MỤC LỤC
I. Khái quát về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự......................................2
1. Khái niệm thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự...............................................2
2. Ý nghĩa của thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự............................................4
II. Quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.............4
1. Thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra....................................................4
2. Thẩm quyền khởi tố của Viện kiểm sát........................................................9
3. Thẩm quyền khởi tố của Hội đồng xét xử .................................................10
4. Thẩm quyền khởi tố của các cơ quan khác được giao tiến hành hoạt động
điều tra............................................................................................................10
III. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự........13
THẨM QUYỀN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình đòi hỏi các yêu cầu
khắt khe về thủ tục tố tụng, không giống như giải quyết một vụ việc dân sự,
kinh tế, lao động hay hành chính. Quá trình này có sự tham gia của nhiều cơ
quan và người tiến hành tố tụng khác nhau, nên thẩm quyền của các chủ thể này
cũng khác nhau từ lúc khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử vụ án. Quá trình
này được tiến hành thông qua các giai đoạn tố tụng như sau: Giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự, giai đoạn truy tố và giai đoạn
xét xử vụ án hình sự.
Có thể nói, giai đoạn đầu tiên cũng là giai đoạn rất quan trọng của vụ án
chính là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, “Với tính chất là một giai đoạn độc lập
và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật
chất) và pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự”. Đây là
giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn xác định có hay không có dấu
hiệu của tội phạm từ kết quả xác định này mà chủ thể có thẩm quyền sẽ ra quyết
định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Việc Nhà nước trao quyền
cho chủ thể nào, pháp luật quy định cho chủ thể nào có thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng tới cả quá trình giải quyết vụ
án. Nghiên cứu về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự qua việc tìm hiểu các quy
định của pháp luật hiện hành qua đó phát hiện ra những điểm chưa được và
hoàn thiện nó là một vấn đề nghiên cứu chứa đựng nhiều thực tiễn pháp lý,
giúpchúng ta hiểu rõ hơn vấn đề này.
I. Khái quát về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
1. Khái niệm thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của
các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do luật pháp quy định,
khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng của chủ thể có thẩm quyền làm phát
sinh quan hệ tố tụng giữa cơ quan có thẩm quyền và người tham gia tố tụng là
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2
tiền đề cho quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội và người thực hiện tội
phạm.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là quyền hạn mà pháp luật quy định cho
những chủ thể nhất định được ra quyết định (thực hiện hành vi tố tụng) sau khi
xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế là có dấu hiệu của những tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng,
mở đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng hình sự cần thiết để làm rõ sự
thật khách quan về sự kiện đó.
Tại Điều 13 BLTTHS 2003 về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố
vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm
và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình
tự do Bộ luật này quy định”. Tiếp theo, khoản 1 Điều 104 của BLTTHS
quyđịnh: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát
khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội
phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003, chủ thể có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự khá rộng, gồm: Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Tòa án thông qua
Hội đồng xét xử. Với ý nghĩa đấu tranh phòng, chống và kịp thời phát hiện tội
phạm, việc BLTTHS 2003 quy định như vậy là nhằm tránh bỏ sót tội phạm. Khi
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động điều tra, truy tố không phát
hiện được tội phạm, thì đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, thông qua việc xét hỏi,
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện được “tội phạm mới” hoặc
“người phạm tội mới” sẽ có thẩm quyền khởi tố vụ án.
2. Ý nghĩa của thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án. Đây là tiền đề, cơ sở để thực hiện các giai đoạn tiếp theo. Việc xác
định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng mang một ý nghĩa vô cùng quan
trọng.
-Pháp luật quy định cho những chủ thể nhất định có thẩm quyền khởi tố
nhằm mục đích: Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, phát
hiện dấu hiệu của tội phạm thì chủ thể có thẩm quyền này sẽ được ra quyết định
khởi tố vụ án, để phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội và người phạm
tội.
-Quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hihf sự rõ ràng sẽ làm giảm đi tình trạng
chồng chéo trong thẩm quyền khởi tố vụ án giữa các chủ thế.
II. Quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự(PLTCDTHS) 2004 sửa
đổi và bổ sung 2009, theo đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố hình sự gồm: Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
điều tra.
1. Thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra.
CQDT khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền của
mình, cụ thể như sau:
a. Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân
Theo khoản 1, điều 104 và khoản 1 điều 110 BLTTHS: CQĐT trong Công
an nhân dân có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả
các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình và thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
trong Quân đội nhân dân và CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xuất phát từ nguyên tắc chung, CQĐT cấp nào thì sẽ khởi tố những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp đó, BLTTHS hiện hành đã có sự phân
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 4
định tương đối rõ ràng thẩm quyền khởi tố vụ án của các CQĐT trong Công an
nhân dân. Theo quy định tại điều 11 PLTCDTHS, thẩm quyền của cơ quan cảnh
sát điều tra trong Công an nhân dân như sau:
Cơ quan cảnh sát điều tra trong công an nhân dân
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự về các tội quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII
của BLHS khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân
cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân.
Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân được tổ chức ở ba cấp:
Cấp huyện, cấp tỉnh và Bộ công an.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện khởi tố vụ án hình sự về các
tội khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp
huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKS
nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân.
Đây là điểm mới trong quy định của BLTT và PLTCĐTHS so với quy định
trong các văn bản pháp luật trước đây. Trước đây theo quy định tại điều 8 và
điều 9 PLTCĐTHS, thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an
cấp huyện chỉ được điều tra, xét xử đối với tội phạm mà BLHS quy định hình
phạt từ 7 năm tù trở xuống. Hiện nay, theo quy định tại điều 170 BLTTHS
2003, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử đối với những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng có mức cao nhất
khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống. Do vậy PLTCĐTHS hiện hành quy
định CQĐT cấp huyện có thẩm quyền khởi tố, điều tra tương ứng với thẩm
quyền xét xử của Tòa án cấp huyện.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về
các tội khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 5
tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
-Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an điều tra các vụ án hình sự về những
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân
Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh có thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm phá hoại hòa
bình , chống loài người, tội phạm chiến tranh và các tội phạm quy định tại các
điều 180, 181, 221, 222, 223, 230, 231, 232, 236, 263, 264, 274 và 275 của
BLHS.
BLTTHS 1988 chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền của cơ quan An ninh
điều tra trong Công an nhân dân nên trong thực tiễn đã dẫn đến việc tranh chấp
về thẩm quyền. BLTTHS 2003 đã khắc phục những hạn chế này bằng việc quy
định rõ thẩm quyền trong nội bộ CQĐT các cấp, các ngành nhằm hạn chế bớt
việc vi phạm thẩm quyền, giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng,
b. CQĐT trong Quân đội nhân dân
Các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền khởi tố của các CQĐT
trong Quân đội nhân dân có một số điểm khác biệt so với quy định về thẩm
quyền khởi tố của CQĐT trong các ngành khác đó là đối tượng phạm tội thuộc
thẩm quyền khởi tố của CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm:
-Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến
đấu, dẫn quân…
-Những người không thuộc các đối tượng trên mà phạm tội liên quan đến bí
mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 6
CQDDT trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đối
với tất cả các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình và thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của CQĐT của Viện kiểm sát.
Việc phân cấp các CQĐT trong Quân đội nhân dân, theo quy định tại điều 15
PLTCĐTHS 2003 thì:
1. Cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về các tội
phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật
hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự khu
vực, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát quân sự trung ương.
2. Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương điều tra các vụ án hình
sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự quân khu và tương đương hoặc các tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự khu vực nhưng
xét thấy cần trực tiếp điều tra.
3. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án hình sự về
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp
điều tra.
Cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân khởi tố những tội phạm
được quy định tại các Chương XI và Chương XXIV của BLHS. Khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự các cấp, cụ thể:
1. Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương điều tra các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật
hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự quân
khu và tương đương.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7
2. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án hình sự về
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp
điều tra.
c. CQĐT của VKS
CQĐT của VKS có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đối với các tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư
pháp.
Tương tự như các CQĐT trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân,
CQĐT của VKS cũng có thẩm quyền khởi tố căn cứ vào thẩm quyền xét xử của
Tòa án. Theo điều 18 PLTCĐTHS:
1. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra các vụ án hình sự
về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân.
2. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra các vụ án hình
sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
Trước đây, điều 18 PLTCĐTHS 1989 quy định CQĐT của VKS có thẩm
quyền khởi tố đối với các chủ thể thực hiện tội phạm có thể là cán bộ tư pháp
hoặc những người khác. Quy định này đã được sửa đổi, điều 18 PLTCĐTHS
2004 quy định thẩm quyền khởi tố của CQĐT thuộc VKS hẹp hơn, đó là chỉ
khởi tố vụ án hình sự về một số loại tội phạm hoạt động tư pháp với điều kiện
người phạm tội là cán bộ trong cơ quan tư pháp mà không phải bất kì ai. Quy
định hư vậy nhằm đảm bảo cho việc khởi tố vụ án được kịp thời, chính xác
khách quan tạo điều kiện cho VKS có thời gian tập trung làm tốt chức năng
công tố và kiểm sát tư pháp.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 8
2. Thẩm quyền khởi tố của Viện kiểm sát.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của VKS được quy định tại khoản 2 điều
36, khoản 1 điều 104, khoản 1 điều 112 BLTTHS 2003 ngoài ra thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự của VKS còn được quy định tại khoản 1 điều 13 của luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Theo quy định tại khoản 1 điều 104 và khoản 1 điều 109 BLTTHS, VKS có
quyền khởi tố vụ án trong hai trường hợp:
-Khi kiểm sát khởi tố vụ án mà có căn cứ để hủy quyết định không khởi tố
vụ án của CQĐT, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là trường hợp mà
quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan này không đúng với
quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự tại điều 107 BLTTHS 2003.Việc quy
định thẩm quyền khởi tố như vậy là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với chức năng
kiểm sát.
-Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố
vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Theo quy định tại điều 87 BLTTHS 1988, khi xác định được dấu hiệu tội
phạm thì CQĐT, VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Với quy định này thì
phạm vi của CQĐT và VKS là như nhau. Điều đó dẫn đến tình trạng việc khởi
tố vụ án bọ chồng chéo, làm giảm hiệu quả của công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát tư pháp của VKS. Khắc phục tình trạng này, BLTTHS 2003 thu
hẹp phạm vi khởi tố vụ án hình sự của VKS nhằm đảm bảo cho VKS tập trung
thực hiện đúng chức năng chính của mình.
3. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
Theo quy định tại khoản 1 điều 104 BLTTHS 2003, thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự của Hội đồng xét xử mang tính lựa chọn. Hội đồng xét xử ra quyết
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 9
định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại
phiên tòa mà phát hiện được người phạm tội mới cần phải điều tra.
Tội phạm mới là hành vi phạm tội mới được phát hiện và chưa bị khởi tố vụ
án hình sự. Người phạm tội mới là người phạm tội chưa bị phát hiện hoặc cũng
có thể là đồng phạm trong vụ án đã bị khởi tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có đồng phạm khác thì thẩm phán được
phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo
điều 179 BLTTHS 2003.
Khi phát hiện người phạm tội mới hoặc tội phạm mới tại phiên tòa thì không
phải mọi trường hợp đều Hội đồng xét xử đều khởi tố vụ án hình sự. Nếu những
điều đó có liên quan đến vụ án đang xét xử, không thể tách thành vụ án độc lập
thì giải quyết trong cùng 1 vụ án để đảm bảo tính khách quan, toàn diện thì Hội
đồng xét xử có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Vậy, những tội
phạm mới hoặc người phạm tội mới mà Hội đồng xét xử quyết định khởi tố là
những tội, những người không liên quan đến vụ án đang xét xử hoặc có thể tách
ra thành vụ án độc lập.
4. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
a. Bộ đội biên phòng
Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều 119, 120, 153, 154,
172, 180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236, 263, 264, 273, 274
và 275 của Bộ luật hình sự xảy ra trong khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển,
hải đảo và trên các vùng biển do Bộ đội biên phòng quản lý thì những người
quy định tại khoản 2 Điều này có quyền:
-Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản
vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, trưng cầu giám định khi cần
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 10
thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra khác theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án.
-Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản
vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án; khi xét thấy cần ngăn chặn
ngay người có hành vi phạm tội chạy trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc tiếp tục thực
hiện tội phạm thì giải ngay người đó đến cơ quan Công an và xin ngay lệnh bắt
khẩn cấp của cơ quan có thẩm quyền; chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra
có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
b. Hải quan
Cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự
thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông
quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu có quyền:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án, lấy
lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến
vụ án, khám người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan,
trưng cầu giám định khi cần thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều
tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra và chuyển
hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể
từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
-Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án,
lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 11
đến vụ án, khám người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan,
chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
c. Kiểm lâm
Cơ quan Kiểm lâm khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại các điều 175, 189, 190, 191, 240 và 272 của
Bộ luật hình sự thì Cục trưởng Cục Kiểm lâm, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm
lâm, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm sản có quyền:
-Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản
vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, trưng cầu giám định khi cần
thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra khác theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án;
-Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản
vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án.
d. Cảnh sát biển
Các đơn vị thuộc lực lượng Cảnh sát biển khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh
vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các
điều 153, 154, 172, 183, 188, 194, 195, 196, 212, 213, 221, 223, 230, 231, 232,
236, 238, 273 và 274 của Bộ luật hình sự xảy ra trên các vùng biển và thềm lục
địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 12
quản lý thì Cục trưởng, Chỉ huy trưởng Vùng, Hải đoàn trưởng, Hải đội trưởng
và Đội trưởng Cảnh sát biển có quyền:
-Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản
vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, trưng cầu giám định khi cần
thiết, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra khác theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án.
-Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án,
tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và
bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hồ sơ vụ án
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án.
III. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Nhìn chung các quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
được quy định trong BLTTHS 2003 và PLTCĐTHS 2004 là tương đối đầy đủ.
Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số điểm mà theo em là càn phải thay đổi, bổ
sung để phù hợp hơn khi áp dụng và thực tiễn cuộc sống.
1. Sửa đổi về thời gian về việc xác minh tin báo, khởi tố vụ án hình sự có
nhiều tình tiết phức tạp.
Khoản 2 Điều 103 quy đinh: “Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày
nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.”
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi
tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 13
thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai
tháng.”
Luật quy định như vậy là trong trường hợp việc xác định tố giác và tin báo
về tội phạm có nhiều tình tiết phức tạp… thì sau hơn 20 ngày tới 60 ngày cần
phải giải quyết tố giác, điều này là vô cùng khó khăn cho các cơ quan có thẩm
quyền vì thời hạn như vậy là tương đối ngắn để xác minh. Việc khởi tố vụ án
hình sự cần phải được tiến hành nhanh chóng nhưng nếu không đủ thời gian để
xác minh những vụ điều tra liên quan đến nhiều người, phải xác minh tại nhiều
thời điểm khác nhau, tại nhiều địa điểm khác nhau mà quá thời gian quy định sẽ
dẫn tới 2 tình trạng: thứ nhất là: Không khởi tố dù vụ án đó thực sự cần phải
khởi tố hình sự vì chưa đủ chứng cứ. Và thứ hai là khởi tố nhưng sẽ bỏ sót tội
phạm. Điều này sẽ làm tăng số bản án phải trả lại hồ sơ để điều tra bố sung theo
Điều 168 và Điều 179 tổng thời gian điều tra lúc này sẽ nhiều hơn cũng như khó
khăn hơn khi nhận được tin báo ban đầu vì những tội phạm khác đã cố gắng xoá
bỏ dấu vết.
Từ những lập luận trên khoản 2 Điều 103 BLTTHS nên sửa đổi như sau
Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố
-Giữ nguyên
-Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác
minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài
hơn, nhưng không quá bốn tháng..
-Giữ nguyên
-Giữ nguyên
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 14
2. Sửa đổi, bổ sung về quy định của BLTTHS theo hướng bỏ thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử.
Trong thực tế, quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng
xét xử hầu như không thể thực hiện vì các lý do sau:
-Hội đồng xét xử không đủ điều kiện kỉêm tra, xác minh các thông tin về tội
phạm. Bởi vì để khởi tố vụ án hình sự cần có quá trình xác minh, kiểm tra các
tình tiết liên quan đến việc phát hiện tội phạm, về điều này thì hội thẩm gần như
không thể làm được vì không có chuyên môn và đội ngũ cán bộ đủ lớn. Như các
cơ quan có thẩm quyền khác
-Chức năng chính của hội đồng xét xử là xét xử, vì vậy các thông tin về tội
phạm và người phạm tội mới diễn ra tại phiên toà được phản ánh qua lời khai
của người tham gia tố tụng, tù việc xem xét, đánh giá tài liệu có trong hồ sơ…
Dù biết nhưng không đủ chứng cứ thì cũng không thể khởi tố vụ án hình sự.
-Việc Hội đồng xét xử phát hiện cũng không thể tiến hành điều tra những
hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ ngay được. Do vậy, quyết định phải gửi
cho VKS để VKS xem xét ra quyết định việc điều tra. Trong trường hợp xét
thấy quyết định trên không có căn cứ thì VKS kháng nghị lên Toà án cấp trên.
Việc này gây tốn kém về thời gian cũng có thể gây khó khăn cho việc điều tra
thu thập chứng cứ. Vì vậy, nên bỏ quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự của Hội đồng xét xử. Điều này sẽ giúp Hội đồng xét xử tập trung hơn trong
công tác xét xử, mặt khác nếu phát hiện thấy tội phạm mới hoặc người phạm tội
mới cần phải điều tra thì, Hội đồng xét xử làm văn bản yêu cầu VKS khởi tố vụ
án hình sự.
Từ những lập luận trên khoản 2 Điều 104 BLTTHS nên sửa đổi như sau
Điều 104. Quyết định khởi tố vụ án hình sự
-Giữ nguyên
-Giữ nguyên
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 15
-Trong trường hợp qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, Hội đồng xét xử yêu cầu VKS ra
quyết định khởi tố vụ án.
- Giữ nguyên
- Giữ nguyên
3. Sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTHS về căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự.
Việc quy định hành vi không cấu thành tội phạm trong luật hình sự đã bao
gồm cả trường hợp người phạm tội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình
sự.Hành vi không cấu thành tội phạm khi thiếu một trong bốn yêu tố: Khách
thể, chủ thế, mặt khách quan và mặt chủ quan. Vì chủ thể của tội phạm phải đạt
được hai dấu hiệu: dấu hiệu về năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt tới độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà vẫn chưa tới độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì hành vi của họ
không thể gọi là cấu thành tội phạm và điều này đã được quy định tại khoản2
Điều 107 nên quy định thêm tại khoản 4 Điều 107 “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự” sẽ là không cần
thiết.
Từ những lập luận trên khoản 2 Điều 104 BLTTHS nên sửa đổi như sau
Điều 107. Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
-Không có sự việc phạm tội;
-Hành vi không cấu thành tội phạm;
-Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ
án có hiệu lực pháp luật;
-Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
-Tội phạm đã được đại xá;
-Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 16
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 17
Top Related