VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG …hcma.vn/Uploads/2017/6/4/LA _ Minh...
Transcript of VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG …hcma.vn/Uploads/2017/6/4/LA _ Minh...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH THÙY
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH THÙY
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN MINH TRƯỞNG
2. PGS.TS. DOÃN THỊ CHÍN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Thùy
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 5
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan 5
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục làm
rõ trong luận án 24
Chương 2: HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH 27
2.1. Một số khái niệm 27
2.2. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh 32
Chương 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986-2016 - KẾT QUẢ VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM 67
3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam 67
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
xây dựng đường lối đối ngoại giai đoạn 1986 - 2016 73
3.3. Một số thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh (1986 - 2016) 93
Chương 4: TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ
CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI 109
4.1. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới và những vấn
đề đặt ra đối với công tác ngoại giao 109
4.2. Tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình
hình mới 119
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất
Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ là Người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam mà còn sáng lập nền ngoại giao hiện đại. Hồ Chí Minh đã kế
thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo ngoại giao truyền thống để hình thành hệ thống
quan điểm, tư tưởng ngoại giao tiến bộ, phù hợp với các nguyên tắc quan hệ quốc tế
mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có hệ thống phương pháp ngoại giao hết sức
sáng tạo, độc đáo, bền vững góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền
ngoại giao hiện đại của Việt Nam trong hơn tám thập niên qua. Có thể khẳng định
rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
hoạt động ngoại giao ngày càng lớn mạnh cùng với những bước đường cách mạng
của cả dân tộc, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi của đất nước. Cùng với sự
phát triển của đất nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã không ngừng lớn mạnh,
trưởng thành, trở thành một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Kế thừa và phát huy những truyền thống cũng như thành tựu trên lĩnh vực
ngoại giao nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng đường lối và chỉ đạo thực
hiện hoạt động ngoại giao nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc
tế thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…Trong tình hình mới, công tác
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh nói riêng vẫn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả của việc vận dụng phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh còn một số tồn tại nhất định, đòi hỏi tiếp tục vận dụng tốt hơn trong
bối cảnh mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, với hai nhiệm vụ chiến lược xây
2
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tình hình quốc tế có nhiều biến động. Trên thế giới, trong
những năm tới tình hình quốc tế sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, mâu thuẫn giữa
các nước lớn ngày càng gay gắt, gây ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, dân
tộc có chủ quyền, tình hình an ninh chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn
biến rất phức tạp khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp
lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến
tranh cục bộ, chiến tranh mạng… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cục diện
thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều
chỉnh chiến lược, vừa hợp tác vừa thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế
lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Vì thế, Việt Nam
đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều
thách thức đan xen. Tuy nhiên, hiện nay, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn được các
nước trên thế giới chủ yếu giải quyết bằng con đường đàm phán, hòa bình để đi tới
thống nhất.
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong những năm gần đây, vấn đề
tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực nói chung và
Trung Quốc đối với Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, cùng với đó, các thế
lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” hòng làm
mất ổn định chính trị, lật đổ chính quyền... Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra hết
sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và
ngoại giao đã và đang là một mặt trận quan trọng hàng đầu.
Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn, là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt
Nam huy động các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với nguồn lực nội sinh của dân
tộc tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay. Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề
tài: “Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay” làm luận án tiến sĩ của mình.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án: Trên cơ sở những nội dung cơ bản của phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục vận dụng vào xây dựng đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đáp ứng được yêu cầu mới của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Nhiệm vụ
- Luận giải các khái niệm cơ bản của đề tài.
- Nghiên cứu làm rõ nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối
ngoại trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016).
- Đánh giá về những thành tựu và kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện
đường lối chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh phân tích xu hướng, diễn
biến của thế giới và khu vực trong bối cảnh hiện nay, đánh giá những thành công và
những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh trong xây dựng và thực hiện đường lối chính sách và chỉ đạo hoạt động
ngoại giao để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; vận dụng phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu một số phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh: Dĩ bất biến ứng vạn biến, Biết thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù;
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; Phương
pháp thực lực và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao tâm công; Kết hợp đấu tranh chính
trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách
4
mạng; Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để giành thắng lợi. Đồng thời, nghiên cứu sự vận dụng của Đảng ta trong tiến
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.
- Về thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh từ 1945-1969; sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách
mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng
các phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: Kết hợp
phương pháp logic với phương pháp lịch sử; và các phương pháp khác như: Phân
tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, văn bản học, phân tích hành
vi, phỏng vấn,...
5. Đóng góp mới của Luận án
- Luận án làm rõ hơn hệ thống nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc
tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
- Làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào
tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã
hội và nhân văn.
- Ứng dụng giảng dạy chuyên đề cho đối tượng đại học và sau đại học
chuyên ngành Hồ Chí Minh học của Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 9 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Từ những năm 90 đến nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
và nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng ở nước ta được đẩy mạnh
và đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tiễn cho thấy, vấn đề ngoại giao được
khá nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu một cách
cẩn thận, nghiêm túc. Thực hiện nghiên cứu đề tài về Vận dụng phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tác giả
tiếp cận với các công trình khoa học tiêu biểu sau đây:
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng, phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
Trong đề tài "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Nguyễn Đình Bin (chủ
nhiệm) [15], các tác giả đã phân tích các nội dung: Bối cảnh ra đời, nguồn gốc, quá
trình phát triển, nội dung cơ bản của đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong
cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn sách "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam" [73] là công trình đã tập hợp các báo cáo, tham luận của các nhà
nghiên cứu, các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, các nhà hoạt động thực tiễn tổng kết
về công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh; sự nhìn nhận, đánh giá về tình hình thế giới và xu thế phát triển
trong quan hệ quốc tế; những quan điểm chỉ đạo về đường lối, chiến lược, sách lược
ngoại giao của Đảng, của Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng; nhiều bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn khái quát về nền
ngoại giao Việt Nam qua 50 năm hoạt động, phát triển.
Đề tài "Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ
Chí Minh trong tình hình mới" do Trần Minh Trưởng (chủ nhiệm) [178] bao gồm 4
chương: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh;
6
Nội dung tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có nghệ thuật:
Thực hiện phương châm ngoại giao thêm bạn bớt thù, phân hóa kẻ thù, Ngoại giao
phải có thực lực, Ngoại giao phải “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…; Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng và nghệ thuật ngoại giao thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế. Nhóm tác giả đề tài phân tích ngoại giao Việt Nam thời kỳ
1975-1985, nêu những vấn đề quốc tế tác động trực tiếp đến ngoại giao Việt Nam
thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), từ đó phân tích đường lối, chính sách ngoại giao
của Việt Nam thời kỳ đổi mới - Thành tựu, hạn chế và bài học; Tiếp tục vận dụng
sáng tạo và phát triển tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình
mới. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về tư tưởng nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh cả về cơ sở lý luận, thực trạng và sự vận dụng, là tài liệu tác giả có thể
tham khảo, kế thừa khi nghiên cứu viết luận án.
Cuốn "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế" của Phan
Ngọc Liên [108] là công trình nghiên cứu về các hoạt động quốc tế của Hồ Chí
Minh, từ khi ra đi tìm đường cứu nước, tham gia thành lập và chỉ đạo hoạt động ở
một số tổ chức cách mạng quốc tế, đến những hoạt động đối ngoại và ngoại giao
của Người trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Thông qua các sự kiện, khẳng định
Hồ Chí Minh đã có đóng góp to lớn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế; những hoạt động của Hồ Chí Minh đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới; tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của phong trào
cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Tác giả đã bước đầu khái quát
một số nội dung mang tính lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế.
Cuốn sách "Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), tập 1, Ngoại
giao Việt Nam 1945-1975" của tác giả Lưu Văn Lợi [113]. Cuốn sách làm sống lại
những ngày đầu kháng chiến và độc lập của dân tộc ta, được thấy rõ hơn những khó
khăn của 2 cuộc kháng chiến trường kỳ. Tác giả đã chọn lọc đúng những thời điểm
quan trọng nhất trong 30 năm đầu đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta từ 1945-1975.
Đánh giá về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tác giả Lưu Văn
Lợi khẳng định:
7
Trong cuộc đấu tranh cả trên ba mặt trận quân sự, chính trị, đấu tranh
ngoại giao của ta là tiến công chiến lược nhằm xây dựng và củng cố hậu
phương quốc tế của nhân dân ta, thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ về tinh thần, chính trị và vật chất của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta,
lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, hỗ trợ cho các mặt đấu tranh
trong nước, góp phần từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng có
lợi cho ta [113, tr.393].
Như vậy, cuốn sách đã có sự khái quát một số phương pháp ngoại giao được
vận dụng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách
chưa đi sâu nghiên cứu các phương pháp đó mà chỉ mới dừng lại nêu ra sau khi
phân tích các sự kiện lịch sử của hai cuộc kháng chiến.
Trong cuốn "Hồ Chí Minh: Nhà trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện
đại" của Nguyễn Phúc Luân [117] đã làm rõ một số quan niệm của Hồ Chí Minh về
bạn thù, về sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, về chính sách đối ngoại, phương
pháp dự báo thời cuộc...
Về bạn thù, tác giả nêu lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí
Minh đã nhắc lại: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai
là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” [137, tr.453]. “Thêm bạn bớt thù”
trở thành nhiệm vụ trung tâm của hoạt động đối ngoại, cơ sở của đường lối quốc tế,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tác giả phân tích, trong quá trình
chỉ đạo và trực tiếp tham gia vào thực hiện nhiệm vụ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại những kinh nghiệm, bài học về trí tuệ và sách lược đáng chú ý như sau: Về
nhận thức và sách lược đối với kẻ thù trong những giai đoạn cách mạng; vấn đề
“thêm bầu bạn” mở rộng đội ngũ đồng minh, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
quốc tế to lớn đã trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi cuả sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng “thêm bầu bạn”,
tranh thủ lực lượng bên ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua sự vận dụng trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam, nổi lên những vấn đề cơ bản cần chú ý: Một là: Thể
hiện sự nhất quán về quan điểm: chỉ trên cơ sở tự lực tự cường, không ngừng củng
8
cố khối đại đoàn kết dân tộc bên trong, mới tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ, sự
hợp tác rộng rãi của các lực lượng khác nhau bên ngoài…; Hai là: Thể hiện định
hướng nói trên vào thực tiễn quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khôn khéo tùy từng thời điểm cụ thể, giương cao ngọn cờ
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…; Ba là: Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người mở ra trang sử mới cho mối quan hệ đoàn kết hữu nghị và giúp đỡ
lẫn nhau giữa các dân tộc anh em, láng giềng, đặc biệt là giữa các dân tộc Đông
Dương…; Bốn là: Luôn luôn sáng suốt phân biệt giữa các tầng lớp nhân dân lao
động, tiến bộ ở các nước thù địch với thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; Năm là:
Kết hợp ngoại giao nhà nước với vận động tranh thủ sự đồng tình, đi đến ủng hộ
ngày càng mạnh mẽ của nhân dân ở nhiều nước khác nhau trên thế giới cùng
chung hoặc khác nhau về ý thức hệ đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.
Như vậy, theo tác giả, quan điểm của Hồ Chí Minh về “thêm bạn”, tức là chúng ta
mở rộng quan hệ với tất cả các lực lượng cách mạng trên thế giới để tranh thủ sự
ủng hộ, tăng cường sức mạnh của dân tộc, “thêm bạn” tức là ta cũng hạn chế bớt
được “thù”.
Cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao" của Vũ Khoan [93]
đã nêu lên những sự kiện kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách
mạng tới khi cách mạng Tháng Tám thành công và thời kỳ sau cách mạng Tháng
Tám tới khi Người qua đời vào năm 1969. Qua hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh rút ra được những tư tưởng, bài học, phương pháp ngoại giao mà Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng trong thực tiễn, đem lại những
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu,
tham khảo.
Lời tựa của cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh"
của Bộ Ngoại giao [13] có nêu: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
vừa kỷ niệm 55 năm ngày thành lập. Nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh đã đi
cùng dân tộc trong suốt những chặng đường đáng ghi nhớ của lịch sử cách mạng
Việt Nam. Ngoại giao phản ánh thời đại, mang hơi thở của thời đại, góp phần làm
nên và đóng dấu ấn thời đại. Năm mươi lăm năm qua là thời gian xây dựng và phát
triển và trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam cách mạng và hiện đại.
9
Trong đó, phần 2 của cuốn sách có bài tham luận: “Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề cập những nội dung lớn của tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
và một số nội dung hết sức cô đọng như độc lập tự chủ, tự lực tự cường; tư tưởng
hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc là
một tư tưởng lớn của ngoại giao Hồ Chí Minh; “Thêm bạn, bớt thù” là một chủ
trương quan trọng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” là tư duy biện chứng, là phương châm, biện pháp xem xét và giải quyết
những vấn đề chiến lược; Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam xem ngoại
giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Chiến
lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó
lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc.
Tác giả Vũ Dương Huân trong chuyên đề: “Tư tưởng và phong cách ngoại
giao Hồ Chí Minh” khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi lạc, một
danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng lớn trong thời đại của chúng ta. Tác giả nêu:
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng chung.
Nói đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là nói ngắn gọn. Đúng ra là tư tưởng Hồ
Chí Minh về quốc tế, chính sách đối ngoại và ngoại giao. Đặc biệt, trong bài viết,
tác giả có nêu lên một số phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có
phương pháp: Thứ nhất, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược, nhân nhượng có
nguyên tắc (nói cách khác là tư tưởng Dĩ bất biến ứng vạn biến); thứ hai, triệt để lợi
dụng trong hàng ngũ kẻ thù, phân hóa và cô lập chúng đến cao độ; thứ ba, kết hợp
trong nước và ngoài nước, phối hợp các lĩnh vực, trước hết là giữa chính trị, quân sự
và ngoại giao, tạo sức mạnh cho đấu tranh ngoại giao; thứ tư, giành thắng lợi từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tư tưởng tiến công cách mạng; thứ năm,
dự đoán và dự báo các sự kiện quốc tế và đất nước ta; thứ sáu, nắm bắt thời cơ.
Mặc dù các bài viết trong cuốn sách đã nêu được một số phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh nhưng chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc các phương pháp
đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên có thể thấy cuốn sách là nguồn
tài liệu qúy để tác giả nghiên cứu, tham khảo.
10
Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do
(1945 - 1975)" của Nguyễn Phúc Luân [118] đã nghiên cứu những chủ trương,
chính sách ngoại giao lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ lịch sử 1945 -
1975. Đây cũng là công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết kinh nghiệm và lịch
sử đấu tranh của nền ngoại giao nước nhà trong thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong đấu tranh ngoại giao thời kỳ giữ vững và củng cố Nhà nước cách
mạng non trẻ (8/1945-12/1946), Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã xác định nhiệm vụ cách mạng, chủ trương đối ngoại và những biện pháp ngoại
giao đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuốn sách nêu: “Thấm
nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì
phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”, ta đã
đề ra nhiều biện pháp sách lược quan trọng và coi việc thêm bạn, bớt thù là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của đường lối quốc tế trong cách mạng Tháng
Tám” [118, tr.37].
Tác giả nhận định: Chính sách ngoại giao đầu tiên của Nhà nước Việt Nam
độc lập đã biết vận dụng khôn khéo các chủ trương “Hòa để tiến”, Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có tính
phương pháp luận về nhận định xu thế thời cuộc, về kẻ thù, về đánh giá và lựa chọn
khả năng phát triển của cách mạng nước ta, về phương pháp thêm bạn bớt thù, lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù...
Trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta cũng
vận dụng các phương pháp ngoại giao vào đấu tranh, phối hợp với mặt trận chính trị
và quân sự. Tác giả khái quát: “Chuyển biến thắng lợi trên chiến trường từ Tết Mậu
Thân và hệ quả tích cực mà mặt trận ngoại giao đem lại cùng với lập trường và
nghệ thuật đàm phán đúng đắn linh hoạt, sáng tạo của ta trở thành những nhân tố
hàng đầu thúc đẩy sự hình thành khuôn khổ đàm phán ở Pari và đưa cuộc đàm phán
đó đến thắng lợi” [118, tr.299]. Như vậy, tác giả cuốn sách đã nhấn mạnh vai trò
của phương pháp đàm phán đã đưa đến ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đó là một thắng lợi ngoại giao quan trọng, to
lớn và ý nghĩa nhiều mặt.
11
Cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao" của Vũ
Dương Huân [78] gồm một số bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã và đang tham
gia công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động trên Mặt trận đối ngoại của Bộ
Ngoại giao. Các bài viết được chia thành 4 phần: Phần 1: Khái quát chung về
ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 2: Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại
giao; Phần 3: Một số vấn đề về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 4: Phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Phần 4 của cuốn sách có đề cập đến hai phương
pháp ngoại giao:
Phương pháp thứ nhất là, Hồ Chí Minh và vấn đề lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù
trong đấu tranh ngoại giao của tác giả Vũ Dương Huân. Tác giả khẳng định: “Lợi
dụng mâu thuẫn kẻ thù một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hổ Chí Minh.
Những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương
đã được các nhà kinh điển đề cập và Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo và
phát triển trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [78, tr.146]. Tác giả
nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi dụng mâu thuẫn trong từng giai đoạn của cách
mạng. Tác giả kết luận vấn đề bằng nhận xét của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “mẫu
mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch
và về nhân nhượng có nguyên tắc” [31, tr.31].
Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam 1945-2000" của Nguyễn Đình Bin [10] là
công trình viết về ngoại giao khá toàn diện. Các tác giả đã phác họa những nét
chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong 55 năm, từ 1945 đến 2000, một thời
kỳ đầy những biến động và biết bao thay đổi ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Cuốn "Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay cường bạo" của Nguyễn
Phúc Luân [119] được trình bày thành 3 phần chính: 1. Vai trò lịch sử của Hồ Chí
Minh trong quan hệ quốc tế; 2. Ngoại giao trong tâm thức Hồ Chí Minh; 3. Một số
luận lý ngoại giao Hồ Chí Minh cần nghiên cứu và ứng dụng.
Đặc biệt, trong cuốn sách, tác giả đưa ra những khái lược về thời, thời cơ;
những dự báo lớn của Hồ Chí Minh về những bước quanh của quan hệ quốc tế và
thời cơ cách mạng chuyển mình; khả năng cách mạng Việt Nam bùng nổ và giành
thắng lợi trong thế kỷ XX; phương pháp nhận thức các khả năng và tiếp cận với vấn
12
đề thời cơ trong hoạt động đối ngoại. Tác giả khẳng định việc phát hiện và nắm
vững thời cơ có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi. Cuốn sách là tài liệu để tác
giả tham khảo khi nghiên cứu phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về thời cơ.
Cuốn sách "Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pari về Việt Nam" của
Bộ Ngoại giao [16] là công trình tập hợp những bài viết, bình luận của một số nhà
ngoại giao lão thành đã từng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia Hội nghị Pari. Cuốn
sách đề cập cuộc đàm phán Paris và Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam là đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước và là thành công lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc thời đại Hồ
Chí Minh, để lại những bài học thực tiễn vô giá về đấu tranh ngoại giao.
Tại Hội nghị Paris, khả năng đàm phán của phái đoàn Việt Nam được nâng
lên thành nghệ thuật. Và những yếu tố cơ bản tạo nên nghệ thuật đàm phán đó là:
Chúng ta đã xác định và kiên trì phương pháp “vừa đánh, vừa đàm” trong suốt quá
trình đàm phán; Đàm phán phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị với mục tiêu hàng
đầu là tấn công, kiềm chế địch, tranh thủ sự ủng hộ và đồng tình của bạn bè và dư
luận quốc tế; Xác định phương châm giành thắng lợi từng bước, tiến đến giành
thắng lợi cuối cùng…Những bài viết có giá trị, những bài học bổ ích được rút ra
trong cuốn sách không những là tài liệu thiết thực trong lĩnh vực đối ngoại mà còn
là một tư liệu quý để tác giả nghiên cứu khi đề cập đến đánh và đàm trong ngoại
giao Hồ Chí Minh.
Cuốn "Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1954-1969" của
Trần Minh Trưởng [176] trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quá trình vận
động trong quan hệ quốc tế từ sau Hiệp định Giơnevơ đã hệ thống lại những hoạt
động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến
năm 1969; làm nổi bật vai trò và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
ngoại giao trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, củng cố tình đoàn kết trong phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế. Bằng nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, cuốn sách đã cho thấy tư duy
lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
việc phân tích, nhận định, đánh giá, xử lý các tình huống, sự kiện trong quan hệ
quốc tế phức tạp, đa chiều của thời kỳ đầy biến cố và sôi động.
13
Trong cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng
trong thời kỳ đổi mới" của Đinh Xuân Lý [124] đã khái quát bối cảnh ra đời, quá
trình phát triển, nguồn gốc, nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Bên
cạnh đó, cuốn sách cũng giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
cho công tác đối ngoại hiện nay, từ đó xây dựng chủ trương, chính sách đối ngoại
và sự chỉ đạo hoạt động đối ngoại phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trong cuốn "Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè quốc tế" của Đỗ Hoàng Linh,
Phạm Hoàng Điệp [111] đã ghi lại những phát biểu, suy nghĩ và cảm tưởng của các
nhà lãnh đạo, bạn bè trên thế giới về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà lãnh đạo kiệt xuất
của Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân thế giới.
Cuốn "Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh" của Võ Văn
Sung [159] là một công trình công phu, ghi lại một số dấu ấn sâu đậm trong lĩnh
vực đối ngoại và phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh, phân tích những nét
độc đáo của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh…Tác giả cuốn sách đặt ra
vấn đề nếu có thể cần phải từng bước làm sáng tỏ sự độc đáo nổi bật của nền
ngoại giao Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong chương
II của cuốn sách nêu: Cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng, phương pháp
cách mạng là một vế có ý nghĩa hết sức quyết định trong ba vế đảm bảo thắng lợi
của cách mạng, đó là: Đường lối cách mạng, quyết tâm cách mạng và phương
pháp cách mạng. Đương nhiên, đường lối đúng đắn và quyết tâm cao là rất cơ bản
nhưng diễn biến cách mạng Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng lại có ý
nghĩa quyết định nhất. Nhờ phương pháp cách mạng của nước ta theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh chính là cách đảm bảo cho
chính nghĩa được tất thắng qua hai cuộc kháng chiến. Tuy đề cập đến phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nhưng cuốn sách mới chỉ nói về phương pháp “Dĩ
bất biến ứng vạn biến”, tạo sức mạnh tổng hợp và phương pháp “Vừa đánh, vừa
đàm”. Trong phần kết luận, tác giả khái quát trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh
có nhiều nội dung nhưng yếu tố cốt lõi, vấn đề xuyên suốt qua mọi vấn đề là
“ngoại giao phải tự tấm lòng”. Vì nói cho cùng, quan hệ quốc tế đúng nghĩa của
14
nó phù hợp với nguyện vọng sâu xa của mọi người mà thể hiện quan trọng nhất là
hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Cuốn "Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước Châu
Á, (1954-1969)" của Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch [98] là tập hợp các
sự kiện hoạt động đối ngoại và ngoại giao của Hồ Chí Minh đối với các nước khu
vực châu Á. Qua đó khẳng định những cống hiến to lớn của Người trong việc thiết
lập cây cầu hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với các dân tộc châu Á vì hòa bình
và tiến bộ xã hội, cùng phát triển.
Cuốn sách "Ngoại giao và công tác ngoại giao" của Vũ Dương Huân [86]
gồm 15 chương giới thiệu một cách có hệ thống các nội dung của ngoại giao như:
Nhận thức chung về ngoại giao và công tác ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao,
tiếp xúc ngoại giao, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, lễ tân ngoại giao, ngoại
giao đa phương... Chương I, cuốn sách đề cập đến nhận thức chung về ngoại giao
và công tác ngoại giao, trong đó nêu khái niệm ngoại giao, phân loại ngoại giao, vài
nét về sự phát triển của ngoại giao…Cuốn sách là tài liệu tham khảo giúp tác giả đi
vào làm rõ các khái niệm về ngoại giao và một số khái niệm liên quan.
Trong cuốn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Nguyễn Hùng Hậu [67], các tác
giả nghiên cứu phương pháp này dưới góc độ triết học và khẳng định: “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” là nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ
Chí Minh quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái bất
biến lớn trong tư tưởng của Người là “Không có gì quý hơn độc lập tự do” [139,
tr.131], độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách là tài liệu bổ ích để
tác giả tham khảo khi đi vào phân tích phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn "Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm" của Nguyễn Khắc
Huỳnh [90] gồm một số bài viết, bài nghiên cứu đã được chọn lọc của tác giả trong
thời gian gần đây và một số bài tham luận tại các cuộc Hội thảo trong nước và ngoài
nước nhân dịp các sự kiện ngoại giao lớn như 55 năm ký Hiệp định Giơnevơ, 35
năm ký Hiệp định Pari về Việt Nam... Tác giả tập trung trình bày và làm rõ thêm
một số vấn đề, sự kiện lớn trong quan hệ quốc tế, đường lối, chính sách đối ngoại
15
của Đảng và Nhà nước ta. Trong bài Tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh,
tác giả trình bày đặc điểm hình thành tư tưởng - nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí
Minh; mấy vấn đề tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; mấy vấn đề về nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn sách "Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của
Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình mới" là công trình nghiên
cứu khá sâu về lĩnh vực quan hệ quốc tế của Trần Minh Trưởng [177]. Cuốn sách
nêu bật những quan điểm và nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm khẳng
định chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, theo nguyên tắc tôn
trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới. Những
quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh được vận
dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp bảo
vệ, xây dựng đất nước; đồng thời trở thành cơ sở nền tảng trong quan hệ đối ngoại,
góp phần cùng với nhiều quốc gia yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xây dựng nên
“Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” trên thế giới.
Cuốn sách "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết
[181]. Tác giả mở đầu cuốn sách:
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị lỗi
lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà ngoại giao thiên
tài của dân tộc Việt Nam. Do ngoại giao luôn là một hoạt động trọng yếu
của đất nước nên để lãnh đạo hoạt động văn hóa chính trị ở tầm cao này,
Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống tư tưởng ngoại giao toàn diện và sâu
sắc [181, tr.10].
Cuốn sách đề cập đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đi vào
phân tích khái niệm ngoại giao, tư tưởng ngoại giao, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh. Từ đó phân tích cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được tác giả triển khai 4 nội
dung cơ bản, trong đó tác giả có đề cập đến tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ
bất biến ứng vạn biến”, về ngoại giao tâm công. Bám sát vào các sự kiện lịch sử
diễn ra trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, tác giả phân tích làm nổi bật lên tư
16
tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ bất biến ứng vạn biến” với tư cách coi đó là vừa
là phương pháp vừa là nghệ thuật trong ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác
giả đi vào vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay với
hai nội dung: Tổng kết đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, từ đó xác định nhiệm vụ và thách thức đặt ra cho ngoại giao Việt
Nam, vạch ra phương hướng vận dụng tư tưởng ngoại giao Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Những nội dung trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả tham
khảo, nghiên cứu.
Luận án "Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
(1965-1973)" của Phạm Hồng Chương [27]. Luận án phân tích và luận giải về chủ
trương, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng ta trên mặt trận đấu tranh ngoại
giao chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: “vừa đánh, vừa
đàm” đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật, thông qua ngoại giao, kết thúc chiến tranh
bằng đàm phán hòa bình. Ngoại giao trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén tấn công
kẻ thù; phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần làm nên
chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta.
"Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ 1945-1946" của Nguyễn Thị
Kim Dung [33] phân tích, luận giải về đường lối đối ngoại của Đảng; tư tưởng,
nghệ thuật chỉ đạo, chiến lược, sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “lợi
dụng mâu thuẫn kẻ thù”; “thêm bạn bớt thù”; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”... góp
phần giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu
mới thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
“Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pari về Việt Nam (1968-
1973)” của Lương Viết Sang [157] đã đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của Đảng chỉ đạo cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam ở Hội nghị Pari đã giành
thắng lợi, góp phần vào chiến thắng của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
"Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954” của
Đặng Văn Thái [160]. Luận án phân tích bối cảnh lịch sử năm 1945 và đường lối,
17
chính sách đối ngoại của Đảng kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, hoạt động đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1954.
Những luận án, luận văn đó đã đóng góp một phần quan trọng để làm rõ
những quan điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại, hoạt động ngoại giao và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đây đồng thời cũng là nguồn tài liệu để tác
giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.
Một số bài báo, tạp chí liên quan đến ngoại giao:
"Hồ Chí Minh với "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"" của Phạm Hồng Chương,
Phùng Đức Thắng [28]. Hai tác giả viết: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” câu nói ấy là
tổng quan phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh mà Người đã thực hiện trong suốt
cuộc đời cách mạng của mình và cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá của cách
mạng Việt Nam. Trong bối cảnh lúc đó điều bất biến ở đây chính là vấn đề dân
tộc… Còn vạn biến là hàng loạt chủ trương sách lược đấu tranh trong những tình
huống cụ thể. Và qua thực tế hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các luận điểm
của Người cho thấy, muốn đạt tới cái bất biến trong mục tiêu cần phải ứng vạn biến
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
""Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chiến lược trong tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết [180]. Tác giả viết: Thực tiễn chứng minh, sự
đúng - sai trong việc tập hợp lực lượng luôn là một nhân tố quyết định sự thành -
bại của cuộc đấu tranh. Với mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo
nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm ra phương
pháp xác định bạn - thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương cách đạt trình độ
nghệ thuật. Theo tác giả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả các
phương pháp, chủ trương khác nhau, trong đó chủ trương “thêm bạn, bớt thù” trong
đấu tranh cách mạng vẫn là một viên ngọc lấp lánh trong di sản tư tưởng của Người.
Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân
tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, phải coi đó là
một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị. Bài
báo là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả khi đi vào nghiên cứu phương pháp
“thêm bạn, bớt thù” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
18
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách, tạp chí khác nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến ngoại giao, phương pháp ngoại giao.
1.1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay
Cuốn "Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
của Nguyễn Phú Trọng [174] là công trình tổng kết thực tiễn một số lĩnh vực chủ
yếu qua hai mươi năm đổi mới, trong đó có lĩnh vực ngoại giao, làm rõ những thành
tựu và hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn
và bổ sung phát triển đường lối đổi mới ở Việt Nam. Về vấn đề nâng cao năng lực
và sức chiến đấu của Đảng, tác giả khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng.
Trong cuốn "Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương theo đường lối đổi mới của Đảng" của Đinh Xuân Lý [123] đã đề cập quá
trình Việt Nam thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước, hội nhập khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương theo đường lối, chủ trương đổi mới đối ngoại của Đảng. Đồng
thời, từ thực tiễn quá trình hội nhập khu vực rút ra một vài kinh nghiệm có ý nghĩa
tham khảo cho công tác đối ngoại trong thời gian tới.
Cuốn "Việt Nam - Thế giới và hội nhập" của Vũ Dương Ninh [150] nhấn
mạnh đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua 60 năm chiến đấu và xây dựng, về
quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đồng thời, cuốn sách là công trình nghiên cứu về lịch
sử cận - hiện đại và lịch sử quan hệ quốc tế.
Trong cuốn "Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội
nhập quốc tế" của Bộ Ngoại giao, Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao [21], các tác
giả đã nghiên cứu và khái quát được một số vấn đề về tư tưởng đối ngoại, phương
pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh; Về việc vận dụng tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời
kỳ 1945-1975 và thời kỳ mới. Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị về tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Mặc dù có
nhiều đóng góp, nhưng nhìn chung, kết quả nghiên cứu còn mang tính khái lược,
19
chưa có chiều sâu, chưa thật sự bao quát trên tất cả các nội dung tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay" của tác giả Đặng Văn Thái [162] đã phân tích,
luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, nêu rõ sự vận dụng vào công
cuộc đổi mới đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ
hiện nay...
Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại
giao Việt Nam", tập 1 của Vũ Dương Huân [83] đã nêu tư tưởng đối ngoại, phương
pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả phân
tích những thay đổi lớn của tình hình thế giới, những nét mới của ngoại giao Việt
Nam. Tác giả đưa ra những yêu cầu đang đặt ra cho ngoại giao Việt Nam. Từ đó,
theo tác giả để giải quyết các vấn đề trên cần có những luận giải mới tư tưởng đối
ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Tác
giả mới dừng lại ở nêu phương hướng giải quyết mà chưa đi vào vận dụng tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.
Cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại giao
Việt Nam", tập 2, của tác giả Vũ Dương Huân [84]. Trong phần 1 và phần 2 của
cuốn sách, tác giả phân tích khá sâu sắc chính sách đối ngoại Việt Nam trước đổi
mới và chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế. Tác giả khẳng định sau khi triển khai đường lối đối ngoại đổi mới, chúng ta
đã thu được nhiều thành tựu to lớn về đối ngoại. Tuy nhiên trong công tác ngoại
giao còn có những tồn tại. Từ đó tác giả nêu những bài học kinh nghiệm rút ra về
ngoại giao trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại.
Cuốn "Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020" của Phạm Bình
Minh [140] là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài KX.04.03/06-16: “Xu thế
phát triển của cục diện thế giới đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại
của Việt Nam”. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại; lợi ích quốc gia, dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam; trường
phái ngoại giao Việt Nam, về độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; về xác lập lòng tin
20
trong quan hệ quốc tế và định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020; đề
ra một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế; hiệu
quả hội nhập quốc tế; vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế mà Việt Nam
tham gia.
"Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới" của Phạm
Bình Minh [141] (chủ biên) là cuốn sách tập hợp các công trình của các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực đối ngoại nhằm luận giải nội hàm các chủ trương, định hướng
quan trọng của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những
phát hiện mới trong tư duy đối ngoại của Đảng ta qua những văn kiện của Đại hội
XI, ngoài ra các tác giả còn đưa ra các cách tiếp cận và phương pháp triển khai mới
để đạt được các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất
nước… Trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động đối ngoại trên một số lĩnh vực, các
tác giả cũng đề xuất một số phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả công tác đối ngoại, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết XI của Đảng.
Những tư liệu trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả nghiên cứu làm rõ sự vận
dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng trong thời kỳ mới.
Nội dung cuốn "Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới" của
Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [62] trình bày về đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng trong 25 năm (từ 1986). Cuốn sách bao gồm 4 nội dung chính: Cơ sở
hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng; Những nội dung chủ yếu trong chính
sách đối ngoại; Quá trình triển khai chính sách đối ngoại; Kết quả, bài học kinh
nghiệm trong hoạt động đối ngoại. Đây là nguồn tài liệu để tác giả tiếp cận, tham
khảo, kế thừa, đi vào giải quyết phần thực trạng vận dụng phương pháp ngoại giao
của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Trong cuốn "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của
Nguyễn Hoàng Giáp [63] đã đề cập tới những vấn đề có tính thời sự của nền chính
trị quốc tế hiện nay như xu thế toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa các nước lớn, chống
chủ nghĩa khủng bố, trật tự thế giới mới…Cuốn sách cho thấy một bức tranh đa
dạng về nền chính trị của từng nước nói riêng cũng như cả thế giới nói chung. Đồng
thời, trong cuốn sách các tác giả cũng đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm đổi
21
mới và tăng cường chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu
sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại và ngoại giao
trong giai đoạn hiện nay.
Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của
Đảng, Nhà nước Việt Nam" của Phạm Thành Dung, Nguyễn Thị Thúy Hà và Phạm
Thanh Hà [34], các tác giả đi vào nghiên cứu nhiều nội dung khác nhau, trong đó đi
sâu phân tích đặc điểm và xu hướng phát triển của thế giới, tình hình trong nước.
Việc phân tích những đặc điểm này có giá trị sâu sắc, là căn cứ, cơ sở để Đảng và
Nhà nước định đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự do, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế trong giai đoạn mới.
Cuốn "Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)" của Vũ Dương
Ninh [153] là cuốn sách trình bày những nét cơ bản về đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước qua từng giai đoạn, bối cảnh quốc tế và trong nước
dẫn đến các sự kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại để từ đó rút ra những nhận
định chung và những bài học kinh nghiệm. Do cuốn sách chỉ tập trung vào những
vấn đề đối ngoại nên những vấn đề khác như quân sự, kinh tế, văn hóa… chỉ được
đề cập những nét lớn để phác họa bối cảnh chung của lịch sử trong từng giai đoạn.
Cuốn sách giúp tác giả có được cái nhìn tổng quát về tình hình thế giới và trong
nước, từ đó đi vào nghiên cứu, bước đầu mạnh dạn đưa ra những định hướng vận
dụng phương pháp ngoại giao trong thời kỳ mới.
Cuốn sách "Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay" của Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh [64], thuộc đề
án: Nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công cuộc đổi mới
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đề án luận giải về mối quan hệ biện chứng của
hai mặt đối lập là độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các tác giả đã tập trung phân tích và trình bày quan điểm
về việc xử lý hài hòa mối quan hệ đó trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Việt
Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế, nhưng đồng thời vẫn kiên định đường
lối độc lập tự chủ.
22
Trong cuốn "Nguyên tắc, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận
dụng của Đảng ta" của Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị Thanh Nga [122], các tác
giả cuốn sách có nêu ra 4 phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó đi vào
phân tích sự vận dụng các phương pháp đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới với 4 nội dung: Một là, Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; Hai là, Đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối
ngoại trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; Ba là, Đường lối đối
ngoại phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc; Bốn là, Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Từ quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng qua 30
năm đổi mới, các tác giả nêu thành tựu và rút ra bài học kinh nghiệm, nêu một số
kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng trong
giai đoạn tiếp theo.
Cuốn "Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường lối đối ngoại Đại hội
toàn quốc lần thứ XI của Đảng" của Phạm Bình Minh [143] gồm một số bài viết
quan trọng của tác giả được triển khai theo 3 phần chính: Đường lối, chính sách đối
ngoại của Đại hội lần thứ XI; Trên đường triển khai Đại hội lần thứ XI; Phát huy
truyền thống đường lối ngoại giao trong tình hình mới.
Những công trình này đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong quan
hệ quốc tế nói chung và các sự kiện ngoại giao cụ thể của Việt Nam, những nhận
định, bình luận, dự báo là cơ sở giúp cho Đảng ta xây dựng chính sách đối ngoại
thích hợp với từng nước, từng đối tượng cụ thể. Những nội dung mà tác giả đề cập
đến là tài liệu nghiên cứu có giá trị trong việc đánh giá những bài học thành công và
rút ra kinh nghiệm triển khai công tác đối ngoại của đất nước kể từ sau Đại hội
Đảng lần thứ XI.
Luận án “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ
1986-1996” của Vũ Quang Vinh [185] trình bày đường lối và hoạt động đối ngoại
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đầu đổi mới (1986-1996), phân tích
tình hình kinh tế, chính trị thế giới, tiếp tục đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986-1996, phát triển và mở
rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thành tựu và kinh nghiệm
23
hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 10 năm
đổi mới (1986-1996).
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ quốc tế được công bố trên các tạp chí, các kỷ yếu đề tài khoa học các cấp, kỷ yếu
các hội thảo khoa học về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó còn có những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ của một quốc gia được đông
đảo học giả trên thế giới để tâm nghiên cứu. Theo con số thống kê, cho đến nay đã
có trên 350 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm bài tạp chí, hàng
ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn học, Triết học, Tâm lý học, Văn
hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn, đặc biệt là nhiều chính
khách, tướng lĩnh trên thế giới... viết về Hồ Chí Minh. Năm 1987, Hồ Chí Minh
được tổ chức Văn hóa Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết
khuyến cáo các quốc gia thành viên, tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí
Minh: Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, ghi nhận và tôn vinh
những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại.
Nói về chủ đề Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao, nhà đàm phán mềm dẻo, khôn
khéo và kiên quyết, đã có một số công trình đề cập đến, nhưng chỉ là một chương
hoặc một phần trong công trình, tác phẩm, mà dường như không thấy có công trình,
tác phẩm nghiên cứu mang tính chuyên khảo. Ví dụ, trong cuốn Hồi ký của mình,
N. Khơrútxốp dành một mục Hồ Chí Minh, để nói về người lãnh tụ giản dị, khiêm
nhường, nhưng hết sức thông minh, kiên trì và mềm mỏng. Những đức tính đó được
thể hiện qua phong cách ứng xử của Người tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công
nhân quốc tế ở Mátxcơva (1960), đã làm cho Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên
Xô - N. Khơrútxốp hết sức kính nể. Ông đã gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Thánh
cộng sản.
Một số tác giả khác như: Jean Sainteny với tác phẩm: "Face à Ho Chi Minh
(Đối diện Hồ Chí Minh)" [154 ]; Singô Sibata: "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng", trong
quyển “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” [158], X.
Aphônhin, E Côbêlép: "Đồng chí Hồ Chí Minh" [29], Furuta Matoo: "Hồ Chí Minh
24
giải phóng dân tộc và đổi mới" [60]... đi sâu nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của
Hồ Chí Minh, trong đó có dành một dung lượng khá lớn để đề cập đến tư tưởng,
hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh.
1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC LÀM RÕ TRONG LUẬN ÁN
1.2.1. Những vấn đề đã được đề cập và tiếp tục đặt ra
Các công trình khoa học trên đây đã phân tích, đề cập nhiều khía cạnh khác
nhau liên quan trực tiếp tới những nội dung mà đề tài mà nghiên cứu sinh dự định
nghiên cứu như: Khái niệm ngoại giao, đối ngoại, phương pháp ngoại giao; phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; các công trình đã nghiên cứu một số phương pháp
ngoại giao, tuy nhiên chưa đầy đủ. Những vấn đề liên quan tới sự vận dụng của
Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng để hoạch định đường lối đối ngoại, chính
sách ngoại giao; định hướng ngoại giao trong thời gian tới...
Tuy nhiên, trong các công trình trên chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu, làm rõ một cách đầy đủ hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và
vận dụng các phương đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh, khi mà tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt
vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở khu vực Biển Đông đang có những diễn
biến hết sức phức tạp vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường, ảnh hưởng trực
tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi
vậy, việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - đề tài mà tác giả dự định thể hiện
chính là muốn góp một phần vào việc bổ sung những kết quả của các công trình
nghiên cứu trước đó. Đề tài sẽ là công trình có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn
hiện nay về công tác ngoại giao.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết
Từ tổng quan nghiên cứu đề tài, tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu vào các
vấn đề sau:
- Hệ thống nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Các phương
pháp đó là: Dĩ bất biến ứng vạn biến; Biết thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù; Lợi
25
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; Phương pháp dự
báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao tâm công; Kết hợp đấu tranh chính trị, quân
sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng;
Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
giành thắng lợi.
- Sự vận dụng và phát triển sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, bao gồm:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh trong việc đề ra đường lối, chính sách ngoại giao trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập.
+ Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, phân tích, đánh giá
những thành tựu và bài học kinh nghiệm quá trình thực hiện chiến lược, sách lược
ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Tiếp tục vận dụng nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao theo phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực ngoại giao, Hồ
Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là
một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam,
là hệ thống các quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế, về đường
lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta; là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và khoa học quan hệ quốc tế
vào điều kiện Việt Nam; tư tưởng về ngoại giao bao hàm cả phương pháp, phong
cách, nghệ thuật ngoại giao, là ngọn đuốc soi đường cho hoạt động đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
Thấy được tầm quan trọng của tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay, tác giả lựa
chọn vấn đề này để nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu các công trình khoa học
26
của các nhà nghiên cứu, có thể khẳng định có khá nhiều công trình về tư tưởng đối
ngoại, ngoại giao Hồ Chí Minh. Đã có một số cuốn sách đặt vấn đề và đề cập ít
nhiều về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng các phương
pháp đó trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy chưa có công trình
nào hệ thống lại các phương pháp ngoại giao đầy đủ nhất và chưa đi sâu nghiên
cứu về sự vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh, khi mà tình hình thế giới và khu
vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó
lường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây chính là cơ
sở để xác định nhiệm vụ nghiên cứu và là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu
sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ cho việc nghiên cứu, hoàn thành luận
án của mình.
27
Chương 2
HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1.1. Khái niệm Ngoại giao
Đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng biệt tuy gắn bó chặt chẽ với
nhau, nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định. Đối ngoại là toàn bộ mục tiêu, nhiệm
vụ, phương hướng, nguyên tắc, phương châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi
trong quan hệ với các quốc gia khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế
nhằm phục vụ cho lợi ích của quốc gia.
Cùng với đối ngoại, ngoại giao là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, được
các nhà khoa học nghiên cứu đưa ra từ lâu, đến hiện nay có nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm “Ngoại giao”.
Ở nước ngoài: Từ “ngoại giao” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “diploma”
với nghĩa là giấy chứng nhận, giấy ủy quyền mà sứ giả nước này trao cho người phụ
trách công tác ngoại giao của quốc gia đó với các nước khác. Từ đó xuất hiện từ
“diplomacy” với nghĩa là ngoại giao [86, tr.13].
Từ điển tiếng Anh Oxford định nghĩa: “Ngoại giao là việc tiến hành quan hệ
quốc tế bằng cách đàm phán, là phương pháp mà các đại sứ, công sứ... sử dụng để
điều chỉnh và tiến hành các quan hệ đó, là công tác hoặc nghệ thuật của nhà ngoại
giao” [146, tr.15]. Tác giả Garden trong Giáo trình môn ngoại giao cho rằng:
“Ngoại giao là khoa học về quan hệ đối ngoại”, còn theo nghĩa hẹp: “Ngoại giao là
đàm phán chính thức” [146, tr.11]. Từ điển Le Nouveau Petit Robert của Pháp đưa
ra định nghĩa: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ
giữa các quốc gia” [96, tr.649]. Đại Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô ghi:
“Ngoại giao là hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ và
của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại, nhằm thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của chính sách đối ngoại của quốc gia cũng như nhằm bảo vệ quyền lợi
quốc gia ở nước ngoài” [97, tr.359]. Cuốn Từ điển ngoại giao của Liên Xô do Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô (giai đoạn 1957-1985) A.A.Gromyko chủ biên định
nghĩa: “Ngoại giao là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng
28
thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ thuật được sử dụng có
tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động chính thức
của người đứng đầu nhà nước, chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ quan
đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu các hội nghị quốc tế nhằm thực
hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi
ích quốc gia, pháp nhân và công dân của mình ở nước ngoài. Đồng thời, ngoại giao
là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn, hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm
cách thỏa hiệp và đưa ra những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như
việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế'’ [179, tr.327].
Ở Việt Nam: Trong Từ điển tiếng Việt viết “Ngoại giao là sự can thiệp với
nước ngoài để bảo vệ quyền quốc gia mình và để góp phần giải quyết những vấn đề
quốc tế chung” [184, tr.683].
Các tác giả Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao nêu
nhận thức:
Ngoại giao là một khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của
những khả năng, là hoạt động của những cơ quan làm công tác đối ngoại
và các đại diện có thẩm quyền, là công tác đối ngoại của nhà nước, bảo
vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên
thế giới, góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung bằng con
đường đàm phán và các hình thức hòa bình khác [74, tr.19-20].
Trong “Ngoại giao và công tác ngoại giao”, tác giả cuốn sách đề cập đến
khái niệm ngoại giao:
Ngoại giao - công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia - được
hiểu là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ
thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu,
nhiệm vụ; là hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính
phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước
ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu
và chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia,
pháp nhân và công dân mình ở nước ngoài. Ngoại giao là nghệ thuật đàm
phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách
29
thỏa hiệp và những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như
việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế. Lãnh đạo hoạt động ngoại giao
của quốc gia là Chính phủ, trước hết trực tiếp của Bộ Ngoại giao. Ngoại
giao bất cứ quốc gia nào đều mang tính giai cấp. Nội dung, nguyên tắc,
mục đích, nhiệm vụ của ngoại giao do chế độ kinh tế - xã hội của quốc
gia quyết định và lợi ích giai cấp cầm quyền chi phối đường lối đối ngoại
của quốc gia [86, tr.20-21].
Như vậy có thể thấy có nhiều cách hiểu khác nhau về ngoại giao. Từ những
cách tiếp cận trên có thể rút ra một số nhận xét như sau về ngoại giao: Là hoạt động
của nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao là công cụ quan trọng nhất, công
cụ hòa bình thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia; Là tất cả các cơ quan
chuyên trách về quan hệ đối ngoại ở trung ương cũng như ở nước ngoài và những cán
bộ làm công tác ngoại giao nhà nước; Là nghề nghiệp của các nhà ngoại giao; Là
khoa học và nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật đàm phán; Mang tính giai cấp sâu sắc.
2.1.2. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
Để nghiên cứu phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là gì? Trước hết cần
tìm hiểu phương pháp là gì? Phương pháp Hồ Chí Minh là gì?
Phương pháp thực chất là những cách thức mà con người thực hiện các mục
tiêu đã định sẵn, là sự phù hợp giữa hoạt động chủ quan có hướng đích của con
người với quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Trong “Phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh”, tác giả cuốn sách nêu khái niệm về phương pháp:
Phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các
nguyên tắc xuất phát từ các quy tắc tồn tại và vận động của đối tượng,
khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động vào đối
tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định [100, tr.24-25].
Về phương pháp Hồ Chí Minh, trong cuốn “Một số vấn đề phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh”, tác giả Song Thành đưa ra khái
niệm phương pháp:
Phương pháp là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực, cách thức điều chỉnh
nhận thức và hoạt động của con người trong việc tiếp cận lý luận và khảo
30
sát thực tế. Phương pháp hình thành tư lý luận, nhưng không phải một
chiều. Lý luận đẻ ra phương pháp, phương pháp tác động trở lại lý luận,
làm cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới; đến lượt nó, lý luận
mới lại đẻ ra phương pháp mới [165, tr.28].
Trong cuốn “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh”, cũng đã đề cập đến
phương pháp Hồ Chí Minh:
Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp ở tầm tư tưởng, lý luận, thể
hiện sự nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn trong các lĩnh vực hoạt
động của Người, lý luận hóa thực tiễn gắn liền với thực tiễn hóa lý luận.
Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện một trình độ tư tưởng mà
còn là năng lực và bản lĩnh sáng tạo văn hóa, với tầm nhìn rộng lớn, dự
báo sáng suốt và ứng xử linh hoạt, tinh tế [9, tr.12-13].
Từ nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh sẽ đi đến tìm hiểu phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh. Vậy phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là gì?
Ngoại giao muốn đạt được mục đích thì phải có phương pháp. Trong toàn bộ
cuộc đời hoạt động ngoại giao của mình, Hồ Chí Minh thường xuyên xác định
đường lối cách mạng đúng đắn và lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp.
Đường lối quyết định phương pháp, phương pháp lại đưa đường lối vào cuộc sống,
thể hiện đường lối trong hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động ngoại giao, phương pháp đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Bởi
lẽ, môi trường hoạt động ngoại giao là thế giới không ngừng biến đổi, không ngừng
vận động, cần phải có những cách thức đánh giá, nhận định, dự báo tình hình thế giới
một cách khoa học, năng động. Sự thay đổi của tình hình đòi hỏi phải có phương pháp
mới. Mặt khác, do đối tác của ngoại giao đa dạng và phức tạp, cần có sự linh hoạt, chủ
động và sáng tạo trong việc lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng. Hồ
Chí Minh với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, đã xác định đường lối và
phương pháp cách mạng chủ yếu trong hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động ngoại
giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định được đường lối và phương pháp ngoại giao
phong phú và đa dạng góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng của Người, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ngoại
31
giao vừa là khoa học, ứng xử, giao tiếp, đàm phán, vừa là chính trị. Ngoại giao
muốn đạt mục đích đề ra phải có phương pháp.
Đánh giá về tầm quan trọng của phương pháp hoạt động chính trị, đồng chí
Trường Chinh khẳng định:
Lịch sử phát triển cách mạng thế giới cho thấy một phong trào nào đó có
khi bế tắc, không lối ra, thậm chí thất bại, không phải vì không có mục
tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không phải không tổ chức được lực
lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng và hình
thức đấu tranh thích hợp [26, tr.149].
Đối với Hồ Chí Minh, phương pháp ngoại giao được thể hiện rất đa dạng,
phong phú. Đó là Phương pháp Dĩ bất biến ứng vạn biến; Thêm bạn bớt thù; Vừa
đánh, vừa đàm; Biết thắng từng bước; Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
trong đấu tranh ngoại giao; dự báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao công tâm; Phối
hợp các lĩnh vực, trước hết là chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo sức mạnh tổng
hợp cho đấu tranh ngoại giao...
Như vậy, có thể hiểu: Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là bộ phận rất
quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bao gồm một hệ thống các
cách thức, các phương thức khác nhau để giải quyết các vấn đề trong quan hệ
quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng
Việt Nam.
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh không đồng nhất với những quan
điểm, quan niệm trong ngoại giao Hồ Chí Minh mà từ những quan điểm đó để đưa
ra những cách thức xử lý tình huống, vấn đề cụ thể. Ngoại giao muốn đạt được mục
đích thì phải cần có phương pháp. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nét đặc
sắc trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần tạo nên bản sắc của nền ngoại
giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh đã phát
huy hiệu quả to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Mặc dù, việc vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh trong hoạch định đường lối ngoại giao và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong
32
hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song chúng ta vẫn đạt được những thành
tựu cơ bản, quan trọng.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hai nhiệm vụ
đó có sự liên quan mật thiết với nhau, có mối quan hệ khăng khít, chi phối mọi
hoạt động và lĩnh vực của đời sống xã hội đất nước. Xây dựng Tổ quốc giàu mạnh
trên các phương diện sẽ là điều kiện hết sức cơ bản để bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện trọn vẹn, tạo lập môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển đất nước. Thực hiện hài hòa và tốt đẹp hai nhiệm vụ chiến
lược này sẽ hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam hiện nay có nghĩa là vận dụng những cách thức xử lý tình huống,
vấn đề cụ thể ở lĩnh vực ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhằm mục tiêu xây dựng, thúc đẩy phát triển
các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,...
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo.
Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Dĩ bất biến ứng vạn biến
Ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng - người vừa được ủy nhiệm làm quyền Chủ
tịch nước: Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó
khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong Cụ dĩ bất biến ứng vạn biến.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” vừa là phương châm, vừa là phương pháp có tính
nguyên tắc trong hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh. Phương pháp này xuất
phát từ tư duy triết học phương Đông “lấy cái không thể thay đổi để ứng phó với
muôn sự thay đổi”, hay lấy cái bất biến để ứng với cái vạn biến. Hồ Chí Minh đã
33
kết hợp hài hòa triết lý phương Đông với phép biện chứng duy vật mácxit. Điều
“bất biến” trong phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh là lợi ích dân tộc, mục
tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, lý tưởng của cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình đấu tranh trên các phương diện, đặc biệt là trong
đấu tranh ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, để đạt được những mục tiêu
cơ bản là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đánh giá đúng tình hình
quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một
cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Người chỉ ra rằng: “Mục đích
bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của
ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” [132, tr.555].
Phương pháp ngoại giao "Dĩ bất biến ứng vạn biến" được vận dụng một cách
linh hoạt trong đấu tranh đàm phán với kẻ thù. Khi đàm phán với kẻ thù, Hồ Chí
Minh luôn giữ nguyên tắc bất biến là: độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, quyền cơ bản của dân tộc, đó là những thứ
không thể đổi chác, không thể nhân nhượng. Nguyên tắc đó được thể hiện bằng
quyết tâm: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập, nước có độc lập" [65, tr.196]. Để đảm bảo nguyên tắc “bất biến” phục
vụ cho mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Trước hết là phải giành
cho kỳ được độc lập, tất cả cho độc lập, "không có gì quý hơn độc lập tự do" [139,
tr.131]. Nhưng khi có độc lập rồi phải xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại tự do
hạnh phúc cho nhân dân. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có độc lập mà dân không
được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.
Hòa bình, độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân
là mục tiêu đấu tranh và phấn đấu của mọi người Việt Nam. Nhưng con đường đi
đến mục tiêu đó là con đường dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có sự phấn
đấu, hy sinh của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách mạng
phải đối phó với muôn vàn biến đổi, đòi hỏi người cách mạng phải sáng suốt, tỉnh
táo, nhạy bén để thay đổi cách thức ứng phó với những điều kiện lịch sử mà cuộc
34
đấu tranh đặt ra. Chiến lược, sách lược cách mạng phải linh hoạt, phù hợp: "ứng
vạn biến" trong mỗi thời điểm, điều kiện nhất định sao cho đạt được mục tiêu cuối
cùng đã xác định. Phương pháp "Dĩ bất biến ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh hoàn
toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong đấu tranh cách
mạng phải giành cho được thắng lợi để từng bước tiến lên, nhưng không phải chỉ
biết mục tiêu trước mắt mà quên mục tiêu lâu dài, cũng không thể hy sinh mục
tiêu lâu dài chỉ vì những mục tiêu trước mắt. Trong đấu tranh ngoại giao, có
những lúc cần thỏa hiệp, nhân nhượng, nhưng thoả hiệp phải có nguyên tắc, không
được rời bỏ những vấn đề có tính nguyên tắc khi thương lượng với kẻ thù. Có
nghĩa là phải xác định giới hạn của nhân nhượng trong ngoại giao, đó là không
được làm tổn hại đến chủ quyền của quốc gia và lợi ích dân tộc. Năm 1946, Đảng
ta khẳng định “Tạm ước ngày 14 tháng 9 là một bước nhân nhượng cuối cùng.
Nhân nhượng nữa là vi phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng
của dân tộc” [45, tr.148]. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kiên quyết đấu
tranh để có “ngoại giao riêng”, vì “nếu quân đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới
quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp”
[139, tr.494].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta để đạt được những mục tiêu cơ
bản là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đánh giá đúng tình hình
quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một
cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Căn cứ vào thực lực cách
mạng và tương quan lực lượng trong những thời điểm nhất định, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra những hình thức đấu tranh thích hợp,
những sách lược phù hợp để tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được trên
trường quốc tế, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” được thể hiện ở nỗ lực tìm kiếm những cơ hội hòa bình trong mối quan hệ với
Pháp... của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám. Điều đó
cũng đã thể hiện rõ lập trường có tính nguyên tắc của nước ta trong giữ gìn nền độc
lập, hòa bình cho dân tộc, tránh nguy cơ chiến tranh. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946,
35
Tạm ước 14/9/1946 được ký với Pháp trước thời điểm ta buộc phải kháng chiến
toàn quốc khi cơ hội hòa bình cuối cùng không còn nữa là minh chứng điển hình.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” còn là sự linh hoạt mềm dẻo trong sách lược
nhưng cũng phải thể hiện thái độ kiên quyết và biết tận dụng mọi cơ hội để tấn công
ngoại giao. Tháng 1-1966 trong thư gửi một số nước có liên quan đến Hiệp định
Giơnevơ, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ Mỹ phải tuyên bố công nhận lập trường
bốn điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chứng tỏ điều đó
bằng những việc làm thực sự” [138, tr.665]. Tháng 1 năm 1947, trong thư gửi tướng
Leclerc, Hồ Chí Minh thể hiện thái độ quyết tâm và kiên quyết trong việc giải quyết
vấn đề Việt Nam với Pháp “Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp,
cộng tác thành thực với nước Pháp và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hóa Pháp
trong nước chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc
lập và thống nhất quốc gia” [129, tr.65].
Trên thực tế, Hồ Chí Minh cũng đã biết tận dụng mọi cơ hội để mở mặt
trận ngoại giao tấn công kẻ thù. Ngay sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng
ta đã tiến hành ngay việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, lợi dụng phong trào phản
đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong những năm từ
1954-1960, Người chỉ đạo tích cực vận động quốc tế mở mặt trận ngoại giao,
chủ động đấu tranh ngoại giao và coi đây là một bộ phận quan trọng trong đấu
tranh cách mạng.
Nhìn nhận kết quả Hiệp định Giơnevơ, đánh giá về tương quan so sánh lực
lượng thời điểm đó, thấy rằng phương châm, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” đã được Hồ Chí Minh và Đảng vận dụng hết sức sáng tạo, linh hoạt để giành
thắng lợi. Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sự hi sinh mất mát và phải nhân
nhượng để có được hòa bình ở miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ. Nhưng nhờ cái
“vạn biến” đó mà cách mạng Việt Nam có điều kiện xây dựng hậu phương miền
Bắc, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ ở miền Nam và sau này
trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong bức thư gửi Tổng
thống Mỹ ngày 15-12-1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất
thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình... con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là
36
Mỹ phải chấm dứt xâm lược…; phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền
Nam Việt Nam” [139, tr.301].
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mỹ, nguyên tắc này luôn
được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam vận dụng để chủ động đàm
phán để đưa lại chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam vào năm 1975.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” không chỉ được vận dụng trong thực hiện ngoại
giao với các nước xâm lược Việt Nam trong quá trình tiến hành cách mạng mà còn
được thực hiện trong quan hệ ngoại giao với các nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa và các nước khác trên thế giới. Hồ Chí Minh luôn có một nhận thức sâu sắc
về nhân tố quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người không chỉ đấu tranh
cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho các dân tộc khác. Theo Hồ Chí Minh, cần
phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thành lập nên mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam chống xâm lược, góp phần đưa mục tiêu cách mạng đi tới thắng lợi
cuối cùng.
Tóm lại, phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt, xử lý thành công nhiều tình huống,
nhiều sự kiện có tính phương pháp luận trong hoạt động ngoại giao của Người, góp
phần đưa ngoại giao Việt Nam từng bước tạo thế và lực làm thay đổi cục diện chiến
tranh và tương quan lực lượng có lợi cho ta. "Dĩ bất biết ứng vạn biến" không chỉ là
một phương châm hành động, mà là hạt nhân phép biện chứng Hồ Chí Minh, trên
cơ sở đó xử lý linh hoạt, hiệu quả mọi tình huống nhiệm vụ đặt ra.
2.2.2. Phương pháp biết thắng từng bước
Biết thắng lợi từng bước là một trong những phương pháp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh. Phương pháp này được thể hiện rõ nhất trong đấu tranh giành chính
quyền, trong giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Lê Duẩn cho rằng:
Biết thắng từng bước cho đúng có nghĩa là ở mỗi thời kỳ nhất định hay
mỗi tình thế nhất định, biết đề ra được mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết
37
dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển cuộc đấu tranh thế nào để
thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa, mở đường cho cách
mạng tiến lên những bước mới cao hơn và tạo ra triển vọng chắc chắn
nhất cho thắng lợi cuối cùng [32, tr.565-566].
Phương pháp biết thắng từng bước có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác -
Lênin, đó là quan điểm phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt. Trong tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam thường phải đối phó với kẻ
thù mạnh hơn mình như: Các triều đại phong kiến Trung Hoa, thực dân Pháp, quân
phiệt Nhật và đế quốc Mỹ. Cũng có khi chúng ta cũng phải đối phó với nhiều kẻ thù
cùng một lúc như giai đoạn 1945-1946. Do vậy, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh, phương pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất là giành thắng lợi từng bước để đi
tới giành thắng lợi hoàn toàn [83, tr.45].
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, giành thắng lợi trước quân xâm lược,
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối
độc lập tự chủ, sáng tạo, và đã lãnh đạo quân và dân nắm vững tư tưởng chiến lược
tiến công, đánh thắng địch từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn. Trong cách mạng giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành
thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh,
tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 năm 1946 thể hiện rất rõ phương pháp
giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao. Trên cơ sở giữ vững độc lập tự
chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động kiên quyết và khôn khéo, luôn hướng đích,
việc nhân nhượng này cho phép cách mạng trong những thời điểm nguy nan của đất
nước biến nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có
lợi cho cách mạng. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững quy luật
cách mạng, nắm vững thời và thế, từ đó giành thắng lợi từng bước, đi từ nhỏ đến
lớn, từ thấp đến cao và đi tới thắng lợi cuối cùng.
Thắng lợi ở Hội nghị Giơ-ne-vơ là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao
bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc
lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
38
của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi,
tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp lúc đó.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng
Cộng sản Việt Nam dự tính cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện
thực lực của cách mạng Việt Nam lúc đó. Đảng đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về
chính trị, dựa vào sức mạnh to lớn là lực lượng chính trị của quần chúng. Và thực tế
lịch sử chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng.
Căn cứ vào thắng lợi quân sự hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và trên cơ
sở thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cách mạng
Việt Nam đã chủ động mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và
chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, mở ra giai
đoạn "vừa đánh vừa đàm". Thực hiện phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra là đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào và để biến phương
hướng chiến lược đó thành hiện thực, đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến
công quân sự, trong quá trình đàm phán chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam
một chính quyền liên hiệp ba thành phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp
buộc phía Mỹ phải chấp nhận rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu
quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính
trị với đấu tranh quân sự, đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân
trên ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực hành chiến
lược tiến công địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương
thức kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân
dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực hợp thành.
Bằng cuộc tiến công Tết Mậu Thân, cách mạng Việt Nam đã giáng cho địch
một đòn chí mạng, buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném
bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm". Đây
là thắng lợi bước đầu, nhưng có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần làm cho
hậu phương thêm vững chắc, tiềm lực cách mạng được tăng cường và chi viện cho
chiến trường miền Nam thêm thuận lợi. Do đó yêu cầu chính của cách mạng Việt
39
Nam là giữ vững những thắng lợi mới giành được và chuyển sang đấu tranh đòi Mỹ
rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Phương pháp ngoại giao giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn
toàn là phương pháp sáng tạo phù hợp của một nước nhỏ đối đầu với một nước
lớn hùng mạnh, một quân đội nhà nghề, quân số đông, vũ khí hiện đại…Nắm
vững phương châm đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ, làm suy yếu kẻ địch, giành
thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của địch. Đó là
một thành công trong chỉ đạo chiến lược, sách lược “biết người biết ta”. Trong
từng giai đoạn đấu tranh, để đánh bại âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, Đảng Cộng
sản Việt Nam, trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học, phân tích rõ những điểm
mạnh yếu của địch và của ta để đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cho phù hợp. Đảng đã
quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công cho toàn quân, toàn dân, liên tục tiến công
địch, liên tục tạo lực, tạo thế, nắm vững thời cơ, đánh bại từng biện pháp và kế
hoạch chiến lược của địch. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là những nét đặc
sắc trong nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh có giá trị sâu sắc trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của
Đảng và nhân dân Việt Nam.
2.2.3. Phương pháp thêm bạn bớt thù
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ
của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng
hộ của nhân dân thế giới” [139, tr.675]. Người đặt cách mạng Việt Nam trong quỹ
đạo cách mạng thế giới, tranh thủ tối đa các lực lượng có thể, thêm bạn, bớt thù, mở
rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ là chiến lược, nguyên tắc ngoại giao
cơ bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Phương pháp “thêm bạn, bớt thù” chỉ có thể thực hiện trên cơ sở xác định
đúng mâu thuẫn. Từ nhận thức đó sẽ giúp người cách mạng xác định đúng nhiệm
vụ, xác định chính xác những lực lượng nòng cốt của cách mạng. Với nhãn quan
chính trị sắc bén và tinh thần dân tộc cao cả, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn xã
hội bằng cách đặt các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ lên
trên hết. Từ đó, Người nhận ra mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật trong xã hội Việt Nam
40
luôn là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thế lực đế quốc xâm lược và
vì vậy, kẻ thù chính yếu của nhân dân Việt Nam là đế quốc cướp nước, áp bức bóc
lột dân ta.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt
rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” [137, tr.453]. Đó là
nguyên tắc chung của mọi cuộc cách mạng, đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu
với các kẻ thù mạnh và thâm độc thì việc làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và
nhiều bạn đồng minh hơn hết càng trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, phương pháp
thêm bạn bớt thù còn hướng tới mục tiêu lớn hơn là góp phần tập hợp lực lượng cho
cách mạng Việt Nam.
Dựa trên đặc điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn phát
triển thêm những phương cách mới để tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” của Người
được vận dụng với những chủ trương hết sức linh hoạt và phong phú như lợi dụng
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có nguyên tắc để lôi kéo đồng minh;
phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình của nước đối
phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người con của dân tộc đã lầm lạc đi
theo đế quốc... Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, “thêm bạn, bớt thù” vừa là tư tưởng,
vừa là phương pháp đã đạt tới trình độ nghệ thuật để mang lại những hiệu quả to
lớn... Điều này đã đưa Nguời trở thành một nhà ngoại giao kiệt xuất đầy trí tuệ và
bản lĩnh. Có thể hiểu phương pháp ngoại giao “thêm bạn, bớt thù” bao gồm những
nội dung cơ bản sau:
Một là: Để “thêm bạn, bớt thù” phải biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù là chủ trương, biện pháp quan trọng mà Hồ Chí Minh đã thực hiện.
Bài học về lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù để phân hóa kẻ thù sau Cách mạng Tháng
Tháng Tám năm 1945 mà Hồ Chí Minh chỉ đạo, thực hiện là một minh chứng sinh
động trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, các thế lực đế quốc Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp lợi
dụng danh nghĩa quân Đồng Minh vào tước khí giới phát xít Nhật để thực hiện
mưu đồ đen tối của chúng là bóp chết chính quyền nhân dân của Việt Nam, thành
lập chính quyền tay sai của chúng, biến nước Việt Nam thành thuộc địa của
41
chúng. Hai mươi vạn quân Tưởng vào nước ta mang theo bè lũ tay sai phản động
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội
(Việt Cách). Nhìn rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh - Pháp và Mỹ -
Tưởng, chỉ trong vòng hơn một năm, nền ngoại giao non trẻ Việt Nam dưới sự
chèo lái của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện các sách lược ngoại giao khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau như lúc thì hòa với Tưởng để tập trung chống
Pháp ở miền Nam (8-1945 đến 3-1946), lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng về
nước (3-1946 đến 12-1946).
Trước tình thế phải đối phó với nhiều kẻ thù có ưu thế hơn ta rất nhiều về
kinh tế và quân sự, Hồ Chí Minh đã thấy rõ những điểm mạnh và điểm yếu của
chúng và khẳng định: chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, chỗ yếu của chúng mới là
cơ bản. Hàng ngũ của chúng đang bị những mâu thuẫn gay gắt xâu xé, mâu thuẫn
trong việc tranh giành những thuộc địa đã mất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
với nhau và mâu thuẫn ngay trong bản thân mỗi kẻ thù. Ở Đông Dương, sự mâu
thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng là một vấn đề cách mạng
Việt Nam có thể lợi dụng.
Phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hóa chúng, để tránh phải
đối phó với nhiều kẻ thù (Tưởng, Pháp, Anh, Mỹ), Hồ Chí Minh đã đưa ra đối sách
sáng tạo, mềm dẻo, theo phương châm làm cho mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn
đồng minh hơn hết. Muốn vậy thì phải biết đàm phán, thương lượng. Theo nhận
định của Hồ Chí Minh, kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là thực
dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng và phải đặt riêng
bọn thực dân Pháp xâm lược ra một bên mà đánh, đừng bỏ cả Anh, Pháp vào một bị
và đừng coi họ là một kẻ thù ngang nhau. Đối với Anh, Mỹ, Tưởng thì tránh xung
đột, giao thiệp thân thiện. Đối với bọn tay sai của Tưởng, một mặt Hồ Chí Minh
vừa mềm dẻo thuyết phục, tranh thủ những người có xu hướng yêu nước; mặt khác
buộc bọn cầm đầu phải chấp nhận hòa hoãn, kiên quyết ngăn chặn những hành
động phá hoại của chúng.
Sau này, tại Đại hội III của Đảng (1960), Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù “là một nguyên tắc
42
chiến lược chứ không chỉ là vấn đề sách lược” [1, tr.258]. Từ đó, trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, Đảng đưa ra chủ trương: “Đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn
kết được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người
nào có thể trung lập, cốt nhằm phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng” [35,
tr.75]. Thực hiện chủ trương đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những biện
pháp khéo léo nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và các đồng minh của
họ; giữa Mỹ với các nước phụ thuộc; giữa Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam
Việt Nam... Cuối cùng, Mỹ buộc phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, đưa đến
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
Hai là: Thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, phải biết thỏa hiệp, biết nhân nhượng
để giữ vững lực lượng, lôi kéo đồng minh. Trong giai đoạn 1945 - 1946, để hòa
hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc khi cần tập trung chống Pháp ở miền Nam, Hồ
Chí Minh đã sử dụng những các biện pháp tổng hợp như tiến hành các cuộc tiếp xúc
ngoại giao với tinh thần trọng thị và chấp nhận nhân nhượng cho quân Tưởng một
số quyền lợi về kinh tế, chính trị và quân sự... Chỉ 8 ngày sau khi Tưởng và Pháp ký
Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), Hồ Chí Minh đã ký kết được Hiệp định Sơ bộ
6-3-1946 với Pháp trên tinh thần “cương quyết giữ quyền độc lập” nhưng liên minh
với Pháp, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa... để Pháp
phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta.
Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cuộc kháng chiến chống Mỹ
đã diễn ra trên mọi mặt trận. Điển hình như tại Hội nghị Pari, trong hơn 4 năm (từ
tháng 5-1968 đến tháng 10-1972), quan điểm giữa Việt Nam và Mỹ hoàn toàn đối
chọi nhau về hai vấn đề: Việt Nam đòi Mỹ rút quân và phế bỏ chính quyền tay sai
của Mỹ để nhân dân miền Nam tự lựa chọn chính quyền của mình; Mỹ đòi Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và giữ lại
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Sự đối lập gay gắt về quan điểm làm cuộc đàm
phán nhiều lúc rơi vào tình trạng “giậm chân tại chỗ”. Đến tháng 10 - 1972 do
những nhận thức mới và tính toán mới, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ chấp
nhận phương án mỗi bên nhân nhượng cho nhau một điều kiện: Việt Nam đạt được
mục tiêu số một là Mỹ rút quân; Mỹ đạt được mục tiêu là giữ lại chính quyền tay
43
sai. Việt Nam đã nhân nhượng yêu cầu số hai để đạt được yêu cầu số một là “đánh
cho Mỹ cút” để rồi tiến tới “đánh cho Ngụy nhào”. Bằng sự nhân nhượng này, ta đã
thu hẹp được lực lượng cần đánh đổ khi gạt ra khỏi miền Nam Việt Nam hàng chục
vạn lính viễn chinh Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Tổng tấn công và nổi
dậy mùa Xuân 1975. Đó là minh chứng hùng hồn cho lợi ích của sách lược nhân
nhượng, thỏa hiệp đúng đắn.
Đối với Hồ Chí Minh, nhân nhượng, thỏa hiệp lẫn nhau là điều tất yếu trong
đàm phán ngoại giao nhưng đó là sự nhân nhượng có chừng mực trong nguyên tắc
và đối phương cũng phải nhân nhượng với cách mạng Việt Nam. Muốn nhân
nhượng có nguyên tắc lại phải xác định đâu là mục tiêu, lợi ích lâu dài; đâu là lợi
ích bộ phận; đâu là nguyên tắc không thể nhượng bộ… để từ đó lựa chọn hi sinh cái
bộ phận vì lợi ích lâu dài, giành thắng lợi từng bước đi tới mục tiêu cuối cùng.
Ba là: Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh phân biệt rõ giữa nhân dân yêu
chuộng hòa bình với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của nước xâm lược
và chú ý mâu thuẫn trong giới cầm quyền của chúng.
Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Ôxtrâylia W.Bớcsét tháng 8-
1963 và tháng 4-1964, Người khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt
thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng
chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và
bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn” [138, tr.148], “chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ
với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân
dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng...” [138, tr.148]. Trong lực lượng của đối
phương thì “thêm bạn” chính là “bớt thù”, vì khi đó nhân dân Việt Nam chỉ phải
chống chính phủ hiếu chiến của Pháp và Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước
Pháp và nước Mỹ. Tương quan lực lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng
có lợi cho ta. Chủ trương đó đã làm kẻ thù bị cô lập trên thế giới và đặc biệt là ngay
trong nội bộ đất nước mình. Làm cho cả nhân loại, kể cả nhân dân nước đi xâm
lược vượt lên tình cảm dân tộc thông thường, thuần túy để trở thành bạn và ủng hộ
hết mình cho Việt Nam thì đó quả thật là kỳ tích mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã làm được.
44
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những thắng lợi của ta trên chiến
trường có ý nghĩa quyết định đối với việc chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của
Pháp. Nhưng cuộc chống đối trong nội bộ của Pháp cũng đã góp một phần không
nhỏ trong việc gây sức ép lật đổ các nội các Pháp và buộc Chính phủ Men - des
France phải hứa trước quốc hội là sẽ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Bốn là: Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh có chủ trương khoan hồng, đại
độ với những người Việt Nam đã từng làm tay sai cho thực dân, đế quốc xâm lược.
Các nước đế quốc, thực dân trong quá trình tiến hành xâm lược Việt Nam,
luôn cấu kết với lực lượng phản động trong nước, thi hành chính sách thâm độc
“dùng người Việt đánh người Việt”. Do đó, để chống chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí
Minh có chủ trương cô lập kẻ thù đế quốc bằng cách cảm hóa, lôi kéo những người
Việt lầm đường đó trở về với chính nghĩa, với dân tộc; loại bỏ phần tử tay sai của
chúng. Xuất phát từ quan điểm trên, Người chủ trương: “Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [138, tr.244]. Điều đó thể
hiện truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh
người chạy lại”. Chủ trương khoan hồng đại độ đã lôi kéo được những người lầm
đường lạc lối trở về với dân tộc, đánh bại âm mưu “chia để trị” của kẻ thù. Đây
thực sự là một phương pháp quan trọng trong đấu tranh ngoại giao của cách mạng
Việt Nam.
Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính
của dân tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện phương pháp “thêm bạn, bớt thù”,
phải coi đó là một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn
chính trị.
2.2.4. Phương pháp lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao là một
trong những phương pháp quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Người đã tiếp thu những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ đối phương từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng sáng tạo, phát triển trong thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam.
45
Trong cuốn sách “Bệnh ấu trĩ tả khuynh” trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế”, Lênin căn dặn:
Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn mình bằng một sự nỗ lực hết sức
lớn,và với một điều kiện bắt buộc là phải biết lợi dụng một cách hết sức
tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một
“rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù, bất cứ những mâu thuẫn bé
nhỏ nhất nào về lợi ích giữa giai cấp tư sản các nước, giữa các tập đoàn
hay hạng tư sản khác nhau ở trong từng nước, cũng phải lợi dụng mọi
khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về số
lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, ít chắc
chắn và ít đáng tin cậy. Người nào không hiểu được chân lý ấy thì cũng
chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác, nói chung cũng chẳng hiểu gì về chủ
nghĩa xã hội khoa học hiện đại [102, tr.68-69].
Lênin cũng nhấn mạnh:
… Phải lợi dụng những mâu thuẫn và những sự đối lập giữa hai nước đế
quốc, giữa hai nhóm nước tư bản chủ nghĩa, khích động chúng chống lại
nhau chừng nào chúng ta chưa giành được toàn thế giới, chừng nào về
hai mặt kinh tế và quân sự, chúng ta còn yếu hơn thế giới tư bản chủ
nghĩa, thì chúng ta còn phải giữ vững nguyên tắc này [103, tr.67].
Trong thư gửi cho đồng chí Sau-Mi-An, viết tháng 5-1918, Lênin viết: “Nên
biết lợi dụng những sự xung đột ấy: trong lúc này cần phải học làm ngoại giao”
[104, tr.96].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các luận điểm của
Lênin về mâu thuẫn kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao của Việt Nam. Phương pháp
ngoại giao này được thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước năm 1945, Hồ Chí Minh đã rất chú ý theo dõi mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc liên quan đến Đông Dương, tìm cách lợi dụng các mâu thuẫn đó có
lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.
46
Trong chính sách đối với Đông Dương, thái độ giữa Mỹ và Anh - Pháp có
khác nhau. Tại Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ Liên Xô, Mỹ,
Anh tại Têhêran tháng 11-1943, khi bàn về các vấn đề thuộc địa sau chiến tranh,
Tổng thống Mỹ Rudơven đã tán thành ý kiến của Stalin là không cho Pháp tái lập
chế độ thuộc địa ở Đông Dương và đề nghị lập chế độ thác quản và sau đó trao trả
độc lập khi điều kiện chín muồi như mô hình Philippin.
Từ tình hình trên, Hồ Chí Minh quyết định phải tiếp cận với Mỹ, tranh thủ sự
đồng tình của Mỹ, vì Chính phủ Mỹ gây khó khăn cho Pháp thiết lập lại chế độ
thuộc địa ở Đông Dương, nhân dân ta bị sự áp bức một cổ hai tròng. Mâu thuẫn
giữa Pháp và Nhật cũng tăng lên cùng thời gian và đã đến đỉnh điểm là Nhật đảo
chính Pháp vào 9/3/1945. Ba ngày sau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị đã phân tích tình hình và
nguyên nhân Nhật - Pháp bắn nhau và nêu những nhiệm vụ cách mạng cần phải làm
[77, tr.256-259]; lợi dụng xung đột Nhật - Pháp và chính nhờ mâu thuẫn này, tranh
thủ điều kiện thuận lợi tạo ra do quân Đồng Minh đánh tan phát xít Đức, Nhật mà
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng Tháng Tám
thành công.
Sau cách mạng Tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, nước Việt
Nam mới trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Về kinh tế, nạn đói mà thực dân
Pháp và quân phiệt Nhật gây ra đã làm hơn hai triệu người chết đói và nạn đói vẫn
đang đe dọa. Về chính trị, Nhà nước non trẻ vừa được thành lập, các cơ sở chính
quyền chưa hoàn chỉnh, về mặt quốc tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa
được nước nào công nhận. Bên cạnh khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội, đất nước còn đối mặt với nạn thù trong giặc ngoài. Do vậy, so với các thời kỳ
khác, chưa bao giờ Việt Nam có nhiều kẻ thù đến thế.
Trong bối cảnh trên, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân
tích, đánh giá tình hình và đề ra những quyết sách, trong đó có chính sách ngoại
giao. Chỉ thị “Hòa để tiến” của Ban Thường vụ Trung ương ngày 25-11- 945 nhận
định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc, giải
phóng. Cuộc cách mạng đó đang tiếp diễn, chưa hoàn thành vì ta chưa hoàn toàn
47
độc lập…” [36, tr.30-32]. Về ngoại giao, Chỉ thị nhấn mạnh: Kiên trì chủ trương
ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”. Phải đặc biệt chú
trọng “lợi dụng mâu thuẫn của Tàu - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn để tranh thủ ngoại
viện, ký hiệp ước với các nước Đồng Minh, để họ thừa nhận nền độc lập của dân
tộc ta” [77, tr.265].
Như vậy trong hoàn cảnh trên, nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Việt Nam
là củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Để tránh phải đối phó với
nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng đã xác định được kẻ thù chính là Pháp, tập trung
lực lượng chống kẻ thù chính, hoà hoãn với Tưởng, thực hiện chính sách Hoa - Việt
thân thiện. Sở dĩ ở đây có thể hoà hoãn với Tưởng để chống Pháp là do Pháp và
Tưởng đều có mục tiêu vào nước ta để tiêu diệt cách mạng việt Nam, song cách
thức có khác nhau. Pháp dùng quân sự để thiết lập chế độ thuộc địa, còn Tưởng lợi
dụng tư cách là quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, kéo theo bè lũ tay sai để
thiết lập chính quyền tay sai của chúng nên ta có thể hoà hoãn được với Tưởng.
Hơn nữa, lúc đó quân Tưởng gặp nhiều khó khăn lớn, như Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trong Hồi ký có nhấn mạnh:
Khó khăn lớn nhất của bọn chúng là trước sức mạnh đoàn kết nhất trí của
nhân dân ta, chúng không tạo ngay được chỗ dựa về chính trị. Chúng
muốn lật ta nhưng nhận thấy nếu không có sự giúp đỡ của chính quyền
ta, chúng không thể nào giải quyết được những nhu cầu rất to lớn về vật
chất cho đội quân đông đảo bị nhân dân xa lánh, căm ghét. Chúng còn
phải tính cả những nguy cơ nghiêm trọng khác có thể xẩy ra đối với
chúng [65, tr.273].
Quân Tưởng còn gặp những khó khăn khác như đang phải lo đối phó với
cuộc nội chiến ở trong nước. Khó khăn khác nữa là lực lượng đông, song quân ô
hợp, binh lính ốm yếu, mặt mũi bủng beo, chân tay phù thũng, râu tóc bơ phờ, quân
phục rách rưới, gánh gồng lề mề, mang theo cả đàn bà và trẻ con... [61, tr.111-112].
Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng
Khánh. Theo Hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu,
Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân Nam,
48
mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, hàng hoá Tưởng vận chuyển qua miền Bắc
được miễn thuế, và lót tay cho Tưởng khoản tiền lớn; Tưởng đồng ý cho quân Pháp
thay quân Tưởng ở Bắc Đông Dương.
Tình hình trên đặt cách mạng Việt Nam vào tình thế vô cùng khó khăn, nguy
hiểm. Trước đây, nhờ lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để tránh phải đối đầu với cả Pháp
và Tưởng cùng một lúc, nay chúng đã thoả hiệp với nhau. Sau khi nghiên cứu kỹ
tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị ngày 3-3-1946.
Chỉ thị phân tích cho rằng đây không phải là chuyện mua bán riêng giữa Tưởng và
Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh, Tưởng và Pháp về vấn đề Đông Dương.
Chúng tạm thời dẹp mâu thuẫn nội bộ để cứu vãn quyền lợi của chúng đang bị cao
trào cách mạng đe dọa…
Trong bối cảnh gian nguy đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã chủ trương
hoà với Pháp vì có hai điều lợi lớn: Phá được mưu mô của quân Tưởng, của phát xít
và Việt gian, bảo toàn được thực lực; giành được giây phút nghỉ ngơi chuẩn bị cho
cuộc chiến đấu mới.
Ngày 6-3-1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp đã ký Hiệp
định sơ bộ với nội dung: nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
là nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, nằm
trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp; Pháp cam đoan sẽ thừa
nhận một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ; Việt Nam chấp nhận để
15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam, và Đông Dương nói chung, thay quân
Tưởng, hạn không quá 5 năm. Có thể đánh giá việc ký Hiệp định Sơ bộ là một
biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Tưởng, nhất là khi
chúng đã thoả hiệp với nhau.
Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian họp Hội nghị
Phôngtennơblô, Người đã gặp nhiều người Pháp từ chính khách đến nhà báo, nhà
khoa học, bạn bè. Người đã giải thích rõ lập trường của Đảng và chính phủ Việt
Nam để cô lập bọn phản động Pháp, để lợi dụng “sự khác nhau” của nhân dân Pháp
và bọn thực dân Pháp có lợi cho cuộc kháng chiến của Việt Nam.
49
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Bác Hồ và Đảng
rất chú ý lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ, trước hết là Pháp.
Pháp và Mỹ vốn có mâu thuẫn trong vấn đề Đông Dương, khi Đờ Gôn trở lại cầm
quyền, mâu thuẫn đó càng tăng. Ngày 29-3-1963 tại Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng
NATO, lần đầu tiên Đờ Gôn nhận xét: Những biến cố quan trọng đang xảy ra ở
Việt Nam làm cho Paris chú ý và lo lắng. Đó là lời chỉ trích vì lúc này Mỹ đang
tăng cố vấn, viện trợ cho ngụy quyền miền Nam Việt Nam. Ngày 23-7-1964, Đờ
Gôn đề nghị triệu tập hội nghị xem xét vấn đề Đông Dương, trung lập hoá Việt
Nam và Đông Dương, Tổng thống Mỹ Giôn xơn đã phản đối.
Nắm được những bất đồng trên giữa Pháp và Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng Chính phủ Việt Nam đã đề ra chủ trương miền Nam độc lập, dân chủ,
hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc với việc thành lập Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với chủ trương này, cách mạng đã hạn
chế cuộc đấu tranh trong phạm vi dân tộc chống đế quốc, gắn đấu tranh của ta với
bảo vệ hòa bình thế giới, do vậy mà tranh thủ được sự đồng tình của đồng minh
cũng như Pháp, khơi sâu thêm mâu thuẫn Pháp - Mỹ có lợi cho Việt Nam.
Ngoài mâu thuẫn Pháp - Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú ý khơi
sâu mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh khác, giữa chính phủ Mỹ và nhân dân
Mỹ, các phe phái trong giới cầm quyền Mỹ, giữa Mỹ và tay sai... Cụ thể Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu các nước, trong đó có Tổng
thống Mỹ, tiếp nhiều chính khách, phóng viên báo chí, viết nhiều bài…nhấn mạnh
sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, phê phán cuộc chiến tranh của Mỹ ở
Việt Nam, phân hoá hàng ngũ đối phương, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của
bạn bè, nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra, đối với Hồ Chí Minh, lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù không những là
vấn đề chiến lược, biện pháp sách lược của cách mạng Việt Nam mà còn là nghệ
thuật trong đấu tranh ngoại giao. Đây là sự sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong đấu tranh ngoại giao, vận dụng trong thực tiễn đã đem lại những thắng lợi to
lớn cho cách mạng Việt Nam.
50
2.2.5. Phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi
việc quan sát, phân tích và nhận thức những diễn biến quốc tế, khu vực Thái Bình
Dương và Đông Dương như là một trong những nhân tố quyết định để đề ra chiến
lược cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ nhất định. Qua việc tiếp cận với nhiều
nguồn thông tin, hệ thống hóa các sự kiện, nghiên cứu và suy luận. Người đã đi đến
những khái quát đúng về xu thế thời cuộc, chiều hướng phát triển của những diễn
biến chủ yếu trong quan hệ quốc tế và trong so sánh lực lượng toàn cầu… đang tác
động đến cục diện chiến tranh của nhân dân Việt Nam. Người cho rằng: "tình hình
thế giới dính dáng mật thiết với nước ta" [128, tr.37]. Trên cơ sở đó và cùng với
biến chuyển của tình hình trong nước. Người đã chỉ ra các khả năng phát triển của
cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ cụ thể, nhất là trước những khúc quanh của
thời đại.
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ là một phương pháp
thể hiện khả năng phân tích tình hình và dự báo xu thế phát triển của tình hình của
Hồ Chí Minh. Không phải bất cứ nhà ngoại giao nào cũng có khả năng này. Nội
dung của phương pháp này tập trung vào bốn vấn đề chủ yếu sau:
Một là, phải phân tích một cách toàn diện và hệ thống bối cảnh thế giới và
trong nước, tình hình ta và địch, chỉ ra những mối liên hệ, quan hệ biện chứng giữa
các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam và ngoại giao hai
bên. Hồ Chí Minh đã cho rằng tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta
nên sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam chịu tác động lớn của
những xu thế trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình xem xét tình hình thế giới phải
gắn phân tích với tổng hợp, khái quát để rút ra những nét chung nhất, tránh tình
trạng “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy các sự kiện đơn lẻ mà không thấy
mối quan hệ qua lại, phụ thuộc chặt chẽ và tác động lẫn nhau, không thấy các xu thế
tồn tại khách quan đang chi phối sự vận động và phát triển của tất cả các dân tộc
trên thế giới trong từng thời kỳ lịch sử.
Hai là, phân tích sự xuất hiện của các cường quốc mới, mâu thuẫn giữa các
trung tâm quyền lực và các đối tác để dự báo chiều hướng vận động của quan hệ
51
quốc tế và ngoại giao Việt Nam cũng như vận hội của nước nhà. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự thay đổi cơ bản của quan hệ quốc tế.
Người cho rằng cuộc chiến tranh thế giới đã chính thức kết liễu ở châu Âu, cũng
như Viễn Đông, chủ nghĩa dân chủ được toàn thắng, các cường quốc đồng minh đã
trịnh trọng công nhận quyền dân tộc tự quyết, điều đó sẽ mở ra một kỉ nguyên mới
đầy hy vọng cho các dân tộc Á Đông.
Ba là, phân tích tương quan lực lượng, chiều hướng phát triển của tình hình
để dự báo khả năng, thời điểm và thời cơ của cách mạng và mở mặt trận ngoại
giao. Ngay từ tháng 6-1941, Người đã đưa ra nhận định cục diện chiến tranh thế
giới và điều kiện thời cơ cho cách mạng nước ta “Nay cơ hội giải phóng đến rồi,
đế quốc Pháp bên Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp
ở ta” [127, tr.230]. Năm 1946, Người nêu lên một kết luận có tính chất dự báo về
triển vọng của cuộc kháng chiến “Việt Nam sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này…
nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau
cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và biến khỏi cõi Á châu”
[129, tr.19].
Bốn là, chủ động chuẩn bị lực lượng để chớp thời cơ giành thắng lợi khi thời
cơ đến. Cùng với việc dự báo chính xác thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để tạo thế và lực mới, hình
thành tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngày càng có lợi cho cách mạng, góp
phần thúc đẩy thời cơ.
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ của Hồ Chí Minh đã
tranh thủ được những điều kiện thuận lợi và đồng thời hạn chế được những khó
khăn của tình hình quốc tế và trong nước để tiến hành các hoạt động ngoại giao
giành thắng lợi dựa trên tinh thần đi trước một bước trong tư duy chiến lược, sách
lược ngoại giao. Đồng thời cũng khẳng định ngoại giao phải nắm đúng thời cơ mà
đưa ra mục tiêu của mình, phải tranh thủ tận dụng thời cơ, thời điểm có lợi cho
mình mà đàm phán trên thế mạnh của Việt Nam. Phân tích thời cơ không chỉ dừng
lại ở tìm đối sách, tình huống mà quan trọng hơn còn nhằm làm rõ chiều hướng phát
52
triển của tình hình và dự đoán trước được khả năng phát triển của tình hình để chủ
động nhận thức và đón nhận thời cơ, kịp thời đề ra những quyết định điều chỉnh
chiến lược khi cần, nhằm tạo ra bước ngoặt thúc đẩy cách mạng.
2.2.6. Phương pháp ngoại giao “tâm công”
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống
ngoại giao lâu đời. Vì thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm mạnh, cần phải
giao thiệp với nước lớn nên cần phải sử dụng các phương pháp ngoại giao trong đó
có phương pháp ngoại giao tâm công. Tâm công là phương pháp ngoại giao của
mọi thời đại. Tranh thủ người, thuyết phục người, chinh phục người là một trong
những mục tiêu của phương pháp ngoại giao.
Kết hợp truyền thống với hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vận dụng
sáng tạo và đưa ngoại giao tâm công của cha ông lên một tầm cao mới trong cuộc
đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất để đạt được mục đích và nhiệm vụ cách
mạng. Cơ sở của ngoại giao tâm công chính là bản tính hướng thiện của mỗi con
người và sự chia sẻ các giá trị nhân văn chung của nhân dân tiến bộ thế giới, “tuy
phong tục mỗi dân khác nhau nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau, ấy là
dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ” [128, tr.350].
“Tâm công” có nghĩa là đánh vào lòng người là một trong những phương
pháp đặc sắc của ngoại giao truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa
vận dụng và phát triển trong ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ông cha ta đã sử dụng
phương pháp “tâm công” một cách có hiệu quả trong quá trình tiến hành cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược bảo vệ bờ cõi và chủ quyền nước Nam. Sử dụng
“tâm công” để thu phục lòng người bằng chính nghĩa, chinh phục bằng nhân tình,
thuyết phục bằng lẽ phải và đạo lý.
Tâm công dùng trong binh vận để làm nhụt nhuệ khí của địch, gây hoang
mang trong hàng ngũ đối phương, kết hợp với thắng lợi trên chiến trường buộc địch
phải nghị hoà rút quân về nước. Đó là phương sách ngoại giao đã từng được Lê Lợi
và Nguyễn Trãi sử dụng trong thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh
và đã đạt được hiệu quả rất cao. Từ bài thơ thần của Lý Thường Kiệt thời Lý đến
những áng văn trong thư dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi là những kế sách “tâm
53
công” của ông cha trong cuộc đấu tranh chống lại giặc phương Bắc xâm lược...
Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới,
phong trào vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; chính sự tương
đồng về tình cảm, tâm lí, yêu hoà bình và hữu nghị, yêu lẽ phải và đạo lý của nhân
loại tiến bộ cùng với tinh thần quốc tế chân chính là cơ sở để Hồ Chí Minh thực
hiện phương pháp ngoại giao “tâm công” nhằm khơi dậy và tăng cường tình đoàn
kết, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước, các tổ chức, các lực
lượng, các nhân sĩ yêu hoà bình và công lý trên thế giới đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa và công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, tâm công được sử dụng như là một phương pháp
ngoại giao đối với kẻ thù và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Thứ nhất, đối với bạn bè đồng chí của Việt Nam: Hồ Chí Minh luôn hướng
tới xây đắp tình cảm chân thành “vừa là đồng chí, vừa là anh em” và tinh thần quốc
tế trong sáng thuỷ chung. Trong quá trình hoạt động cách mạng đi đến đâu Người
cũng chủ động xây dựng tình hữu nghị, hữu ái với các nước. Người nhắc nhở cán
bộ làm công tác đối ngoại phải làm cho đúng đường lối chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước… tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa,
tăng cường hữu nghị với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân thế giới… vì lợi ích
của hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hay trong vấn đề quan hệ với Ấn
Độ, Người đã đề cao vai trò của Ấn Độ đối với Việt Nam “…luôn luôn biết ơn
đồng tình và ủng hộ của chính phủ và nhân dân Ấn Độ anh em, nhân dân Việt Nam
luôn luôn nhớ rằng thánh Găngđi ủng hộ cuộc kháng chiến Việt Nam ngay khi mới
bắt đầu và Thủ tướng Nêru đã nhiều lần lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm
lược ở Việt Nam” [133, tr.43]. Với những nước láng giềng của Việt Nam, Người
luôn đề cao những điểm tương đồng, nương tựa vào nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau như anh em một nhà. Người từng nhấn mạnh “giúp nhân dân nước bạn tức là
tự giúp mình” [131, tr.64]. Mối quan hệ với Trung Quốc luôn được Hồ Chí Minh
đặt vị trí quan trọng trong ngoại giao. Với các nhà lãnh đạo Trung Hoa, Hồ Chí
Minh kết mối thân tình, tôn trọng lẫn nhau, tạo nên quan hệ cá nhân khá sâu sắc
trong lịch sử quan hệ giữ hai nước. Có thể nói, Người đã khéo léo xử lý các mối
54
quan hệ phức tạp để hình thành nên mối quan hệ quốc tế mới, có nguyên tắc, có lý,
có tình.
Thứ hai, phương pháp ngoại giao “tâm công” dựa trên cơ sở chủ nghĩa
nhân văn, tìm những điểm tương đồng để thức tỉnh và khích lệ sự ủng hộ quốc tế,
phân biệt rõ bạn thù, phân biệt nhân dân yêu chuộng hoà bình với bọn phản động
trong chính phủ của đối phương để cô lập kẻ thù và tập hợp được lực lượng rộng
rãi trên thế giới. Ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ
được kí kết (7-1954), Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam
là bảo hộ lợi ích kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam và bày tỏ nguyện
vọng bình thường ngay mối quan hệ giữa hai nước trên nguyên tắc bình đẳng hai
bên cùng có lợi.
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã sử
dụng phương pháp ngoại giao tâm công trong thực tiễn, đi sâu vào “lương tri” của
nhân dân tiến bộ Mỹ, đánh vào những tổn thất của Mỹ về kinh tế và xương máu…
đã tạo ra phong trào phản chiến ở Mỹ, lên án cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Mỹ ở
Việt Nam. Trong quan hệ ngoại giao với Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định với nhân
dân Mỹ quan điểm của Việt Nam:
Chúng tôi không có xích mích gì với nhân dân Mỹ, chúng tôi muốn
sống hoà bình và hữu nghị với nhân dân Mỹ. Nhân dân chúng tôi được
giáo dục theo tinh thần quốc tế chân chính. Trước đây, chúng tôi đã chú
ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hoà bình, thì
ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền
thống tự do, với bọn can thiệp và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn
[138, tr.148].
“Chúng tôi muốn có quan hệ hữu nghị anh em với nhân dân Mỹ và chúng tôi
rất kính trọng vì nhân dân Mỹ là một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống hiến cho
khoa học và nhất là gần đây đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược miền
Nam Việt Nam” [135, tr.253].
Thứ ba, đối với kẻ thù và đối phương, Hồ Chí Minh vừa khơi dậy lòng tự
hào, vừa dùng những lý lẽ có sức thuyết phục để thức tỉnh lương tâm. Trong quan
55
hệ với Pháp, chính người Pháp đã phải thừa nhận rằng: Hồ Chí Minh đánh chìm
chủ nghĩa thực dân Pháp mà vẫn giữ được tình hữu nghị với nhân dân Pháp.
Trong thư gửi tướng Leclerc đầu năm 1947, Hồ Chí Minh viết:
Ngài là một đại quân nhân, một nhà đại ái quốc… một nhà ái quốc
trong những nhà ái quốc nước khác. Một người yêu quê hương mình,
trọng quê hương của kẻ khác… giả thử ngài đánh được chúng tôi đi nữa
đó là một điều viển vông, vì nếu ngài mạnh về vật chất thì chúng tôi
đây mạnh về tinh thần với một ý chí chiến đấu kiên quyết cho tự do của
chúng tôi - thì những thắng lợi tạm thời kia chẳng những không tăng
thêm mà còn làm tổn thương đến uy danh quân nhân và tư cách ái quốc
của ngài [129, tr.5].
Hồ Chí Minh còn rất quan tâm tới công tác đối xử với tù binh, cảm hoá tù
binh, cùng với đó là công tác địch vận “Địch vận là tìm cách làm sao phá được địch
mà không phải đánh” [129, tr.595].
Phương pháp ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh đã thực sự có hiệu quả nhất
định trong cuộc đấu tranh ngoại giao của cách mạng Việt Nam. Với phương pháp
này, Người đã cô lập được lực lượng kẻ thù đồng thời tập hợp được đông đảo bạn
bè và các lực lượng tiến bộ ủng hộ cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân
Việt Nam, đứng về phía cách mạng Việt Nam. Qua đó cũng làm cho đối phương
hoang mang, dao động và thể hiện tính nhân văn chính nghĩa của cách mạng, Chính
phủ và nhân dân Việt Nam.
2.2.7. Phương pháp kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao,
vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
ngoại giao, giữa đánh và đàm trở thành một chủ trương, một phương pháp và là một
trong những nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh cách mạng độc đáo trong chiến tranh giải
phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị, ngoại giao, giữa đánh và đàm chính là biểu hiện quan điểm ngoại giao
phải có thực lực, được vận dụng một cách sinh động và sáng tạo trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam, và trở thành quan điểm quan trọng của nền ngoại giao cách
56
mạng Việt Nam từ khi thành lập đến nay. Trong sự kết hợp giữa quân sự, chính trị
và ngoại giao, có thể thấy chiến trường quyết định trên bàn đàm phán, xong ngược
lại thắng lợi trên bàn đàm phán kiềm chế hoạt động của địch trên chiến trường; đàm
phán không cản trở đánh, không bó “chân trong” chiến trường, mà khuếch trương
chiến thắng.
Quan điểm về xây dựng thế và lực và thực hiện các phương pháp, hình thức
để tạo thế - lực trong quan hệ ngoại giao, là vấn đề đầu tiên và lâu dài để thực hiện
mục tiêu chiến lược. Hồ Chí Minh nói: “Ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”
[135, tr.269], đó là nói về tính chính nghĩa, lẽ phải trong đàm phán. Nhưng vì có
chính nghĩa, nên sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và nhân dân tiến
bộ trên thế giới, đó là sức mạnh để chiến thắng, đó lại là vấn đề thực lực. Do đó
phải tích cực xây dựng tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đó là cơ sở của “chính sách
Ngoại giao mạnh”.
Năm 1944, khi lực lượng ta còn yếu, có ý kiến muốn tiến hành quan hệ ngoại
giao với chính phủ Tưởng Giới Thạch và Mỹ để cầu viện trợ, tại hội nghị Liễu
Châu (Trung Quốc) tháng 3-1944, Hồ Chí Minh đã nói rằng: "Nếu mình chưa có
lực lượng làm cơ sở thì hãy khoan nói đến ngoại giao" [95, tr.115]. Để có thực lực,
phải xây dựng đường lối đối ngoại theo phương châm: Kết hợp giữa chính trị, quân
sự, ngoại giao; kết hợp giữa đánh và đàm..., làm chuyển hóa lực lượng, để ta ngày
càng có lợi, địch ngày càng lúng túng. Đó là sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, biện
chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, mặt trận đấu tranh chính trị.
Quan điểm này được khẳng định rất rõ tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-
1967), về đẩy mạnh đấu tranh ngoaị giao:
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay, đấu tranh quân sự
và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng
lợi trên chiến trường, làm cơ sở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng
ta chỉ có thể giành trên bàn hội nghị cái mà chúng ta đã giành được trên
chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản
ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện
57
nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao
giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động [42, tr.125].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, thực lực của Việt Nam trước hết là sức
mạnh chính nghĩa của cuộc đấu tranh chống xâm lược, vì độc lập, thống nhất đất
nước. Khi tinh thần đã được khơi dậy, được động viên và phát huy, sẽ trở thành sức
mạnh vật chất, trở thành lực lượng mạnh mẽ của toàn dân tộc kết hợp với các lực
lượng tiến bộ trên thế giới hợp thành. Đặc biệt, với sức sống mãnh liệt của một dân
tộc anh hùng, bất khuất, thông minh, bền bỉ, lại quyết tâm “đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập” [128, tr.3], sẽ
tạo nên sức mạnh đủ sức nhấn chìm mọi thế lực xâm lược. Thực lực của cách mạng
là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là lực lượng to lớn và vô tận của nhân dân, sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, là ưu thế về chính trị của Nhà nước và chế độ
mới. Thực lực trong ngoại giao được lớn mạnh cùng với sự phát triển của thực lực
cách mạng, gắn liền với sự trưởng thành và lớn mạnh không ngừng về mọi mặt của
lực lượng vũ trang cách mạng không ngại hy sinh, gian khổ để làm nên thắng lợi vẻ
vang trên chiến trường, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo ra thế có lợi trên
bàn đàm phán. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong các cuộc chiến tranh, tuy sức mạnh
quân sự, chiến thắng trên chiến trường có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến
tranh, nhưng thực lực ở đây không phải chỉ là sức mạnh quân sự hay sức mạnh của
bản thân mỗi dân tộc; nó là sức mạnh tổng hợp của các mặt trận chính trị, kinh tế,
quân sự và ngoại giao; là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước và ngoài nước.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, nếu chỉ riêng về sức mạnh kinh tế hay sức mạnh
vật chất của nền quốc phòng, thì chúng ta thua kém xa tiềm lực chiến tranh của thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng nhờ biết khai thác, kết hợp và cộng hưởng nhiều
nguồn sức mạnh, mà chúng ta đã giành chiến thắng về quân sự, từ đó dẫn đến thắng
lợi về ngoại giao. Đồng thời, có phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng các mặt trận đấu
tranh: chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao; kết hợp các cuộc chiến đấu trên
chiến trường với cuộc đấu tranh trên chiến trường quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng
lực nhằm đánh đúng vào chỗ yếu cơ bản về chính trị của Pháp và Mỹ trong chiến
58
tranh xâm lược Việt Nam, thì hiệu quả của đấu tranh ngoại giao mới góp phần tạo
thêm thế và lực mới cho cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện.
Thực lực trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là sức mạnh nội
sinh của dân tộc, mà còn là sự kết hợp với sức mạnh của giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại, sức mạnh từ sự giúp đỡ to lớn về vật
chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa, từ liên minh chiến đấu ba nước
Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Sức mạnh ấy còn được
cộng hưởng hơn rất nhiều từ sự ủng hộ của mặt trận nhân dân thế giới chống chiến
tranh xâm lược Việt Nam, từ xu thế phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Khẳng định ngoại giao phải có thực lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái
chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” [128, tr.147]. Về
phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định: “Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các
nước trên nguyên tắc “bình đẳng tương trợ. Ngoại giao muốn thắng lợi phải biểu
dương thực lực” [45, tr.27]. Trong đấu tranh cách mạng, dù luôn cố gắng nỗ lực tìm
kiếm một giải pháp hòa bình nhưng Người cũng hết sức lưu ý: “Ta luôn luôn nhớ
rằng ngoại giao thắng hay bại phần lớn là dựa vào việc đoàn kết toàn dân, vào thực
lực của bản thân ta, chứ không phải do “lòng tốt” của thực dân Pháp” [76, tr.78].
Như vậy, thắng lợi ngoại giao lớn hay nhỏ, đàm phán thất bại hay thành công tùy
thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là ở thực lực. Hoạt động ngoại
giao phải lấy sức mạnh bên trong làm điểm tựa và kết quả đấu tranh ngoại giao
chính là sự phản ánh cụ thể của thực lực.
Mặc dù nhấn mạnh ngoại giao muốn thắng phải có thực lực, song Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định, mặt trận ngoại giao có vai trò quan trọng, tích cực và chủ
động. Thực lực mạnh là điều kiện thuận lợi để ngoại giao sẽ thắng lợi; mặt khác,
thắng lợi ngoại giao sẽ tạo tiền đề để xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, tạo
thế cho đất nước trong quan hệ chính trị. Chiến lược ngoại giao là một bộ phận
59
trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó lại có nội dung tổng hợp, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bên cạnh việc khẳng định vai trò quyết định của đấu tranh chính trị và đấu
tranh quân sự, Hồ Chí Minh cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và vị trí của ngành ngoại
giao: Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến
trường, mà trong tình hình quốc tế, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch,
cuộc chiến tranh ngoại giao giữ vai trò quan trọng, tích cực và chủ động. Thông qua
tấn công ngoại giao, cách mạng Việt Nam nêu cao lập trường chính nghĩa của cuộc
đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần phân hóa thế lực thù
địch, làm suy yếu chúng.
Những thỏa thuận, Hiệp định được ký kết là kết quả của cuộc đấu tranh tổng
hợp trên tất cả các mặt, là sự minh chứng cụ thể của so sánh tương quan lực lượng,
là sự khẳng định vị thế của các nước trên trường quốc tế. Nếu không có thực lực
cách mạng thì chủ trương và đấu tranh ngoại giao của ta có đúng, có khôn khéo, có
hay đến đâu cũng không thể mang lại hiệu quả vì “chỉ có thực lực của ta mới quyết
định được thắng lợi giữa ta và đồng minh” [44, tr.427]. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 13 chỉ rõ: Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là
nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên
mặt trận ngoại giao. Rõ ràng nếu không có những chiến thắng to lớn của quân dân
ta trong gần 9 năm kháng chiến chống Pháp thì không thể có Hội nghị và Hiệp định
Giơnevơ. Nếu không có thắng lợi của quân dân hai miền Nam - Bắc, nhờ sự lớn
mạnh không ngừng của cách mạng Việt Nam về thế và lực trên các chiến trường thì
cũng không có Hội nghị và Hiệp định Pari. Về điểm này, chính Người đã tổng kết
“Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ thắng lớn. Bây giờ
cũng thế, đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều… Cố nhiên ngoại giao là rất
quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình có sức mạnh thì
ngoại giao là thắng” [18, tr.72].
Tư tưởng ngoại giao phải có thực lực là biểu hiện cụ thể của tư duy độc lập
tự chủ, tự lực cánh sinh của Hồ Chí Minh. Người coi tự lập, tự cường là cái gốc, là
điểm mấu chốt của mọi chính sách, “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là phương
60
thức, là động lực chủ yếu để phát triển cách mạng. Người chỉ ra rằng “độc lập của
Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam” [130, tr.39]. Tăng cường sức
mạnh tự thân còn là cơ sở hàng đầu để tranh thủ đồng minh và tránh sự áp đặt chèn
ép vào đồng minh, nhất là các nước lớn “rằng ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa
đến ta. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn
đồng minh của ta vậy” [44, tr.244]. Chính bởi nắm vững nguyên tắc thực lực quyết
định kết quả đấu tranh ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức lưu ý không được
ảo tưởng với kẻ thù, tránh cả hai khuynh hướng cực đoan hữu khuynh và tả khuynh
trong trong đấu tranh ngoại giao. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta tuyệt đối chớ có ảo
tưởng rằng, hòa bình là một việc dễ dàng. Hòa bình phải do đấu tranh gian khổ mới
giành được” [183, tr.427].
Một trong những nguyên tắc cơ bản về đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội
nghị được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng vạch ra là: “Yêu cầu của
ta chủ yếu là căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch mà định” [46, tr.185].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, muốn kháng chiến thắng lợi phải phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh đoàn kết quốc tế, lấy sức mạnh dân tộc là chủ yếu;
phải kết hợp chính trị, quân sự và ngoại giao, lấy quân sự, chính trị là chủ yếu.
Nắm vững mục tiêu và thực hiện theo nguyên tắc, là cơ sở để cách mạng Việt
Nam có thể định ra chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp cho mỗi giai đoạn
cách mạng. Từ đó, đấu tranh ngoại giao mới phát huy vai trò tích cực, chủ động,
góp phần quan trọng vào việc tạo nên thế và lực, đưa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn.
Trong đấu tranh ngoại giao, phải xây dựng thực lực, sử dụng thực lực một
cách khôn khéo và phát huy thực lực cách mạng tối ưu nhất. Do đó, phải phân tích,
đánh giá đúng thực lực và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, tương quan so
sánh lực lượng mà đề ra mục tiêu “thắng từng bước”. Đó cũng là phương châm của
“dĩ bất biến ứng vạn biến” biết sử dụng sách lược ngoại giao để giành thắng lợi
trong từng giai đoạn cách mạng; đó là cơ sở để thực hiện đường lối ngoại giao vừa
đánh vừa đàm… để chuyển hóa lực lượng, xoay chuyển cục diện, tiến tới giành
thắng lợi cuối cùng.
61
Tóm lại, phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, vừa đánh và đàm là một nghệ thuật, phương
pháp chỉ đạo đấu tranh cách mạng độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi giai
đoạn lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm
dẻo và sáng tạo vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trải qua quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo chiến tranh, đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đạt tới đỉnh cao của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp
vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam một nghệ thuật độc đáo trong chỉ đạo
chiến tranh, trong đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi.
2.2.8. Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để giành thắng lợi
Những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong
cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Người. Nó gắn liền với mục tiêu cứu nước, đồng
thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại bị áp bức. Hồ Chí
Minh đã hoạt động hết mình gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, tìm
bạn đồng minh ở các nước, ngay cả những nước đang đô hộ mình và tranh thủ sự
ủng hộ của các nước trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Qua những hoạt
động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng thế giới,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn không những cho nhân dân Việt
Nam mà còn cho nhân dân nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Để có được những
thành công trong hoạt động quốc tế của mình có thể thấy từ rất sớm ở Hồ Chí Minh
bước đầu hình thành phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại.
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập tự do. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối phó với nhiều lực lượng quân sự đối địch, phía
Bắc là quân Tưởng, phía Nam là quân Anh - Ấn, Pháp. Trong khi đó, chính quyền
cách mạng của ta còn non trẻ, đất nước sau nhiều năm chiến tranh, kinh tế suy kiệt,
tài chính kiệt quệ, nạn đói kéo dài. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp tiếp
62
xúc với các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở Pháp, ở các thuộc địa Pháp và thế
giới, đẩy mạnh đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Đông Dương,
ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Cũng trong lúc này, nhân
dân thế giới đã có sự ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến, đặc biệt phải kể đến
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, phong trào giải phóng dân tộc,
các Đảng Cộng sản và công nhân các nước. Mặt trận đoàn kết quốc tế cùng với mặt
trận đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia và mặt trận đoàn kết trong nước (ba tầng
mặt trận) đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn góp phần đưa đến thắng lợi cho cách
mạng Việt Nam sau này.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp và Phái đoàn đại biểu Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đàm phán với Chính
phủ Pháp đã thông báo cho Đảng Cộng sản Pháp biết cụ thể tình hình Việt Nam, lập
trường, nguyên tắc và các kiến nghị hợp lý của Việt Nam trong quan hệ với Pháp.
Đảng Cộng sản Pháp đã có nhiều hiểu biết về Chính phủ Việt Nam và hết lòng ủng
hộ nền độc lập của Việt Nam. Trong nhiều năm, M. Tôrê cùng với Đảng tổ chức
quần chúng đấu tranh bất chấp mọi sự đàn áp với nhiều hình thức khác nhau để ủng
hộ triệt để cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Pháp, từ năm 1950, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển mạnh mẽ,
thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức đấu tranh phong
phú, kiên quyết và dũng cảm với các hành động quyết liệt, đòi Chính phủ phải chấm
dứt chiến tranh ở Đông Dương, rút quân viễn chinh về nước và công nhận nền độc
lập, tự do của ba nước Việt Nam, lào và Campuchia
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngoài sự ủng hộ của nhân dân các
nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp, còn nhận được sự
ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới như Xiêm, Ấn Độ, Miến
Điện… Ở các nước thuộc địa của Pháp như Mađagatxca, Tuynidi, Marốc,
Ăngiêri… phong trào đấu tranh chống bắt lính đưa sang Đông Dương, đòi độc lập
dâng lên ngày càng mạnh mẽ.
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, ngày 21-7-1954, Hiệp định
Giơnevơ về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.
63
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, đỉnh
cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là minh chứng đúng đắn, chủ động, sáng
tạo trong đường lối đối ngoại, nghệ thuật tranh thủ và sử dụng có hiệu quả, sự giúp
đỡ của quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta luôn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính là một vấn đề nguyên tắc có quan hệ
tới sự sống còn của cách mạng và sự thành bại của công cuộc cứu nước. Thêm
nhiều hội hữu nghị, ủy ban đoàn kết với nhân dân các nước ra đời như Hội hữu
nghị Việt-Pháp, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ, Ủy ban đoàn
kết Châu Á, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á - Phi. Ở mặt trận đối ngoại nhân dân,
Mặt trận và các tổ chức thành viên đã cử hàng trăm đoàn đi các nước, đến cả thủ
đô nhiều nước đồng minh và sân sau của Mỹ, đồng thời đón nhiều đoàn khách
quốc tế vào Việt Nam, qua đó vận động sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với
Việt Nam. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã góp phần mở đường cho việc thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời với nhiều quốc gia trên
thế giới.
Từ năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ
trương vận động nhân dân thế giới, các tổ chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh có
hành động phối hợp mạnh mẽ hơn đòi đế quốc Mỹ chấm dứt xâm lược Việt Nam,
để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc của mình. Ở nhiều nước đã bắt đầu
có những lời kêu gọi thành lập uỷ ban đoàn kết với Việt Nam và tháng 4 - 1967, khi
Hội nghị Lơke được tổ chức để lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã gửi điện cảm ơn tới các vị đứng
đầu năm nước châu Phi (Cộng hoà Arập thống nhất, Angiêri, Ghinê, Môritania và
Tandania): “Chúng tôi coi đó là một sự ủng hộ quý báu đối với cuộc kháng chiến
chính nghĩa của chúng tôi và là một biểu hiện đẹp đẽ của tình đoàn kết giữa nhân
dân các nước Á, Phi” [139, tr.331].
64
Bằng những quan niệm đúng đắn về bạn - thù, với thái độ thiện chí và tình
cảm chân thành, Hồ Chí Minh đã làm cho nhân dân thế giới hiểu đúng hơn về nhân
dân Việt Nam. Việt Nam trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là Hội nghị Quốc tế Chống đế quốc Bảo vệ
Hoà bình thế giới họp tại Hà Nội tháng 11 - 1964. Tham dự hội nghị có 64 đoàn đại
biểu đến từ 52 nước và nhiều tổ chức quốc tế. Đánh giá về Hội nghị này, Hồ Chí
Minh nói: “Hội nghị lịch sử này là kết tinh của mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn
kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân” [138, tr.420] và Người tỏ ý tin
tưởng rằng sau hội nghị này, tình đoàn kết vĩ đại và làn sóng đấu tranh của nhân dân
thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân sẽ dâng cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta,
Người đã giáo dục toàn dân phân biệt rõ ràng thực dân cướp nước, bọn đế quốc
hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý ở các nước đi xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất coi trọng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ,
Người đã tích cực thúc đẩy phong trào quần chúng Mỹ chống chiến tranh của đế
quốc Mỹ ở Việt Nam. Trong thư gửi nhân dân Mỹ (1 - 1962), Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn nhấn mạnh: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không
oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ
chống chủ nghĩa thực dân (1775 - 1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu
nghị với các bạn” [137, tr.307].
Tiếng nói chính nghĩa của Hồ Chí Minh đã tác động sâu sắc tới nội bộ nước
Mỹ, phân hoá hàng ngũ kẻ thù, ngày càng được nhiều người nhiều tầng lớp nhân
dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, lên án chính quyền Mỹ và
đòi chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Người đã nhận xét với nhà báo Anh,
Phêlích Gơirin (18-11-1965): “…Nhân dân chúng tôi đánh giá rất cao cuộc đấu
tranh ấy của nhân dân Mỹ. Chúng tôi rất cảm động trước những tấm gương anh
dũng hy sinh của bà cụ Henga Hécdơ và của các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn,
Rôgiơ Lapotơ và Xilin Giancaoxki…” [138, tr.669].
Có thể nói những phong trào trên đã bùng nổ và lan rộng chưa từng có trong
nước Mỹ, đưa tới đỉnh cao là những “Mùa hè nóng bỏng” vào những năm 1967 -
65
1968 với những cuộc biểu tình diễu hành được tổ chức cùng một lúc trong 120
thành phố của nước Mỹ.
Nhìn lại lịch sử dân tộc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của
Đảng và nhân dân Việt Nam (thời kỳ 1954 -1969), thấy rõ được trí tuệ thiên tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh với: ý chí, đức độ khiêm nhường, thái độ thiện chí, đã vượt
qua mọi trở ngại, khó khăn, từ trong những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của
thời đại, đề ra được những đường lối, phương châm, phương pháp, đối sách, ứng
xử… đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với mỗi tình hình, mỗi giai đoạn cách mạng,
nên đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc trong sự kết hợp với sức mạnh thời
đại như Người đã khẳng định: “Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với
chúng tôi. Đúng là trước hết chúng tôi phải dựa vào sức mình, song chúng tôi còn
được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của nhân dân các nước khác. Và như vậy,
chúng tôi vừa có cả sức mạnh của mình, vừa có cả sức mạnh của sự đoàn kết quốc
tế” [139, tr.675], nhờ vậy “mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng
lợi to lớn” [139, tr.589].
Như vậy, có thể thấy thông qua phương pháp vận động quốc tế, kết hợp các
phương pháp khác cùng với những hoạt động thực tiễn, đã góp phần sự ủng hộ của
nhân dân quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Các nước xã hội chủ nghĩa hết lòng
ủng hộ giúp đỡ; các nước bạn bè và mặt trận nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ
luôn luôn cổ vũ, hậu thuẫn cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đó là một thắng lợi lớn
của mặt trận ngoại giao theo đường lối, phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tiểu kết chương 2
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu và hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nhiệm vụ
vô cùng quan trọng. Hệ thống những phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh góp
phần đặt nền móng cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trên lĩnh vực ngoại giao qua
66
các thời kỳ lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đúng như
đánh giá của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về tư tưởng, phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh như:
Biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận
rõ bạn thù, tranh thủ đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên định về
nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước để tiến tới thắng
lợi hoàn toàn, độc lập, tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế là di sản quý
báu đối với chúng ta trong hoạt động ngoại giao để phục vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc [58, tr.55].
Đường lối ngoại giao của Đảng nhằm đưa đất nước tham gia tiến trình hội
nhập quốc tế đã được chứng minh là đúng đắn và kịp thời trước tình hình thực tế
những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thấy sự cần thiết phải mở rộng, phát triển
hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước trong khu vực và mở rộng,
giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới. Việc nước ta tham gia vào các tổ chức
lớn trong cộng đồng thế giới đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan
trọng, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, việc vận dụng các
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào các hoạt động ngoại giao có ý nghĩa to
lớn mà Đảng ta cần nhận thức và lãnh đạo thực hiện nhằm góp phần đưa lại thành
công công cuộc đổi mới đất nước.
67
Chương 3
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986-2016
- KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, nước ta
bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sau chiến
tranh. Đất nước độc lập, thống nhất, thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong 10 năm từ 1975 - 1985, từ thực tế cách mạng Việt Nam sau
khi đất nước thống nhất, bên cạnh những yếu tố tích cực, trong quá trình phát triển
đất nước gặp nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề thuộc về nhận thức, quan điểm,
đường lối. Chính những khó khăn đã đưa đất nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Từ thực tế đó, Đảng ta tiến hành công cuộc
đổi mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra từ ngày 5 đến
ngày 18 tháng 12 năm 1986, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Thực
hiện công cuộc đổi mới ở nước ta trong điều kiện quốc tế và trong nước có những
nét nổi bật như sau:
Một là, sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô. Từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ngày càng lún sâu vào tình trạng khủng hoảng
toàn diện từ kinh tế, xã hội đến chính trị và sụp đổ vào cuối những năm 80 của thế
kỷ XX, và đến tháng 12 - 1991, Liên Xô hoàn toàn tan rã. Sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một tổn thất lớn đối với phong trào cách
mạng thế giới và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào cách mạng thế giới mất
đi một điểm tựa quan trọng. Những tiếng nói tiến bộ, mạnh mẽ, ít nhiều chú ý đến
nguyện vọng và lợi ích của các nước nhỏ tại các diễn đàn quốc tế lớn không còn.
Đối với Việt Nam, việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã làm
68
cho Việt Nam mất đi một chỗ dựa chiến lược về kinh tế và chính trị, mất đi một
nguồn viện trợ lớn về tài chính, nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu và thị trường
buôn bán truyền thống. Như vậy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã ảnh hưởng
không nhỏ đến tình hình thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Hai là, “Chiến tranh Lạnh” kết thúc, hòa bình hợp tác trở thành xu thế chủ
đạo trong các quan hệ quốc tế. Khái niệm “Chiến tranh Lạnh” được dùng để chỉ
tình trạng đối đầu căng thẳng, gay gắt, cuộc chạy đua vũ trang trong quan hệ giữa
các nước tư bản chủ nghĩa - đứng đầu là Mỹ và các nước xã hội chủ nghĩa - đứng
đầu là Liên Xô. Mặc dù không bùng nổ ra thành chiến tranh thế giới, nhưng
“Chiến tranh Lạnh” đã gây ra những cuộc chiến tranh cục bộ ở một số nơi trên thế
giới. Ví dụ như: chiến tranh ở Triều Tiên, ở Đông Dương. Tuy nhiên, vào những
năm 80 của thế kỷ XX, “Chiến tranh Lạnh” dần được giảm bớt với việc các nhà
lãnh đạo Xô - Mỹ tiến hành đàm phán, gặp gỡ nhau, thực hiện phương châm đối
thoại thay cho đối đầu. Đến khi Liên Xô tan rã, cuộc “chiến tranh lạnh” cũng
chấm dứt theo.
Sau khi “Chiến tranh Lạnh” kết thúc, quan niệm của cộng đồng quốc tế về
sức mạnh của một quốc gia đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây sức mạnh của
một quốc gia được đánh giá qua sức mạnh quân sự thì nay nó không còn chỉ là sức
mạnh quân sự mà trước hết và quan trọng hơn chính là sức mạnh kinh tế. Sự trỗi
dậy và vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) -
những nước bị thiệt hại nặng nề sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đó là những
minh chứng sinh động cho quan niệm này. Muốn tập trung mọi nguồn lực cho
phát triển kinh tế, các quốc gia cần phải tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để
cùng hợp tác và phát triển. Chính vì vậy, hòa bình, hợp tác đã trở thành xu thế chủ
đạo của thế giới sau “Chiến tranh Lạnh” mặc dù ở nơi này hay nơi khác trên thế
giới vẫn còn những cuộc chiến tranh hay xung đột cục bộ. Đảng ta đã nhận định:
Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới.
Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, hoạt động khủng bố
còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của
69
các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới
[147, tr.289].
Ba là, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và sự ra đời của kinh
tế tri thức. Từ nửa cuối thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến những bước phát triển
thần kỳ của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu
mới, do những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mang
lại. Đúng như C. Mác đã từng dự đoán, khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, tạo ra lượng của cải lớn cho toàn xã hội. Tỷ trọng chất xám kết tinh
trong các sản phẩm lao động ngày càng tăng cao. Ở các nước phát triển, đối với một
số loại sản phẩm, hàm lượng trí tuệ có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm.
Khoa học công nghệ phát triển là một động lực thúc đẩy và là yếu tố quan trọng tác
động tới diễn biến tình hình chính trị, kinh tế, an ninh của thế giới cũng như các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội loài người. Cùng với sự phát triển của khoa học -
công nghệ, thời gian từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng vào thực tiễn được rút
ngắn, sự gắn kết của các ngành khác nhau, giữa các lĩnh vực khác nhau ngày càng
được tăng cường. Khoa học và công nghệ mất dần giới hạn quốc gia cả trong
nghiên cứu và ứng dụng. Một số loại công nghệ cao mở ra nhiều tiềm năng mới cho
tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu và nâng cao chất lượng đời sống
con người, nhưng đồng thời cũng có thể bị lạm dụng vào những ý đồ và mục đích
khác của từng quốc gia nhằm tạo ra lợi thế, sức ép trong cạnh tranh, áp đặt bất lợi
cho số đông các nước khác. Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại phát triển đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong quá trình sản
xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Với vai trò vô cùng quan trọng của
khoa học - công nghệ trong sản xuất, khái niệm “kinh tế tri thức” ra đời. Trong nền
kinh tế tri thức, đặc điểm nổi bật là lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng
lao động trí tuệ. Trí tuệ trở thành nguồn nguyên liệu, nguồn tài sản quý giá nhất,
hơn bất cứ một nguồn nguyên liệu nào có trong tự nhiên. Để không bị “chậm chân”
trong cuộc đua kinh tế toàn cầu, các quốc gia phải xây dựng chiến lược nhằm nhanh
chóng nắm bắt, áp dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến của thế
giới vào xây dựng nền kinh tế tri thức.
70
Bốn là, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển mạnh mẽ, chi phối đời
sống kinh tế - xã hội toàn thế giới. Cùng với quá trình đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng cường. Các cuộc chạy đua về
khoa học - công nghệ vừa là động lực nhưng đồng thời cũng vừa là thách thức đối
với các nước. Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trở thành xu thế khách quan,
mặc dù nó có những tiêu cực, tồn tại. Các quá trình ấy làm tăng tính lệ thuộc lẫn
nhau trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quốc gia hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, toàn
diện hơn nữa để giải quyết. Đồng thời sự va chạm, cọ xát về lợi ích và các giá trị
tinh thần, văn hóa…giữa những bên tham gia vào các quá trình toàn cầu cũng
không ngừng tăng lên. Phản ứng chống lại các tiêu cực của toàn cầu hóa cũng nảy
sinh. Việc chủ động hội nhập quốc tế có thể tận dụng các cơ hội và lợi thế từ quá
trình ấy cho từng quốc gia và giảm thiểu được nhiều tác động tiêu cực.
Mối quan hệ giữa an ninh và phát triển là vấn đề được các nước ưu tiên xử
lý. Thế và lực của mỗi quốc gia phụ thuộc rất đáng kể vào việc xử lý đúng đắn mối
quan hệ đó. Những vấn đề của từng quốc gia đều cần phải được giải quyết trong bối
cảnh chung của khu vực và toàn cầu. An ninh và phát triển mang tính chất toàn diện
hơn. Một số nước có cơ hội vươn lên trở thành cường quốc hoặc nước mạnh. Thách
thức chung đặt ra đối với đa số các nước trên thế giới là sức mạnh chính trị, kinh tế
và quân sự của một số quốc gia tiếp tục chi phối đáng kể tình hình thế giới. Có thể
khẳng định rằng, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa có tác động lớn đến đường lối
chính sách của các quốc gia để tránh không bị gạt ra ngoài sự phát triển năng động
của cộng đồng quốc tế, đồng thời tránh không bị hòa tan, đánh mất mình khi gia
nhập sân chơi mới.
Bên cạnh đó, nhân loại đứng trước những vấn đề lớn mà muốn giải quyết
phải có sự hợp tác của tất cả các nước trên thế giới. Đó là những vấn đề về môi
trường sinh thái đang bị ô nhiễm nghiêm trọng; dịch bệnh, sự bùng nổ dân số, đói
nghèo và sự phân cực giàu - nghèo ngày càng thêm sâu sắc; tội phạm; khủng bố và
chống khủng bố,... Việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi nỗ lực của không chỉ riêng
một quốc gia, một dân tộc nào, đó phải là sự nỗ lực, chung sức của tất cả các nước,
các dân tộc trên thế giới, vì tương lai chung của nhân loại.
71
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
có những đặc điểm nổi bật như sau:
Một là, Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ nửa sau
thập niên 70 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khác nhau cả khách quan lẫn
chủ quan, trong đó có việc nước ta duy trì quá lâu cơ chế tập trung bao cấp đối với
nền kinh tế - xã hội, Việt Nam đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là sản xuất đình đốn; hàng hóa, nhất là
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng rất khan hiếm, Việt Nam vẫn phải nhập khối
lượng lớn gạo để đảm bảo nhu cầu của người dân trong nước, lạm phát tăng vọt,
năm 1986 lạm phát lên tới 774,7%. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của tình
hình trong nước và bối cảnh quốc tế khi đó, Đảng Coognj sản Việt Nam vẫn vững
vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua khủng hoảng. Với tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” [37, tr.16].
Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình, tiếp thu những sáng kiến của nhân dân và đề ra
đường lối phát triển toàn diện đất nước, trước hết là phải đổi mới tư duy về kinh tế.
Đường lối đổi mới của Đảng đã khơi dậy những tiềm năng của đất nước, của nhân
dân, đáp ứng được những mong mỏi, nguyện vọng của nhân dân nên đã được nhân
dân ủng hộ, hưởng ứng và tin theo. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (1996) đã nghiêm túc đánh giá tình hình đất nước sau 10 năm tiến hành công
cuộc đổi mới và khẳng định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành và cho
phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
[41, tr.67-68]. Để thực hiện tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
ngoài việc phát huy cao độ nội lực đất nước, chúng ta rất cần nguồn vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm từ bạn bè và cộng đồng quốc tế.
Hai là, tình hình chính trị trong nước ổn định, vai trò lãnh đạo của Đảng
được giữ vững. Song song với những thành tựu về kinh tế, công cuộc đổi mới
cũng đạt được những thắng lợi về chính trị, trong đó quan trọng nhất là giữ vững
72
ổn định về chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các thế lực phản động quốc tế cho rằng
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại sẽ nhanh chóng sụp đổ và thể chế chính trị xã
hội chủ nghĩa sẽ không còn tồn tại. Tuy nhiên, những nhận định đó hoàn toàn sai
lầm. Với bản lĩnh kiên định, sáng tạo, biết dựa vào nội lực của đất nước, dựa vào
nhân dân, Đảng ta đã giữ vững được vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với đất
nước, đưa đất nước từng bước vượt qua cuộc khủng hoảng của hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa. Đến nay, Việt Nam không những giữ vững thể chế chính trị và
vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là một
trong những điểm đầu tư hấp dẫn, điểm đến an toàn. Có thể thấy đây là một lợi
thế quan trọng hỗ trợ cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hợp
tác quốc tế.
Ba là, các thế lực phản động trong và ngoài nước không ngừng âm mưu
chống phá cách mạng, và Việt Nam trở thành một trong những trọng điểm đánh phá
của các thế lực thù địch. Âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ ngày
càng được thực hiện ráo riết. Chúng lợi dụng nhiều chiêu bài như: “nhân quyền”,
“tôn giáo”, “dân tộc” và cả sự tha hóa của một số cán bộ, đảng viên để ra sức xuyên
tạc, bôi nhọ bản chất chế độ. Chúng lôi kéo những người bất mãn, những người nhẹ
dạ, cả tin, hám lợi chống lại Đảng, chính quyền, đồng thời mưu toan cô lập, làm mất
uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Nằm trong chỉnh thể hệ thống các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chủ trương, chính sách về hợp tác quốc
tế tất yếu chịu những tác động của cuộc đấu tranh nhằm làm thất bại âm mưu phá
hoại của các thế lực thù địch.
Có thể khẳng định, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta quán triệt, vận dụng tư
tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều kiện quốc tế và trong nước
có những tác động đan xen, cả thuận lợi và khó khăn, cả thời cơ và thách thức. Trên
thực tế, những thời cơ và thách thức này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vượt qua
được thách thức thì sẽ có thời cơ đồng thời nếu không nắm bắt được thời cơ thì sẽ
gặp khó khăn, thách thức. Điều đó đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tìm tòi,
đổi mới, vượt qua thách thức, nắm bắt thời cơ, đưa đất nước đi lên.
73
3.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI
GIAO HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1986 - 2016
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh nói riêng là cơ sở lý luận quan trọng để cho Đảng và Nhà nước Việt
Nam hoạch định đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới. Với bản lĩnh và trí tuệ, Đảng ta đã đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa, với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin
cậy của tất cả các nước trên thế giới. Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn đó
đã góp phần tạo ra những thành tựu to lớn, rất quan trọng của công cuộc đổi mới,
đem lại cho đất nước thế và lực mới vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI.
3.2.1. Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Đường lối độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế hướng tới phục vụ lợi ích quốc
gia, dân tộc. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong việc đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc. Mục đích của độc lập, tự chủ luôn là
căn cứ quan trọng để hoạch định, triển khai chính sách ngoại giao của Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách ngoại giao của Việt Nam luôn coi đoàn kết quốc tế là một
nguyên tắc quan trọng nhất. Có thể nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn
đến thành công của cách mạng Việt Nam là xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa giữ
vững độc lập, tự chủ với việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Việc xử lý đúng đắn mối
quan hệ này góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc, nó trở thành
một trong những nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước,
cả trên bình diện đối nội và đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự tham gia của
quốc gia, dân tộc vào quá trình toàn cầu hóa với tính cách là một xu thế lịch sử
trong thế giới hiện đại. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều mang tính khách
quan, phản ánh những tất yếu của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Mặt
khác, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế lại nằm trong các hoạt động của
nhà nước, cho nên, sự thành bại của chúng lại phụ thuộc trước hết vào chế độ xã
hội, đảng cầm quyền và chính quyền ở mỗi nước. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự
chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế là phương thức hành động đúng đắn,
74
được đảm bảo bởi tính khách quan của bản thân nó. Tuy nhiên, kết quả của phương
thức hành động sẽ được quyết định bởi tư duy, đường lối, chiến lược, giải pháp...
của giai cấp lãnh đạo, nhà nước và toàn xã hội.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, mối quan hệ giữa giữ vững độc
lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được thực
hiện có hiệu quả, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan
trọng đối với đất nước. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam cần tiếp
tục phát huy kết quả đã đạt được; nắm bắt kịp thời, sâu sắc những thay đổi về nội
dung, kết cấu độc lập, tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Đồng thời, cần tránh hai quan điểm lệch lạc: Một là, cho rằng độc
lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương dung
với hội nhập quốc tế, do đó tự cô lập mình. Hai là, cho rằng trong thời đại toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân
tộc, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Cho nên, phải hội nhập nhanh chóng bằng bất cứ
giá nào dẫn đến tình trạng coi trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, miễn là có lợi ích
của cá nhân, bộ phận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy độc lập, tự chủ trong đối ngoại là vấn đề có
tính nguyên tắc, nhưng đồng thời phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, không tự
cô lập mình. Trên cơ sở đó, Đảng đã khẳng định: Hòa nhập, không hòa tan. Độc
lập, tự chủ nhằm phát huy sức mạnh bên trong của dân tộc, là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là điều kiện để mở rộng quan hệ và nâng cao uy
tín Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời vô hiệu hóa và phá thế bao vây cô lập
của các thế lực thù địch, khai thác những thuận lợi trong quan hệ quốc tế để tăng
cường sức mạnh cho ta. Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nếu
không có tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không đề ra được đường lối, giải
pháp đúng, phù hợp với điều kiện Việt Nam, mang nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại
bên ngoài, không từng bước vươn lên để tạo được thế và lực thì không thể mở rộng
quan hệ quốc tế để tăng thêm sức mạnh Việt Nam.
Độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập. Nếu không có tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực tự cường trong đối ngoại thì sẽ không có thế và lực và cũng sẽ không
giữ vững được an ninh chính trị, đặc biệt chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình”
75
của các thế lực thù địch. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường vốn là truyền thống quý
báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống này đã được hun đúc qua hàng ngàn năm
lịch sử, đến ngày nay càng được khẳng định khi Việt Nam tồn tại và phát triển trong
tình hình quốc tế khó khăn nhất, khi cách mạng thế giới đang thoái trào. Nhưng với
tinh thần tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, Việt Nam sẽ sớm vượt qua và có những
bước phát triển trong tương lai.
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới (1986) đến nay đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh năm 1991 nêu
đoàn kết, trong đó có đoàn kết quốc tế là “truyền thống quý báu và là bài học lớn”
[52, tr.130] của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh còn nêu ra bài học về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế:
Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa
mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân
tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất
nước tiến lên [52, tr.130-131].
Do đó, Cương lĩnh đã chỉ rõ: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất
nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội [52, tr.134 ].
Đại hội VII cũng chỉ ra rằng:
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có
những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng phải coi
trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu
76
tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả
các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau [39, tr.88].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) rút ra một trong
những bài học chủ yếu sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới là việc “mở rộng
hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” [41, tr.73-74]. Đại hội
cũng chỉ rõ:
Công cuộc đổi mới của nhân dân ta ngày nay phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại, được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước. Đi
đôi với việc phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, động viên mọi nguồn
lực bên trong, cần khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong quan
hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước vì hòa
bình, độc lập và phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ
những nhân tố tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
[41, tr.73-74].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đưa ra chủ trương lớn
về “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa” [47, tr.43]. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (tháng 1-2004) đã chỉ
rõ nhiệm vụ trong thời kỳ còn lại của Đại hội IX về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
là chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các điều
kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) nêu chủ trương:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [49, tr.112].
77
So với các Đại hội trước, điểm mới của Đại hội X là đã bổ sung và khẳng
định rõ nội dung mang tính tiêu chí trong đường lối đối ngoại của Đảng là “hòa
bình, hợp tác và phát triển” [49, tr.112], hoàn thiện thêm quan điểm chỉ đạo hội
nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu “tích cực” đi sâu hội nhập và tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Quán triệt quan điểm này nhằm mục tiêu bảo
vệ lợi ích căn bản của đất nước ta trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế, đó là độc lập dân tộc, hòa bình, phát triển bền vững theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; tranh thủ được điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) chủ trương: “thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [54, tr.72]. Đại hội xác định một trong tám
mối quan hệ cần tập trung giải quyết là mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội
nhập quốc tế. Để giải quyết được mối quan hệ này, bên cạnh việc nắm vững những
đặc điểm của thời đại, bối cảnh quốc tế và khu vực, cần thấy rõ một số thuận lợi và
khó khăn cùng tồn tại do hội nhập quốc tế đem lại với đối ngoại của Việt Nam. Thứ
nhất, với nội dung cốt lõi của hội nhập quốc tế là quá trình các nước tăng cường sự
gắn kết với nhau trên cơ sở nền tảng là sự chia sẻ lợi ích, mục tiêu, giá trị nguồn lực,
quyền lực và tuân thủ các luật “chơi” chung trong khuôn khổ các định chế, tổ chức
quốc tế nên hoạt động đối ngoại sẽ có nhiều cơ hội mở rộng, đi sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống thế giới, góp phần cùng các mặt hoạt động của quốc gia nhằm
mau chóng cụ thể hóa các mục tiêu đối nội đã đặt ra. Tuy nhiên, do phải chia sẻ lợi
ích và các giá trị nguồn lực, quyền lực của mình với các nước theo những quy định
bắt buộc của “cuộc chơi” nên các mục tiêu đối nội của các nước cũng như Việt
Nam sẽ không thể thực hiện được triệt để, kéo theo tính chất độc lập, tự chủ về đối
ngoại sẽ bị tác động ở những phạm vi khác nhau và mức độ nhất định. Thứ hai, hội
nhập quốc tế mang tính ràng buộc hơn và vượt lên trên sự hợp tác thông thường,
bởi nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính tuân thủ cao của các chủ thể tham gia. Khi các cam
kết quốc tế được ký kết sẽ tạo ra điều kiện pháp lý, trên cơ sở đó các thành viên
tham gia ký kết có thể được hưởng quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, việc có
được lợi ích luôn đi kèm với trách nhiệm và nghĩa vụ. Điều này sẽ tạo sức ép không
78
nhỏ đối với các thành viên khi thực thi cũng như khi không tuân thủ. Sự độc lập, tự
chủ của đối ngoại, vì thế, sẽ phụ thuộc vào sức mạnh nội lực, mức độ am hiểu luật
pháp quốc tế, các mối quan hệ lợi ích ràng buộc, lường trước những vấn đề có thể
xảy ra cũng như khả năng đề kháng với những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài...
Thứ ba, việc hội nhập quốc tế khi được mở rộng sang các lĩnh vực sẽ mở ra nhiều
cơ hội hơn nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức hơn. Thứ tư, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu vào một “sân chơi” đa dạng các đối tác lẫn đối tượng, phương pháp và
phong cách đối ngoại khác nhau sẽ tạo điều kiện phát triển toàn diện trí tuệ, tăng
cường nguồn lực và nâng cao bản lĩnh độc lập, tự chủ của ngoại giao Việt Nam.
Tuy nhiên, điều đó cũng thử thách sự bền vững, dẻo dai trong việc giữ vững độc
lập, tự chủ về đối ngoại. Khẳng định mình hay đánh mất mình chính là một thách
thức khi hội nhập sâu hơn vào một “sân chơi” quốc tế rộng lớn.
Trên cơ sở quan điểm Đại hội XI, Đại hội XII khẳng định “phải đặt lợi ích
quốc gia dân tộc lên trên hết; kiên định mục tiêu độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế” [55, tr.69]. Thực hiện nghị quyết Đại hội, trong giai
đoạn phát triển mới của Việt Nam - giai đoạn phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đã và
đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại, nhiệm vụ trung tâm của công
tác đối ngoại Việt Nam là: “Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội
nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định và tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để
xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [55,
tr.272]. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị này, đối ngoại Việt Nam cần phải
quán triệt sâu sắc và thực hành đúng tư tưởng xây dựng thực lực mạnh. Thực hiện
đúng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi.
Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to tiếng mới lớn”
[128, tr.126]. Tư tưởng này khẳng định bản chất, nguồn gốc cũng như điều kiện của
sức mạnh ngoại giao Việt Nam là thực lực, “muốn người ta giúp cho, thì trước hết
mình phải tự giúp lấy mình đã” [126, tr.293]. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ
về đối ngoại hiện nay là giữ vững ổn định về chính trị, xã hội; kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững; củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh; xây dựng nguồn
79
nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp; đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế; thiết lập và duy trì được trạng thái quan hệ quốc tế cân bằng với
các nước lớn, các trung tâm tài chính, kinh tế lớn, các nhóm, khối nước khu vực có
ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Bên cạnh đó phải chủ động tham gia vào các tiến trình khu vực và quốc tế,
nêu cao cảnh giác và có các biện pháp phù hợp trong hội nhập quốc tế. Độc lập và
tự chủ về đối ngoại của Việt Nam hiện nay luôn nằm trong các mối tương quan
chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới; giữa sự ổn
định, phát triển hay bất ổn, khủng hoảng ở khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái
Bình Dương; giữa tương quan lực lượng các đối tác và đối tượng. Tính biện chứng
của vấn đề độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, phụ
thuộc, chống áp đặt, lôi kéo, chi phối, can thiệp vào công việc nội bộ hay bị động,
bất ngờ trước những diễn biến của môi trường quốc tế, sự hợp tác của đối tác hay
chống đối của đối tượng mà chủ yếu còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong
việc tham gia vào các nội dung, tiến trình hoạt động của khu vực và quốc tế. Định
hướng hoạt động đối ngoại, Đại hội XII đưa ra nhiệm vụ giải pháp về đối ngoại:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập và
chủ quyền lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi...[55, tr.313-314].
Để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại cần luôn chủ động tham gia vào
các tiến trình hoạt động quốc tế, với tư cách là người trong cuộc để có các dự báo
chiến lược và trực tiếp đề xuất những sáng kiến của mình trong các thỏa thuận quốc
tế, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, hạn chế thấp nhất những khác biệt, bất đồng... Đồng
thời, cũng cần phát huy vai trò, tham gia một cách có trách nhiệm đối với việc bảo
đảm sự ổn định của khu vực và quốc tế, thông qua các sáng kiến, đề xuất được cộng
đồng chấp nhận. Mặt khác, cần luôn đề cao cảnh giác trong quan hệ đối ngoại và
hợp tác quốc tế. Tích cực thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế, “thêm bạn bớt thù”... Bằng nhiều nội dung, biện pháp thích hợp
chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, sự lừa đảo và “chụp giật” về kinh tế; bằng
80
nhiều hình thức đối ngoại phù hợp để chủ động tiến công các thế lực thù địch từ bên
ngoài lãnh thổ Việt Nam, thực hành tốt tư tưởng “ngoại giao là một mặt trận”. Đảng
ta cần tiếp tục quán triệt tinh thần: “Kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi” [55, tr.69].
3.2.2. Mở rộng quan hệ ngoại giao khu vực và quốc tế, song phương và
đa phương
Với quan điểm “thêm bạn bớt thù”, trước những chuyển biến của tình hình
thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức và thực hiện quá trình đổi mới
tư duy đối ngoại, với những điều chỉnh, định hướng mới phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh mới đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cấp bách của công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đối ngoại của Đảng được xây dựng trên
cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng đã đề ra chủ trương tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tạo thế ổn định để tập trung xây dựng kinh tế,
kết hợp tốt nhất sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đồng thời tích cực
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nội dung đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại rộng mở, do Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) thông qua, mở ra một thời
kỳ mới cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Quán triệt tư tưởng, phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế và hợp tác giữa các quốc gia, dân
tộc, Đại hội đề ra chủ trương kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại “thêm bạn bớt
thù”, “mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”
[50, tr.561], đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, Đảng ta đề ra chủ trương phải tham gia sự phân công lao
động quốc tế... tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các
nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư
nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Chủ trương này đáp ứng
yêu cầu của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển, tiến bộ của thời đại và đưa lại
những thành tựu tích cực. Đó còn là tiền đề nhận thức và quan điểm phấn đấu giải
81
quyết những vấn đề tồn tại, phá thế bao vây cấm vận, cải thiện quan hệ với tất cả
các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức quốc tế và tạo dựng vị thế quốc tế
cao cũng như điểm xuất phát thuận lợi của Việt Nam để tham gia vào quá trình hội
nhập quốc tế sau này.
Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam được tiếp
tục phát triển lên một bước mới với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(1991). Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong việc thực hiện đường
lối đối ngoại của Đại hội VI là thắng lợi to lớn, đúng hướng: “những thành tựu đối
ngoại đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đẩy lùi một bước âm mưu bao vây, cô lập đối với nước ta, tăng thêm bầu
bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế” [39, tr.40-41]. Đại hội cũng
chỉ ra những khuyết điểm như chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời tình hình thế giới và
quan hệ quốc tế để có chủ trương đúng, chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức
và hành động giữa một số ngành trong một số trường hợp.
Để phá thế bị bao vây, cấm vận và phát triển quan hệ đối ngoại, Đại hội VII
đã đưa ra một quyết sách mới về đối ngoại. Việt Nam chuyển từ phương pháp
“Thêm bạn bớt thù” của giai đoạn trước sang đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa. Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ đối ngoại là: “Tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi, mở rộng và tăng cường quan hệ quốc tế về chính trị, kinh
tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng
có lợi, bảo vệ sản xuất, kinh tế và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy những
truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc” [52, tr.91]. Đại hội đã đưa ra
một tuyên bố quan trọng: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố
rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [39, tr.147].
Về quan hệ kinh tế quốc tế, Đảng chủ trương gắn thị trường trong nước với
thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu, đồng thời xác định rõ phương châm và các nguyên tắc trong quan hệ đối
ngoại: Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên
nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Chủ trương này đã
82
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khởi đầu cho tiến trình tham gia ngày càng sâu
rộng vào phân công lao động và quan hệ kinh tế quốc tế.
Những nội dung đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng (1996). Đại hội đã đánh giá kết quả của công tác đối ngoại
sau 10 năm đổi mới và sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII là “Phát triển
mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế” [48, tr.449]. Việt Nam từng bước thực hiện bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc. Đã đẩy lùi âm mưu bao vây, cấm vận và bình thường
hóa quan hệ với Mỹ (tháng 7-1995), với Tây Âu và Bắc Âu và mở rộng quan hệ với
nhiều nước trên thế giới. Thành tựu to lớn của công tác đối ngoại đã tạo điều kiện
cho bước chuyển đầu tiên rất quan trọng và những tiền đề thuận lợi cho sự phát
triển của đất nước trong những giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở những thành tựu của
công cuộc đổi mới và những thắng lợi của công tác đối ngoại, Đại hội VIII tiếp tục
đề ra 5 chủ trương lớn về công tác đối ngoại như sau:
Thứ nhất, mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa phương với
các nước, tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp nhằm
giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh,
hợp tác và phát triển.
Thứ hai, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ
chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi
trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế
giới, đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển
ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và với phong trào không liên kết.
Thứ ba, tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ
chức quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân và
các phương tiện giết người hàng loạt khác.
83
Thứ tư, phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng
cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền và các đảng khác.
Thứ năm, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển.
Có thể thấy, đường lối đối ngoại của Đại hội VIII nêu ra là sự tiếp nối của
đường lối đối ngoại đổi mới ở Đại hội VI, VII nhưng được nâng lên tầm cao hơn,
mối quan hệ từ chiều rộng chuyển sang chiều sâu với phương châm đa dạng hóa, đa
phương hóa các mối quan hệ. Nước ta từ thế bị bao vây, cấm vận, từng bước được
nâng cao vị trí và uy tín trên trường quốc tế, cùng tham gia giải quyết các vấn đề
mang tính khu vực và toàn cầu, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại ra các nước
khác để tiến tới thực hiện hợp tác kinh tế thương mại nhằm chủ động hội nhập vào
xu thế toàn cầu hóa để phát triển đất nước theo hướng có lợi nhất.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: “Lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta” [47, tr.84] và đồng thời nêu rõ “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [47, tr.42]. Phát triển quan điểm của Hồ Chí
Minh về Việt Nam sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai” [129, tr.256], Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VII (1991)
đã khẳng định phương châm của đường lối đối ngoại là Việt Nam muốn là bạn với
tất cả các nước, Đại hội VIII đã bổ sung, phát triển và hoàn thiện nội dung tư tưởng
ấy thành phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, Đại hội IX xác định là bạn và
đối tác tin cậy. Điều đó thể hiện bước tiến mới rất quan trọng cả về phương diện lý
luận cũng như thực tiễn trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng trong
thời kỳ hội nhập quốc tế.
Chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và tham gia hợp tác khu
vực là sự phát triển biện chứng và quan trọng trong tư duy của Đảng về đường lối
84
chính sách đối ngoại, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của quan hệ quốc tế hiện đại của
nước ta, với đặc điểm của quan hệ toàn cầu mới và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh về thêm bạn bớt thù, tranh thủ mở rộng tối đa quan hệ của Việt Nam với thế
giới. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Hồ Chí Minh rất chú trọng
quan hệ đa phương và đa dạng giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Đây là
điều mà Hồ Chí Minh rất quan tâm ngay sau khi nước Việt Nam mới ra đời và
trong quá trình vừa kháng chiến vừa kiến quốc” [59, tr.86].
Đảng ta chủ trương và thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, trước hết về kinh tế, nhằm phát huy tối
đa nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực. Hai khía cạnh này liên quan đến nhau và bổ
sung cho nhau trong một mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ ấy thể hiện
tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế ngày nay diễn ra trong điều kiện
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng lên. Chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa phải nhằm tạo dựng thế ổn định lâu bền và có lợi nhất cho đất nước ta
trong các mối quan hệ quốc tế.
Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (2006) tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [49, tr.112].
Việc Đại hội X tái khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế góp phần củng cố hơn nữa
lòng tin cho các đối tác nước ngoài khi thiết lập quan hệ và triển khai hợp tác với
nước ta trong mọi lĩnh vực. Những quan điểm của Đảng ta chỉ đạo quá trình hội
nhập này là hoàn toàn phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng, coi hội nhập kinh
tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó, cần tỉnh táo, khôn khéo
85
và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề,
trường hợp, thời điểm cụ thể. Điều quan trọng và có tính nguyên tắc là kết hợp chặt
chẽ là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng,
thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố
chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thực hiện “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.
Để tiếp tục mở rộng và tăng cường hiệu quả trong việc thực hiện đường lối
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế, Đại hội X lần
đầu tiên nêu rõ chủ trương chú trọng “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào
chiều sâu, ổn định, bền vững” [49, tr.112], đồng thời phát triển quan hệ với tất cả
các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Đương nhiên, việc
quán triệt thực hiện chủ trương này phải dựa trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động đối ngoại được Đại hội X xác định là: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi [49, tr.39].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011). Nội dung về đối ngoại của văn kiện này khẳng định việc thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại:
Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của
đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có
lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế [54, tr.83-84].
Có thể thấy đường lối đối ngoại của Đảng được thông qua tại Đại hội XI là
sự kế thừa và phát triển đường lối đối ngoại qua các thời kỳ, nhất là của 25 năm đổi
mới. Phát huy truyền thống dân tộc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
86
ngoại giao trong tình hình mới, Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã đề
ra đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hóa
giải thế bị bao vây cô lập. Việc thực hiện nhất quán và không ngừng mở rộng, hoàn
chỉnh nội hàm của đường lối sáng suốt ấy, đã góp phần quan trọng vào công cuộc
bảo vệ Tổ quốc và tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất có thể để đất nước
phát triển.
Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng tại Đại
hội XI. Đại hội XII đã nêu rõ định hướng nâng cao hiệu quả các hoạt động đối
ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Cho đến nay, Việt Nam
đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước và có quan hệ về kinh tế, thương mại và
đầu tư với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Trong các mối quan hệ đa phương, song
phương này, Việt Nam tiếp tục ưu tiên tạo dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu
nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, khu vực. Việt Nam sẽ chủ động thúc
đẩy quan hệ nhiều mặt với các nước lớn trên cơ sở hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau và
cùng có lợi. Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa,
Việt Nam cũng luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước bạn bè truyền thống, các nước khác ở châu Á, Đông Âu, Trung Đông,
châu Phi và Mỹ La-tinh.
Từ muốn là bạn ở Đại hội VII, đến sẵn sàng là bạn tại Đại hội VIII và là bạn
và đối tác tin cậy của Đại hội IX, X, Đại hội XI bổ sung thêm thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đại hội XII tiếp tục khẳng định quan điểm Đại hội
XI đưa ra. Nội hàm của “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế” [55, tr.35] này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao
Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm tại các cơ
chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, góp phần củng cố, nâng cao
vị thế của đất nước trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao
song phương. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng Việt Nam luôn
nhận thức rõ rằng, các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những
lợi ích riêng, đôi khi trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá
trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thành công sẽ đến khi Việt Nam chủ động, tích
cực phát huy các điểm tương đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục những bất đồng
87
nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo
đảm lợi ích chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng
quốc tế. Việt Nam đã, đang và sẽ còn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với nhiều
nước. Song, nội hàm của mỗi mối quan hệ đối tác chiến lược này không hoàn toàn
giống nhau. Có mối quan hệ hợp tác toàn diện, có mối quan hệ đặt trọng tâm vào
hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục...
Đường lối độc lập, tự chủ và chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế là sợi chỉ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong
thời gian qua. Với sự kế thừa và phát triển của Đại hội XII, việc thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại này là điều kiện tiên quyết để hoàn thành nhiệm vụ giữ vững
môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của
đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
3.2.3. Đường lối đối ngoại phục vụ lợi ích của quốc gia, dân tộc
Quán triệt quan điểm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, lợi ích
cao nhất của dân tộc và cũng là lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; ra sức phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập và
thống nhất. Đây là mục tiêu bất biến của cách mạng Việt Nam, do vậy, công tác đối
ngoại phải phục vụ lợi ích chân chính đó của dân tộc và cũng là để thực hiện nghĩa
vụ quốc tế. Bước sang giai đoạn mới, việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc trong
công tác đối ngoại là một hoạt động chính trị thường xuyên và có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Lợi ích quốc gia bản thân nó bao gồm các mục tiêu chiến lược, đôi khi
cả những công cụ thực hiện mục tiêu mà quốc gia theo đuổi trên trường quốc tế. Lợi
ích quốc gia của một nước sẽ chỉ đạo các nguyên tắc, phương châm, chính sách đối
ngoại và hoạt động bang giao của nước đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn là
chủ thể xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam. Trong thời kỳ lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng lấy độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là mục
88
tiêu tối thượng. Lợi ích đó được thể hiện qua câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” [136, tr.108]. Các mục tiêu nói trên đã
được Đảng và nhân dân ta bền bỉ theo đuổi trong suốt quá trình đấu tranh giành lại
các quyền dân tộc cơ bản, từ cuộc Cách mạng Tháng Tám cho đến các cuộc chiến
tranh giữ nước sau này.
Thời kỳ đổi mới đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam
hiện đại, khởi đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-
1986). Đổi mới đã trở thành một chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng ta nhằm
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh
quốc tế sau Chiến tranh Lạnh. Quá trình xác định lợi ích quốc gia dân tộc trong thời
kỳ đổi mới, trước mắt để ứng phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta đã
đặt lên hàng đầu mục tiêu phát triển trong khi vẫn kiên định mục tiêu bảo đảm an
ninh quốc gia. Cương lĩnh 1991 của Đảng khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nêu cao cảnh giác,
củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc
và các thành quả cách mạng” [52, tr.112].
Quá trình thực hiện mục tiêu đảm bảo lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới của
Đảng, với các mục tiêu ở trên, đã trải qua một số giai đoạn trọng yếu. Giai đoạn
1986-1996 là thời gian định hình nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia mới, thể
hiện qua các nghị quyết của Đảng về đối ngoại như Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị
(7-1986), Nghị quyết Đại hội VI (12-1986), Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5-
1988), Nghị quyết Đại hội VII (6-1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VII (6-1992)...
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996), Đảng đề ra
chiến lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước đến năm 2020. Sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đôi với quá trình hội nhập quốc tế, hội nhập khu
vực, đã tiếp tục thúc đẩy nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới.
Quan niệm của Đảng về lợi ích an ninh cũng chuyển biến từ an ninh truyền thống
tới “an ninh toàn diện”. Tháng 7 năm 2003, Trung ương Đảng thông qua Nghị
89
quyết 8 về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhấn mạnh nhiều khách
thể an ninh cần được bảo vệ khỏi các mối đe dọa truyền thống cũng như phi truyền
thống. Nghị quyết 8 đã chỉ ra 6 mục tiêu an ninh, tương ứng với những khách thể an
ninh cụ thể:
Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; sáu là, giữ vững ổn định chính trị
và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa [6, tr.45-46].
Nhận định của Đảng về lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam cho thấy sự
liên tục và nhất quán trong suốt 30 năm đổi mới. Việc coi trọng mục tiêu phát triển
và đổi mới tư duy về mục tiêu an ninh là hạt nhân cốt lõi của lợi ích quốc gia Việt
Nam trong giai đoạn này. Lợi ích đó đã nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân
và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Những thành công trong công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hoạt động đối ngoại thời gian qua đã cho thấy nhận thức của
Đảng về lợi ích quốc gia cơ bản là đúng. Cho đến nay, các quyết sách thể hiện tư
duy của Đảng về lợi ích quốc gia vẫn còn nguyên giá trị.
Việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc phải dựa trên cơ sở thực tiễn đất nước,
quốc tế và nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao và phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh. Nói cách khác “tư tưởng, phương pháp ngoại giao của Hồ Chí
Minh” đã trở thành chủ lưu trong hệ thống quan điểm và giá trị về đối ngoại của
Đảng trong thời kỳ hiện nay. Quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc
gia dân tộc đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Phục vụ các quyền
cơ bản của dân tộc đi đôi với đoàn kết quốc tế là trọng tâm trong tư tưởng, phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến hạnh phúc của nhân dân, phồn
vinh của quốc gia, chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, đã trở thành giá trị độc đáo trong
mục tiêu cách mạng của Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xác
định lợi lợi ích quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần coi trọng
90
mục tiêu phồn vinh cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân, bên cạnh các mục tiêu
truyền thống là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhận định về tương quan lực lượng của tình hình thế giới có ảnh hưởng
đến việc xác định đường lối đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”, Đại hội XI
nhận định: “cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ
quốc tế…; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn
có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi” [54, tr.183]. Cục diện
quyền lực đó lại vận hành trong bối cảnh các vấn đề toàn cầu như an ninh tài
chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai… không
ngừng chi phối sự quan tâm, lo lắng của các nhà lãnh đạo quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia vừa và nhỏ. Cạnh tranh quyền lực các nước lớn và quan hệ nước lớn -
nước nhỏ sẽ càng phức tạp thêm trong tình hình “tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích
mới” [54, tr.184].
Trên cơ sở đó, Đại hội XI, XII tiếp tục khẳng định mục tiêu đường lối đối
ngoại là: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đảng
cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là
cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc
và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó. Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc
gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng có ý
nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển
khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định
sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng
định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi
ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách
khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối
ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải
tuân thủ.
91
3.2.4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy sức
mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trước tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất
trắc và thay đổi khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi có sự đan
xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa các cường quốc trong khu vực và thế giới, đặc biệt
là về chủ quyền lãnh thổ và an ninh biển Đông.
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là vận dụng quan
điểm phát huy sức mạnh tổng hợp trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Thế và lực của đất nước không ngừng được củng
cố tạo tiền đề thuận lợi để tranh thủ được sức mạnh của thời đại và kết hợp sức
mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc. Sức mạnh của thời đại bao hàm những nội
dung mới như đã trình bày ở trên. Chính vì thế, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại trong giai đoạn mới diễn ra đa dạng và đa tầng với phương
thức mới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại là một trong những bài học lớn và
xuyên suốt nhất của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta khẳng định: “trong điều kiện mới
càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [39, tr.88].
Tiếp tục tinh thần đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng đã chỉ rõ: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế là một trong năm bài học lớn
của cách mạng nước ta.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở
rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” [41, tr.73].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới
diễn ra vào lúc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão,
92
toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi.
Tiến hành đổi mới, nhân dân Việt Nam ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những
xu thế nói trên tạo ra”, “sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối
đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân với sức mạnh và thế trận an ninh nhân dân” [47, tr.117]. Tiếp nối
tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X làm sâu sắc thêm: “Phát huy cao
độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới” [49, tr.71].
Chủ động hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng là để
tận dụng sức mạnh của thời đại. Việc thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá quan
hệ quốc tế mở ra khả năng tập hợp lực lượng rộng rãi phù hợp với mục tiêu cách
mạng trong giai đoạn mới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại còn
đồng thời phát huy triệt để những thế mạnh của chính mình để tận dụng mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ quốc tế. Thế mạnh của đất nước ta là
những mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta đề ra phù
hợp với xu thế phát triển tiến bộ của thời đại. Dựa vào cái chung để phát huy cái
riêng nhằm tăng thế và lực của đất nước, dùng thế và lực ấy bổ sung và hỗ trợ cho
nhau. Tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi là vừa góp
phần bảo đảm an ninh quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để
kết hợp và bổ sung cho nội lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong
quá trình ấy cần nêu cao chính nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
gắn kết sự nghiệp của đất nước với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế là một nội dung quan trọng trong triển khai đường lối đối ngoại
của Đại hội XI với tinh thần là “thành viên có trách nhiệm” trong quá trình “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế” [54, tr.236]. Theo đó hội nhập quốc tế của Việt
Nam không còn chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh
93
vực khác của đời sống xã hội. Quá trình này sẽ tạo cơ hội lớn trong tiếp cận tri thức
tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước
trở thành một bộ phận không thể thiếu của khu vực và thế giới. Tổng kết các kinh
nghiệm thành công của phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong lịch sử, nắm vững các bài học then chốt và vận dụng một cách linh hoạt
các bài học đó trong bối cảnh, tình hình trong nước và thế giới hiện nay là chìa khóa
để thực hiện thành công nhiệm vụ tổng quát của công tác đối ngoại mà Đảng đã xác
định tại Đại hội XII là “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới” [55, tr.79].
Để tận dụng được sức mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng
phát triển ở trong nước, cần tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lượng và khai thác
tính tùy thuộc lẫn nhau và sự ràng buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn bớt thù, hạn
chế sự chống phá và làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực bên ngoài gây mất ổn
định và làm suy yếu Việt Nam. Muốn xác lập được một đường lối và chính sách đối
ngoại, mềm dẻo, linh hoạt có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp của
tình hình, Việt Nam phải học tập tư tưởng, phương pháp Hồ Chí Minh: Phải nhận
thức được thời đại mình đang sống một cách thật sâu rộng, chỉ có như vậy mới nắm
bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, dự đoán được tương lai.
Nói cách khác, công tác đối ngoại phải làm tốt chức năng thông tin, nghiên cứu và
dự báo tình hình khu vực và thế giới để kịp thời làm tham mưu cho Đảng về những
chủ trương, chính sách mới khi tình hình thay đổi.
3.3. MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
(1986 - 2016)
3.3.1. Một số thành tựu
Thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa
VI), Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), và các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX,
X, XI và Đại hội XII, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước được mở rộng
94
chưa từng thấy, hết sức phong phú, đưa Việt Nam nhanh chóng hội nhập với khu
vực và quốc tế với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường hóa và có những bước
phát triển mới trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, các nước Đông Nam Á và nhiều
nước khác, gia nhập ASEAN.
Vào đầu những năm 80, các nước ủng hộ ba phái Khơme lấy cớ Việt Nam
duy trì quân đội ở Campuchia để thực hiện chính sách cấm vận và tiến hành các
hoạt động chống phá Việt Nam. Họ đòi hỏi Việt Nam phải rút quân đội ra khỏi
Campuchia như điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam. Như vậy, việc mở cánh cửa hội nhập với khu vực và thế giới không có cách
nào khác là giải quyết cho được vấn đề Campuchia. Thực hiện Nghị quyết 13 của
Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI), Việt Nam đã rút hết quân khỏi
Campuchia, chủ động thúc đẩy các bên liên quan tìm kiếm một giải pháp chính trị
cho vấn đề Campuchia. Ngày 5/4/1989, Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân tình
nguyện trong năm 1989 dù có giải pháp hay không. Tháng 9-1989, Việt Nam rút
hết quân tình nguyện khỏi Campuchia về nước.
Với việc rút hết quân đội khỏi Campuchia, cùng với các thỏa thuận tại JIM -
1 và JIM - 2, thỏa thuận giữa các bên Campuchia và thỏa thuận giữa các nước P-5,
Hội nghị quốc tế về Campuchia được triệu tập tại Pari, các bên tham gia Hội nghị
đã đi đến ký kết Hiệp định với nội dung cơ bản là công nhận và khẳng định tôn
trong độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trung lập và thống nhất dân tộc của
Campuchia, công nhận Hội đồng dân tộc tối cao là cơ quan hợp pháp duy nhất
trong thời kỳ quá độ; thành lập cơ quan kiểm soát của Liên Hợp Quốc (UNTAC)
kiểm soát các ngành ngoại giao, quốc phòng, tài chính, an ninh, thông tin; quy định
tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu Quốc hội lập hiến, soạn thảo Hiến pháp, lập
Chính phủ mới ở Campuchia… Sau Hiệp định Pari và bầu cử ở Campuchia, Việt
Nam đã điều chỉnh quan hệ với Campuchia cho phù hợp với sự thay đổi của tình
hình, theo đó Việt Nam phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, quan
hệ với cả hai Đảng cầm quyền CPP và FUNCIPEC, đồng thời tích cực giải quyết
các vấn đề tồn tại như biên giới, lãnh thổ, Việt kiều… Đến nay, Việt Nam và
Campuchia đã ký với nhau nhiều hiệp ước giữa hai bên về chính trị như: Hiệp định
95
về vùng nước lịch sử chung; Hiệp ước hoạch định biên giới (1985); Hiệp định Lãnh
sự (2006)... Về kinh tế, việc giao thương giữa hai nước ngày càng tăng mạnh, thể
hiện qua những chỉ số về đầu tư của Việt Nam sang Campuchia. Kim ngạch thương
mại hai chiều tăng đều hàng năm từ 25-35%, năm 2006 đạt 940 triệu USD. Giai
đoạn 2001-2011, tăng 17 lần, từ 169 triệu USD lên 2,83 tỷ USD, năm 2012 đạt
khoảng 3,1 tỷ USD [62, tr.125], năm 2014 đạt trên 3,225 tỷ USD [22, tr.19] và kim
ngạch thương mại song phương năm 2015 đạt 3,370 tỷ USD [23, tr.22]. Cả hai
cũng có nhiều hợp tác với nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực mà hai bên có
tham gia. Tuy quan hệ hai nước đang phát triển thuận lợi, nhưng vẫn chứa đựng
những yếu tố không ổn định bởi vấn đề biên giới lãnh thổ và âm mưu chia rẽ của
các thế lực bên ngoài.
Giải quyết được vấn đề Campuchia đã góp phần tích cực vào việc bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Từ sau Đại hội VI, Việt Nam đã có những
điều chỉnh quan hệ đối với Trung Quốc và coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc.
Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách toàn diện, lâu dài và
những biện pháp nhằm từng bước khắc phục tình trạng đối đầu giữa hai nước, kiên
trì và chủ động tạo điều kiện để bình thường hóa quan hệ Việt - Trung và khôi phục
quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước; không để các tranh chấp cụ thể, cục bộ
và nhất thời ảnh hưởng đến chiến lược cơ bản và lâu dài của Việt Nam đối với
Trung Quốc. Tháng 11/1991 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và
Thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc theo lời mời
của các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Cuộc đi thăm
có ý nghĩa rất quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Hai bên đã ra
thông cáo chung và ký kết một số hiệp định. Thông cáo chung Việt Nam - Trung
Quốc đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ chính thức giữa hai nước. Sau khi
bình thường hóa quan hệ, từ năm 1992 đến nay, hai bên đã trao đổi rất nhiều đoàn
cấp cao và quan hệ hai nước đã có những bước phát triển lớn, quan hệ hữu nghị
truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước đã được phục hồi và phát triển
nhanh chóng và được nâng lên tầm cao mới với khuôn khổ được xác lập trong
Tuyên bố chung cấp cao hai nước tháng 2 năm 1999 là láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Mối quan hệ Việt Nam - Trung
96
Quốc phát triển ở cả ba lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng cho cả hai nước. Hợp tác kinh tế thương mại giữa hai
nước được đẩy mạnh. Kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng từ 32 triệu USD năm
1991 lên 10 tỷ USD năm 2006. Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đạt
27,3 tỷ USD; năm 2012 đạt 41 tỷ USD [62, tr.129-130], năm 2015 đạt 66,6 tỷ USD
tăng 13,7 % so với năm 2014 [23, tr.24]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn còn tồn tại nhiều bất đồng, mâu thuẫn
lớn nhỏ khó giải quyết và không chỉ trong việc tranh chấp hai quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa.
Giải quyết vấn đề Campuchia cũng tạo cơ hội cho bình thường hóa quan hệ
với Mỹ. Sau quá trình tích cực chuẩn bị và đàm phán đầy thiện chí với tinh thần
“gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, Việt Nam đã đạt được những kết quả khả
quan. Ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận chống Việt
Nam và thiết lập cơ quan liên lạc tại Hà Nội. Ngày 11/7/1995, chính quyền Mỹ
tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và thiết lập quan hệ ngoại giao với
nước ta ở cấp đại sứ. Từ khi bình thường hóa quan hệ cho đến nay hai bên đã
thường xuyên trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Mốc đánh dấu quan trọng trong quan hệ
giữa hai nước Việt - Mỹ là sự kiện tháng 11 năm 2000, Tổng thống Bill Clinton
thăm chính thức nước ta. Sau đó, lãnh đạo hai nước cũng đã gặp gỡ tại nhiều diễn
đàn đa phương. Đặc biệt là chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Phan Văn Khải từ ngày
19 đến 26 tháng 6 năm 2005 là một sự kiện khai thông lớn. Đây là chuyến thăm Mỹ
đầu tiên của Thủ tướng Việt Nam sau 30 năm chiến tranh và sau 10 năm hai nước
bình thường hóa quan hệ. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ra tuyên bố chung
khẳng định mong muốn phát triển trên những nguyên tắc chung là tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Từ đó đến nay, giữa Việt Nam và Mỹ
có những chuyến thăm ngoại giao giữa hai bên trên nguyên tắc đối thoại và hợp tác.
Tháng 7-2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành chuyến thăm chính
thức tới Hoa Kỳ, hai bên đã ra Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Việt Nam -
Hoa Kỳ, làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác lâu dài, tăng cường hợp tác trong các vấn
đề khu vực và toàn cầu, xác định hướng quan hệ toàn diện, ổn định cho giai đoạn
2016-2020. Tháng 5-2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã sang thăm Việt Nam.
97
Hai bên đã ra Tuyên bố chung, nhất trí tăng cường quan hệ đối tác toàn diện theo
hướng thực chất, sâu sắc, hiệu quả hơn vì lợi ích hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển trong khu vực và thế giới. Về quan hệ kinh tế, quan hệ buôn bán
giữa hai nước tăng nhanh: từ 1,48 tỷ USD năm 2001 lên 6,16 tỷ USD năm 2004, đạt
11,7 tỷ USD năm 2007 [62, tr.170]. Trong năm 2014, kim ngạch thương mại hai
chiều đạt 34,94 tỷ USD [22, tr.34]; năm 2015 đạt 45 tỷ USD tăng 24% so với năm
2014 [23, tr.36]. Có thể thấy hiện nay, quan hệ Việt - Mỹ đang có những bước phát
triển hết sức tốt đẹp. Từ sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, lần đầu tiên
Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới, góp phần củng cố vị thế
của Việt Nam và tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh
tế, chính trị thế giới.
Sau khi có giải pháp hòa bình về vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam
với từng nước ASEAN cũng như tổ chức ASEAN nói chung có những bước phát
triển nhanh chóng. Từ năm 1991, lãnh đạo Việt Nam và lãnh đạo các nước ASEAN
liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Giữa hai bên đã ký hàng chục hiệp định cấp chính
phủ, tạo cơ sở cho việc phát triển quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ
thuật. Năm 1992, Việt Nam tham gia hiệp ước Ba-li, trở thành quan sát viên của
ASEAN, tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã chính thức gia nhập ASEAN, Quốc hội
Việt Nam gia nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO). Việt Nam tham gia
ASEAN đã góp phần tạo môi trường khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất
nước, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, có thêm đối tác, nâng cao vị thế của Việt
Nam để thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế khác. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay,
Việt Nam cũng đã có những đóng góp quan trọng thúc đẩy vị thế của ASEAN trên
trường quốc tế. Ngược lại, những thành tựu đạt được trong tham gia hợp tác, liên
kết ASEAN đã góp phần củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam ở khu
vực và trên thế giới.
Thứ hai, cải thiện và tăng cường, mở rộng quan hệ với châu Á - Thái Bình
Dương, tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với
mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị, gia nhập Diễn đàn hợp tác
Á - Âu (ASEM), tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng quan hệ với các nước
Liên minh châu Âu (EU).
98
Từ khi vấn đề Campuchia được giải quyết, quan hệ giữa Việt Nam với các
nước trên thế giới được khôi phục và không ngừng phát triển.
Với Nhật Bản, Việt Nam xác định, việc phát triển quan hệ với cường quốc
kinh tế thế giới này có tầm quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam. Đồng thời, sự
hợp tác toàn diện giữa hai nước góp phần vào việc giữ gìn và củng cố môi trường
hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Việt Nam cũng
coi trọng quan hệ với Hàn Quốc và cũng coi Hàn Quốc là đối tác quan trọng hàng
đầu. Với Úc và NiuDilân, Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ và có những bước
phát triển lớn trong thời gian gần đây.
Đối với các nước Tây Bắc Âu, một trong ba trung tâm kinh tế chính trị, văn
hóa lớn hàng đầu của thế giới, có vai trò và tiếng nói ngày càng quan trọng trong
đời sống chính trị và kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cải
thiện quan hệ, tăng cường và mở rộng hợp tác nhiều mặt. Chủ trương này đã được
các nước Tây Bắc Âu đáp ứng vì nó phù hợp với lợi ích của các bên. Sau khi Việt
Nam rút hết quân khỏi Campuchia, các nước Tây Bắc Âu đã bỏ qua chính sách bao
vây, cấm vận của Mỹ để tăng cường quan hệ với Việt Nam. Nhiều lãnh đạo cấp cao
của các nước châu Âu đã sang thăm Việt Nam. Việt Nam đã ký kết với hầu hết các
nước Tây Bắc Âu hiệp định khung về hợp tác, hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định kinh tế khác, tạo cơ sở
pháp lý cho việc xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài.
Phát triển quan hệ tốt với các thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã có tác
dụng thúc đẩy tích cực quan hệ giữa nước ta với các tổ chức quốc tế và các nước
khác trên thế giới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác giữa Việt
Nam với Liên minh châu Âu. Điều đó được thể hiện qua việc Việt Nam và Liên
minh châu Âu ký hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai bên (22/10/1990),
Nghị quyết của Cộng đồng kinh tế châu Âu về việc tăng cường quan hệ với Việt
Nam và các nước Đông Dương khác (6/1992), Hiệp định khung về hợp tác Việt
Nam - EU (17/7/1995), Hiệp định hợp tác tài chính về tài trợ cho các dự án của
các nhà đầu tư châu Âu vào Việt Nam (10/1997)… Việc ký hiệp định khung về
hợp tác Việt Nam - EU có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một giai đoạn mới trong
99
quan hệ giữa Việt Nam với Liên minh châu Âu nói chung và từng nước thành viên
EU nói riêng.
Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng được đẩy mạnh hơn bao
giờ hết, hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn này đã kết hợp chính trị
đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần vào việc mở rộng thị trường, tranh thủ đối
tác, thu hút đầu tư. Tháng 11/1998, Việt Nam đã được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO (13/11/2006). Việt Nam đã tham gia đầy đủ và chủ động tham gia vào
các chương trình của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) như kế hoạch hành động
thuận lợi hóa thương mại (TAFP), kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPAP), hợp
tác các nhà doanh nghiệp Á - Âu, phối hợp với các nước xây dựng viễn cảnh Á - Âu
2020 để đưa hợp tác ASEM lên tầm cao mới và tháng 10/2004 Việt Nam là nước
chủ nhà cấp cao ASEM. Thành công to lớn của ASEM - 5 với những dấu ấn Việt
Nam đậm nét đánh dấu bước phát triển mới của tiến trình hợp tác Á - Âu, thể hiện
sự cam kết mạnh mẽ và đóng góp tích cực nhất của Việt Nam đối với tiến trình này
và là sự khẳng định đường lối tích cực và chủ động trong hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Ngày 27-6-2012, Việt Nam và EU đã ký chính thức Hiệp định đối tác và hợp
tác toàn diện (CPA). Hiệp định đánh dấu một bước phát triển mới về chất trong
quan hệ Việt Nam - EU, từ chỗ EU chủ yếu hỗ trợ Việt Nam phát triển giảm nghèo,
chuyển đổi nền kinh tế sang mối quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện cùng
có lợi, đưa thế và lực của Việt Nam ngày càng tăng cao góp phần thực hiện thành
công công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Có thể thấy hoạt động ngoại giao đa
phương góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín quốc tế của Việt Nam, tạo điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại.
Thứ ba, duy trì quan hệ với các nước bạn truyền thống thể hiện tinh thần
quốc tế thủy chung trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với Lào, Việt Nam lấy mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng làm nòng cốt, ra
sức mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết
hai nước trên cơ sở lâu dài, bền vững. Hai nước không chỉ duy trì đều đặn các cuộc
tham khảo ý kiến thường xuyên giữa lãnh đạo cấp cao, giữa các bộ, ngành, mà còn
duy trì và tăng cường tiếp xúc giữa các địa phương, đặc biệt là giữa các tỉnh chung
100
biên giới. Hai bên phối hợp chặt chẽ với nhau tại các diễn đàn khu vực và quốc tế,
tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp với các thành viên khác trong ASEAN trong
việc xây dựng cộng đồng ASEAN. Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt -
Lào không ngừng được củng cố và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thể
hiện truyền thống, đoàn kết cùng phát triển lâu đời giữa hai nước.
Với Cu Ba, trước sau như một, Việt Nam ra sức tăng cường quan hệ thủy
chung, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân Cu Ba chống bao vây cấm
vận của Mỹ, khắc phục khó khăn kinh tế - xã hội hiện nay, đồng thời tìm kiếm
phương thức hợp tác mới cùng có lợi.
Với Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, bắt đầu từ năm 1987, Việt Nam và
Liên Xô thực hiện một số hình thức liên doanh và trực tiếp hợp tác giữa các cơ sở
sản xuất hai nước. Sau khi Liên Xô tan rã và Đông Âu sụp đổ, quan hệ Việt Nam
với các nước này tạm thời bị gián đoạn. Hiện nay, Việt Nam coi Nga có tầm quan
trọng hàng đầu trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn truyền thống. Nước
Nga cũng đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam và coi Việt Nam là một
trong những đối tác chiến lược quan trọng nhất của Nga tại Đông Nam Á và châu Á
- Thái Bình Dương, chủ trương phát triển quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực
và củng cố vị trí của Nga ở khu vực này với cách đề cập mới. Từ năm 1993, cơ chế
hợp tác hai nước được phục hồi, Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế, thương
mại và khoa học kỹ thuật họp trở lại. Từ năm 2001 trở lại đây, đối thoại và hợp tác
chính trị song phương đạt nhiều thành tựu nổi bật nhất trong quan hệ Việt - Nga.
Giữa hai bên liên tục có những chuyến viếng thăm và làm việc với nhau. Quan hệ
“đối tác chiến lược toàn diện” Việt - Nga mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và
Tổng thống Nga Putin đã ký tháng 5-2012 đã là cơ sở để mở rộng quan hệ chiến
lược sang lĩnh vực quân sự... Về mặt kinh tế, Nga tiếp tục là thị trường lớn, là bạn
hàng truyền thống của Việt Nam. Có thể thấy, quan hệ Việt - Nga ngày càng phát
triển, tạo động lực phát triển quan hệ hai nước nói riêng và cũng là tiền đề để hai
nước có sự phối hợp chặt chẽ trong các diễn đàn đa phương.
Với Ấn Độ, Việt Nam tiếp tục chính sách tăng cường phát triển hơn nữa
quan hệ hữu nghị truyền thống, coi trọng vị trí của Ấn Độ ở Châu Á và trên thế giới.
101
Quan hệ hợp tác và buôn bán được thúc đẩy, Ấn Độ dành cho Việt Nam một số
khoản tín dụng ưu đãi.
Với Triều Tiên, Mông Cổ tiếp tục được củng cố và phát triển. Việt Nam
trước sau như một ủng hộ giải quyết các vấn đề thống nhất hai miền Nam - Bắc
Triều Tiên thông qua thương lượng hòa bình và nhiệt liệt hoan nghênh các nước
nước gặp thượng đỉnh hai miền; sẵn sàng tăng cường phối hợp với Triều Tiên tại
các diễn đàn quốc tế, khu vực…
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Việt Nam cũng luôn chú trọng
mở rộng và phát triển quan hệ với các nước Nam Á, Trung Đông, châu Phi và
Nam Mỹ…
Thứ tư, bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế và
khu vực.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, những cố gắng đã đạt được
kết quả: Cuối năm 1993, Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) sau 15
năm gián đoạn, tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận các thị trường vốn và tranh thủ
sự ủng hộ của cộng đồng tài trợ quốc tế cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế. Đến nay các tổ chức tín dụng quốc tế đã viện trợ phát triển cho Việt Nam hàng tỷ
USD. Trong quan hệ với các tổ chức quốc tế, một mặt, Việt Nam tranh thủ sự trợ
giúp để phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp...; mặt khác, tích cực tham gia vào
việc giải quyết các vấn đề quốc tế, các vấn đề toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên thế giới.
Thứ năm, thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đã giúp
Việt Nam tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, mở rộng thị trường ra ngoài nước, cùng nhiều công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng chủ động của Việt Nam đã đưa đến
một thành tựu rất quan trọng là Việt Nam đã khắc phục tình trạng khủng hoảng thị
trường do các đối tác kinh tế thương mại truyền thống ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu trước đây bị thu hẹp đột ngột, do những tác động tiêu cực từ
102
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997; đồng thời từng bước mở rộng thị trường
xuất khẩu. Cơ cấu khu vực của thị trường xuất nhập khẩu thay đổi mạnh mẽ theo
hướng đa dạng hóa. Hàng hóa của Việt Nam từng bước tiếp cận sang thị trường các
nước Lỹ Latinh và châu Phi.
Hội nhập kinh tế đã giúp Việt Nam thu hút được nguồn vốn đầu tư nước
ngoài lớn, trước hết là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bổ sung cho nguồn vốn
trong nước, góp phần phát huy nội lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, từng bước
khắc phục khoảng cách phát triển với các nước ở khu vực và trên thế giới. Đến hết
năm 2002, nước ta thu hút được trên 42 tỷ USD vốn FDI với trên 3600 dự án.
Các doanh nghiệp FDI đã góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, áp dụng công nghệ mới, hiện đại, chủ động chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng như tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động. Việt Nam đã tiến
hành đàm phán và ký kết các hiệp định xử lý nợ đa phương và song phương với các
tổ chức tài chính, tiền tệ và các nước hữu quan. Nhìn chung, Việt Nam đã xử lý thỏa
đáng vấn đề nợ nước ngoài thông qua các tổ chức như Câu lạc bộ Paris, Câu lạc bộ
London và các cuộc đàm phán song phương với từng đối tác. Điều đó góp phần ổn
định cán cân thu chi ngân sách trong giai đoạn trước mắt, tập trung nguồn lực cho
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam ngày càng năng động tiếp thu
khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản
lý và cán bộ kinh doanh.
3.3.2. Một số hạn chế
Thứ nhất, trong một số lĩnh vực, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển trong nước và thế giới. Bước vào thời kỳ đổi mới, các nước
XHCN ngày càng trượt nhanh vào khủng hoảng, nhưng chúng ta vẫn có những hiện
duy ý chí, một chiều về cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Các nước lớn đi vào
thỏa hiệp để tiếp tục chi phối đời sống quan hệ quốc tế, tình hình an ninh chính trị ở
khu vực Đông Nam Á ngày càng phức tạp, sự bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về
chính trị ở các thế lực thù địch với nước ta tiếp tục diễn ra gay gắt… Trong giai
đoạn đầu của đổi mới (1986 -1991), chúng ta còn chập đổi mới về tư duy trong việc
thực hiện nghĩa vụ quốc tế và tập hợp lực lượng, chưa vận dụng tốt phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh về gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với
103
sức mạnh thời đại, “không gây thù oán với một ai”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”… vì
mục tiêu an ninh, phát triển, hội nhập. Việc xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với
các nước lớn và các nước láng giềng trong khu vực cũng phải mất một thời gian dài
mới đạt được hiệu quả như mong muốn. Quá trình giải quyết vấn đề Campuchia có
ý nghĩa quan trọng đối với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, các nước
ASEAN và phá thế bao vây, cấm vận quốc tế. Nhưng trong quá trình giải quyết vấn
đề Campuchia chúng ta chưa lường hết sức ép từ nhiều phía, không chỉ từ các nước
lớn như Trung Quốc, Mỹ, ASEAN và ngay cả từ Liên Xô.
Thứ hai, trong không ít trường hợp, chúng ta đánh giá chưa đầu đủ, chưa
đúng các đối tác, nhất là Mỹ, Trung Quốc và Campuchia. Hoạt động đối ngoại còn
thiếu chiều sâu, nhất là trong xây dựng lòng tin và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Chúng ta chậm có biện pháp thích hợp, phương cách xử lý, ứng xử còn thiên về
yếu tố ý thức hệ. Bài học Campuchia và quan hệ với Liên Xô cuối thập niên 70 và
trong những năm 80 của thế kỷ XX cho thấy lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia trong
nhận thức và hành động chưa được chú ý đúng mức thì sẽ dẫn tới những hậu quả
tiêu cực trong hoạt động ngoại giao.
Thứ ba, công tác cán bộ chưa ngang tầm chiến lược. Công tác nghiên cứu cơ
bản, dự báo chiến lược còn yếu. Không thể phủ nhận trong nội bộ còn những nhận
thức và đánh giá khác nhau về một số vấn đề quốc tế nhạy cảm như vấn đề thời đại,
các mâu thuẫn của thời đại trong tình hình thế giới hiện nay, quan hệ giữa lợi ích
giai cấp và dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, về đánh giá Mỹ, Trung
Quốc… dẫn đến việc hoạch định đường lối, chính sách chưa đồng bộ và toàn diện,
thậm chí còn mang tính nhân nhượng, thỏa hiệp hoặc quá cứng nhắc. Có lẽ vì thế
mà chưa phát huy được cao độ hiệu quả và tính chủ động trong một số hoạt động
đối ngoại, cho dù Việt Nam có nhu cầu, có khả năng và có cơ hội để làm được điều
đó. Việt Nam vẫn phải thường xuyên đối phó với sức ép từ nhiều phía, không chỉ từ
các nước lớn mà ngay cả từ nước nhỏ.
Thứ tư, quan điểm, nhận thức về những biến động mới trên thế giới, có nơi,
có lúc còn chưa theo kịp với diễn biến tình hình từ đó hạn chế việc đề ra những
quyết sách kịp thời, mạnh dạn, phù hợp, nhất là trong chủ trương, bước đi cải
thiện quan hệ với một số nước lớn. Trong một số trường hợp còn bị động đối phó
104
với tình hình, thiếu chủ động tấn công (trong vấn đề biên giới lãnh thổ, dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo). Nhận thức và việc vận dụng sách lược đối với một
số đối tượng quan trọng còn thiếu thống nhất và linh hoạt; sự phối hợp giữa hai
mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chưa thật nhuần nhuyễn, nhận thức và việc xử lý
mối quan hệ yêu cầu giữ vững an ninh, ổn định, phát triển trong nước và mở rộng
quan hệ đối ngoại còn có lúc lúng túng, chần chừ, bỏ lỡ một số cơ hội đã được tạo
ra cho đất nước.
Thứ năm, quan hệ hợp tác với các nước, đặc biệt là các nước lớn chưa sâu và
chưa có các nhân tố vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế, an ninh,
chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường hợp cụ thể
còn sơ hở. Sau thời kỳ mở rộng quan hệ chưa tạo được bước đột phá mới trong
quan hệ đối ngoại, đặc biệt với các đối tác chủ yếu, chưa xây dựng được và khai
thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau, nhất là với các nước lớn, các
nước láng giềng. Trong quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực
chúng ta mới bước đầu tạo dựng được khuôn khổ quan hệ chiến lược ổn định, lâu
dài với một số đối tác chính chưa làm được với Mỹ, quan hệ còn thiếu chiều sâu,
chưa tạo được sự tương tác, đan xen lợi ích lẫn nhau, chưa tạo được đột phá mới.
Việt Nam chưa thật sự chủ động, còn dè dặt, bị động đối phó trong những vấn đề
nhạy cảm và mới nảy sinh.
Thứ sáu, nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững chưa vững chắc, môi
trường thu hút đầu tư thiếu hấp dẫn. Mở rộng ảnh hưởng của ta còn yếu, khả năng
của Việt Nam tác động vào đường lối, chính sách của các nước khác như
Campuchia, Lào còn hạn chế chứ chưa nói đến các nước khác.
Thứ bảy, việc xử lý một vài vấn đề trong nước cần toan tính đầy đủ hơn đến
phản ứng và tác động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực bên ngoài lợi dụng
gây khó khăn về ngoại giao. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn tỏ ra bị
động, chưa nhạy bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ chế phối hợp giữa các
ngành, các cấp chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao…
3.3.3. Một số bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ thực tiễn vô cùng
phong phú và sôi động trong việc hoạch định và triển khai đường lối mở cửa, hội
105
nhập trong thời kỳ đổi mới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu, thiết
thực, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay cũng như trong giai đoạn tiếp theo. Những bài học đó được khái quát ở
những nội dung chủ yếu như sau:
Một là, đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tất cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn hay nhỏ trong sự
nghiệp bảo đảm an ninh và phát triển cũng như trong các mối quan hệ quốc tế đều
đặt lợi ích dân tộc mình lên trên hết. Tính thực dụng, các nhân tố lợi ích (an ninh,
chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa…) luôn là tiêu chí hàng đầu, nội dung xuyên suốt
trong chủ trương chính sách, biện pháp đối ngoại cũng như cách ứng xử trong quan
hệ quốc tế của mỗi nước trong bối cảnh quốc tế đã thay đổi cơ bản, yếu tố này càng
được khẳng định và đề cao.
Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu và sự kết hợp hài hòa giữa
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, với mục đích cao nhất là
xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đây là lợi ích cao nhất của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đổi mới Đảng
ta luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Sự nhìn nhận về lợi ích dân tộc qua từng
giai đoạn có khác nhau, do đó, vị trí của yếu tố này trong việc hoạch định và triển
khai công tác đối ngoại cũng khác nhau.
Đặt lợi ích dân tộc làm tiêu chí hàng đầu không có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa
quốc tế trong giai đoạn mới. Đảng luôn đề ra nhiệm vụ góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, phát
triển, xây dựng trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, chống áp bức cường quyền,
chống khủng bố quốc tế..., củng cố, tăng cường và phát triển quan hệ với các nước
xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều đảng phái cánh tả
cầm quyền và chưa cầm quyền. Bài học từ thực tiễn đổi mới 30 năm qua cho thấy
Việt Nam luôn vận dụng đúng đắn, sáng suốt, thiết thực những quan điểm này trong
hoạch định chính sách và hoạt động đối ngoại, nhờ đó ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao,
nội bộ được củng cố và thống nhất.
106
Hai là, giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa đã cung cấp
cho chúng ta kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Việc
giữ vững độc lập tự chủ trong quan hệ đối ngoại giúp Việt Nam chủ động trong việc
đề ra đường lối, chính sách kịp thời và phù hợp với tình hình khu vực và thế giới,
phát huy nội lực của quốc gia dân tộc. Đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại giúp chúng ta hội nhập ngày càng sâu vào đời sống kinh tế, chính trị
thế giới, tranh thủ được ngoại lực, từ đó kết hợp với nội lực tạo ra sức mạnh tổng
hợp trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và chính sách đa dạng hóa, đa phương
hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong
thời gian qua. Việc giữ vững và nhất quán thực hiện đường lối này là điều kiện tiên
quyết để hoàn thành nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Việc
nắm vững hai mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh giúp chúng ta khắc phục những
khuynh hướng thường diễn ra trong quá trình giao lưu, hợp tác. Nhu cầu phát triển
của mỗi nước đòi hỏi phải thiết lập và mở rộng sự hợp tác giữa các nước. Tuy
nhiên, trong quan hệ với các nước đặc biệt là với các nước có chế độ chính trị khác
nhau luôn tồn tại những mâu thuẫn. Vì vậy, vừa hợp tác vừa đấu tranh là hai vấn đề
luôn gắn liền với nhau và hiện nay đã có những phương châm hoạt động để xử lý
tốt vấn đề này.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước. Việc tham gia và tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, mở rộng
quan hệ hợp tác song phương và đa phương là phù hợp với xu thế liên kết khu vực
đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Xu thế này được nảy sinh từ nhu cầu liên kết
để vừa tận dụng tiềm năng của từng khu vực, tranh thủ thời cơ mới do quá trình
toàn cầu hóa đem lại và ứng phó với những thách thức mới nảy sinh. Xu thế này
107
cũng phù hợp với Việt Nam vì Việt Nam có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan
trọng ở khu vực và từ đó có thể tiếp cận với nhiều đối tác như Liên minh châu Âu
(EU) thông qua cơ chế đối thoại ASEAN - EU và các cuộc gặp cấp cao Á - Âu
(ASEM). Quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và mở
rộng hợp tác với các nước khác trên thế giới phải được coi là nhiệm vụ chiến lược,
là mối quan tâm hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Quan hệ đối ngoại trước hết là đối với các nước láng giềng và khu vực vì quan hệ
này trực tiếp ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam. Nếu
quan hệ hữu nghị, thân thiện với láng giềng thì sức mạnh của ta được nhân lên, nếu
bất đồng thì sức mạnh đó bị chia sẻ và bị các lực lượng thù địch chia rẽ. Để quan hệ
với các nước láng giềng và khu vực tốt đẹp thì phải mở rộng các lĩnh vực hợp tác
nhất là hợp tác văn hóa, kinh tế, xã hội… toàn diện để quan hệ quan hệ đó hòa nhập
với xu thế liên kết khu vực và liên kết quốc tế hiện nay.
Năm là, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, theo
phương châm: “Dĩ bất biến ứng vạn biến". Nắm vững và vận dụng phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, kịp thời
nắm bắt, tận dụng thời cơ, khôn khéo trong cách xử lý các vấn đề nhạy cảm, kết hợp
đối ngoại, ngoại giao song phương xen kẽ đa phương, nhận thức về sự thống nhất
giữa chính trị đối nội và chính trị đối ngoại.
Sáu là, trong mọi hoàn cảnh cần xử lý đúng mối quan hệ với các nước lớn, vì
đó là nhân tố ảnh hưởng đến an ninh và phát triển. Việt Nam là một nước có vị trí
địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Là một quốc gia
tầm trung của thế giới với vai trò ngày càng có trọng lượng hơn nên không thể giải
quyết các vấn đề ở Đông Nam Á mà thiếu Việt Nam. Hơn nữa Đông Nam Á lại là
một bộ phận quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương. Vì có vị trí quan trọng về
kinh tế và quân sự nên trong lịch sử nhiều nước lớn đã tìm cách chia sẻ lợi ích ở
Việt Nam. Ngày nay, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng
trở thành đòi hỏi bức xúc giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới thì thị trường
Việt Nam ngày càng được coi trọng đối với các nước trên thế giới. Vì vậy, việc xử
lý mối quan hệ với các nước lớn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong
việc bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập và phát triển.
108
Tiểu kết chương 3
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới 30 năm
(1986-2016), đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tham gia hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế. Trong vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nền ngoại giao Việt Nam đã đạt được
những thành công lớn. Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá đúng tình hình trong nước
và xu thế phát triển của thế giới, qua đó đổi mới tư duy, nhận thức trên cơ sở nghiên
cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng, để đề ra được những quyết sách
đúng đắn về đối ngoại mà nội dung cốt lõi là mở cửa và hội nhập. Việc đề ra đường
lối, chính sách đúng đắn về hội nhập có tác dụng đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế mà nội dung chủ đạo là hợp tác kinh tế quốc tế là rất quan trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, ngoại giao Việt Nam còn có những hạn chế
trong vận dụng phương pháp ngoại giao. Trên cơ sở đó có thể rút ra một số bài học
kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo để thực hiện tốt đường lối đối ngoại trong thời kỳ
đổi mới. Đây cũng là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
109
Chương 4
TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO
HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
4.1. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC NGOẠI GIAO
4.1.1. Những nhân tố tác động đến tình hình hiện nay
Tại Đại hội XII (2016), ĐảngCộng sản Việt Nam xác định một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong những năm tiếp
theo là:
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường
hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều
sâu các quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong
điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên
trường quốc tế [55, tr.52].
Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan, nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đang bị chi phối bởi hàng loạt các nhân tố: chính trị, kinh tế, khoa học
công nghệ và các vấn đề khác… Những nhân tố này tác động mạnh mẽ và đặt ra
cho công tác đối ngoại và việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
trong thực tiễn hoạt động ngoại giao nhiều vấn đề cấp bách mới, đòi hỏi phải được
thực hiện tốt để có thể đáp ứng với tình hình phức tạp hiện nay.
Một là, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
diễn ra mạnh mẽ, theo hướng lấy công nghệ cao làm trung tâm đã tạo nên những
đột phá có tính bùng nổ với quy mô và mức độ, sức mạnh chưa từng có từ trước tới
nay, tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của mỗi quốc gia và đời sống quốc
110
tế. Các nước đều coi phát triển công nghệ cao là hướng đột phá trong phát triển lực
lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự, tạo khả
năng răn đe và là nhân tố gây ảnh hưởng mạnh về chính trị, là nguồn lực thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Kinh
tế tri thức - giai đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế
công nghiệp, có vai trò nổi bật, không chỉ biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong giá trị các sản phẩm, mà còn bằng sự dịch chuyển của khu vực
chế tạo sang khu vực dịch vụ với các đặc điểm mới.
Toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng khách quan của đời sống nhân loại,
lôi cuốn mọi quốc gia tham gia. Trong quá trình đó, mỗi quốc gia đều phải đối mặt
với một môi trường mới, vừa có thời cơ, vừa có thách thức, vừa thúc đẩy hợp tác,
vừa có cả sức ép cạnh tranh… Đây là một vấn đề còn nhiều mới mẻ, khó khăn và
thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đặt ra nhiều
thách thức đối với Đảng ta khi hoạch định đường lối đối ngoại và thực thi các hoạt
động ngoại giao.
Hội nhập quốc tế phát triển mạnh cũng đã làm xuất hiện nhiều khái niệm
mới như “biên giới thông tin”, “biên giới mềm” và nhiều vấn đề mới về xã hội,
quốc phòng, an ninh phức tạp khác như “an ninh tư tưởng”, “an ninh kinh tế”, “an
ninh văn hóa”… Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra cho những quốc gia không ít
những vấn đề phải xử lý liên quan đến độc lập chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc,
giai cấp, đến sự ổn định của hệ thống chính trị và thiết chế xã hội khác; sự gia tăng
sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, sự hạn chế thẩm quyền cũng là những
thách thức không nhỏ đối với tính độc lập tự chủ của các quốc gia trong chính sách
và hoạt động ngoại giao.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và
trên thế giới, đồng thời là một trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại ở châu Á.
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, tương quan
so sánh lực lượng có lợi cho chủ nghĩa tư bản, cũng như bất kỳ một quốc gia nào
khác trên thế giới khi tham gia quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tất yếu
111
nước ta sẽ chịu những tác động theo cả hai chiều thuận lợi và khó khăn. Tình hình
đó thường xuyên tác động mạnh mẽ đối với việc thực hiện các hoạt động ngoại
giao, cũng như việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong hoạch
định đường lối và thực hiện các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, tình hình chính trị - quân sự thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Trong những năm cuối thế kỷ XX, chiến tranh cục bộ, xung đột và chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, khủng bố, những tranh chấp về
biên giới lãnh thổ, biển đảo và các nguồn tài nguyên thiên nhiên diễn ra ở nhiều
nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Những năm gần đây, xung đột dân tộc,
tôn giáo trên thế giới tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt và ngày càng nóng bỏng,
đã trở thành một vấn đề phức tạp của nhân loại. Các quan hệ dân tộc, sắc tộc lại
đan kết vào nhau với vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội khác làm cho vấn
đề vốn đã phức tạp lại càng thêm phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cho các hoạt
động ngoại giao.
Trật tự thế giới hai cực giữa một bên là chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng
đầu và một bên là chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu được hình thành sau Chiến
tranh thế giới thứ II đã không còn tồn tại, song những ảnh hưởng của nó vẫn
chưa mất đi. Sự phá vỡ trật tự cũ chưa hoàn tất, sự ra đời của trật tự thế giới mới
trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chưa được định hình, là những
đặc điểm chi phối lớn đến chính sách đối ngoại và việc vận dụng phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các hoạt động đối ngoại của Đảng
và Nhà nước.
Các nước lớn khác sau khi trật tự thế giới hai cực tan rã, đều có những mục
tiêu và đối sách riêng của mình. Nhìn chung các nước lớn đều tìm mọi cách theo
đuổi một trật tự thế giới đa cực vì họ đều có vị thế ảnh hưởng nhất định trong đó.
Mỹ tìm mọi cách duy trì trật tự thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Các nước
Liên minh châu Âu mà trong đó Đức và Pháp là nòng cốt ngày càng muốn độc lập
về quân sự với Mỹ; sự liên kết của Nga, Ấn Độ, Trung Quốc trong “Hiệp ước
Thượng Hải”; các quan hệ song phương và đa phương giữa các nước này thực sự là
một thách thức đối với Mỹ. Trật tự thế giới không chấp nhận xu hướng vận động
đơn cực do Mỹ chủ đạo, mà xu hướng đa cực ngày càng rõ nét.
112
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động đồng thời cũng
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn
tiếp tục diễn ra gay gắt. Cộng đồng ASEAN được hình thành vào cuối năm 2015
với ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng
văn hóa - xã hội vì mục tiêu hòa bình, ổn định, phát triển và hướng tới người dân.
Đây là những cơ hội lớn để các nước trong khu vực mở rộng hợp tác, tranh thủ
nguồn lực để phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với không ít thách thức:
Những khác biệt về ưu tiên chiến lược, năng lực quốc gia giữa các nước trong
ASEAN và những tồn tại về xung đột, tranh chấp lãnh thổ, thách thức an ninh phi
truyền thống có xu hướng gia tăng đang và sẽ là những bài toán lớn đặt ra đối với
các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nguy cơ đe doạ độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị,
vai trò của Nhà nước... Các thế lực thù địch luôn xác định Việt Nam là một trong
những mục tiêu “trọng điểm” chống phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình”
nhằm mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng sẽ tiếp tục lợi dụng chủ trương mở rộng hội
nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới của Việt Nam để
thực hiện xâm nhập, tuyên truyền và hướng Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa
tư bản.
Trong bối cảnh như vậy, công tác đối ngoại cần tiếp tục quán triệt sâu sắc
quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa
bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế
giới, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác đối ngoại
phải nắm vững và vận dụng các quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu
rõ trong Nghị quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ đó xác định đối tượng, đối tác để hợp
tác và đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Công tác đối ngoại phải thể
113
hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là đẩy lùi và ngăn ngừa
nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước; góp phần tích cực trong thực hiện phương châm bảo vệ Tổ
quốc từ xa. Công tác đối ngoại phải sát cánh cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, tạo cớ để can thiệp vũ trang của các thế
lực thù địch, đồng thời phát huy nội lực, không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh,
tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và giành thắng lợi trong mọi tình huống.
Bằng những đóng góp tích cực của mình trong 30 năm đối với phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới và đặc biệt là sự kiên định và đứng vững trước
khủng hoảng cùng với những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ngoại giao và vận dụng
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Ba là, khu vực Đông Nam Á tăng cường hợp tác, nhưng bị một số nước lớn
lợi dụng, gây ảnh hưởng, chia rẽ, có nhiều mâu thuẫn, khó khăn.
Khu vực Đông Nam Á thuộc châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực có
vị trí chiến lược quan trọng. Trong 30 năm qua, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển
ở khu vực này tiếp tục gia tăng, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định. Hợp tác để phát triển là một nhu cầu của các nước Đông Nam Á để trở thành
các nước công nghiệp, đồng thời chống lại sự lệ thuộc và khống chế từ bên ngoài và
gia tăng khả năng cạnh tranh với các nước lớn. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á
cũng còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, đòi hỏi mỗi quốc gia và khu vực
phải nỗ lực giải quyết và tăng cường hợp tác cùng nhau. Đông Nam Á đang phải
đối mặt với những thách thức về khả năng cạnh tranh, giá thành sản phẩm cao, chưa
thu hút được đầu tư nước ngoài như mong muốn, trong khu vực chưa hình thành
một nền tảng vững chắc cho một cộng đồng thống nhất hình thành và phát triển.
Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á và Việt Nam
Trong những thập kỷ gần đây, về chính trị Mỹ thường xuyên giương chiêu
bài “dân chủ, tự do, nhân quyền” gây áp lực đối với ASEAN, thực thi dân chủ và
nhân quyền theo quan điểm của Mỹ, như yêu cầu ASEAN thành lập Ủy ban nhân
quyền ASEAN; bao vây, cấm vận Mianma và ủng hộ “phái dân chủ”, đòi chính
114
quyền Mianma cải cách dân chủ; gây sức ép đối với Việt Nam về nhân quyền và
tôn giáo. Ngoài ra, Mỹ thực hiện nhiều biện pháp nhằm lôi kéo các nước ASEAN
khỏi ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc. Về kinh tế, Mỹ chủ
trương thúc đẩy khu vực Đông Nam Á mở cửa thị trường, cải thiện môi trường
cho hàng hóa và đầu tư của Mỹ… Đối với Việt Nam, do ảnh hưởng của cuộc
chiến tranh Việt Nam còn đậm, Mỹ đã đặt Việt Nam vào những toan tính chiến
lược của mình. Trong những năm gần đây, Việt Nam thắng lợi trong đổi mới, vai
trò uy tín ở khu vực và quốc tế ngày càng tăng… đã buộc Mỹ phải điều chỉnh
chiến lược. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, chiến lược của Mỹ đối với
Việt Nam đã chuyển sang tăng cường “tiếp cận”, “dính líu”, thúc đẩy “diễn biến
hòa bình” nhằm chuyển hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm biến chất
từng bước chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ Việt Nam - Mỹ đã
được cải thiện đáng kể, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại Quốc tế (WTO), Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 14,
Mỹ đã thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt
Nam, dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương. Việt Nam và Mỹ xác lập quan hệ Đối tác
toàn diện năm 2013 nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang. Quan hệ Mỹ - Việt Nam là mối quan hệ bình thường trong một thế giới
quốc tế hóa.
Chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam Á và Việt Nam
Chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc là sự triển khai toàn diện chính
sách ngoại giao láng giềng theo tinh thần “thân thiện với láng giềng, ổn định với
láng giềng và làm giàu với láng giềng” (Tam lân: mục lân, an lân, phú lân) của
Trung Quốc. Chính sách đó vừa nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các nước
trung khu vực vừa nhằm gây ảnh hưởng, chi phối với các nước Đông Nam Á, Việt
Nam có vị trí đặc biệt trong quan hệ của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Là nước láng
giềng chung đường biên giới cả trên đường bộ và đường biển; có cùng chế độ chính
trị, cùng hệ tư tưởng, gần gũi về văn hóa; là một trong những nước có nhiều tranh
chấp chủ quyền với Trung Quốc; đặc biệt là quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và
Biển Đông; là một nước ngày càng có uy tín quan trọng trong ASEAN, Việt Nam là
115
đối tượng mà Trung Quốc chú ý. Sau khi bình thường hóa quan hệ, chính sách của
Trung Quốc đối với Việt Nam có những điều chỉnh theo hướng ngày càng coi trọng
Việt Nam, nhưng mang tính chất vừa hợp tác vừa đấu tranh.
Mối quan hệ ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia
Việt Nam, Lào, Campuchia là ba nước láng giềng anh em, núi liền núi, sông
liền sông. Trong hơn hai mươi năm qua, ba nước đều chú trọng đẩy mạnh quan hệ
hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại và cả quốc phòng, an
ninh. Tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế
như Liên Hiệp Quốc; Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), Phong trào không
liên kết; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Hợp tác tiểu vùng Mêkông
(GMS); Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia; Hợp tác hành lang Đông
Tây (WEC); Hợp tác đường sắt xuyên Á, đường bộ xuyên Á…
Các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ, chống đối nên quan hệ giữa ba nước
gặp nhiều khó khăn, thách thức, cản trở đến sự phát triển của cách mạng từng nước.
Có thể thấy tình hình thế giới, khu vực có những biến động sâu sắc, tác
động nhiều mặt đến sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Tất cả những nhân tố nêu
trên vận động tổng hợp, tác động mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Điều đó đã tác động sâu sắc và đòi hỏi hoạt
động đối ngoại nói chung và việc vận dụng tư tưởng ngoại giao cũng như phương
pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng đưa ra được những chính sách đối ngoại,
hoạt động đối ngoại hướng tới thực hiện tốt để đáp ứng với tình hình đang và sẽ
đặt ra trong thực tiễn.
Bốn là, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng phát triển, nhưng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, cách mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sâu
sắc. Là một nước có điểm xuất phát thấp, kinh tế còn kém phát triển, Việt Nam đã
tích cực học hỏi kinh nghiệm từ những nước đi trước trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là các nước phát triển trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, bao gồm cả những kinh nghiệm thành công và thất bại trên các lĩnh vực
116
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh để đi tắt đón đầu, tiếp thu những thành
tựu tiên tiến trên thế giới, có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, tiến vào
những lĩnh vực quan trọng có hiệu quả kinh tế cao để bắt kịp xu thế chung của khu
vực và thế giới.
Tuy nhiên, trong những năm qua Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn,
nguy cơ và thách thức. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước trong
khu vực và thế giới là thách thức lớn và gay gắt. Vì điểm xuất phát để phát triển của
nền kinh tế của Việt Nam còn thấp, đất nước vẫn còn nằm trong tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, lại trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, đặc biệt về vốn và
công nghệ nên gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) nhưng kinh nghiệm buôn bán quốc tế và tác
nghiệp trong “sân chơi” này còn nhiều hạn chế, thiếu và yếu về năng lực cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ngày càng phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu, xuất hiện những tiêu cực làm cản trở quá trình phát triển kinh tế -
xã hội như: phân hóa giàu nghèo ngày một tăng, lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha
hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, sự gia tăng các tệ
nạn xã hội… Mọi sự chủ quan, xem nhẹ sự tác động tiêu cực này đều dẫn đến
những hậu quả nguy hại đối với cách mạng, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, với sức
mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chúng ta giữ vững được ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để mở
rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế và phát triển đất nước toàn diện theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng tiếp tục nhấn mạnh đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Việt Nam sẽ tiếp tục
phát triển với những thành tựu mới, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội để gia tăng tiềm lực quốc phòng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi công tác đối ngoại cần phải tiếp tục
vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong các hoạt động ngoại giao của
Đảng và Nhà nước một cách khoa học và phù hợp.
117
4.1.2. Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với công tác ngoại giao trong thời
kỳ mới
Tình hình trong nước và thế giới đặt ra yêu phải tiếp tục xây dựng và đẩy
mạnh triển khai chiến lược ngoại giao toàn diện để phục vụ hiệu quả hơn nữa các
mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Yêu cầu triển khai
một cách toàn diện các hoạt động đối ngoại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ XI năm 2011. Nghị quyết
xác định:
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận
lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [54, tr.236].
Đây là một chủ trương đúng đắn, kịp thời và sáng suốt của Đảng và Nhà
nước, phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới. Tại Đại hội XII, Đảng tiếp tục khẳng
định nhiệm vụ của công tác đối ngoại:
Nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh
thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín
của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [55, tr.153].
Đứng trước những thách thức to lớn, cách mạng Việt Nam lúc này đặt ra hai
yêu cầu quan trọng và cấp bách cho ngoại giao Việt Nam là phải thực hiện các mục
tiêu sau: Một là: Thực hiện mục tiêu về an ninh, góp phần bảo vệ Tổ quốc; Hai là:
phải giải quyết những khó khăn đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phát triển toàn
diện đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ nhất: Về thực hiện mục tiêu an ninh, góp phần bảo vệ Tổ quốc, tuy rằng
nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới và chiến tranh cục bộ giữa Việt Nam và quốc
gia khác là không lớn nhưng nước ta đang gặp phải những thách thức vô cùng lớn
118
trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Đây chính là mối quan
tâm lớn của toàn dân tộc và sự quan ngại của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, Việt
Nam vẫn là đối tượng hướng tới của các lực lượng phản động thực hiện “diễn biến
hòa bình”. Song song với các vấn đề an ninh truyền thống, Việt Nam cũng phải giải
quyết các thách thức an ninh phi truyền thống như tội phạm công nghệ cao trong
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh...
Thứ hai: Về mục tiêu phát triển đất nước và nâng cao vị thế Việt Nam trên
thế giới. Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo và đang phải hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước nên đòi hỏi phải tranh thủ rất nhiều nguồn lực từ
bên ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới còn đang trong giai đoạn suy thoái
thì nhiệm vụ mở rộng hợp tác và tìm kiếm thị trường mà ngoại giao cần phải hoàn
thành là rất nặng nề. Với mục tiêu nâng cao vị thế đây là nhu cầu tất yếu của mọi
quốc gia dân tộc vì nâng cao vị thế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện
lợi ích dân tộc; vì vị thế dân tộc có quan hệ biện chứng với mục tiêu an ninh và phát
triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn thể hiện là một đối tác tin cậy, một
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới. Tuy vậy, do nhiều
nguyên nhân, trong đó có tiềm lực kinh tế của đất nước chưa vững và thêm nữa là
sự hạn chế về nhân lực ngoại giao. Cho nên, việc Việt Nam hướng tới mục tiêu đảm
nhiệm những vai trò lớn hơn trên thế giới, có tiếng nói và ảnh hưởng của mình tốt
hơn là điều không dễ thực hiện.
Để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, Việt Nam phải hướng tới nền
ngoại giao toàn diện:
Nền ngoại giao thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm huy động
mọi lực lượng, binh chủng, kênh đối ngoại; vận dụng mọi hình thức,
công cụ đối ngoại; triển khai trên nhiều lĩnh vực, địa bàn và hướng đến
nhiều đối tượng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả
mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Nền ngoại giao ấy phải được
xây dựng trên ba kênh đối ngoại chủ lực là đối ngoại Đảng, ngoại giao
nhà nước, đối ngoại nhân dân, triển khai đồng bộ ba trụ cột là ngoại giao
chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, cùng với công tác người
Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân [141, tr.36].
119
Có thể nhận thức, nền ngoại giao toàn diện là nền ngoại giao sử dụng sức
mạnh tổng hợp, sử dụng nhiều lực lượng, được triển khai trên nhiều lĩnh vực và
hướng tới nhiều đối tượng nhưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cống hiến cho nền hòa bình và hợp tác trên toàn
thế giới.
Để thực hiện tốt chiến lược ngoại giao toàn diện như đã xác định, ngoại giao
Việt Nam phải biết khai thác những thế mạnh, những nguyên tắc, những kinh
nghiệm quý báu mà mình đã có được sau hơn 70 năm đấu tranh, trưởng thành và
đặc biệt là trong 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và cũng phải biết vận dụng tư
tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào hoạt động ngoại giao hiện nay
cũng như trong giai đoạn cách mạng mới.
4.2. TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
4.2.1. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc nắm
bắt tình hình trong thế giới, trong nước và thực hiện công tác dự báo
Trong bối cảnh phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay, phải biết vận dụng
sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp “dự báo
và nắm bắt thời cơ” của Người nói riêng để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển
và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, trên những tiêu chí đặt ra,
ngoại giao Việt Nam phải nhận thức khách quan, khoa học về sự vận động mới
trong quan hệ quốc tế hiện nay, để xây dựng đường lối, chính sách và phương pháp
ngoại giao đúng đắn, phù hợp, hiệu quả.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để làm tốt công tác dự báo, nắm bắt được
thời cơ trong quan hệ ngoại giao là phải tri kỷ (biết mình) và tri bỉ (biết người) để
định kế hoạch chiến lược, phương pháp thực hiện; để luôn làm chủ tình thế. “Biết
mình” là biết rõ thực lực, sở trường, sở đoản của ta trong tương quan với thực lực,
thế mạnh của người, xem xét mình có điều kiện không, “biết người” là biết rõ
những người xung quanh ta, biết rõ thực lực của người, cụ thể ở đây là phải hiểu
được đối tượng, nhất là đối với các nước lớn, dù là đồng minh hay đối thủ, biết
được mối quan tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị
120
và ngoại giao từng nước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn, cùng
với những giới hạn của các mối quan hệ đó. Tri kỷ tri bỉ: Biết mình biết người, biết
người biết ta [25, tr.324]. Về tri thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc nhận diện
các xu thế, xu hướng của thời đại, của cục diện thế giới. Người nói: “Mọi người đều
phải theo trào lưu cách mạng thế giới” [182, tr.465].
“Biết mình, biết người” để xác định đúng vị trí của mình trong quan hệ với
người (với các nước, các khối liên minh) là một nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt
trong tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. “Biết mình, biết người”,
“biết thời - thế”, để “biết dừng”, “biết biến” là phương pháp và cũng là nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh, cần phải vận dụng trong sự vận động và biến đổi không
ngừng trong quan hệ quốc tế hiện nay và trong tương lai. Vận dụng nó trong thực
tiễn giúp cho ngoại giao có thể độc lập, tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo, linh hoạt,
không bị cô lập, từ đó có thể thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” với
những nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối
phương, biết thắng từng bước để giành thắng lợi cuối cùng.
Nhìn vào thực tiễn hiện nay của ngoại giao Việt Nam, phải nhận thức được
thế và lực của Việt Nam trong tương quan với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Đồng thời phải đánh giá đúng hoàn cảnh, tình thế của Việt Nam trên bàn cờ
chính trị và địa chính trị, trên cơ sở đó làm tốt công tác dự báo đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung và công tác đối ngoại nói riêng.
Với vị trí địa lý là Việt Nam nằm trên con đường tơ lụa trên biển của tham
vọng “giấc mơ Trung Hoa”; với sự “xoay trục” sang Châu Á - Thái Bình Dương
của Mỹ hòng kiềm chế tham vọng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu tác động
chủ yếu của tiến trình tranh giành đó, thậm chí có người còn cho rằng, Việt Nam có
vai trò quyết định đến sự tranh đoạt ảnh hưởng toàn cầu giữa Trung Quốc và Mỹ
trước hết là sự thống trị Châu Á. “Con đường tơ lụa trên biển” mà Trung Quốc đưa
ra là sợi dây thít chặt các nước nhỏ yếu vào ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi
không thể tranh chấp trực tiếp với Mỹ qua phép thử ở biển Hoa Đông, Trung Quốc
lợi dụng sự chú ý của Mỹ ở nơi khác (Có thể thấy các bước này như sau: 1) Nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 thì năm 1956, khi Việt
Nam và thế giới đang chú ý vào việc thực thi hiệp định Giơnevơ 1954, và hai miền
121
Nam Bắc chưa ổn định, Trung Quốc chiếm các đảo Đông Hoàng Sa. 2) Năm 1974,
Việt Nam tập trung vào giải phóng miền Nam, Mỹ đã rút ra khỏi Việt Nam, Trung
Quốc chiếm các đảo Tây Hoàng Sa. Năm 1988 lợi dụng Việt Nam khó khăn khi bắt
đầu đổi mới, Liên Xô khó khăn đang lo rút khỏi Ápganistan. Mỹ tập trung vào
Đông Âu và Liên Xô trong các cuộc cách mạng màu, Trung Quốc chiếm Gạc Ma.
4) Năm 2014, khi thế giới đang tập trung vào vấn đề Crưm và Ucraina, Trung Quốc
ngang nhiên thực hiện các hoạt động khẳng định chủ quyền ở Biển Đông) để từng
bước tranh đoạt ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á bằng các hoạt động chiếm đoạt ở
Biển Đông. Khi Biển Đông trở thành khu vực va chạm lợi ích Mỹ - Trung sẽ là nơi
bùng phát lò lửa xung đột khi Mỹ - Trung không kiềm chế.
Có thể thấy, Việt Nam không chỉ trong chiến lược của Trung Quốc ở châu Á
mà còn là vấn đề tranh chấp quốc tế với Mỹ vì lợi ích của Trung Quốc. “Biết
người”- hiểu rõ và nắm được ý đồ chiến lược của Trung Quốc và Mỹ - để xác định
kế hoạch chiến lược trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền đất nước nói chung và
trong ngoại giao nói riêng là vô cùng cần thiết. Đây là bài học cực kỳ có giá trị mà
Hồ Chí Minh đã chỉ ra qua việc thực hiện xử lý quan hệ giữa các liên minh Mỹ -
Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) với liên minh Anh - Pháp ở Đông Dương sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai (Hiệp ước Hoa-Pháp tháng 2-1946 là sự thỏa thuận
giữa hai liên minh này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn rõ bản chất thỏa thuận lợi ích
đó để ký Hiệp định 6-3-1946 nhằm loại bỏ 20 vạn quân đội Trung Quốc (Tưởng
Giới Thạch), người láng giềng thường xuyên xâm lược Việt Nam, đẻ chống lại một
đế quốc già, ở xa và đã kiệt quệ sau chiến tranh thế giới thứ II). Nắm vững ý đồ
chiến lược của các nước lớn, thấy rõ những mâu thuẫn giữa các liên minh và trong
các liên minh lợi ích để “biết dừng, biết biến” để có phương châm đúng với việc ký
kết Hiệp định 6-3-1946 là một ví dụ điển hình của tư tưởng, phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh.
Cần phải nắm vững và vận dụng linh hoạt phương pháp ngoại giao “Dĩ bất
biến ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh đã dạy để ứng xử với các nước lớn: Đối thoại,
không đối đầu; Kiên trì đấu tranh, không ảo tưởng; Biết thời thế nhằm phát huy cơ
sở pháp lý quốc tế, lẽ phải và thông lệ quốc tế và những tư tưởng tiến bộ của thời
đại, thông qua đó thực hiện phương châm “thêm bạn bớt thù”, làm cho nước nhà ít
122
kẻ thù hơn và có nhiều bạn đồng minh hơn, tránh đối đầu để không gây thù oán với
một ai. Tất cả những quan điểm này của Hồ Chí Minh chỉ ra cho ngoại giao Việt
Nam nhằm tạo “thế” chính nghĩa về chính trị cho đấu tranh ngoại giao và để tập
hợp lực lượng, tăng cường thực lực cho ngoại giao trong cuộc đấu tranh bảo vệ hòa
bình và chủ quyền của Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam phải quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh trong tuyên
bố: “Trong chính sách đối ngoại, triết lý hướng dẫn chúng tôi là sự thực hiện 5
nguyên tắc chung sống hòa bình” [134, tr.228]. Về quan hệ quốc tế, chính sách của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rõ ràng và trong sáng: Đó là chính sách hòa
bình và quan hệ tốt. Hồ Chí Minh cho rằng, lợi ích, khát vọng và ý chí lớn nhất của
các dân tộc, của nhân loại là xây dựng một thế giới hòa bình, nhưng đó phải là “một
nền hoà bình chân chính”. Theo Người, “một nền hoà bình chân chính” đúng nghĩa
của nó, phải được “xây trên công bình và lý tưởng dân chủ - phải thay cho chiến
tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân
biệt chủng tộc và màu da ư?" [128, tr.77]. Đây chính là quan điểm Hồ Chí Minh về
cơ sở, nguyên tắc và cũng là công thức cho một trật tự quốc tế mới. Trật tự đó phải
được xây dựng trên cơ sở xác lập một thiết chế công bình, bình đẳng, dân chủ trên
thế giới, trong đó tự do, bình đẳng, bác ái được thực hiện ở tất cả các nước, nhằm
dựng xây nền "hoà bình chân chính" và vững bền trên hành tinh của Việt Nam.
Quan điểm này xác nhận và chỉ rõ công thức hòa bình Hồ Chí Minh trong quan hệ
quốc tế của thế giới văn minh.
Thực hiện chính sách hòa bình và quan hệ tốt theo phương pháp ngoại giao
mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là tầm nhìn chiến lược, sâu sắc phải được nhận thức đầy
đủ trong hoạch định và thực hiện chính sách ngoại giao nhất quán của Việt Nam với
tất cả các nước. Để thực hiện tốt đường lối chính sách đối ngoại nhất quán, linh
hoạt, hiệu quả đưa dân tộc hội nhập với thế giới theo dòng chảy tiến bộ của nhân
loại, đòi hỏi Việt Nam phải làm tốt công tác dự báo, nắm chắc tình hình quốc tế và
trong nước, thể hiện rõ quan điểm phải “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, Muốn vậy, cần
phải nắm vững và vận dụng tốt phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới.
123
Thực hiện phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về dự báo và nắm bắt thời
cơ, ngành ngoại giao luôn đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu sâu
sắc đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và trong nước để đưa ra những dự báo,
định hướng chính xác. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh, Đại hội XII chỉ rõ:
“Tăng cường công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi
mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả tuyên truyền đối ngoại…” [55,
tr.156]. Có thể thấy từ những dự báo chính xác để trên cơ sở dự báo ấy, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đổi mới tư duy đối ngoại và đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn,
tranh thủ những thuận lợi của tình hình thế giới và khu vực, vượt qua những khó
khăn thử thách, tạo ra thế và lực mới, đưa đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, thực hiện thành
công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4.2.2. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng chiến lược ngoại giao
Xây dựng chiến lược ngoại giao là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong việc
định hướng giải quyết các vấn đề quốc tế. Trong nhiệm vụ này, cần thiết vận dụng
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, với tầm nhìn xa trông rộng, ngoại giao Việt
Nam phải nhìn nhận thấu suốt bản chất của sự vận động của quan hệ quốc tế trong
tiến trình toàn cầu hóa hiện nay.
Sự vận động của quan hệ quốc tế trong quá trình tác động của toàn cầu hóa
đã làm thay đổi tương quan lực lượng trong quan hệ quốc tế, dẫn đến những đổi
thay về địa chính trị trên thế giới. Lôi cuốn vào sự thay đổi có tính toàn cầu đó với
sự tranh đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là sự tập hợp của hai liên minh lợi ích đã buộc
tất cả các nước phải lựa chọn chiến lược cho phù hợp với những biến đổi mà xu
hướng chung là thế giới sẽ bước vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới trong tương
lai mà thời gian phụ thuộc vào thực lực của cuộc đấu không cân sức trên thế giới
giữa Mỹ và Trung Quốc.
Thực tế hiện nay, cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng
“chuyển giao quyền lực” khi Trung Quốc đang tìm mọi cách mở rộng ảnh hưởng,
thách thức quyền lực đang có của Mỹ. Sự xoay trục sang Châu Á là một trong
những cố gắng của Mỹ để tìm cách kiềm chế Trung Quốc, thông qua các chiến lược
124
tiêu biểu như “tái cân bằng” quân sự sang Tây Thái Bình Dương, đàm phán Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với các nước trong khu vực mà không
có sự tham gia của Trung Quốc. Mỹ đang cải thiện và thắt chặt quan hệ với các
nước đồng minh và đối tác, nhất là các nước láng giềng Trung Quốc; sử dụng các
công cụ như luật pháp quốc tế và các thể chế quốc tế để kiềm chế và điều chỉnh
hành vi của Trung Quốc… Vì vậy, Việt Nam phải có sự lựa chọn và xây dựng
đường lối ngoại giao phù hợp, mang lại lợi ích quốc gia cao nhất trong sự vận động
quốc tế đó.
Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, là ngoại giao phải có thực
lực, sự lựa chọn chiến lược hàng đầu của Việt Nam là phải tăng cường nội lực, về
kinh tế, quốc phòng, xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong cũng như ngoài
nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng các diễn biến địa chính trị khu
vực để nâng cao vị thế chiến lược của mình, góp phần kiềm chế tham vọng của một
số nước lớn. Đặc biệt, cần tận dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn đang dần gia tăng
để Việt Nam tăng cường quan hệ những nước có chung nhận thức về mối đe dọa và
lợi ích trên Biển Đông.
Do đó, trong khi vẫn duy trì nguyên tắc trong quan hệ ngoại giao, Việt Nam
cần từng bước thắt chặt quan hệ chiến lược an ninh với các quốc gia chủ chốt trong
khu vực dưới dạng các “liên minh mềm”, đặc biệt là với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Nga
- Ấn Độ để có thể nâng cao vị thế chiến lược của mình trong quan hệ với Trung
Quốc, nhất là trên vấn đề Biển Đông. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn quan điểm,
tư tưởng Hồ Chí Minh để tăng cường thế và lực cho cuộc đấu tranh ngoại giao bảo
vệ chủ quyền của đất nước. Tư tưởng đó bao gồm cả việc liên kết và ràng buộc,
cộng đồng lợi ích với những quốc gia ủng hộ lợi ích dân tộc chính đáng của Việt
Nam. Việt Nam cần thiết phải duy trì chính sách ngoại giao đa phương, đa dạng và
không ngừng thắt chặt mối quan hệ chiến lược với các nước có lợi ích chung trong
khu vực nhằm hạn chế được tối đa các tác động tiêu cực của cuộc đối đầu Mỹ -
Trung Quốc lên Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu này, với chính sách ngoại giao đa phương, đa
dạng, Việt Nam phải chủ động can dự, tham gia vào các diễn biến địa chính trị khu
vực, góp phần định hình các diễn biến đó để không phải trở thành kẻ ngoài lề, bị
125
động đối phó, và rốt cuộc sẽ trở thành nạn nhân bị đem ra mặc cả trong ván cờ giữa
các nước lớn như đã từng xảy ra trong lịch sử mà Mỹ và Trung Quốc đã từng thực
hiện trong thế kỷ XX. Do vậy, bên cạnh chính sách không liên kết phải tính tới việc
thực hiện “liên minh mềm” như là một biện pháp linh hoạt và hiệu quả để Việt Nam
có thể thực hiện nhằm cản trở tham vọng của Trung Quốc.
Có thể nói, trong khi tìm mọi cách cố gắng duy trì quan hệ hòa hiếu với
Trung Quốc, Việt Nam cần phải theo đuổi các mối quan hệ liên minh với các đối
tác ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau để đối phó với các mối đe dọa từ Trung
Quốc. Theo nghĩa đó, liên minh không nên được hiểu là đi với nước này để chống
nước kia, mà là đi với nước nào để chúng ta có thể bảo vệ được tốt nhất lợi ích quốc
gia của mình. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách “liên minh mềm” cần phải định
rõ những nguyên tắc cơ bản như sau:
Một là, “liên minh mềm” là tùy vào yêu cầu của tình hình, Việt Nam có thể
tăng cường hay dịu bớt ưu tiên đối với chính sách này, miễn sao có thể giúp phục
vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, thể hiện trước hết ở việc bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ,
chủ quyền quốc gia, và sau đó là đồng thời duy trì được quan hệ hòa bình, ổn định,
hai bên cùng có lợi với Trung Quốc.
Hai là, “liên minh mềm” là liên minh với đối tác đa dạng, tùy vào phạm vi
và mục đích của liên minh, dựa trên nguyên tắc phối hợp với những nước có lợi ích
tương đồng để cùng theo đuổi mục đích hay cân bằng lại mối đe dọa chung.
Ba là, “liên minh mềm” là liên minh đa dạng cả về chính trị, ngoại giao,
pháp lý…, qua đó giúp các quốc gia cùng chia sẻ lợi ích đối phó với mối đe dọa
chung. Việc hình thành các liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý… với các
nước khác bản thân chúng đã có giá trị răn đe đối với các mối đe dọa. Hơn nữa,
trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi thì các đồng minh dù không can dự
trực tiếp về quân sự nhưng vẫn có thể mang lại những hỗ trợ quý giá về cả vật tài,
vật lực và tinh thần để giúp chúng ta chống lại sức ép quân sự từ mọi phía.
Bốn là, việc tiến hành “liên minh mềm” không đồng nghĩa với việc Việt
Nam hi sinh quan hệ với Trung Quốc. Đó chỉ là một công cụ giúp Việt Nam quản lý
và điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc để Trung Quốc phải tôn trọng các lợi
ích chính đáng của Việt Nam. Vì vậy, trong trường hợp khi Trung Quốc không phải
126
là một mối đe dọa đối với Việt Nam thì Việt Nam vẫn sẵn sàng phát triển quan hệ
tốt đẹp với Trung Quốc, nhất là về mặt kinh tế, văn hóa. Trên cơ sở các điều kiện và
nguyên tắc này, Việt Nam cần xác định các liên minh có thể xây dựng phù hợp.
Hiện nay, có thể xác định 3 loại hình liên minh mà Việt Nam có thể thiết lập là liên
minh chính trị - ngoại giao, liên minh pháp lý và liên minh quân sự. Đương nhiên
có thể có sự kết hợp giữa các liên minh này với nhau ở những quốc gia có cùng lợi
ích nhất định. Ví dụ có thể xây dựng liên minh pháp lý giữa Việt Nam - Nhật Bản -
Philippines vì: 1) Cả 3 nước đều có chung một mối đe doạ là Trung Quốc; 2) Cả 3
nước đều không có lợi khi giải quyết tranh chấp bằng quân sự; 3) Sự ra đời liên
minh 3 nước giúp tăng lợi thế của mỗi nước so với việc từng quốc gia đứng ra kiện
Trung Quốc; 4) Liên minh pháp lý tạo nên sự đồng thuận, qua đó thắt chặt quan hệ
chính trị - ngoại giao giữa 3 nước.
Năm là, cùng với việc xây dựng “liên minh mềm” đáp ứng nhu cầu hội nhập
và đối phó với áp lực bên ngoài, ngoại giao Việt Nam phải đồng thời tiến hành cuộc
đấu tranh chống lại sự chia rẽ mà trước hết là trong khối các nước ASEAN. Sự
không đồng thuận của ASEAN là bất lợi cho Việt Nam và là thành công của Trung
Quốc trong việc bẻ gãy từng chiếc đũa trong tập hợp không ràng buộc này. Do đó,
việc tham gia có trách nhiệm của Việt Nam trong xây dựng ASEAN chính là xây
dựng sự đồng thuận trong khối, tạo ra hậu thuẫn từ bên trong và kêu gọi sự ủng hộ
từ bên ngoài.
4.2.3. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc góp
phần mở rộng hội nhập quốc tế thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh
vực khác
Trong thời gian tới, trước tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều
biến động khó lường, để tiếp tục nâng cao vị thế và vai trò cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định, bổ sung và phát triển đường lối đối
ngoại cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:
Đảng phải giữ vững và phát huy đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời luôn tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế là tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can
thiệp vào nội bộ của nhau và cùng có lợi.
127
Đường lối đối ngoại của Đảng phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản
Việt Nam cần kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao và hội nhập quốc tế
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nổi bật hơn cả là phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn
biến”, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp với mở rộng hợp
tác quốc tế. Hợp tác quốc tế bao gồm những nội dung rất rộng, phải có sự định
hướng và tuân thủ các nguyên tắc nhất định.
Hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trước hết phải
tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, loại bỏ sự áp đặt hay ép
buộc trong quan hệ kinh tế bởi tác động của các mối quan hệ có liên quan đến quân
sự, chính trị hay trật tự - an ninh.
Tự lực, tự cường, xây dựng tiềm lực trong nước là điều kiện để mở rộng hợp
tác quốc tế. Theo Người, độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của
Việt Nam: “phương châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các
nước bạn giúp ta là phụ” [134, tr.56], “ta được các nước bạn giúp, tức là có thêm
điều kiện để tự lực cánh sinh” [134, tr.144] và “các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng cho ta, phát triển khả
năng của ta” [134, tr.56]. Về thực chất, Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí và giải
quyết chính xác phép biện chứng về mối quan hệ giữa nhân tố bên trong và bên
ngoài, giữa nội lực và ngoại lực trong xây dựng và phát triển kinh tế; nhân tố bên
trong, nội lực là chính, là quyết định; còn nhân tố bên ngoài, ngoại lực là phụ,
nhưng lại rất cần thiết và quan trọng.
Quán triệt phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về vận động quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi trong quan hệ đối
ngoại, cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát
triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc
tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các
128
mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh, đồng thời chú trọng một số nội
dung sau:
1. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của
Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải
phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá
nhân, khai thác hiệu quá các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân,
bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài
vào công cuộc xây dựng đất nước.
2. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc
gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, khu vực
trong nước.
3. Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được phát
triển đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi
phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
4. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích
quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi
vào thế bị động, đối đầu.
5. Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi
với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ
quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề
xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai
trò của cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
129
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn trong hợp tác quốc
tế, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội chúng ta cần tập trung vào những
giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về yêu cầu hội
nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu
của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và
hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế.
Xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, trước mắt
đến năm 2020, chú trọng việc đổi mới thể chế phát triển nguồn nhân lực, hiện đại
hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết lập bộ máy đủ thẩm
quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các hoạt
động hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập trên các lĩnh
vực; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo.
Thứ hai, về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO): Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn. Nhưng mặt
khác, thách thức cũng lớn hơn và khó khăn cũng tăng lên. Nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn gấp bội, trong một
môi trường quốc tế có nhiều biến động, khó dự đoán và có độ rủi ro cao. Trong điều
kiện đó, nếu không có một cơ cấu kinh tế tổng thể hiệu quả và vững chắc, một hệ
thống thể chế vận hành đồng bộ, nền kinh tế sẽ không thể hội nhập thành công,
càng không thể cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Đây chính là điểm mấu
chốt phải tính đến khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
trong giai đoạn tới.
Không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn thu hút
đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế hiệu quả kinh tế
xã hội, môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích
130
các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công - tư. Nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận. Xây
dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác
kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù
hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động xây dựng và thực hiện các biện
pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng
trong nước. Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế thương mại - tài chính - tiền tệ
khu vực và toàn cầu, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của đất nước.
Thứ ba, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; đưa
khuôn khổ quan hệ đó xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa
nước ta với các đối tác.
Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng
trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột,
củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt chú trọng việc
tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong
ASEAN và các cơ chế diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm, nhằm tăng cường
đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ hợp tác với các bên đối thoại
của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực.
Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành
viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực triển khai chủ trương
đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế; chủ động chuẩn bị nhân
sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế.
Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu
quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác nghị
viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân dân, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
131
Thứ tư, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an ninh phù
hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, khai thác hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với
các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền
thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả. Chủ động phát hiện, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội
nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia của nước ta. Đẩy mạnh quan hệ hợp
tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng
giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm
xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn
nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi
truyền thống khác. Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc
phòng an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ
ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các
cơ chế đa phương khác; trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao
hơn, như hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên Hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ khí
hủy diệt hàng loạt diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu
ổn định, bền vững.
Thứ năm, về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế
và các lĩnh vực khác, cần lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình
xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này.
Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học -
công nghệ, giáo dục - đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội
ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất là tri thức về
quản lý và khoa học - công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tăng
cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.
132
Thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng
mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên,
trước hết là các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc. Tích cực tham gia các thể
chế hợp tác về môi trường, đóng góp vào nỗ lực chung phòng, chống thiên tai, ứng
phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng, nguồn nước, động vật,
thực vật ở Việt Nam và trên thế giới.
Chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao chất lượng thành tích
trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao... ở khu vực và thế giới.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, văn hóa, thông tin,
tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực về xã hội,
văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.
4.2.4. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc bảo vệ
lãnh thổ, các tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ chủ
quyền biên giới, biển, đảo quốc gia. Quan điểm của Người là luôn tăng cường quan
hệ, hữu nghị với các nước láng giềng bằng nhiều hình thức ngoại giao nhà nước đến
việc thiết lập quan hệ với chính quyền và nhân dân các địa phương sống chung
cùng đường biên giới, giải quyết xung đột bằng đàm phán thương lượng, để xây
dựng biên giới, vùng biển, đảo hòa bình, hữu nghị vững chắc lâu dài.
Vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào bảo vệ Tổ
quốc, Đảng và Nhà nước đã coi trọng và chủ động thiết lập quan hệ hợp tác, hữu
nghị với các nước có chung đường biên giới, vùng biển đảo với Việt Nam. Những
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về
quốc phòng, an ninh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trước xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để phát triển và thực hiện mục tiêu
chiến lược: "ổn định lâu dài biên cương quốc gia", việc tiếp tục quán triệt tư tưởng,
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,
bền vững có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ
133
quốc gia. Đây cũng là điều kiện, giải pháp quan trọng để giải quyết triệt để mọi
nguy cơ xung đột trên tuyến biên giới, biển đảo.
Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình và suốt đời phấn đấu cho hòa bình của
các dân tộc trên thế giới. Theo Người, hòa bình phải gắn với độc lập, tự do và chủ
quyền đất nước và kiên trì quan điểm lấy đối thoại thay cho đối đầu, đối thoại trên
cơ sở có tình, có lý để phân giải các mối bất hòa. Hồ Chí Minh luôn cho rằng, cần
có chính sách đúng đắn, phải làm sao vui lòng được mọi người…và căn dặn phải
nắm vững nguyên tắc cứng rắn với sách lược mềm dẻo… lạt mềm nhưng buộc chặt.
Thực tiễn biên giới, vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước ta do lịch sử
để lại còn nhiều vấn đề phức tạp dễ dẫn đến tranh chấp, xung đột vũ trang. Giải
quyết những vấn đề trên phải bằng đối thoại trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nhau và quan tâm đến lợi ích của nhau thì không những giữ
được chủ quyền lãnh thổ mà còn tăng cường được tình đoàn kết, hữu nghị giữa các
nước. Ngược lại, chính quan hệ đoàn kết, hữu nghị sẽ tạo ra bầu không khí cởi mở,
thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, giúp cho đàm phán giải quyết mọi vấn đề trên biên
giới được nhanh chóng, thuận lợi.
Hoạt động ngoại giao giải quyết các mối quan hệ trên biên giới, lãnh thổ, đặc
là vấn đề biển Đông theo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là thực hiện theo
nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh, linh hoạt, khôn khéo tạo và chọn thời cơ
đàm phán và vận dụng phương pháp, nghệ thuật ngoại giao “lấy nhu chế cương”;
“nhân nhượng có nguyên tắc” nhằm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia,
dân tộc, đồng thời cũng là mục tiêu xây dựng và củng cố hòa bình, hữu nghị và bền
vững lâu dài.
Theo Hồ Chí Minh, trong hoạt động ngoại giao và chọn thời cơ đàm phán,
cần nắm vững phương châm kiên trì về nguyên tắc, giữ vững chiến lược, nhưng
mềm dẻo, linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Người
cho rằng, mục đích bất biến của chúng ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì phải linh
hoạt. Phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của dân tộc, và vị trí, vai trò của nước ta
trong quan hệ chính trị quốc tế, xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam
và tình hình đối phương để xác định đúng thời cơ đàm phán.
134
Ngoại giao là một mặt trận, phải luôn luôn “giữ quyền chủ động”, “giữ thế
công” trong quá trình chọn thời cơ đàm phán. Thế công được thể hiện bằng sự chủ
động của nhiều lực lượng, nhiều hình thức đấu tranh,...Hồ Chí Minh nêu quan điểm
chỉ đạo cho hoạt động ngoại giao là phải luôn chủ động để "thấy trước, chuẩn bị
trước". Người nói “Muốn thành công: thì phải biết trước mọi việc” [127, tr.588];
phải tích cực chuẩn bị các điều kiện, nhưng phải biết chọn thời cơ để giành thắng
lợi từng bước, giành thắng lợi từng bộ phận.
Chọn thời cơ đàm phán, trên cơ sở để biết người, biết mình; dự báo đúng tình
hình thời cuộc - các xu thế vận động trong quan hệ quốc tế; thái độ, chính sách của
các nước lớn đối với Việt Nam; tình hình đối phương và thực lực đất nước. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm
vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.
Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ
gian khổ phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những khó khăn. “Những
điều kiện lợi cho ta là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta,
nhân dân ta hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Đảng và Chính phủ ta
lãnh đạo khéo thì nhân dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh…” [46, tr.169].
Thời cơ đàm phán không chỉ đến từ sự tương tác của các nhân tố bên ngoài -
điều kiện quốc tế, mà thời cơ đàm phán xuất hiện còn do các nhân tố khác như: đối
phương và thực lực trong nước; do đó, việc xác định thời cơ đàm phán phải kết hợp
được các nhân tố khách quan và chủ quan. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “Chưa
biết mưu mô của các nước, thì không thể ngoại giao” [127, tr.571], cũng tức là nếu
chưa biết được nội tình và âm mưu của đối phương thì chưa nên quyết định việc
đàm phán. Do đó, trong ngoại giao phải tránh những hành động nóng vội; tránh tự ti
mà bỏ lỡ thời cơ; tránh ảo tưởng; phải tỉnh táo để có những dự báo chính xác về thời
cơ [147, tr.211].
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, khi nghiên cứu tình hình, đặc điểm thế giới
và xu thế quốc tế, phải rút ra những nhận định mang tính bản chất nhất; phải nhận
thức rõ tương quan lực lượng giữa ta, phía ta với đối phương, và phía đối phương,
đồng thời thấy được chiều hướng phát triển của tình hình để dự báo khả năng, thời
điểm và thời cơ đàm phán.
135
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò, vị trí, và tầm quan trọng của chính
sách ngoại giao các nước lớn trên chính trường quốc tế. Bởi vì:
Chính sách của các nước lớn, quan hệ giữa họ với nhau tác động trên
một mức độ lớn đến tình hình thế giới và quan hệ quốc tế… trong thực
tế, không ít trường hợp, các nước lớn đã dàn xếp với nhau để đạt tới các
giải pháp có lợi cho họ và bất lợi cho các nước khác. Tuy nhiên, nếu các
nước nhỏ và vừa có đối sách đúng đắn, phù hợp với vị trí địa lý - chính
trị - kinh tế của mình, khai thác được các mối quan hệ tuỳ thuộc, ứng xử
khôn khéo, linh hoạt và kịp thời, biết kiên trì đấu tranh, thì có thể hạn chế
được những thoả hiệp nước lớn bất lợi cho mình [147, tr.148-149].
Phải lợi dụng được chính sách của các nước lớn, phải “tranh thủ sự đồng tình
và ủng hộ của nhân dân toàn thế giới” [133, tr.550]. Đó là hai trong số các điều kiện
để mở đàm phán.
Hồ Chí Minh cho rằng, hoạt động ngoại giao nói chung, thương lượng đàm
phán nói riêng là một mặt trận, cần mở rộng và tranh thủ mọi lực lượng, hình thức
đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại “muốn làm cách mạng thắng lợi
thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”
[137, tr.453].
Với trong nước, hoạt động ngoại giao phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên
trong - sức mạnh của toàn dân, toàn diện, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước - đó là sức
mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, Hồ
Chí Minh cho rằng phải có thực lực “Phải trông ở thực lực, thực lực mạnh, ngoại
giao sẽ thắng lợi, thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to
tiếng mới lớn” [128, tr.147]. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn quy tụ, phát
huy sức mạnh nhân dân, tạo thực lực mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phải:
1) Tuyên bố rõ lập trường của Đảng và Nhà nước ta để củng cố niềm tin của
nhân dân vào Đảng, nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ;
2) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về
chủ quyền lãnh thổ trên biển để nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân
trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc;
136
3) Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nhân dân biết rõ về các âm mưu,
hành động của các thế lực bành trướng xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta;
4) Phát triển kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, đồng thời
bảo đảm thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo;
5) Tạo dựng dư luận rộng rãi, mạnh mẽ chống việc Trung Quốc xâm chiếm
biển đảo của Việt Nam từ nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.
6) Xây dựng, lực lượng vũ trang đủ mạnh để bảo vệ biển, đảo;
Với bên ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng: “Nước ta là một bộ phận của thế
giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng
có quan hệ đến nước ta” [132, tr.346]; những hoạt động của nước ta “có muôn ngàn
sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ” [134, tr.401]; nhưng
phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải “vạch rõ những phương pháp và những
biện pháp của riêng mình”, để “tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân
dân tiến bộ trên thế giới”; nhưng “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã” [126, tr.320]. Phải thực hành chính sách đối ngoại rộng mở
“chính sách mở cửa và hợp tác”, “chính sách hoà bình và quan hệ tốt”; tránh đối
đầu, và không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức
quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm
tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động
đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại
giao văn hoá...
Để tạo được vị thế quốc tế thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao nói chung và
đàm phán nói riêng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc mở rộng quan hệ đối ngoại
trên nhiều hướng, với chính sách đối ngoại rộng mở phù hợp với đặc điểm và xu thế
quốc tế. Hồ Chí Minh đã nêu tư tưởng chỉ đạo: “Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ
nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta” [139, tr.61]. Theo
Người, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về
Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nghệ thuật ngoại giao là phải “lấy nhu chế cương”
khi Người nói: “Hai hòn đá cùng chọi nhau thì hai hòn cùng vỡ, hai cái trứng cùng
chọi nhau thì hai cái cùng vỡ. Phải một cái cứng, một cái mềm thì khi chọi nhau
137
một cái mới còn. Nên hai bên cùng dùng mưu trí” [129, tr.70]. Tư tưởng chỉ đạo
hoạt động ngoại giao và đàm phán mà Hồ Chí Minh chỉ ra là người ta cương thì
mình phải nhu, phải khôn khéo lấy nhu thắng cương thì mới là biết mình biết người.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đàm phán ngoại giao phải có sự thoả hiệp lẫn
nhau, bởi theo Người: “Dùng lối nói chuyện thì phải nhân nhượng nhau đúng mức”
[132, tr.551]. Tuy nhiên, đó không phải là sự thỏa hiệp bằng bất cứ giá nào, bất cứ
lúc nào, mà phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc - phải nắm vững sự nhân nhượng
có nguyên tắc. Nghĩa là, trong ngoại giao phải biết nhân nhượng lợi ích bộ phận,
tạm thời, đúng mức, đúng lúc tại những hoàn cảnh tương quan lực lượng chưa có
lợi cho ta để bảo vệ lợi ích lâu dài, bảo tồn lực lượng cách mạng, từng bước tiến lên
và đi tới mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền lợi quốc gia và lợi ích chính đáng của
các dân tộc [147, tr.273]. Đối với những nước lớn, Hồ Chí Minh hết sức tránh đối
đầu chừng nào còn có thể tránh được, tìm ra những điểm tương đồng giữa ta với họ,
cũng như hiểu quan hệ giữa họ với nhau, không để Việt Nam “bị kẹp” trong xung
đột nước lớn, tranh thủ các nước lớn nào có thể tranh thủ được; hết sức tránh gây
căng thẳng, đối đầu và thực hiện phương châm “không gây thù oán với một ai”
[147, tr.158-159].
Tuy nhiên, để có thể làm tốt những vấn đề trên, theo tư tưởng, phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh, đã đến lúc phải đánh giá lại bản chất quan hệ với các nước
như: Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… để có định hướng chính sách đối
ngoại ứng phó với những thay đổi trong quan hệ song phương cũng như với các
nước lớn trong môi trường chiến lược. Sự đánh giá này cũng phải trên cơ sở lợi ích
quốc gia trên cơ sở của các nguyên tắc chung sống hòa bình, để không lệ thuộc vào
ý thức hệ đã bị chính các đối tác vứt bỏ.
Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, để tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế trong đàm phán hòa bình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam,
cần phải:
1) Thực hiện các kênh ngoại giao với nhiều hình thức, nhằm làm cho nhân
dân thế giới trong đó đặc biệt là nhân dân Trung Quốc, hiểu biết rõ về những văn
bản, những bản đồ, hiện vật chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa từ hàng thế kỷ
trước đã thuộc quyền quản lý của người Việt; cung cấp sự thật là chính bản đồ của
138
Trung Quốc từ năm 1904 thể hiện ranh giới lãnh hải của nước này chỉ đến đảo Hải
Nam. Đây là những tư liệu lịch sử quý giá, rất có giá trị pháp lý, lịch sử; phải làm
cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, cơ sở
pháp lý để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trên Biển Đông; biết rõ sự thật việc chủ
quyền biển, đảo Việt Nam đã và đang bị xâm phạm một cách trắng trợn;
2) Thể hiện công khai, minh bạch lập trường của Việt Nam tôn trọng luật
pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982)
và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); thể hiện sự kiên
trì của Việt Nam về chủ trương giải quyết hòa bình, không sử dụng vũ lực trong các
tranh chấp chủ quyền biển, đảo;
3) Quốc tế hóa các bằng chứng chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa từ hàng
thế kỷ trước đã thuộc quyền quản lý của người Việt, và bản đồ của Trung Quốc từ
năm 1904 lên Tòa án quốc tế, cùng đồng thời với việc quốc tế hóa sự thật về vấn đề
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; cần đưa hành
động phi lý xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt Nam ra các thiết chế luật pháp
quốc tế;
4) Phát huy xu thế toàn cầu hóa, xu thế hòa bình, phát triển, để đẩy mạnh
các hợp tác quốc tế song phương và đa phương, nhằm bảo vệ tự do hàng hải trên
biển Đông và khai thác nguồn lợi kinh tế biển Đông, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích,
tạo lợi ích đan xen về kinh tế biển Đông với các nước;
5) Đối với tổ chức ASEAN, cần thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ
động, tích cực và trách nhiệm cao; nhằm góp phần củng cố đoàn kết, tăng cường
quan hệ hữu nghị với các thành viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc khu vực; củng cố mối quan tâm chung của ASEAN là hòa
bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông; thực hiện đầy đủ và hiệu quả
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy sớm xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) [30];
6) Trên quan điểm độc lập tự chủ, phối hợp đấu tranh với các nước có lợi
ích trực tiếp ở biển Đông đang bị Trung Quốc xâm lấn hoặc nguy cơ bị Trung Quốc
xâm chiếm (Trước việc Trung Quốc “trỗi dậy bành trướng” liên tục có những hành
động lấn lướt, hung hãn, một số nước đã hình thành các liên minh để đối phó với
139
Trung Quốc trên biển Đông, như: Australia - Philippines, Mỹ - Australia, Mỹ - Nhật
Bản - Autralia, Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Philippines, Nhật Bản - Philippines, Mỹ - Hàn
Quốc, Ấn Độ - Nhật Bản, để làm đối trọng, bủa vây Trung Quốc tứ phía); tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của tất cả các nước lớn, trên cơ sở lợi ích chung về an ninh, tự
do hàng hải, lợi ích kinh tế trên biển Đông. Vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn, tích cực mở rộng quan hệ, hợp
tác với các nước lớn trong việc đầu tư, khai thác nguồn lợi ở biển Đông, trên cơ sở
đó, ràng buộc các nước lớn trong quan hệ lợi ích với Việt Nam, để các nước ủng hộ
chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam ở biển Đông. Đặc biệt chú ý quan hệ
với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc những nước vừa có lợi ích tự do hàng hải ở biển
Đông, vừa có lợi ích trong việc chống lại sự độc chiếm, chi phối biển Đông của
Trung Quốc.
Cần xuất phát từ tầm cao chiến lược, xuất phát từ lợi ích lâu dài của nhân
dân hai nước, giải quyết những tranh chấp, theo nguyên tắc công bằng và hợp lý,
hai bên cùng có lợi, thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, đi từ dễ đến khó; tuần tự
tiệm tiến, gia tăng cường độ đàm phán; mềm dẻo, linh hoạt, kiên trì, kiên quyết và
hiệu quả.
Tóm lại, trên tinh thần nêu cao tinh thần yêu chuộng hòa bình, Việt Nam
mong muốn và quyết tâm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các quốc gia có
liên quan đến vấn đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình, thương lượng đối thoại,
những vấn đề tranh chấp ở biển Đông sẽ sớm được giải quyết vì lợi ích của các dân
tộc, vì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
4.2.5. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc nâng
cao hiệu quả của hoạt động ngoại giao trong tình hình mới
Thấm nhuần quan điểm, phương pháp “thêm bạn bớt thù”, đứng trước yêu
cầu mới của tình hình trong nước và quốc tế, phải tiếp tục xây dựng chiến lược
ngoại giao toàn diện, phục vụ hiệu quả hơn nữa cho các mục tiêu hòa bình và phát
triển của đất nước trong thời kỳ mới. Thực hiện nguyên tắc cao nhất của hoạt động
ngoại giao là: “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc” [54, tr.236] và “vì một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Trong đó, bảo
đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
140
nghĩa và xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp lợi
ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó. Triển khai đồng
bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại và chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nhiệm
vụ của công tác ngoại giao là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [54,
tr.236] là chủ trương đúng đắn, kịp thời và sáng suốt của Đảng và Nhà nước, phù
hợp với đòi hỏi của tình hình mới. Trên tinh thần đó, ngoại giao Việt Nam sẽ đóng
vai trò là mặt trận quan trọng, tiếp tục là khâu đột phá phục vụ cho các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, tăng cường sức mạnh quốc phòng và
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới là quán
triệt “dĩ bất biến ứng vạn biến”, ưu tiên cao nhất là phục vụ lợi ích quốc gia, dân
tộc, coi đây là nguyên tắc bất biến và xuyên suốt trong sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng đất nước. Ngoại giao toàn diện cần huy động được sức mạnh tổng hợp của các
chủ thể trong nước, giữa trong nước với ngoài nước; phối hợp chặt chẽ, chia sẻ
thông tin, thiết lập cơ chế hợp tác giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối
ngoại nhân dân, ngoại giao nghị viện; giữa ngoại giao với các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể - xã hội... trong triển khai nhiệm vụ đối
ngoại một cách phù hợp; phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao
kinh tế, ngoại giao văn hóa; giữa ngoại giao với an ninh, quốc phòng; giữa ngoại
giao song phương với ngoại giao đa phương.
Ngoại giao toàn diện phải bảo đảm tính thống nhất và tập trung ở cả trong
nước và ngoài nước dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và thống nhất của Đảng, sự quản lý,
điều hành tập trung của Nhà nước. Đây là một trong những điều kiện then chốt nhất
quyết định sự phát triển đúng hướng của ngoại giao toàn diện trong bối cảnh mới.
Ngoại giao cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về chủ trương hội nhập quốc tế
và các nội hàm của ngoại giao toàn diện là một trong những điều kiện tiên quyết
đảm bảo triển khai thành công ngoại giao toàn diện trong thời gian tới. Trước hết,
cần có nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập quốc tế, coi hội
141
nhập vừa là nhu cầu cơ bản, lâu dài, vừa là định hướng chiến lược và phương tiện
quan trọng để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và củng cố an ninh
và độc lập tự chủ trong giai đoạn chiến lược mới, từ đó củng cố và nâng cao niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng và năng lực quản lý của Nhà nước. Đồng thời, cần
quán triệt sâu sắc phương châm chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế, trước hết
là chủ động, tích cực trong nắm bắt thời cơ, nhận rõ thách thức; chủ động, tích cực
trong lựa chọn mức độ và tốc độ tham gia, thậm chí khởi xướng các liên kết khu
vực và quốc tế phù hợp với lợi ích của Việt Nam, trong tăng cường năng lực mọi
mặt để nắm bắt, tạo dựng và tận dụng cơ hội và xử lý hiệu quả các thách thức từ quá
trình hội nhập.
Bên cạnh việc nắm vững, quán triệt đầy đủ các mục tiêu, trọng tâm đối ngoại
chiến lược, dài hạn (trong mối quan hệ biện chứng với các mục tiêu chung của đất
nước), cần nhận thức đúng đắn nội hàm, yêu cầu của ngoại giao toàn diện trong tình
hình mới. Nhận thức đó cũng cần phải linh hoạt, uyển chuyển, phát triển biện
chứng; cần liên tục theo dõi, nắm bắt thực tiễn, đánh giá, tổng kết quá trình triển
khai từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để có những điều chỉnh kịp thời. Để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngoại giao trong tình hình mới theo tư tưởng, phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh, cần thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân phải
kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau phát huy sức mạnh tổng
hợp của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để làm tốt được nội dung này, công tác dự báo phải đi trước một bước, đề án
triển khai phải xử lý nhanh, cần tăng thêm các sáng kiến mới tại các diễn đàn quốc
tế, chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Vận dụng tư tưởng, phương pháp “thêm bạn bớt thù” trong phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam là
đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, do đó, vừa ưu tiên hợp tác có
trọng điểm, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển quan hệ với tất cả các
nước, đặc biệt là các nước láng giềng, khu vực, những nước đối tác quan trọng, đưa
quan hệ đi vào chiều sâu bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng và thiết thực.
142
Trong giai đoạn mới chúng ta phải chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập
quốc tế một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Theo đó:
Một là, các hoạt động đối ngoại Đảng sẽ ngày càng được mở rộng, đa dạng
về hình thức, phong phú về nội dung; góp phần củng cố tình đoàn kết, sự hợp tác và
tin cậy lẫn nhau với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền; tích cực mở rộng hợp tác,
trao đổi kinh nghiệm với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, đảng
cầm quyền, tham chính ở nhiều nước trên thế giới.
Hai là, đối ngoại Quốc hội sẽ tiếp tục góp phần tăng cường tình đoàn kết,
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và
nhân dân các nước trên thế giới; tham gia tích cực tại các diễn đàn nghị viện khu
vực và quốc tế. Phát huy vai trò của ngoại giao nghị viện trong tổng thể ngoại giao
nhà nước; tiếp tục phối hợp với đối ngoại Đảng và Nhà nước, ngoại giao nhân dân
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế; tăng cường hoạt động đối ngoại với
nghị viện các nước láng giềng, đối tác chiến lược và các đối tác ta cần tranh thủ;
đóng góp vào việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia, dân tộc; tăng
cường công tác vận động, đấu tranh nghị trường trên các vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo; đưa quan hệ hợp tác giữa Quốc hội với nghị viện các nước đi vào
chiều sâu, hiệu quả, thực chất. Đẩy mạnh công tác lập pháp phục vụ hội nhập quốc
tế theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, nhất là trong công tác xây dựng và thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài; các hiệp định, hiệp
ước, các công ước, điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội.
Ba là, đối ngoại nhân dân tiếp tục phát huy thế mạnh của mình vì sự nghiệp
hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác nhân dân, vận động sự hỗ trợ nhiều mặt của
cộng đồng quốc tế cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Ngoại giao nhân
dân cũng đang dần khẳng định vai trò trong thành công chung, giúp quảng bá, nâng
cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế. Tiếp tục tinh thần
coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân, phối hợp chặt chẽ
hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa
ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với
quốc phòng, an ninh. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác
143
với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi
mới công tác đối ngoại nhân dân theo tinh thần thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tăng cường cơ chế
phối hợp linh hoạt, hiệu quả giữa các cơ quan, ban ngành với lực lượng đối ngoại
nhân dân, giữa Trung ương với địa phương, giữa các đoàn thể và các tổ chức nhân
dân với nhau trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại nhân dân có tính đặc thù,
các diễn đàn, cơ chế đa phương mang tính chính trị đối ngoại cao.
Bốn là, hệ thống cơ quan ngoại vụ các tỉnh thành tiếp tục được củng cố cả về
tổ chức bộ máy, nhân sự và hoạt động. Sự phối hợp của các cơ quan ngoại vụ địa
phương với các cơ quan đối ngoại của Trung ương được tăng cường một bước, chất
lượng hoạt động ngày càng được nâng cao hơn trước, đóng góp thiết thực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và mở rộng hợp tác
quốc tế của các địa phương.
Thứ hai, phối hợp chặt chẽ các trụ cột ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa,
an ninh... đồng bộ, hiệu quả, toàn diện, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tranh
thủ các nguồn lực để phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Ngoại giao chính trị chiếm vị trí trọng yếu trong tổng thể triển khai quan hệ
hợp tác toàn diện với các nước, phải là công cụ chủ lực trong tạo dựng khuôn khổ
chính trị - pháp lý và tạo động lực quyết tâm chính trị cần thiết để thúc đẩy quan
hệ hợp tác. Ngoại giao chính trị còn thúc đẩy tiếp xúc và trao đổi đoàn các cấp,
đặc biệt là tiếp xúc cấp cao, qua đó tăng cường hợp tác, tin cậy và hiểu biết lẫn
nhau giữa Việt Nam với các đối tác. Tiếp tục chủ động, tích cực triển khai nhiều
hoạt động đối ngoại quan trọng, sôi động, từ song phương đến đa phương, trải
rộng trên nhiều địa bàn, trong đó hướng ưu tiên là các nước láng giềng, khu vực
và các đối tác lớn theo phương châm làm sâu sắc thêm quan hệ giữa Việt Nam và
144
các nước. Tiếp tục triển khai quá trình nâng cấp quan hệ với một số đối tác ưu
tiên, quan trọng khác.
Phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng - an ninh, tuyên truyền - tư
tưởng và các lực lượng đối ngoại khác tạo thành một khối vững chắc trên mặt trận
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên cơ sở tham mưu cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước
và trực tiếp xử lý thỏa đáng các vấn đề phức tạp nảy sinh, góp phần bảo vệ vững
chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích an ninh và phát triển của đất nước.
Tiếp tục phát huy những đóng góp chủ động và tích cực trong việc xây dựng Cộng
đồng ASEAN, thúc đẩy đoàn kết và hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.
Ngoại giao kinh tế của Việt Nam ngày càng phải khẳng định vai trò là một
trụ cột quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, tiếp tục nâng cao chất lượng công
tác thông tin, dự báo và tham mưu cho Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định và bảo đảm an sinh xã hội, tái cấu trúc nền kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược.
Đồng thời, tiếp tục góp phần tranh thủ tối đa hợp tác quốc tế và các nguồn lực bên
ngoài để phục vụ phát triển và khắc phục những khó khăn kinh tế - xã hội trong
nước; tích cực hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xúc tiến xuất khẩu,
đầu tư, du lịch, phối hợp với các ngành xử lý các tranh chấp kinh tế - thương mại
quốc tế. Ngoại giao kinh tế được coi là công tác trọng tâm của toàn ngành ngoại
giao với bốn nhiệm vụ lớn là tham mưu dự báo, đột phá mở đường, hỗ trợ đồng
hành và đôn đốc triển khai. Phát huy ưu thế của mạng lưới gần 100 cơ quan đại
diện, ngoại giao đó hoàn thành tốt cả bốn nhiệm vụ này, vừa là thước đo đánh giá
hiệu quả đối ngoại, vừa đóng góp trực tiếp và toàn diện cho mục tiêu phát triển.
Trong đó, phải theo sát tình hình thế giới, cung cấp thông tin, dự báo, tham mưu kịp
thời cho Đảng và Nhà nước điều hành kinh tế - xã hội; đóng vai trò tiên phong, mở
đường cho Việt Nam xâm nhập vào các thị trường quốc gia và hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và toàn cầu; song hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam trên con
đường hội nhập, vừa quảng bá cho sản phẩm Việt, vừa bảo vệ lợi ích cho doanh
nghiệp trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Đặc biệt, lồng ghép nội dung kinh
145
tế vào các cuộc tiếp xúc cấp cao, qua đó thúc đẩy các thỏa thuận kinh tế, rồi tiếp đó
chủ động đôn đốc triển khai các thỏa thuận này.
Ngoại giao văn hóa trở thành nguồn “sức mạnh mềm” quan trọng, từng bước
khẳng định vị trí xứng đáng trong công tác đối ngoại thời kỳ mới với năm nhiệm vụ
chủ chốt: mở đường cho quan hệ giữa ta và một số quốc gia, là chất xúc tác thúc
đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, là công cụ quảng bá mạnh mẽ văn
hóa Việt Nam, là kênh vận động hiệu quả cho các di sản của đất nước, là cửa ngõ
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Qua đó, góp phần nâng cao vị thế, phát huy
"sức mạnh mềm" của đất nước, thắt chặt hơn nữa quan hệ của Việt Nam với các đối
tác và tăng cường sự hiểu biết của thế giới về Việt Nam.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài vừa là nhiệm vụ đối ngoại lại vừa
là nhiệm vụ đối nội - như Nghị quyết 36 đó xác định, cộng đồng người Việt ở nước
ngoài là “một bộ phận máu thịt không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”. Công tác
bảo hộ công dân tiếp tục chủ động, hiệu quả, kịp thời trong việc bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của công dân, pháp nhân, ngư dân và lao động ta ở nước
ngoài; quan tâm thúc đẩy giải quyết các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của
đồng bào ta ở một số nước. Trong thời gian tới, ngoại giao cần tiếp tục tích cực hỗ
trợ bà con ổn định cuộc sống, hòa nhập và phát triển ở nước sở tại, đồng thời tiếp
tục tạo thuận lợi để bà con ngày một gắn bó hơn với quê hương đất nước, đóng góp
nhiều hơn nữa cho đất nước cả về tinh thần, trí tuệ và vật chất.
Ngoại giao an ninh tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin (CBMS) và
hoạt động ngoại giao phòng ngừa (PD) trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF); thảo luận các nội dung liên quan đến an ninh biển, an ninh mạng, an ninh
năng lượng; tích cực hợp tác cùng các đối tác trong khu vực, các tổ chức quốc tế
thúc đẩy việc nâng cao nhận thức và đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền
thống; chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh chung vì quyền con người và các vấn
đề an ninh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tự do tôn giáo; mở rộng các
kênh và tổ chức các cuộc tiếp xúc của các đơn vị nghiệp vụ trong việc trao đổi
thông tin, kinh nghiệm và phối hợp nghiên cứu xây dựng các kế hoạch nghiệp vụ
chung đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm khủng bố, hoạt động của các tổ
chức phản động người Việt lưu vong; tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các đối tác an
146
ninh về phương tiện chuyên dụng, thiết bị khoa học - công nghệ hiện đại, tập huấn,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên gia... Hướng tới thúc đẩy sự phối hợp, trao đổi,
thu thập, tích luỹ và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, nhất là tội phạm khủng bố, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm ma tuý; hoàn thiện khung pháp lý hợp tác chiến lược cũng như trên từng lĩnh
vực, vụ việc cụ thể; ký kết các hiệp định khung và thỏa thuận quốc tế với lực lượng
an ninh, cảnh sát các nước trên các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công
an, sự giúp đỡ, tài trợ phương tiện kỹ thuật công nghệ cao, bảo vệ quyền lợi của
công dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài, bảo vệ đoàn ra nước
ngoài công tác và các đoàn nước ngoài vào Việt Nam, nhất là các đoàn cấp Chính
phủ, cấp cao của các đối tác thăm và làm việc ở nước ta, nhằm đảm bảo tuyệt đối an
toàn cho các đoàn ra, đoàn vào, không để xảy ra đột xuất, bất lợi. Kịp thời phát hiện
từ xa các âm mưu, hoạt động của các cơ quan tình báo nước ngoài, các thế lực phản
động lưu vong thâm nhập vào Việt Nam, tạo thế chủ động về chiến lược trong công
tác đảm bảo an ninh nội bộ, nội địa, góp phần xác định rõ hơn các nguy cơ và các
mối đe doạ từ bên ngoài đối với an ninh quốc gia của Việt Nam, cả theo nghĩa
truyền thống và phi truyền thống.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
ngoại giao.
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của công tác cán
bộ, là yêu cầu khách quan trong xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, cơ cấu đồng bộ, chất
lượng cao kết hợp với đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo bồi dưỡng là yếu tố quan trọng
trong công tác cán bộ.
Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ then chốt của việc thực hiện mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm,
khủng hoảng tài chính, nợ công trên thế giới, cạnh tranh quyết liệt giữa các nước
lớn tại khu vực, tác động bất lợi đến kinh tế - xã hội nước ta, song nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì
mức tăng trưởng hợp lý, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và
147
nâng cao dần đời sống nhân dân. Tuy nhiên, kinh tế nước ta tiếp tục phải đối phó
với nhiều khó khăn, thử thách.
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xuất
hiện nhiều điểm nóng phức tạp như xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ
quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly
khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ nét. Các
nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh kiềm chế lẫn nhau, mà trọng điểm
là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tình hình trên tác động không nhỏ đến ngoại giao và công tác ngoại giao, đặt
ra những đòi hỏi mới cho cán bộ ngoại giao như đặc biệt tin cậy về phẩm chất, đặc
biệt nhạy bén về thời thế, đặc biệt linh hoạt, khôn khéo trong đàm phán và tinh tế
trong ứng xử. Đội ngũ cán bộ ngoại giao cần phải rèn luyện phong cách: suy nghĩ
kỹ càng, hành động quyền biến, kỹ năng thành thạo; về năng lực phải có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ giỏi. Mặt khác, đội ngũ cán bộ ngoại giao phải
luôn rèn luyện bản lĩnh chính trị và tư tưởng vững vàng, kiên quyết đấu tranh với
các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tự biết bảo vệ mình và bảo vệ tổ chức
đảng. Từng cán bộ ngoại giao là hình ảnh đại diện cho dân tộc Việt Nam nên phải
biết làm rạng danh hình ảnh con người và đất nước.
Nhìn chung, Việt Nam hiện nay đã có một thế hệ cán bộ ngoại giao mới,
thông minh, hiểu biết và ham học hỏi, có phong cách làm việc tương đối chuyên
nghiệp. Nhưng vẫn còn hiện tượng làm việc cầm chừng, ngại học, ngại đi sâu
nghiên cứu, một số cán bộ ngoại giao còn không theo kịp mặt bằng chung của khu
vực về trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ. Tình trạng chủ quan, mất cảnh giác, phai nhạt
lý tưởng vẫn còn xảy ra đòi hỏi ngành ngoại giao phải hết sức chú trọng công tác
xây dựng đội ngũ, kết hợp công tác xây dựng cán bộ, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có vấn
đề học tập và làm theo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.
148
Tiểu kết chương 4
Mỗi một thời kỳ phát triển của đất nước có mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể.
Trong giai đoạn mới, mục tiêu của đất nước là đảm bảo môi trường hòa bình, ổn
định, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đẩy nhanh công nghiệp hóa, độc lập, tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập mọi mặt của đời
sống quốc tế, hướng tới xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hay nói
cách khác, đó là thực hiện hai nhiệm vụ: đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển
đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Xác định những nhân tố tác động đến sự phát triển ngoại giao Việt Nam, có
thể thấy bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tình hình mới cũng đặt ra những
nhiệm vụ, yêu cầu cho công tác ngoại giao. Vì vậy cần thiết phải tiếp tục vận dụng
phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề của đất nước và
quốc tế đang đặt ra hiện nay, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
149
KẾT LUẬN
1. Trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, ngoại giao Việt Nam đã
góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử dân tộc. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh, đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, từ đó đã phá vỡ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch; xây dựng
mối quan hệ hợp tác nhiều mặt, trên những nguyên tắc quan hệ và hợp tác quốc tế
mang tính phổ biến, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước.
2. Trong hệ thống phương pháp Hồ Chí Minh, có thể thấy có rất nhiều
phương pháp, trong đó tác giả lựa chọn các phương pháp sau để nghiên cứu làm rõ
giá trị của các phương pháp này trong thực tiễn cách mạng, đã được Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, góp phần đem lại thành công cho cách
mạng Việt Nam. Hệ thống phương pháp đó là: Dĩ bất biến ứng vạn biến, Biết
thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù; Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
trong đấu tranh ngoại giao; Phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao
tâm công; Kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm,
tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng; Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi.
3. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng để cho
Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới. Với bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta đã vạch ra đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, với tinh thần
Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới.
Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn đó đã góp phần tạo ra những thành tựu
to lớn, rất quan trọng của công cuộc đổi mới, đem lại cho đất nước thế và lực mới
vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI. Bên cạnh những thành công, ngoại giao Việt
Nam còn có những hạn chế trong vận dụng phương pháp ngoại giao. Xuất phát từ
tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra một số bài học kinh nghiệm từ quá
150
trình lãnh đạo, thực hiện đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Đây cũng là
cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
4. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu thế hòa bình, ổn định, hội nhập và
phát triển đang chiếm ưu thế. Nhưng, tình hình thế giới đã, đang và tiếp tục
có những biến đổi phức tạp và khó lường trên nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh
tế, văn hoá… do vậy, vấn đề bảo vệ lợi ích dân tộc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ,
biên giới, biển đảo của Tổ quốc đang trở thành vấn đề nóng. Công tác đối ngoại
của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phải có sự điều chỉnh kịp
thời, để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo
giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ
môi trường, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi giữa các quốc gia.
Có thể thấy, bên cạnh những yếu tố thuận lợi còn có rất nhiều thử thách,
khó khăn trong nước và quốc tế, yêu cầu đặt ra cho công tác đối ngoại của Đảng,
ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phải có chiến lược, sách lược mới, kịp
thời đáp ứng với những đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh hội nhập
và toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc hiện nay. Nghiên cứu tư tưởng, phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng vào thực tiễn, nhằm tăng cường hoạt
động ngoại giao đa phương, mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế hiệu quả, đó là
những vấn đề lớn, cấp bách và phức tạp, nhưng có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.
Trên cơ sở tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ những bài
học kinh nghiệm trong lịch sử ngoại giao Việt Nam và thực tiễn ngành ngoại giao
trên thế giới, cần phải hoạch định đường lối đối ngoại và chiến lược ngoại giao từ
nay đến 2020, tầm nhìn 2030 và xa hơn, nhằm khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của
dân tộc và quốc tế; phát huy mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập, mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
cộng đồng quốc tế; hướng tới xây dựng và phát triển một nước Việt Nam bền
vững; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Minh Thùy (2015), “Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý
luận chính trị và Truyền thông, (2), tr.28-31.
2. Nguyễn Thị Minh Thùy (2015), “Vận dụng phong cách, nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay”, Tạp
chí Giáo dục lý luận, (226), tr.6-9.
3. Nguyễn Thị Minh Thùy (2016), ““Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh
- Nhìn từ đường lối đối ngoại và ngoại giao Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục
lý luận, (245), tr.23-25.
4. Nguyễn Thị Minh Thùy (2017), “Quan điểm “Ngoại giao phải có thực lực” -
Nét đặc sắc trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo
dục lý luận, (257), tr.3-5; 45.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo tổng kết thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20
năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1996), Báo cáo về các văn kiện
trình Đại hội VIII do đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười trình bày ngày 28-6-
1996, Hà Nội.
5. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (2001), Hồ Chí Minh sống mãi với
dân tộc Việt Nam và bầu bạn quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Tám, Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Báo Đại đoàn kết (2011), Những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định
chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
9. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
153
12. Bộ Ngoại giao (1999), Tổng luận 50 năm hoạt động ngoại giao Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ Ngoại giao (2000), Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
15. Bộ Ngoại giao (2003), Nguyễn Đình Bin (chủ nhiệm), Tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp Bộ, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại giao (2004), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Bộ Ngoại giao (2004), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Bộ Ngoại giao (2008), Bác Hồ và hoạt động ngoại giao-một vài kỷ niệm về
Bác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Bộ Ngoại giao (2008), Hiệp định Giơnevơ - 50 năm nhìn lại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. Bộ Ngoại giao (2008), Biên niên ngoại giao Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Bộ Ngoại giao - Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao (2009), Vận dụng tư
tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Bộ Ngoại giao (2015), Ngoại giao Việt Nam năm 2014, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
23. Bộ Ngoại giao (2016), Ngoại giao Việt Nam năm 2015, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Mạnh Cầm (1995), Phát biểu tổng kết Hội thảo khoa học 50 năm
ngoại giao Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc tế tổ chức, Hà Nội.
25. Trần Văn Chánh (Biên soạn) (2000), Từ điển Hán Việt, Nxb Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
154
26. Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội.
27. Phạm Hồng Chương (1993) Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước (1965-1973), Luận án phó tiến sĩ Lịch sử, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
28. Phạm Hồng Chương, Phùng Đức Thắng (2000), "Hồ Chí Minh với "Dĩ bất
biến, ứng vạn biến"", Tạp chí Lịch sử quân sự, (3), tr.29-31.
29. E. Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
30. Dân trí (2012), "Việt Nam đóng góp quan trọng cho ASEAN", tại trang
http://dantri.com.vn, [truy cập ngày 20/11/2016].
31. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa
xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Lê Duẩn (2008), Tuyển tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Kim Dung (2000), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ
1945-1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
34. Phạm Thành Dung, Nguyễn Thị Thúy Hà và Phạm Thanh Hà (2014), Một số
vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt
Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ,
cứu nước, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực
dân Pháp, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VI), Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
155
40. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Đối ngoại
(1994), Báo cáo của Đoàn Đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội lần thứ 20 của
Đảng Cộng sản Nhật Bản, Tài liệu lưu Ban Đối ngoại Trung ương, số
698-Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Đối ngoại
(1998), Báo cáo về đoàn cán bộ Đảng ta thăm Pháp, Tài liệu lưu tại Ban
Đối ngoại Trung ương, số 163-ĐNTW, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Văn Đồng (1976), Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, lương tâm của
thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời
đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Furuta Matoo (1997): Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Lê Giản (1985), Những ngày sóng gió, Hồi ký, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
62. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (Đồng chủ biên) (2013), Chính sách
đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
63. Nguyễn Hoàng Giáp (2013), Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
64. Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh (Đồng chủ biên)
(2015), "Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay", thuộc Đề án: Nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận về công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
Lý luận Chính trị. Hà Nội.
65. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
157
66. Võ Nguyên Giáp (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Nguyễn Hùng Hậu (2011), Dĩ bất biến, ứng vạn biến, Nxb Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
68. Nguyễn Trọng Hậu (2004), Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thời kỳ 1945-1950, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Vũ Quang Hiển (2005), Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ
1945-1954, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Đỗ Đức Hinh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - Một số nội dung
cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), "Di sản Hồ
Chí Minh trong thời đại ngày nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ
niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2010),
Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
72. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu
tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
73. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
74. Học viện Quan hệ quốc tế (2000), Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp
vụ ngoại giao, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước
đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
76. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập, tự do (1945-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Văn kiện Đảng về Quan hệ quốc tế và
chính sách đối ngoại, tập 1, Hà Nội.
78. Vũ Dương Huân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp đổi mới từ 1975-
2000, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
79. Vũ Dương Huân (Chủ biên), Học viện Quan hệ quốc tế (2002), Góp phần
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Lao động, Hà Nội.
158
80. Vũ Dương Huân (Chủ biên) (2002), Học viện Quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt
Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Nxb Lao động, Hà Nội.
81. Vũ Dương Huân (2002), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
82. Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
83. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam, tập 1, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
84. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam, tập 2, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
85. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam, tập 3, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
86. Vũ Dương Huân (2010), Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Quốc Hùng (2000), Quan hệ quốc tế thế kỷ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
88. Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Khắc Nam (2006), Quan hệ quốc tế - Những
khía cạnh lý thuyết và vấn đề, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ
thuật đàm phán. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nguyễn Khắc Huỳnh (2012), Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam với cuộc đàm
phán Paris. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Vũ Khoan (2006), “Hai mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại” trong
cuốn Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
93. Vũ Khoan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
159
94. Không rõ tác giả (1984), Từ điển ngoại giao, tập 1, Nxb Khoa học,
Mátxcơva, (tiếng Nga).
95. Không rõ tác giả (1987), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
96. Không rõ tác giả (1994), Le Nouveau Petit Robert, Dictionnaires le Robert, Paris.
97. Không rõ tác giả (1998), Đại từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô, Nxb
Moring Mátxcơva.
98. Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (2010), Hoạt động đối ngoại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước châu Á, (1954-1969), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
99. Đặng Xuân Kỳ (1995), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Chương trình
khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX-02 (1991-1995).
100. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Đinh Xuân Lâm (2005), Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.
103. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.
104. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 50, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.
105. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (2003), Hoạt động đối ngoại nhân
dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Phan Ngọc Liên (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, Nxb
Lao động, Hà Nội.
107. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh những hoạt động quốc tế,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
108. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một
số vấn đề quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn
và lý luận cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
110. Phan Ngọc Liên (2014), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động
cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
111. Đỗ Hoàng Linh, Phạm Hoàng Điệp (2009), Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè
quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Lưu Văn Lợi (1995), Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
113. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, tập I.
Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
114. Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, tập II.
Ngoại giao Việt Nam 1975-1995. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
115. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (2000), Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ
trước hội nghị Paris, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
116. Lưu Văn Lợi (2007), Những điều cần biết về Đất, Biển, Trời Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
117. Nguyễn Phúc Luân (1999), Hồ Chí Minh: Nhà trí tuệ lớn của nền ngoại giao
Việt Nam hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành
độc lập và tự do (1945 - 1975), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
119. Nguyễn Phúc Luân (2003), Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay
cường bạo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
120. Nguyễn Phúc Luân (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Dấu ấn trí tuệ trên mặt
trận đối ngoại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
121. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch
sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
122. Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị Thanh Nga (2015), Nguyên tắc, phương pháp
ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
123. Đinh Xuân Lý (2003), Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
161
124. Đinh Xuân Lý (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng
của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
128. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
133. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
134. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
137. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Phạm Bình Minh (2010), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến
2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong
giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
142. Phạm Bình Minh (Chủ biên), Nguyễn Ngọc Trường và Đặng Đình Quý
(2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
143. Phạm Bình Minh (2015), Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường
lối đối ngoại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
144. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2008), Hợp tác ASEAN+3. Quá trình phát
triển, thành tựu và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
145. Hoàng Khắc Nam (2014), Một số vấn đề lý luận quốc tế dưới góc nhìn lịch
sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. H. Nicolson (1965), Diplomacy, Oxford University, London.
147. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
148. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2004), Việt Nam - ASEAN: Quan hệ đa phương
và song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2007), Đông Nam Á - truyền thống và hội nhập,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
150. Vũ Dương Ninh (2007), Việt Nam - Thế giới và sự hội nhập, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
151. Lương Ninh, Vũ Dương Ninh (Đồng chủ biên) (2008), Tri thức Đông Nam Á,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2010), Biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
153. Vũ Dương Ninh (2014), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154. M. Rajaretnam, Thái Quang Trung (2014), Một Đông Nam Á vận mệnh
chung tương lại chung, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
155. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ Chí Minh),
Éditions Seghers, Paris.
156. Đỗ Tiến Sâm, Furuta Moto (2003), Chính sách đối ngoại mở rộng của Việt
Nam và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
157. Lương Viết Sang (2004), Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Pari về Việt Nam (1968-1973), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
158. Singô Sibata (1992), "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng", trong cuốn Giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội và Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội.
163
159. Võ Văn Sung (2010), Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Đặng Văn Thái (2002), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời
kỳ 1945-1954, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
161. Đặng Văn Thái (2004), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận
dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
163. Phạm Đức Thành (Chủ biên) (1998), Việt Nam - ASEAN: Cơ hội và thách
thức. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164. Phạm Đức Thành (Chủ biên) (1998), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
165. Song Thành (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
167. Phạm Thanh Thuỷ (2009), Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương
châm đối ngoại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
168. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2010), Ngoại giao nhân dân trong quan hệ đối
ngoại của Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169. Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
170. Trần Nam Tiến (2010), Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Thực trạng và triển
vọng, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
164
171. Nguyễn Hữu Toàn (2013), Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam với cuộc đấu tranh
bảo vệ dân tộc của các nước đang phát triển sau chiến tranh lạnh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Hoàng Trang (2005), Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước dưới ngọn cờ
tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
173. Nguyễn Duy Trinh (1979), Mặt trận ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
174. Nguyễn Phú Trọng (Chủ nhiệm) (2003), Hội đồng Lý luận Trung ương, Đổi
mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, mã số: ĐTĐL-2003/18, Hà Nội.
175. Nguyễn Ngọc Trường (2014), Về vấn đề biển Đông, Nxb Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
176. Trần Minh Trưởng (2005), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ 1954 đến 1969, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
177. Trần Minh Trưởng (2014), Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan
hệ quốc tế của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình
mới, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
178. Trần Minh Trưởng (Chủ nhiệm) (2015), Vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Đề tài khoa
học mã số KX.04.30/11-15, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
179. Nguyễn Vũ Tùng (Biên soạn), Học viện Quan hệ quốc tế (2007), Chính sách
đối ngoại Việt Nam, tập II (1975-2006), Nxb Thế giới, Hà Nội.
180. Trần Thị Minh Tuyết (2013), ""Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chiến lược
trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (4),
tr.15-18.
181. Trần Thị Minh Tuyết (2016), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
182. Viện Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh - Biên niên
tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165
183. Viện Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh - Biên niên
tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
184. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học.
185. Vũ Quang Vinh (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối
ngoại thời kỳ 1986-1996, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị quốc
gia, Hà Nội.
186. Phạm Xanh (2006), Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
187. Lê Văn Yên (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế,
Nxb Lao động, Hà Nội.
188. Lê Văn Yên (2008), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong
cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.