vietcongonline.files.wordpress.com · Web view- Quý Chức sắc và Tín đồ mọi Tôn giáo...

51
Việc kỷ niệm 40 năm biến cố Việt cộng xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa xảy đến giữa lúc hầu hết toàn dân đều nhận ra bản chất của cái gọi là “giải phóng miền Nam”, đều thấy rõ mặt thật của cái gọi là “thành quả thống nhất đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa” vốn chỉ tóm gọn trong 3 từ: sai lầm, tội ác và thất bại… trên mọi phương diện. Thành thử cuộc diễu binh hoành tráng tại Sài Gòn hôm 30 tháng tư, với những mỹ từ lố bịch: “cuộc chiến thần thánh, hành quân thần tốc, chiến thắng thần kỳ”, với bài diễn văn chửi bới thậm tệ Mỹ ngụy và xưng tụng hết mình hai tên đế quốc đỏ từng điều khiển cuộc tàn phá đất nước và tàn sát dân tộc… chỉ có mục đích lừa gạt những kẻ ngu muội mù quáng và răn đe những ai mong muốn cái chế độ thối tha khốn nạn này biến khỏi đất nước cho nhanh! Đừng mơ! Đảng vẫn còn rất hùng mạnh ! Và như để tiếp nối tinh thần ấy, mới đây nhà cầm quyền lại tung ra một đòn răn đe nữa, nhắm vào khối tín đồ các tôn giáo, vốn chiếm đại đa số dân Việt. Đảng đâu có quên rằng “các đảng anh em và các nước anh em” bên Liên Xô và Đông Âu –không lâu sau những cuộc diễu binh thị uy, biểu dương lực lượng còn vĩ đại hơn VN nhiều– đã bị đập cho tan tành bởi những nhát búa của niềm tin tôn giáo và tự do dân chủ. Thành thử phải cấp tốc tạo ra dây thòng lọng để siết cổ các Giáo hội, và đó là Dự Luật tín ngưỡng tôn giáo (DLTNTG) vừa đưa ra hôm 17-04 để gọi là lấy ý kiến 62 tổ chức tôn giáo. Đây chỉ là những tổ chức được nhà nước cho phép hoạt động lâu nay, chứ vẫn còn nhiều cộng đoàn tín hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật vì cái tội “muốn độc lập”! Những cộng đoàn này, nhà cầm quyền coi như chẳng có mặt trên đất nước, thành thử không gởi đến dự thảo. Ngoài ra, thời gian góp ý chỉ kéo dài trong vòng 2 tuần lễ (đến 05-05). Tất cả cho thấy một thái độ ngạo mạn và kỳ thị, cũng như một ý đồ muốn áp đặt ý muốn của đảng lên các Giáo hội. Dù vậy, nhiều tiếng nói đã được cất lên kịp thời. Cho tới nay, ngoài Cao Đài giáo có bản góp ý của tổ chức mang tên “Ban Chấp hành Khối Nhơn sanh”, thì phần lớn là của Công giáo với bản nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục VN, của các Giáo phận Bắc Ninh, Vinh, Kon Tum, Xuân Lộc. Hội đồng Liên tôn Việt Nam, quy tụ nhiều chức sắc của 5 tôn giáo (trong đó có những Giáo hội bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và thường xuyên bị đàn áp sách nhiễu) cũng đã có lời lên tiếng mang cái tên thẳng thừng: “Kháng thư phủ nhận”! Tựu trung, tất cả đều không tán thành nội dung của dự luật. Hội đồng GMVN viết: “Bản Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). …Dự thảo 4 này là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Bản Dự thảo này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở. Vì vậy, chúng tôi đề nghị: Không đồng ý Dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Soạn lại một bản Dự thảo khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của xã hội tiến bộ”. Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất thì cho rằng (x. RFA 7-5-2015): “Chính phủ Việt Nam đã ban hành bản Pháp lệnh Tôn giáo, pháp lệnh nầy vi phạm các nguyên tắc Tôn giáo và Nhân quyền. Chúng tôi chẳng tin tưởng gì vào đạo luật sắp ban hành, bởi vì Cộng sản theo chủ nghĩa Duy vật, bất dung Tôn giáo, họ muốn Tôn giáo phải phục vụ mục đích của đảng, chứ không bao giờ họ cho Tôn giáo được tự do hành đạo và truyền đạo”. Ban Chấp hành Khối Nhơn sanh Cao Đài thì viết đại ý: Hủy bỏ dự thảo 4, vì sai từ căn bản nên không thể chỉnh sửa. Mời đặc phái viên LHQ về tôn giáo, các hiền nhân quân tử có chuyên môn về pháp luật, am hiểu về cách thức xây dựng xã hội dân chủ, nhân sự trong các tôn giáo đã được chính quyền công nhận và chưa công nhận… đến tham gia soạn thảo. Vì đâu DLTNTG bị nhiều gáo nước lạnh tạt vào mặt như thế? Có nhiều nguyên nhân. Trước hết, làm sao một Nhà nước vô thần đấu tranh (nghĩa là quyết liệt xem tôn giáo như thuốc phiện nguy hại, khác với vô thần hưởng thụ bên tư bản xem tôn giáo chẳng hề cần thiết) và những viên chức không kinh nghiệm tâm linh tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an (trưởng ban tôn giáo chính phủ hiện thời là trung tướng công an Phạm Dũng)– lại nhảy ra lập luật cho người có tín ngưỡng và nhất là cho niềm tin tôn giáo? Thứ đến, so với Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2004 có 6 chương 41 điều, DLTNTG năm 2015 lại có tới 12 chương 71 điều, nghĩa là tinh vi hơn, siết chặt hơn. Nó tiếp tục củng cố cơ chế xin-cho, với đủ mọi loại giấy phép (thể hiện qua những kiểu nói “đăng ký” [nghĩa là xin phép, 23 từ], “chấp thuận” [7 từ], “nhà nước/cơ quan

Transcript of vietcongonline.files.wordpress.com · Web view- Quý Chức sắc và Tín đồ mọi Tôn giáo...

  Việc kỷ niệm 40 năm biến cố Việt cộng xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa xảy đến giữa lúc hầu hết toàn dân đều nhận ra bản chất của cái gọi là “giải phóng miền Nam”, đều thấy rõ mặt thật của cái gọi là “thành quả thống nhất đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa” vốn chỉ tóm gọn trong 3 từ: sai lầm, tội ác và thất bại… trên mọi phương diện. Thành thử cuộc diễu binh hoành tráng tại Sài Gòn hôm 30 tháng tư, với những mỹ từ lố bịch: “cuộc chiến thần thánh, hành quân thần tốc, chiến thắng thần kỳ”, với bài diễn văn chửi bới thậm tệ Mỹ ngụy và xưng tụng hết mình hai tên đế quốc đỏ từng điều khiển cuộc tàn phá đất nước và tàn sát dân tộc… chỉ có mục đích lừa gạt những kẻ ngu muội mù quáng và răn đe những ai mong muốn cái chế độ thối tha khốn nạn này biến khỏi đất nước cho nhanh! Đừng mơ! Đảng vẫn còn rất hùng mạnh !

Và như để tiếp nối tinh thần ấy, mới đây nhà cầm quyền lại tung ra một đòn răn đe nữa, nhắm vào khối tín đồ các tôn giáo, vốn chiếm đại đa số dân Việt. Đảng đâu có quên rằng “các đảng anh em và các nước anh em” bên Liên Xô và Đông Âu –không lâu sau những cuộc diễu binh thị uy, biểu dương lực lượng còn vĩ đại hơn VN nhiều– đã bị đập cho tan tành bởi những nhát búa của niềm tin tôn giáo và tự do dân chủ. Thành thử phải cấp tốc tạo ra dây thòng lọng để siết cổ các Giáo hội, và đó là Dự Luật tín ngưỡng tôn giáo (DLTNTG) vừa đưa ra hôm 17-04 để gọi là lấy ý kiến 62 tổ chức tôn giáo. Đây chỉ là những tổ chức được nhà nước cho phép hoạt động lâu nay, chứ vẫn còn nhiều cộng đoàn tín hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật vì cái tội “muốn độc lập”! Những cộng đoàn này, nhà cầm quyền coi như chẳng có mặt trên đất nước, thành thử không gởi đến dự thảo. Ngoài ra, thời gian góp ý chỉ kéo dài trong vòng 2 tuần lễ (đến 05-05). Tất cả cho thấy một thái độ ngạo mạn và kỳ thị, cũng như một ý đồ muốn áp đặt ý muốn của đảng lên các Giáo hội.

Dù vậy, nhiều tiếng nói đã được cất lên kịp thời. Cho tới nay, ngoài Cao Đài giáo có bản góp ý của tổ chức mang tên “Ban Chấp hành Khối Nhơn sanh”, thì phần lớn là của Công giáo với bản nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục VN, của các Giáo phận Bắc Ninh, Vinh, Kon Tum, Xuân Lộc. Hội đồng Liên tôn Việt Nam, quy tụ nhiều chức sắc của 5 tôn giáo (trong đó có những Giáo hội bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và thường xuyên bị đàn áp sách nhiễu) cũng đã có lời lên tiếng mang cái tên thẳng thừng: “Kháng thư phủ nhận”! Tựu trung, tất cả đều không tán thành nội dung của dự luật. Hội đồng GMVN viết: “Bản Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). …Dự thảo 4 này là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Bản Dự thảo này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở. Vì vậy, chúng tôi đề nghị: Không đồng ý Dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Soạn lại một bản Dự thảo khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của xã hội tiến bộ”. Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất thì cho rằng (x. RFA 7-5-2015): “Chính phủ Việt Nam đã ban hành bản Pháp lệnh Tôn giáo, pháp lệnh nầy vi phạm các nguyên tắc Tôn giáo và Nhân quyền. Chúng tôi chẳng tin tưởng gì vào đạo luật sắp ban hành, bởi vì Cộng sản theo chủ nghĩa Duy vật, bất dung Tôn giáo, họ muốn Tôn giáo phải phục vụ mục đích của đảng, chứ không bao giờ họ cho Tôn giáo được tự do hành đạo và truyền đạo”. Ban Chấp hành Khối Nhơn sanh Cao Đài thì viết đại ý: Hủy bỏ dự thảo 4, vì sai từ căn bản nên không thể chỉnh sửa. Mời đặc phái viên LHQ về tôn giáo, các hiền nhân quân tử có chuyên môn về pháp luật, am hiểu về cách thức xây dựng xã hội dân chủ, nhân sự trong các tôn giáo đã được chính quyền công nhận và chưa công nhận… đến tham gia soạn thảo.

Vì đâu DLTNTG bị nhiều gáo nước lạnh tạt vào mặt như thế? Có nhiều nguyên nhân. Trước hết, làm sao một Nhà nước vô thần đấu tranh (nghĩa là quyết liệt xem tôn giáo như thuốc phiện nguy hại, khác với vô thần hưởng thụ bên tư bản xem tôn giáo chẳng hề cần thiết) và những viên chức không kinh nghiệm tâm linh tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an (trưởng ban tôn giáo chính phủ hiện thời là trung tướng công an Phạm Dũng)– lại nhảy ra lập luật cho người có tín ngưỡng và nhất là cho niềm tin tôn giáo? Thứ đến, so với Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2004 có 6 chương 41 điều, DLTNTG năm 2015 lại có tới 12 chương 71 điều, nghĩa là tinh vi hơn, siết chặt hơn. Nó tiếp tục củng cố cơ chế xin-cho, với đủ mọi loại giấy phép (thể hiện qua những kiểu nói “đăng ký” [nghĩa là xin phép, 23 từ], “chấp thuận” [7 từ], “nhà nước/cơ quan nhà nước công nhận” [10 từ], “quy định” [36 từ] trong đó “quy định của pháp luật” [15 từ]). Không có chuyện nào trong tôn giáo mà các Giáo hội không phải xin phép nhưng nhà cầm quyền lại chẳng bị buộc phải cho phép! Tất cả nhằm mục đích giới hạn tự do tôn giáo cách nghiêm ngặt hơn và kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội cách thâm độc hơn. Nghĩa là buộc các Giáo hội phải im tiếng trước sai lầm và tội ác của nhà cầm quyền, phải khiêm tốn và nhẫn nại xin nhà nước thí ban cho các ân huệ, và tốt nhất là trở thành công cụ phục vụ chế độ, biết kết hợp nhuần nhuyễn “đạo pháp/giáo lý với xã hội chủ nghĩa”, biết khi thì làm chức sắc phục vụ, khi thì làm công an chỉ điểm! Có thế nhà nước mới nắm được tôn giáo chớ! Thứ ba, DLTNTG có rất nhiều từ ngữ và điều khoản mơ hồ, như “bảo hộ” (thế nào là bảo hộ?), “hợp pháp” (thế nào là hợp pháp?), “hoạt động trái pháp luật” (thế nào là hoạt động trái pháp luật?), nhất là ở Điều 6 (Các hành vi bị nghiêm cấm), khoản 5b, c, d, đ và khoản 7. Tất cả tạo cơ hội để nhà cầm quyền và các viên chức địa phương tha hồ giải thích tùy tiện nhằm cấm cản hay thậm chí đòi hối lộ. Thứ bốn, bản văn có rất nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau. Chương X và chương XI không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, hoàn toàn mang tính chất áp đặt quyền lực của Nhà nước lên các Giáo hội và tổ chức Giáo hội, thành thử mâu thuẫn với Điều 2 trong Dự thảo cũng như với HP 2013. Nhất là mâu thuẫn với Công ước Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự (điều 18) mà VN đã ký kết. Tóm tắt, DLTNTG muốn biến các quyền và tự do tôn giáo hay tín ngưỡng thành tội phạm hình sự!

Các quyền và tự do tôn giáo đó là gì? Trước hết, các tôn giáo phải được tự do thành lập lẫn tự động sinh hoạt mà chỉ cần thông báo, phải được thừa nhận tư cách pháp nhân, phải được xem như là các tổ chức xã hội dân sự độc lập. Thế nhưng trong LTNTG, sự thông báo này trở thành việc xin phép (nấp dưới danh từ “đăng ký”, x. các điều 12-16) với những điều kiện khắt khe, những quy định mơ hồ, nhằm làm cho mọi tổ chức tôn giáo trước và sau khi được nhà cầm quyền cho “sinh hoạt” và “hoạt động tôn giáo” trở nên ngoan ngoãn dễ bảo. Chính đặc phái viên tự do tôn giáo của LHQ mới đây đã tố cáo: điều này là vi phạm nhân quyền! Ngoài ra, trong Dự thảo, người ta không hề tìm thấy từ “pháp nhân” vốn rất quan trọng đối với quy chế của một Giáo hội, và như thế nhà cầm quyền tiếp tục phủ nhận tư cách pháp lý của họ, không cho họ được bảo vệ về mặt pháp luật và gây khó khăn cho họ trong giao dịch xã hội. Thứ hai, các tôn giáo phải được quyền độc lập trong việc tổ chức về nhân sự như: chiêu sinh huấn luyện người tu hành, tấn phong,

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 219 Trang

kiện khắt khe, những quy định mơ hồ, nhằm làm cho mọi tổ chức tôn giáo trước và sau khi được nhà cầm quyền cho “sinh hoạt” và “hoạt động tôn giáo” trở nên ngoan ngoãn dễ bảo. Chính đặc phái viên tự do tôn giáo của LHQ mới đây đã tố cáo: điều này là vi phạm nhân quyền! Ngoài ra, trong Dự thảo, người ta không hề tìm thấy từ “pháp nhân” vốn rất quan trọng đối với quy chế của một Giáo hội, và như thế nhà cầm quyền tiếp tục phủ nhận tư cách pháp lý của họ, không cho họ được bảo vệ về mặt pháp luật và gây khó khăn cho họ trong giao dịch xã hội. Thứ hai, các tôn giáo phải được quyền độc lập trong việc tổ chức về nhân sự như: chiêu sinh huấn luyện người tu hành, tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc; trong việc hình thành, sắp xếp các cơ cấu như chốn tu trì, trường đào tạo, lãnh địa hoạt động… Thế nhưng DLTNTG lại buộc mọi Giáo hội phải khai báo, xin phép về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc (Đ. 19-20), việc thành lập lẫn hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo (Đ. 21-25), việc tổ chức hội nghị, đại hội tôn giáo (Đ. 32), việc mở các lớp bồi dưỡng tôn giáo (Đ. 27). Về nhân sự, nhà cầm quyền phê duyệt trước ứng sinh cơ sở tu hành lẫn trường đào tạo chức sắc (Đ. 24), buộc đăng ký những ai đi tu (Đ. 43), can thiệp vào chương trình huấn luyện họ (Đ. 26), vào việc tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc lãnh đạo (Đ. 34-39). Thứ ba, các tôn giáo phải được tự do truyền bá giáo lý công khai cho mọi người, góp phần giáo dục giới trẻ mọi cấp từ tiểu học lên đại học, có quyền tham gia các hoạt động y tế, từ thiện xã hội vô giới hạn (như thời VNCH). Đồng thời, các tôn giáo phải được tự do lập nhà in, nhà xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình, trang mạng riêng để phục vụ các nhu cầu tôn giáo (mà không bị đặt tường lửa). Thế nhưng, làm gì có những thứ đó trong cái xã hội “ưu việt” về dân chủ nhân quyền này! Thứ bốn, các tôn giáo phải được quyền tư hữu đất đai, được tự do nhận tặng, mua bán, trao đổi bất động sản, được mở rộng hay thu hẹp cơ sở tùy theo nhu cầu tôn giáo của mình. Thế nhưng với nguyên tắc áp đặt: “Nhà nước là chủ sở hữu mọi tài nguyên đất đai, công dân chỉ có quyền sử dụng” (theo HP và Luật đất đai), thì quả là thứ quyền này, tôn giáo ngay cả trong giấc mơ cũng chẳng có được! Thứ năm, các tôn giáo phải được tự do liên lạc với đồng đạo hay với các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài, tự do gởi thành viên của mình ra ngoại quốc để tiến hành các hoạt động liên quan đến mình dù ở quốc nội hay hải ngoại. Thế nhưng với não trạng “nhìn đâu cũng thấy thế lực thù địch”, DLTNTG, qua các điều 48-50, vẫn nhất quyết kiểm soát chặt chẽ quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ. Mọi hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo dù của cá nhân hay tổ chức, dù nội địa hay ngoại quốc đều phải xin phép.

Thế nên, Hội đồng Liên tôn VN khẳng định: “Các tôn giáo tự bản chất là những tập thể bao gồm nhiều tín đồ và mọi tín đồ đều là những công dân bình đẳng. Họ có các quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Những quyền và nghĩa vụ này được xác định trong Hiến pháp và các bản văn dưới luật hình thành theo tinh thần tự do dân chủ, phù hợp với các Công ước quốc tế về nhân quyền. Chính vì thế, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ toàn văn và mọi điều khoản LTNTG mà nhà cầm quyền Việt Nam đã soạn thảo nhằm mục đích dùng bạo lực hành chánh tiêu diệt tôn giáo ngõ hầu củng cố quyền lực độc tài toàn trị của đảng CS”. (Trích Kháng thư về DLTNTG)

Vấn đề còn lại là mọi tôn giáo tại VN nên noi gương các Giáo hội tại Liên Xô và Đông Âu trước đây, tích cực góp phần bằng những hành động cụ thể và quyết liệt (chức sắc và tín đồ mỗi bên theo cách riêng của mình) để xử lý tận căn cái chủ nghĩa, chế độ, chính đảng đang bách hại tín đồ lẫn đàn áp nhân dân, đang tiêu diệt tôn giáo lẫn tàn hại xã hội này. Đừng có sợ mang tiếng “làm chính trị”! Bằng không, DLTNTG sẽ là dây thòng lọng kết liễu sinh mệnh, hủy phá bản chất, xóa bỏ vai trò và đập tan danh dự của các tôn giáo! BAN BIÊN TẬP

BAN BIÊN TẬP.

Trg 01Sợi dây thòng lọng siết cổ Tôn giáo!!!

Trg 03Kháng thư về Luật Tín ngưỡng Tôn giáo.

-Hội đồng Liên tôn Việt Nam.Trg 04Nhận định và góp ý Dự thảo 4

Luật Tín ngưỡng Tôn giáo.-Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Trg 05Đối với Giáo hoàng Phanxicô, Ki-tô hữu có thể nên thánh khi...-Anne-Bénédicte Hoffner.

Trg 06Tăng thống Quảng Độ tiếp phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ…-Phòng Thông tin PGQT.

Trg 07Độc kế chiếm Biển Đông của Trung Quốc sẽ thất bại.-National Interest.

Trg 08Khi Thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang. -Nguyễn Gia Kiểng.

Trg 11Vì sao Trung Quốc mắc nợ? -Nguyễn Xuân Nghĩa.Trg 12Lịch sử 70% giả dối !!! -Đại Nghĩa.Trg 15”Văn tự bán nước” giá bao

nhiêu? -Võ Thị Hảo.

Trg 17Nhân ngày 30/04. Cuộc chiến “cả nước là diễn viên”.-Bùi Tín.

Trg 19Không hậnthù sau chiếntranh-Ngô Thụy Chương.

Trg 20Hòa giải, những bàn tay gỗ. -CanhCo.

Trg 21Sự thật. -Ns Tuấn Khanh.

Trg 22Làm bẽ mặt bọn Việt Cộng trong Ngày Quốc hận 30-04-15...-Vietnam Sydney Radio.

Trg 2340 năm quán quân giải lú.-Đinh Tấn Lực.

Trg 24Ông giáo sư CS 56 tuổi đảng đã sai lầm nghiêm trọng khi…-Tô Hải.

Trg 2620 nhà văn tuyên bố từ bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam.

Trg 28Quân đội CSVN là một thứ kiêu binh. -Người Việt.

Trg 29Nước Mỹ có thể mất bất cứ lúc nào. -Nguyễn Tường Thụy.

Trg 31Từ nhà giam tới hành hung trên đường phố. -Mặc Lâm.

30-04-1975 CHỈ LÀ NGÀY CƯỚP NƯỚC, HẠI DÂN, ĐỌA ĐÀY QUÊ MẸ.

Ngày tàn của văn hóa chỉ huy mặc đồng phục (Babui, DCVonline)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Kính gởi:- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.- Quý Chức sắc và Tín đồ mọi Tôn giáo tại Việt Nam.- Quý Cơ quan Nhân quyền QT.

Vào ngày 17-04-2015, Ban Tôn giáo Chính phủ đã gởi đến 62 Tổ chức Tôn giáo Dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng Tôn giáo 2015 (LTNTG) kèm một văn thư yêu cầu góp ý kiến quanh Dự thảo này và phải gởi về trước ngày 05-05-2015.

Đứng trước sự kiện và văn bản này, Hội đồng Liên tôn VN -quy tụ nhiều chức sắc của 5 tôn giáo lớn có mục đích tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền- có các nhận định và khẳng định như sau:

1- Những nhận định:a- Việc gởi tới các Tổ chức Tôn

giáo mà nhà nước đang công nhận một văn bản pháp luật quá dài, nhưng thời gian góp ý quá ngắn thể hiện sự coi thường các Tôn giáo, kỳ thị một số Tôn giáo khác, vừa là một âm mưu áp đặt lên tín đồ ý muốn của đảng Cộng sản.

b- Làm sao một Nhà nước vô thần và những viên chức không có kinh nghiệm tâm linh tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an- lại lập luật cho người có tín ngưỡng và cho niềm tin tôn giáo?

c- Dự thảo LTNTG vẫn tiếp tục cơ chế xin-cho, với đủ mọi loại giấy phép, nhằm mục đích kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội, giới hạn tự do tôn giáo một cách nghiêm ngặt hơn nữa.

d- Dự thảo LTNTG có rất nhiều từ ngữ và điều khoản mơ hồ tạo cơ hội để nhà cầm quyền và các viên chức địa phương tha hồ giải thích tùy tiện nhằm cấm cản hay thậm chí đòi hối lộ.

e- Dự thảo LTNTG có rất nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau, và nhất là mâu thuẫn với Công ước Quốc tế về các quyền Chính trị và

Dân sự (điều 18) cũng mâu thuẫn với Hiến pháp 2013 (điều 24).

2- Những khẳng định:a- Các tôn giáo phải được tự do

thành lập và tự động sinh hoạt, phải được thừa nhận tư cách pháp nhân, phải được xem như là các tổ chức xã hội dân sự độc lập, mà không phải chờ “giấy phép công nhận” của nhà cầm quyền.

b- Các tôn giáo phải được quyền độc lập trong việc tổ chức nội bộ về nhân sự và cơ cấu như: chiêu sinh huấn luyện cho người tu hành, tấn phong, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc; trong việc hình thành, sắp xếp các cơ cấu như chốn tu trì, trường đào tạo, lãnh địa hoạt động...

c- Các tôn giáo phải được tự do truyền bá giáo lý cho mọi người, góp phần giáo dục giới trẻ và có quyền tham gia các hoạt động y tế, từ thiện xã hội. Đồng thời, các tôn giáo phải được tự do lập nhà in, nhà xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình, trang mạng riêng để phục vụ các nhu cầu tôn giáo.

d- Các tôn giáo phải được quyền tư hữu đất đai, được tự do nhận tặng, mua bán, trao đổi bất động sản, được mở rộng hay thu hẹp cơ sở tùy theo nhu cầu tôn giáo của mình.

e- Các tôn giáo phải được tự do liên lạc với đồng đạo hay với các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài, tự do gởi thành viên của mình ra ngoại quốc để tiến hành các hoạt động liên quan đến Giáo hội mình dù ở quốc nội hay hải ngoại.

Mọi quyền và mọi tự do trên đây hoàn toàn không thấy có trong LTNTG!

Kết luậnCác tôn giáo tự bản chất là

những tập thể bao gồm nhiều tín đồ và mọi tín đồ đều là những công dân bình đẳng. Họ có các quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Những quyền và nghĩa vụ này được

xác định trong Hiến pháp và các bản văn dưới luật hình thành theo tinh thần tự do dân chủ, phù hợp với các Công ước QT về nhân quyền.

Chính vì thế, trong tư cách những lãnh đạo tinh thần đang đấu tranh cho tự do độc lập của tôn giáo cũng như cho nhân quyền và dân quyền của đồng bào, chúng tôi hoàn toàn bác bỏ toàn văn và mọi điều khoản LTNTG mà nhà cầm quyền Việt Nam đã soạn thảo bất chấp ý kiến của các tôn giáo, nhằm mục đích dùng bạo lực hành chánh tiêu diệt tôn giáo ngõ hầu củng cố quyền lực độc tài toàn trị của đảng CS.

Làm tại Việt Nam ngày 10 tháng 5 năm 2015

Các chức sắc trong Hội đồng Liên tôn VN đồng ký tên.

Công Giáo: Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi. Linh mục Giu-se Đinh Hữu Thoại. Linh mục An-tôn Lê Ngọc Thanh. Linh mục Phao-lô Lê Xuân Lộc.

Phật Giáo: Hòa thượng Thích Không Tánh. Thượng tọa Thích Viên Hỷ.

Tin lành: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa. Mục sư Đinh Uỷ. Mục sư Đinh Thanh Trường. Mục sư Nguyễn Hồng Quang. Mục sư Phạm Ngọc Thạch. Mục sư Nguyễn Trung Tôn. Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng. Mục sư Lê Quang Du. Mục sư Đinh Diêm.

Cao đài: Chánh trị sự Hứa Phi. Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân. Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng.

Phật giáo Hoà Hảo: Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng. Ông Lê Văn Sóc. Ông Phan Tấn Hòa. Ông Tống Văn Chính

Số 219 Trang 3

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Kính gửi:   - Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam,- Ông Phạm Dũng, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ,

Đáp lại yêu cầu xin góp ý cho bản Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Dự thảo 4), chúng tôi, Ban Thường vụ, nhân danh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin có một số nhận định và đề nghị sau:

I. NHẬN ĐỊNH CHUNGBản Dự thảo 4 chưa làm rõ mục

đích của luật, vì luật được tạo ra nhằm đảm bảo quyền con người, tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội cùng cộng đồng dân tộc.

Điều kiện tiên quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc người dân chu toàn bổn phận làm người, - tu thân, tề gia, trị quốc, - phải mang tính thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi cho truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng đạo của người dân.

Trong bản Dự thảo 4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho nhà cầm quyền (như Điều 9, cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên đi quyền lợi của người dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo.

Điều thiếu sót quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự “tồn tại” hợp pháp của một tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc không công nhận tổ chức tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của Bộ Luật Dân sự 2005.

Nhìn chung, bản Dự thảo 4 đi ngược lại với quyền tự do về tín ngưỡng và tôn giáo, gây lo ngại nhiều hơn là đem lại sự bình an cho mọi người.

II. MỘT SỐ CHI TIẾTDự thảo 4 có rất nhiều Điều,

khoản và những chi tiết bất cập, không nói lên được thiện chí của Nhà nước trong việc tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một số Điều, khoản và chi tiết đáng quan tâm nhất:

1. Điều 2 khoản 4 chưa giải thích rõ cụm từ “quy định của pháp luật” là như thế nào.

2. Điều 6 khoản 5b quy định quá chung chung và mơ hồ, vì có thể có những mâu thuẫn về đạo đức, luân lý giữa quan điểm của tôn giáo và chính sách của Nhà nước, như vấn đề phá thai, ly dị, hôn nhân đồng tính... Vì thế, không thể chấp nhận một sự cấm đoán ở điểm này.

3. Điều 15 của Dự thảo 4 liệt kê các hoạt động của tổ chức tôn giáo sau khi được cấp đăng ký hợp pháp. Trong các hoạt động này, thiếu hẳn những quyền để duy trì sự “tồn tại” của tổ chức tôn giáo. Trong khoản 1 chỉ công nhận việc “sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tôn giáo”, nhưng lại không nói đến quyền sở hữu và sử dụng cơ sở.

4. Điều 18 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Điều 24 Hiến pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Vì vậy những người đang bị giam, giữ được đáp ứng nhu cầu tôn giáo theo quy định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiến pháp.

5. Điều 9 và Điều 44 Dự thảo 4 là không khả thi, đòi hỏi này vô lý vì mâu thuẫn với Điều 2 khoản 2.

6. Điều 32: Hội nghị và đại hội của các tôn giáo không cần sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì đây là việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo.

7. Điều 38: Điều này là một bước thụt lùi so với Điều 23 của “Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”, Điều 19 của Nghị định 22 và Điều 23 của Nghị định 92.

8. Điều 49: Đòi hỏi quá nặng nề và phiền toái. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn

giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài là vấn đề thuần túy tôn giáo, không cần phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước. Nhà nước không nên xen quá sâu vào công việc nội bộ các tôn giáo.

9. Điều 50 qui định khá mơ hồ: “tổ chức tôn giáo quốc tế” là gì? Thế nào là “tham gia tổ chức tôn giáo quốc tế”? Qui định mơ hồ sẽ gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo.

10. Điều 51 khoản 1: “…tổ chức tôn giáo… được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến tặng, cho trên cơ sở tự nguyện…”. Điều này vẫn không nói đến hay hạn chế các hoạt động của tổ chức tôn giáo như: quản lý và sử dụng tài sản hay tài khoản ngân hàng, mua bán hay chuyển nhượng cơ sở tôn giáo theo nhu cầu thực tế…

11. Điều 52: Các tổ chức tôn giáo phải được tự do hoạt động trong các lãnh vực từ thiện, nhân đạo và không có hạn chế nào.

12. Điều 54: Phải hiểu như thế nào là “tài sản hợp pháp” khi các tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân?

13. Điều 66: Quy định về việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, nhưng chỉ nói đến việc khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính theo luật tố tụng hành chính. Việc tổ chức tôn giáo có quyền khiếu kiện tại toà án các cấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không được đề cập: chẳng hạn khi bị lấn chiếm đất đai, cơ sở tôn giáo.

14. Chương X và chương XI không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoàn toàn mang tính chất áp đặt quyền lực của Nhà nước lên các tổ chức tôn giáo, tạo kẽ hở cho cơ quan hành pháp lạm dụng quyền lực. Vì vậy, hai chương này tự mâu thuẫn với Điều 2 trong Dự thảo 4 cũng như với Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi năm 2013.

III. KIẾN NGHỊBản Dự thảo 4 đi ngược lại với

Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). Chúng tôi nhận thấy Dự thảo 4 này là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Bản Dự thảo này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị:– Không đồng ý Dự thảo 4 Luật

tín ngưỡng, tôn giáo.– Soạn lại một bản Dự thảo

khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của xã hội

Số 219 Trang 4

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tiến bộ.– Bản Dự thảo mới phải được

tham khảo ý kiến từ các tổ chức tôn giáo. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo phải được công nhận tư cách pháp nhân và được pháp luật bảo vệ.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 05 năm 2015

TM. Ban Thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Tổng thư ký (đã ký)+ Cosma Hoàng Văn Đạt SJ

Luật Tín ngưỡng Tôn giáo (buộc mọi Giáo hội phải xin

phép hoàn toàn cho mọi hoạt động) là dây thòng lọng mới siết cổ các Tôn

giáo tại Việt Nam !!!Trả lời câu hỏi của một thành

viên trẻ của phong trào Đời sống Kitô hữu, Đức Phanxicô đã vinh danh những ai “xen” vào các việc chính trị dù “làm việc nhỏ hay việc lớn”. Theo ngài, ai sợ tội và không dám làm thì họ bị lầm. “Nếu anh chị em có bàn tay bẩn thì anh chị em xin Chúa tha tội và xin anh chị em tiến tới đàng trước!”, Đức Phanxicô đã nói như trên với 4 000 thành viên của phong trào đến gặp ngài.

“Nếu Chúa gọi anh chị em trên con đường này thì xin anh chị em lên đường, hãy làm chính trị dù con đường này có thể làm anh chị em đau khổ, có thể sẽ làm anh chị em phạm tội, nhưng Chúa ở với anh chị em. Anh chị em xin Chúa thứ tội và tiến tới đàng trước.” Trong buổi gặp hàng ngàn giáo dân Ý trong phong trào Đời sống Kitô hữu, như thường lệ, Đức Phanxicô để qua một bên bài diễn văn soạn sẵn –“như tất cả các bài diễn văn, nó sẽ làm anh chị em chán” – để trả lời bốn câu hỏi của những người hiện diện đặt ra.

Công việc mục vụ ở nhà tù, hy vọng, đào tạo linh mục… đó là những chủ đề được các thành viên của cộng đồng tông đồ theo tinh thần của thánh I-Nhã đặt ra cho Đức Phanxicô. Họ là những người rất dấn thân trong các sinh hoạt xã hội.

Anh Gianni 30 tuổi, người miền Aquila, thủ thủ của Abruzzes (Ý), vùng bị tàn phá do cuộc động đất năm 2009 mà việc xây dựng bị chậm trễ do nhiều lý do, trong đó có lý do tham nhũng. Anh Gianni dấn thân trong các công việc của “các hiệp hội và trong lãnh vực chính trị”, anh đặt một câu hỏi đơn giản: làm sao “duy trì quan hệ giữa đức tin vào Chúa Kitô và hành động cho một xã hội công chính và đoàn kết hơn?”

“Một người công giáo không thể bằng lòng đứng ở ban công nhìn”

Đứng trước câu hỏi lớn này, Đức Phanxicô đã có những chữ đơn giản để nói lên xác quyết của mình: “Làm chính trị là rất quan trọng, dù làm việc lớn hay làm việc nhỏ! Chúng ta có thể trở nên thánh khi làm chính trị.” Đương nhiên không có chuyện “lập đảng Công giáo, đó không phải là con đường”, ngài cẩn thận đề phòng trước, trong một nước mang dấu ấn mạnh bởi những thăng trầm của nền dân chủ trong tinh thần Kitô.

Nhưng ngược lại, “xen vào việc chính trị” không những chỉ là một cách, một chọn lựa nhưng còn là một “bổn phận” của người Công giáo. “Một người Công giáo không thể bằng lòng đứng ở ban công nhìn”, nói với các thành viên của Hiệp hội Đời sống Kitô, ngài lặp lại lời đã nói với sinh viên của các trường đại học Rôma và nhất là trong buổi canh thức kết thúc Ngày Giới Trẻ ở Rio de Janeiro năm 2013…

Ở Ý hai năm nay, hàng ngày ngài gặp các nhà lãnh đạo chính trị ở trên khắp thế giới; gì thì gì, ngài không ngây thơ. Các chữ của ngài đủ để nói lên rằng ngài, người xem lãnh vực chính trị là một “hình thức tử đạo, tử đạo hàng ngày: người đi tìm để có lợi ích chung mà không bị tham nhũng cám dỗ, (…) qua những chuyện nhỏ, rất rất nhỏ, những chuyện dần dần”, dù phải “mang

thánh giá của rất nhiều thất bại và bao nhiêu là tội.”

Những người công giáo “làm chính trị với bàn tay sạch và tốt”

Những tấm gương của Robert Schuman (1886-1963) mà án phong chân phước đang tiến hành, của Alcide De Gasperi (1881-1954), nhà sáng lập đảng Dân chủ trong tinh thần Kitô ở Ý, người được xem như một trong các Tổ phụ của Âu Châu, cho thấy có những người Công giáo “đã làm chính trị với bàn tay sạch và tốt” và như thế làm “lợi cho hòa bình giữa các quốc gia”.

Nói chuyện như một cha tuyên úy với người trẻ, Đức Phanxicô đưa ra câu hỏi và câu trả lời, ngài nêu lên các được thua trong việc dấn thân của Giáo hội vào lãnh vực chính trị. Để chống với nạn “thờ thần tài”, chống nạn “văn hóa của loại bỏ” giết “em bé chưa sinh, loại người già ra khỏi xã hội”, để thực hiện được sự thật của giáo huấn theo tinh thần Kitô, giáo dân không được ngần ngại khi dấn thân, dù “bàn tay và tâm hồn bị dơ đi một chút”, ngài giải thích rõ ràng như trên.

Đối với Đức Phanxicô, ai nói: “Dạ thưa cha, không, con không muốn làm chính trị vì con không muốn phạm tội”, người đó lầm: “Hãy tiến tới đàng trước. Hãy cầu xin Chúa giúp anh chị em tránh dịp phạm tội và nếu anh chị em có bàn tay dơ, xin Chúa tha thứ và hãy tiến tới đàng trước. Phải làm, anh chị em phải làm…”  “Tất cả các giáo hoàng trước Đức Phanxicô đều muốn khôi phục lại danh dự cho chính trị”

Đối với linh mục Dòng Tên Alain Thomasset, chuyên gia trong giáo huấn xã hội của Giáo hội, sự mới mẻ của bài diễn văn này ở hình thức chứ không ở nội dung: “Kể từ Đức Piô XI, tất cả các giáo hoàng trước Đức Phanxicô đã thấy đây là một “nghề cao thượng’, họ muốn khôi phục lại danh dự cho chính trị.” Trước Đức Phanxicô, Đức Gioan-Phaolô II với Tông huấn Kitô hữu Giáo dân (Christifideles laici) năm 1988, rồi Đức hồng y

Số 219 Trang 5

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Ratzinger khi ngài đứng đầu Bộ Tín Lý và khi ngài là Giáo hoàng cũng đã đặt vấn đề về những nguy cơ liên hệ đến chính trị.

Linh mục Alain Thomasset ghi nhận: “có thể nên nhấn mạnh nhiều hơn đến sự kết hợp của đức tin –đấu tranh cho công chính là một cách sống đời sống đức tin và ngay cả đó là một đòi hỏi của đức tin– hơn là nhắc lại các nguyên tắc lớn. Giáo huấn không mới nhưng cách nói độc đáo. Đức Phanxicô không sợ để nói lên điều này: thà làm chính trị mà bị lầm còn hơn là không làm.”

Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

Chiều ngày 4-5 vừa qua, Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ đã đến viếng thăm và trao đổi với Đức Tăng thống Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện. Cuộc tiếp xúc và trao đổi trải qua một giờ đồng hồ trong tinh thần cởi mở và thân ái.

Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ gồm có Dân biểu Cộng hoà Matt Salmon Trưởng phái đoàn, ông là Chủ tịch Phân ban Á châu Thái Bình dương thuộc Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện, cùng với Dân biểu Dân chủ Alan Lowen-thal, và Dân biểu Cộng hoà Tom Emmer. Ngoài ra còn có các vị phụ tá các Dân biểu, nhân viên toà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon do ông Charles Selles, Tham tán Chính trị dẫn đầu, tổng cộng 11 người.

Đức Tăng thống ngỏ lời cám ơn Quốc hội Hoa Kỳ đã quan tâm đến vấn đề tôn giáo nói chung, và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) nói riêng, qua cuộc viếng thăm hôm nay. Nhân cuộc gặp gỡ, Đức Tăng thống đã trao tặng Phái đoàn tập hồ sơ về “40 Năm đàn áp GHPGVNTN – Giác thư gửi Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam” (40 Years of Repression

against the Unified Buddhist Church of Vietnam – Memorandum for the US Congression Delegation visiting Viet-nam) cùng Nhận xét của Đức Tăng thống Thích Quảng Độ nhân chuyến viếng thăm của Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ (Remarks by UB CV Patriarch Thich Quang Do to the visiting US Congressional Delega-tion). Hồ sơ do Đức Tăng thống chỉ thị Tổng vụ Truyền thông Viện Hoá đạo và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế thực hiện.

Hồ sơ trình bày đại quan 2000 năm Phật giáo trong lịch sử Việt Nam với tinh thần dấn thân cứu khổ của Đại thừa giáo nguồn gốc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và mạng lưới xã hội của Giáo hội trên các lĩnh vực tín ngưỡng, văn hoá, giáo dục, xã hội, y tế , từ thiện hiện trạng Giáo hội bị đàn áp từ năm 1975 luật pháp XHCN nhằm hạn chế tự do tôn giáo những sách nhiễu, khủng bố cụ thể đối với GHPGVNTN tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam quản chế trường kỳ Đức Tăng thống Thích Quảng Độ chính sách đàn áp tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội.

Hồ sơ kết thúc với 6 yêu sách mà nhà cầm quyền Hà Nội phải thực hiện :

1. Phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho GHPGVNTN và tất cả các cộng đồng tôn giáo khác không được thừa nhận, được tự do sinh hoạt tôn giáo ;

2. Trả tự do cho tất cả chư Tăng, Phật tử bị giam cầm vì lý do biểu tỏ ôn hoà đức tin của họ ;

3. Hoàn trả tất cả cơ sở tài sản Giáo hội bị nhà nước tịch thu tại miền Bắc kể từ năm 1945, và tại miền Nam kể từ 1975 ;

4. Huỷ bỏ hoặc xét duyệt lại các luật pháp về tôn giáo nhằm giới hạn sinh hoạt tôn giáo hoặc đặt tôn giáo dưới quyền kiểm soát của đảng CS;

5. Xét duyệt lại hoặc huỷ bỏ những điều luật mơ hồ trong bộ Luật Hình sự biến các tự do tôn giáo hay tín ngưỡng thành tội phạm ; và

6. Bảo đảm và thăng tiến các quyền cơ bản như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp vốn được bảo đảm trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của

LHQ mà Việt Nam đã tham gia ký kết.Trong các điều nhận xét chia sẻ

với Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ, Đức Tăng thống tán thán sự viếng thăm đầy ý nghĩa này : “Không những khiến tôi cảm nhận mình không bị bỏ quên, mà còn là dấu hiệu mạnh mẽ gửi tới nhà cầm quyền Việt Nam. Vì nhà cầm quyền quản chế tôi, cô lập tôi, cấm đoán tôi mọi thứ tự do, nhằm bóp chết tiếng nói của tôi. Nhưng cuộc thăm viếng của quý Ngài chứng tỏ họ đã thất bại”.

Ngài cũng nói rằng “40 năm chiến tranh chấm dứt, quan hệ Mỹ Việt còn phức tạp. Vừa đem tới nhiều cơ hội đồng thời với nhiều thách thức (…) Hoa kỳ đang đặt trọng tâm vào Châu Á. Vào lúc Việt Nam cũng đang muốn đóng vai trò trọng thiết trong khu vực và trên thế giới, bởi vậy Hà Nội cần thiết sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ để tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP) để thúc đẩy nền kinh tế chậm tiến của Việt Nam. Các lãnh đạo Cộng sản nghĩ rằng họ có thể thành công thực hiện các điều ấy mà chẳng cần cải cách chính trị họ thường khoe khoang rằng đã “xây dựng dân chủ bằng chế độ độc đảng”. Nhưng chính sách đổi mới kinh tế không thông qua cải cách chính trị chỉ mang thêm tai hoạ cho đất nước, mà kết quả là bất bình đẳng xã hội và hố sâu giàu nghèo. Thiếu dân chủ đa nguyên và nhân quyền, chúng tôi chẳng thể nào xây dựng một xã hội công bình, lành mạnh và an lạc cho Việt Nam”.

“Tôi tin rằng Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn tác động Việt Nam bước lên đường cải cách chính trị. Bằng việc kiên trì lấy nhân quyền làm nền tảng trong quan hệ hai nước, Hoa Kỳ sẽ tác động vào giới lãnh đạo Việt Nam, để họ hiểu rằng quan hệ hai nước không chỉ đặt trên vấn đề kinh tế trong khi Việt Nam vẫn đàn áp các quyền cơ bản của người công dân”.

Đức Tăng thống Thích Quảng Độ cũng nhắc đến Phúc trình của Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới vừa công bố hôm 30-4. Ngài nói : “Tự do Tôn giáo là một trong các quyền cơ bản, và cũng là chìa khoá mở ra tiến trình dân chủ hoá Việt Nam. Trong Phúc trình vừa công bố trong tuần này của Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới, Uỷ hội đã nêu bật những vi phạm trầm trọng tự do tôn giáo, và đề nghị đặt Việt Nam vào danh sách “các quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm” (CPC )”.

“Tôi tin rằng sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ cho tự do tôn giáo tại Việt

Số 219 Trang 6

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nam nói chung, và GHPGVNTN nói riêng, sẽ mang lại sự tác động sâu xa và bền vững trong khu vực. Ở vào thời đại mà nạn khủng bố hoành hành trên toàn cầu, vào lúc các tôn giáo cực đoan ngự trị những trung tâm tranh chấp, thì sự hiện hữu của nền minh triết hoà bình, khoan dung như Phật giáo có thể đóng góp hữu hiệu để giữ vững sự ổn định và hoà ái tại Châu Á Thái Bình dương”.

Trong cuộc thăm viếng và trao đổi, Đức Tăng thống giới thiệu với Phái đoàn Hoa Kỳ Cư sĩ Lê Công Cầu, Tổng Thư ký Viện Hoá đạo để trình bày một số hiện trạng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Đáp lời hỏi của Dân biểu Trưởng Phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ về diễn tiến những cuộc đàn áp, cư sĩ Tổng thư ký trình bày khái quát 3 chiến thuật tiêu diệt GHPGVNTN của Cộng sản, là đánh vào lãnh đạo của Giáo hội để Giáo hội như rắn mất đầu mà tan rã, nhưng họ đã thất bại. Giai đoạn hai là dùng Sư đánh Sư, Phật tử đánh Phật tử, bằng cách lập ra một Giáo hội Nhà nước thừa sai của đảng Cộng sản, nằm trong Mặt trận Tổ quốc của đảng, vào năm 1981, để loại trừ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra ngoài vòng pháp luật. Giai đoạn ba là âm thầm đánh vào cuộc sống của từng gia đình. Ai theo GHPGVNTN thì họ sẽ gây khó khăn cho việc kinh doanh của gia đình, việc học hành của con cái…, và buộc các đương sự phải viết cam kết là không được theo GHPGVNTN nữa.

Về câu hỏi Dự thảo luật Tín ngưỡng Tôn giáo của nhà nước, Cư sĩ Lê Công Cầu cho rằng “Chính phủ Việt Nam đã ban hành bản Pháp lệnh Tôn giáo, pháp lệnh nầy vi phạm các nguyên tắc Tôn giáo và Nhân quyền. Chúng tôi chẳng tin tưởng gì vào đạo luật sắp ban hành, bởi vì Cộng sản theo chủ nghĩa Duy vật, bất dung Tôn giáo, họ muốn Tôn giáo phải phục vụ mục đích của đảng, chứ không bao giờ họ cho Tôn giáo được tự do hành đạo và truyền đạo”.

Trong cuộc trao đổi, có lúc Dân biểu đảng Dân chủ Alan Lowenthal cho biết rằng ông đại diện cho địa phương có cộng đồng người Việt sinh sống đông đảo nhất ở California. Ông cảm động được gặp Đức Tăng thống, một người nổi tiếng trên toàn thế giới qua công cuộc đấu tranh cho Nhân quyền và Tự do của VN. Ông cho biết thêm : “Chúng tôi đã chuyển tải những tin tức của cuộc đấu tranh nầy cho Cộng đồng Người Việt, và chúng tôi sẽ chuyển tải cuộc gặp gỡ hôm nay để Cộng đồng Người Việt biết về

công cuộc đấu tranh không mệt mỏi của Ngài để mong cầu hạnh phúc cho dân tộc VN”. Nói rồi, Dân biểu thay mặt Phái đoàn trao cho Đức Tăng thống và Cư sĩ Tổng Thư ký hai món quà kỷ niệm của Quốc hội Hoa Kỳ.

TỰ DO NGÔN LUẬNBán nguyệt san ra ngày 1

và 15 mỗi thángIN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:[email protected]

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

http:// www.tdngonluan.com www.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.comhttp://www.viet.no

http://khoi8406vn.blogspot.com

Xin tiếp tay phổ biến cho Đồng bào Việt Nam, nhất là

tại quốc nội.Gần đây, nhiều nhà quan sát có

thể sốc và ngạc nhiên về những hành vi ngang ngược của Trung Quốc (TQ) ở Biển Đông. Tuy nhiên, nếu nhìn lại mấy thập kỷ trước, sẽ thấy những hành vi này đã được lên kế hoạch sẵn.

Nếu có cường quốc bên ngoài can thiệp và các quốc gia ASEAN đoàn kết hơn trong giải quyết tranh chấp, có thể sẽ có những cái kết tốt đẹp và ổn định hơn cho khu vực.

TQ khẳng định quyền lực của mình trong khu vực đầu tiên vào tháng 1-1974 khi cưỡng chiếm và đẩy chính quyền Sài Gòn ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Tháng 3-1988, hải quân TQ đụng độ với tàu thuyền của VN, kết quả là TQ chiếm đóng trái phép 7 trong số các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Đến năm 1995, TQ chiếm bãi đá Vành Khăn mà Philippin từng tuyên bố chủ quyền và bắt đầu xây dựng, củng cố các cơ sở trên những bãi đá lân cận. Tháng 4-2012, các cuộc đụng độ của TQ với Philippin tiếp

tục diễn ra ở bãi cạn Scarborough, cuối cùng bãi cạn này cũng bị TQ chiếm đóng. TQ sau đó chuyển sự quan tâm sang Bãi Cỏ Mây. 

Tháng 3-2014, tàu bảo vệ bờ biển của TQ ngăn tàu chở hàng của Philippin tiếp tế cho thủy quân lục chiến đồn trú trên một con tàu hỏng ở đó. Tháng 4-2014, TQ di chuyển giàn khoan Haiyang Shiyou 981 vào khu vực tranh chấp với Việt Nam, khiến hai bên diễn ra xung đột, và xung đột chỉ chấm dứt khi giàn khoan được kéo đi.

Từ cuối năm 2014, TQ đã tiến hành trái phép các dự án cải tạo mở rộng ở 8 địa điểm trên khắp quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Những hoạt động nạo vét ở bãi đá Chữ Thập đã làm dấy lên nhiều lo ngại. Các tàu hút cát của TQ đã đổ đầy cát lên bãi đá này, làm cho nó nhô cao hơn mặt nước đủ để xây dựng trái phép một sân

bay với đường băng dài 3.000m, có khả năng hỗ trợ nhiều hoạt động của TQ tại quần đảo Trường Sa. Với tuyên bố bảo vệ đường bờ biển phi lý của mình, TQ đe dọa vô cớ VN và cả Phi.

Với sự hiện diện ngày càng lớn và ngang ngược ở quần đảo Trường Sa, TQ dù gây nhiều áp lực lên các nước đang tranh chấp trong ASE-AN, nhưng TQ chưa đạt được mục tiêu, vì những hành động có tính hiếu chiến của Bắc Kinh đã động chạm đến các thế lực bên ngoài, lôi kéo họ vào tranh chấp, điển hình là Mỹ.

Philippin và Mỹ từ lâu đã có hợp tác quân sự. Năm 1999, một Hiệp định thăm viếng quân sự đã được ký kết, và trong tháng 4-2014, tổng thống Obama đến thăm Manila, Hiệp định Hợp tác quốc phòng nâng cao cũng hoàn thành. 

Hiệp định cho phép hải quân Mỹ tăng cường tiếp cận các cảng biển ở Philippin và cung cấp lực lượng quân đội Mỹ luân phiên thông qua các căn cứ và sân bay của họ.

Số 219 Trang 7

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Malaysia và Indonesia trước đây đều đứng ngoài tranh chấp làm quan sát viên, nhưng các hoạt động gần đây của TQ trong khu vực đã khiến họ lo ngại nhiều hơn. 

Malaysia đã không thể ngồi yên khi hải quân TQ tăng cường các cuộc tuần tra tại bãi đá ngầm James, điểm cực nam của TQ mà Malaysia tuyên bố thuộc lãnh hải của mình. Những nhà lãnh đạo Malaysia thì tiếp tục cuốn theo TQ trong khi các quan chức quốc phòng thì lo ngay ngáy. Malaysia dự định xây dựng một căn cứ hải quân ở Bintulu, Sarawak, gần bãi đá ngầm James, và bộ trưởng quốc phòng Malaysia đang kêu gọi sự hỗ trợ và huấn luyện từ Mỹ để phát triển một căn cứ hải quân theo mô hình của Mỹ.

Indonesia trước đây tự xem mình là một bên đứng ra hòa giải các tranh chấp. Tuy nhiên, gần đây, chính Indonesia cũng lo lắng về chủ quyền của quần đảo Natuna. 

Các tuyên bố của TQ gần như xung đột với học thuyết “trục hàng hải toàn cầu” của Indonesia. Bộ trưởng quốc phòng Indonesia tướng Moeldoko thật sự lo ngại về sự ổn định ở Biển Đông và cho biết các đơn vị không quân của Indonesia sẽ được triển khai ở quần đảo Natuna.

Với một chuỗi những động thái trên, hẳn Úc cũng tự hỏi mình nên làm gì. Một số người cho rằng Úc nên tránh vướng vào những rắc rối ở Đông Á mà có thể dẫn đến xung đột giữa Mỹ và TQ. Thời gian để Úc suy nghĩ và xác định lợi ích chiến lược của mình đang cạn dần. Sự bất ổn ở Biển Đông có thể để lại nhiều hậu quả cho an ninh Úc.

Khi Mỹ bị kéo vào tranh chấp thì Nhật Bản cũng khó mà không quan tâm. Trên thực tế, Nhật cũng có mối quan tâm riêng của mình với những dự định của TQ ở biển Hoa Đông, đặc biệt là xung quanh quần đảo Senkaku (TQ gọi là đảo Điếu Ngư). Nhật gần đây cũng đã tìm cách tăng cường khả năng hàng hải với Việt Nam và Philippin. 

Khi các thế lực bên ngoài gia tăng hiện diện tại Biển Đông, nhiều khả năng ASEAN sẽ có sự phân

khúc. Chẳng hạn các nước Campu-chia và Thái Lan không phải là một bên tranh chấp sẽ ưu tiên quan hệ với TQ. ASEAN muốn tiếp tục quan hệ giao thương như thường lệ nhưng chuyện thiếu gắn kết và sức mạnh có lẽ ngày càng nên rõ ràng.

Xu hướng thứ 2 có thể diễn ra là sự phân cực trong khu vực giữa TQ với các nước đồng minh và liên minh Mỹ - Nhật với các quốc gia có nhiều bất mãn và lo ngại tham vọng của TQ gia tăng. Tình trạng này có thể được ngăn chặn nếu các cường quốc bên ngoài lên tiếng về những lo ngại ở Biển Đông, gây áp lực lên TQ yêu cầu chấm dứt các hành động khiêu khích, đồng thời đàm phán với ASEAN các quy tắc ứng xử phù hợp. 

Trong quá khứ, TQ từng vì lo ngại sự tham gia của các thế lực bên ngoài mà giảm nhẹ những hành vi gây hấn của mình. 

Chẳng hạn như tháng 7-2014, TQ đã rút giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau khi Việt Nam phát động một chiến dịch quốc tế nhằm phơi bày những hành động ngang ngược của TQ. 

Khánh Nguyên dịchKhi nhận định về Trung Quốc (TQ)

các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là TQ là một thế giới hay một đế quốc -hay một thiên hạ theo cách nói của người TQ- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là TQ vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa Cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.

Cho đến nay thực trạng TQ đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của TQ.

Kinh tế TQ hết thuốc chữaHãy nói ngay về lớp vải điều đó.

Trong gần ba thập niên TQ đã gây

kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của TQ dĩ nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa TQ đã tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản TQ đầu tư vào mọi quốc gia, từ Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng TQ tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó TQ sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần.

Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm 2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới của TQ) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách này ; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này, nghĩa là lý luận về TQ như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về TQ thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu TQ có thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi TQ sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ câu hỏi đặt ra là TQ sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa và lúc đó tương lai TQ sẽ ra sao ?

Tất cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của TQ được

ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì chẳng bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã hội TQ. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số nợ.

Kinh tế TQ dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua, ngoại thương TQ đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại

Số 219 Trang 8

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thương suy sụp ?Công ty tham vấn Lombard Street

Research của Anh vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền TQ nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của TQ năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v…

Một chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của TQ lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của TQ vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.

Lòng tin vào tương lai của kinh tế TQ còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả một cuộc thăm dò của Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia TQ đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản TQ đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ TQ giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai TQ tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi ?

Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài, các doanh nhân TQ không còn giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.

Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008, trong khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì TQ đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ nó không còn giải pháp.

Năm 2013 khi mới lên cầm quyền,

Tập Cận Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc; không những thế, chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế TQ không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.

Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế TQ không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều TQ đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế TQ nguy ngập hơn. Từ năm 2010, TQ đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người công nhân TQ chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng hóa TQ khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. TQ hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu Âu.

Chừng nào kinh tế TQ sẽ thực sự sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế TQ "có sụp cũng còn lâu" chủ yếu là ở chỗ TQ vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của TQ -ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là TQ vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối với mọi người.

Đất nước TQ đang bị hủy diệtNhưng kinh tế suy thoái không

phải mối nguy lớn nhất của TQ. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm độc.

Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (TQ)

và Thanh Hoa (TQ) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Dai-ly, tờ báo tiếng Anh của chính quyền TQ, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của TQ đã hết nước.

Tháng 3-2013, một nghiên cứu công phu -từ năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy nguồn và Viện Quốc gia Thống kê của chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : TQ chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước, từ nay chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân tiết kiệm nước.

Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường. Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn "xẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa Cộng sản.

Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ TQ sang Myanmar. Lý do khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành 1 vấn đề của Myanmar.

Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ.

Số 219 Trang 9

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người TQ chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước TQ đang bị hủy diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời TQ bằng mọi giá. Họ sợ chết.

Một chế độ tuyệt vọngMối nguy nghiêm trọng thứ hai,

cũng nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo dõi tình hình TQ đều đồng ý rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông.

Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng viên Cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.

Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống trị của trục Bắc KinhThượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước, một cuộc chiến tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.

Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng, TQ là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với một người TQ chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh TQ còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những thù

hận chưa được hóa giải của quá khứ.Trong suốt dòng lịch sử dài của

nó, sự thống nhất của TQ đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như giữa thế kỷ 19, để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn, nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người TQ hầu như không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống trị ngoại bang.

Bế tắc chính trị của chế độ CSTQ cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền, Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ trong trật tự; nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt: từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của đảng Cộng sản TQ và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong đảng. Tập Cận Bình thừa kế một TQ tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.

Nhưng việc phải làm đó là gì ? Đó chính là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả TQ. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người TQ thêm sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó.

Nhưng vấn đề là TQ không thể tồn tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng của TQ quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa CS, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang web www. ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11-2014, hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với đảng CSTQ. Số ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.

Lịch sử TQ nói chung là sự lặp lại

của cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực chính trị; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy kiệt; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ Cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực lượng mới.

Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập", ông ta chỉ nhắc lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.

Phải lo ngại cái gì ?Chế độ Cộng sản TQ còn trụ

được bao lâu nữa ? Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng TQ không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của TQ nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.

Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ CSTQ tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên 2 hợpđồng bất thành văn miễncưỡng.

Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là đảng Cộng sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái.

Hợp đồng thứ hai là quần chúng TQ chịu đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ

Số 219 Trang 10

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

có thể bùng nổ rất dữ dội.Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế

độ Cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc chắn của TQ không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo âu trước việc TQ xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn TQ như một quốc gia thay vì một đế quốc.

Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong. TQ cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi, các hoàng đế TQ không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. VN và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.

Cũng không cần lo ngại cho người TQ. TQ có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn TQ hiện nay. Điều mà chúng ta có thể chúc cho người TQ là những thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.

Thiên triều sụp đổCâu hỏi bao giờ chế độ Cộng sản

TQ sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ Cộng sản Việt Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa.

Đối với đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ Cộng sản TQ coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ cho chế độ Cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế độ Cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy TQ.

Trong cuộc tiếp xúc ngày 26-6-2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, theo đó TQ thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay 100 tỷ USD. Chế độ Cộng sản Việt Nam rất cần yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham

nhũng, kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản.

Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11-2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế VN "rất không thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.

Một điều cần được nhìn thật rõ là đảng CSVN chưa bao giờ là một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân bộ của Đệ tam Quốc tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc TQ, hoặc cả Liên Xô lẫn TQ. Giữa thập niên 1980, khi Liên Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch để xin được phục tùng TQ. Trái với một nhận định hời hợt không phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc TQ. Trong mấy năm gần đây, khi Liên bang Nga có vẻ mạnh lên, ban lãnh đạo CSVN cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của đảng CSVN là một văn hóa chư hầu.

Tất cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt TQ cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo Cộng sản Việt Nam gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.

Lịch sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị và ban bí thư đảng Cộng sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi, nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào TQ để duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất cả đều đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại

lệ nào cả.Nhưng bây giờ họ không còn chọn

lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào TQ được nữa. Chiến lược của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất thêm thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.

Mọi ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và

hòa hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.

  Trong khi lãnh đạo Bắc Kinh vận động các nước Á châu mở ra Con Đường Tơ Lụa với dự án bạc tỷ thì kinh tế Trung Quốc lại chìm dưới một núi nợ trị giá khoảng 28 ngàn tỷ đôla, thuộc loại cao nhất trong các nền kinh tế lớn của thế giới, và đấy là một nan đề nguy kịch. Vì sao lại như vậy và Trung Quốc có cách nào tránh được một vụ khủng hoảng chăng? Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu vấn đề này qua phần trao đổi sau đây của Nguyên Lam (NL) với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa (NXN).

NL: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau nhiều sáng kiến dồn dập của lãnh đạo Trung Quốc từ mấy năm nay, nào là các quỹ cứu trợ tài chính, hai ngân hàng đầu tư và phát triển và cả kế hoạch rộng lớn nhằm khuếch trương mạng lưới gọi là “Con Đường Tơ Lụa” trên lục địa và ngoài biển, giới chuyên gia quốc tế bỗng lại nói về những khoản nợ vĩ đại của Trung Quốc. Gần đây, tập đoàn tư vấn McKinsey & Company công bố báo cáo về tình hình vay nợ của thế giới và cung cấp một số liệu làm giật mình, theo đó thì tính đến cuối năm 2014, tổng số nợ của Trung Quốc lên tới 282% của sản lượng toàn quốc trong năm. Với sản lượng kinh tế Trung Quốc vào năm 2014 được ước lượng khoảng 10 ngàn tỷ Mỹ kim thì khoản nợ đó tương đương với 28 ngàn tỷ 200 triệu đôla. Do đó, tiết mục chuyên đề kỳ này của chúng ta đề nghị ông giải thích vì sao Trung Quốc lại mắc nợ như vậy, nội dung các khoản nợ đó là gì và lãnh

Số 219 Trang 11

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đạo Bắc Kinh có cách nào giải quyết bài toán lớn lao này hay không?

NXN: - Chuyện nước Tầu mắc nợ và có khi mắc loạn đã khởi sự từ năm 2008, mà lại có lý do sâu xa hơn từ chiến lược kinh tế của lãnh đạo Bắc Kinh và ngày nay gây ra hậu quả mà chưa chắc họ giải quyết được. Tôi xin đi từng bước về bối cảnh chung trước khi ta tìm hiểu thêm về nội dung và hậu quả.

- Thứ nhất, tháng 09 năm 2008, vì các nguyên do sâu xa, Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính qua biểu hiện là sự sụp đổ của tập đoàn đầu tư Lehman Brothers và nhiều doanh nghiệp tài chính khác, với hậu quả là ách tắc tín dụng và suy trầm toàn cầu, bị nhồi vào vụ khủng hoảng tương tự của Âu châu. Khi đó, Bắc Kinh sợ hiệu ứng suy trầm nên từ Tháng 11 quyết định tăng chi ngân sách cỡ 587 tỷ đôla cho các dự án xây dựng hạ tầng và công nghiệp. Song song, họ ra lệnh cho các ngân hàng ào ạt cấp phát tín dụng để kích thích kinh tế. Kết quả là trong giai đoạn khó khăn toàn cầu, sản lượng kinh tế xứ này tăng vọt và qua mặt Nhật Bản vào năm 2010. Khi ấy thế giới đã ngợi ca sự kỳ diệu này mà không thấy ra nguyên do sâu xa.

- Thứ hai, nguyên do đó nằm trong chiến lược kinh tế của Bắc Kinh là lấy đầu tư làm lực đẩy cho sản xuất để tránh thất nghiệp và động loạn xã hội, và sản xuất thừa thì xuất khẩu bằng mọi giá. Khi thế giới bị Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 thì xuất khẩu của Trung Quốc cũng bị giảm và sản xuất dư thừa có nghĩa là chất vào tồn kho ế ẩm mà vẫn cứ được bút ghi vào tổng sản lượng.

- Thứ ba, trong các nền kinh tế lớn của địa cầu, Trung Quốc có cơ chế kinh tế chính trị lạ kỳ là dưới sự lãnh đạo của đảng thì nhà nước nắm nhiều quyền hạn trong tay, từ đất đai đến các phương tiện tài trợ và sản xuất. Nôm na là ngân hàng của nhà nước tài trợ cho doanh nghiệp của nhà nước ở trung ương hay các địa phương thực hiện các dự án sử dụng đất đai cũng do nhà nước quản lý. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế có tăng, nhưng các khoản vay nợ lại tăng còn mạnh hơn nữa.

NL: Hậu quả của ba nguyên nhân sâu xa từ chiến lược tăng tưởng, cơ chế quản lý tới chính sách bơm tiền kích thích sản xuất là Trung Quốc lại trở thành một nước mắc nợ rất lớn. Thưa ông Nghĩa, nội dung bên trong các khoản nợ này là những gì, xấu tốt ra sao mà có thể là vấn đề?

NXN: - Chuyện kỳ diệu là chẳng ai

biết được nội dung các khoản nợ đó là xấu tốt đến cỡ nào và có bao nhiêu là loại nợ không sinh lời, khó đòi và sẽ mất. Khi tập đoàn McKinsey khảo sát và đưa ra số liệu hãi hùng về khối nợ của Trung Quốc là 282% của tổng sản lượng thì thiên hạ mới chú ý. Thứ nhất là nó đã tăng gấp bốn trong thời khoảng có 5 năm. Thứ hai, các khoản nợ của nhà nước, của doanh nghiệp và các công ty tài chính lại liên hệ đến gia cư và địa ốc, tức là đến đất đai. Thứ ba, khoảng 30% tổng số nợ, không kể nợ của các công ty tài chính lại là nợ ngoại ngạch, nợ chui nằm ngoài sổ sách ngân hàng và có nhiều rủi ro, đa số cũng lại liên hệ đến đất đai và các nghiệp vụ đầu cơ về gia cư hay bất động sản. Vì vậy mà núi nợ ấy mới dễ sụp.

NL: Thưa ông, qua cách trình bày vừa rồi, thính giả chúng ta có thể hiểu là một tỷ lệ rất cao của các khoản nợ đó lại liên hệ tới đất đai nên mới gây rủi ro lớn. Tại sao lại như vậy?

NXN: - Ta không quên một thực tế là tính theo bình quân một đầu người thì diện tích khả canh, có thể canh tác được, của TQ chỉ bằng một phần ba của trung bình thế giới. Tức là đất nông nghiệp thật ra cũng giới hạn.

- Bây giờ ta châm thêm vào bài toán địa dư ấy vấn đề kinh tế chính khác là quyền phân bố đất đai. Về nguyên tắc, nhà nước TQ là chủ đất đai ngoài nông nghiệp, còn đất canh nông thuộc quyền quản lý của các đoàn thể nông dân. Thực tế thì các hợp tác xã này chẳng có quyền và mọi loại đất đai chuyên dùng hay nông nghiệp đều do các chính quyền địa phương phân bố. Họ giữ độc quyền cung cấp đất cho quốc dân.

- Từ đạo luật về ngân sách năm 1994, nhờ đất đai, chính quyền địa phương có thể thu về cho ngân sách chừng 40% là thuế và khoảng 6% nhờ các loại lệ phí. Họ có chủ đích xả đất thật chậm, những mảnh nhỏ trước, để tạo ra sự khan hiếm làm giá tăng rồi mới tung ra các khoản đất lớn hơn. Họ bán đất ấy vào mục tiêu gì? Vào mục tiêu có lợi nhất cho địa phương, là thị trường địa ốc.

- Nhìn vào vế bên kia, thì ai là người mua? Mua đất lại là các công ty đầu tư thật ra là bình phong do các chính quyền địa phương lập ra để vay tiền các ngân hàng cũng của nhà nước ở địa phương để phát triển các dự án được tiếng với cấp trên là tạo ra công ăn việc làm. Mọi người đều hài lòng với quy trình làm ăn đó vì nơi nơi mọc ra cao ốc, xa lộ, trung tâm thương mại, hay xưởng cán sắt, và mỗi khi thực hiện hay tu sửa vì chưa

xong đã hỏng thì người ta tính vào tổng sản lượng.

NL: Thưa ông, có phải là với kết quả là các cơ sở địa phương đó vay tiền ngân hàng và ngày nay đang mắc nợ hay không?

NXN: - Thưa là đúng vậy mà còn tệ hơn vậy. Vì yêu cầu đầu cơ, các địa phương tạo ra khan hiếm giả khi xả mảnh đất nhỏ trước để làm giá, sau đó dùng tiền bạc của ngân hàng của nhà nước tại địa phương mua các mảnh đất có giá trị hơn. Khi công ty đầu tư của địa phương nắm lấy bằng khoán mảnh đất ấy làm tài sản thế chấp, họ được vay nhiều hơn cho các dự án có quy mô lớn hơn, và người người lao vào thị trường ấy mà thổi lên bong bóng đầu cơ.

- Hậu quả là dân nghèo vẫn không có nhà có đất vì giá quá cao, mà các cơ quan của chính quyền tại địa phương thì thực hiện dự án ảo, sản xuất thừa và hệ thống ngân hàng của nhà nước thì có một khối dư nợ mà xấu tốt ra sao không ai biết được, từ Bộ Tài chính đến Ngân hàng Trung ương và các địa phương. Một thí dụ là McKinsey ước lượng số nợ của nhà nước là 55% Tổng sản lượng, là 5.000 tỷ 500 triệu đôla. Nếu kể thêm các khoản nợ cũng của cơ quan nhà nước ở cấp địa phương thì phải cao hơn vậy, ít ra là 2.000 tỷ nữa, mà đa số là nợ thối vì trái bóng đầu cơ đã bể, tài sản thế chấp là văn tự đất đai bị mất giá. Cho nên ta khó tách rời hai vấn đề đất đai và nợ xấu.

- Bây giờ mình mới nói đến các doanh nghiệp của nhà nước, từ cấp trung ương tới các địa phương. Trung Quốc có khoảng 155 nghìn cơ sở như vậy, từ các tập đoàn nổi danh thế giới đến các cơ sở nhỏ hơn ở mọi nơi. Các cơ sở này được tài trợ theo diện chính sách và vay tiền rất rẻ từ các ngân hàng cũng của nhà nước để xây dựng nhiều công trình hoành tráng mà ế ẩm. Khi McKinsey tính số nợ của doanh nghiệp vào khoảng 6.000 tỷ 500 triệu đôla thì đa số là của doanh nghiệp nhà nước chứ tư doanh khó len vào thị trường tín dụng thực tế vẫn do nhà nước và tay chân trong đảng chi phối. Và vì cơ chế kinh tế chính trị bất thường ấy, các cơ sở quốc doanh hay công ty gọi là đầu tư của địa phương mặc sức vay mượn nhau và nếu cơ sở này vỡ nợ là gây hậu quả dây chuyền cho cơ sở khác.

NL: Chắc hẳn rằng CQ Bắc Kinh cũng đã thấy ra vấn đề, thưa ông họ có cách nào giải quyết không?

NXN: - TQ từng gặp hiện tượng ấy nhiều lần trong quá khứ. Một lần là vào năm 1998 dưới thời Chủ tịch

Số 219 Trang 12

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Giang Trạch Dân và Tổng lý Chu Dung Cơ với hậu quả kéo dài vài năm. Lần sau là năm 2003 dưới thời CTh Hồ Cẩm Đào và TT Ôn Gia Bảo cũng với hậu quả kéo dài cho tới 2008. Khi các ngân hàng của nhà nước tài trợ ảo theo diện chính sách và bị mất vốn vì mất nợ thì nhà nước lại bơm tiền cấp cứu trước hết là 4 ngân hàng lớn của trung ương, lần đầu mất 45 tỷ đôla, lần sau vài trăm tỷ và ai ai cũng cho là mọi sự sẽ êm.

- Lần này thì sự thể lại khác vì quy luật “lượng biến thành phẩm” khi hệ thống tài trợ và đi vay đều là tay chân của nhà nước và chất lên một núi nợ mang kích thước lịch sử. Khi họ cho nhau vay thì đấy là một khoản vay giả tạo để thực hiện dự án ảo, mà mỗi lần trao tay lại là một lần có lợi cho đảng viên và thân tộc. Để giải quyết việc đó, trung ương đòi các doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa và bán một số vốn cho tư nhân để lấy tiền trả nợ. Nhưng tư nhân chỉ được mua một tỷ lệ thiểu số nên chẳng thể cải tiến hệ thống quản lý trong khi doanh nghiệp nhà nước thu tiền về lại mở mang cơ sở với dự án mới, tức là vay thêm để lại làm bậy! Các cấp bộ địa phương cũng thế và hệ thống làm ăn chằng chịt này còn tạo ra mạng lưới cấu kết về quyền lợi mà luật lệ do Quốc hội ban hành cũng chẳng khai thông được.

- Người ta có thể thấy ra điều ấy qua những gì Quốc hội mới họp vào đầu năm công bố ra ngoài. Việc cải cách từ cơ cấu qua tới luật lệ hay việc bơm tiền chuộc nợ và tăng thuế không thể giải quyết được bài toán này. Chính là Chủ tịch Tập Cận Bình và Bộ Chính trị phải có quyết định cũng triệt để như chiến dịch bài trừ tham nhũng, là ra lệnh giảm chi và bán tài sản quốc doanh cho tư nhân để bù nợ thì may ra mới có kết quả. Trong khi chờ đợi một quyết định táo bạo như vậy thì cái đồng hồ nợ vẫn chạy và viễn ảnh phá sản dây chuyền là một thực tế.

NL: Đài ÁCTD xin cảm tạ ông về cuộc trao đổi này.

“Tôi nói thật với chị, lịch sử Việt Nam hiện đại, chỉ có 30% sự thật, 70% giả dối, đó là điều rất đau lòng. Ví dụ đánh nhau 30 năm, với Pháp và Mỹ mà Việt Nam không thua trận nào là không thể chấp nhận được”. (DanChimViet online

ngày 19-5-2010)Đó là câu trả lời của nhà sử học

Hà Văn Thịnh, giảng viên trường Đại học Khoa học Huế nói với nhà báo Mạc Việt Hồng trên báo mạng Đàn Chim Việt trong bài viết: “Nhà sử học Hà Văn Thịnh nói về Hồ Chí Minh”.

Cộng sản thì cái gì cũng giả dối, mà không giả dối thì không phải là Cộng sản!

Nhằm mục đích tuyên truyền xách động bạo lực, người CSVN đã “sáng tác” ra anh hùng ma Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật, bịa đặt 100%, người dỏm việc dỏm để lừa gạt và dụ dỗ những trẻ thơ nhẹ dạ cả tin đi vào chỗ chết. Đây là một sự lừa dối giết người dã man.

Giáo sư sử học Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã nói rõ: “Trong cuộc họp báo vào tháng 2-2005 tại Hà Nội, giáo sư Phan Huy Lê nhớ lại:

‘Tôi còn một món nợ với anh Trần Huy Liệu mà đến nay chưa trả được. Đó là lúc anh Liệu làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền (sau Cách mạng tháng 8-1945, THL làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động), anh THL tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè.[..] Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê Văn Tám, anh Liệu nói với tôi rằng: ‘Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại dùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa”. (Wiki-pedia tiếng Việt 29-9-2014)

Ngoài anh hùng ma Lê Văn Tám ra, CSVN còn tô vẽ huyền thoại cho biết bao anh hùng khác như Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Tô Vĩnh Diện đem thân chèn pháo, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Bé, Anh Hùng Núp... còn nhiều, nhiều nữa những anh hùng huyền thoại được thêu dệt nhưng hầu hết đã bị các vị lão thành như

giáo sư Phan Huy Lê, giáo sư Hà Văn Thịnh, nhạc sĩ Tô Hải đã vạch trần là những anh hùng dỏm.

Trơ trẽn và lố bịch hơn là việc gần đây, ông Hồ Xuân Mãn (cựu bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế) năm 2010 được TT Nguyễn Tấn Dũng đề nghị chủ tịch nước phong danh hiệu “Anh hùng các lực lượng vũ trang” với những chiến tích tưởng tượng đã bị vạch trần như sau:

“Bản tóm tắt thành tích cá nhân đặc biệt: ‘Từ năm 1969 đến năm 1975, ông Mãn đã đánh hơn 100 trận, diệt 150 tên địch, phá hủy một trực thăng Mỹ, phá hủy 37 xe quân sự, 33 lần là Dũng sĩ diệt Mỹ, nhiều lần được là Chiến sỹ thi đua, nhận nhiều huy chương kháng chiến, Chiến công, Giải phóng...

Sau khi thành tích của ông Mãn được công bố rộng rãi trên báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân… nhiều đồng đội cũ ở Phong Điền, ở Huế liền phản ứng… trình bày ra Trung ương, ra Bộ Quốc phòng... kết luận thanh tra: “…7 trận đánh ông Mãn không có mặt, ‘cướp công’ của người khác, 7 trận khác là dựng đứng lên, hoàn toàn tưởng tượng ra, không hề có thực. 33 lần được công nhận là Dũng sỹ diệt Mỹ đều là tự phong, không ai xác nhận. Nhất là chuyện cá nhân ông bằng khẩu súng và lựu đạn phá một trực thăng Mỹ cũng là bịa ra...

Ban Thi đua Trung ương và Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đề nghị Chủ tịch nước hủy bỏ tuyên dương 4 năm trước...” (VOA online ngày 3-11-2014)

Huyền thoại anh hùng Điện Biên Võ Nguyên Giáp cần được giải mã để toàn dân mọi thế hệ không còn ngộ nhận, và lịch sử không phải tốn giấy mực vinh danh. Cộng sản đã thổi phồng chiến công của ông Giáp trong trận Điện Biên Phủ đang khi đó Trung cộng đưa tướng Trần Canh sang “cố vấn”.

Nhân dân ngày nay không còn ai tin chiến công của ông Giáp ở Điện Biên Phủ cho nên vừa rồi đây, CSVN đã bỏ ra 21 tỷ tiền xương máu của nhân dân dựng phim “Sống cùng lịch sử” để tô vẽ 70% giả dối.

Số 219 Trang 13

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Phim được quảng cáo trình chiếu rầm rộ mà không có con ma nào xem đến nỗi Giáo sư Hà Văn Thịnh tiếc rẻ: “Đọc tin mà xót, mà xa: Bộ phim kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và tôn vinh Tướng Giáp, đầu tư đến 21 tỉ đồng mà mỗi buổi chiếu chỉ bán được có vài 3 vé, đến nỗi phải ‘tắt đài, dẹp máy’, nhờ báo chí than van, mong tìm đến sự ‘cảm thông’ cho tiền dân, của nước, ngang nhiên bị bỏ bụi, quăng bờ…” (Một Thế Giới online ngày 22-9-2014).

“Phim cho không biếu không” mà cũng chẳng ai xem, đó là một cái tát vào mặt lịch sử 70% giả dối của CSVN: “Chiếu miễn phí phim 21 tỷ ‘Sống cùng lịch sử’ trên toàn quốc’’... “Vé xem phim hiện được phát miễn phí tại 64 rạp chiếu trên toàn quốc... với kinh phí sản xuất 21 tỷ đồng ‘nổi tiếng’ khi gây nhiều tranh cãi trong thời gian qua vì ra rạp mà không bán được tấm vé nào”. (Vietnamplus 8-10-2014).

Trong chiến dịch Lê Duẫn và Lê Đức Thọ thanh trừng “Bọn xét lại chống đảng”, Võ đại tướng phải về đi đỡ đẻ, trong khi đó đàn em của ông bị thanh trừng tan tác mà ông không dám một lời bênh vực. Nhà văn Huy Đức kể có lần Lê Đức Thọ nói “còn để cái đầu ông Giáp trên cổ đã là may lắm rồi”. (BTC. II trang 174). Nhà báo Trần Đĩnh, người viết tiểu sử Hồ Chí Minh, trả lời phỏng vấn của Mặc Lâm đài RFA đánh giá tư cách của tướng Giáp như sau:  “Không một người nào dù là đảng viên cao cấp được nói với nhau, ông Võ Nguyên Giáp càng không bao giờ dám đụng tới vì ông ấy là nạn nhân. Thứ đến người nhu nhược như Võ Nguyên Giáp không bao giờ trả lời ai rằng tôi không nói vì tôi sợ sẽ bị này khác, như thế là một thằng hèn không dám nói ra chuyện ấy”. (RFA online 6-3-2015).

Từ Paris, cựu Đại tá Bùi Tín kể năm 1977 ông có hỏi tướng Võ Nguyên Giáp: “…Tôi hỏi một câu: làm sao khi mà những anh em dưới quyền ông ấy bị nạn của vụ Xét lại mà ông ấy không lên tiếng? Ông ấy

im một lúc rất lâu, rồi ông mới nói một câu như thế này: ‘Mình mà lên tiếng thì mình cũng sẽ bị nạn như các cậu đó”. (BBC 28-2-2015)  Câu trả lời của Tướng Giáp cho chúng tra thấy được sĩ khí của một vị tướng... hèn, không xứng đáng với sự ca ngợi của đảng CSVN.

Nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương vừa rồi, Khu Du lịch Đồng Xanh, thuộc Công ty CP Văn hóa-Du lịch Gia Lai khánh thành tượng “Quốc tổ” và 18 vua Hùng, nhưng bức tượng bị nhà sử học Hà Văn Thịnh đánh giá là giả dối, bôi bác, thiếu tôn trọng qua lời lên tiếng: “Xin đừng nhầm lẫn về lịch sử” như sau:  “...Sự kém cỏi, vô trách nhiệm là ‘cha đẻ’ của sự lố lăng lịch sử không thể chấp nhận của Khu Du lịch Đồng Xanh... Tượng ‘quốc tổ’ - một người đàn ông mà da trắng như tuyết, lông mày lá liễu, râu giống với râu... dê, môi đỏ như son và 10 móng tay đỏ hoe đỏ hoét là sự phỉ báng chứ không còn là sự tôn vinh nữa. Làm sao có thể chấp nhận một người đàn ông có móng tay tô đỏ? Từ cổ chí kim, chưa thấy ai đúc tượng, tả đàn ông môi đỏ như son...” (Một Thế Giới 30-4-2015)

Cuộc chiến tranh đẫm máu với chiêu bài chống Mỹ giải phóng miền Nam như Cộng sản từng rêu rao thực chất chỉ là sự đánh lừa dư luận để làm tay sai cho mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh đã được đảng CSVN phát động từ năm 1960 khi chưa có sự hiện diện của quân đội Mỹ ở miền Nam. Lê Duẫn tuyên bố trường kỳ kháng chiến ở miền Nam là quyết tâm “thống nhất đất nước để dâng trọn cho CS Tàu”.

Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng, người có mặt trong cuộc chiến đã nhận ra bản chất của nó nên hôm nay ông bảo “Cần gọi đúng tên cuộc chiến này”.

“Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam Cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh ‘Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’, ‘Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết

người Việt’...Việc chia cắt độc đoán, phũ

phàng, oan nghiệt đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn do những người Cộng sản thực hiện, Cộng sản Tàu mưu toan và áp đặt, Cộng sản Việt Nam cam tâm cúi đầu chấp nhận”. (Boxitvn online ngày 23-4-2015)

Qua “Di sản tháng Tư”, Đại tá Phạm Đình Trọng nhận định: cứ mỗi năm Cộng sản rầm rộ ăn mừng thắng cuộc thì “dân tộc Việt Nam” bị khơi lại nỗi đau thua cuộc, ngày 30 tháng 4 năm 1975 phải nói là Ngày Quốc Hận, như vậy sự hòa giải hòa hợp xin đừng nhắc.

“Trong cuộc cách mạng và chiến tranh tàn khốc vừa qua do đảng CSVN phát động, đảng Cộng sản đã thắng lớn, thắng hả hê. Thắng chính dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã bị thua thảm hại. Người hốt hoảng bỏ chạy tứ tán khắp thế giới thấy ngay cái thua đau đớn, tức tưởi… Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bị thua đau, bị chia rẽ, ly tán tan tác, yếu hèn như hôm nay”. (RFA online ngày 20-4-2015)

Ngày 30-4-1975 theo ông Võ Văn Kiệt, “hàng triệu người vui...”, nhưng trong hàng triệu người vui ấy đã có người nữ bộ đội Dương Thu Hương ngồi khóc bên vệ đường Sài Gòn và nữ nghệ sĩ ưu tú Kim Chi người từng tập kết ra Bắc năm 11 tuổi và năm 21 tuổi đã cùng chồng vượt Trường Sơn vào “giải phóng miền Nam”, ngày nay bà cho rằng đó là “niềm vui ngộ nhận”:

“Đúng, ngày xưa tôi khóc trong niềm vui chiến thắng, nay tôi lại phải khóc ‘trong nỗi đau thời cuộc’, trong những nỗi buồn da diết!

“Vui sao nước mắt lại trào”- bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do ‘nghệ thuật tuyên truyền’...

“Với tôi bây giờ 30-4 không phải là ngày giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà

Số 219 Trang 14

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

bây giờ VN ta tụt hậu sau họ hằng thế kỷ. Miền Nam là vựa lúa xuất khẩu đi các nước. Vậy mà sau 30-4 một thời gian các lãnh đạo đã khiến cho cả nước phải ăn độn khoai, sắn, ngô. Cảnh cấm chợ ngăn sông ngày ấy dẫn tới cảnh thiếu từng con cá khô, chai nước mắm...

Bây giờ mỗi lần 30-4, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời”. (Dân Làm Báo online ngày 23-4-2015)

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, nhà bất đồng chính kiến lão thành ở Hà Nội, người có nhiều năm sống và làm việc dưới chế độ XHCN, cho biết ông đã từng ngộ nhận về lịch sử mà CS tuyên truyền như sau:

“Qua quá trình, tôi nhận ra cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô nghĩa. Đáng lẽ không nên xảy ra núi xương sông máu như vậy.

Cho đến cách nay mươi năm, tôi vẫn nghĩ là đánh Pháp, đuổi Nhật là công của đảng trong công cuộc chống ngoại xâm. Nhưng giờ này tôi cũng nhận ra là vô nghĩa...

Tôi nhận thức ít nhất nếu không có tội thì đảng Cộng sản cũng không làm được cái gì hay cho đất nước, cho dân tộc”. (BBC online ngày 1-2-2015)

70% lịch sử giả dối cho nên sử chỉ còn là môn học mà thầy không muốn dạy, trò cũng không muốn học. Học sinh đã reo mừng khi môn sử không còn trong đề thi tốt nghiệp THPT.

“Học sinh xé giấy mừng không thi tốt nghiệp môn sử”.

“Khi Bộ Giáo dục thông báo năm nay sẽ không thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử, nhiều học sinh đã đồng loạt ra ban công trường để ăn mừng bằng cách xé giấy, trong đó có cả đề cương môn sử. Video quay tại trường THPT Nguyễn Hiền quận 11, TP HCM, ngày 29-3” (VNExpress online ngày 7-4-2013)

Kết luận bài này, tôi xin mượn lời nhà báo Trần Đĩnh nói chuyện ông Hồ chống Mỹ như sau:

“Một bạn tôi, sĩ quan thiết giáp, năm 1983 vừa tù tận Lao Kai về

liền bảo tôi: ‘Nên hiểu câu ông Hồ nói Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào thành ra đánh cho Mỹ cút, đánh cho Hoa vào, ở tù tôi rút ra cái sự thật kinh khủng lù lù ấy. Thằng Tây nó tếch thằng Tàu nó sang”. (Đèn Cù II – trang 505)

Lịch sử chỉ có 30% là sự thật, còn lại 70% là giả dối, nên đã bị dân tộc tẩy chay không có gì lạ.

danlambaovn.blogspot.com 

  Giàn khoan TQ mừng 30/4 VN10h 18’ ngày 30-4-2015, Trung

Quốc đã cho một giàn khoan nước sâu mới mang tên Hưng Vượng, tương tự giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động phi pháp trong năm 2014 xuống khu vực biển Đông.

Thật mỉa mai khi trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ lại lớn tiếng đổ tội cho VN.

Tại cuộc họp báo ngoại giao ngày 29-4, phát ngôn viên Hồng Lỗi nói : “Từ lâu, các nước ASEAN cá biệt như Philippin, Việt Nam xây dựng rầm rộ ở đảo đá Trường Sa xâm chiếm phi pháp của Trung Quốc, tiến hành lấn biển xây đảo quy mô lớn, thi công các công trình cố định như sân bay…”.Qua giám sát của VN và Quốc tế, thì chính TQ đã lấn chiếm và xây dựng các đảo đó lâu nay và vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của khối ASEAN, Mỹ và nhiều nước trên thế giới.

Đây là một “cái tát trời giáng” của TQ vào VN để mừng 40 năm ngày VN độc lập và thống nhất”.

Hành động này cũng bộc lộ những “kết quả âm” cho VN sau chuyến đi trong tháng tư của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn tùy tùng cấp cao VN, sau khi hai bên vừa ký hộc tốc 9 văn bản cam kết “giải quyết những bất đồng trên biển Đông” và “hợp tác chặt chẽ giữa hai đảng Cộng sản anh em”!

Sở dĩ TQ đã xâm lược, đang xâm lấn và còn xâm lược VN, không phải chỉ vì TQ quá mạnh,

quá tham, VN quá nhỏ. Đó là do nhiều người trong số nhà cầm quyền VN đã chấp nhận, đã làm tay trong, “rước voi về giày mả tổ” chỉ để bảo vệ kho và quyền lợi sặc mùi xú uế của họ.

Tự chuốc họa cho nướcLẽ ra 30-4 năm nay là một cơ

hội cực lớn cho việc hòa giải và hòa hợp dân tộc VN, đưa VN thoát ra khỏi họa xâm lăng cũng như thoát khỏi thảm họa vỡ nợ và bạo loạn.

Nhưng đại lễ mừng 30-4 với vô số pháo hoa, diễu binh và lễ lạt từ những đồng tiền tước đoạt từ mồ hôi nước mắt người dân ấy chỉ là một dịp để nhà cầm quyền VN ra sức kể công với người dân. Họ luôn vỗ ngực dương dương tự đắc, kiếm cớ diễn tuồng tôn vinh bóng ma “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh (theo nhiều nguồn tư liệu, trong đó có nguồn từ TQ nói rằng ông này chính là gián điệp TQ cài vào VN) để làm bình phong cho đám tư bản đỏ man rợ tung hoành.

Nhân dịp này, diễn văn của Thủ tướng VN cũng khẳng định VN kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lên án mạnh mẽ khác thường “tội ác của đế Quốc Mỹ” cách đây đã 40 năm. Trong khi đó, Mỹ đang được VN xác định là quan hệ hợp tác toàn diện. Mỹ đang giúp VN trên rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là bảo vệ lãnh hải. VN lại đang cố gắng được Mỹ chấp nhận vào TPP càng vào sớm càng tốt.

Lại càng đáng ngạc nhiên vì sự đối xử bất công của VN nếu so giữa Mỹ và TQ. TQ đã mở cuộc chiến tranh xâm lược VN liên miên trong nhiều thế kỷ. Nhiều năm gần đây và đến nay TQ cũng đã giết chóc người VN, đã lấn chiếm biên giới trên bộ và trên biển nhưng VN không dám lên án, nếu có chỉ vài lời hết sức yếu ớt. Một lễ kỷ niệm xứng đáng và tôn vinh những người đã hy sinh trong trận chiến chống TQ xâm lược cũng không có, thậm chí công an còn bằng mọi cách cách cấm

Số 219 Trang 15

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đoán, bỏ tù những người tưởng niệm.

Bằng cách đối xử bất công như vậy, nhà cầm quyền VN tự chuốc họa cho đất nước, cố tình lệ thuộc TQ để chặn con đường đưa VN đến một tương lai tươi sáng hơn.

Điều này không bất ngờ vì ai cũng biết rằng trong truyền thống thì nhà cầm quyền VN luôn có biệt tài trong việc đóng sập lại những „cửa sinh“ và mau mắn mở ra cánh „cửa tử“ cho đất nước. Nguyên nhân là: “cửa tử” cho dân lại là “cửa sinh” cho quyền lợi riêng của họ.

Trước đó, ngày 7-10/4/2015, ông Tổng Bí thư đã “lập công đầu” khi dẫn một đoàn tùy tùng cấp cao thăm TQ. Chuyện thăm viếng, ký kết hợp tác là chuyện bình thường. Nhưng chuyến thăm này đầy những bất thường vì nội dung ký kết được dư luận phân tích chỉ là „mở cửa tử“ và „đóng của sinh“ đối với người dân VN.

Được "kẻ cướp" trọng thị vì sao?

Nếu vào Google, đánh từ khóa “bán nước”, sẽ thấy hiện lên hơn 17 triệu kết quả chỉ trong vòng vài giây. Trong đó, được nhắc đến nhiều nhất là cụm từ “Đài tiếng nói nhân dân Trung Hoa xác định Cộng sản Việt Nam đã bán nước”, “Nạn bám quyền bán nước hại dân của Cộng sản”, “Trò bỉ ổi mới của bè lũ cướp nước và bán nước”, “Nguyễn Phú Trọng bán nước”, “Công hàm bán nước”, “Làm việc nước hay bán nước”…

Chưa xác định chắc chắn rằng những tư liệu mà dư luận đưa ra chính xác đến đâu nhưng không thể không khiến người ta nhận ra những chi tiết của một phần sự thật trong đó.

Tần số của từ "bán nước" xuất hiện ngày càng dầy đặc, sau khi dư luận đưa ra vô số thông tin rất khó bác bỏ về Công hàm "bán nước" Phạm Văn Đồng, về Hội nghị Thành Đô của các lãnh đạo Việt Nam „bán nước“ cho Trung Quốc, rồi có nhiều tài liệu chứng minh Hồ Chí Minh –„cha già siêu hạng“ ngày đêm được ca tụng trên các

phương tiện thông tin đại chúng của VN– lại là là một gián điệp của Cộng sản Trung Quốc cài cắm quá hoàn hảo.

Tiếp theo đó, chuyến thăm Trung Quốc ba ngày của ông Tổng Bí thư với đoàn tùy tùng và vội vàng ký kết tới 9 văn bản hợp tác theo kiểu hết sức khác thường, đã khiến dư luận càng thêm phẫn nộ và có những phản ứng hết sức gay gắt.

Điều này chứng tỏ rằng những hành tung của nhà cầm quyền VN trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong chuyến thăm TQ vừa rồi của ông Tổng Bí thư và đoàn tùy tùng đã được rất nhiều người VN theo dõi sát sao và bày tỏ thái độ nghi ngờ, phẫn nộ. Ai bảo rằng người VN không quan tâm đến vận mệnh đất nước?

Những ai làm lợi cho kẻ cướp, đương nhiên được kẻ cướp trọng thị, còn ban chức tước và bổng lộc.Nỗi nhục mà tự coi là vinh quang, trong giới cầm quyền thế giới dễ có mấy người?

Mở "cửa tử" để đón chào 30/4Xem lại các văn kiện đã ký, sẽ

không khó khăn gì để nhận ra tính hai mặt của những ngôn từ trong đó, và tất cả không ngoài việc chỉ thị giữ gì cho được tính ổn định của đại cục quan hệ hai nước, trong khi TQ thả sức lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải VN.

Lẽ ra ông Tổng Bí thư phải sang TQ để phản đối việc xâm lăng đó, thì lại ký ngay "hai bên còn đồng ý cùng nhau nỗ lực, kiểm soát tốt các bất đồng trên biển". Rõ ràng hành động xâm lấn của TQ là hành động kẻ cướp, thù địch, hoàn toàn không còn ở mức bất đồng. Và chính TQ phải trả lại các đảo thuộc lãnh hải VN, vậy tại sao đoàn VN lại chấp nhận ký văn bản chấp nhận kiểm soát bất đồng?!

Bản Kế hoạch hợp tác giữa hai đảng Cộng sản giai đoạn 2016–2020, Hiệp định hợp tác dẫn độ, Bản ghi nhớ giữa hai Bộ Quốc phòng về hợp tác trong lĩnh vực giữ gìn hòa bình của Liên hơp Quốc, Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác về cơ sở hạ tầng

trên bộ, Điều khoản tham chiếu Nhóm công tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước VN và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, Thỏa thuận các vấn đề về thuế đối với dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại Vịnh Bắc bộ, Bản ghi nhớ về hợp tác phim truyền hình chuyên đề giữa đài truyền hình VN và đài truyền hình TƯ Trung Quốc…

Đây thực sự là những văn bản rất nguy hiểm, chấp nhận ràng buộc toàn diện với một nước hiện đang hành xử với VN như kẻ cướp nước và VN cần phải hết sức cảnh giác. Lẽ ra VN chỉ chấp nhận hợp tác với TQ ở một mức độ vừa phải nếu như TQ tôn trọng chủ quyền VN.

Đằng này TQ càng lấn chiếm lãnh hải VN, thì nhà cầm quyền VN càng nhu nhược và càng tự nguyện „thắt thêm thòng lọng“ vào cổ đất nước VN trên tất cả các mặt: chính trị tư tưởng, kinh tế, tài chính tiền tệ, an ninh quốc phòng, ngoại giao quốc tế và ngay cả truyền thông và văn hóa.

Hậu quả nhỡn tiền là sau ký kết thì TQ càng thêm trắng trợn hơn trong xâm lấn. Giàn khoan Hưng Vượng nói trên là một "cú tát trời giáng" cho VN ngay trong dịp lễ VN đang hỉ hả ăn mừng 40 năm 30/4. Thông điệp ấy có thể phiên dịch ra ý nghĩa nào khác hơn: "Không có độc lập cho mi đâu, VN!"?!

Nhiều người cho rằng chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng, với sự cam kết hợp tác chặt chẽ với nhà độc tài TQ, không có một mục đích nào khác hơn là để mua lấy "ngôi thái thú" và địa vị tay sai cho một số người nào đó. Vì ghế "thái thú" của họ đã được kê sẵn trên miệng vực rồi và chỉ việc ngồi đó an hưởng, ngắm con dân nước Việt rơi xuống vực mà thôi.

Để bảo vệ ngôi vị họ, nhiều nhà cầm quyền VN bằng mọi cách chặn đứng những ai muốn bảo vệ lãnh thổ VN và cải cách thể chế, đi theo khuynh hướng dân chủ và tự do. Chuyến đi vội vã này của ông Tổng bí thư VN sang TQ trước khi sang thăm Mỹ cũng nằm trong âm mưu

Số 219 Trang 16

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

của TQ vô hiệu hóa khả năng giúp đỡ của Mỹ và các nước đồng minh khác cho VN chống lại sự xâm lấn ngang ngược của TQ.

Những thòng lọng trên sẽ thêm xiềng xích VN trong một thời kỳ nô lệ Bắc thuộc mới cho TQ dưới chiêu bài ký kết hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa hai đảng Cộng sản.

Thật hài hước khi thấy những "lãnh tụ tư bản đỏ" mà người ta biết rất rõ tài sản ra sao, con đường tiến thân thế nào, cướp bóc thế nào, thủ đoạn thế nào để có, lại vẫn luồn thân dưới chiếc áo đáng ghê tởm của chủ nghĩa Cộng sản để bắt tay bán nước.

"Văn tự bán nước" giá bao nhiêu?

Máu của người VN thì vô giá. Nhưng nó trở nên mạt hạng, quá rẻ rúng trong tay những nhà cầm quyền VN bán nước.

Từ nay, mọi chuyến thăm viếng của Nguyễn Phú Trọng và phe đảng sang Mỹ đều vô nghĩa. VN quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ, nhận vũ khí chiến lược từ Mỹ, trong tình thế này, ai chẳng hiểu chỉ là bước chân và miệng lưỡi Trọng Thủy để đánh tráo nỏ thần giao TQ, thậm có thể là những cuộc nghi binh để có cơ hội làm tổn hại Mỹ.

Còn cơ hội nào cho VN?Cuộc cạnh tranh giữa các nhóm

quyền lực trong nhà cầm quyền VN xem ra thật thảm hại.

Vì đã đi ngược lại quyền lợi của đất nước và nhân dân nên họ trước sau cũng chỉ là những con lật đật. Chiêu trò chẳng có gì mới. Hễ bên này dùng xảo kế ra được một gậy giành thế thượng phong, thì bên kia lại lật đật xẻo thịt đất nước sang bán cho ngoại bang để mong họ ra ơn mưa móc bảo kê cho cái vị trí được tiếp tục ngồi lên đầu lên cổ nhân dân mà tiếp tục cướp bóc vinh thân phì gia.

Bên nào bán nhanh, bán ẩu, bán toàn diện với giá rẻ nhất, kẻ đó

đang tạm thời giành thế thắng trong cuộc cạnh tranh này.

Nhưng kết cục còn hạ hồi phân giải. Bởi vì dẫu là ai lại có quyền ký văn tự bán nước? Nước VN là của mọi người VN dù ở nơi đâu trên thế giới và người VN sẽ đòi lại.

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Bài viết trước –“Cuộc chiến

biệt vô tăm tích”– đã đề cập đến một nét đặc thù của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bài này lại nói đến một nét đặc thù nữa, chỉ người trong cuộc mới có thể nhận rõ, Đây là một nét không thể bỏ qua khi nghiên cứu, tổng kết về cuộc chiến tranh này.

Trước hết là những màn kịch của đảng. Rất điêu luyện, cao tay, tinh vi. Xin kể vài thí dụ.

Năm 1940, phát xít Nhật bắt đầu tiến công xuống phía Nam Châu Á, đe dọa Việt Nam. Đảng CS Đông Dương liền tổ chức ra Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh là tổ chức quần chúng của đảng CS, bao gồm các tổ chức Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Công nhân Cứu quốc… để che giấu kỹ bản chất CS của mình, thực hiện sứ mạng của Đệ tam Quốc tế CS là nhuộm đỏ ba nước Đông Dương thuộc Pháp.

Đây là màn kịch đầu tiên giấu kỹ tung tích CS, đề cao lòng yêu nước giành độc lập để mở rộng thanh thế của đảng CS dưới chiêu bài chống Pháp đuổi Nhật. Lãnh đạo CS hiểu rất rõ là nếu trưng ra chiêu bài CS thì sẽ thất bại to vì nhân dân VN vẫn còn dị ứng với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, một phong trào tả khuynh nguy hiểm đề cao khẩu hiệu «chống trí-phụ-địa-hào, đào tận gốc, trốc tận rễ». Chính do màn kịch này mà phong trào

Việt Minh lên cao, lên nhanh để đảng CS cướp được chính quyền tháng 8-1945, lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân.

Khi thảo ra bản TN Độc lập 2-9-1945, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn có ý thức giấu kỹ tung tích CS và lập trường CS của mình, chỉ trưng ra tinh thần của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chỉ dẫn ra các tuyên ngôn cách mạng tư sản của Hoa Kỳ và Pháp, giấu kỹ Tuyên ngôn CS mà ông ta luôn coi là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình.

Đây là màn kịch cao thủ thứ 2, khi ông ta đóng kịch với nhà báo Pháp: «Tôi không phải CS, đảng tôi là Việt Nam». Trong 3 bức thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Truman để mong tranh thủ sự ủng hộ của nước Mỹ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đóng kịch như không dính dáng gì đến Cộng sản. Thế nhưng phía Mỹ đã hiểu rõ Hồ Chí Minh là nhân viên kỳ cựu và trung thành của CS Quốc tế, không thể tin là người quốc gia, đó là nhân vật nguy hiểm cho cộng đồng quốc tế, cần xếp ở bên kia của trận tuyến «chiến lược be bờ chặn đứng chủ nghĩa CS» (Containment-of-Com-munist Strategy).

Ngày 11-11-1945 khi bị lộ tẩy đích danh là CS rồi, ông Hồ và lãnh đạo đảng CS lại dựng lên màn kịch «tự giải thể đảng CS Đông Dương», sự thật là chỉ rút vào bí mật và còn phát triển đảng CS mạnh hơn trước.

Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, đảng Lao động VN cũng là các màn kịch làm bình phong che giấu bản chất CS. Học thuyết Mác–Lê đề cao đảng CS, giai cấp vô sản thế giới, tinh thần quốc tế vô sản, trong khi hạ thấp, coi nhẹ và phủ định các khái niệm quốc gia, đồng bào, tổ quốc, xã hội, gia đình, tôn giáo. Cho đến khi toàn thắng rồi họ mới hạ màn kịch, lại công khai tự nhận là dảng CS. MT Tổ quốc bị phơi bày cái mặt nạ bằng mo không còn chút giá trị trước nhân dân, do một ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN chăn dắt một cách thô thiển vụng về sau khi kịch đã hạ màn.

Cho đến nay, vào ngày 30-4 lãnh

Số 219 Trang 17

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đạo đảng CS vẫn còn đóng kịch. Họ vẫn viết trên báo chí đây là «Ngày toàn thắng chống đế quốc Mỹ xâm lược», «Ngày kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ cứu nước», «Ngày đánh bại ngụy quân ngụy quyền tay sai Mỹ». Họ không nhầm lẫn đâu. Họ biết rõ Hoa Kỳ không xâm lược. Chính họ là kẻ rắp tâm thôn tính, xâm lược bằng vũ lực, chà đạp «quyền tự quyết của nhân dân miền Nam» mà các Hiệp định Genève và Paris đều long trọng khẳng định và chính họ đã ký tên cam kết. Họ phải bịa ra kẻ xâm lược để tự nhận là người chống xâm lược, phủi trách nhiệm, tự nhận là chính nghĩa, trong khi quân đội Mỹ chỉ hành động để bảo vệ thế giới dân chủ, trong đó có VNCH, theo chiến lược «be bờ chặn đứng thảm họa quốc tế Cộng sản». Chính CS Việt Nam mới là một kiểu ngụy quân ngụy quyền do CS Moscow và CS Bắc Kinh nuôi dưỡng thành một tiền đồn của Quốc tế CS, một quân tốt thí. Lẽ ra lúc này họ phải bỏ đi cái trò đóng kịch nhầm vai, lộn vai như thế, nói lên đúng sự thật, khi chính họ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ 20 năm chẵn và đang cần sự đầu tư và hỗ trợ của Hoa Kỳ và phương Tây.

Do CS chuyên nghề lừa dối và bịp bợm như thế nên cả xã hội VN một thời gian dài cũng nhiễm phải thói đóng kịch một cách trầm trọng và rộng khắp. Đây là một hiện tượng chưa được phát hiện, nêu lên thành hệ thống để nhận rõ thêm bộ mặt xấu xa của chủ nghĩa CS hiện thực. Nhà thơ Chế Lan Viên, người được coi là nhà thơ xuất sắc bậc nhất ở miền Bắc, khi chết đã để lại Di cảo nói rõ rằng ông ta đã lừa dối, đóng kịch ra sao. Trong bài «Trừ Đi» Chế Lan Viên viết: «Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ: Có phải tôi viết đâu! Một nửa cái cần viết vào thơ, Tôi đã giết đi rồi!». Trong bài «Ai? Tôi!» Chế Lan Viên viết: «Mậu Thân, 2000 xuống đồng bằng. Chỉ một đêm còn sống sót có 30. Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó? Tôi !- Người viết những câu thơ cổ võ Ca tụng người không

tiếc mạng mình trong mọi lúc xung phong…». Đó là sự kiện ở Bình Định, Tết Mậu Thân đảng tung 2000 quân lính và cán bộ từ căn cứ xuống đồng bằng kêu gọi dân tổng khởi nghĩa và tổng nổi dậy, nhưng thất bại thê thảm, chết gần hết.

Chế Lan Viên viết Di cảo để lại, khi sống ông không dám nói ra. Ông có dũng khí nhận tội ác về mình, thật ra tội ác thuộc về lãnh đạo đảng CS đã coi sinh mạng thanh niên quân lính cán bộ như cỏ rác, ném vào cuộc chiến một cách mù quáng. Cả một lớp văn nghệ sỹ cũng như nhà báo của đảng đều đóng kịch như thế để có kế sinh nhai, về hùa với tội ác mà cứ ngỡ mình là chính nghĩa. Chính tôi cũng đã phải đóng kịch trơ trẽn như thế.

Người dân thường hồi ấy cũng đóng kịch. Tôi xin dẫn chứng sống về 2 bà chị tôi. Bà chị ruột tôi ở Hải Phòng có con trai cả là Hưng; sau khi học xong trung học, cháu 17 tuổi được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Ở lớp cháu, trước khi hết học kỳ cuối, cả lớp hơn 30 nam sinh là đoàn viên Thanh niên CS Hồ Chí Minh đều làm đơn tình nguyện 100% đi nghĩa vụ quân sự. Trong đơn gọi là «tình nguyện» còn nêu rõ sẵn sàng đi đâu khi Tổ quốc cần, ngụ ý là sẵn sàng vào Nam chiến đấu. Thư tình nguyện còn được ghi thêm ý kiến cùng chữ ký của bố hoặc mẹ rất đồng tình với ý tự nguyện của con mình. Bà chị con ông bác ruột tôi cũng có con trai là Hiệp học rất giỏi, chuyên làm lớp trưởng. Cháu cũng đến tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Cháu cũng được quận đội Hoàn Kiếm tuyển mộ, lớp cháu hầu hết đều tình nguyện nhập ngũ, chỉ trừ các bạn quá nhẹ cân, có cố tật. Hai bà chị tôi đều lo âu, buồn khổ, nhưng tuyệt nhiên không dám lộ ra ngoài. Với láng giềng, với chính quyền khu phố cứ phải tươi cười đóng kịch trong khi nước mắt tràn ra khi đêm xuống. Các chị dò hỏi tôi có cách nào xin cho các cháu được miễn đi quân dịch để vào học tiếp Đại học, và nhất là làm sao nếu vẫn phải đi lính thì không phải đi Nam, vì câu chuyện «sinh Bắc tử

Nam» là một cơn ác mộng khủng khiếp dai dẳng cho các bà mẹ đó. Có thể nói các bạn trẻ 10 đi chỉ chừng 2, 3 phần trở về lành lặn. Vậy mà các bà chị tôi vẫn thản nhiên đóng kịch dự lễ tuyển quân, rồi sau vài tháng lại dự lễ tiễn đưa đoàn quân có con mình lên đường vào Nam, với những vòng hoa vàng đỏ choàng quanh cổ. Đó là thời kỳ chiến sự miền Nam sôi động 1965-1970. Các bà chị tôi đau khổ biệt tin con mình hằng 3,4 năm trời, có khi được tin láng máng là cháu Hưng vào khu 5, Quảng Nam hay Quảng Ngãi, cháu Hiệp vào Tây Nguyên, Kontum hay Pleiku, để rồi cuối cùng 2 bà đều thót tim nhận giấy báo tử, chậm đến hơn một năm. Cháu Hưng hy sinh ở huyện Đức Phổ còn cháu Hiệp hy sinh ở chiến trường Tây Nguyên, cả hai đều mất xác, không biết chôn ở đâu. Sau này các bà đều đi vào Nam, lặn lội nhiều nơi, dùng cả những người có ngoại cảm đi tìm mộ, nhưng đành chịu. Các tấm bảng tuyên dương Liệt sỹ, tuyên dương Mẹ Liệt sỹ, Gia đình vẻ vang, được vỗ tay chào đón trong các cuộc họp khu phố không hề an ủi được các bà chị tôi. Nỗi xót xa đau buồn khôn nguôi kéo dài hàng chục năm, vẫn không thể biết 2 cháu hy sinh như thế nào, ở đâu, lúc nào, cũng không có một di vật dù nhỏ làm kỷ niệm. Hàng triệu gia đình, hàng triệu bà mẹ đau khổ dằn vặt khôn nguôi.

Có thể nói hàng triệu gia đình có con vào Nam chiến đấu đều bị cưỡng bách một cách tinh vi như thế, đều buộc phải cùng đảng và theo đảng đóng kịch như thế. Các thanh niên đều 100% bị «cưỡng bách tự nguyện» như thế để bị cho vào lò sát sinh, vào bộ máy nghiến thịt khổng lồ mang tên «cuộc kháng chiến thần thánh chống ngoại xâm» phục vụ cho tham vọng quyền lực vô biên của đảng CS tuân theo lệnh của Quốc tế CS do ông Hồ Chí Minh dắt dẫn suốt 85 năm từ khi thành lập đảng CS năm 1930.

Cuộc đóng kịch dai dẳng về mọi mặt, cuộc lừa bịp chết người, hủy diệt oan uổng vô vàn sinh mạng trai

Số 219 Trang 18

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tráng của dân tộc giữa tuổi thanh xuân cần kết thúc lúc này đã là quá muộn. Tất cả các «từ ngữ» liên quan đến màn kịch hủy diệt con người này cần xem xét và vĩnh viễn từ bỏ để thay vào những «từ ngữ» chính xác. Ai xâm lược, ai là ngụy quân ngụy quyền? Ai cứu nước hay gây tai họa cho nước? Ai chính nghĩa ai phi nghĩa? Toàn thắng cái gì? Giải phóng cái gì? Công lao nỗi gì? Vẻ vang, vĩ đại gì?

Sao tiếng nói riêng của đảng CS lại vẫn cứ mang cái lốt giả là báo «Nhân Dân», sao Tòa án Nhân dân lại kết tội những người dân yêu nước chống bành trướng, sao Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm lại có quyền cấm nhân dân thủ đô biểu tình bảo vệ cây xanh, sao CA nhân dân lại ngang nhiên buôn sinh mạng người dân để kiếm cơ man nào là vàng khi bán bãi, bán tàu, thuyền, bán chỗ trên các tàu thuyền ọp ẹp trong thảm kịch «thuyền nhân» 40 năm về trước? Tất cả đã đến lúc phải sáng tỏ rõ ràng, minh bạch.

Cái tội cực lớn của Đảng CS là đã lấy dối trá làm lẽ sống của mình, rồi làm gương dối trá cho toàn xã hội –nhà nhà dối trá, người người dối trá, nhà trường dạy đối trá, học trò học dối trá– phá hoại nếp lương thiện, cương trực, chất phác của xã hội, phá hoại nền đạo đức và văn hóa thuần khiết của dân tộc, đến bao giờ mới hồi phục được.

Đảng CS phải hạ ngay các màn kịch đã kéo dài và nhân dân cũng không còn ai muốn cùng đảng đóng kịch trơ trẽn hay bi thảm ở mọi nơi mọi lúc như xưa nữa.

Trích DIỄN VĂN ĐÓNG KỊCH CỦA NGUYỄN TẤN DŨNG

(30-04-2015)Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của

Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và dân cả nước đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, kiên cường, sáng tạo, anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi

dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc - Nam sum họp một nhà. Đồng bào ta tràn ngập niềm vui trong Ngày đại thắng. Thắng lợi vĩ đại này đã làm nức lòng bè bạn gần xa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn - của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của đồng bào ta; của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng ta; của sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; của lòng trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với  tài chỉ huy thao lược của các vị Tướng lĩnh tài ba; của tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế; của liên minh chiến đấu kề vai sát cánh chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia.

Nói đến chiến tranh người ta liên tưởng đến những đau thương tang tóc, những tàn phá khốc liệt, những mất mát chia lìa. Bi thương hơn nữa, bao nhiêu trai trẻ, bao nhiều chiến sĩ đã phải bỏ mình trong cuộc chiến. Họ hy sinh thân mình vì một lý tưởng hay để bảo vệ quê hương. Họ hy sinh thân mình vì tham vọng của người lãnh đạo hay ảo tưởng của một chủ nghĩa. Những người lính ấy khi hy sinh, thân xác họ bị vùi chôn, bị tan nát dưới lằn đạn, để rồi khi chiến tranh chấm dứt, người ta tự hỏi thân xác người lính ấy sẽ ra sao? Bên thắng trận chắc hẳn có nhiều cơ hội để lo lắng, mai táng chiến sĩ của phe mình một cách trịnh trọng trang nghiêm, nhưng còn thân xác chiến sĩ bên thua cuộc thì sao? Có ai nghĩ tới họ không, có ai lo lắng cho anh linh các tử sĩ đó không?

May mắn thay, qua lịch sử thế giới chúng ta bắt gặp những hành động đáng cảm phục của bên thắng cuộc đối với bên thua cuộc.

Nếu có một lần đến Washington DC, bạn hãy đến thăm nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang quân

đội quốc gia của nước Mỹ, nằm bên kia sông Potomac. Nghĩa trang quân đội quốc gia này thật đẹp và hùng vĩ. Nhưng xúc cảm không phải vì cái đẹp thiên nhiên mà chính vì đó là nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hy sinh trong cuộc nội chiến giữa 2 miền Nam và Bắc Mỹ từ tháng 4-1861 đến tháng 4-1865.

Ðây là cuộc chiến khốc liệt nhất trong lịch sử nước Mỹ. Chỉ trong vòng 4 năm, tổng cộng 620.000 người Mỹ đã ngã xuống cho cuộc nội chiến này. Ðối với dân số thời đó thì con số này là 2%, nếu so với dân số nước Mỹ hiện nay thì gần 6 triệu người đã tử trận.

Trong cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc Hoa Kỳ đã diễn ra các trận chiến trên bộ giữa hàng vạn binh lính ở Virginia, Maryland, Pennsylvania, Tennessee và Georgia. Các trận hải chiến diễn ra ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương và trên sông Mississippi. Hàng trăm ngàn chiến sĩ hai bên đã ngã gục. Nhưng khi quân miền Nam của tướng Lee đầu hàng, thì vị chỉ huy quân miền Bắc, tướng Grant đã nhắc nhở quân của ông là: “Những kẻ chiến đấu phía bên kia cũng là anh em của chúng ta”. Do vậy tử sĩ của cả hai miền Nam Bắc đều được an nghỉ bên nhau tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Was-hington DC.

Xuôi dòng lịch sử, chúng ta dừng lại nơi trận đánh Verdun ở miền Tây Bắc nước Pháp. Ðây là một trận đánh đẫm máu đã đi vào lịch sử Ðệ nhất Thế chiến 1914-1918, khiến một người lính đã viết: “Nếu chưa biết Verdun thì chưa biết gì về chiến tranh”. Ðược mệnh danh Ðịa ngục Verdun (The Hell of Ver-dun, L’Enfer de Verdun), trận đánh kéo dài 300 ngày (21-2-1916 19-12-1916), tử thương 230.000 binh lính trên tổng số 700.000 nạn nhân. 

Ngay trong lúc trận đánh còn tiếp diễn, các chiến sĩ khi tử trận trên đất địch vẫn được phe địch chôn cất tử tế.

Khi chiến tranh chấm dứt, sự thù hận không còn nữa. Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Verdun và Nhà

Số 219 Trang 19

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Tưởng niệm Douaumont (The Dou-aumont ossuary) đã được xây dựng. Nghĩa trang này chôn cất không những chiến sĩ người Pháp mà còn chôn cất các chiến sĩ người Ðức, kẻ thù của họ trong chiến tranh. Nhà Tưởng niệm Douaumont cũng là nơi lưu giữ hài cốt của hơn 130.000 chiến sĩ vô danh cả hai bên Pháp và Ðức đã nằm xuống trong Thế chiến Thứ nhất.

Gần thành phố Mons thuộc nước Bỉ, có nghĩa trang quân đội St Sym-phorien, được xem như nghĩa trang đẹp nhất của mặt trận Tây Bắc (Pháp Bỉ) Ðệ nhất Thế chiến.Hai cánh cổng, bên phải ghi bằng tiếng Anh và bên trái tiếng Ðức, dẫn vào khu mộ của binh lính cả hai phe, cả hai quốc tịch. Nghĩa trang như một công viên đẹp, ngay hàng thẳng lối, là nơi yên nghỉ của hơn 500 binh sĩ gồm 284 Ðức và 229 Anh. Lối đi ở giữa dẫn đến chỗ cao và sáng nhất, nơi đặt Trụ đài Tưởng niệm, do người Ðức dựng lên để tưởng niệm những chiến sĩ Ðức và Anh đã hy sinh trong trận Mons vào hai ngày 24 và 25-08-1914.

Gần đây nhất, hãy nhìn nước Ðức sau ngày 9-11-1989. Khi bức tường Bá Linh sụp đổ, người dân Tây Ðức đã mở rộng vòng tay đón chào người anh em Ðông Ðức. Sự thống nhất nước Ðức đã là một lễ hội lớn. Chính quyền Tây Ðức mở rộng vòng tay cưu mang người dân Ðông Ðức, không có tù cải tạo, không có trại tập trung, không có trả thù. Tất cả mọi người hòa niềm vui thống nhất.

Lịch sử chiến tranh trên thế giới đã cho chúng ta những hình ảnh nói lên sự tự trọng, tính nhân bản và lòng vị tha sau cuộc chiến. Thử hỏi người Cộng sản Việt Nam sau khi cưỡng chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam, họ đã đối xử ra sao với những người lính miền Nam, với đồng bào ruột thịt của họ?

Hình ảnh đầu tiên khi người Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam sau ngày 30-4-1975, chính là việc biết bao nhiêu anh chị em thương phế binh VNCH đang nằm trong bệnh viện đã bị đuổi ra khỏi nhà

thương, không cần biết bệnh nặng hay nhẹ. Những thương phế binh này không nơi nương tựa, không người chăm sóc, đã phải lê tấm thân tàn sống vất vưởng khắp các nẻo đường đất nước. Rồi các nghĩa trang tử sĩ VNCH, như nghĩa trang Biên Hòa, đã bị người Cộng sản cầy nát. Hàng triệu quân nhân, công chức, nhà văn, nhà báo của chế độ VNCH đã bị đưa vào trại tù “cải tạo” nơi rừng sâu nước độc. Tài sản, nhà cửa của họ bị tịch thu, vợ con bị đưa đi vùng “kinh tế mới” âm u chướng khí, con cái không được đi học hay đi làm việc vì cha mẹ có liên quan đến chế độ cũ.

Có chế độ nào phi nhân bản như Cộng sản Việt Nam khi đối xử tàn tệ với phe đối nghịch khi chiến tranh đã chấm dứt? Có chế độ nào man rợ như chế độ CSVN khi đối xử tàn bạo, vô nhân đạo với những người cùng chung huyết thống?

Người xưa có câu: “Đem đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo”, còn người Cộng sản Việt Nam hành động ngược lại: “Đem hung tàn thắng đại nghĩa. Lấy cường bạo thay chí nhân”.

Chủ thuyết Cộng sản đã biến con ngưòi thành những kẻ mất hết lương tri, đã hủy hoại và tàn phá những lễ nghĩa, nhân cách do ông cha để lại. Ngày nào còn chế độ Cộng sản trên quê hương Việt Nam, ngày đó dân tộc ta còn chìm đắm trong khổ ải và thua thiệt các nước lân bang. Còn gì đau lòng hơn!

Ba mươi ngày trong tháng Tư năm 2015 âm thầm theo dõi những bài viết, hình ảnh trong và ngoài nước là dịp may nhận chân gần như toàn bộ quá khứ, một quá khứ rất gần, bởi chỉ 40 năm, thời gian chưa đủ hình thành được một chu kỳ mà lịch sử cần, nhưng lại quá đủ để thấy được diện mạo của hai phía trong ngày kỷ niệm 40 năm này.

Bên thắng cuộc, chữ của Huy Đức, định hình đảng Cộng sản Việt

Nam một cách cay đắng, vẫn cười rất tươi và hát rất vui về cái ngày mà phía ngược lại chưa lau khô hết được nước mắt.

Hình ảnh của VNCH từ cách ăn mặc, cho tới sinh hoạt trong học đường, chợ búa, ngay cả những lần đồng bào đi bỏ phiếu được khoe đầy trên Facebook khiến lứa trẻ sinh sau 30 tháng 4 có thể hình dung ra một thời kỳ mà Sài Gòn hãnh diện là Hòn ngọc Viễn Đông. Những tấm ảnh ấy đa số do phóng viên nước ngoài chụp trước khi miền Nam sụp đổ. Càng về sau năm 75 càng hiếm dần những hình ảnh sống động tiếp tục miêu tả những gì mà người dân Sài Gòn sống cùng.

Gần 5 tháng sau “ngày giải phóng”, 22-9-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên toàn miền nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là "Tiền Ngân hàng Việt Nam", còn gọi là Tiền Giải phóng, với tỷ lệ 1 đồng NHVN ăn 500 đồng tiền của chế độ cũ.

Không một phóng viên nào chụp được vẻ mặt thẫn thờ tuyệt vọng của dân chúng trong ba lần đổi tiền. Gia tài dành dụm bao nhiêu năm không cánh mà bay. Người cha trở về nhà với một nhúm giấy bạc xấu xí mà giá trị chỉ sống được một tháng. Toàn bộ số tiền có thể mua vài căn nhà nay đã ra tro. Không giải thích, không trả lời người dân, các ông bà chủ mới của “Ngân hàng không tiền gửi Việt Nam” lạnh lùng phát cho dân một số tiền như nhau

và phấn khởi báo cáo với Chủ tịch nước đã làm tròn bổn phận.

Ba năm sau, ngày 2-5-1978 Nhà nước tiếp tục công bố đổi tiền lần thứ 2 trên phạm vi toàn quốc, với tỷ lệ 1 đồng tiền NHNN cũ ở miền Bắc hoặc 0,8 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam ăn 1 đồng NHNN mới.

7 năm sau đó, vào ngày 14-9-1985 Nhà nước lại công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền NHNN cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới để phục vụ

Số 219 Trang 20

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

cuộc cách mạng về giá và lương. Lần đổi tiền thứ ba này đã thật sự lột sạch tới những đồng bạc ki cóp cuối cùng trong những gia đình miền Nam, trong khi đó miền Bắc không bị ảnh hưởng bao nhiêu vì đã quen với chế độ tem phiếu và thắt lưng buộc bụng từ những ngày “chiến tranh chống Mỹ”.

Đổi tiền là cách trưng thu tài sản đồng đều đối với mọi người dân miền Nam vì thực tế dân miền Bắc không có bao nhiêu tiền để mà mất. Chính quyền “cách mạng” còn tiến thêm một bước qua việc đánh “tư sản mại bản” một cách khốc liệt trên toàn miền Nam. Hình thức cướp cạn có văn bản, có nghị quyết này đã giết bao nhiêu gia đình lúc ấy và chẳng những thế, còn bao nhiêu gia đình phải sống mòn trong suốt 38 năm sau đó?

Năm 1977 chính quyền cách mạng đã phát động cuộc tố cáo và truy nã các thành phần mà họ gọi là tư sản mại bản tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Hình ảnh “cải cách ruộng đất” tại miền Bắc được lập lại, hàng chục ngàn gia đình bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thu và số phận của những con người bị chụp cho cái mũ tư sản mại bản ấy chẳng khác gì những con thú hoang không còn nơi ẩn núp.

Theo Huy Đức trong Bên Thắng cuộc thì ngày đánh tư sản mại bản xảy ra, các nhân vật gốc Hoa như Lý Sen, Lưu Trung, Trương Dĩ Nhiên, Lý Long Thân, Trần Thành cùng lúc trước sau bị bắt giam để trả lời tại sao họ lại giàu có như vậy. Có tội hay không có tội là chuyện của họ và bên thắng cuộc nhưng hàng chục ngàn gia đình khác bị đám 30 tháng 4 chỉ điểm cũng cùng một số phận trắng tay thì ai sẽ là người trách nhiệm đây?

Sau cuộc đánh tư sản mại bản, chính quyền cách mạng tiếp tục đánh dân miền Nam bằng 1 chính sách rất ác độc mang tên gọi mỹ miều:“Xây dựng vùng kinh tế mới”.

Kinh tế mới là những khu đất hoang hóa, hay rừng sâu nước độc khó canh tác thành công nếu không có một kế hoạch tổng lực và dồi dào

phương tiện. Hàng trăm ngàn người dân đang sống đạm bạc nhưng an lành trong thành phố bị cưỡng ép bằng những ngôn từ đầy hăm dọa lên xe về nơi mà con người khó có khả năng thích hợp. Những chuyến xe chất đầy quang gánh, quần áo tả tơi hướng về Lộc Ninh, Phước Long, Buôn Mê Thuột, Bù Gia Mập cùng hàng trăm địa điểm nổi tiếng khác của miền Nam, ghé vào và vất họ xuống với vài căn nhà mới vội vã dựng lên xiêu vẹo và chắp vá. Họ đi không nỡ ở không xong, cuộc hành trình về vùng kinh tế mới đã khép lại với hàng chục ngàn người bỏ thây vì muỗi mòng rắn rít.

Từ đó ba chữ “Kinh tế mới” ám ảnh họ như ma quỷ, như ác thú. Bốn mươi năm sau, khi nhớ lại đoạn đường này, nhiều gia đình vẫn còn ngơ ngác tự hỏi tại sao chính quyền cách mạng lại thúc ép dân vào nơi hang hùm nọc rắn như vậy? Ý đồ đích thực của họ là gì? Tận diệt một thế hệ miền Nam không thích nghi được với chủ nghĩa Cộng sản hay tư duy kinh tế kiểu Cộng sản đã khiến họ mù quáng chơi những canh bạc mà vốn liếng duy nhất họ có chỉ là mạng sống của người dân?

Bốn mươi năm, các bài viết nói về hòa hợp hòa giải giữa chính quyền hiện tại với hàng triệu người bị bắt, bị cải tạo cũng như hàng triệu đồng bào vượt biển tìm tự do đã bỏ mình hay suốt đời mang hận vì cướp biển Thái Lan rộ lên khắp các trang mạng. Chính quyền, họ, những khuôn mặt bóng nhẫy, láng bóng nói lời hòa giải như đào kép trong một gánh hát đình. Họ thể hiện sự ban ơn một lần nữa như họ đã “giải phóng miền Nam” là đã ban ơn cho đám lưu dân mất gốc này. Cách nói, cách thể hiện qua các nghị quyết hòa giải dân tộc khẳng định một thái độ: ban phát, xin cho.

Hãy nói về tù nhân cải tạo.Ừ thì chiến tranh, người thắng

kẻ thua. Thắng được phép giam giữ và cho ra khỏi trại giam lúc nào thuộc về kẻ giữ chìa khóa. Quốc tế cũng phải đứng ngoài vì quốc tế đối với CS cũng chỉ là chiếc phao trong lúc túng cùng bị gậy. Bây giờ hòa

giải là hòa giải thế nào? Chìa tay ra nói với anh: thôi mình bỏ qua nhé, anh đánh tôi không chết thì tôi nhốt anh cho vui, nếu lỡ tay có người chết thì cũng đâu bằng bom thả chùm chùm lên miền Bắc? Thế nhé, ta cùng ngồi nâng chén giải oan hát bài hòa giải có vui hơn không!

Nếu thái độ ấy diễn ra như kịch bản này phác thảo, không biết có mấy người đưa tay hòa giải? Huống chi bàn tay mà phe thắng cuộc đưa ra là bàn tay giả, chúng có thể rớt bất cứ lúc nào nếu người được hòa giải xiết nó quá mạnh.

Gia đình tôi không có liên quan tới VNCH nên chúng tôi không cần sự hòa giải của bên thắng cuộc. Nhưng gia đình tôi là nạn nhân của cả ba vụ, từ đổi tiền đến đánh tư sản mại bản và cuối cùng là chết dần chết mòn trên vùng kinh tế mới.

Tôi không cần chính quyền này nói lời hòa giải với tôi.

Điều tôi cần là chính quyền phải kéo nhau tới nhà của từng thành viên trong gia đình tôi, bây giờ còn lại 30 người, cúi đầu thật thấp và xin lỗi với thái độ chân thành. Tài sản bị mất tôi kể như xung vào công quỹ quốc gia mặc dù tôi biết chắc cán bộ thành phố là những kẻ tận thu và tư túi những tài sản ấy.

Phải sòng phẳng với lịch sử và nhận trách nhiệm trước nạn nhân. Hòa giải không thể thực hiện từ một phía. Chúng tôi không chấp nhận hòa giải vì mình là nạn nhân trực tiếp cũng như hàng chục triệu người miền Nam khác. Các ông là thủ phạm làm cho bao người sống trong nước mắt thì phải xin lỗi thật tâm nếu lương tâm con người trong các ông cắn rứt. Chỉ có lời xin lỗi mới đúng với các ông, đúng với tinh thần dành cho kẻ phạm tội với nhân dân, với lịch sử.

Số 219 Trang 21

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel trình bày một sự thật về chuyện bà sẽ không tham dự lễ diễu binh tại Nga nhằm kỷ niệm 70 năm chiến thắng Phát-xít Đức. Lý do không phải là một vấn đề mặc cảm từ kẻ thua cuộc, mà nước Đức muốn bày tỏ thái độ không ủng hộ hình thái Phát-xít mới đang xuất phát từ nước Nga, qua sự kiện Ucraina và Crimea. Thế nhưng sau lễ kỷ niệm một ngày, ngày 10 tháng 5, bà Angela Merkel sẽ đến đặt vòng hoa tại Mộ Chiến sĩ Vô danh ở Nga.

Nước Đức cũng như nhiều quốc gia khác như Mỹ, Anh, Pháp, Ba Lan… đã từ chối không tham dự lễ diễu binh ở Nga, mặc dù chiến thắng Phát-xít Đức không riêng về nước Nga. Mỗi quốc gia đều kỷ niệm ngày lịch sử này bằng các cách khác nhau trong hòa bình và mơ ước đến tương lai, và không có diễu binh. Đối với họ, có thể việc dùng xe tăng và hình tượng chiến thắng, giải phóng… sẽ trở nên thô bỉ và kiêu ngạo khi nhắc về nỗi đau của đồng loại.

Lịch sử đã mở ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị cưỡng ép như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn mới qua suốt được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá sẽ làm mù lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.

Sự thật, dẫu đến muộn, cũng giúp cho tôi và những người cùng thế hệ con người xã hội chủ nghĩa nhìn thấy nước Nga không quá vĩ đại như từng được nhồi nhét. Nước Nga có công lớn trong Đệ nhị Thế chiến, nhưng nước Nga cũng lạnh lùng thảm sát hàng chục ngàn sĩ quan Ba Lan ở Katyn. Nhà độc tài Stalin đã nuôi dưỡng đội quân của mình, trở thành một chế độ thực dân mới xã hội chủ nghĩa, bằng việc cho phép hãm hiếp, cướp bóc và áp đặt đời sống chính trị với nhiều quốc gia Châu Âu.

Nhờ sự thật, tôi cũng nhận ra rằng chung quanh mình vô số kẻ nói dối như một bản năng. Nói dối dù

chỉ để làm tươi hồng thêm màu sắc

giả tạo đã có. Ngày 9 tháng 5, kỷ niệm 70 chiến thắng Phát-xít Đức, trên trang của VOV có bài chính luận, khẳng định rằng chiến thắng của người Nga là “tiền đề vững chắc để làm nên một Điện Biên lừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu, làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 và đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế thành công như ngày nay”. Nhiều năm trước, nếu không có sự thật, có thể tôi và các bạn đã tin những dòng chữ đanh thép và kêu vang này là trí tuệ, là sự thật.

Nước Nhật, một trong những quốc gia phe Trục bị lên án, cũng đã nhìn lại Đệ nhị Thế chiến bằng sự thật lịch sử. Phát biểu nhân dịp này, hoàng thái tử Naruhito nói rằng xin đất nước và dân tộc Nhật bản hãy cùng nhau “nhìn lại quá khứ một cách khiêm tốn nhất”. Nhìn lại khiêm tốn, để thấy rõ công và tội hiển hiện trong lịch sử.

Nếu được nhìn đủ công–tội như vậy, mới hiểu vì sao với hơn 20 triệu người đã chết trong Đệ nhị Thế chiến nhưng chính quyền Liên Xô vẫn bị căm ghét ở Châu Âu, khi lạm dụng chiến thắng và cai trị. Cũng như chúng ta cũng phải tự hỏi vì sao người dân Campuchia vẫn có nhiều người căm ghét Việt Nam, dù đã giải phóng cho họ năm 1979.

Sự thật lịch sử cho thấy Liên Xô đã dùng xe tăng nghiền nát người đòi tự do ở Hungary vào 1956, thảm sát ở Tiệp Khắc vào năm 1968. Sự thật cho thấy Cuba và Triều Tiên không phải là thiên đường, các lãnh tụ Cộng sản ở Đông Âu hay Châu Mỹ chỉ là những tên độc tài hoang tưởng. Những sự thật đơn giản ấy, nhiều năm sau khi tôi và thế hệ mình lớn lên, vật vã và chấp nhận nhiều rủi ro, mới có thể tìm thấy. Thế hệ tôi, và trước nữa, chỉ biết tin tuyệt đối “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ, trăng Trung Quốc

tròn hơn trăng nước Mỹ”, như bài

thơ giễu nhại của Việt Phương từ năm 1969.

Sự thật không ăn được, nhưng ý thức về sự thật giúp con người ngay khi ăn, cũng khác các loài động vật khác. Sự thật giúp con người bừng tỉnh khi biết rằng 16 tấn vàng của chế độ VNCH không bị tẩu tán đi, mà được chế độ mới góp chung với gần 25 tấn vàng đánh tư sản miền Nam đợt 1, để đưa sang nước Cộng sản anh em. Sự thật cho biết ông điệp viên Phạm Xuân Ẩn được cài vào chính quyền của ông Ngô Đình Diệm, nhưng sau năm 1975 bị đưa đi Trung Cộng để tẩy não vì nghi ngờ đã có cảm tình với cách kiểm soát đất nước của chế độ VNCH.

Sự thật không dùng để báo thù, mà chỉ dùng để nhận biết và yêu thương tương lai của chính mình, của nhân loại. Nền văn minh thật què quặt nếu thiếu đi sự thật.

Cũng như bà Angela Merkel đến đặt hoa ở Mộ Chiến sĩ Vô danh, bất kỳ ai biết đến Đệ II Thế chiến sẽ không thể không kính trọng những người lính –bất kỳ của quốc gia nào– đã hy sinh để giành lại tự do cho tổ quốc, thế giới. Và nếu có đứng giữa 1 nghĩa trang đồ sộ qua chiến tranh, chắc chắn bạn sẽ dậy lên 1 lòng trắc ẩn về những số phận đã bị lạm dụng để phục vụ cho mưu đồ của kẻ khác. Dĩ nhiên, khi bạn là 1 người đã có diễm phúc để hiểu biết về sự thật.

Số 219 Trang 22

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Chỉ 3 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ 26-04-2015, với 2,000 người tham dự do Cộng đồng Người Việt Tự do Úc châu tổ chức, thì đến trưa Thứ Năm 30-04-2015, có một cuộc biểu tình cho Nhân quyền Việt Nam do Khối 1706 và Vietnam Sydney Radio tổ chức.

Tuy chỉ hơn 100 người, nhưng với âm thanh tối đa, cũng đã làm chấn động cả khu vực hang ổ của bọn Việt cộng tại Canberra, làm sinh hoạt của chúng bị tê liệt hơn 4 tiếng đồng hồ. Chúng đã hết sức nhục nhã bẽ mặt với hàng xóm, là những toà Đại sứ của các nước khác chung quanh.

Từ 10g sáng, cảnh sát đã ngăn chận hai đầu đường Timbarra, để chuẩn bị cho cuộc biểu tình, nếu ra vào ĐSQ đều phải đi bộ. Rất cảm ơn anh Lê Công, Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự do Canberra, cùng một số đồng bào tại đây, đã xin phép cũng như sắp đặt mọi việc cần thiết.

Khi đoàn biểu tình gồm hai xe bus lớn và hơn 10 xe nhỏ đến nơi, thì bắt tay vào việc ngay: lá đại kỳ đã được giương cao cùng nhiều cờ Úc Việt. Quan trọng là bàn thờ Tổ quốc được dựng lên thật trang nghiêm, với hai anh cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hoà trong quân phục, đứng hộ vệ hai bên: một anh là Biệt Động quân và một anh là Cảnh sát Quốc gia. Hơn 20 tấm hình lớn của những người tù lương tâm chính trị đang trong tù Cộng sản được giương ra, để đòi hỏi trả tự do cho họ, và hai biểu ngữ lớn với hai nội dung: Vietnamese commu-nist go to hell now! "40 years" is enough. và Down with the Vietna-mese communist party - True freedom for vietnam now!

Chương trình biểu tình bắt đầu với lễ chào quốc kỳ Úc Việt và mặc niệm, mọi người đã quay lưng về phía hang ổ của VC, để hướng về

quốc kỳ thiêng liêng của chúng ta.Trong phần dâng hương lên bàn

thờ Tổ quốc, cũng có phần chia sẻ trực tiếp từ Việt Nam của Hoà thượng Thích Không Tánh và Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi. Xen kẽ là những chia sẻ tâm tình của ba đồng hương trong đoàn biểu tình, là Chị Châu, Chị Ngọc và Anh Quốc Nam. Và phần phát biểu hết sức cảm động của hai vị cựu tù nhân lương tâm, Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu và bà Đặng Ngọc Minh (cũng là thân mẫu của TNLT Nguyễn Đặng Minh Mẫn).

Với sự thông cảm và dễ dãi của cảnh sát, nên âm thanh thật lớn đã khiến cho bọn Vẹm bên trong chắc chắn bể đầu tức chết, nhất là những câu khẩu hiệu Anh ngữ vạch mặt tội ác của chúng. Danh sách của tất cả tù nhân lương tâm chính trị đã được đọc lên, để tố cáo bộ mặt vô liêm sỉ và gian trá của bọn Việt cộng, do chị Tâm Hằng và anh Hoà phụ trách. Hợp cùng với danh sách nầy là

những tiếng hô to của anh Lê Công đòi hỏi CSVN trả tự do cho những người tù lương tâm nổi tiếng như: Cha Lý, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Hồ Thị Bích Khương, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Tạ Phong Tần, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Lía, Trần Thị Thuý, Mục sư Dương Kim Khải, Blogger Anh Ba Sàm, Đinh Nguyên Kha, Luật sư Lê Quốc Quân, Trần Huỳnh Duy Thức, v.v..

Cuộc biểu tình đã chấm dứt khoảng 1giờ trưa, để chuẩn bị về lại Sydney cho kịp tham dự Đêm Thắp nến cho Quốc hận do CĐNVTD NSW tổ chức.

Khối 1706 và Vietnam Sydney Radio xin ghi nhận tấm lòng hy sinh

của hơn 100 đồng bào, đã vượt qua nhiều khó khăn, để góp phần trong ngày tranh đấu này, một ngày làm việc. Xin chân thành cảm ơn tất cả những sự hỗ trợ, nhất là những vị hảo tâm giúp cho chi phí xe bus: chị Năm Núi ($1,000), chị Ann Oscar ($500), anh Phán ($200), chị Hoàng Cẩm Lý ($100), chị Tâm Hằng ($100), anh Hoà ($100), anh Hoà Việt Tân ($50), chị Lâm Nam Triều ($50), một thính giả ẩn danh ($100). Đặc biệt cảm ơn anh chị Người Không Thờ Ơ, đã làm những bong bóng vàng có hình cờ Vàng rất đẹp, cảm ơn xôi mặn thật ngon của chị Lan Thương và chị Ánh đã giúp mọi người phần ăn sáng, cảm ơn tiệm bánh mì Moorebank và chả lụa Kim Ninh. Cũng xin đặc biệt cảm ơn Chủ tịch CĐNVTD/NSW, tiến sĩ Hà Cao Thắng, đã cho mượn máy phát điện và cờ Úc Việt. Xin cảm ơn tất cả!

Tội ác của bọn Việt cộng trên toàn cõi Việt Nam qua 40 năm đã quá đủ, xin mọi người hãy cùng góp sức nhau, hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh giải trừ Việt cộng, quang phục toàn vẹn đất nước sớm được thành công. Ngày đó sẽ không xa, nếu tất cả chúng ta cùng đồng lòng tranh đấu. Xin hãy tiếp tục hỗ trợ cho

những công tác của Khối 1706, tất cả cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền tại Việt Nam.

“Nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội lần thứ XII, với tinh thần coi cán bộ và công tác cán bộ là ‘cái gốc của mọi công việc’, là ‘nguyên nhân của mọi nguyên nhân’, là ‘then chốt của then chốt’, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận kỹ lưỡng và đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và thống nhất cao với Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị” (Nguyễn Phú Trọng – Diễn văn bế mạc Hội nghị 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, 7-5-2015).

Đó là Kỷ Lục Của Mọi Kỷ Lục: Chỉ cần 87 từ một mạch không dấu chấm,

Số 219 Trang 23

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

là đủ để chứa đựng toàn bộ gốc gác, nguyên nhân và các thứ then (cài) chốt (đóng) của bài toán Việt Nam.

Kách mệnh là cướp quyền, cho nên, cốt lõi của mọi Đại hội Toàn đảng chính là vấn đề nhân sự. Mọi thứ khác, như nợ công thủng trần, ngân sách cạn kiệt, công an giết người, thuế tăng phi mã… đều không có chỗ đứng, tức là chẳng cần phải hỏi nhau rằng… nói hay đừng.

Trước tiên, cái tinh thần “coi cán bộ và công tác cán bộ” thế này thế kia… rõ ràng là một kiểu cửa quyền nội bộ. Bởi, các ủy viên TW trịch thượng này xuất thân từ đâu, nếu không phải từ hàng ngũ cán bộ đó? Thế, có nghĩa là cứ mỗi lần bế mạc Đại hội Toàn đảng là xứ này có thêm một thế hệ cán bộ lột xác thành ủy viên TW và mặc nhiên có quyền liếm xuôi nhổ ngược vào tầng lớp cán bộ lọt nia xuống sàng còn lại dưới kia!

Mà đã thế, thì chẳng hóa ra cái tinh thần “coi cán bộ và công tác cán bộ” ấy còn thiếu một khoản cực trọng: Đó là một tập thể tương đương với 300 sư đoàn của đội quân chăm chỉ cần cù suốt đời chăm lo… chạy chức. Há chẳng tự nó đã là một vựa tiền khổng lồ của lãnh đạo hay sao?

*Kế tiếp, vấn đề nhân sự là “cái

gốc của mọi công việc”, chính xác hơn, nó là cái gốc của mọi vụ việc. Liếc qua một vài vụ việc gần nhất xem sao: Dân không tự cưỡng chế đất ruộng đất vườn làm rì-sọt. Dân không tự đốn bán cây xanh làm trơ làm trọc phố phường. Dân không tự ý lấp sông làm hẹp làm hư dòng chảy. Dân không tự ý đóng tiền bảo hiểm xã hội như một loại hụi chết. Dân không tự ý nắm tay nhau chọn đồn công an làm nơi kết liễu cuộc đời. Dân không thể thoải mái giết dân vì biết trước sẽ được án treo. Dân không đào đâu ra cơ hội tham nhũng/rút ruột công trình/xà xẻo ngân quỹ…

Vậy thì, mọi oan ức/bất cập/o ép/ xách nhiễu/trấn áp… nếu không đến từ đảng, ở cấp thấp nhất như chú dân phòng hay cậu đánh máy… cho tới ủy viên đảng bộ thượng tầng, kể cả tổng bí thư… thì nó đến từ đâu?

Mà đã thế, thì vấn đề nhân sự có phải cũng chỉ là một kiểu “sóng sau xô sóng trước”, tức là ngày càng phải nhũng nhiễu nhân dân tinh vi/đa dạng hơn thế hệ ủy viên nhiệm kỳ trước, hầu thu hoạch lại cho mau đủ vốn và sớm có lời trong quy trình chạy chức vừa nói?

*Kế nữa, quả chẳng sai: Vấn đề

nhân sự là “nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Tuy nhiên, bầy sâu không chỉ ở đầu cành ngọn lá. Chủ nghĩa là một, cơ chế là hai, cách vận hành của guồng máy (hễ không bôi trơn lẫn nhau thì gãy răng cưa đó) là ba… đã hiệp lực đào tạo ra những kẻ làm sai và có toàn quyền để đổ vấy điều sai quấy mới làm (liên tục và trường kỳ) đó cho thuộc cấp. Như đã từng ra rả “chủ trương không sai, chỉ có người thi hành là sai”. Như thể, ổ đẻ ra sâu không nằm ở gốc.

Không cần vạch lá, người ta đều thấy như nhau là chẳng có cậu cảnh sát hay cô lao công nào tự tay làm vỡ được các quả đấm thép tầm Vinashin hay Vinalines. Cậu công an chỉ có thể giả dạng côn đồ để bảo vệ cho thằng đầu sỏ an tâm hóa bùn các quả đấm thép. Cô lao công chỉ có thể lau chùi cho mất dấu những hàng chữ viết lên tường HS-TS-VN, hoặc #40 năm quá đủ, hoặc #ĐMCS, giúp lãnh đạo yên lòng lạy Tàu nhập Hán.

Mà đã thế, thì cũng quả chẳng sai, rằng tự thân Vấn Đề Nhân Sự đã có vấn đề: Chính cái bộ phận không nhỏ góp sức bảo vệ và khuyến khích cho lãnh đạo làm sai kia lại bị đám lãnh đạo sằng bậy đó đùn đẩy trách nhiệm bằng lời thánh phán, như thử một thứ bầy đàn chỉ biết ăn thôi chẳng biết gì! Mà ngay cả vạn rưỡi nhà báo có thẻ kia, trong hoàn cảnh đó hàng ngày, cũng chẳng dám oẳng lại một lời.

*Áp chót, vấn đề nhân sự là “then

chốt của (chuyện) then (cài) chốt (đóng)”. Then chốt ngay từ đám dân phòng rình rập cầu thang, đầu ngõ. Then chốt từ mớ dây kẽm cột cửa ngoài. Then chốt từ keo dán sắt đổ ổ khóa. Then chốt từ bịch mắm tôm/ chai dầu nhớt. Then chốt từ quy trình cưa đá phá biểu tình. Then chốt từ xe bít bùng chạy lui bắt người về trụ sở CA hay trại phục hồi nhân phẩm. Then chốt từ động thái túm tóc phụ nữ kéo lên xe. Then chốt cả những bản án đút túi xử 2 xe máy đi hàng ba

Coi nào! Hình như những kẻ ném mắm tôm không phán những lời cực thối, đại loại như: – Nếu không thăng cấp tướng thì anh em tâm tư; – Nghề bán vé số thu nhập cao; – Do bị khớp nên anh em đưa ra con số 34.000 tỷ đồng; – Quan hệ VN và nước bạn TQ vẫn tốt đẹp; – Nợ xấu vẫn là nguồn dự trữ tốt cho tương lai; – Nếu không giáo dục cho con cháu rưng rưng khi hát quốc ca thì đất nước không thể giàu mạnh; – Nước Pháp của châu Âu…; – Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả đều là sâu thì đâu có được!; – QH cũng là dân, dân quyết

sai thì dân chịu chứ kỷ luật ai?; – Không thể từ một vụ ông Truyền mà suy ra đảng hỏng hết, vứt đi tất…

Mà đã thế, có ai cần hỏi thêm rằng mức độ thối tha then chốt nằm ở bịch mắm tôm hay thằng phán thánh?

*Ở 33 từ sau cùng của đoạn văn

thượng dẫn, phần tường thuật “Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận kỹ lưỡng, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và thống nhất cao với Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị” nghe ra như có điều trúc trắc trục trặc giữa mâu với thuẫn.

Bởi, đã thống nhất cao thì cần cóc gì phải tâm huyết với thẳng thắn cho mất sức (và lắm khi mất ghế)? Thậm chí, cần quái gì phải đóng góp ý kiến cho giấc ngủ trưa trong phòng lạnh bớt ngon?

Mà đã vậy, thì có phải đó chỉ là một khẳng định rằng xứ này hiện chỉ có 16 vua? Quần thần còn lại, tính từ nhất phẩm đến cửu phẩm, chỉ có thể làm lãnh chúa/sứ quân cát cứ đâu đó, chứ bổn phận là phải luôn luôn phải cúi đầu vâng dạ. Truyền thống phụng chiếu quang vinh muôn năm của đảng (cả nội bộ lẫn đối ngoại) chính là ở chỗ này chứ không đâu khác.

*Ngay chỗ đó, truyền thống cúi-

đầu-thống-nhất-cao mới thực sự là tiêu chuẩn tuyển chọn nhân sự quan trọng nhất, không có không xong.

Cứ nhìn vào cái tập thể nhiệm kỳ này tất thấy ngay và thấy ra hết cả những gì người ta có thể chờ đợi ở tập thể đó trong nhiệm kỳ tới.

Tất nhiên, để mô tả những tiêu chí hào hùng (và hào nhoáng) đó thì toàn bộ gánh hát đã có sẵn sáu câu Hồ Quảng:

“Ban Chấp hành TW khoá XII phải thật sự là một tập thể vững mạnh, đoàn kết thống nhất chặt chẽ, bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tầm nhìn chiến lược, có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo, ý chí chiến đấu, kỷ luật nghiêm minh; có tính đảng cao, biết lắng nghe, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân; có uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới”.

Chứ không thì khó lòng đối phó với tình hình thế giới và quốc nội trong những năm tới vốn sẽ tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp; các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách

Số 219 Trang 24

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

để phá hoại sự nghiệp cách mạng của ta.

Vâng, cứ tin vậy đi. Cứ nhìn vào dàn ủy viên khóa này mà vững tin vào khóa tới. Thề!

Kể từ cái ngày mà “61 đảng viên

trung thành” viết thư ngỏ gửi Bộ Chính trị của các ông, đề ngày 28-7-2014… cho đến thư ngỏ của 42 nhân sỹ trí thúc, đảng viên “não thành” đề ngày 23-4-2015…

Thú thật, cũng như mọi lần, tôi thấy trong lòng nó… “tâm tư” vô cùng về những điều các ông đồng thanh tuyên bố! Vì nói gì thì nói, đọc xong ai cũng thấy được là các ông rất chân thật, muốn đảng của các ông phải mau mau “thay đổi tư duy”, sửa chữa khuyết điểm để “lấy lại” uy tín với dân và để… tiếp tục cái sứ mệnh lịch sử đã giao cho là lãnh đạo muôn năm cái đám dân ngu cu đen chúng tôi…

Điều đặc biệt nhất là: các ông đã chuẩn đoán căn bệnh ung thư giai đoạn cuối của đảng các ông rất thẳng thắn, thật thà mà không hề sợ… thua thiệt.!

Các ông đã vạch ra rất nhiều điều mà không phải ai cũng có đủ điều kiện, đủ tư liệu (do vẫn có quan hệ riêng tư với “thượng tầng thể chế” đương thời?) để lên án, vạch ra những sai lầm tai hại mà các chú lãnh đạo hiện hành đang đưa đất nước vào con đường lệ thuộc Trung Hoa Hán Đế chẳng có một tốt nào cho ta bao giờ cả! Điều này làm tôi hết sức cảm phục và luôn mong muốn lời nói của các ông sẽ có thể giúp cho bọn “ăn mày dĩ vãng” mở mắt ra phần nào, may ra… dù có nhiều điều quan trọng làm tôi, một kẻ vào… “đời” năm 1927 và vào đảng năm 1949 đã trót nhúng tay vào tội… “chuyên nói dối, nói láo” (trước kia là của “chúng ta” và nay là của… “các ông”), có khi trước các ông và nặng tội hơn các ông cả vài chục năm.

Cho nên, tôi không thể hoàn toàn thống nhất tư tưởng với các ông được, nhất là trong việc đánh giá sự thối nát toàn diện của cái cơ chế xã hội, mà không đâu còn tồn tại (kể cả bên Tầu). Có lần tôi đã muốn mạnh dạn góp ý, nhất là để các lớp trẻ hiện nay đang chưa biết dựa vào ai, vào đâu, để “đấu tranh cho một xã hội dân chủ công bằng văn minh thật sự” khỏi phải hoang mang… Nhưng cuối cùng, bởi quen cái tính tiểu tư sản do bọn Tây đế quốc sài lang 11 năm nhồi nhét trong tim, trong óc về cái phương châm “ba phải”, “faute de mieux”, làm tôi luôn tự bằng lòng với

cái “không thể có cái hơn nữa trong lúc này”…

Và tôi đành chấp nhận, im lặng và đợi chờ… “thời thế sẽ tạo nên anh hùng”. Rồi đây, biết đâu đấy…

Tôi càng mong sao trong mỗi lần góp ý của các ông “đảng viên lão thành” (nhưng không còn chức vụ hiện hữu nào) chỉ là “những bước đi chiến thuật hợp lý trước mắt” chứ không phải là mong muốn thật sự rằng: đảng các ông sẽ mãi mãi duy trì cái điều 4 trên quê hương khốn khổ này… Cho nên ngay sau khi 61 vị ký tên kèm theo ngày vào đảng, (nguyên) chức vụ này nọ… hầu hết đều vào loại có… “cỡ”, có… “tầm”, có “tầm” ra trò lắm thì chắc BCT của các ông sức mấy mà lờ tình vứt vô… thùng rác!

10 tháng trôi qua, không một hồi âm… thì tiếp theo lại một lần 41 vị cũng uy tín cũ đầy mình, lại “kính gửi” một lần nữa với mong muốn chân thành Đảng ngày nay sẽ “quay lại như đảng ngày xưa”!? Nào ngờ, chẳng thèm “mời” lấy một người “bậc thầy” nào lên “trao đổi”, “nghe góp ý” hoặc cho ăn một vài… củ cà-rốt hay vài cú… roi mây, BCT các ông đã cho một thằng “tờ sờ” vô danh ký tên Bắc Hà (?) chửi xéo các ông té tát. Hắn viết trên tờ báo QĐND rằng:

…“Gần đây, một số người tỏ ra ‘cởi mở’, ‘chân thành’ tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, nhưng thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội về vấn đề phát huy vị trí địa chính trị để bảo vệ Tổ quốc. Dư luận cần hết sức tỉnh táo trước những lý lẽ của họ”! Hoặc là:

“… trong không gian mạng với cái gọi là tự do tư tưởng, tự do ‘phản biện’ ồn ào, một số người ‘bất đồng chính kiến’ đã ‘cởi mở’, ‘chân thành’ tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, mà thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội. Họ cho rằng: Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo. Họ cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam

đang có ‘cơ hội’ này. Về ‘thực trạng’ chính trị Việt Nam hiện nay họ cho rằng: ‘Chỉ có hai cách tránh họa xâm lăng: (Một) là… nhắm mắt chờ đợi một biến cố nào đó xảy ra,

(hai) là cam chịu mọi sự ép bức trong đó mất dần chủ quyền biển, đảo’.” (Tiến sỹ Bắc Hà-QĐND)

Tôi chờ đợi một sự phản ứng với những điều vô lễ và sặc mùi “chống Mỹ, thuộc Tầu” này chưa thấy… thì nhân ngày 30 tháng 4, đài RFI đã tung ra bài phỏng phấn giáo sư TL, nội dung nổi bật gần như xoay quanh hai lá thư ngỏ mà các vị ký tên (lần nào cũng có tên ông giáo sư) có tin là nhà cầm quyền sẽ tiếp thu chút nào chăng?

Và tôi thật thất vọng và mất hết lòng quí trọng ông giáo sư này. Xin nghe một vài câu nói để rồi, kết luận thế nào thì… xin cứ tùy tiện!

Ông GS nói (chẳng biết có đại diện cho cả 61=42 vị không nữa?): 

“… Hiện nay chưa có một thế lực chính trị nào có thể thay thế đảng Cộng sản Việt Nam được đâu. Và lúc này đây, khả năng tốt nhất chính là những người Cộng sản Việt Nam hiểu rõ sứ mệnh của họ vào lúc này. Để lấy lại niềm tin của dân, mà bộ phận lãnh đạo, do sự hư hỏng của họ, đã làm cho cái đảng của Hồ Chí Minh bị mất hết lòng tin trong dân rồi.

Thế thì bây giờ những người lãnh đạo hãy trở lại với bản lĩnh mà đảng Cộng sản đã có, trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ thành công…”

Và ông khẳng định như đinh đóng cột: “Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết…”

Trời đất! Nghe cứ như anh Ba Duẩn, anh Lê Đức Thọ, anh Trường Chinh thậm chí cả bác của các ông ấy tái thế vậy. Tôi vội vào mạng đọc kỹ lại 2 cái đường link này: – Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên đảng CSVN – GS Tương Lai : Xúc tiến TPP, thay vì

Số 219 Trang 25

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

rơi vào bẫy hội nghị Thành Đô thứ hai để rồi xin phép: lần đầu thẳng thừng phản bác ông giáo sư kém tôi 9 tuổi mà đã… lẩm cẩm, lú lẫn thậm chí nhai lại những gì mà chú Trọng vẫn nhắc đi nhắc lại đầy “tự kiêu, tự đại, tự mãn xấc xược CS” (arrogance et suffisance communiste) bấy lâu nay: “Không một thế lực chính trị nào đủ khả năng, trí tuệ và uy tín (sic!) để lãnh đạo nước Việt Nam này!”

Vâng! Ông dựa vào đâu mà dám nói 86 triệu dân tôi (xin phép không kể đến 4 triệu đoảng viên cũ, mới của các ông) chẳng ai có thể thay thế được các ông?

Trong khi:– Chính các ông cũng phải công

nhận là lũ quan quân nhà các ông hầu hết đều “nói chứ không làm” hoặc “làm thì phá” và… ăn thì… “không chừa một thứ gì”, thậm chí tuyên bố thẳng thừng: “Quy hoạch 10 tỉ mà thất thoát 1 tỷ là… được”!

– Chính các ông đã tuyên bố cấm tiệt mọi đảng phái chính trị và bức hại bằng hết những ai muốn làm chính trị không theo kiểu của các ông… (nghĩa là Mác-Lê giả cầy!). Cũng không từ đến cả những đồng chí công thần tiền bối mà có tư tưởng chính trị khác với các ông “vua Cộng sản” kiểu mới!

– Chính là vì muốn có một “lực lượng chính trị” mà hiện nay cũng như nhiều năm qua đã có bao con người không Cộng sản bị giam cầm trong tù về những tội “trốn thuế”, “gây mất trật tự công cộng”…

Những Trần Huỳnh Duy Thức, Anh Ba Sàm, Trương Duy Nhất, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng… hiện đang còn bị đọa đầy nơi ngục tối. Một số vì sợ họ tham gia hoạt động chính trị, đảng các ông đã tống khứ họ ra nước ngoài rồi dùng kỹ thuật “gián điệp xám” vô hiệu hóa họ với Việt kiều nơi bị tống khứ cũng như với người trong nước. Đó là Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cầy. Còn những người, tuy đã được trả tự do hoặc “tại ngoại hầu tra” như Phạm Viết Đào, Phạm Minh Hoàng, Phạm Thanh Nghiên, Ng. Xuân Nghĩa, Hồng Lê Thọ, Ng. Quang Lập thì…bị “săn sóc đặc biệt” 24/24 tiếng mỗi ngày, đi một bước cũng có người kèm cặp! Sợ họ lại hoạt động chính trị! Gần đây một số tổ chức xã hội dân sự tự do mới thành lập đã bị gây khó khăn, cản trở, dọa dẫm đủ điều…

Chỉ cần mấy cái tên kể trên thôi, tôi có thể bảo đảm rằng: họ thừa sức tập hợp quần chúng để thành lập những lực lượng chính trị mà đảng các ông chỉ có mà… chạy mất mẹc-sờ-đẹc!

Với những thành phần kể trên lại được sự ủng hộ hết mình của hàng vạn giới trẻ khát khao dân chủ, nhân quyền, hàng triệu nông dân mất nhà, mất đất, hàng triệu công nhân bị bóc lột thậm tệ (vừa biểu tình cả 90.000 người được đăng công khai trên báo chí) chẳng phải nói đâu xa, chính những nhà cầm quyền hiện nay đã nhìn ra cái khả năng có thể xảy ra này, nên họ đã sợ run mà phải tăng cường thêm tướng tá, trả lương hậu hĩ, nhập thêm súng đạn, dụng cụ tra tấn, đàn áp, lập thêm nhà tù, luyện tập thường xuyên chống “bạo động” đó sao?

Vậy thì ông giáo sư đánh giá là “không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế nổi đảng của các ông” đã thiếu hẳn đi cái vế: vì nếu có thì các ông sẽ… tiêu diệt!

Còn như nếu các ông dám bắt chước như Myamar thôi thì…các ông sẽ thấy ngay: Khả năng, trí tuệ và uy tín của những lực lượng “không Cộng sản” sẽ hùng hậu và đủ tài, đủ sức gánh vác xây dựng lại cái đất nước Việt Nam này thoát khỏi cảnh:

– Tụt hậu so với Indonexia tới 51 năm, so với Thái Lan tới 95 năm và với Singapore tới cả 158 năm… như thế nào!

Và cũng xin nhắc để ông giáo- sư-cộng-sản-trung-thành biết:

– chỉ cần một hiến pháp dân chủ tiến bộ

– chỉ cần được tự do bầu cử những người có thực tâm, thực tài vào các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…

Toàn dân không Cộng sản (kể cả những người Cộng sản lâu nay là “đa số im lặng”, tuy chưa tuyên bố rời đảng nhưng tâm trí đã bỏ đảng từ lâu rồi) cộng với số người Việt bị ly hương khắp trời Âu, Mỹ đầy nhiệt tình yêu nước, đầy tài năng, được đào tạo và có bằng cấp tiến sỹ, giáo sư, nhà khoa học, nhà phát minh, sáng tạo, quản lý… nổi danh thế giới bấy lâu, sẽ lục tục hồi hương…

Cái viễn cảnh này, những người mà các ông “kính gửi”, đang sợ phát khiếp lên và đang loay hoay tìm cách diệt nó từ trong trứng nước! Vậy mà ông giáo sư đến phút này vẫn hô hoán lên là “Không ai có thể thay thế nổi đảng của các ông” (?), dù chính các ông cũng phải lên án những

“khuyết điểm” của đảng các ông bằng những từ ngữ… hiếm thấy trong tinh thần phê bình “thương yêu đồng chí”! Đại khái như:

“Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh”. (Trích thư kính gửi ngày 28-7-2014)

Còn tôi, lần này xin phép nói thẳng, nói thật một điều: Ông giáo sư 56 năm tuổi đảng không biết học cao học ở đâu, giáo sư về môn học gì mà chẳng biết chút gì về cái quy luật tự hủy, suốt thế kỷ XX sang thế kỷ XXI của cái quái thai măc-xịt-lê-nin-nít cả !

Đặc biệt lần này, vì ông công khai coi khinh gần 90 triệu dân chúng tôi là: “không ai có thể là lực lượng chính trị thay thế đảng các ông cả”, trong đó có tôi và rất nhiều bạn bè, “đồng môn”, “đồng chí” cũ của tôi, hơn ông về mọi phương diện, (trừ sự trung thành với đảng của ông), buộc tôi phải lên tiếng.

Mong các bạn gần xa, các trang mạng đã phổ biến rộng rãi “thư ngỏ của 61 đảng viên lão thành” và lời

phát biểu của g/s Tương Lai trên RFI xin cứ tự nhiên… “ném đá”… Hoặc nếu thấy tôi… có lý và… vô tư, xin cho đăng bài này như một bài phản biện chính thức.

TUYÊN BỐ TỪ BỎ HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM

Là những người viết văn đã nhiều năm tham gia Hội Nhà Văn Việt Nam (HNVVN), đã góp sức xây dựng Hội qua thời chiến cũng như thời bình, đã đau xót trước sự xuống cấp ngày càng nghiêm trọng của Hội trong những năm gần đây và tích cực góp ý với Hội để khắc phục tình trạng ấy;

đến hôm nay, nhận thấy tình trạng suy thoái của Hội đã trở nên không thể cứu vãn nếu không có sự thay đổi nhiều điều căn bản trong điều lệ và tổ chức của Hội để Hội thực sự là một tổ chức nghề nghiệp

Số 219 Trang 26

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tập hợp những người viết muốn xây dựng một nền văn học Việt Nam đích thực, tự do, nhân bản;

nhận thấy khả năng thay đổi trên càng không thể xảy ra khi lãnh đạo HNVVN đã tự tiện tước quyền tham gia Đại hội lần IX sắp tới của chúng tôi với lý do chúng tôi là thành viên của một ban vận động thành lập một văn đoàn tương lai – đó là việc làm vi phạm trắng trợn điều lệ hiện hành của HNVVN, tước bỏ một trong những quyền cơ bản của hội viên và công dân, xúc phạm nghiêm trọng danh dự của người cầm bút;

chúng tôi tuyên bố từ bỏ HNVVN kể từ ngày hôm nay, 11 tháng 5 năm 2015.

Bùi Minh Quốc (hội viên HNV VN từ năm 1977)

Đặng Văn SinhĐỗ Trung Quân (hội viên HNV

VN từ năm 1987)Hoàng Minh Tường (hội viên

HNVVN từ năm 1981)Lê Hiền PhươngNgô Thị Kim CúcNguyên Ngọc (hội viên HNVVN

từ năm 1957)Nguyễn Huệ Chi (hội viên HNV

VN từ năm 1984)Nguyễn Quang Thân (hội viên

HNVVN từ 1977)Phạm Đình TrọngThùy LinhVũ Thế KhôiÝ NhiGhi chú:- Cùng tham gia tuyên bố, nhưng

đã công bố cá nhân quyết định từ bỏ HNVVN trước ngày 11-5-2015:

Võ Thị Hảo. Dư Thị Hoàn. Trịnh Hoài Giang

- Đã tuyên bố rút khỏi HNVVN cùng các hội đoàn khác (kể cả Ban Vận động VĐ ĐL VN):

Nguyễn Quang Lập. Dạ Ngân. Nguyễn Duy. Trần Kỳ Trung.

Theo vanviet.info

CẦN HÀNH ĐỘNG ĐỂ NGĂN CHẶN MỘT VỤ

“NHÂN VĂN GIAI PHẨM” MỚI

Võ Thị Hảo trò chuyện với

BTV Dân Luận. 08/05/2015Ngày 05-05-2015 nhà văn Võ

Thị Hảo đã tuyên bố từ bỏ hội Nhà văn Việt Nam, cùng ngày tổ chức này gạch tên 9 nhà văn khác đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh trong phiên họp bầu đại biểu đi dự đại hội toàn quốc.

Dân Luận (DL) đã trao đổi với nhà văn Võ Thị Hảo (VTH) về vấn đề mà chị coi là một vụ Nhân Văn Giai Phẩm mới

DL: Thưa chị Võ Thị Hảo, nhiều độc giả Việt đã được đọc tác phẩm của chị và luôn coi chị là một nhà văn Việt Nam tiêu biểu, do vậy việc chị tuyên bố từ bỏ hội nhà văn Việt Nam hôm 05-05-15, nhân dịp hội này chuẩn bị tổ chức Đại hội toàn quốc nói lên điều gì?

VTH: Thưa anh, đây đơn giản chỉ là phản ứng hết sức tự nhiên. Đã từ lâu tôi từ chối đưa tác phẩm của mình tham gia giải thưởng của Hội này và bây giờ tiếp tục ở trong hội đó thì tôi sẽ rất xấu hổ.

Đây là một thái độ. Một hành động của tôi nhằm góp sức nhỏ ngăn chặn nguy cơ đối với nhà văn VN. Một thời kỳ thanh trừng mới, nhằm triệt hạ những người viết trung thực, có tài năng và chính kiến. Làm sao có thể không nhận thấy sặc sụa trong không gian mùi tàn nhẫn của vụ án “Nhân văn Giai phẩm” trước đây …

Là một con người, hơn nữa là một nhà văn, tôi không thể trốn trách nhiệm bảo vệ quyền tự do chính trị, dân sự và xã hội, đặc biệt là quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do sáng tác của mình, của đồng nghiệp và cộng đồng. Công luận đã được đọc từ lâu và rất nhiều về cách hành xử cũng như hoạt động của Ban lãnh đạo Hội Nhà văn VN, trong đó cả ngàn Hội viên bị lợi dụng danh nghĩa để Hội làm theo ý chí và quyền lợi của một nhóm người. Nhiều nhà văn trong đó có tôi cũng đã từng hy vọng họ sẽ phải thay đổi theo thời cuộc nhưng thực tế là họ ngày càng tệ.

DL: Nhóm người này là cán bộ chính trị của đảng Cộng sản hay là nhà văn?

VTH: Nhóm người này thực ra là cán bộ chính trị Cộng sản dưới lốt nhà văn. Họ lợi dụng danh nghĩa của các Hội viên để tham quyền cố vị, bòn vét chút lợi lộc. Họ biết sự thật đang diễn ra nhưng giả trá, dùng mọi cách tỏ ra trung thành với bất kỳ mệnh lệnh nào dù bất lương đến mấy của nhà cầm quyền độc tài VN. Đối với nhóm người này, không có việc gì quan trọng hơn là tuyên truyền, dẫn dụ và buộc nhà văn muốn xuất bản được tác phẩm thì phải làm một nhà văn nô lệ. Tác phẩm của nhà văn sẽ bị khai tử trên văn đàn VN, bản thân họ sẽ bị mạt sát, vu cáo, tù đày nếu không nghe theo đám nô tài này và dám đụng chạm đến sự thật.

DL: Trong phiên họp để bầu đại biểu đi dự đại hội toàn quốc tại HN, Hội Nhà văn VN khu vực phía nam đã gạt tên chín hội viên ra khỏi hội. Chín người này là Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Ý Nhi, Hiền Phương, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Quang Thân, và Phạm Đình Trọng. Theo chị, điều tương tự sẽ xảy ra tại khu vực phía Bắc?

VTH: Tôi nghĩ rằng có thể. Việc loại bỏ chín nhà văn nói trên ra khỏi đại hội thể hiện sự sợ hãi của họ trước những nhà văn có tài năng, chính kiến và trung thực. Nói rằng họ tham gia Văn đoàn Độc lập là có „dấu hiệu phạm pháp“ là một hành động vu cáo, mang tính chất đàn áp, mang hơi hướng những vụ án thời „Nhân văn Giai phẩm“… Đó là khởi đầu của một cuộc thanh trừng, nếu không phát hiện và lên tiếng ngăn chặn kịp thời, cuộc thanh trừng ấy có thể sẽ tàn bạo không kém vụ án „Nhân văn Giai phẩm“ và những cuộc vu cáo, bắt bớ nhà văn khác đã từng xẩy ra. Thật quá tệ hại khi tác giả của những cuộc triệt hạ dã man ấy lại là những kẻ mang danh nhà văn.

Hội Nhà văn VN cũng độc tài y như chính thể này vậy. Họ lên tiếng mạt sát Văn đoàn Độc lập và tìm cách triệt hạ những người tham gia chỉ vì họ muốn trên đời này không ai được khác họ, phải coi họ là tổ

Số 219 Trang 27

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

chức duy nhất, tối thượng của nhà văn VN. Đó là sự thù địch với tự do sáng tác, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.

DL: Gạch tên chín nhà văn ấy, theo chị, sẽ đem lại hệ quả gì?

VTH: Làm thế, chỉ Hội Nhà văn rước lấy hổ thẹn mà thôi. Không thể dùng luận điệu cũ rích: “Có cô thì chợ thêm đông, cô đi lấy chồng chợ vẫn cứ vui được”. Họ cũng có thể nói : chúng tôi gạt tên chín người chứ ngay cả chín mươi người thì cũng không sao, vì sau lưng chúng tôi có cả hàng trăm lá đơn đang xếp hàng chờ đến lượt và trong đó có nhiều người sẵn sàng trả nhiều tiền để được vào Hội... Đó là cách chống chế lường gạt... Số đông không có giá trị gì đối với tiêu chí văn tài và trách nhiệm công dân. Khi văn tài và trí thức khốn khổ trong tù ngục, thì là khổ nạn toàn diện cho một đất nước.

DL: Nếu các nhà văn VN và công luận không lên tiếng, nguy cơ nào sẽ đến ?

VTH: Nguy cơ rất lớn, nhất là trong tình hình hiện nay và về sau, khi nhà cầm quyền VN đã lệ thuộc hoàn toàn vào TQ và đang sốt sắng thực hiện chính sách quản lý văn hóa tư tưởng theo chủ nghĩa „Mao- Tập-ít“ (kiểu Mao và Tập Cận Bình). Cách này vô cùng nguy hiểm, sẽ kéo VN về thời man rợ như những năm trước Đổi mới. Nhà văn VN sẽ nghẹt thở hơn nhà văn TQ nhiều lần, vì là thân một cổ hai tròng, trong khi nhà văn nhà báo TQ chỉ chịu một tròng cũng đủ ngắc ngoải rồi.

Nếu cứ im lặng chịu đựng, sẽ là quá muộn. Nhà văn và trí thức VN đương nhiên phải nhận ra nguy cơ và hành động ngay để ngăn chặn.

DL: Nếu Hội NVVN khai trừ hàng loạt các nhà văn có chính kiến liệu có dẫn đến sự bất bình trong các nhà văn tiến bộ ở VN, dẫn đến một sự ra đi hàng loạt?

VTH: Tôi không hy vọng sự ra đi hàng loạt, bởi nhà văn có chính kiến ở VN cũng không nhiều. Cách mà người ta vẫn làm là chịu đựng và mỏi mòn theo hy vọng rằng ngày

mai sẽ khá hơn, nhà cầm quyền sẽ nới thòng lọng ra cho chúng ta thêm một chút. Người VN bị ép buộc làm nô lệ quá lâu rồi nên quen. Nhà văn cũng vậy. Vì nếu không nô lệ, họ sẽ bị triệt mọi nguồn sống tối thiểu và việc này thì nhà cầm quyền CS đã làm hết sức tàn bạo và tinh vi.

Tại sao chính thể Cộng sản giỏi khủng bố? Vì họ, khác hẳn với những mô hình thể chế khác, đã tàn nhẫn triệt hạ đến tận gốc nguồn sống của người dân. Triệt hạ tự do tài chính nghĩa là triệt hạ được tự do ngôn luận và tư tưởng cùng mọi quyền khác.

Nhà văn VN thực ra rất khốn khổ. Họ có thể viết chút gì đó, nhậu nhẹt, chém gió quên đi sự đời. Họ như những hình nộm dự đại hội, muốn phát biểu phải có bài gửi duyệt trước, lên đọc như một cái máy. Nói điều gì mà ban tổ chức không hài lòng, „nhạy cảm“ là bị „tắt tiếng“ ngay lập tức. Việc đó được lấp liếm bằng vài bữa tiệc bù khú, ngồi trên xe buýt dành riêng đến hội trường có còi hụ inh ỏi của cảnh sát khiến dân đen táng đởm kinh hồn tưởng cháy nhà. Đó là còi hụ dẹp đường cho những kẻ bị „rọ mõm“ và „trói tay“. Rồi nhà văn sẽ nói: mình được thế cũng tốt rồi, hoặc: mình viết thế này là dũng cảm lắm rồi. Hoặc: thôi mặc kệ sự đời, mình có vợ con phải lo vì mình là thằng đàn ông…

DL: Là một người cầm bút có lương tâm, có trách nhiệm, chị thấy trách nhiệm của các nhà văn VN như thế nào đối với tình hình đất nước hiện tại?

VTH: Trong ba năm gần đây đã có hàng trăm người dân vô tội chết dưới đòn thù của đám công an côn đồ, Hội nhà văn im lặng. Thế là do hèn với chính quyền mà để mặc dân chết. Đừng nói rằng tôi chỉ viết văn, tôi không quan tâm đến đồng bào tôi chết oan.

TQ cướp bờ cõi VN, nhà cầm quyền có kẻ lặng im và nhiều kẻ hân hoan dâng hiến, Hội vẫn im lặng, đó là hèn với giặc. Đừng nói rằng chúng tôi là nhà văn chỉ viết văn, không quan tâm đến nước mất

hay còn. Những nhà văn và người bất đồng chính kiến bị xâm phạm quyền tự do sáng tác, bị oan ức đày đọa…, Hội vẫn không quan tâm, còn ủng hộ sự đày đọa, đó là ác với Hội viên. Đừng nói rằng chúng tôi chỉ viết văn, kệ đồng nghiệp chết và không biết đến tự do ngôn luận.

Đây cũng là thời mà các nhà văn không thể nói rằng do báo của Hội không đăng chính kiến của tôi nên tôi phải im lặng. Vì bây giờ ai cũng có blog, email, Facebook, tha hồ xuất bản cá nhân trên mạng dù đôi khi bị tường lửa. Đa phần nhà văn VN dùng các phương tiện thông tin dân chủ hóa toàn cầu đó để làm gì? Tán dương mình, khoe mình và khen cùng cánh hẩu, tung lên những bài văn thơ ngâm vịnh gió núi trăng hoa và vài ba cuộc tình tán gái chài trai nhạt thếch. Bạn có thể ngồi tán gái hoặc tán trai và ăn tiệc ngon lành bên 1 người đang bị tra tấn gần chết không? Nếu làm được, thì bạn có cơ trở thành 1 nhà văn VN đấy.

Nhiều người đã không chịu đựng được cung cách ngâm vịnh ấy của nhà văn VN và gọi đó là „thứ ngâm vịnh buồn nôn“.

DL: Nếu rõ ràng hội NVVN là một tổ chức của đảng CSVN nhằm thao túng và khống chế lực lượng cầm bút ở VN, đã góp phần giúp chế độ toàn trị của đảng CS bưng bít thông tin, tô hồng xã hội và nô lệ hóa dân trí thì tại sao trong một dân tộc có truyền thống văn chương như VN, lại rất ít tiếng nói phản đối hành động đó của hội ? Liệu những nhà văn ưu tú và được hâm mộ một thời, cha đẻ của những tác phẩm mang nặng tính nhân đạo, tinh thần khai sáng như Nỗi buồn chiến tranh, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thời xa vắng, Mùa lá rụng trong vườn... có biết những điều đó không

VTH: Tôi nghĩ rằng nhiều người biết, rất biết nhưng họ đã chọn im lặng khi đụng đến những vấn đề nước sôi lửa bỏng mà người dân cần nhà văn lên tiếng một cách trực diện. Người Việt vẫn tự che đậy sự vô cảm của mình bằng câu „im lặng là vàng“, hoặc là „tôi không thích tuyên ngôn“, „tôi không quan tâm

Số 219 Trang 28

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đến chính trị“… đó là những câu nói không những lệch lạc mà còn mang tính phản động, tức phản lại tiến bộ xã hội và sự minh bạch, che đậy sự hèn mà thôi. Thật đáng tiếc! Tôi mong những nhà văn có tài năng và nhân cách, đã được bạn đọc trong nước nhiều năm nay ngưỡng mộ và ủng hộ, ngoài việc bày tỏ thái độ trong những tác phẩm hư cấu, lại càng phải lên tiếng trực diện, luôn luôn để bảo vệ lẽ công bằng. Vì hậu quả của việc né tránh không lên tiếng là có nhiều người chết đuối khi anh chỉ đứng trên bờ nhìn họ kêu cứu, lý do rằng tôi chỉ biết viết văn, tôi đang bận xây dựng hình tượng một anh hùng cứu người chết đuối, hoặc tâm trạng của một người sắp chết đuối chứ tôi không có trách nhiệm cứu người.

BTV thực hiệnÐó là nhận định của nhà báo

Mike Ives, hãng AP, qua sự kiện Bộ Quốc phòng CSVN khăng khăng giữ 157 hecta đất vốn thuộc phi trường Tân Sơn Nhất để cho thuê làm sân golf.

Cũng vì Bộ Quốc phòng CSVN không chịu giao lại 157 hecta đất này, Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV) đã đề nghị chính quyền Việt Nam vay 15.8 tỉ Mỹ kim để thực hiện dự án xây dựng phi trường Long Thành do “phi trường Tân Sơn Nhất sẽ quá tải vào năm 2020.”

Ngoài việc tạo ra khoản nợ lên tới 15.8 tỉ Mỹ kim, một báo cáo của chính quyền tỉnh Ðồng Nai cho biết, nếu thu hồi 5,000 hecta đất để thực hiện dự án phi trường Long Thành, chính quyền sẽ phải thu hồi đất của 5,400 gia đình, ảnh hưởng tới sinh hoạt, sinh kế của 17,000 người

Dự án phi trường Long Thành đã bị nhiều người, nhiều giới phản đối kịch liệt. Những phân tích về sự nguy hại của dự án đối với kinh tế, tài chính quốc gia đã khiến Quốc hội Việt Nam chùn tay, chưa phê duyệt dự án. Nay, chế độ Hà Nội

đang vận động Bộ CT của đảng CSVN để tác động đến Quốc hội.

Nhà báo Mike Ives cho rằng, 157 hecta đất của phi trường Tân Sơn Nhất mà Bộ Quốc phòng Việt Nam đem cho thuê làm sân golf chứ không giao lại để mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất là “biểu tượng của mâu thuẫn lợi ích giữa quân đội Việt Nam và dân chúng Việt Nam.”

Mike Ives nhắc lại tình trạng quân đội Việt Nam -lực lượng có nhiệm vụ bảo vệ quốc gia- đang làm chủ hai tập đoàn lớn tại Việt Nam là Ngân hàng Quân đội và Công ty viễn thông Viettel, đồng thời còn nắm trong tay hàng trăm doanh nghiệp hoạt động trong đủ mọi lĩnh vực (xây dựng, đóng tàu, may mặc,...). Chế độ Hà Nội từng công bố một thống kê, theo đó, năm

ngoái, các doanh nghiệp của quân đội Việt Nam đạt lợi nhuận trước thuế là 2.1 tỉ Mỹ kim.

Bên cạnh đó, trước nay, nhiều chuyên gia vẫn cho rằng, các doanh nghiệp của quân đội hoạt động ngoài tầm kiểm soát và nhiều hoạt động của hệ thống này thiếu minh bạch.

Ðó cũng là lý do khiến nhà cầm quyền CSVN từng vài lần yêu cầu quân đội sắp xếp lại hoạt động của các doanh nghiệp quân đội. Tuy nhiên nhiều người tin rằng, rất khó đẩy quân đội Việt Nam ra khỏi các hoạt động thương mại để chỉ thực hiện vai trò quốc phòng như quân đội nhiều quốc gia khác.

Có một sự kiện mà nhà báo Mike Ives không đề cập trong bài viết vừa được AP công bố. Ðó là hồi trung tuần tháng trước, ông Phan Anh Minh, thiếu tướng, phó giám đốc công an Sài Gòn, từng tiết lộ: các doanh trại quân đội ở Sài Gòn là những “tổng kho” chứa hàng buôn lậu. Tuy nhiên viên thiếu tướng, phó giám đốc công an Sài Gòn, không cho biết chi tiết về vấn đề vốn rất đáng chú ý này.

Tại hội nghị tổng kết hoạt động

trấn áp tội phạm trong ba tháng đầu năm nay của công an các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Ðông Nam Bộ (Sài Gòn, Ðồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh), ông Minh loan báo: vừa qua, công an Sài Gòn đã phối hợp với nhiều ngành khác như Quản lý Thị trường, Kiểm lâm, Thanh tra Y tế, thực hiện các cuộc kiểm tra khu vực vành đai của các căn cứ quân sự quanh phi trường Tân Sơn Nhất và phát giác 132 kho chứa hàng buôn lậu.

Ông Minh nhận định: đây là kết quả đáng chú ý sau một thời gian dài bỏ ngỏ một khu vực vốn là nơi qui tụ nhiều hoạt động kinh doanh vi phạm pháp luật.

Trước đó, vào tháng 2, ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam từng loan báo họ nghi ngờ và đang yêu cầu nhiều ngành, nhiều cấp phối hợp với nhau để kiểm tra những kho chứa hàng nằm trong các doanh trại ở Sài Gòn, vì tin rằng chuỗi kho ở những khu vực đó chứa nhiều loại hàng lậu với số lượng lớn.

Vào thời điểm vừa kể, Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đang đảm nhiệm vai trò trưởng ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam, bảo rằng có thể các gian thương đã lạm dụng hệ thống kho của quân đội để chứa hàng, chứ chưa thể khẳng định các đơn vị quân đội có liên quan hay không.

Ông Phúc nói thêm là ông ta đã yêu cầu Bộ Quốc phòng cử thanh tra tham gia, xử lý vấn đề này và sau khi hoàn tất sẽ công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng; song đến nay, chỉ mới có phó giám đốc công an Sài Gòn xác nhận “nghi vấn” mà ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam từng nêu là có thật.

Tại Việt Nam, mỗi năm, thiệt hại do buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả gây ra lên tới hàng trăm ngàn tỉ đồng. Ðó là chưa kể buôn lậu, gian lận thương mại và hàng

Số 219 Trang 29

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

giả khiến các doanh nghiệp Việt Nam điêu đứng, thậm chí phá sản.

Cũng hồi tháng trước, ông Nguyễn Văn Cẩn, chánh văn phòng ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam, cho biết: dẫu năm ngoái, Việt Nam đã phát giác 23,000 vụ buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, quý một năm nay, phát giác thêm 4,000 vụ nữa nhưng “kết quả vẫn chưa như mong muốn vì một số lực lượng, kể cả chính quyền một số địa phương chưa tích cực.”

Với những thông tin mà phó thủ tướng Việt Nam rồi phó giám đốc công an Sài Gòn nói thoáng qua, có thể thêm vào yếu tố khiến việc chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam “chưa như mong muốn” vì gian thương đã mướn được các doanh trại làm hậu cứ. (G.Ð)

Hôm đến thăm tòa soạn báo

Người Việt ở California, một chị trong Ban biên tập hỏi mình: “Cảm tưởng của anh từ khi sang Mỹ?”, mình trả lời luôn: “Tôi có cảm giác như nước Mỹ mất bất cứ lúc nào”.

Mọi người hoảng sợ và chờ mình giải thích. Không phải mình rủa cho thằng đế quốc này nó chết đi mà nói có cơ sở hẳn hoi nhé.

Nguy cơ của nước Mỹ bắt đầu ngay từ khâu tuyên truyền. Ai đời một quốc gia to tổ bố mà chỉ nhõn cái tên: Mỹ. Ít ra, phải có chữ mỹ miều nào đó đi kèm như “Nhân dân” trong quốc hiệu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, “Dân chủ” trong Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hoặc “Xã hội chủ nghĩa” trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ!

Không có những chữ ấy đã đành, còn không có cả mục tiêu, kiểu như hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” nữa. Sợ à? Thì cứ hô lên, thiên hạ không tin thì cũng có vài thằng tin. Vài thằng còn hơn không. Cứ nói đại, còn dân không giàu, nước không mạnh, cũng chẳng có độc lập, không có tự do hạnh phúc thì đã chết ai. Hình như Mỹ chẳng thuộc câu: “Điều gì không đúng, nói mãi rồi người ta cũng tin”

Ở các đường phố Mỹ, người ta không biết trương lên các biểu ngữ như “Nước Mỹ muôn năm”, “Đảng (đảng gì nhỉ, hi hi) quang vinh muôn năm” hay “Tổng thống Washington sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Cờ Mỹ chỉ treo ở công sở, cấm có mang phơi bày ra giữa các dải phân cách trên đường giao thông để nhắc nhở đây là nước Mỹ bao giờ.

Thời gian mình ở Mỹ, cả 3 buổi sáng, chiều, tối, không làm việc thì giao tiếp nên thường xuyên long

nhong trên đường. Mặc dù trước khi sang đây mình ra sức hình dung nhưng không tránh khỏi những điều lạ, nó chẳng giống như môi trường quen thuộc mình đã sống. Vì thế, mình càng lo cho nước Mỹ.

Đất nước gì mà ngay cả thủ đô cũng chẳng trông thấy mống cảnh sát nào, cứ như là một vùng đất hoang không có ai quản lý vậy. Lúc anh lái xe chở mình từ sân bay về chỗ ở, chỉ thấy xe hơi là xe hơi. Dân cứ thế lái, chẳng có ai chỉ đường, phân luồng hay giám sát giao thông. Mình căng mắt ra nhìn vào lề đường với hy vọng túm được chú cảnh sát nào đó đang núp lùm. Nhưng hỡi ôi, cây thì nhiều nhưng toàn là cây thưa lá, thì núp ở đâu. Nhưng mãi rồi cũng thấy có một chỗ khuất. Mình nhắc anh lái xe: “Chầm chậm thôi anh, coi chừng lùm cây, chú ý cảnh sát…” Anh quay sang mình 1 giây như không hiểu gì rồi lại chăm chú vào tay lái.

Mãi rồi quen. Đúng là ở Mỹ, họ không cho cảnh sát đứng đường thật. Mà không cho đứng đường thì làm gì có thu nhập thêm! Không có thu nhập thêm thì làm sao khuyến khích được sự tận tụy của nhân viên công lực! Cảnh sát sẽ sinh ra trễ nải với công việc thì bảo vệ chế độ làm sao? Lẽ ra phải có chính sách kích thích họ sao cho ngày nghỉ cũng tranh nhau đi làm nhiệm vụ, lăm le trực thay đồng nghiệp khi đồng nghiệp mới chỉ nhức đầu, sổ mũi. Chiến sĩ không có thu nhập thêm thì lấy chi cống nạp, sếp tiêu bằng cái gì ngoài lương, chỉ đạo cấp dưới phá án làm sao mà sáng suốt được? Ở Việt Nam, ấy chết, nói nhầm, ở nước khác á, điều một cảnh sát ra đứng đường sếp thu ít ra cũng dăm nghìn đô. Tiêu hết, sếp lại “luân chuyển cán bộ”, thu thêm. Mới biết Mỹ to xác nên ngờ nghệch, làm sao nghĩ ra được những cái mẹo ấy.

Cảnh sát đã vậy còn tình hình dân phòng cũng không khá hơn. Vào các khu thương mại và ở cả những chỗ hàng quán quây ra vỉa hè nữa, chẳng thấy dân phòng vung vẩy dùi cui đuổi chợ. Mà lực lượng này cần gì phải trả lương vì nó tự trang trải được. Nó đói thì bắt trứng lộn, trái cây mà ăn, khát thì bắt Cô ca, Pep si mà uống, no rồi thì chia nhau mang về cho vợ tuồn sang chợ khác. Hôm nào dân sợ quá, không dám bày hàng ra, không thu được gì thì cũng giải quyết được khâu oai, tăng cường nỗi sợ hãi từ dân đối với chính phủ. Không nuôi dưỡng lực lượng này, nếu có biến xảy ra thì huy động sao đây? Cái đám lúc nhúc ấy, nếu sử dụng vào việc dẹp biểu tình, giải tán đám đông, cưỡng chế đất cũng được việc đáo để chứ!

Mình nhập cảnh vào Mỹ cũng chẳng ai thèm để ý. Ít ra, mình cũng từ nước Cộng sản sang nước đế quốc. Cộng sản với đế quốc là kẻ thù của nhau, một mất một còn. Mặc dù kiểm tra an ninh rất kỹ, không phát hiện ra vũ khí, vật dụng kim loại nhưng làm sao biết đầu óc mình đang nghĩ gì. Lẽ ra, ngay từ sân bay, họ phải cho người theo dõi xem thằng cha Việt cộng ấy hành

Số 219 Trang 30

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tung ra sao, ẩn náu ở đâu, móc nối cấu kết với thế lực thù địch nào chứ!

Hai ngày đầu tiên, mình được bố trí ở một nhà ngoại thành. Chủ nhà dành cho mình một phòng riêng, đầy đủ tiện nghi. Mỗi lần ra khỏi phòng, mình chỉ khư khư tấm hộ chiếu như lá bùa hộ mệnh, lại còn kẹp sẵn hai tờ 20 đôla vào nữa, phòng khi công an hay tổ trưởng dân phố đến hỏi thì nhanh nhảu trình ngay để gây thiện cảm.

Chiều tối, mọi người đến chơi đông lắm. Nhưng mình miệng vẫn nói chuyện còn lòng dạ thì không yên. Nhớ hôm nhà mình tụ tập đông người, nhờ có “tai mắt của nhân dân” mà bọn chúng biết Thúy Nga đang ở đây nên mới mai phục đánh cho mẹ con Nga một trận khi mới ra khỏi nhà mình chừng dăm phút. Nghĩ thế, thỉnh thoảng mình ra ngoài nhìn quanh xem có thấy hàng xóm rình rập gì không. Khách đến chơi, ôtô để đầy phía trước tức là rất bất thường sao lại không có người rình cơ chứ? Phát hiện thấy một phần tử người nước ngoài, lại thuộc quốc gia Cộng sản đang ẩn náu ở đây mà trình báo, nếu không được thưởng thì cũng tăng thêm uy tín với chính quyền. Nơi mình sống, nhà nào có người làm cán bộ chính quyền, công an, hay dân phòng thì tự hào và yên tâm lắm, khối người nhờ vả. Nếu không có thì tìm cách quen thân. Nhà mình không thân được ai nên đành chịu.

Cuối cùng, mình lén chốt chặt cửa lại nhưng thỉnh thoảng vẫn đánh mắt ra phía ngoài, chỉ sợ công an đến kiểm tra đột xuất. Nghĩ lại hôm 25-9-2013 công an phá cửa nhà mình xông vào bắt Phương Uyên rồi bắt luôn cả 9 người khác mà kinh hãi đến tận bây giờ. Nhỡ ra công an Mỹ lấy lý do kiểm tra hộ khẩu, xông vào bắt mình nện cho một trận rồi tống lên máy bay áp giải về Việt Nam thì hỏng hết việc, chưa ra trận mà đã thành tù binh.

Khách đã về hết, chỉ còn mình với chủ nhà. Lúc này đã 10 giờ nhưng không thấy anh có vẻ gì lo đến việc khai báo lưu trú. Định

nhắc, lại sợ anh cho mình là nhà quê. Đành gợi ý khéo bằng cách tỏ ra rằng mình có thể là đối tượng cảnh sát quan tâm để anh đừng quên việc trình báo, mình bảo: “Ngày xưa tôi có 5 năm ở chiến trường…”

Có vẻ như anh chẳng để ý gì, mình tỏ ra nguy hiểm hơn: “Tôi ra trận, đánh nhau hăng lắm, cũng được mấy danh hiệu dũng sĩ”. Nhưng anh chỉ bảo: “Từ chiều đến giờ, mải nói chuyện, anh chưa ăn, tôi làm cái gì cho anh ăn nhé!”.

Mãi rồi mình cũng biết, ở đây không có qui định khai báo tạm trú lưu trú gì ráo trọi. Tóm lại, hộ chiếu của mình chỉ phải chìa ra mấy lần khi xuất, nhập cảnh, ngoài ra chẳng ma nào thèm hỏi đến. Quản lý lỏng lẻo thế này, làm sao tránh khỏi thế lực thù địch trà trộn vào dân phá hoại cơ chứ.

Tuy vậy cái dở nhất của nước Mỹ là làm cho dân nhờn. Quốc hội gì mà ai ra vào tùy thích, sao tránh khỏi mất thiêng? Lại còn rồng rắn mang theo mỗi người cốc cà phê hay nước uống vào Quốc hội nữa chứ. Đi cũng uống, ngồi cũng uống, mỏi tay thì để cả lên bàn toàn tài liệu, chẳng ra cái vẻ uy nghiêm của cơ quan quyền lực cao nhất nước gì cả. Không có hàng rào cảnh sát gườm gườm, đầy sát khí mỗi khi thấy ai có vẻ dân thường mon men đến gần. Mình ra vào nhà Quốc hội mấy lần, chỉ họ thấy kiểm tra xem những thứ mang theo có gì có thể gây ra nguy hiểm thôi chứ hoàn toàn

không kiểm tra giấy tờ xem là ai, quan hay dân thường, có ai là đối tượng theo dõi không, chủ quan đến thế là cùng.

Hôm đầu, mình cứ nem nép đi theo mấy cháu, thấy chúng nó vào đâu, mình mới dám vào. Sau quen dần, mình xông khắp nơi, vào cả phòng tổng thống cầu nguyện, đứng ở nơi tổng thống tuyên thệ nhậm chức chụp ảnh, chụp chán rồi nằm khèo lên đi văng hóng cái không khí thoáng đãng, chẳng thấy ai thèm

nhắc nhởBuổi điều trần ở Quốc hội, khi

một ông nghị phát biểu, mình thấy bà Sanchez đứng nép sang một bên vui vẻ chờ đến lượt mình. Nghe nói bà có nhiều người giúp việc, thế mà không có đứa nào chạy đi bê ghế xun xoe đặt vào mông bà. Nếu ở ngoài trời chắc cũng chẳng đứa nào chịu cầm ô che. Hình như đám giúp việc chẳng hãi bà tí nào, chẳng sợ bà đuổi việc hay sao ấy.

À, còn ở Hollywood, dân chúng nặn cả tượng tổng thống đương nhiệm bằng sáp mới táo tợn chứ. Obama đứng, cười nhăn nhở, chìa tay ra cho ai muốn bắt thì bắt. Nhạo báng lãnh tụ đến thế là cùng, hỏi sao dân không nhờn. Mình bắt tay chụp hình xong, xoa đầu gã một cái để thử phản ứng nhưng không thấy cảnh sát nào chạy đến xốc nách dong đi.

Tóm lại, ở Mỹ, hệ thống chuyên chính vô sản, à quên, chuyên chính… tư sản tê liệt, không thấy hoạt động, quan và dân đều như nhau, thậm chí quan còn khổ hơn. Đó là điểm yếu chết người của Mỹ. Nếu không biết làm cho dân sợ thì sao tránh khỏi chuyện biểu tình không theo định hướng, rồi cứ đà này, dần dần dân chúng nó lật nhào chế độ lúc nào không biết ấy chứ!

Nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến tại Hà Nội vào ngày 11 tháng

Số 219 Trang 31

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

5 bị một nhóm người không quen biết bất ngờ tấn công hành hung trên đường vừa đưa con đi học về. Gần đây những người công khai lên tiếng vì quyền con người cũng như tham gia vào các hoạt động xã hội dân sự như anh Nguyễn Chí Tuyến bị tấn công đến thương tích do những thành phần côn đồ mà xuất xứ của họ có nhiều nghi vấn. Tình trạng này khiến dư luận công phẫn đặt câu hỏi ai là người chịu trách nhiệm trước hành vi xem thường luật pháp này?

Côn đồ lộng hành an ninh không có?

Một lần nữa dư luận bất mãn khi nhìn thấy bức ảnh chụp khuôn mặt đầy máu của anh Nguyễn Chí Tuyến. Những giòng máu chảy xuống trán xuống cằm cho thấy anh bị đánh bằng hung khí và những vết thương này trực tiếp gây cho người nhìn cảm giác mất tin tưởng vào hệ thống bảo vệ pháp luật của nhà nước khi bất lực trước các hành vi chà đạp luật pháp của chính những nhân viên của mình.

Tất cả các nạn nhân của côn đồ đều sẵn sàng tố cáo kẻ thủ ác nhưng do chính quyền khước từ vai trò điều tra nên mọi chuyện cứ lập đi lập lại một cách bình thường làm cho người bị hại không biết phải làm gì trước những kẻ được lệnh tấn công với tâm lý an toàn tuyệt đối.

Một người bạn của anh Tuyến tới nhà thăm anh sau khi anh ra viện cho biết:

- Sáng nay vào lúc 7 giờ rưỡi thì anh Tuyến có đưa con đi học, khi quay trở về nhà để chuẩn bị đi làm thì có 5 người thanh niên đi trên hai xe máy, một xe chở ba còn xe kia chở hai người. Xe chở ba người họ chặn xe của anh Tuyến lại, họ nhảy xuống và lao vào đánh anh Tuyến. Lúc đó anh Tuyến bất ngờ và không có cách nào phản kháng hay có một hành động nào chống trả. Ba người nhảy xuống đánh trước và hai người đi xe máy đàng sau dùng tuýp sắt vụt vào tay anh ấy và vết thương thâm tím ở tay bây giờ vẫn còn.

Khi chúng nhảy vào đánh hội đồng anh Tuyến thì anh bị vết

thương trên đầu dài 6 cm, còn số mũi khâu thì mình và ngay cả người thân của anh Tuyến cũng không được vào trong phòng tiểu phẩu nên không biết được bao nhiêu mũi khâu, mình hỏi họ họ cũng không nói. Còn chân tay mặt mũi thì bị đánh sưng tím, máu tụ lại trên mắt, còn phía sau gáy sau tai phải thì bị thương nặng, thâm tím; bây giờ động vào thì rất đau.

Anh Nguyễn Chí Tuyến được biết là một người hoạt động xã hội tích cực tham gia vào các cuộc diễu hành phản đối dự án chặt cây xanh của chính quyền Hà Nội. Tấn công anh Tuyến là thông điệp của côn đồ nhắn tới những người khác và người dân rất ngạc nhiên trước động thái im lặng bỏ qua kẻ phạm pháp của UBND thành phố Hà Nội.

Anh Tuyến chỉ là nạn nhân thứ ba, hai người trước là anh Sơn Tiến và blogger  Gió lang thang đã từng bị hành hung thô bạo. Gió lang thang tức Trịnh Anh Tuấn kể lại việc mình bị công an giả danh côn đồ tấn công như sau:

- Hôm đó sáng ngày 22 tháng 4 thì em trên đường đi mua một số đồ đạc cho con bé của em. Vừa ra khỏi nhà thì em phát hiên có 3 đối tượng theo dõi nhưng em không quan tâm vì không muốn gây kinh động cho họ. Tuy nhiên khi đến một đoạn cách nhà khoảng gần 1 cây số, tới đường Cổ Lý thuộc địa hạt Long Biên, thì em bị ba đối tượng này đạp xe ngã và lao vào đánh; đạp xe té xuống và lao vào đánh hội đồng rồi họ dùng gạch đập vào đầu em bị thương tích ở đầu và tay và các vết xước trên cơ thể.

Anh Sơn Tiến, từng bị tấn công với thương tật nặng nề cho biết việc anh và các bạn có ý định khởi kiện bọn côn đồ nhưng sự thật về cách làm việc của tòa án đã làm cho các anh do dự, anh nói:

- Chế độ này nó không bắt mình ra tòa nhưng mà nó dùng bạo lực dùng cách đàn áp những người đấu tranh dân chủ. Anh em chúng tôi sẽ họp bàn nhau làm đơn khởi kiện công an ra tòa án. Cái khởi kiện ấy thì tòa án nó cầm của mình. Anh em

đang muốn làm việc ấy nhưng mà đang bàn với nhau thôi chứ chưa làm được.

Một trong các người bạn của phong trào bảo vệ cây xanh Hà Nội chia sẻ: Trước đây có Gió lang thang, tức là Trịnh Anh Tuấn bị đánh và tiếp theo là anh Nguyễn Chí Tuyến thì chắc chắn là bên phía anh em sẽ có một động thái nào đó phản ứng việc này. Nếu mà mình không có động thái phản ứng gì thì chắc chắn thời gian tới, bên phía thành ủy Hà Nội, nói thẳng luôn là bên phía thành ủy Hà Nội, sẽ có các động thái đàn áp tiếp những người nhiệt tình tham gia phong trào phản đối Hà Nội chặt hạ cây xanh này vốn đã thu hút một số bạn trẻ thời gian vừa qua.

Ai trách nhiệm bảo vệ an toàn cho người dân ?

Trong một thể chế pháp trị, người dân được bảo vệ sự toàn vẹn thân thể và không một ai được quyền xâm phạm. Côn đồ tấn công anh Tuyến như muốn tận diệt kẻ thù cho thấy sự lộng hành trong hệ thống an ninh không còn giới hạn và người dân chính là nạn nhân trực tiếp bất kể họ là ai, nếu có ý định phản đối những sai trái của bộ máy.

Về trường hợp bị tấn công của Gió lang thang, anh khẳng định vì mình đã tham gia phong trào Vì Một Hà Nội Xanh nên mới bị trả thù, anh cho biết:

- Từ khi đi bảo vệ cây xanh mà UBND Hà Nội thực hiện đề án chặt hạ 6.700 cây xanh trong nội đô Hà Nội thì có một phong trào phản đối đề án này để bảo vệ cây xanh. Một tháng trước khi bị đánh thì ngày nào cũng có đối tượng lạ mặt như an ninh theo dõi và rình rập quanh nhà cho đến ngày hôm đó thì họ hành hung em. Em nhận ra các đối tượng này là các đối tượng thường xuyên theo dõi rình rập trước cửa nhà em.

Anh Nguyễn Chí Tuyến cũng nằm trong danh sách côn đồ nhắm vào vì anh là người thường dẫn đầu các cuộc diễu hành và có những hành động được người dân chú ý khích lệ. Sau khi bị đánh anh chủ

Số 219 Trang 32

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

động tố cáo trước cơ quan chính quyền và nói rõ lý do bọn côn đồ tấn công mình:

- Khoảng 4 giờ chiều tôi chủ động đi ra phường Ngọc Thụy trình báo. Tôi tường trình sơ tình trạng xảy ra như chi tiết nào mà tôi quan sát được. Họ hỏi tôi có mâu thuẫn gay cấn gì với ai không thì tôi nói là tôi sống tại đây hơn 10 năm nay thì tôi không gây với bất cứ ai hay có hận thù gì với những người chung quanh cả.

Gần đây tôi có tham gia tuần hành phản đối việc chặt hạ cây xanh trong thành phố, tôi dẫn đầu người dân. Cứ mỗi Chúa nhật thì có nhiều người vây quanh nhà tôi trong đó tôi nhận ra có một số là công an quận Long Biên. Thế thì việc sáng nay người ta dùng hung khí người ta tấn công gây thương tích cho tôi như thế thì tôi thấy là có sự liên hệ với nhau. Tôi đề nghị họ phải tìm ra những kẻ đánh tôi cũng như những kẻ bao vây nhà tôi vào Chúa Nhật hàng tuần.

Một ngày sau khi bị tấn công tàn bạo, sáng 12 tháng 5 anh Nguyễn Chí Tuyến được một nhà ngoại giao Đức đến tận nhà để thăm hỏi và ghi nhận mọi việc vừa xảy ra. Anh Tuyến kể:

- Ông Felix Schwarz, tham tán Chính trị và Nhân quyền đại sứ quán Đức, sáng nay ông ấy đến nhà tôi khoảng 10 hay 10 giờ rưỡi sáng gì đấy, lái xe của ông ấy đưa ông tới nhà thăm tôi. Ông có hỏi diễn biến vụ việc thì tôi cũng có nói chuyện cho ông ấy biết. Ông ấy nói là nắm vụ việc của tôi rồi ông ấy sẽ báo cáo cho Đại sứ quán Đức về việc nó như thế.

Những vụ tấn công người khác lập trường với chính phủ đang làm cho sự lên án nhân quyền ngày một nặng nề hơn. Báo chí thế giới đã bắt đầu râm ran về vai trò của côn đồ trong nỗ lực bịt miệng người dân không phải bằng nhà giam mà bằng bạo lực đường phố.

--------------------------------

NHÓM “VÌ MỘT HÀ NỘI XANH” TUYÊN BỐ:

- Chúng tôi phản đối và lên án bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào, do bất kỳ ai thực hiện, nhất là nếu bạo lực đó do cơ quan công quyền kích động và/hoặc bảo kê. Quan điểm của chúng tôi là ủng hộ sự ôn hòa, nhân bản, bảo về quyền con người, trong đó, quyền tự do về thân thể (bất khả xâm phạm về thân thể) là quyền tuyệt đối.

- Chúng tôi không sợ hãi và sẽ không lùi bước trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung - bảo vệ môi trường, bảo vệ cây xanh Hà Nội, thúc đẩy chính quyền minh bạch và có trách nhiệm giải trình.

- Chúng tôi yêu cầu cơ quan công an quận Long Biên, công an TP. Hà Nội, khẩn trương vào cuộc điều tra, xử lý thủ phạm, bảo vệ công dân.

Ngày 13 tháng 05 năm 2015, ông Nguyễn Văn Tạo – chủ tịch UBND huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An xác nhận cơ quan cảnh sát điều tra huyện Thạnh Hoá đã quyết định khởi tố 11 người dân oan huyện Thạnh Hoá về tội “chống người thi hành công vụ”.

11 người dân oan bị khởi tố gồm: Nguyễn Trung Can, Mai Văn Tưng, Nguyễn Thị Thắng, Mai Quốc Hẹn, Nguyễn Trung Tài, Mai Văn Đạt, Mai Thị Kim Hương, Mai Văn Phong, Nguyễn Trung Linh, Phùng Văn Tuân, Phùng Thị Ly. Tất cả đều cư ngụ tại thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa, Long An.

Cơ quan công an huyện Thạnh Hoá cho biết: “ông Nguyễn Trung Can đã nhận tội về những hành vi sai trái đối với pháp luật và khuyên những người còn lại cũng nên cúi đầu nhận tội.” Tuy nhiên, cơ quan công an huyện Thạnh Hoá đã không cung cấp bằng chứng hay bút tích nào nói việc ông Can đã nhận tội.

Ngoài những người thân trong gia đình của ông Ng. Trung Can bị khởi tố thì còn có bà Phùng Thị Ly – dân oan tỉnh Long An. Bà cũng bị khởi tố vì đã có hành vi tích cực chống đối nhà cầm quyền cưỡng chế thu hồi đất gia đình ông Can.

Vào ngày 14 tháng 4 năm 2015, nhà cầm quyền huyện Thạnh Hóa đã huy động một lực lượng rất đông gồm: công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ đến để cưỡng chế thu hổi đất gia đình ông Nguyễn Trung Can, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Thị Nhanh thuộc khu phố 3, thị trấn Thạnh Hóa.

Gia đình ông Nguyễn Trung Can và bà Mai Thị Hương đã nhiều lần gửi kiến nghị, khiếu kiện về việc làm sai trái của chính quyền địa phương về việc thu hồi đất của gia đình.

Một người dân cho biết: “Chính quyền thu hồi đất của gia đình ông

Can nhằm mục đích vụ lợi cá nhân cho bản thân họ. Họ đền bù chỉ có 300.000 (vnd)/m2 nhưng bán cho người khác là 3 triệu đồng/m2. Họ đã đền bù không thoả đáng mà còn huy động lực lượng công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ,.. đến để cưỡng chế. Quả là quá đáng.”Trước sự hung hãn bằng mọi cách của chính quyền nhằm cưỡng chế thu hồi mảnh đất của gia đình ông Nguyễn Trung Can và bà mai Thị Hương, nên những người thân trong gia đình cố thủ đến cùng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của bản thân bằng các vật dụng trong nhà như: xăng, bình gas, bình oxy, axit.Tuy nhiên, nhà cầm quyền huyện Thạnh Hoá – tỉnh Long An vẫn một mực chỉ đạo bằng mọi cách để cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông Can và bà Hương. Khi ông Nguyễn Văn Tạo cùng với đoàn đẩy cửa vào, một người trong gia đình đã tại axit vào mặt ông làm ông phải đi cấp cứu ở bệnh viện.Sau đó, lực lượng công an huyện Thạnh Hoá đã bắt 12 người về trụ sở công an và không ai rõ tin tức.

Mạnh Sơn

Số 219 Trang 33