BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
HOÀNG THẮNG
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG TRANH CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ MỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP THẠC SĨ MỸ THUẬT
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG TRANH CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS. LÊ BÁ DŨNG
HỌC VIÊN: HOÀNG THẮNG
CHUYÊN NGÀNH: HỘI HỌA
MÃ SỐ: 60210102
KHÓA: K18
HÀ NỘI - 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
GS
NXB
PGS
Tk
Tr
TS
Giáo sư
Phó giáo sư
Tiến sĩ
Nhà xuất bản
Trang
Thế kỉ
2
MỤC LỤC
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT ......................................................................... 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI . 11
1.1. Khái quát về đề tài chiến tranh trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam 11
1.1.1 Khái niệm về nghệ thuật tạo hình ................................................ 11
1.1.2. Đề tài chiến tranh trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam .............. 13
1.2. Khái quát hội họa Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1986 .. 17
1.3. Khái quát tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của họa sĩ Nguyễn Sáng........ 18
Tiểu kết ............................................................................................................ 22
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG CÁC
SÁNG TÁC CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG ............................................. 23
2.1. Đề tài chiến tranh trong tranh sơn mài của Nguyễn Sáng ............... 23
2.2. Đề tài chiến tranh trong tranh sơn dầu của Nguyễn Sáng .................... 33
2.3. Đề tài chiến tranh trong một số chất liệu khác của Nguyễn Sáng ........ 37
Tiểu kết ............................................................................................................ 40
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ...... 42
3.1 Thành công của Nguyễn Sáng trong các tác phẩm đề tài chiến tranh ... 42
3.2 Bài học về giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm đề tài chiến tranh của
Nguyễn Sáng ............................................................................................ 46
Tiểu kết ............................................................................................................ 51
KẾT LUẬN .................................................................................................... 52
TAI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 53
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 57
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Sáng là một họa sĩ tiêu biểu trong nền hội họa Việt Nam. Cùng
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, ông là người có đóng
góp rất lớn trong việc xây dựng, định hình nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam.
Nghệ thuật của ông là sự kết hợp hài hòa giữa tính hiện đại và tinh hoa của
dân tộc. Nguyễn Sáng thành công với những tác phẩm chất liệu sơn dầu và
đặc biệt là sơn mài. Các tác phẩm của Nguyễn Sáng có tầm cỡ về kỹ năng,
mang rõ những thông điệp lớn về thân phận con người và tiềm ẩn một tài
năng lớn của sáng tạo hiện đại cho nền mỹ thuật Việt Nam. Tranh của ông
gồm nhiều thể loại, ở thể loại nào ông cũng đều thành công, đặc biệt ở chủ đề
chiến tranh.
Các tác phẩm chủ đề chiến tranh như Giặc đốt làng tôi, Kết nạp đảng
ở Điện Biên Phủ, Hành quân đêm mưa, Bộ đội nghỉ trưa trên đồi, Thành
đồng Tổ quốc. . đã trở thành những tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian.
Các tác phẩm ở chủ đề này của ông đều có được sức ảnh hưởng mạnh mẽ
đến dân tộc. Nó không hướng công chúng tới cái đau đớn, khổ ải mà ngược
lại hình tượng trong các tác phẩm này lại không né tránh bi kịch và số phận
con người, thúc đẩy mạnh mẽ hơn, tin tưởng vào những hy sinh mất mát sẽ
đổi lại được tự do hạnh phúc. Hình tượng trong các tác phẩm ở đề tài chiến
tranh được ông chắt lọc của các nhân vật rồi khái quát lại và nâng nên những
biểu tượng điển hình khúc triết mang đậm tinh thần và ý chí yêu nước của
người Việt.
Đề tài chiến tranh trong tranh của Nguyễn Sáng là đỉnh cao của chủ
nghĩa hiện thực trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam gắn với tinh thần nhân văn
trong cái nhìn về chiến tranh ở nước ta.
4
Từ những tác phẩm hội họa về thời kỳ chiến tranh nói chung hay tác
phẩm về đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã tái hiện về lịch sử một
thời hào hùng của dân tộc. Có thể thấy, nghệ thuật của Nguyễn Sáng đã gắn
liền với lịch sử cách mạng, lịch sử nghệ thuật của dân tộc. Những tác phẩm
sơn đầu, sơn mài đẹp nhất trong sáng tác của ông là về đề tài chiến tranh cách
mạng Việt Nam. Ngôn ngữ trong tranh của ông có tầm khái quát cao, tiếp thu
nhuần nhuyễn nghệ thuật truyền thống kết hợp với thành tựu nghệ thuật hiện
đại thế giới, đóng góp vào việc cách tân của hội họa hiện đại Việt Nam.
Bản thân tôi, người thực hiện đề tài đã chịu nhiều ảnh hưởng và được
học tập một cách gián tiếp qua các tác phẩm của danh họa Nguyễn Sáng.
Ngay từ khi chưa theo học hội họa thì các tác phẩm của danh họa Nguyễn
Sáng trưng bày trong bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam đã truyền cảm hứng, thúc
đẩy đam mê, góp phần đưa tôi đến với việc lựa chọn con đường nghệ thuật.
Hiện nay đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về họa sĩ Nguyễn Sáng và
đề tài chiến tranh nhưng nghiên cứu riêng biệt về “đề tài chiến tranh trong
tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng” thì chưa có tài liệu nào. Vì vậy tôi chọn đó
làm đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nguyễn Sáng là một trong
những họa sĩ có tầm ảnh hưởng lớn trong nghệ thuật tạo hình. Nghiên cứu về
họa sĩ Nguyễn Sáng và các tác phẩm của ông có một số sách đề cập đến như:
Cuốn “Họa sĩ Nguyễn Sáng” (1989), của tác giả Trần Thức, viết về họa
sĩ Nguyễn Sáng, trong đó có sơ lược về tiểu sử cuộc đời của ông và có đề cập
đến các chất liệu sử dụng của ông hay các triển lãm nói chung, chưa có phân
tích cụ thể về thể loại tranh về thời kỳ chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng.
Cuốn sách “Các bậc thầy hội họa Việt Nam Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia
Trí, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái”, Nxb Mỹ thuật Hà Nội, Họa sĩ Phan Cẩm
Thượng có viết về họa sĩ Nguyễn Sáng, trong đó phân tích khái quát về một
5
số bức chân dung của ông có lối vẽ “thoáng hoạt, trực tiếp, mầu ấm và án từ
bên trong các mảng nhiều sắc độ, mà bề mặt trông rất ít màu” hay cách vẽ sơn
mài của ông như” thường dùng viền, mảng bẹt, mài nông, ít màu, nhẹ, nét bút
đưa nhanh, cốt nắm được thần thái” và cuộc đời của ông. Thêm vào đó tác giả
có đề cập đến hai bức tranh tiêu biểu “Giặc đốt làng tôi”, “Kết nạp Đảng ở
Điện Biên Phủ” nhưng không phân tích về đặc điểm tạo hình mà chỉ nói đến
âm hưởng bi tráng của cuộc chiến đấu chống quân xâm lược.
Luận văn: “Tính bi hùng trong tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại
(1945-1975)” của Mai Xuân Thắng đề cập đến tính bi hùng trong các tác
phẩm tiêu biểu ở giai đoạn này trong đó có nói đến và phân tích một số tác
phẩm của Nguyễn Sáng.
Luận văn: “Tranh sơn mài “Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ” của
Nguyễn Sáng” của Mai Viết Khương đã phân tích về một tác phẩm sơn mài
tiêu biểu về chủ đề chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng.
Luận văn: “Tranh sơn mài Nguyễn Sáng” của Trần Hoàng Sơn có viết
về nghệ thuật tranh sơn mài và phân tích sơ lược một số tác phẩm tranh sơn
mài của Nguyễn Sáng.
Luận văn: “Đặc điểm tạo hình trong tranh Nguyễn Sáng” của Hà Ngọc
Dũng có nêu ra những đặc điểm về đường nét và màu sắc trong tranh sơn mài
của Nguyễn Sáng.
Luận văn: “Hiệu quả chất liệu vàng trong tranh Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Sáng và Phan Kế Bính” của Nguyễn Đức Định có viết về hiệu quả
của vàng trong tác phẩm sơn mài Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ của Nguyễn
Sáng.
Luận văn: “Nguyễn Sáng và những cách tân trong nghệ thuật” của Đỗ
Văn Hiệp có nói về những sáng tạo của Nguyễn Sáng trong việc sử dụng bút
pháp lược tả hình khối và sự thành công trong các chất liệu tạo hình.
6
Luận văn: “Một vài suy nghĩ về hình tượng Đảng trong tranh Nguyễn
Sáng và Lê Quốc Lộc” của Phạm Trung Thành có nêu nên những suy nghĩ về
các tác phẩm tranh sơn mài của Nguyễn Sáng như: Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ, Thanh niên thành đồng, Bộ đội trú mưa.
Luận văn “Vẻ đẹp tạo hình hội họa Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975”
của Nguyễn Thế Hùng đã có cái nhìn tương đối đầy đủ về vẻ đẹp trong hội
họa Việt Nam trong giai đoạn đó, với sự so sánh tương đối rõ ràng nhưng
chưa đi sâu về tác phẩm, tác giả Nguyễn Sáng.
Khóa luận: “Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ trong tranh Nguyễn Sáng,
Trần Văn Uyên, (2008) đã phân tích bút pháp, màu sắc về hình tượng người
bộ đội cụ Hồ qua những tác phẩm như “Giặc đốt làng tôi”, “Kết nạp Đảng ở
Điện Biên Phủ” và so sánh với một số tác phẩm cũng vẽ về anh bộ đội cụ Hồ
như “Kết nạp Đảng trong tù” của họa sĩ Nguyễn Đức Nùng hay “Kết nạp
Đảng từ trong bóng tôi” của họa sĩ Lê Quốc Lộc. Nhưng chỉ dừng ở việc phân
tích sơ lược 2 tác phẩm trên của Nguyễn Sáng.
Bài viết trong Tạp chí mỹ thuật số1 - 2009 : “Con đường nghệ thuật
của Nguyễn Sáng” của Quách Phong có viết về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Sáng.
Bài viết in trong Tạp chí mỹ thuật và Nhiếp ảnh số 8 – 2013: “Thiếu nữ
bên hoa sen :Khảo luận bề mặt đến những tầng lớp ẩn khuất” của Trần Hậu
Yên Thế đã phân tích rất rõ tác phẩm Thiếu nữ bên hoa sen của Nguyễn Sáng
và đưa ra những hướng nhìn mới về phong cách và nghệ thuật sáng tác của
Nguyễn Sáng.
Bài báo Thể thao và văn hóa ngày 15 tháng 11 năm 2008, “Những câu
chuyện ít biết về Nguyễn Sáng” của Văn Bảy Báo có đề cập đến tính cách và
tác phẩm. Bài viết có nói qua về tác phẩm Giặc đốt làng tôi, nhưng không
phân tích về tạo hình.
7
Hay bài viết của Hoàng Đình Tài, “Họa sĩ Nguyễn Sáng, Hội họa và
kháng chiến” in trong Tạp chí Mỹ thuật – Nhiếp ảnh sô tháng 12/2014, có đề
cập đến các tác phẩm: “Chợ Bo đẫm máu”, “Tình quân dân”, “Giặc đốt làng
tôi” ,và các bức sơn mài “Trú mưa”, “Nghỉ trưa”, “Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ”, “Thanh niên Thành đồng”, bức tranh lụa “Tân binh vùng Du kích”. Tác
giả có phân tích một cách rất sơ lược về hình ảnh và tạo hình nhân vật của tác
phẩm “Giặc đốt làng tôi” và các tác phẩm sơn mài.
Bài viết: “Họa sĩ Nguyễn Sáng và kiệt tác Kết nạp Đảng trong chiến
hảo Điện Biên Phủ” của Nhà PBMT-Th.S Trần Thị Quỳnh Như, in trong diễn
đàn văn nghệ Việt Nam, ngày 24 tháng 7 năm 2016, có phân tích khái quát về
màu sắc, tạo hình chắt lọc giản dị, không gian, sự tương phản đậm nhạt,
đương nét mạnh mẽ toát lên chất bi, hùng của tác phẩm. Tác giả cũng có đưa
ra so sánh về cách biểu đạt với các tác phẩm như “Kết nạp Đảng trong tù” của
họa sĩ Nguyễn Đức Nùng; “Kết nạp Đảng từ trong bóng tối” của họa sĩ Lê
Quốc Lộc. Nhưng cũng chỉ dừng ở một tác phẩm. Mộ số bài viết trong các
báo, tạp chí của nhiều tác giả khác mà người viết không có điều kiện tiếp cận.
Bài viết về “Nguyễn Sáng (1923-1988)” của Bùi Thanh Phương. Tác
giả có nói sơ lược về tiểu sử sáng tác và cuộc đời đầy thăng trầm của họa sĩ
Nguyễn Sáng, từ nghèo nàn túng thiếu, cô đơn, đến triển lãm cá nhân đầu tiên
của ông và sau cùng vào Sài Gòn sinh sống .
Ngoài ra còn có một số luận văn đề cập đến đề tài chiến tranh nhưng
đều là những nghiên cứu về những tác giả và khía cạnh khác nhau mà chưa
nghiên cứu cụ thể về đề tài chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng.
Theo tình hình nghiên cứu cho thấy, những bài viết, bài báo về Nguyễn Sáng
là rất nhiều. Tuy vậy, nghiên cứu chuyên đề “đề tài chiến tranh trong tranh
của họa sĩ Nguyễn Sáng” thì chưa có tài liệu nào. Vì vậy tôi chọn đề tài này
để nghiên cứu nhằm tổng kết và phân tích các tác phẩm về đề tài chiến tranh
8
của họa sĩ Nguyễn Sáng cho thấy những đặc điểm tạo hình, yếu tố lịch sử bi
hùng trong tranh của Nguyễn Sáng đề tài chiến tranh.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến các mục đích nghiên cứu sau:
- Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của danh họa Nguyễn Sáng thông
qua các tác phẩm tiêu biểu.
- Phân tích các tác phẩm về đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng để
thấy được cách tạo hình và giá trị nghệ thuật độc đáo và quý giá trong các
tác phẩm của danh họa Nguyễn Sáng.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về thủ pháp tạo hình trong biểu đạt các
nhân vật trong các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Sáng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu chính của luận văn là các tác phẩm về đề tài chiến tranh của
họa sĩ Nguyễn Sáng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào nghiên cứu về các tác phẩm vẽ về thời kháng
chiến chống xâm lược của họa sĩ Nguyễn Sáng. Bên cạnh đó, luận văn có so
sánh với một số tác phẩm cùng vẽ về đề tài chiến tranh của một số họa sĩ
khác.
Luận văn nghiên cứu đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng ở các
chất liệu: sơn mài, sơn dầu, kí họa
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này cần sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn bản văn học: nghiên cứu, thu thâp tư liệu từ sách,
luận văn viết về các tác phẩm của Nguyễn Sáng chủ đề chiến tranh để
tìm ra những đặc điểm tạo hình của Nguyễn Sáng trong đề tài này.
9
- Phương pháp mỹ thuật học phân tích so sánh để làm nổi bật đặc điểm
đặc trưng, phong cách trong tranh của các tác giả Nguyễn Sáng ở từng
giai đoạn sáng tác.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghệ thuật học, mỹ học, tâm lý
học.
- Phương pháp quy nạp: từ thông tin thu thập được, phân tích và hệ thống
lại để tìm ra những đặc điểm trong tranh đề tài chiến tranh của Nguyễn
Sáng.
- Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh lịch sử xã hội xung quanh cuộc
đời Nguyễn Sáng và lịch sử hội họa thế giới ảnh hướng đến phong cách
sáng tác của ông để tìm ra đặc điểm riêng trong các tác phẩm tranh đề
tài chiến tranh của ông.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề chiến tranh trong tranh của
Nguyễn Sáng. Vì vậy, việc thực hiện luận văn sẽ mang lại nhiều đóng góp
như sau:
Bước đầu thống kê và phân loại các tác phẩm chủ đề chiến tranh trong
tranh của Nguyễn Sáng.
Qua đó thấy được giá trị của đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng
Góp phần tổng kết nhận định thành quả của sự nghiệp danh họa Nguyễn
Sáng.
Tạo tiền đề xây dựng một tài liệu giúp người đọc phần nào hiểu hơn về
tranh Nguyễn Sáng.
Góp phần phân tích chỉ ra đặc trưng, nét độc đáo, sáng tạo trong tư duy và
sáng tạo nghệ thuật của danh họa Nguyễn Sáng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của đề tài nghiên cứu gồm phần Mở đầu(8 trang), Kết luận(01
trang) và nội dung chính được chia làm 3 chương:
10
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (11 trang)
Chương 2: Nghiên cứu đề tài chiến tranh trong các các sáng tác của họa sĩ
Nguyễn Sáng (18 trang)
Chương 3: Những điều rút ra từ nghiên cứu đề tài (9 trang)
Ngoài ra luận văn còn có Tài liệu tham khảo(03 trang), Phụ lục và ảnh minh
họa (13 trang)
11
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nhằm làm rõ những vấn đề nghiên cứu trong chương 1, luận văn
nghiên cứu các khái niệm và khái quát tác giả liên quan đến nội dung
nghiên cứu để làm cơ sở lý luận nghiên cứu các vấn đề của đề tài
1.1. Khái quát về đề tài chiến tranh trong nghệ thuật tạo hình Việt
Nam
1.1.1 Khái niệm về nghệ thuật tạo hình
* Khái niệm nghệ thuật
Theo cuốn “Từ điển mỹ thuật Phổ thông” của Đặng Bích Ngân giải
thích nghệ thuật là các phương pháp tiến hành để làm ra các sản phẩm
chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng, cảm xúc và sự sáng tạo
của con người. Nghệ thuật thường phản ánh những tiêu chuẩn thẩm mỹ
trong các loại hình như văn học, âm nhạc, hội họa, sân khấu… Trong mỹ
thuật, nghệ thuật là sự sáng tạo của con người thông qua cảm xúc, sự quan
sát tinh tế và đôi bàn tay thành thục nghề. Nghệ thuật phản ánh các tiêu
chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo. Đặc biệt, nghệ thuật thường khai thác sự đối
lập giữa các yếu tố để sáng tạo. Người nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các
yếu tố khác nhau trong nội dung, kỹ thuật, quan điểm để sáng tạo nên tác
phẩm nghệ thuật. [14;tr101]
Vậy nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật
thể chứa đựng những giá trị lớn về tư tưởng thẩm mỹ, mang tính chất văn
hóa làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm cho người thưởng thức.
12
* Khái niệm tạo hình
Theo “Từ điển tiếng Việt” – Viện ngôn ngữ học thì tạo hình là: “Tạo
ra các hình thể bằng đường nét, màu sắc, hình khối.” [29;tr.860].
Trong “Từ điển tiếng Việt 1994” – Nxb Khoa học xã hội có ghi tạo
hình là: “ nghệ thuật biểu hiện bằng cách ghi lại, tạo nên những hình thể
với những bức họa, pho tượng” [8; tr.716]
Trong cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam tập 4” thì tạo hình là “thủ
pháp sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất cảm,
không gian, bố cục. Theo nghĩa rộng, tạo hình bao gồm hoạt động hội họa,
điêu khắc, mỹ thuật ứng dụng, kiến trúc, nhiếp ảnh. Theo nghĩa hẹp, tạo
hình là hoạt động thuộc hội họa giá vẽ và điêu khắc. Hội họa là nghệ thuật
tạo hình trên mặt phẳng, bằng các yếu tố đường nét, màu sắc, hình diện.
Điêu khắc là nghệ thuật tạo hình trong không gian ba chiều, bằng các khối
có thể tích. Mỹ thuật ứng dụng và kiến trúc sử dụng các phương tiện tạo
hình vào việc tạo dáng sản phẩm, sáng tạo môi trường không gian mang giá
trị thẩm mỹ và công năng.” [12;tr.60]
Theo “Từ điển mỹ thuật phổ thông” thì tạo hình theo nghĩa rộng là
sự sáng tạo mọi hình tượng nghệ thuật, theo nghĩa hẹp là sự sáng tác, sự
khắc họa những đặc trưng về hình thể trong điêu khắc, kiến trúc, hội họa và
các ngành mỹ thuật ứng dụng. [17;tr.128]
Về cơ bản, các từ điển trên giải thích khái niệm tạo hình một cách
đơn giản là nghệ thuật được biểu hiện bằng hình thể trong nghệ thuật tạo
hình thông qua các yếu tố tạo hình cơ bản. Nghệ thuật tạo hình gồm có hội
họa, đồ họa, điêu khắc và kiến trúc. Những yếu tố tạo hình nghệ thuật
chung nhất ở các thể loại tạo hình nghệ thuật là đường nét, màu sắc, không
gian, ánh sáng...
13
* Khái niệm nghệ thuật tạo hình
Theo cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam tập 3” thì nghệ thuật tạo
hình là nghệ thuật sử dụng một số phương tiện và chất liệu, tạo nên những
hình thức trên mặt phẳng và trong không gian. Tác phẩm hội họa, điêu
khắc, kiến trúc được coi là lĩnh vực của nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật tạo
hình còn được gọi là nghệ thuật không gian, nghệ thuật thị giác, nghệ thuật
tĩnh. Khác với các nghệ thuật khác như múa, điện ảnh, sân khấu mang tính
tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật. [11;tr.102]
Cuốn “Từ điển tiếng Việt” –viện ngôn ngữ thì nghệ thuật tạo hình là
hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động cụ thể và gợi
cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm. [29;tr.691]
Trong “Từ điển mỹ thuật Phổ thông” của Đặng Bích Ngân có trích
dẫn theo từ điển từ vựng mỹ học của Souriau -1990 đã định nghĩa: Nghệ
thuật tạo hình là nghệ thuật đưa tới thị giác những tác phẩm có không gian
hai hoặc ba chiều. Ví dụ như hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa, nghệ
thuật mang tính ứng dụng. [17;tr.106]
Từ các định nghĩa trong các từ điển trên, ta rút ra được nghệ thuật
tạo hình là hình thức nghệ thuật thị giác được biểu diễn trên mặt phẳng 2
chiều hoặc 3 chiều nhằm truyền đạt tư tưởng thẩm mỹ của tác giả.
1.1.2. Đề tài chiến tranh trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam
Cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam quyển 1” giải thích đề tài là đối
tượng miêu tả, biểu hiện, nghiên cứu, chuyện trò… Trong nghệ thuật, đề tài
được người nghệ sĩ khai thác một cách nhất quán theo ý tưởng, tư tưởng,
nghệ thuật của mình. Đề tài được nhận thức theo các quan điểm khác nhau,
tùy thuộc vào thế giới quan, lập trường tư tưởng của người nghệ sĩ. Thông
qua đề tài, người nghệ sĩ bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình. [9;tr.809]
14
“Từ điển Mỹ thuật phổ thông” cho rằng: đề tài là những lý do, những
vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một người hay một nhóm người
để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một
hình thức riêng với những hình tượng cô đọng điển hình. Ví dụ: đề tài lực
lượng vũ trang, đề tài chiến tranh, đề tài thiếu nhi, đề tài xây dựng v.v…
Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kì đều thể hiện những đề tài nổi
bật, phổ biến. Ví dụ: thời kì lãng mạn đề tài là thiên nhiên, con người và
tình yêu; thời kì hiện thực, quê hương đất nước, con người trong lao động,
trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường với những tình cảm đa dạng
phong phú v.v… Kể từ khi hình thành Chủ nghĩa Ấn tượng, với sự ra đời
của những trường phái mang tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không
quan trọng và không có tính chất quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi nên
một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí có khi tùy tiện. Có những bức
tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên của tác giả, không định thể
hiện một ý đồ, chủ đề nào cả, được đặt tên là “vô đề”, tức là tranh không có
đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng rãi, phong phú, những
người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có nhiều cảm xúc, nhiều tư
liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu về nó. Qua đó, họ sẽ tạo ra những tác
phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề. Chủ đề được diễn đạt bằng
hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn chủ đề có thể là phụ nữ
đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự…”[17;tr.48]
Qua các định nghĩa trên rút ra được đề tài là những vấn đề được
người nghệ sĩ nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng nhiều hình thức nghệ
thuật với những hình tượng cô đọng, điển hình.
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học thì chiến tranh là
sự xung đột vũ trang giữa các giai cấp, các dân tộc hoặc các nước nhằm
thực hiện mục đích chính trị, kinh tế nhất định. [29;tr.157]
15
Cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam tập 1”, chiến tranh là hiện tượng
xã hội-chính trị được thể hiện bằng đấu tranh vũ trang giữa các nước hoặc
liên minh các nước, giữa các giai cấp đối kháng trong một nước, giữa các
sắc tộc, dân tộc, tôn giáo nhằm đạt đến mục đích chính trị, kinh tế nhất
định. Chiến tranh chi phối mọi hoạt động của xã hội, nhà nước và nhân
dân. [9]
Vậy đề tài chiến tranh là những vấn đề về xã hội-chính trị bằng đấu
tranh vũ trang nhằm đạt mục đích chính trị văn hóa được nghệ sĩ diễn đạt
thông qua hình tượng nghệ thuật tiêu biểu. Trong thơ văn, các tác giả sử
dụng ngòi bút, câu chữ để phản ánh những tội ác, sự mất mát về tranh. Còn
trong nghệ thuật tạo hình, các nghệ sĩ sử dụng ngôn ngữ tạo hình như
đường nét, màu sắc, hình khối… để diễn tả chân thực quan điểm của mình
về đề tài chiến tranh thông qua các tác phẩm. Đối với người Việt Nam,
chiến tranh là cuộc đấu tranh chính nghĩa, dành lại độc lập dân tộc. Đó là
sự nghiệp của cả dân tộc và toàn thể quần chúng nhân dân.
Nghệ thuật là tấm gương phản chiếu lịch sử, trong đó, vai trò của
người nghệ sĩ đóng một vị trí quan trọng trong việc truyền đạt tư tưởng văn
hóa đúng đắn đến công chúng trước tình hình chính trị lịch sử đương đại.
Trong đó, mỹ thuật thuật tạo hình Việt Nam hiện đại đã đóng góp một phần
lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Trước tình hình cam go
của hai cuộc chiến tranh Pháp-Mỹ, đề tài chiến tranh là một mảng chủ đề
lớn mang tính hiện thực cách mạng. Đây cũng chính là nguồn cảm hứng
sáng tác thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm của người nghệ sĩ.
Trong “Đề tài chiến tranh” các nghệ sĩ truyền tải được nội dung tư
tưởng, quan điểm cá nhân bằng việc tìm hiểu xã hội đương đại thực tế tạo
nên chiều sâu cho các tác phẩm. Đề tài chiến tranh trong tranh ra đời từ
năm 1945 khi đất nước đối mặt với cuộc chiến quân thực dân Pháp. Điều
16
này đã thay đổi các nhận thức nhân sinh nghệ thuật của các họa sĩ Đông
Dương trước đó. Không còn những hình ảnh cô gái Hà Nội thanh tao, đằm
thắm, hay những mái nhà, khu phố bình yên, thay vào đó là những anh bộ
đội, những người phụ nữ nông thôn khỏe khoắn, những cảnh cận chiến cam
go được hiện lên trong tranh như những nhân chứng sống của lịch sử hào
hùng dân tộc.
Hiện thực mới của các cuộc kháng chiến của dân tộc đã giúp người
họa sĩ thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan. Từ đó thay đổi cách nhìn,
cách nghĩ về quan niệm nghệ thuật. Đó là quan niệm đem hội họa phục vụ
kháng chiến, phục vụ nhân dân. Đây chính là giá trị của nghệ thuật vị nhân
sinh, mang nghĩa cử cao đẹp của nghệ sĩ đối với đất nước.
Ngay sau khi bùng nổ chiến tranh, các họa sĩ Đông Dương đã cho
thấy sức mạnh tiềm tàng trong công việc của mình. Họ đã phản ánh hiện
thực chiến tranh một cách sát xao. Với họ việc cầm bút vẽ cũng chính là
cầm vũ khí chiến đấu của mình. Hàng loạt các tác phẩm từ kí họa, trực họa,
sơn mài mang giá trị vượt bậc về thời gian và không gian được sáng tác
trong giai đoạn này như: “Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ”, “Giặc đốt làng
tôi” của Nguyễn Sáng, “Hà Nội vùng đứng lên” của Tô Ngọc Vân, …các
tác phẩm phản ánh đa dạng cuộc sống chiến đấu từ Bắc chí Nam trong
những năm kháng chiến. Đồng thời, nó cũng khẳng định tên tuổi lớn của
các nghệ sĩ.
Có thể nói, những năm tháng chiến đấu giai đoạn từ 1945 – 1975 là
những năm tháng gian nan nhất của cả dân tộc khi trải qua liên tiếp hai
cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Chính vì vậy, giai
đoạn này đề tài chiến tranh trong lịch sử hội họa Việt Nam phát triển nhất
cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm.
17
1.2. Khái quát hội họa Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1986
Đi liền với hai cuộc đấu tranh của dân tộc ta, văn hóa-nghệ thuật là
một mặt trận đặc biệt quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Văn
hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận
ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định,
tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước
hết là công, nông, binh. Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác
không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Trong quá
trình lịch sử của dân tộc, từ khi có Đảng lãnh đạo văn hóa, nghệ thuật mới
phát huy được sức mạnh chiến đấu của mình trong phong trào cách mạng.
“Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) của Đảng đã vạch ra con đường phát
triển đúng đắn của văn hóa, nghệ thuật, hướng các văn nghệ sĩ hòa mình vào
làn sóng nghệ thuật cách mạng của dân tộc thay da đổi thịt từ nội dung đến
hình thức. Đặc biệt là nghệ thuật hội họa với đề tài chiến tranh đã cho ra đời
rất nhiều tác phẩm nghệ thuật quý giá và quan trọng.
Trong những năm kháng chiến từ 1945 đến 1975, bối cảnh đất nước
mới lập lại hòa bình ở miền Bắc. Tranh cổ động đã phục vụ chính trị đã phát
triển hoàn toàn ăn nhịp với từng bước đi của cách mạng, theo sát từng nhiệm
vụ của đất nước với nhiều đề tài như: ca ngợi Cách mạng và cuộc sống mới,
cổ vũ kháng chiến, theo sát từng chiến dịch, biểu dương các chiến công,
phục vụ cải cách ruộng đất. Ở những bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, nghệ
thuật hội họa đã ca ngợi các thành tựu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc trong việc hợp tác hoá nông nghiệp, công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, cổ vũ cao trào chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, với định hướng con đường nghệ
mới của Đảng, vì sự nghiệp cao cả của tổ quốc. Thời kì này nghệ thuật hội
18
họa chuyển mình phát triển tột bậc trong tuyên truyền, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân.
Từ đó, trong nghệ thuật hội họa đã nêu bật được các chuyển biến cũ và
mới về hình ảnh con người và cuộc sống từ đó phát huy những giá trị tinh
thần trong nhân dân và đẩy mạnh, nâng cao hơn nữa ý chí, đoàn kết góp
phần thúc đẩy mọi người trong kháng chiến.
Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đề tài chiến tranh trong
nghệ thuật hội họa được xem là một thứ vũ khí mang sức mạnh tinh thần
hiệu quả trong việc khích lệ tinh thần nhân dân đoàn kết đấu tranh chống
giặc ngoại xâm.
Hội họa Việt Nam đề tài chiến tranh giai đoạn 1945-1986 nhất quán
một đề tài gắn với dòng nghệ thuật hiện thực. Đội ngũ tác giả bao gồm nhiều
thế hệ nối tiếp nhau sáng tác về đề tài chiến tranh đã tạo nên một dòng
khuynh hướng nghệ thuật.
Hội họa Việt Nam về đề tài chiến tranh trong giai đoan 1945 đến 1986
đã phát triển rực rỡ với nhiều thành tựu to lớn, vững chắc cả về số lượng và
chất lượng, một số tác phẩm tiêu biểu như bức Hành quân (1947) của Mai
Văn Hiến, Du kích La Hay tập bắn (1947) của Nguyễn Đỗ Cung, Giặc đốt
làng tôi (1954) của Nguyễn Sáng, Nhớ một chiều Tây Bắc (1955) của Phan Kế
An, Hành quân đêm(1974) của Trần Đình Thọ, Chạy giặc trong rừng
(1949) của Tô Ngọc Vân, Cái bát(1949) của Sỹ Ngọc, Qua bản cũ (1958) của
Lê Quốc Lộc, Sau giờ trực chiến (1967) của Nguyễn Phan Chánh. Qua đề tài
chiến tranh phản ánh một cách chân thực, đẹp đẽ cuộc sống lao động và
chiến đấu của cả dân tộc trong hai cuộc kháng chiến.
1.3. Khái quát tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của họa sĩ Nguyễn Sáng
Họa sĩ Nguyễn Sáng sinh ngày 1 tháng 8 năm 1923 quê gốc làng Điều
Hòa, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Ba mẹ và anh em ông thuộc tầng
lớp trí thức trung lưu. Ba ông là nhà giáo, mất năm 1950, mẹ ông sống bằng
19
nghề buôn bán, mở tiệm may và mất năm 1969. Ba mẹ ông sinh được ba
người con, anh em trai ông đều làm viên chức, giáo viên. Không giống những
người trong gia đình, ông chọn riêng cho mình con đường nghệ thuật Mỹ
thuật tại Trung cấp mỹ thuật tại trường mỹ thuật Gia Định vào năm 1936.
Năm 1938 – 1939, ông từ Sài Gòn ra Hà Nội và sau đó thi đỗ vào
trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương khóa 14 (1940 - 1945) học khoa hội
họa cùng khóa với Diệp Minh Châu (khoa điêu khắc), Nguyễn Văn Liên,
Nguyễn Văn Quang, Phan Tại… Tuy nhiên chỉ có ông và Diệp Minh Châu tốt
nghiệp khóa này.
Nguyễn Sáng là một sinh viên có hình họa vững vàng, có cá tính tiêng
trong học tập. Thời sinh viên, ông đã tiếp thu đầy đủ những tri thức nghệ thuật
từ cổ điển đến Ấn tượng châu Âu, từ khả năng mô tả hàn lâm kĩ lưỡng và
chính xác đến khả năng “lược tả” mang tính cách điệu và chịu ảnh hưởng
nhiều của hội họa Phục Hưng.
Ngay trong khi vẫn còn học tập trên ghế nhà trường, ông đã tiếp nhận
tư tưởng cách mạng của Đảng cộng sản Đông Dương và tham gia nhiều
phong trào, trưng bày tranh nhằm lật đổ sự áp bức bóc lột của phát xít Pháp-
Nhật. Chính điều này đã tạo nên dòng chảy nghệ thuật đề tài chiến tranh trong
tranh của ông.
Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông tham gia biểu tình cướp chính
quyền tại Bắc Bộ Phủ ngày 19/8/1945 và vẽ bức tranh cổ động “Chiếc quan
tài cuối cùng của thực dân Pháp ở An Giê Ri”. Tháng 10/1945, ông làm việc
cho bộ Tài chính vẽ giấy bạc, tham gia hoạt động văn nghệ trong công nhân
in giấy bạc. Ngoài ra ông còn vẽ rất nhiều tác phẩm ủng hộ cách mạng, ủng
hộ Đảng thành công như Chiếm phủ Khâm Sai, Phố chợ Đồng Văn, chân
dung ông Thụy Ký…
20
Năm 1946 ông sáng tác bộ tem chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân
dịp kỉ niệm lần thứ nhật cách mạng tháng Tám và ngày thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, đây là bộ tem đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa.
Tháng 12 năm 1946, thực hiện lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh,
toàn quốc đứng lên kháng chiến, Nguyễn Sáng chuyển lên chiến khu Việt Bắc
tham gia cuộc kháng chiến trường kì. Nhận thức sâu sắc về Tổ quốc, nhân dân
và chân lý nghệ thuật. Ông say sưa làm nghệ thuật phục vụ kháng chiến.
Năm 1953, ông tham gia vẽ các tác phẩm về địch vật, đóng thuế nông
nghiêp, vẽ phụ bản báo cáo và tác phẩm “Tình quân dân” (khắc gỗ), “Giặc đốt
làng tôi”(tranh sơn dầu) nhằm tuyên truyền các chính sách cải cách của Đảng
lâm thời.
Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông trở về Hà Nội ở tại số nhà
65 Nguyễn Thái Học và tiếp tục tham gia cộng tác tới Hội Văn nghệ Việt
Nam(nay là Hội mỹ thuật Việt Nam), sáng tác nhiều tác phẩm với nhiều chát
liệu khác nhau. Thời kì này, họa sĩ Nguyễn Sáng chuyên tâm sáng tác đề tài
chiến tranh, đặc biệt là các tác phẩm sơn màu ghi lại nhiều dấu ấn của ông về
anh bộ đội cụ Hồ mà ông đã ghi nhận được qua các chuyến hành quân đến các
chiến dịch ở Cao Bắc Lạng, Điện Biên Phủ như: “Trú mưa”, “Giờ học tập”
(1960), “Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ”(1963)
Từ năm 1964 đến 1974, ông vẽ rất nhiều tác phẩm đa dạng chủ đề từ
chân dung, phong cảnh, sinh hoạt của đất nước.
Đến năm 1977, sau khi giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, ông
cùng vợ về Sài Gòn ngụ tại 49/05 đường Đinh Tiên Hoàng, quận Bình Thạnh.
Thời gian này, đề tài chiến tranh vẫn được ông chú tâm sáng tác, tiêu biểu là
bức “Thanh niên thành đồng” đã nói lên phong trào đấu tranh của sinh viên
21
Sài Gòn dưới thời Mỹ ngụy, thể hiện cảm xúc lớn lao và trân trọng của ông
đối với thế hệ trẻ anh hùng. Tác phẩm hiện lưu giữ tại bảo tàng thành phố Hồ
Chí Minh.
Năm 1979, sau khi vợ ông qua đời, Nguyễn Sáng trở lại miền Bắc sống
và làm nghệ thuật theo những đơn đặt hàng. Tuy thế, những tác phẩm của ông
mang những cá tính sáng tạo riêng mà không theo khuôn gò của người đặt.
Tháng 7 năm 1984, Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam phối hợp với bảo
tàng mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức triển lãm “ Các tác phẩm hội họa của họa
sĩ Nguyễn Sáng”. Cuộc triển lãm cá nhân này giới thiệu đầy đủ chặng đường
lao động và sáng tạo của Nguyễn Sáng với hơn 140 tác phẩm đa dạng từ các
chất liệu như sơn dầu, sơn mài, lụa, chì màu, phấn màu… qua đó cho thấy sự
say mê lao động sáng tạo với tư duy nghệ thuật và hiện thực cuộc sống được
hòa làm một tạo nên cấu trúc vững chắc, chuyển động trong hình thể và sắc
độ. Nghệ thuật của Nguyễn Sáng khỏe khoắn kết hợp các yếu tố dân tộc, dân
gian và hiện đại. Nhân vật trong tác phẩm của ông vạm vỡ, có tư tưởng, có cá
tính và được thể hiện sống động, chân thực.
Năm 1987, ông về sống với gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh và mất
ngày 16/12/1988. Ông được đánh giá là một trong những họa sĩ sớm giác ngộ
chân lý trong cuộc đấu tranh cách mạng, đi đầu trong lĩnh vực tư tưởng và
nghệ thuật, từ đó tạo nên nhiều tác phẩm mang chủ đề xã hội và thời đại rõ
nét, đậm nhân văn sâu sắc.
Năm 1996, chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao
tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho tác phẩm của
Nguyễn Sáng như: “Giặc đốt làng tôi”(1954), “Bộ đội nghỉ trưa trên
đồi”(1959), “Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ”(1963), “Chợ Bo Thái
Bình”(1966)…
22
Có thể thấy, nghệ thuật của Nguyễn Sáng gắn liền với lịch sử cách
mạng, chiến tranh của dân tộc. Ông là một trong những họa sĩ có tác phẩm
đẹp nhất sáng tác về đề tài chiến tranh Việt Nam.
Tiểu kết
Nội dung chương I đã xác định được khái niệm của “nghệ thuật tạo
hình”, “ đề tài chiến tranh ”, nên một số nét chính của hội họa Việt Nam giai
đoạn từ năm 1945 đến 1986 và đề cập đến sự hình thành và phát triển của đề
tài chiến tranh. Bên cạnh đó, khái quát được tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của
họa sĩ Nguyễn Sáng.
Các tác phẩm tranh đề tài chiến tranh ở mỗi giai đoạn từ 1945 -1986 có
sự hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của các cuộc chiến tranh xâm
lược. Thông qua, đề tài chiến tranh các họa sĩ đã phản ánh rõ nét hình ảnh
cuộc sống của con người Việt Nam trong giai đoạn oanh liệt kháng chiến.
Đặc biệt, họa sĩ Nguyễn Sáng với khối lượng các tác phẩm đồ sộ, cống
hiến cho sự phát triển của nghệ thuật tạo hình Việt nam hiện đại. Ông là tấm
gương lao động sáng tạo trong nghệ thuật. Dòng nghệ thuật chủ đạo trong các
tác phẩm của ông là đề tài chiến tranh. Ở đề tài này đã cho thấy quan niệm tạo
hình khỏe khoắn và sự chuyển động của hình thể đã làm nên các tác phẩm đề
tài chiến tranh xuất sắc nhất trong lịch sử hội họa Việt Nam.
23
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG
Trong những năm kháng chiến trường kì, ở mỗi thời kì, bối cảnh chính
trị nước ta luôn thay đổi. Qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc, đề tài chiến
tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã có những đóng góp mạnh mẽ đối với nghệ
thuật dân tộc. Để hiểu rõ hơn về đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng,
chương 2 sẽ tập trung nghiên cứu vào chất liệu và đặc điểm ngôn ngữ tạo
hình trong tranh Nguyễn Sáng .
2.1. Đề tài chiến tranh trong tranh sơn mài của Nguyễn Sáng
* Khái quat về chất liệu sơn mài
Theo cuốn “Giáo trình mỹ thuật học” thì sơn mài là một trong
những chất liệu của hội họa Việt Nam hiện đại. Tên gọi của chất liệu được
tạo nên bởi hai yếu tố: chất liệu sơn và kĩ thuật mài.[13;tr.78]
Đây là một chất liệu truyền thống độc đáo của Việt Nam bao gồm
sơn ta cộng với các màu son, then, vàng, bạc, sau này khi phát triển còn
có thêm các màu bột và màu trắng của vỏ trứng, vỏ trai. Các chất màu
được vẽ lên mặt nền là tấm vóc. Trong quá trình làm tranh, người ta dùng
kĩ thuật mài để sửa chữa tranh và làm đều mặt phẳng. Tranh sơn mài khi
vẽ xong được mài bằng than dỗ, đá hoặc giấy giáp nước cho mịn. Chỗ nào
muốn lộng lẫy, sáng bật có ánh kim thì thếp vàng, bạc. Khi muốn bớt sáng
hoặc hòa sắc trầm, người ta phủ một lớp cánh gián mỏng. Chất liệu sơn
mài ngày nay được phát triển trong hội họa Việt Nam. Kĩ thuật đưa sơn ta
vào làm tranh sơn mài do một số họa sĩ học trường Cao đẳng mỹ thuật
Đông Dương như Lê Phổ, Trần Quang Trân, Phạm Hậu, Nguyễn Khang,
Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn… thử nghiệm đi đầu.
24
Khác với tranh sơn mài của Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, sơn
mài Việt Nam luôn toát ra đẹp sâu lắng, cổ kính. Một số các tác phẩm sơn
mài giá trị như : Bên đầm sen của Nguyễn Gia Trí, Con nghé quả thực của
Nguyễn Tư Nghiêm ; Ra đồng của Trần Đình Thọ, Kết nạp đảng ở Điện
Biên Phủ của Nguyễn Sáng..
Với đặc điểm về màu, kĩ thuật đã tạo cho sơn mài khả năng biểu đạt
khác biệt với các chất liệu khác. Tranh sơn mài thường dùng ít màu song
nhiều sắc độ. Trong mỗi tác phẩm, họa sĩ thường sử dụng một màu chủ
đạo, màu chủ đạo sẽ gợi chọn những màu khác để tạo nên hòa sắc trong
tranh. Với cách đó, tranh sơn mài có khả năng phản ánh hiện thực cuộc
sống rất sinh động, chân thực, cô đọng, giàu hiệu quả trang trí, sâu thẳm,
lung linh. Bên cạnh những mảng màu, nét vẽ cũng đóng vài trò quan trọng
trong biểu đạt của sơn mài. Nét hình, khối, chất. Với từng tác giả, tùy theo
nội dung chủ đề, cách sử dụng nét có chọn lọc khác nhau tạo nên sự
chuyển động mềm mại hoặc mạnh mẽ cho khối hình. Không gian trong
tranh sơn mài thường là ước lệ. Tuy vậy, cách sắp xếp các mảng màu
nhân vật chi tiết gợi cho người xem cảm giác về không gian sống động, xa
thẳm. Ánh sáng trong tranh sơn mài cũng là ánh sáng mang tính ước lệ,
tượng trưng bằng cách sử dụng các mảng sáng tối, phẳng, ít diễn khối tạo
nên nhịp điệu cho tranh sơn mài.
Sơn mài Việt Nam đã biểu hiện thành công nhiều mảng đề tài như
nông nghiệp, công nghiệp, lịch sử, chân dung… Bút pháp tả thực kết hợp
với cách dùng mảng phẳng trong trang trí đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho
tranh sơn mài.
Đặc biệt, với chất liệu sơn mài Việt Nam, Nguyễn Sáng đã tạo ra
một kĩ thuật mới về màu và sắc độ. Những thử nghiệm về sơn mài đầu
tiên vào năm 1960 của Nguyễn Sáng trên tác phẩm cho khả năng biểu đạt
25
sơn mài theo lối diễn hình phương Tây, thì trong những tác phẩm sau này,
ông biến thiên về lối tả khái quát bằng mảng khối tượng trưng như được
đúc rút ra từ nghệ thuật dân gian. Đồng thời, ở các tác phẩm của ông,
người ta còn nhìn thấy ảnh hưởng nghệ thuật hội hoạ của các bậc thầy
phương Tây hiện đại, từ Picasso cho đến Matise được quyện chặt với
“hồn” dân tộc Việt Nam tạo nên điểm riêng biệt cho các tác phẩm sơn mài
Nguyễn Sáng.
* Những tác phẩm sơn mài về đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn
Sáng
Trong các tác phẩm sơn mài về đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng
có thể thấy sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật dân gian truyền thống Việt
và nghệ thuật hàn lâm phương Tây. Trong tranh sơn mài, Nguyễn Sáng
thường tạo hình bằng mảng phẳng và nét, dùng những gam màu đầm
nặng, ít màu nhưng nhiều sắc độ, gợi không gian. Ở sơn mài, ông chủ
trương rời bỏ hoàn toàn tính trang trí mỹ nghệ, đồng thời cũng không áp
dụng kĩ thuật màu sơn dầu châu Âu để cố gắng tả thực như nhiều họa sĩ
Việt Nam. Nhìn chung, ngôn ngữ nghệ thuật của ông rõ ràng đậm cá tính,
nét vẽ tài ba, phóng khoáng, lúc thô khỏe, lúc mảnh mai, mềm mại, tình
cảm thiết tha tạo nên hiện thực hoành tráng giữa nghệ thuật dân tộc dân
gian và nghệ thuật hiện đại. Nhìn tranh của ông, dù mèo hay người, hay
đề tài chiến tranh kháng chiến, ta thấy có âm hưởng tranh dân gian Việt
Nam rất rõ – như nét to, mảng bẹt, cách bôi màu như ngây ngô vụng về
không khéo tay, tạo hình dạng chắt lọc và chắc khỏe, không gian ít dùng
luật phối cảnh mà dùng không gian ước lệ, dùng mảng hình và khoảng
trống tạo không gian ước lệ trong tranh. Tất cả những nguyên tố tạo hình
đó đều có trong tranh dân gian và nghệ thuật Á Đông.
26
Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng đoàn quân
chiến thắng trở về thủ đô Hà Nội. Chín năm kháng chiến đã gắn bó
Nguyễn Sáng với số phận dân tộc, với số phận của những người dân công,
bộ đội cùng bạn bè trí thức. Đây là giai đoạn tài năng hội hoạ của Nguyễn
Sáng phát triển rực rỡ nhất.Thời kì này, Nguyễn Sáng đã sáng tác nhiều
tác phẩm về đề tài lực lượng vũ trang, đặc biệt là các tác phẩm sơn mài
ghi lại nhiều dấu ấn, cảm xúc của ông về anh bộ đội cụ Hồ mà ông đã ghi
nhận được qua các chuyến đi: chiến dịch Cao Bắc Lạng, Điện Biên Phủ,
cuộc kháng chiến chống Pháp và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc như: Bộ đội nghỉ trưa trên đồi - 1959, Bộ đội trú mưa, Giờ học
tập – 1960, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ-1963… Thời kì này, Nguyễn
Sáng đã tìm tòi và khám phá ra bảng màu mới là màu lam và màu xanh
cho các tác phẩm của mình.
“Bộ đội nghỉ trưa trên đồi” sáng tác năm 1959 [H1;tr.57], là một
trong những tác phẩm sơn mài nổi bật về chủ đề chiến tranh của Nguyễn
Sáng, mang hơi thở hiện thực, vẽ lại cảnh bộ đội trên đường tiến lên Điện
Biên Phủ, khi gặp đoàn dân công miền xuôi và miền núi cùng đi phục vụ
chiến dịch, họ dừng lại nghỉ chân, trò truyện. Vài người lính lăn ra vệ cỏ
ngủ ngon lành, nhóm khác tụ lại hút thuốc, trò chuyện. Vài người còn
đang đủn xe thồ đi tới, những người lính gặp gỡ các cô gái Thái và các cô
Thôn nữ đồng bằng thăm hỏi chuyện làng quê. Lũy tre và núi rừng xanh
ngắt tỏa bóng mát trong ánh nắng chói chang. Dáng anh lính nằm ngủ hay
anh khác đang đứng ngồi, vui đùa sinh động. Họa sĩ Nguyễn Sáng đã
chắt lọc hình đến mức tối giản, để hình dáng tự thân nói lên tâm tư và bản
tính các nhân vật trong tác phẩm của mình. Cả cảnh vật xung quanh cũng
được giản lược tối đa thành những mảng phẳng với hòa sắc xanh thay đổi
êm dịu. Tạo nên khung cảnh của chiến dịch hành quân gian khó, đầy mồ
27
hôi, xương máu nhưng cũng đầy thơ mộng. Tác phẩm nói nên hiện thực
cách mạng đầy gian nguy nhưng vẫn đầy tính hào hùng, lãng mạn.
Phương cách phối màu của ông mang tính ước lệ từ trong cách phô
diễn màu sắc đến cách bố trí các mảng màu táo bạo, khỏe khoắn trên mặt
tranh là một nghệ thuật đặc trưng, tính dân tộc và hồn quê Việt Nam, thể
hiện vẻ đẹp hào hùng, sức mạnh chiến đấu, đồng thời bộc lộ sáng tạo trong
việc tìm kiếm chất liệu chế tác những gam màu thiên nhiên và cũng như
phối màu trong sự sáng tạo tác phẩm nghệ thuật của bậc thầy Nguyễn Sáng.
Ông đã khai thác những gam màu có tính truyền thống và cũng tạo nên yếu
tố hiện đại.
Tranh sơn mài Nguyễn Sáng không giống bất cứ các tác phẩm nào
của những họa sĩ đương thời. Kể cả lối nhìn hay cách vẽ, cái nhìn về một
đề tài hay chi tiết của hình thể trong tranh cũng được ông chắt lọc công
phu, tỉ mỉ. Năm 1954, giới nghệ thuật vẫn đang mải theo đuổi nghệ thuật
sơn mài với lối vẽ kỳ ảo của Nguyễn Gia Trí thì tranh Nguyễn Sáng vẫn
trong trẻo đi theo lối vẽ truyền thống. Theo Nguyễn Sáng thì họa sĩ đi
bằng con đường nào cũng không quan trong, mà kết quả cuối cùng của tác
phẩm mới có giá trị cao nhất. Có không ít họa sĩ tài ba cùng thời như
Hoàng Tích Trù, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Sỹ Ngọc, Trần Đình Thọ, Lê
Quốc Lộc…ở họ, tuy mỗi người một vẻ nhưng vẫn theo một mô típ tổng
thể, chi tiết, trang trí quen thuộc, một phong cách tả thực công phu. Ví dụ
như trong hình tượng “tre” trong tranh “Bộ đội nghỉ chân bên đồi” của
Nguyễn Sáng với “Tre” của họa sĩ Trần Đình Thọ sáng tác năm 1975
[H2;tr.58] thì trong tác phẩm của Trần Đình Thọ gần như ta có thể đếm
được từng chiếc lá, hoặc “Lùm tre” của Nguyễn Gia Trí cũng vậy. Ngược
lại, tre của Nguyễn Sáng lại hoàn toàn khác, chỉ bằng những đường thẳng
trên một mảng vàng đã khơi gợi được hình tượng tre cả về hình lẫn ý.
28
Sự khoáng hoạt, khỏe khoắn luôn túc trực trong các tác phẩm của
Nguyễn Sáng. Sự rung cảm về cuộc sống xung quanh mình đã khiến ông
làm nên những tác phẩm nghệ thuật mang tính điển hình của thời đại về
chiến tranh Việt Nam.
Tác phẩm “Bộ đội trú mưa” sáng tác năm 1960[H3;tr.59], mang đến
cho người xem một góc nhìn khác về hiện thực chiến tranh. Đó là cuộc
hành quân trong rừng gặp cơn mưa gió lạnh. Màu xanh đen của cơn mưa
đêm quất ngược vào đoàn người đang hối hả chạy trú, những chiếc tàu lá
chuối che nghiêng thay cho mũ áo. Dáng người, dáng ngựa vội vàng. Ánh
sáng hắt ra từ căn nhà ven đường le lói như những tia hy vọng của chính
những người lính về cách mạng. Bức tranh có sự ngậm ngùi, tương phản
giữa cuộc đời chiến sỹ gian lao “ra đi không hẹn ngày về” với giấc mơ
ánh lửa thanh bình dưới mái ấm quê nhà. Từ đó lột tả mặt trái của chiến
tranh thể hiện sự quyết tâm, ý chí của người lính bộ độ qua những câu
chuyện về cuộc chiến xâm lược.
Đề tài cách mạng trong tranh Nguyễn Sáng cũng cho thấy những cái
nhìn mới mẻ của ông về sơn mài. Đó là những ưu điểm mang tính truyền
thống độc đáo sẵn có về thể loại tranh này. Ông đã khắc phục tính thủ
công, mỹ nghệ của sơn ta và thổi hồn tư tưởng thời đại vào trong đó. Tạo
cho tranh sơn mài tính chất hội họa mạnh mẽ. Điều này thấy rõ qua tác
phẩm “Lớp học đêm” sáng tác năm 1960 [H4;tr.60], tác phẩm này đã tạo
nên sự khác biệt so với các tác phẩm sơn mài khác. Ông đã thực nghiệm
đưa phong cách lối vẽ cổ điển vào chất liệu sơn mài để tạo nên sự sâu
lắng trong sự biểu cảm từng khuôn mặt, sự vờn tả tinh tế, mềm mai chi
tiết chân tay to lớn, cuồn cuộn khỏe khoắn, mạnh mẽ của những công
nhân tạo nên tinh thần chiến đấu và hăng say học tập. “Lớp học đêm” là
hình ảnh những cô cậu công nhân đang chăm chú ngồi học tập với bố cục
29
tam giác cổ điển vững trãi, gam màu nâu ấm có tính truyền thống của
nghệ thuật sơn mài tạo nên một không gian sâu lắng. Trong tranh là sự
diễn tả tương quan ánh sáng và bóng tối theo lối vẽ cổ điển, nhân vật
được diễn tả khối, đậm nhạt theo đúng luật xa gần, viễn cận. Màu của
vàng, bạc được ông sử dụng tạo ánh sáng trong tranh. Ánh sáng được
nhảy nhót theo nhịp điệu lên những trang sách, cánh tay, rồi được chìm
vào nền, đằm thắm hòa lẫn sắc độ của tranh tạo nên một vẻ đẹp huyền ảo,
lưu giữ phút giây gian khó của cuộc chiến tranh cách mạng. Nguyễn Sáng
không khai thác chất vàng, son của sơn mài như Nguyễn Gia Trí, ngay cả
việc sử dụng chất liệu vỏ trứng trong tranh Nguyễn Sáng cũng là màu
trắng uyển chuyển, mềm mại mà không khô khan. Qua tác phẩm này ta
thấy được khả năng vẽ hình chính xác như con mắt nhìn thấy của ông, bên
cạnh việc thể hiện tinh thần dân tộc ở đề tài chiến tranh thành công, ông
còn thành công trong việc thể nghiệm chất liệu dân tộc.
Ngược lại với bức “Lớp học đêm” thì “Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ” cho thấy sự khai thác phong cách dân gian trong tranh. “Kết nạp
Đảng ở Điện Biên Phủ” sáng tác năm 1963[H5;tr.61], là một trong những
tác phẩm tiêu biểu, điển hình nhất cho tinh thần nghệ thuật của Nguyễn
Sáng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi lẫy lừng của lịch
sử Việt Nam, mà cho cả lịch sử thế giới, mà còn là đề tài lớn của nghệ
thuật. Đề tài về Điện Biên Phủ từng được nhiều họa sĩ thể hiện ở nhiều
chất liệu, góc cạnh khác nhau. Tuy vậy, chỉ “Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ” của Nguyễn Sáng mới cho thấy rõ nét hiện thực chiến tranh và ý chí
của cả một dân tộc.
Gây chú ý bởi những hình ảnh khốc liệt của chiến tranh.Tác phẩm
thể hiện một lẽ kết nạp Đảng trong chiến hào. Tám nhân vật chiến sĩ
30
chiếm hết nền tranh. Một người đỡ đồng đột bị thương, một người khác
giơ tay như tuyên thệ. Phần còn lại là vách chiến hào với lá cờ đỏ. Các
nhân vật được phóng to chính diện, cận cảnh. Ngôn ngữ hội họa được
hiện đại hóa bằng cách lược bỏ viễn cận và vờn khối, giản hóa đường nét,
tạo hình vững chãi, góc cạnh. Bố cục khỏe khoắn, chặt chẽ, dồn nén hình
và không gian trong hòa sắc đậm, đanh bởi chất sơn mài, tất cả tạo cảm
giác về sức mạnh bi tráng, lòng quả cảm và ý chí chiến đấu của người
chiến sĩ. Hình tượng người chiến sĩ Điện Biên được tác giả khắc họa bằng
những đường nét kỷ hả chắc khỏe, hình khối giản lược. Màu sắc trong
tranh với gam màu nóng chủ yếu chỉ gồm đỏ, trắng, vàng và ít màu xanh
cây. Tất cả được Nguyễn Sáng xử lý, sắp xếp một cách chặt chẽ, hài hòa
tạo nên các sắc độ rõ rệt. Khác với sự vờn sâu của bức “Giờ học đêm”,
bức “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ được thể hiện đơn giản với những
hình khối rõ nét, nét viền thô khỏe, bố cục đơn giản mang sắc thái dân
gian tạo nên bi hùng, chân thực về hiện thực chiến tranh đã đưa tác phẩm
này trở thành đỉnh cao của nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
Họa sĩ Trần Khánh Chương – Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam
đánh giá: “Nghệ thuật của Nguyễn Sáng gắn liền với lịch sử cách mạng,
lịch sử nghệ thuật của dân tộc. Ông là một trong số những họa sĩ có
những tác phẩm sơn dầu, sơn mài đẹp nhất về đề tài chiến tranh cách
mạng Việt Nam.”[5] còn nhà nghiên cứu Quách Phong lý giải “Tôi nghĩ
ông vẽ tranh về kháng chiến như Nghỉ chân, Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ, Trú mưa… không phải với ý nghĩa đem nghệ thuật phục vụ cho
kháng chiến, cho cách mạng, cho nhân dân như khái niệm mà người ta
thường nói về chức năng của nghệ thuật. Nó là một sản phẩm văn hóa,
tinh thần thực sự của cách mạng dân tộc”. Những nhận định trên đã góp
phần khẳng định cho vị trí của nghệ thuật sơn mài, đề tài chiến tranh
trong các tác phẩm của Nguyễn Sáng.
31
Tinh thần dân tộc luôn rực cháy trong Nguyễn Sáng, theo Nguyễn
Tư Nghiêm từng nói “Nguyễn Sáng chống ảnh hưởng của Phương Tây và
thích nghệ thuật dân gian. Theo tôi chưa hoàn toàn đúng. Thành công của
Nguyễn Sáng vẫn là ở phần cá nhân anh quyết định. Mà nói đến cá nhân
thì Nguyễn Sáng là người có cá tính mạnh trong nghệ thuật” [22]
Thật vậy, trong tranh của Nguyễn Sáng luôn đưa những hình tượng
điển hình, chắt lọc và khái quát nhất. Tác phẩm “Thanh niên thành
đồng”, sáng tác năm 1978 [H6;tr.62] đã thể hiện trọn vẹn được tính cá
nhân và dòng nghệ thuật chiến tranh cách mạng của Nguyễn Sáng. Tác
phẩm là cảm xúc của Nguyễn Sáng về phong trào đấu tranh của sinh viên
Sài Gòn dưới thời Mỹ ngụy. Trong tranh sử dụng lối tạo hình mạnh mẽ,
chắc khỏe thông qua lối đậm nhạt tương phản mạnh trên các nhân vật
khỏe khoắn trong cả việc sắp đặt tuyến bố cục. Tuyến nhân vật chính diện
là những thanh niên trẻ đứng lên, dám vượt qua ranh giới của sự sống còn
để đương đầu với kẻ địch. Phía trước các thanh niên là một vạch ranh giới
phân chia bức tranh làm hai, một bên chiếm phần lớn là hình ảnh những
nam, nữ thanh niên đang biểu tình chiến đấu đòi lại tự do độc lập cho dân
tộc, bên kia là những tên giặc với súng giáo chĩa về phía họ. Với bố cục
đối lập, Nguyễn Sáng đã cho thấy sự phi lý của cuộc chiến tranh, đồng
thời ca ngợi tình yêu đất nước, sức mạnh quật cường của dân tộc ta nói
chung, của những thế hệ trẻ nói riêng. Nguyễn Sáng đã kết hợp tư thế, cử
chỉ cũng như số lượng nhân vật cho hai chiến tuyến để làm rõ tư tưởng
cũng như tạo hình mới lạ mang tính triết lý, cô đọng về hình thể. Qua đó,
đề tài chiến tranh được thể hiện thật hùng tráng, tự hào. Đó là sự trân
trọng của tác giả đối với thế hệ trẻ anh hùng, một biểu hiện tình cảm của
Nguyễn Sáng đối với quê hương khi trở lại miền Nam sau ngày thống
nhất đất nước.
32
Cùng với nhiều tác phẩm, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ, Bộ đội
trú mưa… của Nguyễn Sáng đã được lưu giữ tại Bảo tàng mỹ thuật Quốc
gia. Đặc biệt, năm 1996, hai tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Sáng là Kết
nạp Đảng ở Điện Biên Phủ và Thiếu nữ bên hoa sen [H7; tr.63] đã được
ngành Bưu chính Việt Nam chọn và thực hiện thành bộ tem Hội họa Việt
Nam.
Các nhà phê bình mỹ thuật nói rằng: sau danh hoạ Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Sáng và Nguyễn Tư Nghiêm cũng là cây đại thụ của chất liệu sơn
mài Việt Nam.
“Trong sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Sáng không chịu bó tay, liên tục đi
tìm cái mới, cái riêng biệt. Tranh ông toát ra vẻ đẹp trần trụi mà chân thực,
bình dị mà sang trọng, nghiêm khắc mà đôn hậu... Nguyễn Sáng như vó ngựa
bất kham không chịu nổi sân đua, đã muốn phá rào về với thảo nguyên vô
thức nguyên sơ của chính mình. Trên cái mâm bản ngã đã đầy ứ thức ăn của
riêng ông, ông thèm món độc vị cực đoan cuối cùng…”
Nguyễn sáng đã trở thành một trong những họa sĩ lớn nhất của mỹ
thuật cách mạng, đại diện xuất sắc của trường phái hiện thực xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm của ông cất tiếng hào sảng, thiết tha về số
phận bi hùng, kiêu dũng của một dân tộc trong cuộc chiến tranh yêu nước
giải phóng dân tộc. Nghệ thuật của ông mạnh mẽ, khỏe khoắn, bộc trực,
hướng tới tính công dân và trách nhiệm lớn lao của mỗi con người đối với
vận mệnh đất nước. Với đề tài chiến tranh trong tranh sơn mài, họa sĩ
Nguyễn Sáng đã cho thấy sức mạnh tiềm tàng của dòng nghệ thuật dân
tộc. Đó là những hình mảng dẹt, đường nét cổ trên bề mặt tranh, tạo
không gian ước lệ mà vẫn bộc lộ được ý chí, tinh thần quật cường của mỗi
con người thể hiện trong mỗi tác phẩm của mình.
33
2.2. Đề tài chiến tranh trong tranh sơn dầu của Nguyễn Sáng
* Khái niệm về chất liệu sơn dầu
Sơn dầu là một loại họa phẩm quen thuộc của các họa sĩ châu Âu, được
làm từ nột khô nghiền kĩ với dầu lanh. Tranh sơn dầu có thể được vẽ trên
nhiều loại mặt nền như gỗ, vải, giấy, kính, kim loại…, song phổ biến nhất là
vải sợi cây bông , cây lanh có độ dai và đàn hồi tốt. Loại vải này sợi to, hơi
thô, mặt vải nổi hạt rõ để khi vẽ các lớp sơn dễ bám chắc trên mặt vải. Mặt
nền được quét một lớp sơn lót (thường là màu sáng như hồng, trắng kem,
vàng đậm ; cá biệt có người thích sơn lót màu đậm như Rembandt). Lớp sơn
lót có tác dụng liên kết chặt với các sợi vải để chúng không bị xê dịch, đồng
thời cũng làm một màu nền có sắc độ trung tính, dễ hòa hợp với các sắc độ
của toàn bộ tranh. Trước khi quét lót, mặt vải được quét một lớp keo để vải
không hút dầu của sơn vẽ làm xỉn ố màu.
Hiện nay các họa sĩ vẫn không ngừng tìm tòi sáng tạo cách thể hiện sơn
dầu, có người mạnh dạn dùng bàn tay, ngón tay, đầu cán bút… để tạo ra nhiều
bút pháp mới. Vậy kĩ thuật thể hiện tranh sơn dầu là vô tận. Phải dùng đến
nhiều khái niệm để mô tả các cách khai thác khác nhau về kỹ thuật vẽ sơn dầu
như : bôi, trát, chải, xoa… mỗi cách đều cho ra hiệu quả nhất định. Đôi chỗ
người vẽ không bôi kín hoàn toàn mặt tranh mà để hở để tạo chất. Có thể nói
tranh sơn dầu được vẽ bằng chất liệu có nhiều đặc tính ưu việt và tận dụng
được phong phú các dụng cụ, từ đó các họa sĩ thực hiện được những ý tưởng
sáng tạo phức tạp nhất. Mỗi thời đại, mỗi lục địa, mỗi khuynh hướng hoặc
trường phái nghệ thuật đều tạo được nhiều tranh sơn dầu tiêu biểu và đóng
góp cho kho tàng mỹ thuật của loài người những tác phẩm quý giá.
Trong tranh sơn dầu, họa sĩ Nguyễn Sáng đã có những tác phẩm xây
dựng công phu, chiến tranh cách mạng là một chủ đề tư tưởng lớn xuyên suốt
trong quá trình làm việc của ông, trong đó khái quát một giai đoạn lịch sử hào
hùng của dân tộc, nhiều bức tuyệt tác sơn dầu như Chợ Bo đẫm máu, Chiếm
34
phủ khâm sai, chân dung mẹ ông Đức Minh, Giặc đốt làng tôi… như một
minh chứng lịch sử về chiến tranh.
* Những tác phẩm sơn dầu về đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn
Sáng
Cũng như các tác phẩm sơn mài về đề tài chiến tranh của Nguyễn
Sáng, trong tranh sơn dầu, ta vẫn thấy sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật
dân gian truyền thống Việt và nghệ thuật hàn lâm phương Tây. Nhưng lối
vẽ sơn dầu của Nguyễn Sáng lại tạo hình bằng mảng phẳng lớn và nét cọ
nhanh mạnh, khoáng đạt. Trong tranh sơn dầu, ông thường dùng ít màu
nhưng nhiều sắc độ để gợi khối và chiều sâu cho hình. Không gian trong
tranh được vẽ theo đúng cảnh thật, tạo nên hiện thực của cuộc chiến tranh.
Có thể nói, trong thời kì kháng chiến chống Pháp, họa sĩ Nguyễn Sáng đã
dành hết công sức của mình để làm nhiệm vụ đưa chiến tranh thành một
đề tài mang tính thời sự tạo nên một sức mạnh của lòng yêu nước của
chính ông.
Từ năm 1953, họa sĩ Nguyễn Sáng tham gia phát động giảm tô, cải
cách ruộng đất, sau đó ông đi chiến trường Lào rồi trở lại chiến trường
Điện Biên Phủ cùng với nhiều họa sĩ khác như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sỹ
Ngọc, Nguyễn Quang Phòng… và vẽ các tác phẩm về địch vận, đóng thuế
nông nghiệp, vẽ phụ bản báo cáo…Các tác phẩm chính của ông chủ yếu là
những ghi chép thực tế những sự việc xung quanh mình. Tác phẩm đáng
nhớ nhất trong giai đoạn này của Nguyễn Sáng là “Giặc đốt làng tôi”được
ông sáng tác năm 1954. “Giặc đốt làng tôi” (1954) [H8;tr.64] có thể coi là
bức sơn dầu có kích thước lớn và hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Sáng trong
hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp hết sức khó khăn, thiếu thốn, tác phẩm
này được hoàn thành ở Tuyên Quang cùng lúc với tác phẩm “Mùa vàng”
của họa sĩ Dương Bích Liên [H9 ;tr.65]. Với gam màu xanh coban, xanh lá
cây pha vàng, nâu đã thu hút người xem. Tác phẩm nói về cảnh tượng
35
người dân Tây Bắc chạy loạn, gặp bộ đội trên đường hành quân. Một phụ
nữ Thái địu con, tay chỉ về hướng làng mình còn đang bốc lửa. Xung quanh
là những khuôn mặt đau khổ, phẫn uất. Tâm lý mỗi nhân vật được thể hiện
rõ nét bằng những vệt sơn thô quánh biểu cảm, đặc biệt là khuôn mặt anh
bộ đội bừng lên niềm xót xa, yêu thương đồng bào và lòng căm thù giặc.
Tác phẩm như một câu chuyện kể cho người xem về cuộc sống những năm
tháng kháng chiến chống quan xâm lược, bảo vệ độc lập cho dân tộc. Bé
trai góc tranh ở truồng đói rách. Với bút pháp tả thực trần trụi, xúc động,
gam màu chàm chủ đạo trầm hùng u tối, lấp lánh ánh sáng trên khuôn mặt
anh bộ đội và áo khăn cô gái người dân tộc. Bức tranh có một sức quấn hút
kì lạ đối với người xem tranh. Chúng ta có thể nhân thấy được cảm xúc của
ông qua nhân vật anh bộ đội cụ Hồ với trang phục và vũ khí của thời kì chiến
dịch Điện Biên Phủ, gương mặt rắn rỏi, ánh mắt chăm chú khi nghe người
phụ nữ Thái địu con tố cáo giặc Pháp đốt làng, bản của mình. Tác phẩm trên
là kết quả của những ngày tháng ông tham gia chiến dịch Điện Biên. Toàn bộ
bức tranh thể hiện bố cục chặt chẽ, bút pháp khỏe khoăn, xúc cảm mạnh mẽ
và là một sáng tác thành công về chủ đề chiến tranh chứa đựng tình quân dân
trong thời loạn, tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc.
Sau năm 1954, Hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng đoàn quân chiến
thắng trở về thủ đô Hà Nội và công tác ở hội văn nghệ Việt Nam. Thời kì này
họa sĩ Nguyễn Sáng đã sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài chiến tranh, đặc biệt
là các tác phẩm sơn dầu ghi lại nhiều dấu ấn, cảm xúc của ông về anh bộ đội
cụ Hồ mà ông đã ghi nhận qua các chuyến đi : chiến dịch Cao Bắc Lạng, Điện
Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Miền Bắc như : Tình cảm họa sĩ, Vùng mỏ hòn Gai…
Tác phẩm “Tình cảm họa sĩ” được ông sáng tác 1956 [H10 ;tr.66]là
một tác phẩm hiếm hoi ông vẽ về tình cảm gia đình của chính mình. Do hoàn
36
cảnh chính trị xã hội của đất nước, nhiều họa sĩ tham gia kháng chiến đã trở
thành người chiến sĩ trong cuộc sống và nghệ thuật. Với tinh thần yêu nước,
Nguyễn Sáng luôn cống hiến hết mình và sau thời chiến ông chẳng có gì
ngoài hai bàn tay trắng và nghệ thuật. Trong tranh, các nhân vật được vẽ bằng
những mảng lớn chiếm toàn bộ không gian tạo nên những giây phút bồi hồi,
xúc động. Người đàn ông đang đưa tay với tới người phụ nữ và đứa con của
mình nhưng dường như bàn tay ấy không thể chạm tới được hạnh phúc này.
Trong tranh sử dụng rất ít màu như nâu, xanh xám tạo nên sự ngưng đọng,
tưởng niệm về không gian. Tác phẩm không chỉ nói nên tâm trạng đau xót của
riêng ông mà còn là tâm trạng của bao chiến sĩ bộ đội Việt Nam từ kháng
chiến trở về, vì chính ông cũng chính là một chiến sĩ. Qua đó, phản ánh thêm
một mặt trái, những mất mát để lại sau chiến tranh.
Sau năm 1960, Mỹ mở rộng chiến tranh và ném bom miền Bắc, họa sĩ
Nguyễn Sáng đã đi vẽ nhiều tỉnh từ miền núi Hà Tuyên, Cao Bằng đến Quảng
Ninh, tác phẩm “Vùng mỏ hòn Gai” chất liệu sơn dầu được ông vẽ năm 1962
[H11; tr.67] tại Quảng Ninh cũng là một tác phẩm về đề tài chiến tranh cách
mạng. Trong tranh là hình ảnh những người công nhân đang khai than tại hòn
Gai – Quảng Ninh. Bên cạnh việc đấu tranh tại mặt trận chiến trường, thì
những con người ngày đêm sản xuất công nghiệp để xây dựng hậu phương
vững chắc cho chiến tranh cũng là những người anh hùng thực sự. Những
người chiến sĩ trên mặt trận lao động sản xuất ấy, đã góp phần làm vững
mạnh cho kinh tế phục vụ cuộc chiến tranh vẫn đang diễn ra. Tác phẩm chỉ
được vẽ với hai màu đen trắng kết hợp với các mảng lớn đậm nhạt để gợi nên
hơi thở hiện thực cuộc sống chiến tranh. Giữa một khung cảnh rộng lớn,
những mái lán dựng lên thô sơ, những đường điện công nghiệp được chăng
xuống, một nhóm các công nhân đang cùng nhau khai thác bằng những công
cụ đơn giản. có thể thấy được, sức mạnh và ý chí chiến đấu qua sức căng cơ
thể trong động thái của những người công nhân đang làm việc. Chỉ với sự mô
37
tả khái quát, hầu như lược bỏ phép tả khối và chỉ sử dụng các mảng phẳng
dẹt, lược bỏ về màu, Nguyễn Sáng đã cho thấy việc mô tả tài tình không dựa
theo quy tắc nhất định mà vẫn tạo nên hiệu quả về không gian và thời gian
trên bề mặt tranh. Tạo nên một sức sống mới trong đề tài chiến tranh được thể
hiện một cách cô đọng, chắt lọc mà vẫn cho thấy hơi thở thời đại.
Các tác phẩm sơn dầu của Nguyễn Sáng đã thể hiện thành công sự
dung dị của màu sắc, đường nét của chất liệu sơn dầu trong đề tài chiến tranh.
Tuy vẫn đặc tả theo lối khái quát, cô đọng nhưng nó đã tạo nên hiệu quả mới
cho các tác phẩm.
2.3. Đề tài chiến tranh trong một số chất liệu khác của Nguyễn Sáng
* Đề tài chiến tranh trong tranh khắc gỗ của Nguyễn Sáng
Tranh khắc gỗ là tranh in từ các ván gỗ đã được khắc theo kĩ thuật nổi
[17; tr137] Cách chế bản và phương pháp in ấn tranh khắc gỗ ngày càng có
nhiều tìm tòi, sáng tạo.
Trong chặng đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam, đặc biệt là
thế kỷ XX, nghệ thuật tranh khắc gỗ đã có những đóng góp không hề nhỏ, tạo
nên diện mạo mỹ thuật nước nhà độc đáo với đặc trưng riêng biệt, không lẫn
với bất kỳ quốc gia nào.
Từ năm 1925 đến nay, kể cả về số lượng tác phẩm và chất lượng nghệ
thuật của các tranh khắc gỗ đã có những bước tiến vượt bậc, không chỉ tiếp
tục kế thừa từ vốn truyền thống dân tộc của nghệ thuật khắc gỗ đó là những
dòng tranh dân gian và những ván khắc kinh mà đã được mở rộng về nội dung
thể hiện và đề tài sáng tác. Có rất nhiều tác giả đã thành danh với chất liệu
khắc gỗ và tự định hình một phong cách nghệ thuật riêng làm phong phú
trang sử tranh khắc hiện đại mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Thành công
đó một phần là nhờ việc tiếp nhận có chọn lọc nghệ thuật khoa học hiện đại
38
châu Âu trong xử lý không gian, diễn hình, diễn màu và những nét tinh hoa
của tranh khắc phương Đông tạo nên một bản sắc mang đậm nét Việt.
Truyền thống phương Tây khắc gỗ thớ dọc, chú trọng tả khối trong
không gian mà truyền thống phương Đông (trong đó có Việt Nam) khắc thớ
ngang, chú trọng tả mảng và nét, vậy mà hầu như chưa ai thấy tranh khắc nào
của thời Đông Dương khắc thớ dọc cả- chỉ riêng điều này đã cho thấy dấu ấn
rõ nét của nghệ thuật Á Đông thấm nhuần trong nghệ thuật Việt Nam.Trong
vòng 20 năm Mỹ thuật Đông Dương (1925- 1945) đã xuất hiện một số tranh
khắc gỗ nổi tiếng như: Bến thuyền sông Hồng của An Sơn Đỗ Đức Thuận,
Gội đầu của Trần Văn Cẩn và bộ tranh khắc gỗ về Truyện Kiều hội tụ những
họa sỹ bậc nhất thời bấy giờ như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ
Cung, Nguyễn Tường Lân, Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Tôn Thất Đào…Các tranh
khắc gỗ thời này đều giàu chất trang trí Á Đông kết hợp với nét biểu cảm Việt
chân chất, dung dị. Đặc biệt, Nguyễn Sáng với bức “Tình quân dân” -1951,
“Chiến dịch Cao Bắc Lạng” với phong cách nghệ thuật riêng đã tạo nên sự đa
dạng trong thể thức tạo hình về đề tài chiến tranh.
Bức tranh khắc gỗ “Tình quân dân” được sáng tác sau chiến dịch biên
giới 1950 [H12 ;tr.68], Nguyễn Sáng dùng nét khắc để diễn tả một buổi chiều
đang xuống ở một bản Tày. Những người lính và dân bản xúm xít ở vùng
trung tâm tranh, ông diễn tả nét dương ở không gian sáng bình thường. Nhưng
phía rìa tranh thì ông lại dùng nét âm (nền đen nét trắng), để người xem cảm
nhận được bóng tối đang thu dần không gian. Ta có thể thấy được lối sử dụng
mảng và nét âm bản được biến ảo, tài hoa trong việc vận dụng đặc trưng của
nghệ thuật hội họa phương Tây kết hợp với nghệ thuật phương Đông vào
nghệ thuật làm tranh khắc gỗ cho dù vào thời gian này phần lớn các tác giả
làm tranh khắc đang vận dụng lối nét của tranh khắc Đông Hồ cho sáng tác.
39
Qua đó thể hiện tinh thần đoàn kết của quân và dân ta chính là điều cốt lõi cho
chiến thắng lẫy lừng của dân tộc.
Theo Hoàng Đình Tài: “Khi tôi hỏi ông sao không vẽ trận Phay Khắt -
Nà Ngần, bắt Lơpa - Sactong, thì được ông giải thích như một chính trị viên :
em phải nhớ tình quân dân mới là cái gốc của chiến thắng. Trận đánh dù
thắng lớn, thì nó cũng vẫn chỉ là dấu chấm hết của một chiến dịch, là một câu
kết của bài văn mà thôi. Ông nhìn tôi rộng lượng : Anh vẽ cái gốc, thằng em
ạ. Không có tình quân dân thì không có chiến thắng ấy đâu. Thế nên nghệ
thuật mới phải cần một cái đầu biết suy nghĩ.” [22]
Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng đã từng nói rằng : Hội họa Nguyễn
Sáng là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực trong nền hội họa Việt Nam, khi
tiếp nhận những bài học cổ điển và sự khai phá bản chất ngôn ngữ của trào
lưu tập thể, khi gắn với tinh thần nhân văn trong cái nhìn về chiến tranh, trong
tiến trình dân chủ ở Việt nam nửa thế kỉ qua. Trong hội họa của ông, người ta
thấy số phận của dân tộc. [27]
Thành công trong việc thể nghiệm ở thể loại tranh khắc gỗ đã cho thấy
sự tài hoa, khéo léo của họa sĩ Nguyễn Sáng. Ở ông là sự không ngừng thay
đổi và đổi mới về nghệ thuật.
* Đề tài chiến tranh trong tranh lụa của Nguyễn Sáng
Không chỉ thể nghiệm thành công ở các chất liệu sơn mài, sơn dầu,
khắc gỗ thì lụa cũng là chất liệu thành công của Nguyễn Sáng. Tiếp tục với
tinh thần nghệ thuật vị nhân sinh, đề tài chiến tranh vẫn là chủ đề lớn của
họa sĩ Nguyễn Sáng.
Bức lụa “Tân binh vùng du kích” sáng tác năm 1959 [H13;tr.69] đã cho
thấy nguồn cảm hứng vô tận về đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng trong mọi
chất liệu. Bức tranh là hình ảnh thực tế ông vẽ nhân sự kiện thực dân Mĩ xâm
40
lược nước ta. Theo sát các cuộc kháng chiến của đất nước, ông càng nhận
thức sâu sắc hơn về tổ quốc, về nhân dân và chân lý nghệ thuật. Ông viết “Có
tổ quốc mới có nghệ thuật! Trái lại mất nước mất tự do là mất tất cả”. Chân lý
đó được ông thể hiện ở đề tài chiến tranh ở mọi chất liệu theo phong cách
nghệ thuật cá nhân của mình. Trong tranh “Tân binh vùng du kích” vẫn sử
dụng sự sắp xếp hình mảng lớn để tạo nên bố cục. Hình ảnh những người
chiến sĩ đang chia tay gia đình của mình để lên đường nhập ngũ. Trung tâm
hình ảnh một gia đình người tân binh, người cha quyến luyến cúi xuống nắm
tay và nhìn đứa con thơ dại. Bên cạnh là hình ảnh người lính đang từ biệt cha
mẹ của mình. Và ở phía lớp lớp sau đó, là những người lính cũng đang từ biệt
gia đình của mình. Bức tranh sử dụng tông màu vàng cam nâu với các sắc độ
đậm nhạt khác nhau, Nguyễn Sáng đã tạo nên chiều sâu lắng về tâm tư của
người mẹ, người cha, người vợ tiễn những người lính ra chiến trường.
Với đề tài chiến tranh được vẽ bằng chất liệu lụa đã cho thấy những
ứng dụng của Nguyễn Sáng từ chất liệu kết hợp với phong cách riêng để tạo
nên cái hồn và chất của tác phẩm.
Tiểu kết
Nội dung chương II, nghiên cứu và so sánh với các họa sĩ cùng thời.
Để tìm ra các đặc điểm nghệ thuật trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng. Từ đó
thấy được cái chung, sự riêng biệt, nét nổi bật tạo nên nghệ thuật đặc sắc cho
các tác phẩm đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng.
Nguyễn Sáng là họa sĩ của cách mạng và kháng chiến, tâm huyết với đề
tài Chiến tranh. Từ bức sơn dầu đầu tiên Chợ Bo đẫm máu ở Việt Bắc tới bức
sơn mài cuối cùng Thanh niên thành đồng ở Nam Bộ. Bức tranh Kết nạp đảng
ở Điện Biên Phủ -sơn mài vẽ năm 1963 đưa ông lên vị trí hàng đầu của hội
họa chiến tranh cách mạng Việt Nam.
41
Ông là người đã trải mình trên mọi chất liệu nghệ thuật. Từ tranh khắc
gỗ, lụa, sơn dầu cho đến sơn mài, ông đều đóng góp cho nghệ thuật hiện đại
Việt Nam những tác phẩm quý giá.
Ở chất liệu sơn mài, ông đã tìm ra bảng màu mới là xanh lam và xanh
lá cây kết hợp với những màu đỏ son, cánh gián, vàng, bạc truyền thống từ đó
làm phong phú thêm bảng màu cho nghệ thuật sơn mài. Lối tạo hình mảng
lớn, khỏe khoắn khái quát, tóm lược được cả một thời đại tạo nên phong cách
hiện thực của riêng ông.
Ở chất liệu sơn dầu, tuy vẫn sử dụng những mảng lớn, phẳng dẹt và
bảng màu tối, ít màu sắc, đường nét mạnh mẽ, khoáng đạt nhưng Nguyễn
Sáng vẫn tạo nên sự dung dị riêng của chất liệu mà không mất đi sự cô đọng
về hình thể.
Trong chất liệu khắc gỗ và chất liệu lụa của Nguyễn Sáng cũng cho
thấy tư duy nghệ thuật và hiện thực cuộc sống được hòa làm một tạo nên cấu
trúc vững chắc, chuyển động trong hình thể và sắc độ. Nghệ thuật của Nguyễn
Sáng khỏe khoắn kết hợp với các yếu tố dân tộc, dân gian và hiện đại. Nhân
vật trong tác phẩm của ông vạm vỡ, có tư tưởng, cá tính và sống động.
Việc thể hiện thành công đề tài chiến tranh ở nhiều chất liệu hội họa,
đồ họa khác nhau đã cho thấy sự tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của
Nguyễn Sáng.
Có thể khẳng định: ‘‘Nghệ thuật của Nguyễn Sáng gắn liền với lịch
sử cách mạng, lịch sử nghệ thuật dân tộc. Ông là một trong số những họa sĩ
có những tác phẩm đề tài chiến tranh đẹp nhất lịch sử hội họa Việt Nam
hiện đại’’
42
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1 Thành công của Nguyễn Sáng trong các tác phẩm đề tài chiến tranh
* Thành công về tạo hình
Trong mỗi tác phẩm tranh Nguyễn Sáng đều mang đậm những dấu
ấn của chính trị và phong cách sáng tác của ông. Đó là sản phẩm của tinh
thần tâm huyết với tự do, tình yêu quê hương đất nước của các tác giả được
thể hiện thông qua ngôn ngữ tạo hình trong tranh. Ở hai giai đoạn lịch sử
kháng chiến, đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng đều có những bước tiến
về việc phản ánh qua tạo hình nhân vật, không gian thời gian của đương
đại. Qua đó, các tác giả đã thể hiện, đúc kết nên các hình tượng nghệ thuật
trong tranh một cách điển hình và xuất sắc. Với ngôn ngữ cô đọng, tinh tế
đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng được thể hiện thành công trong cách
biểu đạt mảng khối, màu sắc, không gian. Qua những phân tích về đặc
điểm đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng ta rút ra được những
thành công trong việc biểu hiện tạo hình như sau:
Thành công ở các yếu tố tạo hình trong cách xây dựng hình tượng
nghệ thuật. Trong tranh Nguyễn Sáng, hình tượng người nghệ thuật trong
tranh được thể hiện bằng mảng, khối lớn, đường nét khỏe khoắn mang tính
chất hiện thực. Trong tranh, hình tượng nghệ thuật được đặc tả một cách cô
đọng và sử dụng thủ pháp cách điệu, cường điệu để khái quát hóa hình
tượng nghệ thuật. Không gian thường được lược bỏ bớt những rườm rà để
nhấn mạnh và khái quát cô đọng nhất chủ đề. Màu sắc trong tranh Nguyễn
Sáng được sử dụng những gam màu trầm, tối nhiều sắc độ để tạo nên sự
sâu lắng trong từng tác phẩm của ông.
Thành công của tạo hình trong tranh Nguyễn Sáng thể hiện ở tính
sinh động và chi tiết của phong trào hiện thực cách mạng được phản ánh
43
qua ngôn ngữ tạo hình mỹ thuật của ông. Trong tranh sơn mài Nguyễn
Sáng sáng tạo những màu sắc mới để tạo nên bảng màu phong phú cho chất
liệu sơn mài. Việc sử dụng mảng phẳng, to lớn, các nhân vật chiếm hầu
khắp không gian gợi nên sự khỏe khoắn, trữ tình, hiện thực.
Đặc biệt, người lính bộ đội cụ Hồ là một hình tượng được phản ánh
dưới nhiều lần và nhiều góc độ khác nhau, từ những khi chạy trú mưa đến
họ dừng chân nghỉ ngơi, hay lúc ý chí quyết tâm tăng cao. Tất cả đều được
các họa sĩ diễn tả, cô đọng tinh tế ở mọi phương diện đã góp phần lớn đẩy
cao một hình tượng nghệ thuật và nâng lên trở thành hình tượng lý tưởng
cao đẹp và thành công nhất. Đồng thời truyền đạt sâu sắc những tư tưởng
nhân văn trong đường lối chính sách Đảng, thắp lên niềm tin, hy vọng về
một tương lai đất nước phát triển, tươi đẹp.
Để làm ra tác phẩm nghệ thuật mang nét riêng ở cùng một chủ đề
chiến tranh, họa sĩ Nguyễn Sáng đã phải dày công nghiên cứu khám phá ra
những đặc điểm cô đọng nhất, những ý tưởng mới, thay đổi bố cục, màu
sắc, cách điệu những yếu tố tạo hình mà vẫn đưa ra được thông điệp của
ông về chính trị xã hội ý nghĩa, tư tưởng cao đẹp về cách mạng. Từ đó,
khẳng định bản thân và nhiệt huyết sáng tạo của riêng Nguyễn Sáng.
Với cách nhìn sâu rộng, họa sĩ Nguyễn Sáng đã xác lập cho mình
một con đường có hệ thống nhất quán ở quan niệm và phương pháp biểu
đạt khái quát, khúc triết, hình tượng nghệ thuật cô đọng. Đề tài chiến tranh
trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng được họa sĩ diễn đạt theo phương pháp
hiện thực thông qua cách xử lý tạo hình kết hợp giữa phương Tây hàn lâm
và nghệ thuật dân gian. Đề tài trong tranh ông thường chỉ vẽ về con người,
mà ít hướng tới tả cảnh, ông không vẽ cụ thể, chi li mà khái quát chúng
theo cách riêng của mình mà không mất đi cái hồn tự nhiên. Từ đó cho thấy
cái nhìn bao quát, thấu rõ trong sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ
Nguyễn Sáng. Điểm trội nữa chứng tỏ sự đóng góp của đề tài chiến tranh
44
trong tranh Nguyễn Sáng với nghệ thuật tạo hình đó là việc ông luôn tìm
tòi, luân chuyển, biến đổi đa dạng ở lối vẽ làm cho bức tranh thật hiện
thực, thật cô đọng lại vừa có sự hấp dẫn lôi cuốn về mặt thị giác, lại vừa
tạo nên những âm hưởng dội ra từ bên trong dù diễn tả màu sắc sặc sỡ hay
trầm, êm dịu. Với Nguyễn Sáng, “tranh của ngày hôm nay phải khác ngày
mai” . Ngoài những yếu tố thành công kể trên, việc tiết giản màu sắc, sắc
độ và hình thể tạo ra một không gian giúp khơi gợi sự liên tưởng đa chiều
trong tư duy của người xem.
* Thành công về nội dung phản ánh
Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hình thành và phát triển đều gắn liền
với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, ở giai đoạn nào nghệ
thuật mỹ thuật cũng thể hiện tính chiến đấu đậm nét. Từ năm 1945, đất
nước ta rơi vào tình hình nguy cấp trước cuộc chiến tranh thực dân, mỹ
thuật nghệ thuật Việt Nam đã phản ánh mặt trận nóng bóng, cổ vũ mạnh
mẽ trong phong trào giải phóng dân tộc và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Có
thể thấy vị trí vai trò to lớn của nghệ thuật tạo hình Việt Nam trong hai
cuộc chiến tranh và có tính chiến đấu sâu sắc là nền tảng cho các chức năng
tính chất khác của đời sống văn nghệ. Phù hợp với quan điểm của Đảng về
công tác nghệ thuật trong bối cảnh đất nước. Trong Nguyễn Sáng luôn
hoàn thành mục tiêu tuyên truyền của Đảng
Ở Việt Nam, đề tài chiến tranh được hình thành và phát triển trong
chiến tranh từ năm 1945 như một vũ khí hiệu quả của cách mạng. Cuộc
cách mạng này đã thức tỉnh ý thức dân tộc, ý thức chính trị cho toàn giới
mỹ thuật Việt Nam. Phong trào ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam bùng lên
mạnh mẽ với tinh thần chiến đấu cao. Trong công tác tuyên truyền đường
lối, chủ chương chính sách của Đảng trong hai cuộc kháng chiến trường kì
dân tộc. Đề tài chiến tranh xuất hiện và dần lan rộng thành phong trào ủng
hộ cách mạng, tuyên truyền, động viên tới đông đảo quần chúng nhân dân
45
lao động đã luôn bám sát và phản ánh những diễn biến chính trị, những
đường lối chính sách đến với mọi người. Với những tính chất và đặc điểm
của đề tài này đã cho thấy sự đa dạng trong thể thức biểu hiện tạo hình đến
chất liệu. Mảng chủ đề này, đã cho thấy những biến chuyển của tư tưởng
thẩm mỹ, tư tưởng xã hội và không khí, bối cảnh của nước ta trong cuộc
chiến tranh xâm lược. Ở mỗi thời điểm lịch sử, sự phản ánh về tạo hình
điển hình sẽ tạo nên tác động mạnh mẽ đến quần chúng.
Đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn sáng đã cho thấy sự phản ảnh
hiện thực và tội ác của chiến tranh với nhiều chất liệu. Với tính thẩm mỹ
đặc trưng, sử dụng ngôn ngữ tạo hình mạnh mẽ, khoáng đạt, hình tượng
nhân vật cô đọng, khái quát, đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã
thành công trong nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước,
căm thù giặc, ca ngợi tinh thần anh dũng trong chiến đấu.
Việc biểu đạt hình tượng nhân vật qua các tác phẩm cùng chủ đề
chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng được hoàn thiện, phong cách cổ điển
phương Tây kết hợp với lối tạo hình Á đông đã bắt nhịp với chế độ chính
trị và tạo nên tinh thần dân tộc trong các tác phẩm của Nguyễn Sáng. Trong
chủ đề chiến tranh, Nguyễn Sáng luôn luôn tìm kiếm, chiêm ngắm và trình
bày nhân vật anh bộ đội cụ Hồ mang vẻ đẹp lý tưởng, khỏe khoắn, tầm vóc
nhưng không bị khô cứng với hình tượng gần gũi, thân quen tạo nên hiệu
ứng cộng hưởng, phát huy tinh thần trong lòng người dân.
Trong quá trình lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại, đề tài chiến
tranh đã cho thấy một mạch ngầm trong dòng trào lưu nghệ thuật hiện thực.
Trong đó, các tác phẩm của Nguyễn Sáng cũng không nằm ngoài chủ đề
này. Qua chủ đề cho thấy nhu cầu cần phải tiếp tục thay đổi và phát triển
nghệ thuật để phù hợp với nhu cầu xã hội, phù hợp với trình độ nhận thức,
nâng cao tầm hiểu biết. Nghệ thuật vị nhân sinh.
46
Việc kết hợp giữa những giá trị truyền thống dân tộc và giá trị hiện
đại trong đề tài chiến tranh được họa sĩ Nguyễn Sáng khéo léo lồng ghép,
hòa quyện qua các tác phẩm chủ đề chiến tranh. Đó là những hình ảnh của
những anh bộ đội, những cây tre, những khung cảnh với lối tạo mảng
phẳng, đường bo viền tạo nên sự khỏe khoắn. Có thể thấy, đây là một sự
kết hợp sáng tạo và thành công của tác giả trong việc sử dụng hai yếu tố
tạo hình dân gian và hiện đại trong một tác phẩm đề tài chiến tranh.
Quan điểm của nghệ thuật tạo hình Việt Nam thời kì sau 1945 thì
trách nhiệm của nghệ thuật là “vị nhân sinh” thể hiện những tư tưởng chính
trị kịp thời, chân thực, cái đẹp thuộc về giá trị thực tại cuộc sống, gắn liền
với cuộc sống. Rõ ràng, đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã
thành công trên mọi phương diện từ việc thể hiện hình thái nghệ thuật đến
giá trị nhân sinh của nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp chuẩn mực của hình tượng
nhân vật.
Từ những thành công trên, có thể khẳng định, các tác phẩm đề tài
chiến tranh của Nguyễn Sáng là những tác phẩm không chỉ mang vẻ đẹp
về tạo hình chiến tranh mà còn mang chiều sâu của hiện thực đầy tính
nhân văn.
3.2 Bài học về giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm đề tài chiến tranh
của Nguyễn Sáng
Giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn khó khăn của chính trị Việt Nam
khi phải đối đầu với cuộc kháng chiến chống Mĩ tại miền Nam Việt Nam.
Đất nước chia cắt làm đôi, miền Bắc với chính quyền non trẻ đi lên xây
dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam đau thương đấu tranh với giặc Mĩ. Các
sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã góp phần không nhỏ
trong việc khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Giá trị nghệ
thuật trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng nằm ở các yếu tố sau: giá trị
thẩm mĩ, giá trị lịch sử và giá trị tạo hình.
47
* Giá trị thẩm mỹ
Nguyễn Sáng từng nói : “Dân tộc rồi đây cũng 50, 60 triệu người, với
những việc đã làm đứng vào hàng thế giới. Vậy tại sao nghệ thuật ta không
đứng vào hàng thế giới. Và tôi cố gắng làm điều đó”. Câu nói của Nguyễn
Sáng đã cho thấy một tiếng nói của bậc thầy đã giành hết tâm huyết của cả đời
mình cho nghệ thuật đất nước.
Trong tranh sơn mài của Nguyễn Sáng, ông luôn khai thác tìm tòi,
khám phá ra những gam mầu mới mà bản chất sơn mài chỉ có sơn then, cánh
gián, son, vàng bạc. Từ đó tạo nên sự phong phú cho bảng màu sơn mài nước
ta của Việt Nam.
Về yếu tố thẩm mĩ, như đã nói ở trên, trong tất cả các tác phẩm đề tài
chiến tranh họa sĩ luôn thể hiện tối đa cấu trúc hình thể nhân vật và tương
quan đậm nhạt, hình mảng lớn thông qua các chất liệu tạo hình. Ngoài ra, giá
trị thẩm mĩ còn nằm ở phương thức họa sĩ Nguyễn Sáng sử dụng chất liệu
trong đề tài chiến tranh.
Thông qua sự diễn đạt từ tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng về nhân vật, sự
vật, hay cách bài trí bố cục của một tác phẩm, người xem có thể cộng hưởng
và thưởng thức những tiêu chuẩn thẩm mĩ thích hợp, từ đó nắm được ẩn ý về
đời sống vật chất, tinh thần quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến kháng
chiến. Ở mảng tranh đề tài chiến tranh, chúng ta bắt gặp hình ảnh khỏe khoắn
trong tạo hình anh bộ đội cụ Hồ, những người dân công, những cô gái…
người xem thấy được sự khái quát hình thể trong tạo hình các nhân vật, ngoài
ra, về màu sắc, họa sĩ Nguyễn Sáng luôn chú ý tới sự tương quan đậm nhạt
khi mô tả về hình thể, trang phục, màu da. Sự quan sát này cho thấy, họa sĩ
có sự nghiên cứu hình thể rất sâu sắc, cùng với đó là khả năng bao quát tuyệt
vời về nội tâm nhân vật thông qua diễn tả đường nét để làm nổi bật thần thái
cũng như hình thể nhân vật.
48
* Giá trị lịch sử
Những sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng được xem
như những minh chứng về lịch sử bằng hình ảnh. Người xem tranh có thể
thấy được tinh thần của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp - Mĩ của
Việt Nam. Mỗi vùng đất đi qua họa sĩ Nguyễn Sáng lại ghi lại những dấu
ấn quan trọng nhất về con người, phong cảnh, tập tục. Mỗi tác phẩm đề tài
chiến tranh của Nguyễn Sáng là sự san sẻ với những người dân Việt những
câu chuyện về chiến tranh bằng hình ảnh, màu sắc, đường nét…Là họa sĩ
được đào tạo theo lối hàn lâm phương Tây, với cách nhìn hiện thực, và
những trải nghiệm thực tế cộng với tư duy vững chắc ở nghề, những tác
phẩm của Nguyễn Sáng luôn có sức sống nội tại của các đối tượng về chiến
tranh và các đề tài khác. Ở mảng đề tài chiến tranh trong tranh, hiện thực
sự việc được mô tả khái quát và hết sức sinh động diễn tả con người, thiên
nhiên một cách chính xác kết hợp với khả năng kiểm soát chủ động về hình
thức biểu đạt mảng phẳng. Điều này phản ánh qua các tác phẩm như bức
Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ, Thanh niên thành đồng. Vẫn tạo hình dựa
trên phương pháp giản lược hình ảnh và màu sắc, qua tác phẩm người xem
vẫn cảm nhận được một khung cảnh, con người với những tạo hình khái
quát nhất. Bằng những mảng, nét đơn giản, họa sĩ Nguyễn Sáng đã ghi lại
toàn cảnh, những hoạt động, tâm trạng của nhân vật trong chiến tranh. Qua
đó người xem có thể nắm bắt được nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc
chiến. Sự hấp dẫn của những giá trị lịch sử trong tranh của họa sĩ Nguyễn
Sáng thể hiện ở đề tài chiến tranh cho thấy hơi thở của thời đại, biểu hiện
những phút dừng chân hiếm hoi của anh lính cụ Hồ khi băng rừng, trèo núi,
hay sự chia cách của anh bộ đội trong giờ chuẩn bị ra chiến trường, sự hối
hả, đau xót của những người dân bản chạy giặc… Nét độc đáo, dễ nhận
thấy từ những tranh đề tài chiến tranh cho thấy lịch sử của họa sĩ Nguyễn
Sáng còn nằm ở trang phục của nhân vật, rất đặc trưng điển hình. Nét mạnh
49
mẽ trên trang phục của anh bộ đội được gắn thêm lá ngụy trang, trang phục
của người phụ nữ Thái, của thanh niên… Tất cả đều gợi nhắc về một thời
đạn bom gian khổ, để ghi lại một cách chân thực như vậy, họa sĩ phải thực
sự hòa mình với đời sống chung để cảm nhận và thấu hiểu mới có thể phác
họa chính xác nhất.
Từ những đóng góp về yếu tố lịch sử và yếu tố nghệ thuật, đề tài
chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng trở thành những bài học
đắt giá về lòng yêu nước và sự tận tụy với nghề. Với thể loại tranh sơn mài,
sơn dầu, khắc gỗ, lụa, họa sĩ Nguyễn Sáng đã khẳng định, đây là những
chất liệu mà họa sĩ cần vươn tới và khẳng định vị trí hàng đầu với sự đa
diện ở ý tưởng cùng với ngôn ngữ biểu hiện. Là người có công lớn đóng
góp cho chất liệu sơn mài Việt Nam, các tác phẩm sơn mài đề tài chiến
tranh là đỉnh cao trong sáng tác của họa sĩ Nguyễn Sáng.
* Giá trị tạo hình
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về những tác phẩm đề tài chiến
tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã cho người viết thấy được những đặc điểm
tạo hình trong tranh của ông, qua đó rút ra được những bài học về tạo hình
cho bản thân.
Trong đó đáng chú ý là lối tạo hình phản ánh hiện thực khách quan
từ cuộc sống. Ở mỗi tác phẩm của Nguyễn Sáng, người xem có thể thấy
được những nhịp đập của thời đại, tính chiến đấu hào sáng và tình yêu quê
hương đất nước được đặc tả rõ nét trong tranh của Nguyễn Sáng. Từ đó,
mỗi tác phẩm của Nguyễn Sáng như những minh chứng lịch sử hào hùng
của dân tộc trong thời kì chiến tranh.
Bài học về tạo hình trong tranh Nguyễn Sáng luôn luôn có sự tìm tòi,
khám phá, sáng tạo để tìm ra được cái riêng độc đáo cho bản thân, đó là
50
phong cách riêng cho bản thân. Cũng giống như họa sĩ Nguyễn Sáng, ông
đã tìm ra được phong cách tạo hình độc đáo mà ít ai có thể làm được.
Bài học về sự cống hiến cho nghệ thuật chân chính, nghệ thuật sẽ đáp
trả công lao cho người nghệ sĩ bằng những thành công và những tác phẩm vô
giá. Người nghệ sĩ phải có niềm đam mê hết mình, hết lòng vì nghệ thuật.
Bài học về việc duy trì và phát huy nghệ thuật truyền thống, lịch sử
để áp dụng vào sáng tác nghệ thuật cá nhân. Họa sĩ Nguyễn Sáng kết hợp
tính hiện đại với tính dân tộc trong tranh của mình để tạo nên những tác
phẩm mang tính đột phá. Sự chắt lọc tinh họa nhân loại, tinh họa nghệ
thuật được ông sử dụng một cách sáng tạo tạo nên giá trị cho tác phẩm của
mình. Từ đó, người viết rút ra được bài học nhận thức về việc sử dụng nghệ
thuật dân gian trong các tác phẩm của mình.
Theo nhà phê bình nghiên cứu Thái Bá Vân cho rằng: “ Có 3 ý nghĩa
dính kết vào nhau và đọng lại suốt cuộc đời Nguyễn Sáng : một là nghệ
thuật ; hai là Hà Nội ; ba là coi đời mình như con ong. Mang nhu cầu nghệ
thuật sáng tạo như một bản năng sống. Nhận Hà Nội là chiếc nôi văn hiến
của cả dân tộc, như một sự thật lịch sử… Nguyễn Sáng không chạy theo
khách hàng, không chạy theo các phong triển lam và những lời khen phù
phiếm. So với các đồng nghiệp cùng quê miền Nam, thì Nguyễn Sáng xuất sắc
về mặt dân tộc hóa được nghệ thuật của mình, mình là một kết quả tinh lọc
của bản chất Việt Nam, đa vượt được cái ấn tượng về một bút pháp địa
phương con nhỏ nhặt, giống như những con nước lẻ tẻ, chưa nhập vào dong
sông để đô vào biển khơi… Nguyễn Sáng là trường phái Hà Nội theo cái
nghĩa là thủ đô văn hóa, là Việt Nam cô đọng, đầy đủ và toàn thể… Đó là tầm
lớn đa quốc gia hóa của anh” [28] Qua đó thấy được vai trò đóng góp nghệ
thuật của Nguyễn Sáng trong ngôn ngữ tạo hình với lịch sử hội nghệ thuật
Việt Nam hiện đại.
51
Tiểu kết
Chương III tập trung nghiên cứu giá trị nghệ thuật và những thành công
từ tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng. Nhìn chung giá trị nghệ thuật trong tranh
đề tài chiến tranh của ông được nhìn nhận ở khía cạnh tạo hình và hòa sắc
thông qua các chất liệu sơn mài, sơn dầu, khắc gỗ, lụa. Mỗi chất liệu họa sĩ lại
có phương pháp tạo hình riêng biệt, thông qua hiệu quả từ chất liệu mà tranh
sẽ có những giá trị nghệ thuật riêng.
Đề tài chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng vừa mang tính
thẩm mĩ nhưng đồng thời cũng chứa trong mình những đóng góp của ông với
lịch sử dân tộc. Bên cạnh những đóng góp cho lịch sử, tranh của ông còn góp
phần làm giàu thêm vốn văn hóa nghệ thuật nước nhà, là bài học bổ ích về
tinh thần quả cảm, hăng say trong lao động.
Những tác phẩm của ông sẽ là tấm gương rọi sáng cho các thế hệ họa sĩ
sau này học tập. Với lối tạo hình sáng tạo giữa nghệ thuật truyền thống và
nghệ thuật hiện đại, Nguyễn Sáng đã cho thấy việc say mê tìm tòi và nghiên
cứu học tập không ngừng. Trong mỗi chất liệu tạo hình từ hội họa như sơn
mài, sơn dầu, lụa đến đồ họa là khắc gỗ, Nguyễn Sáng luôn sử dụng lối vẽ
khúc triết, khái quát bằng những mảng, hình khối đơn giản mà vẫn gợi nên
chiều sâu không gian và hiệu quả của chất liệu. Cùng với bộ tứ danh họa Sáng
– Phái – Liên – Nghiêm, Nguyễn Sáng là tấm gương nghệ thuật mà thế hệ trẻ
sau này cần noi theo.
52
KẾT LUẬN
Họa sĩ Nguyễn Sáng đã đóng góp một phần lớn cho nền mỹ thuật tạo
hình Việt Nam. Cùng với các bậc thầy, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm
lớn và đồ sộ. Không chỉ nhiều về số lượng mà hơn thế là sự thành công của
các tác phẩm là phong cách nghệ thuật và tư tưởng thời đại của Nguyễn Sáng.
Đặc biệt là đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã cho thấy tư tưởng,
tình cảm cũng như kỹ thuật điêu luyện trong sáng tác nghệ thuật của ông.
Nghệ thuật và cuộc đời của họa sĩ Nguyễn Sáng gắn liền với lịch sử
cách mạng, lịch sử nghệ thuật của dân tộc. Họa sĩ Nguyễn Sáng đã học tập và
cống hiến cho nghệ thuật đất nước những tuyệt tác hội họa vang danh.
Họa sĩ Nguyễn Sáng đã sáng tác hơn 140 tác phẩm đủ thể loại, chất
liệu, đặc biệt là sơn mài và sơn dầu. Ở sơn mài ông đã khám phá ra việc sử
dụng thêm màu xanh vào trong tranh để tạo nên bảng màu mới. Khác với
nhiều họa sĩ cùng thời, Nguyễn Sáng đã thay đổi cả một bộ mặt của chất liệu
sơn mài, chính ông là người một trong những người đưa sơn mài từ một chất
liệu mỹ nghệ trở thành một chất liệu hội họa thực thụ.
Đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng là một đề tài lớn trong suốt
quá trình làm việc của ông. Ở đề tài này, Nguyễn Sáng đã cho thấy sự say mê
sáng tạo từ ngôn ngữ tạo hình cho đến việc thể nghiệm chất liệu. Với lối tạo
hình khỏe khoắn, vững chắc, hình tượng nghệ thuật trong tranh Nguyễn Sáng
luôn được cô đọng, khái quát thể hiện tinh thần ẩn trong đó. Trong tranh,
Nguyễn Sáng sử dụng nhiều đường kỷ hà, đường đơn tuyến, nhiều nét to, thô,
khỏe khoắn, mảng lớn, rõ đậm nhạt mang âm hưởng của nghệ thuật dân gian.
Ông sáng tác nhiều mảng đề tài từ chân dung, sinh hoạt, con vật, vũ trụ nhưng
sâu sắc và thành công nhất là đề tài chiến tranh.
Qua nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng, ta hiểu
thêm về lối tạo hình và tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Sáng. Thông qua đó,
hiểu rõ thêm về nghệ thuật tạo hình của một bậc thầy hội họa Việt Nam.
53
TAI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên), Bùi Như Hương, Phạm Trung,
Nguyễn Văn Chiến (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, Trương đại
học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Hà Nội.
2. Văn Bảy, Những câu chuyện ít biết về Nguyễn Sáng, Báo Thể thao và
văn hóa, ngày 15/11/2008.
3. Bộ Văn hóa- Thông tin, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Triển lãm Mỹ thuật
toàn quốc 2001 – 2005.
4. Trần Khánh Chương (chủ biên) (2013), Mỹ thuật Sài Gòn thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Mỹ thuật.
5. Trần Khánh Chương (2003), Họa sĩ Nguyễn Sáng giải thưởng Hồ Chí
Minh(đợt I -1996), Tạp chí mỹ thuật sô 84(55).
6. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Phi Hoanh (1993), Mỹ thuật và nghệ sĩ, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
8. Hội đồng từ điển (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
9. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 1 A- Đ, NXB
Từ điển Bách khoa.
10. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 2 E – M, NXB
Từ điển Bách khoa.
11. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 3 N – S, NXB
Từ điển Bách khoa.
12. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 4 T – Z, NXB
Từ điển Bách khoa.
54
13. Trần Tiểu Lâm (2001), Giáo trình Mỹ thuật học. Nxb Mỹ thuật.
14. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển Mỹ thuật, Nxb Văn hoá thông tin Hà
Nội.
15. Hoàng Công Luận, Nguyễn Quân (1994), Các bậc thầy hội họa Việt
Nam “Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái”,
Nxb Mỹ thuật Hà Nội.
16. Ngô Văn Nam (2015), Tính lạc quan trong hội họa Việt Nam giai đoạn
1945- 1975, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
17. Đặng Bích Ngân (2002), Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phô thông, Nxb
Giáo dục.
18. Nguyễn Tôn Nhan, Phú Văn Hẳn (2015), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Hồng Đức.
19. Quang Việt (2008), Từ điển Họa sĩ Việt Nam, Nhà xuất bản Mỹ thuật.
20. Nguyễn Quang Phòng (chủ biên), Các họa sĩ trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
21. Trần Văn Uyên (2008), Hình tượng anh bộ đội cụ Hồ trong tranh
Nguyễn Sáng, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam.
22. Hoàng Đình Tài (2003), Kỉ niệm về Nguyễn Sáng, Tạp chí mỹ thuật số
84(55).
23. Tác giả tác phẩm mỹ thuật Viêt Nam, Nxb Văn hóa- Thông tin.
24. Trần Chiến Thắng, Ngô Quang Nam, Vũ Giáng Hương (2003), Tuyển
tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hóa- Thông tin.
25. Trần Thức (1989), Họa sĩ Nguyễn Sáng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
55
26. Trần Thức (2003), Một đời người, một cá tính nghệ thuật, Tạp chí mỹ
thuật số 85(55).
27. Trần Hậu Tuấn (2005), Hôi họa Việt Nam đương đại “Nguyễn Gia Trí,
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên”,
Nxb Văn hóa Sài Gòn.
28. Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật ấn hành.
29. Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
HOÀNG THẮNG
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG TRANH CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG
PHẦN PHỤ LỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN
PGS TS. LÊ BÁ DŨNG
Hà Nội – 2017
57
PHỤ LỤC
H1“Bộ đội nghỉ trưa trên đồi”, 1959, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
58
H2 họa sĩ Trần Đình Thọ,“Tre” ,1975, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
59
H3 “Bộ đội trú mưa”,1960, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
60
H4“Lớp học đêm”,1960, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
61
H5“Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ”,1963, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
62
H6 “Thanh niên thành đồng”,1978, Sơn mài
Nguồn: Cuốn Mỹ thuật Việt Nam hiện đại
63
H7 Thiếu nữ bên họa sen, Sơn dầu
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
64
H8“Giặc đốt làng tôi”,1954, Sơn dầu
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
65
H9 Họa sĩ Dương Bích Liên, “Mùa vàng” ,1954
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
66
H10“Tình cảm họa sĩ”, 1956, Sơn dầu
Nguồn: Internet
67
H11“Vùng mỏ hon Gai”,1962, Sơn dầu
Nguồn: Bộ sưu tập Hoàng Đình Tài
68
H12“Tình quân dân”,1950, Khắc gỗ
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
69
H13“Tân binh vùng du kích”,1959, Lụa
Nguồn: Bộ sưu tập Hoàng Đình Tài
Top Related