TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 12/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Việt Nam chế tạo vệ tinh Micro Dragon
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo cụm thiết bị cấp và hàn dán linh kiện điện tử tự động trên dây chuyền SMT
Dây chuyền công nghệ, chế tạo bơm đặc thù và bơm công suất lớn phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu
Buồng sấy và nạp dầu chân không nhằm đảm bảo chỉ tiêu điện áp phóng điện dầu máy biến
áp phân phối công suất đến 2.500 KVA
Công nghệ, thiết bị sản xuất ván ép nhiều lớp chất lượng cao và kích thước lớn đáp ứng nhu
cầu sử dụng trong môi trường chịu lực lớn, độ ẩm cao
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu tổng hợp Hexametylentetramin (Hexamin, Urotropin) từ nguồn nguyên liệu
Formaldehyde và Amoniac
Công nghệ sản xuất phụ gia GTBE từ glyxerin phụ phẩm của sản xuất bio-điezen
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Thực phẩm uống bổ sung cho người bệnh kém dung nạp lactose
Công nghệ sản xuất rượu brandy trái cây (vải, dứa) ở quy mô công nghiệp
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm BVTV sinh học từ cây Muồng trâu Cassia alata L.
Hỗ trợ định danh các loài nấm thuộc chi Cordyceps và tương tự bằng kỹ thuật sinh học phân
tử kết hợp tin sinh học
Phát triển và ứng dụng các vector nhị thể thế hệ mới phục vụ cải biến di truyền các loài nấm
sợi thông qua phương pháp chuyển gen nhờ vi khuẩn Agrobacterium
Thiết kế hệ thống vector biểu hiện gen nhằm nâng cao hiệu suất sinh tổng hợp enzyme ở
nấm sợi Aspergillus oryzae
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 2/39
Y HỌC
Quy trình Multiplex PCR (M-PCR): giải pháp cho bệnh nhiễm khuẩn âm đạo
Kỹ thuật lấy đi khối u tuyến vú không cần phẫu thuật
Xe cấp cứu cơ động 2 bánh
NÔNG NGHIỆP
Phương pháp nhân nuôi và khả năng phòng trừ bọ trĩ của bọ xít bắt mồi trên cây dưa lưới
Nghiên cứu về ảnh hưởng của giá thể và dinh dưỡng đến sinh trưởng của lan Kim tuyến
(Anoectochilus sp.) giai đoạn sau cấy mô từ 0-3 tháng tuổi
Nghiên cứu xác định ảnh hưởng của nồng độ và số lần xử lý BA (6-Benzylaminopurine),
GA3 (Axit Gibberellic) đến sinh trưởng, phát triển và chất lượng hoa cây triệu chuông và
cây ánh dương trồng tại TP.HCM.
Dây chuyền xử lý phân gà vi sinh đầu tiên tại Việt Nam
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu ứng dụng mạng nơron nhân tạo (Artificial Neural Network - Ann) trong tính
toán lựa chọn phương án bảo vệ tài nguyên nước mặt; thử nghiệm cho lưu vực sông cầu
Thiết bị thu gom chất thải hữu cơ của bò theo chu kỳ trong các trang trại chăn nuôi công
nghiệp
Chế tạo hệ xúc tác MnO2/Al2O3 ứng dụng oxy hóa tiên tiến để xử lý nước thải ngành công
nghiệp dệt nhuộm
Hệ thống quản lý và giám sát từ xa các nguồn phóng xạ theo thời gian thực
LĨNH VỰC KHÁC
Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn “Công nghệ thông tin - Các kỹ thuật an toàn - Hướng dẫn
đảm bảo sự phù hợp và đầy đủ theo phương pháp điều tra sự cố
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
III. Các nghiên cứu KH&CN về Quân sự
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 3/39
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Việt Nam chế tạo vệ tinh Micro Dragon
Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển
hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA) vừa công
bố ngày phóng vệ tinh Micro Dragon. Theo
đó, vệ tinh do đội ngũ kỹ sư Việt Nam chế tạo
dự kiến được đưa lên vũ trụ vào 9h50 thứ 5
ngày 17/1/2019.
Micro Dragon sẽ được phóng lên vũ
trụ bằng tên lửa Epsilon do Công ty IHI
Aerospace của Nhật Bản chế tạo. Địa điểm
phóng là Trung tâm vũ trụ Uchinoura, tỉnh
Kagoshima.
Micro Dragon là vệ tinh quan sát trái
đất, có trọng lượng 50kg, kích thước 50 x 50
x 50 cm. Sau khi phóng lên vũ trụ, Micro
Dragon có nhiệm vụ quan sát vùng biển ven
bờ nhằm đánh giá chất lượng nước, định vị
nguồn thủy sản, theo dõi sự thay đổi các hiện
tượng xảy ra ở vùng biển ven bờ để phục vụ
cho ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam.
Phát hiện độ bao phủ của mây, tính chất của
sol khí để phục vụ cho việc hiệu chỉnh khí
quyển. Thu các tín hiệu cảm biến trên mặt đất
sau đó chuyển các dữ liệu này một cách
nhanh chóng tới các địa điểm cách xa nhau
trên Trái Đất.Thử nghiệm công nghệ vật liệu
mới (Atomic oxygen, Antimony Tin Oxide
Coating Solar cell).
Micro Dragon được chế tạo bởi 36 kỹ
sư người Việt, thuộc Trung tâm Vũ Trụ Việt
Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam. Đây là đội ngũ kỹ sư theo học
ngành công nghệ vũ trụ tại Nhật Bản. Bắt tay
vào chế tạo năm 2013, năm 2017, Micro
Dragon hoàn thành và thử nghiệm thành công.
Micro Dragon là bước tiếp theo trong
quá trình làm từng bước nắm bắt và làm chủ
công nghệ thiết kế, chế tạo vệ tinh của Việt
Nam. Trước đó, các kỹ sư của Trung tâm Vũ
trụ Việt Nam đã chế tạo thành công vệ tinh
siêu nhỏ Pico Dragon (có kích thước 10 x 10
x 11,35 cm, khối lượng 1 kg). Vệ tinh này
được phóng lên quỹ đạo vào tháng 11/2013
và hoạt động thành công trên vũ trụ. Sau
Micro Dragon, theo lộ trình, Việt Nam sẽ tiến
tới chế tạo vệ tinh LOTUSat-1, vệ tinh theo
công nghệ radar mới nhất hiện nay.
Nguồn: Nguyễn Hoài, tienphong.vn,
30/11/2018
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 4/39
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo cụm thiết bị cấp và hàn dán linh kiện điện tử tự động trên dây chuyền SMT
Ngành công nghiệp chế tạo điện tử đã
trải qua các bước phát triển của công nghệ
đóng gói các linh kiện (components). Với công
nghệ xuyên lỗ (Through - Hole Technology):
các linh kiện được cắm tổ hợp lên bo mạch
thông qua các lỗ xuyên trên mạch in hay PCB.
Tất cả các linh kiện ở tất cả các chủng loại
đều phải có chân đủ dài để có thể cắm xuyên
qua bo mạch và mối hàn sẽ được thực hiện ở
mặt bên kia thông qua lò hàn sóng (wave
soldering) hoặc hàn tay.
Công nghệ dán bề mặt (Surface Mount
Technology - SMT) được phát triển vào
những năm 1960 và được áp dụng một cách
rộng rãi vào cuối những năm 1980. Tập đoàn
IBM của Hoa kỳ có thể được coi là người đi
tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ
này. Lúc này, phương pháp xuyên lỗ vẫn
được ưa chuộng do dễ hàn và tháo lắp.
Hạn chế của chất lượng bo mạch cũng
khiến SMT khó phát triển. Sự ra đời của bo
mạch chất lượng cao đã mở rộng thị trường
cho SMT từ sau năm 2000. Các máy SMT
ngày nay bảo đảm cho việc dán được thực
hiện với sai số cực nhỏ, do bởi các máy SMT
là các máy cơ khí chính xác điều khiển bằng
máy tính được trang bị công nghệ xử lý ảnh.
Theo “niên giám về công nghiệp hỗ trợ
các ngành chế tạo Việt Nam 2014-2015”
Công nghiệp điện tử Việt Nam phát triển rất
nhanh từ 2010 đến nay. Năm 2013, giá trị sản
xuất công nghiệp đạt 335.857 tỷ đồng, chiếm
tỷ trọng khoảng 8,7% toàn ngành công
nghiệp. Tăng trưởng bình quân từ 2010 đến
2013 đạt trên 32%/năm, cao hơn rất nhiều so
với tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công
nghiệp (9,4%/năm). Hiện nay với tốc độ sản
xuất và nhu cầu về hàng điện tử tiêu dùng
như điện thoại, bóng đèn điện, Ti vi, quạt
điện,… trong nước là rất lớn nên nhu cầu về
máy gắn, lắp linh kiện ngày càng cấp thiết. Ở
Việt nam, hầu như chưa có đơn vị nào sản
xuất thiết bị, dây chuyền lắp ráp linh kiện
điện tử mà chủ yếu nhập của Mỹ, Hàn Quốc,
Nhật Bản,…
Nhóm nghiên cứu do Cơ quan chủ trì
Công ty Cổ Phần Viện máy và dụng cụ công
nghiệp phối hợp với Chủ nhiệm đề tài TS.
Trần Ngọc Hưng cùng thực hiện nhằm mục
tiêu “Nghiên cứu, ứng dụng thành công hệ
điều khiển chuyển động cho cụm thiết bị cấp
và hàn dán linh kiện điện tử trên dây chuyền
hàn dán SMT”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ
cấp bộ “Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo cụm
thiết bị cấp và hàn dán linh kiện điện tử tự
động trên dây chuyền SMT” được thực hiện
trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng máy móc và
nhu cầu sử dụng của các đơn vị sản xuất.
Đồng thời khảo sát các loại máy dán
linh kiện hiện có trên thị trường. Nhóm đề tài
thiết kế chế tạo máy, xây dựng bộ điều khiển
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 5/39
với phần mềm giao diện Tiếng Việt có chức
năng cài đặt cơ bản của máy dán linh kiện: tự
động, tay, cài đặt tham số,... phù hợp với
bảng mạch số loại linh kiện ≤ 20 linh kiện và
công suất khoảng 1000 linh kiện/giờ.
Nguồn: vista.gov.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
*************
Dây chuyền công nghệ, chế tạo bơm đặc thù và bơm công suất lớn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu
Máy bơm là thiết bị không thể thiếu
trong hầu hết các ngành của nền kinh tế quốc
dân, phục vụ đời sống dân sinh và an ninh
quốc phòng. Ở các nước công nghiệp tiên tiến
(Nga, Nhật Bản, Anh, Đức, Anh, Mỹ, Thụy
Điển…) do nền kinh tế và đời sống dân sinh
phát triển mạnh, nhu cầu về bơm phục vụ sản
xuất và dân sinh ngày càng nhiều, vì vậy,
ngành chế tạo bơm ở các nước này đã đầu tư
xây dựng các dây chuyền công nghệ sản xuất
bơm với mức độ hoàn thiện và hiện đại để
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Ở châu Á, các nước (Hàn Quốc, Trung
Quốc và Ấn Độ,…) có ngành chế tạo bơm
phát triển tốt trong những thập niên gần đây.
Các nước này đã tiếp cận nhanh với các công
nghệ mới của các nước có ngành chế tạo bơm
phát triển. Các sản phẩm bơm của các nước
này còn nhiều hạn chế về chất lượng và hiệu
suất do kinh nghiệm còn ít và dây chuyền
công nghệ còn nhiều khiếm khuyết. Khảo sát
thực tế ở một số nước ASEAN như: Thái Lan,
Inđônêxia, Malaixia,…, cho thấy, ngành chế
tạo bơm ở các nước trên cũng không Việt
Nam. Các nước Lào, Campuchia, Mianma
hầu như không có cơ sở hạ tầng của ngành
chế tạo bơm, kể cả cán bộ khoa học chuyên
sâu về ngành này cũng rất ít. Chính vì vậy,
việc nhập khẩu, sử dụng và khai thác thiết bị
bơm của các nước này đều đạt hiệu quả thấp.
Ở nước ta, ngay từ khi hòa bình lập lại,
bắt đầu thực hiện kế hoạch tái thiết đất nước,
Đảng và Chính phủ đã nhận thấy tầm quan
trọng của việc phát triển ngành cơ khí chế tạo
máy nói chung và chế tạo máy bơm nói riêng.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế phát
triển cùng với những hiện tượng hạn hán úng
lụt thường xuyên do ảnh hưởng của sự biến
đổi khí hậu, nhu cầu về các loại bơm, đặc biệt
là các bơm đặc thù và bơm công suất lớn ở
nước ta, ngày càng nhiều. Hằng năm, nước ta
phải nhập khẩu khá nhiều bơm với kinh phí
hàng trăm triệu USD. Mặc dù vậy, ngành chế
tạo bơm Việt Nam vẫn phát triển chậm, còn
thua kém nhiều so với các nước Trung Quốc,
Ấn Độ và Hàn Quốc. Lý do cơ bản là: các
dây chuyền sản xuất bơm nói riêng và lĩnh
vực sản xuất cơ khí nói chung của nước ta
chưa được đầu tư hoàn thiện, công nghệ một
số khâu còn lạc hậu; chưa có hệ thống thử
nghiệm máy bơm hiện đại và đủ lớn để thử
nghiệm được các loại máy bơm công suất lớn;
các nhà khoa học nghiên cứu về bơm chưa
hợp tác chặt chẽ để cùng nhau xây dựng
ngành chế tạo bơm phát triển. Tuy vậy,
nghiên cứu phân tích thực trạng ngành chế
tạo bơm của các nước công nghiệp phát triển,
các nước mới nổi và các nước trong khu vực
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 6/39
có thể rút ra kết luận là, Việt nam cũng có đủ
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
ngành chế tạo bơm nói riêng, ngành chế tạo
máy thủy khí nói chung.
Nắm bắt được thực tế trên, kỹ sư
Nguyễn Trọng Nam đến từ Công ty Cổ phần
Chế tạo Bơm Hải Dương cùng đội ngũ đông
đảo các kỹ sư thuộc nhiều chuyên ngành
trong dây chuyền đồng bộ của công ty về chế
tạo bơm đã tham gia thực hiện các nội dung
của đề tài “Nghiên cứu thiết kế, hoàn thiện
dây chuyền công nghệ, chế tạo bơm đặc thù
và bơm công suất lớn phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu” một cách thường xuyên
và khoa học.
Đánh giá về đề tài, có thể nhận thấy:
1. Đề tài đã hoàn thành tốt các mục
tiêu đề ra ban đầu: Đảm bảo thiết kế, chế tạo,
lắp ráp, thử nghiệm và ứng dụng vào sản xuất
nhiều sản phẩm mới, trong đó, có các máy
bơm công suất lớn, máy bơm đặc thù (máy
bơm chìm - động cơ điện chìm công suất trên
100 kW, lưu lượng đến Q=9.000 m3/h, chống
úng ngập cho đô thị vùng ven biển, máy bơm
ly tâm nhiều cấp cột áp cao đến 350 m cho
dầu khí và bơm cỡ lớn công suất N = 900 kW
cho khai thác mỏ, cấp nước cho sinh hoạt.
Ngoài ra, đề tài đã hoàn thành việc thiết kế,
gia công, chế tạo hoàn chỉnh 01 hệ thống thử
bơm kiểu kín phục vụ thử xâm thực của bơm
với dung tích bể kín 50m3, có thể thử xâm
thực cho bơm với lưu lượng tới 2.000 m3/h.
2. Kết quả nghiên cứu của dự án
KHCN cho phép nâng cao hiệu suất máy bơm,
tiết kiệm năng lượng tiêu thụ, giảm giá thành
sản phẩm, tạo thêm công ăn việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động, xuất khẩu thu
ngoại tệ, từng bước nâng cao vị thế của Công
ty CP Chế tạo bơm Hải Dương trên thị trường
Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới.
3. Dự án đã thực hiện thành công các
mục tiêu cụ thể là nâng cao năng lực thiết kế,
năng lực chế tạo bơm đặc thù và bơm công
suất lớn (nhờ sự trợ giúp của các chương trình
phần mềm hiện đại dùng cho công tác thiết
kế, đúc và thử nghiệm các loại bơm khác
nhau) của Công ty CP Chế tạo bơm Hải
Dương; đã tự thiết kế và chế tạo được một số
chủng loại bơm đặc thù, bơm công suất lớn sử
dụng trong thực tế, đáp ứng nhu cầu rất lớn
thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu,
ngoài ra, đã góp phần nâng cao năng lực,
trình độ đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
chuyên ngành chế tạo bơm, góp phần vào
công tác đào tạo.
Bên cạnh đó, có thể kể đến những sản
phẩm chính nổi bật của dự án đạt được, bao
gồm:
* Dây chuyền công nghệ chế tạo bơm
của Công ty CP Chế tạo bơm Hải Dương
được hoàn thiện đồng bộ, với các thiết bị và
công nghệ tiên tiến, bao gồm các khâu công
nghệ: Dây chuyền chế tạo mẫu và đúc, dây
chuyền gia công cơ khí và lắp ráp, hệ thống
thử nghiệm bơm.
* Các chương trình phần mềm: Phần
mềm mô phỏng thủy lực, phân tích và thiết kế
bơm; phần mềm thiết kế quá trình đúc; phần
mềm quản lý hệ thống cho dây chuyền công
nghệ sản xuất
* Các sản phẩm máy bơm và động cơ
điện hoàn chỉnh:
+ 01 tổ máy bơm mô hình (01 bơm
chìm mô hình trục ngang 15 kW (HTCN
9252,5), bơm chìm mô hình trục đứng 37 kW
(HT 2.075-4,3), 01 bơm mô hình kiểu ly tâm,
nhiều cấp, trục ngang 75 kW (LTC120- x); 01
động cơ điện chìm mô hình 15 kW (KCN
15/6), 01 tổ máy bơm mẫu bơm ly tâm cột áp
cao bơm dầu thô 55kW LTC30-70x5.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 7/39
+ 25 tổ máy bơm nguyên hình bao
gồm: 01 máy bơm ly tâm, nhiều cấp cột áp
cao, trục ngang dùng cho khai thác dầu khí,
công suất 55 kW (LTC 30- x); 02 máy bơm ly
tâm, nhiều cấp cột áp cao, trục ngang dùng
cho khai thác mỏ, công suất 900 kW (LTC
600-60x6); 22 tổ máy bơm động cơ điện chìm
trục đứng, trục ngang và trục xiên với công
suất từ 55 kW đến 230 kW..
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
*************
Buồng sấy và nạp dầu chân không nhằm đảm bảo chỉ tiêu điện áp phóng điện dầu máy biến áp phân phối công suất đến 2.500 KVA
Mô hình thiết bị sấy nạp dầu chân không cho máy biến thế phân phối
Ở nước ta, nhu cầu sử dụng năng
lượng điện ngày một gia tăng do việc mở
rộng và xây dựng mới các khu công nghiêp,
điện khí hóa các vùng nông thôn,vùng sâu
vùng xa rộng lớn. Kéo theo đó là nhu cầu
cung cấp với số lượng lớn các loại máy biến
thế (MBT) phân phối công suất lớn đến
2500KVA cho các nhà phân phối điện cũng
gia tăng, không những về số lượng mà chất
lượng cũng đòi hỏi rất cao. Để tiếp nhận được
những nhu cầu đó và để tăng tính cạnh tranh,
các nhà chế tạo MBT trong nước buộc phải
tìm cách cải tiến công nghệ, mở rộng qui mô
sản xuất, nâng cao năng suất chế tạo, chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm mà trước hết
là nâng cấp, cải tiến thiết bị, qui trình công
nghệ chế tạo trong các công đoạn sản xuất
các khâu thành phần của MBT trong đó có
công đoạn sấy và nạp dầu.
Phương pháp công nghệ sấy nạp dầu
chân không tự động thay thế cho đổ dầu thủ
công trong MBT phân phối công suất lớn là
một bước cải tiến quan trọng trong công nghệ
chế tạo MBT do tính ưu việt của nó: đảm bảo
yêu cầu chất lượng cao theo tiêu chuẩn ISO;
đảm bảo chỉ tiêu điện áp phóng điện dầu làm
mát, tăng đáng kể các thông số kỹ thuật của
toàn MBT; dễ thực hiện việc tự động hóa
khâu sấy và nạp dầu làm mát cho máy biến
thế phân phối.
Chính vì vậy nhóm nghiên cứu do Cơ
quan chủ trì Công ty Cổ phần Viện máy và
Dụng cụ công nghiệp phối hợp cùng Chủ
nhiệm đề tài KS Vũ Hoài Nam cùng thực hiện
Đề tài “Nghiên cứu thiết kế chế tạo buồng sấy
và nạp dầu chân không nhằm đảm bảo chỉ
tiêu điện áp phóng điện dầu máy biến áp phân
phối công suất đến 2500 kVA”.
Qua thời gian nghiên cứu đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Đề tài nghiên cứu KHCN cấp bộ
“Nghiên cứu thiết kế chế tạo buồng sấy và
nạp dầu chân không nhằm đảm bảo chỉ tiêu
điện áp phóng điện dầu máy biến áp phân
phối công suất đến 2.500 kVA”, trên cơ sở
khảo sát nhu cầu thực tiễn, nghiên cứu đặc
điểm thiết kế của sản phẩm, khảo sát các thiết
bị có sẵn trên thị trường, đã đưa ra được quy
trình công nghệ sấy nạp dầu phù hợp với các
nhà máy chế tạo biến thế dạng vừa và nhỏ.
Qua đó cũng đã nghiên cứu tính toán
thiết kế được buồng sấy nạp dầu chân không
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 8/39
điều khiển PLC. Tính toán thiết kế cơ bản đáp
ứng được các yêu cầu công nghệ quấn sấy
nạp dầu cho máy biến áp điện công suất đến
2500 kVA. Kết cấu được lựa chọn một phần
tham khảo các mẫu máy hiện đang được sử
dụng trong nước, một phần được điều chỉnh
cho phù hợp với công nghệ chế tạo, lắp ráp và
nhu cầu sử dụng trong các nhà máy sản xuất
loạt vừa và nhỏ. Ngoài động cơ, giảm tốc và
các thiết bị điện, điều khiển. Kết cấu máy đã
được chế tạo và lắp ráp hoàn thiện trong
nước, chạy khảo nghiệm và hiệu chỉnh đạt
các chỉ tiêu cần thiết.
Đề tài cũng đã hoàn thành các nội dung
nghiên cứu và bộ thiết kế chi tiết sản phẩm.
Báo cáo khoa học đầy đủ, đúng tiến độ.
Nguồn: Vista.gov.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ, thiết bị sản xuất ván ép nhiều lớp chất lượng cao và kích thước lớn đáp ứng nhu cầu sử dụng trong môi trường chịu lực lớn, độ ẩm cao
Thực hiện chủ trương phát triển kinh
tế biển của Thủ tướng Chính Phủ, nhu cầu
phương tiện đánh bắt hải sản của các tỉnh
ven biển ngày càng tăng. Theo Sở NN-PTNT
tỉnh Bình Định, số lượng tàu vỏ gỗ đóng mới
ở địa phương liên tục tăng trong những năm
gần đây. Mỗi năm, ngư dân trong tỉnh đầu tư
khoảng 500 tỉ đồng để đóng mới tàu cá công
suất lớn từ 400 đến 1.000 CV để tham gia
đánh bắt xa bờ. Hiện 10 cơ sở ở Bình Định
được Bộ NN-PTNT cấp phép đóng tàu cá
theo Nghị định 67 và nhiều cơ sở đóng tàu
khác ở địa phương đều quá tải vì nhu cầu
đóng mới tàu vỏ gỗ của ngư dân tăng quá
nhanh. [báo Bình Định điện tử tháng 8/2016]
Theo các chủ cơ sở đóng tàu tại H.Hoài Nhơn
(Bình Định), trên thị trường hiện không thiếu
gỗ; nhưng gỗ đúng quy cách để đóng tàu thì
rất ít. Gỗ sao và gỗ sến là loại chủ lực trong
đóng mới tàu cá vỏ gỗ của ngư dân, chiếm
đến 40% tổng lượng gỗ cần sử dụng. Loại gỗ
này có mủ tiết ra mùi đặc trưng khiến hàu
không bám vào được. Ngoài ra, khi đóng tàu
còn phải dùng các loại gỗ có sức chống chịu
tốt như: trâm, sao cát, dẻ, sầm ná,…
Một số nghiên cứu trong nước về sản
xuất và sử dụng ván bóc từ gỗ Keo, bạch đàn
rừng trồng cho thấy việc sử dụng gỗ rừng
trồng cho sản xuất ván bóc và gỗ dán ở Việt
Nam đang phát triển trong 10 năm gần đây
khi các loại máy bóc lồng sản xuất tại Trung
Quốc nhập khẩu vào Việt Nam. Nhằm giải
quyết vấn đề nâng cao chất lượng ván bóc, đa
dạng hóa các sản phẩm từ ván bóc gỗ rừng
trồng, nâng cao giá trị gỗ rừng trồng, đã có
nhiều nghiên cứu về sử dụng ván bóc gỗ rừng
trồng tạo các sản phẩm mới có giá trị cao, đáp
ứng yêu cầu nguyên liệu cho sản xuất đồ mộc
và các ngành kinh tế khác.
Do yêu cầu an toàn, nên các loại vật
liệu (trong đó có vật liệu gỗ) dùng trong công
nghiệp đóng tàu, thuyền đặc biệt là tàu-
thuyền đi biển phải tuân thủ các yêu cầu ngặt
nghèo được quy định trong các tiêu chuẩn
(tiêu chuẩn chung quốc tế và tiêu chuẩn riêng
của từng nước).
Dự án “Hoàn thiện công nghệ, thiết bị
sản xuất ván ép nhiều lớp chất lượng cao và
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 9/39
kích thước lớn đáp ứng nhu cầu sử dụng trong
môi trường chịu lực lớn, độ ẩm cao” do TS.
Nguyễn Quang Trung cùng với các cộng sự
thực hiện nhằm hoàn thiện qui trình công
nghệ và thiết bị tạo ván ép nhiều lớp kích
thước lớn từ gỗ rừng trồng Keo, Bạch đàn
làm nguyên liệu sử dụng trong môi trường độ
ẩm cao, chịu lực lớn.
Sau một thời gian thực hiện, dự án đã
đạt được một số kết quả đáng chú ý như sau:
1. Dự án đã thực hiện nội dung hoàn
thiện thiết bị gồm 2 cơ cấu bổ sung cho máy
ép tạo sản phẩm kích thước lớn: Cơ cấu đưa
phôi vào máy ép và cơ cấu đỡ sản phẩm sau
khi ép. Các cơ cấu vận hành ổn định và hỗ trợ
cho quá trình thực hiện tạo sản phẩm ván ép
nhiều lớp kích thước lớn.
2. Sản phẩm ván ép nhiều lớp kích
thước lớn của dự án đã được Bộ nông nghiệp
và Phát triển nông thôn công nhận tiến bộ kĩ
thuật năm 2016.
3. Dự án đã thực hiện hoàn thiện một số
thông số công nghệ sản xuất ván ép nhiều lớp
kích thước lớn (dài 5m, rộng 0.5m và dày
0,03m). Với công nghệ của dự án đã rút ngắn
thời gian ép nhiệt (giảm 25%) so với quy trình
ép thực hiện trong đề tài KC 07.22/06-10. Chất
lượng sản phẩm đáp ứng mục tiêu của dự án
đề ra và có 2 đặc tính được cải thiện:
a) Mức độ sai khác về các đặc tính cơ
lí trên toàn bộ chiều dài sản phẩm giảm
(độ đồng đều về chất lượng tăng).
b) Độ trương nửa chiều dày sản phẩm
giảm. Các trị số MOR, MOE tăng không
đáng kể.
4. Kết quả hoàn thiện quy trình công
nghê sản xuất ván ép nhiều lớp, kích thước
phổ thông: dài 2,44 m; rộng 1,22 m; dày 18
mm. Các kết quả đã thực hiện bao gồm: xử lí
ván bóc trước khi trang keo và sau trang keo;
cải tiên quy trình xếp ván, bổ sung thời gian
mở cho ván sau trang keo (OAT) và thời gian
xếp lớp trước khi ép (CAT); bổ sung công
đoạn ép nguội trước khi ép nhiệt đóng rắn keo,
định hình sản phẩm. Với công nghệ mới; chất
lượng sản phẩm được cải thiện:
a). Độ ẩm sản phẩm giảm (trước 10,2
%; sau 8,1 %).
b) Tính chất cơ học của sản phẩm được
cải thiện đáng kể: MOR trước 46,7 Mpa-sau
59 Mpa; MOE trước 6718 Mpa-sau 6740 Mpa;
độ bền kéo trượt màng keo trước 0,55 Mpa-
sau 0,7 Mpa.
c) Thời gian ép nhiệt giảm (trước 42
phút, sau 24 phút, kể cả thời gian ép nguội),
đây là cơ hội tăng năng suất sản phẩm.
5. Dự án đã phối hợp với công ty đối
tác, sử dụng kinh phí đối ứng theo quy định,
sản xuất thử lượng sản phẩm như sau: 30 m3
ván ép nhiều lớp kích thước lớn (dày 30 mm,
rộng 0,5 m và dài 5 m); 110 ván ép nhiều lớp
(kích thước dày 18 mm, rộng 1,22 m và dài
2,44 m) từ gỗ Keo và 110 ván ép nhiều lớp
(kích thước dày 18 mm; rộng 1,22 m và dài
2,44 m) từ gỗ bạch đàn.
6. Tổ chức 02 lớp tập huấn chuyển
giao công nghệ cho công nhân và kĩ thuật
viên tại công ty Tiến Bộ, đơn vị đối tác của
dự án.
7. Xây dựng mô hình sản xuất ván ép
nhiều lớp quy mô công suất 500 m3/năm trên
cơ sở thiết kế lại mặt bằng bố trí thiết bị hiện
có của công ty.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 10/39
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu tổng hợp Hexametylentetramin (Hexamin, Urotropin) từ nguồn nguyên liệu Formaldehyde và Amoniac
Hexametylentetramin (tên thường gọi là
urotropin hay hexamin) là một sản phẩm của
quá trình phản ứng ngưng tụ giữa formandehyt
và amoniac. Công thức hóa học là (CH2)6N4.
Hexamin là một hợp chất hữu cơ, được sử
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công
nghiệp như: chất đóng rắn cho nhựa phenolic,
novolac, chế tạo nhựa nhiệt rắn dạng bột;
nguyên liệu phụ quan trọng trong sản xuất keo
ureformandehyt (được sử dụng tới 5%) để làm
tăng độ bền cơ học và làm giảm hàm lượng
formandehyt tự do của ván ép trong sản xuất
đồ gỗ nội thất chất lượng cao; làm chất nở cho
cao su, dùng làm chất phụ gia tăng bám dính
giữa sợi mành và cao su; làm chất biến tính
cho các loại sơn, nhựa khác; làm chất phụ gia
cho các ngành dệt, nhuộm, vải, gia công giấy;
chất ức chế chống ăn mòn kim loại; dùng làm
chất sát trùng trong y tế, nông nghiệp và chế
biến thực phẩm, thú y; sản xuất viên khử trùng
nước dùng trong quốc phòng; hexamine nitro
hóa có thể dùng để sản xuất thuốc nổ; nguyên
liệu cho tổng hợp hữu cơ các dẫn xuất amin,...
Sản lượng toàn thế giới hiện nay của
hexamin khoảng 900 nghìn tấn/năm và tăng
hàng năm khoảng 2-3%. Ở Việt Nam, lượng
hexamin sử dụng trong các ngành công
nghiệp rất lớn hàng nghìn tấn/năm và đang
phải nhập khẩu hoàn toàn. Với khả năng ứng
dụng rộng rãi của hexamin trong các ngành
công nghiệp thì chắc chắn nhu cầu hexamin ở
Việt Nam sẽ còn tăng mạnh trong những năm
tới. Trong khi đó, nguồn nguyên liệu chính để
tổng hợp hexamin là formandehyt và amoniac
rất sẵn có trong nước và là nguồn nguyên liệu
có giá thành thấp.
Như vậy, việc nghiên cứu công nghệ
tổng hợp hexamin từ những nguồn nguyên
liệu trong nước là vấn đề mang tính cấp thiết
và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhóm
nghiên cứu do Cơ quan chủ trì Viện hóa học
Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Chủ
nhiệm đề tài TS. Nguyễn Thị Hà cùng thực
hiện nghiên cứu.
Qua thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau: Đã tổng quan
các quá trình tổng hợp hexamin, đánh giá nhu
cầu thị trường trong nước; Trên cơ sở tổng
quan tài liệu, thực tế sản xuất và khảo sát so
sánh các phương pháp tổng hợp nhóm đề tài
chọn phương pháp tổng hợp hexamin trong
pha lỏng đồng pha (từ dung dịch formalin và
dung dịch amoniac);
Đã nghiên cứu, xây dựng quy trình
công nghệ tổng hợp hexamin bao gồm:
- Tổng hợp:
Tổng hợp trong pha lỏng đồng pha;
Nồng độ dung dịch formandehyt: 36-37%;
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 11/39
Nồng độ dung dịch amoniac: 25-29%;
Tỷ lệ mol các chất phản ứng (amoniac :
formandehyt) là 0,8 : 1,0 - 0,9 : 1,0; Nhiệt độ
phản ứng: 50-60 độ C; Thời gian phản ứng:
1h; Nồng độ cô đặc dung dịch: 35-40%
hexamin; Nhiệt độ làm lạnh dịch cô đặc: 20-
25 độ C;
- Tinh chế sản phẩm
Tái kết tinh tinh thể hexamin bằng
etanol; Nhiệt độ tái hòa tan: 50 độ C; Tỷ lệ
thể tích hòa tan rắn: lỏng = 1,0 : 1,0; Nhiệt độ
kết tinh lại: 20 - 25 độ C;
- Sấy sản phẩm
Phương pháp sấy: sấy chân không
hoặc sấy thường có quạt gió; Nhiệt độ sấy:
sấy chân không ở 70 độ C, sấy thường ở 105
độ C; Thời gian sấy: 3 giờ - 4 giờ;
Đã sản xuất thử nghiệm hexamin quy
mô 3kg/mẻ, quy trình được tiến hành với độ
ổn định và có độ lặp cao, hàm lượng hexamin
đạt xấp xỉ 98%, hiệu suất thu hồi sản phẩm
đạt 95%.
Đã phân tích các tính chất hóa lý đặc
trưng của sản phẩm: - Hàm lượng hexamin
trong mẫu thu được bằng phổ HPLC, kết quả
thu được hàm lượng trên 98%; Các thông số
hóa lý: điểm chảy: 280 độ C, điểm chớp cháy:
250 độ C, tỷ trọng:1,33;
Đã sản xuất thử nghiệm 15 kg sản
phẩm hexamin đạt các tiêu chuẩn chất lượng
đăng kí và có chất lượng tương đương
hexamin kĩ thuật nhập từ Trung Quốc.
Đã đề xuất dây chuyền công nghệ sản
xuất hexamin và tính toán sơ bộ chi phí sản
xuất hexamin. Chi phí tạm tính cho 1kg sản
phẩm hexamin là 15.500 đ/kg. Giá bán
hexamin hiện tại trên thị trường là 19.000-
20.000 đồng/kg (chưa bao gồm VAT, vận
chuyển).
Nguồn: Vista.gov.vn, 16/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ sản xuất phụ gia GTBE từ glyxerin phụ phẩm của sản xuất bio-điezen
Trước đây, glyxerin thô, phụ phẩm của
sản xuất biodiezen thường được dùng làm thức
ăn cho gia súc hoặc thải bỏ bằng cách đốt và
chôn lấp. Phương án xử lý này không chỉ làm
lãng phí một nguồn nguyên liệu tiềm năng mà
còn gây ô nhiễm môi trường. Nếu như lượng
glyxerin thô trong quá trình sản xuất nhiên
liệu sinh học được tinh chế hoặc chuyển hóa
thành các sản phẩm khác có giá trị sử dụng
cao hơn, sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế và góp
phần vào sự phát triển bền vững của công
nghiệp sản xuất nhiên liệu sinh học, đồng thời
giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Chính vì vậy, nhu cầu cấp thiết hiện
nay là tìm giải pháp nâng cao giá trị sử dụng
cho phần glyxerin phụ phẩm này. Một trong
những giải pháp đó là chuyển hóa glyxerin
thải thành glyxerin tert butyl ete (GTBE), làm
phụ gia cho nhiên liệu. Quá trình được thực
hiện bằng phản ứng ete hóa glyxerin với
isobutylen hoặc tert-butyl ancol.
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về tìm
kiếm giải pháp nâng cao giá trị sử dụng của
glyxerin phụ phẩm từ sản xuất biodiesel, góp
phần tăng hiệu quả kinh tế của quá trình sản
xuất loại nhiên liệu sinh học này, đề tài
“Nghiên cứu công nghệ sản xuất phụ gia
GTBE từ glyxerin phụ phẩm của sản xuất
biođiezen” do PGS. TS. Nguyễn Hồng Liên
làm chủ nhiệm đề tài đã được thực hiện.
Mục tiêu chính của đề tài là: xây dựng
được qui trình và mô hình thiết bị sản xuất phụ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 12/39
gia GTBE từ glyxerin phụ phẩm của sản xuất
biodiezen nhằm nâng cao hiệu quả quá trình
cháy của nhiên liệu động cơ, góp phần giảm
thiểu ô nhiễm môi trường. Đây là nghiên cứu
đầu tiên ở Việt Nam về chuyển hóa glyxerin
thải từ quá trình sản xuất biodiezen thành phụ
gia nhiên liệu GTBE nhằm nâng cao giá trị sử
dụng của phụ phẩm này.
Từ các kết quả nghiên cứu đã thực
hiện, có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Đã xác định được các điều kiện thích
hợp để tổng hợp GTBE từ glycerol tinh khiết
trên xúc tác zeolit beta là: nhiệt độ 120 độ C,
tỷ lệ nguyên liệu TBA/glycerol bằng 4/1, hàm
lượng xúc tác 7,5% khối lượng glycerol và
thời gian phản ứng là 6h. Ở điều kiện này, độ
chuyển hóa của glycerol đạt được là 66,12%,
độ chọn lọc mono GTBE là 30,53%, đạt hiệu
suất tổng hợp đồng phân ME là 20,2%. Quá
trình thích hợp để sản xuất các đồng phân cao
(như DE và TE) của GTBE.
2. Xác định được điều kiện thích hợp
để tổng hợp GTBE từ glycerol tinh khiết trên
xúc tác Amberlyst 36 là: nhiệt độ 70oC, tỷ lệ
nguyên liệu TBA/glycerol bằng 4/1, hàm
lượng xúc tác 7,5% khối lượng glycerol và
thời gian phản ứng là 6h. Ở điều kiện này, độ
chuyển hóa glycerol đạt 50,76%, độ chọn lọc
mono GTBE là 89,09%, đạt hiệu suất tổng
hợp đồng phân ME cao nhất là 45,2%. Quá
trình thích hợp để sản xuất các mono GTBE.
3. Đã thiết lập được qui trình xử lý phụ
phẩm glyxerin thô, với các điều kiện thích hợp
là: axit hoá bằng H3PO4 (85%), pH=2,5 trong
60 phút, ở nhiệt độ 70oC; trung hoà bằng 12ml
dung dịch NaOH 12.5 M/100ml glycerol đã
được axit hoá; trích ly bằng IPA (tỷ lệ thể tích
2:1 so với glycerol) trong 45 phút; chưng tách
dung môi ở áp suất thường, nhiệt độ 82,2oC
trong 2 giờ; khử màu bằng than hoạt tính với tỉ
lệ than:glycerol=200g/lít. Glycerol sau tinh
chế có độ tinh khiết là 95,2%.
4. Nghiên cứu điều chỉnh các thông số
công nghệ quá trình tổng hợp GTBE từ
glycerol phụ phẩm sản xuất biodiesel xác định
được điều kiện thích hợp nhất là xúc tác
Amberlyst 36 (tỷ lệ 8,5% khối lượng
glycerol),nhiệt độ 75oC, tỷ lệ nguyên liệu
TBA/glycerol bằng 4/1, và thời gian phản ứng
là 6,5h, cho phép thu ME với hiệu suất 70,2%.
5. Đã thiết lập được hệ thống thiết bị
và qui trình tổng hợp GTBE qui mô 5 lít/mẻ.
Đánh giá chất lượng sản phẩm của16 mẻ sản
xuất cho thấy chênh lệch hiệu quả quá trình
tổng hợp GTBE giữa các mẻ không quá 5%,
với giá trị trung bình đạt được là chuyển hóa
80% glycerol, chọn lọc 88,7% ME và hiệu
suất ME đạt 71%. Độ tinh khiết ME đạt 97%,
tương đương sản phẩm thương mại.
6. Đã xác định được tỷ lệ thích hợp
pha ME vào các nhiên liệu A92, A95, E5 là
2%tt và pha hỗn hợp DE+TE vào diesel 3%
tt. Pha chế được 155 lít xăng A92+ME, 150
lít A95+ME, 305 lít E5+ME và 53 lít diezen
+ DE+TE đạt các tiêu chuẩn theo qui định
QCVN 01:2009/BKHN có tính đến bản điều
chỉnh năm 2014.
7. Đã thử nghiệm khả năng làm việc
của các hệ nhiên liệu trên động cơ băng tải và
động cơ chạy trên đường. Kết quả cho thấy
các nhiên liệu A92+ME, A95+ME và E5+ME
có trị số octan tăng 3 đơn vị so với khi không
pha chế. Với mẫu diesel + DE+TE tuy chỉ số
xetan giảm chút ít (1,2 đơn vị) nhưng cải
thiện đáng kể chất lượng khí thải (thành phần
CO và HC giảm 1416%).
8. Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế quá
trình tổng hợp GTBE cho thấy giá thành 1kg
ME khoảng 59.151 VNĐ và chi phí để tăng 3
đơn vị octan của nhiên liệu xăng, đồng thời
giảm phát thải là khoảng 852 VNĐ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 13/39
9. Đề tài đã hoàn thành đầy đủ các nội
dung nghiên cứu và sản phẩm đăng ký. Có 01
bài báo đăng trên Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, 01 bài đăng trên Tạp chí Hóa học, 01
báo cáo Hội nghị khoa học quốc tế về Kỹ
thuật Hóa học, 02 bài chấp nhận đăng trên
Tạp chí Xúc tác Hấp phụ. Đề tài đã đào tạo
được 12 kỹ sư và 1 Thạc sĩ Kỹ thuật Hóa học
và đang đào tạo 1 học viên cao học khác
chuẩn bị bảo vệ luận văn vào tháng 10/2017.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Thực phẩm uống bổ sung cho người bệnh kém dung nạp lactose
Nhóm tác giả Tạ Thị Tuyết Mai,
Huỳnh Văn Ân, Đỗ Thị Liên (Bệnh viện
Nhân dân Gia Định) và cộng sự đã thực hiện
nghiên cứu về tỷ lệ mắc hội chứng kém dung
nạp lactose, chẩn đoán và hiệu quả nuôi
dưỡng của sữa đậu nành bổ sung sữa bột
nguyên kem và probiotics. Nghiên cứu nhằm
tạo ra loại thực phẩm dạng nước thay thế sữa
cao năng lượng, giúp bổ sung dinh dưỡng cho
các bệnh nhân nặng bị hội chứng này.
Các sản phẩm sữa cao năng lượng trên
thị trường hiện nay như Ensure, Glucerna,
Enplus,…thường chỉ phù hợp cho các bệnh
nhân nhẹ, không đủ cung cấp dinh dưỡng và
gây ra hiện tượng tiêu chảy kèm theo tăng
lipip máu ở các bệnh nhân nặng kém dung
nạp đường. Khi nuôi qua ống thông bằng các
sản phẩm sữa cao năng lượng, bác sĩ phải bổ
sung thêm đạm qua đường tĩnh mạch hoặc
nuôi bệnh nhân bằng thể tích sữa lớn (lên đến
2.000-2.500 ml/ngày), có nguy cơ thừa và gây
tốn kém cho người bệnh do giá thành của các
sản phẩm sữa trên rất cao.
Để nhận diện bệnh nhân nặng kém
dung nạp lactose, các nhà nghiên cứu đã sử
dụng phương pháp real-time As-PCR, từ đó
xác định tần suất bệnh nhân nặng kém dung
nạp lactose bẩm sinh. Các nội dung được thực
hiện trong nghiên cứu gồm: xây dựng công
thức, so sánh mức đáp ứng nhu cầu nuôi
dưỡng theo khuyến nghị cho bệnh nhân nặng
và giá trị sinh học của sữa thành phẩm với
sữa chuẩn Isocal; xây dựng quy trình xác định
SNP LCT-13910 có liên quan đến khả năng
sinh lactase ở người và tình trạng kém dung
nạp lactose bẩm sinh; so sánh hiệu quả cải
thiện dinh dưỡng, sự biến đổi lipid máu, tình
trạng dung nạp và sự an toàn của sữa thành
phầm với sữa chuẩn Isocal trên chuột suy
dinh dưỡng trung bình và bệnh nhân nặng
kém dung nạp lactose.
Kết quả cho thấy, sữa thành phẩm
(gồm sữa đậu nành bổ sung sữa bột nguyên
kem và probiotics) đáp ứng được nhu cầu
dinh dưỡng theo khuyến nghị dành cho bệnh
nhân nặng tương đương với sữa chuẩn Isocal,
đồng thời cải thiện tình trạng dinh dưỡng, có
tính kháng viêm cao, không làm tăng đáng kể
lipid máu và dung nạp tốt. Tình trạng tiêu
chảy, tồn lưu khi nuôi bệnh nhân bằng sữa
thành phẩm không khác với bệnh nhân được
nuôi bằng Isocal. Ngoài ra, giá thành của sản
phẩm chỉ bằng 1/3 giá của sữa chuẩn.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 14/39
Công nghệ sản xuất rượu brandy trái cây (vải, dứa) ở quy mô công nghiệp
Rượu Brandy là tên gọi chung của các loại
rượu mạnh được chế biến từ quá trình chưng
cất rượu vang hoặc rượu trái cây nghiền nát,
rồi ủ rượu chưng cất được trong thùng gỗ một
thời gian (ít nhất là 6 tháng theo điều luật của
Liên minh châu Âu - EC2008-1654), sau đó
làm giảm nồng độ rượu bằng cách pha thêm
nước cất. Ngoài ra, cũng có thể coi Brandy là
một loại rượu mạnh có độ cồn trung bình từ
40%v/v trở lên, được sản xuất qua một quy
trình phức tạp và tốn kém.
Việt Nam là một nước có truyền thống
sản xuất rượu mạnh từ ngũ cốc (rượu gạo,
rượu ngô, rượu sắn…) từ lâu đời. Hiện nay,
do đời sống kinh tế ngày càng phát triển, mức
sống của người dân ngày càng tăng lên. Việt
Nam đang được đánh giá là một thị trường
tiềm năng cho các loại rượu mạnh. Theo
thống kê của IWSR (2014), sản lượng các
loại rượu brandy (bao gồm Congac và các
loại rượu brandy không kể Cognac) đứng thứ
3 trong số các loại rượu mạnh nhập khẩu vào
Việt Nam, mức tăng trưởng thị trường tăng
bình quân là 18,8%/năm tính từ 2008 đến
2013. Thị phần chính của các loại rượu mạnh
có giá trị cao như whisky, brandy đều giành
cho các sản phẩm nhập ngoại, do gần như
không có sản phẩm brandy được sản xuất
trong nước. Trong khi đó, Việt Nam lại rất
sẵn có các loại quả có thể sử dụng cho sản
xuất rượu brandy hoa quả như là vải, dứa,
mận, mơ, đào… Có thể nói rằng ngành sản
xuất rượu brandy hiện nay của Việt Nam
đang đứng trước tiềm năng phát triển rất lớn
kể cả về mặt nguyên liệu cũng như nhu cầu
ngày càng tăng của thị trường tiêu thụ trong
nước. Hiện nay, chính phủ Việt Nam cũng đã
định hướng ngành công nghiệp Rượu - Bia -
Nước giải khát cần phải tập trung đổi mới
thiết bị và công nghệ, đẩy mạnh sản xuất rượu
chất lượng cao. Chính phủ cũng đã định
hướng tiến hành hàng đầu tư mở rộng năng
lực của một số nhà máy hiện có trên cơ sở đa
dạng hóa hình thức đầu tư, phương thức huy
động vốn, khuyến khích huy động vốn của
các thành phần kinh tế trong nước.
Dự án “Hoàn thiện công nghệ sản xuất
rượu brandy trái cây (vải, dứa) ở quy mô
công nghiệp” do ông Vũ Văn Cổn, giám đốc
Công ty TNHH Một thành viên Bia Rượu
ERESSON thực hiện dựa trên cơ sở kế thừa
các kết quả của các nghiên cứu rượu Brandy
trước đây, tiếp tục hoàn thiện công nghệ và
phát triển sản xuất một số loại rượu Brandy từ
vải và dứa có chất lượng cao ở quy mô lớn,
có khả năng cạnh tranh được với hàng nhập
ngoại. Công ty TNHH Một thành viên Bia
rượu Eresson là một doanh nghiệp sản xuất
rượu, đã có thương hiệu trên thị trường. Công
ty đã có cơ sở hạ tầng kiên cố, có gần như
toàn bộ các thiết bị công nghệ hiện đại để sản
xuất được rượu Brandy. Công ty đã thực hiện
dự án với mục tiêu:
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 15/39
- Hoàn thiện quy trình công nghệ sản
xuất rượu Brandy loại trái cây (vải, dứa) ở
quy mô công nghiệp.
- Tạo ra sản phẩm rượu Brandy trái
cây (vải, dứa) với chất lượng cao, tương
đương sản phẩm ngoại nhập với ưu thế giá
thành cạnh tranh, đặc biệt sạch về chỉ số lý
hóa, đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng và
hướng tới xuất khẩu
- Sản xuất thử nghiệm rượu brandy vải
và brandy dứa quy mô công nghiệp (200.000
lít/năm).
Sau thời gian thực hiện, kết quả của dự
án đã kế thừa và hoàn thiện công nghệ so với
xuất xứ của đề tài:
1. Đã chọn được chủng nấm men S.
cerevisiae RV6 và S. cerevisiae RV100 để lên
men rượu Brandy từ nguyên liệu vải và dứa.
Các chủng này có các đặc tính ưu việt cho sản
xuất brandy vải và dứa ở quy mô công nghiệp.
2. Xử lý nguyên liệu vải và dứa đã
được thực hiện ở quy mô công nghiệp cho
hiệu suất thu nhận cao (lựa chọn, xử lý
nguyên liệu thô, ép, phối trộn, xử lý dịch sau
ép) và có phương án bảo quản sản phẩm (tạo
được dịch cô đặc (vải, dứa)) để có thể sản
xuất được rượu brandy vải, dứa quanh năm
(đủ về só số lượng sản phẩm).
3. Đã thực hiện được quá trình lên men
vải, dứa ở quy mô 15.000 lít dịch lên men với
các thông số công nghệ tối ưu
4. Đã hoàn thiện được quy trình chưng
cất rượu brandy vải, dứa bằng phương pháp
chưng cất chân không (dung dịch được bốc
hơi ở nhiệt độ sôi thấp dẫn đến chất lượng sản
phẩm sau chưng cất có chất lượng tốt hơn do
các chất thơm được đặc trưng không bị biến
đổi ở nhiệt độ cao). Rượu được chưng cất
bằng phương pháp chân không (chưng cất 2
lần) là bước đột phá có tính cho quyết định để
nâng cao chất lượng rượu brandy, tạo cho
rượu brandy vải, dứa có được hương vị đặc
trưng cho từng sản phẩm.
5. Đã hoàn thiện quá trình tàng trữ
rượu sau chưng cất (bổ sung dịch chiết gỗ sồi,
giai đoạn tàng trữ có sục khí đảo trộn)
6. Đã có mô hình hệ thống thiết bị sản
xuất brandy vải và dứa tại nhà máy theo quy
trình công nghệ đã hoàn thiện.
7. Đã sản xuất được ở quy mô công
nghiệp tổng số 141.800 lít brandy vải và dứa
bằng công nghệ và thiết bị của mô hình đã
xây dựng với các chỉ tiêu chất lượng đáp ứng
theo QCVN 6 - 3:2010/BYT và tương đương
với chất lượng rượu ngoại.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/11/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm BVTV sinh học từ cây Muồng trâu Cassia alata L.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về
các anthraquinone hoạt tính và tính cấp thiết
trong thực tiễn cuộc sống cần phải tạo ra loại
thuốc BVTV có nguồn gốc thảo mộc - an toàn
với con người và thân thiện môi trường- như
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 16/39
đã nêu trong các định hướng của chính sách
nghiên cứu khoa học công nghệ, năm 2016,
nhóm nghiên cứu tại Viện Hóa học công
nghiệp Việt Nam do TS. Lê Đăng Quang làm
chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
công nghệ sản xuất chế phẩm BVTV sinh học
từ cây Muồng trâu Cassia alata L.”
Trên thế giới có nhiều công trình
nghiên cứu về thành phần, hoạt tính của cây
muồng trâu Cassia alata L. nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu sử dụng nguyên
liệu muồng trâu làm thuốc bảo vệ thực vật.
Mặt khác, kết quả sàng lọc các thực vật có
hoạt tính kháng nấm gây hại cây trồng của
nhóm nghiên cứu tại Viện Hóa học công
nghiệp Việt Nam từ năm 2007 tới nay đã phát
hiện và báo cáo nhiều đối tượng thực vật có
hoạt tính phòng trừ và kháng bệnh do vi
khuẩn, nấm hại cây trông gây ra. Dịch chiết
methanol của nguyên liệu muồng ngủ (Cassia
tora), muồng lá hẹp (Cassia angustofolia)
thấy có hoạt tính kháng nấm in vitro kháng
nấm Botrytis cineria, Phytophthora infestans,
và Rhizoctonia solani và các vi khuẩn như
Xanthomonas axonopodis, Ralstonia
solanacearum và Erwinia carotovora.
Để tận dụng nguồn nguyên liệu phong
phú và góp phần nâng cao giá trị sử dụng của
cây muồng trâu, các nhà nghiên cứu đã thu
hái mẫu và kiểm tra thành phần hóa học các
anthraquinone và thấy rằng anthraquinone
chiếm hàm lượng cao trong dịch chiết. Đặc
biệt, các anthraquinone loại có hoạt tính như
các 1,8- dihydroxylanthraquinone đều xuất
hiện trong mẫu thực vật muồng trâu. Cây
muồng trâu là loại thực vật dễ trồng, ngắn
ngày, hàm lượng hoạt chất anthraquinone cao,
đã được dùng trong Đông y và độc tính thấp.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về cấu trúc hóa học
và hoạt tính sinh học của các anthraquinone
cũng là một vấn đề có ý nghĩa khoa học cần
thiết phải nghiên cứu trong các lĩnh vực hóa
hợp chất tự nhiên, hóa dược và hóa bảo vệ
thực vật.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về
các anthraquinone hoạt tính và tính cấp thiết
trong thực tiễn cuộc sống cần phải tạo ra loại
thuốc BVTV có nguồn gốc thảo mộc - an toàn
với con người và thân thiện môi trường- như
đã nêu trong các định hướng của chính sách
nghiên cứu khoa học công nghệ, năm 2016,
nhóm nghiên cứu tại Viện Hóa học công
nghiệp Việt Nam do TS. Lê Đăng Quang làm
chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
công nghệ sản xuất chế phẩm BVTV sinh học
từ cây Muồng trâu Cassia alata L.”
Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu xây
dựng quy trình chiết và tinh chế để thu cao
chiết có hoạt tính mạnh từ cây muồng trâu;
xây dựng đơn chế tạo một chế phẩm BVTV
dạng đậm đặc dạng SC; thử nghiệm hiệu quả
phòng trừ của chế phẩm đối bệnh thực vật
trên cây trong nhà lưới.
Một số kết quả nghiên cứu của đề tài:
- Đã nghiên cứu thành công quy trình
chiết thích hợp để thu cao chiết từ lá muồng
trâu giàu hoạt tính kháng nấm. Dung môi
chiết metanol với tỷ lệ dung môi/nguyên liệu
(v/w) 13/1, nhiệt độ chiết 64ºC, thời gian
chiết 24h.
- Đã nghiên cứu và xây dựng quy trình
chiết và tinh chế thu hơn 9 kg cao chiết giàu
hoạt tính từ lá cây Muồng trâu với hàm lượng
các anthraquinone trong cao chiết là 74,26%.
- Đánh giá hoạt tính kháng nấm và vi
khuẩn hại cây trồng của một số anthraquinone
(rhein, aloe emodin) và cao chiết n-hexan, cao
chiết etyl axetat.
- Cao chiết etyl axetat chứa tổng số
74,26% các hợp chất anthraquinone và thể
hiện hiệu quả in vivo kháng nấm cao (hớn
90%) đối với bệnh RCB, bệnh đạo ôn do
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 17/39
Magnaporthe grisea; TLB cà chua mốc sương
do nấm Phytophthora infestans; WLR gỉ lá
lúa mì do Puccinia recondita và PAN gây
bệnh thán thư trên cây ớt đỏ Colletotrichum
gloeosporioides trong quy mô nhà lưới.
- Đã nghiên cứu quy trình phối trộn tạo
dạng chế phẩm từ cao chiết giàu hoạt tính của
lá muồng trâu.
- Đã đánh giá hiệu quả trừ một số loại
nấm của một dạng chế phẩm thực nghiệm
trong nhà lưới.
- Đã bào chế 14 kg chế phẩm MBG để
khảo nghiệm trong nhà lưới cũng như trên
diện hẹp và diện rộng ngoài đồng ruộng.
Nhóm nghiên cứu đề xuất tiếp tục triển
khai ở quy mô dự án sản xuất, tạo ra khối
lượng lớn sản phẩm để tiếp tục khảo nghiệm
chế phẩm MBG phòng trừ Colletotrichum
gloesporioides gây bệnh thán thư trên ruộng
ớt ở diện rộng tại các địa phương chuyên
canh khác nhau và mùa vụ khác nhau nhằm
mục đích đạt được sự ổn định hơn nữa về chất
lượng sản phẩm và giá thành tối ưu..
Nguồn: Cesti.gov.vn, 20/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Hỗ trợ định danh các loài nấm thuộc chi Cordyceps và tương tự bằng kỹ thuật sinh học phân tử kết hợp tin sinh học
Bằng kỹ thuật sinh học phân tử kết hợp
tin-sinh học, nhóm tác giả Lao Đức Thuận,
Trương Bình Nguyên, Đinh Minh Hiệp (Trung
tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ) và
cộng sự đã thực hiện nghiên cứu định danh các
loài nấm thuộc chi nấm ký sinh côn trùng thu
nhận từ vùng núi Langbian, Lâm Đồng.
Với trên 400 loài đã được phát hiện,
Cordyceps Fr. là chi nấm ký sinh trên côn
trùng lớn nhất và có mức độ phân bố rộng
khắp các lục địa (trừ Nam Cực), nhất là ở các
nước Đông Á và Đông Nam Á. Cordyceps Fr.
được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, nổi bật
nhất là ở lĩnh vực y học và nông nghiệp như:
phòng chống và kiểm soát sâu bệnh hại cây
trồng ở mọi giai đoạn phát triển với tính an
toàn sinh học cao; hỗ trợ điều hòa miễn dịch,
kháng ung thư, kháng di căn, kháng oxy hóa,
hạ đường huyết, hỗ trợ điều trị suy thận mãn
tính. Tuy nhiên, hiện nay các phương pháp
định danh loài nấm này còn gặp nhiều khó
khăn do sự đa dạng về hình thái và hệ lưỡng
danh. Vì vậy, các nghiên cứu về phương pháp
sinh học phân tử giúp hỗ trợ định danh và xây
dựng bộ sưu tập các loài Cordyceps là cần
thiết cho việc nghiên cứu đặc tính dược học
của các loài nấm ký sinh bản địa nước ta.
Những nội dung chính được thực hiện
trong nghiên cứu gồm: dự đoán cấu trúc bậc
hai vùng ITS1-5,8S-ITS2, đặc biệt vùng
ITS2, mạch antisense, trên bộ dữ liệu ITS có
sẵn gồm 27 trình tự; xây dựng cơ sở dữ liệu
cục bộ trình tự các gen nrSSU, nrLSU, tefl,
rpb1, rpb2, tub và atp6 từ việc thu nhận các
trình tự gen này từ Genbank; thực hiện các kỹ
thuật sinh học phân tử nhằm khuếch đại, giải
trình tự và hiệu chỉnh trình tự các gen của 10
mẫu nấm ký hiệu (DL004, DL006, DL0015,
DL0038A, DL0038B, DL0050, DL0067,
DL0069, DL0075 VÀ DL0077); phân tích
phả hệ học đa gen của 10 mẫu nấm ký hiệu.
Kết quả cho thấy, nghiên cứu đã xây
dựng thành công cấu trúc bậc 2 của vùng gen
ITS1-5,8S-ITS2 và hỗ trợ định danh 27 trình
tự thu nhận từ mẫu nấm Cordyceps; xây dựng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 18/39
bộ cơ sở dữ liệu gồm 116 taxon bao gồm trình
tự các gen mục tiêu; khảo sát thành công các
thông số mồi dựa trên phần mềm
OligoAnalyzer và Primer-BLAST; lựa chọn
được phương pháp tách chiết DNA tối ưu nhất
là sử dụng proteinase K kết hợp với CTAB;
xây dựng thành công các cây phát sinh phân tử
đơn gen và đa gen, hỗ trợ cho quá trình định
danh các mẫu nấm thuộc chi Cordyceps.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 16/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát triển và ứng dụng các vector nhị thể thế hệ mới phục vụ cải biến di truyền các loài nấm sợi thông qua phương pháp chuyển gen nhờ vi khuẩn
Agrobacterium
Nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học
Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội
do TS. Trần Văn Tuấn làm chủ nhiệm, đã
thực hiện đề tài: “Phát triển và ứng dụng các
vector nhị thể thế hệ mới phục vụ cải biến di
truyền các loài nấm sợi thông qua phương
pháp chuyển gen nhờ vi khuẩn
Agrobacterium” trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2017.
Đề tài xoay quanh các nội dung và
phạm vi nghiên cứu sau:
- Chọn lọc và nuôi cấy 4 loài nấm sợi
Penicillium chrysogenum, Aspergillus
oryzae, Aspergillus niger, Penicillium
digitatum trên các môi trường thí nghiệm phù
hợp cho chuyển gen.
- Đánh giá mức độ mẫn cảm của nấm
sợi với một số loại kháng sinh (hygromycin,
nourseothricin, phleomycin) hoặc với chất trợ
dưỡng như uridine 5-photphate để phục vụ
cho việc thiết kế các vector nhị thể phù hợp
với từng loài.
- Đánh giá hiệu quả chuyển gen vào
các nấm nghiên cứu bằng phương pháp dùng
A. tumefaciens qua các thông số tỉ lệ vi khuẩn
Agrobacterium/bào tử nấm, thời gian đồng
nuôi cấy, thời gian lưu trữ của bào tử nấm,
nồng độ chất cảm ứng acetosyringone, ...
- Đánh giá hiệu quả biểu hiện gen ở
nấm của các vector nhị thể thế hệ mới thông
qua biểu hiện gen mã hóa protein huỳnh quang
xanh GFP hoặc huỳnh quang đỏ DsRed.
- Tạo 1 bộ sưu tập các thể đột biến
ngẫu nhiên của nấm P. chrysogenum để sàng
lọc các gen liên quan đến sinh penicillin, 2 bộ
sưu tập của A. oryzae và A. niger để sàng lọc
các gen kiểm soát quá trình sinh tổng hợp
enzym như phytase.
- Ứng dụng các vector nhị thể mới phát
triển để tiến hành xóa bỏ (deletion) hoặc ức
chế biểu hiện (silencing) đối với ít nhất 1-2
gen liên quan đến sinh tổng hợp kháng sinh
penicillin hoặc hình thành bào tử. Điều tra
kiểu hình của các thể đột biến xóa/silencing
với đối chứng là chủng nấm hoang dại (wild
type) và thể bổ trợ tương ứng (thể đột biến
được bổ trợ với một bản gen đích nhằm phục
hồi tính trạng ban đầu).
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 19/39
- Xóa bỏ (deletion) hoặc ức chế biểu
hiện (silencing) đối với ít nhất 1-2 gen liên
quan đến quá trình gây bệnh hoặc biệt hóa
cấu trúc của nấm Penicillium digitatum. Điều
tra kiểu hình của các thể đột biến
xóa/silencing và vai trò của các gen tương
ứng đối với khả năng gây bệnh trên cam. Kết
quả sẽ được so sánh với đối chứng là chủng
nấm hoang dại (wild type) và thể bổ trợ.
Một số kết quả của đề tài:
- Thiết kế và phát triển thành công các
hệ vector nhị thể thế hệ mới cho nghiên cứu
chuyển gen và cải biến di truyền các loài nấm
sợi.
- Xây dựng được quy trình tối ưu cho
chuyển gen vào nấm thông qua vi khuẩn A.
tumefaciens.
- Tạo ra 3 bộ sưu tập các thể đột biến
ngẫu nhiên phục vụ sàng lọc các gen liên
quan đến sinh tổng hợp kháng sinh hoặc
enzym bằng kỹ thuật chèn T-DNA từ vector
nhị thể vào hệ gen nấm thông qua vi khuẩn A.
tumefaciens.
- Điều tra hiệu quả hoạt động của hệ
vector nhị thể dùng cho biểu hiện gen, xóa
gen hoặc bất hoạt biểu hiện gen (silencing)
trên 4 loài nấm sợi đề xuất là Aspergillus
oryzae, Aspergillus niger, Penicillium
chrysogenum, Penicillium digitatum.
- Sử dụng hệ vector nhị thể để điều tra
vai trò của một số gen đích trong sinh tổng
hợp sản phẩm hoặc gây bệnh cây trồng.
Các số liệu mà đề tài thu được là mới
và tạo ra nền tảng thuận lợi cho các nghiên
cứu chuyên sâu về vi nấm ở Việt Nam trong
tương lai. Một phần kết quả của đề tài đã
được công bố trên các tạp chí quốc tế và quốc
gia uy tín.
Nguồn: Vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết kế hệ thống vector biểu hiện gen nhằm nâng cao hiệu suất sinh tổng hợp enzyme ở nấm sợi Aspergillus oryzae
Aspergillus oryzae là loài nấm sợi
được sử dụng rộng rãi trong sản xuất thực
phẩm truyền thống và đồ uống tại nhiều nước
châu Á gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Philippin. Tuy
nhiên loài nấm này thường dễ bị nhầm lẫn với
loài gần gũi là Aspergillus flavus sinh độc tố
aflatoxin. Để phân biệt chính xác A. oryzae
với A. flavus, các phương pháp xác định khả
năng sinh độc tố aflatoxin hoặc phát hiện sự
có mặt của các gen liên quan đến sinh tổng
hợp aflatoxin bằng PCR thường được sử
dụng. Vi nấm A. oryzae có khả năng tiết
lượng lớn các enzyme vào môi trường nuôi
cấy, do đó loài nấm này đã và đang được sử
dụng rộng rãi trong sản xuất nhiều loại
enzyme thương mại. Gần đây loài nấm này
cũng đã được ứng dụng trong sản xuất các
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 20/39
enzyme và protein tái tổ hợp. Tuy nhiên việc
nghiên cứu biểu hiện gen ở nấm sợi A. oryzae
mới chỉ sử dụng phương pháp chuyển gen
thông qua tế bào trần (protoplast
transformation). Phương pháp này bao gồm
nhiều bước thực hiện phức tạp với chi phí cao
và kết quả thí nghiệm thiếu ổn định ở những
lần lặp lại. Việc phát triển các phương pháp
chuyển gen hiệu suất cao với chi phí thấp cho
vi nấm A. oryzae sẽ là một lợi thế để có thể
ứng dụng loài nấm sợi này vào sản xuất
enzyme tái tổ hợp định hướng thương mại.
Mặc dù từ năm 1998 phương pháp chuyển
gen thông qua vi khuẩn Agrobacterium
tumefaciens đã được thực hiện thành công
trên nhiều loài nấm sợi khác nhau, nhưng
phương pháp này chưa được thực hiện trên
nấm sợi A. oryzae.
Phương pháp chuyển gen nhờ A.
tumefaciens đơn giản, dễ thực hiện và có chi
phí thấp do bào tử nấm được sử dụng trực
tiếp làm nguyên liệu chuyển gen. Thêm vào
đó, do A. oryzae kháng lại hầu hết các loại
kháng sinh dùng trong chuyển gen ở vi nấm
nên các vector biểu gen ở loài nấm sợi này
phải sử dụng marker trợ dưỡng. Đề tài:
“Nghiên cứu thiết kế hệ thống vector biểu
hiện gen nhằm nâng cao hiệu suất sinh tổng
hợp enzyme ở nấm sợi Aspergillus oryzae” đã
được nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học
Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội
do TS. Trần Văn Tuấn dẫn đầu, thực hiện
trong giai đoạn từ năm 2014-2016. Đây là lần
đầu tiên các nhà khoa học phát triển thành
công phương pháp chuyển gen vào A. oryzae
nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens sử
dụng hệ vector nhị thể (binary vector) mới
với các promoter điều hòa biểu hiện gen rất
mạnh là gpdA hoặc amyB. Các vector này
đều mang marker trợ dưỡng dùng cho chọn
lọc thể chuyển gen là pyrG thay vì sử dụng
gen kháng kháng sinh, do đó, sẽ không tạo ra
các chủng vi nấm kháng thuốc trong quá trình
nghiên cứu.
Mục tiêu chính của đề tài là tạo được
một hệ thống vector nhị thể với các promoter
mạnh dùng cho biểu hiện gen ở vi nấm A.
oryzae với phương pháp chuyển gen nhờ vi
khuẩn A. tumefaciens. Hệ thống vector tạo
được sẽ phục vụ thiết thực cho các nghiên
cứu nâng cao hiệu suất sinh tổng hợp enzyme
ở nấm sợi A. oryzae; và đưa ra được phương
pháp xác nhận và phân biệt nhanh các chủng
A. oryzae an toàn với A. flavus sinh độc tố
aflatoxin.
Một số kết quả của nghiên cứu:
- Đã tạo được các chủng A. oryzae trợ
dưỡng uridine/uracil bằng cách xóa gen pyrG
(gen mã hóa enzyme tham gia vào quá trình
tổng hợp uridine/uracil) trên hai chủng
A.oryzae VS1 và A. oryzae RIB40 sử dụng
cùng vector xóa gen là pAoG. Cấu trúc xóa
gen pyrG được chuyển vào A. oryzae sử dụng
phương pháp chuyển gen thông qua vi khuẩn
Agrobacterium tumefaciens, hiệu suất xóa
gen đạt 100%. Tất cả các chủng trợ dưỡng
uridine/uracil đều bị xóa gen pyrG.
- Đã tạo được 7 vector nhị thể chứa
marker chọn lọc là gen pyrG dùng cho
chuyển gen vào các chủng A. oryzae trợ
dưỡng uridine/uracil gồm: 1 vector xóa gen
pyrG, 1 vector biểu hiện gen huỳnh quang
GFP, 2 vector biểu hiện gen huỳnh quang
DsRed, 02 vector dùng cho biểu hiện tái tổ
hợp gen mã hóa enzyme phytase. Các vector
này đều hoạt động tốt khi được chuyển vào
chủng trợ dưỡng VS1, RIB40 và AUT1-PlD.
- Ứng dụng thành công hệ thống
chuyển gen thông qua vi khuẩn A. tumefaciens
mới xây dựng để biểu hiện gen phyA mã hóa
enzyme phytase từ nấm sợi Aspergillus
fumigatus trong hai chủng trợ dưỡng VS1 và
AUT1-PlD. Enzyme phytase tái tổ hợp có hoạt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 21/39
tính tốt, có khả năng bền nhiệt đến 90ºC. Bên
cạnh đó, chúng tôi đã tìm được môi trường
cám gạo để để nuôi các chủng nấm cho tách
chiết lượng lớn enzyme phytase tái tổ hợp
nhằm giảm chi phí sản xuất.
Nguồn: Vista.gov.vn, 28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Y HỌC
Quy trình Multiplex PCR (M-PCR): giải pháp cho bệnh nhiễm khuẩn âm đạo
Để xác định đồng thời và chính xác tác
nhân gây bệnh nhiễm khuẩn âm đạo
(Bacterial vaginosis - BV), góp phần giảm tối
đa thời gian và chi phí xét nghiệm, nhóm tác
giả Triệu Tiến Sang, Trần Văn Khoa, Nguyễn
Thị Việt Hà (Học viện Quân y); Vũ Hương Ly
(Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM);
Nguyễn Thị Trang (Đại học Y Hà Nội) và
Nguyễn Thị Mai Hương (Bệnh viện Nhi Trung
ương) đã nghiên cứu xây dựng quy trình chẩn
đoán vi khuẩn âm đạo bằng phương pháp
Multiplex PCR (M-PCR) nhằm phòng ngừa,
ngăn chặn những tác hại do căn bệnh này
mang lại.
Nhiễm khuẩn âm đạo là một trong
những bệnh viêm nhiễm đường sinh dục phổ
biến nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (15-
44 tuổi). Bacterial vaginosis (BV) là yếu tố
làm tăng tỷ lệ mắc bệnh viêm vùng chậu, căn
bệnh gây đau đớn và có thể dẫn tới vô sinh,
tăng nguy cơ lây truyền HIV và các bệnh lây
truyền qua đường tình dục. Ở phụ nữ đang
mang thai, BV có thể tăng nguy cơ sảy thai,
sinh non hoặc sinh con nhẹ cân. Đặc biệt, BV
còn ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ có thai của
những bệnh nhân làm thụ tinh trong ống
nghiệm. Do đó, điều trị và sàng lọc BV là vô
cùng cần thiết, đặc biệt đối với phụ nữ đang
mang thai và bệnh nhân trước khi làm hỗ trợ
sinh sản.
Tuy hiện nay có nhiều phương pháp
được dùng để chẩn đoán BV (ví dụ như dựa
theo tiêu chuẩn Amsel và tiêu chuẩn Nugent),
nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Các
phương pháp này chỉ đánh giá sự xuất hiện
của tác nhân gây bệnh mà không xác định
chính xác được từng loài. Vì vậy, việc xây
dựng kỹ thuật mới như kỹ thuật Multiplex
PCR để xác định rõ các loài vi khuẩn gây
bệnh để chọn kháng sinh thích hợp trong điều
trị BV là đặc biệt cần thiết.
Nghiên cứu được nhóm tác giả thực
hiện trên mẫu bệnh phẩm dịch âm đạo của
bệnh nhân làm hỗ trợ sinh sản, với các trang
thiết bị đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật và an
toàn. Sử dụng phương pháp tách chiết AND
từ mẫu bệnh phẩm, nhóm nghiên cứu thiết lập
phản ứng PCR đơn mồi và phản ứng
Multiplex PCR để xác định đồng thời các tác
nhân gây bệnh.
Quy trình chẩn đoán vi khuẩn gây
nhiễm khuẩn âm đạo bằng phương pháp
Multiplex PCR đã phát hiện được 10 loài vi
khuẩn gây bệnh dựa trên vùng gene đặc hiệu
16s-rRNA và tối ưu hóa Multiplex PCR thành
3 phản ứng với độ nhạy và đặc hiệu cao. Kết
quả bước đầu đã xây dựng thành công quy
trình Multiplex PCR, cho thấy tiềm năng ứng
dụng cho xét nghiệm chẩn đoán BV trong
tương lai gần.
Nguồn: Kim Oanh, Cesti.gov.vn,
27/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 22/39
Kỹ thuật lấy đi khối u tuyến vú không cần phẫu thuật
Mô phỏng quy trình kỹ thuật
Theo Bệnh viện ung bướu TP.HCM,
chỉ cần một lần đâm kim, khối u tuyến vú có
kích cỡ dưới 5 cm sẽ được lấy đi mà không
cần phẫu thuật, để lại vết sẹo nhỏ, không gây
đau và có thể dùng để lấy nhiều u cùng một
lúc. Đây là một phương pháp mới để sinh
thiết u vú có hỗ trợ thiết bị hút chân không
dưới hướng dẫn của siêu âm (Vacuum
Assisted Breast Biopsy - gọi tắt là VABB).
Kỹ thuật này được Bệnh viện ung
bướu TP.HCM triển khai thành công trên 200
bệnh nhân kể từ năm 2017 đến nay. Ở Việt
Nam, Bệnh viện ung bướu TP.HCM là nơi
đầu tiên áp dụng kỹ thuật sinh thiết khối u có
hỗ trợ thiết bị hút chân không.
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp
nhất ở phụ nữ trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Bên cạnh ung thư, nhiều trường hợp
phụ nữ được chẩn đoán là u lành của tuyến vú
nhưng cũng cần phải lấy đi khối u đó.
Trước đây, để lấy cả khối bướu hay
một phần khối bướu ở vú đi sinh thiết (xét
nghiệm xem u ác tính hay lành tính), bệnh
viện thường áp dụng phương pháp sinh thiết
mở hoặc sinh thiết lõi kim. Cả hai phương
pháp này có những hạn chế nhất định như
sinh thiết mở để lại vết sẹo khoảng 2 - 3 cm
mất thẩm mỹ trên vú bệnh nhân, gây tổn
thương nhiều hơn, cần phải chăm sóc sau mổ;
còn sinh thiết lõi kim tuy ít xâm lấn, nhưng
khi thực hiện cần phải đâm kim nhiều lần, và
không thể dùng để sinh thiết cho những tổn
thương nhỏ hơn 5mm.
Với phương pháp sinh thiết u vú có hỗ
trợ thiết bị hút chân không dưới hướng dẫn
của siêu âm (VABB), nhóm y bác sĩ Bệnh
viện ung bướu, gồm BS. Lê Hồng Cúc, BS.
Trần Việt Thế Phương và BS. Phan Hoàng Tú
sẽ đưa cây kim có đường kính khoảng 2 mm
vào dưới khối u, từ tác động của lực hút chân
không, khối u sẽ được hút vào cây kim, được
cắt nhỏ từng phần và đưa ra ngoài.
BS. Lê Hồng Cúc, trưởng nhóm thực
hiện, cho biết: ưu điểm của phương pháp này
là chỉ cần đâm kim một lần khi sinh thiết; có
thế lấy trọn các tổn thương lành tính dưới
5cm mà không cần mổ (như bướu sợi tuyến,
bướu nhú, tổn thương viêm), để lại vết sẹo
nhỏ (bằng đầu đũa), không gây đau, có thể
dùng để lấy nhiều u cùng một lúc. Kỹ thuật
này còn dùng để sinh thiết cho những tổn
thương nghi ngờ ung thư, đặc biệt là những
tổn thương nhỏ hơn 0,5cm. Khi đó, tỷ lệ phải
sinh thiết lại của VABB thấp hơn sinh thiết
lõi kim.
Việc đưa vào áp dụng kỹ thuật mới
này là một bước phát triển của ngành can
thiệp bệnh lý tuyến vú và cung cấp thêm một
lựa chọn cho chị em, đặc biệt là phụ nữ trẻ.
Kỹ thuật mới giúp đảm bảo thẩm mỹ cho nhũ
bộ, ít đau hơn mổ hở mà vẫn đạt được yêu
cầu về chuyên môn.
Nguồn: Phương Mai,
khoahocphothong.com.vn, 27/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 23/39
Xe cấp cứu cơ động 2 bánh
Mô phỏng quy trình kỹ thuật
heo Sở y tế TP.HCM, đây là đề tài
sáng tạo khoa học kỹ thuật của Bệnh viện đa
khoa Sài gòn nhằm đáp ứng yêu cầu cấp cứu
người dân trên địa bàn Quận 1, địa bàn đông
dân cư, nhiều khách du lịch và nhiều lễ hội.
Thêm phương tiện cấp cứu cơ động này sẽ
giúp các y, bác sĩ tiếp cận người bệnh hoặc
người bị tai nạn trong thời gian nhanh nhất để
kịp thời sơ, cấp cứu tại chổ trong điều kiện xe
cứu thương 4 bánh khó tiếp cận được hiện
trường.
Sau hơn 2 tháng thực hiện, Bệnh viện
đa khoa Sài gòn đã chính thức đưa vào hoạt
động thí điểm mô hình xe cấp cứu 2 bánh.
Trước đó, Hội đồng khoa học công nghệ Sở y
tế đã thẩm định và góp ý kế hoạch triển khai
sản phẩm sáng tạo này, thay vì xe tay ga phân
khối lớn hay được sử dụng tại các nước phát
triển, Hội đồng nhất trí với đề xuất của Bệnh
viện Sài gòn là chọn loại xe tay ga có động cơ
100 - 125 phân khối vừa chi phí thấp vừa
giúp cho y, bác sĩ dễ dàng vận hành, nhất là
nhân viên nữ.
Sở y tế đã thông qua dự thảo quy trình
sử dụng xe cấp cứu 2 bánh, quy trình này sẽ
được vận hành thí điểm trong 2 tuần để rút
kinh nghiệm và hoàn thiện, sau đó sẽ chính
thức ban hành, trong đó Sở y tế lưu ý luôn giữ
mối liên lạc giữa nhân viên y tế đi cấp cứu và
bệnh viện, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa
nhóm đi cấp cứu bằng xe 2 bánh và nhóm
thường trực xe cứu thương, khi có yêu cầu
cần chuyển bệnh nhân về bệnh viện thì xe cứu
thương sẽ kịp thời đến để vận chuyển bệnh
nhân sau khi đã được sơ, cấp cứu trước đó.
Dưới đây là một số hình ảnh về xe cấp
cứu cơ động 2 bánh tại Trạm cấp cứu vệ tinh
115 của Bệnh viện đa khoa Sài gòn:
Túi đựng thuốc cấp cứu trang bị bên hông phải xe
Máy sốc điện, nẹp cổ được trang bị trên cốp sau của xe
Nguồn:Khoahocphothong.com.vn,
08/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 24/39
NÔNG NGHIỆP
Phương pháp nhân nuôi và khả năng phòng trừ bọ trĩ của bọ xít bắt mồi trên cây dưa lưới
Nhóm tác giả Tô Thị Thùy Trinh, Trần
Văn Lâm, Huỳnh Quang Tuấn (Trung tâm
Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công
nghệ cao) và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu
phương pháp nhân nuôi quần thể và khả năng
phòng trừ bọ trĩ của bọ xít bắt mồi (Orius
tantillus Motschulsky) trên cây dưa lưới trong
điều kiện nhà màng. Mục tiêu của nghiên cứu
là tìm ra giải pháp sinh học phòng ngừa bọ
trĩ hiệu quả, thân thiện với môi trường và an
toàn với sức khỏe con người.
Bọ trĩ (Thrips palmi Karny) là loại côn
trùng có phổ ký chủ rộng, gây hại nghiêm
trọng trên các cây thuộc họ cà và bầu bí. Loài
bọ này thường hút nhựa cây khiến lá cây bị
xoăn, rụng nụ hoa, đồng thời là môi giới
truyền nhiều loại virus gây hại cho cây trồng.
Để phòng ngừa bọ trĩ gây hại trên dưa lưới,
người nông dân thường sử dụng các loại
thuốc bảo vệ thực vật hóa học, gây ảnh hưởng
xấu đến môi trường sống và sức khỏe không
những của người canh tác mà còn của người
sử dụng. Qua một số nghiên cứu và khảo sát,
bọ xít bắt mồi (Orius tantillus Motschulsky)
đã cho thấy khả năng tiêu diệt hiệu quả ấu
trùng và thành trùng bọ trĩ, phù hợp để nhân
nuôi và phát triển thành phương pháp kiểm
soát bọ trĩ an toàn và tự nhiên.
Thức ăn được sử dụng để nhân nuôi bọ
xít bắt mồi là sâu ngài gạo thu thập tại các cơ
sở kinh doanh và sản xuất thức ăn chăn nuôi,
cộng với thức ăn bổ sung là mật ong và phấn
hoa. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện 2 nội
dung sau: xác định chất nền (đậu cove tươi,
cùi bắp vụn, vỏ trấu và giấy carton mảnh nhỏ)
và mật số nhân nuôi thích hợp ở từng giai
đoạn phát triển của bọ xít bắt mồi; xác định
khả năng phòng trừ bọ trĩ của bọ xít bắt mồi
trên cây dưa lưới trong điều kiện nhà màng.
Kết quả cho thấy, chất nền thích hợp
cho nhân nuôi ấu trùng bọ xít bắt mồi là trái
đậu cove tươi cắt đoạn từ 2-3 cm; mật số
nhân nuôi bọ xít thích hợp cho giai đoạn ấu
trùng là 100 ấu trùng/hũ 500 ml và thành
trùng là 150 thành trùng với tỷ lệ 2 cái:1 đực
cho hũ 500 ml. Bên cạnh đó, khi thả bọ xít
bắt mồi 4 lần/vụ với mật độ 1,5 con/m2 đã cho
thấy hiệu quả kiềm hãm sự phát triển của bọ
trĩ rõ rệt, cụ thể là từ mật số bọ trĩ 6,5–27,7
con/lá dưa lưới ở giai đoạn ra hoa, thì tới cuối
vụ chỉ còn 2 con/lá. Ngoài ra, năng suất thực
tế của dưa lưới trồng trong nhà màng thu
được ở thí nghiệm có thả bọ xít bắt mồi là
2.312,3–2.491,4 kg/1.000 m2.
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
07/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 25/39
Nghiên cứu về ảnh hưởng của giá thể và dinh dưỡng đến sinh trưởng của lan Kim tuyến (Anoectochilus sp.) giai đoạn sau cấy mô từ 0-3 tháng tuổi
Với mục đích đảm bảo nguồn cung cho
thị trường hoa cảnh, cũng như nỗ lực bảo tồn
và gìn giữ những loài hoa quý hiếm, nhóm tác
giả Lê Thị Thu Mận, Hoàng Đắc Hiệt, Trần
Văn Lâm (Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển Nông nghiệp Công nghệ cao) và cộng sự
đã thực hiện nghiên cứu về ảnh hưởng của
giá thể và dinh dưỡng đến sinh trưởng của
lan Kim tuyến (Anoectochilus sp.) giai đoạn
sau cấy mô từ 0-3 tháng tuổi.
Nằm trong sách đỏ Việt Nam năm
2007, lan Kim tuyến là loài hoa thảo dược quý
của vùng núi Tây Bắc với giá trị dược liệu cao,
giúp phòng chống tăng huyết áp, lưu thông khí
huyết, kháng khuẩn, bồi bổ cơ thể,…Do nhu
cầu sử dụng dược liệu quá cao từ người tiêu
dùng, nên hiện nay lan Kim tuyến đang bị khai
thác quá mức và đứng trước nguy cơ cạn kiệt
ngoài tự nhiên. Tuy đã có nhiều nghiên cứu về
bảo tồn nguồn gien và nhân giống lan Kim
tuyến, nhưng các nghiên cứu về kỹ thuật trồng,
giá thể trồng, chế độ dinh dưỡng và các yếu tố
ảnh hưởng đến cây vẫn còn chưa cụ thể. Vì
vậy, các nghiên cứu về ảnh hưởng của giá thể
và dinh dưỡng đến lan Kim Tuyến là cần thiết
để giúp cây gia tăng tỷ lệ sống, sinh trưởng và
phát triển đồng đều.
Nghiên cứu được thực hiện trên giống
lan Kim Tuyến sau cấy mô từ 0-3 tháng tuổi
trồng tại TP.HCM, cây có chiều cao từ 5-6
cm, 5-6 lá và 2-3 rễ. Các nhà nghiên cứu đã
tiến hành các nội dung như: khảo sát sự sinh
trưởng của cây bằng cách phối trộn theo tỷ lệ
các loại giá thể như mụn dừa, xốp hạt, vỏ đậu
phộng, than vụn, trấu hun và dớn cọng; khảo
sát một số chế độ bón phân thích hợp với các
loại phân như phân vô cơ Growmore 30-10-
10, phân hữu cơ Fish Emulsion và chất kích
thích rễ Terrasorb4.
Kết quả cho thấy, giá thể phù hợp cho
lan Kim Tuyến là giá thể phối trộn từ mụn
dừa, vỏ đậu phộng, dớn cọng theo tỷ lệ 1:1:1.
Hỗn hợp trồng cho chiều cao cây đạt 9,23 cm,
chiều dài lá 3,85 cm, chiều rộng lá 1,72 cm,
khối lượng khô lên đến 0,91, tỷ lệ bệnh chỉ
còn 3.3% và cây sinh trưởng tốt. Bên cạnh đó,
với chế độ bón phân 3 lần Growmore 30-10-
10, 1 lần Fish Emulsion và 1 lần Terrasorb4,
cây cho thấy sự phát triển mạnh về chiều cao
(9,05 cm), chiều rộng lá (1,73 cm) và cho
khối lượng khô cao (1,49 g).
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
06/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu xác định ảnh hưởng của nồng độ và số lần xử lý BA (6-Benzylaminopurine), GA3 (Axit Gibberellic) đến sinh trưởng, phát triển và chất
lượng hoa cây triệu chuông và cây ánh dương trồng tại TP.HCM.
Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thị
trường, cũng như nâng cao kỹ thuật trồng
hoa cảnh tại nước ta hiện nay, nhóm tác giả
Lê Thiên Việt Hùng, Vũ Thị Quỳnh, Nguyễn
Hoàng Duy Lưu (Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao) đã
thực hiện nghiên cứu xác định ảnh hưởng của
nồng độ và số lần xử lý BA (6-
Benzylaminopurine), GA3 (Axit Gibberellic)
đến sinh trưởng, phát triển và chất lượng hoa
cây triệu chuông và cây ánh dương trồng tại
TP.HCM.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 26/39
Trong những năm gần đây, hai giống
hoa của cây Triệu chuông (Calibrachoa
parviflora) và cây Ánh dương (Thunbergia
alata) trồng trong chậu hoặc để bàn đang là
hai giống hoa được nhiều người chơi hoa trên
thị trường ưa chuộng. Tuy nhiên, các nhà
vườn nuôi trồng 2 loại hoa này đang gặp
nhiều khó khăn và hạn chế trong kỹ thuật
trồng và chăm sóc nên chất lượng và số lượng
hoa trên mỗi chậu không đồng đều, làm giảm
giá trị hoa thành phẩm. Mặc dù nhiều công
trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy kết quả
tích cực khi xử lý BA và GA3 trên một số
loại hoa như hoa Cúc và thực vật có hoa
thuộc họ ráy, nhưng các nghiên cứu này trên
hoa cây Triệu chuông và cây Ánh dương vẫn
chưa có tại Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng hạt giống cây hoa
triệu chuông và cây ánh dương được cung cấp
bởi Công ty TNHH Hạt giống hoa Việt Nam.
Các thí nghiệm trong nghiên cứu được bố trí
ngẫu nhiên và lặp lại ba lần với giá thể gồm
mụn dừa, tro trấu, phân bò, vỏ trấu và một số
vật tư khác, đồng thời sử dụng chất điều hòa
tăng trưởng thực vật là BA và GA3.
Với phương pháp xử lý 2 lần bằng GA3
(nồng độ 200 ppm) ở khoảng thời gian sau khi
trồng 10 ngày, các nhà nghiên cứu nhận thấy,
cây triệu chuông ra hoa nhiều nhất (18,3) và tỷ
suất lợi nhuận cao nhất (0,66), đạt 690.848
đồng/60 cây; cây ánh dương cũng cho ra hoa
nhiều nhất (23,9) và tỷ suất lợi nhuận cao nhất
(0,59), đạt 537.400 đồng/60 cây. Thêm vào đó,
với phương pháp xử lý 2 lần bằng BA (nồng
độ 50 ppm) ở khoảng thời gian sau khi trồng
45 ngày, cây triệu chuông ra hoa nhiều nhất
(23,9) và tỷ suất lợi nhuận cao nhất (0,56), đạt
613.642 đồng/60 cây. Đồng thời, với phương
pháp xử lý 1 lần bằng BA (nồng độ 100 ppm)
cũng ở khoảng thời gian sau khi trồng 45
ngày, cây ánh dương cho ra hoa nhiều nhất
(58,3) và tỷ suất lợi nhuận cao nhất (0,54), đạt
509.097 đồng/60 cây.
Nguồn: Kim Tiến, Cesti.gov.vn,
01/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Dây chuyền xử lý phân gà vi sinh đầu tiên tại Việt Nam
Máy đảo phân gà tự động
Nhóm tác giả ThS. Đào Vĩnh Hưng,
ThS. Nguyễn Trọng Minh Khiêm (Phòng
nghiên cứu máy và thiết bị nông nghiệp - Phân
viện cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu
hoạch) vừa thành công trong việc thiết kế chế
tạo dây chuyền xử lý phân gà vi sinh.
Đây là phương pháp hiện đại và là mô
hình đầu tiên do Việt Nam sản xuất (đầu tháng
5/2018), năng suất xử lý 14 tấn phân
tươi/ngày giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho
hệ thống vi sinh phân hủy các hợp chất hữu cơ
trong phân, tăng cường lượng vi khuẩn có lợi,
tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn có hại.
Xuất từ thực tế hiện nay, việc chăn
nuôi gia cầm tồn tại nhiều qui mô khác nhau,
các qui mô vừa và lớn trên 100.000 gia cầm
hàng ngày thải ra môi trường hàng tấn phân
(0,2 - 0,3 kg/con/ngày) nhưng gần như chưa
có biện pháp pháp xử lý, do đó tồn tại nhiều
vấn đề ảnh hưởng về khoa học, kinh tế, môi
trường, y tế.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 27/39
Hiện nay, đã có một số đơn vị sản xuất
phân bón thu mua phân gà và xử lý phân bằng
phương pháp vắt khô bằng trục vít và sấy khô
bằng máy sấy thùng quay hoặc băng tải. Tuy
nhiên, cách làm này gặp phải các vấn đề do
việc sấy phân ở nhiệt độ 140 - 2000C đã làm
tất cả hệ thống vi khuẩn có lợi và hại trên
phân chết (với nhiệt độ trên 800C, các vi
khuẩn có lợi đã chết). Hơn nữa, việc sấy phân
không giúp hợp chất hữu cơ trong phân
không được phân hủy và chuyển hóa mà chủ
yếu được làm khô.
Về vấn đề khoa học, nếu dùng phân
hữu cơ tươi bón trực tiếp cho cây trồng lại
gây ra nhiều vấn đề như: cây có khả năng bị
ngộ độc hữu cơ, bị héo do trong phân tươi
còn chứa các thành phần amoniac; cây dễ bị
nhiễm các loại bệnh vì phân chưa xử lý có
chứa rất nhiều thành phần nấm có hại.
Từ những vấn đề thực tế trên, nhóm đã
bắt tay vào công trình nghiên cứu và chế tạo
thành công hệ thống máy làm phân vi sinh
bằng phương pháp ủ phân để làm phân vi sinh
trên cả qui mô lớn và nhỏ.
Đại diện nhóm tác giả, ThS. Đào Vĩnh
Hưng cho biết, qui trình ủ phân theo các bước
gồm: phân tươi được phối trộn thêm các phụ
phẩm nông nghiệp như vỏ trấu nghiền nhỏ,
rơm nghiền nhỏ theo một tỉ lệ nhất định. Sau
đó hỗn hợp tiếp tục được trộn thêm vôi (có
thể thêm lân, rỉ đường và một số loại vi sinh
thực hiện các chức năng khác nhau). Thời
gian ủ diễn ra 5 - 7 ngày, phân đầu vào độ ẩm
70 - 80%, sau khi xử lý độ ẩm còn 20 - 25%.
Dây chuyền xử lý phân vi sinh gồm các
bộ phân chính như sau: hệ thống phễu và trục
vít định lượng để định số lượng chính xác các
thành phần phối trộn. Máy trộn có kiểu trộn
liên tục có nhiệm vụ trộn đều các thành phần
với nhau và hệ thống đảo trộn phân.
Theo đó, sau khi phân được trộn đều
với các thành phần phụ gia và phụ phẩm nông
nghiệp, phân được đưa tới buồng ủ. Chiều
cao lớp phân ủ cao 0,8 - 1m, chiều dài buồng
ủ dài từ 80 - 100m. Máy đảo phân hoạt động
theo nguyên lý như máy phay đất. Máy được
thiết kế theo kiểu dáng công nghiệp, có mức
độ tự động hóa cao, có thể điều chỉnh được
tốc độ di chuyển, vận tốc trục, tự động đảo
chiều và hoạt động 24/24. Nhiệm vụ của máy
đảo tạo ra môi trường thông thoáng cho hệ
thống vi khuẩn sống và phát triển. Khi đó vi
khuẩn sẽ phân hủy các hợp chất hữu cơ và
sinh nhiệt làm cho nước bay hơi dẫn đến độ
ẩm của phân giảm. Nhiệt độ ủ nằm trong
khoảng 60 - 800C.
Hiện máy đang được ứng dụng tại trại
gà Đồng Tâm (Trảng Bom – Đồng Nai), chủ
sở hữu là công ty CTBIO Việt Nam (Khu
công nghệ cao, quận 9, TP.HCM).
Đánh giá tính hiệu quả của hệ thống,
ThS. Hưng cho biết thêm, công trình nghiên
cứu đã đem lại hiệu quả vô cùng to lớn về
nhiều mặt đời sống xã hội khi đã giải quyết
tận gốc vấn đề môi trường do các trang trại
gây ra; giúp cải thiện sức khỏe của người dân.
Phân sau xử lý là phân chất lượng đạt tiêu
chuẩn về số lượng vi sinh, giúp tăng năng
suất trong trồng trọt, tăng sức đề kháng, giảm
trừ sâu bệnh, giảm việc sử dụng phân hóa học
và thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến bảo vệ sức
khỏe và môi trường, tạo ra một nền nông
nghiệp hiện đại, bền vững. Giá thành xử lý
phân cũng được tăng cao nhiều lần so với
phân chưa xử lý. Cụ thể phân sau xử lý bán sỉ
khoảng 3.000 - 5.000 đồng/kg, bán lẻ 7.000
đồng/kg. Do đó, ngoài lợi nhuận thu được từ
chăn nuôi, từ việc không bị phạt do gây ô
nhiễm môi trường … các chủ trang trại và
người đầu tư hệ thống còn được thu lợi nhuận
từ phân đã qua xử lý.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 28/39
Về hướng nghiên cứu tiếp theo trong
thời gian tới, nhóm dự định sẽ tiếp tục hoàn
thiện các thiết bị với mức tự động hóa cao
hơn, giảm tối đa chi phí và mức độ sử dụng
năng lượng; tạo ra môi trường xanh sạch theo
hướng phát triển bền vững. Phối hợp tốt với
đội ngũ nghiên cứu để tạo ra các chủng loại vi
sinh có tốc độ phân hủy mạnh để rút ngắn
thời gian xử lý.
Nguồn: Tuyết Mai,
khoahocphothong.com.vn, 12/11/2018
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu ứng dụng mạng nơron nhân tạo (Artificial Neural Network - Ann) trong tính toán lựa chọn phương án bảo vệ tài nguyên nước mặt; thử nghiệm
cho lưu vực sông cầu
Thực tế cho thấy kinh tế càng phát
triển thì lượng chất thải xả ra môi trường
ngày càng lớn. Các chất thải này ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng tài nguyên nước ở
khu vực xả thải, và tác động xấu đến các hoạt
động dân sinh - kinh tế như cấp nước cho
sinh hoạt, công nghiệp, tưới tiêu, du lịch ở hạ
du. Do đó công tác quản lý chất lượng nước
đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô
nhiễm nước và bảo vệ tài nguyên nước trong
lưu vực. Hiện nay, các giải pháp bảo vệ môi
trường trong đó có tài nguyên nước đang sử
dụng các phương pháp như: tính toán chỉ số
chất lượng nước (Quyết định số 879/QĐ-
TCMT), phương pháp đánh giá nhanh (Rapid
Assessment) của Tổ chức Y tế Thế giới,
phương pháp mô hình toán (QUAL2E,
QUAL2K, MIKE11,…) và đánh giá khả năng
tiếp nhận chất thải của nguồn nước (Thông tư
02/2009/TT-BTNMT)…
Các phương pháp tính toán chỉ số chất
lượng nước, đánh giá nhanh, đánh giá khả
năng tiếp nhận chất thải có ưu điểm là đơn
giản nhưng những đánh giá chỉ mang tính
chất tĩnh, trong khi cần phải xem tài nguyên
nước là một tài nguyên động (biến đổi theo
không gian và thời gian) và có tính hệ thống.
Phương pháp mô hình toán mô phỏng chất
lượng nước dựa vào việc diễn tả những quá
trình biến đổi của các chất ô nhiễm thông qua
các quá trình đối lưu, hòa tan, khuếch tán và
sinh hóa,… bằng các phương trình toán học
sao cho gần đúng với quá trình thực, điều này
dẫn đến các mô phỏng gồm nhiều phương
trình phức tạp và thông số khó xác định làm
giảm độ chính xác của các mô phỏng. Do đó
cần nghiên cứu phương pháp mô phỏng chất
lượng nước tốt hơn để tăng độ chính xác của
kết quả mà không phụ thuộc quá nhiều vào
các giả thiết như phương pháp truyền thống.
Mạng nơron nhân tạo là hướng tiếp cận mới
trong công tác nhân dạng và dự báo đã nhận
được sự quan tâm đặc biệt của một số nhóm
nghiên cứu trên thế giới. ANN được coi là
công cụ mạnh để giải quyết các bài toán có
tính phi tuyến, phức tạp và đặc biệt trong các
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 29/39
trường hợp mà mối quan hệ giữa các quá
trình không dễ thiết lập một cách tường minh
như diễn biến của chất lượng nước và các yếu
tố ảnh hưởng (tải lượng chất ô nhiễm, vị trí xả
thải, lưu lượng nguồn nước,…). Một ưu điểm
vượt trội của mô hình mạng nơron nhân tạo là
khả năng tự học và điều chỉnh các trọng số để
kết quả tính toán phù hợp với thực tế mà
không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan. Từ
những những lý do trên cho thấy việc ứng
dụng mạng nơron nhân tạo phục vụ tính toán,
lựa chọn phương án bảo vệ tài nguyên nước
là hết sức cần thiết.
Do đây là hướng nghiên cứu mới nên
đề tài lựa chọn lưu vực sông Cầu làm lưu vực
nghiên cứu áp dụng mô hình nơron nhân tạo
do đây là lưu vực nổi cộm về vấn đề chất
lượng nước bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các
hoạt động công nghiệp; thêm vào đó lưu vực
có mạng quan trắc khá hoàn chỉnh phủ đều
trên lưu vực và có nhiều nghiên cứu ứng dụng
trước đây thuận tiện cho việc đánh giá kết quả
nghiên cứu của đề tài. Và Cơ quan chủ trì
Liên Đoàn quy hoạch và điều tra tài nguyên
nước miền Bắc phối hợp với Chủ nhiệm đề
tài Luyện Đức Thuận cùng thực hiện nhằm
mục tiêu Nghiên cứu phương pháp ANN
trong dự báo chất lượng nước mặt làm căn cứ
lựa chọn phương án bảo vệ tài nguyên nước
mặt; Đề xuất nội dung và quy trình tính toán
dự báo chất lượng nước mặt bằng; phương
pháp ANN trên lưu vực; Thử nghiệm tính
toán phương án bảo vệ tài nguyên nước cho
một tiểu lưu vực thuộc lưu vực sông Cầu.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Qua kết quả nghiên cứu của đề tài về
ứng dụng mạng nơron nhân tạo ANN) trong
dự báo chất lượng nước, nhận thấy mô hình
ANN có một số đặc điểm chính sau:
- Mô hình ANN cho kết quả tốt ngay
cả trong trường hợp chuỗi dữ liệu ngắn và
trong các trường hợp phức tạp, khi mối quan
hệ giữa các biến trong mô hình là phi tuyến,
không được rõ ràng và tường minh.
- Mô hình ANN rất phù hợp với việc
xử lý các dữ liệu thực chứa nhiễu hoặc không
đầy đủ hay nói cách khác, mô hình ANN có
thể xem xét tất cả các yếu tố có ảnh hưởng
đến biến cần dự báo.
- Việc xác định số lớp ẩn và số đơn vị
trong lớp ẩn là công việc hết sức khó khăn.
Tuy nhiên trong các bài toán thực tế thường
sử dụng chỉ một lớp ẩn cho ta kết quả tốt hơn
là sử dụng nhiều hơn một lớp. Để xác định số
đơn vị trong lớp ẩn, cách tốt nhất là sử dụng
phương pháp thử-sai (trial-and-error). Trong
thực tế, có thể sử dụng phương pháp Lựa
chọn tiến (forward selection) hay Lựa chọn
lùi (backward selection).
Các đóng góp khoa học của đề tài:
1. Hệ thống hóa các nội dung cơ bản
về mạng nơron nhân tạo
2. Nghiên cứu các phương pháp, sử
dụng mô hình nơron truyền thẳng và giải thuật
lan truyền ngược nhằm đạt tới một kết quả
trọn vẹn của bài toán tối ưu trọng số mạng
nơron nhân tạo trong dự báo chất lượng nước.
3. Ứng dụng phần mềm WinNN32
triển khai phương pháp sử dụng mô hình
nơron truyền thẳng và giải thuật lan truyền
ngược. Kết quả đạt được của mô hình
WinNN32 cho lưu vực sông Cầu trong dự báo
chất lượng nước tốt nhất với cấu trúc mạng 6-
9-1, hệ số tương quan và sai số quân phương
của quá trình huấn luyện cho các thông số
chất lượng nước BOD5, tổng N và TSS lần
lượt là R2 = 0,835; MSE = 0,13; R2 =0,852;
MSE = 0,05; R2 = 0,958; MSE = 44,8. Hệ số
tương quan và sai số quân phương của quá
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 30/39
trình kiểm tra lần lượt là R2 = 0,724; MSE
=0,28; R2 = 0,699; MSE = 0,35; R2 = 0,981;
MSE = 46,4. Kết quả đạt được của mô hình
WinNN32 cho lưu vực sông Cầu trong dự báo
thông số chất lượng nước COD tốt nhất với
cấu trúc 5-9-1, hệ số tương quan và sai số
quân phương của quá trình huấn luyện và
kiềm tra lần lượt là R2 = 0,774; MSE = 4,67
và R2 = 0,672; MSE = 9,67.
4. Đề xuất nội dung và quy trình tính
toán chất lượng nước mặt bằng mô hình ANN.
5. Đề tài đã đưa ra 2 phương án bảo vệ
chất lượng nước lưu vực sông Công, trong đó
phương án bảo vệ chất lượng nước sông Công
thông qua kiểm soát nguồn thải, nguồn ô
nhiễm với yêu cầu xử lý được 40% lượng
nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi
đổ ra sông (phương án 2) là phương án được
lựa chọn. Với kết quả tính toán giá trị hàm
lượng TSS = 48,9 mg/l, đảm bảo đáp ứng
được mục tiêu chất lượng nước đề ra TSS
nằm ở ngưỡng A2 (30 mg/l ≤ TSS ≤ 50 mg/l).
Nguồn: Vista.gov.vn, 16/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị thu gom chất thải hữu cơ của bò theo chu kỳ trong các trang trại chăn nuôi công nghiệp
Như đã biết, Việt Nam hiện vẫn là một
đất nước nông nghiệp, chăn nuôi bò sữa kiểu
nhỏ lẻ là nhiều và tập trung ở trong dân là
chính. Tuy nhiên với sự phát triển của thị
trường sữa hiện nay và xu thế trong tương
lai, các hang sản xuất sữa lớn tại Việt Nam
đã bắt đầu chú trọng đến việc chăn nuôi bò
sữa theo quy chuẩn mô hình công nghiệp.
Hãng Vinamilk hiện có 5 trang trại với số
lượng khoảng 8000 con bò, hãng TH True
milk cũng vừa đầu tư xây dựng thêm trang
trại nuôi bò sữa tại Nghệ An. Tại buổi hội
thảo “Ngành sữa Việt Nam-Hướng tới ngành
chăn nuôi bền vững” lãnh đạo Bộ NN và
PTNT đã đưa ra mục tiêu định hướng đến
năm 2020 Việt Nam sẽ có khoảng 500.000
con bò sữa. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng và
phát triển một mô hình chăn nuôi công
nghiệp từ khâu chọn giống-chăn nuôi-vắt
sữa-chế biến, trong đó khâu chăn nuôi bò sữa
là đặc biệt quan trọng hay nói cách khác là
quy trình cho ăn, thu gom chất thải sau khi
ăn, vệ sinh chuồng trại là khâu chính ảnh
hưởng đến sức khỏe của bò sữa và đảm bảo
chất lượng sữa.
Hiện tại, phần lớn các trang trại chăn
nuôi bò sữa chưa có hệ thống thu gom chất
thải tự động hoạt động theo chu kỳ. Công
việc đang được thực hiện bằng thủ công.
Môi trường làm việc độc hại, ảnh
hưởng nhiều đến sức khỏe của người công
nhân và gây mất vệ sinh môi trường.
Cho đến thời điểm này, trong nước
chưa có một đơn vị nào nghiên cứu hay đặt
vấn đề sản xuất ra hệ thống thiết bị thu gom
chất thải hữu cơ của bò điều khiển tự động,
hoạt động theo chu kỳ, thích ứng với vật nuôi,
phù hợp với điều kiện chăn nuôi công nghiệp
tại Việt Nam.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 31/39
Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp là
đơn vị có nhiều thành công trong việc nghiên
cứu chế tạo các thiết bị mới ứng dụng tự động
hóa cao phục vụ cho công nghiệp đạt hiệu
quả kinh tế lớn. Đã kết hợp với Chủ nhiệm đề
tài ThS. Trần Như Hiếu cùng nghiên cứu đề
tài “Thiết bị thu gom chất thải hữu cơ của bò
theo chu kỳ trong các trang trại chăn nuôi
công nghiệp”. Với mục đích nghiên cứu và
tạo ra một sản phẩm trong chuỗi sản phẩm
của quá trình chăn nuôi bò sữa theo mô hình
công nghiệp đáp ứng được trong điều kiện
thời tiết Việt nam phù hợp với tập quán ăn
uống của bò sữa ở Việt Nam, nội địa hóa
giảm giá thành sản phẩm, góp phần hiện đại
hóa ngành chăn nuôi công nghiệp.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
- Nghiên cứu tình hình sản xuất và nhu
cầu thiết bị tại Việt Nam
- Nghiên cứu công nghệ, xây dựng lựa
chọn cấu hình thiết bị
- Tính toán thiết kế phần cơ khí
- Tính toán thiết kế phần điện điều
khiển.
- Thiết kế và xây dựng quy trình vận
hành đảm bảo an toàn và linh hoạt khi sử dụng.
- Phần mềm điều khiển.
- Chế tạo hoàn chỉnh và chạy thử
nghiệm 01 thiết bị thu gom chất thải hữu cơ
của bò tại trang trại chăn nuôi bò sữa của
công ty giống gia súc Hà Nội.
- Đề tài đã sử dụng tài chính đúng mục
tiêu và đã hoàn thành các thủ tục tài chính
đúng quy định.
Nguồn: Vista.gov.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo hệ xúc tác MnO2/Al2O3 ứng dụng oxy hóa tiên tiến để xử lý nước thải ngành công nghiệp dệt nhuộm
Ngành dệt nhuộm nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều sản
phẩm đa dạng, đa màu sắc, chất lƣợng cao
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng
của thị trường. Ngành cũng là nơi thu hút
nhiều lao động, thúc đẩy tăng trưởng nhanh
kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Tuy vậy,
ô nhiễm môi trường do nước thải ngành công
nghiệp dệt nhuộm là một thực tế cần có giải
pháp xử lý và là nhiệm vụ rất cần thiết. Dệt
nhuộm là ngành đòi hỏi sử dụng nhiều nước
và hóa chất. Nước thải công nghiệp dệt
nhuộm rất đa dạng và phức tạp. Thành phần
nước thải dệt nhuộm không ổn định, đa dạng
và thay đổi theo từng nhà máy khi nhuộm và
các loại vải khác nhau.
Trong những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu và sử dụng các phương
pháp khác nhau nhằm xử lý các hợp chất hữu
cơ độc hại trong nước thải. Tuy nhiên, các
phương pháp xử lý nước thải truyền thống
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 32/39
như: phương pháp cơ học, phương pháp sinh
học, phương pháp hóa lý… đều không xử lý
được hoặc xử lý không triệt để các chất ô
nhiễm này.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, công
nghệ phân hủy khoáng hóa phân hủy các chất
ô nhiễm hữu cơ trong nước và nước thải dựa
trên các quá trình oxy hóa nâng cao AOPs
ngày càng được quan tâm nghiên cứu và phát
triển. Đặc điểm của phương pháp AOPs là
dựa trên đặc tính của các chất oxy hóa mạnh
như hydrogen peroxide (H2O2), Ozone (O3),
xúc tác các phản ứng quang hóa, điện hóa
hoặc kết hợp với hiệu ứng Fenton đã được ghi
nhận có hiệu quả cao. Tuy nhiên, những hạn
chế nhất định của phương pháp oxy hóa nâng
cao (AOPs) hiện nay đã khiến cho việc mở
rộng quy mô ứng dụng chính là nguyên liệu
đầu vào để vận hành hệ thống còn cao. Để hạ
giá thành của công nghệ, nhƣng lại nâng cao
được hiệu suất xử lý thì một trong những
hướng đi triển vọng gần đây thường được áp
dụng quá trình oxy hóa nâng cao (AOPs) sử
dụng xúc tác dạng oxit của các kim loại như
sắt (Fe), đồng (Cu), Niken (Ni), Magiê (Mg),
Mangan (Mn), Silic (Si), Nhôm (Al), Kẽm
(Zn), Titan (Ti), Coban (Co)… bằng tác nhân
ozone (O3) để xử lý các hợp chất hữu cơ khó
phân hủy trong nước thải.
Hiện nay có nhiều phương pháp khác
nhau trong chế tạo vật liệu xúc tác, đặc biệt là
xúc tác dị thể như quá trình đồng kết tủa, ngâm
tẩm… Trong đó, phương pháp ngâm tẩm được
sử dụng rộng rãi do cách thức tiến hành đơn
giản. Xuất phát từ những lý do trên, nhóm
nghiên cứu do Cơ quan chủ trì Viện Máy và
Dụng cụ công nghiệp phối hợp với Chủ nhiệm
đề tài ThS. Nguyễn Hữu Nam tiến hành thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu chế tạo hệ úc tác
MnO2/Al2O3 ứng dụng oxy hóa tiên tiến để xử
lý nước thải ngành công nghiệp dệt nhuộm”.
Qua thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả sau:
Thành phần nước thải ngành công
nghiệp dệt nhuộm chứa nhiều hóa chất độc
hại, khó phân hủy sinh học, các kim loại vết
gây độc, ức chế cho vi sinh vật ... mà các
phương pháp truyền thống không hoặc khó
xử lý triệt để. Với hướng đi mới sử dụng các
hệ xúc tác trong phản ứng oxy hóa nâng cao
(AOPs) hứa hẹn là một hướng đi đầy tiềm
năng nhằm giải quyết các tồn tại và hạn chế
mà các công nghệ truyền thống gặp phải,
cũng như hạn chế về mặt chi phí như các
công nghệ cao khác đang ứng dụng (màng
lọc, hấp phụ,...).
Đề tài đã tiến hành nghiên cứu, chế tạo
thành công vật liệu xúc tác MnO2/Al2O3 cho
quá trình oxy hóa tiên tiến. Bằng các phương
pháp phân tích, thử nghiệm nhóm đề tài đã
lựa chọn được 01 mẫu vật liệu xúc tác có các
chỉ tiêu đặc trong đạt yêu cầu đăng ký của đề
tài: diện tích bề mặt tiếp xúc 312,4890 m2/g
và tỷ lệ % theo khối lƣợng của MnO2 trong
xúc tác đạt 31,79% (theo yêu cầu của đề tài
diện tích bề mặt tiếp xúc 300-350 m2/g, chứa
10-15% khối lượng MnO2).
Trên cơ sở vật liệu xúc tác đã chế tạo
được (mẫu M3), đề tài đã tiến hành khảo sát
khả năng xử lý chất màu trên đối tượng
xanhmethylene và nước thải thực trong phòng
thí nghiệm. Kết quả khảo sát đối với nước
thải thực đảm bảo giá trị cột B, QCVN 13-
MT:2015/BTNMT: Quy chuẩn ỹ thuật quốc
gia về nước thải dệt nhuộm và đáp ứng được
tiêu chí đề ra của đề tài.
Ngoài ra, đề tài đã tiến hành nghiên
cứu mở rộng với việc đưa vật liệu xúc tác lên
lõi sứ và tiến hành khảo sát đối với nước thải
thực trên mô hình pilot công suất 3L/h. Bước
đầu đã cho những kết quả khả quan. Tuy
nhiên, các nghiên cứu của nước ta về vật liệu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 33/39
xúc tác này và ứng dụng của xúc tác trong xử
lý nước thải dệt nhuộm là chưa nhiều. Do
vậy, kết quả đề tài sẽ được kỳ vọng là một
định hướng nghiên cứu trong tương lai.
Nguồn: Vista.gov.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Hệ thống quản lý và giám sát từ xa các nguồn phóng xạ theo thời gian thực
An ninh nguồn phóng xạ nói riêng và
an ninh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
nói chung hiện tại đang là mối quan tâm lớn
của cộng đồng quốc tế, đặc biệt sau khi xảy
ra vụ khủng bố 11/9/2001 tại NewYork, Mỹ.
Tháng 4/2010, Hội nghị thượng đỉnh An Ninh
Hạt nhân lần thứ nhất đã được tổ chức tại
Washington DC, Hoa kỳ. Tháng 3/2012, Hội
nghị Thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ 2
đã được tổ chức tại Seoul, Hàn quốc. Tại các
Hội nghị này Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
tới dự và có những phát biểu bày tỏ sự ủng hộ
về các sáng kiến chống khủng bố và cam kết
Việt Nam sẽ thực hiện các biện pháp bảo đảm
an toàn, an ninh cho các cơ sở hạt nhân và
bức xạ trong đó có an ninh nguồn phóng xạ,
nhằm ngăn chặn nguy cơ sử dụng vật liệu hạt
nhân và nguồn phóng xạ vào mục đích khủng
bố gây hoang mang trong xã hội. Ở Việt Nam
trong những năm gần đây, kỹ thuật bức xạ,
hạt nhân đã được triển khai nhanh và rộng
trong nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau của
đời sống kinh tế-xã hội, đã và đang mang lại
những lợi ích thiết thực. Tuy nhiên, việc quản
lý, vận chuyển, lưu trữ và sử dụng nguồn
phóng xạ đang gặp phải nhiều thách thức.
Thực tế đã xảy ra nhiều vụ mất nguồn phóng
xạ, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế và
ổn định xã hội.
Trên cơ sở thực tiễn các yêu cầu về
công tác quản lý và giám sát nguồn phóng xạ
của Cục ATBXHN, Bộ Khoa học và Công
nghệ, Viện Điện tử - Viễn thông, Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội đã được giao nhiệm vụ
nghiên cứu và chế tạo thành công hệ thống
quản lý và giám sát các nguồn phóng xạ theo
thời gian thực. Việc chủ động, tự xây dựng
được hệ thống giám sát các nguồn phóng xạ có
ý nghĩa rất lớn trong an ninh, an toàn xã hội và
cả trong công tác Quốc phòng - An ninh.
Nhận thức được tầm quan trọng của
việc ứng dụng năng lượng hạt nhân nói chung
và nguồn phóng xạ nói riêng phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, Đảng và Chính phủ đã quan tâm, chỉ
đạo lĩnh vực này từ rất sớm bằng nhiều chính
sách, văn bản pháp lý và hành động cụ thể.
Chính vì vậy,nhóm nghiên cứu do Cơ quan
chủ trì Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
phối hợp với Chủ nhiệm đề tài TS. Trần
Quang Vinh cùng thực hiện.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã
nghiên cứu và chế tạo thành công hệ thống
định vị giám sát các nguồn phóng xạ theo thời
gian thực theo đề tài NCKH cấp Quốc gia, mã
số: ĐTĐLCN.01/2014/HĐ-ĐTĐL. Sản phẩm
mẫu của đề tài (sản phẩm BKRAD) đã được
thử nghiệm nhiều lần tại Trung tâm Đánh giá
không phá hủy (NDE) và Trung tâm chiếu xạ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 34/39
Hà Nội (HIC). Kết quả cho thấy hệ thống
hoạt động ổn định trong môi trường có phóng
xạ cao, cảm biến phóng xạ hoạt động tốt và
có dải đo rộng (10 μSv/h - 1000 mSv/h), thời
gian hoạt động dài bằng nguồn pin sạc được.
Kết quả của đề tài đƣợc Cục ANBXHN xác
nhận là đơn vị có khả năng thiết kế chế tạo hệ
thống quản lý giám sát an ninh nguồn phóng
xạ, bao gồm phần mềm quản lý cài đặt tại
Trung tâm giám sát và thiết bị đầu cuối gắn
trên các thiết bị chứa nguồn phóng xạ sử dụng
di động. Sản phẩm BKRAD được tích hợp
các phương pháp định vị khác nhau (GPS,
LBS, WiFi, RFID) cho phép giám sát liên tục
thiết bị chứa nguồn phóng xạ trong nhiều điều
kiện môi trƣờng khó khăn nhƣ trong nhà,
trong khu vực có nhiều công trình che chắn
hay trong hầm ngầm. Tính độc đáo của sản
phẩm còn thể hiện ở khả năng xác định và tìm
lại được nguồn phóng xạ trong trường hợp bị
mất cấp, thất lạc bằng cách sử dụng thiết bị bí
mật (Implant Tracker) gắn trên Projector.
Ngoài ra, sản phẩm còn được trang bị các
cảm biến chống tiếp cận và tháo gỡ trái phép
giúp nâng cao độ an toàn và an ninh nguồn
phóng xạ. Các sản phẩm của đề tài hoàn toàn
được thiết kế và chế tạo trong nước, phù hợp
với chủ trương nội địa hóa thiết bị hạt nhân ở
trong nước. Việc tự nghiên cứu, tự thiết kế và
chế tạo thành công thiết bị định vị giám sát
nguồn phóng xạ di động sẽ giúp cho các nhà
khoa học Việt Nam nắm bắt được các công
nghệ mới, công nghệ cao so với việc mua
thiết bị của nước ngoài, đồng thời việc sửa
chữa, xử lý hoặc khắc phục hậu quả, khắc
phục sự cố nhanh hơn nhiều so với việc khắc
phục sự cố thiết bị mua của nước ngoài. Kết
quả của đề tài cho phép chúng ta nắm được
các bí quyết công nghệ còn rất mới, khẳng
định chỗ đứng của các nhà khoa học nước ta
trong cộng đồng nghiên cứu quốc tế.
Nhóm nghiên cứu đề nghị Trường
ĐHBK Hà Nội và Bộ KHCN cho phép
chuyển giao công nghệ thiết kế chế tạo hệ
thống BKRAD cho doanh nghiệp có đủ khả
năng và năng lực để tiến hành sản xuất hàng
loạt và thương mại hóa. Đồng thời nhóm
nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu, thiết kế bổ
sung các chức năng mới cho hệ thống
BKRAD như khả năng giám sát nguồn phóng
xạ ngay cả khi Projector được vận chuyển
bằng thùng chứa chuyên dụng.
Nguồn: Vista.gov.vn, 23/11/2018
Trở về đầu trang
**************
LĨNH VỰC KHÁC
Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn “Công nghệ thông tin - Các kỹ thuật an toàn - Hướng dẫn đảm bảo sự phù hợp và đầy đủ theo phương pháp điều tra sự cố
Tình trạng xâm phạm an ninh, an toàn
mạng máy tính diễn ra rất phức tạp, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ đối với an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội. Những năm qua, hệ thống
mạng tại Việt Nam luôn được đặt trong tình
trạng báo động với rất nhiều vụ tấn công, cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng
máy tính, mạng Internet; phát tán virus, phần
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 35/39
mềm gián điệp, mã độc hại với tính chất, mức
độ ngày càng nghiêm trọng.
Điều tra các sự cố đóng vai quan trọng
để xác định chính xác những vấn đề đang xảy
ra trong hệ thống và đưa ra chứng cứ thuyết
phục về nguyên nhân gây ra sự cố. Phục hồi
chứng cứ giúp cung cấp chứng cứ về mặt
pháp lý góp phần tích cực việc điều tra, xử
phạt đối với hành vi phạm pháp của tội phạm
mạng máy tính.
Hiện nay tại Việt Nam chưa ban hành
tiêu chuẩn quốc gia nào để hướng dẫn bảo
đảm sự phù hợp và đầy đủ theo phương pháp
điều tra sự cố vì vậy với mục tiêu xây dựng
bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia về an toàn thông tin nói dung và góp phần
xây dựng hoàn thiện các tiêu chuẩn về xử lý
sự cố và điều tra số nói riêng, năm 2017,
nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Ứng cứu
khẩn cấp máy tính Việt Nam do ThS. Hoàng
Đăng Trị dẫn đầu, đã thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn “Công
nghệ thông tin - Các kỹ thuật an toàn - Hướng
dẫn đảm bảo sự phù hợp và đầy đủ theo
phương pháp điều tra sự cố”.
Mục tiêu của đề tài nhằm cung cấp
hướng dẫn về quá trình điều tra sự cố an toàn
thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp đặc biệt là các tổ chức ứng cứu sự cố
an toàn thông tin để đảm bảo rằng quá trình
điều tra được sử dụng là phù hợp và đầy đủ
cho sự cố đang được điều tra; và hoàn thiện
Bộ tiêu chuẩn quốc gia về an toàn thông tin.
Để đề tài đi vào thực tế được nhiều cơ
quan tổ chức sử dụng để bảo đảm các quy
trình điều tra được sử dụng là tích hợp cho sự
cố đang được điều tra và các kết quả đưa ra là
đạt yêu cầu thì các cơ quan tổ chức phải có
quy trình thu thập, sao chép và bảo quản bằng
chứng số (ISO/IEC 27037); quy trình quản lý
quản lý và biên tập bằng chứng số (ISO/IEC
27038), quy trình phân tích bằng chứng số
(ISO/IEC 27042), hay xác định quy trình và
nguyên tắc cốt lõi cho các cuộc điều tra
(ISO/IEC 27043). Khi các cơ quan sửa dụng
các tiêu chuẩn (ISO/IEC 27037, ISO/IEC
27043, ISO/IEC 27038, ISO/IEC 27040,
ISO/IEC 27035-1…) sẽ dùng tiêu chuẩn này
để bổ trợ và tham chiếu. Nếu nội dung nào
của tiêu chuẩn này chưa rõ ràng, hay chưa
phù hợp thì tiến hành chỉnh sửa lại để phù
hợp với điều kiện áp dụng của Việt Nam. Đặc
biệt các đơn vị chuyên trách về an toàn thông
tin của Bộ TTTT như VNCERT, Cục ATTT
phải đi đầu trong việc áp dụng, sử dụng các
quy trình điều tra này và chỉnh sửa phù với
với điều kiện của Việt Nam.
Đề tài đã thực hiện đầy đủ các nội
dung theo thuyết minh nhiệm vụ đã được phê
duyệt bao gồm:
- Dự thảo TCVN về “Công nghệ thông
tin - Các kỹ thuật an toàn - Hướng dẫn bảo
đảm sự phù hợp và đầy đủ theo phương pháp
điều tra sự cố”.
- Thuyết minh dự thảo TCVN về
“Công nghệ thông tin - Các kỹ thuật an toàn -
Hướng dẫn bảo đảm sự phù hợp và đầy đủ
theo phương pháp điều tra sự cố”.
Nguồn: Vista.gov.vn,28/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 36/39
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy hồ vải lụa tự động PGS.TS. Bùi Mai Hương
2 Nghiên cứu bào chế viên nang chứa vi hạt bao tan
trong ruột Esomeprazol 40 mg PGS. TS. Lê Hậu
Trở về đầu trang
**************
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì
Ngành Kinh tế
1 20/11/2018 Hoàn thiện việc tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo tại Kiểm toán nhà nước.
ThS. Nguyễn Mạnh
Cường, ThS. Nguyễn
Minh Thắng, Trường Đào
tạo và Bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm toán
2 20/11/2018 Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ths. Ngô Thu Thủy, Ths.
Đặng Tiến Dũng, Kiểm
toán nhà nước
3 23/11/2018
Khảo sát, đánh giá thực trạng việc xây
dựng thương hiệu và nghiện cứu, đề xuất
giải pháp phát triển thương hiệu các sản
phẩm, hàng hóa của tỉnh Tuyên Quang.
Sở Khoa học và Công
nghệ tỉnh Tuyên Quang
4 29/11/2018
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân ở thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú
Thọ giai đoạn từ 2013 đến nay.
TS. Nguyễn Thị Lan –
Trường Chính trị Phú Thọ
5 30/11/2018 Các giải pháp điều kiện nâng cao chất
lượng kiểm toán đáp ứng yêu cầu hiến định
GS.TS. Đoàn Xuân Tiên -
Kiểm toán nhà nước
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 37/39
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
6 01/11/2018
Xây dựng mô hình cảnh quan rừng cây bản
địa tại Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
PGS.TS. Trần Quốc Hưng,
Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên
7 23/11/2018
Nghiên cứu kỹ thuật trồng một số giống tỏi
của Cao Bằng để sản xuất tỏi, tỏi đen và
các sản phẩm từ tỏi đen.
ThS. Nguyễn Thị Tình -
Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên
8 23/01/2017
Nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất quy
trình phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường
biển ven bờ áp dụng thí nghiệm cho vịnh
Đà Nẵng.
TS. Phạm Ngọc Sơn -
Tổng cục Biển và Hải đảo
Việt Nam
9 26/11/2018
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững ở huyện
Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
ThS. Bùi Thị Huyền –
Trường Chính trị Phú Thọ
10 28/11/2018
Nghiên cứu ứng dụng GIS và viễn thám
vào hỗ trợ xác định độ sâu vùng nước nông
ven bờ các đảo khó tiếp cận thuộc khu vực
quần đào Trường Sa.
Thiếu tá ThS. Phan Quốc
Yên - Viện Kỹ thuật Công
trình
11 28/11/2018
Ứng dụng công nghệ GIS và viễn thám xây
dựng bản đồ nguy cơ lũ ống, lũ quét và đề
xuất giải pháp ứng phó nhanh trong và sau
lũ.
Thiếu tá ThS Nguyễn Thị
Thu Nga - Viện Kỹ thuật
Công trình
Ngành Giáo dục đào tạo
12 13/11/2018 Phát triển năng lực tư vấn tâm lí cho giáo
viên chủ nhiệm ở trường Trung học cơ sở.
TS. Hoàng Gia Trang -
Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam
13 14/11/2018 Nghiên cứu kĩ năng xã hội của trẻ mẫu
giáo.
TS. Chu Thị Hồng Nhung
- Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam
14 15/11/2018
Nghiên cứu các bài học kinh nghiệm từ mô
hình trường học mới Việt Nam – VNEN và
đề xuất các giải pháp chỉ đạo trong thời
gian tới.
PGS.TS. Nguyễn Đức
Minh - Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam
15 15/11/2018 Nghiên cứu đề xuất mô hình giáo dục học
sinh cá biệt.
ThS. Mạc Thị Việt Hà -
Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 38/39
16 16/11/2018
Nghiên cứu, xây dựng bộ công cụ đánh giá
hiệu quả công tác của giáo dục mầm non,
phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp.
TS. Trịnh Thị Anh Hoa -
Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam
17 22/11/2018
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo của cấp ủy các đảng bộ
xã, thị trấn ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú
Thọ giai đoạn hiện nay.
ThS. Hoàng Thị Phương
Thảo – Trường Chính trị
tỉnh Phú Thọ
18 22/11/2018 Đào tạo nguồn nhân lực du lịch tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu trong thời đại 4.0.
TS. Võ Thị Thu Hồng -
Trường Đại học Bà Rịa –
Vũng Tàu
19 23/11/2018
Nghiên cứu xây dựng chương trình, biên
soạn tài liệu phục vụ ôn thi sát hạch cấp
chứng chỉ hành nghề đấu thầu.
Viện Kinh tế xây dựng và
đô thị
20 29/11/2018
Cơ sở khoa học của việc tổ chức lại giáo
dục sau trung học của Việt Nam trong xu
thế hội nhập quốc tế.
ThS. Đào Thanh Hải -
Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam
Ngành văn hóa xã hội
21 05/11/2018
Tri thức tộc người trong việc ứng phó với
biến đổi khí hậu của người Kinh và Khơ-
me ở tỉnh Cà Mau.
TS. Nguyễn Công Thảo -
Viện Dân tộc học
22 05/11/2018 Sinh kế bền vững của người Khơ - me ở
Sóc Trăng..
ThS. Vũ Đình Mười -
Viện Dân tộc học
23 05/11/2018
Ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa tới
chăm sóc sức khỏe của hai tộc người Cống
và Sila ở Lai Châu.
TS. Lê Minh Anh, ThS.
Hoàng Thị Lê Thảo - Viện
Dân tộc học
24 06/11/2018 Đặc trưng văn hóa của hai dân tộc Lô Lô và
Cờ Lao ở vùng biên giới tỉnh Hà Giang.
TS. Trần Thị Mai Lan,
ThS. Đoàn Việt - Viện
Dân tộc học
25 06/11/2018
Chính sách giao đất giao rừng cho người
Thái ở vùng tái định cư thủy điện Sơn La,
tỉnh Sơn La.
TS. Phạm Quang Linh -
Viện Dân tộc học
26 28/11/2018
Nâng cao hiệu lực công tác Đảng, công tác
chính trị trong bảo đảm an toàn bay của
Quân chủng PK-KQ hiện nay.
TS Nguyễn Văn Hùng -
Học viện Phòng Không -
Không quân
27 09/11/2018 Nghiên cứu, biên soạn, xuất bản Địa chí
thành phố Tuyên Quang. Thành ủy Tuyên Quang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 12/2018 39/39
28 29/11/2018 Vai trò của người Việt trong phát triển kinh
tế ở vùng biên giới Việt Trung..
Th.S Tạ Thị Tâm - Viện
Dân tộc học
29 29/11/2018 Một số vấn đề về tôn giáo, tín ngưỡng ở
Việt Nam hiện nay.
TS. Trịnh Thị Lan, TS.
Trần Thị Hồng Yến - Viện
Dân tộc học
30 29/11/2018 Một số vấn đề về chính sách dân tộc ở nước
ta hiện nay.
ThS. Vũ Tuyết Lan, ThS.
Nông Bằng Nguyên - Viện
Dân tộc học
31 30/11/2018
Biến đổi sinh kế của người dân xã Hoàng
Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam dưới
tác động của đô thị hóa.
ThS. Phạm Thị Thu Hà,
TS. Nguyễn Thị Tám -
Viện Dân tộc học
32 30/11/2018
Sinh kế của một số tộc người thiểu số tại
chỗ ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa
Thiên Huế trong bối cảnh hiện nay.
ThS. Phạm Thị Hà Xuyên
và TS. Bùi Bích Lan -
Viện Dân tộc học
33 30/11/2018 Gia đình của người Tày ở huyện Lộc Bình,
tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
NCS. Tạ Hữu Dực, TS. Lê
Thị Mùi - Viện Dân tộc
học
34 15/11/2018
Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm trộm cắp tài sản bằng thủ
đoạn đột nhập trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thiếu tướng Bùi Tuyết
Minh - Công an tỉnh Kiên
Giang
Trở về đầu trang
Top Related