XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN...
Transcript of XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN...
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THÙY DUNG
XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THÙY DUNG
XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thoa
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thoa.
Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực; những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thuỳ Dung
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn đến quý thầy, cô giảng viên Khoa Báo
Chí & Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân Văn đã tận tình giảng dạy
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình theo học chương trình Cao học Báo chí tại Khoa.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thoa đã tận tâm
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phóng viên, biên tập viên ba cơ quan
báo điện tử Dân trí, Vietnamnet, VnExpress đã hỗ trợ thông tin và chia sẻ kinh
nghiệm trong quá trình tác nghiệp, khai thác, thu thập và xử lý thông tin về trẻ vị
thành niên phạm pháp để viết bài đăng tải phục vụ công chúng, giúp tôi có được
những kết quả khảo sát thực tế trong luận văn này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã cố gắng để hoàn thành luận
văn thật tốt. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong muốn tiếp tục nhận được sự góp ý, chỉ
dẫn chân thành của quý thầy, cô giảng viên và các bạn đồng nghiệp nhằm bổ sung,
hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Phạm Thị Thuỳ Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ....................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TINVỀ TRẺ VỊ
THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP ................................................................................ 11
1.1. Báo điện tử ........................................................................................................ 11
1.1.1. Một số khái niệm ............................................................................................. 11
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử .................................................................. 12
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử ................................................................................ 14
1.1.4 Xử lý thông tin trên báo điện tử ....................................................................... 17
1.2 Thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp ..................................................... 21
1.2.1 Trẻ vị thành niên .............................................................................................. 21
1.2.2 Trẻ vị thành niên phạm pháp ........................................................................... 22
1.2.3 Thực trạngphạm pháp của trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay ..................... 24
1.3 Cơ sở pháp lý và đạo đức khi thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp .......... 27
1.3.1 Những quy định về luật .................................................................................... 27
1.3.2 Yếu tố lợi nhuận kinh tế và đạo đức nhà báo ................................................... 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TRẺ VỊ THÀNH
NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ(Khảo sát 3 tờ báo: Dantri.com.vn,
Vnexpress.net, tuoitre.vn) ........................................................................................ 34
2.1. Vài nét về các tờ báo điện tử thuộc diện khảo sát ......................................... 34
2.1.1. Báo Dantri.com.vn .......................................................................................... 34
2.1.2. Báo VnExpress.net .......................................................................................... 35
2.1.3. Báo Tuoitre.vn ................................................................................................. 36
2.2. Tần suất xuất hiện và mức độ quan tâm của độc giả về những sự kiện chọn
khảo sát..................................................................................................................... 38
2.3. Thực trạng về cách thức xử lý thông tin ........................................................ 43
2.3.1 Thu thập và lựa chọn thông tin cốt lõi ............................................................. 43
2.3.2 Kiểm chứng, “chế biến, cải tạo” thông tin ...................................................... 46
2.3.3 Xử lý thông tin .................................................................................................. 50
2.4. Thực trạng nội dung thông tin ........................................................................ 55
2.4.1. Về nguyên nhân gây án ................................................................................... 55
2.4.2 Về cách thức gây án ......................................................................................... 58
2.4.3. Về Bản án ........................................................................................................ 60
2.4.4. Các thông tin liên quan tới phạm nhân sau khi bị tuyên án ........................... 62
2.4.5. Các thông tin về nạn nhân với 24 tin, bài (chiếm 9,2%) ................................ 63
2.4.6 Ảnh hưởng của vụ việc đối với xã hội .............................................................. 64
2.5. Thực trạng hình thức thể hiện ........................................................................ 66
2.5.1. Các thể loại báo chí ........................................................................................ 66
2.5.2. Bố cục, trình bày ............................................................................................. 68
2.6. Đánh giá chung ................................................................................................. 70
2.6.1. Thành công ...................................................................................................... 70
2.6.2. Những hạn chế ................................................................................................ 72
2.6.3. Nguyên nhân hạn chế ...................................................................................... 76
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN VỀ TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ......... 80
3.1 Giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
trên báo điện tử ở Việt Nam ................................................................................... 80
3.1.1 Hoàn thiện luật pháp, chính sách quản lý ....................................................... 80
3.1.2. Đẩy mạnh hoạt động định hướng đưa tin của các toà soạn ........................... 82
3.1.3 Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ của nhà báo ...................... 86
3.1.4 Nâng cao đạo đức nghề nghiệp người làm báo ............................................... 88
3.1.5 Giải pháp đối với Tổng biên tập, Ban biên tập ................................................ 90
3.2 Đề xuất – Kiến nghị ........................................................................................... 96
3.2.1 Đối với đội ngũ lãnh đạo các toà soạn báo điện tử ......................................... 96
3.2.2. Đối với nhà báo phụ trách chuyên mục .......................................................... 97
3.2.3 Đối với phóng viên ........................................................................................... 97
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104
PHỤ LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài về 5 vụ án tác giả lựa chọn khảo sát
trên ba tờ báo mạng điện tử Dantri.com, Vnexpress.net và Tuoitre.vn .................... 38
Biểu đồ2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ xuất hiện thông tin liên quan đến các vụ án được
khảo sát ...................................................................................................................... 39
Biểu đồ2.3: Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến vụ án Nguyễn Công Bảo ...... 41
Biểu đồ2.4: Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến vụ án Nguyễn Khả Đạt ......... 43
Biểu đồ2.5. Biểu đồ thể hiện thông tin liên quan đến các vụ án tiến hành khảo sát . 44
Biểu đồ2.6: Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài liên quan đến vụ án do Lê Văn Luyện
thực hiện tại Bắc Giang ............................................................................................. 46
Biểu đồ2.7. Biểu đồ thể hiện số lượng tin, bài thông tin về cách thức gây án của các
vụ án được khảo sát ................................................................................................... 58
Biểu đồ2.8. Biểu đồ thể hiện thông tin các bản án của 5 vụ án tiến hành khảo sát .. 60
Biểu đồ 2.10: Tỷ lệ số lượng thể loại tin so với các thể loại báo chí khác trên 3 trang
báo điện tử được khảo sát .......................................................................................... 66
Biểu đồ 2.11: Mức độ hài long của độc giả đối với các nội dung liên quan đến pháp
luật trên 3 tờ báo điện tử được khảo sát .................................................................... 73
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
BLDS Bộ luật Dân sự
BLHS Bộ luật Hình sự
Bộ TT&TT Bộ Thông tin và Truyền thông
CNTT Công nghệ thông tin
ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
NXB Nhà xuất bản
PGS, TS Phó Giáo sư, Tiến sĩ
PR (Public relations) Quan hệ công chúng
TS Tiến sĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, các loại tội phạm xã hội, nhất là tội trộm cắp tài sản, cướp
giật, chống người thi hành công vụ, giết người… diễn biến hết sức phức tạp. Đối
tượng phạm tội đang có xu hướng ngày càng trẻ hóa, trong đó có nhiều trường hợp
chỉ mới ở tuổi vị thành niên. Hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội
ngày càng nghiêm trọng. Lý giải vấn đề này ở góc độ xã hội, PGS.TS Tâm lý học
Huỳnh Văn Sơn, Phó Chủ tịch Hội Tâm lý học xã hội Việt Nam cho biết: Những
biểu hiện phạm tội này đã đến lúc cần phải được nhìn nhận nghiêm túc từ nhiều góc
cạnh và không thể thiếu sự quan tâm đích thực trên bình diện nghiên cứu và truyền
thông hệ thống. Đặc biệt, thái độ rất lạnh lùng, sự nhận thức đúng về hành vi phạm
tội nhưng đối tượng vẫn phạm tội, phạm tội rất dã man, phạm tội với chính người
thân của mình là vấn đề trăn trở… Bằng cảm quan cũng có thể thấy tội phạm ngày
càng trẻ hóa, thủ đoạn phạm tội ngày càng ghê rợn hơn, tinh vi hơn, ác độc hơn,
phạm vi phạm tội rộng hơn.
Theo con số thống kê của Bộ Công an, bình quân mỗi năm cả nước có hơn
10.000 vụ án, với hơn 15.000 đối tượng là trẻ vị thành niên phạm tội. Nếu trước đây,
trẻ vị thành niên thường có các hành vi như: trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố
ý gây thương tích… thì một vài năm trở lại đây, tình hình đã diễn biến theo chiều
hướng nguy hiểm hơn: giết người, cướp của, hiếp dâm, mua bán ma tuý… thậm chí,
học sinh còn tụ tập thành nhiều băng nhóm, dùng hung khí để giải quyết mâu thuẫn.
Tại cuộc hội thảo khoa học trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật “Thực trạng và
giải pháp” tổ chức tại Trường giáo dưỡng số 4 vào tháng 5/2014, nhiều đại biểu cho
rằng, việc trang bị kỹ năng sống là rất cần thiết để giúp các em điều chỉnh suy nghĩ,
hành vi của mình. Trước đây, việc giáo dục trẻ em trong gia đình và nhà trường đôi
lúc bị coi nhẹ, dẫn đến hành vi ứng xử của một bộ phận trẻ em trong cộng đồng bị
xuống cấp về đạo đức.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, cần xem xét ở mức độ nào đó về
quy định xử lý, chế tài xử lý với vị thành niên làm trái pháp luật, để làm sao đủ sức
răn đe, phòng ngừa chung, tránh tình trạng “nhờn” luật trong một bộ phận giới trẻ.
2
Đi tìm nguyên nhân sâu xa của trẻ vị thành niên phạm tội có thể thấy một thực tế
hiện nay cũng rất đáng quan tâm và được xem là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những vụ án đau lòng, đó chính là việc quản lý văn hóa phẩm, phim, ảnh và
Internet.
Hiện nay trên các phương tiện truyền thông đại chúng, dù là loại hình báo in,
báo phát thanh, báo hình, báo điện tử đều có những tin, ảnh, bài viết liên quan tới
trẻ em, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Vì thế, có thể thấy trong cuộc sống, trong xã
hội, hình ảnh trẻ em luôn luôn hiện hữu khắp nơi và tác động của xã hội tới trẻ em
như thế nào thì hình ảnh trẻ em trong báo chí cũng tương tự như vậy, khi là chủ thể,
khi là khách thể, khi chủ động, khi bị động, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Chính từ đó,
thông tin về trẻ em luôn là một lĩnh vực cần được cẩn trọng trong cả cách khai thác
đề tài, cách viết, cách đưa tin lên mặt báo. Trẻ em rất trong sáng, dễ đọc, dễ tin và
những ấn tượng ban đầu dễ bị hằn sâu trong tâm hồn và có thể định hướng cách
nghĩ, cách sống sau này của trẻ. Tuy nhiên, vì lý do nào đó, có những người vẫn cố
tình khai thác những gì có lợi nhất trong thông tin liên quan đến trẻ em, đến hình
ảnh trẻ em, đến các vấn đề trẻ em một cách đầy dụng ý. Không ít những trường hợp
vì hám lợi trước mắt, để câu khách hoặc vì sơ suất, thiếu cẩn trọng mà tờ báo – nhà
báo đã vi phạm những nguyên tắc trong việc thông tin, gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực tới danh dự, nhân phẩm và tâm lý của các em.
Kỹ năng đưa tin về trẻ em là một thách thức không nhỏ đối với giới báo chí
truyền thông, bởi người lớn đã có đầy đủ khả năng nhận thức và hiểu biết nên phải
chịu trách nhiệm trước những phát ngôn và hành động của mình nhưng trẻ vị thành
niên dễ bị tổn thương về tinh thần do nhận thức còn quá non nớt, chưa thể kiểm soát
được hành vi của mình và chưa đủ bản lĩnh, sự vững vàng về tâm lý để vượt qua
những áp lực của xã hội. Vì vậy, báo chí không những cần đưa tin về trẻ em một
cách công bằng, chính xác mà cũng cần có những thông tin mang tính chất định
hướng, hoặc thể hiện tính răn đe, giáo dục, bảo vệ để trẻ vị thành niên làm lại cuộc
đời, vượt qua áp lực xã hội để trở thành người tốt.
Xuất phát từ việc nhận thức được những hạn chế của báo chí khi thông tin về
trẻ em và tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, tác giả
3
mạnh dạn chọn: “Xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử”
làmđề tài cho luận văn thạc sĩ báo chí truyền thông của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, các vấn đề: mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em, trẻ em với báo chí
truyền thông… ngày càng nhận được sự quan tâm của xã hội ở nhiều khía cạnh
khác nhau, trong đó vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống, hành vi cũng như ý thức
pháp luật cho trẻ vị thành niên được đặc biệt quan tâm. Xung quanh vấn đề này, báo
chí nước ngoài cũng như ở nước ta cũng đã có một số bài viết, công trình nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Liên quan tới vấn đề này, tác giả xin đề cập một số
công trình nghiên cứu sau:
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài trẻ em với báo chí
truyền thông.Trong cuốn sách “Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em”
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) tác giả Helena Thorfinn (Thuỵ Điển) đã
đặt ra vấn đề đạo đức nghề nghiệp và mối quan hệ giữa trẻ em với truyền
thông.Theo tác giả, ở Tây bán cầu, thời gian trung bình một trẻ em dành cho các
phương tiện truyền thông còn nhiều hơn thời gian ở bên cha mẹ chúng.Truyền
thông vừa là người bạn thân thiết nhất nhưng đồng thời cũng là kẻ thù lạnh lùng
nhất của các em.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài trẻ em, như:
Trong cuốn “Sổ tay phóng viên báo chí với trẻ em” do PGS,TS Nguyễn Văn
Dững chủ biên, NXB Lao động xuất bản lần đầu năm 2001 và tái bản năm 2006 và
cuốn giáo trình nghiệp vụ “Phóng viên báo chí với trẻ em” cũng do PGS,TS
Nguyễn Văn Dững chủ biên, NXB Lao động năm 2004 có thể được coi là một trong
những công trình đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em. Cả hai
cuốn sách đều cung cấp những thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tổng
quát về báo chí trẻ em, đề cập tới những vấn đề kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
của một số nhà báo về báo chí với trẻ em ở Việt Nam.
Cuốn sách “Nhà báo với trẻ em – Kiến thức và kỹ năng” (NXB Thông tấn,
Hà Nội, (2014) của TS. Nguyễn Ngọc Oanh, giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền đã tập trung nghiên cứu kỹ năng làm báo cho trẻ em, trên cơ sở nghiên cứu,
4
khảo sát thực trạng kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về đề tài trẻ em. Đây là công
trình đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và chuyên sâu, thiết lập hệ
thống khái niệm, khung lý thuyết về kỹ năng làm báo cho trẻ em, cũng như các yếu
tố tác động đến quá trình hình thành kỹ năng làm báo cho trẻ em; đưa ra cơ sở khoa
học và thực tiễn của kỹ năng tiếp cận, giải quyết đề tài trẻ em dựa trên quyền (chứ
không chỉ dựa trên nhu cầu). Công trình này xem xét trẻ em không chỉ là đối tượng
phản ánh, đối tượng hưởng thụ các sản phẩm, mà còn là đối tượng tham gia sáng tạo
sản phẩm báo chí; xác định trẻ em là nhóm công chúng đặc thù, đồng thời là chủ thể
sáng tạo các sản phẩm báo chí. Dù có những đóng góp nhất định, song những công
trình nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu vào phân tích kỹ năng làm báo về đề tài trẻ em,
mà chưa đề cập đến thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo chí cũng như
hiệu quả giáo dục pháp luật của thông tin đó tới toàn xã hội hiện nay.
Trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học đưa tin về trẻ em và đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo”, Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí – Hội Nhà báo Việt Nam và
Tạp chí Nghề báo – Hội Nhà báo thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức vào
tháng 8/2013 tại Thành phố Hồ Chí Minh, các bài viết, các tham luận của các nhà
báo, các nhà quản lý báo chí đã tập trung trao đổi, thảo luận những nội dung chính:
Nguyên tắc cơ bản khi đưa tin về trẻ em (ví dụ: phỏng vấn trẻ em, sử dụng hình ảnh
của trẻ em trên báo chí); Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn khi đưa tin về trẻ em
của các cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay; Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo khi đưa tin về trẻ em liên quan đến các vấn đề như trẻ em bị xâm hại, bị lạm
dụng, vấn đề HIV và các tệ nạn xã hội liên quan đến trẻ em, bạo lực học đường và
những vấn đề liên quan đến giáo dục ở trường học, vấn đề đời tư và hoàn cảnh gia
đình của trẻ em, các ngôn từ khiêu dâm, tình dục hoá trẻ em trên báo chí, vấn đề
thẩm định nguồn tin khi viết về trẻ em và vấn đề cải chính thông tin sai sự thật, xúc
phạm trẻ em…
Đã có một số khoá luận, luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí truyền thông
nghiên cứu về đề tài trẻ em, như:
- Luận văn Thạc sỹ: “Tạp chí Thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta
hiện nay” của tác giả Trần Hương Giang, năm 2004. Tác giả nêu lên được vai trò
5
của Tạp chí Thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ, nhưng đề tài này còn chung
chung chứ chưa đi sâu phân tích một nội dung cụ thể nào.
- Đề tài khoa học: “Một số vấn đề giáo dục đạo đức lối sống trong thanh
thiếu niên hiện nay” của PTS Chu Xuân Việt – Uỷ ban Thanh niên Quốc gia –
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, năm 1998. Đề tài đã nêu lên một số biểu
hiện lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của thanh niên, đồng thời đưa ra tính cấp
thiết của vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống và những giải pháp để tăng cường hiệu
quả giáo dục.
- Luận văn Thạc sĩ: “Khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại
chúng đối với việc hình thành lối sống của thanh niên sinh viên hiện nay” của tác
giả Hoàng Thị Xuân Quý, năm 1999 tại Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Đề tài
đã đề cập đến những vấn đề làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các phương tiện thông tin
đại chúng và việc hình thành lối sống của thanh niên, sinh viên cũng như khả năng
tác động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc hình thành lối sống tích
cực của thanh niên, sinh viên.
- Luận văn Thạc sĩ: “Vấn đề tuyên truyền giáo dục lối sống cho thanh niên
sinh viên trên các Báo Thanh niên” của tác giả Trần Thị Hiền năm 1999 tại Phân
viện Báo chí và Tuyên truyền. Nội dung luận văn đã đề cập đến vai trò của báo chí
Trung ương Đoàn với việc tuyên truyền – phản ánh những mặt tích cực và tiêu cực
trong lối sống của thanh niên, sinh viên hiện nay, từ đó đặt ra những đòi hỏi cần
nâng cao chất lượng tuyên truyền giáo dục cho đối tượng này.
- Luận văn Thạc sĩ: “Giáo dục thiếu niên nhi đồng trên sóng của Đài truyền
hình Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thu Hương, năm 2005, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng các chương trình giáo dục trên
VTV2 dành cho thiếu niên nhi đồng, tác giả đã tìm ra những giải pháp để nâng cao
hơn nữa chất lượng của chương trình.
- Luận văn Thạc sĩ: “Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo chí
hiện nay” của tác giả Trần Thị Dung năm 2007 tại Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Đề tài đã đề cập tới tất cả những mặt tích cực và hạn chế từ nội dung, hình
thức đến phương pháp giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên.Luận văn đề cập
6
một cách cơ bản về vai trò của Báo Thiếu niên Tiền phong và Hoa học trò trong
công tác giáo dục nhân cách cho thiếu niên. Đề tài chỉ ra rằng, báo chí không chỉ
tuyên truyền mà còn đóng vai trò giáo dục và định hướng nhân cách cho Thiếu niên
Nhi đồng, chỉ cho các em con đường đi, định hướng cho các em sống theo những
giá trị cuộc sống tốt đẹp hơn, phù hợp với xu thế thời đại.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận ở những góc độ
khác nhau đối với đề tài trẻ em. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu
vấn đề xử lý thông tin về trẻ em phạm pháp trên báo chí nói chung, trên báo điện tử
nói riêng. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn hoàn toàn mới, không trùng
lặp với các công trình đã có từ trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá thực trạng (thành công và hạn
chế)vấn đề xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháptrên báo điện tử hiện nay,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm thay đổi vànâng cao hơn nữa chất lượng xử lý
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát hệ thống những lý luận chungliên quan đến báo điện tử, chức
năng thông tin trên báo điện tử và cách xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm
pháp trên báo điện tử hiện nay;
- Phân tích thực trạng đồng thời chỉ ra nguyên nhân của thành công và hạn chế
trong việc xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử hiện nay qua
khảo sát chuyên mục pháp luật của 3 tờ báo Dân trí, VnExpress và Tuổi trẻ Online;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi và nâng cao hơn nữa chất lượng xử
lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Tác giả tập trung vào kỹ năng xử
lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp của các nhà báo. Theo đó, tác giả luận
7
văn tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của việc xử lý thông tin về trẻ
vị thành niên phạm pháp của các nhà báo. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên
báo điện tử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu cách thức xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp trên chuyên mục pháp luật của 3 tờ báo Dân Trí, VnExpress và Tuổi trẻ
Online.
Tuy nhiên, vì số lượng báo điện tử thông tin các vụ việc liên quan đến pháp luật
tương đối nhiều, đặc biệt là những thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp, do đó
tác giả luận văn chỉ tiến hành khảo sát thực trạng xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp giới hạn trong 5 vụ việc khá điển hình, được dư luận đặc biệt quan tâm:
+ Vụ án Lê Văn Luyện thảm sát tiệm vàng Ngọc Bích (Bắc Giang) năm
2011;
+ Vụ án My “sói” cầm đầu đường dây chuyên hiếp dâm các bé gái (Hà
Nội)(năm 2011);
+ Vụ án Nguyễn Công Bảo (15 tuổi) giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh (năm
2015);
+ Vụ Lê Tuấn Anh (SN 1995, trú tại xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương,
Thanh Hoá) 18 năm tù giam về tội “hiếp dâm” và “giết người”(năm 2012);
+ Vụ án nghịch tử Nguyễn Khả Đạt giết chết mẹ và giấu xác vào lu ở Kiên
Giang(năm 2015).
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 – 2015.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Khi thực hiện luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận báo chí truyền thông
nói chung, về báo điện tử nói riêng; dựa trên đường lối, chính sách của Đảng, nhà
nước về báo chí; về chính sách đối với trẻ em, về pháp luật đối với trẻ em; dựa trên
cơ sở lý luận của các khoa học liên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
8
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ, tác giả sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp văn bản, tài liệu: Đây là phương pháp
được tác giả sử dụng để làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình từ việc tổng hợp tài
liệu, văn bản và phân tích văn bản để đánh giá thực trạng cũng như chỉ ra nguyên
nhân vì sao báo điện tử hiện nay khai thác, phản ánh nhiều về thông tin trẻ vị thành
niên phạm pháp trên báo;
- Phương pháp thống kê: Thống kê tần suất xuất hiện các bài viế có nội dung
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp ở chuyên mục Pháp luật được đăng tải trên
3 tờ báo điện tử: Dân Trí, VnExpress và Tuổi trẻ Online, cụ thể là thống kê số bài
viết về 5 vụ án điển hình (vụ án Lê Văn Luyện, vụ án Nguyễn Khả Đạt, vụ án My
“sói”, vụ án Nguyễn Công Bảo và vụ án Lê Tuấn Anh) để từ đó rút ra những ưu
điểm và mặt hạn chế trong quá trình xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để
nghiên cứu nội dung thông tin trong từng tác phẩm báo chí, để nhận diện thực trạng
các báo điện tử xử lý thông tin về trẻ em phạm pháp ra sao? Từ đó đánh giá được
những thành công và hạn chế của các báo điện tử trong công việc này. Phương pháp
này giúp cho người nghiên cứu nắm được các phương pháp của các nghiên cứu đã
thực hiện trước đây, có thêm kiến thức sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu và làm rõ
hơn đề tài nghiên cứu của mình. Phương pháp bao gồm việc thống kê, hệ thống,
phân tích, so sánh các tài liệu liên quan đến xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp trên báo điện tử.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:Tác giả tiến hành phỏng vấn qua email đối với
5 người. Đối tượng phỏng vấn là lãnh đạo cơ quan báo chí cụ thể là TS Trần Bá
Dung, Trưởng Ban Nghiệp vụ Hội Nhà báo Việt Nam; 1 người là Tổ trưởng Tổ
phóng sự điều tra cùng 3 phóng viên đang đảm nhận vai trò phụ trách sản xuất tin,
bài ở mảng pháp luật, nhằm lấy ý kiến của họ đánh giá báo điện tử xử lý thông tin
về trẻ vị thành niên phạm pháp ra sao? Có vướng mắc gì, khó khăn gì trong quá
trình xử lý thông tin?...
9
- Phương pháp điều tra xã hội học:tác giả sử dụng Bảng hỏi ý kiến đối với
công chúng để thấy được hiệu quả của thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên
báo điện tử hiện nay. Tổng số phiếu phát ra là 300 phiếu, thu về 297 phiếu hợp lệ.
Để xử lý kết quả thu được, tác giả sử dụng phần mềm SPSS (Statistical Package for
the Social Sciences). SPSS được sử dụng rộng rãi trong công tác thống kê xã hội.
Đây là phần mềm chuyên dụng và phổ biến để phân tích các kết quả điều tra trong
mọi lĩnh vực, từ xã hội, giáo dục, kinh tế,…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận:
Luận văn sẽ góp phần hệ thống hoá lý luận về báo điện tử, cụ thể là nội dung
thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện tử - một trong những vấn đề
nóng trên báo điện tử hiện nay; đồng thời nêu ra những yêu cầu cần thiết đối với
những người làm báo điện tử để tối ưu hoá việc cung cấp thông tin có chất lượng,
đạt hiệu quả giáo dục cho công chúng báo điện tử trong thời gian tới.
6.2. Về mặt thực tiễn:
Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi những mặt tồn tại, hạn chế cũng như
tác hại của việc báo điện tử thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp trên báo điện
tử hiện nay nhằm nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông
tin của độc giả cũng như nâng cao hiệu quả giáo dục của các tin, bài viết về trẻ vị
thành niên phạm pháp.
Kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp ích cho việc phát triển nghề của
những người làm báo điện tử chuyên nghiệp, có đạo đức, nhân văn và là nguồn tài
liệu quan trọng cho các sinh viên chuyên ngành báo điện tử cũng như những người
quan tâm tới lĩnh vực này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận báo điện tử xử lý thông tin về trẻ vị thành niên
phạm pháp
10
Chương 2: Thực trạng việc xử lý thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
trên báo điện tử
Chương 3: Giải phápnâng cao chất lượngthông tin về trẻ vị thành niên phạm
pháp trên báo điện tử ở Việt Nam.
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO ĐIỆN TỬ XỬ LÝTHÔNG TIN
VỀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP
1.1. Báo điện tử
1.1.1. Một số khái niệm
Thế kỷ 19 là thế kỷ thống trị của báo in. Sang thế kỷ 20, phát thanh, truyền
hình lại chiếm lĩnh ngôi vị thống trị cùng với đài radio và tivi. Từ cuối thế kỷ 20,
đầu thế kỷ 21, mạng Internet ra đời và phát triển đã có tác động mạnh mẽ tới mọi
mặt của đời sống con người và báo chí cũng không nằm ngoại lệ. Hệ quả tất yếu là
một sản phẩm kết hợp giữa báo chí – Internet: báo điện tử ra đời, đã và đang làm
thay đổi không nhỏ bộ mặt của báo chí thế giới, trong đó có Việt Nam.
Dù ra đời sau nhưng báo điện tử ngày càng chứng minh sức lan toả toàn thế
giới của mình nhờ tích hợp được những ưu thế của các loại hình báo chí,có thể đảm
đương nhiệm vụ của cả phát thanh, truyền hình, báo in một cách đầy đủ và dễ dàng.
Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông tin
được truyền tải và tiếp nhận qua mạng Internet vẫn chưa thống nhất, đang tồn tại
nhiều tên gọi khác nhau như: báo mạng điện tử (Học viện Báo chí và Tuyên truyền),
báo điện tử (Đại học KHXH&NV TP. Hà Nội), báo trực tuyến (Đại học
KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh); báo mạng hay báo Internet(xã hội quen dùng).
Theo cách hiểu của tác giả luận văn, báo điện tử với tư cách là một loại hình
báo chí tồn tại dưới dạng một trang web và phát hành dựa trên nền tảng Internet, có
ưu thế trong chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện và
mang tính tương tác cao. Báo điện tử được xuất bản bởi toà soạn điện tử, còn người
đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng… có kết nối Internet.
Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng vì
nó không phụ thuộc vào không gian, thời gian. Sự phát triển của báo điện tử đã làm
thay đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển của báo giấy
truyền thống.
Trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “Báo Điện tử” được quy
định trong Khoản 6, Điều 3, Chương 1 của Luật Báo chí (năm 2016): “Báo điện tử
12
là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi
trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử” [34, tr.9].
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của báo điện tử
1.1.2.1 Khả năng đa phương tiện
Khả năng đa phương tiện trên báo điện tử là sự kết hợp nhiều loại phương
tiện (ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) đề thực hiện và tạo nên một sản phẩm báo chí.
Một sản phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện khi nó tích hợp nhiều
trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: văn bản (text), hình ảnh tĩnh (still
image), hình ảnh động (animation), đồ hoạ (graphic), âm thanh (audio), video, và
các chương trình tương tác (interactive programs).
Trên một sản phẩm báo điện tử, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu của từng
toà soạn mà việc sử dụng các yếu tố đa phương tiện cũng khác nhau. Trong nhiều
trường hợp, một thông tin có thể được truyền tải bằng nhiều phương tiện để người
đọc có thể tiếp cận và lựa chọn, nhưng nhiều trường hợp khác nhà báo sẽ quyết định
hình thức truyền tải nào là phù hợp với nội dung thông điệp. Nhờ vậy, các sản phẩm
của báo điện tử ngày càng hấp dẫn, thu hút nhiều hơn sự quan tâm của công chúng
[17, tr.122-123].
1.1.2.2 Tính tức thời và phi định kỳ
Là loại hình báo chí đại diện cho thời đại của thông tin, báo điện tử có khả
năng cập nhật cao, có thể thấy là cao nhất trong tất cả các loại hình báo chí truyền
thống khác. Ví dụ: để đọc những thông tin tiếp theo của báo in, bạn đọc phải chờ tới
số sau, có thể là ngày hôm sau (nhật báo), cũng có thể là tuần sau (tuần báo), vì báo
in còn phụ thuộc vào tính định kỳ, thời gian in ấn và phát hành. Còn để tiếp nhận tin
tức trên phát thanh, truyền hình thì khán, thính giả không phải chờ lâu như thế
nhưng lại phụ thuộc vào khung giờ, thời lượng phát sóng, thời gian tuyến tính và kỹ
thuật. Trong khi đó, trên báo điện tử, bạn đọc gần như không phải chờ đợi. Bất kể
thông tin diễn ra ở đâu, thời gian nào, chỉ cần một máy tính xách tay hoặc điện thoại
smartphone có kết nối Internet, các phần mềm phụ trợ (phần mềm tải âm thanh,
hình ảnh…) thì sự kiện xảy ra phóng viên có thể cập nhật tin bài ngay tức khắc. Khi
vừa đăng bài xong, có thông tin mới lại có thể dễ dàng cập nhật thêm mà không gặp
bất cứ khó khăn gì.
13
Báo điện tử vượt qua các rào cản mà các loại hình báo chí khác gặp phải, nội
dung thông tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang báo, thời lượng phát sóng
hay thời gian tuyến tính, quy trình sản xuất thông tin lại đơn giản, dễ dàng nên có
thể cập nhật, bổ sung bất cứ lúc nào với số lượng là bao nhiêu. Thông tin trên báo
điện tử có thể sống động, nóng hổi đến từng giờ, từng phút, thậm chí là từng giây
[17, tr.145-147].
1.1.2.3 Tính tương tác
Trước khi báo điện tử ra đời, tính tương tác trong hoạt động báo chí đơn giản
là sự tác động qua lại giữa cơ quan báo chí, nhà báo với người tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của báo điện tử đã làm cho tương tác trong hoạt động báo
chí được mở rộng, có nhiều hình thức hơn và giảm đi những hạn chế của các hình
thức tương tác cũ.
Đối với báo điện tử, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cao, bạn đọc có thể gửi thư
điện tử (e-mail) phản hồi ngay tới từng bài báo, từng tác giả và toà soạn bằng những
thao tác hết sức đơn giản, thuận tiện. Cũng nhờ vào khả năng tương tác, báo điện tử
có thể thiết lập được các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu (vote) giúp cho
công tác điều tra xã hội học trở nên vô cùng đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng.
Báo điện tử còn cho phép những đoạn video cũng có tính tương tác hai chiều,
kèm dữ liệu, có thể tra cứu. Bên cạnh đó, với mong muốn là chiếc cầu nối thân thiện,
các toà soạn báo điện tử còn thiết lập các cuộc giao lưu trực tuyến, bàn tròn trực
tuyến, phỏng vấn trực tuyến… tạo cơ hội cho bạn đọc giao lưu, trao đổi về các vấn
đề trong cuộc sống… Ngoài ra, các tờ báo điện tử hiện nay còn trang bị những ứng
dụng tự động quảng bá nội dung, chia sẻ những thông tin mà tờ báo mình đăng tải
đến cho công chúng [17, tr.152-158].
1.1.2.4 Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin
Báo điện tử không bị giới hạn bởi số trang, khuôn khổ hay thời lượng
chương trình như các loại hình báo chí khác. Thông tin lại được lưu trữ cao nên bạn
luôn có thể xem đi xem lại nhiều lần bài viết hay một hình ảnh nào đó của một bài
báo được đăng tải trên báo điện tử vài năm trước. Chỉ cần sử dụng những công cụ
tìm kiếm thông tin như Google, gõ từ khoá là bạn có thể tìm thấy bất cứ thông tin
nào mà bạn cần mà không bị hạn chế về thời gian.
14
1.1.3 Thông tin trên báo điện tử
1.1.3.1 Thông tin
Khái niệm “Thông tin” được bắt nguồn từ chữ Latin: infometio, gốc của
tiếng Anh: information.
Còn theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền
thông và sự ra đời một ý thức hệ mới”, khái niệm “thông tin” có hai hướng nghĩa:
Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome); thứ hai là,
nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa
này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức
và truyền đạt.Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vưc kỹ thuật và kiến thức.
Theo Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, năm 2000
thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh
từ là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin
cao).
Theo các tác giả cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Văn hoá – Thông tin
xuất bản năm 1999, từ “Thông tin” được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau
trong các tình huống cụ thể:
Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông báo.
Hoạt động thông tin không chỉ có trong xã hội loài người. Ngay trong thiên nhiên
cũng có những hoạt động thông tin phức tạp, đa dạng của các loại động vật khác
nhau; Thông tin được dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói
chung.Trong trường hợp này, người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng
“lượng thông tin” được chuyển đến đối tượng tiếp nhận.
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung
thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin.
Ngoài ra, thông tin được dùng ở đây không loại trừ các thông tin được truyền
bằng ngôn ngữ tự nhiên. Thông tin ở đây có thể được ghi và truyền ngôn ngữ cơ thể,
các cử chỉ, điệu bộ… Hơn nữa, con người còn được cung cấp thông tin dưới dạng
mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin thấm vào thế giới vật chất và tinh
15
thần của con người, cùng với sự đa dạng phong phú của nó đã khiến khó có thể đưa
ra một định nghĩa thống nhất về thông tin.
1.1.3.2 Thông tin báo chí
Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí. Báo
chí ra đời và phát triển trước hết là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về thông
tin của con người và xã hội. Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho
công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám
phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, báo chí có cách riêng của
mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội có mối
quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở
thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một
hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống.Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công
chúng. Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện
mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn
cứ việc phân loại theo phương thức thể hiện, người ta chia thông tin báo chí thành
các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in); thông tin bằng tiếng nói (phát
thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng Internet (đa
phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có
khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một
chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên
các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ
báo… đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn,
chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác
phẩm, hay hệ thống những tin tức… là thông tin.
16
Một thông tin có giá trị phải là thông tin đầy đủ, có hệ thống qua việc lựa
chọn đúng, có khoa học, có phương pháp nhằm phục vụ mục tiêu nhất định. Tức là
giá trị tri thức của thông tin được chọn phản ánh trên báo chí, các phương tiện thông
tin đại chúng phải gắn với giá trị xã hội đương thời. Điều này cho chúng ta thấy,
nếu bản chất vai trò của thông tin báo chí biểu hiện chính ở chức năng điều chỉnh xã
hội của nó thì sự phản ánh hiện thực xã hội của báo chí đều nhằm mục đích nhất
định và báo chí phản ánh hiện thực xã hội không phải là đưa ra các sự kiện “một
cách vô tư” như một thứ hàng hoá mà phải là những sự kiện được đánh giá, kết luận,
được thừa nhận trên cơ sở hệ tư tưởng xã hội nhất định.
Như vậy, thông tin báo chí là một dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính
thời sự, phổ cập và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Là sự phản ánh
hiện thực, thông tin có nội dung khách quan đồng thời lại mang tính chủ quan. Do
vậy, việc sử dụng thông tin vào hoạt động truyền thông đại chúng cũng như việc
tiếp nhận thông tin ở mỗi người đều không thể diễn ra một cách thụ động mà phải
có sự kiểm định, xử lý lại thông tin.
1.1.3.3 Thông tin trên báo điện tử
Từ khi ra đời, báo điện tử nhanh chóng trở thành phương tiện truyền thông
hiện đại bởi những ưu thế so với báo chí truyền thống. Loại hình báo điện tử ngày
càng phát triển vượt bậc, có vị thế quan trọng, có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp xã
hội, bởi vì, báo điện tử là loại hình báo chí có khả năng cập nhật liên tục và đòi hỏi
lượng thông tin hằng ngày cung cấp tới bạn đọc vô cùng lớn nên dù có một đội ngũ
phóng viên hùng hậu, một tờ báo điện tử cũng không thể bao trọn vẹn các vấn đề,
sự kiện diễn ra hằng ngày trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Với bạn bè quốc
tế, Việt kiều đang sống ở nước ngoài, báo điện tử là một kênh thông tin quan trọng
hàng đầu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, giúp các đối tượng trên hiểu rõ về công cuộc đổi mới và
tình hình Việt Nam. Chính vì vậy, các tờ báo điện tử phải sử dụng, tham khảo thông
tin của nhau trên cơ sở tôn trọng và lưu giữ bản quyền, nguồn gốc của thông tin đó.
Trung bình mỗi ngày, một tờ báo điện tử xuất bản trên dưới 50 tin, bài về đủ
mọi lĩnh vực mà công chúng quan tâm. Với một lượng thông tin đồ sộ như vậy, công
17
tác xử lý thông tin luôn phải tiến hành trôi chảy nhanh, gọn và hạn chế tối đa các sai
sót. Mặc dù việc sửa chữa các sai sót trên báo điện tử là dễ thực hiện nhờ tiện ích kỹ
thuật, nhưng một khi thông tin đó đã được đăng tải lên mạng Intrernet, dù chỉ là một
số lượng rất nhỏ công chúng nhìn thấy sai sót đó cũng là điều không nên. Có một
thực tế là từ trước đến nay chưa thấy một tờ báo điện tử nào đăng tin đính chính,
trong khi điều này thường gặp khá nhiều ở báo in, truyền hình và phát thanh.
Một vấn đề liên quan trực tiếp đến quá trình xử lý thông tin của báo điện tử,
đó là: tốc độ thông tin là lợi thế, song cũng vô tình trở thành điểm yếu của báo điện
tử. Nhiều bài viết trên báo điện tử bị bạn đọc đặt những câu hỏi lớn về độ tin cậy và
độ chính xác của thông tin. Chính vì vậy, những người làm báo điện tử phải đối
diện với áp lực của thông tin. Dù cố gắng rất nhiều nhưng không bao giờ những
người làm báo điện tử tránh khỏi được sơ xuất.Họ chỉ có thể hạn chế được tối đa sơ
xuất.Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ thông tin, điều này dễ được chấp nhận hơn.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tốc độ đưa tin và độ tin cậy, độ chính xác của thông
tin, không có cách nào khác là phải qua một thời gian khá lâu để cho phóng viên
dần làm quen được với công việc, rèn luyện bản thân cả về chuyên môn nghiệp vụ
lẫn nhận thức chính trị.
1.1.4 Xử lý thông tin trên báo điện tử
Theo Từ điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê, “xử lý” là áp dụng những thao
tác nhất định để nghiên cứu, sử dụng. “Thông tin” là điều hoặc tin được truyền đi
cho biết; hoặc sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới các hình thức khác nhau, cho
biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó.
Còn theo khái niệm trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học ấn hành
năm 2000, “Xử lý thông tin” là áp dụng vào thông tin đó là những thao tác nhất
định để sử dụng.
Từ khái niệm “xử lý và sắp xếp và giải quyết công việc hoặc nhiệm vụ trong
điều kiện cụ thể trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” có thể hiểu thuật ngữ xử lý
thông tin là một hoạt động nghiệp vụ nhằm chỉnh sửa cả về mặt nội dung lẫn hình
thức thông tin để đảm bảo độ chính xác và hấp dẫn của thông tin. Công việc xử lý
thông tin là công việc đòi hỏi cần có nhiều kinh nghiệm, sự hiểu biết về xã hội cũng
18
như về ngôn ngữ. Việc xử lý thông tin còn có khả năng tạo ra những thông tin mới
hoặc bổ sung những thông tin mà trước đó chưa biết đến. Chất lượng thông tin mà
người xử lý cung cấp tới đối tượng tiếp nhận có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố
như trình độ, sự nhạy bén trong phân tích, thái độ khách quan…
Theo Giáo trình tác phẩm báo chí đại cương của TS Nguyễn Thị Thoa và
Nguyễn Thị Hằng Thu, một trong những khâu quan trọng của xử lý thông tin cho
tác phẩm báo chí là xử lý tư liệu. Xử lý tư liệu là chọn ra thông tin cốt lõi cần cho
tác phẩm báo chí; chọn các chi tiết có mức độ quan trọng khác nhau (hoặc theo tính
chất quan trọng của chi tiết; hoặc theo trật tự ngày tháng; hoặc theo tên các nhân vật
với chức vụ, địa vị xã hội khác nhau; hoặc theo các bước ngoặt của mâu thuẫn…);
kiểm tra mức độ chính xác và độ tin cậy của tư liệu; mạnh dạn loại bỏ những tư liệu
rườm rà; ghi chú những phần tư liệu thiếu cần bổ sung; sắp xếp các tư liệu đã chọn
theo góc độ nhìn nhận vấn đề của chính [46, tr. 95].
Như vậy,có thể hiểu “xử lý thông tin” là một quá trình khai thác, phân tích,
cải tạo những thông tin thô ban đầu trở thành thông tin mang một giá trị nào đó.
Xử lý thông tin là một hoạt động nghiệp vụ nhằm chỉnh sửa về cả mặt nội
dung lẫn hình thức thông tin để đảm bảo dộ chính xác và hấp dẫn của thông tin.
Trong hoạt động báo chí, nói đến xử lý thông tin là nói đến quá trình mà những
người làm báo bỏ công sức, trí tuệ ra để biến đổi, tinh lọc các thông tin sao cho các
thông tin đó trở nên có giá trị, ý nghĩa để đưa đến công chúng tiếp nhận.
Còn riêng với báo điện tử, việc xử lý thông tin là “chế biến”, cải tạo những
thông tin về các sự vật, hiện tượng, con người xảy ra hằng ngày, hằng giờ trong tự
nhiên và đời sống xã hội thành những sản phẩm thông tin báo chí để cung cấp đến
công chúng của báo bằng những phương tiện đặc trưng của báo điện tử. Phương thức
đặc trưng này thể hiện rõ sự khác biệt của báo điện tử với các loại hình báo chí khác.
Theo tác giả Trần Hồng Vân, “một toà soạn báo điện tử tiếp nhận hàng trăm
thông tin mỗi ngày. Lựa chọn và xử lý các thông tin ấy ra sao đòi hỏi phải có sự tổ
chức chặt chẽ và phân công công việc cụ thể, quy trách nhiệm rõ ràng ở từng khâu,
từng bộ phận” [40, tr.22].
19
Xử lý thông tin trên các tờ báo là rất quan trọng. Và đặc biệt đối với báo điện
tử còn quan trọng hơn nhiều. Tuy báo điện tử là loại hình báo chí ra đời muộn nhất
trong các loại hình báo chí, nhưng báo điện tử lại tích hợp được tất cả các ưu điểm
của các loại hình báo chí đi trước.
Ưu điểm nổi bật nhất là tính thời sự và khả năng giao lưu trực tuyến với độc
giả. Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, nhiều phóng viên báo điện tử giờ
đây đã có thể tác nghiệp, gửi và đưa bài lên trang ngay tại hiện trường với những tin
tức “nóng” (tuy nhiên, xét về độ chính xác, đôi khi quá tốc độ lại là nhược điểm của
các tờ báo online so với các tờ báo truyền thống). Khả năng giao lưu trực tuyến với
độc giả cũng được các báo điện tử tận dụng khá tốt với các diễn đàn trực tuyến, hộp
thư bạn đọc, những buổi giao lưu trực tuyến… Vì vậy, báo điện tử không chỉ là tờ
báo cung cấp đầy đủ thông tin cho bạn đọc mà người đọc còn đòi hỏi ở nó tính thời
sự và cập nhật của công nghệ thông tin.
Ngoài ra, các báo còn cạnh trạnh cả về chiều sâu của thông tin. Chất lượng
thông tin làm sao sinh động và hấp dẫn, nhưng cái sinh động và hấp dẫn ấy phải dựa
trên cơ sở là nội dung thông tin đề cập tới vấn đề sát sườn của mỗi con người, mỗi
thành viên trong xã hội và toàn xã hội. Cách thể hiện làm sao đơn giản, gần gũi, đi
vào lòng người và làm sao để người ta cảm nhận được hết nội dung. Nói thì đơn
giản nhưng làm thì không dễ và chỉ có mỗi chìa khóa duy nhất để giải quyết được
vấn đề này là phải có tính sáng tạo, nghiêm túc cộng với tinh thần sáng tạo. Đặc biệt
là vấn đề “quản lý đầu vào” và quy trình xuất bản phải chặt chẽ và con người là
phải chuẩn, con người phải chuyên nghiệp và phải đáng tin cậy.
Quy trình sáng tạo ra một tác phẩm báo chí có 2 bước căn bản, đó là: Chuẩn
bị chất liệu cho tác phẩm báo chí và Thể hiện tác phẩm.
Chuẩn bị chất liệu cho tác phẩm báo chí là một khâu rất quan trọng, bao gồm
việc khám phá đề tài từ nhiều nguồn tin khác nhau. Có thể là đề tài cho Ban Biên
tập giao cho phóng viên theo yêu cầu nội dung của số báo, căn cứ vào lĩnh vực mà
phóng viên được phân công theo dõi. Tuy nhiên, Ban Biên tập chỉ giao đề tài cho
phóng viên khi cần có “bài đinh” cho số báo, hoặc đề tài quá lớn cần nhiều người
20
cùng thực hiện. Thứ hai là phóng viên tự khám phá đề tài từ các nguồn khác nhau,
từ các mối quan hệ xã hội khác nhau, bằng chính tài năng và sự nhạy cảm nghề
nghiệp của mình (đi thực tế cơ sở; Dự họp báo, hội nghị, tòa án…; Từ các phương
tiện truyền thông đại chúng như báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình,…; Từ
quần chúng nhân dân khắp nơi; Từ các mối quan hệ xã hội của nhà báo).
Vấn đề khai thác và xử lý tư liệu thì tùy vào từng đề tài mà mức độ khai thác
tư liệu rộng – hẹp, nông – sâu khác nhau. Các loại tư liệu cần khai thác: Tư liệu tĩnh
(Văn bản, hồ sơ, hình ảnh tĩnh – động, băng – đĩa từ các nguồn tài liệu khác nhau);
Tư liệu bất thành văn (kiến trúc, trang phục, phong tục tập quán, dấu vết lịch sử,
vốn sống của nhà báo); Tư liệu động tại hiện trường (nhân chứng, cá nhân có thẩm
quyền, nhà chuyên môn khoa học, dấu vết hiện trường,…
Quá trình xử lý tư liệu là chọn ra những thông tin cốt lõi cần thiết cho bài
báo; Chọn ra các chi tiết có mức độ quan trọng khác nhau (hoặc theo tính chất quan
trọng của chi tiết; hoặc theo trật tự ngày tháng; hoặc theo tên của các nhân vật với
chức vụ, địa vị xã hội khác nhau; hoặc theo các bước ngoặt của mâu thuẫn…);
Kiểm tra mức độ tin cậy của tư liệu; Loại bỏ những tư liệu rườm rà; Sắp xêp các tư
liệu đã chọn theo các góc độ nhìn nhận vấn đề của chính mình.
Dựa vào tính chất của đề tài và tư liệu đã có, có thể chọn được hình thức thể
loại tác phẩm báo chí và bố cục thích hợp (chất liệu ít và mục đích chỉ cần thông
báo nhanh thì chọn thể loại tin. Vấn đề nóng, chứa nhiều mâu thuẫn, liên quan đến
nhiều nhân chứng thì chọn thể loại phóng sự…). Trên cơ sở đã xác định được hình
thức thể loại, sẽ dễ dàng chọn được ngôn ngữ và giọng văn phù hợp.
Có thể khái quát quy trình xử lý thông tin trên báo điện tử như sau: thu thập
và lựa chọn thông tin => Kiểm chứng, chế biến, cải tạo thông tin thô trở thànhthông
tin có giá trị =>xử lý thông tin (xử lý thông tin về đề tài ở tòa soạn; xử lý thông tin
do cộng tác viên gửi về; xử lý thông tin phản hồi của độc giả).
Do đó, công việc xử lý thông tin trên báo điện tử, mà nhất là xử lý thông tin
về trẻ em là công việc đòi hỏi nhà báo cần có nhiều kinh nghiệm, sự hiểu biết xã hội
cũng như nắm bắt được tâm lý của trẻ em và cả về ngôn ngữ. Quy trình xử lý thông
21
tin ở mỗi toà soạn báo điện tử do phụ thuộc vào tiêu chí, mục đích hoạt động của
từng cơ quan nên có những điểm khác biệt, mang tính đặc trưng riêng.
1.2 Thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
1.2.1 Trẻ vị thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Vị thành niên là những người chưa đến tuổi
trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình”. Trong các văn
bản pháp luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động) có dùng
thuật ngữ “người chưa thành niên” và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà
người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận
chung là: Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người
với đặc điểm lớn nhất là quá trình dậy thì – cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt
tới sự trưởng thành, tâm lý có sự “bùng nổ sâu sắc”. Có thể hiểu đây là giai đoạn
“sau trẻ con và trước người lớn”.
Cho đến nay, trong văn bản pháp luật thực định cũng có những tên gọi khác
nhau: người chưa thành niên, trẻ vị thành niên và trẻ em. Pháp luật ở mỗi quốc gia
có những tiêu chí cụ thể quy định về người chưa thànhniên khác nhau. Đa số các
quốc gia đều ghi nhận trong hệ thống pháp luật độ tuổi được coi là người chưa
thành niên.
Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (United Nations Convention on the
Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989 có
ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường
hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thànhniên sớm hơn”.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành
niên.Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức
khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ
Dân số Liên Hiệp Quốc(UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật
với người chưa thành niên, hay còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh (United Nations
Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules)
22
ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp
ở ngườichưa thành niên, còn gọi là Hướng dẫn Riyadh (United Nations Guidelines
for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyauh Guidelines) ngày 14/12/1990
quan niệm về trẻ em (child) là người dưới 18 tuổi; người chưa thành niên (Juvenile)
là người từ 15 đến 18 tuổi; thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi; người trẻ
tuổi (young persons) bao gồm trẻ em, ngườichưa thành niên và thanh niên.
Cho dù còn có những cách đặt vấn đề khác nhau, song, thuật ngữ
“người chưa thànhniên” được hiểulà:
Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về
thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa đủ khả năng để sử dụng quyền
và gánh vác nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Như vậy, về nội hàm khái niệm người chưa thành niên bao gồm ba nội dung:
(i) Giới hạn của độ tuổi được quy định trong các văn bản pháp luật của mỗi
quốc gia (dưới 18 tuổi): đây là thời kỳ chuyển tiếp từ lứa tuổi trẻ em sang lứa tuổi
người lớn; (ii) Sự phát triển chưa hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân
cách; (iii) Khả năng sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ của người chưa thành niên
còn hạn chế.
Ở Việt Nam, người chưa thành niên được xác định tương đối thống nhất
trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Các văn bản pháp luật đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có
những chế định pháp luật hoặc các quy định riêng cho người chưa thành niên.
1.2.2 Trẻ vị thành niên phạm pháp
Điều 12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chù nghĩa Việt Nam quy định
tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự
có thể là:Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý,
23
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người
có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc
được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự:
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội.Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa
thành niên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và
điều kiện gây ra tội phạm.
Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu
người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều
tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn
cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được
quy định tại Điều 70 của Bộ luật này…
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh)
khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có
thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng
các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa
tội phạm.
24
Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội
phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra
bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể
nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi
phạm tội đều trở thành tội phạm.
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với
tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu
thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và
yếu tố pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan
có thẩm quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là “cần thiết” khi
hội đủ 3 điều kiện sau đây:Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu; Tội
phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng; Những biện pháp giáo dục,
phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu
quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Tội phạm do người chưa
thành niên gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18
tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của
mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng…
Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất với
khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm dùng để
chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện hành vi phạm tội,
còn khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ
tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên).
1.2.3 Thực trạngphạm pháp của trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay
1.2.3.1 Thực trạng phạm pháp
25
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường phát triển đã mang lại
những bước tiến vô cùng to lớn cho đất nước ta, song, cũng có những tồn tại nhất
định. Tình trạng vi phạm pháp luật diễn ra ngày càng phức tạp, biểu hiện rõ nhất là
các tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, mại dâm, nghiện hút, cướp của, giết
người,… trong đó, hiện tượng trẻ vị thành niên phạm pháp đang là vấn đề nhức nhối
của toàn xã hội.
Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm học và Điều tra tội
phạm, Học viện Cảnh sát nhân dân, từ năm 2009 đến hết tháng 6/2014, cơ quan
cảnh sát điều tra các cấp đã phát hiện, khởi tố điều tra mới là hơn 30.000 bị can là
trẻ vị thành niên phạm tội, chiếm khoảng hơn 16% tổng số bị can phạm tội hình sự
và ở một số tội có sử dụng bạo lực hoặc có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội
chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu tội phạm do trẻ vị thành niên gây ra. Cụ thể: Cố
ý gây thương tích chiếm 17,07% tăng trên 8%; Cướp giật tài sản: chiếm 9,44% tổng
số tăng lên 5%; Cướp tài sản: chiếm 13,74% tăng gần 10%; Hiếp dâm, cưỡng dâm:
chiếm 3,06% tăng 1,7%; Giết người: chiếm 4,72% tăng 3%; Mua bán vận chuyển
ma tuý trái phép: chiếm 3,4% tăng so với trước 1,2%.
Thống kê của Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Bộ
Công an), từ năm 2002 đến tháng 6/2013, 4 trường giáo dưỡng gồm Trường giáo
dưỡng số 2 - Ninh Bình; số 3 - Đà Nẵng; số 4 - Đồng Nai và số 5 - Long An đã tiếp
nhận 21.836 người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trong đó có 21.335 nam,
chiếm 97,93. Tính đến hết tháng 6/2013, 4 trường giáo dưỡng nói trên đang quản lý
2.834 học sinh, trong đó có 70 em là nữ. Có tới 40,7% các em đã từng bị nhà trường
thi hành kỷ luật cảnh cáo hoặc đuổi học, hơn 85% số em nghiện thuốc lá, thuốc lào,
gần 60% thích xem phim đồi trụy, phim đen, 33% em thích uống rượu, bia.
Tình hình tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng, các vụ án gây hậu quả
nghiêm trọng như giết nhiều người, gây thiệt hại kinh tế từ chục, vài trăm cho tới
nghìn tỷ đồng ngày càng nhiều,… Nhiều người sau khi ra trại bị miệt thị, không có
công ăn việc làm lại tái phạm tội.
Đa số người chưa thành niên phạm tội là nam giới, chiếm đến 96,87% tổng
số người vi phạm. Độ tuổi phạm tội ngày càng trẻ hoá, trong đó dưới 14 tuổi chiếm
13%; từ 14 – 16 tuổi chiếm 34,7%; từ 16 – 18 tuổi chiếm 52%. Điều đặc biệt, gần
26
một nửa số đối tượng phạm tội đều đã bỏ học (chiếm 45%), có học lực yếu, kém
(chiếm 60,7%).
Hầu hết các vụ phạm pháp hình sự liên quan tới người chưa thành niên xảy
ra ở các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Khánh Hoà, Đắk Lắk, Hà
Nội…70% đối tượng trẻ vị thành niên phạm tội sống tại thành phố, thị xã, thị trấn;
24% sống ở nông thônTrong thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra các vụ án chấn động
dư luận xã hội mà hung thủ là trẻ vị thành niên, thậm chí, không ít trong số đó phạm
một lúc 2-3 hành vi đặc biệt nguy hiểm như cướp của, giết người… Do tại thời
điểm phạm tội, các em chưa đủ 18 tuổi nên không phải chịu khung hình phạt cao
nhất dành cho tội danh đã phạm, tuy nhiên, cái giá phải trả cho những nông nổi
cũng không hề nhỏ.
1.2.3.2 Nguyên nhân dẫn đến con đường phạm pháp của trẻ vị thành niên
Nguyên nhân từ gia đình: Hầu hết trẻ vị thành niên phạm pháp đều sống
trong môi trường gia đình có vấn đề, gia đình không hoàn thiện. Có tới 34,4% các
em sống trong hoàn cảnh thiếu hẳn sự chăm sóc của bố mẹ đẻ, trong đó có 4,8%
sống với ông bà; 2,4% sống với anh chị; 14,5% sống lang thang… Theo thống kê
tại Trường Giáo dưỡng số 2: 10,2% trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ; 7,3% bố mẹ ly hôn,
21% được nuông chiều quá mức, 21% gia đình làm ăn phi pháp, 30% bố mẹ nghiện
ma tuý, 10,5% không được gia đình quan tâm, chăm sóc dẫn đến phát triển lệch lạc.
Sự không hoàn thiện của gia đình đã tác động đến sự phát triển nhân cách
của trẻ. Lối sống, không khí gia đình, cách giáo dục không đúng… là nguyên nhân
quan trọng hình thành ở trẻ em quan niệm sống, tính cách tiêu cực, thúc đẩy trẻ đi
vào con đường phạm pháp.
Nguyên nhân từ phía nhà trường: Việc giáo dục chuẩn mực xã hội trong nhà
trường hiện nay chủ yếu là dạy chay, chưa rèn luyện các em trong thực tiễn, nên ý
thức chấp hành chuẩn mực của các em chưa được cao. Nhà trường ít quan tâm tới
hướng các em vui chơi lành mạnh, có nếp sống văn hóa để tạo cho các em niềm tin
vào bản thân – đó cũng là lý do khiến nhiều trẻ buông lỏng bản thân, vi phạm chuẩn
mực. Một số trường chưa làm tốt chức năng giáo dục với những học sinh cá biệt,
27
thiếu kiên trì, nặng nề, khiến các em cảm thấy chán nản, bỏ học, phản ứng tiêu cực
hay phạm pháp.
Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Trẻ vị thành niên còn chịu tác động của lối
sống tiêu cực, bị người lớn lôi kéo, kích động, cưỡng bức vào con đường vi phạm
pháp luật, bị ảnh hưởng của sách báo có nội dung đồ trụy, kích động, bạo lực…
Nguyên nhân từ phía trẻ: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi: Đây là giai đoạn diễn
ra những biến đổi phức tạp về sinh lý, cảm xúc (đặc biệt cảm xúc giới tính), về sự
mất cân bằng tạm thời trong tình cảm và tâm lý, về tự ý thức và tự đánh giá bản
thân… Những biến đổi phức tạp đó khi gặp những tác động tiêu cực từ xung quanh
dễ dẫn các em đến hành vi làm trái pháp luật.
Trẻ vị thành niên phạm pháp thường có trình độ nhận thức về mặt xã hội,
nhất là về đạo đức, pháp luật chưa tiến kịp mức nhận thức trung bình về các mặt đó
so với trẻ cùng lứa tuổi. Do trình độ học vấn kém nên các em định hướng giá trị sai
lệch chuẩn mực xã hội, thiếu hiểu biết pháp luật, dễ có hành vi lệch chuẩn, thậm chí
tới mức vi phạm pháp luật. Kết quả điều tra của Bộ Tư pháp cho thấy, hiện tượng ấu
trĩ về pháp luật thể hiện rõ ở trẻ vị thành niên phạm pháp, có tới 60% số em bị bắt
giữ chưa có hiểu biết tối thiểu về pháp luật, trong đó nhiều em không biết hành vi
của mình là nguy hiểm, trái pháp luật. Mặt khác, các em có nhiều thói quen, nhu cầu
hứng thú tiêu cực; ý thức đạo đức kém và chịu ảnh hưởng từ bạn xấu.
1.3 Cơ sở pháp lý và đạo đức khi thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
1.3.1 Những quy định về luật
Nguyên tắc thứ ba trong “Những nguyên tắc quốc tế về đạo đức nghề báo”có
quy định: “Thông tin báo chí là một loại hàng hoá mang tính xã hội chứ không phải
hàng hoá vật chất, có nghĩa là các nhà báo cùng nhau có trách nhiệm truyền tải
thông tin và đó không chỉ là trách nhiệm đối với những người quản lý các phương
tiện truyền thông đại chúng mà còn là trách nhiệm với công chúng, với nhiều lợi ích
xã hội khác nhau”[19, tr. 76].Quy định này đề cao trách nhiệm của nhà báo về
những thông tin được công bố trước công chúng.
Trong “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam” (Đại
hội lần thứ VIII (2005) Hội Nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý và sửa đổi “Quy ước về
28
đạo đức nghề báo Việt Nam” thành “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo Việt Nam”) có quy định: “Nhà báo cần tôn trọng danh dự và cuộc sống riêng
tư của tất cả mọi người. Không được xâm phạm, điều tra đời tư khi không được
chấp nhận, kể cả chụp ảnh tài sản tư và thu thập thông tin bằng các thiết bị nghe
lén”. Và “khi đưa tin, nhà báo nên tránh ám chỉ một cách định kiến, miệt thị về
chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, khuynh hướng tình dục, bệnh tật, cũng như
sự khiếm khuyết về thể xác và tinh thần của con người”. Và Điều 3: “Nhà báo đưa
thông tin phải đảm báo chính xác, trung thực, khách quan, không đưa những thông
tin gây ra hiểu lầm hoặc bị bóp méo. Không đăng tin đồn khi chưa được kiểm
chứng. Không được viện cớ vì lợi ích chính đáng của công chúng để đưa tin giật
gân, câu khách” [19, tr.709].
Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn bản đầu tiên đề cập toàn diện và
chính xác về mặt pháp lý các quyền trẻ em theo hướng tiến bộ và nhân đạo trên cơ
sở thừa nhận trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ, giúp đỡ đặc biệt. Thực hiện
công ước, Việt Nam đã xúc tiến thực hiện các quyền trẻ em một cách toàn diện. Một
trong những vấn đề chúng ta đặc biệt chú ý là việc thông tin về trẻ em ở mọi lĩnh
vực của đời sống theo các điều khoản đã quy định trong công ước.
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (có 54 Điều), được Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989 là một văn kiện quyền con người mang đậm
tính nhân văn và được nhiều nước phê chuẩn nhất trên thế giới, đã khẳng định Trẻ
em có quyền được tiếp cận và được hướng dẫn để tiếp cận những thông tin thích
hợp. Các em có quyền được tham gia phát biểu ý kiến trong những trường hợp có
liên quan đến cuộc sống của các em.
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước này vào ngày 20/2/1990. Từ sau khi phê chuẩn Công ước, Nhà nước Việt
Nam có rất nhiều nỗ lực trong việc thực hiện Công ước, như nâng cao nhận thức về
quyền trẻ em; làm hài hoà giữa Công ước Quyền trẻ em và luật pháp quốc gia; đẩy
mạnh quản lý Nhà nước về trẻ em; tăng cường nguồn lực đầu tư cho trẻ em và đặc
biệt là ngày càng quan tâm đến vai trò của chính trẻ em và người chưa thành niên.
29
Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em cũng khẳng định quyền được tham
gia cũng như lợi ích của việc trẻ em tham gia phát biểu ý kiến trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Luật Báo chí (2016) của nước ta cũng đã quy định rõ (tại Điều 9) về những
điều không được thông tin trên báo chí, trong đó có những điều liên quan đến việc
bảo vệ trẻ em: “Không được kích động bạo lực, tuyên truyền lối sống đồi truỵ, miêu
tả tỉ mỉ những hành động dâm ô, hành vi tội ác, thông tin không phù hợp với thuần
phong mỹ tục Việt Nam; Không được thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, quy kết tội
danh khi chưa có bản án của Toà án”.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, vấn đề không phải là áp dụng các
hình phạt nghiêm khắc, mà quan trọng là phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm
pháp luật và xử lý theo hướng giảm nhẹ hình phạt để giúp các em nhận ra lỗi lầm;
phải có biện pháp khắc phục những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người
chưa thành niên.
Trên thực tế, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong
pháp luật hình sự không coi người chưa thành niên khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội phải chịu trách nhiệm hình sự. Chính sách nhân đạo đó đã được Bộ luật
hình sự cụ thể hoá thành những nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên
phạm tội, quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự:
Một là, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho
xã hội.
Hai là, trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội
của người chưa thành niên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả
năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Ba là, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự,
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
30
Bốn là, việc truy cứu trách nhiệm hìnhsự người chưa thành niên phạm tội và
áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải
căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu
cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Năm là, khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạmtội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư
pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
Sáu là, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành
niên phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần
hạn chế áp dụng hình phạt tù.Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa
thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã
thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Bảy là, án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16
tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Người chưa thành niên do chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất, tinh
thần và nhân cách, nên việc bảo vệ, chăm sóc, phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng
phạm tội ở người chưa thành niên là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính
nhân văn.
1.3.2 Yếu tố lợi nhuận kinh tế và đạo đức nhà báo
Trước hết, nghề báo cũng là một công việc để kiếm sống. Công việc của nhà
báo là viết bài, đưa thông tin đến độc giả. Mỗi bài báo được công bố, được đăng tải
thì người viết báo sẽ được nhận thù lao nhuận bút. Trong thời buổi cạnh tranh thông
tin, phải nhanh chóng, kịp thời khiến một số nhà báo cho đăng những nội dung
không chính xác, chưa được kiểm chứng, hay giật tít câu “view”.
Thứ hai, nghề báo không phải nghề dễ sống. Ngòi bút nhà báo có thể vinh
danh một cá nhân, nhưng cũng có thể giết chết một con người. Trước những lợi
nhuận kinh tế trong việc làm báo, điều để giữ cho bài báo thông tin về trẻ vị thành
31
niên phạm pháp đúng đắn, nhân văn, có tác dụng giáo dục lớn đối với xã hội hay
những bài báo lá cải, giật tít câu view phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức nhà báo.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận của báo chí” (tập 2), tác giả E.P.Prokhorop cho
rằng: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo – đó là những quy định đạo đức không
được ghi trong các đạo luật, nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy
trì bởi sức mạnh của dư luận xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo – nghề nghiệp – đó là
những nguyên tắc, những quy định và những quy tắc về hành vi đạo đức của nhà
báo” [63, tr. 94-95].
Theo PGS, TS Nguyễn Văn Dững: “Đối với hoạt động báo chí, với nhà báo,
trách nhiệm xã hội là tiêu chí cơ bản thể hiện tính chuyên nghiệp và đạo đức hành
nghề, bao gồm trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo
đức…”[11, tr. 305].
Trong xã hội hiện nay, đối với một số nghề, như: nghề y, nghề giáo và nhất
là nghề báo, đạo đức nghề nghề nghiệp đã và đang trở thành vấn đề được xã hội
quan tâm, bởi vì, nghề viết báo không chỉ tác động và liên quan đến cộng đồng, đến
đông đảo cư dân, mà còn quan trọng là việc tác động vào hệ thống giá trị tinh thần,
tư tưởng, những quan niệm giá trị đạo đức và nhân phẩm, giá trị của con người
trong xã hội.
TS Nguyễn Thị Trường Giang trong “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” đã
đưa ra khái niệm: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực
quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi bằng nhiều
tên khác nhau với ý nghĩa đồng nhất. Đó là đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo” [18, tr. 36].
Đa số bản quy ước đạo đức báo chí trên thế giới (như Hunggary, Hy Lạp,
Tây Ban Nha, Campuchia, Srilanka, Anh, Ba Lan, Catalonia, Síp, Bosnia, Đức, Séc,
Việt Nam…) yêu cầu nhà báo phải đặc biệt tôn trọng Quyền trẻ em/vị thành niên
dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức và Công ước quốc tế về quyền trẻ em và cho rằng
việc xâm phạm quyền trẻ em/vị thành niên là hành vi vi phạm đạo đức nghiêm
trọng trong nghề báo.
32
Các bản quy ước đạo đức báo chí cũng quy định, khi xử lý các vấn đề liên
quan đến trẻ em/vị thành niên, các nhà báo phải cực kỳ cẩn thận và có trách nhiệm
bảo vệ nhân quyền của trẻ em/vị thành niên bao gồm việc tránh đăng tải danh tính,
hình ảnh, các chi tiết có thể xác định được danh tính, cũng như tránh làm ảnh hưởng
xấu đến sự trưởng thành của họ. Đặc biệt, tránh tiết lộ và công bố danh tính của trẻ
em/vị thành niên (cho dù là nạn nhân, nhân chứng hay bị buộc tội) có liên quan đến
các hành vi phạm tội, ngay cả khi pháp luật cho phép. Trong bất kỳ bản tin nào về
trẻ em liên quan đến tội phạm tình dục, nhà báo phải chú ý để không có nội dung
nào trong bản tin nói về mối quan hệ giữa bị cáo và trẻ em. Đặc biệt, bản quy ước
đạo đức báo chí của Anh, Síp quy định, báo chí không được sử dụng thuật ngữ
“loạn luân” đối với trường hợp là trẻ em, nếu vi phạm điều này sẽ bị cáo buộc như
là hành vi phạm tội nghiêm trọng với trẻ em hoặc tương đương.
Trong cuốn “Truyền thông đạo đức nghề nghiệp với trẻ em”, tác giả Helena
Thorfinn cho rằng, không ít nhà báo sử dụng ngôn từ biểu hiện thái độ không coi trẻ
em là con người. Khi viết về trẻ em, trong con mắt nhà báo thường xuất hiện những
ngôn từ mang ngôi thứ ba số ít hoặc số nhiều dùng để chỉ đồ vật (chứ không chỉ con
người). Đó là những từ như: Nó, hắn hoặc chúng nó. Hoặc nhiều nhà báo thường
gọi trẻ em bằng một cụm từ mà nhiều khi đọc lên chúng ta thấy dường như khoảng
cách giữa nhà báo và các em bị đẩy ra xa như: những đứa trẻ này, con bé này, thằng
bé này… Đó là thái độ trịch thượng, bề trên của nhà báo khi nhìn trẻ em[57].
UNICEF đã xây dựng những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp như một công
cụ hỗ trợ các nhà báo trong quá trình tác nghiệp về những vấn đề liên quan đến trẻ
em. Những nguyên tắc này đảm bảo các nhà báo phục vụ lợi tích tốt nhất của cộng
đồng, trong khi không xâm phạm hoặc hạ thấp các quyền của trẻ em.
Tuyên ngôn của Liên đoàn Nhà báo quốc tế được thông qua tại Đại hội thế
giới của Liên đoàn Nhà báo quốc tế năm 1954 (bổ sung năm 1986) có 11 điều quy
tắc ứng xử đạo đức. Trong Điều 3 có ghi: “Nhà báo chỉ viết bài theo những thông
tin mà bản thân biết rõ nguồn gốc. Nhà báo không được lấp liếm những thông tin
thiết yếu hoặc làm sai lệch tài liệu”[52, tr. 102].
33
Tiểu kết chương 1
Hiện nay, vấn đề đưa tin về trẻ em là một thách thức không nhỏ đối với giới
báo chí truyền thông, bởi vì người lớn đã có đầy đủ khả năng hiểu biết và cách diễn
đạt nên phải chịu trách nhiệm về những phát ngôn của mình, nhưng trẻ em thì
không. Chính vì vậy, báo chí không những cần phải đưa thông tin về trẻ em một
cách công bằng, chính xác, khách quan, mà họ cần phải tạo điều kiện để các em
được tham gia ý kiến, thể hiện chính kiến một cách đa dạng và phong phú.
Trong luật pháp, đạo đức báo chí, quy chế tác nghiệp… đều có quy định, rất
nhiều điều có tính chất phân định những điều nên và không nên khi đưa tin bài về
trẻ em. Tuy nhiên, nhiều khi vô tình nhưng cũng rất có khi cố ý, một số người cầm
bút đã quên mất hoặc không làm nghiêm điều này. Trong khi những sai sót về
nghiệp vụ và trách nhiệm của một số người cầm bút ở nhiều mức độ đã và đang tạo
ra nhiều hệ luỵ khi viết về trẻ em đã đến mức lo ngại như vậy, thì gần đây lại có tình
trạng đáng báo động hơn, nguy hiểm hơn, trầm trọng hơn, đó là tình trạng khai thác
đề tài cho trẻ em, hình ảnh trẻ em, giới tính trẻ em… một cách đầy dụng ý để câu
view, để bán báo. Vì vậy, trong Chương 1 của luận văn, bên cạnh việc hệ thống hoá
lại các vấn đề lý luận về báo điện tử như: Khái niệm, đặc trưng đặc điểm báo điện
tử; Thông tin trên báo điện tử; Thông tin và xử lý thông tin trên báo điện tử; Về các
yếu tố tác động đến báo điện tử khai thác thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp
hiện nay, ... tác giả còn đề cập và tìm hiểu một cách tỉ mỉ, sâu sắc đến những văn
bản pháp luật về quyền trẻ em. Cũng trong chương này, tác giả đã nghiên cứu về
quyền thông tin của báo chí về trẻ em/trẻ vị thành niên, đưa ra cái nhìn khá toàn
diện về những kiến thức liên quan đến đề tài của luận văn. Đặc biệt, trong thời điểm
hiện nay, thông tin về trẻ vị thành niên phạm pháp đang ngày càng trở thành vấn đề
nóng, được cả xã hội quan tâm, vì thế việc thông tin để mọi người hiểu rõ hơn vấn
đề này là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác, xử lý thông tin trẻ vị
thành niên trên báo điện tử còn nhiều vấn đề cần phải bàn và cần phải được xem xét
cụ thể trên cả hai phương diện ưu điểm lẫn hạn chế. Điều này sẽ được thực hiện tiếp
tục ở chương 2.