Điêu khắc: Từ hiện đại tới
đương đại (1)
Lời nhóm biên dịch: Bài dịch này là phần mở đầu do Tiến sĩ Judith
Collins 1 viết trong cuốn sách Sculpture Today (xuất bản năm 2007),
có thể coi là một tổng quan về sự phát triển cùng những quan điểm
cách mạng về chất liệu, phương pháp và ý tưởng của nghệ thuật điêu
khắc hiện đại trong hơn một thế kỷ qua, đặc biệt là điêu khắc đương
đại trong hơn bốn thập kỷ gần đây. Tiêu đề do nhóm biên dịch tạm đặt.
Tác phẩm của Somers Randolph
Có lẽ trong gần nửa thế kỷ vừa qua, nghệ thuật điêu khắc trên toàn thế
giới đã thay đổi nhiều hơn so với bất kỳ thời gian nào khác trong
30.000 năm lịch sử của nó. Nó thay đổi bởi chính con người đã thay
đổi. Nghệ thuật điêu khắc đương đại cũng rắc rối nào kém cái xã hội
đương đại vô cùng phức tạp này.
Theo định nghĩa của từ điển, “đương đại” có nghĩa là “thời kỳ hiện tại”,
nhưng trước khi có thể thấu hiểu sự phát triển của điêu khắc từ hiện đại
tới đương đại, chúng ta cần phải biết nguyên nhân dẫn tới việc hình
thành các xu hướng, và như vậy, cần phải điểm lại tới một vài thế hệ
nghệ sĩ và trở về với thời kỳ những năm 1960 -1970 của thế kỷ trước.
Các nhà lịch sử nghệ thuật, phê bình và curator có xu hướng xác định
và gắn nhãn cho các xu hướng nghệ thuật với cái đuôi “chủ nghĩa” hay
“xu hướng” [ism], như vậy thì rất nhiều sáng tạo khó phân loại sẽ bị
xếp theo cùng một loại giống nhau. Các nghệ sĩ thường không quan
tâm tới các nhãn mác, họ xài đủ kiểu, bất kể, chỉ cốt xem có sáng tạo
được cái gì ra hồn không. Hơn bốn thập kỷ vừa qua đã chứng kiến biết
bao thăng trầm của nghệ thuật, mà trong một số trường hợp lại có sự
hồi sinh của các trào lưu như Chủ nghĩa Hiện đại (Modernism), Hậu
Hiện đại (Postmodernism), Xu hướng Ý niệm (Conceptualism), Chủ
nghĩa Tối giản (Minimalism), Chủ nghĩa Hậu Tối giản (Post-
Minimalism), Nghệ thuật Nghèo (Arte Povera), Chủ nghĩa Tân-Biểu
hiện (Neo-Expressionism), Nghệ thuật Tiến trình (Process Art), Chủ
nghĩa Tân Ý niệm (Neo-Conceptualism), Chủ nghĩa Phi Vật chất
(Dematerislization), Tân-Dada, Chủ nghĩa Tối ứng (Maximalism), Xu
hướng Trừu tượng và Biểu hình (Abstraction & Figuration). Trong
nhiều trường hợp, rõ ràng nhiều tác phẩm của cùng một nghệ sĩ sẽ xuất
hiện trong những trường phái, xu hướng hay chủ nghĩa khác nhau.
Một tác phẩm theo chủ nghĩa tối giản của Donald Judd
Chúng ta đang sống trong một thời đại phi tuyến với rất nhiều điều xảy
ra đồng thời ở nhiều địa điểm khác nhau. Chúng ta cũng đang ở vào
một thời đại đầy biến động, một phần do sự chuyển đổi giữa hai thiên
niên kỷ. Nếu có người đặt một câu hỏi: “điêu khắc thời buổi này là gì?”
thì chắc chắn không thể đưa ra được một câu trả lời đơn giản. Học giả
Ernst Gombrich, trong cuốn sách Câu chuyện Nghệ thuật 3 cho rằng:
“Không có nghệ thuật, chỉ có nghệ sĩ”. Do đó, cũng không có gì quá
đáng khi chúng ta noi theo ông mà rằng: “Không có điêu khắc, chỉ có
điêu khắc gia”.
Điêu khắc thời nay thật phức tạp, đa dạng chứ không hề đơn giản, khu
biệt. Rất nhiều các chất liệu, hình thức, kỹ thuật và khái niệm của điêu
khắc đã, đang và sẽ không ngừng thay đổi, điều đó cho thấy các nguyên
lý, quy luật làm nghề không còn bất di bất dịch với các ranh giới và
quy định hà khắc nữa. Thật vậy, vô vàn thành công của điêu khắc bắt
nguồn từ những thứ rất trái khoáy, điêu khắc đã mở rộng với vô số chủ
đề, liên tục và rộng khắp. Hầu như bất cứ thứ gì cũng có thể được đưa
vào trò chơi sáng tạo điêu khắc. Các tác phẩm điêu khắc động, điêu
khắc kết hợp với máy chiếu hình ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Cả
nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật môi trường cũng đã trở thành một bộ
phận mở rộng của điêu khắc.
Kể từ những năm 1960 – 1970 trên toàn thế giới bắt đầu có những đổi
thay tận gốc do sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ điện tử, kỹ thuật
số, thông tin liên lạc và internet. Điều này khiến con người thay đổi
cách thức tư duy về chính bản thân cũng như các khái niệm về không
gian, địa điểm – những yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động điêu
khắc. Đã xuất hiện một cảm thức mới về địa lý đậm màu sắc địa chính
trị – kinh tế hơn là đặc tính vật lý, và ít bị ràng buộc vào các đường
biên trên bản đồ hay những ranh giới vùng lãnh thổ. Ngoài ra, cách
thức chúng ta tiếp cận kiến thức cũng đã thay đổi. Mọi người đã có
nhiều nguồn tư liệu và hình ảnh hơn bao giờ hết, và hẳn là với sự mẫn
cảm đặc biệt, các nghệ sĩ dễ dàng cảm nhận những biến động sâu sắc
của thế giới, thiên nhiên, xã hội và con người hơn những người khác,
và nghệ thuật điêu khắc cũng đã phản ánh sâu sắc cả một thời đại đầy
biến động.
Đầu thập niên 1970, trong thế giới nghệ thuật đã xảy ra một sự thay đổi
lớn lao mà sau này được xem như là thời điểm “chôn lấp” chủ nghĩa
Hiện đại. Chủ nghĩa này từng chiếm ưu thế tuyệt đối ngay từ khi chủ
nghĩa Lập thể (Cubism) đang tung hoành cho đến đầu những năm 1960.
Chủ nghĩa Hiện đại, trong đó hội họa được ưu tiên hơn điêu khắc, được
đặc trưng bởi sự bác bỏ thực tế và nghệ thuật hàn lâm, tập trung vào
các vấn đề hình thức và màu sắc. Cổ xúy cho những quan điểm và ý
tưởng của nghệ thuật hiện đại là các phê bình gia Anh – Mỹ như Roger
Fry, Alfred Barr, Clement Greenberg và Michael Fried.
Tác phẩm Broken Obelisk của Barnett Newman
Khi chủ nghĩa Hiện đại sụp đổ, trọng tâm nghệ thuật bắt đầu chuyển
dịch từ hội hoạ sang điêu khắc. Lúc này, điêu khắc nổi bật lên nhờ
những quan điểm mỹ học điển hình của một số hoạ sĩ có ảnh hưởng
nhất với những ý tưởng phát triển từ các mặt phẳng màu. Họa sĩ
Barnett Newman (1905 – 1970) đã mô tả điêu khắc lúc này “là thứ gì
đó vẫn còn lưu luyến thú ngắm tranh”. Điêu khắc bắt đầu áp dụng các
kiểu mảng phẳng của hội hoạ, sử dụng các mảng tường và sàn nhà như
lãnh địa hoạt động của mình.
Đến giữa thập niên 1970, một làn sóng mới đột ngột trào dâng trong
hoạt động điêu khắc toàn cầu, cuốn theo rất nhiều thế hệ nghệ sĩ ở
nhiều quốc gia với vô số quan điểm nghệ thuật khác nhau.
Nhằm có cái “tít” thích hợp, trào lưu kế tiếp chủ nghĩa Hiện đại được
các phê bình gia gọi luôn là “Hậu – Hiện đại”, một thuật ngữ bắt đầu
thâm nhập vào kho từ vựng nghệ thuật, cả về thực hành và lý thuyết, từ
những năm 1970 mà ban đầu chỉ để mô tả một loại hình kiến trúc.
Cũng vào thời gian đó, một cuốn sách quan trọng của triết gia người
Pháp Jean-François Lyotard (1924 – 1998) ra đời có nhan đề “Điều
kiện Hậu hiện đại: Một Báo cáo về Tri thức” trong đó đề cập chủ yếu
tới các vấn đề xã hội chứ chưa phải là các vấn đề thẩm mỹ. Lyotard đề
xuất rằng: xã hội đương đại đã cự tuyệt các định chế/cấu trúc hùng
mạnh, kỳ vĩ và toàn cầu, ví dụ như tôn giáo, giới tính và tư bản chủ
nghĩa; xã hội đương đại ủng hộ các đặc tính địa phương, cá nhân và
huyền thoại. Cuốn sách của ông mô tả thế giới như “một cơ cấu” phân
mảnh, chống sát nhập, có cả những vay mượn tham lam từ các nền văn
hóa và tư tưởng khác nhau. Chắc chắn, sự phân mảnh, vay mượn và các
thành phần “cắt dán” được trích dẫn trong cuốn sách của Lyotard đã bắt
đầu tìm được cách len lỏi vào điêu khắc – nơi giờ đây vẫn còn lưu giữ
những tư tưởng xuất chúng của ông.
Trong số phát hành đầu xuân năm 1979 của Tạp chí October, nhà phê
bình nghệ thuật Rosalind Krauss (1941 -) đã có bài tiểu luận mang tính
tư tưởng nền tảng “Điêu khắc trong các lĩnh vực mở rộng” – một trong
những văn bản đầu tiên điều tra về chủ nghĩa Hậu Hiện đại trong lĩnh
vực điêu khắc. Bà đã mô tả tình hình điêu khắc trong hơn mười năm
trước đó với một số tác phẩm “thật đáng kinh ngạc khi được coi là điêu
khắc”; đồng thời, bài viết cũng liệt kê những thành tích của điêu khắc
lập được tính đến lúc đó. Các tác phẩm điêu khắc cho đến khi đó vẫn là
“thứ biểu tượng mang tính kỷ niệm”, chúng “đứng tách biệt ở một địa
điểm” và “thể hiện một ngôn ngữ biểu trưng cho chính nơi đó”. Chúng
tiêu biểu cho thứ nghệ thuật “biểu hình thông thường, theo chiều thẳng
đứng và nằm trên bệ giống như tượng đài”.
Top Related