa chiều công tác anh qua trường em học trường em vui, ba dãy, học trò đông anh ghé dịp chung một giờ sinh hoạt trời tháng hai nắng tạt bức song hồng này mầu phấn mầu gỗ bàn và mầu mắt mầu quen quen và mầu của thương thương năm năm trước anh cũng thầy dạy học từng nghiêng lòng đắm đuối những văn chương em đâu biết nay ta người lính trận bước vào phòng mang nặng súng trên vai bẽn lẽn em nhìn, má anh mầu cháy nắng rồi nhủ thầm: thân phận trẻ hôm nay chiều công tác anh qua trường em học trường em xinh, cô giáo cũng đang xinh cô tươi cười nhường anh một giờ dạy nói cùng em chuyện ngưng bắn hòa bình em ngẩng nhìn chăm chăm mầu mắt biếc đâu phải lời anh, anh hiểu em rồi... anh muốn nói chi những đề tài cằn cỗi muốn nói cùng em câu chuyện vui vui chuyện Kim Trọng dò sang vườn Thúy chuyện Tam Nguyên làm thơ Cua chơi trăng chuyện Uy Viễn mê nàng Đào Hiệu chuyện Tản Đà bán áo viết lăng nhăng anh thèm quá, biết bao giờ trở lại trường ngày xưa thôi cơm áo hành quân

Page 82: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

155 155

trên bục gỗ anh tìm hương ngày cũ nơi trang bài tuổi đợi giấc mơ xuân chiều công tác anh qua trường em học trường em vui, ba dãy, học trò ngoan như hong ấm món tình xưa đã nguội trời tháng hai gay gắt nắng hung vàng Giang Hữu Tuyên ở biên giới Việt Miên không dưng mà lạnh thật đầy với hồn thương tích với thây ma người chiều lên ôm súng nhìn trời bâng quơ ngó xuống cuộc đời buồn tênh rượu đâu mà uống cho quên người đâu mà họp đủ phiên chợ nghèo lá rừng ai đốt đen thui chim về ngơ ngẩn ngày vui năm nào hỡi em tình thoảng chiêm bao giờ không khí đó đã vào cổ sơ.

trên bục gỗ anh tìm hương ngày cũ nơi trang bài tuổi đợi giấc mơ xuân chiều công tác anh qua trường em học trường em vui, ba dãy, học trò ngoan như hong ấm món tình xưa đã nguội trời tháng hai gay gắt nắng hung vàng Giang Hữu Tuyên ở biên giới Việt Miên không dưng mà lạnh thật đầy với hồn thương tích với thây ma người chiều lên ôm súng nhìn trời bâng quơ ngó xuống cuộc đời buồn tênh rượu đâu mà uống cho quên người đâu mà họp đủ phiên chợ nghèo lá rừng ai đốt đen thui chim về ngơ ngẩn ngày vui năm nào hỡi em tình thoảng chiêm bao giờ không khí đó đã vào cổ sơ.

Page 83: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

156 156

Huỳnh Hữu Võ Khi anh hành quân Bảy ngày gạo gói thương vào đó Xua tay trần hung hãn một ngày vui Bạn và anh đã nặng lòng yêu nước Như đã nặng lòng yêu khói thuốc Capstan Nếu bên cánh rừng này ví dụ: Dù có em anh sẽ bắn tan tành Cũng như lúc dừng quân Anh đã bắn vào radio có tiếng em hát Đặc lệnh hành quân bảy ngày “cơm no áo ấm” Bảy ngày đi năm lít rượu trong người Mở nắp bi-đông cho hơi nồng trận mạc Cho đất trời một vũng dưới chân anh Nếu rừng Thái An Đạn bom không giẫm nát Thì rượu nếp than sẽ đốt cháy tơi bời Anh hiên ngang như con bọ hung lửa Xới tan tành mấy bãi cứt trâu khô. LÂM HẢO DŨNG Khi ở trung đoàn 42 vẫn thấy đồng không đùn nấm mộ cỏ xanh ai phủ dưới chân đồi dakto xa quá nhìn không thấy như có gì cay ở mắt tôi sáng nay trên chiếc xe già cỗi đã vượt đường xa những hố mìn

Huỳnh Hữu Võ Khi anh hành quân Bảy ngày gạo gói thương vào đó Xua tay trần hung hãn một ngày vui Bạn và anh đã nặng lòng yêu nước Như đã nặng lòng yêu khói thuốc Capstan Nếu bên cánh rừng này ví dụ: Dù có em anh sẽ bắn tan tành Cũng như lúc dừng quân Anh đã bắn vào radio có tiếng em hát Đặc lệnh hành quân bảy ngày “cơm no áo ấm” Bảy ngày đi năm lít rượu trong người Mở nắp bi-đông cho hơi nồng trận mạc Cho đất trời một vũng dưới chân anh Nếu rừng Thái An Đạn bom không giẫm nát Thì rượu nếp than sẽ đốt cháy tơi bời Anh hiên ngang như con bọ hung lửa Xới tan tành mấy bãi cứt trâu khô. LÂM HẢO DŨNG Khi ở trung đoàn 42 vẫn thấy đồng không đùn nấm mộ cỏ xanh ai phủ dưới chân đồi dakto xa quá nhìn không thấy như có gì cay ở mắt tôi sáng nay trên chiếc xe già cỗi đã vượt đường xa những hố mìn

Page 84: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

157 157

những dãy rừng thưa buồn diệu vợi sống thầm như thuở đợi bình yên ta như lữ khách không nhà cửa không có hồn ai để lạnh lùng cố vui hát một bài ca cũ giọng cũng khan mòn tay cũng run chắc mai ồ nhỉ - ngày mai nhỉ? ta với sương ngàn với gió trăng chắc em - có lẽ - là em thật sung sướng trong tay cốc rượu mừng bởi bao nhiêu trận kinh hồn trước đều thấy mơ hồ ở Dakto khi đi là tự xây mồ sẵn nay suối buồn kia mai đỉnh xa ta vẫn thênh thang đùa với rượu uống đi ta sẽ có quê nhà uống đi chiến thắng vang lừng lắm ta uống dường như để tiễn ta Lâm Hảo Khôi Ta đi từ vùng châu thổ vừa mới ra đi là chiến trận ta từ châu thổ tới nơi đây chân chưa quen đã mòn sơn cước lòng đã chìm sâu suối tóc mây "đêm khuya đại bác đau lòng giặc" bỏ ngủ mong trời thôi sáng trăng quên đi ước cũ thời thơ ấu trên đồi chim hót đã trăm năm

những dãy rừng thưa buồn diệu vợi sống thầm như thuở đợi bình yên ta như lữ khách không nhà cửa không có hồn ai để lạnh lùng cố vui hát một bài ca cũ giọng cũng khan mòn tay cũng run chắc mai ồ nhỉ - ngày mai nhỉ? ta với sương ngàn với gió trăng chắc em - có lẽ - là em thật sung sướng trong tay cốc rượu mừng bởi bao nhiêu trận kinh hồn trước đều thấy mơ hồ ở Dakto khi đi là tự xây mồ sẵn nay suối buồn kia mai đỉnh xa ta vẫn thênh thang đùa với rượu uống đi ta sẽ có quê nhà uống đi chiến thắng vang lừng lắm ta uống dường như để tiễn ta Lâm Hảo Khôi Ta đi từ vùng châu thổ vừa mới ra đi là chiến trận ta từ châu thổ tới nơi đây chân chưa quen đã mòn sơn cước lòng đã chìm sâu suối tóc mây "đêm khuya đại bác đau lòng giặc" bỏ ngủ mong trời thôi sáng trăng quên đi ước cũ thời thơ ấu trên đồi chim hót đã trăm năm

Page 85: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

158 158

trời không có gió cho hồn lạnh ta vẫn thèm vui cốc rượu đầy anh em bè bạn xin ngồi lại ngừng bắn cho rừng ta ngủ say em uống cùng ta nào được đâu có chăng là khúc hát đêm thâu hỡi anh chiến cuộc là thiên vận! ừ thôi rượu đó để ta sầu chiều căng lều nhỏ chờ mưa xuống buồn quá làm sao đỡ nhớ người hồn ta như cửa sông hoang vắng đêm mơ phù sa chảy ngập trời vàng tay thuốc lá bao nhiêu loại là bấy nhiêu lần ta bỏ ta hỡi anh chiến cuộc là thiên vận ừ thôi rượu đã cháy sơn hà! mai ta ngừng bắn về châu thổ nhìn cánh bèo xanh trên bến xưa hỏi em mắt thắm ngày tao ngộ khăn hồng lệ nóng có khô chưa? Lê Nguyên Ngữ NHỚ NHÀ KHI ĐI HÀNH QUÂN Nắng nhạt đường truông rừng lá đậm Dừng quân dưới núi buổi hoàng hôn Cây rừng lính nấu cơm xanh khói Gió thấp luồn qua mấy trũng mòn Ven rừng thơ thẩn đi tìm táo

trời không có gió cho hồn lạnh ta vẫn thèm vui cốc rượu đầy anh em bè bạn xin ngồi lại ngừng bắn cho rừng ta ngủ say em uống cùng ta nào được đâu có chăng là khúc hát đêm thâu hỡi anh chiến cuộc là thiên vận! ừ thôi rượu đó để ta sầu chiều căng lều nhỏ chờ mưa xuống buồn quá làm sao đỡ nhớ người hồn ta như cửa sông hoang vắng đêm mơ phù sa chảy ngập trời vàng tay thuốc lá bao nhiêu loại là bấy nhiêu lần ta bỏ ta hỡi anh chiến cuộc là thiên vận ừ thôi rượu đã cháy sơn hà! mai ta ngừng bắn về châu thổ nhìn cánh bèo xanh trên bến xưa hỏi em mắt thắm ngày tao ngộ khăn hồng lệ nóng có khô chưa? Lê Nguyên Ngữ NHỚ NHÀ KHI ĐI HÀNH QUÂN Nắng nhạt đường truông rừng lá đậm Dừng quân dưới núi buổi hoàng hôn Cây rừng lính nấu cơm xanh khói Gió thấp luồn qua mấy trũng mòn Ven rừng thơ thẩn đi tìm táo

Page 86: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

159 159

Lót lòng dăm quả đợi chờ cơm Chợt nhớ mẹ chiều xưa cố quận Nấu cơm chái bếp khói xanh rờn Cơm chiều thường dọn bên giàn mướp Đầu bạc đầu xanh mâm kín hơi Giờ cơm nón sắt bên rừng bụi Nửa cháy nửa khê chẳng kịp mời Ba năm làm lính mê chinh chiến Nhớ mẹ đôi lần nhớ phớt qua Chiều nay bỗng nhớ sao là nhớ Một mẹ quê xa tuổi hạc già Một mẹ ngày đi đầu nhuốm bạc Bây giờ chắc tóc quyện mầu mây Rừng núi khuất quanh đường trở lại Vời trông cố quận khói mây bay Mây bay về thấp ngang rừng thấp Gối súng nằm trên chiếu lá khô Thương mẹ xưa lo từng chỗ ngủ Nay sống qua đêm giữa bụi bờ Đêm chỗ con nằm thơm lá mục Mơ về quê mẹ ngát hương cau Thức giấc di quân trời chửa sáng Trăng lạnh đường truông bạc chiến hào. Lệ Trường Chinh Trên vùng trời cuối Việt gởi Hoài Diễm Từ xám ngắt màu mây trời Cuối Việt U Minh, tràm đước có ta về

Lót lòng dăm quả đợi chờ cơm Chợt nhớ mẹ chiều xưa cố quận Nấu cơm chái bếp khói xanh rờn Cơm chiều thường dọn bên giàn mướp Đầu bạc đầu xanh mâm kín hơi Giờ cơm nón sắt bên rừng bụi Nửa cháy nửa khê chẳng kịp mời Ba năm làm lính mê chinh chiến Nhớ mẹ đôi lần nhớ phớt qua Chiều nay bỗng nhớ sao là nhớ Một mẹ quê xa tuổi hạc già Một mẹ ngày đi đầu nhuốm bạc Bây giờ chắc tóc quyện mầu mây Rừng núi khuất quanh đường trở lại Vời trông cố quận khói mây bay Mây bay về thấp ngang rừng thấp Gối súng nằm trên chiếu lá khô Thương mẹ xưa lo từng chỗ ngủ Nay sống qua đêm giữa bụi bờ Đêm chỗ con nằm thơm lá mục Mơ về quê mẹ ngát hương cau Thức giấc di quân trời chửa sáng Trăng lạnh đường truông bạc chiến hào. Lệ Trường Chinh Trên vùng trời cuối Việt gởi Hoài Diễm Từ xám ngắt màu mây trời Cuối Việt U Minh, tràm đước có ta về

Page 87: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

160 160

mưa khuya lá rụng quanh hào lũy hiu hắt rừng thu lạnh dáng quê xưa đi gió sớm đưa vài dặm ngày đi chưa hết buồn trong lòng sầu lên mây khói chiều phong tỏa kinh thành lớp lớp bụi mờ trông ngày ngược Đầm Dơi xuôi Cái Nước nghìn đêm muỗi vắt lại reo đùa mai còn qua phố Ba Xuyên đợi ghé quán cô hàng kể chuyện xưa áo bạc sương khô đời xa xứ ân tình không hẹn tiễn đưa nhau nếu mai chẳng trở về sum họp em tìm ta cuối giấc chiêm bao chiến chinh như nỗi đời lính thú buồn vui theo những bước giang hồ quân hành trong gió chiều mưa rét cũng no lòng cơm sấy lương khô bạn bè dăm đứa đi về đất xa quê còn nhớ mẹ, em hiền ở đây gió lộng rừng hoa dại ngơ ngác bên trời bóng trăng nghiêng buồn lan sương khói che cây lá che cả đời ta năm tháng đen.

mưa khuya lá rụng quanh hào lũy hiu hắt rừng thu lạnh dáng quê xưa đi gió sớm đưa vài dặm ngày đi chưa hết buồn trong lòng sầu lên mây khói chiều phong tỏa kinh thành lớp lớp bụi mờ trông ngày ngược Đầm Dơi xuôi Cái Nước nghìn đêm muỗi vắt lại reo đùa mai còn qua phố Ba Xuyên đợi ghé quán cô hàng kể chuyện xưa áo bạc sương khô đời xa xứ ân tình không hẹn tiễn đưa nhau nếu mai chẳng trở về sum họp em tìm ta cuối giấc chiêm bao chiến chinh như nỗi đời lính thú buồn vui theo những bước giang hồ quân hành trong gió chiều mưa rét cũng no lòng cơm sấy lương khô bạn bè dăm đứa đi về đất xa quê còn nhớ mẹ, em hiền ở đây gió lộng rừng hoa dại ngơ ngác bên trời bóng trăng nghiêng buồn lan sương khói che cây lá che cả đời ta năm tháng đen.

Page 88: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

161 161

LINH PHƯƠNG THEO ĐOÀN XE LÍNH Trên đường là những nấm mồ Súng AK - đạn - chực chờ - nổ tung Bên là núi - bên là rừng Theo đoàn xe lính tìm chồng trấn biên Mạc Hàn Vi Linh Những ly rượu tâm tình tình cờ gặp lại mày uống một bữa cho say ba năm nhanh quá đỗi một xị đi cô hai đây ngày mình hội ngộ cùng uống cạn một ly gặp mày mừng quá cỡ uống thêm ly nữa đi mày sợ say rượu à? Ôi ! chuyện gì mà lo không có say gì cả nè, 1,2, 3 - vô ! hôm qua đi ngang chợ mày gặp lại con bồ tay bồng con chạy giặc tội nghiệp nàng ... thôi vô !

LINH PHƯƠNG THEO ĐOÀN XE LÍNH Trên đường là những nấm mồ Súng AK - đạn - chực chờ - nổ tung Bên là núi - bên là rừng Theo đoàn xe lính tìm chồng trấn biên Mạc Hàn Vi Linh Những ly rượu tâm tình tình cờ gặp lại mày uống một bữa cho say ba năm nhanh quá đỗi một xị đi cô hai đây ngày mình hội ngộ cùng uống cạn một ly gặp mày mừng quá cỡ uống thêm ly nữa đi mày sợ say rượu à? Ôi ! chuyện gì mà lo không có say gì cả nè, 1,2, 3 - vô ! hôm qua đi ngang chợ mày gặp lại con bồ tay bồng con chạy giặc tội nghiệp nàng ... thôi vô !

Page 89: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

162 162

uống thêm ly nữa mày rượu nào bảo mình say chỉ say tình bè bạn xị nữa đi cô hai nè bồi thêm ly nữa ôi! ly rượu thâm tình ồ say thì cũng mửa cho trời đất rung rinh bạn bè lần lượt chết kế tao mầy hay ai? cuộc đời ... ôi mắc mệt một xị đi cô hai. Ngô Đình Khoa Lính thú căn cứ Bleynhey mùa mưa nước nổi sống ở bờ cao chung với kiến vàng ngày nắng hạ cháy da làm lính mọi đêm mưa cùng đào hố nước ở hang nón sắt thay nồi thuốc bồi mồi lửa cơm dọn ra nửa sống nửa khê vàng miếng được miếng không nuốt ngày sống vội như nữa đây chết vội đến phiên chăng? ăn nghỉ tiến quân chung giờ làm một súng với ta thân thiết như tình ngụm nước mát dành hành quân rất tuyệt miếng giẻ khô phòng mưa súng rỉ han

uống thêm ly nữa mày rượu nào bảo mình say chỉ say tình bè bạn xị nữa đi cô hai nè bồi thêm ly nữa ôi! ly rượu thâm tình ồ say thì cũng mửa cho trời đất rung rinh bạn bè lần lượt chết kế tao mầy hay ai? cuộc đời ... ôi mắc mệt một xị đi cô hai. Ngô Đình Khoa Lính thú căn cứ Bleynhey mùa mưa nước nổi sống ở bờ cao chung với kiến vàng ngày nắng hạ cháy da làm lính mọi đêm mưa cùng đào hố nước ở hang nón sắt thay nồi thuốc bồi mồi lửa cơm dọn ra nửa sống nửa khê vàng miếng được miếng không nuốt ngày sống vội như nữa đây chết vội đến phiên chăng? ăn nghỉ tiến quân chung giờ làm một súng với ta thân thiết như tình ngụm nước mát dành hành quân rất tuyệt miếng giẻ khô phòng mưa súng rỉ han

Page 90: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

163 163

người làm giặc từ bắc phương tràn tới giáp trận súng tay cơm vắt muối vừng miệng giải phóng lưỡi điêu ngoa trăm tội tim óc người chất ngất những lòng căm. đêm thức ho khan ta chờ người tới (nghìn đứa như ta nghĩ cũng nực cười) người với ta bỗng một còn một mất súng đạn bày trò sống chết như chơi ta bắt được người gọi tên vô sản người bắt được ta gọi lính ngụy quyền khi xưa sống tổ tiên chung một họ máu chia ngành giờ hết anh em ta vượt biên đến đây làm lính thú máu đổi xương đổi đất từng miền thèm ngủ thèm ăn chưa bằng được chết mộ đã yên giờ cỏ đã xanh lên. tặng anh em TĐ 1/46

Tranh sơn dầu của Đinh Cường

người làm giặc từ bắc phương tràn tới giáp trận súng tay cơm vắt muối vừng miệng giải phóng lưỡi điêu ngoa trăm tội tim óc người chất ngất những lòng căm. đêm thức ho khan ta chờ người tới (nghìn đứa như ta nghĩ cũng nực cười) người với ta bỗng một còn một mất súng đạn bày trò sống chết như chơi ta bắt được người gọi tên vô sản người bắt được ta gọi lính ngụy quyền khi xưa sống tổ tiên chung một họ máu chia ngành giờ hết anh em ta vượt biên đến đây làm lính thú máu đổi xương đổi đất từng miền thèm ngủ thèm ăn chưa bằng được chết mộ đã yên giờ cỏ đã xanh lên. tặng anh em TĐ 1/46

Tranh sơn dầu của Đinh Cường

Page 91: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

164 164

LUÂN HOÁN

Đồng Hành Cùng Vũ Khí * 3. khi nằm bìa Nghĩa Hành lương khô ba ngày hết trời đất rất yên lành không thấy bóng thần chết dựa lưng vào ba lô gã tà lọt vừa để viết láu mấy câu thơ bộc trực như lời kể: anh đang đi hành quân đến một nơi tuyệt lắm có rất nhiều người dưng lưng ong thơm yếm thắm em yêu, đừng vội ghen anh là tên nhát gái giỏi lắm chỉ lăng nhăng mươi câu thơ vô hại về Nghĩa Hành lính ca mấy câu vè tinh nghịch (1) anh nghe để ngoài da dù cũng hơi thinh thích mùa này trời mưa dầm ngày ngắn đêm đến sớm em yêu hãy yên tâm gặp anh, đạn biết tránh đã “rách áo” đôi lần

LUÂN HOÁN

Đồng Hành Cùng Vũ Khí * 3. khi nằm bìa Nghĩa Hành lương khô ba ngày hết trời đất rất yên lành không thấy bóng thần chết dựa lưng vào ba lô gã tà lọt vừa để viết láu mấy câu thơ bộc trực như lời kể: anh đang đi hành quân đến một nơi tuyệt lắm có rất nhiều người dưng lưng ong thơm yếm thắm em yêu, đừng vội ghen anh là tên nhát gái giỏi lắm chỉ lăng nhăng mươi câu thơ vô hại về Nghĩa Hành lính ca mấy câu vè tinh nghịch (1) anh nghe để ngoài da dù cũng hơi thinh thích mùa này trời mưa dầm ngày ngắn đêm đến sớm em yêu hãy yên tâm gặp anh, đạn biết tránh đã “rách áo” đôi lần

Page 92: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

165 165

dễ dầu gì toạc nữa anh vẫn nguyện trong lòng được vết xước vừa phải loại giấy phép quí này được ký bằng đầu đạn từ chủ nghĩa bầy nhầy nếu may không bỏ mạng ______ (1) “muốn lon lên Thạch Trụ muốn đ. về Nghĩa Hành” (*) Trích một đọan từ bài thơ cùng tựa đề Huỳnh Kim Sơn Chén rượu chiều 30 Tặng Hoàng Lộc Ta mời bạn đúng chiều 30 Tết Ghé hầm ta uống chén rượu tàn năm Để mai mốt lỡ mình an phận chết Vẫn ghi đời kỷ niệm buổi liên hoan! Phía trước mặt dù chông gai cách trở Lệnh dừng quân ngừng bắn đến hôm qua Buổi mai sớm vẫn còn nghe súng nổ Dăm ba thằng ngã xuống giữa rừng xa Ta cũng có mẹ già mòn mỏi đợi Những mùa xuân biền biệt bóng ta về Tóc mẹ trắng đã bao chiều sương khói Mắt đìu hiu sầu mấy dặm sơn khê

dễ dầu gì toạc nữa anh vẫn nguyện trong lòng được vết xước vừa phải loại giấy phép quí này được ký bằng đầu đạn từ chủ nghĩa bầy nhầy nếu may không bỏ mạng ______ (1) “muốn lon lên Thạch Trụ muốn đ. về Nghĩa Hành” (*) Trích một đọan từ bài thơ cùng tựa đề Huỳnh Kim Sơn Chén rượu chiều 30 Tặng Hoàng Lộc Ta mời bạn đúng chiều 30 Tết Ghé hầm ta uống chén rượu tàn năm Để mai mốt lỡ mình an phận chết Vẫn ghi đời kỷ niệm buổi liên hoan! Phía trước mặt dù chông gai cách trở Lệnh dừng quân ngừng bắn đến hôm qua Buổi mai sớm vẫn còn nghe súng nổ Dăm ba thằng ngã xuống giữa rừng xa Ta cũng có mẹ già mòn mỏi đợi Những mùa xuân biền biệt bóng ta về Tóc mẹ trắng đã bao chiều sương khói Mắt đìu hiu sầu mấy dặm sơn khê

Page 93: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

166 166

Ta cũng có người em yêu mới lớn Tuổi còn xanh như cây lá sân trường Ngày về núi lòng ta không dám hẹn Em ngậm ngùi cúi mặt giấu đau thương Xin hãy cạn chén nầy - thêm chén nữa Rừng hoang vu cỏ dại cũng lên hoa Trong giây phút bình an còn mở cửa Ta ngồi nghe tim trỗi những lời ca Tay ghì súng tạm quên niềm thống hận Trời đã cho thêm một tuổi trên vai Ta cùng bạn chưa tan giòng cay đắng Buồn mà chi biển rộng với sông dài. (Hải Phố) NGUYỄN BẮC SƠN Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân Khi tao đi lấy khẩu phần Mầy đi mua rượu đế Nùng cho tao Chúng mình nhậu để trừ hao Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng Mùa này gió núi mưa bưng Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan Mùa này gió bụi mưa ngàn Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà Những thằng lính trẻ hào hoa Lưu đày trong cõi rừng già núi xanh Lao mình vào cuộc phân tranh Tiếc thương xương máu sinh thành được ư.

Ta cũng có người em yêu mới lớn Tuổi còn xanh như cây lá sân trường Ngày về núi lòng ta không dám hẹn Em ngậm ngùi cúi mặt giấu đau thương Xin hãy cạn chén nầy - thêm chén nữa Rừng hoang vu cỏ dại cũng lên hoa Trong giây phút bình an còn mở cửa Ta ngồi nghe tim trỗi những lời ca Tay ghì súng tạm quên niềm thống hận Trời đã cho thêm một tuổi trên vai Ta cùng bạn chưa tan giòng cay đắng Buồn mà chi biển rộng với sông dài. (Hải Phố) NGUYỄN BẮC SƠN Một tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân Khi tao đi lấy khẩu phần Mầy đi mua rượu đế Nùng cho tao Chúng mình nhậu để trừ hao Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng Mùa này gió núi mưa bưng Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan Mùa này gió bụi mưa ngàn Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà Những thằng lính trẻ hào hoa Lưu đày trong cõi rừng già núi xanh Lao mình vào cuộc phân tranh Tiếc thương xương máu sinh thành được ư.

Page 94: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

167 167

Nguyễn Du Thy Về Dakto Một chiều mang súng đạn về Đứng chôn chân giữa tư bề núi non Thấy cay con mắt lạ lùng Dung thân chi mãi tận cùng cao nguyên

NGUYỄN DƯƠNG QUANG Lửa trên đồi sáng nay ta đốt lửa trên đồi lửa soi ta nhìn ta sống sót lòng mặc áo sương nên lòng quá lạnh mắt mở từng đêm nên mắt quá sâu ôi đêm qua đạn mưa súng bão ta là ai giữa đồ trận săn người? cuối mặt trời sau đuôi C.47 viên đạn đồng vỡ giọt máu tươi kịch đêm qua trên đồi đã dứt ai kéo màn từ một rừng xa có tim người ứa một giòng sông máu chảy âm thầm suốt cõi hồn ta hỡi người anh em đêm qua nằm xuống

Nguyễn Du Thy Về Dakto Một chiều mang súng đạn về Đứng chôn chân giữa tư bề núi non Thấy cay con mắt lạ lùng Dung thân chi mãi tận cùng cao nguyên

NGUYỄN DƯƠNG QUANG Lửa trên đồi sáng nay ta đốt lửa trên đồi lửa soi ta nhìn ta sống sót lòng mặc áo sương nên lòng quá lạnh mắt mở từng đêm nên mắt quá sâu ôi đêm qua đạn mưa súng bão ta là ai giữa đồ trận săn người? cuối mặt trời sau đuôi C.47 viên đạn đồng vỡ giọt máu tươi kịch đêm qua trên đồi đã dứt ai kéo màn từ một rừng xa có tim người ứa một giòng sông máu chảy âm thầm suốt cõi hồn ta hỡi người anh em đêm qua nằm xuống

Page 95: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

168 168

lửa ta nhen xin ấm hồn người tay đã nhẹ không còn nâng ngọn súng hãy bình yên như giòng nước trôi cám ơn người đã tặng ta khẩu súng mai về đem đổi chiếc huy chương buổi chiều tha thẩn trên đường phố mà quên người nằm lại sa trường hỡi bếp lửa quê nhà yêu dấu khói tranh đùn sương sớm rủ nhau tan chân mới bước mà đã xa quá đỗi và chút hồn mới lớn đã lang thang hỡi bếp lửa trên đồi hoang vắng làm sao soi từng ngõ ngách mơ hồ ? đời vẫn sống dài theo năm tháng vết hồn mòn theo đế giày saut dẫu thế nào cũng xem là hạnh phúc chiến tranh sờn vai áo trận màu rêu có hề gì lửa reo như nhịp súng viên đạn đồng mũm mĩm thân yêu. 1970

NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG Người lính làm thơ trên đỉnh núi Leo lên đến đỉnh khi chiều xuống, Đầu vách cheo leo đá nẩy mầm; Có phải hương thơm từ thạch thảo

lửa ta nhen xin ấm hồn người tay đã nhẹ không còn nâng ngọn súng hãy bình yên như giòng nước trôi cám ơn người đã tặng ta khẩu súng mai về đem đổi chiếc huy chương buổi chiều tha thẩn trên đường phố mà quên người nằm lại sa trường hỡi bếp lửa quê nhà yêu dấu khói tranh đùn sương sớm rủ nhau tan chân mới bước mà đã xa quá đỗi và chút hồn mới lớn đã lang thang hỡi bếp lửa trên đồi hoang vắng làm sao soi từng ngõ ngách mơ hồ ? đời vẫn sống dài theo năm tháng vết hồn mòn theo đế giày saut dẫu thế nào cũng xem là hạnh phúc chiến tranh sờn vai áo trận màu rêu có hề gì lửa reo như nhịp súng viên đạn đồng mũm mĩm thân yêu. 1970

NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG Người lính làm thơ trên đỉnh núi Leo lên đến đỉnh khi chiều xuống, Đầu vách cheo leo đá nẩy mầm; Có phải hương thơm từ thạch thảo

Page 96: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

169 169

Hay từ vàng nhụy của bông trăng? Người lính bỗng quên ngày chiến trận, Lòng vui thanh thoát ánh trăng rằm, Cả một tiểu đoàn đang gác súng Nghe lòng man mác tiếng thơ rung. Đêm nay ta chẳng cần căng võng, Giường đá, ba-lô kê gối nằm, Bi-đông nước suối nhấp từng ngụm, Gạo sấy, muối mè thư thả ăn. Vọng tiếng tù và vang dưới lũng Chắc là địch lạc thổi tìm quân. Đỉnh cao ta chẳng cần gọi pháo, Để cho người sống trọn đêm rằm. Đối địch, chiều nay dùng súng đạn, Bây giờ trăng sáng để soi chung; Người lính miền Nam đi chiến trận, Ba-lô mang thêm hồn thơ văn.

Phan Nhự Thức Nỗi tình trên súng ôi, gió nào lên buồn mang mang cát hoang cồn bãi hàng theo hàng trái tim nghe đã mềm tay lụa thơ cũng vàng trưa nắng hạ vàng phương này trời dựng cao mong nhớ

Hay từ vàng nhụy của bông trăng? Người lính bỗng quên ngày chiến trận, Lòng vui thanh thoát ánh trăng rằm, Cả một tiểu đoàn đang gác súng Nghe lòng man mác tiếng thơ rung. Đêm nay ta chẳng cần căng võng, Giường đá, ba-lô kê gối nằm, Bi-đông nước suối nhấp từng ngụm, Gạo sấy, muối mè thư thả ăn. Vọng tiếng tù và vang dưới lũng Chắc là địch lạc thổi tìm quân. Đỉnh cao ta chẳng cần gọi pháo, Để cho người sống trọn đêm rằm. Đối địch, chiều nay dùng súng đạn, Bây giờ trăng sáng để soi chung; Người lính miền Nam đi chiến trận, Ba-lô mang thêm hồn thơ văn.

Phan Nhự Thức Nỗi tình trên súng ôi, gió nào lên buồn mang mang cát hoang cồn bãi hàng theo hàng trái tim nghe đã mềm tay lụa thơ cũng vàng trưa nắng hạ vàng phương này trời dựng cao mong nhớ

Page 97: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

170 170

đầu gối ba-lô hồn phiêu bồng thương em lòng rợp che đường nhỏ tình trải xanh giòng sông tiếp sông phương ấy giờ em nghiêng nón che chiều tan học thả mộng sang hè vu vơ giăng tuổi rong đường phố nỗi tình e cũng đã sương che ta đêm phục kích ngày lùng giặc tay súng làm sao giữ lấy em mười nhánh sông trôi vào nghi hoặc muốn hỏi nhưng đành im lặng im tuổi hẹn hò em bướm đón đưa hai tay ảo ảnh nói sao vừa mười nhánh huệ thơm mười phép tính còn ngón tay nào đeo nhẫn ta?

Phù Hư ĐỒN SƠN YỂM đóng núi đồn xa đoàn pháo yểm quanh năm ngủ miết với chân mây nhìn sâu xuống vực nham hiểm đá thù rừng cành trút lá mặc cây vào thu rồi đó đèo xao xác thung lũng vàng khô ẩn bóng nhà suối chia mương nhỏ tre ống nứa

đầu gối ba-lô hồn phiêu bồng thương em lòng rợp che đường nhỏ tình trải xanh giòng sông tiếp sông phương ấy giờ em nghiêng nón che chiều tan học thả mộng sang hè vu vơ giăng tuổi rong đường phố nỗi tình e cũng đã sương che ta đêm phục kích ngày lùng giặc tay súng làm sao giữ lấy em mười nhánh sông trôi vào nghi hoặc muốn hỏi nhưng đành im lặng im tuổi hẹn hò em bướm đón đưa hai tay ảo ảnh nói sao vừa mười nhánh huệ thơm mười phép tính còn ngón tay nào đeo nhẫn ta?

Phù Hư ĐỒN SƠN YỂM đóng núi đồn xa đoàn pháo yểm quanh năm ngủ miết với chân mây nhìn sâu xuống vực nham hiểm đá thù rừng cành trút lá mặc cây vào thu rồi đó đèo xao xác thung lũng vàng khô ẩn bóng nhà suối chia mương nhỏ tre ống nứa

Page 98: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

171 171

chuối mùa lốm đốm lá trổ hoa suối len khe đá âm mưu chảy đồn đóng binh ròng trận mạc xa khói mỏng lên, chiều thưa tiếng chim đèo cao hút bóng mỏi mắt nhìn gió mớm cho đông về thoáng lạnh trông gần thương nhỏ dáng người em âm thầm đêm tối gào giữ giặc nhanh đạn chuyền tay chống tuyến đầu gió núi rên oằn bằng tiếng pháo mây tan đường trái phá qua sâu sơn yểm đỉnh cao muốn chống trời! binh sĩ nhàn cư quẩn quanh thôi cỏ không chừa lối đường xuống núi rượu hết từ khuya vắng tiếng người đêm lính trú buồn hâm bếp lửa nhìn nhau kể chuyện vãn cười chơi tay hơ than khói khô da thịt thuốc đốt từng khoanh giấu mặt người đêm gió u hồn thổi muôn phương lũng hạ khuya tiếng sói tru buồn dư rượu ấm chi lòng khách núi thuốc từng khoanh cầm tiếng thở giữa hồn chinh chiến đầu non chinh chiến trận ì ùng âm pháo dội quanh năm xóm cũ chừ em lo chạy loạn? cha già xưa nhúm mộ bỏ bên đồng đèo sắp qua đông lạnh quá chừng cây nản rừng chưa trổ lá non đồn dăm chòi dột tin mưa gió pháo mới chùi xong đợi tấn công

chuối mùa lốm đốm lá trổ hoa suối len khe đá âm mưu chảy đồn đóng binh ròng trận mạc xa khói mỏng lên, chiều thưa tiếng chim đèo cao hút bóng mỏi mắt nhìn gió mớm cho đông về thoáng lạnh trông gần thương nhỏ dáng người em âm thầm đêm tối gào giữ giặc nhanh đạn chuyền tay chống tuyến đầu gió núi rên oằn bằng tiếng pháo mây tan đường trái phá qua sâu sơn yểm đỉnh cao muốn chống trời! binh sĩ nhàn cư quẩn quanh thôi cỏ không chừa lối đường xuống núi rượu hết từ khuya vắng tiếng người đêm lính trú buồn hâm bếp lửa nhìn nhau kể chuyện vãn cười chơi tay hơ than khói khô da thịt thuốc đốt từng khoanh giấu mặt người đêm gió u hồn thổi muôn phương lũng hạ khuya tiếng sói tru buồn dư rượu ấm chi lòng khách núi thuốc từng khoanh cầm tiếng thở giữa hồn chinh chiến đầu non chinh chiến trận ì ùng âm pháo dội quanh năm xóm cũ chừ em lo chạy loạn? cha già xưa nhúm mộ bỏ bên đồng đèo sắp qua đông lạnh quá chừng cây nản rừng chưa trổ lá non đồn dăm chòi dột tin mưa gió pháo mới chùi xong đợi tấn công

Page 99: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

172 172

bạn tôi trẻ tuổi vừa cưới vợ cười lệch đôi môi nói chuyện nhà thoắt sắp đông sang rồi đấy nhỉ trông rừng giết lá mấy mùa qua thu giữ mây cho ấm lòng người pháo yểm đồn cao đứng lẻ loi bao giờ vạch cỏ xuyên đường núi lũng hạ thăm em rượu mềm môi.

THIẾU KHANH Bài Tình Ca Ở Hậu Nghĩa Em mắt nghìn thu xanh cỏ biếc Ta lên rừng thẳm ngủ chiêm bao Vòng tay thân ái xa biền biệt Ta gặp nhau mà vẫn nhớ nhau Em nhớ ta hay ta nhớ em? Từng đêm lặn lội giữa bưng biền Ta qua Hậu Nghĩa ngày mưa xám Róc vỏ thân tràm ta viết tên… Năm tuổi chiến trường xuyên vạn lý Núi sông biết mặt đứa phong trần Yêu em ta bỗng thành thi sĩ Thơ lính hong ngời mắt mỹ nhân. Ta trót đam mê ngùn ngụt lửa

bạn tôi trẻ tuổi vừa cưới vợ cười lệch đôi môi nói chuyện nhà thoắt sắp đông sang rồi đấy nhỉ trông rừng giết lá mấy mùa qua thu giữ mây cho ấm lòng người pháo yểm đồn cao đứng lẻ loi bao giờ vạch cỏ xuyên đường núi lũng hạ thăm em rượu mềm môi.

THIẾU KHANH Bài Tình Ca Ở Hậu Nghĩa Em mắt nghìn thu xanh cỏ biếc Ta lên rừng thẳm ngủ chiêm bao Vòng tay thân ái xa biền biệt Ta gặp nhau mà vẫn nhớ nhau Em nhớ ta hay ta nhớ em? Từng đêm lặn lội giữa bưng biền Ta qua Hậu Nghĩa ngày mưa xám Róc vỏ thân tràm ta viết tên… Năm tuổi chiến trường xuyên vạn lý Núi sông biết mặt đứa phong trần Yêu em ta bỗng thành thi sĩ Thơ lính hong ngời mắt mỹ nhân. Ta trót đam mê ngùn ngụt lửa

Page 100: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

173 173

Nghìn đêm nuôi nấng mộng phi thường. Cho em một cánh tay gần gũi Dành một tay vào buổi nhiễu nhương. Đôi lúc toan vung cờ nghĩa khởi Cùng em đi tiếu ngạo giang hồ. Ngao du trên suốt vùng biên giới Về đóng quân doanh ở Hố Bò. Mình không cười giễu ta cuồng vọng Chỉ sợ nhàu phai áo học trò Theo gã thư sinh làm loạn tướng E mình lây phải mộng phiêu du! Đêm ta đụng trận trong Vàm Cỏ Lửa sáng rừng sâu nhớ mắt nàng. Ngày hát nghêu ngao qua Thố Mố Trong lòng nỗi nhớ chợt thênh thang! Đức Huệ – Củ Chi đến Đức Hòa Quê hương nàng hóa quê hương ta TRẦN BÁ LANG Bữa gặp H'Ngung H'Ngung ơi tóc em thơm hương núi Ấm lòng tôi người lính ở biên khu Làng em đỏ lửa cơm ngày hai bữa Tay súng tôi ngăn bước tiến quân thù

Nghìn đêm nuôi nấng mộng phi thường. Cho em một cánh tay gần gũi Dành một tay vào buổi nhiễu nhương. Đôi lúc toan vung cờ nghĩa khởi Cùng em đi tiếu ngạo giang hồ. Ngao du trên suốt vùng biên giới Về đóng quân doanh ở Hố Bò. Mình không cười giễu ta cuồng vọng Chỉ sợ nhàu phai áo học trò Theo gã thư sinh làm loạn tướng E mình lây phải mộng phiêu du! Đêm ta đụng trận trong Vàm Cỏ Lửa sáng rừng sâu nhớ mắt nàng. Ngày hát nghêu ngao qua Thố Mố Trong lòng nỗi nhớ chợt thênh thang! Đức Huệ – Củ Chi đến Đức Hòa Quê hương nàng hóa quê hương ta TRẦN BÁ LANG Bữa gặp H'Ngung H'Ngung ơi tóc em thơm hương núi Ấm lòng tôi người lính ở biên khu Làng em đỏ lửa cơm ngày hai bữa Tay súng tôi ngăn bước tiến quân thù

Page 101: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

174 174

Chiều qua khẩu Ayun màu nắng nhạt Nước xuôi dòng chia bên đục bên trong Nón sắt làm đòn ba lô bỗng nhẹ Bước tôi đi giữ mãi má em hồng Làng em đó buôn Pleiba nhỏ bé Nước nguồn về mỗi bận đắp phù sa Cây ươm trái ngọt bùi tình dân bản Bữa đơn sơ mùa cơm mới dưa cà Có một bữa đơn vị tôi ghé tạm Em nói rằng cơm muối đó mời anh Đây rượu ché xin đừng chê của dở Nhớ làm sao mùi xôi nếp ba trăng Tôi còn đi cho em ngày nương rẫy Áo chiều in màu sắc thắm lưng đồi Rồi một mai hòa bình mau trở lại Tôi sẽ về thăm H'Ngung nhỏ tôi ơi !

TRẦN ĐẮC THẮNG Khóc chiến hữu Khóc Trung sĩ Quý, Thành và Thiếu úy Tư Đ.M. Tụi bây chết thật rồi Ta nghe hồn chết giữa mưa rơi Bao giờ bây lại ngồi uống rượu Cùng kể nhau nghe những chuyện rời Nhớ buổi theo ta đi đánh giặc Bây thề mãi mãi ở bên ta

Chiều qua khẩu Ayun màu nắng nhạt Nước xuôi dòng chia bên đục bên trong Nón sắt làm đòn ba lô bỗng nhẹ Bước tôi đi giữ mãi má em hồng Làng em đó buôn Pleiba nhỏ bé Nước nguồn về mỗi bận đắp phù sa Cây ươm trái ngọt bùi tình dân bản Bữa đơn sơ mùa cơm mới dưa cà Có một bữa đơn vị tôi ghé tạm Em nói rằng cơm muối đó mời anh Đây rượu ché xin đừng chê của dở Nhớ làm sao mùi xôi nếp ba trăng Tôi còn đi cho em ngày nương rẫy Áo chiều in màu sắc thắm lưng đồi Rồi một mai hòa bình mau trở lại Tôi sẽ về thăm H'Ngung nhỏ tôi ơi !

TRẦN ĐẮC THẮNG Khóc chiến hữu Khóc Trung sĩ Quý, Thành và Thiếu úy Tư Đ.M. Tụi bây chết thật rồi Ta nghe hồn chết giữa mưa rơi Bao giờ bây lại ngồi uống rượu Cùng kể nhau nghe những chuyện rời Nhớ buổi theo ta đi đánh giặc Bây thề mãi mãi ở bên ta

Page 102: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

175 175

Giờ đây, sao lại đi đâu hết Bỏ mặc ta đau, mắt lệ nhòa Bây khóc tình ta trong vắng lạnh Còn ta đứng khóc với quê hương Bỗng thấy lòng mình mùa đông xám Thấy bây đi kích dưới mù sương Từ đây bây đớn đau một cõi Còn ta đánh giặc giữa sa trường Thương bây chiến hữu ta ngồi khóc

Đau đớn nào dâng với nhớ thương !

Trần Hoài Thư Trường ở bên sông Cô hàng chợ Huyện mơ gì nhỉ Mà sao yên lặng như tương tư Tôi biết đêm rồi không chó sủa Đêm rồi tôi cũng dệt cơn mơ Cơn mơ tôi lại ngôi trường cũ Trường ở bên sông, nhà hai gian Thầy tôi tóc bạc ngồi yên lặng Vách lở tường vôi. Màng nhện giăng Cơn mơ tôi lại bên thềm lạnh Sân cỏ hoang vu, trời hoang vu Tôi gọi bạn bè chơi trốn bắt Bạn bè tôi. Những trái mù u Những trái mù u khô tróc vỏ

Giờ đây, sao lại đi đâu hết Bỏ mặc ta đau, mắt lệ nhòa Bây khóc tình ta trong vắng lạnh Còn ta đứng khóc với quê hương Bỗng thấy lòng mình mùa đông xám Thấy bây đi kích dưới mù sương Từ đây bây đớn đau một cõi Còn ta đánh giặc giữa sa trường Thương bây chiến hữu ta ngồi khóc

Đau đớn nào dâng với nhớ thương !

Trần Hoài Thư Trường ở bên sông Cô hàng chợ Huyện mơ gì nhỉ Mà sao yên lặng như tương tư Tôi biết đêm rồi không chó sủa Đêm rồi tôi cũng dệt cơn mơ Cơn mơ tôi lại ngôi trường cũ Trường ở bên sông, nhà hai gian Thầy tôi tóc bạc ngồi yên lặng Vách lở tường vôi. Màng nhện giăng Cơn mơ tôi lại bên thềm lạnh Sân cỏ hoang vu, trời hoang vu Tôi gọi bạn bè chơi trốn bắt Bạn bè tôi. Những trái mù u Những trái mù u khô tróc vỏ

Page 103: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

176 176

Tôi về ngơ ngác như chim sâu Trời ơi tôi đã qua bao xóm Trường đó bạn tôi giờ ở đâu Cái sân đất thịt nào trơ trọi Những lỗ bi, lỗ đáo ngậm ngùi Hình như trong cõi trưa đồng vọng Tiếng cúc cù tưởng niệm ngày vui Tôi về buồn bã học trò côi Chiếc bảng đen còn một chữ Đời Muốn thú với Thầy con không thuộc Bởi Đời là biển học mù khơi Thầy tôi ngồi đấy lưng còm cõi Vạt nắng xiên xiên đọng xuống bàn Tôi cố gọi Thầy con có mặt Sổ điểm danh thầy nhớ tên con Cô hàng chợ Huyện mơ gì nhỉ Sáng đã lên rồi em biết không Em hiểu lòng tôi giờ ấm lắm Khi trống trường vọng lại bâng khuâng... Em nhỏ đời tôi từng mất mát Em vui tôi cũng chia niềm vui Ít ra trong kiếp đời gian khổ Thấy một ngôi trường có mái tươi

Trần Ngọc Kim Nỗi buồn đêm tử thủ Mười đêm tử thủ trong hầm tối

Tôi về ngơ ngác như chim sâu Trời ơi tôi đã qua bao xóm Trường đó bạn tôi giờ ở đâu Cái sân đất thịt nào trơ trọi Những lỗ bi, lỗ đáo ngậm ngùi Hình như trong cõi trưa đồng vọng Tiếng cúc cù tưởng niệm ngày vui Tôi về buồn bã học trò côi Chiếc bảng đen còn một chữ Đời Muốn thú với Thầy con không thuộc Bởi Đời là biển học mù khơi Thầy tôi ngồi đấy lưng còm cõi Vạt nắng xiên xiên đọng xuống bàn Tôi cố gọi Thầy con có mặt Sổ điểm danh thầy nhớ tên con Cô hàng chợ Huyện mơ gì nhỉ Sáng đã lên rồi em biết không Em hiểu lòng tôi giờ ấm lắm Khi trống trường vọng lại bâng khuâng... Em nhỏ đời tôi từng mất mát Em vui tôi cũng chia niềm vui Ít ra trong kiếp đời gian khổ Thấy một ngôi trường có mái tươi

Trần Ngọc Kim Nỗi buồn đêm tử thủ Mười đêm tử thủ trong hầm tối

Page 104: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

177 177

Tỉnh dậy khuya nay cười với trăng Hỏa tuyến Netta sầu tĩnh mịch Canh gà xao xác mơ giai nhân Sầu lên ải Bắc mưa còn lạnh Lạnh với ngàn xanh kiếp lính rừng Ta cũng như mây trời tám hướng Vời trông cố quận mắt rưng rưng Nghĩ thương những nấm mồ vô định Vỗ súng làm thơ tống biệt hành Doanh trại hãi hùng bom đạn réo Mưa hoài mưa mãi... hận ngày xanh Mười đêm tử thủ mười đêm nhớ Máu lệ mờ hoen cả chiến hào Giấc ngủ chập chờn ma vuốt mặt Hận thù chất ngất cõi chiêm bao Rồi ta lạc giữa mê hồn trận Như một người điên của núi rừng Nhắm mắt bắn đùa rồi cả thẹn Nổi khùng ta vứt áo nguyên nhung (Phan Thiết 72)

Tỉnh dậy khuya nay cười với trăng Hỏa tuyến Netta sầu tĩnh mịch Canh gà xao xác mơ giai nhân Sầu lên ải Bắc mưa còn lạnh Lạnh với ngàn xanh kiếp lính rừng Ta cũng như mây trời tám hướng Vời trông cố quận mắt rưng rưng Nghĩ thương những nấm mồ vô định Vỗ súng làm thơ tống biệt hành Doanh trại hãi hùng bom đạn réo Mưa hoài mưa mãi... hận ngày xanh Mười đêm tử thủ mười đêm nhớ Máu lệ mờ hoen cả chiến hào Giấc ngủ chập chờn ma vuốt mặt Hận thù chất ngất cõi chiêm bao Rồi ta lạc giữa mê hồn trận Như một người điên của núi rừng Nhắm mắt bắn đùa rồi cả thẹn Nổi khùng ta vứt áo nguyên nhung (Phan Thiết 72)

Page 105: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

178 178

Trần Miên Trường Khi về thăm tòa soạn Chiều qua phố lạ – Sàigòn Chân ngơ ngác bởi mình còn chưa quen Từ xưa hẹn với chim Quyên Một ngày nào đó Trần Miên Trường về Thăm anh trong nắng vàng hoe Hẹn xưa chừ rộn trên lề bước chân Phong sương nên cũng ngại ngần Ba mươi tám đó Kỳ Đồng ở đây Gió rong hạt nắng vàng cây Buổi chiều trời đuổi mây bay ngút ngàn Mình từ biển núi quan san Theo chân đơn vị hành quân đêm ngày Hai mươi bốn tiếng cầm tay Miền xa đi phép thăm ai bây giờ Từ ngày khói lửa ven đô Ngỡ rằng thôi hết ước mơ trong hồn Chừ con lộ nhỏ Kỳ Đồng Mình về nhận diện vườn hồng Tuổi Hoa Gác chuông thánh thót hiền hòa Ý uyên nguyên đậm nét ngà ngọc ai Rằn ri xóm đạo lạc loài Mình nao nao bước tóc tai bồi hồi Nụ cười chợt nở trên môi Chim Quyên ngậm nắng bên trời cánh mây *

Trần Miên Trường Khi về thăm tòa soạn Chiều qua phố lạ – Sàigòn Chân ngơ ngác bởi mình còn chưa quen Từ xưa hẹn với chim Quyên Một ngày nào đó Trần Miên Trường về Thăm anh trong nắng vàng hoe Hẹn xưa chừ rộn trên lề bước chân Phong sương nên cũng ngại ngần Ba mươi tám đó Kỳ Đồng ở đây Gió rong hạt nắng vàng cây Buổi chiều trời đuổi mây bay ngút ngàn Mình từ biển núi quan san Theo chân đơn vị hành quân đêm ngày Hai mươi bốn tiếng cầm tay Miền xa đi phép thăm ai bây giờ Từ ngày khói lửa ven đô Ngỡ rằng thôi hết ước mơ trong hồn Chừ con lộ nhỏ Kỳ Đồng Mình về nhận diện vườn hồng Tuổi Hoa Gác chuông thánh thót hiền hòa Ý uyên nguyên đậm nét ngà ngọc ai Rằn ri xóm đạo lạc loài Mình nao nao bước tóc tai bồi hồi Nụ cười chợt nở trên môi Chim Quyên ngậm nắng bên trời cánh mây *

Page 106: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

179 179

Mặt trời lịm tắt về tây Gió rền rĩ chết bên này non cao Chia tay nhau hẹn mai sau Oanh vàng rộn tiếng xôn xao trên cành Và quê hương đẹp thanh bình Tuổi Hoa sống mãi cho mình về thăm Chiều qua phố lạ một lần Rồi mai mốt lại phong trần kiếp trai TRẦN MIÊN TRƯỜNG (Tuổi Hoa số 95, ra ngày 15-9-1968) Xuân Thao Nghe chuông Trà Kiệu Tới đây mới thấy rằng buồn Đời thôi còn lại hồi chuông võ vàng Một tay ôm chặt lấy thân Một tay níu Chúa, thiên đàng gần chưa ? Chiều rơi từng hạt lưa thưa Tôi nhai từng sợi buồn chua chát lòng Giáo đường nến thắp song song Cũng không đủ ấm cõi lòng người qua Nắng theo ngày vội xế tà Bóng theo thân đổ cõi xa mịt mù Từng tràng súng dội thiên thu Từng hồi chuông đổ khiến u uất lòng Tay làm dấu thánh phân vân Tôi buồn hơn mắt của nàng nữ tu

Mặt trời lịm tắt về tây Gió rền rĩ chết bên này non cao Chia tay nhau hẹn mai sau Oanh vàng rộn tiếng xôn xao trên cành Và quê hương đẹp thanh bình Tuổi Hoa sống mãi cho mình về thăm Chiều qua phố lạ một lần Rồi mai mốt lại phong trần kiếp trai TRẦN MIÊN TRƯỜNG (Tuổi Hoa số 95, ra ngày 15-9-1968) Xuân Thao Nghe chuông Trà Kiệu Tới đây mới thấy rằng buồn Đời thôi còn lại hồi chuông võ vàng Một tay ôm chặt lấy thân Một tay níu Chúa, thiên đàng gần chưa ? Chiều rơi từng hạt lưa thưa Tôi nhai từng sợi buồn chua chát lòng Giáo đường nến thắp song song Cũng không đủ ấm cõi lòng người qua Nắng theo ngày vội xế tà Bóng theo thân đổ cõi xa mịt mù Từng tràng súng dội thiên thu Từng hồi chuông đổ khiến u uất lòng Tay làm dấu thánh phân vân Tôi buồn hơn mắt của nàng nữ tu

Page 107: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

180 180

Viết về chủ đề Ba Lô Mang Thêm Hồn Thơ Văn Ng.~ THƠ A-LÔ, VÀ THƠ (hí luận)

Xin thưa trước, rằng bài viết này không phải là bài nhận định văn học, càng không phải là sơ thảo một giai đoạn văn học trong thời kỳ đất nước phân chia hai miền và bắt đầu lao vào cuộc nội chiến đẫm máu nhất, đau thương nhất của dân tộc, mà chỉ dưới góc nhìn của một bài hí luận. Cũng có thể coi đây, như những cảm xúc chân thật của một người cầm bút khi đọc những tác phẩm văn học miền Nam trước 75, trong giới hạn của những người viết trẻ thời bấy giờ, với tâm trạng của số đông thanh niên đang “bị đẩy lên tàu”, cứ lầm lũi bước tới mà không biết đích đến là đâu! Thật ra, ngoài những nhà chính trị, còn lại hầu hết mọi người dân kể cả thanh niên, trí thức thời đó đều mong muốn có được một đất nước tự do, độc lập thật sự, sau khi giành được chủ quyền từ tay thực dân; bởi hơn một thế kỷ, cha ông đã đổ quá nhiều xương máu, nhưng đó lại là sự hy sinh cao cả, đáng trân trọng và tự hào của cả dân tộc. Nhưng đến cuộc chiến tương tàn từ 1954-1975, thực chất là cuộc thử nghiệm vũ khí, tranh giành ảnh hưởng khu vực của ngoại bang, thì nhà cầm quyền ở hai miền không có quyền chọn lựa con đường đi đúng đắn cho đất nước. Tuy nhiên, phía đàng ngoài là thể chế độc đảng độc tài, do vậy người cầm bút chỉ là bầy vẹt được thuần dưỡng trong lồng sắt, thế tất phải sản sinh ra nền văn nghệ cung đình: Mọi cảm xúc thật giả đều cài trên nòng súng với lòng căm thù, với tất cả những ai chống lại họ; trong khi đó, đàng trong ít nhiều có chút tự do để người nghệ sĩ tha hồ bày tỏ thái độ và tình cảm chân thật trước ngòi bút và họ chịu trách

Viết về chủ đề Ba Lô Mang Thêm Hồn Thơ Văn Ng.~ THƠ A-LÔ, VÀ THƠ (hí luận)

Xin thưa trước, rằng bài viết này không phải là bài nhận định văn học, càng không phải là sơ thảo một giai đoạn văn học trong thời kỳ đất nước phân chia hai miền và bắt đầu lao vào cuộc nội chiến đẫm máu nhất, đau thương nhất của dân tộc, mà chỉ dưới góc nhìn của một bài hí luận. Cũng có thể coi đây, như những cảm xúc chân thật của một người cầm bút khi đọc những tác phẩm văn học miền Nam trước 75, trong giới hạn của những người viết trẻ thời bấy giờ, với tâm trạng của số đông thanh niên đang “bị đẩy lên tàu”, cứ lầm lũi bước tới mà không biết đích đến là đâu! Thật ra, ngoài những nhà chính trị, còn lại hầu hết mọi người dân kể cả thanh niên, trí thức thời đó đều mong muốn có được một đất nước tự do, độc lập thật sự, sau khi giành được chủ quyền từ tay thực dân; bởi hơn một thế kỷ, cha ông đã đổ quá nhiều xương máu, nhưng đó lại là sự hy sinh cao cả, đáng trân trọng và tự hào của cả dân tộc. Nhưng đến cuộc chiến tương tàn từ 1954-1975, thực chất là cuộc thử nghiệm vũ khí, tranh giành ảnh hưởng khu vực của ngoại bang, thì nhà cầm quyền ở hai miền không có quyền chọn lựa con đường đi đúng đắn cho đất nước. Tuy nhiên, phía đàng ngoài là thể chế độc đảng độc tài, do vậy người cầm bút chỉ là bầy vẹt được thuần dưỡng trong lồng sắt, thế tất phải sản sinh ra nền văn nghệ cung đình: Mọi cảm xúc thật giả đều cài trên nòng súng với lòng căm thù, với tất cả những ai chống lại họ; trong khi đó, đàng trong ít nhiều có chút tự do để người nghệ sĩ tha hồ bày tỏ thái độ và tình cảm chân thật trước ngòi bút và họ chịu trách

Page 108: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

181 181

nhiệm về những gì họ viết. Vì, nếu không, thì tại sao lại có những tờ báo như Tin Văn, Thái Độ, Đối Diện… bên cạnh những Sáng Tạo, Văn Nghệ, Hiện Đại, Văn, Bách Khoa, Văn Học, Thời Tập, Nghệ Thuật, Tiếng Nói…? Thời đó, không ai là không biết đến thái độ và hành vi chọn lựa của Lữ Phương, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Chân Tín hay Trương Bá Cần…? Nhưng trong giới cầm bút không ai buồn đá động đến những thái độ và hành vi đó, bởi điều xác tín với người cầm bút là sự trong sáng của lương tri, dẫu là phe này hay phái nọ, miễn sao những gì họ sáng tạo nhằm hướng tới cái Đẹp; trong khi, sau ngày tan rã, trên khắp cả nước, một sự trả thù ấu trĩ thời Trung cổ được dựng lên cho tất cả những người cầm bút đàng trong. Và, sau đó là hàng loạt những quyển sách được tung ra, nhằm tuyên truyền, triệt tiêu mọi thành tựu văn học nghệ thuật miền Nam mà họ gọi là nọc độc, nô dịch, phản động, đồi trụy… để, duy nhất chỉ có nền văn học giải phóng là chính danh, đại diện cho một nửa đất nước. Những Trần Trọng Đăng Đàn, Đỗ Đức Hiểu, Lê Đình Kỵ, Như Phong… đã thẳng tay dập nát mọi thành tựu văn học nghệ thuật ở phần đất tự do sáng tạo, và thay thế vào đó là những tên tuổi “sáng tác theo đường một chiều”, mang tính chất khẩu hiệu hô hào nhiều hơn tính nghệ thuật. Dĩ nhiên là độc giả, không mấy ai để mắt hay biết đến họ! Đến ngay cả Vũ Hạnh, người sống trong lòng “địch”, hiểu rõ mọi hoạt động sáng tác cũng như giá trị nhân văn trong các tác phẩm văn học nghệ thuật miền Nam, đã bỏ ra khá nhiều công sức, cố bới móc các nội dung, chi tiết ở các tác phẩm văn học miền Nam, trên cương lĩnh văn nghệ phục vụ cho chính trị, nhân sinh quan marxisme trong một tập sách lên án các bạn văn cùng thời, và ông gọi đó là những tên biệt kích Mỹ-Ngụy để điểm mặt anh em cầm bút như Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ… Sau này, nhà phê bình Thụy Khuê đã đánh giá lại sự trong sạch của một thời kỳ văn học giải phóng được bọc đường tẩm độc: “…có thể nói, nền "Văn học giải phóng miền Nam" đã được xây dựng trên những tên tuổi trá hình; là một nền văn học "giả" được "dựng" nên để

nhiệm về những gì họ viết. Vì, nếu không, thì tại sao lại có những tờ báo như Tin Văn, Thái Độ, Đối Diện… bên cạnh những Sáng Tạo, Văn Nghệ, Hiện Đại, Văn, Bách Khoa, Văn Học, Thời Tập, Nghệ Thuật, Tiếng Nói…? Thời đó, không ai là không biết đến thái độ và hành vi chọn lựa của Lữ Phương, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Chân Tín hay Trương Bá Cần…? Nhưng trong giới cầm bút không ai buồn đá động đến những thái độ và hành vi đó, bởi điều xác tín với người cầm bút là sự trong sáng của lương tri, dẫu là phe này hay phái nọ, miễn sao những gì họ sáng tạo nhằm hướng tới cái Đẹp; trong khi, sau ngày tan rã, trên khắp cả nước, một sự trả thù ấu trĩ thời Trung cổ được dựng lên cho tất cả những người cầm bút đàng trong. Và, sau đó là hàng loạt những quyển sách được tung ra, nhằm tuyên truyền, triệt tiêu mọi thành tựu văn học nghệ thuật miền Nam mà họ gọi là nọc độc, nô dịch, phản động, đồi trụy… để, duy nhất chỉ có nền văn học giải phóng là chính danh, đại diện cho một nửa đất nước. Những Trần Trọng Đăng Đàn, Đỗ Đức Hiểu, Lê Đình Kỵ, Như Phong… đã thẳng tay dập nát mọi thành tựu văn học nghệ thuật ở phần đất tự do sáng tạo, và thay thế vào đó là những tên tuổi “sáng tác theo đường một chiều”, mang tính chất khẩu hiệu hô hào nhiều hơn tính nghệ thuật. Dĩ nhiên là độc giả, không mấy ai để mắt hay biết đến họ! Đến ngay cả Vũ Hạnh, người sống trong lòng “địch”, hiểu rõ mọi hoạt động sáng tác cũng như giá trị nhân văn trong các tác phẩm văn học nghệ thuật miền Nam, đã bỏ ra khá nhiều công sức, cố bới móc các nội dung, chi tiết ở các tác phẩm văn học miền Nam, trên cương lĩnh văn nghệ phục vụ cho chính trị, nhân sinh quan marxisme trong một tập sách lên án các bạn văn cùng thời, và ông gọi đó là những tên biệt kích Mỹ-Ngụy để điểm mặt anh em cầm bút như Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ… Sau này, nhà phê bình Thụy Khuê đã đánh giá lại sự trong sạch của một thời kỳ văn học giải phóng được bọc đường tẩm độc: “…có thể nói, nền "Văn học giải phóng miền Nam" đã được xây dựng trên những tên tuổi trá hình; là một nền văn học "giả" được "dựng" nên để

Page 109: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

182 182

thay thế một nền văn học thật, đã bị xoá bỏ. Hiện trạng lấy giả xoá thật này, vẫn còn tồn tại trong sinh hoạt văn học chính thức và trong giáo dục học đường hiện nay ở Việt Nam”. (Thụy Khuê, Văn học miền Nam). Nhắc lại một chút sinh hoạt văn nghệ trong bối cảnh cuộc nội chiến bằng súng đạn vừa chấm dứt, thay thế bằng cuộc chiến thanh trừng, bôi đen và bức tử các tác phẩm văn chương cùng chủ nhân của chúng, để phần nào hiểu được bản chất của sự áp đặt, bôi nhọ, xóa bỏ một cách thô bạo của chế độ! Vậy thì, chân dung của nền văn học thật ấy là gì? Có thể tóm tắt trong mấy từ: Tự do sáng tạo, không bị chính trị xỏ mũi chỉ đường, nhà văn không hề khúm núm theo kiểu bầy tôi cung đình cúi rạp người trước lãnh chúa, ngòi bút không hề bị bẻ cong… Tóm lại là họ có toàn quyền viết ra những cảm xúc, suy nghĩ chân thật nhất, trong đó có thể có những nội dung chống đối, phản chiến, để sau đó, công việc đánh giá, thẩm định tác phẩm lại thuộc về độc giả và nhà phê bình chứ không phải ban này hay tổ chức nọ làm cái công việc bới lông tìm vết. Năm 1964, chiến tranh bắt đầu bùng phát dữ dội. Hàng hàng, lớp lớp thanh niên phải rời bỏ ruộng đồng, nhà trường, công sở… ra chiến trận. Họ là những lớp người trẻ tuổi, nhưng khác người xưa ở chỗ không phải là chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung mà là bắt buộc phải lên đường. Ý thức tham chiến không rõ rệt, nhưng dễ dàng nhận thấy nhất ở họ là những tâm trạng thất vọng, chán chường đến độ phi lý khi họ phải đối mặt với đối phương vốn dĩ trước đây là bạn bè cùng xóm, ngồi cùng lớp; bi thảm hơn là cha con, anh em giương súng vào nhau. Họ ra trận với lòng hoài nghi về tính chất lương thiện, sự vô nghĩa của chiến tranh, để “tà tà rong chơi” trong một tâm thế tiêu cực như trường hợp Luân Hoán: Súng lận lưng quần cho có chuyện Mắt đầy cỏ lá hồn đầy thơ. Những câu thơ như vậy của một chiến binh thực thụ trên

thay thế một nền văn học thật, đã bị xoá bỏ. Hiện trạng lấy giả xoá thật này, vẫn còn tồn tại trong sinh hoạt văn học chính thức và trong giáo dục học đường hiện nay ở Việt Nam”. (Thụy Khuê, Văn học miền Nam). Nhắc lại một chút sinh hoạt văn nghệ trong bối cảnh cuộc nội chiến bằng súng đạn vừa chấm dứt, thay thế bằng cuộc chiến thanh trừng, bôi đen và bức tử các tác phẩm văn chương cùng chủ nhân của chúng, để phần nào hiểu được bản chất của sự áp đặt, bôi nhọ, xóa bỏ một cách thô bạo của chế độ! Vậy thì, chân dung của nền văn học thật ấy là gì? Có thể tóm tắt trong mấy từ: Tự do sáng tạo, không bị chính trị xỏ mũi chỉ đường, nhà văn không hề khúm núm theo kiểu bầy tôi cung đình cúi rạp người trước lãnh chúa, ngòi bút không hề bị bẻ cong… Tóm lại là họ có toàn quyền viết ra những cảm xúc, suy nghĩ chân thật nhất, trong đó có thể có những nội dung chống đối, phản chiến, để sau đó, công việc đánh giá, thẩm định tác phẩm lại thuộc về độc giả và nhà phê bình chứ không phải ban này hay tổ chức nọ làm cái công việc bới lông tìm vết. Năm 1964, chiến tranh bắt đầu bùng phát dữ dội. Hàng hàng, lớp lớp thanh niên phải rời bỏ ruộng đồng, nhà trường, công sở… ra chiến trận. Họ là những lớp người trẻ tuổi, nhưng khác người xưa ở chỗ không phải là chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung mà là bắt buộc phải lên đường. Ý thức tham chiến không rõ rệt, nhưng dễ dàng nhận thấy nhất ở họ là những tâm trạng thất vọng, chán chường đến độ phi lý khi họ phải đối mặt với đối phương vốn dĩ trước đây là bạn bè cùng xóm, ngồi cùng lớp; bi thảm hơn là cha con, anh em giương súng vào nhau. Họ ra trận với lòng hoài nghi về tính chất lương thiện, sự vô nghĩa của chiến tranh, để “tà tà rong chơi” trong một tâm thế tiêu cực như trường hợp Luân Hoán: Súng lận lưng quần cho có chuyện Mắt đầy cỏ lá hồn đầy thơ. Những câu thơ như vậy của một chiến binh thực thụ trên

Page 110: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

183 183

chiến trường quả là khó chấp nhận khi đối mặt với quân kỷ. Nhưng thật ra, quân kỷ nào cấm một chiến binh tự dập tắt những giây phút lãng mạn, mơ mộng trong phút chốc, khi mà tâm hồn đang thăng hoa? Trong khi đó, nền văn nghệ “giả” lại sản sinh ra những câu không phải là thơ mà như vè, cốt làm dấy lên lòng hận thù, hô hào chém giết: Con sẽ mài thơ như kiếm sắc Chặt đầu văn nghệ tay sai (Chánh Sử) Và để minh họa cho lòng thù hận kia, ông Phạm Văn Sĩ tán thêm: “Chánh Sử nói lên được ý thức dân tộc lành mạnh của lớp trẻ ở Sài Gòn, căm ghét thứ văn nghệ tay sai cũng như căm ghét bọn tay sai” (Phạm Văn Sĩ, Văn học giải phóng miền Nam, nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN 1976, trg 440). Chẳng độc giả nào biết Chánh Sử là ai, có thể là chánh trị viên đại đội, tiểu đoàn… cũng có thể là anh chàng thi sĩ quần chúng, ta chẳng chấp. Nhưng đến Thu Bồn trong Bài Ca Chim Chơ Rao lại có mấy câu như thế này, thì quả thật cái nền văn nghệ “giả” kia đã tự lột bỏ những tấm lòng trong sáng, hồn nhiên của tuổi thanh xuân để thay thế bằng những đầm đìa máu me và sướng vui rợn lên cùng với màu máu đỏ: Người vác giáo đi như vác những ngọn đèn Những ngọn đèn gió mưa không bao giờ tắt Có máu quân thù làm sáng thêm. Hay như trong bài thơ Các Anh Bay Lên Rồi, Thanh Hải đã viết những câu không xuất phát từ trái tim chân thật và nhân hậu: Mơ ước bốn nghìn năm Dù ước mơ rất đẹp Mẹ hỡi chắt chiu đâu biết có ngày nay Ta đánh quân thù trên cả chín tầng mây Như Đại Thánh đằng vân diệt bầy quỷ dữ. Có thật đây là những câu thơ làm lay động lòng người? Hay, lại như ông Phạm Văn Sĩ lên gân chính trị đánh bóng: “Thơ Thanh Hải là thơ thời sự. Và những câu chuyện thời sự miền Nam nào một khi đã in đậm vào lòng nhà thơ thì nó đến với người đọc như những tiếng nói yêu thương…”

chiến trường quả là khó chấp nhận khi đối mặt với quân kỷ. Nhưng thật ra, quân kỷ nào cấm một chiến binh tự dập tắt những giây phút lãng mạn, mơ mộng trong phút chốc, khi mà tâm hồn đang thăng hoa? Trong khi đó, nền văn nghệ “giả” lại sản sinh ra những câu không phải là thơ mà như vè, cốt làm dấy lên lòng hận thù, hô hào chém giết: Con sẽ mài thơ như kiếm sắc Chặt đầu văn nghệ tay sai (Chánh Sử) Và để minh họa cho lòng thù hận kia, ông Phạm Văn Sĩ tán thêm: “Chánh Sử nói lên được ý thức dân tộc lành mạnh của lớp trẻ ở Sài Gòn, căm ghét thứ văn nghệ tay sai cũng như căm ghét bọn tay sai” (Phạm Văn Sĩ, Văn học giải phóng miền Nam, nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN 1976, trg 440). Chẳng độc giả nào biết Chánh Sử là ai, có thể là chánh trị viên đại đội, tiểu đoàn… cũng có thể là anh chàng thi sĩ quần chúng, ta chẳng chấp. Nhưng đến Thu Bồn trong Bài Ca Chim Chơ Rao lại có mấy câu như thế này, thì quả thật cái nền văn nghệ “giả” kia đã tự lột bỏ những tấm lòng trong sáng, hồn nhiên của tuổi thanh xuân để thay thế bằng những đầm đìa máu me và sướng vui rợn lên cùng với màu máu đỏ: Người vác giáo đi như vác những ngọn đèn Những ngọn đèn gió mưa không bao giờ tắt Có máu quân thù làm sáng thêm. Hay như trong bài thơ Các Anh Bay Lên Rồi, Thanh Hải đã viết những câu không xuất phát từ trái tim chân thật và nhân hậu: Mơ ước bốn nghìn năm Dù ước mơ rất đẹp Mẹ hỡi chắt chiu đâu biết có ngày nay Ta đánh quân thù trên cả chín tầng mây Như Đại Thánh đằng vân diệt bầy quỷ dữ. Có thật đây là những câu thơ làm lay động lòng người? Hay, lại như ông Phạm Văn Sĩ lên gân chính trị đánh bóng: “Thơ Thanh Hải là thơ thời sự. Và những câu chuyện thời sự miền Nam nào một khi đã in đậm vào lòng nhà thơ thì nó đến với người đọc như những tiếng nói yêu thương…”

Page 111: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

184 184

(SĐD, trg 168). Đấy, cái nền văn nghệ “giả” thêm vào loại “thơ thời sự” bên cạnh dòng thơ lãng mạn, thơ tự do, siêu thực, và tự hào về loại thơ khẩu hiệu này! Lướt qua thế giới thi ca, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây loại “thơ cưỡng hiếp” này không có chỗ đứng. Đơn giản, nó không phải là thơ! Và với Lê Anh Xuân thì lại có những câu ngô nghê đến độ không thể chấp nhận nó đáng ngồi vào chiếu thơ: Hà Nội ơi! Hà Nội ơi! Một sắc trời thu kỳ diệu của Người Cũng giúp miền Nam đánh lui bóng tối Một giọng nói phát đi từ Hà Nội Đã thành chân lý đuổi quỷ ma Một đêm Hồ Tây dìu dịu đường hoa Đủ đánh tan hàng triệu đô-la Mỹ. Dẫn ra một chút như vậy để thấy được rằng, đó là tất cả những gì mà họ gọi là những thành tựu xuất sắc của nền văn học giải phóng miền Nam?! Trong khi đó, phía đàng trong, chưa hề có nhà thơ nhà văn nào hạ bút viết những câu ngô nghê đến vậy, ca ngợi ông Thiệu, Mỹ đến vậy. Và cũng chưa có nhà phê bình văn học nào hạ bút tán tụng sự cẩu thả, ấu trĩ, non nớt của loại văn chương a-lô, cổ động cả. Nhìn về “kẻ thù” thì phía đàng ngoài phân biệt ta địch rạch ròi với “lòng căm thù sâu sắc” và phải “nhắm thẳng đầu thù mà bắn”, rồi lại dẫn dắt cả bầy súc vật, côn trùng “ong đánh Mỹ, trâu đánh Mỹ” vào nữa… Còn nữa, hễ cứ mô tả người lính miền Nam thì lúc nào cũng cướp của, giết người, hãm hiếp, đốt nhà không hề run tay! Trong khi đó, người lính miền Nam nghĩ gì và viết gì về đối phương? Hãy đọc lại bài Nghinh Địch Hành của Hà Thúc Sinh: Giao thừa đâu mà vội/ Hãy khoan đã chú mày/ Cứ đóng xa vài dặm/ Mà ăn uống cho say Ta cũng người như chú/ Cũng nhỏ bé trong đời/ Có núi sông trong bụng/ Mà bất lực hôm nay Chiến chinh trời cũng sợ/ Chỉ còn lại hai bên/ Vội vàng chi cho cực/ Cứ thong thả nghỉ đêm Vì nói thật cùng chú/ Trăm năm có là bao/ Binh đao sao

(SĐD, trg 168). Đấy, cái nền văn nghệ “giả” thêm vào loại “thơ thời sự” bên cạnh dòng thơ lãng mạn, thơ tự do, siêu thực, và tự hào về loại thơ khẩu hiệu này! Lướt qua thế giới thi ca, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây loại “thơ cưỡng hiếp” này không có chỗ đứng. Đơn giản, nó không phải là thơ! Và với Lê Anh Xuân thì lại có những câu ngô nghê đến độ không thể chấp nhận nó đáng ngồi vào chiếu thơ: Hà Nội ơi! Hà Nội ơi! Một sắc trời thu kỳ diệu của Người Cũng giúp miền Nam đánh lui bóng tối Một giọng nói phát đi từ Hà Nội Đã thành chân lý đuổi quỷ ma Một đêm Hồ Tây dìu dịu đường hoa Đủ đánh tan hàng triệu đô-la Mỹ. Dẫn ra một chút như vậy để thấy được rằng, đó là tất cả những gì mà họ gọi là những thành tựu xuất sắc của nền văn học giải phóng miền Nam?! Trong khi đó, phía đàng trong, chưa hề có nhà thơ nhà văn nào hạ bút viết những câu ngô nghê đến vậy, ca ngợi ông Thiệu, Mỹ đến vậy. Và cũng chưa có nhà phê bình văn học nào hạ bút tán tụng sự cẩu thả, ấu trĩ, non nớt của loại văn chương a-lô, cổ động cả. Nhìn về “kẻ thù” thì phía đàng ngoài phân biệt ta địch rạch ròi với “lòng căm thù sâu sắc” và phải “nhắm thẳng đầu thù mà bắn”, rồi lại dẫn dắt cả bầy súc vật, côn trùng “ong đánh Mỹ, trâu đánh Mỹ” vào nữa… Còn nữa, hễ cứ mô tả người lính miền Nam thì lúc nào cũng cướp của, giết người, hãm hiếp, đốt nhà không hề run tay! Trong khi đó, người lính miền Nam nghĩ gì và viết gì về đối phương? Hãy đọc lại bài Nghinh Địch Hành của Hà Thúc Sinh: Giao thừa đâu mà vội/ Hãy khoan đã chú mày/ Cứ đóng xa vài dặm/ Mà ăn uống cho say Ta cũng người như chú/ Cũng nhỏ bé trong đời/ Có núi sông trong bụng/ Mà bất lực hôm nay Chiến chinh trời cũng sợ/ Chỉ còn lại hai bên/ Vội vàng chi cho cực/ Cứ thong thả nghỉ đêm Vì nói thật cùng chú/ Trăm năm có là bao/ Binh đao sao

Page 112: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

185 185

biết được/ Sinh tử ở nơi nào Nếu chú có cha mẹ/ Ta chẳng những người thân/ Còn mang thêm lắm nợ/ Với rượu và gió trăng Chú cứ ăn cho đủ/ Mai chết sẽ chết no/ Ta cũng cần đêm cuối/ Từ giã gió trăng xưa Có một nhà thơ “giải phóng” nào có được những câu thơ như vậy để có thể tự hào về tính nhân bản thấm sâu vào tâm hồn anh lính chiến, như cái cách người lính miền Nam ra chiến trường với “ba lô mang thêm hồn thơ văn” như Nguyễn Phúc Sông Hương và những chiến binh khác của miền Nam không? ...Vọng tiếng tù và vang dưới lũng Chắc là địch lạc thổi tìm quân. Đỉnh cao ta chẳng cần gọi pháo Để cho người sống trọn đêm rằm. Cũng cái cách đối mặt với đối phương trong một khoảng không gian và thời gian lãng mạn của tuổi trẻ, Trần Hoài Thư cũng có một chi tiết nhỏ tương tự như vậy trong truyện ngắn có tựa Viễn Thám: “Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu (...) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam.... Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc, lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu" (Viễn Thám). Cái gọi là nền văn học giải phóng miền Nam giải thích như thế nào về các hành động của đối phương khi thả mỹ nhân, để cho người sống trọn đêm rằm hay người lính đã không bắn khi nghe tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc…? Tôi nghĩ các ngài ở cục R. các chính ủy, các ban, các bệ của MTDTGPMN phải tìm cho ra các tên “tay sai bán nước” kia mà tặng huy chương, huân chương cho họ, bởi họ đã làm lợi cho quân giải

biết được/ Sinh tử ở nơi nào Nếu chú có cha mẹ/ Ta chẳng những người thân/ Còn mang thêm lắm nợ/ Với rượu và gió trăng Chú cứ ăn cho đủ/ Mai chết sẽ chết no/ Ta cũng cần đêm cuối/ Từ giã gió trăng xưa Có một nhà thơ “giải phóng” nào có được những câu thơ như vậy để có thể tự hào về tính nhân bản thấm sâu vào tâm hồn anh lính chiến, như cái cách người lính miền Nam ra chiến trường với “ba lô mang thêm hồn thơ văn” như Nguyễn Phúc Sông Hương và những chiến binh khác của miền Nam không? ...Vọng tiếng tù và vang dưới lũng Chắc là địch lạc thổi tìm quân. Đỉnh cao ta chẳng cần gọi pháo Để cho người sống trọn đêm rằm. Cũng cái cách đối mặt với đối phương trong một khoảng không gian và thời gian lãng mạn của tuổi trẻ, Trần Hoài Thư cũng có một chi tiết nhỏ tương tự như vậy trong truyện ngắn có tựa Viễn Thám: “Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu (...) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam.... Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc, lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu" (Viễn Thám). Cái gọi là nền văn học giải phóng miền Nam giải thích như thế nào về các hành động của đối phương khi thả mỹ nhân, để cho người sống trọn đêm rằm hay người lính đã không bắn khi nghe tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc…? Tôi nghĩ các ngài ở cục R. các chính ủy, các ban, các bệ của MTDTGPMN phải tìm cho ra các tên “tay sai bán nước” kia mà tặng huy chương, huân chương cho họ, bởi họ đã làm lợi cho quân giải

Page 113: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

186 186

phóng bằng cách làm thơ tuyên truyền không công cho “cách mạng”. Chính cái sự nhồi nhét, chính trị hóa văn học nghệ thuật đã biến cho dòng văn chương ấy không có hồn, không có trái tim, chẳng thể cảm nhận được cái đẹp ngoại giới chỉ vì hệ thần kinh mẫn cảm với cái đẹp trong đầu họ đã bị tê liệt, bị thay thế! Và rồi, bên cạnh các nhà văn, nhà thơ cách mạng giải phóng, còn có hàng chục thi sĩ trốn lính, mà cũng không có gan lên rừng gia nhập giải phóng quân, thì lại dùng loại ngôn ngữ khẩu hiệu để sáng tác thơ. Họ gào rống còn mạnh hơn cả hệ thống tuyên truyền của mặt trận: Mỗi tiếng hát lên đường, một mũi dao đâm Tất cả hôm nay vững bền như núi thép Đạp đầu quân bán nước xông lên Trước mũi lưỡi lê tiếp lời ca chị Sáu Trước họng súng hung tàn sôi sục máu anh Ơn Đất nước lừng thơm ngày ta khôn lớn Tiếng loa truyền sấm chớp bủa từng cơn (Trần Phá Nhạc, Chúng ta đứng lên chung một tuyến hào, Đối Diện số 36, tháng 6/1972). Sự thô thiển trong cấu, tứ như trên có thể liệt kê dài hàng ngàn cây số, nhưng với những nhà phê bình văn học “lỗi lạc” như Đăng Đàn, Lê Đình Kỵ, Như Phong… thì đó là sự góp phần làm rực rỡ nền văn học giải phóng! Trái với dòng văn học này, các nhà văn nhà thơ thuộc lớp trẻ ở khoảng nửa thập niên 60 và đầu những năm 70, tuy không có hội đoàn, tổ chức đứng bên cạnh “cầm tay sáng tác”, nhưng tất cả đã mở được cửa trái tim để ngắm cái đẹp trong chốc lát từ đối phương, giữa lúc đạn đã lên nòng, như nhà thơ mặc áo lính TQLC Linh Phương: Chiều qua sém chết vì viên đạn/ Du kích bên sông bắn tỉa hù/ Cũng may gặp phải thằng cà chớn/ Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô. Nhớ hôm bắt được em Việt cộng/ Xinh đẹp như con gái Sài Gòn/ Ta nổi máu giang hồ hảo hán/ Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân. Mai mốt này đây nơi trận tuyến/ Gặp ta em bắn chớ ngại

phóng bằng cách làm thơ tuyên truyền không công cho “cách mạng”. Chính cái sự nhồi nhét, chính trị hóa văn học nghệ thuật đã biến cho dòng văn chương ấy không có hồn, không có trái tim, chẳng thể cảm nhận được cái đẹp ngoại giới chỉ vì hệ thần kinh mẫn cảm với cái đẹp trong đầu họ đã bị tê liệt, bị thay thế! Và rồi, bên cạnh các nhà văn, nhà thơ cách mạng giải phóng, còn có hàng chục thi sĩ trốn lính, mà cũng không có gan lên rừng gia nhập giải phóng quân, thì lại dùng loại ngôn ngữ khẩu hiệu để sáng tác thơ. Họ gào rống còn mạnh hơn cả hệ thống tuyên truyền của mặt trận: Mỗi tiếng hát lên đường, một mũi dao đâm Tất cả hôm nay vững bền như núi thép Đạp đầu quân bán nước xông lên Trước mũi lưỡi lê tiếp lời ca chị Sáu Trước họng súng hung tàn sôi sục máu anh Ơn Đất nước lừng thơm ngày ta khôn lớn Tiếng loa truyền sấm chớp bủa từng cơn (Trần Phá Nhạc, Chúng ta đứng lên chung một tuyến hào, Đối Diện số 36, tháng 6/1972). Sự thô thiển trong cấu, tứ như trên có thể liệt kê dài hàng ngàn cây số, nhưng với những nhà phê bình văn học “lỗi lạc” như Đăng Đàn, Lê Đình Kỵ, Như Phong… thì đó là sự góp phần làm rực rỡ nền văn học giải phóng! Trái với dòng văn học này, các nhà văn nhà thơ thuộc lớp trẻ ở khoảng nửa thập niên 60 và đầu những năm 70, tuy không có hội đoàn, tổ chức đứng bên cạnh “cầm tay sáng tác”, nhưng tất cả đã mở được cửa trái tim để ngắm cái đẹp trong chốc lát từ đối phương, giữa lúc đạn đã lên nòng, như nhà thơ mặc áo lính TQLC Linh Phương: Chiều qua sém chết vì viên đạn/ Du kích bên sông bắn tỉa hù/ Cũng may gặp phải thằng cà chớn/ Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô. Nhớ hôm bắt được em Việt cộng/ Xinh đẹp như con gái Sài Gòn/ Ta nổi máu giang hồ hảo hán/ Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân. Mai mốt này đây nơi trận tuyến/ Gặp ta em bắn chớ ngại

Page 114: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

187 187

ngùng/ Cuộc chiến đâu dành cho nhân nghĩa/ Đời nào đạo lý với bao dung (Linh Phương – Hành quân). Sự nói phét, chửi tục ta có thể bắt gặp, đầy rẫy trong thơ thời chiến, nhưng nó vẫn mang đậm chất thơ, rất thơ chứ không hề là “thơ thời sự”, không hề là những câu chữ dung tục. Đó là sự bất chợt, ngẫu hứng vì một hình ảnh, âm thanh… đẹp bất chợt xuất hiện, có thể xóa mờ đi nỗi uất ức, lòng thù hận, tủi hờn. Các nhà thơ trẻ miền Nam làm thơ giữa trận mạc chưa hề thấy có câu thơ nào như những câu của nền văn học giải phóng dẫn ở trên. Họ có phẫn nộ đấy, có căm ghét đấy, nhưng là sự phẫn nộ căm ghét trở thành mẫu số chung cho cả lớp thanh niên tham chiến của hai miền, không có sự hằn học sắt máu. Và đôi khi, nó lại phơi bày một cách trần trụi cảnh sống đang xảy ra chung quanh, giữa một xã hội hổ lốn, lụn bại; một sự thật được bóc trần khiến người đọc ngậm ngùi, chua xót: Mấy năm trời giày da bẹt gót Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân Cám ơn những nàng má phấn môi son Yêu ta vội vàng trước khi tiếp Mỹ Con gái tiểu thư mơ toàn hoàng tử Còn ai chia dùm con rận hành quân …Em gái mười lăm đi làm đĩ Mỹ Thằng nhỏ mười ba học đòi sát ngụy Ma quỷ phương ngoài học xẻ Trường Sơn Đất nước ta, cường quốc bán buôn …Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết Có một nơi nào hơn ở Việt Nam Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam? (Trần Hoài Thư, Ta lính miền Nam). Sao lại là tay sai bán nước cho Mỹ mà lại dám chửi Mỹ thẳng mặt? Trong khi đó, lính giải phóng hay lính bắc phương có dám làm thơ chửi Liên Xô, Trung Cộng không nhỉ? Đây cũng là sự khác biệt giữ dòng thơ giả và dòng thơ thật. Và, để khắc họa chân dung người lính hai miền, không có bài thơ nào đầy đủ hơn, bi hài, bi tráng hơn bài Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi của Nguyễn Bắc Sơn. Xin chép

ngùng/ Cuộc chiến đâu dành cho nhân nghĩa/ Đời nào đạo lý với bao dung (Linh Phương – Hành quân). Sự nói phét, chửi tục ta có thể bắt gặp, đầy rẫy trong thơ thời chiến, nhưng nó vẫn mang đậm chất thơ, rất thơ chứ không hề là “thơ thời sự”, không hề là những câu chữ dung tục. Đó là sự bất chợt, ngẫu hứng vì một hình ảnh, âm thanh… đẹp bất chợt xuất hiện, có thể xóa mờ đi nỗi uất ức, lòng thù hận, tủi hờn. Các nhà thơ trẻ miền Nam làm thơ giữa trận mạc chưa hề thấy có câu thơ nào như những câu của nền văn học giải phóng dẫn ở trên. Họ có phẫn nộ đấy, có căm ghét đấy, nhưng là sự phẫn nộ căm ghét trở thành mẫu số chung cho cả lớp thanh niên tham chiến của hai miền, không có sự hằn học sắt máu. Và đôi khi, nó lại phơi bày một cách trần trụi cảnh sống đang xảy ra chung quanh, giữa một xã hội hổ lốn, lụn bại; một sự thật được bóc trần khiến người đọc ngậm ngùi, chua xót: Mấy năm trời giày da bẹt gót Ngày lãnh lương về chợ dưỡng quân Cám ơn những nàng má phấn môi son Yêu ta vội vàng trước khi tiếp Mỹ Con gái tiểu thư mơ toàn hoàng tử Còn ai chia dùm con rận hành quân …Em gái mười lăm đi làm đĩ Mỹ Thằng nhỏ mười ba học đòi sát ngụy Ma quỷ phương ngoài học xẻ Trường Sơn Đất nước ta, cường quốc bán buôn …Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết Có một nơi nào hơn ở Việt Nam Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam? (Trần Hoài Thư, Ta lính miền Nam). Sao lại là tay sai bán nước cho Mỹ mà lại dám chửi Mỹ thẳng mặt? Trong khi đó, lính giải phóng hay lính bắc phương có dám làm thơ chửi Liên Xô, Trung Cộng không nhỉ? Đây cũng là sự khác biệt giữ dòng thơ giả và dòng thơ thật. Và, để khắc họa chân dung người lính hai miền, không có bài thơ nào đầy đủ hơn, bi hài, bi tráng hơn bài Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi của Nguyễn Bắc Sơn. Xin chép

Page 115: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

188 188

nguyên văn để khép lại bài hí luận này và để cho các nhà phê bình văn học cách mạng giải phóng suy gẫm: Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời … Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic Kẻ thù ta ơi các ngài du kích Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo Hãy tránh xa ra ta xin tí điều Lúc này đây ta không thèm đánh giặc Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình Ăn muối đá mà điên say chiến đấu Ta vốn hiền khô ta là lính cậu Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo Xem cuộc chiến như tai trời ách nước Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí Lũ chúng ta sống một đời vô vị Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết Và máu xương làm phân bón rừng hoang (Tháng 9/2012)

nguyên văn để khép lại bài hí luận này và để cho các nhà phê bình văn học cách mạng giải phóng suy gẫm: Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời … Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic Kẻ thù ta ơi các ngài du kích Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo Hãy tránh xa ra ta xin tí điều Lúc này đây ta không thèm đánh giặc Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình Ăn muối đá mà điên say chiến đấu Ta vốn hiền khô ta là lính cậu Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo Xem cuộc chiến như tai trời ách nước Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí Lũ chúng ta sống một đời vô vị Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết Và máu xương làm phân bón rừng hoang (Tháng 9/2012)

Page 116: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

189 189

Di sản văn chương miền Nam Lời người sưu tầm: Bài trường thi này được trích từ thi phẩm Quê hương như một thánh tích, do Văn Uyển xuất bản tại SG năm 1969. Bài thơ được tác giả sáng tác trong vòng 2 năm (1967-1968) lúc chiến tranh đang leo thang, qua những trận đánh qui mô như Bình Giả, Đồng Xoài, An Lão… Có lẽ, vào thời điếm ấy, khi đọc bài thơ này, hiếm có ai hiểu được tại sao tác giả lại mang cả thảm kịch VN vào biển đông, trong khi bốn bề rừng núi biển cả đèo ải phong tỏa số phận người dân, trong khi những câu khẩu hiệu viết nguệch ngoạc của phe giải phóng trên tường vách ở Bình Định trong những vùng chúng tôi hành quân: Mỹ thua Mỹ còn chỗ để về, bạn thua bạn còn chỗ nào để về? Có phải bài thơ đã mang những điều dự báo có thật về một đất nước sau năm 1975, mà hầu hết người dân miền Nam như đâm đầu xuống biển Đông mà tự sát? . …Tháng của ngày dài nhất. Tháng khốn khổ vì tàn phá, tháng nuôi dưỡng bằng hy vọng. Tháng sửa soạn đổi đời, tháng hồi sanh bằng hôn lễ chúng tôi. …Thả chiếc thuyền hồn ngược dòng thế kỷ, thám hiểm miền đất ung thư lở lói, từng mảng lớn rụng rời chìm xuống đáy hư không. Desnos đã chết, đã chết rất xa dưới bầu trời quê hương… ... Đêm lười biếng, không than củi không một góc lửa hồng. Bóng tối chụp mũ lên những ngọn thông rình rập bước trở về của ánh trăng mạo hiểm… …Ngó suốt bốn chân trời mưa trải thảm sầu phủ trùm anh kín mặt. Có phải đây là lời tiên tri. Về một ngày cả miền Nam lao xuống biển đông mà tự sát? (THT)

Di sản văn chương miền Nam Lời người sưu tầm: Bài trường thi này được trích từ thi phẩm Quê hương như một thánh tích, do Văn Uyển xuất bản tại SG năm 1969. Bài thơ được tác giả sáng tác trong vòng 2 năm (1967-1968) lúc chiến tranh đang leo thang, qua những trận đánh qui mô như Bình Giả, Đồng Xoài, An Lão… Có lẽ, vào thời điếm ấy, khi đọc bài thơ này, hiếm có ai hiểu được tại sao tác giả lại mang cả thảm kịch VN vào biển đông, trong khi bốn bề rừng núi biển cả đèo ải phong tỏa số phận người dân, trong khi những câu khẩu hiệu viết nguệch ngoạc của phe giải phóng trên tường vách ở Bình Định trong những vùng chúng tôi hành quân: Mỹ thua Mỹ còn chỗ để về, bạn thua bạn còn chỗ nào để về? Có phải bài thơ đã mang những điều dự báo có thật về một đất nước sau năm 1975, mà hầu hết người dân miền Nam như đâm đầu xuống biển Đông mà tự sát? . …Tháng của ngày dài nhất. Tháng khốn khổ vì tàn phá, tháng nuôi dưỡng bằng hy vọng. Tháng sửa soạn đổi đời, tháng hồi sanh bằng hôn lễ chúng tôi. …Thả chiếc thuyền hồn ngược dòng thế kỷ, thám hiểm miền đất ung thư lở lói, từng mảng lớn rụng rời chìm xuống đáy hư không. Desnos đã chết, đã chết rất xa dưới bầu trời quê hương… ... Đêm lười biếng, không than củi không một góc lửa hồng. Bóng tối chụp mũ lên những ngọn thông rình rập bước trở về của ánh trăng mạo hiểm… …Ngó suốt bốn chân trời mưa trải thảm sầu phủ trùm anh kín mặt. Có phải đây là lời tiên tri. Về một ngày cả miền Nam lao xuống biển đông mà tự sát? (THT)

Page 117: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

190 190

HOÀNG BẢO VIỆT Mật điệp trên biển đông Con người đó niềm im lặng tôi đang tìm kiếm. Mùa những trận cười đổ mưa vừa dứt. Nắng vàng từng khối ơ thờ treo lơ lửng trên mái ngói suy tư. Phóng mình ra khỏi nóc rừng già từ ngữ, tôi bay là là trên điệp trùng chòm cây bí ẩn. Bầy khỉ với vẻ mặt khôi ngô đua nhau gánh chiếc võng mây đong đưa chở mặt trời măng non băng qua hành lang nhiệt đới. Chúng tôi đi sát bên nhau, khung cảnh dốc đèo núi ngàn hiểm trở. Mặt biển giận tím nỗi vô tình. Gió hú gọi bầy sóng cuồng quay đầu. Đất liền nghe thịt da nổi ốc. Thắp đôi nến mắt lo âu, ngó lại ấu thời, soi sâu từng khu rừng mất hút. Chùm trái thời gian chín héo, ngày tháng buồn rụng chết không tiếng vang. Bấu víu được bao lâu, thân phận bọt bèo rõ ràng yểu mạng. Mặc cho con sâu bi quan đục khoét ruột gan tâm tưởng, thơ tôi kháng cự trường kỳ. Tôi muốn được từng trải hết đời tôi như thi sĩ. Tháng đó không tình cờ đã khởi sự bằng kỷ niệm. Tháng của ngày dài nhứt. Tháng khốn khổ vì tàn phá, tháng nuôi

HOÀNG BẢO VIỆT Mật điệp trên biển đông Con người đó niềm im lặng tôi đang tìm kiếm. Mùa những trận cười đổ mưa vừa dứt. Nắng vàng từng khối ơ thờ treo lơ lửng trên mái ngói suy tư. Phóng mình ra khỏi nóc rừng già từ ngữ, tôi bay là là trên điệp trùng chòm cây bí ẩn. Bầy khỉ với vẻ mặt khôi ngô đua nhau gánh chiếc võng mây đong đưa chở mặt trời măng non băng qua hành lang nhiệt đới. Chúng tôi đi sát bên nhau, khung cảnh dốc đèo núi ngàn hiểm trở. Mặt biển giận tím nỗi vô tình. Gió hú gọi bầy sóng cuồng quay đầu. Đất liền nghe thịt da nổi ốc. Thắp đôi nến mắt lo âu, ngó lại ấu thời, soi sâu từng khu rừng mất hút. Chùm trái thời gian chín héo, ngày tháng buồn rụng chết không tiếng vang. Bấu víu được bao lâu, thân phận bọt bèo rõ ràng yểu mạng. Mặc cho con sâu bi quan đục khoét ruột gan tâm tưởng, thơ tôi kháng cự trường kỳ. Tôi muốn được từng trải hết đời tôi như thi sĩ. Tháng đó không tình cờ đã khởi sự bằng kỷ niệm. Tháng của ngày dài nhứt. Tháng khốn khổ vì tàn phá, tháng nuôi

Page 118: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

191 191

dưỡng bằng hy vọng. Tháng sửa soạn đổi đời, tháng hồi sanh bằng hôn lễ chúng tôi. Thả chiếc thuyền hồn ngược dòng thế kỷ, thám hiểm miền đất ung thư lở lói, từng mảng lớn rụng rời chìm xuống đáy hư không. Desnos đã chết, đã chết rất xa dưới bầu trời quê hương. Không phải một nhưng một ngàn triệu lá rừng, một ngàn triệu bàn tay bằng hữu chiến đấu cùng đớn đau vuốt mặt. Sao chưa ném thanh gươm báu của thơ Anh lên ngăn đón loài chim chuyên ăn thịt người xuất hiện từ một hỏa ngục nào hãi hùng. Mở toang khung mắt Anh đam mê, ngó vào vô cùng xanh biếc cho đôi cánh én tùy hứng vút cao. Dưới lớp cát nổi trì trệ len lỏi bao nhiêu mạch nước ngầm. Con người đó sanh ra không chỉ để côn trùng nỉ non thương xót. Chất chứa trong tôi mấy thanh gỗ đước. Bó củi tốt cho bếp lửa còn rơi rớt những tàn tro bất mãn. Với những cọc sắt vô tri cắm trên mười đầu ngón tay bật máu, tôi tới dựng lều tranh bên nấm mồ mới đắp. Với sức dẻo dai vô địch của ông cha truyền lại, tôi vun bón mấy liếp tưởng tượng tới bao giờ những hạt giống tin yêu biến thành hàng ngàn cây cổ thụ. Nối tiếp buổi lên đường với bầy ong, khoác bộ áo cừu non, đeo hai hàm răng

dưỡng bằng hy vọng. Tháng sửa soạn đổi đời, tháng hồi sanh bằng hôn lễ chúng tôi. Thả chiếc thuyền hồn ngược dòng thế kỷ, thám hiểm miền đất ung thư lở lói, từng mảng lớn rụng rời chìm xuống đáy hư không. Desnos đã chết, đã chết rất xa dưới bầu trời quê hương. Không phải một nhưng một ngàn triệu lá rừng, một ngàn triệu bàn tay bằng hữu chiến đấu cùng đớn đau vuốt mặt. Sao chưa ném thanh gươm báu của thơ Anh lên ngăn đón loài chim chuyên ăn thịt người xuất hiện từ một hỏa ngục nào hãi hùng. Mở toang khung mắt Anh đam mê, ngó vào vô cùng xanh biếc cho đôi cánh én tùy hứng vút cao. Dưới lớp cát nổi trì trệ len lỏi bao nhiêu mạch nước ngầm. Con người đó sanh ra không chỉ để côn trùng nỉ non thương xót. Chất chứa trong tôi mấy thanh gỗ đước. Bó củi tốt cho bếp lửa còn rơi rớt những tàn tro bất mãn. Với những cọc sắt vô tri cắm trên mười đầu ngón tay bật máu, tôi tới dựng lều tranh bên nấm mồ mới đắp. Với sức dẻo dai vô địch của ông cha truyền lại, tôi vun bón mấy liếp tưởng tượng tới bao giờ những hạt giống tin yêu biến thành hàng ngàn cây cổ thụ. Nối tiếp buổi lên đường với bầy ong, khoác bộ áo cừu non, đeo hai hàm răng

Page 119: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

192 192

dã thú. Vạch trong màn sương mù ký ức một lối trở về nghỉ chân dưới tàn cây tình ái phong dao. Chiều buông lưới như thói quen. Có thể họ sẽ không nhận biết mặt Anh. Ngọn hải đăng chói sáng, em đứng nép sau lưng, âm thầm nhẫn nhịn. Thần Công lý run rẩy trên cán cân cảm xúc. Anh đắn đo chưa rõ phải đặt mình về phía nào. Anh yêu em xin chọn lấy sự thua thiệt của trí não. Anh yêu em để thế giới chóng quên một tâm hồn cưu mang mầm nổi loạn. Một thế giới không thôi lăn lộn vì những vết phỏng hình như vô phương cứu chữa. Tôi có tiếc gì đâu tiếc chăng là họ chưa chịu hiểu khẩu phần tin yêu cần thiết cho tôi khác nào chim nghiện khí trời và ánh sáng. Tôi có tiếc gì đâu thời đại đó tự bao giờ đã thu hình trong vỏ sò bảo thủ. Đừng ai nghĩ tới tra khảo pho tượng câm nín kia. Ngày xưa chúng tôi là giống bồ câu trắng bị cưỡng bách ra khỏi nội thành bưng bít, ra khỏi lăng tẩm thâm nghiêm. Ngày xưa chúng tôi là giống hạc vàng lần lượt rời bỏ nóc giáo đường dưới áp lực của lòng tin thiếu bao dung. Tôi có tiếc gì đâu - bởi vì tiếc thương không biến đổi được ngược chiều độ thiên từ dĩ vãng. Hỡi những tâm hồn phóng đãng, chúng tôi cũng sắp lao

dã thú. Vạch trong màn sương mù ký ức một lối trở về nghỉ chân dưới tàn cây tình ái phong dao. Chiều buông lưới như thói quen. Có thể họ sẽ không nhận biết mặt Anh. Ngọn hải đăng chói sáng, em đứng nép sau lưng, âm thầm nhẫn nhịn. Thần Công lý run rẩy trên cán cân cảm xúc. Anh đắn đo chưa rõ phải đặt mình về phía nào. Anh yêu em xin chọn lấy sự thua thiệt của trí não. Anh yêu em để thế giới chóng quên một tâm hồn cưu mang mầm nổi loạn. Một thế giới không thôi lăn lộn vì những vết phỏng hình như vô phương cứu chữa. Tôi có tiếc gì đâu tiếc chăng là họ chưa chịu hiểu khẩu phần tin yêu cần thiết cho tôi khác nào chim nghiện khí trời và ánh sáng. Tôi có tiếc gì đâu thời đại đó tự bao giờ đã thu hình trong vỏ sò bảo thủ. Đừng ai nghĩ tới tra khảo pho tượng câm nín kia. Ngày xưa chúng tôi là giống bồ câu trắng bị cưỡng bách ra khỏi nội thành bưng bít, ra khỏi lăng tẩm thâm nghiêm. Ngày xưa chúng tôi là giống hạc vàng lần lượt rời bỏ nóc giáo đường dưới áp lực của lòng tin thiếu bao dung. Tôi có tiếc gì đâu - bởi vì tiếc thương không biến đổi được ngược chiều độ thiên từ dĩ vãng. Hỡi những tâm hồn phóng đãng, chúng tôi cũng sắp lao

Page 120: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

193 193

mình qua biên giới không gian. Đêm lười biếng, không than củi không một góc lửa hồng. Bóng tối chụp mũ lên những ngọn thông rình rập bước trở về của ánh trăng mạo hiểm. Có phải sức hút em kỳ diệu đã giúp quay mau hơn trái đất, đưa chân lý tới gần cốt tủy, tới gần phần gốc rễ lương tâm. Có phải trong giấc mộng em thường kêu gọi bình minh trở dậy. Rồi len lén đắp lên ngực anh chiếc mền dệt bằng những sợi bông mịn màng âu yếm. Nguồn sáng yếu sẩy chân chúi xuống nóc nhà. Anh chợt đứng lên như cây nhãn tới mùa trổ bông. Đập cánh giữa vòm trống hoài nghi con họa mi lạc loài trong khúc trầm ca thần bí. Ngó suốt bốn chân trời mưa trải thảm sầu phủ trùm anh kín mặt. Ở đâu trời đất của riêng những chuyện thần thoại. Ở đâu trời đất của riêng những chuyện ma quái hồ ly. Gồng gánh trên hai vai hai mươi lăm năm nặng nề hơn gông cùm khổ sai, bỏ mặc cơn đói khát giấc ngủ yên biết không bao giờ thỏa. Xin hỏi nhỏ có phải người bạn không tên tuổi đã lặng lẽ hiến thân mở đường máu cho các góa phụ ẵm con ra khỏi quỹ đạo những tùy tinh sắp nổ. Tuổi thơ hôm nay bay bổng giữa những đám mây hồng. Gió lớn trên sông cái vẫn gào thét tuyệt vọng để lùa mây ra hải đảo.

mình qua biên giới không gian. Đêm lười biếng, không than củi không một góc lửa hồng. Bóng tối chụp mũ lên những ngọn thông rình rập bước trở về của ánh trăng mạo hiểm. Có phải sức hút em kỳ diệu đã giúp quay mau hơn trái đất, đưa chân lý tới gần cốt tủy, tới gần phần gốc rễ lương tâm. Có phải trong giấc mộng em thường kêu gọi bình minh trở dậy. Rồi len lén đắp lên ngực anh chiếc mền dệt bằng những sợi bông mịn màng âu yếm. Nguồn sáng yếu sẩy chân chúi xuống nóc nhà. Anh chợt đứng lên như cây nhãn tới mùa trổ bông. Đập cánh giữa vòm trống hoài nghi con họa mi lạc loài trong khúc trầm ca thần bí. Ngó suốt bốn chân trời mưa trải thảm sầu phủ trùm anh kín mặt. Ở đâu trời đất của riêng những chuyện thần thoại. Ở đâu trời đất của riêng những chuyện ma quái hồ ly. Gồng gánh trên hai vai hai mươi lăm năm nặng nề hơn gông cùm khổ sai, bỏ mặc cơn đói khát giấc ngủ yên biết không bao giờ thỏa. Xin hỏi nhỏ có phải người bạn không tên tuổi đã lặng lẽ hiến thân mở đường máu cho các góa phụ ẵm con ra khỏi quỹ đạo những tùy tinh sắp nổ. Tuổi thơ hôm nay bay bổng giữa những đám mây hồng. Gió lớn trên sông cái vẫn gào thét tuyệt vọng để lùa mây ra hải đảo.

Page 121: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

194 194

Có khi nào chúng ta chịu khó nằm bất động thật lâu dưới lớp cỏ còn ướp sương mai, nghe được cảm được ngôn ngữ ngọt ngào thơm tho như giòng sữa. Có khi nào tương lai tiếp giáp với con người gần gũi thôi mang vóc dáng một khối ám ảnh kinh hoàng mỗi lần chúng ta soi gương cố nhìn sao rõ mặt. Hai bên trũng má xương buông trôi dòng muối mắt. Cây cối đâm chồi khắp trong chiếc đầu tự bao giờ ủ kín hơi mưa. Khu vườn nhân ái đó mới hôm qua còn phơi trần những cánh tay xơ xác. Trên thửa ruộng bản thể anh bầy kiến vàng hì hục khuân vác những hạt ý nghĩ xanh từ gốc lên tới ngọn lúa non. Thế giới những kẻ vô tâm, chẳng phải em chẳng phải Anh chưa đủ sức quyến rũ hay cảm kích. Thôi hãy điềm tĩnh lèo lái đời chúng ta đi tới mặc cho các đợt sóng lưỡi búa ồ ạt bủa vây. Cả những xác chết bị bỏ rơi cũng giành lấy phần đất đứng cuối cùng của cỏ hoa rừng núi. Nhân chứng nào dám quả quyết bạo lực đã thẳng tay càn quét thung lũng thần tiên của con cái chúng ta. Để ngọn lửa thản nhiên hủy diệt tâm hồn trong sạch bằng tia nhìn cặp mắt lõm sâu hơn tội ác. Lấy mộng làm thật, xúc động làm bình yên, Anh trầm tư trong chuyến đi không cần địa bàn vẫn tìm ra phương giác. Một người một ngựa, can đảm băng qua cánh đồng vắng lạnh bên những

Có khi nào chúng ta chịu khó nằm bất động thật lâu dưới lớp cỏ còn ướp sương mai, nghe được cảm được ngôn ngữ ngọt ngào thơm tho như giòng sữa. Có khi nào tương lai tiếp giáp với con người gần gũi thôi mang vóc dáng một khối ám ảnh kinh hoàng mỗi lần chúng ta soi gương cố nhìn sao rõ mặt. Hai bên trũng má xương buông trôi dòng muối mắt. Cây cối đâm chồi khắp trong chiếc đầu tự bao giờ ủ kín hơi mưa. Khu vườn nhân ái đó mới hôm qua còn phơi trần những cánh tay xơ xác. Trên thửa ruộng bản thể anh bầy kiến vàng hì hục khuân vác những hạt ý nghĩ xanh từ gốc lên tới ngọn lúa non. Thế giới những kẻ vô tâm, chẳng phải em chẳng phải Anh chưa đủ sức quyến rũ hay cảm kích. Thôi hãy điềm tĩnh lèo lái đời chúng ta đi tới mặc cho các đợt sóng lưỡi búa ồ ạt bủa vây. Cả những xác chết bị bỏ rơi cũng giành lấy phần đất đứng cuối cùng của cỏ hoa rừng núi. Nhân chứng nào dám quả quyết bạo lực đã thẳng tay càn quét thung lũng thần tiên của con cái chúng ta. Để ngọn lửa thản nhiên hủy diệt tâm hồn trong sạch bằng tia nhìn cặp mắt lõm sâu hơn tội ác. Lấy mộng làm thật, xúc động làm bình yên, Anh trầm tư trong chuyến đi không cần địa bàn vẫn tìm ra phương giác. Một người một ngựa, can đảm băng qua cánh đồng vắng lạnh bên những

Page 122: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

195 195

đống xương khô. Ở đó tù nhân nhiều lần bị thói đời kết án tử hình vẫn chưa biết mình còn sống hay đã chết. Từ một nhịp tim vỗ về lòng suối mê man trong cơn hấp hối, tiếng vọng thì thào lôi cuốn tôi bỏ đi xuống trần gian, bất kể chốn đó thiên đàng hay địa ngục. Men theo bờ vực chênh vênh không ngó thấy cầu thang. Sao không biết tôi đã từ chối chiêm ngưỡng họ, kể cả những chàng hiệp sĩ những trang hào sảng. Hỡi bầy ó nâu, đừng nhìn tôi bằng cặp mắt hết thần sắc còn giận dữ kia. Ngày chạm trán chiến tranh Anh hối hả bước xuống từ đỉnh ngọn cau quê. Lè lưỡi lá trầu tươi Anh chờ nếm một chút vôi em nồng hơi thở phập phồng ngực đất đau thương vô kể. Ôi dòng sông thân ái, dòng sông cất tiếng hát thay lời Mẹ ru con, dòng sông nơi cánh chim giang hồ dừng bước ngắm mình. Cho chúng tôi trong khoảnh khắc lãng quên trận bão điên ngoài khơi lịch sử. Xin chấp nhận kẻ muốn sống vượt ra ngoài mọi thành kiến tín điều ràng buộc, đừng nói gì tới đám đông. Hơn một lần Anh chịu lỗi giữa giờ phút vinh thăng đã cố tâm vắng mặt. Từ đó anh kín đáo khắc sâu lên trán em những nốt nhạc dư âm tình tự cỏ hoa dung nhan đằm thắm. Và lượn sóng nhẹ mặc tình mơn trớn bờ

đống xương khô. Ở đó tù nhân nhiều lần bị thói đời kết án tử hình vẫn chưa biết mình còn sống hay đã chết. Từ một nhịp tim vỗ về lòng suối mê man trong cơn hấp hối, tiếng vọng thì thào lôi cuốn tôi bỏ đi xuống trần gian, bất kể chốn đó thiên đàng hay địa ngục. Men theo bờ vực chênh vênh không ngó thấy cầu thang. Sao không biết tôi đã từ chối chiêm ngưỡng họ, kể cả những chàng hiệp sĩ những trang hào sảng. Hỡi bầy ó nâu, đừng nhìn tôi bằng cặp mắt hết thần sắc còn giận dữ kia. Ngày chạm trán chiến tranh Anh hối hả bước xuống từ đỉnh ngọn cau quê. Lè lưỡi lá trầu tươi Anh chờ nếm một chút vôi em nồng hơi thở phập phồng ngực đất đau thương vô kể. Ôi dòng sông thân ái, dòng sông cất tiếng hát thay lời Mẹ ru con, dòng sông nơi cánh chim giang hồ dừng bước ngắm mình. Cho chúng tôi trong khoảnh khắc lãng quên trận bão điên ngoài khơi lịch sử. Xin chấp nhận kẻ muốn sống vượt ra ngoài mọi thành kiến tín điều ràng buộc, đừng nói gì tới đám đông. Hơn một lần Anh chịu lỗi giữa giờ phút vinh thăng đã cố tâm vắng mặt. Từ đó anh kín đáo khắc sâu lên trán em những nốt nhạc dư âm tình tự cỏ hoa dung nhan đằm thắm. Và lượn sóng nhẹ mặc tình mơn trớn bờ

Page 123: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

196 196

ao buồn thảm bởi duyên cớ không đâu. Đất hứa không riêng của họ, không riêng của chúng tôi. Đất hứa trước hết thuộc về tất cả những ai bất hạnh, những ai yếu đuối, của những bà Mẹ và những trẻ thơ, của những con thú hiền suốt đời bị săn đuổi. Gỡ mặt nạ loài giả nhân Anh ném vào sóng gió vô vọng. Anh không biết sợ gì nữa. Yêu em, anh chỉ có thể tự hủy để trở thành em. Sự trở thành con người muôn đời ao ước được đi lang thang trong bình nguyên tuổi nhỏ. Vậy đừng ngạc nhiên, khi cánh cửa tim hé mở, ngọn lửa ngọt bén gần, em ngoan ngoãn đặt bàn tay em trong lòng tay anh, lòng tay bầu tròn như nắm thóc. Từ lúc sơ sanh, thịt da anh đã đượm nồng hương đất, em nhớ không. Lấy ai tri kỷ lấy ai đồng điệu để cùng giậm chân với chúng tôi. Để giữa hai ngành máu sanh đôi nghe tan dần khối băng quạnh hiu gần ba mươi năm bơ vơ trôi giạt… Luồng gió lạ thường nào đã phun bụi nước mặn làm tắt ngỏm vệt nắng hồng trên biển Đông. Phương Tây có ngờ đâu mặt trời bao dung còn rực rỡ mãi trong tâm trí chúng tôi. Buổi sáng liến thoắng đeo vào cổ em chiếc kiềng khéo léo gắn liền trăm ngàn đốm lửa bạch kim góp nhặt từ những mảnh sao rơi. Từ giã thành phố đó, quán trọ đứng

ao buồn thảm bởi duyên cớ không đâu. Đất hứa không riêng của họ, không riêng của chúng tôi. Đất hứa trước hết thuộc về tất cả những ai bất hạnh, những ai yếu đuối, của những bà Mẹ và những trẻ thơ, của những con thú hiền suốt đời bị săn đuổi. Gỡ mặt nạ loài giả nhân Anh ném vào sóng gió vô vọng. Anh không biết sợ gì nữa. Yêu em, anh chỉ có thể tự hủy để trở thành em. Sự trở thành con người muôn đời ao ước được đi lang thang trong bình nguyên tuổi nhỏ. Vậy đừng ngạc nhiên, khi cánh cửa tim hé mở, ngọn lửa ngọt bén gần, em ngoan ngoãn đặt bàn tay em trong lòng tay anh, lòng tay bầu tròn như nắm thóc. Từ lúc sơ sanh, thịt da anh đã đượm nồng hương đất, em nhớ không. Lấy ai tri kỷ lấy ai đồng điệu để cùng giậm chân với chúng tôi. Để giữa hai ngành máu sanh đôi nghe tan dần khối băng quạnh hiu gần ba mươi năm bơ vơ trôi giạt… Luồng gió lạ thường nào đã phun bụi nước mặn làm tắt ngỏm vệt nắng hồng trên biển Đông. Phương Tây có ngờ đâu mặt trời bao dung còn rực rỡ mãi trong tâm trí chúng tôi. Buổi sáng liến thoắng đeo vào cổ em chiếc kiềng khéo léo gắn liền trăm ngàn đốm lửa bạch kim góp nhặt từ những mảnh sao rơi. Từ giã thành phố đó, quán trọ đứng

Page 124: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

197 197

bên đường cho đời anh tạm trú. Đố ai biết thế nào là thương yêu, thế nào là độ lượng thế nào là tự do. Mắt anh ngậm một trái tim co thắt. Bóng đen trong con người anh không họ hàng gì với bóng đêm. Cớ sao Anh thường hoảng hốt, giấc ngủ chưa bao giờ được yên. Cớ sao Anh không đáp được một chuyến xe chạy suốt tới miền thanh bình mộng tưởng. Anh ôm siết nỗi chết ngất lõa thể trước sự thật phũ phàng. Bàn tay mang nhiều vết thương không nhờ mấy lớp vải thưa giấu che người khuất mặt. Thương cho con nai tơ kiệt sức gục quỵ trước cánh rừng tràm dày đặc tuổi thanh xuân anh lỡ bỏ lại đằng sau. Anh giữ lời hứa, khi nào tới nơi, một bến sông, một chân cầu, một cửa biển, một vịnh sao, Anh giữ lời hứa, với những tròng mắt ứa lệ dạt dào, những chuỗi hôn ngây ngất, những bàn tay anh em… Khi nào tới nơi, ngựa không buồn chạy theo đường cũ. Bốn chân quá khứ mắc lầy. Anh vút ngọn roi thức tỉnh lên đêm thâu khó ngủ. Mặt trời đen chợt đổ hào quang. Anh giữ lời hứa, nhưng chịu đựng thế nào được chiến cuộc kéo dài vô lý như những ý tưởng hận thù họ cấy sâu vào từng thớ tim họ chuyển vận trong từng ống máu. Tha thứ cho gã đãng tử sẽ hóa kiếp chớp nhoáng ở cuối chuyến hành hương

bên đường cho đời anh tạm trú. Đố ai biết thế nào là thương yêu, thế nào là độ lượng thế nào là tự do. Mắt anh ngậm một trái tim co thắt. Bóng đen trong con người anh không họ hàng gì với bóng đêm. Cớ sao Anh thường hoảng hốt, giấc ngủ chưa bao giờ được yên. Cớ sao Anh không đáp được một chuyến xe chạy suốt tới miền thanh bình mộng tưởng. Anh ôm siết nỗi chết ngất lõa thể trước sự thật phũ phàng. Bàn tay mang nhiều vết thương không nhờ mấy lớp vải thưa giấu che người khuất mặt. Thương cho con nai tơ kiệt sức gục quỵ trước cánh rừng tràm dày đặc tuổi thanh xuân anh lỡ bỏ lại đằng sau. Anh giữ lời hứa, khi nào tới nơi, một bến sông, một chân cầu, một cửa biển, một vịnh sao, Anh giữ lời hứa, với những tròng mắt ứa lệ dạt dào, những chuỗi hôn ngây ngất, những bàn tay anh em… Khi nào tới nơi, ngựa không buồn chạy theo đường cũ. Bốn chân quá khứ mắc lầy. Anh vút ngọn roi thức tỉnh lên đêm thâu khó ngủ. Mặt trời đen chợt đổ hào quang. Anh giữ lời hứa, nhưng chịu đựng thế nào được chiến cuộc kéo dài vô lý như những ý tưởng hận thù họ cấy sâu vào từng thớ tim họ chuyển vận trong từng ống máu. Tha thứ cho gã đãng tử sẽ hóa kiếp chớp nhoáng ở cuối chuyến hành hương

Page 125: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

198 198

quay về với niềm vui ngây thơ nơi vĩnh cửu. Chừng đó không lẽ mỗi một mình Anh mãi mãi cô đơn trong nỗ lực phi thường để đời sau may ra còn hiểu thấu. Ý tưởng trong veo chưa hề vẩn đục. Nên chi những hột đắng cay từ từ lắng xuống lòng đất bùi ngùi vì liên tưởng. Nghe đâu nơi kẻ vong thân thể xác lẫn tâm linh chỉ còn là những tiếng vọng bi thương rời rạc… Từ lâu trì chí bám riết lấy Anh, loài dây leo bỗng phút chốc hớt hải giựt mình buông tay chới với giữa những lớp nhớ nhung nhịp nhàng khua động. Đêm từ biệt quê hương Anh viết bài thơ lục bát dưới mưa bom đạn. Bài thơ sẽ không được đọc lên như một tờ di chúc hay một bản tuyên ngôn. Dễ hiểu vì đứa con đầu lòng của chúng tôi đang soi mình xuống triều suy niệm của thi ca. Con sông hùng vĩ nào mới xưng tên? Nếu không phải dòng tâm linh khắc khoải triền miên, làm sao phát hiện nổi hình ảnh trung thật của một đại dương bên cạnh khối linh hồn người dàn trải ra trên mặt vùng ưu tư bát ngát… Còn hương sắc chốn quê nhà thân yêu sớm mất, hãy tự hỏi chính chúng ta có thể nào tìm thấy nguyên vẹn nữa hay không? (1967-1968)

quay về với niềm vui ngây thơ nơi vĩnh cửu. Chừng đó không lẽ mỗi một mình Anh mãi mãi cô đơn trong nỗ lực phi thường để đời sau may ra còn hiểu thấu. Ý tưởng trong veo chưa hề vẩn đục. Nên chi những hột đắng cay từ từ lắng xuống lòng đất bùi ngùi vì liên tưởng. Nghe đâu nơi kẻ vong thân thể xác lẫn tâm linh chỉ còn là những tiếng vọng bi thương rời rạc… Từ lâu trì chí bám riết lấy Anh, loài dây leo bỗng phút chốc hớt hải giựt mình buông tay chới với giữa những lớp nhớ nhung nhịp nhàng khua động. Đêm từ biệt quê hương Anh viết bài thơ lục bát dưới mưa bom đạn. Bài thơ sẽ không được đọc lên như một tờ di chúc hay một bản tuyên ngôn. Dễ hiểu vì đứa con đầu lòng của chúng tôi đang soi mình xuống triều suy niệm của thi ca. Con sông hùng vĩ nào mới xưng tên? Nếu không phải dòng tâm linh khắc khoải triền miên, làm sao phát hiện nổi hình ảnh trung thật của một đại dương bên cạnh khối linh hồn người dàn trải ra trên mặt vùng ưu tư bát ngát… Còn hương sắc chốn quê nhà thân yêu sớm mất, hãy tự hỏi chính chúng ta có thể nào tìm thấy nguyên vẹn nữa hay không? (1967-1968)

Page 126: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

199 199

PHẠM CAO HOÀNG Chu Trầm Nguyên Minh,

tác giả bài thơ LỜI TÌNH BUỒN

Cuối thập niên 1960, những tình khúc lãng mạn của Vũ Thành An xuất hiện ở miền Nam như một luồng gió mới, được nhiều người yêu thích, nhất là giới sinh viên học sinh, trí thức và quân đội… Nhạc Vũ Thành An sang trọng, nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người. Chất lãng mạn trong nhạc của ông có một cái gì đó rất gần gũi với tâm trạng của tuổi trẻ lúc bấy giờ: buồn vì chiến tranh, sợ hãi vì phải đối mặt với những hiểm nguy, đau khổ vì chia ly, mất mát. Ngoài những bài không tên và những tình khúc do ông tự viết nhạc và lời, Vũ Thành An còn có một ít ca khúc phổ từ thơ. Một trong những ca khúc phổ từ thơ rất thành công của ông là bài LỜI TÌNH BUỒN. LỜI TÌNH BUỒN là bài hát mà tôi nghĩ rằng dạo ấy những người yêu nhạc ai cũng đã từng nghe qua ít nhất một lần. Anh đi rồi còn ai vuốt tóc. Lời tình thơm sách vở học trò. Đêm xuống rồi em buồn không hở? Trời sa mù

PHẠM CAO HOÀNG Chu Trầm Nguyên Minh,

tác giả bài thơ LỜI TÌNH BUỒN

Cuối thập niên 1960, những tình khúc lãng mạn của Vũ Thành An xuất hiện ở miền Nam như một luồng gió mới, được nhiều người yêu thích, nhất là giới sinh viên học sinh, trí thức và quân đội… Nhạc Vũ Thành An sang trọng, nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người. Chất lãng mạn trong nhạc của ông có một cái gì đó rất gần gũi với tâm trạng của tuổi trẻ lúc bấy giờ: buồn vì chiến tranh, sợ hãi vì phải đối mặt với những hiểm nguy, đau khổ vì chia ly, mất mát. Ngoài những bài không tên và những tình khúc do ông tự viết nhạc và lời, Vũ Thành An còn có một ít ca khúc phổ từ thơ. Một trong những ca khúc phổ từ thơ rất thành công của ông là bài LỜI TÌNH BUỒN. LỜI TÌNH BUỒN là bài hát mà tôi nghĩ rằng dạo ấy những người yêu nhạc ai cũng đã từng nghe qua ít nhất một lần. Anh đi rồi còn ai vuốt tóc. Lời tình thơm sách vở học trò. Đêm xuống rồi em buồn không hở? Trời sa mù

Page 127: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

200 200

tầm tay với âu lo. Bài hát ra đời năm 1967, cho đến nay đã được 45 năm. Trong 45 năm đó, LỜI TÌNH BUỒN đã được nhiều ca sĩ nổi tiếng thu âm và trình diễn, trong đó có những ca sĩ hàng đầu như Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Hà, Duy Quang, Họa Mi, Bằng Kiều… Khi nhắc tới bài hát này, người ta thường nhắc đến nhạc sĩ Vũ Thành An, ít nhắc đến tên tác giả của bài thơ đã được phổ nhạc là CHU TRẦM NGUYÊN MINH, mặc dù trên bản nhạc khi in ra hay băng đĩa khi phát hành đều có ghi rõ: thơ Chu Trầm Nguyên Minh. Có thể do Vũ Thành An thường tự viết lời cho nhạc của ông nên nhiều người nghĩ bài hát này cũng vậy. Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh tên thật Phạm Minh Tâm, sinh năm 1943 tại Bình Thuận. Ông đã trải qua một thời tuổi thơ đầy tự hào nhưng cũng đầy bất hạnh. Cha ông đi kháng chiến, thỉnh thoảng mới tạt về thăm nhà. Ở nhà, chỉ còn lại người mẹ tảo tần nuôi dưỡng 5 người con: Phạm Minh Tâm, ba người chị, và một cậu em trai. Gia đình ông có một căn nhà gạch chắc chắn, nhưng cha ông quyết định đập bỏ, vì “nhà kiên cố Tây nó sẽ lấy để làm đồn bót, thà đập đi còn hơn”. Sau đó, mẹ ông đưa các con vào sống trong khu tam giác Phan Thiết – Ma Lâm – Mường Mán. Đây là vùng “xôi đậu”, thuộc khu “oanh kích tự do”, và em trai ông đã chết ở nơi này vì một quả đạn mọt-chê. Đầu năm 1953, Pháp mở cuộc càn quét dữ dội vào khu Tam Giác. Cả cha lẫn mẹ của ông đều bị giết trong cuộc càn quét này. Cha mẹ không còn, nhà cửa không còn, mấy chị em cùng một số người khác kéo nhau vào khu rừng Đá Bàn giáp ranh với Lâm Đồng, sống trong bụi cây như người rừng. Khu rừng này cây cối âm u, rắn rết rất nhiều. Một ngày kia ông bị rắn độc cắn, suýt bỏ mạng trong rừng. Mấy chị em sợ quá, không dám ở đó nữa. Đầu năm 1954, bốn chị em về Phan Thiết, chia ra mỗi người sống nhờ vào một người

tầm tay với âu lo. Bài hát ra đời năm 1967, cho đến nay đã được 45 năm. Trong 45 năm đó, LỜI TÌNH BUỒN đã được nhiều ca sĩ nổi tiếng thu âm và trình diễn, trong đó có những ca sĩ hàng đầu như Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Hà, Duy Quang, Họa Mi, Bằng Kiều… Khi nhắc tới bài hát này, người ta thường nhắc đến nhạc sĩ Vũ Thành An, ít nhắc đến tên tác giả của bài thơ đã được phổ nhạc là CHU TRẦM NGUYÊN MINH, mặc dù trên bản nhạc khi in ra hay băng đĩa khi phát hành đều có ghi rõ: thơ Chu Trầm Nguyên Minh. Có thể do Vũ Thành An thường tự viết lời cho nhạc của ông nên nhiều người nghĩ bài hát này cũng vậy. Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh tên thật Phạm Minh Tâm, sinh năm 1943 tại Bình Thuận. Ông đã trải qua một thời tuổi thơ đầy tự hào nhưng cũng đầy bất hạnh. Cha ông đi kháng chiến, thỉnh thoảng mới tạt về thăm nhà. Ở nhà, chỉ còn lại người mẹ tảo tần nuôi dưỡng 5 người con: Phạm Minh Tâm, ba người chị, và một cậu em trai. Gia đình ông có một căn nhà gạch chắc chắn, nhưng cha ông quyết định đập bỏ, vì “nhà kiên cố Tây nó sẽ lấy để làm đồn bót, thà đập đi còn hơn”. Sau đó, mẹ ông đưa các con vào sống trong khu tam giác Phan Thiết – Ma Lâm – Mường Mán. Đây là vùng “xôi đậu”, thuộc khu “oanh kích tự do”, và em trai ông đã chết ở nơi này vì một quả đạn mọt-chê. Đầu năm 1953, Pháp mở cuộc càn quét dữ dội vào khu Tam Giác. Cả cha lẫn mẹ của ông đều bị giết trong cuộc càn quét này. Cha mẹ không còn, nhà cửa không còn, mấy chị em cùng một số người khác kéo nhau vào khu rừng Đá Bàn giáp ranh với Lâm Đồng, sống trong bụi cây như người rừng. Khu rừng này cây cối âm u, rắn rết rất nhiều. Một ngày kia ông bị rắn độc cắn, suýt bỏ mạng trong rừng. Mấy chị em sợ quá, không dám ở đó nữa. Đầu năm 1954, bốn chị em về Phan Thiết, chia ra mỗi người sống nhờ vào một người

Page 128: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

201 201

bà con. Lúc đầu, Phạm Minh Tâm ở với người cậu, sau chuyển sang ở với người chú ở Phú Bình, rồi bắt đầu đi học bậc trung học ở trường Phan Bội Châu (Phan Thiết). Chỗ ông ở cách trường khoảng 7 cây số, không có xe đạp, hàng ngày ông phải đi bộ đến trường. Đôi chân thì nhỏ, trường thì xa, hầu như ngày nào ông cũng phải chạy mới kịp giờ học. Gia đình tan nát vì chiến tranh, mồ côi cha mẹ sớm, sống nhờ vào người chú, ông có những nỗi buồn riêng, và chính những nỗi buồn này đã tạo ra nhiều cảm xúc, đưa ông vào con đường thi ca. Học hành trong một điều kiện hết sức khó khăn như vậy, nhưng với ý chí sắt đá và lòng kiên nhẫn, ông đã vượt qua khó khăn, theo đuổi ngành sư phạm, ra trường 1965, và được bổ nhiệm về dạy Toán tại một trường trung học ở Phan Rang. Cũng từ đây, nhiều người biết đến Chu Trầm Nguyên Minh với những bài thơ xuất hiện đều đặn trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn: VĂN, VĂN HỌC, Ý THỨC… Năm 1967, cường độ cuộc chiến gia tăng, nhiều giáo chức được gọi nhập ngũ. Chu Trầm Nguyên Minh nằm trong số đó. Ông nhập ngũ khóa 25 Thủ Đức, cùng khóa với nhạc sĩ Vũ Thành An. Chuyện nhập ngũ lại trở thành cái “duyên văn nghệ”, và bài hát LỜI TÌNH BUỒN (thơ Chu Trầm Nguyên Minh, nhạc Vũ Thành An) đã được Vũ Thành An viết vào năm đó. Điều đáng chú ý là tự thân bài thơ này đã là một bài thơ hay, lời bài thơ rất thật, chất nhạc đã có sẵn trong bài thơ, nên Vũ Thành An dễ dàng chuyển thành một trong những tình khúc hay nhất trong 45 năm qua. Hiện nay Chu Trầm Nguyên Minh sống ở Sài Gòn. Phạm Cao Hoàng (Viết theo lời kể của nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh) Virginia, tháng 8. 2012

bà con. Lúc đầu, Phạm Minh Tâm ở với người cậu, sau chuyển sang ở với người chú ở Phú Bình, rồi bắt đầu đi học bậc trung học ở trường Phan Bội Châu (Phan Thiết). Chỗ ông ở cách trường khoảng 7 cây số, không có xe đạp, hàng ngày ông phải đi bộ đến trường. Đôi chân thì nhỏ, trường thì xa, hầu như ngày nào ông cũng phải chạy mới kịp giờ học. Gia đình tan nát vì chiến tranh, mồ côi cha mẹ sớm, sống nhờ vào người chú, ông có những nỗi buồn riêng, và chính những nỗi buồn này đã tạo ra nhiều cảm xúc, đưa ông vào con đường thi ca. Học hành trong một điều kiện hết sức khó khăn như vậy, nhưng với ý chí sắt đá và lòng kiên nhẫn, ông đã vượt qua khó khăn, theo đuổi ngành sư phạm, ra trường 1965, và được bổ nhiệm về dạy Toán tại một trường trung học ở Phan Rang. Cũng từ đây, nhiều người biết đến Chu Trầm Nguyên Minh với những bài thơ xuất hiện đều đặn trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn: VĂN, VĂN HỌC, Ý THỨC… Năm 1967, cường độ cuộc chiến gia tăng, nhiều giáo chức được gọi nhập ngũ. Chu Trầm Nguyên Minh nằm trong số đó. Ông nhập ngũ khóa 25 Thủ Đức, cùng khóa với nhạc sĩ Vũ Thành An. Chuyện nhập ngũ lại trở thành cái “duyên văn nghệ”, và bài hát LỜI TÌNH BUỒN (thơ Chu Trầm Nguyên Minh, nhạc Vũ Thành An) đã được Vũ Thành An viết vào năm đó. Điều đáng chú ý là tự thân bài thơ này đã là một bài thơ hay, lời bài thơ rất thật, chất nhạc đã có sẵn trong bài thơ, nên Vũ Thành An dễ dàng chuyển thành một trong những tình khúc hay nhất trong 45 năm qua. Hiện nay Chu Trầm Nguyên Minh sống ở Sài Gòn. Phạm Cao Hoàng (Viết theo lời kể của nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh) Virginia, tháng 8. 2012

Page 129: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

202 202

LỜI TÌNH BUỒN anh đi rồi còn ai vuốt tóc lời tình thơm sách vở học trò đêm xuống rồi em buồn không hở? trời sa mù tầm tay với âu lo anh đi rồi còn ai đưa đón áo em bay khuất mất thiên đường tuổi hai mươi trong vòng tay chờ đợi ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng cổ em cao tay mười ngón thiên thần tóc em xanh trùng dương sóng lượn anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng anh đi rồi còn ai tình tự đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ phút yêu em dấu lần quá khứ nụ hôn đầu rụng xuống hư vô Chu Trầm Nguyên Minh 1967

LỜI TÌNH BUỒN anh đi rồi còn ai vuốt tóc lời tình thơm sách vở học trò đêm xuống rồi em buồn không hở? trời sa mù tầm tay với âu lo anh đi rồi còn ai đưa đón áo em bay khuất mất thiên đường tuổi hai mươi trong vòng tay chờ đợi ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng cổ em cao tay mười ngón thiên thần tóc em xanh trùng dương sóng lượn anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng anh đi rồi còn ai tình tự đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ phút yêu em dấu lần quá khứ nụ hôn đầu rụng xuống hư vô Chu Trầm Nguyên Minh 1967

Page 130: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

203 203

SÁNG TÁC MỚI

Thơ bước theo chân

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

1 Tâm đã quen với những buổi chiều thứ bảy nơi đây. Ai khiến xui để chiều thứ bảy Tâm không có giờ học. Nếu phải đi học, Tâm làm sao có được những giây phút thật thân ái này? Cái phòng họp nhỏ của một tòa soạn, một nơi chốn rất bình yên. Phòng họp nhỏ của một tòa báo nhỏ. Nhỏ là bởi nó nằm khiêm tốn trong khu vực của một nhà sách lớn: nhà sách Đức Mẹ. Không mấy người biết đến tòa soạn nhỏ ấy. Nhưng không nhỏ chút nào, vì tòa soạn đó là nơi ươm mầm của cả một vườn cây lớn, vườn cây khắp miền Nam.

SÁNG TÁC MỚI

Thơ bước theo chân

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

1 Tâm đã quen với những buổi chiều thứ bảy nơi đây. Ai khiến xui để chiều thứ bảy Tâm không có giờ học. Nếu phải đi học, Tâm làm sao có được những giây phút thật thân ái này? Cái phòng họp nhỏ của một tòa soạn, một nơi chốn rất bình yên. Phòng họp nhỏ của một tòa báo nhỏ. Nhỏ là bởi nó nằm khiêm tốn trong khu vực của một nhà sách lớn: nhà sách Đức Mẹ. Không mấy người biết đến tòa soạn nhỏ ấy. Nhưng không nhỏ chút nào, vì tòa soạn đó là nơi ươm mầm của cả một vườn cây lớn, vườn cây khắp miền Nam.

Page 131: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

204 204

Tâm hay tìm cho mình một góc phòng, giở những trang báo ra chăm chú đọc. Ly, cô bé “thầy cò”, một nữ sinh nhỏ bé luôn mặc áo dài trắng, cứ để yên cho Tâm như vậy, chỉ thỉnh thoảng hỏi han, rồi thì việc ai nấy làm. Nhưng không lâu sau, chẳng có thể giữ được sự yên tĩnh như vậy. Mọi người đến đông dần. Xe đạp, xe gắn máy để chật cả mảnh sân sau. Rồi thì tự giới thiệu, hoặc giới thiệu nhau. Thế là quen nhau hết. Những nhân vật không ai “dám” không biết, chính là các anh phụ trách tờ báo, được gọi bằng những cái tên vắn tắt một chữ: Anh Quyên, anh Trinh, anh Hà, anh Vi, anh Cấp... Đến tòa soạn mà không gặp các anh ấy thì chưa phải là “dân Tuổi Hoa”. Vâng, vì đó chính là tòa soạn báo Tuổi Hoa. Tâm vốn tính rụt rè, e lệ như hầu hết các cô gái gốc miền Trung. Tâm đến tòa soạn cũng do một “cơ duyên” chứ không hề cố ý. Một hôm Tâm cùng cô bạn đi tìm mua vài món hàng trang trí trong nhà sách Đức Mẹ để chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh, cái biển đồng khắc chữ “Tuổi Hoa” đập vào mắt Tâm, và Tâm kéo cô bạn đi vào. Cái tên báo không xa lạ, vì Tâm đã là một tên ghiền xem báo Tuổi Hoa, nhưng Tâm chưa hề đến gặp một ai bằng xương bằng thịt, nên tất cả như một bắt đầu rất mới mẻ. Và, thật đơn giản, chỉ sau vài câu chào hỏi, Tâm đã là “khách quen” của Tuổi Hoa. Cái không khí rộn ràng của những buổi gặp mặt chiều thứ bảy khiến không ai còn rụt rè nữa. Có một chút “nể nang” trong cái thân mật ấy, lạ thật! Nhưng ai cũng ngầm biết, và giữ gìn cái “nể nang” ấy. Là bởi vì thỉnh thoảng có bóng dáng của các Cha, các Thầy đi ngang qua phòng. Họ ở các văn phòng riêng, nhưng có một mối gắn bó rất lớn, vì chủ nhiệm bán nguyệt san Tuổi Hoa là một vị linh mục, còn quản lý tòa soạn thì là một “frère”. Ấy thế mà có một lúc, một giọng cười vang lên như một nét chấm phá đặc biệt trên một bức tranh tĩnh vật. Anh Vi

Tâm hay tìm cho mình một góc phòng, giở những trang báo ra chăm chú đọc. Ly, cô bé “thầy cò”, một nữ sinh nhỏ bé luôn mặc áo dài trắng, cứ để yên cho Tâm như vậy, chỉ thỉnh thoảng hỏi han, rồi thì việc ai nấy làm. Nhưng không lâu sau, chẳng có thể giữ được sự yên tĩnh như vậy. Mọi người đến đông dần. Xe đạp, xe gắn máy để chật cả mảnh sân sau. Rồi thì tự giới thiệu, hoặc giới thiệu nhau. Thế là quen nhau hết. Những nhân vật không ai “dám” không biết, chính là các anh phụ trách tờ báo, được gọi bằng những cái tên vắn tắt một chữ: Anh Quyên, anh Trinh, anh Hà, anh Vi, anh Cấp... Đến tòa soạn mà không gặp các anh ấy thì chưa phải là “dân Tuổi Hoa”. Vâng, vì đó chính là tòa soạn báo Tuổi Hoa. Tâm vốn tính rụt rè, e lệ như hầu hết các cô gái gốc miền Trung. Tâm đến tòa soạn cũng do một “cơ duyên” chứ không hề cố ý. Một hôm Tâm cùng cô bạn đi tìm mua vài món hàng trang trí trong nhà sách Đức Mẹ để chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh, cái biển đồng khắc chữ “Tuổi Hoa” đập vào mắt Tâm, và Tâm kéo cô bạn đi vào. Cái tên báo không xa lạ, vì Tâm đã là một tên ghiền xem báo Tuổi Hoa, nhưng Tâm chưa hề đến gặp một ai bằng xương bằng thịt, nên tất cả như một bắt đầu rất mới mẻ. Và, thật đơn giản, chỉ sau vài câu chào hỏi, Tâm đã là “khách quen” của Tuổi Hoa. Cái không khí rộn ràng của những buổi gặp mặt chiều thứ bảy khiến không ai còn rụt rè nữa. Có một chút “nể nang” trong cái thân mật ấy, lạ thật! Nhưng ai cũng ngầm biết, và giữ gìn cái “nể nang” ấy. Là bởi vì thỉnh thoảng có bóng dáng của các Cha, các Thầy đi ngang qua phòng. Họ ở các văn phòng riêng, nhưng có một mối gắn bó rất lớn, vì chủ nhiệm bán nguyệt san Tuổi Hoa là một vị linh mục, còn quản lý tòa soạn thì là một “frère”. Ấy thế mà có một lúc, một giọng cười vang lên như một nét chấm phá đặc biệt trên một bức tranh tĩnh vật. Anh Vi

Page 132: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

205 205

nói ngay: - Là Sơn đấy!

Mọi người nhìn ra cửa. Người thanh niên – chắc chắn là Sơn rồi – đi vào. Phòng họp bỗng rộn ràng hẳn lên. Sơn giở chiếc mũ “bê-rê” màu đỏ đặt lên bàn, và tay bắt mặt mừng cùng các bạn, cười nói huyên thuyên. Tâm lặng yên quan sát, thấy cũng vui vui vì sự có mặt của người thanh niên này. Chuyện nổ dòn như pháo Tết. Tâm thấy mình dạn dĩ hơn nhiều so với lúc trước. Khi Sơn đến trước mặt Tâm, Ly nhanh nhẩu nói:

- Đây là chị Tâm, khách quen, khách ruột của Ly đấy!

Sơn cười: - Chỉ là của Ly thôi sao? - Phải, vì Ly “trụ trì” ở đây hàng ngày mà! - Chào chị Tâm. - Chào anh Sơn.

Và thế là cứ vui, cứ cười. Chuyện của những người làm văn nghệ học trò. Có người viết đã lâu, có người mới viết. Hỏi đến Tâm, Tâm ngập ngừng:

- Tâm chỉ biết đặt Ô chữ. Sơn reo lên:

- Tôi cũng thích làm Ô chữ. Mở một tờ báo ra là tôi tìm ngay mục Ô chữ.

Anh Trinh cười: - Nè, nói cứ như người vô tư. Lo mà gom góp bài

vở, cuối tháng này tôi với “ông” hoàn thành tập thơ nhé!

Sơn gạt đi: - Chưa cần nói chuyện thơ văn lúc này. Để tôi bàn

chuyện làm Ô chữ với chị Tâm đã. Tâm tròn mắt, thấy thú vị quá! Hai người chụm đầu làm Ô chữ. Người lính áo trận rằn ri và cô sinh viên sư phạm. Như hai đứa trẻ. Cuộc họp tàn. Sơn tạm biệt mọi người để vào trại. Tâm

nói ngay: - Là Sơn đấy!

Mọi người nhìn ra cửa. Người thanh niên – chắc chắn là Sơn rồi – đi vào. Phòng họp bỗng rộn ràng hẳn lên. Sơn giở chiếc mũ “bê-rê” màu đỏ đặt lên bàn, và tay bắt mặt mừng cùng các bạn, cười nói huyên thuyên. Tâm lặng yên quan sát, thấy cũng vui vui vì sự có mặt của người thanh niên này. Chuyện nổ dòn như pháo Tết. Tâm thấy mình dạn dĩ hơn nhiều so với lúc trước. Khi Sơn đến trước mặt Tâm, Ly nhanh nhẩu nói:

- Đây là chị Tâm, khách quen, khách ruột của Ly đấy!

Sơn cười: - Chỉ là của Ly thôi sao? - Phải, vì Ly “trụ trì” ở đây hàng ngày mà! - Chào chị Tâm. - Chào anh Sơn.

Và thế là cứ vui, cứ cười. Chuyện của những người làm văn nghệ học trò. Có người viết đã lâu, có người mới viết. Hỏi đến Tâm, Tâm ngập ngừng:

- Tâm chỉ biết đặt Ô chữ. Sơn reo lên:

- Tôi cũng thích làm Ô chữ. Mở một tờ báo ra là tôi tìm ngay mục Ô chữ.

Anh Trinh cười: - Nè, nói cứ như người vô tư. Lo mà gom góp bài

vở, cuối tháng này tôi với “ông” hoàn thành tập thơ nhé!

Sơn gạt đi: - Chưa cần nói chuyện thơ văn lúc này. Để tôi bàn

chuyện làm Ô chữ với chị Tâm đã. Tâm tròn mắt, thấy thú vị quá! Hai người chụm đầu làm Ô chữ. Người lính áo trận rằn ri và cô sinh viên sư phạm. Như hai đứa trẻ. Cuộc họp tàn. Sơn tạm biệt mọi người để vào trại. Tâm

Page 133: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

206 206

giúp Ly kê lại bàn ghế. Bỗng chốc, Tâm lấy ra một phong thư. Nét chữ mực xanh trên bì thư, rất thanh tú, và không cần mở thư, Tâm vẫn như thuộc lòng những câu trong đó: “Từ Tâm, dịp này tôi vào Sài Gòn, mong sẽ được gặp Từ Tâm”. Đó là nét chữ của Thiên Thu. Tâm len lén thở dài. Thiên Thu ơi! Bao giờ cho đến một cái chiều thứ bảy cho Từ Tâm được gặp Thiên Thu? 2 Tâm đến hơi trễ hơn mọi người. Tâm đứng ở sân sau, mà cũng nghe được tiếng nói cười rộn ràng đằng phòng họp. Vẫn là chiều thứ bảy. Tâm mở sợi thun dày ở yên sau, lấy cặp toan đi tới phòng họp, bỗng ngoái đầu về phía nhà in. Có một cái gì cũng rất rộn ràng ở phía ấy. Tâm nhớ ra là có nhiều lần mình muốn theo Ly xuống nhà in xem cho biết, nhưng thấy Ly bận rộn quá nên thôi. Tâm cũng không dám đi một mình, sợ làm như thế là “không phải phép”. Nhưng lần này, Tâm tự nhủ “Mình sẽ chỉ đứng ngoài nhìn vào thôi!” Và thế là Tâm đi về phía nhà in. Tâm thấy rất rõ một giàn máy in đang rầm rập làm việc. Những trang báo lần lượt chồng khít lên nhau. Đàng kia là máy cắt, nọ là máy đóng bìa. A, và có mấy người thợ sắp chữ nữa cơ! Tâm reo lên thầm trong lòng như vậy. Họ chăm chú dán mắt vào những con chữ nhỏ xíu như cái đầu đũa. Tâm đã hiểu rồi! Hóa ra là để có những trang báo đẹp mắt và rõ ràng, đã có bao người làm việc tỉ mỉ như con ong cái kiến như vậy. Thảo nào có nhiều khi trang báo in thử đầy cả lỗi chính tả, từ đó có cô “thầy cò” là Ly mỗi chiều ngoài giờ học lại đến sửa từng chút để những người sắp chữ sửa lại. Tâm mỉm cười với vẻ thán phục. Một người thợ sắp chữ nhác trông thấy Tâm, ông đến bên, hỏi:

- Cô có muốn vào xem không? Tâm đáp vội:

giúp Ly kê lại bàn ghế. Bỗng chốc, Tâm lấy ra một phong thư. Nét chữ mực xanh trên bì thư, rất thanh tú, và không cần mở thư, Tâm vẫn như thuộc lòng những câu trong đó: “Từ Tâm, dịp này tôi vào Sài Gòn, mong sẽ được gặp Từ Tâm”. Đó là nét chữ của Thiên Thu. Tâm len lén thở dài. Thiên Thu ơi! Bao giờ cho đến một cái chiều thứ bảy cho Từ Tâm được gặp Thiên Thu? 2 Tâm đến hơi trễ hơn mọi người. Tâm đứng ở sân sau, mà cũng nghe được tiếng nói cười rộn ràng đằng phòng họp. Vẫn là chiều thứ bảy. Tâm mở sợi thun dày ở yên sau, lấy cặp toan đi tới phòng họp, bỗng ngoái đầu về phía nhà in. Có một cái gì cũng rất rộn ràng ở phía ấy. Tâm nhớ ra là có nhiều lần mình muốn theo Ly xuống nhà in xem cho biết, nhưng thấy Ly bận rộn quá nên thôi. Tâm cũng không dám đi một mình, sợ làm như thế là “không phải phép”. Nhưng lần này, Tâm tự nhủ “Mình sẽ chỉ đứng ngoài nhìn vào thôi!” Và thế là Tâm đi về phía nhà in. Tâm thấy rất rõ một giàn máy in đang rầm rập làm việc. Những trang báo lần lượt chồng khít lên nhau. Đàng kia là máy cắt, nọ là máy đóng bìa. A, và có mấy người thợ sắp chữ nữa cơ! Tâm reo lên thầm trong lòng như vậy. Họ chăm chú dán mắt vào những con chữ nhỏ xíu như cái đầu đũa. Tâm đã hiểu rồi! Hóa ra là để có những trang báo đẹp mắt và rõ ràng, đã có bao người làm việc tỉ mỉ như con ong cái kiến như vậy. Thảo nào có nhiều khi trang báo in thử đầy cả lỗi chính tả, từ đó có cô “thầy cò” là Ly mỗi chiều ngoài giờ học lại đến sửa từng chút để những người sắp chữ sửa lại. Tâm mỉm cười với vẻ thán phục. Một người thợ sắp chữ nhác trông thấy Tâm, ông đến bên, hỏi:

- Cô có muốn vào xem không? Tâm đáp vội:

Page 134: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

207 207

- Dạ có ạ! Cháu có thể coi một chút được không chú?

- Được chứ! Tôi thấy cô quen mà, cô đến đây hoài, cô thường dựng xe ở góc kia.

- Ô, chú biết vậy sao? Tâm cảm động, bước theo người thợ sắp chữ. Người ấy chỉ cho Tâm xem từng giai đoạn của việc ấn loát, từ lúc sắp những con chữ li ti trên các bản gỗ, cho đến khi hoàn thành một cuốn báo. Chưa hết đâu! Khi đã in bài xong, những người thợ lại phải gỡ các con chữ và trả về đúng hộc đựng, thí dụ hộc đựng riêng chữ “a”, rồi một hộc khác đựng chữ “á”, hộc khác nữa dành cho chữ “à”…Tâm đã cảm thấy thỏa mãn những ao ước bấy lâu. Đến bên chiếc bàn gỗ lấm lem màu mực in đen thui, người thợ sắp chữ cầm một tập giấy lên, liếc nhìn rồi chậc lưỡi:

- Sắp tới, nhà in có thêm nhiều việc lắm đây! Sẽ có thêm loại sách Hoa Tím dành cho tuổi mới lớn, và lo in cho nhanh tập thơ chung của anh Trinh với Thiên Thu.

Tâm giật mình, hỏi ngay: - Thiên Thu hả chú? Thiên Thu có… - Anh ấy mới cùng với anh Trinh xuống đây nè! Cô

biết mặt anh ấy chứ? - Dạ thưa không, cháu chưa hề gặp…

Tâm lén nhìn vào trang giấy. Ồ! Những dòng chữ mực xanh thanh tú. Nét chữ của Thiên Thu! Tâm vội vã chào người thợ sắp chữ rồi rảo bước thật nhanh về phòng họp. Thiên Thu đã đến! Đúng là anh đã về Sài Gòn. Và “mong sẽ được gặp Từ Tâm”. Ôi! Sao tự nhiên tim mình lại đập nhanh thế này? Tâm dừng lại một chút, hít thở thật sâu. Và như một học sinh không thuộc bài sắp bước lên bục gỗ, Tâm se sẽ mở cửa phòng họp. Thiên Thu đâu? Tâm tự chế giễu mình, mình không hề biết mặt Thiên Thu mà! Thư từ văn nghệ qua lại, có ai yêu cầu gửi hình ảnh mô nà? Tâm nhìn quanh, chỉ những gương mặt quen thuộc mình đã biết. Thiên Thu đã đi rồi ư?

- Dạ có ạ! Cháu có thể coi một chút được không chú?

- Được chứ! Tôi thấy cô quen mà, cô đến đây hoài, cô thường dựng xe ở góc kia.

- Ô, chú biết vậy sao? Tâm cảm động, bước theo người thợ sắp chữ. Người ấy chỉ cho Tâm xem từng giai đoạn của việc ấn loát, từ lúc sắp những con chữ li ti trên các bản gỗ, cho đến khi hoàn thành một cuốn báo. Chưa hết đâu! Khi đã in bài xong, những người thợ lại phải gỡ các con chữ và trả về đúng hộc đựng, thí dụ hộc đựng riêng chữ “a”, rồi một hộc khác đựng chữ “á”, hộc khác nữa dành cho chữ “à”…Tâm đã cảm thấy thỏa mãn những ao ước bấy lâu. Đến bên chiếc bàn gỗ lấm lem màu mực in đen thui, người thợ sắp chữ cầm một tập giấy lên, liếc nhìn rồi chậc lưỡi:

- Sắp tới, nhà in có thêm nhiều việc lắm đây! Sẽ có thêm loại sách Hoa Tím dành cho tuổi mới lớn, và lo in cho nhanh tập thơ chung của anh Trinh với Thiên Thu.

Tâm giật mình, hỏi ngay: - Thiên Thu hả chú? Thiên Thu có… - Anh ấy mới cùng với anh Trinh xuống đây nè! Cô

biết mặt anh ấy chứ? - Dạ thưa không, cháu chưa hề gặp…

Tâm lén nhìn vào trang giấy. Ồ! Những dòng chữ mực xanh thanh tú. Nét chữ của Thiên Thu! Tâm vội vã chào người thợ sắp chữ rồi rảo bước thật nhanh về phòng họp. Thiên Thu đã đến! Đúng là anh đã về Sài Gòn. Và “mong sẽ được gặp Từ Tâm”. Ôi! Sao tự nhiên tim mình lại đập nhanh thế này? Tâm dừng lại một chút, hít thở thật sâu. Và như một học sinh không thuộc bài sắp bước lên bục gỗ, Tâm se sẽ mở cửa phòng họp. Thiên Thu đâu? Tâm tự chế giễu mình, mình không hề biết mặt Thiên Thu mà! Thư từ văn nghệ qua lại, có ai yêu cầu gửi hình ảnh mô nà? Tâm nhìn quanh, chỉ những gương mặt quen thuộc mình đã biết. Thiên Thu đã đi rồi ư?

Page 135: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

208 208

Tâm khẽ thở dài, chào mọi người rồi ngồi xuống cái góc quen thuộc của mình. Đầu bàn, anh Trinh nói lớn:

- Bây giờ Sơn đọc cho anh chị em nghe bài thơ mới nhất của Sơn đi!

Tâm nghĩ thầm: “Mình đã không gặp Thiên Thu, đã không được gặp Thiên Thu”. Tai nghe lơ đãng, Tâm giấu một nụ cười buồn. Và bài thơ của Sơn kết thúc với: “…Từ đó con vào quân đội Mẹ ở quê nhà mỏi trông Biết đến răng chừ tiếp nối Bên mẹ năm tháng còn không? Bây giờ mùa Xuân về đó Hồn thơ con trĩu nhớ thương Hẹn mẹ con về ngoài nớ Một mai nắng ấm quê hương” (*) Rồi những tiếng vỗ tay… Rồi Tâm giật mình. Bài thơ mới nhất! Bài thơ của Sơn. Nhưng giọng điệu của bài thơ không thể lầm với của ai khác. Là Thiên Thu! Ôi! Thiên Thu đó! Tâm bồi hồi. Tâm vỗ tay thật lớn. Một sự tán thưởng và vui mừng mà chỉ có một mình Tâm hiểu. Cuối buổi họp, mọi người dần dần về bớt. Tâm ngồi ở một góc bàn. Phong thư có chữ mực xanh vẫn còn y nguyên trong cặp. Tâm len lén nhìn Sơn. Chỉ có một động tác đơn giản là đến nói với Sơn: “Thiên Thu ơi, Từ Tâm đây!” thế mà không mở lời được. Sao mình lại chẳng chịu nói ngay từ ngày đầu với anh Quyên, anh Trinh, hay anh Hà, anh Vi, hay Ly, rằng mình là Từ Tâm? Mình e ngại xưng một cái tên mà số bài thơ chỉ vỏn vẹn đếm trên đầu ngón tay? Hay mình tự cao? Hay mình còn mang cái tính nết e thẹn của một người con gái Đà Nẵng xuất thân từ một gia đình quá

Tâm khẽ thở dài, chào mọi người rồi ngồi xuống cái góc quen thuộc của mình. Đầu bàn, anh Trinh nói lớn:

- Bây giờ Sơn đọc cho anh chị em nghe bài thơ mới nhất của Sơn đi!

Tâm nghĩ thầm: “Mình đã không gặp Thiên Thu, đã không được gặp Thiên Thu”. Tai nghe lơ đãng, Tâm giấu một nụ cười buồn. Và bài thơ của Sơn kết thúc với: “…Từ đó con vào quân đội Mẹ ở quê nhà mỏi trông Biết đến răng chừ tiếp nối Bên mẹ năm tháng còn không? Bây giờ mùa Xuân về đó Hồn thơ con trĩu nhớ thương Hẹn mẹ con về ngoài nớ Một mai nắng ấm quê hương” (*) Rồi những tiếng vỗ tay… Rồi Tâm giật mình. Bài thơ mới nhất! Bài thơ của Sơn. Nhưng giọng điệu của bài thơ không thể lầm với của ai khác. Là Thiên Thu! Ôi! Thiên Thu đó! Tâm bồi hồi. Tâm vỗ tay thật lớn. Một sự tán thưởng và vui mừng mà chỉ có một mình Tâm hiểu. Cuối buổi họp, mọi người dần dần về bớt. Tâm ngồi ở một góc bàn. Phong thư có chữ mực xanh vẫn còn y nguyên trong cặp. Tâm len lén nhìn Sơn. Chỉ có một động tác đơn giản là đến nói với Sơn: “Thiên Thu ơi, Từ Tâm đây!” thế mà không mở lời được. Sao mình lại chẳng chịu nói ngay từ ngày đầu với anh Quyên, anh Trinh, hay anh Hà, anh Vi, hay Ly, rằng mình là Từ Tâm? Mình e ngại xưng một cái tên mà số bài thơ chỉ vỏn vẹn đếm trên đầu ngón tay? Hay mình tự cao? Hay mình còn mang cái tính nết e thẹn của một người con gái Đà Nẵng xuất thân từ một gia đình quá

Page 136: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

209 209

cổ kính? Tất cả đều đúng. Rồi bỗng dâng lên một nỗi giận hờn. Cũng là tại Sơn nữa! Sao lại có người quái ác thế, chẳng chịu xưng tên ngay từ đầu? Ồ mà không! Sơn đã xưng tên thật của Sơn đó chứ! Chỉ là Sơn không xưng bút hiệu Thiên Thu mà thôi. Ôi chao cái thế giới thi văn học trò coi vậy mà cũng rắc rối gớm! Chắc có lẽ mọi người đã biết Sơn là Thiên Thu, chỉ có mình quen sau nên không biết. Trước mắt Tâm, Sơn là một “ông lính”, khiến Tâm hơi “ngán”. Nhưng Tâm cũng đã biết Thiên Thu là lính. Lính Nhảy Dù. Vậy mà hình ảnh Thiên Thu trong trí của Tâm có khác nhiều với Sơn đây. Có khi là do Tâm tô vẽ mọi chuyện theo ý mình, chứ Sơn vẫn là Sơn, vẫn là Thiên Thu bằng xương bằng thịt đấy thôi! Không biết làm gì, Tâm lại mở một trang báo có mục Ô chữ. Bỗng thấy có Sơn đến ngồi trước mặt. Sơn nói rất tự nhiên:

- Tâm này, lại làm Ô chữ? Tự nhiên Tâm hơi đỏ mặt. Tâm không dám nhìn Sơn, không dám nhìn Thiên Thu. Vâng, Thiên Thu làm thơ như người ta thở, còn Tâm chỉ biết đặt Ô chữ và có vỏn vẹn mấy bài thơ “con cóc”. Nhưng Thiên Thu có biết rằng Tâm đã yêu mến và thuộc lòng thơ của Thiên Thu?... Sơn nói, như thể đã “nghe” được ý nghĩ của Tâm:

- Tâm nè, giải Ô chữ làm cho tâm người ta hiền hòa, có khi chẳng cần biết thơ văn là cái chi hết.

Tâm hỏi nhỏ: - Sao anh Sơn nói vậy?

Sơn cười rất hiền: - Tôi nghĩ sao nói vậy. Biết Tâm, tôi thích thêm một

món: Ô chữ. Có lẽ lần này khi ra lại mặt trận, tôi sẽ mang một lô tạp chí có Ô chữ cho bạn bè cùng làm cho vui.

Tâm hơi giật mình, nói khẽ: - Anh Sơn sắp đi?

cổ kính? Tất cả đều đúng. Rồi bỗng dâng lên một nỗi giận hờn. Cũng là tại Sơn nữa! Sao lại có người quái ác thế, chẳng chịu xưng tên ngay từ đầu? Ồ mà không! Sơn đã xưng tên thật của Sơn đó chứ! Chỉ là Sơn không xưng bút hiệu Thiên Thu mà thôi. Ôi chao cái thế giới thi văn học trò coi vậy mà cũng rắc rối gớm! Chắc có lẽ mọi người đã biết Sơn là Thiên Thu, chỉ có mình quen sau nên không biết. Trước mắt Tâm, Sơn là một “ông lính”, khiến Tâm hơi “ngán”. Nhưng Tâm cũng đã biết Thiên Thu là lính. Lính Nhảy Dù. Vậy mà hình ảnh Thiên Thu trong trí của Tâm có khác nhiều với Sơn đây. Có khi là do Tâm tô vẽ mọi chuyện theo ý mình, chứ Sơn vẫn là Sơn, vẫn là Thiên Thu bằng xương bằng thịt đấy thôi! Không biết làm gì, Tâm lại mở một trang báo có mục Ô chữ. Bỗng thấy có Sơn đến ngồi trước mặt. Sơn nói rất tự nhiên:

- Tâm này, lại làm Ô chữ? Tự nhiên Tâm hơi đỏ mặt. Tâm không dám nhìn Sơn, không dám nhìn Thiên Thu. Vâng, Thiên Thu làm thơ như người ta thở, còn Tâm chỉ biết đặt Ô chữ và có vỏn vẹn mấy bài thơ “con cóc”. Nhưng Thiên Thu có biết rằng Tâm đã yêu mến và thuộc lòng thơ của Thiên Thu?... Sơn nói, như thể đã “nghe” được ý nghĩ của Tâm:

- Tâm nè, giải Ô chữ làm cho tâm người ta hiền hòa, có khi chẳng cần biết thơ văn là cái chi hết.

Tâm hỏi nhỏ: - Sao anh Sơn nói vậy?

Sơn cười rất hiền: - Tôi nghĩ sao nói vậy. Biết Tâm, tôi thích thêm một

món: Ô chữ. Có lẽ lần này khi ra lại mặt trận, tôi sẽ mang một lô tạp chí có Ô chữ cho bạn bè cùng làm cho vui.

Tâm hơi giật mình, nói khẽ: - Anh Sơn sắp đi?

Page 137: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

210 210

- Phải. - Bao giờ…? - Ngày mai. - Ngày mai… ngày mai sao? - Phải. Thứ bảy tuần tới tôi không còn được đến chơi

với các bạn. Nhưng tôi sẽ về nữa mà! - Anh Sơn nhớ về. - Tôi sẽ về chứ, Từ Tâm!

Tâm hốt hoảng. Sao Sơn lại biết mình là Từ Tâm? Trong tòa soạn vẫn chưa có ai biết. Sơn cười thân ái:

- Tôi nhận ra Từ Tâm ngay từ buổi họp đầu tiên. Tâm có ngạc nhiên không?

Tâm vẫn tròn mắt nhìn Sơn, không hiểu. Sơn lại cười: - Có gì đâu, chính nét chữ của Từ Tâm đã cho tôi

biết, dù chẳng có ai nói, ngay cả chính Từ Tâm cũng không nói.

- Nét chữ? - Phải, đây này, trên Ô chữ này! - Ơ! Nhưng… nhưng chỉ toàn là những chữ cái viết

in, đâu phải… - Thì là những chữ cái viết in. Đâu cần cả một câu

hay một bức thư. Từ Tâm không nhớ là Từ Tâm chẳng bao giờ viết hoa cả, mà chỉ viết chữ in ở đầu những chữ phải viết hoa hay sao? Vậy thì tôi chỉ cần nhìn thấy những chữ in này là nhận ra nét chữ của Từ Tâm ngay thôi. Nhất là cái chữ “T” in này, bao nhiêu lần Từ Tâm đã viết.

Chúa ơi! Tâm thầm thốt lên. Bỗng hai con mắt cay xé. Cái gì như là niềm cảm động dâng lên dào dạt. Thiên Thu không bao giờ là kẻ vô tâm! 3 Lâu rồi quên lễ Misa Vì đời quân ngũ đành xa tinh thần Hôm nay cơn nắng bâng khuâng Anh đi về phép thăm thành phố xưa

- Phải. - Bao giờ…? - Ngày mai. - Ngày mai… ngày mai sao? - Phải. Thứ bảy tuần tới tôi không còn được đến chơi

với các bạn. Nhưng tôi sẽ về nữa mà! - Anh Sơn nhớ về. - Tôi sẽ về chứ, Từ Tâm!

Tâm hốt hoảng. Sao Sơn lại biết mình là Từ Tâm? Trong tòa soạn vẫn chưa có ai biết. Sơn cười thân ái:

- Tôi nhận ra Từ Tâm ngay từ buổi họp đầu tiên. Tâm có ngạc nhiên không?

Tâm vẫn tròn mắt nhìn Sơn, không hiểu. Sơn lại cười: - Có gì đâu, chính nét chữ của Từ Tâm đã cho tôi

biết, dù chẳng có ai nói, ngay cả chính Từ Tâm cũng không nói.

- Nét chữ? - Phải, đây này, trên Ô chữ này! - Ơ! Nhưng… nhưng chỉ toàn là những chữ cái viết

in, đâu phải… - Thì là những chữ cái viết in. Đâu cần cả một câu

hay một bức thư. Từ Tâm không nhớ là Từ Tâm chẳng bao giờ viết hoa cả, mà chỉ viết chữ in ở đầu những chữ phải viết hoa hay sao? Vậy thì tôi chỉ cần nhìn thấy những chữ in này là nhận ra nét chữ của Từ Tâm ngay thôi. Nhất là cái chữ “T” in này, bao nhiêu lần Từ Tâm đã viết.

Chúa ơi! Tâm thầm thốt lên. Bỗng hai con mắt cay xé. Cái gì như là niềm cảm động dâng lên dào dạt. Thiên Thu không bao giờ là kẻ vô tâm! 3 Lâu rồi quên lễ Misa Vì đời quân ngũ đành xa tinh thần Hôm nay cơn nắng bâng khuâng Anh đi về phép thăm thành phố xưa

Page 138: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

211 211

Hồn mong mỏi ước đợi chờ Ngày mai phiên lễ sương mờ núi xa Tưng bừng lòng nở trinh hoa Anh đi dự lễ Misa rộn ràng (*) Từ hôm hội ngộ với Thiên Thu, Tâm đã có thói quen ra cầu nguyện trước hang đá có tượng Đức Mẹ, bên hông nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Những buổi lễ chiều vang vang tiếng kinh cầu và những hồi chuông làm lòng người lâng lâng. Vẫn là thứ bảy. Chiều. Những buổi họp. Ai khiến xui để chiều thứ bảy Tâm không có giờ học. Nếu phải đi học, Tâm làm sao có được những giây phút thật thân ái này? Cái phòng họp nhỏ của một tòa soạn, một nơi chốn rất bình yên. Phòng họp nhỏ của một tòa báo nhỏ. Nhưng không nhỏ, vì cái phòng họp này đã dung chứa những tình thân quá lớn. Những cây bút trẻ viết cho tuổi học trò, không huênh hoang tự thị, lúc nào cũng mang đến cho nhau sự đầm ấm. Chưa hết, còn có những cây bút mang áo lính, viết về đời lính, nhưng cũng hồn hậu lắm. Và cũng là buổi chiều thứ bảy. Khi đó phòng họp không có một tiếng nói. Nhiều người đã đến và ngồi ở những góc quen thuộc. Họ nhìn nhau, lặng lẽ. Từ Tâm lại cũng đến ngồi ở cái góc của mình, nơi thường xuyên có những trang báo mở ra mục Ô chữ. Tâm cũng vẫn thấy những chữ in điền vào các ô trống. Nhất là cái chữ “T” in này, bao nhiêu lần Từ Tâm đã viết. Sơn ơi, là “Thiên Thu”, là “Từ Tâm” đó! Bao nhiêu bức thư với màu mực xanh. Người lính chiến bàn tay chai sần sương gió mà vẫn giữ nét chữ thanh tú hoa mỹ. Còn Từ Tâm thì chỉ thích viết chữ in thay vì viết hoa. Nhưng đâu rồi tiếng cười sang sảng vô tư, như chiếc gạch nối cho mọi người? Đâu rồi những bài thơ? Tập thơ Thiên Thu dự định in cùng với anh Trinh đang được “lên khuôn”. Tòa soạn đang vào mùa tăng cường độ làm việc, vì có thêm những sách truyện dài Hoa Tím, và có thêm những tập thơ như thơ của Thiên Thu. Tiếng máy in

Hồn mong mỏi ước đợi chờ Ngày mai phiên lễ sương mờ núi xa Tưng bừng lòng nở trinh hoa Anh đi dự lễ Misa rộn ràng (*) Từ hôm hội ngộ với Thiên Thu, Tâm đã có thói quen ra cầu nguyện trước hang đá có tượng Đức Mẹ, bên hông nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Những buổi lễ chiều vang vang tiếng kinh cầu và những hồi chuông làm lòng người lâng lâng. Vẫn là thứ bảy. Chiều. Những buổi họp. Ai khiến xui để chiều thứ bảy Tâm không có giờ học. Nếu phải đi học, Tâm làm sao có được những giây phút thật thân ái này? Cái phòng họp nhỏ của một tòa soạn, một nơi chốn rất bình yên. Phòng họp nhỏ của một tòa báo nhỏ. Nhưng không nhỏ, vì cái phòng họp này đã dung chứa những tình thân quá lớn. Những cây bút trẻ viết cho tuổi học trò, không huênh hoang tự thị, lúc nào cũng mang đến cho nhau sự đầm ấm. Chưa hết, còn có những cây bút mang áo lính, viết về đời lính, nhưng cũng hồn hậu lắm. Và cũng là buổi chiều thứ bảy. Khi đó phòng họp không có một tiếng nói. Nhiều người đã đến và ngồi ở những góc quen thuộc. Họ nhìn nhau, lặng lẽ. Từ Tâm lại cũng đến ngồi ở cái góc của mình, nơi thường xuyên có những trang báo mở ra mục Ô chữ. Tâm cũng vẫn thấy những chữ in điền vào các ô trống. Nhất là cái chữ “T” in này, bao nhiêu lần Từ Tâm đã viết. Sơn ơi, là “Thiên Thu”, là “Từ Tâm” đó! Bao nhiêu bức thư với màu mực xanh. Người lính chiến bàn tay chai sần sương gió mà vẫn giữ nét chữ thanh tú hoa mỹ. Còn Từ Tâm thì chỉ thích viết chữ in thay vì viết hoa. Nhưng đâu rồi tiếng cười sang sảng vô tư, như chiếc gạch nối cho mọi người? Đâu rồi những bài thơ? Tập thơ Thiên Thu dự định in cùng với anh Trinh đang được “lên khuôn”. Tòa soạn đang vào mùa tăng cường độ làm việc, vì có thêm những sách truyện dài Hoa Tím, và có thêm những tập thơ như thơ của Thiên Thu. Tiếng máy in

Page 139: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

212 212

vẫn chạy rầm rập như nhịp bước quân hành. Tuổi Hoa có thêm nhiều bài viết về chiến tranh. Và có một trang báo dành đặc biệt cho một người-thơ-nhà-binh nằm xuống ở chiến trường Cam-Bốt. Rêu phong lưng đá ngùi trông Vết thương lở lói ẩm dòng tháng năm Nghe ra rạn nứt âm thầm Bóng miên dạng trắng hao tầm vóc sương Và nghe giấc ngủ hoang đường Tôi mơ mình bước trên đường hoang sơ Trăm con kỷ niệm vỗ bờ Chừ nghe ngày tháng trơ trơ cuộc lòng (*) Mấy mươi năm sau, tôi, hay có còn ai, khóc thương anh không? Thơ vẫn bước đi theo chân anh. Thơ cũng sẽ ở mãi cùng tôi. Từ Tâm lặng lẽ gấp trang báo lại. Ngủ một giấc dài đi nhé, Thiên Thu! (*) Trích từ những bài thơ của Trần Miên Trường, tuoihoa.hatnang.com Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh Tháng Chín 2012

vẫn chạy rầm rập như nhịp bước quân hành. Tuổi Hoa có thêm nhiều bài viết về chiến tranh. Và có một trang báo dành đặc biệt cho một người-thơ-nhà-binh nằm xuống ở chiến trường Cam-Bốt. Rêu phong lưng đá ngùi trông Vết thương lở lói ẩm dòng tháng năm Nghe ra rạn nứt âm thầm Bóng miên dạng trắng hao tầm vóc sương Và nghe giấc ngủ hoang đường Tôi mơ mình bước trên đường hoang sơ Trăm con kỷ niệm vỗ bờ Chừ nghe ngày tháng trơ trơ cuộc lòng (*) Mấy mươi năm sau, tôi, hay có còn ai, khóc thương anh không? Thơ vẫn bước đi theo chân anh. Thơ cũng sẽ ở mãi cùng tôi. Từ Tâm lặng lẽ gấp trang báo lại. Ngủ một giấc dài đi nhé, Thiên Thu! (*) Trích từ những bài thơ của Trần Miên Trường, tuoihoa.hatnang.com Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh Tháng Chín 2012

Page 140: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

213 213

ĐẶNG KIM CÔN Tô Thị Rời Non Cao

Tranh Thắm Nguyễn (báo Trẻ online)

Quán có khoảng 3, 4 cô chạy bàn gì đó, cô nào

cũng khá đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất là Thủy. Chủ quán cũng khéo lựa để cho Thủy giữ nhiệm vụ két-sê. Nàng ngồi trên két trông diệu vợi như vầng trăng xa xôi, vẻ như tay người trần không bao giờ với tới, nhưng càng huyền ảo hơn, những khi quán đông khách, Thủy phải bước xuống trần gian phụ bưng café. Không người khách nào không nhìn theo từng bước đi nhẹ nhàng ẻo lả, tha thướt trong chiếc áo trắng mộng mị của nàng. Có lẽ một phần nhờ vậy mà quán ít khi nào vắng khách.

Chuẩn cũng đã đến đây đôi ba lần, nhưng chưa lần nào nói chuyện với nàng. Nếu chàng về thành phố mỗi ngày hoặc đến quán thường thì chắc họ đã dễ tiếp xúc với nhau hơn. Quán đêm nay cũng khá đông khách, may thay, Thủy đã mang café đến bàn của Chuẩn. Và Thủy đã chợt giật mình đánh rơi cái vẻ mặt mơ màng của chị Hằng đêm thu:

-Anh Chuẩn. -Cô... cô là...

ĐẶNG KIM CÔN Tô Thị Rời Non Cao

Tranh Thắm Nguyễn (báo Trẻ online)

Quán có khoảng 3, 4 cô chạy bàn gì đó, cô nào

cũng khá đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất là Thủy. Chủ quán cũng khéo lựa để cho Thủy giữ nhiệm vụ két-sê. Nàng ngồi trên két trông diệu vợi như vầng trăng xa xôi, vẻ như tay người trần không bao giờ với tới, nhưng càng huyền ảo hơn, những khi quán đông khách, Thủy phải bước xuống trần gian phụ bưng café. Không người khách nào không nhìn theo từng bước đi nhẹ nhàng ẻo lả, tha thướt trong chiếc áo trắng mộng mị của nàng. Có lẽ một phần nhờ vậy mà quán ít khi nào vắng khách.

Chuẩn cũng đã đến đây đôi ba lần, nhưng chưa lần nào nói chuyện với nàng. Nếu chàng về thành phố mỗi ngày hoặc đến quán thường thì chắc họ đã dễ tiếp xúc với nhau hơn. Quán đêm nay cũng khá đông khách, may thay, Thủy đã mang café đến bàn của Chuẩn. Và Thủy đã chợt giật mình đánh rơi cái vẻ mặt mơ màng của chị Hằng đêm thu:

-Anh Chuẩn. -Cô... cô là...

Page 141: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

214 214

-Dạ em, anh đợi em chút, anh nhé. Rồi nàng thoăn thoắt đi, vẻ mặt rạng rỡ hẳn lên.

Trên két kia, chị Hằng đã vẹt đám mây mù thường ngày, bước ra sáng lóa, không đủ bình tĩnh để giữ khỏi phải thường xuyên liếc về phía Chuẩn cười cười. Khổ nỗi, Chuẩn vẫn chưa nhớ ra nàng là ai. Nhưng sao cô gọi đúng tên mình? Bệnh gì đâu mà từ chối cái vé số độc đắc này. Vâng, mấy tiếng đồng hồ là bao nhiêu, mới đi hành quân về mà, đơn vị ở cách thành phố hơn hai mươi cây số, không ngồi đây thì cũng lang thang. Mấy cái truyện trinh thám, gián điệp, kiếm hiệp chợt lảng vảng trong đầu, hay là Việt Cộng đang mỹ nhân kế với chàng? Nhưng sao lại là chàng mà không phải hàng hàng lớp lớp những sĩ quan đang ngồi loanh quanh đây? Với lại chàng có mang lon lá gì chứng tỏ là quan quyền đâu. Có chết thì hẵng tính sau đi, sông suối không chết sá chi lỗ trâu nằm.

Quán vẫn còn đông khách, Thủy xin phép chủ quán, giao sổ sách tiền bạc lại xong, lấy thêm mấy gói thuốc lá, bước xuống chỗ Chuẩn:

-Đi anh, em tính rồi. Chuẩn làm bộ khoan thai đứng dậy, vẫn chưa tìm

thấy một nét quen thuộc nào trên vầng trăng bàng bạc ấy. Rất tự nhiên, Thủy bi bô:

-Thuốc lá anh đây. Rồi nắm tay chàng bước ra khỏi quán:

-Sao cô biết tôi? -Cái mặt anh, cái bảng tên trên ngực áo, cái phù hiệu trên vai, chắc em lầm. Làm gì có vẻ xa xôi như đang ở trên mây ấy. -Thì trên mây chứ còn gì nữa. Đang ở Cung Quảng đây. Thủy cười: -Đúng là lính đào hoa có phải, chỉ để cho người ta nhớ mình. Cung Quảng nào? Không phải đang ở với em sao? Sương nè. Chuẩn lục vội cái trí nhớ của chàng, không nhiều tên Sương đến nỗi chàng phải khó khăn lắm mới có thể nhớ ra một Sương tơ nõn, hiền lành ở cụm Đồi 10 Đệ Đức,

-Dạ em, anh đợi em chút, anh nhé. Rồi nàng thoăn thoắt đi, vẻ mặt rạng rỡ hẳn lên.

Trên két kia, chị Hằng đã vẹt đám mây mù thường ngày, bước ra sáng lóa, không đủ bình tĩnh để giữ khỏi phải thường xuyên liếc về phía Chuẩn cười cười. Khổ nỗi, Chuẩn vẫn chưa nhớ ra nàng là ai. Nhưng sao cô gọi đúng tên mình? Bệnh gì đâu mà từ chối cái vé số độc đắc này. Vâng, mấy tiếng đồng hồ là bao nhiêu, mới đi hành quân về mà, đơn vị ở cách thành phố hơn hai mươi cây số, không ngồi đây thì cũng lang thang. Mấy cái truyện trinh thám, gián điệp, kiếm hiệp chợt lảng vảng trong đầu, hay là Việt Cộng đang mỹ nhân kế với chàng? Nhưng sao lại là chàng mà không phải hàng hàng lớp lớp những sĩ quan đang ngồi loanh quanh đây? Với lại chàng có mang lon lá gì chứng tỏ là quan quyền đâu. Có chết thì hẵng tính sau đi, sông suối không chết sá chi lỗ trâu nằm.

Quán vẫn còn đông khách, Thủy xin phép chủ quán, giao sổ sách tiền bạc lại xong, lấy thêm mấy gói thuốc lá, bước xuống chỗ Chuẩn:

-Đi anh, em tính rồi. Chuẩn làm bộ khoan thai đứng dậy, vẫn chưa tìm

thấy một nét quen thuộc nào trên vầng trăng bàng bạc ấy. Rất tự nhiên, Thủy bi bô:

-Thuốc lá anh đây. Rồi nắm tay chàng bước ra khỏi quán:

-Sao cô biết tôi? -Cái mặt anh, cái bảng tên trên ngực áo, cái phù hiệu trên vai, chắc em lầm. Làm gì có vẻ xa xôi như đang ở trên mây ấy. -Thì trên mây chứ còn gì nữa. Đang ở Cung Quảng đây. Thủy cười: -Đúng là lính đào hoa có phải, chỉ để cho người ta nhớ mình. Cung Quảng nào? Không phải đang ở với em sao? Sương nè. Chuẩn lục vội cái trí nhớ của chàng, không nhiều tên Sương đến nỗi chàng phải khó khăn lắm mới có thể nhớ ra một Sương tơ nõn, hiền lành ở cụm Đồi 10 Đệ Đức,

Page 142: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

215 215

những ngày chàng đi tiền sát cho một tiểu đoàn bộ binh ở đó. Thường thì tiểu đoàn bộ binh nào cũng có một sĩ quan tiền sát viên đi theo để sẵn sàng yểm trợ, điều chỉnh pháo binh cho họ khi cần. Hôm nọ, đại đội của đại úy Khương được tiểu đoàn ưu tiên cho mượn tiền sát viên đi theo làm vệ sĩ trong cuộc hành quân lục soát, sau một buổi chiều trong khu vực trách nhiệm của Khương, Việt Cộng đã ám sát chết một Chủ tịch xã. Với tiểu đoàn thì chàng đã có vai vế, ở đây, với đại đội thì chàng lại càng được xem trọng hơn. Cuộc hành quân ngắn trong ngày không gặp một cuộc kháng cự nhỏ nào, đại úy Khương dẫn đại đội loanh quanh chân núi, nhờ Chuẩn gọi tác xạ chừng chục quả pháo binh, ra lệnh cho lính tráng bắn mấy chục loạt đạn để hợp thức hóa một buổi chiều đi trận.

Trên đường về, để lấy thành tích, Đại úy Khương tạt qua làng, lục soát, bắt một số người mà ông cho là khả nghi, trong đó, nhà cuối cùng và người cuối cùng bị bắt là Sương mỏng manh, nhút nhát này. Chuẩn lẩm bẩm: -Thoắt cái hơn hai năm rồi. -Thế bây giờ anh lên tới cái ông gì rồi? -Ông xã em. -Hay gớm. Thật là bạo miệng. Không sợ chị nhà sao? -Sợ mà dám thản nhiên nắm tay trước mặt khách khứa sao? -Em khác. Em có dám đèo bòng đâu. Chỉ cần em được ôm ân nhân của em, chả cần làm bà tướng bà tá gì hết. Chuẩn vòng tay qua vai nàng: -Lợi dụng hai chữ ân nhân! Anh nhìn không ra em. Không còn là cô gái rừng xanh trước. -Dạ, lúa tốt nhờ phân mà. Son phấn làm em bớt Việt Cộng đi. -Bớt thôi chứ chưa hết hả? -Dạ, sợ không? Hối hận đã bảo lãnh nhỏ Việt Cộng này chưa? Sương áp mặt vào vai Chuẩn đùa: -Ngứa răng Việt Cộng quá. Sợ không? Mình đi ăn

những ngày chàng đi tiền sát cho một tiểu đoàn bộ binh ở đó. Thường thì tiểu đoàn bộ binh nào cũng có một sĩ quan tiền sát viên đi theo để sẵn sàng yểm trợ, điều chỉnh pháo binh cho họ khi cần. Hôm nọ, đại đội của đại úy Khương được tiểu đoàn ưu tiên cho mượn tiền sát viên đi theo làm vệ sĩ trong cuộc hành quân lục soát, sau một buổi chiều trong khu vực trách nhiệm của Khương, Việt Cộng đã ám sát chết một Chủ tịch xã. Với tiểu đoàn thì chàng đã có vai vế, ở đây, với đại đội thì chàng lại càng được xem trọng hơn. Cuộc hành quân ngắn trong ngày không gặp một cuộc kháng cự nhỏ nào, đại úy Khương dẫn đại đội loanh quanh chân núi, nhờ Chuẩn gọi tác xạ chừng chục quả pháo binh, ra lệnh cho lính tráng bắn mấy chục loạt đạn để hợp thức hóa một buổi chiều đi trận.

Trên đường về, để lấy thành tích, Đại úy Khương tạt qua làng, lục soát, bắt một số người mà ông cho là khả nghi, trong đó, nhà cuối cùng và người cuối cùng bị bắt là Sương mỏng manh, nhút nhát này. Chuẩn lẩm bẩm: -Thoắt cái hơn hai năm rồi. -Thế bây giờ anh lên tới cái ông gì rồi? -Ông xã em. -Hay gớm. Thật là bạo miệng. Không sợ chị nhà sao? -Sợ mà dám thản nhiên nắm tay trước mặt khách khứa sao? -Em khác. Em có dám đèo bòng đâu. Chỉ cần em được ôm ân nhân của em, chả cần làm bà tướng bà tá gì hết. Chuẩn vòng tay qua vai nàng: -Lợi dụng hai chữ ân nhân! Anh nhìn không ra em. Không còn là cô gái rừng xanh trước. -Dạ, lúa tốt nhờ phân mà. Son phấn làm em bớt Việt Cộng đi. -Bớt thôi chứ chưa hết hả? -Dạ, sợ không? Hối hận đã bảo lãnh nhỏ Việt Cộng này chưa? Sương áp mặt vào vai Chuẩn đùa: -Ngứa răng Việt Cộng quá. Sợ không? Mình đi ăn

Page 143: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

216 216

chút gì nha. Họ bước vào quán phở, hai người ngồi đối diện nhau. Niềm vui bất chợt làm cả hai không giấu được nụ cười hạnh phúc lúng liếng trong mắt. Chuẩn đăm đắm nhìn Sương, như muốn tìm kiếm chút quen thuộc của nàng mấy năm trước, lúc nàng bị Đại úy Khương trói tay dẫn về căn cứ. Một Sương gầy gò, nhỏ nhắn, nước mắt như mưa, rũ xuống như cây nấm mắc lụt, mẹ cô chỉ thiếu có quì xuống chân Đại úy Khương mà lạy. Cô thì thỉnh thoảng nói nho nhỏ như rên: -Con đâu làm gì Đại úy ơi. Ông tha giùm con, con học trong Bồng Sơn mới về đâu phải sống ở đây. Làm phước Đại úy ơi. Sương níu tay Chuẩn đang ở bên cạnh Đại úy Khương, như bám đại vào một chiếc phao: -Anh cứu em, em biết anh tin em không có gì mà. Có gì hay không thì làm sao Chuẩn biết, nhưng thấy cô bé sao mà tội nghiệp quá. Không lâu lắm, chỉ mấy ngày trước, lúc cùng chờ trực thăng từ Bồng Sơn ra đồi 10, họ đã gặp nhau, “hành khách” chỉ có mấy người, thấy Sương ôm cặp, bé bỏng giữa sân bay nắng gió, “anh em”đã quen nhau, nói chuyện học hành, lính tráng mà không hẹn một lúc nào gặp lại. Thật không ngờ là họ gặp lại trong hoàn cảnh này. Và Sương đã bị nhốt ở một trong những cái cũi lớn đan bằng thép gai mà người ta gọi là chuồng cọp trước cổng căn cứ. Chuẩn vẫn cảm thấy áy náy với cái hình ảnh ấy.

Hai tô phở được đặt trước mặt hai người, họ cùng cầm đũa, nhưng Sương thì chỉ lặt mấy lá é quế, giá và tương cho vào tô của Chuẩn mời chàng ăn:

-Mình lại có được một bữa ăn với nhau. Em nhớ cái bữa ăn trên đồi. Đôi khi nhớ lại, em không nhịn nổi nước mắt, nhất là nghĩ không còn gặp được anh nữa.

Rất nhanh, bữa ăn trên đồi mà Sương nhắc ấy thoáng qua đầu Chuẩn, Chiều hôm ấy, Chuẩn bảo mấy đệ tử chàng nấu thêm cơm, chàng đã mang ra trước cổng mời mấy “tù binh”, và trước một cái chuồng cọp, chàng đã ngồi

chút gì nha. Họ bước vào quán phở, hai người ngồi đối diện nhau. Niềm vui bất chợt làm cả hai không giấu được nụ cười hạnh phúc lúng liếng trong mắt. Chuẩn đăm đắm nhìn Sương, như muốn tìm kiếm chút quen thuộc của nàng mấy năm trước, lúc nàng bị Đại úy Khương trói tay dẫn về căn cứ. Một Sương gầy gò, nhỏ nhắn, nước mắt như mưa, rũ xuống như cây nấm mắc lụt, mẹ cô chỉ thiếu có quì xuống chân Đại úy Khương mà lạy. Cô thì thỉnh thoảng nói nho nhỏ như rên: -Con đâu làm gì Đại úy ơi. Ông tha giùm con, con học trong Bồng Sơn mới về đâu phải sống ở đây. Làm phước Đại úy ơi. Sương níu tay Chuẩn đang ở bên cạnh Đại úy Khương, như bám đại vào một chiếc phao: -Anh cứu em, em biết anh tin em không có gì mà. Có gì hay không thì làm sao Chuẩn biết, nhưng thấy cô bé sao mà tội nghiệp quá. Không lâu lắm, chỉ mấy ngày trước, lúc cùng chờ trực thăng từ Bồng Sơn ra đồi 10, họ đã gặp nhau, “hành khách” chỉ có mấy người, thấy Sương ôm cặp, bé bỏng giữa sân bay nắng gió, “anh em”đã quen nhau, nói chuyện học hành, lính tráng mà không hẹn một lúc nào gặp lại. Thật không ngờ là họ gặp lại trong hoàn cảnh này. Và Sương đã bị nhốt ở một trong những cái cũi lớn đan bằng thép gai mà người ta gọi là chuồng cọp trước cổng căn cứ. Chuẩn vẫn cảm thấy áy náy với cái hình ảnh ấy.

Hai tô phở được đặt trước mặt hai người, họ cùng cầm đũa, nhưng Sương thì chỉ lặt mấy lá é quế, giá và tương cho vào tô của Chuẩn mời chàng ăn:

-Mình lại có được một bữa ăn với nhau. Em nhớ cái bữa ăn trên đồi. Đôi khi nhớ lại, em không nhịn nổi nước mắt, nhất là nghĩ không còn gặp được anh nữa.

Rất nhanh, bữa ăn trên đồi mà Sương nhắc ấy thoáng qua đầu Chuẩn, Chiều hôm ấy, Chuẩn bảo mấy đệ tử chàng nấu thêm cơm, chàng đã mang ra trước cổng mời mấy “tù binh”, và trước một cái chuồng cọp, chàng đã ngồi

Page 144: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

217 217

ăn với Sương đang bị nhốt bên trong. Sau đó Chuẩn đã năn nỉ Đại úy Khương thả Sương ra. Lúc đầu Khương chẳng những không chịu, còn lên mặt dạy chàng những bài học về kinh nghiệm chiến trường, “Ông ngây thơ quá, cứ như ông, quân đội sẽ chỉ toàn là cố thiếu úy, đếch có thằng nào lên được thiếu úy thực thụ. Ông biết, Việt Cộng nó không để cho ông thấy nó là Việt Cộng đâu. Hơn nữa, cứ nhốt gia đình Việt Cộng ở đó, cho kẹo, đố nó dám pháo kích vào đây”, nhưng sau thấy chàng quá khẩn thiết, Khương đồng ý với điều kiện thầy trò Chuẩn phải chịu trách nhiệm canh giữ Sương. Đêm ấy Chuẩn đưa Sương về lô cốt của chàng, mắc võng cho Sương nằm, “hai anh em” trò chuyện quên sáng, Sương kể về gia đình nàng, cha tập kết ra Bắc, “mẹ em vì không muốn để người ta bắt con mình lên núi, đã làm mọi cách cho em đi học xa còn nhắc nhở đừng nghe lời ai tham gia gì, cứ lo học thôi”.

Không đúng như lời Đại úy Khương nói, mấy quả đạn pháo kích hình như không kịp biết có phe ta đang bị nhốt bên hàng rào, đã nổ banh mấy cái chuồng cọp trước cổng, banh luôn mấy con người trong đó trước khi biết họ có đúng là Việt Cộng thật hay không. Sáng hôm sau Bà mẹ Sương đã lên ký giấy bảo lãnh con về, đã quì xuống lạy Đại úy Khương cảm tạ ơn đã cứu mạng con bà.

Họ vừa ăn vừa nói chuyện, Sương cho biết, hết Bồng Sơn, Sương vào tiếp đệ nhị cấp ở Qui Nhơn này. Quán café đó là của ông cậu nàng, khi nào rảnh thì Sương phụ.

-Sao Sương lại biến thành Thủy vậy? -Sương hay Thủy gì không phải là nước? Có điều giọt sương nó nhỏ bé cô đơn, tội nghiệp nó. Mà em nghĩ, thường thì người ta không muốn là con Thủy đi bán café đâu, đúng không? *** Căn phòng trọ của Sương ở thẳng trong Cô Nhi Viện Ghềnh Ráng, nàng nói, thỉnh thoảng, ban ngày em phụ việc ở đây, tạp dịch, phát thuốc, coi thư viện, có khi

ăn với Sương đang bị nhốt bên trong. Sau đó Chuẩn đã năn nỉ Đại úy Khương thả Sương ra. Lúc đầu Khương chẳng những không chịu, còn lên mặt dạy chàng những bài học về kinh nghiệm chiến trường, “Ông ngây thơ quá, cứ như ông, quân đội sẽ chỉ toàn là cố thiếu úy, đếch có thằng nào lên được thiếu úy thực thụ. Ông biết, Việt Cộng nó không để cho ông thấy nó là Việt Cộng đâu. Hơn nữa, cứ nhốt gia đình Việt Cộng ở đó, cho kẹo, đố nó dám pháo kích vào đây”, nhưng sau thấy chàng quá khẩn thiết, Khương đồng ý với điều kiện thầy trò Chuẩn phải chịu trách nhiệm canh giữ Sương. Đêm ấy Chuẩn đưa Sương về lô cốt của chàng, mắc võng cho Sương nằm, “hai anh em” trò chuyện quên sáng, Sương kể về gia đình nàng, cha tập kết ra Bắc, “mẹ em vì không muốn để người ta bắt con mình lên núi, đã làm mọi cách cho em đi học xa còn nhắc nhở đừng nghe lời ai tham gia gì, cứ lo học thôi”.

Không đúng như lời Đại úy Khương nói, mấy quả đạn pháo kích hình như không kịp biết có phe ta đang bị nhốt bên hàng rào, đã nổ banh mấy cái chuồng cọp trước cổng, banh luôn mấy con người trong đó trước khi biết họ có đúng là Việt Cộng thật hay không. Sáng hôm sau Bà mẹ Sương đã lên ký giấy bảo lãnh con về, đã quì xuống lạy Đại úy Khương cảm tạ ơn đã cứu mạng con bà.

Họ vừa ăn vừa nói chuyện, Sương cho biết, hết Bồng Sơn, Sương vào tiếp đệ nhị cấp ở Qui Nhơn này. Quán café đó là của ông cậu nàng, khi nào rảnh thì Sương phụ.

-Sao Sương lại biến thành Thủy vậy? -Sương hay Thủy gì không phải là nước? Có điều giọt sương nó nhỏ bé cô đơn, tội nghiệp nó. Mà em nghĩ, thường thì người ta không muốn là con Thủy đi bán café đâu, đúng không? *** Căn phòng trọ của Sương ở thẳng trong Cô Nhi Viện Ghềnh Ráng, nàng nói, thỉnh thoảng, ban ngày em phụ việc ở đây, tạp dịch, phát thuốc, coi thư viện, có khi

Page 145: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

218 218

kèm mấy nhỏ học nữa. Gì cũng làm, phụ mà, ai sai gì làm nấy. Mấy Sơ khó tính lắm, nhưng họ cũng rất thương em. Em có kể chuyện anh cho họ nghe, họ khuyên em cầu xin Chúa. Lát em lên báo tin vui với họ, em biết mấy Sơ sẽ mừng nói Chúa đã đem anh về cho em.

-Em có đi nhà thờ chứ? -Dạ thường. Nhưng em chưa có đạo. Chuẩn hỏi thăm về khu đồi 10, về Đệ Đức, về gia đình Sương, Sương kể:

-Việc em không bị chết trong mấy cái chuồng cọp đêm ấy đã cho họ cái cơ hội khó dễ Má. Sau nhiều lần tự khai kiểm điểm gì đó họ bắt Má lên núi. Cũng may má đã bán hết ruộng vườn để gửi em vào đây học. Má cũng đã căn dặn em đừng bao giờ nên trở về, sẽ rất nhiều nguy hiểm chực sẵn ở đó. Điều đau đớn là má đã mất trên núi, người ta cho hay là bị sốt rét, mà đau đớn hơn nữa là em cũng không dám về. -Anh không hiểu, cái gì tự khai, kiểm điểm? Họ tự khai kiểm điểm lúc nào? Chính quyền quốc gia đâu? -Không ở thôn quê anh không biết đâu, chính quyền quốc gia chỉ có một nửa của ban ngày. Một nửa là họ ẩn nấp, trà trộn, sinh hoạt trong đó. Người dân ở giữa hai lằn đạn, sống chết tính bằng giây, bằng phút. Ban ngày các anh đến đóng quân, chiều rút, ban đêm họ tập trung dân làng lên án trừng trị những gia đình vô phúc bị các anh tá túc, cơm nước nhờ ở đó. Rồi thì người dân phải đi đào đường, đào hầm, đắp mô, cắm chông, để đến sáng các anh đến bắt dân làng đi lấp đường, đi dỡ mô, gỡ chông. Những căn nhà các anh nghi là nhà Việt Cộng trở thành đống tro trong chốc lát, cũng chỉ làm khổ người dân, lại phải dựng lên những mái chòi khác tạm trú. Em nói là tạm trú, vì tất cả đều chỉ là tạm bợ, có đó rồi không đó, ngay đến cả con người, không biết sẽ mất đi lúc nào. Anh có biết cái quý nhất của đời sống thôn quê đó là gì không? Là những cái hầm trú bom đạn, chỉ còn có cái đó được coi là tài sản. Vậy mà, đêm đêm nằm dưới tiếng gầm thét của đạn đại bác các anh, đạn pháo kích của họ, sáng ra vài ba người dân chết ngay trong hầm trú ẩn vẫn là chuyện không lạ. Họ lại lùa

kèm mấy nhỏ học nữa. Gì cũng làm, phụ mà, ai sai gì làm nấy. Mấy Sơ khó tính lắm, nhưng họ cũng rất thương em. Em có kể chuyện anh cho họ nghe, họ khuyên em cầu xin Chúa. Lát em lên báo tin vui với họ, em biết mấy Sơ sẽ mừng nói Chúa đã đem anh về cho em.

-Em có đi nhà thờ chứ? -Dạ thường. Nhưng em chưa có đạo. Chuẩn hỏi thăm về khu đồi 10, về Đệ Đức, về gia đình Sương, Sương kể:

-Việc em không bị chết trong mấy cái chuồng cọp đêm ấy đã cho họ cái cơ hội khó dễ Má. Sau nhiều lần tự khai kiểm điểm gì đó họ bắt Má lên núi. Cũng may má đã bán hết ruộng vườn để gửi em vào đây học. Má cũng đã căn dặn em đừng bao giờ nên trở về, sẽ rất nhiều nguy hiểm chực sẵn ở đó. Điều đau đớn là má đã mất trên núi, người ta cho hay là bị sốt rét, mà đau đớn hơn nữa là em cũng không dám về. -Anh không hiểu, cái gì tự khai, kiểm điểm? Họ tự khai kiểm điểm lúc nào? Chính quyền quốc gia đâu? -Không ở thôn quê anh không biết đâu, chính quyền quốc gia chỉ có một nửa của ban ngày. Một nửa là họ ẩn nấp, trà trộn, sinh hoạt trong đó. Người dân ở giữa hai lằn đạn, sống chết tính bằng giây, bằng phút. Ban ngày các anh đến đóng quân, chiều rút, ban đêm họ tập trung dân làng lên án trừng trị những gia đình vô phúc bị các anh tá túc, cơm nước nhờ ở đó. Rồi thì người dân phải đi đào đường, đào hầm, đắp mô, cắm chông, để đến sáng các anh đến bắt dân làng đi lấp đường, đi dỡ mô, gỡ chông. Những căn nhà các anh nghi là nhà Việt Cộng trở thành đống tro trong chốc lát, cũng chỉ làm khổ người dân, lại phải dựng lên những mái chòi khác tạm trú. Em nói là tạm trú, vì tất cả đều chỉ là tạm bợ, có đó rồi không đó, ngay đến cả con người, không biết sẽ mất đi lúc nào. Anh có biết cái quý nhất của đời sống thôn quê đó là gì không? Là những cái hầm trú bom đạn, chỉ còn có cái đó được coi là tài sản. Vậy mà, đêm đêm nằm dưới tiếng gầm thét của đạn đại bác các anh, đạn pháo kích của họ, sáng ra vài ba người dân chết ngay trong hầm trú ẩn vẫn là chuyện không lạ. Họ lại lùa

Page 146: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

219 219

những bà mẹ nhếch nhác, rách rưới bế con thơ lếch thếch xuống phố biểu tình để phải bị đánh, bị hơi cay, bị bắt bớ hạch hỏi. Từ khi em còn bé, em đã thấy những điều bất nhẫn này. Má không gửi em ra phố học thì trăm phần trăm em cũng đã trở thành Việt Cộng rồi. Thấy câu chuyện không vui, Chuẩn đổi đề tài: -Má có biết anh không nhỉ? Nàng cúi mặt, nén tiếng thở dài.

-Em không muốn nói với anh là Má đặt em vào tay anh đấy. Má không nhớ rõ anh lắm nhưng hôm được thả về, em kể cho Má nghe, Má có hình dung ra được cái anh pháo binh đứng giống như là gà mắc đẻ bên cạnh đại úy Khương.

-Thế em có hận Đại úy Khương không? Nàng liếc xéo chàng: -… Hận anh. []

Chiếc giường không buồn ngủ, họ nằm với nhau, ôm nhau thắm thiết không thắc mắc, im lặng và bỗng dưng Sương khóc, khóc như từ sớm đến giờ chỉ chờ mỗi phút giây này, hai vai nàng rung lên không ngừng, anh bỏ em lâu quá, em tin là phải có ngày này, anh có biết em yêu anh bao nhiêu không? Nàng khóc trên những nụ hạnh phúc chàng đang gắn lên môi. Tại sao anh phải tốt với em? Vì em là con gái hay vì em là con nít? Với những cô khác anh có như thế không? Chuẩn vẫn còn bàng hoàng với một cuộc hội ngộ ngoài mong đợi. Chàng lấy tay lau nước mắt cho nàng. -Làm vợ anh nhé. -Không phải em đã là vợ anh hôm trên đồi? -Con nít biết gì. Nàng bi bô như con nít:

-Con nít mới là thật, mới biết tình là gì. Có thể anh còn thấy là vô lý nữa. Mười lăm tuổi biết yêu là vô lý hả? Yêu ân nhân của mình cũng là vô lý sao? Nếu em đã thấy

những bà mẹ nhếch nhác, rách rưới bế con thơ lếch thếch xuống phố biểu tình để phải bị đánh, bị hơi cay, bị bắt bớ hạch hỏi. Từ khi em còn bé, em đã thấy những điều bất nhẫn này. Má không gửi em ra phố học thì trăm phần trăm em cũng đã trở thành Việt Cộng rồi. Thấy câu chuyện không vui, Chuẩn đổi đề tài: -Má có biết anh không nhỉ? Nàng cúi mặt, nén tiếng thở dài.

-Em không muốn nói với anh là Má đặt em vào tay anh đấy. Má không nhớ rõ anh lắm nhưng hôm được thả về, em kể cho Má nghe, Má có hình dung ra được cái anh pháo binh đứng giống như là gà mắc đẻ bên cạnh đại úy Khương.

-Thế em có hận Đại úy Khương không? Nàng liếc xéo chàng: -… Hận anh. []

Chiếc giường không buồn ngủ, họ nằm với nhau, ôm nhau thắm thiết không thắc mắc, im lặng và bỗng dưng Sương khóc, khóc như từ sớm đến giờ chỉ chờ mỗi phút giây này, hai vai nàng rung lên không ngừng, anh bỏ em lâu quá, em tin là phải có ngày này, anh có biết em yêu anh bao nhiêu không? Nàng khóc trên những nụ hạnh phúc chàng đang gắn lên môi. Tại sao anh phải tốt với em? Vì em là con gái hay vì em là con nít? Với những cô khác anh có như thế không? Chuẩn vẫn còn bàng hoàng với một cuộc hội ngộ ngoài mong đợi. Chàng lấy tay lau nước mắt cho nàng. -Làm vợ anh nhé. -Không phải em đã là vợ anh hôm trên đồi? -Con nít biết gì. Nàng bi bô như con nít:

-Con nít mới là thật, mới biết tình là gì. Có thể anh còn thấy là vô lý nữa. Mười lăm tuổi biết yêu là vô lý hả? Yêu ân nhân của mình cũng là vô lý sao? Nếu em đã thấy

Page 147: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

220 220

không một chút xa lạ, cách biệt nào, sau bao năm trông mong, chờ đợi, thì cũng không phải là quá đáng chứ? Gặp ai pháo binh em cũng hỏi thăm anh. Em được sống sót từ tay anh, nếu phải chết, em chỉ mong được nằm trong tay anh mà chết. Một ngày, thậm chí một giờ, được gặp lại anh, rồi đời có ra sao em cũng cam. Ngày đó, trong lô cốt kia em đã từng muốn lăn xuống vòng tay anh mà khóc. Em đã nói với Má là em thương anh rồi. Má hỏi nó có làm gì con không? Em nói là lỗi tại con, con sợ pháo kích quá... Má nói nếu nó thương con thì Má gả con cho nó. 15, 16 tuổi ở nhà quê người ta cũng con cái đùm đề kia. Tội nghiệp anh, anh có biết gì đâu. Có giận em nói oan cho anh không? Như được dịp tuôn hết những chất chứa, không kịp nghe chàng trả lời, Thủy nói tiếp: -Có phải em già rồi không? Em vô duyên bậy bạ quá phải không? Vâng, em điên rồi. Buổi sáng trên đồi khi sắp phải xa anh em muốn có viên đạn nào đó ghim ngay vào ngực em, có lẽ nó nhột nhột một chút chứ không phải là xoáy đau, buốt nhói kéo dài như nỗi thương nhớ mà em mang theo, nó làm em đau đớn một cách say mê, chờ mong một cách thích thú, anh cứ đi như giòng nước xuôi không hề quay lại, và em như một chân cầu mòn mỏi từng ngày rêu xám bám, xám xịt như bầu trời mơ ước của em, như khuôn mặt âm u, lạnh ngắt thường ngày. Bàn tay Sương sờ soạng trên khuôn mặt Chuẩn, ngón tay trỏ nàng vẽ nhè nhẹ từ vầng trán xuống hai mắt, mũi, miệng chàng. Nàng lẩm bẩm:

-Chờ đợi, chờ đợi. Chân cầu, em già rồi. Chuẩn vỗ về: -Anh đây mà. Mới mười tám làm gì già, không chừng thiếu mấy tháng anh lại mang tiếng dụ dỗ gái vị thành niên nữa kia. Sương cắn mạnh lên ngực chàng: -Ác, có thật là anh không biết anh ác với bao nhiêu ngày tháng đã mất của em không? Ừ, của em chứ phải gì là của anh, anh có tin là em khô khan tượng đá lắm không?

không một chút xa lạ, cách biệt nào, sau bao năm trông mong, chờ đợi, thì cũng không phải là quá đáng chứ? Gặp ai pháo binh em cũng hỏi thăm anh. Em được sống sót từ tay anh, nếu phải chết, em chỉ mong được nằm trong tay anh mà chết. Một ngày, thậm chí một giờ, được gặp lại anh, rồi đời có ra sao em cũng cam. Ngày đó, trong lô cốt kia em đã từng muốn lăn xuống vòng tay anh mà khóc. Em đã nói với Má là em thương anh rồi. Má hỏi nó có làm gì con không? Em nói là lỗi tại con, con sợ pháo kích quá... Má nói nếu nó thương con thì Má gả con cho nó. 15, 16 tuổi ở nhà quê người ta cũng con cái đùm đề kia. Tội nghiệp anh, anh có biết gì đâu. Có giận em nói oan cho anh không? Như được dịp tuôn hết những chất chứa, không kịp nghe chàng trả lời, Thủy nói tiếp: -Có phải em già rồi không? Em vô duyên bậy bạ quá phải không? Vâng, em điên rồi. Buổi sáng trên đồi khi sắp phải xa anh em muốn có viên đạn nào đó ghim ngay vào ngực em, có lẽ nó nhột nhột một chút chứ không phải là xoáy đau, buốt nhói kéo dài như nỗi thương nhớ mà em mang theo, nó làm em đau đớn một cách say mê, chờ mong một cách thích thú, anh cứ đi như giòng nước xuôi không hề quay lại, và em như một chân cầu mòn mỏi từng ngày rêu xám bám, xám xịt như bầu trời mơ ước của em, như khuôn mặt âm u, lạnh ngắt thường ngày. Bàn tay Sương sờ soạng trên khuôn mặt Chuẩn, ngón tay trỏ nàng vẽ nhè nhẹ từ vầng trán xuống hai mắt, mũi, miệng chàng. Nàng lẩm bẩm:

-Chờ đợi, chờ đợi. Chân cầu, em già rồi. Chuẩn vỗ về: -Anh đây mà. Mới mười tám làm gì già, không chừng thiếu mấy tháng anh lại mang tiếng dụ dỗ gái vị thành niên nữa kia. Sương cắn mạnh lên ngực chàng: -Ác, có thật là anh không biết anh ác với bao nhiêu ngày tháng đã mất của em không? Ừ, của em chứ phải gì là của anh, anh có tin là em khô khan tượng đá lắm không?

Page 148: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

221 221

-Tượng đá mà bán café được. -Lúc trước mợ cũng bảo em phải vui vẻ lên, nhưng sao sau mợ lại thích, bà dạy em cứ giữ cái khuôn mặt lạnh tanh xa vắng ấy, có khi lại thu hút. Bà nói bên cạnh mấy cô huyên náo sinh động kia, khách cũng nên có một bức tranh tượng đá không thuộc về ai.

–Nghĩa là phải để cho mọi người hiểu là em chưa thuộc về ai? -Anh có cần em la to lên là em đã thuộc về một người mà không ai biết không? Không phải là tối nay, tượng đá đã bước xuống sườn non ôm tay người chinh phu đi tìm lại thiên đường của nàng sao? Anh có muốn ngày mai trên non cao kia chỉ còn lại mấy đám mây trắng ngẩn ngơ không?

-Sao ngẩn ngơ? -Đi tìm tượng đá chứ sao. Nàng lại hôn chàng: -Nhưng mà tượng đá biết cười biết khóc rồi, chàng chinh phu của tượng đá về rồi. Anh à, có nghe em nói không? Có phải em đang tỉnh không? Em sợ phải thức dậy mà không có anh. -Anh đây. Hạnh phúc em cho bất ngờ quá. Anh vẫn còn đang ở trên mây. Anh yêu em.

Chuẩn vuốt ve nàng như nâng niu một chiếc bình sứ cổ, trơn mỏng. Cám ơn Thượng Đế đã cho anh tặng phẩm này. Ôm em trong tay mà không khỏi có những phút thẫn thờ lo ngày mai phải bỏ em một mình vì ngược xuôi rừng núi. Chúng ta sẽ làm đám cưới, nay mai anh hết đi đề-lô, anh ở đâu thì em ở đó.

- Anh ạ, anh ít về thành phố lắm phải không? Sao tới giờ em mới có anh?

-Thì giờ đâu? Lúc này áp lực nặng lắm, thôi, đừng hỏi mấy chuyện đó mất vui.

-Nhưng mà, nhưng mà có nhiều cô Sương bé bé không? Em cảnh cáo anh, Ông Đại úy Khương không lầm đâu, ngoại trừ hiếm hoi liều mạng như mẹ con em, còn thì hầu hết người dân quê họ không muốn chết dưới cái sắt máu của Việt Cộng. Không muốn chết nghĩa là tất cả họ

-Tượng đá mà bán café được. -Lúc trước mợ cũng bảo em phải vui vẻ lên, nhưng sao sau mợ lại thích, bà dạy em cứ giữ cái khuôn mặt lạnh tanh xa vắng ấy, có khi lại thu hút. Bà nói bên cạnh mấy cô huyên náo sinh động kia, khách cũng nên có một bức tranh tượng đá không thuộc về ai.

–Nghĩa là phải để cho mọi người hiểu là em chưa thuộc về ai? -Anh có cần em la to lên là em đã thuộc về một người mà không ai biết không? Không phải là tối nay, tượng đá đã bước xuống sườn non ôm tay người chinh phu đi tìm lại thiên đường của nàng sao? Anh có muốn ngày mai trên non cao kia chỉ còn lại mấy đám mây trắng ngẩn ngơ không?

-Sao ngẩn ngơ? -Đi tìm tượng đá chứ sao. Nàng lại hôn chàng: -Nhưng mà tượng đá biết cười biết khóc rồi, chàng chinh phu của tượng đá về rồi. Anh à, có nghe em nói không? Có phải em đang tỉnh không? Em sợ phải thức dậy mà không có anh. -Anh đây. Hạnh phúc em cho bất ngờ quá. Anh vẫn còn đang ở trên mây. Anh yêu em.

Chuẩn vuốt ve nàng như nâng niu một chiếc bình sứ cổ, trơn mỏng. Cám ơn Thượng Đế đã cho anh tặng phẩm này. Ôm em trong tay mà không khỏi có những phút thẫn thờ lo ngày mai phải bỏ em một mình vì ngược xuôi rừng núi. Chúng ta sẽ làm đám cưới, nay mai anh hết đi đề-lô, anh ở đâu thì em ở đó.

- Anh ạ, anh ít về thành phố lắm phải không? Sao tới giờ em mới có anh?

-Thì giờ đâu? Lúc này áp lực nặng lắm, thôi, đừng hỏi mấy chuyện đó mất vui.

-Nhưng mà, nhưng mà có nhiều cô Sương bé bé không? Em cảnh cáo anh, Ông Đại úy Khương không lầm đâu, ngoại trừ hiếm hoi liều mạng như mẹ con em, còn thì hầu hết người dân quê họ không muốn chết dưới cái sắt máu của Việt Cộng. Không muốn chết nghĩa là tất cả họ

Page 149: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

222 222

phải trở thành Việt Cộng. Cô Sương hiền lành nào cũng ăn thịt anh được. Nhớ không? -Dạ nhớ, chị Hai. Anh muốn dậy hút thuốc. -Không hút nữa. Em không muốn dậy.

-Dạ, chị Hai. Nhưng mà chị Hai ơi... chị Hai lên cai ngục hồi nào vậy?

-Từ lúc em có được tù nhân. -Anh không làm tù nhân nữa. -Tạo phản hả? -Anh muốn làm ông xã. -Nhưng mà, ông xã ơi, em sợ tượng đá thành Tô Thị lắm. Anh cứ đi mênh mông gánh lúa mênh mông, bỏ mẹ con em đứng hoài trên đỉnh núi mỏi lắm. -Có vợ có con thì phải lo mà về. Đi đâu mà kiếm ra... -Xạo quá, mới nói em là cai ngục. -Nói lộn nói lại. [] Viết vội cái thư quẳng vào hộp thư đi, Chuẩn phải lên đường ngay. Lần này chàng phải đi tiền sát cho một tiểu đoàn bộ binh, đang tham dự hành quân cấp trung đoàn, an ninh mở đường gì đó cho con đường số 7 nằm phía Nam An Khê. Anh lỗi hẹn với em rồi, bà xã ơi. Không phải mười lăm, hai chục ngày lại về, như những lần hành quân trước, lần này chàng phải đi càng lúc càng xa hơn, như một chiếc xe mất thắng, chàng đã tuột xuống tận cuối dốc của con đường 7, liên tỉnh lộ nối Pleiku - Cheo Reo - Tuy Hòa, con lộ đã trở thành lộ máu mà hàng triệu người, trong đó có Chuẩn phải lội qua. Cuối dốc ấy là cái dấu chấm kết thúc binh nghiệp của chàng, cũng như khởi đầu một sự sụp đổ lịch sử. Và với Chuẩn, lần lỡ hẹn đó đã để lại bao nhiêu những dấu hỏi khắc khoải trong lòng. Ở gần biển, em có kịp lên tàu theo đi nước ngoài không? Ba em có trở về và em có đã được trở thành một cán bộ gì đó không? Phải chăng em đã quên anh?

phải trở thành Việt Cộng. Cô Sương hiền lành nào cũng ăn thịt anh được. Nhớ không? -Dạ nhớ, chị Hai. Anh muốn dậy hút thuốc. -Không hút nữa. Em không muốn dậy.

-Dạ, chị Hai. Nhưng mà chị Hai ơi... chị Hai lên cai ngục hồi nào vậy?

-Từ lúc em có được tù nhân. -Anh không làm tù nhân nữa. -Tạo phản hả? -Anh muốn làm ông xã. -Nhưng mà, ông xã ơi, em sợ tượng đá thành Tô Thị lắm. Anh cứ đi mênh mông gánh lúa mênh mông, bỏ mẹ con em đứng hoài trên đỉnh núi mỏi lắm. -Có vợ có con thì phải lo mà về. Đi đâu mà kiếm ra... -Xạo quá, mới nói em là cai ngục. -Nói lộn nói lại. [] Viết vội cái thư quẳng vào hộp thư đi, Chuẩn phải lên đường ngay. Lần này chàng phải đi tiền sát cho một tiểu đoàn bộ binh, đang tham dự hành quân cấp trung đoàn, an ninh mở đường gì đó cho con đường số 7 nằm phía Nam An Khê. Anh lỗi hẹn với em rồi, bà xã ơi. Không phải mười lăm, hai chục ngày lại về, như những lần hành quân trước, lần này chàng phải đi càng lúc càng xa hơn, như một chiếc xe mất thắng, chàng đã tuột xuống tận cuối dốc của con đường 7, liên tỉnh lộ nối Pleiku - Cheo Reo - Tuy Hòa, con lộ đã trở thành lộ máu mà hàng triệu người, trong đó có Chuẩn phải lội qua. Cuối dốc ấy là cái dấu chấm kết thúc binh nghiệp của chàng, cũng như khởi đầu một sự sụp đổ lịch sử. Và với Chuẩn, lần lỡ hẹn đó đã để lại bao nhiêu những dấu hỏi khắc khoải trong lòng. Ở gần biển, em có kịp lên tàu theo đi nước ngoài không? Ba em có trở về và em có đã được trở thành một cán bộ gì đó không? Phải chăng em đã quên anh?

Page 150: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

223 223

Hơn bốn năm ở trại tập trung về, Chuẩn đi tìm Sương. Tìm như tìm một người thân, anh không hy vọng em vẫn đợi chờ, đợi chờ thì bốn năm qua em đã tìm anh. Anh cũng không dám mong sau một đêm trần thế đổi đời lại còn có những Tô Thị vẫn đứng trên non cao trông mây, trông gió.

Cô Nhi Viện Ghềnh Ráng Qui Nhơn nằm bơ vơ hoang phế, với thỉnh thoảng vài chiếc nón cối qua lại. Ra Đệ Đức tìm đến Đồi 10 xưa, chàng đã không mấy khó khăn để hỏi tin tức về Sương ở một nơi vắng vẻ, thưa thớt dân cư này. Nhưng không ai biết gì nhiều hơn cái việc có lần, sau mấy tháng giải phóng, Sương bị cách mạng bắt về địa phương kiểm điểm tội hợp tác với địch, hay vượt biên gì đó, sau đó không biết Sương ra sao. Đến cả Ba Sương từ Bắc về tìm, cũng không gặp được ở trại cải tạo nào, rồi thì ông trở ra Bắc lại, mà cũng không ai được nghe ông nói là cán bộ địa phương đã trả lời sao với ông.

Chuẩn ghé thăm một vài người quen từ thủa về đề-lô ở đây, người ta dè dặt nói với chàng “Cầu Trời Phật cho cô ấy còn bình yên… Nghe người ta nói Sương đã trốn đi…”

Vậy thì em đang ở đâu? Chuẩn rùng mình nghĩ tới những bản lý lịch viết đi viết lại trong trại cải tạo, rõ ràng là sau khi Ba chàng bị họ bắt dẫn đi, gia đình không còn được gặp nữa, nhiều ngày kiếm tìm, má chàng đã tìm ra được chỗ ba chàng bị thủ tiêu, đào lại được xác và cải táng, vậy mà dứt khoát không “cơ quan” nào chấp nhận lời khai “Cha bị cách mạng giết”, mà phải ghi là “Mất tích không rõ lý do”. Tất nhiên, nếu má chàng đã không tìm thấy xác ba chàng, thì gia đình sẽ chong mắt mỏi mòn đến cuối đời, chờ mong ngày về của một người đã được đi cải tạo hay theo như họ đã trả lời.

Chàng cắn môi, nghe mắt cay cay. Anh không dám nghĩ xa hơn, e điều đó sẽ làm xúc phạm em, và tổn thương anh.

Anh không khóc đâu. Một lần lỡ hẹn, lỡ hết một cuộc đời. Nhưng, em thương yêu, nếu bắt em phải làm vợ một phó thường dân nay trình diện, mai kiểm điểm, mốt

Hơn bốn năm ở trại tập trung về, Chuẩn đi tìm Sương. Tìm như tìm một người thân, anh không hy vọng em vẫn đợi chờ, đợi chờ thì bốn năm qua em đã tìm anh. Anh cũng không dám mong sau một đêm trần thế đổi đời lại còn có những Tô Thị vẫn đứng trên non cao trông mây, trông gió.

Cô Nhi Viện Ghềnh Ráng Qui Nhơn nằm bơ vơ hoang phế, với thỉnh thoảng vài chiếc nón cối qua lại. Ra Đệ Đức tìm đến Đồi 10 xưa, chàng đã không mấy khó khăn để hỏi tin tức về Sương ở một nơi vắng vẻ, thưa thớt dân cư này. Nhưng không ai biết gì nhiều hơn cái việc có lần, sau mấy tháng giải phóng, Sương bị cách mạng bắt về địa phương kiểm điểm tội hợp tác với địch, hay vượt biên gì đó, sau đó không biết Sương ra sao. Đến cả Ba Sương từ Bắc về tìm, cũng không gặp được ở trại cải tạo nào, rồi thì ông trở ra Bắc lại, mà cũng không ai được nghe ông nói là cán bộ địa phương đã trả lời sao với ông.

Chuẩn ghé thăm một vài người quen từ thủa về đề-lô ở đây, người ta dè dặt nói với chàng “Cầu Trời Phật cho cô ấy còn bình yên… Nghe người ta nói Sương đã trốn đi…”

Vậy thì em đang ở đâu? Chuẩn rùng mình nghĩ tới những bản lý lịch viết đi viết lại trong trại cải tạo, rõ ràng là sau khi Ba chàng bị họ bắt dẫn đi, gia đình không còn được gặp nữa, nhiều ngày kiếm tìm, má chàng đã tìm ra được chỗ ba chàng bị thủ tiêu, đào lại được xác và cải táng, vậy mà dứt khoát không “cơ quan” nào chấp nhận lời khai “Cha bị cách mạng giết”, mà phải ghi là “Mất tích không rõ lý do”. Tất nhiên, nếu má chàng đã không tìm thấy xác ba chàng, thì gia đình sẽ chong mắt mỏi mòn đến cuối đời, chờ mong ngày về của một người đã được đi cải tạo hay theo như họ đã trả lời.

Chàng cắn môi, nghe mắt cay cay. Anh không dám nghĩ xa hơn, e điều đó sẽ làm xúc phạm em, và tổn thương anh.

Anh không khóc đâu. Một lần lỡ hẹn, lỡ hết một cuộc đời. Nhưng, em thương yêu, nếu bắt em phải làm vợ một phó thường dân nay trình diện, mai kiểm điểm, mốt

Page 151: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

224 224

tập trung, em có vui nổi không hay chỉ làm đen tối cuộc đời nhau hơn? Có phải Tô Thị đã bình yên ở một nơi không máu lệ hận thù, thay vì phải vô vọng ngày đêm nơi non cao sương giá chờ đợi một chồng tù, hay phấp phỏng ngó chừng theo mỗi bước chân chồng, không biết ngày nào kia lại tiếp tục tra chân vào cùm xích.

Còn mong gặp lại em ở đâu đó không Sương?

1988 ███████████ ĐINH THẮNG BÓNG CŨ

Khói thuốc xanh xanh mờ nhân ảnh Ngoài hiên gió thổi mãi qua rào Đất trời chưa sáng, đêm chưa hết Con dốc bên thềm có kẻ đi

tập trung, em có vui nổi không hay chỉ làm đen tối cuộc đời nhau hơn? Có phải Tô Thị đã bình yên ở một nơi không máu lệ hận thù, thay vì phải vô vọng ngày đêm nơi non cao sương giá chờ đợi một chồng tù, hay phấp phỏng ngó chừng theo mỗi bước chân chồng, không biết ngày nào kia lại tiếp tục tra chân vào cùm xích.

Còn mong gặp lại em ở đâu đó không Sương?

1988 ███████████ ĐINH THẮNG BÓNG CŨ

Khói thuốc xanh xanh mờ nhân ảnh Ngoài hiên gió thổi mãi qua rào Đất trời chưa sáng, đêm chưa hết Con dốc bên thềm có kẻ đi

Page 152: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

225 225

Về lại thu sơ ngồi quán cũ Hơi ấm như lùa qua tiếng vui Ta ngỡ ai quen từ thuở trước Bao năm đủ lạc mất giọng cười? Mây gió như hồ mây gió cũ Người như hồ người năm xưa Đưa dáng em vào tiềm thức Áo em hùa theo dửng dưng Ta ước ai gọi tên ta thời cố cựu Một thuở học trò tên cúng cơm Cây bàng trước ngõ còn trơ gốc Mặt phẳng cưa ngang cháy lớp vằn Ai dụi trên kia tàn thuốc lá Dễ nào sỉ vả chuyện ngày qua Cây cao còn lại thân tàn phế Im lặng mênh mang cuộc đổi dời Một vòng tròn mới rao thiên hạ Hỏi gió nhà ta nay ở đâu Mờ trông con phố chìm con phố Tích nhặt trăm năm giữa độ nầy Lát nữa ta đi ghé phố đồi Hỏi tìm mua lại thỏi son môi Gởi em vẽ lại màu môi ấy Đứng trước gương nhòa em mím môi Bỗng dưng ta hóa thành ẩn sĩ Sống ở rừng thưa hái lá khoai Ta biết phong thanh từ tù ải Nhà ta lập nghiệp ở phương đoài Ở đó mẹ trồng nhiều ngấn lệ Sấy khô cho những đứa con nầy

Về lại thu sơ ngồi quán cũ Hơi ấm như lùa qua tiếng vui Ta ngỡ ai quen từ thuở trước Bao năm đủ lạc mất giọng cười? Mây gió như hồ mây gió cũ Người như hồ người năm xưa Đưa dáng em vào tiềm thức Áo em hùa theo dửng dưng Ta ước ai gọi tên ta thời cố cựu Một thuở học trò tên cúng cơm Cây bàng trước ngõ còn trơ gốc Mặt phẳng cưa ngang cháy lớp vằn Ai dụi trên kia tàn thuốc lá Dễ nào sỉ vả chuyện ngày qua Cây cao còn lại thân tàn phế Im lặng mênh mang cuộc đổi dời Một vòng tròn mới rao thiên hạ Hỏi gió nhà ta nay ở đâu Mờ trông con phố chìm con phố Tích nhặt trăm năm giữa độ nầy Lát nữa ta đi ghé phố đồi Hỏi tìm mua lại thỏi son môi Gởi em vẽ lại màu môi ấy Đứng trước gương nhòa em mím môi Bỗng dưng ta hóa thành ẩn sĩ Sống ở rừng thưa hái lá khoai Ta biết phong thanh từ tù ải Nhà ta lập nghiệp ở phương đoài Ở đó mẹ trồng nhiều ngấn lệ Sấy khô cho những đứa con nầy

Page 153: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

226 226

Một thằng trên núi chưa về được Ta về ngơ ngẩn giữa trời mây Mẹ ngồi mài miệt hâm bếp lửa Ngày qua tắt nắng mụn sao thưa Ta mang trên áo mùi rừng rú Kinh tế nào ơi, đã mới chưa? Hồ nước bên đường sâu đáy đất Trăng buồn không rõ mặt nhân thân Ta nghiêng gàu xuống trăng tan vỡ Như vỡ tình ta vỡ vợ chồng Ta múc tình em đáy vực nầy Nhặt lên trắng bạc giữa trời mây Hỏi ra nhân thế là như thế Ta tiếc cho ta thế cuộc nầy Điếu thuốc chưa tàn sao đã cay Ngồi đây, quán cũ, ở nơi này Nhớ thằng bạn thiết thời xưa ấy Đi lính. Sa trường. Ghé lại. Say Ngươi ở đâu rồi, bóng nghĩa trang Hôm nay ta rảnh đi thăm được Bán mớ bầu xanh đến bạc ngàn Xe đò lên đó bao tiền cước? Chỉ hỏi chơi thôi, ta có tiền Ta mua rượu đến rưới linh thiêng Rưới cho dư đủ như tiền kiếp Một bến nhân gian nỡ vội vàng Người khuất trông vời mây nước cũ Có buồn xin vịn chút tin vui Ngươi nằm xa quá nên yên ổn Khu mộ cha ta sẽ xáo vùi

Một thằng trên núi chưa về được Ta về ngơ ngẩn giữa trời mây Mẹ ngồi mài miệt hâm bếp lửa Ngày qua tắt nắng mụn sao thưa Ta mang trên áo mùi rừng rú Kinh tế nào ơi, đã mới chưa? Hồ nước bên đường sâu đáy đất Trăng buồn không rõ mặt nhân thân Ta nghiêng gàu xuống trăng tan vỡ Như vỡ tình ta vỡ vợ chồng Ta múc tình em đáy vực nầy Nhặt lên trắng bạc giữa trời mây Hỏi ra nhân thế là như thế Ta tiếc cho ta thế cuộc nầy Điếu thuốc chưa tàn sao đã cay Ngồi đây, quán cũ, ở nơi này Nhớ thằng bạn thiết thời xưa ấy Đi lính. Sa trường. Ghé lại. Say Ngươi ở đâu rồi, bóng nghĩa trang Hôm nay ta rảnh đi thăm được Bán mớ bầu xanh đến bạc ngàn Xe đò lên đó bao tiền cước? Chỉ hỏi chơi thôi, ta có tiền Ta mua rượu đến rưới linh thiêng Rưới cho dư đủ như tiền kiếp Một bến nhân gian nỡ vội vàng Người khuất trông vời mây nước cũ Có buồn xin vịn chút tin vui Ngươi nằm xa quá nên yên ổn Khu mộ cha ta sẽ xáo vùi

Page 154: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

227 227

Ở đó bờ tường nhiều cáo thị Nặng từng câu chữ đến xanh xao Người chết tưởng yên trời đất mới Ra rằng sinh, tử vẫn lao đao Quán cũ ta ngồi khâu dư ảnh Một hình nho nhỏ, một niềm vui Huống chi ta có thời dày cộm Đất thấm vào ta trĩu khóc cười Cha dạy cho ta điều ngay thẳng Mẹ dạy cho ta điều thương yêu Ta dạy cho ta điều kiêu bạt Đếm thử đời ta được mấy điều Ta thấy ta buồn hơn ta tưởng Ngậm ngùi thay! bóng một sa trường Bỏ hết chỉ còn đôi khí tiết Đem ra chăm sóc đói cơm này Củ sắn đau lòng cơn cúi mặt Nghe phế gan hồng máu ngược xuôi Ta đi cho hết trời đất thấp Nói với nhân gian kiếp phận người Ta về trăn trở cây cùng cỏ Chẳng phải nhà xưa chẳng phải thời May mắn mẹ còn hâm bếp lửa Bừng lên cho ấm chút tàn hơi Nhà ta nhà cũ sân vườn nhỏ Nhà mới bây giờ đất thênh thang Mây đùn xuống thấp vờn bông bí Đất trích, rừng im, nắng quái tàn. Hè 1990

Ở đó bờ tường nhiều cáo thị Nặng từng câu chữ đến xanh xao Người chết tưởng yên trời đất mới Ra rằng sinh, tử vẫn lao đao Quán cũ ta ngồi khâu dư ảnh Một hình nho nhỏ, một niềm vui Huống chi ta có thời dày cộm Đất thấm vào ta trĩu khóc cười Cha dạy cho ta điều ngay thẳng Mẹ dạy cho ta điều thương yêu Ta dạy cho ta điều kiêu bạt Đếm thử đời ta được mấy điều Ta thấy ta buồn hơn ta tưởng Ngậm ngùi thay! bóng một sa trường Bỏ hết chỉ còn đôi khí tiết Đem ra chăm sóc đói cơm này Củ sắn đau lòng cơn cúi mặt Nghe phế gan hồng máu ngược xuôi Ta đi cho hết trời đất thấp Nói với nhân gian kiếp phận người Ta về trăn trở cây cùng cỏ Chẳng phải nhà xưa chẳng phải thời May mắn mẹ còn hâm bếp lửa Bừng lên cho ấm chút tàn hơi Nhà ta nhà cũ sân vườn nhỏ Nhà mới bây giờ đất thênh thang Mây đùn xuống thấp vờn bông bí Đất trích, rừng im, nắng quái tàn. Hè 1990

Page 155: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

228 228

NHỮNG ĐÊM TRẮNG Truyện lịch sử của Khuất Đẩu

Đêm ở đền Thượng

Đó là một đêm đầu xuân, ánh trăng mỏng quá không soi rõ được mặt người. Những bậc tam cấp cứ nối nhau lên cao, lên cao mãi như vút tận trời. Một đàn chim Lạc từ đâu bỗng bay qua, tiếng đập cánh làm đong đưa những chòm sao xanh biếc. Đêm thánh vô cùng! Họ đi lễ đền Thượng. Lễ vật không có bánh chưng bánh dầy. Chỉ có trầu, cau và hai trái tim thắm đỏ. Chàng nói, “Hôm nay, anh cưới em”! Nàng nói, “Em cũng cưới anh, hôm nay”! Họ cùng nói, “Thưa Quốc Tổ, chúng con xin cưới nhau”! Nghe như có tiếng cười từ ái reo vui của các vua Hùng. Chàng nói, “Anh nghèo lắm, chỉ có món quà nhỏ này làm sính lễ. Nó sẽ thay anh bảo vệ em”! Chàng nâng khẩu súng lục lên trước mặt. Nàng xòe tay ra như hoa quỳnh đón lấy, rồi áp cái kỷ vật lạnh ngắt vào giữa ngực mình. “Em cũng nghèo lắm, chỉ có cái chết để đền ơn anh”. Lập tức, chàng khóa miệng nàng bằng đôi môi dày, nóng rực, để cái tiếng “chết” kia không bao giờ thoát ra được nữa. Nhưng cưới nhau vậy thôi, chứ họ là hai kẻ không nhà. Họ đành ngồi bên nhau suốt đêm, chờ sáng. Cũng ấm ức lắm, cũng thèm thuồng lắm. Cũng muốn lấy cổng tam quan làm nhà, lấy nền gạch làm giường, lấy bóng đêm làm chăn màn để thực sự là của nhau. Cũng muốn đã yêu là yêu cho tới bến, đã cho là cho đến

NHỮNG ĐÊM TRẮNG Truyện lịch sử của Khuất Đẩu

Đêm ở đền Thượng

Đó là một đêm đầu xuân, ánh trăng mỏng quá không soi rõ được mặt người. Những bậc tam cấp cứ nối nhau lên cao, lên cao mãi như vút tận trời. Một đàn chim Lạc từ đâu bỗng bay qua, tiếng đập cánh làm đong đưa những chòm sao xanh biếc. Đêm thánh vô cùng! Họ đi lễ đền Thượng. Lễ vật không có bánh chưng bánh dầy. Chỉ có trầu, cau và hai trái tim thắm đỏ. Chàng nói, “Hôm nay, anh cưới em”! Nàng nói, “Em cũng cưới anh, hôm nay”! Họ cùng nói, “Thưa Quốc Tổ, chúng con xin cưới nhau”! Nghe như có tiếng cười từ ái reo vui của các vua Hùng. Chàng nói, “Anh nghèo lắm, chỉ có món quà nhỏ này làm sính lễ. Nó sẽ thay anh bảo vệ em”! Chàng nâng khẩu súng lục lên trước mặt. Nàng xòe tay ra như hoa quỳnh đón lấy, rồi áp cái kỷ vật lạnh ngắt vào giữa ngực mình. “Em cũng nghèo lắm, chỉ có cái chết để đền ơn anh”. Lập tức, chàng khóa miệng nàng bằng đôi môi dày, nóng rực, để cái tiếng “chết” kia không bao giờ thoát ra được nữa. Nhưng cưới nhau vậy thôi, chứ họ là hai kẻ không nhà. Họ đành ngồi bên nhau suốt đêm, chờ sáng. Cũng ấm ức lắm, cũng thèm thuồng lắm. Cũng muốn lấy cổng tam quan làm nhà, lấy nền gạch làm giường, lấy bóng đêm làm chăn màn để thực sự là của nhau. Cũng muốn đã yêu là yêu cho tới bến, đã cho là cho đến

Page 156: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

229 229

tận cùng. Nhưng đêm yên lành và thiêng liêng quá. Họ chỉ có thể cởi bỏ mọi buộc ràng, mọi lo toan, để hai tâm hồn bận rộn được ngơi nghỉ đôi chút bên nhau mà thôi. Khi ánh ngày lên, nàng thấy chàng là ông cụ áo the thâm đeo mục kỉnh, chàng thấy nàng là một chị nhà quê váy đụp, chít khăn mỏ quạ. Cả hai nhìn nhau, kín đáo nở một nụ cười thầm. Rồi như hai kẻ xa lạ chưa hề gặp nhau bao giờ, nàng xuống Đông, chàng ngược lên Đoài. Họ là ai? Xin thưa, một Người là Nguyễn Thị Giang. Và một Người là Nguyễn Thái Học. Đêm trước ngày N. Trong một căn phòng sang trọng tại một đồn điền, bọn họ mười chín người. (Hơn một người là bị bắt bỏ bót ngay). Một người nói, “Bọn Túy, Dương, Mai, Kỉnh, nhất là Kỉnh đã phá nát đảng ta rồi. Hàng mấy trăm trái bom tự tạo đã bị đào lên. Hàng ngàn dao, súng bị tịch thu. Bao nhiêu đồng chí đã bị bắt. Bao nhiêu cơ sở, nhất là trong các trại lính, đã bị khám phá. Cứ đà này, thì chỉ trong vài tháng nữa thôi, đảng ta sẽ bị xóa sạch”! Người vừa nói đó, trong vỏ bọc của một công tử ăn vận âu phục rất bảnh bao, đã ôm đầu gục xuống trên bàn. Một sự yên lặng đông cứng đến nỗi 18 trái tim bao quanh bỗng như ngừng đập. Những ngọn đèn cũng bất ngờ yếu đi, bóng tối được dịp tràn ra, khiến cho căn phòng trở nên chật chội, ngột ngạt. “Không thể như thế được”, ai đó rít lên. Hai tiếng “không thể” sắc nhọn như ngọn lao đâm suốt 19 lồng ngực. Người gục đầu trên bàn liền đứng bật dậy. “Phải rồi, không thể để bọn chúng muốn phá chỗ nào thì cứ phá, muốn bắt

tận cùng. Nhưng đêm yên lành và thiêng liêng quá. Họ chỉ có thể cởi bỏ mọi buộc ràng, mọi lo toan, để hai tâm hồn bận rộn được ngơi nghỉ đôi chút bên nhau mà thôi. Khi ánh ngày lên, nàng thấy chàng là ông cụ áo the thâm đeo mục kỉnh, chàng thấy nàng là một chị nhà quê váy đụp, chít khăn mỏ quạ. Cả hai nhìn nhau, kín đáo nở một nụ cười thầm. Rồi như hai kẻ xa lạ chưa hề gặp nhau bao giờ, nàng xuống Đông, chàng ngược lên Đoài. Họ là ai? Xin thưa, một Người là Nguyễn Thị Giang. Và một Người là Nguyễn Thái Học. Đêm trước ngày N. Trong một căn phòng sang trọng tại một đồn điền, bọn họ mười chín người. (Hơn một người là bị bắt bỏ bót ngay). Một người nói, “Bọn Túy, Dương, Mai, Kỉnh, nhất là Kỉnh đã phá nát đảng ta rồi. Hàng mấy trăm trái bom tự tạo đã bị đào lên. Hàng ngàn dao, súng bị tịch thu. Bao nhiêu đồng chí đã bị bắt. Bao nhiêu cơ sở, nhất là trong các trại lính, đã bị khám phá. Cứ đà này, thì chỉ trong vài tháng nữa thôi, đảng ta sẽ bị xóa sạch”! Người vừa nói đó, trong vỏ bọc của một công tử ăn vận âu phục rất bảnh bao, đã ôm đầu gục xuống trên bàn. Một sự yên lặng đông cứng đến nỗi 18 trái tim bao quanh bỗng như ngừng đập. Những ngọn đèn cũng bất ngờ yếu đi, bóng tối được dịp tràn ra, khiến cho căn phòng trở nên chật chội, ngột ngạt. “Không thể như thế được”, ai đó rít lên. Hai tiếng “không thể” sắc nhọn như ngọn lao đâm suốt 19 lồng ngực. Người gục đầu trên bàn liền đứng bật dậy. “Phải rồi, không thể để bọn chúng muốn phá chỗ nào thì cứ phá, muốn bắt

Page 157: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

230 230

ai thì cứ bắt. Đảng ta không thể chỉ vì một vài tên cẩu gian mà tan rã được. Dân tộc ta quyết không thể làm nô lệ mãi. Chỉ còn một cách, đó là…”! Người ấy ngừng nói, đưa tay lên cao như làm hiệu lệnh. Tức thì, bao nhiêu lồng ngực cùng mở banh ra một lúc để hai tiếng “khởi nghĩa” mạnh mẽ và trẻ trung bị nhốt kín bấy lâu được dịp lao ra như những con tuấn mã. Khởi nghĩa! Khởi nghĩa! Âm vang cố nén cho thật nhỏ nhưng căn phòng vẫn rung lên, nghe như các bô lão hô “quyết chiến” ở điện Diên Hồng. Đừng ai hỏi: như vậy có liều lĩnh không? Đừng ai so sánh: tương quan như trứng chọi đá, thế thì thất bại là cái chắc. Đừng ai cười nhạo là ấu trĩ, dại khờ. Cũng đừng ai sụt sùi thương cảm. Không có chuyện sông Dịch lạnh. Chỉ có sông Hồng, sông Mã và sông Bạch Đằng sục sôi, nổi sóng. Mười chín trái tim, trong đó có một trái tim đàn bà, chỉ một nhịp đập. Đó là nhịp trống xuất quân. Rồi đó, kẻ ngược lên Bắc Giang, Yên Bái. Kẻ xuôi Nam Định, Hải Phòng. Kẻ vào xứ Thanh, xứ Nghệ. Chữ nghĩa đầy mình như dịch giả Mái Tây thì vào đất thần kinh rước cụ Phan Sào Nam. Loáng một cái, họ biến đi các ngả trước khi bọn cẩu gian và lính lê dương tìm tới. Cởi bỏ lốt công tử và cave, giờ họ là hai khách bộ hành quê mùa. Chàng nói, “Nhớ em quá”! “Em cũng nhớ anh lắm”, nàng nói. “Hôm nay em thật đẹp”, chàng nói. “Đừng nhạo em, đóng giả một cô cave thật khó làm sao”!

ai thì cứ bắt. Đảng ta không thể chỉ vì một vài tên cẩu gian mà tan rã được. Dân tộc ta quyết không thể làm nô lệ mãi. Chỉ còn một cách, đó là…”! Người ấy ngừng nói, đưa tay lên cao như làm hiệu lệnh. Tức thì, bao nhiêu lồng ngực cùng mở banh ra một lúc để hai tiếng “khởi nghĩa” mạnh mẽ và trẻ trung bị nhốt kín bấy lâu được dịp lao ra như những con tuấn mã. Khởi nghĩa! Khởi nghĩa! Âm vang cố nén cho thật nhỏ nhưng căn phòng vẫn rung lên, nghe như các bô lão hô “quyết chiến” ở điện Diên Hồng. Đừng ai hỏi: như vậy có liều lĩnh không? Đừng ai so sánh: tương quan như trứng chọi đá, thế thì thất bại là cái chắc. Đừng ai cười nhạo là ấu trĩ, dại khờ. Cũng đừng ai sụt sùi thương cảm. Không có chuyện sông Dịch lạnh. Chỉ có sông Hồng, sông Mã và sông Bạch Đằng sục sôi, nổi sóng. Mười chín trái tim, trong đó có một trái tim đàn bà, chỉ một nhịp đập. Đó là nhịp trống xuất quân. Rồi đó, kẻ ngược lên Bắc Giang, Yên Bái. Kẻ xuôi Nam Định, Hải Phòng. Kẻ vào xứ Thanh, xứ Nghệ. Chữ nghĩa đầy mình như dịch giả Mái Tây thì vào đất thần kinh rước cụ Phan Sào Nam. Loáng một cái, họ biến đi các ngả trước khi bọn cẩu gian và lính lê dương tìm tới. Cởi bỏ lốt công tử và cave, giờ họ là hai khách bộ hành quê mùa. Chàng nói, “Nhớ em quá”! “Em cũng nhớ anh lắm”, nàng nói. “Hôm nay em thật đẹp”, chàng nói. “Đừng nhạo em, đóng giả một cô cave thật khó làm sao”!

Page 158: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

231 231

“Anh cũng đâu thích làm công tử”. “Giờ chúng ta đi đâu”? “Về nhà”. “Thật sao”? “Thật”. Gió thổi, lạnh. Họ đi sát bên nhau. Tay nàng trong tay chàng. Họ đi qua một cánh đồng vừa gặt. Hãy còn thơm mùi lúa chín. “Đến nhà rồi”, chàng nói. “Nhà đâu”? Nàng hỏi. “Đây”. Chàng kéo nàng ngồi xuống bên một đụn rơm. “Xem này, chàng nói, vợ của tôi ơi, hãy xem anh làm nhà”. Chàng quỳ gối, khom lưng kéo bỏ từng bó rơm qua một bên, và chỉ mươi phút là đã xong một cái nhà nhỏ vừa thơm vừa ấm. Cởi áo trải lên nền đất đầy rơm, chàng nói: “Nào, mời em”! Không đợi mời đến lần thứ hai, nàng liền ngả xuống trên mình chàng như lúa ngã rạp trên đồng. Đó là một đêm hợp cẩn ngọt ngào đến từng chân tóc. Một đêm mà chàng là quân vương và nàng là hoàng hậu. Một đêm giàu sang tót vời dù không một xu dính túi. Một đêm mà may mắn được hoài thai, thì đứa bé ấy, trời ơi, đẹp đến nhường nào. Đó sẽ là hoàng tử của cách mạng. Là thế hệ tươi non của một nước Việt trẻ trung. Khi sao mai vừa mọc, hai người lại lặng lẽ ra đi, mỗi người về một hướng. Nhưng họ biết, từ đây họ không còn đi một mình. Đêm thấy ta là thác đổ! Phó Đức Chính, chàng kỹ sư công chánh từ Lào về với một bộ quân phục mới toanh và tài hùng biện đã khiến cho 2 cơ đội khố đỏ ở Yên Bái quay ngược mũi súng về phía giặc

“Anh cũng đâu thích làm công tử”. “Giờ chúng ta đi đâu”? “Về nhà”. “Thật sao”? “Thật”. Gió thổi, lạnh. Họ đi sát bên nhau. Tay nàng trong tay chàng. Họ đi qua một cánh đồng vừa gặt. Hãy còn thơm mùi lúa chín. “Đến nhà rồi”, chàng nói. “Nhà đâu”? Nàng hỏi. “Đây”. Chàng kéo nàng ngồi xuống bên một đụn rơm. “Xem này, chàng nói, vợ của tôi ơi, hãy xem anh làm nhà”. Chàng quỳ gối, khom lưng kéo bỏ từng bó rơm qua một bên, và chỉ mươi phút là đã xong một cái nhà nhỏ vừa thơm vừa ấm. Cởi áo trải lên nền đất đầy rơm, chàng nói: “Nào, mời em”! Không đợi mời đến lần thứ hai, nàng liền ngả xuống trên mình chàng như lúa ngã rạp trên đồng. Đó là một đêm hợp cẩn ngọt ngào đến từng chân tóc. Một đêm mà chàng là quân vương và nàng là hoàng hậu. Một đêm giàu sang tót vời dù không một xu dính túi. Một đêm mà may mắn được hoài thai, thì đứa bé ấy, trời ơi, đẹp đến nhường nào. Đó sẽ là hoàng tử của cách mạng. Là thế hệ tươi non của một nước Việt trẻ trung. Khi sao mai vừa mọc, hai người lại lặng lẽ ra đi, mỗi người về một hướng. Nhưng họ biết, từ đây họ không còn đi một mình. Đêm thấy ta là thác đổ! Phó Đức Chính, chàng kỹ sư công chánh từ Lào về với một bộ quân phục mới toanh và tài hùng biện đã khiến cho 2 cơ đội khố đỏ ở Yên Bái quay ngược mũi súng về phía giặc

Page 159: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

232 232

thù. Nhưng chỉ với 2 cơ đội thì làm sao thắng được địch từ trên cao bắn xuống. Ba ngày sau bị bắt và ba tháng sau chàng dũng cảm nằm ngửa để xem cái máy chém nó cắt đứt đầu mình! Xứ Nhu, còn gọi là Song Khê, phải ba lần tự sát mới chết được. Lần đầu bị bắn gãy chân, liền nằm sấp trên hai quả tạc đạn. Đạn nổ banh cả ruột gan, nhưng vẫn chưa chết. Lại lao mình xuống sông, cũng không chết. Sau cùng, tại Hỏa Lò, dù chân bị cùm tay bị xích, chỉ còn mỗi cái cổ ngúc ngắc, anh vẫn đập đầu vào tường mới chết được. Quán Cẩm, người bị đau tim bất ngờ không thể chỉ huy đánh Yên Bái, đã vỡ tim mà chết trong nhà thương khi nghe tin cuộc khởi nghĩa thất bại. Nguyễn Thị Tâm, suốt một buổi chiều bị làm nhục, tối đến phải nuốt cả một dải thắt lưng dài để được chết. Và bốn mươi cái chết do hội đồng đề hình tuyên xử, cả những cái chết trên đường rút lui đẫm máu, chết trong các nhà tù tối tăm…cả trăm Người đều chết để thành Nhân. Chữ Nhân đẹp như lưỡi kiếm tuốt ra dưới ánh trăng, rất lãng mạn, nhưng cũng rất bi tráng. Họ vui vì được chết trong khi chàng không vui nổi vì được sống. Buồn hơn nữa là chàng không đọc được một lời ai điếu hay rải cho ai một nắm đất. Có phải vì mình nôn nóng, vì thiếu kế hoạch, vì kém tài mà bao nhiêu người non trẻ như Chính, như Nghiệp, như Nhu… phải đối mặt với cái chết? Có thực họ vui vì được chết hay chỉ vì không còn một con đường nào khác? Mà ai? Chính mình chứ còn ai vào đây nữa, chính mình đã đưa họ đến con đường cụt này! Đau đớn hơn nữa là những ngôi làng như Cổ Am, Võng La, Xuân Lũng, Kha Lâm… yên ấm bao đời, nay chỉ vì theo Cách mệnh mà bị giặc ném bom, đốt phá. Biết bao

thù. Nhưng chỉ với 2 cơ đội thì làm sao thắng được địch từ trên cao bắn xuống. Ba ngày sau bị bắt và ba tháng sau chàng dũng cảm nằm ngửa để xem cái máy chém nó cắt đứt đầu mình! Xứ Nhu, còn gọi là Song Khê, phải ba lần tự sát mới chết được. Lần đầu bị bắn gãy chân, liền nằm sấp trên hai quả tạc đạn. Đạn nổ banh cả ruột gan, nhưng vẫn chưa chết. Lại lao mình xuống sông, cũng không chết. Sau cùng, tại Hỏa Lò, dù chân bị cùm tay bị xích, chỉ còn mỗi cái cổ ngúc ngắc, anh vẫn đập đầu vào tường mới chết được. Quán Cẩm, người bị đau tim bất ngờ không thể chỉ huy đánh Yên Bái, đã vỡ tim mà chết trong nhà thương khi nghe tin cuộc khởi nghĩa thất bại. Nguyễn Thị Tâm, suốt một buổi chiều bị làm nhục, tối đến phải nuốt cả một dải thắt lưng dài để được chết. Và bốn mươi cái chết do hội đồng đề hình tuyên xử, cả những cái chết trên đường rút lui đẫm máu, chết trong các nhà tù tối tăm…cả trăm Người đều chết để thành Nhân. Chữ Nhân đẹp như lưỡi kiếm tuốt ra dưới ánh trăng, rất lãng mạn, nhưng cũng rất bi tráng. Họ vui vì được chết trong khi chàng không vui nổi vì được sống. Buồn hơn nữa là chàng không đọc được một lời ai điếu hay rải cho ai một nắm đất. Có phải vì mình nôn nóng, vì thiếu kế hoạch, vì kém tài mà bao nhiêu người non trẻ như Chính, như Nghiệp, như Nhu… phải đối mặt với cái chết? Có thực họ vui vì được chết hay chỉ vì không còn một con đường nào khác? Mà ai? Chính mình chứ còn ai vào đây nữa, chính mình đã đưa họ đến con đường cụt này! Đau đớn hơn nữa là những ngôi làng như Cổ Am, Võng La, Xuân Lũng, Kha Lâm… yên ấm bao đời, nay chỉ vì theo Cách mệnh mà bị giặc ném bom, đốt phá. Biết bao

Page 160: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

233 233

người già, phụ nữ, trẻ em đã bị thiêu cháy như những cây đuốc! Tất cả do mình, chỉ một mình mình, cái gánh nặng trách nhiệm to nặng như núi Tản này biết trút bỏ cho ai? Mà sao lại trút bỏ, sao không dũng cảm chấp nhận? Rất may, trong muôn ngàn tin dữ, cũng lấp lánh có được một tin vui. Tuy chỉ mới mong manh như một làn sương, nhưng hạt mầm của hai người đã hình thành. Nó đẹp như một chiếc cầu vồng bắc qua hai bờ thác trắng. Với 4000 bức hình dán khắp hang cùng ngõ hẽm, biết ngụy trang như thế nào cho thoát, trong khi chàng nhứt quyết không chịu sang Lào hay sang Tàu?! Hai nhà sư vai khoác tay nải, được lệnh dừng lại trước điếm canh. Thế là lộ rồi! Một quả tạc đạn nhỏ được tung ra để dọa. Đoàng! Chạy! Nhưng không thoát! Cả chục tên trương tuần đuổi theo. Một sư bị đánh gãy tay. Một sư khác bị đánh gãy chân. “Hóa ra là ngài đảng trưởng Nguyễn Thái Học, quý hóa quá. Thôi để chúng em làm võng cáng quý ngài”! Mặc cho máu me đầy mình, bọn chúng trói chặt hai người bỏ vào thúng, khiêng đi lãnh thưởng! Hai người đã bị “cắt tiết” như thế đó ở cái ấp có cái tên rất định mệnh là ấp Cổ Vịt! (Có lẽ từ nay phải thêm một từ “cắt” cho đủ nghĩa là ấp Cắt Cổ Vịt!) Đêm ở Hòa Lò Mười ngày sau khởi nghĩa Yên Bái, chàng bị biệt giam trong ngục. Làm ra vẻ nhân đạo, thống sứ Bắc kỳ vẫn cho thân nhân được vào gặp mặt. Thực ra, lão giăng câu để câu một con cá mà lão tin là to hơn, đẹp hơn, một con cá cái

người già, phụ nữ, trẻ em đã bị thiêu cháy như những cây đuốc! Tất cả do mình, chỉ một mình mình, cái gánh nặng trách nhiệm to nặng như núi Tản này biết trút bỏ cho ai? Mà sao lại trút bỏ, sao không dũng cảm chấp nhận? Rất may, trong muôn ngàn tin dữ, cũng lấp lánh có được một tin vui. Tuy chỉ mới mong manh như một làn sương, nhưng hạt mầm của hai người đã hình thành. Nó đẹp như một chiếc cầu vồng bắc qua hai bờ thác trắng. Với 4000 bức hình dán khắp hang cùng ngõ hẽm, biết ngụy trang như thế nào cho thoát, trong khi chàng nhứt quyết không chịu sang Lào hay sang Tàu?! Hai nhà sư vai khoác tay nải, được lệnh dừng lại trước điếm canh. Thế là lộ rồi! Một quả tạc đạn nhỏ được tung ra để dọa. Đoàng! Chạy! Nhưng không thoát! Cả chục tên trương tuần đuổi theo. Một sư bị đánh gãy tay. Một sư khác bị đánh gãy chân. “Hóa ra là ngài đảng trưởng Nguyễn Thái Học, quý hóa quá. Thôi để chúng em làm võng cáng quý ngài”! Mặc cho máu me đầy mình, bọn chúng trói chặt hai người bỏ vào thúng, khiêng đi lãnh thưởng! Hai người đã bị “cắt tiết” như thế đó ở cái ấp có cái tên rất định mệnh là ấp Cổ Vịt! (Có lẽ từ nay phải thêm một từ “cắt” cho đủ nghĩa là ấp Cắt Cổ Vịt!) Đêm ở Hòa Lò Mười ngày sau khởi nghĩa Yên Bái, chàng bị biệt giam trong ngục. Làm ra vẻ nhân đạo, thống sứ Bắc kỳ vẫn cho thân nhân được vào gặp mặt. Thực ra, lão giăng câu để câu một con cá mà lão tin là to hơn, đẹp hơn, một con cá cái

Page 161: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

234 234

anh vũ có tên là Nguyễn Thị Giang. Nhưng chỉ có mẹ chàng vào. Một tay gãy mà vẫn bị còng. Một cái miệng với cặp môi sưng vù, không che nổi chỗ khuyết của hai chiếc răng bị gẫy do cây ba toong của một thằng quan hai gây ra. Hai chân bị cùm lở loét mà vẫn bị xiềng. Đem một người bị bầm dập tơi tả như thế đến gặp người đã mang nặng đẻ đau ra anh ta, thì đó chính là một đòn tra tấn độc ác hành hạ cả hai. Mẹ và con, nhất là người mẹ, sẽ đau nhức đến suốt đời. Bà cụ đưa bàn tay nhăn nheo, run rẩy qua song sắt rờ đầu con, cái đầu một ngày không xa sẽ rời khỏi cổ. Chàng nói, “Cho con được lạy mẹ, con giữ được chữ trung thì đành mất chữ hiếu, xin mẹ tha lỗi cho con”. “Đừng nói nữa, con”, bà nghẹn ngào, “nếu có lỗi thì chính mẹ chứ không phải con, mẹ đã sinh con ra nhưng lúc này mẹ không biết làm cách nào để giữ được con!” Khi chàng bị lôi đi bà vẫn còn đứng thẫn thờ. Ừ, giá như mẹ không sinh con ra! Hay giá như mẹ còn trẻ và lúc này con đang còn nằm trong bụng mẹ! Giá như thế thì không một ai dám hành hạ con, không một ai có thể cướp được con của mẹ! Chàng là người dễ ngủ. Chỉ cần nằm sấp, quặp hai chân lại, là bất cứ chỗ nào, giờ nào chàng cũng ngủ được. Nhưng không phải là nết ngủ của một kẻ hờ hững vô lo. “Có ngủ mới đủ sức khỏe mà lo việc này việc nọ được chứ”. Chàng thường nói với các bạn như thế. Tại Hỏa Lò, gần như ngày nào chàng cũng ngủ. Ngủ để tối đến thì thức. Hơn 100 đêm chờ ra pháp trường là hơn 100 đêm chàng thức trắng. Thức để sống lại những năm tháng

anh vũ có tên là Nguyễn Thị Giang. Nhưng chỉ có mẹ chàng vào. Một tay gãy mà vẫn bị còng. Một cái miệng với cặp môi sưng vù, không che nổi chỗ khuyết của hai chiếc răng bị gẫy do cây ba toong của một thằng quan hai gây ra. Hai chân bị cùm lở loét mà vẫn bị xiềng. Đem một người bị bầm dập tơi tả như thế đến gặp người đã mang nặng đẻ đau ra anh ta, thì đó chính là một đòn tra tấn độc ác hành hạ cả hai. Mẹ và con, nhất là người mẹ, sẽ đau nhức đến suốt đời. Bà cụ đưa bàn tay nhăn nheo, run rẩy qua song sắt rờ đầu con, cái đầu một ngày không xa sẽ rời khỏi cổ. Chàng nói, “Cho con được lạy mẹ, con giữ được chữ trung thì đành mất chữ hiếu, xin mẹ tha lỗi cho con”. “Đừng nói nữa, con”, bà nghẹn ngào, “nếu có lỗi thì chính mẹ chứ không phải con, mẹ đã sinh con ra nhưng lúc này mẹ không biết làm cách nào để giữ được con!” Khi chàng bị lôi đi bà vẫn còn đứng thẫn thờ. Ừ, giá như mẹ không sinh con ra! Hay giá như mẹ còn trẻ và lúc này con đang còn nằm trong bụng mẹ! Giá như thế thì không một ai dám hành hạ con, không một ai có thể cướp được con của mẹ! Chàng là người dễ ngủ. Chỉ cần nằm sấp, quặp hai chân lại, là bất cứ chỗ nào, giờ nào chàng cũng ngủ được. Nhưng không phải là nết ngủ của một kẻ hờ hững vô lo. “Có ngủ mới đủ sức khỏe mà lo việc này việc nọ được chứ”. Chàng thường nói với các bạn như thế. Tại Hỏa Lò, gần như ngày nào chàng cũng ngủ. Ngủ để tối đến thì thức. Hơn 100 đêm chờ ra pháp trường là hơn 100 đêm chàng thức trắng. Thức để sống lại những năm tháng

Page 162: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

235 235

thơ ấu. Cậu bé 9 tuổi là chàng đã hứa gì trước người mẹ của đội Cấn hóa điên khóc đòi con? Không hứa gì cả, nhưng cái mầm cách mệnh đã mọc lên trong cậu từ buổi chiều hôm đó. Rồi những năm sinh viên, những bè bạn ở Nam Đồng thư xã, những đồng chí lập nên tổng bộ đầu tiên và những đêm tuyên thệ hùng vĩ… Thức, để mổ xẻ từng sự kiện, phân tích từng cái hay cái dở, từng cái ưu cái khuyết. Thức như thể ngày mai lại tiến hành một cuộc khởi nghĩa nữa, khởi nghĩa mãi cho đến lúc thành công. Chàng cũng thức vì những cái bóng ma của bọn phản đảng. Thức vì những kẻ trùm chăn, vì những nỗi hãi sợ có từ ngàn năm do vua quan phong kiến đè lên số phận từng người. Thức vì có những đảng mới với những học thuyết xa lạ, những con người độc đoán chỉ muốn độc quyền làm cách mệnh, nên chống Pháp thì ít mà chống và tiêu diệt những phần tử của đảng khác thì nhiều. Không loại trừ cái nghi án chính họ đã mượn tay thực dân để giết hại các đảng anh em. Yên Bái khởi nghĩa thất bại, họ thấy vui nhiều hơn buồn! Đương nhiên, chàng cũng thức vì lo lắng cho sự an nguy của người nữ đồng chí mà chàng quý yêu còn hơn chính bản thân mình. Thức vì cái mầm sống mong manh vừa hình thành trong người nàng. Ôi chao, cái khẩu súng thay chàng để bảo vệ nàng, giờ sẽ thành cái vật giết người oan nghiệt. Ước gì chàng không trao nàng khẩu súng ấy. Ước gì nàng quên lời thề sẽ chết theo chàng! Trong đêm chàng thao thức, âu lo, đau cái đau của dân của nước, nhưng ban ngày, trước mắt bọn cai ngục và bọn thống trị, lúc nào chàng cũng an nhiên, đĩnh đạc. Cái khí phách của chàng chính là sự bình tĩnh của một người hiểu và tin việc mình làm là đúng, là cần thiết. Giờ thì chàng đã làm xong, chỉ còn mỗi một việc cuối cùng là đón nhận cái chết trong tâm thức của một kẻ chiến thắng.

thơ ấu. Cậu bé 9 tuổi là chàng đã hứa gì trước người mẹ của đội Cấn hóa điên khóc đòi con? Không hứa gì cả, nhưng cái mầm cách mệnh đã mọc lên trong cậu từ buổi chiều hôm đó. Rồi những năm sinh viên, những bè bạn ở Nam Đồng thư xã, những đồng chí lập nên tổng bộ đầu tiên và những đêm tuyên thệ hùng vĩ… Thức, để mổ xẻ từng sự kiện, phân tích từng cái hay cái dở, từng cái ưu cái khuyết. Thức như thể ngày mai lại tiến hành một cuộc khởi nghĩa nữa, khởi nghĩa mãi cho đến lúc thành công. Chàng cũng thức vì những cái bóng ma của bọn phản đảng. Thức vì những kẻ trùm chăn, vì những nỗi hãi sợ có từ ngàn năm do vua quan phong kiến đè lên số phận từng người. Thức vì có những đảng mới với những học thuyết xa lạ, những con người độc đoán chỉ muốn độc quyền làm cách mệnh, nên chống Pháp thì ít mà chống và tiêu diệt những phần tử của đảng khác thì nhiều. Không loại trừ cái nghi án chính họ đã mượn tay thực dân để giết hại các đảng anh em. Yên Bái khởi nghĩa thất bại, họ thấy vui nhiều hơn buồn! Đương nhiên, chàng cũng thức vì lo lắng cho sự an nguy của người nữ đồng chí mà chàng quý yêu còn hơn chính bản thân mình. Thức vì cái mầm sống mong manh vừa hình thành trong người nàng. Ôi chao, cái khẩu súng thay chàng để bảo vệ nàng, giờ sẽ thành cái vật giết người oan nghiệt. Ước gì chàng không trao nàng khẩu súng ấy. Ước gì nàng quên lời thề sẽ chết theo chàng! Trong đêm chàng thao thức, âu lo, đau cái đau của dân của nước, nhưng ban ngày, trước mắt bọn cai ngục và bọn thống trị, lúc nào chàng cũng an nhiên, đĩnh đạc. Cái khí phách của chàng chính là sự bình tĩnh của một người hiểu và tin việc mình làm là đúng, là cần thiết. Giờ thì chàng đã làm xong, chỉ còn mỗi một việc cuối cùng là đón nhận cái chết trong tâm thức của một kẻ chiến thắng.

Page 163: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

236 236

Đêm cuối của chàng

Chiều 16 tháng 6 năm 1930, Nguyễn cùng 12 tử tội được đưa ra ga Hàng Cỏ để lên Yên Bái. Tiếng xích sắt khua loảng xoảng trên sân ga. Khi người cuối cùng bước lên tàu, 13 cái cùm sắt nặng nề liền ngậm chặt những ống chân tong teo, các cửa sổ bị đóng sập bít bùng, đạn được lên nòng, lưỡi lê được tuốt trần. Bị canh giữ cẩn mật như thế, nhưng được gặp lại bạn bè, đồng chí sau những tháng ngày biệt giam, nên ai cũng vui. Một người nói, “Các anh trên ấy chắc đang ra ga đón mình”. Người khác nói, “Mình chưa biết cái máy chém nó ra làm sao?” “Thì sáng mai khắc biết. Nó như cái dao trong các tiệm thuốc bắc, nhưng to hơn!” “Bậy nào, nó là máy mà, không biết nó chạy bằng gì?” “Ước gì mình được chém bằng cái máy mà cách mệnh Pháp đã dùng để chém vua Louis 14. Thế mới đã!” “Ít ra Đảng Trưởng của mình phải được như thế chứ. Phương diện quốc gia mà.” Lúc đó một cố đạo mang thánh giá đến từng người để rửa tội, Nguyễn liền nói lớn, “Chúng tôi nào có tội gì mà rửa!”. Rồi anh đọc mấy câu thơ ngắn bằng tiếng Pháp, có nghĩa

Đêm cuối của chàng

Chiều 16 tháng 6 năm 1930, Nguyễn cùng 12 tử tội được đưa ra ga Hàng Cỏ để lên Yên Bái. Tiếng xích sắt khua loảng xoảng trên sân ga. Khi người cuối cùng bước lên tàu, 13 cái cùm sắt nặng nề liền ngậm chặt những ống chân tong teo, các cửa sổ bị đóng sập bít bùng, đạn được lên nòng, lưỡi lê được tuốt trần. Bị canh giữ cẩn mật như thế, nhưng được gặp lại bạn bè, đồng chí sau những tháng ngày biệt giam, nên ai cũng vui. Một người nói, “Các anh trên ấy chắc đang ra ga đón mình”. Người khác nói, “Mình chưa biết cái máy chém nó ra làm sao?” “Thì sáng mai khắc biết. Nó như cái dao trong các tiệm thuốc bắc, nhưng to hơn!” “Bậy nào, nó là máy mà, không biết nó chạy bằng gì?” “Ước gì mình được chém bằng cái máy mà cách mệnh Pháp đã dùng để chém vua Louis 14. Thế mới đã!” “Ít ra Đảng Trưởng của mình phải được như thế chứ. Phương diện quốc gia mà.” Lúc đó một cố đạo mang thánh giá đến từng người để rửa tội, Nguyễn liền nói lớn, “Chúng tôi nào có tội gì mà rửa!”. Rồi anh đọc mấy câu thơ ngắn bằng tiếng Pháp, có nghĩa

Page 164: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

237 237

rằng: “Chết vì Tổ Quốc Chết vinh quang Lòng ta sung sướng Trí ta nhẹ nhàng”. Dù sao, cái cảnh những tử tội nói cười trong toa vẫn có vẻ “tây”và văn minh hơn cảnh Huấn Cao và đồng tù khiêng một cái gông dài, nặng ra pháp trường, một cảnh rất chi là “tàu” và luộm thuộm. Con tàu giống như một con sâu khổng lồ, mở to hai con mắt sáng quắc, hú những tiếng chói tai trước khi lao vào đêm tối. Phó Đức Chính không giấu nổi xúc động, nói: “Anh Học à, phải chi bọn tôi chiếm được Yên Bái và các nơi thành công, thì đoàn tàu này rất vẻ vang vì đã đưa anh và tổng bộ lên mừng chiến thắng”. “Rồi sẽ có một đoàn tàu dài như vậy”, Nguyễn nói, “chẳng những một đoàn mà nhiều đoàn để mừng nước nhà độc lập”. Ga Yên Bái đông đặc lính khố xanh, khố đỏ và lê dương. Mười ba tử tội, lại bị tống vào ngục tối. Trong hơi lạnh của núi rừng trung du, sau nhiều đêm thức trắng, Nguyễn đánh một giấc ngon lành cho đến khi bị dựng dậy lúc 5 giờ. Nhưng bên ngoài, có một người không ngủ được đang âm thầm ngồi chờ sáng. Đêm cuối của nàng

rằng: “Chết vì Tổ Quốc Chết vinh quang Lòng ta sung sướng Trí ta nhẹ nhàng”. Dù sao, cái cảnh những tử tội nói cười trong toa vẫn có vẻ “tây”và văn minh hơn cảnh Huấn Cao và đồng tù khiêng một cái gông dài, nặng ra pháp trường, một cảnh rất chi là “tàu” và luộm thuộm. Con tàu giống như một con sâu khổng lồ, mở to hai con mắt sáng quắc, hú những tiếng chói tai trước khi lao vào đêm tối. Phó Đức Chính không giấu nổi xúc động, nói: “Anh Học à, phải chi bọn tôi chiếm được Yên Bái và các nơi thành công, thì đoàn tàu này rất vẻ vang vì đã đưa anh và tổng bộ lên mừng chiến thắng”. “Rồi sẽ có một đoàn tàu dài như vậy”, Nguyễn nói, “chẳng những một đoàn mà nhiều đoàn để mừng nước nhà độc lập”. Ga Yên Bái đông đặc lính khố xanh, khố đỏ và lê dương. Mười ba tử tội, lại bị tống vào ngục tối. Trong hơi lạnh của núi rừng trung du, sau nhiều đêm thức trắng, Nguyễn đánh một giấc ngon lành cho đến khi bị dựng dậy lúc 5 giờ. Nhưng bên ngoài, có một người không ngủ được đang âm thầm ngồi chờ sáng. Đêm cuối của nàng

Page 165: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

238 238

Người đó không ai khác, chính là cô Giang. Ngay khi biết tin chồng bị đưa lên Yên Bái, cô đã đáp xe lửa đi theo hút. Cùng một đoàn tàu với Nguyễn, nhưng không cách gì đến gần được. Cô đành giấu những quả tạc đạn dưới đáy thúng. Sáng hôm ấy, cô định ném vào pháp trường để giải cứu cho chồng. Nhưng ba vòng lính, ken dày. Một con kiến cũng không chui lọt. Cô, lúc này biến mình thành một bà già người Mán, và cũng biến tim mình thành đá, yên lặng một cách dũng cảm, đứng nhìn các đồng chí và chồng mình, từng người một bước lên máy chém. Những tiếng hô Việt Nam muôn năm mạnh mẽ vang lên. Sau mỗi tiếng hô là một cái đầu bị lưỡi dao rộng và nặng như tấm phản rơi xuống cắt đứt. Đã mười hai tiếng hô và 12 cái đầu rời khỏi cổ. Đến lượt mình, anh chỉ yêu cầu được rít một hơi thuốc lào.Trong màn khói xanh xanh cay mờ, Nguyễn nhìn thấy cụ bà người Mán mặc áo váy sặc sỡ kia chính là Mẹ của đứa con anh sắp được sinh ra. Rất dõng dạc, anh hướng về phía nàng, hô từng tiếng một: Việt Nam muôn năm, như nhắn nhủ hãy cố sống để sinh và nuôi con.

Người đó không ai khác, chính là cô Giang. Ngay khi biết tin chồng bị đưa lên Yên Bái, cô đã đáp xe lửa đi theo hút. Cùng một đoàn tàu với Nguyễn, nhưng không cách gì đến gần được. Cô đành giấu những quả tạc đạn dưới đáy thúng. Sáng hôm ấy, cô định ném vào pháp trường để giải cứu cho chồng. Nhưng ba vòng lính, ken dày. Một con kiến cũng không chui lọt. Cô, lúc này biến mình thành một bà già người Mán, và cũng biến tim mình thành đá, yên lặng một cách dũng cảm, đứng nhìn các đồng chí và chồng mình, từng người một bước lên máy chém. Những tiếng hô Việt Nam muôn năm mạnh mẽ vang lên. Sau mỗi tiếng hô là một cái đầu bị lưỡi dao rộng và nặng như tấm phản rơi xuống cắt đứt. Đã mười hai tiếng hô và 12 cái đầu rời khỏi cổ. Đến lượt mình, anh chỉ yêu cầu được rít một hơi thuốc lào.Trong màn khói xanh xanh cay mờ, Nguyễn nhìn thấy cụ bà người Mán mặc áo váy sặc sỡ kia chính là Mẹ của đứa con anh sắp được sinh ra. Rất dõng dạc, anh hướng về phía nàng, hô từng tiếng một: Việt Nam muôn năm, như nhắn nhủ hãy cố sống để sinh và nuôi con.

Page 166: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

239 239

Rời bỏ pháp trường, nàng thay đồ, giả dạng một người đàn bà miền xuôi. Nàng về Thổ Tang, lạy cha mẹ chồng, rồi ghé thăm cái quán, nơi hai người đã có lần vào nghỉ chân, uống một bát nước chè. Tối hôm ấy nàng ngồi một mình lặng lẽ giữa đồng. Đây là đêm dài nhất của đời nàng. Đêm thật hoang vu, chỉ có những ngôi sao lặng lẽ mọc lên trên nền trời cao rộng. Nàng mở giỏ lấy một vuông vải trắng, chít khăn tang cho chồng. Cái đầu với mái tóc húi cua và cái thây không đầu của chồng hiện rõ như có thể đưa tay ra sờ được. Đây là lúc không còn phải giữ gìn, không còn là đá, không còn là giá băng, giờ chỉ là nước và nàng òa khóc. Nàng khóc như cả đời chỉ được khóc một lần này. Tôi phải làm gì? Khẩu súng thiêng còn đây và tôi nhất định phải giữ lời thề. Em tiếc là không được chết cùng anh. Nhưng em sẽ theo anh, dù chậm một ngày. Chúng mình sẽ lại về đền Thượng. Sẽ lại chiêu binh mãi mã dưới suối vàng để phục quốc. Nhưng liệu có nên giữ lời thề khi trong tôi hãy còn một mầm sống mạnh mẽ đòi được sinh ra? Tôi có quyền gì mà không cho nó được sinh ra. Dường như trong bốn tiếng Việt Nam muôn năm, tôi nghe như, “hãy sống nuôi con”! Hãy sống nuôi con! Đúng rồi, tôi phải sống để sinh con tôi, tôi phải sống, tôi phải sống để nuôi con tôi. Lớn lên, nó sẽ trả thù cho cha, sẽ tiếp bước giành cho được độc lập. Tôi tin con chúng tôi sẽ thành nhân và cả thành công. Nhưng tôi sẽ sống làm sao giữa muôn ngàn giòi bọ, tôi trốn ở đâu giữa muôn trùng vây bủa, tôi giả dạng làm sao để qua mắt lũ diều cú? Nếu một ngày chúng tóm được tôi, làm sao tôi chịu được nhục, rồi tôi cũng sẽ như chị Tâm, sẽ phải nuốt cả một dải thắt lưng dài mà thôi!

Rời bỏ pháp trường, nàng thay đồ, giả dạng một người đàn bà miền xuôi. Nàng về Thổ Tang, lạy cha mẹ chồng, rồi ghé thăm cái quán, nơi hai người đã có lần vào nghỉ chân, uống một bát nước chè. Tối hôm ấy nàng ngồi một mình lặng lẽ giữa đồng. Đây là đêm dài nhất của đời nàng. Đêm thật hoang vu, chỉ có những ngôi sao lặng lẽ mọc lên trên nền trời cao rộng. Nàng mở giỏ lấy một vuông vải trắng, chít khăn tang cho chồng. Cái đầu với mái tóc húi cua và cái thây không đầu của chồng hiện rõ như có thể đưa tay ra sờ được. Đây là lúc không còn phải giữ gìn, không còn là đá, không còn là giá băng, giờ chỉ là nước và nàng òa khóc. Nàng khóc như cả đời chỉ được khóc một lần này. Tôi phải làm gì? Khẩu súng thiêng còn đây và tôi nhất định phải giữ lời thề. Em tiếc là không được chết cùng anh. Nhưng em sẽ theo anh, dù chậm một ngày. Chúng mình sẽ lại về đền Thượng. Sẽ lại chiêu binh mãi mã dưới suối vàng để phục quốc. Nhưng liệu có nên giữ lời thề khi trong tôi hãy còn một mầm sống mạnh mẽ đòi được sinh ra? Tôi có quyền gì mà không cho nó được sinh ra. Dường như trong bốn tiếng Việt Nam muôn năm, tôi nghe như, “hãy sống nuôi con”! Hãy sống nuôi con! Đúng rồi, tôi phải sống để sinh con tôi, tôi phải sống, tôi phải sống để nuôi con tôi. Lớn lên, nó sẽ trả thù cho cha, sẽ tiếp bước giành cho được độc lập. Tôi tin con chúng tôi sẽ thành nhân và cả thành công. Nhưng tôi sẽ sống làm sao giữa muôn ngàn giòi bọ, tôi trốn ở đâu giữa muôn trùng vây bủa, tôi giả dạng làm sao để qua mắt lũ diều cú? Nếu một ngày chúng tóm được tôi, làm sao tôi chịu được nhục, rồi tôi cũng sẽ như chị Tâm, sẽ phải nuốt cả một dải thắt lưng dài mà thôi!

Page 167: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

240 240

Đêm càng khuya, sự vật vã giữa sống để sinh con và chết theo chồng khiến nàng phờ phạc. Chưa bao giờ, nàng cảm thấy cô đơn trơ trọi như lúc này. Con ơi, mẹ phải làm sao đây? Chắc phải đem con theo cùng mẹ, đợi kiếp sau, khi nước nhà độc lập, mẹ con chúng ta sẽ lại lên làm người. Chắc phải vậy thôi. Không sinh con ra là có tội, nhưng sinh con ra mà không bảo vệ được con, tội lại càng nặng hơn. Rồi đêm cũng tàn và ngày đến. Đã nghe thấy tiếng người gọi nhau ra đồng, tiếng móng guốc của trâu bò gõ trên đường đất. Có kẻ đã biết nàng về lạy bố mẹ chồng. Chỉ trong vài giờ, thậm chí là vài phút lũ mật thám như ruồi nhặng sẽ tìm tới. Nàng đứng lên, rũ cỏ dại bám trên áo quần, lấy gương ra soi mặt, sửa lại tóc, cho rạng ngời vẻ đẹp Việt Nam, để xứng đáng là phu nhân của một Đảng Trưởng. Anh ơi, anh đã từng nói: được chữ trung thì mất chữ hiếu, giờ em giữ được lời thề với anh thì mang tội giết con. Không còn kịp nữa rồi, con ơi, xin tha tội cho mẹ. Nàng kê súng vào màng tang và bóp cò! Đúng lúc ấy mặt trời mọc lên, ánh sáng đầu tiên đã kịp rắc một lớp phấn hồng lên người nàng. Nơi ấy, bây giờ chỉ là một ngôi mộ trơ trọi như thế này đây!

Đêm càng khuya, sự vật vã giữa sống để sinh con và chết theo chồng khiến nàng phờ phạc. Chưa bao giờ, nàng cảm thấy cô đơn trơ trọi như lúc này. Con ơi, mẹ phải làm sao đây? Chắc phải đem con theo cùng mẹ, đợi kiếp sau, khi nước nhà độc lập, mẹ con chúng ta sẽ lại lên làm người. Chắc phải vậy thôi. Không sinh con ra là có tội, nhưng sinh con ra mà không bảo vệ được con, tội lại càng nặng hơn. Rồi đêm cũng tàn và ngày đến. Đã nghe thấy tiếng người gọi nhau ra đồng, tiếng móng guốc của trâu bò gõ trên đường đất. Có kẻ đã biết nàng về lạy bố mẹ chồng. Chỉ trong vài giờ, thậm chí là vài phút lũ mật thám như ruồi nhặng sẽ tìm tới. Nàng đứng lên, rũ cỏ dại bám trên áo quần, lấy gương ra soi mặt, sửa lại tóc, cho rạng ngời vẻ đẹp Việt Nam, để xứng đáng là phu nhân của một Đảng Trưởng. Anh ơi, anh đã từng nói: được chữ trung thì mất chữ hiếu, giờ em giữ được lời thề với anh thì mang tội giết con. Không còn kịp nữa rồi, con ơi, xin tha tội cho mẹ. Nàng kê súng vào màng tang và bóp cò! Đúng lúc ấy mặt trời mọc lên, ánh sáng đầu tiên đã kịp rắc một lớp phấn hồng lên người nàng. Nơi ấy, bây giờ chỉ là một ngôi mộ trơ trọi như thế này đây!

Page 168: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

241 241

Mộ cô Giang nằm giữa cánh đồng làng Thổ tang,

Ghi chú: Ngoài việc hư cấu như trong tiểu thuyết, những nét chính về Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, tác giả dựa theo tác phẩm Nguyễn Thái Học của Nhượng Tống. Đây là nén hương của kẻ hậu sinh kính dâng lên hai vị anh hùng.

Mộ cô Giang nằm giữa cánh đồng làng Thổ tang,

Ghi chú: Ngoài việc hư cấu như trong tiểu thuyết, những nét chính về Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, tác giả dựa theo tác phẩm Nguyễn Thái Học của Nhượng Tống. Đây là nén hương của kẻ hậu sinh kính dâng lên hai vị anh hùng.

Page 169: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

242 242

“NHỮNG TÁC PHẨM SỐNG LẠI TỪ TRONG ĐỐNG TRO THÁNG TƯ

1975” (TRUYỆN TỪ VĂN CỦA TRẦN

HOÀI THƯ)

Phạm Văn Nhàn

“Truyện Từ Văn” là tiêu đề của tập truyện gồm 25 truyện ngắn đi trên tạp chí VĂN trước năm 1975, mà anh (tác giả Trần Hoài Thư) đã gom góp lại được, do Thư Ấn Quán in vào năm 2012. Nói đến tạp chí VĂN nhiều độc giả miền Nam trước 1975 không ai là không biết đến. Như vậy, tính từ tháng 4-1975 cho đến hôm nay (8-2012) ngày mà tôi bắt đầu đọc lại 25 truyện ngắn này đã trải qua một thời gian khá dài: 37 năm 4 tháng. Với 37 năm 4 tháng, thử tính một đứa trẻ sinh ra trong thời điểm sau tháng 4-1975 bây giờ đã là 37 tuổi, cái tuổi đã trưởng thành và rất năng động trong xã hội Việt nam ngày hôm nay. Chắc chắn họ không biết gì về những tác phẩm này, nhưng có thể (họ) đã nhiều lần nghe qua tên tạp chí Văn và tên tác giả. Bằng chứng mới đây (2011) tuyển tập 12 tác

“NHỮNG TÁC PHẨM SỐNG LẠI TỪ TRONG ĐỐNG TRO THÁNG TƯ

1975” (TRUYỆN TỪ VĂN CỦA TRẦN

HOÀI THƯ)

Phạm Văn Nhàn

“Truyện Từ Văn” là tiêu đề của tập truyện gồm 25 truyện ngắn đi trên tạp chí VĂN trước năm 1975, mà anh (tác giả Trần Hoài Thư) đã gom góp lại được, do Thư Ấn Quán in vào năm 2012. Nói đến tạp chí VĂN nhiều độc giả miền Nam trước 1975 không ai là không biết đến. Như vậy, tính từ tháng 4-1975 cho đến hôm nay (8-2012) ngày mà tôi bắt đầu đọc lại 25 truyện ngắn này đã trải qua một thời gian khá dài: 37 năm 4 tháng. Với 37 năm 4 tháng, thử tính một đứa trẻ sinh ra trong thời điểm sau tháng 4-1975 bây giờ đã là 37 tuổi, cái tuổi đã trưởng thành và rất năng động trong xã hội Việt nam ngày hôm nay. Chắc chắn họ không biết gì về những tác phẩm này, nhưng có thể (họ) đã nhiều lần nghe qua tên tạp chí Văn và tên tác giả. Bằng chứng mới đây (2011) tuyển tập 12 tác

Page 170: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

243 243

giả in và phát hành trong nước, gồm (6 trong nước và 6 ngoài nước) đã được giới độc giả trong nước đón nhận. Tôi gọi tác giả bằng anh, vì giữa tôi với anh: vừa là bạn vừa là “chiến hữu” một thời “bên trời lận đận”. Chiến tranh đã đi qua 37 năm: chết chóc, phân hóa đã lắng đọng. Độc giả trẻ tuổi (trong nước) nay lại đi tìm kiếm những tác phẩm văn học cũ một thời. Bằng chứng: Văn Miền Nam Trong Thời Chiến gồm những truyện ngắn trước 1975 cũng do Thư Ấn Quán đã sưu tầm và in lại, cũng từ trong những “đống tro” tháng 4/1975 đã gây ít nhiều “dư luận tốt” trong nước đang tìm kiếm để đọc, mà ít người có được. Nay, với 25 truyện ngắn của anh, không có nghĩa là nhiều lắm, so với sự nghiệp sáng tác của anh, từ lúc tôi gặp anh ở Qui Nhơn, hình như vào năm 1967 (?), đã đưa đến cho người đọc một thích thú khi đọc lại những dòng văn cũ. Không, và không bao giờ lỗi thời. “Truyện Từ Văn” tôi đọc không phải để phê bình hay khen chê ca ngợi người lính viết văn; mà đọc để nhớ lại khoảng thời gian hơn 45 năm về trước. Ngày mà tôi gặp anh. Mỗi truyện như có một góc ký ức hiện về. Mỗi truyện như có một Trần Hoài Thư, một người lính “lang bạt, sống bất cần” cho bản thân (nhưng sống rất chân tình với đồng đội, bạn bè), mặc dù anh xuất thân từ một nhà giáo. Đáng lẽ ra anh phải sống rất “chừng mực, chững chạc” trong bất kỳ tình huống nào. Nhưng không, người ta nhìn vào anh, một người lính cầm bút viết văn sống rất “bụi” và sống thật không che đậy lớp vỏ “mô phạm” của anh. Vì đâu mà tạo nên một Trần Hoài Thư có lối sống lang bạt, bất cần? Vì chiến tranh ư? Vì chiến trường khốc liệt ư? Vì những người lính của anh ngã xuống ư? Vì những người dân nơi thôn ổ (chữ của nhạc sĩ Phạm Duy) quá cực khổ giữa hai lằn đạn ư? Vì một xã hội phân hóa ư? Mà anh, một nhà giáo, đã dấn thân, trực diện với chiến trường nên… có lẽ anh đã nhìn thấy “cái thực của cuộc đời” không qua lăng kính màu, mà qua bao nhiêu dấu hỏi mà tôi đã nêu ra.

giả in và phát hành trong nước, gồm (6 trong nước và 6 ngoài nước) đã được giới độc giả trong nước đón nhận. Tôi gọi tác giả bằng anh, vì giữa tôi với anh: vừa là bạn vừa là “chiến hữu” một thời “bên trời lận đận”. Chiến tranh đã đi qua 37 năm: chết chóc, phân hóa đã lắng đọng. Độc giả trẻ tuổi (trong nước) nay lại đi tìm kiếm những tác phẩm văn học cũ một thời. Bằng chứng: Văn Miền Nam Trong Thời Chiến gồm những truyện ngắn trước 1975 cũng do Thư Ấn Quán đã sưu tầm và in lại, cũng từ trong những “đống tro” tháng 4/1975 đã gây ít nhiều “dư luận tốt” trong nước đang tìm kiếm để đọc, mà ít người có được. Nay, với 25 truyện ngắn của anh, không có nghĩa là nhiều lắm, so với sự nghiệp sáng tác của anh, từ lúc tôi gặp anh ở Qui Nhơn, hình như vào năm 1967 (?), đã đưa đến cho người đọc một thích thú khi đọc lại những dòng văn cũ. Không, và không bao giờ lỗi thời. “Truyện Từ Văn” tôi đọc không phải để phê bình hay khen chê ca ngợi người lính viết văn; mà đọc để nhớ lại khoảng thời gian hơn 45 năm về trước. Ngày mà tôi gặp anh. Mỗi truyện như có một góc ký ức hiện về. Mỗi truyện như có một Trần Hoài Thư, một người lính “lang bạt, sống bất cần” cho bản thân (nhưng sống rất chân tình với đồng đội, bạn bè), mặc dù anh xuất thân từ một nhà giáo. Đáng lẽ ra anh phải sống rất “chừng mực, chững chạc” trong bất kỳ tình huống nào. Nhưng không, người ta nhìn vào anh, một người lính cầm bút viết văn sống rất “bụi” và sống thật không che đậy lớp vỏ “mô phạm” của anh. Vì đâu mà tạo nên một Trần Hoài Thư có lối sống lang bạt, bất cần? Vì chiến tranh ư? Vì chiến trường khốc liệt ư? Vì những người lính của anh ngã xuống ư? Vì những người dân nơi thôn ổ (chữ của nhạc sĩ Phạm Duy) quá cực khổ giữa hai lằn đạn ư? Vì một xã hội phân hóa ư? Mà anh, một nhà giáo, đã dấn thân, trực diện với chiến trường nên… có lẽ anh đã nhìn thấy “cái thực của cuộc đời” không qua lăng kính màu, mà qua bao nhiêu dấu hỏi mà tôi đã nêu ra.

Page 171: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

244 244

Đúng vậy, cho nên anh viết, viết nhiều lắm. Viết bất kỳ nơi nào anh cũng viết được, dù anh về phố thị rất ít thời gian. Viết từ một góc quán cà phê trên vài trang giấy vở, một cây bút bi, một ly cà phê… viết trong những tiếng động ồn ào của quán. Viết không như những người khác viết có một không gian yên tĩnh, trong một căn phòng yên tĩnh. Anh viết bất kỳ nơi nào. Tôi biết. Thời đó chúng tôi còn trẻ lắm. Bình Định không phải là xứ sở của chúng tôi. Nhưng, cũng vì “chiến tranh” đã đẩy đưa chúng tôi đến nơi này. Nơi mà “chết nhiều hơn sống”. Bình Định không lớn lắm. Nhưng chiến trường rất “sôi động”. Một Bình Định có quá nhiều lính đồng minh (Mỹ+ Đại Hàn). Họ xem cái chết của người dân thường như con vật. Một địa danh nghe choáng khi chiến trường càng ngày càng khốc liệt. Mà cũng từ nơi đây, những người lính trẻ như chúng tôi gặp nhau trong cái “buồn nôn” “chán chường” không lối thoát. Cho nên rảnh việc quân là chúng tôi lại muốn quay về tìm một nơi chốn “yên ổn” bên ly cà phê, khói thuốc với bạn bè. Thường là nơi quán “cà phê Bạch Tuyết” trên đường Phan Bội Châu hay Dung ở ngã tư Phan Bội Châu –Lê Lợi. Đọc lại đoạn văn: “…Thành phố giờ này đã đi vào cơn mệt mỏi. Con đường nhựa và những tiếng còi trống rỗng. Tiếng nhạc tại quán cà phê Bạch Tuyết cất lên bơ vơ. Một hai gã nhàn du nhìn con nắng rơi chầm chậm. Thành phố, mấy đứa con gái làm tiền nằm hớ hênh trên nệm trắng trong phòng ngủ và chàng đi ngang, đến bên giường, ngồi xuống. Thành phố. Tôi làm quen sau những ngày hành quân bằng rượu chè, nói tục, kể chuyện bạn bè ra đi, ở lại, lên lon, xuống chức. Thành phố tôi nôn mửa nhìn lại tuổi trẻ, trong màu ly cà phê đen đặc, tự nói mình già hay trẻ đây. Đến lúc này mình đã sống đầy đủ chưa. Những đêm vùi đầu vào nách đàn bà, thủ thỉ trơ trẽn:” Em ơi, anh xin em ân huệ. Rủi ngày mai anh không trở về thì sao.” Trang 44 (Nhật Ký Hành Quân 2). Tuổi trẻ chúng tôi đã nhìn thấy thành phố “bẩn thỉu” đầy đĩ điếm, quán bar phục vụ cho những người lính đồng minh

Đúng vậy, cho nên anh viết, viết nhiều lắm. Viết bất kỳ nơi nào anh cũng viết được, dù anh về phố thị rất ít thời gian. Viết từ một góc quán cà phê trên vài trang giấy vở, một cây bút bi, một ly cà phê… viết trong những tiếng động ồn ào của quán. Viết không như những người khác viết có một không gian yên tĩnh, trong một căn phòng yên tĩnh. Anh viết bất kỳ nơi nào. Tôi biết. Thời đó chúng tôi còn trẻ lắm. Bình Định không phải là xứ sở của chúng tôi. Nhưng, cũng vì “chiến tranh” đã đẩy đưa chúng tôi đến nơi này. Nơi mà “chết nhiều hơn sống”. Bình Định không lớn lắm. Nhưng chiến trường rất “sôi động”. Một Bình Định có quá nhiều lính đồng minh (Mỹ+ Đại Hàn). Họ xem cái chết của người dân thường như con vật. Một địa danh nghe choáng khi chiến trường càng ngày càng khốc liệt. Mà cũng từ nơi đây, những người lính trẻ như chúng tôi gặp nhau trong cái “buồn nôn” “chán chường” không lối thoát. Cho nên rảnh việc quân là chúng tôi lại muốn quay về tìm một nơi chốn “yên ổn” bên ly cà phê, khói thuốc với bạn bè. Thường là nơi quán “cà phê Bạch Tuyết” trên đường Phan Bội Châu hay Dung ở ngã tư Phan Bội Châu –Lê Lợi. Đọc lại đoạn văn: “…Thành phố giờ này đã đi vào cơn mệt mỏi. Con đường nhựa và những tiếng còi trống rỗng. Tiếng nhạc tại quán cà phê Bạch Tuyết cất lên bơ vơ. Một hai gã nhàn du nhìn con nắng rơi chầm chậm. Thành phố, mấy đứa con gái làm tiền nằm hớ hênh trên nệm trắng trong phòng ngủ và chàng đi ngang, đến bên giường, ngồi xuống. Thành phố. Tôi làm quen sau những ngày hành quân bằng rượu chè, nói tục, kể chuyện bạn bè ra đi, ở lại, lên lon, xuống chức. Thành phố tôi nôn mửa nhìn lại tuổi trẻ, trong màu ly cà phê đen đặc, tự nói mình già hay trẻ đây. Đến lúc này mình đã sống đầy đủ chưa. Những đêm vùi đầu vào nách đàn bà, thủ thỉ trơ trẽn:” Em ơi, anh xin em ân huệ. Rủi ngày mai anh không trở về thì sao.” Trang 44 (Nhật Ký Hành Quân 2). Tuổi trẻ chúng tôi đã nhìn thấy thành phố “bẩn thỉu” đầy đĩ điếm, quán bar phục vụ cho những người lính đồng minh

Page 172: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

245 245

trên các con phố chính mà chính quyền vẫn… tự nhiên. Dân áp- phe vẫn sống phè phỡn trên những “dịch vụ chiến tranh” hay trên xác người lính ngoài mặt trận để họ có “an ninh” mà đú đởn. Thử hỏi, tuổi trẻ của chúng tôi ra chiến trường để làm gì khi mà hậu phương toàn một lũ…đĩ. Chiến tranh, ta nghe anh nói qua Nhật ký hành quân trang 49: “…Tôi nói Đại Bàng ráng giúp xin trực thăng Mỹ, kẻo tội quá. Dù sao mình cũng bắn lầm. Tiếng ông già ngắt quãng:“Tại cha, tại cha…” Thằng bé thì rên: “Đau quá cha ơi”. Tôi bảo lính vác nạn nhân về trạm y tế xã. Suốt đêm, đứng canh chừng, tai nghe bà mẹ thằng bé chửi:“Sao các ông lại bắn nó. Con ơi. Anh con cũng chết vì người ta bắn. Bây giờ đến phiên con.” Thú thật, tôi muốn về chỗ ngủ, muốn coi mọi chuyện không quan trọng đến tôi, nhưng nhìn đôi mắt thằng bé khép kín và tiếng rên não nuột lòng tôi quặn thắt. Tôi ra ngoài sân đình nói thầm: Không, không có gì cả.” “Không, không có gì cả”, có nghĩa là: như để trấn an tâm trí của một người lính tham chiến mà đầu óc anh đang đan kết chặt những sợi dây thần kinh trong não bộ. “Không, không có gì” như để xua đi những khổ đau đang dày vò trong tâm thức của người lính trận. Dù sự việc “bắn nhầm” một người dân nào đó, tôi nghĩ cũng bình thường thôi, khi một nơi mất an ninh. Có thể đạn từ bên này hay đạn từ bên kia mà người dân chịu vạ. Nhưng với ai thì tôi không biết, nhưng với những trang “nhật ký hành quân” tôi biết anh, biết rõ hơn nữa là khác, những gì đã xảy ra. Nhật Ký Hành Quân, anh viết khi anh nằm trong Quân Y Viện Quy Nhơn, lần đầu bị thương ngay tại thị xã Qui Nhơn, tết Mậu Thân (?). Anh viết thật với cái “tâm” của anh. Không phải đọc vài dòng, vài đoạn văn trong tác phẩm mà kết luận: anh có cái “tâm” hay nói khác hơn là một tấm lòng chẳng những người dân nơi vùng xôi đậu, mà còn những người lính phương Bắc, đối phương của anh. Mà ngoài đời - khi còn khoác trên người bộ áo trận - anh vẫn thế. Vẫn với cái “tâm nhân ái” ấy, với bạn bè hay những

trên các con phố chính mà chính quyền vẫn… tự nhiên. Dân áp- phe vẫn sống phè phỡn trên những “dịch vụ chiến tranh” hay trên xác người lính ngoài mặt trận để họ có “an ninh” mà đú đởn. Thử hỏi, tuổi trẻ của chúng tôi ra chiến trường để làm gì khi mà hậu phương toàn một lũ…đĩ. Chiến tranh, ta nghe anh nói qua Nhật ký hành quân trang 49: “…Tôi nói Đại Bàng ráng giúp xin trực thăng Mỹ, kẻo tội quá. Dù sao mình cũng bắn lầm. Tiếng ông già ngắt quãng:“Tại cha, tại cha…” Thằng bé thì rên: “Đau quá cha ơi”. Tôi bảo lính vác nạn nhân về trạm y tế xã. Suốt đêm, đứng canh chừng, tai nghe bà mẹ thằng bé chửi:“Sao các ông lại bắn nó. Con ơi. Anh con cũng chết vì người ta bắn. Bây giờ đến phiên con.” Thú thật, tôi muốn về chỗ ngủ, muốn coi mọi chuyện không quan trọng đến tôi, nhưng nhìn đôi mắt thằng bé khép kín và tiếng rên não nuột lòng tôi quặn thắt. Tôi ra ngoài sân đình nói thầm: Không, không có gì cả.” “Không, không có gì cả”, có nghĩa là: như để trấn an tâm trí của một người lính tham chiến mà đầu óc anh đang đan kết chặt những sợi dây thần kinh trong não bộ. “Không, không có gì” như để xua đi những khổ đau đang dày vò trong tâm thức của người lính trận. Dù sự việc “bắn nhầm” một người dân nào đó, tôi nghĩ cũng bình thường thôi, khi một nơi mất an ninh. Có thể đạn từ bên này hay đạn từ bên kia mà người dân chịu vạ. Nhưng với ai thì tôi không biết, nhưng với những trang “nhật ký hành quân” tôi biết anh, biết rõ hơn nữa là khác, những gì đã xảy ra. Nhật Ký Hành Quân, anh viết khi anh nằm trong Quân Y Viện Quy Nhơn, lần đầu bị thương ngay tại thị xã Qui Nhơn, tết Mậu Thân (?). Anh viết thật với cái “tâm” của anh. Không phải đọc vài dòng, vài đoạn văn trong tác phẩm mà kết luận: anh có cái “tâm” hay nói khác hơn là một tấm lòng chẳng những người dân nơi vùng xôi đậu, mà còn những người lính phương Bắc, đối phương của anh. Mà ngoài đời - khi còn khoác trên người bộ áo trận - anh vẫn thế. Vẫn với cái “tâm nhân ái” ấy, với bạn bè hay những

Page 173: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

246 246

người bên kia giới tuyến cũng vậy. Gặp tôi, anh không bao giờ nói lên sự hận thù. Tôi biết rõ khi chúng tôi còn “bên trời lận đận” ở cái xứ Bình Định ngày nào. Ngay cả hôm nay, ở xứ người cái “tâm” của anh vẫn thế. Trong sáng. Lẽ tự nhiên, 25 truyện ngắn của anh đã tìm lại được từ trong đống tro làm cho anh vui với những đứa “con tinh thần” đã trở về. Ít có, hay nói khác hơn là không có, những đứa con tinh thần của nhiều cây viết trẻ thời đó khó tìm lại được trong những đống tro sau tháng 4/1975, mà họ đã cống hiến tạo nên một nền “văn học tự do” hơn 20 năm của một Miền Nam (1954-1975). Khó lắm. Nếu những cây viết trẻ ngày nào không chịu khó đến tìm trong thư viện QH/HK để lục lại trên những tạp chí cũ. Với 25 truyện ngắn của anh đi trên Văn ngày nào do Thư Ấn Quán in gởi tặng. Có nhiều vị viết giới thiệu dưới nhiều hình thức. Nhưng với tôi thì khác. 25 truyện ngắn mà anh viết ngày nào, tôi đọc lại, để tôi có một cái nhìn, cái suy tư về dĩ vãng với một người bạn văn, không biết lý do nào, trường hợp nào tôi gặp anh mà lại thân nhau đến thế, dù không cùng một đơn vị. Tôi không thể hiểu nổi là tại sao sau tháng 4/1975 những người chiến thắng lại đem tất cả sách báo miền Nam đốt sạch. Đồng ý là cũng có những sách viết không ra gì, ngay cả chúng tôi cũng không “ngó mắt” đến, thì làm sao mà đọc. Nên xóa bỏ đi. Nhưng không có nghĩa là sách báo miền Nam là đồi trụy, là đĩ điếm, là tay sai của CIA. Nhưng hôm nay, phải nhìn rõ rằng, dù gì, sách báo Miền nam vẫn là “món hàng quý giá” mà tuổi trẻ trong nước vẫn âm thầm tìm đọc. Bằng chứng là: 25 truyện ngắn từ Văn của anh, theo tôi được biết là do một độc giả Miền Bắc tìm và bỏ công đánh máy lại cho anh. Làm tôi nhớ lại cái thời “bao cấp”. Chính quyền càng cấm không cho nghe “nhạc vàng” thì người dân lại càng “háo hức” đi tìm để nghe (dù nghe lén). Cũng như tuổi trẻ hôm nay cũng háo hức đi tìm những tác phẩm cũ để đọc (bằng chứng: tuyển tập 12 tác giả) in trong nước. Bây giờ thì nghe nhạc vàng

người bên kia giới tuyến cũng vậy. Gặp tôi, anh không bao giờ nói lên sự hận thù. Tôi biết rõ khi chúng tôi còn “bên trời lận đận” ở cái xứ Bình Định ngày nào. Ngay cả hôm nay, ở xứ người cái “tâm” của anh vẫn thế. Trong sáng. Lẽ tự nhiên, 25 truyện ngắn của anh đã tìm lại được từ trong đống tro làm cho anh vui với những đứa “con tinh thần” đã trở về. Ít có, hay nói khác hơn là không có, những đứa con tinh thần của nhiều cây viết trẻ thời đó khó tìm lại được trong những đống tro sau tháng 4/1975, mà họ đã cống hiến tạo nên một nền “văn học tự do” hơn 20 năm của một Miền Nam (1954-1975). Khó lắm. Nếu những cây viết trẻ ngày nào không chịu khó đến tìm trong thư viện QH/HK để lục lại trên những tạp chí cũ. Với 25 truyện ngắn của anh đi trên Văn ngày nào do Thư Ấn Quán in gởi tặng. Có nhiều vị viết giới thiệu dưới nhiều hình thức. Nhưng với tôi thì khác. 25 truyện ngắn mà anh viết ngày nào, tôi đọc lại, để tôi có một cái nhìn, cái suy tư về dĩ vãng với một người bạn văn, không biết lý do nào, trường hợp nào tôi gặp anh mà lại thân nhau đến thế, dù không cùng một đơn vị. Tôi không thể hiểu nổi là tại sao sau tháng 4/1975 những người chiến thắng lại đem tất cả sách báo miền Nam đốt sạch. Đồng ý là cũng có những sách viết không ra gì, ngay cả chúng tôi cũng không “ngó mắt” đến, thì làm sao mà đọc. Nên xóa bỏ đi. Nhưng không có nghĩa là sách báo miền Nam là đồi trụy, là đĩ điếm, là tay sai của CIA. Nhưng hôm nay, phải nhìn rõ rằng, dù gì, sách báo Miền nam vẫn là “món hàng quý giá” mà tuổi trẻ trong nước vẫn âm thầm tìm đọc. Bằng chứng là: 25 truyện ngắn từ Văn của anh, theo tôi được biết là do một độc giả Miền Bắc tìm và bỏ công đánh máy lại cho anh. Làm tôi nhớ lại cái thời “bao cấp”. Chính quyền càng cấm không cho nghe “nhạc vàng” thì người dân lại càng “háo hức” đi tìm để nghe (dù nghe lén). Cũng như tuổi trẻ hôm nay cũng háo hức đi tìm những tác phẩm cũ để đọc (bằng chứng: tuyển tập 12 tác giả) in trong nước. Bây giờ thì nghe nhạc vàng

Page 174: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

247 247

tự do rồi. Còn với riêng tôi, 25 truyện ngắn của anh, đọc lại - chỉ riêng tôi - ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” này, tôi cũng háo hức đến lạ lùng khi đọc lại những truyện ấy. Đọc lại để nhớ về anh, những ngày còn lang bạt. Những ngày tôi với anh còn chán chường, bất mãn khi về phố thị dù chúng tôi thật sự cầm súng tham chiến. Đọc lại để thấy lối hành văn không gò bó, không uốn nắn mà nhiều khi “ngây ngô” nữa. Thật vậy, chỉ có tôi biết khi chúng tôi ngồi ở Dung, anh vừa uống cà phê vừa viết trên trang giấy vở. Viết xong cuộn lại cho vào túi quần. Viết xong một trang giấy, dụi tàn thuốc vào cái gạt tàn. Có khi là một bài thơ, có khi là một cái truyện ngắn viết dở, sau đó về căn nhà trong khu Sáu (Quy Nhơn) thắp lên ngọn đèn cầy lù mù ánh sáng viết tiếp trên cái bàn gỗ nhỏ xiêu vẹo. Tàn thuốc vất bừa bãi trên sàn nhà. Có ai thấy lối đam mê chữ nghĩa của anh mà thương. Nhìn cái thân xác gầy còm. Đôi kính cận hơn 7 đi-ốp nặng trĩu trên sóng mũi. Mái tóc đen trắng lẫn lộn. Tấm thân thì gầy còm, trơ xương. Nhiều khi đói rã người. Anh viết và viết. Viết không gạch bỏ. Chữ nghĩa như con cua bò. Không sửa một câu văn. Anh viết không giống một nhà văn nào. Họ viết trong khung cảnh “chăn êm nệm ấm”. Còn anh viết bất cứ nơi nào có thể. Và, với anh sống thật cho anh và cho những người lính đáng thương của anh. Anh viết về họ: “…Tôi khóc: Tao thương mày quá, Hường ơi, rán bò sau bụi, lết đi… Tao cũng bị thương, xích ra bị bắn. Mày nghĩ cho tao. Tiếng Hường rên: Thì thiếu úy sai hai thằng cõng tôi. Tôi khóc: Mày xem, xung quanh đâu có ai. Luông bị thương. Phong bị thương, tao nữa. Mày thương tao… Tao ra thì bị bắn. Nó canh sẵn… Đ.M. Thiếu úy! Tôi úp mặt vào đất sỏi, khóc như đứa trẻ. (Nhật Ký Hành Quân 2 - trang 55) Sự bất lực của một cấp chỉ huy trung đội, khi thấy em út của mình bị thương, cả anh nữa. Có thể nào một người lính dưới quyền mình chửi một cấp chỉ huy, dù là trung đội

tự do rồi. Còn với riêng tôi, 25 truyện ngắn của anh, đọc lại - chỉ riêng tôi - ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” này, tôi cũng háo hức đến lạ lùng khi đọc lại những truyện ấy. Đọc lại để nhớ về anh, những ngày còn lang bạt. Những ngày tôi với anh còn chán chường, bất mãn khi về phố thị dù chúng tôi thật sự cầm súng tham chiến. Đọc lại để thấy lối hành văn không gò bó, không uốn nắn mà nhiều khi “ngây ngô” nữa. Thật vậy, chỉ có tôi biết khi chúng tôi ngồi ở Dung, anh vừa uống cà phê vừa viết trên trang giấy vở. Viết xong cuộn lại cho vào túi quần. Viết xong một trang giấy, dụi tàn thuốc vào cái gạt tàn. Có khi là một bài thơ, có khi là một cái truyện ngắn viết dở, sau đó về căn nhà trong khu Sáu (Quy Nhơn) thắp lên ngọn đèn cầy lù mù ánh sáng viết tiếp trên cái bàn gỗ nhỏ xiêu vẹo. Tàn thuốc vất bừa bãi trên sàn nhà. Có ai thấy lối đam mê chữ nghĩa của anh mà thương. Nhìn cái thân xác gầy còm. Đôi kính cận hơn 7 đi-ốp nặng trĩu trên sóng mũi. Mái tóc đen trắng lẫn lộn. Tấm thân thì gầy còm, trơ xương. Nhiều khi đói rã người. Anh viết và viết. Viết không gạch bỏ. Chữ nghĩa như con cua bò. Không sửa một câu văn. Anh viết không giống một nhà văn nào. Họ viết trong khung cảnh “chăn êm nệm ấm”. Còn anh viết bất cứ nơi nào có thể. Và, với anh sống thật cho anh và cho những người lính đáng thương của anh. Anh viết về họ: “…Tôi khóc: Tao thương mày quá, Hường ơi, rán bò sau bụi, lết đi… Tao cũng bị thương, xích ra bị bắn. Mày nghĩ cho tao. Tiếng Hường rên: Thì thiếu úy sai hai thằng cõng tôi. Tôi khóc: Mày xem, xung quanh đâu có ai. Luông bị thương. Phong bị thương, tao nữa. Mày thương tao… Tao ra thì bị bắn. Nó canh sẵn… Đ.M. Thiếu úy! Tôi úp mặt vào đất sỏi, khóc như đứa trẻ. (Nhật Ký Hành Quân 2 - trang 55) Sự bất lực của một cấp chỉ huy trung đội, khi thấy em út của mình bị thương, cả anh nữa. Có thể nào một người lính dưới quyền mình chửi một cấp chỉ huy, dù là trung đội

Page 175: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

248 248

trưởng: Đ.M Thiếu úy không? Nhưng vì bất lực nên anh chỉ biết gục đầu mà khóc. Có hư cấu trong việc này không. Độc giả đọc câu văn này có thể cho anh là “hư cấu”. Nhưng với tôi, chơi với anh, tôi biết. Chỉ có anh, con người nhiều tình cảm. Nhưng cũng cứng rắn trên những công việc cần phải cứng rắn để quyết định. Bất lực đến độ “thằng” em của mình chửi mình. Anh chỉ biết úp mặt mà khóc. Ngoài ra, anh sống cho kỷ niệm. Kỷ niệm một thời niên thiếu. Tôi biết hình như anh không được may mắn như bao đứa trẻ khác. Đọc lại truyện: Một Lần Trở Lại (trang 121) “Vâng, tôi đã trở về, sau bao ngày lênh đênh lận đận. Dòng đời, xã hội, chiến tranh đã khiến một thằng bé trốn khỏi cô nhi viện, để bây giờ là một tên phế nhân này. Đây là một buổi chiều, một buổi chiều của trăm ngàn buổi chiều của đời tôi. Đây là biển, là sông, là muôn ngàn lời réo gọi, từ rặng phi lao, từ những kè đá, những làn gió ngoài khơi…” hay: “…Từ bờ biển, tôi chống gậy lò dò bước vào cổng sau của cô nhi viện. Con đường rải đá cuội, xào xạc dưới gót giầy. Những bờ hoa vàng, trở nên sậm hơn trong màu chiều sắp dứt…” (trang 129). Một Lần Trở Lại, sau năm 1971, anh đã lên miền cao (BMT) tôi không còn gặp anh nữa. Thật lòng mà nói, mỗi cuối tuần từ Dục Mỹ về Nha Trang thăm nhà, ngang qua những tòa nhà nguy nga, đồ sộ quét vôi màu vàng ửng bên bờ biển gần Hòn Chồng. Nhìn tòa dinh thự trang nghiêm kia có cô nhi viện, tôi lại nhớ đến anh. Nhớ đến ấp Hà Thanh, có rộc rau muống, có ngôi nhà gạch đồ sộ, cổ kính mà có lần anh đưa tôi đến đây. Đứng trước cổng, anh bảo: nhà tôi đó, rồi đi. Tôi nhớ như in những gì mà anh đã nói. Để rồi, lên Ban Mê Thuột, trình diện Sư đoàn 23, Bệnh Xá Cuối Năm tôi đọc, không biết anh bị thương lần thứ ba hay là bị cơn “sốt rét rừng” hành hạ. Tuy thế, đọc Bệnh Xá Cuối Năm vẫn thấy cái tâm thật của anh. Nhân từ. Những ngày tháng đó đã qua lâu vào năm 1971, sau khi rời

trưởng: Đ.M Thiếu úy không? Nhưng vì bất lực nên anh chỉ biết gục đầu mà khóc. Có hư cấu trong việc này không. Độc giả đọc câu văn này có thể cho anh là “hư cấu”. Nhưng với tôi, chơi với anh, tôi biết. Chỉ có anh, con người nhiều tình cảm. Nhưng cũng cứng rắn trên những công việc cần phải cứng rắn để quyết định. Bất lực đến độ “thằng” em của mình chửi mình. Anh chỉ biết úp mặt mà khóc. Ngoài ra, anh sống cho kỷ niệm. Kỷ niệm một thời niên thiếu. Tôi biết hình như anh không được may mắn như bao đứa trẻ khác. Đọc lại truyện: Một Lần Trở Lại (trang 121) “Vâng, tôi đã trở về, sau bao ngày lênh đênh lận đận. Dòng đời, xã hội, chiến tranh đã khiến một thằng bé trốn khỏi cô nhi viện, để bây giờ là một tên phế nhân này. Đây là một buổi chiều, một buổi chiều của trăm ngàn buổi chiều của đời tôi. Đây là biển, là sông, là muôn ngàn lời réo gọi, từ rặng phi lao, từ những kè đá, những làn gió ngoài khơi…” hay: “…Từ bờ biển, tôi chống gậy lò dò bước vào cổng sau của cô nhi viện. Con đường rải đá cuội, xào xạc dưới gót giầy. Những bờ hoa vàng, trở nên sậm hơn trong màu chiều sắp dứt…” (trang 129). Một Lần Trở Lại, sau năm 1971, anh đã lên miền cao (BMT) tôi không còn gặp anh nữa. Thật lòng mà nói, mỗi cuối tuần từ Dục Mỹ về Nha Trang thăm nhà, ngang qua những tòa nhà nguy nga, đồ sộ quét vôi màu vàng ửng bên bờ biển gần Hòn Chồng. Nhìn tòa dinh thự trang nghiêm kia có cô nhi viện, tôi lại nhớ đến anh. Nhớ đến ấp Hà Thanh, có rộc rau muống, có ngôi nhà gạch đồ sộ, cổ kính mà có lần anh đưa tôi đến đây. Đứng trước cổng, anh bảo: nhà tôi đó, rồi đi. Tôi nhớ như in những gì mà anh đã nói. Để rồi, lên Ban Mê Thuột, trình diện Sư đoàn 23, Bệnh Xá Cuối Năm tôi đọc, không biết anh bị thương lần thứ ba hay là bị cơn “sốt rét rừng” hành hạ. Tuy thế, đọc Bệnh Xá Cuối Năm vẫn thấy cái tâm thật của anh. Nhân từ. Những ngày tháng đó đã qua lâu vào năm 1971, sau khi rời

Page 176: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

249 249

khỏi tòa án quân sự Vùng 2, tôi với Nguyễn Sa Mạc đưa anh ra bến xe Nguyễn Hoàng buổi sáng sớm. Anh đi và tôi không còn gặp lại nữa. Rồi sau đó nghe anh về Vùng 4, Cần Thơ, nghe nói làm “phóng viên chiến trường”. Tôi mừng! Mừng vì cái thân “ốm o gầy còm” đó không còn vất vả ngoài chiến trường như ở Bình Định mà chính anh đã viết trong truyện: Những Cánh Chim Tuyệt Vời, trang 191: “Những ngày gần đây, sức khỏe của chàng xuống dốc một cách thảm hại. Ở trong căn nhà cư xá, chàng đã không dám cởi áo, và chiếc quần jean cũ mốc, bạc màu của mình, dù trời nóng kinh khủng. Chàng không dám khoe những chiếc xương sườn lộ hẳn trên da thịt, chiếc ngực xẹp lép và cặp đùi khẳng khiu của mình cho hai người con gái ở phía bên trong căn buồng kia xem. Bởi chàng đã trải qua những ngày đói rách dai dẳng. Nhiều khi chàng nhịn đói suốt ngày, nhiều khi một ngày, chàng dùng một bát mì Đại Hàn nấu với nước sôi,…” Chàng ở đây chính là anh, thế mà với cái thân “xương sườn hằn lên dưới lớp da và đôi kính cận nặng như thế” mà cái thân gầy còm vẫn phải gánh vác một trọng trách rất “nặng nề” … 405 thám kích/ sư đoàn 22. Độc giả chỉ quen tên tác giả, đọc truyện tác giả nhưng chắc là ít ai biết về tác giả, chỉ có bạn bè và những đồng đội biết và thương anh. Nhiều khi nghĩ lại, tôi thầm cám ơn chị Yến, vợ anh, đã hết lòng thương yêu cái “tấm thân gầy còm đó, đói rách đó - lính mà làm gì có tiền”, phải không chị? Đó là một sức mạnh để anh phấn đấu khi lập gia đình và sống mãi tới ngày hôm nay. “Thế là ta thoát chết. A ha. Ta còn sống. Còn sống để xem cái ngày hòa bình, cái ngày ta về, bỏ hết những bâng khuâng, xao xuyến. Ta còn về cưới vợ đẻ con và còn hưởng chút hạnh phúc” (trang 49) Trong truyện Mùa Hoa Sứ, trang 81, một chuyện buồn về tuổi thơ. Độc giả đọc, có thể cho tác giả hư cấu để tạo nên cốt truyện. Nhưng tôi thì không. Như tôi đã nói, anh viết và sống với kỷ niệm một thời. Nhớ lại ngày nào khi tôi với anh còn ở Tháp Chàm. Buổi chiều thật buồn trong căn phòng thuê bằng tôn (mái và vách) nóng chịu không thấu, tôi với anh ra ngồi trên tảng đá, dưới vực sâu là đường rầy

khỏi tòa án quân sự Vùng 2, tôi với Nguyễn Sa Mạc đưa anh ra bến xe Nguyễn Hoàng buổi sáng sớm. Anh đi và tôi không còn gặp lại nữa. Rồi sau đó nghe anh về Vùng 4, Cần Thơ, nghe nói làm “phóng viên chiến trường”. Tôi mừng! Mừng vì cái thân “ốm o gầy còm” đó không còn vất vả ngoài chiến trường như ở Bình Định mà chính anh đã viết trong truyện: Những Cánh Chim Tuyệt Vời, trang 191: “Những ngày gần đây, sức khỏe của chàng xuống dốc một cách thảm hại. Ở trong căn nhà cư xá, chàng đã không dám cởi áo, và chiếc quần jean cũ mốc, bạc màu của mình, dù trời nóng kinh khủng. Chàng không dám khoe những chiếc xương sườn lộ hẳn trên da thịt, chiếc ngực xẹp lép và cặp đùi khẳng khiu của mình cho hai người con gái ở phía bên trong căn buồng kia xem. Bởi chàng đã trải qua những ngày đói rách dai dẳng. Nhiều khi chàng nhịn đói suốt ngày, nhiều khi một ngày, chàng dùng một bát mì Đại Hàn nấu với nước sôi,…” Chàng ở đây chính là anh, thế mà với cái thân “xương sườn hằn lên dưới lớp da và đôi kính cận nặng như thế” mà cái thân gầy còm vẫn phải gánh vác một trọng trách rất “nặng nề” … 405 thám kích/ sư đoàn 22. Độc giả chỉ quen tên tác giả, đọc truyện tác giả nhưng chắc là ít ai biết về tác giả, chỉ có bạn bè và những đồng đội biết và thương anh. Nhiều khi nghĩ lại, tôi thầm cám ơn chị Yến, vợ anh, đã hết lòng thương yêu cái “tấm thân gầy còm đó, đói rách đó - lính mà làm gì có tiền”, phải không chị? Đó là một sức mạnh để anh phấn đấu khi lập gia đình và sống mãi tới ngày hôm nay. “Thế là ta thoát chết. A ha. Ta còn sống. Còn sống để xem cái ngày hòa bình, cái ngày ta về, bỏ hết những bâng khuâng, xao xuyến. Ta còn về cưới vợ đẻ con và còn hưởng chút hạnh phúc” (trang 49) Trong truyện Mùa Hoa Sứ, trang 81, một chuyện buồn về tuổi thơ. Độc giả đọc, có thể cho tác giả hư cấu để tạo nên cốt truyện. Nhưng tôi thì không. Như tôi đã nói, anh viết và sống với kỷ niệm một thời. Nhớ lại ngày nào khi tôi với anh còn ở Tháp Chàm. Buổi chiều thật buồn trong căn phòng thuê bằng tôn (mái và vách) nóng chịu không thấu, tôi với anh ra ngồi trên tảng đá, dưới vực sâu là đường rầy

Page 177: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

250 250

xe lửa chạy từ ga Tháp Chàm đi Nam, đi Trung và lên Đà Lạt. Anh nhìn về rặng núi xa phía tây, anh nói với tôi anh nhớ Đơn Dương, tuổi thơ anh ở đó, buồn lắm mỗi lần anh nghe tiếng còi tàu… và trong ánh mắt xa xăm của anh, tiếng còi tàu chẳng những ở Đơn Dương (tuổi thơ) và Nha Trang cũng như những tháng anh sống ở Tháp Chàm. Tôi đọc Mùa Hoa Sứ hay Ga Đêm Quạnh Quẽ với nhân vật Tân mà nhiều truyện anh viết, nhân vật Tân này thường hay xuất hiện. Tôi ngậm ngùi một nỗi buồn đầy ắp nỗi buồn. Nhưng hôm nay tôi rất vui. Vui lắm khi đọc lại 25 truyện ngắn của anh. Và, cũng vui lắm khi anh đã tìm lại những đứa con tinh thần tưởng đã thành tro bụi, nay đã trở về với anh, để cho tôi đọc và nhớ lại những ngày tháng tôi và anh có bên nhau nhiều kỷ niệm. Cái kỷ niệm thật đẹp vẫn giữ mãi cho đến ngày hôm nay ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” này trên xứ người. Amarillo, TX tháng 8-2012 Phạm văn Nhàn

xe lửa chạy từ ga Tháp Chàm đi Nam, đi Trung và lên Đà Lạt. Anh nhìn về rặng núi xa phía tây, anh nói với tôi anh nhớ Đơn Dương, tuổi thơ anh ở đó, buồn lắm mỗi lần anh nghe tiếng còi tàu… và trong ánh mắt xa xăm của anh, tiếng còi tàu chẳng những ở Đơn Dương (tuổi thơ) và Nha Trang cũng như những tháng anh sống ở Tháp Chàm. Tôi đọc Mùa Hoa Sứ hay Ga Đêm Quạnh Quẽ với nhân vật Tân mà nhiều truyện anh viết, nhân vật Tân này thường hay xuất hiện. Tôi ngậm ngùi một nỗi buồn đầy ắp nỗi buồn. Nhưng hôm nay tôi rất vui. Vui lắm khi đọc lại 25 truyện ngắn của anh. Và, cũng vui lắm khi anh đã tìm lại những đứa con tinh thần tưởng đã thành tro bụi, nay đã trở về với anh, để cho tôi đọc và nhớ lại những ngày tháng tôi và anh có bên nhau nhiều kỷ niệm. Cái kỷ niệm thật đẹp vẫn giữ mãi cho đến ngày hôm nay ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” này trên xứ người. Amarillo, TX tháng 8-2012 Phạm văn Nhàn

Page 178: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

251 251

Tòa soạn và bạn đọc Mời gọi đóng góp bài vở cho số đặc biệt về Dương Nghiễm Mậu: TQBT số 55 dự trù phát hành vào khoảng trung tuần tháng 1 -2013, sẽ mang chủ đề nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Chúng tôi ước mong sự hợp tác của quí bạn gồm bài vở, tư liệu, tài liệu sách báo cũ... Xin gởi về toà soạn càng sớm càng tốt để chúng tôi tìm người đánh máy. Cáo lỗi: Vì bài vở dành cho số chủ đề kỳ này quá nhiều, nên chúng tôi đành tạm dời lại một số sáng tác của quí thân hữu cho số sau. Trường hợp quí bạn nào cảm thấy phải đợi quá lâu, xin quí bạn tin cho chúng tôi để chúng tôi rút bài. Chân thành cám ơn. Tòa soạn nhắn tin: Cùng các bạn có nhả ý đóng góp bài vở: ● Xin hiểu tạp chí TQBT là tạp chí giấy, với rất nhiều công sức bỏ ra. Để bù lại, chúng tôi yêu cầu, nếu quí bạn nào thương tình tạp chí này, xin vui lòng dành ưu tiên cho TQBT đăng trước. Trừ trường hợp đặc biệt, chúng tôi sẽ không đăng lại những bài đã xuất hiện trên Mạng hay báo đất và sẽ không giải thích tại sao. ● Qua hai kỳ báo, nếu không thấy bài mình xuất hiện, trừ trường hợp có thư riêng của tòa soạn, xin quí bạn xem là bài không hợp với chủ trương của TQBT. ● Để dễ dàng cho công việc lưu giữ và theo dõi bài vở, xin quí bạn dùng địa chỉ mới: [email protected] Riêng địa chỉ [email protected] không còn hiệu lực

Tòa soạn và bạn đọc Mời gọi đóng góp bài vở cho số đặc biệt về Dương Nghiễm Mậu: TQBT số 55 dự trù phát hành vào khoảng trung tuần tháng1 -2013, sẽ mang chủ đề nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Chúng tôi ước mong sự hợp tác của quí bạn gồm bài vở, tư liệu, tài liệu sách báo cũ... Xin gởi về toà soạn càng sớm càng tốt để chúng tôi tìm người đánh máy. Cáo lỗi: Vì bài vở dành cho số chủ đề kỳ này quá nhiều, nên chúng tôi đành tạm dời lại một số sáng tác của quí thân hữu cho số sau. Trường hợp quí bạn nào cảm thấy phải đợi quá lâu, xin quí bạn tin cho chúng tôi để chúng tôi rút bài. Chân thành cám ơn. Tòa soạn nhắn tin: Cùng các bạn có nhả ý đóng góp bài vở: ● Xin hiểu tạp chí TQBT là tạp chí giấy, với rất nhiều công sức bỏ ra. Để bù lại, chúng tôi yêu cầu, nếu quí bạn nào thương tình tạp chí này, xin vui lòng dành ưu tiên cho TQBT đăng trước. Trừ trường hợp đặc biệt, chúng tôi sẽ không đăng lại những bài đã xuất hiện trên Mạng hay báo đất và sẽ không giải thích tại sao. ● Qua hai kỳ báo, nếu không thấy bài mình xuất hiện, trừ trường hợp có thư riêng của tòa soạn, xin quí bạn xem là bài không hợp với chủ trương của TQBT. ● Để dễ dàng cho công việc lưu giữ và theo dõi bài vở, xin quí bạn dùng địa chỉ mới: [email protected] Riêng địa chỉ [email protected] không còn hiệu lực

Page 179: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

252 252

nữa ● Xin đánh mày bằng WORD 97/2003 Nhắn tin chung .● Những tác phẩm do Thư Ấn Quán/ tạp chí Thư Quán Bản Thảo xuất bản hoặc tái bản, phần lớn dành để tặng. Nếu quí bạn nào cảm thấy áy náy vì cứ nhận mãi ” cái nghiệp chẳng bao giờ trả”, xin cứ hoan hỉ gởi tem cước phí, tùy tâm tùy hỉ. Mặt khác, nếu quí bạn không còn muốn nhận quà văn nghệ này nữa, cũng xin vui lòng tin về chúng tôi biết. Chúng tôi đã gặp một số trường hợp những tập TQBT không người nhận bị trả lại sau hai ba tháng giang hồ. Tội nghiệp cho tờ báo và cũng tội nghiệp cho chúng tôi ! Xin hết lòng cảm ơn.

nữa ● Xin đánh mày bằng WORD 97/2003 Nhắn tin chung .● Những tác phẩm do Thư Ấn Quán/ tạp chí Thư Quán Bản Thảo xuất bản hoặc tái bản, phần lớn dành để tặng. Nếu quí bạn nào cảm thấy áy náy vì cứ nhận mãi ” cái nghiệp chẳng bao giờ trả”, xin cứ hoan hỉ gởi tem cước phí, tùy tâm tùy hỉ. Mặt khác, nếu quí bạn không còn muốn nhận quà văn nghệ này nữa, cũng xin vui lòng tin về chúng tôi biết. Chúng tôi đã gặp một số trường hợp những tập TQBT không người nhận bị trả lại sau hai ba tháng giang hồ. Tội nghiệp cho tờ báo và cũng tội nghiệp cho chúng tôi ! Xin hết lòng cảm ơn.

Page 180: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

253 253

Page 181: Chủ đề: Ba lô mang thêm hồ thơ văn Chủ đề: Ba lô …...quê của anh, anh đã viết: Từ Sàigòn, Gia Định ra, nếu đi ngả cầu Bình Lợi, rồi, rẽ

254 254