lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định...

134
1. NHTW có thể thay đổi mức cung tiền bằng những công cụ nào? Trình bày nội dung các công cụ đó? Nêu xu hướng sử dụng các công cụ để điều tiết khối lượng tiền cung ứng hiện nay? Trả lời: - Khái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện chức năng tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền. - Các công cụ mà NHTW có thể sử dụng để thay đổi mức cung tiền đó là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,lãi suất,nghiệp vụ thị trường “mở”,hạn mức tín dụng, ,công cụ tái cấp vốn - Nội dung: * Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàn trung gian phải đưa vào dự trữu theo luật định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc – do ngân hàng trung ương quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mối ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế. Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng trung ương có thẻ làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền 1

Transcript of lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định...

Page 1: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

1. NHTW có thể thay đổi mức cung tiền bằng những công cụ nào? Trình bày nội dung các công cụ đó? Nêu xu hướng sử dụng các công cụ để điều tiết khối lượng tiền cung ứng hiện nay?Trả lời:- Khái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền

tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện chức năng tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền.

- Các công cụ mà NHTW có thể sử dụng để thay đổi mức cung tiền đó là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,lãi suất,nghiệp vụ thị trường “mở”,hạn mức tín dụng, ,công cụ tái cấp vốn

- Nội dung:

* Dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàn trung gian phải đưa vào dự trữu theo luật định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc – do ngân hàng trung ương quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mối ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế.

Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng trung ương có thẻ làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền kinh té giảm hoặc tăng. Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của ngân hàng trung ương nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền.

Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Mặt khác, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đối với khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó là khi ngân hàng trung ương muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nều sử dụng công cụ này. Bên cạnh đố, việc thay đổi

1

Page 2: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó, một sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi hỏi ngân hàng trung gian, cũng như phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.

* Lãi suất

Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sụ biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ. thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, ngân hàn trunguwowng có thẻ sử dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ theo các chính sách sau:

- Ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các loại lãi suất như:

+ Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc

+ Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn

+ Công bố lãi suất cơ ản cộng với niên độ giao dịch

Dựa vào các loại lãi suất đã được ấn định, ngân hàng trung gian áp dụng để giao dịch kinh doanh với khách hàng. Cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ áp dụng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, cũng như ở các nước đang phát triển khác trước đây. Một trong những lý do chính để giải thích tại sao ngân hàn trung ương không để thị trường quyết định lãi suất mà phải quy định chặt chẽ lãi suất như vậy là vì trình độ phát triển thị trường tiền tệ còn thấp, năng lực cạnh tranh các ngân hàng trung gian còn yếu kém.

- Ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thành theo theo cơ chế thị trường. Và để can thiệp vào lãi suất thị rường, ngân hàng trung ương có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách:

+ Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường.

2

Page 3: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường.

Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung gian. Nếu chính sách của ngân hàng trung ương là muốn bành trướng khối tiền tệ , ngân hàng trung ương sẽ khuyến khích các ngân hàng trung gian trong việc đi vay tái chiết khấu cũng được dễ dãi. Trong trường hợp này, ngân hàng trung gian đi vay sẽ ít tốn kém hơn nên cũng có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực hiện ngân lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn. Điều này sẽ hạn chế nhu cầu đi vay của các ngân hàng trung gian, và gián tiếp gây áp lực buộc các ngân hàng trung gian nâng lãi suất cho vay. Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất, chính sách tái chiết khấu của ngân hàng trung ương còn có vai trò quan trọng khi nó giúp các ngân hàng trung gian khai thông ăng lực thanh toán,nhờ đó có thể cứu vãn được những cơn sụp đổ tài chính – ngân hàng. Cụ thể , khi các ngân hàng bị đe dọa phát sản, ngân hàng trung ương sẽ cấp dự trữ cho chúng thông qua tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá, từ đó khôi phục được khả năng thanh toán của những ngân hàng này. Vài trò này ngày càng trở nên quan trọng hơn, bởi vì chúng ta đang trải qua những khó khăn ngày càng nhiều của hệ thống ngân hàng hiện nay.

Tuy nhiên chính sách tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định:

- Thứ nhất, có thể tạo cho các ngân hàng trung gian tính ỷ lại mà chúng ta đã phân tích trong phần 2.2 của chương này.

- Thứ hai, ngân hàng trung ương có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu, nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng trung gian phải đi vay. Nghĩa là ngân hàng trung ương bị lệ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian khi sử dụng công cụ này.Từ đó, các nhà kinh tế có đề xuất những biện pháp cải cách công cụ tái cấp

vốn. Đề xuất được sự đồng tình rộng rãi nhất là đề xuất gắn lãi suất tái chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu với một lãi suất thị trường, vì nhận thấy có nhiều điểm lợi:

3

Page 4: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Thứ nhất, hầu hết những biến động trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường với lãi suất tái chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu.

- Thứ hai, ngân hàng trung ương vẫn có thể tiếp tục sử dụng công cụ tái cấp vốn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng, mà không sợ bị các ngân hàng lợi dụng. Bởi vì lúc này các ngân hàng trung gian sẽ không còn đi vay từ của sổ chiết khấu để sinh lưoij được nữa, bắt buộc nó phải cân nhắc kỹ trước khi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm trong kinh doanh.Thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất đòi hỏi nền kinh tế cần phải có

những điều kiện cơ bản nhất định:

- Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định- Hành lanhg pháp lý ổn định, hoản chỉnh và đồng bộ- Hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, có sức cạnh tranh cao- Thị trường tài chính vận hành có hiệu quả- Các nguồn lực trong nước được phân phối và sử dụng hợp lý

Trong xu thế nhội nhập, việc thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất là cần thiết, song cần tiến hành một cách thận trọng, cân nhắc kỹ càng, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.

Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế. ngược lai, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền kinh tế.

* Thị trường mở

Công cụ thị trường mở phản ánh việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán chứng từ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà các ngân hàng trung ương thường sử dụng để tiến hành nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khoán

4

Page 5: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

kho bạc, bởi vì thị trường của những chứng khoán này rất “lỏng” và có dụng lượng kinh doanh lớn.

Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các ngân hàng trung gian giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng cả các ngân hàng trung gian và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Bên cạnh đó, việc ngân hàng trung ương bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán này sẽ hạ và đo vậy, lãi suất của chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng buộc các ngân hàng trung gian phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh tình trạng công chúng rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.

Ngược lại, khi ngân hàng trung ướng đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, dự trữ của các ngân hàng thương mại tăng lên. Mặt khác, việc ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách bành trướng khối tiền tệ.

Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số uwu điểm hơn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. cụ thể:

- ngân hàng trung ương có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian.

- Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của ngân hàng tủng ương là thay đổi sự trữ của các ngân hàng ở biên độ lướn, nó sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán. Và ngược lại, muốn thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung gian ở biên độ nhỏ, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện việc mua và bán một ít chứng khoán thôi.

- Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành. Giả sử ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa

5

Page 6: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.

- Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.

- Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền trong lưu thông phải nằm ở tài khoản của ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị trường tài chính phát triển. Vì vậy công cụ này được sử dụng thường xuyên nhất, hiệu quả nhất đối với ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp phát triển – nơi có công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa mang lại hiệu quả cao.

* Hạn mức tín dụng:

Bằng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương quy định cho các ngân hàng trung gian một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho phép ngân hàng trung ương ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian hất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị rường, cung cầu tín dụng luôn biến động không ngừng. Do đó, công cụ này ít được áp dụng.

*Công cụ tái cấp vốn:

là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.

xu hướng sử dụng các công cụ để điều tiết khối lượng tiền cung ứng hiện nay

sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra ở Mỹ và Châu Âu đã làm cho Việt Nam cũng không thoát khỏi vòng xoáy của sự suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suy giảm mạnh, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009(1). Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong hơn 10 năm trở lại đây

6

Page 7: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Trước tình huống đó, NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết liệt và đúng đắn để ngăn ngừa suy thoái kinh tế và dần lấy lại đà phục hồi cho nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung, trong khoảng thời gian 3 năm 2007-2009, NHNN đã có những biện pháp khá linh hoạt trong điều hành CSTT từ “thắt chặt” trong khoảng thời gian 2007-2008 và “nới lỏng” từ đầu năm 2009-nay.

Giai đoạn “thắt chặt” CSTT

Năm 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm tốc độ lạm phát ở mức “vừa phải”. năm 2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát” tức là nguyên nhân gây ra lạm phát năm 2008 chủ yếu là lạm phát do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu chi phí đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỷ lục (dầu thô vượt ngưỡng hơn 147 USD/ thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1.000 USD/tấn, phân bón, vải sợi... đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nền kinh tế nước ta. Đó là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện sinh hoạt và sản xuất tăng, chính phủ tiến hành cải cách tiền lương làm thu nhập dân cư tăng và chi phí của doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành CSTT, việc sử dụng công cụ thị trường mở và tỷ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do tỷ giá giữa USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.

Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009

Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỷ USD, tương đương với việc “bơm” thêm hơn 112.000 tỷ VND vào nền kinh tế làm cho lạm phát càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào 7 tỷ USD có mặt tích cực đó là gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (còn đang ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực), đồng thời nâng giá trị đồng USD nhằm khuyến khích nền kinh tế xuất khẩu qua đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh giảm bội chi cán cân thương mại. Mặc dù sau đó, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (Open Market) để “hút"”tiền trở lại nhưng chỉ thu hồi được hơn 82.000 tỷ. Tuy nhiên, việc làm này vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một khối lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này, NHNN đã áp dụng hàng loại các biện pháp quyết liệt cùng Chính phủ sử dụng CSTK nhằm kiềm chế lạm phát. NHNN đã sử dụng đồng bộ các công cụ của CSTT như: lãi suất cơ bản (LSCB) VND được tăng lên mức cao nhất trong nhiều năm qua (14%/năm), dự trữ bắt buộc (DTBB) là 11%, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, bắt buộc các TCTD mua 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc có kỳ hạn 12 tháng với lãi suất chỉ có 7,58%/năm và không được sử dụng để tái chiết khấu tại NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở (OM-Open market) để “hút” tiền về.

7

Page 8: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện CSTK “thắt lưng buộc bụng” nhằm hạn chế lượng tiền trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỷ VND). Dồn vốn cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng... Chính phủ còn giao các đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường xuyên 10%, tăng cường chống thất thu thuế và nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại các khoản nợ và rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữa nhà nước....

Giai đoạn “nới lỏng” CSTT từ cuối năm 2008 tới nayCSTT bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ mạnh

tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu tư, tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong lĩnh vực bất động sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy thoái khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI, FII giảm gây khó khăn cho việc xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện “thắt chặt” tiền tệ đòi hỏi kết hợp chặt chẽ giữa CSTT và CSTK mới đem lại hiệu quả tốt nhất thì việc “nới lỏng” tiền tệ cũng đòi hỏi việc làm tương tự. Điều đó thể hiện ở việc Chính phủ tiến hành thực hiện 5 nhóm giải pháp cấp bách nhằm “ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội”. Trong đó kích cầu nền kinh tế là một trong những giải pháp trọng tâm. Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho gói kích cầu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng gói kích cầu/tổng GDP, chỉ sau Trung Quốc và Malaixia) trong đó dành riêng 1 tỷ đô la (tương đương hơn 17 ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất vay vốn lưu động ngắn hạn cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản xuất, kinh doanh nhằm giảm giá thành hàng hoá và tạo việc làm. Đây là cách làm khá độc đáo và sáng tạo, “rất Việt Nam” nhưng mang lại hiệu quả khá cao. Sau đó, vào ngày 04/04/2009, Chính phủ tiếp tục hỗ trợ 4% lãi suất và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến hết năm 2011 cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn để đầu tư mới cho sản xuất kinh doanh. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính phủ đã khuyến khích tăng nhanh chóng nhu cầu đầu tư

8

Page 9: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

của các doanh nghiệp vốn đang rất thiếu vốn sản xuất đồng thời mở đầu ra cho các NHTM vốn đang trong tình trạng dư thừa vốn. Tính đến 12/11/2009, theo NHNN, tổng dự nợ trong chương trình hỗ trợ lãi suất đã lên tới trên 414.460,21 tỷ đồng trong đó DNNN vay 62.605,20 tỷ đồng, DN ngoài quốc doanh 285.290,27 tỷ đồng, hộ sản xuất 66.565,02 tỷ đồng. Chính phủ cũng quyết định giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30% số TNDN của quý IV/2008 và cả năm 2009. Đối với 70% số thuế còn lại của năm 2009, các doanh nghiệp được giãn thời hạn nộp trong 9 tháng. Các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử được áp dụng thời hạn giãn thuế tương tự. Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế GTGT từ 01/02/2009 đến 31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90% thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.

CSTT ”nới lỏng”của NHNN kết hợp CSTK của Chính phủ.Từ tháng 10/2008, NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ

”thắt chặt” sang ”nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp:

- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm).

- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm.

- Điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ.

- Cho phép các TCTD được xin chiết khấu, tái chiết khấu và thanh toán trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn. Thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở mua vào các GTCG nhằm cung thêm vốn cho nền kinh tế thông qua các TCTD. NHNN tiến hành nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm tỷ giá để hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hoà cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng...

2. Có quan điểm cho rằng: “ Không chỉ có NHTW có chức năng phát hành tiền vào lưu thông” quan điểm trên đúng hay sai? Vì sao?Trả lời: sai (gợi ý như vậy thôi,tự chém gió tiếp nhá…há há)

9

Page 10: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Ngân hàng nhà nước việt nam(hay còn gọi là NH dự trữ hay cơ quan hữu trách tiền tệ) là cơ quan quản lý hệ thống tiền tệ quốc gia,thi hành chính sách tiền tệ,phát hành tiền,ổn định giá trị đồng tiền,ổn định cung tiền,kiểm soát lãi suất,là cứu cánh của các NHTM đang có nguy cơ đổ vỡ…Nếu tổ chức tín dụng nào cũng phát hành được tiền thì nền kinh tế không thể ổn định,gây ra loạn tỷ giá và còn nhiều vấn đề khách nữa nảy sinh

3. Trình bày nội dung các khối tiền trong nền kinh tế? Trong tương lai cơ cấu các khối tiền sẽ thay đổi như thế nào?Trả lời:* nội dung các khối tiền trong nền kinh tế

Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường trong một khoảng thời gian nhất định.

Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối tiền trong lưu thông. Sự phân chia này tuỳ theo mỗi nước, nhưng cách phân chia phổ biến là:

- Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:

+ Tiền đang lưu hành (gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng).

+ Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại (tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể phát séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ).

- Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Khối tiền tệ này, với một cách nhìn rộng hơn về lượng tiền cung ứng. Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:

+ Lượng tiền theo M1.

+ Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại.

- Khối tiền tệ M3: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:

10

Page 11: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Lượng tiền theo M2.

+ Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.

- Khối tiền tệ L : Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:

+ Lượng tiền theo M3.

+ Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao (dễ chuyển thành tiền mặt): thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,....

Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất, sau đó thấp dần và cuối cùng là khối L (Khi cách nhìn về lượng tiền cung ứng càng rộng thì tính lỏng của nó càng thấp)

Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là:

- Số lượng các phương tiện được phát hành từ ngân hàng

- Các phương tiện được phát hành từ các tổ chức tài chính không phải ngân hàng

- Các phương tiện được phát hành từ doanh nghiệp

- Các phương tiện được phát hành từ chính phủ

Nếu tài sản tích lũy của dân cư và doanhn ghiệp đưa vào đầu tư lớn, thì số lượng các phương tiện lưu thông sẽ tăng lên. Nếu tài sản này bị lưu giữ thì không những các phương tiện lưu thông bị giảm thấp, mà còn làm cho nền kinh tế bị trì trệ.

* Trong tương lai cơ cấu các khối tiền sẽ thay đổi như thế nào?

4. Nguyên nhân của lạm phát là gì? Giải pháp kiểm soát lạm phát? Vận dụng vào thực tế ở Việt Nam hiện nay?

Trả lời:

11

Page 12: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện.

- Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế:

Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia thành các nhóm nguyên nhân như sau:

- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chính sách của Nhà nước: Lạm phát do nguyên nhân này thường xảy ra khi có những thay đổi về chính sách tài chính-tiền tệ của Chính phủ như chính sách thu chi NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tỷ giá,…làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế biến động hay làm cho giá ngoại tệ tăng lên. Nhìn chung, Chính phủ chỉ ra những quyết định thay đổi các chính sách trên nhằm mục đích điều tiết vĩ mô theo hướng có lợi cho nền kinh tế, nhưng đôi khi do không lường trước được những biến động thực tế nên đã gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn, trong một số trường hợp do sự thay đổi chính sách thu chi NSNN của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách và buộc phải phát hành tiền để bù đắp. Do phát hành vượt quá lượng tiền cần thiết nên lạm phát đã xảy ra; hoặc những thay đổi trong chính sách tiền tệ tín dụng: ngân hàng trung ương ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm gia tăng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra.

- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong thực tế, do quản lý điều hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh có thể làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào. Khi giá cả của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá các nguyên nhiên vật liệu cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng,...) gia tăng sẽ đội giá thành sản phẩm và làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá bán của các các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra hiệu ứng tăng giá dây chuyền trên diện rộng. Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát.Trong trường hợp này, khi giá cả của hàng hóa tăng lên trên diện rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với giá cả các yếu tố đầu vào. Quá trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở mức độ cao đều ẩn chứa các nguyên nhân này.

- Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra những rủi ro như dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa,... trên diện rộng thường để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội và để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần

12

Page 13: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

chi một lượng tiền không nhỏ vào lưu thông. Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất thời cũng là một hiện tượng tất yếu của hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này, nếu Chính phủ không có những kế sách khắc phục những rủi ro này một cách phù hợp thì chính những hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền kinh tế rơi vào lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh tế yếu kém.

Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi một số nguyên nhân khác như là: xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ,…

Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt nguồn bởi một hoặc một nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng hợp tác động của nhiều nguyên nhân nêu trên.

Các biện pháp kiểm soát lạm phát.

Về dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ giá trị tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thể duy trì sự ổn định tiền tệ là mục tiêu dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào. Nhưng trong từng thời kỳ việc lựa chọn cac giải pháp kiềm chế lạm phát cũng như mức độ tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng và các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chịu. Chính phủ các nước có thể chọn chiến lược giảm lạm phát từ từ, ít gây biến động cho nền kinh tế hoặc chiến lược giảm tỷ lệ lạm phát nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong quá trình điều chỉnh.

a. Giải pháp cấp bách:

Đây được coi là những giải pháp tình thế, được áp dụng với mục đích giảm tức thời "cơn sốt" lạm phát để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược lâu dài.

- Biện pháp về tiền tệ- tín dụng: Mục đích là giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, và kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ.

+ Quản lí chặt chẽ việc cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ.

+ Quản lí và hạn chế thật mạnh khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng,…

13

Page 14: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Nâng cao lãi suất tín dụng: Để biện pháp này thật sự có hiệu quả thì mức lãi suất phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0.

+ Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong công chúng: phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu ngân hàng,…

- Biện pháp về tài chính ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình trạng mất cân đối trong thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách.

+ Tiết kiệm chi NS bằng cách cắt giảm các khoản chi không tác động một cách trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế: chi cho bộ máy quản lí hành chính, chi phúc lợi xã hội,…

+ Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu của NSNN bằng cách: cải cách chính sách thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu (chống thất thu thuế, thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống).

+ Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay (trong và ngoài nước, viện trợ,..)

- Các biện pháp khác:

+ Nhà nước phải thực hiện chính sách kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết giá cả thị trường đối với một số mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống, như: trợ giá, qui định mức giá trần, điều tiết thông qua quĩ dự trữ,..

+ Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quĩ hàng hoá tiêu dùng, giảm bớt sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông.

+ Nhà nước phải có biện pháp để ổn định giá vàng và ngoại tệ nhằm tạo tâm lí ổn định giá cả các mặt hàng khác trong thị trường, như: tung quĩ dự trữ ngoại hối ra để điều tiết thị trường, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối,...

b. Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược:

Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế quốc dân, vì xuất phát từ nguyên lí "lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ" , nên nếu quĩ hàng hoá được tạo ra với số lượng lớn, phong phú

14

Page 15: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

về chủng loại, giá cả ổn định,… sẽ là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ.

- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển ngành hàng hoá "mũi nhọn" cho xuất khẩu. Mục đích: vừa đáp ứng các nhu cầu cơ bản đời sống và việc làm của nhân dân lao động, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, do đó là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.

- Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lí Nhà nước, vì vai trò của Nhà nước đối với quản lí kinh tế vĩ mô là rất to lớn. Nhà nước là người duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định trong kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động để thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.

Để thực hiện được mục tiêu này cần phải tinh giản biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính,.. từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN, ổn định ngân sách vững chắc và ổn định tiền tệ.

Vân dụng vào thực tế ở việt nam1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam thời gian qua

Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã, với mức sụt giá của tiền đồng lên đỉnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số.

Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998.

Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm.

Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.

Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm

15

Page 16: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.

Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới.

 2. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam

Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát xuất phát từ 3 nguyên nhân chính: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột, và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp.

Thời gian qua, nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng cung tiền được xem là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới.Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy? Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng.

Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ quanh mức 7%, thậm chí năm 2008 và 2009 chỉ lần lươt đạt mức 6.19% và 5.32%. Điều này cho thấy chất lượng tăng trưởng, đầu tư và phát triển ở Việt Nam vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến cho lạm phát luôn ở trong tình trạng chực chờ, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.Ngoài nguyên nhân tiền tệ kể trên, chúng ta xem xét những nguyên nhân còn lại xuất phát từ phía cầu và phía cung hàng hóa (lạm phát chi phí đẩy (cost push) và cầu kéo (demand pull)). Đây là những nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất.

Trong năm 2007, sự bùng nổ của nhu cầu tiêu dùng trong nước đã góp phần làm lạm phát tăng tốc. Cũng trong khoảng thời gian đó, giá cả của hàng loạt nguyên nhiên liệu như xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước. Lạm phát

16

Page 17: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

cao nhất tính theo năm đã lên tới 28% vào tháng 8/2008. Cuối năm 2008, với sự lao dốc của hầu hết các hàng hóa trên thế giới, lạm phát trong nước cũng được chặn đứng. Lạm phát giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.97% (YoY) vào tháng 8/2009.Lạm phát các tháng đầu năm 2011 có các nguyên nhân chủ yếu như sau.

Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.

Nguyên nhân thứ hai là giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% áp dụng từ 1/3.

Thứ ba là ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu (trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Đây là nguyên nhân chúng ta bị tăng giá kép từ giá thế giới và thay đổi tỷ giá.

Thứ tư là ảnh hưởng từ những tháng cuối năm 2010 chi đầu tư từ ngân sách và của các doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông lớn.

Thứ năm là yếu tố tâm lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011.3.giải pháp kiểm soát lạm phát

- Điều chỉnh mục tiêu kinh tế xã hội nước ta trong ngắn hạn và dài hạn. + Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự trữ bắt buộc, giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu- tái chiết khấu, tái cấp vốn, giảm cung tiền , kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị trường quốc tế để hạn chế một phần tác động của lạm phát quốc tế (nhiều nước đã làm từ tháng 9/2007), cắt giảm và kiểm soát chi tiêu công một cach hiệu quả, chính phủ phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, giảm chi phí đi lại, kiểm soát dòng vốn quốc tế, kiểm soát nợ ngắn hạn, trợ cấp những hộ nghèo khó khăn, trợ cấp hộ chăn nuôi, đảm bảo an ninh lương thực, kiểm soát nhập khẩu bằng nhiều giải pháp sắc với sự phối hợp với hệ thống NHTM với cơ quan thuế và Bộ Công thương, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng chiến lược và những mặt hàng thực phẩm trong nước đang thiếu, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng chưa cần

17

Page 18: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

thiết (kiểm soát tín dụng thương mại quốc tế, mua hàng trả chậm), Chính phủ ban hành những Sắc lệnh mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn (không tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu, dịch vụ giao thông đi lại…cho đến khi tình hình được kiểm soát), chống đến cùng các nhóm đầu cơ găm hàng làm giá, buôn lậu (tội phá hoại kinh tế). Trong điều hành kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần lưu ý đến bộ ba không thể có (Trinity Impossible): tỷ giá ổn định, tự do di chuyển vốn, chính sách tiền tệ độc lập.+ Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi ngày): kiểm soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho tăng trưởng trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng mở rộng biên độ và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa tình trạng đô la hóa tại VN, sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế (dự trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở..), kiểm soát nhập siêu, đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất có chất lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu: nhà máy lọc dầu, xi măng, phôi thép, phân bón, chất dẻo, thức ăn gia súc, vải, giấy,.. (đầu tư dài hạn và có chính sách hỗ trợ đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ), hỗ trợ xuất khẩu thông qua nhiều giải pháp đồng bộ chứ không phải duy nhất như chính sách tỷ giá (chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại hàng, hạ giá thành xuất khẩu, tài trợ tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại, chiến lược marketing quốc tế, chất lượng chế biến, uy tín đơn vị xuất khẩu..), cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc phát triển nông nghiệp- nông thôn, phòng trừ dịch họa và thiên tai, tăng cường công tác dự báo để có chính sách kịp thời, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia…

Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế xã hội? Liên hệ thực tế Việt Nam hiện nay?

Trả lời:

Nhìn chung, lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội tuỳ theo mức độ của nó.

- Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích nền kinh tế xã hội phát triển. Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là một chính sách của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

18

Page 19: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

LP vừa phải tạo nên một sự chênh lệch giá cả hàng háo,dịch vụ giữa các vùng làm cho thương mại năng động hơn.Do chênh lệch giá giữa các vùng thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường để tìm kiếm thị trường mang lại nhiều lợi nhuận hơn.Chính việc mở rộng thị trường của các DN gây ra cạnh tranh giữa các doanh nghiệp(cùng sx một loại mặt hàng và những doanh nghiệp sx kinh doanh những mặt hàng khác nhau).Cạnh tranh khiến các dn muốn tồn tại và phát triển thì phải đưa ra thị trường nhiều sp có chất lượng cao hơn,giá cả hấp dẫn hơn.Do vậy thương mại năng động hơn.LP vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ.Đây là lợi thế để các dn đẩy mạnh xk tăng thu ngoại hối.khuyến khích sx trong nước ptrien.Muốn đẩy mạnh xk thì phải tạo được thương hiệu của sp trên thị trường thế giới,tạo đc uy tín thương hiệu.LP vừa phải thường tương đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định.Đó là yếu tố buộc người lao động muốn có việc làm thì pahri nâng cao trình độ chuyên môn,cạnh tranh chỗ làm việc.Như vậy người sử dụng ld có cơ hội tuyển chọn đc lao đông có chất lượng cao hơn.

- Tuy nhiên, nếu lạm phát ở mức độ quá cao (lạm phát phi mã và siêu lạm phát) thì lại có ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế:

+ Trong lĩnh vực sản xuất, lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên liệu, hàng hoá tăng từ đó dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút và không chính xác, qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất.

+ Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, lạm phát làm rối loạn quá trình lưu thông hàng hoá, kích thích tâm lí đầu cơ tích trữ hàng hoá, tạo nên nhu cầu giả tạo, làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng.

+ Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát phá vỡ các chức năng của tiền tệ, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh chóng, hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng → ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.

+ Trong lĩnh vực tài chính Nhà nước, lạm phát làm cho nguồn thu NSNN ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi NS ngày càng tăng.

19

Page 20: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động, lạm phát làm cho tiêu dùng thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng.

Tóm lại, hậu quả của lạm phát là rất nặng nề và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của đất nước.

Liên hệ thực tế

Lạm phát (inflation) có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức độ của nó. 

Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.

Tác động phân phối lại thu nhập và của cảiTác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những  ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực la3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh cho lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm phát ở mức độ thấp.

Tác động đến phát triển kinh tế và việc làmTrong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và

20

Page 21: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.

Các tác động khácTrong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra lam tăng tỷ giá hối đoái.  Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của những khoản công phí.ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.

Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.

6. Thiểu phát là gì? ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế? Liên hệ với thực tế Việt Nam?

21

Page 22: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Khái niệmThiểu phát có thể được hiểu là hiện tượng kinh tế tiền tệ xuất hiện khi

lượng cung hàng hóa dịch vụ lớn hơn nhu cầu của nền kinh tế làm cho giá cả của các hàng hóa, dịch vụ giảm xuống.

Ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế xã hộiMặc dù là một hiện tượng không phổ biến như lạm phát trong nền kinh tế,

nhưng khi thiểu phát xảy ra, cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định.

+ Đối với lĩnh vực sản xuất, thiểu phát làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm, dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút. Hàng hóa dịch vụ trở nên khó tiêu thụ hơn, từ đó làm cho qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất.

+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thiểu phát làm hiện tượng hàng hóa bị ế thừa tồn đọng ngày càng tăng lên, do lượng cung hàng quá lớn trong khi tổng cầu của xã hội giảm làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng.

+ Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thiểu phát rối loạn quá trình lưu thông tiền tệ, hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nhu cầu vay vốn của toàn nền kinh tế giảm, ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.

+ Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước, thiểu phát làm cho nguồn thu NSNN ngày càng bị thu hẹp do các nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế thu nhập của các DN,... giảm. Từ đó đã làm cho tình trạng bội chi NS ngày càng tăng.

+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng do các DN phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công…., thu nhập cá nhân xem xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế bị giảm sút, dẫn đến chi tiêu thực tế giảm sút, đời sống dân cư khó khăn hơn.

Tóm lại, cũng giống như lạm phát ở mức độ cao, hậu quả của thiểu phát đối với nền kinh tế xã hội là rất nặng nề và nghiêm trọng, đặc biệt, nếu để tình trạng thiểu phát kéo dài, thì ngay sau đó tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng lạm phát ở mức độ cao. Chính vì vậy, Chính phủ các quốc gia cần phải có các giải pháp phòng chống thiểu phát nhằm ổn định nền kinh tế xã hội.

22

Page 23: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Liên hệ thực tế:

Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua cũng đã trải qua một số năm có thể được coi là thiểu phát. Đó là năm 1993, giá tiêu dùng chỉ tăng 5,2%, mặc dù năm đó thực hiện chế độ lương mới với sự tăng lên khá. Hai năm 1996 – 1997, các năm từ 1999 – 2003 cũng có thể được coi là thiểu phát – bình quân năm trong thời kỳ này tăng 1,44%.

Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây, CPI ở mức âm".ảnh hưởng của thiểu phát tới nền kinh tếĐối với người tiêu dùng, nhất là những người nghèo, khi lạm phát, sẽ là người đầu tiên, trực tiếp bị ảnh hưởng lớn nhất. Cùng một số tiền, nhưng do giá hàng hoá, dịch vụ tăng lên mua được ít hơn. Một bộ phận không nhỏ còn phải giảm khẩu phần, “thắt lưng buộc bụng”. Khi thiểu phát, người tiêu dùng cũng được hưởng lợi đầu tiên, trực tiếp và lớn nhất.Đối với nhà đầu tư, sản xuất, kinh doanh thì cả lạm phát và thiểu phát đều không có lợi.Đối với nhà đầu tư, khi lạm phát, một mặt, lượng vốn đầu tư sẽ không dồi dào được như cũ. Mặt khác, cùng một lượng vốn đầu tư nhưng do giá, chi phí tăng... nên khối lượng thi công bị giảm...Khi thiểu phát, chi phí vay vốn thấp hơn, nhưng lượng vốn đầu tư lại ít hơn và quan trọng hơn là đầu tư xong mà giá giảm hơn thì tiêu thụ sẽ gặp khó khăn.

Đối với người sản xuất kinh doanh, khi lạm phát thì chi phí đầu vào tăng, nếu giá cả đầu ra tăng cao hơn thì có lãi, nếu đầu ra tăng thấp hơn thì lỗ; chu kỳ này thì lãi đấy, nhưng quay lại mua nguyên nhiên vật liệu sản xuất thì giá lại cao rồi. Nếu hạch toán không đúng, tưởng rằng lãi nhưng hoá ra là lỗ. Khi lạm phát cao, thì tiền tệ sẽ bị thắt chặt, khi đó người sản xuất, kinh doanh khó tiếp cận vốn.Khi thiểu phát, chi phí nguyên nhiên vật liệu giảm, chi phí vay vốn giảm, nhưng khâu tiêu thụ giá còn giảm hơn. Ở chu kỳ sau, giá nguyên nhiên vật liệu còn thấp

23

Page 24: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

xa so với chu kỳ trước, nhưng trên sổ sách người sản xuất vẫn bị lỗ, mặc dù đó là “lỗ giả, lãi thật”.Có hai điểm đáng chú ý trong thời gian thiểu phát. Điểm thứ nhất, người tiêu dùng có tâm lý chờ đợi giá sẽ giảm xuống nữa nên chưa mua, làm giảm nhu cầu đối với sản xuất. Điểm thứ hai là hàng nhập khẩu giá rẻ sẽ gia tăng, và sẽ càng mạnh nếu trên thế giới cũng bị thiểu phát (như hiện nay đã xuất hiện). Khi đó, nhập siêu sẽ gia tăng, mà lại là nhập siêu giảm phát, làm cho sản xuất trong nước càng trì trệ.

7. TCTCTG là gì? Đặc điểm của TCTCTG? Kể tên các TCTCTG mà bạn biết?

Khái niệm:Các tổ chức tài chính trung gian là những tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần vốn cuối cùng. Đặc điểm

- Các tổ chức tài chính trung gian là cơ sở kinh doanh tiền tệ và giấy tờ có giá được tổ chức và hoạt động để đạt được những mục đích sinh lời nhất định.

Xét về khía cạnh này các định chế trung gian tài chính có đặc điểm giống như các đơn vị kinh doanh khác. Có thể mô tả hoạt động của các định chế trung gian tài chính theo sơ đồ sau:

Tiến trình tạo ra đầu ra của các định chế trung gian tài chính bao gồm hai giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Huy động tiền gửi của những người tiết kiệm cuối cùng bằng cách bán các sản phẩm: Thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, mở tài khoản thanh toán

+ Giai đoạn 2: Chuyển số tiền tiết kiệm này cho những người cần vốn cuối cùng.

24

Các yếu tố đầu vào

- đất đai

- lao động

- Vốn bằng tiền,quản lý

Quản lý

- Quản lý

Tổ chức tài chính

trung gian

Các đầu ra

- huy động các khoản tiền tiết kiệm,Cho vay

Các dv về tài chính khác

Page 25: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Các tổ chức tài chính trung gian đảm nhận những hoạt động trung gian như sau:

+ Trung gian mệnh giá: Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện huy động các khoản tiền tiết kiệm có quy mô nhỏ tập trung thành quỹ cho vay có quy mô lớn hơn.

+ Trung gian rủi ro ngầm: Các TCTCTG phát hành những loại chứng khoán thứ cấp tương đối an toàn và dễ lưu hoạt để thu hút tiền tiết kiệm của những người không chấp nhận rủi ro, còn các TCTCTG lại chấp nhận những chứng khoán sơ cấp có rủi ro cao do những người cần vốn phát hành

+ Trung gian kỳ hạn: Các TCTCTG huy động những khoản tiền tiết kiệm có những thời hạn khác nhau, sau đó chuyển hóa tài trợ cho những người cần vốn với những kỳ hạn cũng khác nhau.

+ Trung gian thanh khoản: Các hộ gia đình, các doanh nghiệp nắm giữ các loại chứng khoán lưu hoạt, khi có nhu cầu chi tiêu tiền mặt có thể đến các TCTCTG chuyển thành tiền.

+ Trung gian thông tin: Bằng những kỹ năng của mình, các TCTCT thay thế những người tiết kiệm tiếp cận thông tin và đánh giá khả năng của người cần vốn cuối cùng để đánh giá và đặt vốn đầu tư một cách có hiệu quả

* các tổ chức tài chính mà em biết là ( Phân loại các tổ chức tài chính trung gian)

1.2.1. Căn cứ vào phạm vi cung ứng dịch vụ ngân hàng- Ngân hàng: là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện toàn bộ hoạt

động ngân hàng và các hoạt dộng kinh doanh có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán.

- Tổ chức tài chính phi ngân hàng: là loại hình tổ chức tài chính trung gian không hội đủ các điều kiện để trở thành ngân hàng.

1.2.2. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động

Theo tiêu thức phân loại này, các tổ chức tài chính trung gian được chia thành các loại hình sau:

25

Page 26: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Ngân hàng thương mại: Đây là tổ chức tài chính trung gian thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng thương mại thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi có thể phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay, chủ yếu là cho vay thương mại, hoặc để mua trái phiếu Chính phủ. Đây là trung gian tài chính chủ yếu nhất ở bất kỳ quốc gia nào, là nơi mà các tổ chức, đơn vị và cá nhân thường xuyên giao dịch nhất.

- Các loại quỹ tiết kiệm: Nguồn vốn chủ yếu được huy động của tổ chức tài chính trung gian này là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn và các khoản tiền gửi có thể phát séc. Số vốn huy động được chủ yếu sử dụng để cho vay thế chấp. Do các khoản cho vay thế chấp chủ yếu là các khoản cho vay dài hạn, các tổ chức này ban đầu chịu những ràng buộc khắt khe hơn so với ngân hàng thương mại.

- Các quỹ tín dụng: Tổ chức tài chính trung gian này thường hoạt động có tính chất tương trợ như là một hợp tác xã, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt, các thành viên của quỹ là những người lao động trong các công ty. Trung gian tài chính này huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi để tiến hành cho vay. Thông thường, các quỹ tín dụng cung cấp các món vay quy mô nhỏ.

- Các công ty bảo hiểm: Là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn bằng cách bán các hợp đồng bảo hiểm đồng thời sử dụng vốn vào các hoạt động đầu tư, bù đắp bồi thường thiệt hại cho người mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra.

- Các công ty tài chính: Công ty tài chính là một trung gian tài chính tín dụng, được thành lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Khác với ngân hàng thương mại, công ty tài chính không được nhận tiền gửi thường xuyên dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, không thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.

- Các loại quỹ đầu tư: Là những tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn của các nhà đầu tư thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và dùng số tiền thu được để đầu tư góp vốn kinh doanh hoặc đầu từ vào các loại chứng khoán khác như cổ phiếu, trái phiếu,...

26

Page 27: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương: Tổ chức tài chính trung gian này cũng giống như các quỹ tiết kiệm, nhưng khác ở chỗ, chúng được tổ chức như những hiệp hội tương trợ, tức là hoạt động như kiểu hợp tác xã, trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.

- Các quỹ hưu trí: Là trung gian tài chính huy động vốn bằng cách nhận

đóng góp từ người lao động trong các doanh nghiệp hoặc khu vực Nhà nước, sau

đó đầu tư tiền vào các loại chứng khoán để sinh lời. Tiền sẽ được trả lại cho các

thành viên của quỹ dưới hình thức tiền hưu trí.

1.2.3. Căn cứ vào mức độ thực hiện các chức năng trung gian- Các tổ chức nhận tiền gửi:

Đây là các tổ chức tài chính trung gian hoạt động chủ yếu và thường xuyên

là nhận tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân, sau đó sử dụng nguồn vốn này để cho

vay. Thuộc về các tổ chức nhận tiền gửi gồm có:

+ Các ngân hàng thương mại

+ Các quỹ tín dụng

+ Các quỹ tiết kiệm

+ Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương.

- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng:

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng thu nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở

các hợp đồng thoả thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thị trường vốn dưới

các loại tài sản tài chính dài hạn như: chứng khoán vốn, chứng khoán nợ. Các tổ

chức tiết kiệm theo hợp đồng bao gồm:

+ Các công ty bảo hiểm

27

Page 28: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Các quỹ hưu trí

- Các tổ chức trung gian đầu tư

Các tổ chức trung gian đầu tư thực hiện huy động vốn trên thị trường rất đa

dạng bằng cách phát hành các loại chứng từ có giá như: tín phiếu, trái phiếu, sau đó

mua danh mục đầu tư trên thị trường tài chính. Các tổ chức trung gian đầu tư bao

gồm:

+ Các loại quỹ đầu tư

+ Các công ty chứng khoán

+ Các công ty tài chính

+ Các công ty cho thuê tài chính

8. : So sánh NHTM và các tổ chức tài chính phi ngân hàng

NHTM: là 1 tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng với hoạt

động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch dịch vụ

ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân

Tổ chức TC phi NH: là loại hình tổ chức tài chính trung gian không hội đủ các điều kiện để trở

thành ngân hàng.

NHTM Tổ chức TC phi NH

Nguồn

vốn

Các khoản tiền gửi, các khoản tiền đi

vay và khoản vốn tự có

Vốn tự góp, các quỹ trợ cấp;

từ các hợp đồng bảo hiểm với

kh; phát hành thương phiếu,

28

Page 29: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

cổ phiếu và trái khoản để

dùng tiền thu đc cho vay.

Đặc

điểm

• nhận tiền gửi

• cho vay các khoản nhỏ để cho vay

các khoản lớn

• ko đc nhận tiền gửi

• vay các khoản lợi vadcho

vay các khoản nhỏ

Hoạt

động

Chịu sự quản lý của nhà nước và sự rằng

buộc về tiền gửi dự trự; bảo hiểm các

khoản vay

Cho vay với mọi đối tượng ko hạn chế

(trừ cp để đảm bảo nó ko nắm các khoản

đầu tư quá mạo hiểm dẫn tới vỡ nợ) gồm

các cá nhân tập thể vay theo nhiều mđ.

mua nhà đầu tư,…

Ko đc tham gia vào TTCK nhằm giảm

nguy cơ vỡ nợ

Ko bị nhà nc rằng buộc chặt

chẽ như NH

Các tổ chức này thường đầu

tư vào bds, cổ phiếu, thương

phiếu.

Khả

năng

tạo

tiền

Có thể nhận tiền gửi và xoay vòng đồng

tiền, có thể đem cho vay qua các hđ của

NH nó đã tạo ra 1 hệ số tiền

Ko làm đc điều này

9. các tổ chức tài chính phi ngân hàng mà e biết ở vn hiện này “

a. Quỹ tín dụng

Khái niệm: Quỹ tín dụng là loại hình tổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo

nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực

29

Page 30: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức

mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các

hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.

vd : quỹ tín dụng nhân dân trung ương

b. Quỹ đầu tư

Khái niệm: Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian hoạt động dựa trên

việc huy động những nguồn vốn nhỏ lẻ trong xã hội thông qua việc phát hành

cổ phiếu (hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư) để đầu tư trên thị trường chứng khoán và

các hình thức đầu tư khác (góp vốn,…). Các hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư

đều được quản bởi công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát.

Hiện nay ở Việt Nam có một số quỹ đầu tư:

• Dragon Capial

• Vietfund

• Vina Capital

• Mekong Capital

• Prudential Fund, IFC, IDG, và hầu hết các quỹ này đều là quỹ đóng.

• Quỹ đầu tư Chứng khoán Việt Nam (VF1) – được niêm yết tại SGDCK Tp.

HCM từ tháng 11/2004.

• Quỹ đầu tư Tăng trưởng Việt Nam (VF2) – quỹ thành viên thành lập từ các

tổ chức tài chính lớn của Việt Nam và quốc tế.

• Quỹ đầu tư Doanh nghiệp Hàng đầu Việt Nam (VF4) – được niêm yết tại

SGDCK Tp. HCM từ tháng 6/2008.

• Quỹ đầu tư Năng động Việt Nam (VFA) – được niêm yết tại SGDCK Tp.

HCM từ tháng 8/2010.

b. Công ty tài chính

30

Page 31: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Khái niệm: Công ty tài chính là một định chế tài chính trung gian được thành

lập dưới dạng một công ty trực thuộc một NHTM hay một tập đoàn kinh tế có

nhiệm vụ huy động vốn trung, dài hạn để cho vay. Công ty tài chính không được

phép huy động vốn ngắn hạn và thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.

CTTC ở VN: Công ty tài chính dầu khí - PETRO VIETNAM FINANCE

COMPANY

d. Công ty bảo hiểm

khái niệm: Công ty bảo hiểm là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt

động chủ yếu là nhằm bảo vệ tài chính cho những người tham gia bảo hiểm

về những rủi ro thuộc trách nhiệm của bảo hiểm trên cơ sở người tham gia

phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.

bảo hiểm ở VN: ( thống kê năm 2006)

• Quy mô thị trường: Doanh thu hàng năm xấp xỉ 1,8% GDP, tổng số vốn đầu

tư hiện nay khoảng 3,5% GDP

• Các công ty bảo hiểm (24) gồm: 5 DNNN, 7 cổ phần, 7 liên doanh và 6 DN

100% vốn nước ngoài

• Nội dung hoạt động: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo

hiểm

• Các hãng bảo hiểm chính: Bảo Việt, Bảo Minh, công ty cổ phần bảo hiểm

Petrolimex (PJICO), các công ty bảo hiểm nhân thọ: Prudential, AIA

e. Công ty cho thuê tài chính

khái niệm :Công ty cho thuê tài chính là tổ chức tài chính trung gian thực hiện

dịch vụ cho thuê tài chính.

Công ty cho thuê tc ỏ vn:

• Các công ty tài chính thuộc trực thuộc các tổng công ty: dầu khí, bưu điện,

cao su, tàu thủy

31

Page 32: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• Công ty tài chính Sài Gòn (SFC)

• Công ty tài chính Seaprodex

f. Công ty chứng khoán

Khái niệm: công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian ở thị

trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ

yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để

hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý

quỹ đầu tư.

Ctck ở VN:

• Công ty Cổ Phần Chứng Khoán Đà Nẵng

• Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

• Công ty chứng khoán Ngân Hàng Đông Á

• Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI)

g. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác

Quỹ hưu trí

Quỹ tiết kiệm

Ngân hàng tiết kiệm hỗ tương

10. Thị trường tài chính là gì? Đặc trưng cơ bản của thị trường tài chính?

So sánh thị trường tài chính với thị trường hàng hóa

a. khái niệm: thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại

giấy tờ có giá, nơi gặp gỡ của các nguồn cung cầu về vốn, qua đó hình thành

nên giá mua và bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu,… hình

thành nên giá cả các loại vốn đầu tư bao gồm: lãi suất đi vay, lãi suát cho vay,

lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn

b. Các đặc trưng cơ bản của TTTC:

32

Page 33: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Đặc trưng về đối tượng giao dịch (Hàng hoá)

Đối tượng giao dịch của thị trường tài chính là vốn tiền tệ và các công cụ tạo

vốn, chuyển tải giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, phương tiện thanh toán (hối phiếu,

kì phiếu,...)

Mục đích của việc giao dịch các loại hàng hoá này là nhằm huy động các

nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư, đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các dòng tiết

kiệm vào đầu tư nhằm mục tiêu lợi nhuận.

đối tượng giao dịch trên thị trường tài chính là một loại hàng hoá đặc biệt.

Đặc trưng về chủ thể giao dịch (Người tham gia)

+ thị trường tài chính cũng bao gồm 3 chủ thể: Người cầu vốn, người cung vốn,

người trung gian.

* Trên thị trường tài chính: Người cầu vốn là những người thiếu hụt về vốn trong

hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác, cho nên họ có nhu cầu sử

dụng một lượng vốn mà việc sử dụng số vốn đó sẽ đem lại một nguồn lợi cho họ.

Như vậy, mục đích của người cầu vốn trên thị trường tài chính là nhằm mục tiêu

lợi nhuận.

* Trên thị trường tài chính: Người cung vốn là những người tạm thời thừa

một lượng vốn tiền tệ nhất định, cho nên họ sẽ đem lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đó

đầu tư vào thị trường tài chính nhằm tăng khả năng sinh lời của vốn. Như vậy, mục

đích của người cung vốn trên thị trường tài chính là nhằm mục đích lợi nhuận.

+ Mục đích của người cầu vốn và người cung vốn trên thị trường tài chính là

như nhau, đều nhằm mục đích lợi nhuận

33

Page 34: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Hoạt động giao dịch giữa người cầu vốn và người cung vốn trên thị trường

tài chính là diễn ra sự chuyển quyền sử dụng vốn

Đặc trưng về phương thức tổ chức hoạt đông của thị trường

+ Phương thức giao dịch: Trên thị trường tài chính, người cầu vốn chính là

người phát hành các phương tiện để huy động vốn như: Hối phiếu, kì phiếu, trái

phiếu, cổ phiếu,...

+ Hoạt động của thị trường tài chính chịu sự giám sát và quản lí chặt chẽ của

Nhà

c. So sánh thị trường tài chính với thị trường hàng hóa

Thị trường tài chính Thị trường hàng hóa

Chủ thế Người cầu vốn, người cung vốn,

người trung gian.

Người mua, người bán, người

trung gian

Mục đích

của chủ

thể

mđ người cầu vốn và người cung

vốn: đều nhằm mục đích lợi

nhuận

mục đích của người mua và

người bán có thể giống nhau,

cũng có thể khác nhau, có thể đều

nhằm mục đích lợi nhuận nhưng

cũng có thể người mua hàng hoá

là để nhằm mục đích tiêu dùng.

Hđ giao

dịch của

các chủ

thể

Hoạt động giao dịch giữa người

cầu vốn và người cung vốn trên

thị trương là diễn ra sự chuyển

quyền sử dụng vốn

hoạt động giao dịch giữa người

mua và người bán trên thị trường

là diễn ra sự chuyển quyền sở

hữu và sử dụng hàng hoá

34

Page 35: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Nội dung các công cụ thị trường vốn? Vận dụng các công cụ này ở VN hiện nay Thị trường vốn: Là nơi giao dịch các nguồn tài chính trung và dài hạn (có thời

hạn đáo hạn trên 1 năm)

Các công cụ của thị trường vốn là các chứng khoán trung và dài hạn như: cổ

phiếu, trái phiếu dài hạn, chứng chỉ đầu tư…. Tuy nhiên, loại chứng khoán dài

hạn chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu.

* Cổ phiếu: là chứng khoán chứng nhận số vốn đã góp vào công ty cổ phần và

quyền lợi của người sở hữu chứng khoán đó đối với công ty cổ pnần.

Cổ phiếu có bản chất là công cụ góp vốn và chỉ do các công ty cổ phần phát

hành. Khi cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn cần huy động thành

nhiều phần nhỏ bằng hau, gọi là các cổ phần. Người mua những cổ phần này được

gọi là cổ đông. Với số cổ phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận

sở hữu, giấy này gọi là cổ phiếu.

Cổ phiếu có các đặc điểm chủ yếu sau đây:

- Thời hạn của cổ phiếu: bằng cách mua cổ phiếu do công ty cổ phần phát

hành, các nhà đầu tư đã cung cấp vốn cho công ty hoạt động. Tuy nhiên, các cổ

đông lại không được phép rút khoản vốn này về trừ trường hợp công ty ngừng hoạt

động hoặc có quy định đặc biệt cho phép được rút vốn.

- Giá trị của cổ phiếu: giá trị của cổ phiếu được thể hiện trên 3 phương diện

sau:

35

Page 36: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Mệnh giá: là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu. Mệnh giá thường được ghi

bằng nội tệ và bằng bao nhiêu là do luật chứng khoán hoặc điều lệ của công ty cổ

phần quy định.

+ Giá trị ghi sổ: là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài sản ròng của

công ty trên bảng tổng kết tài sản.

+ Giá trị thị trường: là giá cả của cổ phiếu khi mua bán trên thị trường.

Cổ phiếu có 2 loại cơ bản sau: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi

- Cổ phiếu thường hay cổ phiếu phổ thông: Là loại cổ phiếu mà cổ tức không

được xác định trước, mức cổ tức và hình thức chi trả phụ thuộc vào kết quả hoạt

động và chính sách phân phối cổ tức của công ty phát hành.Cổ đông sở hữu cổ

phiếu thường gọi là cổ đông thường.

+ Đặc điểm:

• Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường được hưởng các quyền và các lợi ích cơ bản

sau:

• Quyền sở hữu tài sản của công ty theo tỷ lệ % cổ phiếu nắm giữ.

• Hưởng cổ tức theo hiệu quả, kết quả kinh doanh và chính sách phân phối cổ tức

của công ty.

• Tham gia đại hội cổ đông, bỏ phiếu bầu HĐQT, được quyền ứng cử và đề cử các

chức vụ quản lí theo qui chế và được quyền biểu quyết các vấn đề trong đại hội cổ

đông.

• Kiểm tra sổ sách của công ty

• Được quyền chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác

36

Page 37: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• Được mua cổ phiếu mới do công ty phát hành theo chính sách ưu đãi của công ty

• Không được ưu tiên chia vốn khi công ty cổ phần bị phá sản hoặc giải thể

•Trên chứng chỉ cổ phiếu chỉ ghi mệnh giá, không ghi cổ tức.

- Cổ phiếu ưu đãi:

+ Khái niệm: Là loại cổ phiếu có cổ tức được xác định trướcvà mức cổ tức này hầu

như không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty phát hành.Cổ đông sở hữu

cổ phiếu ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi.

+ Đặc điểm:

• Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được hưởng các quyền và lợi ích cơ bản sau:

• Quyền sở hữu tài sản của công ty theo tỷ lệ % cổ phiếu nắm giữ.

• Được chia cổ tức trước cổ phiếu thường theo tuyên bố trả cổ tức của HĐQT.

• Được mua cổ phiếu mới do công ty phát hành theo chính sách ưu đãi của công ty.

• Được ưu tiên chia vốn trước cổ phiếu thường khi công ty bị giải thể hay phá sản.

• Không được tự do chuyển nhượng cổ phiếu cho mgười khác (mà chuyển nhượng

cho ai theo phương thức nào là do công ty quyết định)

• Không được tham gia bầu cử, ứng cử, đề cử và biểu quyết

• Trong điều kiện bình thường cổ đông ưu đãi sẽ được nhận cổ tức theo mức đã ấn

định. Trong trường hợp công ty không có đủ lợi nhuận để chi trả hoặc bị thua lỗ thì

nó sẽ trả theo khả năng hoặc tạm thời không thanh toán.

• Trên chứng chỉ cổ phiếu có ghi cổ tức và mệnh giá.

37

Page 38: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

* Trái phiếu: là một loại chứng khoán nợ chứng nhận khoản vay do người đi vay

phát hành cam kết trả lợi tức và hoàn trả số vốn vay theo một thời hạn nhất định

cho người sở hữu chứng khoán.

Các loại trái phiếu trên thị trường vốn gồm:

- Trái phiếu Nhà nước

Trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành với mục đích bù đắp

những khoản chi của ngân sách nhà nước. Nói cách khác, trái phiếu nhà nước là

chứng thư xác nhận khoản nợ của nhà nước. Ví dụ: ở Việt Nam trái phiếu chính

phủ do Chính phủ ủy quyền cho kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng phát triển Việt

Nam (trước đây gọi là quỹ hỗ trợ phát triển) phát hành với mục đích bù đắp những

khoản chi của ngân sách Nhà nước.

- Trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành với mục đích hỗ trợ

cho ngân sách địa phương. Đây là loại trái phiếu được các chính quyền địa phương

phát hành để huy động vốn cho các mục đích cụ thể, thường là để xây dựng những

công trình hạ tầng cơ sở hay phúc lợi công cộng của địa phương. Ví dụ: trái phiếu

phát triển đô thị do UBNN TP. Hồ Chí Minh phát hành. Khác với trái phiếu chính

phủ, trái phiếu chính quyền địa phương tiềm ẩn rủi ro thanh toán, tùy theo từng

chính quyền địa phương mà mức độ rủi ro nay cũng khác nhau.

- Trái phiếu doanh nghiệp (DNNN, công ty cổ phần, công ty TNHH)

Đây là loại trái phiếu do các công ty hoặc các xí nghiệp đang hoạt động phát

hành với mục đích bổ sung vốn kinh doanh. Trái phiếu chỉ là loại chứng khoán có

lợi tức cố định và người sở hữu trái phiếu chỉ là chủ nợ của công ty, do đó chủ sở

hữu trái phiếu không được tham dự và can thiệp vào hoạt động của công ty. Tuy

38

Page 39: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

nhiên, đầu tư vào trái phiếu vẫn có mức độ an toàn cao hơn so với đầu tư vào cổ

phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp có các loại như:

- Trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bởi uy

tín của một doanhn nghiệp khác (thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng

khoán)

- Trái phiếu không cần bảo đảm: thông thường trái phiếu này được phát

hành từ một công ty danh tiếng đã hoạt động lầu năm hoặc từ một công ty công

cộng.

- Trái phiếu có thể chuyển hoá thành cổ phiếu thường của công ty, loại trái

phiếu này sẽ tăng giá nếu công ty làm ăn phát đạt

- Trái phiếu phát hành dưới mệnh giá: loại trái phiếu này được công ty phát

hành trong thời kỳ lãi suất tín dụng trên thị trường tiền tệ đang cao.

Ngoài các loại trái phiếu kể trên, còn có một số loại trái phiếu khác ít phổ biến hơn

như trái phiếu ngân hàng và các tổ chức tài chính, trái phiếu xây dựng…

Vận dụng các công cụ này ở VN hiện nay:

Các công cụ trên thịt trường vốn ở VN hiện nay:

Trái phiếu: Thị trường trái phiếu ở Việt Nam bao gồm tín phiếu kho bạc, trái

phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp

(bao gồm cả trái phiếu ngân hàng thương mại) khối lượng trái phiếu chính phủ

chiếm ưu thế trên thị trường, chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá

trị khác. Các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường vốn ở VN.

Thị trường vốn Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô, và còn chưa thực sự

chuẩn hoá. Đây là một thị trường đang phát triển thu hút sự quan tâm của các

nhà đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài.

39

Page 40: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- một doanh nghiệp phát hành trái phiếu, gồm có: PetroVietnam, Tổng công ty

cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama, Vietnam

Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt nam,

Tổng công ty Sông Đà và Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những

đơn vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa

cổ phiếu công ty:

- Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai

SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt

127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn

hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng

tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009.

- Thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết mới được hình thành dưới hình

thức hệ thống giao dịch Upcom, chưa phát huy được vai trò tạo lập thị trường

theo kiểu thị trường phi tập trung. Ngoài ra, số lượng cổ phiếu đưa vào giao

dịch so với số lượng công ty đại chúng chiếm tỷ trọng quá thấp và thiếu hấp dẫn

đối với doanh nghiệp cũng như công chúng đầu tư. Hiện tại, vẫn còn tồn tại một

bộ phận thị trường cổ phiếu được đăng ký với TTLKCK nhưng chưa có cơ chế

giao dịch và chuyển quyền sở hữu

12. Trình bày các chức năng của thị trường tài chính? Xu hướng phát triển của thị trường tài chính sau khi gia nhập WTO ở Việt Nama. Chức năng trung gian:

Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi

thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển giao

những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản xuất kinh

doanh , hoặc thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn tài chính. Thị

trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích lũy và đầu tư, giữa người cung

40

Page 41: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng

nguồn tài chính cho nhau dưới hình thức mua bán các chứng khoán.

b. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán

Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi

vậy, nhờ thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các

chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc thành các chứng khoán khác khi họ muốn.

Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố

quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư.

c. Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị doanh nghiệp

Để đảm bảo cho các hoạt động của mình, thị trường tài chính sẽ cung cấp

các thông tin liên quan đến cung cầu từng loại chứng khoán trong những thời điểm

nhất định, tình hình phát triển kinh tế, chính sách tài chính- tiền tệ, tình hình kinh

tế thế giới,... bằng những phương tiện kĩ thuật và thông tin hiện đại. Mặt khác

thông qua thị trường tài chính, giá trị của các doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị

trường sẽ được đánh giá chính xác thông qua chính tổng giá trị thực tế của các cổ

phiếu đang lưu hành.

Xu hướng phát triển của thị trường tài chính sau khi gia nhập WTO ở

Việt Nam:

Kể từ khi Việt Nam tham gia hội nhập mở cửa và trở thành thành viên của tổ chức

thương mại quốc tế WTO từ 11/01/2007, thị trường tài chính Việt Nam có những

sự phát triển nhanh chóng rõ rệt. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường,

Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân phát triển các ngành nghề. WTO

đã mở ra nhiều cơ hội cho khu vực tài chính ngân hàng của Việt Nam, bao gồm cả

cáccơ hội cho dịch vụ tài chính vi mô. Ở nhiều góc độ, hội nhập đã giúp cho tăng

41

Page 42: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

khả năng cạnhtranh của các thể chế tài chính và thúc đây việc sử dụng hiệu quả

hơn các nguồn vốn tiết kiệmvà cho vay. Tuy nhiên, sự bùng nổ của khu vực ngân

hàng sau khi Việt Nam ra nhập WTOtrong năm đã không đưa ra được bằng chứng

rõ rang về sự cải thiện trên thị trường tài chính Đối với ngành ngân hàng tài chính,

Pháp Lệnh Ngân hàng nhà nước, Pháp lệnh các tổchức tín dụng đã được thay bằng

Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng.Việcsắp xếp lại các ngân

hàng thương mại nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả đã được áp dụng từ năm 2001

với nhiểu biện pháp. năm 2010 sẽ cổ phần hoá hầu hếtcác ngân hàng thương mại

nhà nước, NHNN sẽ tiếp tục thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thanh tra và

giám sát các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Chất lượng tài sản,

kỷ cương, quản lý rủi ro đã được cải thiện đáng kể trong các ngân hàng thương

mạihoặc cổ phần. Cho vay chính sách đã được tách khỏi các hoạt động tín dụng

thương mại và được giao cho các ngân hàng chính sách xã hội.Khi tham gia vào

WTO, Việt nam cũng đã xây dựng được một số luật theo yêu cầu củaWTO, về các

lĩnh vực đầu tư, phát triển kinh doanh. Những luật này cũng có tác động tới các

hoạt động tín dụng, tuy nhiên không hẳn có tác động trực tiếp và rõ ràng đối với sự

phát triển của tài chính vi mô của Việt Nam

13. Thị trường tiền tệ là gì? Nội dung cơ bản của các công cụ thị trường tiền tệ?1. Khái niệm: Thị trường tiền tệ là nơi giao dịch các công cụ nợ ngắn hạn.

2. Các công cụ của thị trường tiền tệ:

- Tín phiếu kho bạc: là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ do kho

bạc Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN.

Tín phiếu kho bạc được phát hành với thời gian thông thường là 3 tháng, 6

tháng, 12 tháng.

42

Page 43: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Đây là công cụ quan trọng nhất của thị trường tiền tệ vì có độ an toàn cao,

khối lượng phát hành lớn, có tính thanh khoản cao, có chi phí chuyển nhượng thấp.

Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Đó là loại chứng

khoán không được nhà phát hành trả lãi song lại được bán với giá chiết khấu tức là

giá thấp hơn mệnh giá. Khi đến hạn, nhà đầu tư được nhận lại đủ mệnh giá, vì vậy

phần chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi

của nhà đầu tư.

Tín phiếu kho bạc được xem là công cụ tài chính có độ rủi ro thấp nhất trên

thị trường tiền tệ bởi vì hầu như không có khả năng vỡ nợ từ người phát hành, tức

là không thể có chuyện chính phủ mất khả năng thanh toán khảon nợ khi dến kỳ

hạn thanh toán, chính phủ lúc nào cũng có thể tăng thuế hoặc in tiền để trả nợ. Tuy

nhiên mức lãi suất của nó thường thấp hơn các công ục khác lưu thông trên thị

trường tiền tệ.

Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp

đấu giá. Người mua chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các

trung gian tài chính khác.

Tín phiếu kho bạc được xem là công cụ có tính lỏng cao nhất trên thị trường

tiền tệ do nó được mua bán nhiều nhất.

Tín phiếu kho bạc thường được ngân hàng trung ương các nước sử dụng như

một công cụ để điều hành chính sách tiền tệ thông qua thị trường mở.

- Thương phiếu: là chứng chỉ ghi nhận sự cam kết thanh toán vô điều kiện

một số tiền xác định trong một thời hạn nhất định, đây là các giấy tờ chứng nhận

quyền chủ nợ về số tiền hàng hoá, dịch vụ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với

nhau.

43

Page 44: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với

giá thấp hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thương phiếu chính

là thu nhập của người sở hữu thương phiếu.

Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng mức lãi

suất chiết khấu cũng cao hơn.

Thị trường thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng

mức lãi suất chiết khấu cũng cao hơn.

Thị trường thương phiếu ngày nay rất sôi động và phát triển với tốc độ rất

nhanh. Việc chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện bằng hình thức ký hậu.

Thương phiếu bao gồm:

+ Lệnh phiếu hay kỳ phiếu: Do người mua chịu ký phát hành cam kết thanh

toán một món nợ bằng tiền nhất định khi tới hạn cho người bán.

+ Hối phiếu: Là loại kỳ phiếu do người bán ký phát hành ra lệnh cho người

mua khi tới hạn phải thanh toán một số tiền nợ cho người bán chịu hay bất kỳ một

người nào xuất trình hối phiếu.

- Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng: là công cụ vay nợ do NHTM phát hành,

xác nhận một khoản tiền gửi có kì hạn hoặc không có kì hạn của người được cấp

chứng chỉ, với lãi suất được qui định cho từng thời hạn nhất định.

- Giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng: là lệnh thanh toán một số tiền

vào một ngày trong tương lai mà ngân hàng chấp nhận thanh toán cho khách hàng

của mình. Các giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng này được sử dụng khá phổ

biến trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.Các giấy chấp nhận thanh toán ngân hàng là

một công cụ nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận là các ngân

44

Page 45: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

hàng lớn, có uy tín. Những người sở hữu giấy chấp nhận thanh toán có thể đem bán

chúng trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu để thu tiền mặt ngay khi cần

vốn.Giấy chứng nhận thanh toán có thể mua bán ở các thị trường thứ cấp.

Đây được xem là loại CK rất an toàn vì chúng được ngân hàng bảo lãnh.

- Các hợp đồng mua lại: là các hợp đồng mà người kinh doanh cam kết sẽ

mua lại với mức giá cao hơn vào thời hạn sau những chứng khoán mà người đó đã

bán cho người mua.

- Trái phiếu ngắn hạn của các công ty: là giấy chứng nhận nợ ngắn hạn do

các công ty phát hành nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt của

mình.

- Tín phiếu ngân hàng: là chứng chỉ vay nợ do NHTW phát hành bán cho

các NHTM và các tổ chức tín dụng, có thời hạn dưới 12 tháng nhằm mục đích huy

động vốn trong những trường hợp đặc biệt.

14. Vai trò của TCTCTG? Liên hệ các vai trò này ở Việt Nam hiện nay?a. Vai trò chu chuyển vốn trong nền kinh tế

Trong nền kinh tế mở, các TCTCTG có thể huy động vốn đầu tư thông qua các

kênh sau đây:

+ Kênh huy động vốn trong nước:

Huy động vốn đầu tư trong nước trên cơ sở khai thác các nguồn vốn tiết kiệm ở

các khâu tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình…Huy động vốn qua thị

trường vốn trong nước

VD: Nguồn vốn của các hộ gia đình từ nguồn tiết kiệm và kiều hối. Kiều hối về

Việt Nam tăng liên tục từ năm 1999 đến nay, nếu như năm 1999 là 1,2 tỉ USD

45

Page 46: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

thì ước năm 2010 là trên 8 tỉ USD, phát hành chứng khoán trên thị trường

chứng khoán,

+ Kênh huy động vốn nước ngoài

Tiếp nhận vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để thực hiện cho vay theo

các chương trình tín dụng chỉ định của các nhà tài trợ nước ngoài

Huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn quốc tế (Phát hành chứng khoán trên

thị trường tài chính quốc tế)

VD: năm 2011 đã huy động đc 51 nhà tài trợ song phương và đa phương tài trợ

ODA cho Việt Nam. Các nhà tài trợ đã ký kết tài trợ cho Việt Nam 8,342 tỷ USD

vốn ODA. Trong đó, vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 87%, vốn ODA không

hoàn lại chiếm 13%.

b . Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính

Trong tiến trình giao dịch vốn, đối với nhà đầu tư tức là người cần vốn bao

giờ cũng nắm rõ thông tin về mức rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư hơn

là người cung cấp vốn vấn đề này gọi là thông tin bất cân xứng. Người thừa vốn

không sẵn lòng cung cấp vốn cho người cần vốn đó là: lựa chọng đối nghịch và

rủi ro đạo đức.

+ Lựa chọn đối nghịch:

+ Rủi ro đạo đức

Sự tồn tại của các TCTCTG là để giải quyết vấn đề này vì họ được chuyên môn

hóa trong việc đánh giá rủi ro tiềm năng của người đi vay có thể tiếp cận được

thông tin cá nhân của người đi vay..

46

Page 47: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

VD: Hiện nay, vấn đề xử lý thông tin bất cân xứng đang được các ngân

hàng thương mại ở Việt Nam chú trọng nhằm giải hạn chế rủi ro trong tín

dụng, khắc phục tình trạng nợ xấu. vấn đề cơ bản trong việc giải quyết

thông tin bất cân xứng chính là sự cân bằng thông tin. Để giúp các ngân

hàng tìm được "đúng" khách hàng, "đúng" dự án và khách hàng thực hiện

"đúng”   những hành động như đã cam kết thì một nền kinh tế cần phải có

các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết:

- Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ

- Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng

năng lực TC của khách hàng

- Hệ thống thông tin đầy đủ, có độ tin cậy và tính chính xác cao

- Các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng

- Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập

- Hệ thống đăng ký tài sản

Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

(CIC) là tổ chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các

khách hàng có quan hệ tín dụng với tất cảcác tổ chức tín dụng

c . Góp phần giảm chi phí giao dịch của xã hội

Trong thực tế để thực hiện giao dịch

+ Người đi vay phải bỏ thời gian để tìm người cho vay với mức lãi suất hợp lý

+ Người cho vay phải bỏ thời gian và chi phí để tìm người cần vốn tin cậy và thiết

lập được hợp đồng vay vốn chặt chẽ sự ra đời của các TCTCTG góp phần giảm chi

phí giao dịch

47

Page 48: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

VD: hiện nay mạng lưới các ngân hàng thương mại ở VN có mạng lưới chi nhánh

phủ rộng khắp cá tỉnh thành giúp người dân có thể dễ dàng tiếp cận, với nhiều hình

thức giao dịch gửi tiền tiết kiệm, gửi tiền thanh toán, vay vốn,… thuận tiện cho

người dân

d . Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống xã hội

Các tổ chức tài chính trung gian mang lại lợi ích cho cả người đi vay và người cho

vay mang lại lợi ích xã hội.

+ Đối với người cho vay: khắc phục những khó khăn như thiếu kinh nghiệm, thiếu

thông tin, thiếu khả năng tiếp cận thông tin…

+ Đối với người đi vay: giúp giảm chi phí giao dịch, gắn kết giữa người tiết kiệm

và người đi vay đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp

15. Vì sao nói TCTCTG có thể giải quyết tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính?

Khái niệm về thông tin bất cân xứng: Tình trạng thông tin bất cân xứng

xuất hiện khi một trong hai bên trong một giao dịch có ít thông tin hơn bên kia về

đối tượng của giao dịch, khiến cho việc ra quyết định không thể chính xác.

Trong một tiến trình giao dịch vốn, đối với nhà đầu tư tức là người cần vốn

bao giờ cũng nắm rõ thông tin về mức rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư

hơn là người cung cấp vốn vấn đề này gọi là thông tin bất cân xứng (asymmetric

information). Thông tin bất cân xứng sẽ nẩy sinh hai vấn đề làm cho người thừa

vốn không sẵn lòng cung cấp cho người cần vốn đó là: lựa chọng đối nghịch và rủi

ro đạo đức.

+ Lựa chọn đối nghịch: là kếtquả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi

thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng

48

Page 49: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Nguy cơ lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch về vốn được thực

hiện. Trên thị trường tài chính, do người cho vay không có đầy đủ thông tin về các

sự án đầu tư của người đi vay, nên rất có khả năng là họ sẽ thực hiện một sự lựa

chọn đối nghịch là cho người đi vay có độ rủi ro cao vay tiền dù rằng đó là điều

người cho vay luôn muốn tránh bởi vì những người đi vay có độ rủi ro cao lại

thường là những người rất tích cực tìm cách vay được tiền (có thể họ sẽ đưa ra

mức lãi suất huy động vốn rất cao). Vì biết được nguy cơ này nên trong nhiều

trường hợp người cho vay sẽ quyết định không cho vay nữa. Hoặc trên thị trường

chứng khoán, do thiếu thông tin về các công ty phát hành chưng khoán, nhà đầu tư

có xu hướng trả một mức giá tương ứng với các chứng khoán có chất lượng trung

bình trên thị trường, kết quả là những công ty hoạt động kém sẽ sẵn sàng bán với

mức giá mà nhà đầu tư muốn mua trong khi những công ty hoạt động tốt sẽ đòi hỏi

giá chứng khoán của họ phải cao hơn mức giá trung bình đó. Kết quả là nếu mua

chứng khoán nhà đầu tư sẽ có thể thực hiện một lựa chọn đối nghịch, tức là mua

phải chứng khoán của các công ty hoạt động kém. Do ý thức được khả năng này

nên nhà đầu tư có thể quyết định không mua chứng khoán nữa. Như vậy, nguy cơ

lựa chọn đối nghịch đã hạn chế các dòng vốn lưu chuyển từ những người dư thừa

vốn sang những người cần vốn.

+ Rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi giao dịch về vốn đã

được thực hiện. Do người đi vay nắm được nhiều thông tin hơn người cho vay về

quá trình sử dụng vốn vay, họ có thể che giấu thông tin và thực hiện những hoạt

động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn. Người

cho vay trong nhiều trường hợp do e ngại nguy cơ này nên quyết định tốt nhất là

không cho vay.

Tính hợp lý cho sự tồn tại của các định chế trung gian tài chính là khả năng

vượt trội của nó trong việc giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng và hai vấn đề

49

Page 50: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

liên đới là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các định chế trung gian tài chính

chuyên môn hóa trong việc đánh giá rủi ro tiềm năng của người đi vay. Chúng có

thể tiếp cận các thông tin cá nhân của người xin vay tiền (như là tiên gửi, thu nhập,

tài sản, nợ phải trả và tín dụng) và kiểm soát những hoạt động đầu tư của người đi

vay. Hay nói khác hơn, các định chế trung gian tài chính có vị thế tốt hơn để đưa ra

quyết định cung cấp các khoản nợ một cách hợp lý. Các định chế trung gian tài

chính tạo điều kiện thuận lợi cho các quỹ tiền tệ nhàn rỗi của xã hội dịch chuyển từ

người thừa sang người thiếu, cải thiện tính hiệu quả kinh tế của tiến trình này. Chi

tiêu vốn gia tăng và nâng cao năng suất lao động. Dưới góc độ của xã hội, điều này

làm cho phúc lợi xã hội và tiêu chuẩn cuộc sống được nâng lên. Tức là lợi ích

thuần đối với xã hội được nảy sinh từ các định chế trung gian tài chính.

Sự tồn tại của các TCTCTG là để giải quyết vấn đề này vì họ được chuyên

môn hóa trong việc đánh giá rủi ro tiềm năng của người đi vay có thể tiếp cận được

thông tin cá nhân của người đi vay..

16. Nghiệp vụ thị trường mở là gì? Trình bày những điểm lợi và hạn chế khi sử dụng công cụ này? Liên hệ thực tế ở Việt Nam.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua hoặc bán chứng từ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà các ngân hàng trung ương thường sử dụng để tiến hành nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khoán kho bạc, bởi vì thị trường của những chứng khoán này rất “lỏng” và có dụng lượng kinh doanh lớn.

50

Page 51: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các ngân hàng trung gian giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng cả các ngân hàng trung gian và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Bên cạnh đó, việc ngân hàng trung ương bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán này sẽ hạ và đo vậy, lãi suất của chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng buộc các ngân hàng trung gian phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh tình trạng công chúng rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.

Ngược lại, khi ngân hàng trung ướng đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, dự trữ của các ngân hàng thương mại tăng lên. Mặt khác, việc ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách bành trướng khối tiền tệ.

Ưu điểm:

Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm hơn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. cụ thể:

- ngân hàng trung ương có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian.

- Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của ngân hàng tủng ương là thay đổi dự trữ của các ngân hàng ở biên độ lớn, nó sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán. Và ngược lại, muốn thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung gian ở biên độ nhỏ, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện việc mua và bán một ít chứng khoán thôi.

- Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành. Giả sử ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.

- Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.

51

Page 52: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Hạn chế:

- Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền trong lưu thông phải nằm ở tài khoản của ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị trường tài chính phát triển. Vì vậy công cụ này được sử dụng thường xuyên nhất, hiệu quả nhất đối với ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp phát triển – nơi có công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa mang lại hiệu quả cao.

Thực tiễn ở Việt Nam

NVTTM được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù vậy, việc triển khai NVTTM cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời. NVTTM đang dần trở thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM.

Thực tiễn điều hành NVTTM thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường mở theo hướng chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày. Lãi suất qua kênh này cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7 ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm. Hoạt động thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối lượng trúng thầu (loạt phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000 - 8.000 tỷ đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng được thị trường xác định cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua các NHTM. Điều này có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các NHTM có thêm vốn để cấp tín dụng, tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi suất cho vay có điều kiện giảm do các NHTM có nhiều vốn để cho vay hơn. Thứ ba, các chủ thể kinh tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn do lượng cung nhiều hơn và lãi suất giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp tiền tệ như tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM quy mô nhỏ, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái

52

Page 53: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

chiết khấu,… việc NHNN mua vào giấy tờ có giá với lãi suất thấp hơn đã góp phần không nhỏ ổn định thị trường tiền tệ - tín dụng.

Thực tế cho thấy hàng hóa của thị trường mở hiện còn khá nghèo nàn, chủ yếu là tín phiếu ngân hàng. Các phương tiện giao dịch như các loại trái phiếu thời hạn ngắn, chứng khoán do bản thân các ngân hàng phát hành... vẫn chưa giao dịch trên thị trường này. Thêm vào đó, khối lượng tín phiếu ngân hàng còn quá nhỏ so với quy mô vốn của ngân hàng. Như vậy, NVTTM chưa thực sự có tác động lớn đến cung cầu vốn trên thị trường.

Hiện số phiên giao dịch mỗi ngày là 2, với kỳ hạn giao dịch 14 ngày và 28 ngày.

Thành viên tham gia thị trường mở thời gian qua đã có sự gia tăng về số lượng và đa dạng về loại hình. Nếu như trước đây, thị trường mở hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, các khối ngân hàng khác còn đứng ngoài cuộc, thì hiện nay thị trường mở Việt Nam đã có sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, NHTM cổ phần,… Tuy nhiên, còn một bộ phận không ít các NHTM cổ phần nhỏ chưa tham gia thị trường mở, do quy mô vốn bé, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng cũng như chưa quen nên chưa tham gia hoặc còn lúng túng trong việc tham gia đấu thầu tại thị trường tiền tệ thứ cấp này. Hiện mỗi phiên giao dịch chỉ nhận được sự tham gia đặt thầu của khoảng 10-15 tổ chức tín dụng. Đây là con số khá khiêm tốn so với lực lượng tổ chức tín dụng đông đảo hiện đang hoạt động tại Việt Nam.

17. So sánh NHTM và quỹ tín dụng? kể tên một số NHTM và Quỹ tín dụng ở VN.* Khái niệm NHTM và quỹ tín dụng

- Ngân hàng thương mại là 1 tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.

- Quỹ tín dụng là loại hình tổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và

53

Page 54: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.

* so sánh

- Giống nhau:

+ Là tổ chức tài chính trung gian => có các đặc điểm, chức năng của tổ chức tài chính trung gian

- Khác nhau:

NHTM Quỹ tín dụngMục đích

Lợi nhuận Sự tương trợ giữa các thành viên, phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống thành viên.

Nguyên tắc thu chi

Hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi, có lãi. Lãi càng nhiều càng tốt

Bù đắp chi phí, có tích lũy để phát triển cho tương lai

Phạm vi hoạt động

Rộng, tất cả các tổ chức, cá nhân bất kỳ ai cũng có thể tham gia

Hẹp, trong phạm vi phường, xã; chỉ cho người trong phường, xã vay

Huy động vốn

3 kênh huy động vốn:- vốn tiền gửi: tiền gửi không

kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm- vốn vay: phát hành các chứng

từ có giá, vay của ngân hàng trung ương, vay của các ngân hàng và trung gian tài chính khác- vốn khác: vốn tài trợ, vốn đầu

tư phát triền, vốn ủy thác, đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng, vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính quốc tê,…

- vốn tiền gửi: nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, không được huy động tiền gửi tiết kiệm

- vay vốn từ các định chế tài chính khác

54

Page 55: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Cho vay

Đối tượng cho vay: tất cả mọi đối tượng khi đáp ứng điều kiện của NHTM

Đối tượng: thành viên và các hộ nghèo không phải thành viên trong địa bàn phường, xã -> đối tượng hẹp

Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ

Đối tượng được tham gia: tất cả khách hàng có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng

Chủ yếu phục vụ các thành viên

Hoạt động khác

Tên một số quỹ tín dụng: quỹ tín dụng nhân dân Đa Tốn, Tín nghĩa, phước hòa, đồng tiến, quý sơn, tân tạo, chợ lớn, thị trấn nhà bè, thị trấn củ chi, Nam sài gòn,…

Tên một số NHTM: NHTM cổ phần Quân đội, Á Châu, Bắc Á, Sài gòn thương tín, công thương VN, Hàng hải, an bình, ngoại thương, đông á,…

18. So sánh NHTM và công ty tài chính? Kể tên một số NHTM và công ty tài chính ở VN.

* K/n NHTM và công ty tài chính

- Ngân hàng thương mại là 1 tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.

- Công ty tài chính là một định chế tài chính trung gian được thành lập dưới dạng một công ty trực thuộc một NHTM hay một tập đoàn kinh tế có nhiệm vụ huy động vốn trung, dài hạn để cho vay. Công ty tài chính không được phép huy động vốn ngắn hạn và thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.

55

Page 56: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

* so sánh:

- giống nhau

- khác nhau:

NHTM Công ty tài chínhHuy động vốn

Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, chủ yếu là tập hợp các khoản tiền gửi nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn- vốn tiền gửi: tiền gửi ko kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm- vốn vay: phát hành các chứng từ có giá, vay của ngân hàng trung ương, vay của các ngân hàng và trung gian tài chính khác- vốn khác: vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triền, vốn ủy thác, đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng, vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính quốc tê,…

Huy động vốn trung và dài hạn, huy động những khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản nhỏ- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên.- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu

hoặc chứng chỉ tiền gửi từ 1 năm trở lên. - vay vốn từ các tổ chức tài

chính trung gian khác- tiếp nhận vốn ủy thác của

chính phủ, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước

Sử dụng vốn

Cho vay: các đối tượng bình đẳng- cho vay ứng trước- cho vay theo hạn mức tín dụng- cho vay thấu chi- cho vay chiết khấu chứng từ

Đầu tư: mua chứng khoán, đầu tư theo dự án, mua cổ phần DN và các tổ chức tín dụng khác

Cho vay - Cho vay với các kỳ hạn khác nhau (ưu tiên cho nội bộ tập đoàn).- Chiết khấu các chứng từ có giá, cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy từ có giá và dụng cụ bảo đảm khác.

Đầu tư: Góp vốn mua cổ phần, đầu tư vào các dự án và tham gia vào thị trường tiền tệ

Ccấp dv thanh toán

- dịch vụ trung gian thanh toán (séc, ủy nhiêm thu, chi, thanh toán thư tín dụng, thẻ)

Ko thực hiện các dịch vụ thanh toán

56

Page 57: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Tên một số NHTM: NHTM cổ phần Quân đội, Á Châu, Bắc Á, Sài gòn thương tín, công thương VN, Hàng hải, an bình, ngoại thương, đông á,…

Tên một số công ty tài chính: dầu khí, xi măng, điện lực, bưu điện, cao su, hóa chất VN,…

19. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại? Liên hệ thực tế 1 NHTM ở VN * Hoạt động huy động vốn:

Đây là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại, bao gồm:

- Vốn tiền gửi: (Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm) Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các ngân hàng thương mại, bao gồm:

Thông qua các nghiệp vụ nhận tiền gửi thường xuyên, ngân hàng đã huy động được một lượng vốn lớn từ khách hàng. Căn cứ vào thời gian gửi tiền và mục đích của khách hàng, có thể chia nguồn vốn này thành các bộ phận sau:

+ Tiền gửi không kỳ hạnVới loại này, người gửi có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ lúc nào có nhu

cầu (nên còn được gọi là tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu – demand deposit). Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hoặc chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này.

Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai (current account). Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản bất kỳ lúc nào. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi (Các ngân hàng thương mại thậm chí còn yêu cầu duy trì một số dư tối thiểu trên tài khoản. Trường hợp trong thời gian dài trên tài khoản không có tiền hoặc có số dư thấp hơn mức tối thiểu quy định thì chủ tài khoản còn phải trả phí duy trì tài khoản cho ngân hàng) nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh

57

Page 58: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

toán qua ngân hàng (phải trả phí dịch vụ thanh toán hay không phải trả phí tùy thuộc vào quy định của ngân hàng đối với từng loại hình dịch vụ thanh toán).

Mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng, do vậy, nó còn được gọi là tiền gửi thanh toán.

Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp, bởi vì người gửi tiền sẵn lòng bỏ qua một số tiền lãi để có một tài sản có tính lỏng cao sử dụng trong các hoạt động thanh toán mua hàng. Những khoản chi phí của ngân hàng để duy trì loại tiền gửi thanh toán bao gồm tiền thanh toán lãi và những chi phí trong việc phục vụ thanh toán trên các tài khoản tiền gửi loại này như: xử lý lưu trữ chứng từ thanh toán, phí tổn chuyển tiền và chứng từ, cung cấp thông tin…

Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng là cá nhân, các doanh nghiệp lớn. Với quy mô lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế hoán đổi thời gian đáo hạn của các khoản tiền gửi được thực hiện tốt sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàn có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng.

Tóm lại chúng ta có thể rút ra các đặc điểm chung của tiền gửi không kỳ hạn như sau:

- Lãi suất rất thấp hoặc không được hưởng lãi- Người gửi có thể sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.- Người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo

an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng.+ Tiền gửi có kỳ hạn (time deposit)Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng những chứng chỉ

tiền gửi ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng, khách hàng chỉ được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên, ngân hàng có thể giải quyết cho khách hàng rút trước thời hạn khi có yêu cầu, nhưng phải bị phạt tiền bằng việc chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn thấp hơn. Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn mục đích của người gửi tiền là lợi tức, không quan tâm đến việc tận dụng những tiện ích thanh toán do ngân hàng cung cấp. Vì vậy, để tăng tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn ngân hàng có thể sử dụng công cụ lãi suất và các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất khác như xổ số hoặc bốc thăm trúng thưởng…. để tạo ra sự quan tâm thu hút khách hàng, đặc biệt là nhóm khách hàng cá nhân. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai bên về những điều kiện đảm bảo an

58

Page 59: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

toàn trong quan hệ tín dụng, đồng thời được xác định theo nguyên tắc thời gian càng dài lãi suất càng cao.

Với những đặc tính ổn định của tiền có kỳ hạn, ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian hợp lý và thu lợi nhuận cao.

Tóm lại tiền gửi có kỳ hạn có các đặc điểm sau: - Lãi suất thường cao hơn so với không kỳ hạn- Người gửi tiền không được sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng- Mục đích của người gửi tiền là để hưởng lãi- Nếu rút tiền trước hạn thì về nguyên tắc người gửi tiền không được hưởng

lãi nhưng để cạnh tranh giữa các ngân hàng thì thường các ngân hàng vẫn trả lãi với lãi suất không thời hạn hoặc lãi suất có thời hạn thực gửi

+ Tiền gửi tiết kiệm (savings deposit)Là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân

hàng để được hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương uwngs với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Các kỳ hạn thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên một năm (18, 24 tháng). Hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Về mặt kỹ thuật, dạng tiền gửi này người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi. Ngân hàng không cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng gửi tiền tiết kiệm.

Ở Việt Nam, hình thức gửi tiết kiệm phổ biến là:Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà người

gửi tiền có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố định trước. Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm là không được phép rút trước hạn, được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ hạn và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền gửi này, người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Không cho phép bổ sung thêm vào số tiền đã gửi khi chưa hết hạn. Mỗi lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức tối thiểu của mỗi lần gửi tiền do từng ngân hàng quy định.

Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.

Như vậy, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Chúng có cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát hành séc.

59

Page 60: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai dạng tiền gửi trên (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn) mặc dù tính chất của chúng rất giống nhau là vì đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, là tài sản tích lũy của quốc gia, được xem là nguồn vốn nội lực của đất nước, cho nên cần có chính sách ưu tiên bảo vệ. (ví dụ: các NHTW thường buộc các ngân hàng thương mại khi huy động dạng tiền gửi này thì phải mua bảo hiểm cho chúng, hoặc các công ty tài chính không được huy động dạng tiền gửi này)

Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy người tao gọi ngân hàng thương mại là ngân hàng tiền gửi.

- Vốn đi vay (Vay của ngân hàng trung ương, vay của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu)

+ Phát hành các chứng từ có giáNgân hàng chủ động phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng để huy

động vốn nhằm thực hiện những dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được thực hiện theo hai phương thức: phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt kỳ phiếu): phát hành bằng hình thức triết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng).

+ Vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khácQua thị trường tiền tệ liên ngân hàng, ngân hàng có thể khai thác các

khoản vốn nhàn rỗi từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nahwfm mục đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống ngân hàng.

+ Vay của ngân hàng trung ươngBất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cấp

phép hoạt động đều được vay vốn tại ngân hàng trung ương trong trường hợp cần bổ sung vốn khả dụng. Nghiệp vụ vay vốn này được ngân hàng trung ương thực hiện dưới hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá và cho vay thế chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng của ngân hàng trung ương, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Hiện nay NHNN Việt Nam áp dụng 3 hình thức cấp tín dụng sau: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn

khác Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá

ngắn hạn khác Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ

theo yêu cầu của nền kinh tế, như thu mua lương thực, nông sản, dự trữ vật tư, nguyên liệu, sản xuất hàng hóa xuất khẩu thuộc diện ưu tiên...

60

Page 61: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Vốn khác Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác, đầu tư để cho vay theo các

chương trình, dự án xây dựng... Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ như trong

nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp (tiền gửi của các ngân hàng khác để nhờ thanh toán hộ), trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng để đảm bảo thanh toán trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ - LC)

Với những ngân hàng thương mại có các quan hệ quốc tế rộng lớn, có thể tranh thủ các khoản vốn tín dụng hoặc tiếp nhận từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc

* Hoạt động cho vay

Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại, thực chất đây là quá trình ngân hàng thương mại cho các tổ chức, cá nhân vay vốn. Hoạt động cho vay rất đa dạng và phong phú. Có thể nêu một số loại hình chủ yếu sau:

- Cho vay ứng trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng thương mại cung cấp cho người đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả nợ gốc.

Cho vay ứng trước có 2 loại:

a/ Cho vay ứng trước có bảo đảm:

Bảo đảm bằng các động sản: như hàng hóa, tài sản hay chứng từ (cho vay cầm cố): là cho vay trên cơ sở cầm cố tại ngân hàng các tài sản, có thể là hiện vật như vật tư hàng hóa, hoặc là giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hóa ( B/L, giấy lưu kho, lưu bãi container), các chứng từ thanh toán (bộ chứng từ liên quan đến người nhập khẩu gồm B/E, chứng từ gửi hàng), chứng từ có giá (thương phiếu, chứng khoán,..), thậm chí cả vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ,... số tiền cho vay bằng một tỷ lệ phần trăm của giá trị tài sản cầm cố, tỷ lệ này cao hay thấp là tùy vào quan hệ của ngân hàng và khách hàng, vào uy tín của khách hàng. Ngân hàng sẽ quản lý tài sản cầm cố trong suốt thời hạn vay và chỉ hoàn lại khi thu đủ nợ (gốc và lãi). Trong trường hợp người đi vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn, ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố để thu nợ.

Bảo đảm bằng bất động sản: như đất đai, nhà cửa (cho vay thế chấp): là cho vay trên cơ sở nắm giữ các giấy tờ chứng thực quyền sở hữu hợp pháp về bất động sản đem thế chấp. Số tiền vay được tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị tài sản thế thấp (nhỏ hơn giá trị của tài sản thế chấp), tỷ lệ này cao hay thấp phụ

61

Page 62: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

thuộc vào quan hệ của ngân hàng và khách hàng và uy tín của khách hàng. Cho vay thế chấp khác với cho vay cầm cố ở chỗ trong thời hạn vay người đi vay vẫn được phép sử dụng tài sản thế chấp, ngân hàng chỉ nắm giữ hồ sơ gốc.

Bảo đảm bằng sự bảo lãnh của bên thứ 3: (cho vay có bảo lãnh): bên bảo lãnh lập hồ sơ bảo lãnh tại ngân hàng và cam kết hoàn trả nợ nếu bên đi vay không có khả năng thanh toán. Ngân hàng cũng có thể đề nghị bên bảo lãnh phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp tại ngân hàng.

b/ Cho vay ứng trước không có bảo đảm:

Cho vay ứng trước không có đảm bảo: là hình thức cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng với ngân hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh. Do vậy, còn gọi là vay tín chấp. Hình thức này được áp dụng với các khách hàng có uy tín, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những doanh nghiệp lớn.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng

Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể vay làm nhiều lần trong thời gian thở thuận mà không phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền của các lần vay không vượt quá hạn mức tín dụng. Hình thức cho vay này thường áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên.

Trong hợp đồng tín dụng sẽ có một số nội dung cơ bản sau:

+ Hạn mức tín dụng

+ Số vòng quay vốn

+ Tổng doanh số trả nợ trong quý

Khách hàng có thể vay làm nhiều lần nhưng khi có tiền thu bán hàng, người vay phải nộp toàn bộ số tiền đó vào tài khoản tiền vay để đảm bảo doanh số trả nợ và vòng quay vốn tín dụng, phần còn lại chuyển về tài khoản tiền gửi để sử dụng. Lãi vay thường được ngân hàng tính và thu vào ngày cuối của tháng

- Cho vay thấu chi

62

Page 63: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Cho vay thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số dư trên tài khoảng tiền gửi thanh toán trong 1 hạn mức và thời gian nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.

Khác với cho vay ứng trước mức tín dụng thỏa thuận cho vay thấu chi chưa phải là khoản tiền mà ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (chi vượt số dư) thì mới được coi là tín dụng cấp phát và đầu tính tiền lãi. Hình thức này thường áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.

- Cho vay chiết khấu chứng từ

Cho vay chiết khấu chứng từ: là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền, ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi tren thương phiếu từ người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.

Ví dụ: một tờ lệnh phiếu có mệnh giá 10.000 USD

Thời hạn của lệnh phiếu là 3 tháng

Lãi suất chiết khấu là 4%/năm

Vậy ngân hàng phải bỏ ra một số tiền để mua tờ lệnh phiếu đó là:

10.000 USD -

10.000 * 4 * 3 = 9.90

0 USD100 * 12

Lãi suất chiết khấu được tính căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường, chi phí thu tiền thương phiếu (collection fee), mức độ trượt giá (lạm phát dự tính – expected inflation), rủi ro không đòi được tền thương phiếu (commercial risk – rủi ro thương mại)

Cần lưu ý: tiền lãi trong cho vay chiết khấu không được tính trên só vốn mà người đi vay được sử dụng như cho vay ứng trước mà trên thực tế lại được

63

Page 64: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

tính trên tổng lãi và vốn gốc. Trong ví dụ trê, số vốn người đi vay được sử dụng là 9.900 USD nhưng tiền lãi được tính trên tổng lãi và vốn vay tức là 10.000 USD.

Các chứng từ có giá bao gồm: Các loại tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do kho bạc nhà nước, ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phát hành: các loại sổ tiết kiệm có kỳ hạn, các chứng chỉ tiền gửi, bộ chứng từ thanh toán.

Các chứng từ trên được chấp nhận chiết khấu nếu thỏa mãn điều kiện: được phát hành hợp pháp, được bảo toàn mệnh giá, có khả năng chuyển nhượng, không bị tẩy xóa, còn trong thời hạn thanh toán

Phương thức chiết khâu:

+ Chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của chứng từ có giá là phương thức mua bán chứng từ có giá theo giá chiết khấu và khách hàng chuyển giao ngay quyền sở chứng từ có giá đó cho ngân hàng. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng có quyền thanh toán với người phát hành.

+ Chiết khấu có thời hạn: Là phương thức mua các chứng từ có giá theo thời hạn và giá chiết khấu đồng thời kèm theo cam kết của khách hàng về mua lại chứng từ có giá đó vào ngày hết hạn chứng khoán. Nếu hết hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện cam kết mua lại chứng từ có giá thì ngân hàng là chủ sở hữu hợp hợp pháp và hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ các chứng từ có giá đó.

Các nguyên tắc cho vay

Nguyên tắc 1: Phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng

Lý do phải thực hiện nguyên tắc này:

+ Vốn cho vay của ngân hàng thương mại là vốn huy động của các chủ thể trong xã hội do vậy ngân hàng thương mại phải thu hồi vốn đúng hạn để hoàn trả cho các chủ thể đó nhằm đảm bảo cho quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế được liên tục và có hiệu quả.

64

Page 65: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Hợp đồng tín dụng là 1 hợp đồng kinh tế, trong đó 1 trong những điều khoản quan trọng là thời hạn hoàn trả cả gốc và lãi phải thực hiện theo hợp đồng nên khách hàng khi vay vốn của NHTM phải thực hiện đúng theo hợp động

+ Hợp đồng cho vay của NHTM là 1 hợp đồng kinh doanh như các doanh nghiệp khác vì vậy phải hoàn trả đúng hạn để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của ngân hàng thương mại

Biểu hiện của nguyên tắc 1 trong thực tế

+ Khi vay vốn người vay phải cam kết hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng bằng 1 điều khoản trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ước nhận nợ.

+ Đến kỳ hạn hoàn trả theo cam kết nếu người vay thiếu hoặc mất khả năng thanh toán, hoặc không đủ khả năng thanh toán và được ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ thì ngân hàng có quyền áp dụng các điều khoản hiện hành để xử phạt người vay.

Nguyên tắc 2: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng

Lý do đưa ra nguyên tắc này:

+ Mục đích sử dụng vốn vay đã được ngân hàng thương mại thẩm định trước khi quyết định cho vay, nếu sử dụng vốn sai mục đích có thể xảy ra những rủi ro đối với tiền vốn của ngân hàng.

+ Hợp đồng tín dụng là 1 hợp đồng kinh tế sử dụng vốn đúng mục đích là một trong những điều khoản quan trọng của hợp đồng tín dụng phải thực hiện theo hợp đồng

Biểu hiện thực tế của nguyên tắc 2

+ Khi vay vốn, người vay phải trình bày phương án, kế hoạch kinh doanh, đồng thời xác định rõ mục đích, đối tượng sử dụng vốn và cam kết sử dụng vốn đúng mục đích nếu được ngân hàng chấp nhận.

+ Trong quá trình sử dụng vốn, nếu sai cam kết người vay sẽ phải chịu trách nhiệm trước ngân hàng theo luật định và theo hợp đồng.

Nguyên tắc 3: Không dồn vốn cho một số ít khách hàng vay

65

Page 66: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Lý do đưa ra nguyên tắc này:

+ Đề phòng rủi ro đối với hoạt động đồng của ngân hàng

+ Thực hiện theo quyết đinh: QĐ 457/QĐ NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005

Biểu hiện trong thực tế của nguyên tắc 3

+ Đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong nước tỷ lệ dư nợ cho vay đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, nhóm khách là không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng.

+ Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Tỷ lệ dư nợ cho vay đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nhà nước, nhóm khách hàng là không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng.

* Hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại

Hoạt động đầu tư là hoạt động NHTM dùng vốn của mình để mua chứng khoán (các chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty) hoặc đầu tư theo dự án. Ở Việt Nam luật các tổ chức tín dụng còn cho phép các ngân hàng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hay của các tổ chức tín dụng khác

* Hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng được phát triển mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa lại nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng thương mại. Hoạt động dịch vụ được thực hiện dưới các hình thức sau:

- Kinh doanh ngoại tệ và vàng: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và vàng ở thị trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại cho ngân hàng là chênh lệch giữa giá bán và giá mua.

- Dịch vụ trung gian thanh toán: Dịch vụ này bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt, qua ngân hàng. Đây là một nghiệp vụ truyền thống, đồng thời được phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạt động thanh toán, ngân hàng thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.

66

Page 67: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Các hình thức thanh toán:

+ Thanh toán bằng séc

+ Ủy nhiệm thu

+ Ủy nhiệm chi

+ Thanh toán bằng thư tín dụng

+ Thanh toán bằng thẻ

- Dịch vụ bảo lãnh: Bảo lãnh là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thương mại chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh, nếu họ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với yêu cầu của một đối tác nào đó. Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức, như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh chất lượng và khối lượng hàng hóa.

- Cung cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn:

Ngân hàng thương mại là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Hơn nữa, ngân hàng là tổ chức khá đầy đủ và cập nhật các thông tin về thị trường, giá cả do vậy nó có thể cung cấp các thông tin theo yêu cầu của khách hàng trong giới hạn cho phép.

Do có trình độ nghiệp vụ có thông tin, kinh nghiệm nên ngân hàng thương mại có thể tư vấn cho khách hàng về xây dựng dự án đầu tư, phương án huy động vốn, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp…

- Hoạt động ủy thác (ủy thác và nhận ủy thác): Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác đại lý.

20. Chức năng của NHTM? Vận dụng tại 1 NHTM mà bạn biết.* Chức năng trung gian tín dụng

67

Page 68: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng này khi nó đóng vai trò là cầu nối giữa người có vốn với người cần vốn.

Ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người có nhu cầu về vốn thông qua việc huy động khai thác các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay.

Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội, ngân hàng thương mại với vai trò là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, nắm bắt tình hình cung cầu về vốn tín dụng sẽ thực hiện tiếp nhận và chuyển giao vốn một cách có hiệu quả. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tín dụng về khối lượng và cả thời gian tín dụng.Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng được mô tả qua sơ đồ sau:

Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Huy động các nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm, có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế

- Cấp tín dụng đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.

Ý nghĩa: Thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại góp phần tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia và lơi ích chung của nền kinh tế.

+ Đối với người có vốn nhàn rỗi: Họ thu lợi từ khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo cho sự an toàn về khoản tiền đó và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.

68

- Tổ chức kinh tế

- Doanh nghiệp

- Tổ chức xã hội

- Hộ gia đình, dân cư…

- Tổ chức kinh tế

- Doanh nghiệp

- Tổ chức xã hội

- Hộ gia đình, dân cư…

NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

Huy

Động

Nguồn vốn

Cấp

Tín dụng

Đầu tư vốn

Page 69: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

+ Đối với người đi vay: họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, đáp ứng nhu cầu chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.

+ Đối với Ngân hàng thương mại: Họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

+ Đối với nền kinh tế: Chức năng này đã góp phần bổ sung thêm một kênh điều chuyển vốn cho nền kinh tế, làm phong phú thêm hệ thống các kênh dẫn vốn, phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, tạo thêm việc làm cho người lao động* Chức năng trung gian thanh toán:

Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện theo yêu cầu của khách hàng như trích một khoản tiền trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào một khoản tiền gửi của khách hàng từ bán hàng hóa hoặc các khoản thu khác.

Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán làm cho nó trở thành thủ quỹ cho khách hàn. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách làm cho ngân hàng thực hiện được vai trò trung gian thanh toán. Trên thực tế, khi việc than toán trực tiếp giữa các chru thể kinh tế bằng tiền mặt gặp nhiều hạn chế và rủi ro cao, do phải tập hợp, kiểm tra, vận chuyển làm cho chi phí thanh toán cao mà lại thiếu chính xác và an toàn, đặc biệt là khi hai đơn vị này cách xa nhau, điều này tạo nên nhu cầu và gia tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng.

Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:

Trong chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho khách hàng- Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng- Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng

69

- Người trả tiền

- Người mua hàng

- Tổ chức xã hội

- Cá nhân chuyển tiền

- Người thụ hưởng

- Người bán hàng

- Tổ chức xã hội

- Cá nhân

NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

Lệnh

trả tiền

Qua tài khoản

Giấy báo có

Page 70: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Ý nghĩa: Hệ thống ngân hàng thương mại đã có những đóng góp lớn cho xã hội trong lĩnh vực thanh toán. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng có ý nghĩa rất lớn đối với các hoạt động của nền kinh tế xã hội. + Đối với khách hàng của ngân hàng thương mại: nhờ các công cụ thanh toán do ngân hàng thương mại phát hành ngày càng đa dạng (như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi) mà khách hàng có thể lựa chọn được phương tiện thanh toán thích hợp hạn chế được rủi ro do việc nắm giữ và thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và mang lại nhiều lợi ích.

+ Đối với ngân hàng thương mại: tạo điều kiện tăng thêm thu nhập từ cung cấp dịch vụ thanh toán đồng thời huy động thêm được các nguồn vốn để cho vay (số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng) đồng thời góp phần giám sát kỷ luật tài chính.

+ Đối với nền kinh tế: Nhờ thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt cho lưu thông tiết kiệm được chi phí lưu thông tiền mặt qua đó góp phần giảm chi phí cho xã hội.

Như vậy các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, việc ngân hàng thực hiện tốt chưc năng trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.* Chức năng tạo tiền

Khi thực hiện hai chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ (bút tệ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại

Những hoạt động mà NHTM thực hiện đã tạo nên một cơ chế tạo tiền trong toàn hệ thống ngân hàng. Trên cơ sở số tiền gửi của khách hàng, ngân hàng dùng nó để cho vay. Tuy nhiên, số tiền cho vay không dừng lại ở số tiền mặt gửi ban đầu mà khoản tín dụng do ngân hàng thực hiện đã tạo ra tiền dưới dạng bút tệ. Khi hết hạn vay, người vay trả nợ ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông quay trở lại ngân hàng. Như vậy, do hoạt động của ngân hàng mà hàng ngày thường xuyên có tiền bơm vào lưu thông (ngân hàng cho vay) và tiền rút khỏi lưu thông (trả nợ vay ngân hàng).

Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thang toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài

70

Page 71: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.

Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.

Tóm lại, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ... Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Đó là một phát minh lớn trong hoạt động ngân hàng. ở đây, chính việc cho vay đã tạo ra tiền gửi. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng thương mại phải làm được chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản này mới là một bộ phận của lượng tiền giao dịch.

Ý nghĩa

Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phần quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.

Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.

71

Page 72: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tỏng đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.

21. Hoạt động kinh doanh của NHTM ảhg ntn đến nền ktế xã hội?* Thể hiện thông qua chức năng của NHTM

Thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại góp phần tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia và lơi ích chung của nền kinh tế. Chức năng này đã góp phần bổ sung thêm một kênh điều chuyển vốn cho nền kinh tế, làm phong phú thêm hệ thống các kênh dẫn vốn, phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, tạo thêm việc làm cho người lao động

Hệ thống ngân hàng thương mại đã có những đóng góp lớn cho xã hội trong lĩnh vực thanh toán. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng có ý nghĩa rất lớn đối với các hoạt động của nền kinh tế xã hội. Đối với nền kinh tế: Nhờ thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt cho lưu thông tiết kiệm được chi phí lưu thông tiền mặt qua đó góp phần giảm chi phí cho xã hội.

Với chức năng tạo tiền, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phần quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.

* Vai trò của ngân hàng thương mại- NHTM góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của DN cho hoạt động đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh:

Trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng được qui mô sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Trong điều kiện đó, ngân hàng thương mại một mặt đáp ứng đầy đủ và nhu cầu vốn thiếu hụt, cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác nhau nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh.

72

Page 73: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Mặt khác, thông qua cung ứng vốn tín dụng và các dịch vụ ngân hàng nhanh chóng, thuận tiện đã thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa, luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí và từ đó nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh cho từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.

- Ngân hàng thương mại góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực tài chính giữa các ngành, vùng trong nền kinh tế quốc dân và tạo điều kiện cân đối nền kinh tế:

Thông qua các nghiệp vụ của mình, NHTM một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.

Khi muốn phát triển hay hạn chế phát triển một ngành hay một lĩnh vực nhất định nào đó, có thể thông qua hoạt động cho vay của ngân hàng để điều tiết.

- Ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW :

Để thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng truong ương phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở,... Chính các ngân hàng thương mại là “môi trường” để ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ này. Nói cụ thể hơn, ngân hàng thương mại còn là tổ chức phải chấp hành những quy định trong nội dung cả các công cụ chính sách tiền tệ và đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

Thông qua các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương phát hành thêm hoặc thu hồi bớt tiền từ lưu thông về. cũng thông qua ngân hàng thương mại, sự biến động lãi suất, tỷ giá hối đoái… của nền kinh tế được phản hồi về ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương có giải pháp điều tiết thích hợp theo yêu cầu của chính sách tiền tệ.

So sánh quỹ tín dụng và quỹ đầu tư

73

Page 74: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

22. Trình bày nghiệp vụ tái chiết khấu của NHTW. Việc thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu và tái chiết khấu của NHTW ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung ứng của NHTM như thế nào?

NGHIỆP VỤ CHIẾT KHẤU, TÁI CHIẾT KHẤU CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG

1. Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng là nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp.

Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Căn cứ định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định lĩnh vực Ngân hàng Nhà nước ưu tiên chiết khấu, tái chiết khấu cho các ngân hàng.

2. Đối tượng áp dụng của quy chế:

Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu với các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.

Các trường hợp không được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận chiết khấu, gồm:

• - Ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu;

• - Các giấy tờ có giá không đủ điều kiện theo qui định của Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng;

• - Giấy đề nghị chiết khấu gửi Ngân hàng Nhà nước có nội dung không phù hợp với qui định, người ký không đúng thẩm quyền.

• 3. Lãi suất chiết khấu:

• Là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng để tính số tiền thanh toán khi thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá. Lãi suất chiết khấu do Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

74

Page 75: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• 4. Hình thức chiết khấu:

• - Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: Theo hình thức này, Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá của các ngân hàng theo giá chiết khấu

• - Chiết khấu có kỳ hạn: Ngân hàng Nhà nước chiết khấu các giấy tờ có giá, đồng thời yêu cầu ngân hàng cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đã chiết khấu sau một thời gian nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày.

• 5. Các loại giấy tờ có giá được chiết khấu:

• Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định trong từng thời kỳ

• 6. Điều kiện để các giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước:

• Các loại giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

• - Thuộc danh mục các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong nghiệp vụ Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định.

• - Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VNĐ) và có thể chuyển nhượng được.

• - Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có giá phải là 91 ngày.

• - Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng Nhà nước chiết khấu.

• 7. Hạn mức chiết khấu:

• Hạn mức chiết khấu được xác định theo quý, là số dư tối đa mà Ngân hàng Nhà nước thực hiện chiết khấu đối với các giấy tờ có giá cho một ngân hàng tại mọi thời điểm trong quý.

• Căn cứ tổng hạn mức mức chiết khấu và mục tiêu ưu tiên đầu tư tín dụng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước phân bổ hạn mức chiết khấu đối với từng ngân hàng.

75

Page 76: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• Chậm nhất vào ngày 15 tháng đầu tiên của quý tiếp theo, các ngân hàng gửi hồ sơ đề nghị thông báo hạn mức chiết khấu giấy tờ có giá tới Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng) để Ngân hàng Nhà nước có cơ sở xác định và thông báo hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng. 

• Ngân hàng Nhà nước chỉ phân bổ và thông báo hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng có đề nghị thông báo hạn mức chiết khấu gửi tới Ngân hàng Nhà nước đúng thời gian qui định (theo dấu bưu điện hoặc fax).

• 8. Phương thức giao dịch nghiệp vụ:

• Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá với các ngân hàng theo phương thức trực tiếp và gián tiếp.

• Theo phương thức trực tiếp, các ngân hàng giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước thông qua Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp cần thiết, Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước có thể trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước uỷ quyền cho Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiệp vụ này với các ngân hàng có trụ sở chính trên địa bàn. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm thông báo cho các ngân hàng có hội sở chính trên các địa bàn về việc uỷ quyền này.

• Phương thức gián tiếp là phương thức các ngân hàng giao dịch thông qua hệ thống nối mạng vi tính với Ngân hàng Nhà nước hoặc qua fax.

• 9. Ngày giao dịch: Ngày giao dịch trong nghiệp vụ chiết khấu là ngày làm việc, không tính ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ lễ và nghỉ tết.

• 10. Thủ tục tham gia nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá

• - Ngân hàng lập và gửi Giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ chiết khấu về Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước và Cục Công nghệ tin học ngân hàng để làm căn cứ cấp mã khoá truy cập, mã chữ ký điện tử và phân quyền trong giao dịch chiết khấu;

• - Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận, lưu giữ Giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá và thực hiện việc cấp quyền giao dịch đối với các chức danh tham gia nghiệp vụ chiết khấu theo đăng ký của các ngân hàng.

• - Các ngân hàng thực hiện giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước hoặc thông qua hệ thống  mạng vi tính với Ngân hàng Nhà nước, hoặc qua FAX.

• 11. Trình tự thực hiện nghiệp vụchiết khấu giấy tờ có giá

76

Page 77: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• 11.1. Đề nghị và thông báo hạn mức chiết khấu:

• -  Chậm nhất là vào ngày 25 của thàng cuối quý, các ngân hàng gửi Ngân hàng Nhà nước (Vụ Tín dụng) giấy đề nghị thông báo hạn mức chiết khấu kèm theo bảng cân đối tài khoản kế toán của tháng gần nhất và bảng kê giấy tờ có giá đủ điều kiện chiết khấu mà ngân hàng nắm giữ.

• - Hàng quý, trên cơ sở hạn mức chiết khấu chung trong quý, Ngân hàng Nhà nước phân bổ hạn mức và thông báo cho các ngân hàng có nhu cầu chiết khấu và Sở Giao dịch (đơn vị thực hiện nghiệp vụ chiết khấu).

• 11.2 Thủ tục chiết khấu giấy tờ có giá

• - Khi có nhu cầu chiết khấu giấy tờ có giá, các ngân hàng căn cứ hạn mức chiết khấu được thông báo và số dư chiết khấu còn lại đến thời điểm xin chiết khấu lập và gửi Giấy đề nghị chiết khấu theo Mẫu quy định về Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền;

• - Chậm nhất sau 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được Giấy đề nghị chiết khấu của các ngân hàng, Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền lập và gửi  các ngân hàng Thông báo chấp nhận chiết khấu hoặc không chấp nhận chiết khấu;

• - Sau khi nhận được Thông báo chấp nhận chiết khấu của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền, các ngân hàng thực hiện xác thực Thông báo chấp nhận chiết khấu. Trong trường hợp chiết khấu giấy tờ có giá có kỳ hạn, chậm nhất 15h00 cùng ngày các ngân hàng phải lập và gửi Giấy cam kết mua lại giấy tờ có giá về Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền;

• - Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền thực hiện việc xác thực, kiểm soát và duyệt Giấy cam kết mua lại giấy tờ có giá đối với chiết khấu có kỳ hạn. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước đã gửi thông báo chấp nhận chiết khấu nhưng đến 15h00 cùng ngày, ngân hàng được chấp nhận chiết khấu không  gửi Giấy cam kết mua lại giấy tờ có giá (đối với chiết khấu có kỳ hạn) thì Thông báo chấp nhận chiết khấu đó không còn giá trị.

• Căn cứ Thông báo chấp nhận chiết khấu, Giấy cam kết mua lại giấy tờ có giá của các ngân hàng, Sở Giao dịch, Ngân hàng Nhà nước chuyển tiền cho các ngân hàng và hạch toán giấy tờ có giá theo quy định.

77

Page 78: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

• 11..3 Giao nhận giấy tờ có giá và thanh toán khi chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước:

• - Sau khi nhận được thông báo về việc chấp nhận chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng đề nghị chiết khấu thực hiện thủ tục giao nộp giấy tờ có giá và nhận tiền thanh toán của Ngân hàng Nhà nước tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố được uỷ quyền trong vòng 1 ngày kể từ ngày được thông báo. Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn, ngân hàng đề nghị chiết khấu cần phải thực hiện việc cam kết mua lại giấy tờ có giá với Ngân hàng Nhà nước trước khi giao nộp giấy tờ có giá và nhận tiền thanh toán.

• - Khi hết thời hạn chiết khấu (đối với trường hợp chiết khấu có kỳ hạn), các ngân hàng thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước tiền mua lại giấy tờ có giá và nhận lại giấy tờ có giá theo cam kết. Nếu sau 01 ngày làm việc kể từ ngày hết hạn chiết khấu mà ngân hàng không thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước để nhận lại giấy tờ có giá thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trích tiền gửi của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước để thanh toán. Trường hợp tài khoản của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước  không đủ tiền thì Ngân hàng Nhà nước sẽ chuyển số tiền còn thiếu sang nợ quá hạn và ngân hàng đó phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất chiết khấu. Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét bán các giấy tờ có giá mà Ngân hàng Nhà nước đang nắm giữ trên thị trường tiền tệ để thu hồi số tiền còn thiếu.

• - Trường hợp ngân hàng đề nghị chiết khấu không giao nộp giấy tờ có giá đúng danh mục và đúng thời hạn theo thông báo chấp nhận chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước, sẽ bị coi như  đã huỷ bỏ đề nghị chiết khấu. Một ngân hàng bỏ đề nghị chiết khấu 2 lần sẽ không được tiếp tục tham gia nghiệp vụ chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày vi phạm lần thứ 2.

• Việc thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu và tái chiết khấu của NHTW ảnh hưởng đến khốí

Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung gian. Nếu chính sách của ngân hàng trung ương là muốn bành trướng khối tiền tệ , ngân hàng trung ương sẽ khuyến khích các ngân hàng trung gian trong việc đi vay tái chiết khấu cũng được dễ dãi.

78

Page 79: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Trong trường hợp này, ngân hàng trung gian đi vay sẽ ít tốn kém hơn nên cũng có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực hiện ngân lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn. Điều này sẽ hạn chế nhu cầu đi vay của các ngân hàng trung gian, và gián tiếp gây áp lực buộc các ngân hàng trung gian nâng lãi suất cho vay. Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất, chính sách tái chiết khấu của ngân hàng trung ương còn có vai trò quan trọng khi nó giúp các ngân hàng trung gian khai thông ăng lực thanh toán,nhờ đó có thể cứu vãn được những cơn sụp đổ tài chính – ngân hàng. Cụ thể , khi các ngân hàng bị đe dọa phát sản, ngân hàng trung ương sẽ cấp dự trữ cho chúng thông qua tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá, từ đó khôi phục được khả năng thanh toán của những ngân hàng này. Vài trò này ngày càng trở nên quan trọng hơn, bởi vì chúng ta đang trải qua những khó khăn ngày càng nhiều của hệ thống ngân hàng hiện nay.

23.Để kiểm soát khả năng tạo tiền của NHTM, NHTW phải sử dụng những công cụ nào của chính sách tiền tệ? Trình bày cơ chế sử dụng của các công cụ đó?

* Dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàn trung gian phải đưa vào dự trữu theo luật định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc – do ngân hàng trung ương quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mối ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế.

Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng trung ương có thẻ làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền kinh té giảm hoặc tăng. Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của ngân hàng trung ương nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền.

79

Page 80: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Mặt khác, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đối với khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó là khi ngân hàng trung ương muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nều sử dụng công cụ này. Bên cạnh đố, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó, một sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi hỏi ngân hàng trung gian, cũng như phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.

* Lãi suất

Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sụ biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ. thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, ngân hàn trunguwowng có thẻ sử dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ theo các chính sách sau:

- Ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các loại lãi suất như:

+ Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc

+ Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn

+ Công bố lãi suất cơ ản cộng với niên độ giao dịch

Dựa vào các loại lãi suất đã được ấn định, ngân hàng trung gian áp dụng để giao dịch kinh doanh với khách hàng. Cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ áp dụng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, cũng như ở các nước đang phát triển khác trước đây. Một trong những lý do chính để giải thích tại sao ngân hàn trung ương không để thị trường quyết định lãi suất mà phải quy định chặt chẽ lãi suất như vậy là vì trình độ phát triển thị trường tiền tệ còn thấp, năng lực cạnh tranh các ngân hàng trung gian còn yếu kém.

80

Page 81: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thnahf theo theo cơ chế thị trường. Và để can thiệp vào lãi suất thị rường, ngân hàng trung ương có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách:

+ Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường.

+ Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường.

Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng trung gian. Nếu chính sách của ngân hàng trung ương là muốn bành trướng khối tiền tệ , ngân hàng trung ương sẽ khuyến khích các ngân hàng trung gian trong việc đi vay tái chiết khấu cũng được dễ dãi. Trong trường hợp này, ngân hàng trung gian đi vay sẽ ít tốn kém hơn nên cũng có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực hiện ngân lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn. Điều này sẽ hạn chế nhu cầu đi vay của các ngân hàng trung gian, và gián tiếp gây áp lực buộc các ngân hàng trung gian nâng lãi suất cho vay. Ngoài việc gián tiếp làm thay đổi lãi suất, chính sách tái chiết khấu của ngân hàng trung ương còn có vai trò quan trọng khi nó giúp các ngân hàng trung gian khai thông ăng lực thanh toán,nhờ đó có thể cứu vãn được những cơn sụp đổ tài chính – ngân hàng. Cụ thể , khi các ngân hàng bị đe dọa phát sản, ngân hàng trung ương sẽ cấp dự trữ cho chúng thông qua tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá, từ đó khôi phục được khả năng thanh toán của những ngân hàng này. Vài trò này ngày càng trở nên quan trọng hơn, bởi vì chúng ta đang trải qua những khó khăn ngày càng nhiều của hệ thống ngân hàng hiện nay.

Tuy nhiên chính sách tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định:

- Thứ nhất, có thể tạo cho các ngân hàng trung gian tính ỷ lại- Thứ hai, ngân hàng trung ương có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu, nhưng

không thể bắt buộc các ngân hàng trung gian phải đi vay. Nghĩa là ngân hàng trung ương bị lệ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian khi sử dụng công cụ này.Từ đó, các nhà kinh tế có đề xuất những biện pháp cải cách công cụ tái cấp

vốn. Đề xuất được sự đồng tình rộng rãi nhất là đề xuất gắn lãi suất tái chiết khấu

81

Page 82: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu với một lãi suất thị trường, vì nhận thấy có nhiều điểm lợi:

- Thứ nhất, hầu hết những biến động trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường với lãi suất tái chiết khấu sẽ bị loại trừ, điều này sẽ xóa bỏ được một nguyên nhân chính gây ra các biến động trong khối lượng các khoản xin tái chiết khấu.

- Thứ hai, ngân hàng trung ương vẫn có thể tiếp tục sử dụng công cụ tái cấp vốn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng, mà không sợ bị các ngân hàng lợi dụng. Bởi vì lúc này các ngân hàng trung gian sẽ không còn đi vay từ của sổ chiết khấu để sinh lưoij được nữa, bắt buộc nó phải cân nhắc kỹ trước khi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm trong kinh doanh.Thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất đòi hỏi nền kinh tế cần phải có

những điều kiện cơ bản nhất định:

- Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định- Hành lanhg pháp lý ổn định, hoản chỉnh và đồng bộ- Hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, có sức cạnh tranh cao- Thị trường tài chính vận hành có hiệu quả- Các nguồn lực trong nước được phân phối và sử dụng hợp lý

Trong xu thế nhội nhập, việc thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất là cần thiết, song cần tiến hành một cách thận trọng, cân nhắc kỹ càng, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.

Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế. ngược lai, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền kinh tế.

* Hạn mức tín dụng:

Bằng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương quy định cho các ngân hàng trung gian một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này

82

Page 83: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

cho phép ngân hàng trung ương ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian hất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị rường, cung cầu tín dụng luôn biến động không ngừng. Do đó, công cụ này ít được áp dụng.

24.Trong các công cụ thực thi chính sách tiền tệ công cụ nào quan trọng nhất? Vì sao? Trình bày nội dung công cụ đó và liên hệ vào thực tế VN hiện nay?

Câu 5 Tại sao nói NHTW là ngân hàng của các ngân hàng? Liên hệ thực tế ở Việt Nam?

Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm soát quá trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của ngân hàng trung ương.

Ngân hàng trung ương có các chuc nang sau:

- Nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng

Để đáp ứng nhu cầu chi trả, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được cấp phép hoạt động đều phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng trung ương và gửi tiền vào đó theo quy định. Số dư “tài khoản tiền gửi thanh toán” của các tổ chức này được ngân hàng trung ương trả lãi. Ngoài ra ngân hàng trung ương còn quản lý tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi để kinh doanh. Mức dự trữ bắt buộc được tính theo tỷ lệ % trên từng loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Tỷ lệ này do ngân hàng trung ương quy định trong từng thời kỳ. Mục đích của dự trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán hạn chế rủi ro thanh toán cho cả hệ thống. Tuy nhiên theo thời gian, ý nghĩa này giảm dần. Cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền gửi ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt khi có thông tin không bình thường về một ngân hàng. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường được đề cập đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ.

83

Page 84: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

- Cho vay với các tổ chức tín dụng: Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương luôn là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với cách tổ chức tín dụng thông qua hoạt động tái cấp vốn. Nghiệp vụ này tạo cho ngân hàng trung ương thực hiện vài trò điều tiết khối lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả. Khi cần cung ứng thêm tiền vào lưu thông, ngân hàng trung ương tăng thêm hạn mức tái cấp vốn, giảm lãi suất tái cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Ngược lai, khi cần rút bớt tiền khỏi lưu thông, ngân hàng trung ương giảm hạn mức tái cấp vốn, tăng lãi suất tái cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại.

- - Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt: Bằng cách thiết lập phòng than toán giao hoãn tại trụ sở của mình, ngân hàng trung ương giúp các ngân hàng thương mại thanh toán bù trừ những món nợ với nhau, góp phần giảm bớt khối lượng thanh toán, tiết kiệm thời gian thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng.

Thực tế tại Việt Nam

Năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua; theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) được khẳng định là một tổ chức có chức năng quản lý đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) khi NHNN vẫn là cơ quan có quyền ra quyết định về việc cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung và các NHTM nói riêng. Chính vì vậy, NHTM cần phải chịu sự giám sát của NHNN khi muốn tham gia hoặc rút lui đối với hoạt động ngân hàng. Sự giám sát này được thực hiện bởi sự phối hợp giữa các bộ phận chuyên ngành của NHNN: Vụ Các Ngân hàng; Vụ Các TCTD hợp tác; Vụ Chính sách tiền tệ; Vụ Tín dụng; Vụ Quản lý ngoại hối; Thanh tra Ngân hàng,…

Ngày 27/5/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN. Đây là một cơ quan cấp tổng cục trực thuộc NHNN, được thành lập trên cơ sở sáp nhập một số Vụ, Cục của NHNN. Cơ quan này có chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức tài chính

84

Page 85: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật. Theo Quyết định này, thông qua hoạt động giám sát ngân hàng, trong trường hợp phát hiện các vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và quy định của pháp luật hoặc có dấu hiện mất an toàn hoạt động, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại sao NHTM được coi là chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh tế? Ví dụ về khả năng tạo tiền của NHTM? Ngân hàng thương mại được coi là chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế vì

Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.

Ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người có nhu cầu về vốn thông qua việc huy động khai thác các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay.

Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội, ngân hàng thương mại với vai trò là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, nắm bắt tình hình cung cầu về vốn tín dụng sẽ thực hiện tiếp nhận và chuyển giao vốn một cách có hiệu quả. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tín dụng về khối lượng và cả thời gian tín dụng.

85

Page 86: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó cung ứng 1 lương tiền vào lưu thông

Khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại

Tạo tiền là gì?

Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng

Ví dụ:

Giả sử một khách hàng đem tiền mặt gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng A là

100.000 đ. Lúc đố bảng cân đối của ngân hàng sẽ như sau (ở đây chỉ đề cập đến biến động của khoản

tiền mới gửi):

NGÂN HÀNG A

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 100.000 đ

(Dưới hình thức tồn quỹ tiền mặt)

Tiền gửi thanh toán: 100.000 đ

(Của khách hàng)

Nếu ngân hàng A giữ số tiền mặt đó và không cho vay chỉ để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của

khách hàng thì chưa hề có quá trình tạo tiền . Nhưng các ngân hàng ngày nay không nhận tiền gửi để giữ

lại trong quỹ mà họ phải đem cho vay nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, để đảm bảo một phần khả năng

thanh toán cũng như cho do phải chịu sự quản lý của NHTW, ngân hàng A không thể cho vay hết số tiền

86

Page 87: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

nhận được mà cần phải để lại một lượng dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ mà NHTW quy định. Để đơn giản cho

việc tính toán, giả sử rằng tỷ lệ này là 10%. Như vậy ngân hàng thương mại A có thể cho vay tối đa 90%

số vốn tiền gửi. Nếu ngân hàng A cho vay hết số tiền đó thì bản cân đối của ngân hàng này sẽ là:

NGÂN HÀNG A

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 10.000 đ

Cho vay: 90.000 đ

Tiền gửi thanh toán: 100.000 đ

Cộng: 100.000 đ

Cộng: 100.000 đ

Giả sử số tiền cho vay ra (90.000 đ) sẽ được người đi vay sử dụng để thanh toán tiền mua hàng

cho bạn hàng của họ có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng B. Khi đó số tiền này sẽ hình thành một khoản

tiền gửi mới ở ngân hàng B là 90.000 đ

NGÂN HÀNG B

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 9.000 đ

Cho vay: 81.000 đ

Tiền gửi thanh toán: 90.000 đ

Cộng: 90.000 đ

Cộng: 90.000 đ

Ngân hàng này cũng phải dự trữ theo quy định là 10%, phần còn lại được sử dụng để cho vay và số tiền đó lại hình thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng C.

87

Page 88: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Theo cùng một lập luận, nếu tất cả cácn gân hàng đều đem cho tất cả các khoản tiền gửi nhận

được sau khi đã dự trữ theo đúng quy định thì các khoản tiền gửi sẽ tiếp tục được tạo ra (ở các ngân

hàng D, E, F…) như sau:

Ngân hàng Sự gia tăng tiền gửi

Sự gia tăng các khoản cho vay

Sự gia tăng số tiền dự trữ bắt buộc

A

B

C

D

E

F

.

.

.

+ 100.000 đ

+ 90.000 đ

+ 81.000 đ

+ 72.900 đ

+ 65.610 đ

+ 59.050 đ

.

.

.

+ 90.000 đ

+ 81.000 đ

+ 72.900 đ

+ 65.610 đ

+ 59.050 đ

+ 53.140 đ

.

.

.

+ 10.000 đ

+ 9.000 đ

+ 8.100 đ

+ 7.290 đ

+ 6.560 đ

+ 5.910 đ

.

.

.

Tổng cộng + 1.000.000 + 9.000.000 đ + 100.000 đ

Quá trình tạo tiên gửi sẽ diễn ra cho đến khi tổng số tiền dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng thương mại bằng đúng số tiền gửi đầu tiên (100.000 đ). Và tổng số tiền gửi được tạo ra sẽ bằng:

100.000 + 90.000 + 81.000 + …

(….)

25.So sánh NHTM với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng?

NHTM Tổ chức tín dụng phi NH

88

Page 89: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Nguồn

vốn

Các khoản tiền gửi, các khoản tiền đi

vay và khoản vốn tự có

Vốn từ các thành viên 1 tổ

chức vì dụ như hợp tác

xã,công ty,xí nghiệp

Đặc

điểm

• nhận tiền gửi

• cho vay các khoản nhỏ để cho vay

các khoản lớn

• lượng tiền của gười gửi chịu sự quản

lý và sử dụng của ngân hàng

• hoạt động của ngân hàng ở mọi địa

phương,chủ yếu ở các khu công

nghiệp và thành thị,nơi có giao dịch

về vốn nhiều.

Ngân hàng thương mại hoạt động riêng

biệt,chỉ lien kết với nhau ở công cụ

thanh toán nhằm thuận tiện cho người sử

dụng

• ko đc nhận tiền gửi

• cho vay các

• Thành viên tham gia quỹ

tín dụng có quyền sở hữu

và quản lý mọi tài sản và

hoạt động của quỹ theo tỷ

lệ vốn góp

+ Phạm vi hoạt động của

quỹ tín dụng chủ yếu là ở

địa bàn nông thôn, các tụ

điểm dân cư gắn với địa

bàn hành chính cấp xã,

phường, hoặc liên xã, liên

phường

Quỹ tín dụng hoạt động trong một hệ thống liên kết các quỹ tín dụng khác, có hệ thống từ trung ương đến khu vực và cơ sở

89

Page 90: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Hoạt

động

Chịu sự quản lý của nhà nước và sự rằng

buộc về tiền gửi dự trự; bảo hiểm các

khoản vay

Cho vay với mọi đối tượng ko hạn chế

(trừ cp để đảm bảo nó ko nắm các khoản

đầu tư quá mạo hiểm dẫn tới vỡ nợ) gồm

các cá nhân tập thể vay theo nhiều mđ.

mua nhà đầu tư,…

Ko bị nhà nc rằng buộc chặt

chẽ như N

Cho vay: cho vay đối với thành viên và các hộ nghèo không phải là thành viên trong địa bàn; quỹ tín dụng nhân dân cơ sở thực hiện các hoạt động tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Khả

năng

tạo

tiền

Có thể nhận tiền gửi và xoay vòng đồng

tiền, có thể đem cho vay qua các hđ của

NH nó đã tạo ra 1 hệ số tiền

Lãi xuất cao hoen quỹ tín dụng phi ngân

hàng

Hoạt động của quỹ tín dụng phải đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ để phát triển.số tiền tạo ra không lớn bằng ngân hàng thương mại

Lãi xuất có thể thấp hơn ngân hanhg thương mại

90

Page 91: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

1. NHTW có thể thay đổi mức cung tiền bằng những công cụ nào? Trình bày nội dung các công cụ đó? Nêu xu hướng sử dụng các công cụ để điều tiết khối lượng tiền cung ứng hiện nay?..............1

2. Có quan điểm cho rằng: “ Không chỉ có NHTW có chức năng phát hành tiền vào lưu thông” quan điểm trên đúng hay sai? Vì sao?...................................................................................................10

3. Trình bày nội dung các khối tiền trong nền kinh tế? Trong tương lai cơ cấu các khối tiền sẽ thay đổi như thế nào?..............................................................................................................................10

4. Nguyên nhân của lạm phát là gì? Giải pháp kiểm soát lạm phát? Vận dụng vào thực tế ở Việt Nam hiện nay?.........................................................................................................................................12

Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế xã hội? Liên hệ thực tế Việt Nam hiện nay?.............................18

6. Thiểu phát là gì? ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế? Liên hệ với thực tế Việt Nam?. .21

7. TCTCTG là gì? Đặc điểm của TCTCTG? Kể tên các TCTCTG mà bạn biết?..........................24

8. : So sánh NHTM và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.............................................................28

9. các tổ chức tài chính phi ngân hàng mà e biết ở vn hiện này “..............................................................29

10. Thị trường tài chính là gì? Đặc trưng cơ bản của thị trường tài chính? So sánh thị trường tài chính với thị trường hàng hóa................................................................................................................32

Nội dung các công cụ thị trường vốn? Vận dụng các công cụ này ở VN hiện nay....................................35

12. Trình bày các chức năng của thị trường tài chính? Xu hướng phát triển của thị trường tài chính sau khi gia nhập WTO ở Việt Nam........................................................................................................................40

13. Thị trường tiền tệ là gì? Nội dung cơ bản của các công cụ thị trường tiền tệ?.....................................42

14. Vai trò của TCTCTG? Liên hệ các vai trò này ở Việt Nam hiện nay?.................................................45

15. Vì sao nói TCTCTG có thể giải quyết tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính?.....48

16. Nghiệp vụ thị trường mở là gì? Trình bày những điểm lợi và hạn chế khi sử dụng công cụ này? Liên hệ thực tế ở Việt Nam.....................................................................................................................50

17. So sánh NHTM và quỹ tín dụng? kể tên một số NHTM và Quỹ tín dụng ở VN..................................53

18. So sánh NHTM và công ty tài chính? Kể tên một số NHTM và công ty tài chính ở VN.....................55

19. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại? Liên hệ thực tế 1 NHTM ở VN...................57

20. Chức năng của NHTM? Vận dụng tại 1 NHTM mà bạn biết..............................................................67

21. Hoạt động kinh doanh của NHTM ảhg ntn đến nền ktế xã hội?..........................................................72

22. Trình bày nghiệp vụ tái chiết khấu của NHTW. Việc thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu và tái chiết khấu của NHTW ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung ứng của NHTM như thế nào?...............................74

23. Để kiểm soát khả năng tạo tiền của NHTM, NHTW phải sử dụng những công cụ nào của chính sách tiền tệ? Trình bày cơ chế sử dụng của các công cụ đó?.......................................................79

24. Trong các công cụ thực thi chính sách tiền tệ công cụ nào quan trọng nhất? Vì sao? Trình bày nội dung công cụ đó và liên hệ vào thực tế VN hiện nay?......................................................................83

91

Page 92: lehung043.files.wordpress.com · Web viewKhái niệm: ngân hàng trung ương là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc

Câu 5 Tại sao nói NHTW là ngân hàng của các ngân hàng? Liên hệ thực tế ở Việt Nam?.......................83

Tại sao NHTM được coi là chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh tế? Ví dụ về khả năng tạo tiền của NHTM?..................................................................................................................................................................85

25. So sánh NHTM với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng?..........................................................88

92