Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

6
Nhịp cầu Dược lâm sàng CASE HGLUCOSE MÁU VĐÊM TÁI PHÁT Ở MT BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG (ĐTĐ) TYPE 1 Tác gi: Tze Ping Loh, Shao Feng Mok, Shih Ling Kao, Eric Khoo and Ah Chuan Thai File gc: http://www.clinchem.org/content/60/10/1267.full Người dch: SVD5. Lê Công Tun Anh. Trường ĐH Y Dược Huế Hiệu đính: DS. Nguyễn Văn Tiến Đức (BV FV), DS. Võ ThHà (ĐH Y Dược Huế). CA LÂM SÀNG Mt bnh nhân nam 39 tui mắc ĐTĐ type 1 được nhp vin kèm nhim toan ceton nng và nhiễm trùng đường hô hp trên. Các xét nghim sinh hóa lúc nhp vin: Glucose huyết tương tĩnh mạch 933 mg/dl (51.8 mmol/L) (gii hn bình thường: 72 140 mg/dl hoc 4.0 7.8 mmol/L), bicarbonate: 14.7 mmol/L (22 31 mmol/L), β hydroxybutyrate > 6 mmol/L (< 0.6 mmol/L) và pH động mch 7.28 (7.35 7.45). Bnh nhân được cha trbng truyn dch tĩnh mch và truyn Insulin tĩnh mạch quãng ngn, và bnh nhân phc hi nhanh. Bệnh nhân đã được chẩn đoán ĐTĐ type 1 năm 33tui khi có biu hiện cơn nhiễm toan ceton. Kháng thGlutamic acid decarboxylate tăng tại thời điểm chẩn đoán 10.6 U/mL (giá trbình thường < 1 U/mL) và nồng độ peptide C sau bữa ăn không phát hiện được. Vic kim soát glucose máu ca bnh nhân sau đó là kém, vi HbA1c tăng trong khoảng 8.9% đến 15.6%, điều này dẫn đến các biến chng vthn kinh ngoi vi và tđộng như cơn đau thần kinh ngoi biên và ri lon cương dương. Tin sbnh nhân gm có sa van tim, tăng huyết áp và ri lon lipid máu. BN được kê chế độ Insulin tiêm quãng ngn nn (basal bolus insulin) gm: insulin tác dng dài 2 ln/ngày (insulin detemir 10U trước ba sáng và 7U trước ba ti) phi hp insulin tác dng nhanh 3 ln/ngày (insulin aspart 5U trước ba sáng và 3U trước bữa trưa và 4U trước ba ti), simvastatin, sildenafil, pregabalin, và omeprazol. BN không dùng sulfonylurea và không dùng thc ung có cn. Sau khi xlí nhim toan ceton, bệnh nhân được bắt đầu li chế độ Insulin tiêm quãng ngn nn như trước khi nhp vin. sau đó, chế độ insulin ca bnh nhân được điều chnh trong ln nhp vin này, và bnh nhân thay đổi glucose máu trong khong rng và bhglucose máu tái phát vđêm. Điển hình, glucose máu tăng nghiêm trọng trong ngày (glucose mao mch: 205- 553 mg/dl hay 11.4 30.7 mmol/L) nht là sau bữa ăn. Trong khi các biu hin hglucose máu xy ra liên tc lúc 24h 2h30 hàng đêm (glucose máu mao mch: 34 58 mg/dl hay 1.9 3.2 mmol/L) đi cùng vi các triu chứng đáp ứng giao cm như toát mồ hôi, đánh trống ngực, căng thẳng.

Transcript of Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Page 1: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

CASE HẠ GLUCOSE MÁU VỀ ĐÊM TÁI PHÁT Ở MỘT BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO

ĐƯỜNG (ĐTĐ) TYPE 1

Tác giả: Tze Ping Loh, Shao Feng Mok, Shih Ling Kao, Eric Khoo and Ah Chuan Thai

File gốc: http://www.clinchem.org/content/60/10/1267.full

Người dịch: SVD5. Lê Công Tuấn Anh. Trường ĐH Y Dược Huế

Hiệu đính: DS. Nguyễn Văn Tiến Đức (BV FV), DS. Võ Thị Hà (ĐH Y Dược Huế).

CA LÂM SÀNG

Một bệnh nhân nam 39 tuổi mắc ĐTĐ type 1 được nhập viện kèm nhiễm toan ceton nặng và

nhiễm trùng đường hô hấp trên. Các xét nghiệm sinh hóa lúc nhập viện: Glucose huyết tương

tĩnh mạch 933 mg/dl (51.8 mmol/L) (giới hạn bình thường: 72 – 140 mg/dl hoặc 4.0 – 7.8

mmol/L), bicarbonate: 14.7 mmol/L (22 – 31 mmol/L), β – hydroxybutyrate > 6 mmol/L (< 0.6

mmol/L) và pH động mạch 7.28 (7.35 – 7.45). Bệnh nhân được chữa trị bằng truyền dịch tĩnh

mạch và truyền Insulin tĩnh mạch quãng ngắn, và bệnh nhân phục hồi nhanh.

Bệnh nhân đã được chẩn đoán ĐTĐ type 1 năm 33tuổi khi có biểu hiện cơn nhiễm toan ceton.

Kháng thể Glutamic acid decarboxylate tăng tại thời điểm chẩn đoán 10.6 U/mL (giá trị bình

thường < 1 U/mL) và nồng độ peptide C sau bữa ăn không phát hiện được. Việc kiểm soát

glucose máu của bệnh nhân sau đó là kém, với HbA1c tăng trong khoảng 8.9% đến 15.6%, điều

này dẫn đến các biến chứng về thần kinh ngoại vi và tự động như cơn đau thần kinh ngoại biên

và rối loạn cương dương. Tiền sử bệnh nhân gồm có sa van tim, tăng huyết áp và rồi loạn lipid

máu. BN được kê chế độ Insulin tiêm quãng ngắn nền (basal – bolus insulin) gồm: insulin tác

dụng dài 2 lần/ngày (insulin detemir 10U trước bữa sáng và 7U trước bữa tối) phối hợp insulin

tác dụng nhanh 3 lần/ngày (insulin aspart 5U trước bữa sáng và 3U trước bữa trưa và 4U trước

bữa tối), simvastatin, sildenafil, pregabalin, và omeprazol. BN không dùng sulfonylurea và

không dùng thức uống có cồn.

Sau khi xử lí nhiễm toan ceton, bệnh nhân được bắt đầu lại chế độ Insulin tiêm quãng ngắn nền

như trước khi nhập viện. sau đó, chế độ insulin của bệnh nhân được điều chỉnh trong lần nhập

viện này, và bệnh nhân thay đổi glucose máu trong khoảng rộng và bị hạ glucose máu tái phát về

đêm. Điển hình, glucose máu tăng nghiêm trọng trong ngày (glucose mao mạch: 205- 553 mg/dl

hay 11.4 – 30.7 mmol/L) nhất là sau bữa ăn. Trong khi các biểu hiện hạ glucose máu xảy ra liên

tục lúc 24h – 2h30 hàng đêm (glucose máu mao mạch: 34 – 58 mg/dl hay 1.9 – 3.2 mmol/L) đi

cùng với các triệu chứng đáp ứng giao cảm như toát mồ hôi, đánh trống ngực, căng thẳng.

Page 2: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

CÁC ĐIỂM CẦN XEM XÉT:

1. Những nguyên nhân gây hạ glucose máu tái phát ở bệnh nhân đang dùng liệu pháp

insulin là gì ?

2. Các phương pháp nào giúp chẩn đoán các nguyên nhân gây hạ glucose máu tái phát?

3. Kháng thể kháng insulin có thể gây ra hạ glucose máu không ?

Khám lâm sàng cho thấy các dấu hiệu sống ổn định và bệnh nhân gầy với chỉ số khối cơ thể thấp

(BMI = 16.4 kg/m2). Không có chứng tăng sắc tố điển hình của bệnh Addison. Tuyến giáp

không to lên và chức năng giáp bình thường. Khám tim mạch và hô hấp bình thường. Có loạn

dưỡng mỡ dưới da nhẹ ở vị trí tiêm insulin.

Kết quả sinh hóa có liên quan khác: albumin 4.0 g/dl (3.8 – 4.8 g/dl), AST 10U/L (14 – 50 U/L),

ALA 10U/L (10-55 U/L) , gama – glutamin transferase 30 U/L (10 – 70 U/L) và creatinine 0.6

mg/dl hay 53 micromol/L (0.7 – 1.4 mg/dL hay 65 -125 micromol/L). Nồng độ insulin và

peptide C đo tại 1 trong các cơn hạ glucose (glucose tĩnh mạch 2.8 mmol/L) trong lần nhập viện

này là 83.6 mU/L (0.0 – 25.0 mU/L) và 36 pmol/L (364 – 1655 pmol/L) và sinh hóa tuyến giáp

của bệnh nhân bình thường.

THẢO LUẬN:

Hạ đường huyết là một biến chứng thường gặp của liệu pháp insulin ở bệnh nhân ĐTĐ và gây

cản trở mục tiêu kiểm soát đường huyết. Nó gây ra bệnh lý về thể chất và tinh thần nghiêm trọng,

thỉnh thoảng gây tử vong. Nguyên nhân cơ bản của hạ đường huyết cần được đánh giá và xác

định nhằm ngăn chặn các cơn hạ đường huyết tái phát.

Hạ glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ thông thường nhất là được gây ra bởi liệu pháp insulin quá

mức tuyệt đối hay tương đối. Những nguyên nhân của quá mức insulin tuyệt đối bao gồm quá

mức hoặc chất kích thích tiết insulin không đúng lúc; hoặc quá mức insulin; hoặc do giảm thải

insulin trong suy thận. Insulin quá mức tương đối xảy ra khi lượng insulin hiện tại không tương

xứng với lượng glucose cung cấp (ngoại sinh), sử dụng hoặc sản xuất. Dư thừa quá mức insulin

tuyệt đối hay tương đối luôn dễ dàng nhận ra từ bệnh sử bệnh nhân thông qua các biểu hiện trước

đó các đợt hạ đường huyết. Sau khi kiểm tra tiền sử bệnh chi tiết của BN này, dư thừa insulin

không là nguyên nhân của các cơn hạ glucose. Vì liều insulin ở bệnh nhân là phù hợp với lượng

calo thu nhận hằng ngày và bệnh nhân đủ khả năng để tiêm chính xác liều insulin. Bệnh nhân đã

không tự ý sử dụng thêm insulin. Loạn dưỡng mỡ tại nơi tiêm có thể ảnh hưởng hấp thu insulin

và là nguyên nhân thông thường gây bất thường nồng độ glucose. Bệnh nhân này chỉ bị loạn

lưỡng mỡ nhẹ, và thay đổi vị trí tiêm đã không cải thiện được các cơn hạ glucose máu tái phát.

Do đó, loại trừ nguyên nhân này.

Suy gan và suy thận được loại trừ qua khám lâm sàng và các xét nghiệm nồng độ men gan,

albumin và creatinin trong giới hạn bình thường. Suy giảm tuyến thượng thận, đặc biệt là bệnh

Page 3: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

Addison ở bệnh nhân đái thái đường type I có thể gây hạ glucose máu. Kiểm tra ACTH cho thấy

nồng độ đỉnh của cortisol là 34.8 microgram/dL (960 mmol/L) [đáp ứng bình thường : >20

microgram/dL (> 550 mmol/L)] và đã loại trừ chẩn đoán đó. Bệnh nhân không dùng alcohol, và

không đang dùng các thuốc gây ra hạ glucose máu (trừ insulin).

Chứng liệt dạ dày ở bệnh nhân ĐTĐ (chiếm tỷ lệ 30-40% ở bệnh nhân ĐTĐ) là tình trạng đặc

trưng bởi sự chậm làm rỗng dạ dày không có tắc ruột cơ học do bệnh lý thần kinh tự động. Tình

trạng này có thể gây hạ glucose máu do sự chậm tiêu thức ăn khiến lượng insulin cung cấp và

carbohydrate hấp thu là không tương xứng. Một khảo sát về tình trạng làm rỗng dạ dày đã được

thực hiện trên bệnh nhân cho thấy bệnh nhân có tình trạng này. Tuy nhiên, biểu hiện chứng tăng

glucose sau ăn 2-3h (đặc biệt sau ăn tối), theo đó là sự giảm glucose máu giữa đêm là không phù

hợp với chứng liệt dạ dày, nên nguyên nhân này được loại trừ.

Sau khi loại trừ các nguyên nhân thông thường của chứng hạ glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ sử

dụng liệu pháp insulin, tiến hành các khảo sát khác sâu hơn trên bệnh nhân này để tìm ra nguyên

nhân của hạ đường huyết tái phát. Nồng độ insulin và peptide C đã được đo trong các đợt hạ

glucose xảy ra. Nồng độ peptide C không phát hiện được trong 3 cơn hạ glucose riêng biệt đã

loại trừ khả năng bệnh nhân bị tăng insulin nội sinh, ví dụ u đảo tụy.

Sau khi loại trừ các nguyên nhân trên, kháng thể kháng insulin (IA) được cân nhắc là nguyên

nhân trong bối cảnh nồng insulin tăng khi cơn hạ glucose xảy ra. Sử dụng lâu dài insulin ngoại

sinh có thể làm tăng kháng thể kháng insulin, các kháng thể này gắn kết với Insulin. Bởi vậy, liều

insulin đồng dạng (insulin analog) lớn hơn có thể được yêu cầu để bù cho lượng insulin gắn kết

và cho phép lượng insulin tự do có đủ để hoạt động. Insulin tự do và insulin gắn kết tồn tại cân

bằng động với nhau. Khi dạng tự do được chuyển hóa, insulin ở dạng gắn kết sẽ được giải phóng

từ IA. Điều này có tác dụng làm chậm và kéo dài hoạt động insulin ban đầu và gây tăng glucose

máu ban ngày; ngươc lại, sự giải phóng insulin tiếp theo từ IA có thể gây hạ glucose máu về đêm

nếu lượng insulin giải phóng không cân xứng với lượng calo nhận vào.

IA đặc trưng bởi dung lượng gắn kết và ái lực gắn kết. Những bệnh nhân có IA có dung lượng

gắn kết thấp, ái lực cao thường không bị gây hạ glucose máu. Trái lại, các bệnh nhân với IA có

dung lượng gắn trung bình, ái lực thấp có thể gặp cơn hạ glucose máu về đêm. Còn các bệnh

nhân với IA có dung lượng gắn cao, ái lực thấp có nguy cơ gặp cơn tăng glucose nghiêm trọng

ban ngày và hạ glucose ban đêm, và có thể cần chữa trị với thuốc ức chế miễn dịch.

IA có thể xem như là một chất cản trở insulin (do tạo đại phân tử insulin dạng phức hợp IA-

Insulin). Tuy nhiên, không như các chất cản trở các hormone khác, đánh giá phi tuyến tính bằng

cách pha loãng các mẫu xét nghiệm của bệnh nhân hay kiểm tra lại nồng độ insulin trên các mẫu

xét nghiệm thay thế là không hữu ích để nghiên cứu IA ở các bệnh nhân ĐTĐ sử dụng liệu pháp

insulin. Bởi vì hầu hết mẫu insulin xét nghiệm không thể hiện sự hồi quy tuyến tính với insulin

analog và có phản ứng chéo khác nhau đối với loại insulin analog khác nhau. Vì lý do này, đánh

giá hồi quy sau khi thêm insulin vào mẫu xét nghiệm là không phù hợp.

Page 4: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

Sắc ký đồ dạng gel có thể được dùng để chứng thực chẩn đoán của insulin dạng phức hợp IA-

Insulin và do đó khẳng định sự hiện diện của IA, thể hiện bằng đỉnh insulin trên vùng globulin

miễn dịch. IA cũng có thể được đo trực tiếp. Những xét nghiệm này thông thường không có sẳn

tại đa số phòng labo. Khi nghi ngờ có IA, đo lường nồng độ insulin tự do,insulin trực tiếp và

insulin tổng. Insulin trực tiếp (direct insulin) được đo trực tiếp trên mẫu máu gốc từ bệnh nhân.

Insulin tự do (free insulin) thu được bằng cách đo phần nổi trên bề mặt sau khi lắng đọng mẫu

máu bằng polyethylen glycol (PEG). Insulin tổng (total insulin) thu bằng cách: đầu tiên, thêm

acid vào mẫu máu để tách phần insulin gắn kết kháng thể thành dạng tự do, các bước tiếp theo

lần lượt là lắng đọng mẫu máu bằng thêm PEG và trung hòa pH.

Ở người bình thường, insulin tổng , insulin tự do, insulin trực tiếp có nồng độ gần bằng nhau, vì

insulin trong hệ tuần hoàn gắn protein không đáng kể. Do đó, sự tăng tỉ lệ insulin trực tiếp/tự do,

hoặc tỷ lệ insulin tổng cộng/trực tiếp là gợi ý có sự tồn tại của IA. Những tỉ lệ này có tính đặc

hiệu phụ thuộc tùy vào máy phân tích. Ở bệnh nhân này, tỉ lệ insulin trực tiếp/tự do và tỷ lệ

insuin tổng/trực tiếp tương ứng là 1.03 và 0.98, sử dụng máy xét nghiệm Advia Centaur

(Siemens Healthcare Diagnostic). Đo trực tiếp nồng độ IA được 0.01 nmol/L (giá trị bình

thường: không lớn hơn 0.02 nmol/L, Mayo Medical Laboratories). Những kết quả này loại trừ IA

là nguyên nhân gậy hạ glucose máu.

Vì nguyên nhân của hạ glucose máu tái phát vẫn chưa tìm ra, chúng tôi đo insulin và glucose

trong 24h của bệnh nhân. Insulin trong 24h cho thấy đỉnh bất thường giữa lúc 24h – 2h30, điều

này phù hợp với sự hạ glucose nghiêm trọng lúc đó (1.9 mmol/L). Đỉnh này không thể giải thích

bằng phác đồ kê insulin cho bệnh nhân (Hình 1). Chúng tôi nghi ngờ rằng đỉnh này có thể do một

chất tương tự insulin (insulin analog) tác động ngắn đã được tiết ra một cách âm thầm. Sau khi

giải thích kết quả insulin 24h cho bệnh nhân, cơn hạ glucose máu về đêm đã không xảy ra nữa.

BN sau đó được chuyển sang khoa tâm thành để được chăm sóc và phát hiện BN có những yếu

tố gây stress khá nghiêm trọng.

Chúng tôi đi đến quyết định rằng bệnh nhân này mắc chứng hạ glucose máu giả tạo (factitious

hypoglycemia) – một hội chứng mà bệnh nhân tự cảm ứng gây hạ glucose để nhằm được chăm

Page 5: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

sóc y tế hoặc để chứng tỏ là mình không khỏe. Đây là một chứng bệnh rất khó chẩn đoán và

thường không chẩn đoán được trong nhiều năm ở bệnh nhân bị ĐTĐ không kiểm soát được. Các

biểu hiện lâm sàng thường bắt chước rất giống với bệnh thật. Bệnh nhân thường tỏ ra lo lắng và

yêu cầu thường xuyên được kiểm tra cũng như can thiệp điều trị. BN thường có tiền sử nhiều lần

nhập viện và đến khám nhiều nơi khác nhau. Bệnh nhân này cũng đã vào viện nhiều lần, cụ thể

18 lần trong vòng 2 năm do hạ glucose tái phát và tăng glucose máu.

Điều quan trọng là phải nhận ra đây là một chẩn đoán loại trừ và chỉ nên thực hiện sau khi loại

trừ các nguyên nhân có khả năng khác trước đó để tránh nhầm lẫn trong chẩn đoán – để tránh các

hậu quả nghiêm trọng về xã hội, pháp lý và lâm sàng do chẩn đoám sai. Tuy nhiên, việc cẩn thận

này cũng cần phải cân bằng với sự cần thiết phải nhận biết sớm để tránh các chẩn đoán và can

thiệp điều trị không cần thiết – gây lãng phí vật chất cũng như đem nguy hại cho bệnh nhân.

(Hình 2).

IA Lạm dụng insulin

Khẳng định bằng đo IA

Kiểm tra nước tiểu và máu về

sulfonylurea để loại trừ do dùng sai

U đảo tụy, sự tăng các tế bào beta đảo tuy

chuyên tiết insulin (Nesidioblastosis),

biến chứng sau phẩu thuật giảm béo

Tỷ số insulin trực tiếp/tự do Tăng insulin nội sinh

Xét nghiệm trong khi hạ đường huyết

(glucose tĩnh mạch <45mg/dL (2.5 mmol/L), insulin > 3mU/L)

Peptide C huyết tương

Trong khi thăm khám lâm sàng và tiền sử bệnh, cân nhắc các yếu tố sau: không cân bằng

insulin và carbocarbohydrate; thời điểm dùng thuốc không phù hợp, kĩ thuật tiêm insulin kém,

loạn dưỡng mô mỡ tại vị trí tiêm, chứng liệt dạ dày do bệnh đái tháo đường, các thuốc gây hạ

đường huyết khác, uống rượu, các tình trạng bệnh nặng như nhiễm trùng máu, suy gan, suy thận,

suy tuyến thượng thận.

Các xét nghiệm sinh hóa cơ bản: điện giải, creatinin, men gan, γ glutamyltransferase

Giảm Không giảm

Tăng Xấp xĩ 1

Hình 2. Các phương pháp nào giúp chẩn đoán các nguyên nhân gây hạ glucose máu tái

phát ở bệnh nhân đái tháo đường

Xét nghiệm hình ảnh: chụp cắt lớp vi tính, MRI,

nội soi

Nếu insulin và peptide C đều giảm, cân nhắc u không

phải đảo tụy làm tiết các yếu tố tăng trưởng giống

insulin

Page 6: Ca lâm sàng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin

Nhịp cầu Dược lâm sàng

NHỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ:

1. Chứng hạ glucose máu là thông thường ở bệnh nhân ĐTĐ và nguyên nhân thường gặp

nhất là sự dư thừa insulin tuyệt đối hay tương đối. Loạn dưỡng mỡ dưới da tại nơi tiêm

có thể tác động tới sự hấp thu insulin và có thể làm nồng độ glucose không ổn định.

Chậm tháo rỗng dạ dày (30%-40% ở bệnh nhân ĐTĐ) gây ra bởi liệt dạ dày có thể gây hạ

glucose máu.

2. Kháng thể kháng insulin và việc lén lút sử dụng insulin ngoại sinh có thể làm tăng nồng

độ insulin bất hợp lí trong hạ glucose máu.

3. Hạ glucose máu giả tạo là thách thức lớn với chẩn đoán và điều trị. Nó nên được xem là

một chẩn đoán phân biệt trong hạ glucose máu không rõ nguyên nhân và là một chẩn

đóan loại trừ (chẩn đoán khẳng định sau khi đã loài trừ các nguyên nhân khác).

4. Đo lường nồng độ peptide C và insulin trực tiếp và tự do có thể giúp phân biệt hạ glucose

giả tạo với các nguyên nhân khác.

5. Nồng độ insulin cao với sự tăng tỉ lệ insulin trực tiếp/tự do ghi lại trong các cơn hạ

glucose gợi ý một nguyên nhân là do lạm dụng insulin. (Lời bình của người hiệu đính:

theo như cách hiểu logic thì nồng độ insulin cao và tỷ lệ insulin trực tiếp/tự do xấp xỉ 1

trong các cơn hạ glucose gợi ý một nguyên nhân là do lạm dụng insulin. Còn nồng độ

insulin cao và tỷ lệ insulin trực tiếp/tự do tăng thì nghi ngờ nguy cơ là do IA ?).