của các ông Phú và đặc biệt là ông Xu Tiếng mà · thợ xẻ gỗ cá nhân dùng...
Transcript of của các ông Phú và đặc biệt là ông Xu Tiếng mà · thợ xẻ gỗ cá nhân dùng...
Dalat & Người Xưa Trang 24
Ngành cưa xẻ gỗ.
Dalat là xứ ngàn thông, nên việc khai thác
gỗ, thường gọi là cúp cưa ( couper = cắt), đã bắt
đầu rất sớm (1927) và có xưởng chế biến gỗ
(1931) cho dân chúng dùng gỗ, ván làm nhà. Họ là
những nhóm thợ rừng hạ cây xong chuyên chở về
bán lại cho các xưởng. Căn cứ theo phương tiện
vận chuyển trong buổi sơ khai và bề rộng các gian
nhà, tôi nghĩ là các cây ngo được cắt thành từng
khúc dài 6m rồi dùng trâu hay voi của người Mọi
kéo ra nơi có đường xe hơi. Cái khó là đưa gỗ lên
xe, có thể họ bắt chước thợ đập đá chuyển đá lên
xe. Thợ đập đá chọn một vách đá cao độ 3m rồi
làm một máng tôn cứ chuyển đá đến đổ vào máng
đá tuôn xuống đầy xe. Ngành gỗ cũng làm một
bến chuyển gỗ cao hơn thùng xe và lăn các khúc
gỗ ngo qua xe. Sau này khi có các xe có trục cuốn
cáp, xe REO, họ không cần kéo gỗ về bến xa mà
chỉ cần tập trung gỗ thành từng đống nhỏ và dùng
xe này trục gỗ lên xe vừa mau mà lại an toàn hơn.
Khi kỹ thuật cưa xẻ phát triển và nhu cầu
bàn ghế giường tủ cao hơn, xưởng cưa không bán
gỗ bìa nữa mà xẻ nhỏ ván bìa thành từng loại ngắn
dài, dày mỏng theo nhu cầu của ngành đồ mớp
(ameublement). Gỗ ở Dalat chủ yếu là thông và
dầu. Dân đông thêm, giá củi cao hơn họ bán bọn
cưa cho các lò làm bún, làm gạch, nhà hàng và
dân chúng. Một công hai lợi. Lò bọn cưa là một
thùng tôn dày hay tôn dầu hắc lớn nhỏ tùy công
dụng, phía trên có 3 càng sắt như bếp. Trước khi
bỏ bọn cưa vào lò họ để ở giữa lò một khúc gỗ
tròn láng đứng và một khúc ngang gần đáy thùng.
Sau khi nén thật chặt thật đầy bọn cưa họ rút hai
khúc gỗ ra châm mồi lửa nơi lỗ ngang. Bọn cưa
cháy lần lên theo lỗ đứng cho đến khi cháy hết bọn
cưa. Ấp Xuân An là nơi sản xuất lò bọn cưa và
thùng tưới nước cho dân làm vườn. Trên đường
Yersin có hãng Services des Dragages et des Tra-
veaux Public là một hãng cưa của Tây hoạt động
cho đến khoảng năm 1957 thì đóng cửa hẳn.Tại
ngã năm Đại học có một trại cưa, trên đường đi
Trại Mát có hai hãng Ngọc Dung và Michel,
đường Cầu Quẹo có mấy hãng cưa gỗ bằng máy
của các ông Phú và đặc biệt là ông Xu Tiếng mà
tôi sẽ trình bày trong phần các nhà thầu xây cất.
Ông bà Tôn thất Chí, ngoài nhà hộ sinh nổi
tiếng nhất Dalat trên đường Cầu Quẹo, còn có
tiệm đồ gỗ tại ngã ba Cầu Quẹo/Minh Mạng. Ông
Võ công Khoa, công chức, đưa thợ từ Hà Tĩnh vào
san lại trường Hồng Lam lập trại làm đồ mớp: Mỹ
Nga ameublement.
Ngoài các hãng cưa xẻ gỗ có những nhóm
thợ xẻ gỗ cá nhân dùng lưỡi cưa cá mập hạ ngo
xuống, cưa thành nhiều khúc dài rồi dùng cưa xẻ
để xẻ thân cây ngo thành ván, cột, đà bán cho dân
chúng làm nhà. Cái cưa xẻ cũng giống như cái cưa
thường nhưng rộng khổ và dài khoảng hơn 2m.
Chúng tôi không rõ họ dùng cách nào để gác
nguyên cả thân cây to lớn lên một cái giá bằng
cây, một đầu gối vào mặt đất, đầu kia chổng lên
trời như họng súng đại bác. Cái giá gồm có 4 cây
gỗ cột thật chắc lại thành 2 chữ X, đầu trên ngắn,
đầu dưới dài được chôn xuống đất cách nhau xa
khoảng chừng hơn 1 mét. Một cây đà lớn thẳng
được gác thật ngang qua 2 bộ cây chữ X. Cây gỗ
cần xẻ được đưa gác lên đà ấy. Vì công việc nặng
nề họ thường đi thành nhóm tối thiểu bốn người
và chia thành 2 cặp. Khi cưa người thợ chính
thường ngồi dưới đất vì hướng lưỡi cưa ăn gỗ
hướng về người ngồi dưới đất và người thợ phụ
đứng trên thân cây. Dân ta không mặc quân lót và
thường mặc quần xà lỏn. Khi kéo cưa cái ấy cứ lúc
lắc theo nhịp cưa nên có câu “lúc lắc như c.. thợ
cưa”. Sau khi điều chỉnh thân cây ngay ngắn họ
chêm cứng hai bên, và bắt đầu lấy mực xẻ. Họ
dùng giây nhợ dài nhúng vào lọ nghẹ có pha dầu
để đường kẻ chỉ không bị mưa gió làm phai mờ.
Trước tiên họ kẻ 2 đường chỉ song song với
khoảng cách xa nhất mà đường kính khúc gỗ cho
phép. Tại mỗi đầu khúc cây họ lấy 2 đường chỉ
thẳng đứng, kiểm bề ngang các đường chỉ trên
dưới phải bằng nhau. Lật thân cây gỗ mặt trên
xuống dưới và căn cứ vào các đường chỉ hai đầu
lấy thêm hai đường chỉ dọc. Tiếp đó là xẻ 2 tấm
ván bìa 2 bên. Khi cả hai đường chỉ được xẻ tới đà
ngang, họ phải dời thân khúc gỗ để đầu dưới đất
chổng lên trời và bắt đâu xẻ phía bên kia. Khi xẻ
Dalat & Người Xưa Trang 25
xong 2 tấm bìa họ lật khúc gỗ để mặt gỗ đã cưa
gác lên đà ngang. Nếu định xẻ gỗ làm cột hay đà
lớn, lúc này phải kiểm và chêm lại sao cho cây đà
này phải thật ngang thì sau này gỗ xẻ ra mới
vuông vắn, xẻ ván thì không cần làm việc này.
Các đường chỉ được lấy tùy theo kích thước ván,
cột hay đà. Các đường chỉ phải lấy cả 2 mặt để cả
hai người thợ căn cứ vào đó mà cưa. Công việc
thật nhiêu khê và cực khổ vì phải làm cả ngày
ngoài nắng mưa.
Ngành xây cất.
Dalat được dự trù làm thủ đô cho toàn cõi
Đông Dương nên có nhiều công thự, tư dinh và
biệt thự huy hoàng do các kiến trúc sư kỹ sư ưu tú
thiết kế và các nhà thầu Pháp danh tiếng
(S.ỊD.EC., Eiffel, Dragage….) đảm trách. Họ phải
được sự chấp thuận của Toàn Quyền Đông Dương
mới được phục vụ tại Dalat. Chủ trương của Pháp
là huấn luyện và đào tạo người Việt vừa đủ khả
năng để phục vụ họ thôi, nên nhóm nhân công
thuở ấy chắc chắn có tay nghề khá cao. Người
Việt vốn cần cù và nhất là nhạy bén và tiếp thu
nhanh chóng nên một số đã thành những nhà thầu
lớn nhỏ mà tôichỉ biết vài người.
Những dãy nhà mái nâu có dãy taxi, dãy gần chợ Hòa Bình
và đường Minh Mạng là của ông Võ đình Dung xây đầu tiên,
tiệm góc đường có mái nhà hình tam giác là Đức Xương
Long (đầu đường Minh Mạng). Dãy nhà lầu 3 tầng với hàng
cửa sổ, trước đây là ga ra Ballansard.
Tôi có duyên may là đã thâu thập được
nhiều nguồn tin khả tín là ngay từ buổi sơ khai
(1925) cũng đã có một số Cán sự trường Cao
Đẳng Công Chánh Hà Nội đầu tiên phục vụ tại
Dalat như đã ghi trên phần vận tải và giao thông.
Một người bạn kỹ sư Công Chánh cho tôi biết ông
Trần đăng Khoa, Cán sự Công chánh (agent tech-
nique des Travaux Publics) đã xây cất Cầu Ông
Đạo (1934) và sau này là Tổng Trưởng Công
Chánh Bắc Việt.
Tôi tìm hiểu thêm trên mạng nhưng không
được gì. Qua cuốn Kỷ Yếu trường Cao Đẳng
Công Chánh kỷ niệm 100 năm thành lập trường
(1902-2002), ông Trần đăng Khoa tốt nghiệp năm
1927 và tốt nghiệp khóa kỹ sư chuyên nghiệp
Đông Dương đầu tiên năm 1943, là Tổng Trưởng
Công Chánh Bắc Việt từ 1946 và Bộ Trưởng Thủy
Lợi năm 1955. Cũng qua kỷ yếu này trong thời
gian đầu trường chỉ đào tạo những chuyên viên kỹ
thuật và họ được bổ nhiệm đi làm việc trên toàn
cõi Đông Dương, Mãi sau 1930 chương trình đào
tạo về kỹ thuật mới cao hơn và có căn bản hơn.
Qua cuốn địa chí Dalat hai đập ngăn suối
Cam Ly đã bị bão phá hủy (1932), đồ án Hồ Lớn (
Grand Lac) được đấu thầu (1933) và xây cất
(1934), và công tác này là trọng điểm của thành
phố. Tập hợp các điều trên theo thiển nghĩ ông
Trần đăng Khoa có thể là người đại diện chánh
quyền Pháp phối hợp với nhà thầu Pháp và nhân
công Việt để tránh sơ sót về kỹ thuật do ngôn ngữ
bất đồng, chứ Pháp chưa giám giao cho ông thiết
kế hay đảm trách việc xây cất cầu này nhưng ông
được danh dự đã đóng góp vào công cuộc xây
dựng một công trình đẹp của Dalat thời ban khai.
Ông Võ đình Dung nhà thầu xây nhà ga xe
lửa nổi tiếng đẹp nhất Việt Nam (1932) và nay là
một di tích văn hóa quốc gia. Ông là sở hữu chủ
khu phố xung quanh chợ Hòa Bình (1937), một
khu đất khá rộng đường Cầu Quẹo mà ông Trần
đình Ôn mướn làm khuôn viên trường tư thục
Hồng Lam, mấy biệt thự ở cuối đường Lò Gạch
trong đó có nhà số 77 mà gia đình người bạn tôi
mướn và ông Xu Hổ một thầu khoán nhỏ mướn
một căn khác gần đó. Doanh trại của ông rất rộng
tại góc đường Pasteur và Hôpital ( Hai Bà Trưng
Dalat & Người Xưa Trang 26
và Hải Thượng) sau này là trường Việt Anh do
ông Võ đình Dũ, con trai ông, làm hiệu trưởng.
Ông bà có bốn người con, ba gái một trai. Tất cả
đều du học tại Pháp. Cô Mỹ Hạnh, gái út kết hôn
với ông Nguyễn văn Thưởng, kỹ sư công chánh
từng làm Trưởng khu Công Chánh Nam Trung
Phần. Họ cùng bốn người con định cư tại Louisi-
ana và Florida. Ông và ông Nguyễn văn Tiếng là
linh hồn của ban trị sự Tỉnh Hội Phật Học (thuộc
Hội Phật Học Việt Nam Trung Phần, Huế) lúc đó
còn tại chùa Linh Quang ở Số Bốn và xây cất
chùa Linh Sơn (1939-1942). Năm 1946 ông giải
nghệ và dành thì giờ tập trung tu tập và nghiên
cứu thêm Phật pháp tại Nha Trang.
Muốn tìm hiểu ngành xây cất nói riêng và
người Dalat xưa nói chung cần phải biết rõ hơn
các hoạt động và nhân cách của ông Võ đình Dung
vì ông là nhà thầu Việt đầu tiên và lớn nhất tại Da-
lat được Pháp kính nể. Qua bao năm tháng các
công trình của ông vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
trong khi một số không ít các công trình của người
Pháp thực hiện đã xuống cấp. Điều này nói lên khả
năng kỹ thuật và lãnh đạo của ông khá cao vừa về
kỹ thuật vừa nguồn vốn nên mới nhận được công
tác nhà ga. Không ai biết ông đã làm những gì khi
lên lập nghiệp tại Dalat trước khi xây nhà ga.
Càng đáng phục ông hơn về nhân cách. Ông có dị
tướng nhưng, như bao người Dalat dám nghĩ dám
làm mạnh dạn đứng lên cạnh tranh với các nhà
thầu Pháp và đóng góp cho Hội Phật học Dalat.
Tôi đã cố tìm hiểu nhưng không biết thêm gì về
ông, nếu ai biết được hai trưởng nữ tên Tri Túc và
Huệ Đa của ông hoặc bạn bè của gia đình ông xin
vui lòng cho tôi biết để tìm hiểu và biết thêm sự
đóng góp của ông. Nhờ đó chúng ta biết Dalat
được nhiều hơn.
Ông Nguyễn văn Tiếng người Huế đem gia
đình vào Dalat khoảng giữa thập niên 20 làm giám
thị (surveillant) công trường đường B’lao - Dalat
cho hãng thầu Eiffel của Pháp, danh tiếng khắp
Đông Dương. Từ đó ông có tên Xu Tiếng. Qua
mấy năm ông lăn lóc với nắng mưa, gió lạnh, rắn
rít, sốt rét, ho lao, nhờ có trình độ học vấn tương
đối cao (với người Dalat đương thời), thông minh
lanh lợi, tháo vác, nhạy bén ông rất được tín
nhiệm. Rất chú trọng về phẩm chất công tác và kỷ
luật công trường nên ông được chuyển về Dalat
với trách nhiệm và quyền hạn cao hơn. Với ý chí
tự lực tự cường ông để ý học hỏi tất cả các việc từ
công trường đến văn phòng, chờ dịp thuận tiện sẽ
ra riêng. Không ai nhớ rõ ông bắt đầu lãnh thầu
xây cất biệt thự cho tư nhân Pháp lúc nào nhưng
ông đã là nhà thầu có uy tín khi ông Võ đình Dung
xây cất nhà ga xe lửa (1932) và lúc Dalat đã có
327 biệt thự (1936).
Ông tận tình hướng dẫn công nhân thợ
thuyền trực thuộc trau dồi nghề nghiệp, đặc biệt là
dạy các người cai và thợ giỏi học toán, điều rất
cần thiết trong xây cất. Với từ tâm của một gia
đình thuần thành đạo Phật, ông nhờ bà tổ chức
một kho nhỏ dự trữ một số nhu yếu phẩm căn bản
để giúp đỡ những nhân công thợ thuyền gặp khó
khăn và khấu trừ vào lương, và lập một quỹ xã hội
để cho nhân viên mượn tạm khi bị tai nạn hay đau
yếu và trả dần sau. Ông có một đội ngũ thợ giỏi và
trung thành, vì nhớ ơn ông hướng dẫn và giúp đỡ
nhiều người đã về làm cho ông. Ông có hai chiếc
cam nhông nét để chuyên chở vật liệu công trường
nhưng khi bạn bè cần là cho mượn ngay, nên được
mọi người kính nể.
Mấy năm sau ông mở hãng đúc gạch và
ngói xi măng khi thấy phí tổn chuyên chở các loại
vật liệu này từ La Ba hoặc có khi từ Djiring về quá
cao. Năm 1937 nhờ có hai hãng này cùng uy tín và
kinh nghiệm trong thời gian làm với Eiffel, ông tin
Dalat & Người Xưa Trang 27
rằng sẽ làm rẻ hơn nên ông trúng thầu công tác
xây khu cư xá Saint Benoit (Chi Lăng bây giờ) và
khu Cité Decoux 51 căn (1942) dành cho công
chức Pháp lương thấp và đông con, và Nha Địa
Dư (1944) với tường bằng đá chẻ.
Vì các khó khăn về tài chánh công tác xây
trường trung học Bồ Đề (1956) có những điều khá
đặc biệt: Tỉnh cấp đất, chùa lo tiền nhân công, ông
ứng trước tiền vật liệu. Khi trường hoạt động, sau
khi trang trải chi phí sinh hoạt hàng tháng của
trường, ông chỉ được lãnh lại dần dần phần còn lại
của học phí về số tiền đã ứng trước. Khi vừa xong
Nha Địa Dư, gia đình ông phải tản cư về Huế mà
chưa kịp lãnh tiền. Năm 1947 gia đình hồi cư bằng
ghe vào đến Nha Trang, tạm trú tại nhà ông Võ
đình Dung thăm dò tình hình trước khi lên Dalat.
May sao ông Baillon, Trưởng Khu công tác Dalat
còn tại chức, biết vụ Nha Địa Dư, cấp giấy chứng
nhận nên ông được truy lãnh số tiền xây công tác
này. Nhờ đó ông có vốn để tiếp tục phát triển nghề
cũ. Sau năm 1945 người Pháp không xây cất thêm
dinh thự nữa mà chỉ tân trang nội thất các công
thự cũ. Các nhà thầu Pháp giảm nhiều nên ông
Tiếng, nhờ uy tín và kỹ lưỡng, được Pháp giao cho
nhiều công tác thay thế các trang thiết bị mới từ
Pháp như bếp sắt, bồn tắm hay thay sàn gỗ mới,
bình phong v…v.. Khi thay đồ mới ông lấy những
vật dụng cũ về dùng trong nhà, cũ người mới ta,
nhưng sang trọng ra phết thời bấy giờ.
Sau khi hồi cư thấy người Việt lên Dalat
ngày càng đông và nhà họ thường làm nhà bằng
ván ông mở hãng cưa xẻ gỗ cho nhu cầu này và
giao cho bà trông coi với bảng hiệu mới Thiện
Nghĩa, pháp danh của người con trai trưởng để kỷ
niệm người con đã giúp ông nhiều trên đường lập
nghiệp mà lại mất sớm. Một thời gian sau ông,
nhờ người con đang học ở Pháp mua cho một bộ
dụng cụ ngành mộc, một số catalogue đồ mớp
(ameublement), tân trang lại hãng cưa. Từ đó tất
cả các công đoạn cưa, xẻ, bào, mộng, đánh bóng
đều bằng máy, nên hàng của ông vừa đẹp, chắc
chắn mà lại rẻ. Ông tự sản xuất ván ghép sàn nhà
để cung cấp cho nhu cầu trong các biệt thự.
Xưởng ông dùng bốn loại gỗ, phần chính là thông
cho ván và vật dụng thông thường trong nhà; dầu
cho đà, cột; bằng lăng và sao, rất hiếm, dành cho
các vật dụng trong các dinh thự biệt thự.
Chùa Linh sơn
Từ ngày vào Dalat gia đình ông đã thường
xuyên sinh hoạt và giúp đỡ chùa Linh Sơn rất
nhiều. Là một trong số sáng lập viên Hội Phật Học
Dalat, gia đình ông phát động thêm các sinh hoạt
xã hội: hướng dẫn các Phật tử làm bánh trái để bán
trong các ngày hội gây quỹ, ban từ thiện đi thăm
viếng các bệnh nhân, đi tẩn liệm các người thất lộc
tại nhà thương thí, và đặc biệt nhất là lập một kho
dự trữ hòm cho các gia đình nghèo. Năm 1945 ông
là thủ quỹ của Tuần lễ vàng Dalat. Con cái ông
đều thành đạt. Người rể đầu, kỹ sư hầm mỏ Pháp,
cháu ông Võ đình Dung, có cơ xưởng lớn tại
Pháp. Người rể thứ, kỹ sư Cầu Cống Pháp, là công
chức cao cấp trong bộ Giao Thông Công Chánh và
có dược phòng tại đường Tự do Saigon. Nhiều
người, kính nể và ngưỡng mộ ông, cho biết ông
đúng là một mẫu người Dalat xưa: hăng say làm
việc, dám nghĩ dám làm để tiến thân, khai sáng
một phong trào xã hội giúp đỡ mọi người thật thiết
thực, và nhất là việc cung cấp hòm miễn phí cho
người nghèo theo tinh thần nghĩa tử là nghĩa tận.
Tôi ngưỡng mộ ông phần chính vì điều sau: nhạc
phụ tôi, có bằng primaire vì không chịu đi làm cho
Pháp với lương tháng khoảng 21 đồng tương
đương 6-7 bao gạo chỉ xanh, và ông Xu Tiếng
hình như học lực cao hơn, đã mua một căn nhà
nhỏ tại góc đường Minh Mạng và Cầu Quẹo cho
gia đình ở rồi đi làm ở B’lao với ý đồ phải vào
hang cọp mới bắt được cọp con. Một tin tưởng
mãnh liệt vào khả năng của mình mới dám có
Dalat & Người Xưa Trang 28
quyết định táo bạo này. Tiếc thay ông qua đời khi
sự nghiệp đang bành trướng mạnh vì mắc bệnh xơ
gan trong nhưng năm gian khổ tại Blao.
Ngoài ra có ông Nguyễn hữu Phú xuất thân
làm cúp cưa rồi cưa xẻ gỗ trước khi làm nhà thầu
chủ yếu xây cất cho người Việt. Ngành xây cất là
ngành quan trọng nhất của Dalat đương thời,
nhưng không ai biết được các tiệm bán đồ vật liệu
xây cất của Pháp và Việt. Tôi không thể tưởng
tượng được, theo một tài liệu bằng Pháp văn, là
nhân công người Mọi phải khiêng gánh vật liệu
xây cất trước khi hoàn thành đường xe lửa.???
Nếu nghĩ rằng lúc đó các nhà thầu Pháp tự lo liệu
mua vật liệu và chuyên chở lên Dalat thì những
nhà thầu Việt mua ở đâu ngoài tiệm Lưu hội Ký
nhỏ xíu trên đường Minh Mạng???
Ngành nông nghiệp
Việt Nam là nước nông nghiệp. Dalat khác
với tất cả các tỉnh miền đồng bằng, không có nông
nghiệp trong buổi sơ khai. Mãi đến năm 1928 ông
Nguyễn thái Hiến (1898-1956), thân phụ tôi, mới
khai sanh ra ngành trồng rau Dalat và hoa.
Khi làm giám thị săn sóc các công viên và
các vườn hoa trong các dinh thự, ông Hiến thấy
nhu cầu nhân công nhiều nên đem bà con ở Nghệ
An vào làm phu lục lộ. Khi biết ông Hiến xuất
thân từ trường Canh Nông Tuyên Quang, ông
Công Sứ đem hạt giống từ Pháp giao cho ông
trồng thí nghiệm để có rau tươi ăn. Khởi đầu ông
trồng tại “Khu nhà Thiếc”, cư xá cho công chức
thấp người Việt. Ngành này cần nhiều nước và
phân. Ông nghiên cứu làm phân xanh nhưng chu
kỳ sản xuất quá dài và tốn kém. Ông chuyển qua
phân tiêu “nguồn phân vô tận” nhưng bị bà phản
đối “ là cho chúng tôi ăn c..” Nhờ hội Hoan Châu
Ái Hữu, do ông thành lập, có hội viên ở rải rác
nhiều tỉnh ông biết được nguồn cá khô từ Phan
Thiết nên mua về làm phân. Sẵn có nhiều nhân
công ông khai phá một vuờn nhỏ tại ấp Tân Lạc
(1928). Ông đã hướng dẫn nhóm người Nghệ An
tiền phong này tất cả các công đoạn từ chọn lựa
địa điểm đến kỹ thuật trồng rau. Ngành này đã lan
rộng đến Trại Mát (1934), Đất Làng tại Cầu Đất
(1937) và lúc đó đã cung cấp rau cho thị trường
Saigon qua đường xe lửa. Khi nhu cầu phân gia
tăng, ông phải mua xác mắm _
phế phẩm của các
nhà sản xuất nước mắm _
từ Phan Thiết, Phan Rí
chở về Dalat bằng xe lửa. Song song với rau ông
cũng trồng nhiều loại hoa, đã thử nghiệm lai giống
vài thứ hoa như gerbérat cọng yếu với marguerite
cọng cứng hơn để bông không bị cụp xuống, rẽ
quạt Tây cọng lớn và khó trồng với rẽ quạt mọi, đã
thất truyền, cọng nhỏ và mạnh với hy vọng bông
đẹp và dễ trồng hơn nhưng chưa có kết quả. Ông
phải bỏ ngành này sau khi bị một khách hàng Sai-
gon đòi bồi thường vì giao hàng trễ trong dịp lễ
lớn do đường xe lửa bị hư.
Khoảng thập niên 30 Dalat lạnh lắm, nên
thỉnh thoảng có sương muối mà người làm vườn
rất sợ _
như bị cháy nhà _
vì bao nhiêu công của
đã đặt vào những luống rau có thể tiêu tan chỉ vì
một đêm nhiều sương muối. Thời đó đâu có dự
báo thời tiết nên vào mùa Đông, khoảng 3-4 giờ
sáng, các người lớn tuổi thường phải dậy xem
chừng có sương muối không? Nếu thấy lớp này
dày là hô hoán lên “sương muối, sương muối”.
Mọi người lật đật tung mền dậy và theo công việc
giao sẵn trước tức tốc ứng chiến. Một thanh niên
trẻ vác cuốc chạy vào đập tháo nước về tiếp tế cho
nước dự trữ sẵn tại hồ múc nước. Người chạy ra lo
việc tưới nước làm tan sương muối, kẻ khác lo đốt
lửa thêm vì chỉ vài phút sau là tốp tưới nước đầu
sẽ chạy vào hơ tay chân đã bị cóng lạnh, người
khác luân phiên thay thế ra tưới nước. Tội nghiệp
nhất là những người lớn tuổi bao ngày dầm sương
dãi nắng gót chân nứt nẻ gặp trời lạnh đau nhức
lắm, nhưng trong trường hợp này họ bảo phải
mạnh dạn nhào xuống ngâm chân vào nước cho tê
cứng rồi mới đi tưới được.
Ông Hoàng trọng Phu, đương thời Tổng
Đốc tỉnh Hà Đông, và ông Trần văn Lý, Quản Đạo
Dalat thấy sự phát triển ngành này nên lập ấp Hà
Đông (1938). Người Hà Đông chủ yếu trồng dâu
tây với phân tươi. Bất kể ấm hay lạnh họ đi lấy
phân ở các thùng nhà vệ sinh công cộng hoặc tại
các hầm tiêu cư xá khi trời chưa sáng và những
Dalat & Người Xưa Trang 29
phế phẩm tại ba toa (abattoir lò sát sinh heo bò).
Những chất này được đổ vào một hồ chứa có sẵn
nước cho loãng phân ra. Sau đó họ gánh ra khu
trồng dâu và dùng gáo nhôm lớn tưới thẳng lên
những luống dâu chưa có trái đã được phủ cỏ khô.
Dâu tây thời đó trái nhỏ mềm dễ hư nhưng rất
ngọt và thơm. Dân chúng thường làm rượu dâu để
dùng trong mùa Giáng Sinh và Tết Tây.
Mặt tiền nhà ông Hiến, vách nguyên thủy
bằng ván bào và chưa có phần xây bờ đá.
Nhà bếp và mặt sau. Hình chụp năm 1998
Sau khi ấp Hà Đông được thành lập, hai
ông Nguyễn thái Hiến và Nghiêm Trang, với sự
hổ trợ của ông Phạm khắc Hòe, Quản Đạo Dalat
kế nhiệm, xin Pháp thành lập ấp Nghệ Tĩnh (1940)
và ngành này vươn lên. Sau khi hồi cư nhiều gia
đình trắng tay vì phân tro nông cụ mất hết. Dọn cỏ
hoặc nỉa đất khi gà chưa gáy vì phải mượn nông
cụ. Phụ nữ và trẻ con lang thang từ ngọn đồi này
qua đồi khác gần Saint Benoit để lượm phân bò.
Trên đường về phải đội thúng phân trên đầu khi
lội qua suối gần trường Thiếu sinh quân vì nước
cao tới ngực. Ăn trưa xong vội vã theo đoàn đi củi
vào hố sâu chặt củi đến xế chiều. Thực phẩm
thiếu, thuốc men khan hiếm ròng rã cả năm mới
tạm ổn định lại cuộc sống.
Từ năm 1948 ba yếu tố chính đã làm ngành
trồng rau Dalat phát triển mạnh: máy bơm nước,
thuốc trừ sâu DDT với ông Trần đình Ôn, phân
xác mắm với bà Nguyễn thái Thanh, em dâu ông
Hiến, và kỹ thuật gieo trồng với bà Tôn gia
Huồng. Tưới nước là công đoạn quan trọng nhất
của ngành trồng rau. Ông Le Bris nguyên là chủ
đồn điền cà phê ở Trạm Hành. Năm 1945 lên mở
tiệm chuyên hột giống, thuốc sâu, và đến 1948 bán
thêm bán máy bơm nước hiệu Bernard chạy bằng
xăng. Khi biết ông Ôn biết tiếng Pháp ông Le Bris
liền nhờ ông Ôn giới thiệu và hướng dẫn nhà vườn
sử dụng máy bơm nước.
Cái ngày trình diễn tưới nước bằng máy
bơm người làm vườn toàn ấp Nghệ Tĩnh, tập trung
đứng xem vui mừng khôn tả khi thấy đứa bé 10
tuổi cầm cái vòi nước tưới dễ dàng, vòi nước phun
mạnh tới 5-6 thước, kể cả khi tưới đám cỏ hoang
trên đồi cao. Nhưng rồi có cảnh tức cười và ngược
đời: mang tơi khi trời nắng chang chang làm đĩ
không trơi bằng mang tơi tưới nước (trơi = hổ
thẹn) qua câu vè của dân làm vườn Nghệ An. Với
hệ thống ống nước bằng sắt đôi khi tưới nước phải
đứng dưới gió, tia nước nhỏ được gió tạt vào
người lạnh nên phải mang tơi lá còi mà từ xa ai ai
cũng thấy. Từ đó các chủ vườn tại ấp Nghệ Tĩnh,
căn cứ theo ranh giới vườn được cấp phát, tự động
khai phá thêm diện tích vườn mình lên phần đồi
trên cao và chánh quyền Pháp cũng nhắm mắt làm
ngơ. Tiếp đó là sự thành lập nhiều ấp trồng rau
mới như ấp Sào Nam-Tây Hồ (1951-52), Đa Thiện
(1953) v…v…với diện tích canh tác rộng bội
phần. Ông học hỏi thêm việc sửa chữa máy bơm
qua trung gian các tài xế chuyên chở rau. Những
ai có trục trặc về máy bơm đều đến nhờ ông giúp
đỡ. Có năng khiếu giảng dạy ông dần dà đào tạo
tại mỗi ấp một đội ngũ người làm vườn tự sửa
chữa lấy. Các loại máy thay đổi luôn vì vườn trên
cao cần loại máy có áp suất cao, các vườn rộng
cần máy lớn với áp suất nhỏ. Vì sự phát triển của
máy dầu, máy điện, máy ép hơi lấy nước ở sâu
dưới đất nên ông khá bận rộn và bị gãy tay trong
Dalat & Người Xưa Trang 30
một dịp sửa máy. Máy bơm càng mạnh nguồn
nước chứa càng thiếu dẫn đến việc ăn cắp nước
giữa đêm khuya tại các vườn có mạch nước mạnh.
Nhà nào cũng phải canh giữ hồ dự trữ nước qua
đêm sợ người thiếu nước lẻn đến phá bờ hồ.
Trước đó phải bắt sâu bằng tay rất tốn thì
giờ và không dám trồng lứa rau mới khi gần nhà
mình có những đám rau sắp thu hoạch vì khi đó
bướm sẽ qua đẻ trứng trên đám cây nhỏ mới trồng.
Thuốc trừ sâu DDT tuy rất đắt nhưng tiện lợi, bảo
đảm và có thể trồng rau trên diện tích rộng và bất
cứ lúc nào. Nhà vườn chỉ cần đổ thuốc vào một cái
lon nhỏ, với nắp đã được đục một số lỗ nhỏ rồi rắc
thuốc trên đám rau là xong. Tuy phải rắc thuốc khi
lặng gió nhưng thuốc cũng phủ đầy người. Có biết
sự độc hại của thuốc đâu mà quan tâm.
Diện tích vườn ngày càng rộng, nhu cầu
phân tro càng nhiều.Trước khi hồi cư ông bà
Nguyễn thái Thanh đã liên lạc lại với các nhà hàm
hộ ở Phan Rí Cửa về việc tái tục mua phân xác
mắm nên là người buôn phân quy mô đầu tiên,
mấy năm sau có thêm bà Cửu Tư. Cầu nhiều hơn
cung nên rất lời và cũng rất phức tạp. Chưa liên
lạc bằng bưu điện được nên bà phải xuống Phan
Rí mấy ngày trước để mua hàng. Phân xác mắm
không thể để lâu vì mùi hôi thúi, ruồi nhặng và
giảm trọng lượng vì mất nước nên chỉ bỏ vào bao
một ngày trước khi được chuyển bằng xe hơi lên
ga Sông Mao. Sau khi làm thủ tục với ga xe lửa
phân được chuyền qua xe lửa và giao hàng tại ga
Dalat, người làm vườn tự lo đem phân về vườn.
Khi sự giao thông phát triển thêm mới dùng xe hơi
chở thẳng đến vườn. Phân xác mắm vẫn không đủ
bà đề nghị dùng phân tiêu trộn với tro trấu tại
Phan Rang và mua xác mắm cá mè dinh từ Long
Xuyên. Mặc dầu sau này có thêm phân dơi Guano,
nhập từ Phi Luật Tân và phốt phát từ Pháp phân
xác mắm vẫn nguồn phân chủ lực của ngành trồng
rau cho đến khoảng thập niên 80.
Tôi có một kỷ niệm nhớ đời về phân xác
mắm. Một hôm bà thím bị ốm nặng tôi phải đi
giao phân cho khách hàng tại goong xe lửa rồi tiếp
tục vào lớp. Khoảng năm phút sau tất cả các học
sinh, nhất là các nữ sinh ngồi hàng ghế đầu, quay
mặt lại cau có nhìn tôi. Anh bạn kế bên vội hỏi ”
có phải mày đã đạp phải c….không”. Tôi hiểu,
không dám trả lời lặng lẽ chuồn ra khỏi lớp. Thì ra
mùi phân cá thấm qua cái áo len đã gây ra tai họa
này mặc dầu tôi đã cố tránh không hề đụng đến
bao phân nào.
Các loại giống càng nhiều, kỹ thuật gieo
trồng, sử dụng thuốc sâu thay đổi luôn. Gieo trồng
với số lượng lớn nhà vườn đâu dám tin lời quảng
cáo của người bán vì phong thổ nơi sản xuất hột
giống khác với nơi trồng. Nếu sai là mất vốn nên
mọi người đều chờ bà Huồng trồng thử trước. Sú
thấp lá dòn dễ thúi, sú cao dễ nghiêng ngã, kỹ
thuật trồng rau ngắn ngày xen lẫn rau dài ngày
cũng phải thay đổi v…v… nhờ sự nhạy bén thông
minh của bà Huồng.
Từ ngày có công voa và các xe 10 tấn chở
rau, việc mua bán rau qua trung gian cũng thay
đổi. Những xe rau đến Saigon sớm thường bán
được giá cao nên nẩy sinh ra việc mua vạt và xe
vợi. Các con buôn mua vạt _
mua trước nguyên
lứa rau khi mới bắt đầu cuốn, nhà vườn chỉ còn lo
tưới nước và trừ sâu thôi. Xe vợi hai cầu chạy
được trên các đường sình lầy. Nhà vườn không đủ
nhân công chặt và gánh sú đến địa điểm chất hàng.
Mỗi con buôn trung gian tổ chức một đội ngũ
riêng để chặt, vanh sú, gánh rau lên đường rồi các
xe vợi, chở ra nơi tập trung, nên xe chở rau đi Sai-
gon thu ngắn được thời gian.
Ngày nay chúng ta thường than van là
nước hồ Xuân Hương thường đục ngàu do ngành
trồng rau. Đúng vậy nhưng tội phạm chỉ là các
vườn ở ấp Đa Thiện thôi. Nước nhà vừa mới được
độc lập, ngân sách yếu kém, chánh quyền cấp đất
với diện tích rộng hơn và khuyến khích dân chúng
phát triển ngành trồng rau để tăng trưởng kinh tế.
Ngành này bắt đầu cơ giới hóa mọi khâu, địa thế
Đa Thiện tương đối bằng phẳng, không cây cối dễ
khai phá nên bành trướng nhanh. Để đủ nước tưới
rau chánh quyền chấp thuận kế hoạch đắp 3 đập
nước. Hồ nước tại Thung Lũng Tình Yêu là đập
thứ 3 của vùng Đa thiện. Vào thời điểm đó ai ai
Dalat & Người Xưa Trang 31
cũng biết đất xói mòn sẽ lấp cạn hồ là lẽ đương
nhiên nhưng mấy ai bận tâm. Cũng chưa ai biết
hậu quả tai hại của thuốc DDT vì thế giới cũng
mới bắt đầu lưu tâm đến môi trường từ năm 1962.
Thật vậy thuốc DDT ra đời để ngừa bệnh sốt rét
cho quân đội (1939), dùng trong canh nông (1948)
và Mỹ hạn chế dùng trong nông nghiệp (1972).
Dalat là thành phố an bình nhất nước, dân nhập cư
đều kiếm công việc dễ dàng nên diện tích trồng
rau tăng nhanh. Ngành trồng rau trở thành nguồn
kinh tế chủ lực của thành phố, và dân làm vườn đã
hãnh diện với câu nông suy bách nghệ bại. Phải
đến giữa thập niên 60 chánh quyền mới ghi nhận
nước hồ Xuân Hương, nguồn cung cấp nước uống
cho thành phố, bị ô nhiễm bởi DDT và mức độ bồi
lấp hồ quá nhanh, nhưng đành bó tay.
Bông mimosa lá dài với bông màu vàng tươi mùi
thơm nhẹ rung rinh theo gió (đã tuyệt chủng
khoảng thập niên 1960
Ngoài việc trồng rau người Pháp đã đem
một số cây cảnh từ Pháp qua và giao cho ông Hiến
trồng trong vườn các công thự và ven bờ hồ Xuân
Hương. Lúc đó ông Hiến đang khai phá vườn rau
tại ấp Tân Lạc thấy cây mai có bông đẹp nên xin
được trồng dọc theo một số đường. Bông mai, chỉ
có tại Dalat, màu tím hồng nhạt trổ bông vào dịp
lễ Giáng Sinh rất đẹp, và sau này được nhạc sĩ
Hoàng Nguyên sáng tác bài hát Ai lên xứ Anh
Đào. Từ đó dân chúng gọi là hoa Anh Đào. Lúc đó
bông Mimosa lá dài có trước lọai lá tròn có mùi
thơm thoang thoảng không nồng nặc. Lá dài mỏng
và thưa, cụm bông ở đầu ngọn nhánh cũng thưa
thưa nên lung lay theo gió trông rất ẻo lả và nên
thơ. Trên đây là tình trạng nông nghiệp đến năm
1975.
Năm 2002 khi thấy trong cuốn địa chí Da-
lat kỷ niệm 100 năm thành phố Dalat (1993) ghi
nguồn gốc ngành trồng rau này có thể từ 1) người
Pháp với trại nông ngiệp lúc đầu ở Dankia và sau
được dời về Dalat năm 1908 nhưng không để lại
dấu vết gì; và 2) ngành này bắt đầu tại ấp Hà Đông
(1938). Tôi sống trong ngành này từ thuở nhỏ nên
viết và xuất bản cuốn sách “Ông Nguyễn thái
Hiến với ngành trồng rau Dalat từ 1928 đến
1958” để mong văn khố Dalat có thêm tư liệu và
làm sáng tỏ nguồn gốc ngành này. Sách (500
cuốn) không bán, chỉ biếu cho các thư viện trong
miền Nam và các cơ quan chánh quyền các cấp tại
Dalat. Sách này ghi rõ: các ấp trồng rau trước năm
1938 với các yếu tố căn bản về lập vườn của ông
Hiến: đất màu mỡ sâu cay và có nước dẫn về từ
trên cao; các trở ngại và thành quả; các công đoạn
kỹ thuật của ngành; địa thế các khu có vườn là
chứng tích v..v.. Do đó tôi đương nhiên nghĩ rằng
thân phụ tôi là người khai sinh ngành này. Vì
ngành trồng rau Dalat rất quan trọng nên chánh
quyền đương thời muốn tìm hiểu nguồn gốc thật
sự và rõ ràng hơn qua các tài liệu viết xưa, điều
mà các nhà khảo cứu không thể tìm thấy được.
Chánh quyền cũng không cấp ngân khoản để tìm
hiểu thêm nguồn gốc ngành này và phối kiểm địa
hình như đã ghi trong cuốn sách trên.
Tôi viết một cuốn sách khác “Dalat: nguồn
gốc ngành trồng rau, và bảo tồn khu vực cổ” cũng
không bán, gồm hai phần:
a) Phần đầu chứng minh nguồn gốc không
thể có từ người Pháp mà từ thân phụ tôi vì:
1) dấu tích hiện hữu các vườn có trước
1938,
2) nông cụ chuyển đất đi xa có xuất xứ tại
Nghệ An từ khi đắp đập Đô Lương, và bộ đòn
gánh tưới nước với giây xích xe đạp do ông Hiến
chế biến,
3) Phân xác mắm từ Phan Thiết-Phan Rí là
nguồn phân chính được dùng cho đến 1975,
Dalat & Người Xưa Trang 32
4) thành phần người trồng rau trước 1938
là dân Nghệ An,
5) tính liên tục và phát triển phù hợp với
lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954;
b) Phần sau đề nghị quy hoạch phần đất cần
bảo tồn của hai ấp Xuân An và Tân Lạc để lưu lại
những dấu tích lịch sử ban đầu của Dalat.
Ngành thương nghiệp
Từ năm 1920 dân chúng đã khá đông và có
nhà cửa riêng rẽ nhưng các thương buôn cũng chỉ
bán những gì dân chúng cần thôi. Mãi tới đầu thập
niên 1930 thương nghiệp mới phát triển. Người
Việt và Hoa lúc đó tập trung xung quanh khu chợ
Hòa Bình và một ít theo đường Cầu Quẹo. Tiền
giấy với mệnh giá từ 1 đến 500 đồng. Tiền nhỏ
hơn là nửa xu đến 5 cắc bằng đồng. Chúng tôi
thường được cho tiền nửa xu.
Các tiệm về thực phẩm lớn Vĩnh Chấn,
Vĩnh Hòa bán đủ thứ thượng vàng hạ cám kể cả
kẹo bánh cho con nít, Đức Xương Long ngoài một
số hàng trên còn có môn bài bán rượu. Đường
Minh Mạng có hai tiệm bà Đề và bà Bếp Ba, bán
lẻ, đường Tăng Bạt Hổ có tiệm Quảng Thuận và
Lê đức Viên bán sĩ. Tiệm Hai Cam, anh của hoạt
náo viên Ngọc Phu, bán xe đạp. Nhà hàng ăn bình
dân (Dân Sinh sau thành Mê Kông) cao cấp (Chic
Shanghai), tiệm vàng (Alfana Bijoux, Bùi duy
Chước và Bùi thị Hiếu), chụp hình (Nam Ký, Lý
Photo), may Âu phục nam nữ (Paris Mode, Lê
thành Đôn), đồ mớp ( Mỹ Nga Ameublement,
Thiện Nghĩa, và Tôn thất Chí), tiệm thuốc Tây (
Homard,Võ đình Dần Le Barb). Văn phòng bán
bảo hiểm xe hơi của ông Hoàng Cụt (tôi xin lỗi vì
không biết tên phải dùng tên dân chúng gọi vì tay
ông có khuyết tật). Xin chỉ kể vài tiệm thôi.
Tiệm Phúc thái Lai, người Bắc, lúc đầu
bán gương lược, cho thuê truyện loại Tề Thiên Đại
Thánh, Lục vân Tiên v..v.. và về sau chuyên về
hàng Hà Nội. Ông chủ tiệm thuốc Bắc Thế An
Đường, mà dân Dalat gọi tiệm Con Cua, trước khi
lên Dalat lập nghiệp, đã hớt tóc tại mé tường một
tiệm bán cao đơn hoàn tán ở Chợ Lớn. Thấy tình
trạng thuốc men ở Dalat khan hiếm ông về Chợ
Lớn trình bày với ông chủ tiệm thuốc và được ông
này giúp vốn để mở tiệm. Lúc đầu chỉ bán toàn
thuốc chế biến sẵn mà đương thời gọi cao đơn
hườn tán. Đặc biệt ông có một món thuốc gia
truyền “Tiêu Ban Lộ” chuyên trị ho và cảm mạo
rất công hiệu, và được dân lao động ưa thích vì
vừa rẻ lại mau lành bệnh. Tôi thường mua Tiêu
Ban Lộ và thuốc “xổ dầu đu đủ”. Khi đã phát
triển ông mời thêm các thầy Lang, rồi Đông Y Sĩ
để bắt mạch, chẩn bệnh, ra toa thuốc, hoặc chỉ dẫn
thuốc uống cho các bệnh nhân. Lương bổng của
họ là tiền hoa hồng trên thu nhập của phần thuốc
Bắc bán ra. Tiệm rất đông khách nhờ đầy đủ các
loại thuốc. Lúc đầu tiệm đặt trọng tâm vào lợi
nhuận của người thương gia nghĩa là hốt 10 thang
một lần. Từ khi có vị vừa là đông y sĩ chân chính
vừa là cố vấn quản lý vào làm việc, tiệm chủ
trương phương châm “lương y như từ mẫu” vì
thuốc Bắc cứ 3 thang là phải thay đổi thuốc tùy
theo tiến triển của bệnh nên uy tín tiệm ngày càng
tăng. Khi đã thành công, ông mua khu đất tại giao
điểm đường Cầu Quẹo và dốc Nhà Làng để xây
khu sản xuất thuốc, kho chứa và khu nhà cho gia
đình ông, cùng công nhân ở chung nhau. Sau nầy,
cô gái lớn mở chi nhánh tại Di Linh, cô gái thứ hai
mở tiệm tạp hoá cạnh bên tiệm thuốc, cậu trưởng
nam và cô gái út phụ trách bán thuốc tại tiệm
chính. Đầu thập niên 60 cô gái út xây khách sạn
Cẩm Đô, cạnh khu nhà ở. Sau 1975, gia đình cậu
trưởng nam, sang định cư tại Montreal, Canada.
Ông chủ tiệm đúng là một mẫu người dám nghĩ
dám làm đầy sáng tạo và có từ tâm ơn trả nghĩa
đền cho bá tánh.
Dalat & Người Xưa Trang 33
Tiệm Nouveautés Hanoi, do hai ông
Nguyễn thái Hiến và Tôn gia Huồng hùn vốn, là
tiệm bazar lớn, bán giá nhất định, với nhiều hàng
hóa cao cấp cho khách Pháp Việt và gạo vải bình
dân cho khách Việt. Tiệm ông giúp đỡ người
nghèo thiếu vốn bằng cách cho họ lấy vải hay gạo
về bán xong, trả tiền rồi lấy hàng chuyến sau.
Ông Huồng học trường École Pratique (
trường Thực Hành) Huế, làm công chức ở Phan
Thiết. Được người anh làm kế toán trưởng công ty
xuất nhập cảng Pháp hướng dẫn về kế toán, ông
phụ trách phần kế toán nên sổ sách rất phân minh.
Sổ kế toán đương thời được in hàng ngang và
hàng đứng với nhiều màu sắc phù hợp những tiêu
chuẩn của ngành và có số trang trên góc. Nhờ hệ
thống cột ngang dọc mỗi số chi thu được ghi đúng
vị trí giúp cho việc cộng sổ dễ dàng. Các người
giúp việc trong tiệm rất thán phục ông nên đã phát
ngôn “tổng số tiền cọng ngang cọng dọc mỗi
trang sai một xu cũng không được”. Bà khéo léo
dịu dàng nên lo việc quản lý tiệm. Bà có một trí
nhớ và tài tính nhẩm phi thường. Một hôm một bà
khách thuộc hàng quý phái Hà Nội thấy tiệm có
nhiều hàng vải và tơ lụa Pháp may Âu phục nam
nữ nên mua khá nhiều. Khi người phụ bán hàng
vừa xếp xong các món hàng, bà liền cho biết tổng
số tiền khách đã mua. Lát sau người phụ bán hàng
tính tiền cho biết đúng y chang làm bà khách ngạc
nhiên. Bà điềm đạm cho biết trong khi đo hàng bà
đã tính nhẩm xong món hàng đó. Khi xong món
thứ nhì bà cộng hai món tiền lại và cứ như vậy
mỗi lần chỉ cộng tổng số tiền với món mới thôi.
Tản cư về, tiệm cũ đã bị chủ tiệm Saigonais, một
dân Tây gốc Việt dựa thế quen ông Cò chiếm hữu,
bà về ấp Nghệ Tĩnh làm vườn và trở thành người
có vườn rộng lớn nhất ở ấp Đa Thiện. Sau 75
vườn Đa Thiện bị hợp tác xã hóa, bà lập trại nuôi
heo và sống cuộc đời ẩn dật sau bao cuộc thăng
trầm của thế sự thọ đúng 100 tuổi.
Ông Hiến vừa điều khiển hai người em làm
vườn vừa phụ trách việc mua hàng cho tiệm. Nhờ
quen biết nhiều người trong hội Hoan Châu rải rác
tại nhiều tỉnh nên tiệm ông có nhiều hàng tiểu thủ
công nghệ Việt Nam mà người Pháp rất thích. Ông
nhờ người Pháp mua catalogue áo len về cho phụ
nữ trong tiệm đan áo theo kiểu đặt hàng. Trong tủ
nhỏ tại mặt tiền tiệm có chưng bông hoa và arti-
chaut mẫu với giá hàng ngày.
Không mấy ai thấy bông artichaut( màu tím lợt) tôi
trồng sau nhà ở NC nên đưa vào đây để tưởng nhớ đến
ba tôi trong vụ chống Pháp và độc giả cùng ngắm cho
biết.
Trong một chuyến đi mua hàng ở Saigon,
một tiệm mua hàng tháng ở đường Catinat đã hỏi
ông có thể giao hàng khi có nhu cầu bất thường
không? Ông bảo cứ gởi giây thép cho biết ngày và
nhu cầu ông sẽ gởi xe lửa xuống và báo cho tiệm
biết để ra ga nhận hàng: một sự cạnh tranh ngang
ngữa với tiệm Poinsard et Véyret. Vườn ông sát
trường Adran nên nhiều phụ huynh qua mua arti-
chaut tại vườn. Artichaut là hàng cao cấp vì chỉ có
bông một lần mỗi năm với 3 bông chính lớn và
nặng (được bán theo trọng lượng) sau đó nếu đất
tốt thì mỗi khe lá nẩy thêm một bông nhỏ, (bán
theo cái). Một số người Pháp vào mua tại vườn ỷ
thế của ông Cò đòi mua bông chính lúc còn nhỏ
theo cái. Ông nhất định giữ lập trường bán hai giá
khác nhau và để ác ti sô trổ bông đầy vườn để
phản đối. Một số Pháp kiều, hiểu lập trường chính
đáng của ông, đã báo cho tòa Thị Chính biết để
can thiệp. Ông Cò cho kiểm soát sổ sách tiệm
mong tìm thấy dấu hiệu gian dối nhưng không có
gì sai trái là dịp ông nêu lên sự đạo đức thương
trường của tiệm ông. Ông đã thắng nhưng hành
động này bị người Pháp để ý. Bản tính cương trực,
nhạy bén, trọng lẽ phải của nho giáo, thực tế, cởi
mở, ưa thích khoa học của văn hóa Pháp, ông quan
niệm sống theo lẽ phải của lương tâm, của chính
Dalat & Người Xưa Trang 34
đại quang minh. Khi lập ấp Nghệ Tĩnh có người
đề nghị ông xin vài lô đất, ông nêu nhiều lý do
ông không muốn và không thể hành xử như vậy
được. Ông là trưởng ban chuyển vàng của Tuần lễ
vàng ra Hà nội. Khi trở về, Pháp đã tái chiếm Da-
lat. Ông lên Đất Làng hỏi thăm tình hình trước khi
hồi cư về Dalat. Nhiều người khuyên ông khoan
về để họ lên thăm dò trước đã. Ông bảo “Tây đã
biết mình suốt đời quang minh chính đại,tại sao lại
phải lén lút về” cũng vì quan niệm sống này và bị
vào sổ đen nên ông đã bị Pháp trục xuất khỏi Da-
lat ngay và đã qua đời trong chiến dịch cải cách
ruộng đất tại Nghệ An.
Người Việt có nhiều tiệm buôn nhưng
riêng rẽ từng gia đình, người Hoa tuy ít tiệm
nhưng họ có một hệ thống trải rộng đến nhiều ấp.
Các chủ tiệm lớn như Vĩnh Chấn, Vĩnh Hòa v...v..
thường giúp đỡ những nhân công giỏi tin cậy lập
những tiệm tạp hóa nhỏ tại các ấp. Những tiệm
này về lấy hàng tại tiệm chính nên tiệm họ ngày
càng phát triển.
Những nghề và sinh hoạt đã thất truyền
Thuở đó vật liệu đắt đỏ nên mọi thứ đều
được sửa chữa để tận dụng làm nảy sinh một số
nghề nghiệp mà nay đã thất truyền. Ngành giặt ủi
phát triển mạnh nhờ Dalat nhiều mưa và nhiều
người Pháp. Áo quần sau khi giặt sạch được
nhúng vào nước có pha bột hồ màu xanh lơ trước
khi phơi. Bàn ủi là một cục sắt độ 10x8 cm dày
khoảng 2cm với mũi nhọn. Tay cầm cũng bằng
sắt. Họ để bốn năm cái bàn ủi trên lò than để luân
phiên sử dụng.
Thợ sửa giày, cặp táp học trò, và cả quai
guốc. Giày cuir, bằng toàn da, là xa xí phẩm nên
nhiều người mang giày đế crêpe, một loại nhựa
cao su rẻ tiền hơn. Họ có cây kim rất đặc biêt.
Mũi kim này vừa nhọn để dùi lỗ, vừa dẹp để cắt da
đế giày và đủ rộng vì lỗ kim phải ở ngay đầu mũi
kim. May đế giày cần hai kim với hai sợi chỉ đã xỏ
sẵn vào lỗ kim. Hai sợi chỉ trên và dưới luôn luôn
nằm trên và dưới. Người thợ đâm mũi kim trên
xuyên qua đế giày, đưa sợi chỉ trên xuống dưới,
dùng kim dưới khơi sợi chỉ trên ngay tại lỗ kim
làm thành một chữ u nhỏ. Sau khi xuyên sợi chỉ
dưới qua chữ u đó, rút kim lên và siết cả hai sợi
chỉ là xong một mũi kim. Chỉ may giày là một
cuộn giây gai được kéo qua lại nhiều lần trên một
cục sáp ong để cho trơn và không thấm nước giữ
chỉ lâu mục. Phụ nữ Dalat mang guốc gỗ. Đường
đá nhiều bùn khi trời mưa guốc ướt trở nên trơn dể
bong quai nên phải nhờ người thợ giày đóng lại.
Thợ sửa nón phớt (feutre) phục hồi lại hình
dáng nón cũ giống như nón nguyên thủy. Nón
phớt là loại nón của người sang trọng bằng nỉ dày
bị biến dạng sau thời gian dài sử dụng. Sau khi
hấp nóng cái nón cũ họ đặt nón vào cái cốt căng
và điều chỉnh độ rộng cốt căng cho vừa với kích
thước nón. Lấy bàn chải lông đuôi ngựa mịn chải
qua lại nhiều lần để làm tơi lông nỉ, xịt một lớp
keo mỏng chờ vài phút cho khô keo, lấy nón ra, ấn
đỉnh nón và hai chỗ cầm nón sâu xuống, vuốt vành
nón phía trước xuống thấp và mép vành nón còn
lại lên cao là xong. Cái cốt căng là một khúc gỗ
tròn độ 17 cm được gọt tròn mép phía trên. Xẻ dọc
khúc gỗ làm hai phần bằng nhau. Mỗi bên được
gắn một bộ phận có ốc và bù loong răng cưa để có
thể di chuyển một bên cốt căng lớn nhỏ theo nhu
cầu.
Thợ mạng sửa những Âu phục bị dán cắn
lủng lỗ, bị rách hay bị mòn mỏng ở mông quần.
Họ có rất nhiều chỉ đủ màu, đủ cỡ để vá lại phần
hư hỏng tuy nhìn kỹ sẽ thấy nhưng đó là cách rẻ
tiền nhất. Thợ mạng âu phục thì dễ hiểu nhưng thợ
vá áo quần thì sao? Thời đó đa số phụ nữ đều biết
may tay nên những ngày mưa dầm là lúc soạn áo
quần rách ra để vá hoặc may lại những nơi rách
hay đứt chỉ. Nhưng vẫn có một sạp thợ vá tại chợ
vì họ có đầy đủ vải vụn mới cũ, đủ kiểu, đủ màu
và có những nơi phụ nữ ở nhà không rành càng vá
càng rách. Khổ vải lúc đó rất hẹp, may quần phải
chắp cho đủ rộng, gọi là quần chân què. Quần cho
con gái nhỏ không phải chắp nên không thành vấn
đề nhưng với một lứa tuổi nào đó chắp thêm một
chút vừa xấu vừa tốn công nên người thợ cứ may
đại. Em nhỏ mặc thoải mái một thời gian rồi một
ngày nào đó tai họa đến với em dở khóc dở cười.
Dalat & Người Xưa Trang 35
Không phải ai cũng biết vá loại này nên đành phải
giao cho thợ vá.
Thợ nhuộm dạo phục hồi màu đen những
quần áo mặc lâu ngày bạc màu hay vá nhiều chỗ.
Thợ hàn dạo giúp giải quyết những nồi đồng bị
lủng, những chậu rửa chén bằng tôn tráng kẻm rỉ
nước. Các nồi nhôm không thể hàn được thì họ
dùng ri vê (rivet) nhôm tán mỏng hy vọng bít kín
lỗ lủng.
Dalat nhiều mưa và gió lạnh, dân thợ
thuyền và buôn bán thường dùng “áo tơi” và nón
lá . Áo tơi là một tấm lá với kích thước lối 1 mét
vuông bằng lá cây chổi đót, rộng bản được gắn
dính lại. Phía trên, lớp lá được xếp mỏng hơn và
được gấp lại như mép vải cho trơn tru và để có
chỗ luồn sợi giây cổ. Khi sợi giây này được kéo và
cột vào cổ thì tấm lá túm tròn lại. Khi sử dụng, gió
hướng nào thì che mưa hướng đó. Áo tơi có hai
cỡ, dài cho nam, ngắn cho nữ. Những người thấp
không muốn ướt quần phải xăn lên cao, khi cất
chân bước đi, mép dưới áo tơi đâm vào bắp chân
đau lắm. Áo tơi phải đi đôi với nón lá để mưa
không làm ướt đầu và áo quần. Khá nhiều bà già
gốc Hoa bó chân nhỏ xíu như chân trẻ con đi lại
khó khăn và bà già Việt răng đen còn sống và có
lẽ đó cũng là thế hệ cuối cùng của phong tục này.
Ấp Tân Lạc đèo heo hút
gió, phương tiện đi lại
khó khăn, tùng tắc biến
nảy sinh nhiều cảnh ngộ
đáng thương. Người
thiếu phụ trẻ gánh rau ra
chợ bán hằng ngày lúc
về đôi quang gánh nhẹ
đong đưa theo gió làm
cô mệt hơn. Cô cần có
vật gì nằng nặng để
thúng khỏi đong đưa, nên gợi ý hàng xóm ai cần
mua gì như vài ba ký gạo chẳng hạn cô mua dùm,
đôi bên đều có lợi. Dần dà người gởi mua khúc cá,
kẻ chai nước mắm, ký thịt, các em học sinh nhờ
mua cuốn tập, cục gôm v..v.. . Có một sản phụ khó
sanh hàng xóm phải luân phiên khiêng cáng chạy
đến nhà có xe ngựa, gần nhà kho bạc, để nhờ đưa
lên nhà thương. Một sản phụ khác ở ấp Nghệ Tĩnh
trên đường đi ra nhà hộ sanh vừa đến dốc chùa thì
sanh rớt, người chồng trẻ chạy về nhà lấy giỏ cần
xé và nhờ người hàng xóm ra khiêng về, lấy mẻ
chai cắt rốn rồi cũng xong. Tiệm của ba tôi có bán
gạo, ông cho một số người lấy gạo đem đi bán
dạo, trả tiền sau khi bán xong, nhưng gạo nặng,
phải đi xa mới bán được đâu có bao nhiêu lời. Ông
cười và gợi ý mướn xe ngựa chở nguyên bao trăm
ký đến xóm rồi từ đó bán lẻ. Người trong xóm vừa
mua được gạo rẻ vừa giúp được người bán hàng.
Cái chân tình của người nghèo giúp nhau
không phải nơi đồng tiền mà là sự an ủi, lời
khuyên can, có khi chỉ một ánh mắt nhìn nhau và
hiểu nhau. Đơn sơ vậy thôi nhưng rất bền vững.
Một nắm khi đói bằng gói khi no. Trên đây chỉ là
vài thí dụ về các sinh hoạt đầy tình người nay
cũng đã thất truyền.
Ăn uống
Tiệm Dân Sinh là một tiệm ăn bình dân rất
đông khách nhưng tôi chỉ được thưởng thức món
xíu mại thôi, tiệm này và Nouveautés Hanoi của
ba tôi, nay là cửa hàng sách. Viên xíu mại nho nhỏ
thơm mùi hành để trong cái chén nhỏ thấp rộng
vành với nước thịt xấp xỉ miệng. Một khúc bánh
mì dài độ 5cm dòn chấm nước thịt, lấy cái muỗng
cà phê tí tẹo bằng nhôm mỏng dính xắn miếng xíu
mại bỏ vào miệng là cả một hạnh phúc lâu lâu mới
được hưởng. Rủ nhau vào tiệm bình dân ngồi ăn là
đi “kéo ghế”. Cơm tiệm Tàu để trong thố sành
một loại chén dày trên to dưới nhỏ _ được hấp
bằng mạt cưa rất rẻ và tiện lợi. Một thùng tôn
tráng kẽm lớn có nắp đậy để trên lò mạt cưa, phía
dưới là nước, lưng chừng là một bửng tre. Trên đó
họ sắp từng tầng thố đựng gạo và nước khi chín
thành cơm. Khi cần cứ việc lấy tuần tự từ trên
xuống đem ra cho thực khách. Lò bọn cưa là một
thùng tôn cao độ 40cm có khoét một lỗ nhỏ ngang
hông, nơi đó để một nhánh cây đến giữa thùng.
Một cây khác để đứng. Họ đổ bọn cưa hơi ẩm vào
thùng nén thật chặt, rút hai khúc gỗ ra và đốt lò từ
lỗ ngang. Lò cháy từ từ đến khi chín cơm. Tại một
Dalat & Người Xưa Trang 36
góc trước của tiệm, chú chệt, ở trần chỉ mặc quần
xà lỏn, vai quấn một cái khăn lông cũ ngồi trên
một cái đòn gỗ nhỏ rang cà phê. Thùng này bằng
tôn có hai chân chống hai đầu. Phía trên có một lỗ
hình chữ nhật, có một nắp được kéo tới kéo lui để
đóng mở lỗ này. Dưới thùng là một lò than thấp
dài bằng đất nung nóng hực. Ông nắm cái tay cầm
của thùng rang cà phê chầm chậm quay. Khi cà
phê gần chín, ông ấy bỏ vào một cục bơ nhỏ xíu
và tiếp tục quay thêm độ chục vòng. Cà phê chín
được đổ ra một cái bao bố rộng, ông phun vài
ngụm rượu làm mùi cà phê bốc lên thơm quá là
thơm, rồi lật đật lấy bao bố quấn kín lại.
Đường lên chợ Hòa Bình với hai hàng mai do ông Nguyễn
thái Hiến trồng khoảng sau 1930 là cảnh mà nhạc sĩ Hoàng
Nguyên diễn tả trong bài Ai lên xứ hoa đào
Tiệm Tàu thường bán hủ tiếu nhưng trong
chợ người Việt thường ngồi ăn bún bò Huế hay mì
Quảng vừa rẻ vừa nhớ hương vị quê hương. Bún,
mì, hủ tiếu lúc đó đều được lò bà Đắc ở Xuân An
cung cấp. Các tô mì bún hủ tiếu phở đều là tô chiết
yêu, đít nhỏ lưng chừng nửa chiều cao thì miệng
loe rộng ra. Phía gần hàng thịt có một xe hủ tiếu
trang hoàng đặc biệt với hình những bà tiên, ông
tiên màu sắc rực rỡ trên khung kiếng và có ghế
ngồi bằng sắt xếp. Dưới đường Cầu Quẹo có một
hàng phở gánh bán dạo ban đêm khá đặc biệt. Hai
đầu là hai thùng gỗ cao, đòn gánh gắn chết vào
trên đầu thùng. Trong thùng gỗ và đặt trên lò than
là thùng phở. Thùng được chia làm hai, một bên là
nước nóng trụng phở, một bên là nước dùng. Đầu
kia là chậu nước rửa tô, thịt, bún v..v..
Dalat học.
Như đã ghi trên, Dalat có nhiều đặc biệt
mà các tỉnh khác không có, do đó ta cũng nên có
môn _ như Hà Nội học, hoặc Việt Nam học tại Đại
Học Houston của Tiến Sĩ Lê sĩ Việt Long _ để
nghiên cứu những ưu khuyết điểm và tận dụng
những tiềm năng trong tương lai và sưu tầm những
nếp sinh hoạt của thuở Dalat còn sơ khai. Đối với
Việt Nam, bảy tám chục năm trước chẳng phải là
xưa nhưng với Dalat là cổ xưa rồi vì là nguồn gốc
của thành phố. Dalat đang được nhiều quốc gia
tiên tiến tham gia đầu tư phát triển thành một
thành phố xanh và hình như sẽ nhờ Pháp lập bản
đồ quy hoạch phát triển, môn Dalat học lại càng
quan trọng hơn vì các KTS Pháp có thể không
hiểu hết phong tục, văn hóa của Việt Nam.
Ngạn ngữ có câu anh hùng tạo thời thế và
thời thế tạo anh hùng. Việt Nam ta có những
người tạo được nhiều thành tích qua du học ở
Pháp thì Dalat với môi trường đặc biệt về xây cất
dinh thự mà tôi gọi là “trung tâm du học nội địa”
cũng đã đào tạo một số nhân tài. Những người tiền
phương ít học không chuyên môn là nguồn nhân
lực duy nhất đương thời nên các nhà thầu Pháp bắt
buộc phải huấn luyện kỹ càng từ lý thuyết đến
thực hành tất cả mọi công đoạn. Họ được rèn
luyện trong những công tác quan trọng qua hơn
hai chục năm chắn hẵn tay nghề của họ không thể
thua kém những thợ thuyền tự học tại các đô thị
lớn của Việt Nam. Tiếc thay, qua vụ tản cư năm
1945, lực lượng này được phân tán mỏng trong
những tỉnh miền Trung nghèo đói nên mất hết
tiềm năng. Nếu lực lượng này được dịp thi thố khả
năng một cách tập trung tại Saigon trong thời kỳ
Đệ Nhất Đệ Nhị Cọng Hòa chúng ta đã
a) bớt trọng bằng cấp cao mà biết trọng
vọng giới thợ chuyên môn trung cấp như các quốc
gia lân cận
b) phát huy được một nền tiểu thủ công
nghiệp như người Hoa ở Chợ Lớn do thành phần
thợ thuyền thành chủ nhân cơ xưởng nhỏ.
Phong cảnh Dalat xưa.
Dalat & Người Xưa Trang 37
Dalat, xứ của ngàn thông, với một không
gian thoáng rộng đầy những đồi thấp nhấp nhô
tròn trịa thật quyến rũ và duyên dáng, với những
đường sá uốn lượn vòng vèo theo độ dốc rồi bất
thình lình sau khúc quanh một cảnh trí khác rất bắt
mắt không thể quên thấp thoáng qua đồi thông.
Thuở đó Dalat còn lạnh nhiều, hơi ẩm cao nên mới
có biệt danh xứ của sương mù. Những giáo viên
có nhà ở cư xá giáo viên gần rạp Eden có cái thú
ngồi trong nhà nhìn sương mù lung linh từ từ bốc
lên từ mặt hồ Xuân Hương hoặc phảng phất bay
theo gió che phủ đồi sân Cù, hoặc có khi chỉ thấy
tháp trường Yersin nổi bật trong đám mù trắng
dày đặc.
Tôi không có dịp thưởng thức nhưng đã
nghe được một nhóm học sinh kể, tại sân trường
Yersin, là đi dạo dưới rừng thông gặp ngày lộng
gió nghe tiếng thông reo réo rắt rất vui đời, nhưng
gặp lúc trời mưa lá thông ướt tiếng reo chuyển
thành rên rỉ buồn thảm.
Các đồi Dalat trơ trụi với cỏ thấp màu xam
xám quanh năm hay với cỏ tranh màu xanh mạ
non cao cả thước, uốn mình như sóng lượn thướt
tha óng ánh tuyệt đẹp trong những ngày nắng ráo
lộng gió ngắm hoài không thấy chán. Nên có
người khen Dalat như người con gái đẹp thơ ngây,
hồn nhiên, mộc mạc không son phấn nhưng đầy
quyến rũ. Những cơn gió nhẹ mơn trớn làn da của
khách nhàn du như những vuốt ve ấm áp của
người con gái Dalat thùy mị dễ thương hoặc như
những vỗ về êm dịu của người mẹ ru con ngủ làm
tăng sự quyến luyến Dalat. Ngoài những con
đường đầy bông mai hồng tím nhạt, qua bài Ai lên
xứ Anh Đào của nhạc sĩ Hoàng Nguyên, không
bao lâu nữa hy vọng ta sẽ có mùa lễ bông mai anh
đào vì chánh quyền Dalat đang phục hồi loại bông
bản địa này.
Trên đây là cái nhìn phong cảnh Dalat của
những người không phải là dân Dalat. Dân Dalat
xưa không có tiền, không có thì giờ, không có
điều kiện để thưởng thức những thơ mộng đó, mà
nhìn chúng một cách hướng thiện hơn. Sống trong
thành phố có nhiều trường tốt ai ai cũng mong con
cái được học hành tốt. Một người phu quét chợ đã
tâm sự với tôi “cứ nhìn tháp trường Yersin để
thầm ước mong và phấn đấu để thằng T. thi đậu
vào đó vì được học miễn phí và có tương lai như
anh”. Nhiều cha mẹ khác cũng nghĩ như vậy đó là
“nơi duy nhất có hy vọng để tiến thân”. Nhiều phụ
huynh khác khuyên con cháu là khi nhìn xuyên
qua những dãy thông thưa hay rừng thông dày đều
thấy được những nhà cách cả cây số để dạy cho
chúng biết phải làm điều tốt tránh điều xấu vì ai ai
cũng sẽ thấy những gì ta làm. Có người cho biết
thầy dạy chữ nho trường nhà nước, trước kia là
Bang tá, dùng “cây thông đơn độc sừng sững nổi
bật giữa đồi” là kim chỉ nam cho người Dalat phấn
đấu. Lúc đó là buổi giao thời giữa Á Âu sống
trong thành phố với văn hóa Pháp, có thể nhiều
phụ huynh gốc Huế có nho học, bảo thủ, trọng
người quân tử, và chịu ảnh hưởng của tranh Tàu
đã nhìn cây thông Dalat theo hướng đó. Ngược lại
ba tôi cực lực chống các trò chơi leo cột mỡ và
liếm chảo và muốn hướng dẫn bà con nêu cao tinh
thần dân tộc, nhưng tôi chỉ thường nghe ông
khuyên vô học bất tri lý hay ấu bất học lão hàn
vi.Phải chăng do tính ông thực tế quá nên không
chấp nhận cái tinh thần trừu tượng này. Nhớ lại
lần đầu tiên về Việt Nam, chúng tôi mướn một
taxi đi thăm bà con và ngồi trên xe nhắc lại cảnh
và chuyện Dalat xưa. Khi bảo cho xe đi vào Tân
Lạc, người tài xế buột hỏi;
Phải anh là anh Bác không?
Sao chú biết?
Dalat & Người Xưa Trang 38
Trời ơi thần tượng của chúng em mà. Năm
chục năm không gặp, nghe anh chị nói chuyện em
đã đoán là anh chị nên khi anh bảo về Tân Lạc em
biết ngay mà. Cả Xuân An và Tân Lạc ai mà
không biết anh. Tôi vẫn biết là nhiều người
thương quý tôi nhưng đâu có ngờ được như vậy và
cười thầm nhớ lại bản thân mình đã dùng cái hình
ảnh đôi mắt ngựa làm kim chỉ nam để ráng mà đi
học. Và từ đó an tâm xem cây thông già hay cụm
thông bất kể non già là một biểu tượng của quyết
tâm hướng thượng một cách trong sáng của khá
nhiều người Dalat. Dalat lúc đó còn ít người lắm,
biết nhau khá nhiều nên những biểu tượng trên lan
truyền dễ dàng.
NGƯỜI DALAT XƯA
Người bản địa
Pháp gọi là Mọi trước
1945 hoặc là Montagnard
(người Thượng) sau 1945. Họ là
người Lạch nên nhiều địa danh
có nguồn gốc Lạch như Cam Ly
từ Kơ
M’ly,
Ankroet
từ
R’Hang
Kroet,
Prenn,
nhưng
vào thời đó dân Dalat
không biết rõ nguồn gốc
phong
tục của họ mà thường gọi họ
là Mọi cà răng căng tai qua sự
mua bán trao đổi hàng hóa
thôi. Họ dùng đá cà bằng hết
cả hai hàm răng và dùng các
khoanh tre lớn nhỏ nong lỗ tai
cho lớn dần ra. Họ chân thật
và chưa biết giá trị tiền, được
trả tiền mới tinh thì rất thích
và món gì cũng bán từng bó
với cùng một giá. Họ đựng những vật phẩm của
núi rừng như heo gà, cây lan rừng, mật gấu, cung
tên v..v.. trong cái gùi để đổi muối với người Việt.
Gùi là một cái giỏ bằng mây, hình tròn dưới nhỏ
trên to, cao chừng năm sáu tấc có quai để mang
vào vai. Họ luôn vác trên vai cái xà gạc _ một vật
dụng vừa dùng để chặt cây vừa là vũ khí phòng
thân _ gồm một thân tre rừng nhỏ nhưng rất chắc
dài khoảng 1m với gốc uốn gần 90 độ. Nơi đó
được gắn một lưỡi thép dày. Những khi phải mang
gùi nặng và muốn dừng chân nghỉ mà không
muốn đặt gùi xuống đất, họ dùng xà gạc chống gùi
và đứng nghỉ. Đàn ông thường ở trần, quấn khố, đi
chân đất. Đàn bà cũng ở trần quấn một miếng vải
làm váy, mang con nhỏ sau lưng hoặc gùi chứa
đầy vật dụng. Họ theo chế độ mẫu hệ, nên bắt
chồng qua đám cưới. Sính lễ là mấy con heo hay
trâu bò. Đàn ông lẫn đàn bà đều hút thuốc bằng
ống tre có hình dạng giống như điếu pipe của
người Pháp. Ít người biết tiếng Việt và thường bị
lừa nên họ thường ra chợ theo từng đoàn dưới sự
hướng dẫn của người Phó lý nói tiếng Việt khá
rành rõi. Đầu thập niên 50, ngành trồng rau phát
triển mạnh họ cũng đã biết tổ chức thành nhóm đi
lãnh khoán công tác làm đất vườn mới cho người
Việt. Họ cũng có trường học riêng (1947) và có
một số ít cũng được học tại Grand Lycée. Điều mà
nhiều người Dalat, kể cả tôi, không biết là sự đóng
góp công sức và xương máu của họ trong việc
thiết lâp tuyến đường xe lửa Tháp Chàm Dalat. Ta
đã thấy công sức qua các tấm hình nhưng về
xương máu thì vì họ chết về sốt rét ngã nước quá
nhiều đến nỗi có nhiều nhóm dân Pháp yêu cầu
ngưng công tác này. Nhưng đường xe lửa là công
trình then chốt nên vẫn được tiến hành.
Dalat & Người Xưa Trang 39
Người Việt Dalat xưa.
Dân chúng Dalat lúc đó có 3 thành phần.
Người Pháp có quan niệm chỉ khai sáng dân ta tới
mức độ để sử dụng thôi. Người Việt thượng lưu
gồm gia đình các công chức và thương nhân có
học vấn cỡ bằng tiểu học nhưng khá am tường
tiếng Pháp thấy đây là nơi đất lành chim đậu. Cuối
cùng là thành phần quan trọng và là đa số gồm các
tù nhân và người tha phương cầu thực. Họ phần
nhiều mù chữ hoặc biết chút ít Việt ngữ, được đưa
lên hoặc từ tìm đường lên để khai sơn phá thạch
xây dựng Dalat. Họ kính nể các công chức “nói
tiếng Tây như gió” và gọi giới này là quan hay
thầy. Người Dalat có một sắc thái riêng biệt vì họ
là một tập hợp những người nghèo đến từ nhiều
tỉnh và điều kiện lập nghiệp thuở ban đầu có nhiều
gian truân khắc khổ khác hẳn các nơi khác. Những
người tha phương cầu thực các nơi khác có thể tìm
việc dễ dàng và được sống chung đụng với những
người đã an cư lạc nghiệp tại những miền với khí
hậu ấm áp.
Đa số dân Dalat gốc: người Nam-Ngãi
Bình-Phú cần cù chịu khó, (cùng với người Mọi
bản địa) làm tất cả những công việc nặng nhọc
trong công tác thiết lập các Quốc Lộ và đường xe
lửa. Người có tay nghề sơ sơ rồi thành người làm
la tách (à la tâche). Một dấu hiệu cho biết là thợ
thuyền cũ có nhà gạch, người mới đến là nhà gỗ;
người Huế có trình độ học vấn hơn, chịu ảnh
hưởng lễ nghi cung đình từ trang phục đến cách
xử thế; người Nghệ An vào làm phu lục lộ và
trồng rau Dalat; người Hà Tĩnh làm bồi bếp cho
các nhà hàng, khách sạn và tư gia Pháp trước khi
chuyển qua ngành trồng rau Dalat; người Hoa
chuyên về thương mại và người miền Nam rất ít.
Người lên Dalat trước năm 1920 đã sống
ra sao giữa một vùng rừng núi xa lạ đèo heo hút
gió, với khí hậu lạnh buốt, đầy thú dữ, thiếu thốn
mọi thứ, bệnh tật nan y, thịt bủng da chì với bao
nỗi lo sợ chắc chắn bây giờ không ai có thể tưởng
tượng được. Từ năm 1932 nhờ đường xe lửa sự đi
lại dễ dàng hơn dân số tăng nhanh. Tuy lên Dalat
lẻ tẻ nhưng người mỗi địa phương cố sống đùm
bọc nhau, tương trợ nhau trên vùng đất mới và cố
giữ lấy các tập tục của quê nhà. Khí hậu trong lành
mát mẽ, đất rộng người thưa, và công việc nhiều
đã tạo ra con người thanh thản, không ganh đua
kèn cựa mà cùng nhau tìm mọi cách để tiến thân.
Do đó bản tính họ cởi mở, sốt sắng, mến khách,
trang nhã và hiền hòa trong một xã hội an lành nên
dân chúng có thể băng đồi lội suối đi từ ấp này
qua ấp khác an toàn ngày cũng như đêm. Thường
xuyên tiếp xúc với người Pháp, _ có văn hóa lịch
sự không như các lính tráng vũ phu _ với nền văn
minh mới và một hệ thống trường học tốt, họ học
được nhiều kỹ thuật mới, cách xử thế mới, nên sự
lẫn lộn các từ Pháp Việt trong ngôn từ là điều
không thể tránh được.
Nhìn thoáng qua quả đúng như vậy, nhưng
trong thực tế họ phải trải qua trăm đắng nghìn cay
mới tạo được sự nghiệp hiện hữu. Có người cho
rằng qua ảnh hưởng cuộc sống đầy lễ nghi của
triều đình Huế, các phụ nữ ra khỏi nhà, dù là để đi
bán hàng rong giữa nắng mưa hay ra ngồi bán
hàng trong lồng chợ, đều đội nón lá và mặc áo dài
dù đã bạc màu hay vá chằng chịt. Thật sự Dalat
lạnh họ cần mặc ấm với chiếc áo len bên ngoài mà
đa số đều biết đan. Người phụ nữ thời đó chưa biết
giá trị của mấy vòng tiêu biểu. Có biết chăng là cái
thắt đáy lưng ong, nhưng với chiếc áo len dày
cộm, đã thành thô kệch như thùng tô nô (toneau
đựng rượu chát) hay bao gạo chỉ xanh. Do đó nét
quyến rũ của họ chỉ còn nhờ nơi mái tóc đen,
thơm mùi chanh hay bồ kết _
dài quá vai tỏa rộng
Dalat & Người Xưa Trang 40
trên chiếc áo len màu xanh dương đậm (nữ sinh),
kẹp gọn sau lưng (chưa chồng), bối với cụm tóc
thấp thả lỏng trên lưng (đã có chồng) bối gọn với
khăn len trùm đầu (người lớn tuổi) - làn da mịn,
đôi má không son phấn nhưng luôn ửng hồng,
nhất là những ngày sương gió lành lạnh mùa
Giáng Sinh. Nhưng mấy ai biết được cái đẹp dễ
thương, cái e thẹn của duyên ngầm tiềm tàng trong
ngôn từ thùy mỵ, trong trang phục thanh nhã,
trong đối xử dịu dàng của cái nết đánh chết cái
đẹp của họ có một nguồn gốc khá đau thương. Da-
lat tuy không có nhiều sinh hoạt văn nghệ nhưng
cha mẹ nào cũng lưu tâm chặt chẽ và khuyên con
gái nghèo cho sạch rách cho thơm, hoặc giấy rách
cũng giữ lấy lề 3 để giữ thanh danh cho gia đình và
lo sợ con gái thành hũ mắm thúi trong nhà. Gia
đình nào cũng đông con, may thì không được vì
không có máy may và không biết nghề, nhưng đan
áo len, làm bánh trái cho em út là nghề của các
nàng vừa tiết kiệm vừa tạo niềm vui cho em út và
cha mẹ. Tôi không dám nói họ đầy đủ công dung
ngôn hạnh của các tiểu thư đài các mà đều là
người phụ nữ đảm đang. Những gia đình nghèo
hoặc trung lưu gặp lúc khó khăn, với truyền thống
trọng nam khinh nữ, con gái ở nhà giữ em, phụ
giúp việc nhà hay đi ở đợ là điều tủi thân nhất đối
với họ: sống trong thành phố có nền học vấn chỉ
thua Saigon và Hanoi mà lại thất học. Con gái
muốn tiếp tục lên trung học phải vào Couvent des
Oiseaux hoặc ra Huế, nào là đồng phục nơi ăn
chốn ở, đâu mấy ai đi được. Mãi đến đầu thập niên
50 mới có trường trung học và từ đó họ mới tranh
đua ngang ngữa cùng các nơi khác được. Mỗi thứ
một chút đã tạo nên phẩm cách riêng của con gái
Dalat.
Nhờ được đưa lên Domaine de Marie học
thêu từ thuở nhỏ nên họ có những quà đặc biệt
tặng người yêu: áo len tự mình đan hoặc chiếc
khăn tay thêu với 4 đường rút rua, một kiểu trang
trí khăn của Pháp đẹp, lạ, thanh nhã. Rút rua là rút
bớt hai hàng chỉ cách mép khăn vài cm tại mỗi
3 Thuở đó phương tiện truyền thông và báo chí hiếm dân
chúng ít học nên phương tiện giáo dục dân chúng phổ thông
nhất là truyền bá các câu châm ngôn mà tôi dùng hơi nhiều
để muốn nói lên một sinh hoạt đương thời.
cạnh khăn trước khi gấp mép. Khi biết anh ấy sắp
bị đi lính, bà kể: ra chợ mua cái khăn mù soa chưa
may về thêu để tặng anh ấy làm kỷ niệm. Mua về
rồi mới nhớ làm sao mà thêu, mấy đứa em hay bà
già mà thấy được thì nguy. Phải trốn nhà hoặc nói
dối qua bạn rồi lên đồi trường Domaine ngồi thêu,
khi thì buổi trưa khi sáng khi chiều. Trước khi đi
phải rửa tay thật sạch và luôn luôn có cái khăn cũ
để lau mồ hôi tay. Chiếc khăn có bốn đường rua,
thêu xung quanh ban đầu còn đẹp nhưng lâu quá
nên phải thêu ẩu xấu quá nhưng đành chịu. Nơi
góc, tên hai đứa quấn vào nhau. Thêu gần xong
mới nghĩ làm sao đưa. Hai đứa quen nhau nhưng
mỗi lần gặp nhau toàn nói chuyện trên trời dưới
đất chứ có dám nói chuyện thương yêu gì đâu.
Biết nói gì đây, ngượng chết mồ, gặp nhau ở đâu?
Nghĩ mãi mà chẳng dám hỏi ai. Sau cùng chọn cửa
nhà thờ Tin Lành. Theo kế hoạch mình tới trước
chờ. Khi thấy ảnh lên, mình cầm gói khăn, làm
dấu tặng ảnh, bỏ xuống đất rồi bỏ chạy về. Kiểm
tra địa điểm đàng hoàng. Đến ngày hẹn mình đi
sớm hơn giờ hẹn. Ảnh cũng đi sớm nên vừa đến
nơi thấy ảnh cũng đang lên dốc Mặt mình nóng
rần rần, tim đập thình thịch, miệng thở hồng hộc
người run, rùng mình liên hồi, mắt nổ đôm đốm,
nên ảnh, chạy đến lúc nào chẳng biết, chụp nhẹ hai
cườm tay mình. Hoảng quá mình giựt mạnh tay,
gói khăn rớt xuống đất, rồi quay đầu chạy không
dám ngoảnh cổ lại. Hú vía. Nét mặt tươi cười bà
lão bảo thật không có cái dại nào giống nhau,
nhưng dù sao đó là kỷ niệm đẹp nhất đời con gái.
Đường Annam (Hàm Nghi) chụp từ nhà thờ Tin Lành, nơi
đường cua trái có thể thấy đầu dốc xuống đường Cầu Quẹo
Dalat & Người Xưa Trang 41
Sau này ảnh kể lại, nhát quá đâu dám mở
miệng nói gì. Khi bị kêu đi lính sợ đi xa, ở nhà cô
ấy đâu có biết mình thương thầm, thương người
khác thì sao, nên tính tìm cách tỏ tình thì được cô
ta hẹn gặp. Mừng quá nhất định kỳ này phải nắm
tay rồi hai đứa cùng thề thương nhau. Vừa mới
nắm được tay thì nàng bỏ chạy, chạy theo thì sợ ai
đó lấy mất cái gói. Mở ra thấy chiếc mùi soa với
tên hai đứa tréo nhau mừng quá. Thì ra cô ta cũng
thương mình. Cái khăn mềm mại màu xanh lơ
đẹp ơi là đẹp. Úp khăn lên mặt, mùi tay con gái
thơm muốn hít hoài, khăn mềm mại vuốt mãi
sướng tay quá. Quà này còn hơn lời thề, rồi tung
tăng về nhà. Sực nhớ phải dấu kín, mấy đứa em
mà biết được, mẹ biết thì nguy. Để chiếc khăn
trong túi quần tay mân mê chiếc khăn mềm mại
mà tưởng tượng là da cổ tay của người tình. Cái
mùi soa đặc biệt này được các đồng đội loan đi
làm ảnh phổng mũi bảo đây là kiểu mùi soa của
Pháp chỉ có con gái học trường đầm ở Dalat mới
biết làm các đường rua này. Anh lính nào có
những quà này mà không khoe đồng đội, nhờ đó
mà những người chưa đến Dalat cũng đã nghe
tiếng thơm. Hữu xạ tự nhiên hương mà.
Không thể biết hết các gian truân của họ
nên sau đây tôi xin ghi sơ lược những gì tôi biết về
mỗi trường hợp. Một thanh niên Nghệ An hiếu
học thường kéo tro bếp ra để tập viết, bạn bè trêu
chọc “cố học đi khi thi đỗ được phong là Trạng
Bếp”. Anh vẫn kiên trì học và đã đạt được ước
mơ: viết thơ về thăm cha mẹ. Tại ấp Xuân An một
góa phụ người Huế, chồng làm chủ sự bưu điện,
hiền lành nụ cười luôn nở trên môi ăn nói dịu dàng
nên dân chúng thân thương gọi là Cô Chủ, bán
quán tạp hóa nuôi sáu con thành tài với một người
là bác sĩ. Ông Lai làm phụ thợ điện cho rạp Eden,
rồi qua bao nghề khác trước khi thành một trong
những chủ xe vận tải đầu tiên và cuối cùng là chủ
tiệm Hồng Ngọc đường Minh Mạng. Tôi thật sự
khâm phục và không thể quên được hình ảnh một
người đàn bà _ có hiểu biết về bê tông cốt sắt vào
thời điểm đó đứng trên sân thượng cheo leo cao
gần 50 mét đối với đường Cầu Quẹo _ để theo dõi
và kiểm soát các thợ thuyền đúc sàn lầu cho nhà
bà. Ông (tôi không biết tên) xuất thân làm công,
và trở thành chủ tiệm sơn Hiệp Hưng đầy uy tín,
đường Phan đình Phùng. Cô Sen, tên được gọi khi
đi chích dạo ngày nào, đã sang lại tiệm vàng Alfa-
na Bijoux, lớn nhất Dalat thời 1945.
Đa số người Huế vào, chồng làm thầy
giáo, công chức v…v.. vợ buôn bán ngoài chợ.
Đàn trẻ thơ loi choi của trường “ nhà nước” ngày
nào bây giờ còn nhớ cả cá tính riêng của mỗi
thầy, mỗi cô buôn bán gì tại đâu trong lồng chợ.
Với gương mặt đầy nếp nhăn nhưng vui tươi bà đã
kể “không thể nào quên được những thầy Trình,
Trúc, Phỉ, các cô Lệ, Lộc v…v. khả kính đầy từ
tâm đã khai phóng họ cả về trí lẫn đức. Ông Sách,
không rõ chức vụ nhưng dân chúng gọi chủ kho
bạc vì thường nhận tiền từ ông ấy. Ông Nguyễn
tăng Diên, đại diện hãng máy bay Cosara, đã mua
lại hãng bán đồ cơ khí Poinsard et Véyret của
Pháp và có con làm cho Liên Hiệp Quốc vào năm
1975.
Trường Yersin, với khu nội trú cho học sinh toàn cõi
Đông Dương, nhìn xuống Hồ Xuân Hương với nước
trong xanh, nay là di tích lịch sử quốc gia và là trường
đẹp nhất Đông Nam Á
Nói về công chức Dalat không thể không
nhắc ông Nguyễn đức Thận, người Hà Tĩnh, một
cây đại thụ vì ông đã phục vụ thành phố Dalat từ
thời Dalat mới được khai sanh, được Pháp chuyển
qua làm việc ở Nouvelle Calédonie, thuộc địa thứ
hai của Pháp gần Úc Châu, trở về Dalat, khoảng
cuối thập niên 40, với chức vụ Chánh Văn Phòng
qua các triều đại của chánh phủ VNCH. Ông nghỉ
hưu năm 1972 và sau 1975 vẫn được chánh quyền
Dalat tham khảo ý kiến những khi cần thiết. Tôi
Dalat & Người Xưa Trang 42
chỉ biết ghi ông là một công chức danh cao đức
trọng được mọi người kính nể và ngưỡng mộ qua
những giai đoạn thăng trầm của Dalat mà chắc
chắn là văn khố Dalat không thiếu chi tiết về ông.
Ông Tô thế Lộc, có âu học, đi buôn bán
nhiều nơi, nghe tiếng Dalat nên tìm đường lên lập
nghiệp. Thấy Sở Trà Cầu Đất đang phát triển và
khí hậu mát mẽ ông định cư tại đó. Vừa có vốn lại
biết tiếng Pháp nên ông được nhiều người nể nang
nhất là từ khi ông Trương tiến Đức, người Quảng
Bình, làm kế toán Sở Trà thành rể ông. Hai cha
con cùng 10 người khác đứng ra xin thành lập
làng Trường Xuân (1929). Chẳng bao lâu ông Đức
trở thành Kế toán Trưởng Sở trà Cầu Đất và là
người Việt duy nhất được ở trong khu cư xá của
Pháp. Trong phòng khách của ông có một bức
hoành phi với bốn chữ Hán bằng gỗ sơn son thếp
vàng mà ông rất quý. Trong các giấy tờ người
Pháp thường ghi “Mr. Truong tien Duc dit Trap”.
Tuy có Âu học nhưng trong các ngày lễ lạt ông
thường mặc áo dài khăn đóng với bài ngà nên dân
chúng xưng là cụ Nghè Trấp. Nhờ uy tín đó ông
đã về quê dẫn một số bà con có học vào làm kế
toán, cai công trường cai thợ máy v…v…Ông
đùm bọc gia đình họ từ vật chất đến hướng dẫn
con cái họ vào Yersin trong tình thương của người
anh ruột. Ông là người đóng góp nhiều công đức
cho sự thành lập và phát triển Phật giáo tại Cầu
Đất. Ông thường mời các đoàn hát bội, cải lương
về trình diễn tại Cầu Đất và cầm phách khen
thưởng. Năm 1945 gia đình tản cư về Phan Thiết
và bao sự nghiệp tan tành đến nỗi con út ông Đức
tên Huân _ còn nhỏ quá không biết nguyên nhân _
phảỉ trải qua bao sóng gió đẩy đưa như cụm lục
bình trôi sông mới tiếp tục học thành kỹ sư công
nghệ như trong đoạn dưới đây. Trong ba niên khóa
từ 1959 đến 1961, Dalat có năm sinh viên gốc Da-
lat Hai, Ngọc, Huân, Minh, và Sơn là những sinh
viền đầu tiên gốc Dalat vào Trung Tâm Kỹ Thuật
Phú Thọ mỗi người một cảnh khác nhau. Ngọc
con một một góa phụ, đồng khóa với tôi, phải vừa
làm gia sư vừa dạy toán đệ nhất cấp trường tư
thục. Minh, anh cả một gia đình 6 người em, cha
là nhân viên Hỏa xa, mẹ buôn bán trong chợ, vừa
làm thơ ký Kho Bạc vừa học hàm thụ sau khi có
BEPC. Anh cùng một nữ nhân viên, người Nha
Trang, được sở cấp cho một gian với 2 phòng nhỏ
và một phòng khách trong khuôn viên sở. Thông
minh lanh lợi ngoài sự góp gạo nấu cơm chung và
nhờ gia đình Phật tử chị gặp anh Huân, từ Nha
Trang lên, mới đậu vào lớp Second trường Yer-
sin. Chị thuyết phục anh Huân về ở trọ chung,
được ăn miễn phí để giúp anh Minh học. Anh
Huân đồng ý và dùng phòng khách làm nơi cư trú.
Một năm sau nhờ hiểu rõ quy chế dự thính viên
(auditeur libre) của trường Yersin, Huân đề nghị
Minh xin sở cho đi học dự thính các môn quan
trọng. Hiểu hoàn cảnh và tinh thần phấn đấu của
ba người, và nhờ Trưởng kho bạc, người Pháp,
can thiệp anh được trường Yersin chấp thuận. Sau
mấy năm cố gắng Minh đậu vào Phú Thọ. Ra
trường anh xin về phục vụ ngành hỏa xa tại Nha
Trang quê vợ và nhờ đó cha anh mới nuôi nổi đàn
con hiếu học. Sau này anh là Trưởng Khu Hỏa Xa
với nhiều đóng góp cho ngành này. Người nữ thơ
ký năm xưa, chủ một trường mẫu giáo nổi tiếng ở
Nha Trang, thấy cha chồng vẫn hằng ngày quét
sân trường thường nhắc nhở đừng làm vậy mất thể
diện của con cái nhưng ông vẫn làm. Sơn em ruột
Minh đậu sau anh một khóa. Huân sau khi đậu tú
tài II vì hoàn cảnh khó khăn của gia đình, anh
đành về dạy Toán Lý Hóa cho trường Bồ Đề theo
sự năn nỉ của ông Tỉnh Trưởng Bình Thuận đương
thời. Ông Tỉnh Trưởng muốn tìm một thầy có uy
tín để thu hút học sinh cạnh tranh với trường Công
giáo. Một năm sau, khi vào Saigon mua vật dụng
cho trường, tình cờ anh thấy bảng niêm yết tuyển
sinh trường Kỹ sư Công Nghệ. Vào hỏi thủ tục
anh được một người Pháp phỏng vấn và biết là
học sinh cũ Yersin nên nhận anh ngay khỏi thi.
Bốn năm sau anh ra trường kỹ sư Công Nghệ khóa
2 năm 1961. Ông Trần văn Diếu, phụ tá trưởng
phòng phân phối điện nhà đèn Saigon, được
chuyển lên Dalat, tự học và làm thêm về sửa điện
xe hơi. Trong khi phụ trách bảo trì về điện và máy
lạnh cho các công sở (viện Pasteur, nhà thương,
Lycée Yersin) và nhà hàng ăn của Pháp ông cảm
nhận thấy sự thích thú về máy lạnh nên để ý tìm
hiểu thêm. Ông nghĩ điện thì nóng sao lại làm lạnh
được, và Dalat lạnh không mấy ai làm ngành này
nếu mình học được thì nhất nghệ tinh nhất thân
Dalat & Người Xưa Trang 43
vinh. Khi người con trai vào được Yersin ông
khuyến khích con tìm hiểu thêm. Người con, Trần
văn Giáo, cố gắng học hàm thụ ngành điện lạnh
với một trường bên Pháp và ông đã mãn nguyện
khi con đã có một tiệm về máy lạnh ở đường Tăng
bạt Hổ, Dalat.
Cháu Trần văn Sang và MC
Nguyễn cao Kỳ Duyên trong
một show triễn lãm sản phẩm
của Gulfstream tại Las Végas
Gia đình anh Giáo định
cư tại Canada làm đủ
nghề, có một người làm
cho hãng sản xuất bồn
tắm bằng fiberglass.
Người em, có vợ làm
nail, mới gợi ý với anh
làm bồn rửa chân ngành
nail bằng fiberglass. Đó
là bồn rửa chân đầu tiên
của hãng Gulfstream, do
một người Canada gốc Việt, sáng chế vào giữa
năm 1998. Tiếc rằng gia đình không biết quyền lợi
của sáng chế này nên không xin bằng sáng chế nên
các hãng khác bắt chước làm. Hiện nay hãng
Gulfstream với doanh thu trung bình khoảng
$US10 triệu/năm và sử dụng khoảng 45 người từ
kỹ sư đến nhân công. Các mặt hàng của
Gulfstream nay dùng loại acrylic bóng láng hơn,
không phai màu với các hóa chất, đã tràn ngập các
tiệm nail trên nhiều quốc gia. Cháu Trần văn
Sang, chủ hãng Gulfstream thuộc thế hệ thứ ba,
thành công nơi đất khách nhờ noi gương cần cù,
tìm tòi, học hỏi và dám nghĩ dám làm của ông nội:
người công nhân nhà đèn Dalat xưa. Gần đây tôi
cũng biết một số cháu nhỏ _ thuộc thế hệ thứ ba
của nhóm phu lục lộ Nghệ An _ đã thành kiến trúc
sư, kỹ sư từ Đại Học Saigon. Chắc hẵn còn nhiều
người khác nữa có trường hợp tương tự mà tôi
không biết.
Tưởng cũng cần kể một số thuộc thành
phần kháng chiến chống Pháp _ lúc đó chưa phân
biệt trắng đen mọi người đều đơn thuần cho rằng
vào chiến khu là chống Pháp. Bà, làm vườn tại Đất
Làng Cầu Đất, sinh hoạt kín đáo không lộ diện
năm 1945, mãi về sau mới biết bà thuộc thành
phần Sô Viết Nghệ Tĩnh 30, mới mất năm 2005.
Một chị, cùng trang lứa với chị tôi, bán hàng cho
tiệm ba tôi và bốn nam tráng niên tính tình vui vẻ,
siêng năng, cần mẫn làm công cho vài chủ vườn
tại ấp Nghệ Tĩnh trong 3-4 năm, tới 1945 mới biết
cả 6 người trong đó có ông Nguyễn thế Tính đều
là Việt Minh. Năm 1949 một số thanh niên nam
nữ Dalat đủ mọi thành phần: thợ thuyền, làm
vườn, buôn bán kể cả học sinh Yersin đã xếp bút
nghiên lên đường tranh đấu, ra Bắc và một số đã
về lại Dalat sau 75. Cũng năm đó, tôi cũng đã lên
đường nhưng không thành vì đáng lẽ có 3 ba
người mà chỉ có một mình tôi đến điểm hẹn.
Trên bình diện phát triển và xây dựng quốc
gia, ta cũng không thể quên được ảnh hưởng to
lớn của nhóm học sinh từ các tỉnh lên Dalat học.
Đa số là con nhà giàu, có học vấn cao, là rường
cột của chánh quyền miền Nam. Tôi nêu trường
hợp của anh như là đại diện cho nhóm này. Anh ra
trường Yersin khi nước nhà vừa độc lập, đậu vào
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ _ trường đại học
khó thi vào nhất vì học bổng cao và sau hai năm
vừa học vừa được hưởng lương Cán Sự nên sự
cạnh tranh thật ráo riết. Định cư tại Mỹ sau mấy
năm làm việc, anh được cử đi làm Cố Vấn cho các
nước bên Phi Châu và Trung Đông. Anh biết dung
hòa kỹ thuật tân tiến của Mỹ với những khó khăn
của các quốc gia nhược tiểu nên được cả Mỹ lẫn
các quốc gia này kính nể. Với hoài bảo và kinh
nghiệm thâu thập được sau bao năm chuyên làm
cố vấn, anh xin được về làm Cố Vấn ở quê nhà.
Thành công ở xứ người nhưng lại thất bại tại đây.
Ông Năm Niên, người Quảng Bình, ngụ tại
Tân Lạc, là người phồ cỏ giỏi nhất trong đám phu
lục lộ nhờ có kỹ thuật cao. Cỏ trong vườn các
công thự được người phồ cỏ cắt xén thường xuyên
với cái phồ (faux). Cỏ ông cắt không văng lung
tung mà luôn luôn gom lại thành từng đống nhỏ để
hốt cho nên bãi cỏ luôn xanh mướt như tấm thảm.
Đồ nghề của ông gồm có cán phồ bằng gỗ, lưỡi
phồ bằng thép, búa, đe phồ, miếng đá mài nhỏ và
một cái đòn nhỏ. Đe phồ là một cọc sắt dài độ
Dalat & Người Xưa Trang 44
30cm, đầu dưới nhọn để đóng xuống đất, lưng
chừng đe phình ra để giữ cho đe không lún sâu
thêm, phần trên đe dẹp rộng 1/2cm. Mỗi ngày ông
phải ghè phồ 2-3 lần. Đóng đe xuống đất, ngồi
trên đòn nhỏ hai chân chuổi thẳng hai bên đe để
đỡ lưỡi phồ. Tay trái giữ mép phồ trên đe ông
dùng búa gõ nhẹ lên mép phồ vừa kéo búa về phía
bọng mình để làm lưỡi phồ mỏng thêm. Cứ từ từ
gõ hết chiều dài lưỡi phồ. Sau đó dùng cục đá mài
dài liếc mép phồ là xong. Ghè phồ không đều tay
làm mép phồ dãn không đều dễ bị nứt làm mẻ lưỡi
phồ. Siêng năng hai vợ chồng già không con cái
sống trong một nhà nhỏ an nhàn hạnh phúc. Nhờ
khéo tay công việc của ông nhẹ nhàng nên ông vui
vẻ lạc quan hơn người bạn đập đá cùng tuổi với
ông dưới đây
Ông làm nghề đập đá. Thợ đập đá gồm đủ
thành phần già trẻ cả nam lẫn nữ. Họ làm việc
theo từng nhóm với bạn bè hoặc theo gia đình.
Lúc đó chưa có thuốc nổ hoặc có mà hạn chế. Họ
lựa những nơi đá có nhiều lằn nứt ngang dọc, có
khi lẫn lộn với đất cát, dùng xà beng cạy đá ra
từng mảng lớn, gom đá lại thành đống rồi dùng
búa đập nhỏ bằng cỡ nắm tay dùng làm đường sá.
Nhìn họ đập thấy khá dễ dàng nhờ có kỹ thuật
riêng. Nếu không biết cách đập thì các thanh niên
dù mạnh khỏe cũng rất vất vả và có thể gây tai nạn
vì các mảnh đá có thể văng tứ tung. Nghề này vừa
nặng nhọc vừa dầm mưa giãi nắng quanh năm.
Mỗi người có một tấm liếp chủ yếu để che nắng và
đá văng. Họ luôn ngồi theo cùng một hướng,
người trước người sau để đá chỉ văng vào tấm
liếp. Ông chưa đầy 50 nhưng tưởng chừng 60,
với mái tóc muối sương luôn luôn rối nhùi, làn da
đen sạm khô cằn nhăn nhiu, hai lòng bàn tay chai
cứng, các đốt ngón tay gồ ghề biến dạng, hai bàn
chân chai dày, gót nứt nẻ qua bao năm tháng làm
nghề đập đá. Mười lăm năm trước khi biết là Dalat
đang phát triển mạnh, hai vợ chồng ông đưa nhau
vào thử thời vận. Được người đi trước giúp đỡ, tuy
phải làm cật lực nhưng có cuộc sống hạnh phúc và
khá hơn lúc ở Quảng Ngãi: ông có đứa con trai,
một căn chòi tranh nhỏ, một số tiền chôn dấu dưới
gầm giường. Ông lót một lớp tranh dày trên nan
giường và dùng 4 cái bao gạo kết lại làm ra phủ
cái giường cho ấm. Sau khi sanh thằng Sáng __
với
hy vọng tươi sáng hơn __
ông đã làm thêm một
vách tranh ngăn căn chòi trống trải thành một
buồng nhỏ cho bớt gió. Ông nói ở nhà tranh ấm
hơn nhà vách ván nhưng thật sự là ông có một ước
mơ mà tôi sẽ trình bày ở sau. Ông tri ân những
người đến trước đã giúp đỡ và cưu mang vợ ông
khi sanh thằng Sáng.
Cố H. người Nghệ An, độc thân và già
lắm, nên mọi người đều gọi ông là cố. Sau bao
năm chắt chiu khuya sớm Cố có một mảnh vườn
và căn nhà nhỏ tại ấp Sào Nam. Trong một lần
mua phân Cố dẫn cô gái bán phân vào bếp, kéo cái
nồi đất nhỏ ra, trút ra sàn bếp mớ tiền dấu trong
nồi rồi bảo “ Đó là tiền ông có, cháu đếm và lấy
đủ số tiền ông mua”. Cô gái sững sờ nhìn những
đồng tiền giấy cuộn tròn được cột thành từng cuốn
to nhỏ tùy theo số tiền mỗi lần bán rau mà không
biết tổng số. Cố lại cất số còn dư vào nồi, đặt nồi
vào chỗ cũ và dặn thêm “ Ông tin là cháu sẽ không
cho ai biết nơi ông dấu tiền”. Sự việc bất ngờ quá.
Cô gái cứ sợ lỡ ai tình cờ biết đánh cắp thì mình
có thể bị nghi oan Mười năm sau cô gái bán phân
phải lãng tránh khi thấy ông đi ăn xin trong khu
chợ mới.
Trong một lần về Việt Nam, đến thăm mấy
gia đình trồng rau xưa, một chú thanh niên hỏi tôi
- Anh là con bác Xu?
Mọi người cười vang. Trấn tỉnh vài giây
rồi chú ấy cúi mặt giọng rung rung cảm động tiếp
tục. Lúc sinh thời cha tôi bảo “ Tao được cha sinh
mẹ đẻ nhưng được bác ấy nuôi, không phải chỉ
mình tao mà cả bao người Nghệ, giúp công ăn
việc làm, chỉ dẫn trồng rau. Lúc đó đâu phải có
vườn, nỉa đất, trồng, tưới nước là xong đâu.
Không có phân là công toi. Bác ấy mua cả goong
phân từ Phan Rí về chia cho bọn choa (chúng tôi),
trả tiền sau nên mới có ăn, chứ đã có ai bán phân
đâu? Giúp từ đầu chí cuối…..” Nội dung câu
chuyện không có gì lạ nhưng lòng tôi chấn động
bởi cái âm thanh của chữ Bác Xu mà tôi không thể
diễn tả được chỉ nhớ là Bác thấp và Xu cao. Đa số
người Nghệ xem ông như anh cả nên gọi là bác
thế cho con. Một sự kính nể trìu mến phát ra tự
đáy lòng của chú ấy.
Dalat & Người Xưa Trang 45
Ông, bạn của nhạc phụ tôi, đã tâm sự ” tôi
không được học hành nhiều nên không biết hết
những khó khăn của sự học. Tôi đã cho mấy đứa
nhỏ học ở Adran, tối về có gia sư kèm thêm nhưng
vẫn đội sổ”. Nhạc phụ tôi an ủi “ Người ta bảo sĩ
nông công thương, nay ta bị kẹt đường phải quay
trở lại thành thương công nông sĩ có sao đâu”
Cuối cùng một số con ông có được BEPC rồi
thành thương gia và công chức Dalat.
Anh, con nhà thợ may Âu phục Lê thành
Đôn đã cố gắng học đễ làm gương cho đàn em
nhưng vẫn lận đận trên đường khoa bảng. Năm
1999 tôi gặp lại anh trong một gian chung cư
xuống cấp tại cư xá Thanh Đa. Bao tâm sự vui
buồn tuôn ra. Khi chúng tôi ra về, anh nhờ tôi nếu
có gặp vợ anh B. xin tôi chuyển lời cảm ơn chị ấy
dùm. Hỏi ra mới biết “ tôi (anh ấy) bị rớt vấn đáp
Bac. I mấy phen, chị ấy biếu tôi tiền lệ phí thi và
bảo đây là tiền may mắn xin anh nhận cho. Nhờ
đó tôi đậu, nhưng từ đó đến nay không biết chị ấy
ở đâu để báo tin vui. Tuy vậy phận tôi vẫn lao đao
phải trốn bạn bè chui vào đây.”
Anh, con trai một, con một góa phụ với
mười người con, sống nhờ một tiệm chạp khô tại
Trại Mát. Mẹ anh suốt đời dành mọi ưu tiên cho
anh. Anh đã cố gắng hết mình nhưng học tài thi
phận. Ngày tôi rời Dalat vào Saigon học, anh bảo
“Bao năm qua gần anh, noi gương anh học nhưng
chưa đến đâu, nay anh đi xa tôi cảm thấy bơ vơ lạc
lõng… .” Tôi xòe bàn tay rồi bảo ” Bàn tay có
ngón ngắn ngón dài, ngón mập ngón ốm, nhưng
mỗi ngón có công dụng riêng, trong xã hội mỗi
ngành nghề đều cần thiết, đâu phải chỉ có học thức
mới sống được. Hãy làm hết sức mình trên lãnh
vực mình thích.” Tiệm chạp khô Quảng Thuận
nhỏ bé ở Trại Mát ngày nào đã lần lượt thành QT
bán sĩ đường Tăng bạt Hổ, rồi cộng thêm QT bán
lẻ dưới chợ mới. Gần đây tôi gặp vợ chồng anh:
chủ một tiệm kim hoàn lớn tại đường Duy Tân đối
diện tiệm Con Cua.
Tôi thành thật xin lỗi các gia đình được
nêu trên. Ghi lại hoàn cảnh của họ như là những
chứng tích về quyết tâm, gian truân và khổ tâm
của họ cho thế hệ sau noi gương. Ngày nay giới
trẻ hải ngoại đã chứng minh là bằng cấp cao hay
thấp không hoàn toàn giúp cho sự thành công trên
đường đời. Năm 1956 tôi ra trường, trong cả ba
ngành Toán, Sinh và Triết chỉ có 4-5 anh chị đậu
thôi, kể cả các học sinh không phải gốc Dalat
nhưng là con công chức đã học tiểu học tại đây.
Nhìn số thí sinh đậu Tú Tài tại Dalat, người ta
không hiểu cái số phận hẩm hiu của học sinh Việt
gốc Dalat. Muốn lên trung học, họ phải ra Huế
hoặc Qui Nhơn học tiếp vì mãi đến đầu thập niên
1950 Dalat mới bắt đầu có trường trung học Việt.
Do đó đa số thanh niên Dalat không có tú tài, thật
tội nghiệp cho lứa thanh niên bất hạnh này. Họ, đa
số là thợ trong ngành xây cất, thợ máy, chủ tiệm
sơn, tiệm máy lạnh, tiệm vàng v…v… nêu trên, đã
tự vươn lên trong huấn nghệ của trường đời. Tuy
ít học nhưng họ là rường cột của Dalat đương thời
vì thành phần có tú tài thường tiếp tục học và làm
việc ở Saigon. Có một thành phần mà tôi không
nêu lên được là giới thượng lưu vì không thể tiếp
cận nhưng muốn ghi trường hợp một nữ lưu đặc
biệt. Tuy học cùng lớp với con gái bà nhưng đến
nay mới biết bà __
tốt nghiệp trường Luật Hà Nội,
phu nhân bác sĩ Nguyễn văn Lương __
là Nguyễn
thị Hậu, Thị Trưởng Dalat (1966-68), người nữ
Thị Trưởng độc nhất của Việt Nam.
Ai ai cũng biết cái ta là cái đáng ghét, và
đức Phật đã bảo “thất bại lớn nhất là tự đại”,
nhưng vì muốn có những dẫn chứng cụ thể về
các gian truân nên buộc lòng tôi phải dùng một vài
trường hợp của tôi. Tôi xin phép những tiền nhân
xây dựng Dalat __
đã một thời cật lực làm ăn mà
thân xác đã được chôn vùi trên nghĩa địa __
cho tôi
dùng chữ mình như là đại diện cho họ. Mình cũng
đưa thân phụ mình vào câu chuyện vì đó mới là
phần chính để diễn đạt phong cách người Dalat
xưa và xin độc giả hoan hỷ thông cảm cho.
Mình, con một thương gia lớn tại chợ Hòa
Bình, đã vĩnh viễn xa cha mẹ và chị em trong tản
cư lúc 14 tuổi, sống với người chú bị sa sút sau khi
hồi cư, và quyết tâm muốn tiếp tục đi học lại với
bao trở ngại. Năm 1948 một cô giáo đã tận tình
xin cho mình được vào học lớp 6 ème tại trường
Dalat & Người Xưa Trang 46
Adran với một học bạ giả, một giấy khai sinh trụt
tuổi vì không có cách nào hơn. Nhiều khi nghe
chuông điện trường reo mới lật đật thay áo quần
chạy qua trường, bên kia đồi, là vừa kịp lần
chuông vào lớp. Hằng ngày quăng sách ra là cầm
cuốc nĩa ngay. Mỗi tuần hai lần đi chợ về rồi mới
đi học. Thời gian đầu gánh nước tưới rau “còng
lưng tôm” nhưng quen dần với thử thách nên
những ngày cuối tuần nĩa đất suốt ngày vẫn tỉnh
bơ, nhưng sự lo âu có thể bị nghỉ học bất ngờ luôn
ám ảnh. May mà năm sau một sư huynh biết hoàn
cảnh của tôi xin trường cho tôi chỉ đóng nửa học
phí. Nghe học sinh Adran nói chuyện về Bois
d’Amour ( rừng Ái Ân) sát ngay cuối ấp và thác
Cam Ly nhưng tôi chưa hề đặt chân tới trong đời
học sinh. Vì “mít ngon ai để chợ trưa” nên phải đi
hỏi vợ khi đậu Brevet Élémentaire làm tăng nỗi lo
âu. Nhiều người quen, nhất là Cô Chủ, chủ quán
bên ấp Xuân An có con trai học Yersin cùng thời,
an ủi hoặc khuyến khích “đừng bỏ cuộc nghe”.
Nỗi vui của cái Bac.I (tú tài Pháp I ) bị lu mờ ngay
bởi sự hối thúc phải cưới vợ vì sợ năm sau là năm
tuổi. Bốn ngày sau hôn lễ được thơ của thân phụ,
từ Nghệ An chuyển qua Pháp, xin tiền và một xe
đạp để làm phương tiện sinh sống. Cô dâu mới
đem bán hết tất cả nữ trang quà cưới để gởi về
giúp cha mẹ chồng. Năm tuần trước ngày thi Bac.
II mình phải di tản ra nhà người bạn để học thi,
nhưng tội nghiệp cho người vợ trẻ, mới làm dâu
được bốn tháng, đau buồn vì chồng rớt. Năm sau
mới đậu: niềm vui lớn lao của gia đình đôi bên và
toàn thể cộng đồng người Nghệ và đó cũng là
niềm an ủi của riêng tôi, là đạt được tâm nguyện
của thân phụ nhưng cũng rất đau buồn vì người
vừa qua đời trong chiến dịch
cải cách ruộng đất mới được
3 tháng. Xuống Saigon với
bao khó khăn, vừa mới ổn
định cuộc sống thì vợ mang
bầu. Nhưng cuối cùng, kết
quả của sự phấn đấu của tôi
và sự tảo tần của nàng: cái
bằng kỹ sư và hai đứa con.
Hai câu thơ À vain-
cre sans peine on triomphe
sans gloire của Corneille (chiến thắng nào không
gian nguy sự thành công không vẻ vang) và
Gémir, pleurer, prier c’est également lâche của
Alfred de Vigny (than, khóc, cầu xin là hèn nhát)
đã giúp mình phấn đấu và vui với hoàn cảnh. Ở
Dalat giây cương ngựa kéo xe có hai miếng da che
hai bên mắt ngựa nên ngựa chỉ thấy đàng trước mà
tiến tới. Nhiều người dân Dalat xưa, kể cả tôi, đã
tự xem như con ngựa nói trên cứ cắn răng cật lực
làm việc bằng mọi cách để vươn lên.
Mình thật sự không hiểu các sinh hoạt của
thân phụ và bạn bè ông thời đó ra sao mà mình
được thừa hưởng những báo ân quá to lớn. Bà Ma-
rie Mỹ, người công giáo, thâm nho, (sau này mới
biết là đảng viên cộng sản) giúp mình được đi học
lại. Bà, con ông Nguyễn hữu Sở, một đại doanh
gia Phan Rang, đã mang ơn ba mình ra sao mà
tình nguyện tự lo cho mình như vậy. Bà vừa mới
về nước Chúa năm 2010, thọ 96 tuổi.
Năm 1963 mình bị một hàm oan với một
phúc trình dày 20 trang của tỉnh Phan Rang tố cáo
có nhiều hành động chống đối đường lối của Cố
Vấn Ngô đình Nhu do Thiếu tướng Tôn thất Đính
ký tại Phan Rang, nơi mình đang công tác. Bản
phúc trình này làm các thượng cấp từ Trưởng khu,
Giám đốc và Bộ trưởng hoang mang như ngồi trên
đống lửa. May mà vị cứu tinh của mình chỉ mấy
chữ “xin Thiếu tướng để tôi trả cái ơn ba nó của
thời chị đi bán gạo đong ” đã thổi bay bản phúc
trình dày. Cái ơn ba mình giúp bà nuôi ông (
Thiếu Tướng) qua bao năm khó khăn mà 20 năm
sau khi người chị dâu vừa nhắc đến thì thái độ của
một ông tướng oai phong lừng lẫy nóng như lửa
tức thì thay đổi.
Năm 1979, khi gia đình mình, mười người,
sau bao lần vượt biên thất bại, lâm vào cảnh không
hộ khẩu, không giấy tờ hộ thân, không một xu
dính túi, bà ấy đưa về dấu trong nhà, tìm mối, ứng
tiền giúp đỡ “Đi đến nơi thì trả sau” nghĩa là
không cầu báo ân để trả cái ơn ba mình 50 năm
trước. Trong cái khốn khó của đất nước vào năm
đó làm sao giải thích được cái “tấm lòng vàng”
này.
Dalat & Người Xưa Trang 47
Tôi biết là ba tôi đã giúp nhiều người
không có gì to lớn ngoài cái tâm địa vị tha luôn
rộng mở. Chúng ta cũng thường bảo nhau rằng cha
mẹ làm phúc để đức lại cho con. Đức là một việc
thiện không cần người biết, một ý tốt không cầu
báo đáp hay một thi ân không mong đền bù. Đức
được tích góp từ nhiều đời và chẳng bao giờ mất.
Đức Khổng Tử viết trong sách Luận ngữ “đức bất
cô, tất hữu lân” mà ông Đoàn trung Còn đã giải
thích như sau “người có đức chẳng lẻ loi, ắt có
những kẻ đồng tâm, đồng chí gần gũi và ủng hộ
mình” Theo câu trên Dalat xưa có nhiều người thi
ân và người nghèo nhớ ơn cũng không phải nhỏ.
Sự ngưỡng mộ của dân làm vườn gốc
Nghệ Tĩnh đối với ba tôi, những lời an ủi đầy chân
tình của người quen khuyến khích tôi, những
trường hợp thành công, những gian truân, những
thi ân và thọ ân ghi trên làm tôi suy nghĩ thử cố
tìm xem tại sao những người tiền phương này đều
có những điều tốt như vậy. Phải chăng những
phong cách tốt của người Dalat xưa xuất phát từ
nhóm người dân Dalat thời mới thành lập? Tôi đã
nhiều lần tự hỏi mình có điên khi muốn tìm hiểu
điều này qua nhiều đêm thức trắng. Nhưng
Nguyễn bá Học đã nói:
Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi,
Mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Ngần ngại, thôi thúc, cuối cùng mãnh lực:
thọ ơn bá tánh trả lại cho bá tánh thúc đẩy tôi tiếp
tục.
(Xin xem tiếp phần sau)
Hồ Xuân Hương hiện nay (hình chụp vào 8/2010 - Ahswara)