ĐẶC ĐIỂM DU KÍ VI T NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ...
Transcript of ĐẶC ĐIỂM DU KÍ VI T NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ...
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------------
NGUYỄN HỮU LỄ
ĐẶC ĐIỂM DU KÍ VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62220121
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ
VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Trần Thái Học
Huế - 2015
Công trình được hoàn thành tại: Đại học Khoa học – Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thái Học
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước
họp tại
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
Vào hồi…..giờ…….ngày……..tháng……năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện :
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Hữu Lễ, “Yếu tố kì ảo trong du kí Việt Nam nửa đầu thế
kỉ XX”, Kỉ yếu hội thảo Yếu tố kì ảo và huyền thoại trong văn học,
Đại học Khoa học Huế, 5/2013.
2. Nguyễn Hữu Lễ, “Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục”, Tạp chí
Khoa học Đại học sư phạm Hà Nội, Số 3/2014.
3. Nguyễn Hữu Lễ, “Một số vấn đề phong cách thể loại của du kí”,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, Số 6/2014.
4. Nguyễn Hữu Lễ, “Một số vấn đề thi pháp thể loại của du kí”, Tạp
chí Khoa học Đại học Huế, Tập 95, Số 7/2014.
5. Nguyễn Hữu Lễ, “Bút pháp nghệ thuật du kí Mãn Khánh Dương
Kỵ”, Tạp chí Sông Hương, Số 305, 7/2014.
6. Nguyễn Hữu Lễ, “Những vấn đề thể loại của du kí”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, Số 8/2014.
7. Nguyễn Hữu Lễ, "Vấn đề thể tài du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX", Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Số 5/2015.
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu văn học, người ta chú ý
đến thể loại văn học đã rõ ràng. Bộ phận văn học nằm giữa ranh giới
với các thể loại khác thường bị bỏ quên. Du kí Việt Nam đã nằm trong
trường hợp đó.
1.2. Đầu của thế kỉ XXI, du kí được các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước quan tâm. Trong văn học Việt nam, du kí đã bùng phát hai
lần: lần thứ nhất vào nửa đầu thế kỉ XX, lần thứ hai vào đầu thế kỉ XXI.
Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, du kí chưa được nghiên cứu một
cách đầy đủ và nghiêm túc. Vì thế, ở Việt Nam, chưa có công trình lí
luận và lịch sử dành riêng về du kí. Chúng tôi muốn đặt vấn đề: làm sao
để tháo gỡ những đường ranh thể loại du kí với các thể loại khác? Làm
sao để xác định đặc điểm của du kí không phải bằng sự suy lí mà bằng
cách khảo cứu thực tiễn sáng tác của nó?.
1.3.Trải qua quá trình hình thành và phát triển, du kí Việt Nam đã
tồn tại như một thể loại văn học. Đến nửa đầu thế kỉ XX, có sự xuất
hiện nhiều tác giả, tác phẩm du kí đăng trên các báo và tạp chí. Sức hấp
dấn của du kí đã thu hút nhiều nhà báo, nhà văn, học sinh, du khách bởi
sự mới mẻ của thể loại này. Trong quá trình hiện đại hóa văn học nửa
đầu thế kỉ XX, du kí là bộ phận văn học đã từng có vị thế trên văn đàn
và có nhiều đóng góp quan trọng. Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
cần phải được nghiên cứu một cách đầy đủ và nghiêm túc để làm sáng
tỏ một số vấn đề : loại hình, thể loại, đặc trưng và vị trí của nó đối với
quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Đặc điểm du kí Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài "Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX", công
việc nghiên cứu của luận án nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây:
2.1. Xác lập cách hiểu hợp lí về thể loại, khái niệm du kí, xây
dựng các vấn đề lí thuyết về thể loại. Những vấn đề này là căn cứ để
nghiên cứu lịch sử và đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
2.2. Việc nghiên cứu phải xác định những đặc điểm cơ bản của
du kí Việt Nam về nội dung và hình thức.
2.3. Chỉ ra được các phong cách tiêu biểu của thể loại du kí
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là du kí Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX. Đó là những tác phẩm du kí đăng trên các tạp chí nửa đầu
thế kỉ XX: Nam Phong, Tri Tân, Phụ nữ Tân văn, An Nam, Nam Kỳ,
Thanh Nghị, Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy, … và các ấn phẩm du kí
xuất bản từ trước tới nay được sáng tác trong giai đoạn này.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Phạm vi nghiên cứu lí thuyết của luận án là những vấn đề lí
thuyết về thể loại và lịch sử văn học.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận án bao gồm các tác giả
tiêu biểu và những tác phẩm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
- Để việc nghiên cứu có tính hệ thống, chúng tôi xem xét những tác
phẩm du kí Việt Nam trước thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI.
- Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX có sự phong phú về nội dung,
đa dạng về hình thức, có nhiều tác giả có phong cách độc đáo. Du kí
Việt Nam giai đoạn này có ba loại hình: du kí có yếu tố Hán, du kí
3
mang phong cách hiện đại, du kí chứa yếu tố hư cấu, tưởng tượng.
Nhiệm vụ đặt ra của Luận án là phải lựa chọn và giới thiệu được các tác
giả tiêu biểu.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp lịch sử
4.2. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
4.3. Phân tích - tổng hợp
4.4. So sánh đối chiếu
4.5. Các phương pháp liên ngành: Thi pháp học, Phong cách học,
Văn bản học, Mĩ học tiếp nhận.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về lí luận
- Luận án chỉ ra những điểm chưa thống nhất trong cách hiểu
khái niệm và thể loại du kí. Từ đó, Luận án xác lập một quan niệm mới:
du kí là một thể loại văn xuôi thuộc loại hình tự sự. Du kí có đầy đủ đặc
điểm của một thể loại và có khả năng tiếp nhận phương thức phản ánh
hiện thực của một số thể loại khác. Nó có khả năng ảnh hưởng trở lại
với những thể loại khác.
- Luận án đã xây dựng được một số vấn đề lí thuyết thể loại của
du kí, điều mà từ trước tới nay chưa có trong các sách lí luận văn học ở
Việt Nam.
5.2. Về thực tiễn
- Sưu tầm nhiều tác phẩm du kí, trong đó có các tác phẩm chưa
được phát hiện. Đây là những sản phẩm quí giá làm giàu di sản văn học
dân tộc.
- Dựa trên phân tích các đặc điểm phong cách thể loại, chúng
tôi đưa ra những căn cứ để phân biệt tác phẩm du kí với các tác phẩm
4
của thể loại khác và chỉ ra những tác phẩm không phải là du kí đã gây
hiểu nhầm cho nhiều người.
- Luận án tiếp cận du kí trên phương diện nội dung và hình thức
để dựng lại diện mạo của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX với những
đặc trưng cơ bản của nó. Việc nghiên cứu về phong cách tác giả càng
khẳng định du kí nửa đầu thế kỉ XX là bộ phận văn học quan trọng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo để biên soạn giáo trình, tài liệu học tập và nghiên cứu cho
các ngành: văn học, văn hóa học, du lịch.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án có tất cả 5
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Vấn đề lí thuyết thể loại và lịch sử du kí Việt Nam
Chương 3: Đặc điểm nội dung của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX
Chương 4: Đặc điểm nghệ thuật của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX
Chương 5: Các phong cách du kí Việt Nam tiêu biểu nửa đầu thế kỉ
XX
5
NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Về khái niệm và thể loại của du kí
1.1.1. Ở nước ngoài
Những năm 90 của thế kỉ XX, Nghiên cứu và phê bình du kí phát
triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, nhiều học giả
trên thế giới xem du kí là một thể của văn học du lịch. Các khái niệm về
du kí đều xoay quanh vấn đề này.
Vấn đề định nghĩa du kí phụ thuộc vào quan niệm về thể loại của
du kí. Ở nước ngoài, vấn đề khái niệm và thể loại của du kí được tiếp
cận ở hai quan niệm: hư cấu và không hư cấu.
Về thể loại, không có quan điểm cho rằng du kí là tiểu loại, trái lại
còn coi du kí lớn hơn thể loại, nó bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau.
Có người còn cho rằng du kí nằm giữa lằn ranh "giữa quan sát
khoa học và tiểu thuyết" (Tim Youngs)
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về du kí, có khi trái ngược
nhau nhưng những định nghĩa của những nhà nghiên cứu nước ngoài
nói trên không coi du kí là sự ghi chép của người du lịch. Họ quan niệm
du kí là một thể loại văn học, nó dung nạp các phương thức biểu hiện
của các thể loại khác. Như vậy, nội dung của tác phẩm du kí lớn hơn
nhiều so với những gì mà tác giả thể hiện trong văn bản.
1.1.2. Ở trong nước
Đầu thế kỉ XX, thể loại du kí còn xa lạ với nhiều người. Quan
niệm về du kí được nói đến tiên là Phạm Quỳnh. Ông cho rằng: phải có
cuộc hành trình xa, nhiều ngày mới viết được du kí. Còn Vũ Ngọc Phan
đã thừa nhận có văn du kí nhưng chưa khẳng định tính thể loại của du kí.
Nhiều người khi nghiên cứu tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu
6
Trác, họ gọi nó bởi nhiều tên khác nhau : du kí, kí sự, truyện kí lịch sử,
bút kí,...
Du kí được giới nghiên cứu và phê bình văn học bàn bạc với tư
cách thể loại vào những năm 60 của thế kỉ XX. Dựa trên quan điểm của
các nhà lí luận Liên-xô và Trung Quốc, các học giả Việt Nam chia văn
học thành bốn thể loại: thơ, truyện, kịch, kí. Du kí được xem là tiểu loại
của thể loại kí. Quan điểm đó vẫn duy trì cho đến ngày nay.
Gần đây, du kí được định danh là thể tài nhưng không tách ra khỏi
thể loại kí để tồn tại như một thể loại.
1.2. Về du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
1.2.1. Ở nước ngoài
Khi phân tích tạp chí Nam Phong, trong luận án của mình, Phạm
Thị Ngoạn chỉ nói đến du kí nhưng không đưa ra định nghĩa thể loại hay
chỉ ra đặc điểm của du kí.
1.2.2. Ở trong nước
Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã có nhiều người tiếp cận trên
phương diện thể tài. Nguyễn Hữu Sơn có nhiều bài đăng trên các báo và
tạp chí.
Ngoài ra, du kí giai đoạn này còn được tiếp cận trên phương diện
văn hóa, ngôn ngữ nhưng vẫn dựa trên quan điểm: du kí là tiểu loại của
thể loại kí.
1.3. Nhận định về những vấn đề đặt ra từ tổng quan tình hình
nghiên cứu
So sánh du kí với các thể loại khác, chúng tôi đồng ý với nhiều
người coi du kí là một thể loại. Chúng tôi cũng xác định các yếu tố chủ
quan mang tính nghệ thuật của du kí và đưa ra khái niệm:
7
Du kí là thể loại văn học, viết về cuộc hành trình hay liên quan đến
cuộc hành trình với mục đích nào đó và thường phản ánh hiện thực
bằng các phương thức tự sự và phi tự sự như: ghi chép, miêu tả, tường
thuật, kể chuyện, dựng đối thoại,... Trong một số trường hợp, du kí có
thể vận dụng các phương thức phản ánh của hội họa, nhiếp ảnh, điện
ảnh, truyền hình, ... các phương thức thu nhận thông tin khoa học như:
khảo cứu, điều tra, thống kê tư liệu,… có khi đi kèm với các phương
thức biểu cảm. Nhân vật trung tâm của tác phẩm du kí vừa là chủ thể,
vừa là khách thể, đồng thời là người kể chuyện. Ngoài nội dung thông
tin, nội dung biểu cảm, tác phẩm du kí còn chứa đựng văn hóa cá nhân
tại thời điểm tiếp xúc văn hóa của chủ thể với hiện thực ở nơi mà lần
đầu tiên chủ thể khám phá hoặc trải nghiệm nó.
Đối với những tác phẩm du kí sử dụng chất liệu ngôn từ, du kí chịu
ảnh hưởng của các thể loại khác như: bút kí, hồi kí, tùy bút, tản văn,
biền văn, phóng sự, kí sự,... nên trong một số tác phẩm đã có hiện tượng
giao thoa thể loại. Dựa trên những đặc trưng phổ quát, du kí có thể
phân biệt được với các thể loại gần gũi với nó. Du kí bao giờ cũng tồn
tại trong một cấu trúc bị chi phối bởi cuộc hành trình. Những yếu tố
như thời gian, không gian, nhân vật trong tác phẩm du kí luôn đảm bảo
tính khách quan.
Chương 2: VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT THỂ LOẠI VÀ LỊCH
SỬ DU KÍ VIỆT NAM
2.1. Thi pháp thể loại du kí
2.1.1. Cốt truyện
Vấn đề cốt truyện đã được các nhà nghiên cứu đưa ra những cách lí
giải khác nhau. Cách hiểu hiện đại coi cốt truyện du kí là hành trình của
8
nhân vật di chuyển qua các không gian khác nhau. So sánh cốt truyện
du kí với cốt truyện của truyện kể: cốt truyện của du kí phụ thuộc người
trần thuật; cốt truyện truyện kể phụ thuộc vào nhân vật. Vì vậy, trong
tác phẩm du kí, người kể chuyện đóng vai trò quan trọng đối với cốt
truyện, tức là điều khiển câu chuyện theo một ý đồ nhất định.
2.1.2. Kết cấu
Kết cấu của tác phẩm du kí là kết cấu một chiều, theo nguyên tắc
trật tự của thời gian. Nó có thể bỏ qua một khoảng thời gian nào đó chứ
không quay trở lại. Tọa độ của kết cấu chính là điểm giao nhau của hai
trục: trục tung để liên kết các sự kiện trong cuộc hành trình, trục hoành
là các khoảng cách văn hóa được xác lập ở người đọc trong mối quan hệ
giữa tác giả và độc giả.
Đặc trưng cấu trúc của du kí là cấu trúc khúc đoạn theo trục thời
gian với bốn kiểu kết cấu tiêu biểu: kết cấu trực quan, kết cấu truyện
lồng trong truyện, kết cấu nhật trình, kết cấu đan xen tự sự - trữ tình.
2.1.3. Điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn trần thuật trong du kí là điểm nhìn bên ngoài, nơi chủ
thể lựa chọn nó để phản ánh. Ý đồ của tác giả thể hiện cách lựa chọn, và
ưu tiên các sự kiện xảy ra trong cuộc hành trình.
2.1.4. Thời gian và không gian
Không gian trong du kí có hai loại. Không gian vật lí là không gian
của lộ trình, bao gồm: địa điểm, địa danh, và các yếu tố biểu thị không
gian như: phương tiện đi lại, nhà cửa, đền đài, chùa chiền, thắng cảnh,
cây cối, núi non,... Không gian ý niệm là không gian mang ý nghĩa của
chuyến đi như là sự trở về cội nguồn, trải nghiệm. Mỗi kiểu đi có cách
mô tả không gian khác nhau để thể hiện những ý niệm khác nhau.
9
Thời gian trong du kí có hai dạng. Thời gian vật lí là thời gian
tuyến tính. Thời gian ý niệm là thời gian tái hiện không gian quá khứ để
ý niệm rằng: cuộc hành trình còn mang một nghĩa khác. Thời gian này
có khả năng đưa con người vượt ra khỏi trục thời gian của mình để đến
với thời gian khác.
2.1.5. Ngôn từ
Ngôn từ trong du kí là lớp ngôn từ chung. Kiểu ngôn từ trong các
tác phẩm du kí thường gặp trong các văn bản: nhật kí, bức thư trên lộ
trình, bài tạp bút, bài tuỳ bút... Phát ngôn của nhân vật chính trong du kí
là những phát ngôn về đối tượng được nói đến đã lọc qua tư tưởng
2.2. Khái quát quá trình lịch sử của du kí Việt Nam
Chúng tôi nhận thấy du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX không phải
là một hiện tượng đột phát mà là một quá trình. Có thể xác định vị trí
của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong lịch đại của nó như sau:
2.2.1.Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ thứ XVII. Du kí tồn tại dưới
hình thức thơ, phú. Thông qua cuộc hành trình của mình, tác giả thường
bộc lộ cảm xúc của mình về những nơi đến và cả về thế sự. Về thơ du kí
được viết khi đi sứ, đi chơi núi có tác giả Trương Hán Siêu. Thơ du kí
được viết khi đi làm việc quan có tác giả Phạm Sư Mạnh. Thơ du kí
được viết khi đi du ngoạn của Chu Văn An, Hồ Tông Thốc,… Về phú
du kí có Trương Hán Siêu, Nguyễn Hãng.
2.2.2. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX
Ở thế kỉ XVIII, tiếp nối du kí viết bằng thơ có sự xuất hiện du kí
văn xuôi chữ Hán của: Trịnh Xuân Thụ, Lê Hữu Trác. Đến thế kỉ XIX,
du kí văn xuôi chữ Hán phát triển. Giai đoạn này, đã xuất hiện một số
tác phẩm viết về các chuyến công du ở nước ngoài như: Tây hành kiến
văn kỉ lược (1831) của Lý Văn Phức (1785 - 1849), Hải trình chí lược
10
(1834) của Phan Huy Chú (1782 - 1840); các tác phẩm của phái đoàn
Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản đi sứ sang Pháp
và Tây Ban Nha năm 1863: Như Tây sứ trình nhật kí (1864) của Phạm
Phú Thứ, Như Tây kí (1864) của Ngụy Khắc Đản, Tây phù nhật kí
(1865) của Tôn Thọ Tường ...
2.2.3. Giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX
Đây là giai đoạn phát triển của du kí. Dí xuất hiện trên các tạp chí:
Nam Phong, Tri Tân, Phụ nữ Tân văn,… Đội ngũ sáng tác đông đảo, có
nhiều cây bút đã tạo được phong cách riêng như: Phạm Quỳnh, Nguyễn
Đôn Phục, Dương Kỵ,…
Du kí giai đoạn này phát triển là do tác động của sự thay đổi văn
hóa và văn học, đó là:
- Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
- Sự hình thành văn học và báo chí Quốc ngữ.
- Hoạt động dịch thuật và phê bình.
Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trải qua các bước phát triển:
- Từ 1900 – 1917. Báo chí in các tác phẩm của quá khứ. Chỉ có
Nguyễn Văn Vĩnh viết Hương Sơn hành trình đăng trên Đông dương
tạp chí.
- Từ 1918 – 1934. Giai đoạn nở rộ của du kí trên tạp chí Nam
Phong. Trong 17 năm tồn tại, Nam Phong có 120 số báo đăng các tác
phẩm du kí trong và ngoài nước. Tạp chí Phụ nữ Tân văn cũng đăng du
kí ngay từ số đầu và đăng nhiều kì. Giai đoạn này xuất hiện nhiều cây
bút du kí chuyên nghiệp như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn
Bá Trác, Phạm Vân Anh (Đào Trinh Nhất), Nguyễn Tiến Lãng,…
Du kí giai đoạn này có đặc điểm: vừa mang yếu tố truyền thống
vừa mang tính hiện đại. Đây là giai đoạn văn học Quốc ngữ đang hình
11
thành và phát triển.Trong một số tác phẩm du kí có sự ảnh hưởng của
văn học chữ Hán. Sự tiếp nối truyền thống này đã tạo ra ở du kí Việt
Nam sự đa dạng về phong cách thể loại. So với du kí thế kỉ trước, du kí
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã có những chuyển biến mạnh mẽ, mang
tính hiện đại. Tính hiện đại này thể hiện qua các yếu tố: chất liệu, thi
pháp, phong cách, trào lưu sáng tác,…
- Từ 1935 – 1945. khi Nam Phong chấm dứt, du kí vẫn tiếp tục
xuất hiện trên các tạp chí: Tri Tân, Phong Hóa, Thanh Nghị, Nam Kỳ,…
Đã có thêm những cây bút vững vàng như: Trần Huy Bá, Dương Kỵ,
Nhất Linh, Nguyễn Tuân,… Du kí giai đoạn này đã có sự ảnh hưởng
qua lại với các thể loại văn xuôi khác.
2.2.4. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XX
Từ sau năm 1945 đến thập niên 80 của thế kỉ XX, đất nước ta phải
chịu những cuộc chiến tranh liên miên và sự cấm vận của Mĩ, du lịch
không có điều kiện phát triển, du kí vì thế mà không có đất để sinh sôi.
2.2.5. Giai đoạn từ thập niên cuối thế kỉ XX đến nay
Bắt đầu từ thập niên cuối thế kỉ XX sang thập niên đầu thế kỉ XXI,
du kí xuất hiện trở lại. Du kí giai đoạn này chủ yếu viết trong các
chuyến học tập tham quan ở nước ngoài. Nổi bật giai đoạn này là sự lên
ngôi của các cây bút nữ như: Ngô Thị Giáng Uyên, Dương Thụy, Trần
Thị Khánh Huyền,…
12
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÍ VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
3.1. Sự phong phú của đề tài
3.1.1. Đề tài khảo cứu văn hóa
Các bài du kí viết về đề tài khảo cứu văn hóa dân tộc trong giai
đoạn này khá đa dạng và thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện
tượng gặp gỡ văn hóa cá nhân và giá trị văn hóa của đối tượng được
khảo cứu như là một cách triển khai đề tài trong tác phẩm.
3.1.2. Đề tài lịch sử
Du kí giai đoạn này còn có nhiều tác phẩm du kí mang đề tài lịch
sử. Khác với đề tài lịch sử trong tiểu thuyết, du kí không chủ ý để viết
về nhân vật hay sự kiện lịch sử. Du kí hướng đến mục đích thông tin về
các địa danh lịch sử và di tích; và giả định rằng những nơi đó ít người
biết, hoặc nếu có biết thì chưa tường tận.
3.1.3. Đề tài danh lam thắng cảnh
Đề tài danh lam thắng cảnh là đề tài mang tính truyền thống của
du kí Việt Nam. Cảnh vật trong du kí giai đoạn này đã có đủ mọi đối
tượng. Cảnh vật thiên nhiên: có núi, có sông, có hồ, có biển. Cảnh vật
nhân tạo: có chùa, có tháp, có lăng, có điện, có thành quách, lâu đài,…
Tất cả tạo nên hình ảnh đất nước Việt Nam hài hòa và đẹp đẽ.
3.1.4. Đề tài quốc tế
Du kí đầu thế kỉ XX có nhiều tác phẩm viết khi nhà văn đi ra nước
ngoài như: Pháp, Lào, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái lan, Nhật Bản. Đề
tài quốc tế trong du kí giai đoạn này không mang nặng quan hệ chính trị
hay ngoại giao. Quan hệ chủ yếu là quan hệ văn hóa giữa chủ thể và
khách thể. Với đề tài này, du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX mang
13
nhiều ý nghĩa khác nhau: không chỉ quan hệ văn hóa cá nhân mà còn
nói đến vấn đề dân tộc và thuộc địa.
3.1.5. Đề tài dân tộc thiểu số
Đề tài này xuất hiện lần đầu trong du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX. Các nhà văn du kí đã đến những nơi người dân tộc thiểu số sinh
sống ở miền núi và trung du phía Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,
Nam Bộ. Những cuộc hành trình khám phá đời sống, phong tục, con
người của một số dân tộc thiểu số đã bổ sung thêm bức tranh về văn hóa
và con người Việt Nam.
3.2. Sự đa dạng của cảm hứng
3.2.1. Cảm hứng viễn du
Cảm hứng viễn du của du kí Việt Nam đầu thế kỉ XX nằm trong
xu hướng du kí thế giới nửa cuối thế kỉ XIX. Đặc điểm nổi bật của cảm
hứng viễn du trong giai đoạn này là kết hợp giữa cảm hứng văn hóa với
khám phá chính mình.
3.2.2. Cảm hứng yêu nước
Người trí thức Việt Nam ý thức về thân phận người dân của
một nước thuộc địa. Cảm hứng yêu nước thể hiện ở thái độ của nhà văn
đối với hiện thực, con người, sự gặp gỡ, tiếp xúc với di tích, cảnh vật.
3.2.3. Cảm hứng tâm linh
Cảm hứng tâm linh trong du kí là nhu cầu, khát vọng của nhà
văn thực hiện điều tâm nguyện bằng cuộc hành trình.Có nhiều trường
hợp, trong khi thực hiện cuộc hành trình, nhà văn đã gặp gỡ những điều
mang yếu tố tâm linh. Có nhiều bài du kí nói về những cuộc hành trình
vãn cảnh chùa, chiêm ngưỡng nơi được coi là Phật hiển linh. Có nhiều
bài du kí đến những nơi là chốn linh thiêng, nơi đó có miếu, có đình, có
tháp và cả những nơi sinh hoạt tâm linh đang diễn ra.
14
3.2.4. Cảm hứng trữ tình
Cảm hứng trữ tình trong du kí chính là trí tưởng tượng và cảm
xúc trước sự vật, con người và những hiện tượng khác mà nhà văn đã
trải qua. Có khi cảm hứng trữ tình hòa với cảm hứng thiên nhiên, cảm
hứng lãng mạn. Cảm hứng trữ tình phổ biến trong du kí giai đoạn này là
xúc cảm thành thơ.
3.2.5. Cảm hứng thế sự
Cảm hứng thế sự thể hiện sự quan tâm của nhà văn khi tiếp xúc với
các hiện tượng đời sống gặp trên đường đi. Đội ngũ nhà văn viết du kí
là những người làm báo, nghề nghiệp chi phối cách viết của họ. Sự quan
tâm của họ không bộc lộ thành đề tài mà chỉ xuất hiện trong những
đoạn miêu tả và nghị luận.
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA DU KÍ VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
4.1. Cốt truyện
4.1.1. Cốt truyện hành trình
Du kí Việt Nam có cốt truyện gắn liền với mục đích của cuộc
hành trình. Du kí có cốt truyện thường ở các tác phẩm có cuộc hành
trình ra nước ngoài với hành trình có độ lớn về không gian, độ dài về
thời gian như: Pháp du hành trình nhật kí (1922) của Phạm Quỳnh,
Sang Tây – Mười tháng ở Pháp (1929) của Phạm Vân Anh (Đào Trinh
Nhất), Đi Tây (1935) của Lãng Du, Tôi thầu khoán (1941) của Lê Văn
Trương, Một chuyến đi (1941) của Nguyễn Tuân…
Du kí có cốt truyện vừa và nhỏ ở các tác phẩm gắn liền với các
cuộc hành trình ngắn như đi Lào, đi trong nước. Những tác phẩm không
15
có cốt truyện thường gần với tản văn, họ viết trong các chuyến đi du
ngoạn cảnh vật.
4.1.2. Cốt truyện sự tích – huyền thoại
Cốt truyện có mối quan hệ với đề tài, tư tưởng. Du kí Việt Nam
có nhiều tác phẩm có cốt truyện sự tích – huyền thoại. Những tác phẩm
này kể những câu chuyện về những nhân vật văn hóa, lịch sử có nội
dung liên quan đến địa danh, di tích, danh lam,…được tác giả gặp trên
lộ trình. Tiêu biểu là các tác phẩm của Dương Kỵ, Nguyễn Đôn Phục,
Hoàng Minh,…
4.2. Kết cấu
4.2.1. Kết cấu khung của tác phẩm
Cấu trúc khung văn bản cũng là một kiểu kết cấu. Thông
thường, tác phẩm du kí dựa trên cấu trúc “tam đoạn”: mở đầu, chính
văn, kết thúc. Trong thực tế, mỗi tác phẩm có một kiểu cấu trúc khác
nhau, biểu hiện tính đa phong cách trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm.
4.2.2. Kết cấu trực quan
Trong du kí Việt Nam, kết cấu trực quan gắn liền với việc miêu
tả đối tượng theo trình tự của thời gian hành trình. Đó là các tác phẩm:
Cuộc chơi năm tầng núi của Nguyễn Đôn Phục, Cuộc chơi trăng sông
Nhuệ của Nguyễn Mạnh Hồng,…
4.2.3. Kết cấu nhật trình – sự kiện
Trong những tác phẩm của Phạm Quỳnh, Mẫu Sơn Mục,… thường
sử dụng lối kết cấu nhật trình - sự kiện để thuật lại các sự kiện theo thời
gian là đơn vị ngày.
4.2.4. Kết cấu đan xen tự sự - trữ tình
Kết cấu này chiếm số lượng lớn trong du kí Việt Nam. Những tác
phẩm viết trong dịp thăm danh lam, thắng cảnh, di tích với các bài du kí
16
ngắn có kết cấu tự sự - trữ tình. Những tác phẩm này có sự kết hợp giữa
kể, tả với bộc lộ cảm xúc bằng thơ hoặc văn.
4.3. Điểm nhìn trần thuật
4.3.1. Điểm nhìn đa diện đối với hiện thực
Mối quan hệ giữa điểm nhìn trần thuật và nhân vật trong du kí
Việt Nam đã làm dịch chuyển vị trí các ngôi trần thuật. Trong mối quan
hệ với nhân vật, điểm nhìn trần thuật là phương thức phát ngôn, cách
trình bày, mô tả,… phù hợp với cách cảm, cách nghĩ đối với hiện thực
mà nhân vật chứng kiến, trải nghiệm trong cuộc hành trình.
4.3.2. Điểm nhìn dịch chuyển của người kể chuyện
Đối với tác phẩm du kí có dung lượng nhỏ, điểm nhìn trần thuật
phổ biến là sự dịch chuyển giữa tác giả - kí giả - nhân vật như các tác
phẩm của Nguyễn Đôn Phục, Thái Hữu Thành, Vũ Nga,...
4.4. Nghệ thuật ngôn từ
4.4.1. Sự kết hợp các chất liệu
Trong du kí Việt Nam, hiện tượng hỗn dung ngôn ngữ xảy ra ở hai
trường hợp: chữ Hán và chữ Pháp trong văn bản tiếng Việt. Trong nhiều
trường hợp, việc sử dụng ngôn ngữ này đều mang mục đích nghệ thuật.
4.4.2. Sự đa dạng của văn phong
Hành văn trong văn bản của tác phẩm du kí Việt Nam thường biểu
thị các hình thức phản ánh: miêu tả, nghị luận và trữ tình. Hành văn
mang tính nhạc trong văn du kí thường xuất hiện trong những tác phẩm
có đoạn văn mang yếu tố trữ tình.
Những tác phẩm du kí có phong cách diễn đạt này có sự trộn lẫn
giữa thơ và văn xuôi làm hấp dẫn đối với người đọc. Cách diễn đạt này
được kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình, là kiểu phát ngôn nghệ thuật
đặc trưng của du kí truyền thống.
17
Chương 5: CÁC TÁC GIẢ DU KÍ VIỆT NAM TIÊU BIỂU
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
5.1. Nguyễn Đôn Phục – phong cách truyền thống
5.1.1. Triết lí nghệ thuật về "sự đi"
Theo Nguyễn Đôn Phục, cách chơi của hạng người văn chương là
không chơi phiếm, chơi suông. Họ có cách chơi chữ nghĩa, chơi có mục
đích, hướng về tâm hồn dân tộc. Cách chơi của Nguyễn Đôn Phục trong
du kí là cách chơi với cái thú thanh cao, cái vui cổ kính không phàm tục.
5.1.2. Tiếp cận đối tượng trên phương diện lịch sử
Từ điểm nhìn lịch sử mà thế giới trong các bài du kí, Nguyễn Đôn
Phục đưa người đọc đến với thế giới cổ tích của các nhân vật và sự kiện
lịch sử
5.1.3. Ngôn từ cổ kính và biểu cảm
Du kí của Nguyễn Đôn Phục như là một hình thức đối thoại nghệ
thuật giữa hai trường phái tư tưởng: cách tân và thủ cựu. Ngôn ngữ
trong du kí của Nguyễn Đôn Phục có nhiều câu châm ngôn, triết lí. Ông
sử dụng từ Hán Việt và chữ Hán, có nhiều câu văn biểu cảm và các thán
từ.
5.2. Phạm Quỳnh – phong cách hiện đại
5.2.1. Văn du kí mang tính tư tưởng
Văn Phạm Quỳnh là văn tư tưởng và cũng viết bởi mục tiêu tư
tưởng. Trong văn du kí, Phạm Quỳnh luôn thể hiện các vấn đề về tư
tưởng quốc gia, dân tộc, vấn đề đạo lí, … Do tiếp xúc với tư tưởng
phương Tây hiện đại, nhiều tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh mang tư
tưởng dân tộc hiện đại, thể hiện những khát vọng canh tân đất nước.
Những tác phẩm viết về đề tài quốc tế thường mang tính tư tưởng như:
Pháp du hành trình nhật kí và Du lịch xứ Lào. Ngoài ra, các tác phẩm
18
viết về cuộc đi thăm, đi chơi ở trong nước như: Mười ngày ở Huế, Một
tháng ở Nam kì đều có sự thể hiện tư tưởng của ông.
5.2.2. Kết cấu và ngôn ngữ mang tính hiện đại
Du kí Phạm Quỳnh có nhiều tác phẩm có qui mô lớn, gắn liền
với cuộc hành trình lớn. Những tác phẩm này đều có lối kết cấu hiện đại
như du kí châu Âu. Ngôn ngữ trong du kí Phạm Quỳnh là tiếng Việt
hiện đại.
5.2.3. Văn du kí giàu chất triết luận
Văn du kí Phạm Quỳnh dài dòng không phải là sự ghi chép lôi thôi,
thấy gì ghi đó khi gặp trên lộ trình. Chất triết luận trong văn ông chi
phối sự lựa chọn lối viết. Văn du kí của Phạm Quỳnh không cứng nhắc
trong một kiểu cấu trúc văn bản mà có thể biến hóa linh hoạt. Văn du kí
Phạm Quỳnh khác người ở chỗ, cái tư tưởng bao giờ cũng được đặt lên
hàng đầu. Vì thế, dù mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng bài nào cũng
được trang điểm bởi chất triết luận.
5.3. Mãn Khánh Dương Kỵ - phong cách huyền thoại hóa
5.3.1. Cảm quan lịch sử và bút pháp huyền thoại hóa
Cuộc hành trình trong du kí Mãn Khánh Dương Kỵ là cuộc hành
trình xuyên thời gian, không gian để đến những nơi chưa có ai từng đến
ở thời đại của ông; đó là kinh đô Chiêm Thành cách đây chừng mười
thế kỉ. Thế giới nghệ thuật du kí của Mãn Khánh Dương Kỵ là sự trộn
lẫn giữa lịch sử và truyền thuyết. Ông dùng bút pháp huyền thoại hoá để
làm cho cái thực và cái ảo đồng hiện, khó phân biệt.
5.3.2. Nghệ thuật dựng cảnh và tạo không khí lịch sử
Mãn Khánh Dương Kỵ có tài năng dựng cảnh và tạo không khí lịch
sử cả trong lời văn và kết cấu.
5.3.3. Ngôn từ giàu tính tạo hình
19
Ngôn ngữ du kí của Mãn Khánh Dương Kỵ được chọn lọc. Ông có
vốn từ vựng phong phú để miêu tả đúng cảnh, đúng người. Ngoài ra ông
còn có vốn từ khoa học, những nguồn tư liệu quí giá và sự am hiểu
ngôn ngữ và văn hóa Chămpa. Điều này ông đã phục hồi những cái mất
đi phải trở về trong ý niệm. Sử dụng chất liệu này, nhiều bức tranh cảnh
vật được ông vẽ lên giàu màu sắc, đường nét và biểu cảm.
KẾT LUẬN
1. Du kí là vấn đề của văn học đương đại. Nhờ sự tác động nhiều
mặt của kinh tế - văn hóa – xã hội trong thời đại khoa học – kĩ thuật và
công nghệ phát triển, nhiều vấn đề của lịch sử và lí luận văn học được
nhìn nhận lại. Du kí đã trở thành đối tượng nghiên cứu không chỉ đối
với lí luận và phê bình văn học mà còn của nhiều ngành khác nhau.
Trong thập niên cuối của thế kỉ XX, những cuộc hội thảo quốc tế về du
kí đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu đến với du kí. Những vấn đề đặt ra
cho những nghiên cứu mang tính học thuật và nghiên cứu ứng dụng về
du kí như: định nghĩa về du kí, xác định loại hình của du kí, đặc trưng
thể loại của du kí, ranh giới phân biệt du kí là thể loại văn học với thể
loại phi văn học,… được đưa ra bàn luận. Những cuộc tranh luận mang
tính học thuật của các nhà nghiên cứu đã gặp nhau ở một số điểm: coi
du kí là một thể loại văn học, đặc trưng cơ bản của du kí là cuộc hành
trình của tác giả, đồng thời là nhân vật, tính thông tin và tính khách
quan của du kí lớn hơn những gì mà người ta tưởng nên có khả năng
xâm nhập vào các địa hạt của các ngành khoa học khác,… Trong sự mở
rộng phạm vi của đối tượng nghiên cứu, xu hướng nghiên cứu lịch sử
văn học trong mối quan hệ với văn hóa, như là một môi trường của văn
học đã đặt lại vấn đề về quan niệm thể loại. Trong xu hướng đó, gần
20
đây các nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề xem lại các tiểu loại của thể
loại kí như: luận án tiến sĩ của Lê Trà My với đề tài Tản văn Việt Nam
thế kỷ XX (từ cái nhìn thể loại) (2008), luận án tiến sĩ của Trần Văn
Minh với đề tài Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến
1945 (2011), cùng với nhiều bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Nhưng ở Việt Nam, nhiều người vẫn quan niệm du kí là tiểu loại của kí,
có người dè dặt định danh du kí là thể tài. Không giống như tản văn hay
tùy bút, là những thể loại phái sinh từ thể kí, du kí ra đời rất sớm trong
văn học viết của nhân loại. Trong lịch sử văn học Việt Nam, du kí ra
đời trước cả thể loại kí chữ Hán, mặc dù sự hình thành thể loại của nó
phải trải qua các giai đoạn phát triển với các hình thức thể loại khác
nhau. Du kí Việt Nam có một quá trình phát triển không liên tục bởi
tính đặc thù về phương thức tồn tại của nó. Đến nửa đầu thế kỉ XX, khi
hội đủ các điều kiện như quan niệm về sự đi, phương tiện đi lại được cải
thiện, môi trường văn hóa thay đổi, báo chí và dịch thuật du kí phát
triển,…thì du kí đã hưng khởi trở lại. Với một qui mô lớn, có nhiều tác
phẩm, tác giả với nhiều phong cách khác nhau, du kí Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX là một thể loại văn học có vị trí xứng đáng trong nền văn học
dân tộc.
2. Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX nổi lên như là một hiện
tượng của sự phát triển văn học. Bắt nguồn từ trong dòng chảy của du kí
truyền thống, lại được tiếp thu tinh thần và văn hóa của thời đại, không
gian đi lại được mở rộng, nhận thức về lịch sử, văn hóa của tầng lớp trí
thức được nâng lên, du kí Việt Nam đã phát triển và đi tiên phong trên
con đường hiện đại hóa văn học về sử dụng ngôn ngữ và hoàn thiện thể
loại. Với hàng trăm tác phẩm xuất hiện trên các báo và tạp chí trong gần
nửa thế kỉ cùng với nhiều cây bút xuất sắc đã làm cho thể loại du kí đạt
21
đến đỉnh cao của sự phát triển trong lịch sử du kí Việt Nam. Từ những
chuyến đi ra nước ngoài để công tác, để học tập, để thăm người thân
hay chỉ là cuộc phiếm du, những trí thức Việt Nam đã viết nên những
thiên du kí, nói về những điều mắt thấy, tai nghe, ghi lại những cảm
nhận, những suy nghĩ của mình về đất nước, con người của nhiều quốc
gia trên thế giới. Từ đó, họ nhìn về danh lam, thắng cảnh cũng như con
người, văn hóa Việt Nam với những nét ưu và khuyết bằng tình cảm và
khát vọng đối với đất nước. Trong những tác phẩm du kí viễn du, có thể
nhận ra trong đó những khát vọng của người trí thức Việt Nam về sự
canh tân đất nước, về ngày mai của dân tộc. Những người không có cơ
may có cuộc hành trình xuất ngoại đành tìm về những nơi còn ẩn dấu
nhiều điều về văn hóa, lịch sử dân tộc mà người trí thức chưa có dịp
chiêm bái nó. Non nước Việt Nam trở nên bao la hơn, xinh đẹp hơn,
giàu truyền thống và bản sắc văn hóa hơn nhờ bước chân của những nhà
văn, nhà báo đi du lịch. Chính những điều này đã làm nên đặc điểm về
nội dung của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX: phong phú về về tài,
đa dạng về cảm hứng. Bên cạnh những đề tài truyền thống như viết về
danh lam thắng cảnh, viết về ngoại quốc, du kí giai đoạn này xuất hiện
một số đề tài mới như: đề tài khảo cứu văn hóa, đề tài lịch sử, đề tài dân
tộc thiểu số. Với những đề tài này, du kí đã vẽ nên bức tranh nhiều màu
sắc khác nhau về non nước và con người Việt Nam. Cảm hứng sáng tác
du kí trong giai đoạn này không hoàn toàn bắt nguồn từ cảm hứng du
quan, du lịch mà phần lớn xuất phát từ tư tưởng. Mỗi tác phẩm mang
một tiếng nói khác nhau về đất nước, lịch sử, văn hóa và con người Việt
Nam. Mặc dù không có nhiều tác phẩm du kí trường thiên nhưng với
nhiều bài du kí ngắn viết về nhiều địa điểm khác nhau trên lãnh thổ Việt
22
Nam, du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX như là cuộc hành trình tập thể
tìm về với dân tộc.
3. Nằm trong dòng chảy của văn học dân tộc trong thời kì hiện đại
hóa, du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX nổi lên với tư cách là một thể
loại văn học với nhiều đặc điểm thể loại của nó. Mặc dù trong vườn hoa
đa sắc của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX nhưng cũng dễ dàng nhận
ra du kí Việt Nam đang chảy thành hai dòng rõ rệt: một dòng chảy bắt
nguồn từ du kí truyền thống của dân tộc, một dòng bắt nguồn từ du kí
phương Tây hiện đại. Không như thơ hay tiểu thuyết phải tìm cách loại
trừ nhau, hai dòng chảy này đồng hành với nhau, bổ sung cho nhau để
làm nên đặc điểm hình thức của du kí Việt Nam. Tác phẩm du kí nằm
trong dòng chảy hiện đại có cốt truyện hành trình mà cấu trúc của nó
chi phối bởi lộ trình và trải nghiệm của chủ thể. Tác phẩm du kí nằm
trong dòng chảy truyền thống có cốt truyện sự tích – huyền thoại chi
phối bởi điểm đến và tư tưởng của tác giả. Quá trình đào luyện của văn
học đã kéo theo du kí, một thể loại lấy nguyến tắc tự do làm đối ứng
cũng phải qui thuận thành một số kiểu cấu trúc và kết cấu nhất định để
làm nên phong cách thể loại của du kí Việt Nam. Cùng với nó là sự linh
hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt để tạo ra những tiếng nói
riêng, giọng điệu riêng, cách nhìn riêng đối với sự vật, hiện tượng. Khi
chuyển dạng về chất liệu, nhiều thể loại khác phải ngập ngừng thử
nghiệm thì du kí là thể loại đi tiên phong trong sáng tác bằng chữ Quốc
ngữ. Du kí Quốc ngữ Việt Nam nhanh chóng định hình trong thể loại
của nó, đồng thời nó không khước từ chất liệu khác như chữ Hán, chữ
Pháp mà còn sử dụng chất liệu đó như là thủ pháp nghệ thuật.
4. Du kí là thể loại có khả năng tạo ra sự đa dạng về phong cách.
Sự phát triển của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã hình thành nên
23
nhiều phong cách tác giả như Nguyễn Đôn Phục, Phạm Quỳnh, Dương
Kỵ,… Trong sáng tác du kí, cuộc hành trình được ví như "bột", nhưng
chưa thể làm nên "cái bánh" là tác phẩm. Để cuộc hành trình đi vào
trang giấy đòi hỏi chủ thể của nó phải có tư tưởng, thái độ, quan niệm
về sự đi. Đi đến đâu không quan trọng bằng đi với mục đích gì. Nguyễn
Đôn Phục có quan niệm đi là một sự trở về, ngoài việc trở về với cội
nguồn, truyền thống dân tộc thì cái quan trọng là trở về với chính mình.
Hành trình đơn giản như đi chơi thì cũng có nhiều hạng người với nhiều
cách chơi. Người trí thức là chơi cao cả, chơi có trách nhiệm, chơi cổ
tích, chơi lịch sử. Còn đối với Phạm Quỳnh, đã chơi là phải đi xa và có
đi xa mới viết thành du kí. Những cuộc hành trình, những chuyến công
du đi Pháp, đi Lào, đi Nam Kì, đi Huế, đi Lạng Sơn – Cao Bằng mà
Phạm Quỳnh thực hiện đã trở thành tác nhân của nhiều tác phẩm du kí.
Phạm Quỳnh đã đưa hơi thở của thời đại vào trong du kí, thôi thúc, giục
giã con người tìm kiếm các cuộc hành trình để trải nghiệm bản thân, để
mở rộng tầm nhìn, đi cho biết đó biết đây. Mãn Khánh Dương Kỵ chọn
con đường lạc nguồn lịch sử, tìm trong đống đổ nát hoang tàn về một
thời hoàng kim của vương quốc Chăm Pa để viết du kí. Tìm về cội
nguồn văn hóa, Dương Kỵ đã đưa người đọc thấy được hai mặt phải trái
của văn hóa và đời sống tâm linh, tín ngưỡng và cuộc sống đời thường
qua những cái mà người Việt mượn làm chốn múa may đồng bóng kiếm
kế sinh nhai, lại là biểu tượng tín ngưỡng, tinh thần của dân tộc Chăm
Pa. Du kí không phải kén chọn chủ nhân như tùy bút nhưng nó không
cho phép chủ nhân dễ dãi với nó khi đã chọn cách đi. Vì thế mà Nguyễn
Đôn Phục phải đem hết vốn văn hóa truyền thống có trong mình dâng
cho du kí; Phạm Quỳnh đưa cả tinh thần thời đại vào từng trang du kí
để làm nên một phong cách hiện đại; còn Mãn Khánh Dương Kỵ mang
24
tài nghệ phục chế lịch sử vào văn chương để tạo sắc cho du kí. Đó chỉ là
những trường hợp tiêu biểu. Trong du kí Việt Nam có bao nhiêu cách đi
thì có bấy nhiêu cách viết, tất cả cùng nhau làm nên sự phong phú về
nội dung, đa dạng về hình thức để hình thành đặc điểm của du kí Việt
nam nửa đầu thế kỉ XX.
5. Du kí là một thể loại văn học mang tính dân chủ và đại chúng.
Làn sóng "đi Tây" đầu thế kỉ XX có sự tương đồng với làn sóng "đi
Tây" ở đầu thế kỉ XXI và đều xuất phát ở khát vọng của giới trí thức và
thế hệ trẻ về sự trải nghiệm, nhu cầu học tập, khám phá đã tạo ra dòng
du kí viễn du. Du kí có khả năng thắp sáng những ước mơ, đánh thức
tâm hồn, khơi dậy sự sáng tạo nên du kí dễ thích nghi với xã hội văn
minh, hiện đại. Trong tương lai không xa, du kí đến với thế hệ trẻ Việt
Nam không phải là là nhu cầu mang tính hiện tượng mà là sự thỏa mãn
cho những khát vọng bay cao, bay xa để tìm hiểu, khám phá chân trời
mới của thế giới và bản thân, đưa văn học hòa nhập vào cuộc sống luôn
sôi động và biến động.
Du kí có thể nghỉ chân nhưng không từ bỏ hành trình, cũng không
bị các thể loại khác buộc phải dừng chân ở một thời điểm nào đó bởi
chừng nào con người còn có khát vọng di chuyển, thay đổi không gian,
thay đổi chính mình thì vẫn còn du kí. Tuy nhiên, một khi phương tiện
tối tân làm cho người ta di chuyển quá nhanh, người đi lại quá đông, lại
chia thành nhiều hạng người hơn so với trước thì du kí có nguy cơ bị
tước đoạt đi những cái tinh anh hoặc bị hòa lẫn vào trong những cái
dung tục, tầm thường của chủ nghĩa thực dụng và giải trí. Nghiên cứu
du kí đương đại phải có trách nhiệm điều hướng cả trong phê bình và
sáng tác để du kí không mất đi những vẻ đẹp nhân văn cao cả của nó.
MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING
HUE UNIVERSITY
COLLEGE OF SCIENCE
-------------------------
NGUYỄN HỮU LỄ
CHARACTERISTICS OF VIETNAM
TRAVEL WRITING IN THE FIRST HALF
OF THE TWENTIETH CENTURY
Specialization: Vietnam Literature
Code : 62 22 01 21
A SUMMARY OF DISSERTATION ON
VIETNAMESE LANGUAGE AND
CULTURE
The scientific guidance:
Associate Prof. Dr. Trần Thái Học
Huế, 2015
The thesis was completed at the University of Science - Hue University
The instructors of science: Prof. Dr of Science. Trần Thái Học
The Reviewer 1:
The Reviewer 2:
The Reviewer 3:
The thesis will be protected against Council of state of assessing
thesis meets at
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
At…..hour…….date……..month……year 2015.
Learning more about the thesis in the library:
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
......................................................................................................
THE LIST OF THE WORKS PUBLISHED BY THE AUTHOR
RELATED TO THE TOPICS OF THE THESIS
1. Nguyen Huu Le (2013), "The magical element in Vietnam travel
writing in the first half of the twentieth century", Proceedings of
Scientific Conference "The magic element and myth in literature",
Hue.
2. Nguyen Huu Le (2014), "Nguyen Don Phuc's style travel writing",
Journal of science of HNUE, Vol. 59, No 3, pp. 39 – 47.
3. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues on language style of travel
writing", Journal of Language and Life, No 224, pp. 58 – 65.
4. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues of genre – poetics of travel
writing", Journal of science Hue university, Vol. 95, No. 7, 163 –
179.
5. Nguyen Huu Le (2014), "The art style of Man Khanh Duong Ky
travel writing", Song Huong Journal, No. 305, pp. 72 – 79.
6. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues on the genre of travel
writing", Literary journals, No. 8, pp. 52 – 62.
7. Nguyen Huu Le (2015), "The subject matter in Vietnam travel
writing in the first half of the twentieth century", Literary journals,
No. 5, pp. 104 – 115.
1
INTRODUCTION
1. Reasons for choosing the subject
1.1. In studying of literature, people have so far paid attention to
defined literary genres. Literary works lie among the boundaries of
different genres have normally been forgotten. Vietnam travel writing is
one of such case.
1.2. From beginning of the twenty first century, travel writing started
to gain the attention of both national and foreign researchers. In Vietnam
literature, this genre has twice broken out: the first time was on the first
half of the twentieth century, and the second one was on the beginning of
the twenty first century. However, after a quite long time, travel writing
has not yet been researched seriously and adequately. Therefore, there is
no theoretical and historical works expressly for this genre. We want to set
out an issue: How to remove the boundaries that separate the travel writing
genre from others? And how to identify the characteristics of this genre
not through rationalization but through the studying of its practical
composition?
1.3 Throughout the process of formation and development, Vietnam
travel writing has existed as a genre of literature. Until the first half of the
twentieth century, there appeared many authors and works of travel
writing published on newspapers and magazines. Appeal of travel writing
attracted a lot of journalists, writers, students and travellers by its
freshness. During the literary modernization in the first half of the
twentieth century, travel writing once occupied an important position on
Vietnam Literary Circles and made a lot of contributions. Vietnam travel
writing in the first half of the twentieth century need to be seriously study
to clarify some issues: type, genre, feature and its position towards the
development of national literature history.
2
From the above reasons, we selected the subject: Characteristics of
Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century.
2. Research target
Under the subject “Characteristics of Vietnam travel writing in the
first half of the twentieth century”, researching activities of this thesis aim
to attain the here under targets:
2.1. Establish a reasonable understanding about the genre, the concept
of travel writing; determine theoretical matters of the genre. These matters
shall be the foundation to study the history and characteristics of Vietnam
travel writing in the first half of the twentieth century.
2.2. Determine the fundamental characteristics of Vietnam travel
writing respective to contents and forms.
2.3. Point out typical styles of travel writing genre in Vietnamese
Literature in the first half of the twentieth century.
3. Objects and scope of research
3.1 Research Object
Research Objects of the thesis’ subject is Vietnam travel writing in
the first half of the twentieth century. Those are literature works of travel
writing published on magazines in the first half of the twentieth century:
Nam phong (The Southern Wind), Tri Tan (Understanding the New by
reviewing the Old), Phu nu Tan van (Modern women), An Nam, Nam Ky,
Thanh Nghi, Tao Dan, Tieu thuyet thu bay (Saturday Novel) and printings
of travel writing having been published so far, which were all written in
this period.
2.2 Research scope
2.2.1 Scope of theoretical research of thesis is about theoretical
matters related to genre and literature history.
2.2.2. Scope of documentary research of thesis is about typical
authors and works of travel writing in the first half of twentieth century.
3
- In order for the research to be systematic, the works of Vietnam
travel writing before the twentieth century and in the beginning of the
twenty first century will be considered.
- Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century was
in rich content, diverse form with unique styles from various authors.
Vietnam travel writing in this period was divided in three types: travel
writing mixed with Han (Chinese) factors, travel writing contained with
modern style, and travel writing contained with imaginative and fictive
factor. The objective of the thesis is to select and introduce typical authors.
4. Method of research
4.1. Method of history
4.2. Method of structure –system
4.3. Analysis and summary
4.4. Comparison and correlation
4.5. Methods of inter-branch: poetics, stylistics, documentary,
aesthetic
5. New contribution of thesis
5.1. With regard to theory
- The thesis has pointed out the inconsistency about the
understanding of the concept and genre of travel writing. Since then, a
new concept has been defined: travel writing is one genre of prose to be
written under narrative form. Travel writing obtains full characteristics of
a genre and enables accept reflection manner of reality of some other
genres. It is able to have backward impact on the other genres.
- Some theoretical matters of genre of travel writing have been
given, which have never been mentioned in books of literature theory in
Vietnam so far.
5.2. With regard to reality
4
- Collect many works of travel writing including works that haven’t
been discovered. They are precious writings that enrich the heritage of
national literature.
- Based on the analysis of the characteristics of style and genre, we
launch bases to separate travel writing works from others and point out
works that are not travel writing, which mislead many people.
- The thesis approaches travel writing in terms of content and form to
recover the appearance of Vietnam travel writing in the first half of the
twentieth century with its specific characteristics. The research on the style
of author affirms that travel writing in the first half of the twentieth
century is an important part of literature.
- The thesis’s findings can be used as reference to compile textbooks,
learning materials and research for some majors such as literature, culture,
tourism.
6. The thesis’s structure:
Besides the introduction, conclusion and appendix, the thesis
includes five chapters:
Chapter 1: Research overview
Chapter 2: The issue of theoretical genre and history of Vietnam
travel writing
Chapter 3: Characteristics in content of Vietnam Travel writing in
the first half of the twentieth century
Chapter 4: Characteristics in form of Vietnam travel writing in the
first half of the twentieth century
Chapter 5: Typical styles of Vietnam travel writing at the first half
of the twentieth century
5
CONTENT
Chapter 1: RESEARCH OVERVIEW
1.1. Concept and genre of travel writing
1.1.1. Overseas
During the 90s of the twentieth century, the study and criticism of
travel writing developed strongly in many countries in the world.
Nowadays, many scholars consider travel writing as a genre of travel
literature. The concepts of travel writing are about this issue.
The definition of travel writing depends on the concept of its genre. In
other countries, the definition and genre of travel writing are approached
by two concepts: fiction and non- fiction.
About genre, there is no viewpoint which claims that travel writing is
a subcategory. On the contrary, it is considered to be wider than genre and
includes different subcategories.
Some people claim that travel writing stands between the line
“between scientific observation and novel” (Tim Youngs)
Although there are different concepts about travel writing, even
conflicting to each other, the definitions of foreign researchers as
mentioned above don’t consider travel writing as the notes of travellers.
They consider travel writing as a literature genre, which accepts many
expression modes of other genres. Thus, the content of travel writing
works is much larger than what the authors express in the text.
1.1.2. In the country
In the beginning of the twentieth century, travel writing was
unfamiliar to many people. Conception of travel writing was first
mentioned by Pham Quynh. He claimed that one must have experienced a
long journey in many days to write travel writing works. Vu Ngoc Phan
also admitted that there was travel writing but he didn’t confirm the genre
6
of travel writing. After studying “Thuong kinh ki su” (The chronicle of
the journey to the royal city ) by Le Huu Trac, which was called by several
names: Du ky (Travel writing), Ky su (chronicle), (truyen ky kich su)
memoirs, But ky (notes), etc.
Travel writing was discussed as a genre by researchers and literary
critics in the 60s of the twentieth century. Based on the perspectives of
theoreticians in USSR and China, Vietnamese scholars divided into four
categories: poetry, story, drama, and chronicle. Travel writing was
considered as a subcategory of note. This perspective is maintained until
today.
Recently, travel writing is identified as a style but it doesn’t separate
from chronicle genre and exist as a genre.
1.2. Vietnam Travel writing in the first half of the twentieth century
1.2.1. Overseas
When Pham Thi Ngoan analyzed the magazine Nam Phong in her
thesis, she focused only on travel writing but she didn’t give any definition
of this genre or pointed out its characteristics.
1.2.2. In the country
Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century was
approached on aspect of style by many people and scholars. Nguyen Huu
Son had many articles published in magazines and newspapers.
In addition, travel writing during this period was also approached in
terms of culture and language but still based on point of view: travel
writing is a sub-genre of chronicle.
1.3. Identification of problems from research overview
Comparing travel writing to other genres, we agree with many people
to consider travel writing as a genre. We also define subjective factors of
art of travel writing and give a definition as follow:
7
Travel writing is a genre of literature, its works write about journeys
or relate to journeys with specific purposes and often reflect reality
through many means of narrative and non- narrative such as: notes taking,
describing, imagining, telling stories, building dialogues, etc.. In some
cases, travel writing can apply reflection methods of art, photography,
cinematography, television, etc., which receives scientific information
such as: studying, investigation, documentations statistics, etc. and in
some cases it accompanies with ways of expression. The central
characters of works are both subject and object, and also narrator. In
addition to informative content, expressive content, travel writing also
contains personal culture at the point of cultural contacting between
subject and reality in the place where subject discovers or experiences it
for the first time.
For works which use verbal material, travel writing is influenced by
other genres such as: notes, memoirs, journal editor, prose, style using
couplets, reportage, chronicle, etc. Thus, in some existing works, different
genres interfere. Based on universal characteristics, travel writing can be
distinguished with other genres which are closed to it. Travel writing
always exists in a structure which is dominated by journeys. Factors such
as time, space, characters in works of travel writing ensure the objectivity.
Chapter 2: THEORY ON CATEGORIES AND HISTORY OF
VIETNAM TRAVEL WRITING
2.1 Poetics of the travel writing genre
2.1.1. Plot
The matter of plot has been given with various explanations by
researchers. According to modern perspective, travel writing gives an
account of the character’s journey through several places. Compared with
the plot of tales, the plot of travel writing depends on the narrator, while
8
the other one depends on the characters. Therefore, in works of travel
writing genre, the narrator plays an important part in the plot, which
means he or she can drive the plot according to his or her own intention.
2.1.2. Structure
The structure of travel writing is one-way, chronological structure. It
may omit a period of time, but it never goes back to the past. The
coordinates of the structure is the passing points of two axes: vertical axis
to connect events in the journey and horizontal axis to connect culture
gaps established by readers in the relationship between the author and the
readers.
The characteristic of the structure of travel writing is the segmented
structure, following time axis with four main types: intuitive structure,
story-within-story structure, daily log structure, and narrative-lyrical
structure.
2.1.3. Narrative perspective
The narrative perspective in travel writing is external objective,
where the subject chooses it to reflect upon. The author’s intention
represents his or her way of choosing and prioritizing events that happen
along the journey.
2.1.4. Time and space
Space in a travel writing consists of two types: Physical space is the
space of the journey, including: location, sites and other elements
indicating space such as vehicle, houses, temples, pagodas, landmarks,
greenery, mountains, etc.. Conceptual space is the space that carries the
meaning of the journey such as tracing origin or experiencing. Each type
of journey has a different way of expressing ideas.
Time in travel writing consists of two types. Physical time is the
linear time. Conceptual time is the time that recreates a past space to
9
express the idea that this journey carries another meaning. This time can
bring human beyond his or her own time axis to another time.
2.1.5. Wording
Words used in travel writing are the generic layer. Words in travel
writing can commonly be found in such documents as: diaries, letters
during journeys, freestyle articles, essays, etc. The main character’s speech
in travel writing is about mentioned subjects that have been filtered by
thoughts.
2.2. An overall view on the history of Vietnam travel writing
We find that Vietnam travel writing during the first half of the
twentieth century was not a breakthrough phenomenon, but rather a
process. We can determine the position of Vietnam travel writing during
the first half of the twentieth century in its own diachronic as follows:
2.2.1. From the tenth century to the seventeenth century
Travel writing existed in the form of poems or verses. Through his or
her journey, the author often expressed his or her feelings about the
destinations and about current affairs. Truong Han Sieu is famous for his
travel writing in the form of poems, written during envoys or mountainous
trips. Pham Su Manh is known for the poems telling his trips as an official.
Chu Van An, Ho Tong Thoc, etc. are popular as authors of poems written
while travelling. As for verse type, we can cite Truong Han Sieu, Nguyen
Hang as prominent authors.
2.2.2. From the eighteenth century to the nineteenth century
During the eighteenth century, travel writings in the form of poems
were followed by travel writings in the form of Han prose by authors such
as Trinh Xuan Thu, Le Huu Trac. In the nineteenth century this form of
travel writing developed and there appeared a number of literature works
about overseas trips such as: Tay hanh kien văn ki luoc (My brief account
10
of a trip to the West) (1831) by Ly Van Phuc (1784 – 1849), Hanh trinh
chi luoc (A brief of a journey on the sea) (1834) by Phan Huy Chu (1782 –
184); other works by the delegation of Phan Thanh Gian, Pham Phu Thu,
Nguy Khac Dan during their envoys to France and Spain in 1863: Nhu tay
su trinh nhat ky (Diary of the Envoy trip to the West) (1864) by Pham Phu
Thu, Nhu Tay ki (An account of the journey to the West) (1864) by Nguy
Khac Dan, Tay phu Nhat ki (Diary in the West( (1865) by Ton Tho Tuong,
etc.
2.2.3. In the first half of the twentieth century
This is the blooming period of travel writings. This kind of literature
works appeared in such magazines as: Nam phong (The Southern Wind),
Tri Tan (Understanding the New by reviewing the Old), Phu Nu Tan Van
(Modern women), etc. There were a large number of authors, many of
which created their own style of writing such as Pham Quynh, Nguyen
Don Phuc, Duong Ky, etc.
The development of travel writings during this period is accountable
to the change in culture and literature, namely:
- Colonization policy of the French colony
- The appearance of literature and newspapers using the national
language
- Translation and critics activities
During the first half of the twentieth century, Vietnam travel writing
went through developing stages as follows:
- From 1900 – 1917: Newspapers re-released old works. There was
only “Huong son hanh trinh” (Huong Son journey) by Nguyen Van Vinh
appearing as a new work on the Dong Duong tap chi (Indochina
Magazine).
11
- From 1918 to 1934: This is the blooming period of travel writing on
Nam Phong (The Southern Wind) magazine. During its 17 years of
publishing, Nam Phong (The Southern Wind) published 120 issues with
both domestic and foreign travel writings. Phu Nu Tan Van (Modern
women) magazine also featured travel writings from the first issue and
published in series. This period witnessed the emergence of many
professional authors of travel writings such as Pham Quynh, Nguyen Don
Phuc, Nguyen Ba Trac, Pham Van Anh (Dao Trinh Nhat), Nguyen Tien
Lang, etc. In this period, travel writings had some characteristics such as:
featuring both traditional and modern elements. It was in this period that
literature using national language was forming and developing. In some
travel writings, there appeared an influence from Han literature. This
continuation of tradition created an abundance of styles and categories for
Vietnam travel writing. In comparison with travel writings of the last
century, Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century
had radical transformations towards modernity. This modernity was
expressed in such elements as: materials, poetics, style, writing trends, etc.
- From 1935 to 1945, when Nam Phong (the Southern Wind) magazine
stopped publishing, travel writings still appeared on such magazines as Tri
Tan (Understanding the new by reviewing the old), Phong Hoa, Thanh
Nghi, and Nam Ky. There were more steady authors such as Tran Huy Ba,
Duong Ky, Nhat Linh, Nguyen Tuan, etc. During this period, there was a
correlative influence between other kinds of prose.
2.2.4. The latter half of the twentieth century
After 1945 to the 1980s of the twentieth century, our country suffered
from continuous wars and embargo by the US and tourism writhed without
favorable conditions. Therefore, travel writing works lack the necessary
conditions to thrive.
2.2.5. From the last decades of the twentieth century to present
12
From the last decade of the twentieth century to the first decade of the
twenty first century, travel writings re-emerged. During this period, travel
writing works were mostly about overseas trips for sightseeing and
education. This period also witnessed the rising of female authors such as
Ngo Thi Giang Uyen, Duong Thuy, TranThi Khanh Huyen, etc.
Chapter 3: CHARACTERISTICS OF CONTENT OF VIETNAM
TRAVEL WRITING IN FIRST HALF OF THE TWENTIETH
CENTURY
3.1. The richness of the theme
3.1.1. Cultural study theme
Travel writing works on national culture study during this period
were quite diverse and reflected in many different areas. The interference
phenomenon between individual culture and cultural value of the object is
studied as a way to deploy the themes in the works.
3.1.2. Historical theme
There are a variety number of travel writing works on historical
theme during this period. Unlike historical themes in the novel, travel
writing genre did not focus on writing about historical figures or events.
Travel writing aimed to information on historical sites and monuments;
and assumed that these places are known by few people or known
unthoroughly;
3.1.3. Landscape theme
Landscape is a traditional theme of Vietnam travel writing genre.
Landscape in travel writing during this period varied in many objects such
as natural scenes with mountain, river, lake, sea and artificial scenes with
pagoda, tower, mausoleum, palace, citadel, castle, etc. All created an
image of the harmonious and beautiful Vietnam.
13
3.1.4. International theme
There are many works written during the writers’ abroad trips to
many foreign countries such as France, Laos, China, Hong Kong, Thailand,
and Japan in Travel writing in the first half of the twentieth century.
International theme in travel writing during this period did not seriously
convey political or diplomatic relations. With this theme, Travel writing in
the first half of the twentieth century carried much significance not only
on individual culture relationship but also on ethnic and colonial issues.
3.1.5. Ethnic minorities theme
This theme was first appeared in Vietnam travel writing in the first
half of the twentieth century. Writers of this genre came to the places
where ethnic minority people resided in Northern Midlands and Mountains,
Highlands, South Central, Southern regions. The journey to discover the
life, customs and people of some Ethnic minorities has added a picture of
the culture and people of Vietnam.
3.2. The diversity of inspiration
3.2.1. Inspiration of exploration
Inspiration of exploration in Vietnam travel writing in the first
half of the twentieth century lay on the trend of world travel writing in the
second half of the twenty first century. The highlight of inspiration of
exploration during this period was the combination of cultural inspiration
and self-exploration.
3.2.2. Patriotic inspiration
Vietnamese intellectuals were aware of the fate of people in a
colonial country. Patriotic inspiration was reflected in the writer's attitude
towards reality, man, the encounter and contact to relics and scenery.
3.2.3. Spiritual inspiration
14
Spiritual inspiration in travel writing is the writer’s needs and
aspirations to implement his wishes by journey. There are many cases, the
writer, while making the journey, met spiritual elements. There are many
works of travel writing talking about the journey to admire the temple
which is considered to be the place of Buddha epiphany. There are also
many works of travel writing about sacred places with shrines, communal
house, tower and the spots where mental activities are taking place.
3.2.4. Lyrical inspiration
Lyrical inspiration in travel writing is the imagination and
emotions before things, people and other phenomena that the writer has
experienced. Sometimes lyrical inspiration was in harmony with nature
and romantic inspiration. The popular lyrical inspiration in travel writing
during this period was the emotions turning into poems.
3.2.5. Inspiration of life
Inspiration of life reflected the interest of the writer while contacting
with life situations along the journey. The team of writers of travel writing
genre is journalists, whose profession dominated their writing. Their
interest was not expressed into theme but appeared in the description
paragraphs and discourses.
Chapter 4: CHARACTERISTICS OF FORM OF
VIETNAM TRAVEL WRITING IN FIRST HALF OF THE
TWENTIETH CENTURY
4.1. Plot
4.1.1. Plot of Journey
Vietnam Travel writing genre has the plot associated with the
purposes of the journey. Travel writing with plot are often the works of
abroad journeys with large space and long duration such as Phap du hanh
15
trinh nhat ky (Diary of Journey to France) (1922) by Pham Quynh, Sang
Tay – Muoi thang o Phap (Going abroad – Ten months in France) (1929)
by Pham Van Anh (Dao Trinh Nhat), Di Tay (Going abroad) (1935) by
Lang Du, Toi thau khoan (Three months in China) (1941) by Le Van
Truong, Mot chuyen di (One trip) (1941) by Nguyen Tuan, etc.
Travel writing with small and medium plot is the works associated
with short journeys to Laos or domestic journeys. Plotless works are close
to prose written during scenic excursions.
4.1.2. Plot of Tale - Legend
This plot has a relationship with topics and ideas. Vietnam Travel
writing has many works with plot of tale – legend. These works tell stories
about the cultural and historical figures with the content related to sites,
monuments, landscapes, etc. which the author met his journey. Some
typical works are those written by Duong Ky, Nguyen Don Phuc, Hoang
Minh, etc.
4.2. Structure
4.2.1. Frame structure of the works
Frame structure of the documents is almost one type of structure.
As usual, travel writing is based on the structure of “three sections” of
introduction, main content, and conclusion. In fact, each work has a
different type of structure, expressing the multi-style in the art of building
works.
4.2.2. Visual structure
In Vietnam Travel writing, visual structure is associated with the
description of objects in sequence of journey time. Some typical works are
Cuoc choi nam tang nui (Exploration trip to five-story mountain) by
Nguyen Don Phuc, Cuoc choi trang song Nhue (Playing with the moon on
Nhue river) by Nguyen Manh Hong, etc.
16
4.2.3. Structure of Itinerary - Event
In the works of Pham Quynh, Mau Son Muc, etc. the structure of
itinerary-event is often used to recount the event by time on daily basis.
4.2.4. Narrative – lyrical structure
This type of structure occupies a large number in Vietnam Travel
writing. The works written during visits to landscapes, monuments with
short travel writing have narrative – lyrical structure. These works have a
combination of recounting and describing to express feelings in poetry or
literature.
4.3. Narrative viewpoint
4.3.1. Multifaceted viewpoint toward reality
The relationship between the narrative viewpoint and characters in
Vietnam travel writing has shifted the position of narrative persons. In
relation with the characters, narrative viewpoint is the method of narration,
presentation, description, etc. matching the way of feeling and thinking to
the reality that the characters witness and experience during the journey.
4.3.2. Shifting viewpoint of the narrator
To travel writing works with small extent, popular narrative
viewpoint is the shift between author - journalists - characters such as the
works of Nguyen Don Phuc, Thai Huu Thanh, Vu Nga, etc.
4.4. Verbal art
4.4.1. Combination of materials
In Vietnam travel writing works genre, the mixed language
phenomenon occurs in two cases: the Han (Chinese) and French language
in Vietnamese documents. In many cases, this use of language carries
artistic purposes.
4.4.2. Diversity of writing style
17
Wording in the works of Vietnam traveller writing genre often
displays the forms of reflection: description, discourse and lyric. Musical
wording in travel writing works often appears in the works with lyrical
paragraphs.
Travel writing works using this writing style have combination of
poem and prose attracting the readers. This writing style combines two
elements of narration and lyric which is the typical type of speech in
traditional travel writing.
Chapter 5: TYPICAL AUTHORS OF VIETNAM TRAVEL
WRITING IN FIRST HALF OF THE TWENTIETH CENTURY
5.1. Nguyen Don Phuc – traditional style
5.1.1. Artistic philosophy on « travelling »
According to Nguyen Dong Phuc, the playing style of writer class is
non-superficial. They have their own purposeful pun toward nation soul.
The playing style of Nguyen Don Phuc in travel writing is the one with
noble fun, old and non-secular happiness.
5.1.2. Approaching the object in terms of history
From historical viewpoint in his notes, Nguyen Don Phuc took the
readers to the fairy world of the historical figures and events.
5.1.3. Ancient and expressive language
Travel writing works of Nguyen Don Phuc are an art form of
dialogue between two schools of thought: innovative and conservative.
There appeared many proverbs and philosophies in travel writing works of
Nguyen Don Phuc. He used the Han-Vietnamese and Han language with
many expressive sentences and the interjection.
5.2. Pham Quynh – modern style
5.2.1. Ideological travel writing
18
Poses of Pham Quynh are ideological poses written for ideological
target. In travel writing, Pham Quynh always reflected the issues of
national and ethnic ideas and moral ideas, etc. By contacting with modern
Western thoughts, many travel writing works of Pham Quynh bring
modern nation ideas, expressing the desire to reform the country. The
works about international topics are often ideological such as: Phap du
hanh trinh nhat ky (Diary of Journey to France) and Du lich xu Lao
(Travelling in Laos). In addition, the works about his visits in the country
such as Muoi ngay o Hue (Ten days in Hue), Mot thang o Nam Ky (One
month in the South) also expressed his ideas.
5.2.2. Modern structure and language
Pham Quynh has many travel writing works with large scale
attached with big trips. These works have modern structure like European
travel writing. Wording in Pham Quynh travel writing is modern
Vietnamese language.
5.2.3. Travel writing with philosophical style
The length in Pham Quynh travel writing is not the result of diffuse
record of everything she met during his trips. The philosophical feature in
his works dominates the selection of writing style. Pham Quynh travel
writing is not rigid in one type of document structure but varied flexibly.
Pham Quynh travel writing differs from the others’ in his philosophy
which is always on top priority. Therefore, his travel writing, dispite of
different extent, are always decorated by philosophical nature.
5.3. Man Khanh Duong Ky – mythologizing style
5.3.1. Historical sensory and mythologizing style
The journey in Man Khanh Duong Ky travel writing is the journey
through time and space to visit the place that no one has ever come in his
time which is Champa capital of ten centuries ago. Art world in Man
Khanh Duong Ky travel writing is a mix of history and legend. He used
19
the mythologizing style to make the reality and the virtuality co-existing
and indistinguishable.
5.3.2. Art of building scenes and creating historical atmosphere.
Man Khanh Duong Ky is talent in building scenes and creating
historical atmosphere both in the text and structure.
5.3.3. Visual wording
Travel writing wording of Man Khanh Duong Ky is selective one. He
has a rich vocabulary to describe exactly the scene and people. He also has
scientific vocabulary, valuable resources and a thorough understanding of
Champa language and culture. In doing this, he has restored lost things to
return in the notion. By this material, many scenes were drawn with rich
colors, contours and expressions by him.
CONCLUSION
1. Travel writing is the issue of contemporary literature. Thanks to the
multi-faceted impact of economics - culture - society in the development
era of science, engineering and technology, many issues of history and
literary theory are reviewed. Travel writing has become the object of study
not only for theory and literary criticism but also for many different
sectors. In the last decade of the twentieth century, the international
conferences on travel writing genre attracted many researchers to this
genre. The issues posed for academic research and application research in
travel writing such as its definition, genre determination, genre
characteristics, boundary to distinguish travel writing as a literary genre
from non-literary genres, etc. were discussed. The debates of academic
researchers met at some points: considering travel writing as a literary
genre, basic characteristic of travel writing is the journey of the author, at
the same time, the figures, the information and objectivity characteristics
of travel writing are larger than what people think so that it could be able
20
to penetrate into the territory of the other sciences, etc. In the scope
expansion of research objects, research trend of literary history in relation
to culture as a literary environment has re-put the issue on the concept of
genre. In this trend, researchers have recently set out the issue of
reviewing the sub-genres of travel writing such as: doctoral thesis by Le
Tra My titled Tan van Viet Nam the ky XX (tu cai nhin the loai) (Vietnam
prose in the twentieth century – From the viewpoint of genre) (2008),
doctoral thesis by Tran Van Minh titled The loai tuy but trong van hoc
Viet Nam tu 19030 den 1945 (Essay genre in Vietnamese literature from
1930 to 1945 ) (2011), together with many other articles published on
specialized journals. However in Vietnam, many people still have the
conception that travel writing is a sub-genre of memoirs, some cautiously
identify travel writing as a genre. Unlike proses or essays which are
originated from memoirs; travel writing appeared very early in the written
literature of humanity. In the history of Vietnam literature, travel writing
even appeared before Han script memoirs, despite the formation of its
genre had to undergo the stages of development with different genre form.
Vietnam travel writing has an intermittent development process by the
peculiarity of its existence mode. By the first half of the twentieth century,
with the convergence of conditions such as the concept of travelling and
means of transport had improved, cultural environment had changed,
journalism and translation of travel writing had developed, etc., travel
writing flourished again. With large extent and a variety number of
authors and works in many different styles, Vietnam travel writing in the
first half of the twentieth century is a literature genre with deserved
position in nation literature.
2. Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century
emerged as a phenomenon of literary development. Being rooted in the
flow of traditional travel writing, acquired the spirit and culture of the era,
expanded travel space, and raised awareness of the history and culture of
21
the intellectual elite, Vietnam travel writing has developed and pioneered
on the path of modernization of literature on the use of language and
perfecting its genre. Hundreds of works appeared in newspapers and
magazines for almost half a century with many outstanding writers have
made travel writing genre reach the pinnacle of development in the history
of Vietnam travel writing. From abroad trips to work, to study, to visit
relatives or just the flighty trip, Vietnam intellectuals have written celestial
travel writing works talking about what being seen by their eyes see, and
what being heard by their ears, recording the feelings and thoughts about
the country and people of many countries around the world. From there,
they looked on the spots, landscapes, people, and culture of Vietnam with
the pros and cons by sentiment and desire toward the country. In travel
writing works of exploration, the aspirations of Vietnam intellectuals on
the reform of the country and on a tomorrow nation could be realized.
Those people with no chance to travel abroad had to find hidden places
where many nations’ cultural and historical features that the intellectuals
had not had the opportunity to admire. Vietnam landscapes become vaster,
more beautiful, and richer in tradition and culture thanks to the footsteps
of traveling writers and journalists. It is what has made the content
characteristics of Vietnam travel writing in the first half of the twentieth
century: richness in theme and diversity in inspiration. Besides traditional
themes of landscapes or foreign countries, there were some new themes
appearing in travel writing during this period such as cultural study theme,
historical theme, and ethnic minorities theme. With these themes, travel
writing has created a colorful picture of Vietnam country and people.
Inspiration for travel writing in this period did not completely rooted in
inspiration for travelling or sightseeing but largely from ideology. Each
work carries a different voice on the country, history, culture and people
of Vietnam. Although there are not many long travel writing works, with
multiple short travel writing works about many different places in the
22
territory of Vietnam, Vietnam travel writing in the first half of the
twentieth century was like a journey of a collective returning to the nation.
3. Lying on the flow of national literature in modernization period,
Vietnam travel writing in the first half of the twentieth century emerged as
a literary genre with many characteristics of its genre. Despite the colorful
flower garden of Vietnam travel writing in the first half of the twentieth
century, it could be easily realized that Vietnam travel writing was flowing
into two distinct flows: one originated from traditional travel writing of the
nation, one originated from modern European travel writing. Unlike
poems or novels which have to seek to eliminate each other, these two
flows accompany and complement each other to make up the
characteristics of form of Vietnam travel writing. Travel writing works of
modern flow have journey plot with its structure being dominated by the
itinerary and experience of the authors. Travel writing works of traditional
flow have tale – legend plot being dominated by the destination and
ideology of the authors. The formation and development process of
literature has made surrendered travel writing, a genre taking free principle
as matching principle, into some types of structure and structure to make a
certain style of Vietnam travel writing genre. Along with it was the
flexibility in the use of language and expression to create its own voice, its
own tone, and its own view on things and phenomena. Meanwhile other
genres, upon changing the materials, had to hesitate in testing; travel
writing was pioneered genre in composing in national script. Travel
writing in Vietnam national script quickly shaped in its genre and at the
same time did not reject other materials such as Han characters and French
but used them as an art method.
4. Travel writing is the genre capable of creating a variety of styles.
The development of Vietnam travel writing in the first half of the
twentieth century has formed a variety of author styles such as Nguyen
23
Don Phuc, Pham Quynh, Duong Ky, etc. In the composition of travel
writing works, the journey is compared "flour", but it could not make up
the "cake" which is the work. To convey the journey into paper, it requires
the authors with ideology, attitude and perception on travelling.
Destination is not as important as travelling purposes. Nguyen Don Phuc
has the notion of travelling as a return, in addition to the return to his roots
and national traditions, more important, the return to himself. If the
journey is as simple as outing, there are many classes of people with
multiple ways of playing. Intellectuals are noble players, responsible fairy
and historical players. To Pham Quynh, once travelling, it must be far
away and only travelling far away, travel writing works are written. The
journeys and trips to France, to Laos, to the South, to Hue, Lang Son - Cao
Bang conducted by Pham Quynh have become the factors of much travel
writing works. Pham Quynh has brought the breath of the times into the
travel writing, motivated and urged the men to seek for the journey so as
to experience themselves, to widen their views, to know here and there.
Man Khanh Duong Ky chose the way of going back the history to find in
the ruins to a heyday of the kingdom of Champa to compose travel writing
works. Returning to cultural roots, Duong Ky has led the readers to the
two contrary sides of the culture, spiritual and religious life and daily life
through what Vietnamese people borrowed as homophobic dancing place
to earn their living, which is the religious and spiritual symbol of the
Champa. Although travel writing was not selective of its owners like
essays, it did not permit its owners to go easy with it once they have
chosen their way of travelling. Therefore Nguyen Don Phuc had to bring
his all traditional cultural capital dedicated to travel writing; Pham Quynh
has also put the spirit of the age on each page of travel writing to make up
a modern style ; meanwhile Man Khanh Duong Ky brought his talent of
history restoration into literature to create identity for travel writing. These
are just some typical cases. In Vietnam travel writing, the number of ways
24
of travelling is relevant to the number of ways of writing. All of these have
created the richness of content and diversity of forms to shape the
characteristics of Vietnam travel writing in the first half of the twentieth
century.
5. Travel writing is a democratic and popular genre of literature. The
wave of "Travel abroad" in the first half of the twentieth century had
similarities with the wave of "Travel abroad" in the first half of the twenty
first century and both were originated from the desire of the intellectuals
and the youth on the experience, the needs of studying and discovery
which created the travel writing flow of exploration. Travel writing is
capable of lighting dreams, awaking the soul, and inspiring the creativity;
hence travel writing is easy to adapt to civilized and modern society. In the
near future, travel writing will come to the Vietnamese younger generation
not because of the phenomenal demand but the satisfaction for the desire
to fly high and far to understand and discover new horizons of the world
and themselves and bring literary integrated into the vibrant and changing
life.
Travel writing might stop for a while but neither give up its itinerary,
nor be forced by other genres to stop at a certain time, because as long as
people still has the desire to move, to change their space, and to change
themselves, travel writing still remains. However, once advanced means
make people move too fast with too crowded travellers with a wider range
of people than before, travel writing will be at risk of being deprived from
delicate ones or being merged into vulgar, trivial things of pragmatism and
entertainment. Research on modern travel writing should be responsible
for navigating both critics and composition so that travel writing does not
lose its noble humanistic beauty.