TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH
-
Upload
imc-mic-bravo -
Category
Documents
-
view
103 -
download
5
Transcript of TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH
0
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo sƣ, tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhật
đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ trong quá trình tác giả nghiên cứu, hoàn thành
công trình này.
Tác giả cũng chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã đóng góp nhiều ý
kiến quý báu giúp tác giả hoàn thiện công trình:
- GS. TS Lê Chí Quế
- PGS.TS Trần Đức Ngôn
- GS. TS Nguyễn Xuân Kính
- PGS.TS Vũ Anh Tuấn
- PGS.TS Nguyễn Chí Bền
- TS. Nguyễn Hữu Thức
- TS. Nguyễn Thị Huế.
Tác giả xin chân thành cảm ơn trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn và Trung tâm Công nghệ thông tin (Văn phòng Bộ Văn hoá Thông tin, nay là
Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) đã giúp dỡ tận tình tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu, công bố công trình này.
Phạm Việt Long
1
ĐIỀU TÂM ĐẮC VỀ PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HOÁ DÂN TỘC
(Thay Lời giới thiệu)
GS. TSKH. Phan Đăng Nhật
Tôi không có dự định viết giới thiệu cuốn sách Tục ngữ ca dao về quan hệ
gia đình của TS. Phạm Việt Long. Vì thế e rằng sẽ nhắc lại trong vài trang, một
cách sơ lƣợc, thiếu thốn cả một cuốn sách hơn 300 trang và do vậy làm lãng phí
thì giờ bạn đọc.
Tôi chỉ dám phát biểu một điều tâm đắc: phƣơng pháp tiếp cận văn hoá để
tìm ra bản sắc văn hoá dân tộc. Điều này do phạm vi đề tài hạn chế,- tục ngữ, ca
dao về quan hệ gia đình,- nên tác giả không có điều kiện trình bày đầy đủ và trực
diện. Nhƣng chính những phƣơng pháp tiếp cận này, một mặt đem đến những
phát hiện mới mà có sức thuyết phục trong phạm vi đề tài của mình; mặt khác gợi
mở cho việc tìm hiểu bản sắc văn hoá nói chung.
*
1.Từ lâu một số nhà khoa học trong và ngoài nƣớc với mức độ khác nhau và
biểu hiện khác nhau, đã phủ định bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu
cho xu hƣớng này là “Bài tổng kết của trƣờng Viễn đông Bác cổ Pháp từ buổi
đầu cho đến năm 1920”: “Ấn Độ – Chi na (là tên gọi các nƣớc Đông Dƣơng,
trong đó có Việt Nam, do ngƣời Pháp dùng, tiếng Pháp là Indochine là từ ghép
tên hai nƣớc Ấn Độ và Trung Hoa- P.Đ.N), là khu vực ở Châu Á mà hai nền văn
minh lớn của bộ phận này của thế giới, văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa,
đụng độ với nhau và ít nhiều hoà lẫn vào nhau và là nơi mà các chủng tộc cƣ trú
ở lục địa và hải đảo ở phía đông châu Á kéo đến pha trộn vào nhau. Cho nên
ngƣời ta không thể thấy ở đấy, nhƣ ở nƣớc Trung Hoa hay ở nƣớcẤn Độ của
ngƣời Arirăng (Aryen), một chủng tộc riêng biệt và một nền văn minh độc đáo
xứng đáng đƣợc tìm hiểu vì bản thân chúng, một chủng tộc và một nền văn minh
chỉ nhờ vả rất ít vào ảnh hƣởng bên ngoài, mà hoàn toàn ngƣợc lại chỉ thấy ở đó
sự pha trộn khác thƣờng nhất của các nền văn minh và các chủng tộc linh tinh
(P.Đ.N.nhấn mạnh), không một nền văn minh nào- hình nhƣ thế lại có nguồn gốc
hoặc trung tâm ở đấy, ngay tại bản thân Ấn Độ- Chi na”1
Phân tích trên đây của bản tổng kết trang trọng này có mấy điểm chính:
- Các nƣớc Đông Dƣơng(trong đó có Việt Nam ), không có nền văn hoá văn
minh. Những lý do trên, không đáng nghiên cứu các nền văn hoá ở đây.
1 Trƣờng Viễn đông bác cổ Pháp từ buổi đầu cho đến 1920, //Tập san của Trƣờng Viễn đông bác cổ Pháp, tập
XXI, 1920,tr.4.
2
Lời kết án trên là của cơ quan học thuật có quyền lực nhất đƣơng thời của
ngƣời Pháp, đã xoá sạch bản sắc văn hoá Việt Nam và các nƣớc lân cận. Đƣơng
thời nó ảnh hƣởng sâu sắc đối với thế giới và cả một số ngƣời Việt.
Về sau, dần dần quan niệm trên đây đƣợc điều chỉnh từng bƣớc. Một số
học giả Phƣơng Tây nhận thấy văn hoá “các cƣ dân của bán đảo Đông Dƣơng”
không phải là một sự pha trộn linh tinh nữa mà có thể nhận diện đƣợc và họ goị
là “Các quốc gia Ấn độ hoá” (G.Coedes). Có ngƣời còn khái quát đƣợc bản chất
văn hoá của vùng này, hơn nữa còn chỉ ra rằng một số triết lý của Trung Hoa đã
đƣợc tổng kết từ thực tế của văn hoá phƣơng Nam nhƣ lý thuyết về âm dƣơng
(Eveline Porée Maspéro).
Nếu chỉ có thế thì không cần nhắc lại ở đây, cái gì hoàn toàn thuộc về lịch
sử trả về cho quá khứ. Nhƣng không nhƣ vậy, gần đây, (1972), Arnold Toynbee,
mặc dầu đã công nhận Việt Nam có một nền văn minh riêng nhƣng là sự “mô
phỏng văn minh Trung Hoa”, là “nền văn minh riêng văn minh Trung Quốc.
Leon Vandermeeersch (1986) coi văn minh Việt Nam (cũng nhƣ Triều Tiên,
Nhật Bản) là “văn minh Trung Hoa hoá”, nói cách khác là sự đồng hoá theo văn
minh Trung Hoa.2
Về bản chất trên đây là tƣ tƣởng trung tâm văn minh nƣớc lớn, đến thời kỳ
hậu thực dân, nó không còn tính chất miệt thị nƣớc nhỏ của chủ nghĩa thực dân
cũ nữa, nhƣng có nhiều biến dạng, mà thế giới vẫn đang còn tiếp tục tranh luận
với chúng: nếu ở thế giới, đó là chủ nghĩa trung tâm Âu châu, đƣợc gọi là
eurocentrisme, européocentrisme, thì ở châu Á là chủ nghĩa trung tâm Trung
Hoa, có thể tạm gọi la sinocentrisme.
Ở trên có nhắc đến tƣ tƣởng trung tâm Trung Hoa của thời kỳ hậu thực dân
của một số tác giả nƣớc ngoài, riêng ở Việt Nam tƣ tƣởng đó vẫn tồn tại không ít.
Trong bối cảnh nhƣ vậy tác phẩm của Phạm Việt Long xử lý vấn đề nhƣ
thế nào?
2. Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình tự giới hạn trong một phạm vi nhỏ
của văn hoá, quan hệ gia đình, trong đó có quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, anh
em họ hàng… Nhƣ trên đã nói, chúng tôi không giới thiệu toàn diện nên chỉ nêu
mối quan hệ vợ chồng để xét về phƣơng pháp tiếp cận.
Về quan hệ vợ chồng trong ca dao Việt Nam, nhiều ngƣời cho rằng, đã ảnh
hƣởng sâu sắc đạo cƣờng thƣờng của Nho giáo, xuất giá tòng phu. Các tác giả
Thi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức xuất giá tòng phu nhƣ sau:
“Đây là một quy luật bắt buộc ngƣời đàn bà. Chữ “tòng” đây không chỉ có
nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của ngƣời chồng nữa. Ý thức
này ăn sâu vào dân gian… Bởi vậy, ngƣời đàn bà sống trong chế độ Tam tòng
thƣờng có tƣ tƣởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thƣơng
2 Tham khảo GS Đinh Gia Khánh: Mục đích nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu //Văn hoá dân gian Việt Nam
trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, NXB KHXH. H,1993.
3
để nhờ vào sự che chở của ngƣời chồng… Xem thế, ngƣời đàn bà đối với chồng
chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”3
Nhƣ vậy các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam coi ngƣời phụ nữ Việt Nam
“sống trong chế độ Tam tòng” của Nho giáo, tuân theo đạo tam tòng nghiêm khắc
này. Phạm Việt Long có nhận định khác. Ông cho rằng: “Qua ca dao, chúng ta
thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng, mà có cả đàn ông theo vợ, và
quan trọng hơn là họ theo nhau, “phu phụ tƣơng tòng”… Cách thức theo chồng
của ngƣời phụ nữ Việt thời phong kiến đa dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩa
tích cực, thể hiện sự chủ động của ngƣời phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắp
hạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động ấy, ngƣời phụ nữ sẵn sàng gánh vác việc
khó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làm
cho vợ chồng đƣợc gắn bó. Từ khái niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả đã
chuyển hoá thành khái niệm theo nhau-“tƣơng tòng”, là biểu tƣợng cho sự gắn
bó vợ chồng ngƣời Việt trong xã hội phong kiến” 4
Kết luận nhƣ vậy có tính uyển chuyển, nhƣng quan trọng là bằng con
đƣờng nào, bằng phƣơng pháp nào để đi đến kết luận trên.
Trƣớc hết, tác giả không tự định ra trong đầu mình một tƣ tƣởng, rồi tìm
những đơn vị ca dao thích ứng để minh hoạ cho nó. Ông bao quát một kho tàng
ca dao đồ sộ khá đầy đủ 5, chứa đựng 11.825 đơn vị ca dao. Từ kho tàng đó, ông
chọn ra 1.179 đơn vị nói về đề tài gia đình, chiếm 9,97% tổng số. Từ đó, để khảo
sát vấn đề quan hệ vợ chồng, ông chọn đƣợc 690 đơn vị có đề tài này, chiếm
58,52% đơn vị ca dao nói về gia đình (ngoài quan hệ vợ chồng còn có các quan
hệ cha mẹ- con cái, anh chị em…)
Từ toàn bộ các đơn vị ca dao nói về quan hệ vợ chồng đƣợc rút ra từ Kho
tàng ca dao, gồm 11.825 câu, tác giả bằng thống kê, chỉ ra có 3 kiểu phục tòng
(nôm na là theo):
- Vợ theo chồng. “Lấy chồng theo thói nhà chồng”, “Có chồng thì
phải theo chồng, Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”... Trong quan hệ này,
tác giả cũng rút ra những trƣờng hợp ngƣợc lại, nghĩa là vợ không theo chồng, số
lƣợng không đáng kể, ví nhƣ: “ăn cam ngồi gốc cây cam, Lấy anh thì lấy về Nam
không về” “ăn chanh ngồi gốc cây chanh, Lấy anh thì lấy về Thanh không về”.
- Chồng theo vợ. “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo”, “Mình về anh
cũng về theo, Sum vầy phu phụ hiểm nghèo có nhau”…
- Cả hai theo nhau. “Theo nhau cho chọn lời vàng đá”, “Quyết theo
nhau cho trọn đạo”…
(Xin xem các trang 65,66- vi tính, ở đó có đầy đủ dẫn chứng)
3 Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập 1), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.198,
194. 4 Phạm Việt Long, sách đã dẫn, tr.66 (vi tính). 5 Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên và các cộng sự: Kho tàng ca dao ngƣời Việt, NXB Văn hoá-
Thông tin, H, năm 1995.
4
Trên cơ sở khảo sát, thống kê một cách khách quan, thận trọng, khối tƣ liệu
to lớn, phong phú và đa dạng nói trên, tác giả mới đi đến nhận định: “Nhƣ vậy,
qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng…” (đã trích
ở trên). Tác giả cũng khảo sát quá trình từ tiếp thu vỏ ngôn ngữ tòng phu đến sự
chuyển hoá thành theo chồng, chồng phục tòng vợ và phu phụ tƣơng tòng. Nhƣ
vậy, quan hệ vợ chồng trong văn hoá Việt Nam theo nguyên lý Gắn bó (Vợ
chồng là nghĩa keo sơn), Thuận hoà (Thuận vợ thuận chồng bể Đông tát cạn).
Nhƣ vậy, theo đạo lý Việt Nam, mà tục ngữ ca dao là sự ghi nhận trung
thành, ngƣời phụ nữ Việt Nam không “sống trong chế độ Tam tòng” “yếu đuối,
cầu an”, không “chỉ biết làm sao cho chồng thƣơng để nhờ vào sự che chở của
ngƣời chồng”. Và càng không thích hợp khi kết luận “Xem thế, ngƣời đàn bà
Việt Nam đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”.
Trên đây là bàn về những kết luận qua việc khảo sát ca dao coi nó nhƣ một
tấm gƣơng phản chiếu, hơn nữa, một tài liệu để điều tra xã hội học về xã hội Việt
Nam truyền thống.
Trong quan hệ gia đình, ngoài quan hệ vợ chồng nhƣ đã nói trên, sách
TNCDVQHG còn đề cập đến các mặt khác nhƣ quan hệ cha mẹ- con cái, quan hệ
anh em- chị em, quan hệ dâu rể. Cách tiến hành, phƣơng pháp nghiên cứu đều
nhƣ trên. Và các kết luận cũng có đóng góp mới và có tính thuyết phục.
Cuối cùng tác giả kết luận: “Qua tục ngữ, ca dao, ngƣời nghiên cứu thấy rõ
tính chất dân chủ, bình đẳng, khoan hoà, nhân văn là tính chất “trội” của quan hệ
gia đình ngƣời Việt….(xem thêm ở tr.129- vi tính của sách TNCDVQHG)”.
3. Cho đến nay, đối với các hiện tƣợng khác của văn hoá Việt Nam vẫn tồn
tại những nhận định khác nhau.
Ví dụ nhƣ có ngƣời cho tục thờ Thành hoàng là sản phẩm của Trung Hoa.
Trong lúc đó, GS Nguyễn Duy Hinh, với một công trình nghiên cứu công phu,
hơn 500 trang, chƣa kể phụ lục, đã khẳng định: “Thành hoàng làng là tập đại
thành văn hoá mà ngƣời nông dân Việt Nam đã sáng tạo qua bao nhiêu thể
nghiệm, của bao nhiêu thế hệ” 6
Tục thờ cúng tổ tiên cũng vậy, GS Đinh Gia Khánh không cho là đặc thù
phƣơng Bắc mà là đặc thù của nền văn hoá Đông Nam Á: “Còn tục thờ cúng tổ
tiên thì lại là một trong những nét đặc thù của vùng văn hoá Đông Nam Á” 7
Sở dĩ có sự nhận định khác nhau đối với một nền văn hoá, và bản chất các
hiện tƣợng văn hoá, chủ yếu là do khác nhau về phƣơng pháp. Chúng ta coi trọng
quy luật giao lƣu văn hoá, nhƣng nhiều khi trong quá trình giao lƣu đó diễn ra sự
tiếp biến văn hoá lâu dài, khiến cho nội hàm của hiện tƣợng, khái niệm đã thay
đổi mà chỉ còn lƣu lại cái vỏ ngôn ngữ. GS Từ Chi cũng chia sẻ với ý kiến này:
“Trong không ít trƣờng hợp, những yếu tố mà tổ tiên ngƣời Việt hiện nay đã lần
6 Nguyễn Duy Hinh: Tín ngƣỡng thành hoàng Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr, 410. 7 Đinh Gia Khánh: Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, H,
1993, tr. 43.
5
lƣợt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên niên kỷ Bắc thuộc, và cả
về sau nữa, khi đƣợc tích hợp vào cuộc sống hàng ngày của ngƣời bản địa, chỉ
còn giữ đƣợc ở nơi xuất phát có cái vỏ hình thức nữa thôi (thƣờng là tên gọi)
trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến đổi hẳn” 8
Tóm lại, tác giả Phạm Việt Long trong sách Tục ngữ ca dao về quan hệ gia
đình đã nghiêm túc tiếp thu ngƣời đi trƣớc về phƣơng pháp tiếp cận văn hoá, đó
là nguyên nhân quan trọng đem đến những đóng góp mới trong công trình nghiên
cứu của ông và đây cũng là kinh nghiệm cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểu
bản sắc văn hoá Việt Nam./.
P.Đ.N.
8 Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc ngƣời, NXB Văn hoá - Thông tin, Tạp chí văn hoá nghệ
thuật, H, 1996, tr.240.
6
MỞ ĐẦU
Nhiều nƣớc, nhiều tổ chức trên thế giới đã nhận thức đƣợc tầm quan
trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội loài ngƣời nên đã có nhiều
hành động nhằm xây dựng và củng cố gia đình.
"Ngày 8 tháng 12 năm 1989 Đại Hội đồng Liên hợp quốc tuyên
bố năm 1994 là năm quốc tế về Gia đình (IYF) với chủ đề "Gia đình,
các nguồn lực, và các trách nhiệm trong thế giới đang thay đổi" và biểu
tƣợng một mái nhà ấp ủ những trái tim.
Tƣ tƣởng chủ đạo của năm quốc tế về gia đình là: sự thay đổi của
thế giới phải tạo nên sự tiến bộ và tăng cƣờng các phúc lợi cho cá nhân
cũng nhƣ sự phát triển ổn định của gia đình. Năm quốc tế về gia đình
nhấn mạnh đến việc đảm bảo các quyền cơ bản của con ngƣời, đặc biệt
chú ý đến quyền của phụ nữ và trẻ em, kêu gọi các chính phủ, các tổ
chức xã hội quan tâm giúp đỡ các gia đình làm tròn trách nhiệm đối với
các thành viên và là hạt nhân của sự phát triển tiến bộ các cộng đồng,
dân tộc, quốc gia."[96:3].
Đảng và Nhà nƣớc ta cũng đã sớm có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề
gia đình và có các biện pháp thiết thực chăm lo cho gia đình. Bên cạnh các
điều luật trong bộ Luật dân sự, ngày 29 tháng 12 năm 1986, Quốc hội nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình,
trong đó khẳng định:
"Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt;
Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình đẳng, thƣơng yêu,
giúp đỡ nhau tiến bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những
công dân có ích cho xã hội;". [75:94].
Nhƣ vậy, gia đình là vấn đề đƣợc sự quan tâm đặc biệt của tất cả các tổ
chức đảng, chính quyền, từ trong nƣớc đến toàn thế giới. Để xây dựng gia đình
hạnh phúc, cần có cả một hệ thống phƣơng hƣớng, biện pháp, trong đó có việc
quay trở về tìm hiểu những giá trị truyền thống của cha ông, tìm ra trong đó
những mẫu hình và kinh nghiệm tốt đẹp để áp dụng và nhận biết những mặt
tiêu cực để tránh.
7
Văn học dân gian, trong đó có tục ngữ, ca dao, là kho tàng văn học quý
giá của đất nƣớc, đã vƣợt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một thành
tố quan trọng trong gia tài văn hoá nƣớc ta. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, tục
ngữ, ca dao đúc kết trí tuệ, tình cảm của nhân dân và phản ánh nhiều mặt của
xã hội, trong đó có phong tục, tập quán, có các mối quan hệ trong gia đình.
Việc đi sâu nghiên cứu tục ngữ, ca dao đã phát hiện ngày càng nhiều những
giá trị tiềm ẩn trong đó, giúp cho con ngƣời của xã hội đƣơng đại có cơ sở để
thực hiện đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn
hóa của dân tộc. Trong qúa trình nghiên cứu, sƣu tầm văn học dân gian, với
khối lƣợng lớn tục ngữ, ca dao đã đƣợc sƣu tầm, cần có các công trình nghiên
cứu theo chuyên đề, đi thật sâu vào những nội dung chủ yếu của tục ngữ, ca
dao, qua đó làm cho ngƣời đƣơng thời hiểu sâu hơn tục ngữ, ca dao, để có
cách thức ứng xử phù hợp với kho tàng văn hoá quý giá này của dân tộc và để
rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hiện tại.
Việt Nam đang bƣớc vào giai đoạn phát triển toàn diện, hƣớng tới mục
tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phù hợp với
xu hƣớng của thời đại, Đảng cộng sản Việt Nam coi văn hóa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của phát triển.
Trong quá trình mở rộng cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập với thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, một vấn đề nóng bỏng
hiện nay là sự hấp thụ thiếu chọn lọc những biểu hiện văn hóa ngoại lai, xa rời
những tiêu chuẩn đạo lý dân tộc từng tồn tại hàng nghìn đời nay. Nhiều mặt
tiêu cực của xã hội hiện đại đã tác động vào gia đình, tạo ra nguy cơ phá vỡ sự
bình yên của gia đình.
Trong điều kiện đó, gia đình trong xã hội hiện đại đang là một vấn đề
đƣợc quan tâm. Quay trở về những giá trị truyền thống, trong đó có quan hệ
gia đình, đã trở thành xu hƣớng của thời đại. Việc nghiên cứu những giá trị
trong gia đình truyền thống thể hiện qua tục ngữ, ca dao là một cách thức đóng
góp vào việc định hƣớng xây dựng gia đình trong xã hội ngày nay.
Trong bối cảnh trên, việc làm sáng tỏ vấn đề phong tục, tập quán trong
quan hệ gia đình qua tục ngữ, ca dao, chọn lựa và đề cao những phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc, tìm ra và loại bỏ những hủ tục, sẽ góp phần đáng kể
vào việc làm rõ nội hàm của khái niệm "Truyền thống văn hóa Việt Nam",
chống lại lối sống thực dụng, xa rời những chuẩn mực đạo đức, giáo dục, nâng
cao trình độ văn hóa, củng cố gia đình, ổn định xã hội, góp phần xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự nghiệp cách mạng hiện
nay cũng nhƣ lâu dài.
8
Với những lý do nhƣ đã trình bầy, chúng tôi căn cứ vào tục ngữ, ca dao
của ngƣời Việt đã đƣợc sƣu tầm và in thành sách để khảo sát về quan hệ gia
đình ngƣời Việt truyền thống. Sở dĩ chúng tôi chọn hai thể loại này vì chúng
gần gũi với nhau trong phƣơng thức hình thành, lƣu truyền cũng nhƣ trong nội
dung và nghệ thuật. Tục ngữ thiên về lý trí, ca dao thiên về tình cảm, hai thể
loại này sẽ bổ trợ cho nhau để chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề gia đình từ cả
hai góc độ lý trí và tình cảm.
Thực hiện phƣơng châm kế thừa có chọn lọc di sản văn hoá của dân tộc,
chúng tôi đã tìm hiểu khá kỹ công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao của
những bậc tiền bối và thấy nhƣ sau: Việc sƣu tầm, chú giải tục ngữ, ca dao nói
chung đã đƣợc tiến hành từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nhƣng chƣa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phong tục tập quán trong quan hệ gia đình
ngƣời Việt mà chỉ có một số tác phẩm đề cập đến vấn đề này trong một số
chƣơng, mục.
Năm 1940, qua Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa (Trƣơng Tửu)
nói về Gia tộc phụ hệ và Chống nam quyền để phân tích về gia đình Việt Nam
thể hiện qua ca dao. Năm 1960, ở tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phong
kiến trong ca dao Việt Nam, Hằng Phƣơng nêu lên những nội dung có tính
chất chống đối trong ca dao. Từ năm 1956 đến năm 1978, qua việc phân tích
ca dao, Vũ Ngọc Phan nêu lên sự đối xử bất công đối với ngƣời phụ nữ, mâu
thuẫn mẹ chồng - nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tam tòng trói
buộc ngƣời phụ nữ.
Từ những năm 90 đến nay, các nhà nghiên cứu đã chú ý nghiên cứu về
tục ngữ, ca dao theo chuyên đề. Có những công trình đƣợc xuất bản hoặc tái
bản đáng chú ý nhƣ: Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính, Ca dao tục ngữ
với khoa học nông nghiệp của Bùi Huy Đáp, Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt
Nam của Phan Thị Đào, Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt của
Triều Nguyên, Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái
Hòa, Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc
của Triều Nguyên... Có hai tác phẩm đi sâu vào nội dung tục ngữ, ca dao, đặc
biệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của con ngƣời trong xã hội, đó là Thi
ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh và Đạo làm người
trong tục ngữ, ca dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân.
Nghiên cứu về phong tục, tập quán trong gia đình ngƣời Việt, các công
trình ngiên cứu khoa học trên góc độ xã hội học, văn hoá học, và đặc biệt là
dân tộc học, đã có những tác phẩm chuyên sâu hoặc đã có những chuyên mục
chuyên sâu.
9
PGS. Nguyễn Từ Chi trong Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người
có Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ và Nhận xét bƣớc đầu về gia
đình của ngƣời Việt đã đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của làng xã, gia
đình cổ truyền, đồng thời cũng chú ý đến một số mối quan hệ trong gia đình,
đến vai trò ngƣời phụ nữ trong gia đình ấy.
Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục có phần khảo sát riêng về
Phong tục trong gia tộc. Đáng chú ý là trong khi giới thiệu phong tục tập quán,
tác giả thƣờng dẫn tục ngữ để minh chứng.
Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả Toan
Ánh đi sâu vào đời sống gia đình, trong đó nêu lên khái niệm về gia đình theo
Từ điển phổ thông và theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh. Tác giả giới
thiệu tóm tắt nhƣng khá sáng rõ về thành phần gia đình Việt Nam.
Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu dành hai chuyên mục trong tác phẩm Đến
hiện đại từ truyền thống để bàn luận về gia đình Việt Nam. Đó là Gia đình
truyền thống Việt Nam với ảnh hƣởng của Nho giáo, và Đổi mới cách quan
niệm giải phóng phụ nữ - Nhìn lại gia đình truyền thống để chuẩn bị thiết thực
cho các thiếu nữ vào đời.
Điểm qua các công trình, chuyên mục nhƣ trên, chúng ta thấy một
khoảng trống về nghiên cứu có thể bổ khuyết là khảo sát xem phong tục tập
quán trong quan hệ gia đình ngƣời Việt đƣợc phản ánh qua tục ngữ, ca dao
nhƣ thế nào? Cần nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề này trong một công
trình chuyên biệt để có cái nhìn toàn diện hơn, qua đó làm cho việc hiểu về gia
đình ngƣời Việt cũng nhƣ tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đƣợc sâu sắc hơn.
Trong công trình này, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp
nghiên cứu: phƣơng pháp nghiên cứu của các ngành văn học dân gian, xã hội
học văn hóa, văn hóa học, phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá dân
gian, văn học, xã hội học, dân tộc học…), phƣơng pháp thống kê, quy nạp,
phƣơng pháp hệ thống.
Vận dụng phƣơng pháp hệ thống, chúng tôi quan niệm rằng tục ngữ, ca
dao nằm trong hệ thống văn học dân gian, đồng thời mỗi thể loại là một hệ
thống riêng, và đi sâu hơn nữa, mỗi chủ đề lại là một hệ thống con, có cấu trúc
với những nhân tố nội tại, tạo nên những chất tích hợp của chúng... Nghiên
cứu tục ngữ, ca dao, bên cạnh việc tìm hiểu nội dung của từng đơn vị, chúng
tôi cố gắng tìm ra những chất tích hợp từ hệ thống các chủ đề và chất tích hợp
của toàn bộ hệ thống tục ngữ, ca dao.
10
Vận dụng phƣơng pháp thống kê, chúng tôi kết hợp giữa thao tác định
tính là thao tác thông thƣờng của ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn, với thao tác định lƣợng là thao tác thông thƣờng của ngành nghiên cứu
khoa học tự nhiên, để cố gắng đạt đƣợc sự chính xác trong nhận định, đánh giá
đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp thống kê ở đây phù hợp với đối tƣợng
nghiên cứu, vì thƣờng tục ngữ, ca dao là những đơn vị nhỏ, hầu hết có cùng
một kiểu cấu trúc. Chúng tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện
phƣơng pháp thống kê đƣợc triệt để, chính xác. Đây là phƣơng pháp hiện đại,
yêu cầu ngƣời sử dụng phải có một số kiến thức tối thiểu về tin học, đồng thời
phải cộng tác với những nhà chuyên môn về tin học để xây dựng hai phần
mềm chuyên biệt về tục ngữ, ca dao. Hai phần mềm này quản lý cơ sở dữ liệu
về tục ngữ, ca dao theo nhiều tiêu chí do ngƣời nghiên cứu quy định, trong đó
quan trọng nhất là các tiêu chí về thể loại, chủ đề, nội dung và ghi chú. Phần
ghi chú hết sức quan trọng, ghi đậm dấu ấn của ngƣời nghiên cứu, giúp ngƣời
nghiên cứu phân loại chi tiết hơn tục ngữ, ca dao theo nhiều yêu cầu (nhƣ về
nội dung, về thi pháp…) để rồi có thể tổng hợp nhanh chóng các câu tục ngữ,
ca dao cùng một tiêu chí, làm cho việc thống kê về số lƣợng và việc nhìn nhận
về chất lƣợng nội dung tục ngữ, ca dao đƣợc nhanh chóng và chính xác. Đối
với văn hóa dân gian nhƣ tục ngữ, ca dao, dân ca, cổ tích... lâu nay chúng ta
thƣờng vận dụng các phƣơng pháp có tính ƣớc lƣợng theo dự kiến sẵn có từ
ngƣời nghiên cứu. Trong giới thiệu, nghiên cứu về tục ngữ, ca dao, mô hình
chung thƣờng làm là đƣa ra một nhận định, lấy một vài đơn vị để chứng minh
rồi phân tích đơn vị đƣợc dẫn và đi đến kết luận (thực ra kết luận đã có trƣớc
khi khảo sát tƣ liệu, đây là một thao tác ngƣợc). Có thể mô hình hoá phƣơng
pháp đó nhƣ sau:
Nhận định
Dẫn chứng
Phân tích dẫn chứng
Kết luận
(theo hƣớng
đã nhận định)
Ví dụ : Khi nhận định rằng ngƣời Việt bao dung, dễ tha thứ, có thể dẫn
câu: "Ơn ai một chút chớ quên, oán ai một chút để bên dạ dày." Nhƣng nếu
nhận định rằng ngƣời Việt ơn oán rạch ròi, có thể dẫn câu: "Ơn đền ơn, oán trả
oán." Phải thống kê, so sánh giữa những câu nói lên sự bao dung và sự rạch
ròi, thì mới có thể rút ra kết luận khách quan, chính xác. Có tác giả khẳng định
"...ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân, tƣ tƣởng
11
chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo". [99:322]. Ý kiến trên
có thể đúng hoặc không đúng. Tuy nhiên không có tƣ liệu số liệu để chứng
minh. Trong khi đó, dùng phƣơng pháp thống kê trong hệ thống, với số liệu
5.682 câu ca dao nói về giao duyên nam nữ trong tổng số 11.825 câu ca dao
đƣợc sƣu tầm, chiếm tỷ lệ 48%, thì có thể nói chắc chắn rằng giao duyên nam
nữ là chủ đề chiếm ƣu thế trong ca dao.
Văn hóa dân gian ở dạng nguyên hợp, đôi khi phức tạp, không thể nhặt ra
một vài đơn vị theo sự lựa chọn của riêng ngƣời nghiên cứu mà nhận định rằng
đó là những biểu hiện tiêu biểu cho tính dân tộc, tính Việt Nam. Phƣơng pháp
nghiên cứu thích hợp là tổng hợp từ một kho tàng văn hóa dân gian tƣơng đối
đầy đủ, bằng thống kê, so sánh, thực hành thao tác định lƣợng cùng với thao
tác định tính để rút ra những kết luận khách quan, khoa học.
Trong mọi vấn đề, mọi chủ đề, để rút ra nhận xét và kết luận, chúng tôi
đều dựa trên toàn thể các câu tục ngữ, ca dao thuộc chủ đề đó. Các ý kiến khác
nhau hoặc đối lập nhau (phản ánh trong tục ngữ, ca dao), chúng tôi đều ghi
nhận để xem xét, không đƣa ra những định kiến trƣớc. Nếu có ý kiến đối lập
(phản ánh trong tục ngữ, ca dao), để xem ý kiến nào là chủ đạo, chúng tôi tính
số lƣợng và tỷ lệ phần trăm. Để làm rõ hơn các nội dung giống nhau và khác
nhau, chúng tôi đƣa ra các bảng thống kê, so sánh.
Để chỉ tính chất của các hiện tƣợng thể hiện trong tục ngữ, ca dao, thay
cho những loại từ chỉ mức độ nhƣ: rất, vô cùng, tƣơng đối, phần nào, ít, ít ỏi,
hiếm thấy... chúng tôi diễn đạt bằng con số (trị số tuyệt đối và tỷ lệ). Chúng tôi
không dừng ở con số, bảng, biểu... vì nhận thức rằng chúng tuy cụ thể nhƣng
nhiều khi khô cứng, không phản ánh đầy đủ các khía cạnh của cuộc sống, nhất
là cuộc sống tinh thần, tƣ tƣởng, tình cảm. Do đó, chúng tôi cũng rất coi trọng
sự nhận xét, bàn luận bằng ngôn ngữ (định tính).
Phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ trên rất phù hợp với loại hình tục ngữ, ca
dao, là loại hình có các thành tố có cấu trúc tƣơng đối giống nhau, sự trùng
hợp của các thành tố ấy có tần xuất tƣơng đối lớn. Điều này đã đƣợc các nhà
nghiên cứu đi trƣớc chỉ ra nhƣ sau:
"Công trình Hình thái học truyện cổ tích (xuất bản lần đầu năm
1928) của Prốp là một thể nghiệm thành công của việc áp dụng những
phƣơng pháp nghiên cứu chính xác vào các khoa học nhân văn, vào
việc giải mã các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật. Mặc dù biết khả
năng to lớn của việc sử dụng các phƣơng pháp chính xác, Prốp vẫn thấy
12
rõ những giới hạn của chúng. Theo ông, những phƣơng pháp này "chỉ
có thể đƣợc sử dụng và đem lại kết quả ở những nơi mà sự lặp lại có
trong một phạm vi lớn. Điều này chúng ta có ở trong ngôn ngữ, điều
này chúng ta có ở trong văn học dân gian" [Dẫn theo 151:138].
Chúng tôi đã khai thác một phần trong phần mềm Tục ngữ Việt Nam, Ca
dao Việt Nam mà chúng tôi mới xây dựng để làm tƣ liệu cho công trình nghiên
cứu này. Với khả năng quản lý tốt tƣ liệu, giúp phân loại, tra cứu nhanh và
chính xác nhiều loại chủ đề và nội dung theo yêu cầu phức tạp của ngƣời
nghiên cứu, phần mềm này sẽ là công cụ có ích cho việc nghiên cứu tục ngữ,
ca dao với các đề tài còn lại.
Lần đầu tiên tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đƣợc nghiên cứu một cách hệ
thống trên bình diện phong tục tập quán về gia đình với khối lƣợng khá lớn.
Qua tục ngữ, ca dao, công trình làm nổi rõ tính chất dân chủ, bình đẳng, khoan
hòa, nhân văn trong quan hệ gia đình ngƣời Việt. Tuy vậy, với khối lƣợng khá
lớn tƣ liệu, với tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, chắc chắn rằng công
trình không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong bạn đọc lƣợng thứ.
13
CHƢƠNG MỘT
TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ GIA ĐÌNH
ĐƢỢC PHẢN ÁNH QUA TỄC NGỮ, CA DAO
1. NHỮNG QUAN NIỆM CHÍNH VỀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRUYỀN THỐNG
1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một thực thể vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội,
gắn bó với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, thân tình và dòng máu để đáp
ứng nhu cầu về tình cảm, bảo tồn nòi giống, giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hóa của cộng đồng và tộc ngƣời, góp phần nuôi dƣỡng nhân cách con
ngƣời, phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh sự vận động của cộng đồng và quốc
gia trong tiến trình lịch sử.
1.2. Gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa
Việt Nam. Mỗi tác giả tìm cách tiếp cận khác nhau về gia đình. Phan Kế Bính
trong Việt Nam phong tục khảo sát gia đình thông qua phong tục trong gia tộc,
gồm các mục: Cha mẹ với con, anh em, chị em, thân thuộc, phụng sự tổ tông,
đạo làm con, thƣợng thọ, sinh nhật, thần hoàng, tang ma, cải táng, kỵ nhựt, tứ
thời tiết lập, giá thú, vợ chồng, vợ lẽ, cầu tự, nuôi nghĩa tử. Đáng chú ý là
trong khi giới thiệu phong tục tập quán, tác giả thƣờng dẫn tục ngữ để minh
chứng. Phan Kế Bính đã đƣa ra nhận xét nhƣ sau: trong quan hệ gia đình ngƣời
Việt, hòa mục là điều hết sức quan trọng, đạo làm con phải trọng chữ hiếu, vợ
chồng phải giữ chữ tiết nghĩa với nhau. Ông cũng phê phán một số biểu hiện
tiêu cực đã thành tập tục trong quan hệ gia đình nhƣ trọng nam khinh nữ, đa
thê...
Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả Toan
Ánh đi sâu vào đời sống gia đình, theo cách hiểu của học giả Đào Duy Anh:
Gia đình chỉ "những ngƣời thân thuộc trong một nhà." [3:8]. Ông giới thiệu
tóm tắt về thành phần gia đình Việt Nam và viết: "Qua các thành phần trên cho
thấy rằng gia đình Việt Nam bao quát rất rộng, và mọi ngƣời đều có tình thân
thuộc với nhau qua mọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cả
hai bên nội ngoại." [3:24-25].
Ở góc độ tiếp cận khác, Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đã xem xét Gia
đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo và viết:
14
"Gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hƣởng Nho giáo sâu sắc,
nhƣng tìm ảnh hƣởng đó không nên chỉ căn cứ vào lý thuyết Nho giáo,
mà nên nhìn gia đình trong thể chế chính trị - kinh tế - xã hội tổ chức và
quản lý theo Nho giáo, bị điều kiện hoá trong thể chế đó mà vận động
phát triển. Theo chúng tôi, những điều kiện đó là:
- Chế độ chuyên chế với quyền vƣơng hữu, quyền thần dân hoá toàn
thể với nền kinh tế cống nạp.
- Trật tự trên dƣới theo phân vị.
- Tổ chức làng - họ.
- Cuộc sống nông thôn và cung đình.
- Sự giáo hoá sâu rộng về trách nhiệm với vua với nƣớc, về tình
nghĩa gia đình, họ hàng, về lí tƣởng sống êm ấm, trên kính dƣới nhƣờng,
về quyền ngƣời đàn ông, ngƣời cha, ngƣời chồng". [57:314]
"Ảnh hƣởng Nho giáo đến gia đình truyền thống Việt Nam là lâu
dài và liên tục cho đến khi Việt Nam thành thuộc địa cuả Pháp và xã hội
Việt Nam bắt đầu Âu hoá.
Nhƣng ảnh hƣởng đó cũng có khác nhau tuỳ từng thời kỳ, từng
vùng và từng loại gia đình. Trong việc nghiên cứu gia đình truyền thống
và ảnh hƣởng Nho giáo trong đó, cũng chỉ một vài loại gia đình thực sự
có ý nghĩa". [57:315]
Tác giả đã phân tích các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nƣớc ta
trƣớc đây để chỉ ra có bốn hạng ngƣời trong dân là sĩ, nông, công, thƣơng,
nhƣng quan trọng nhất là nông và sĩ. Từ đó, ông "Phân biệt gia đình truyền
thống Việt Nam thành hai loại lớn: quan hộ và dân hộ."[48:320]. Tác giả viết:
"Trong xã hội trƣớc đây, nông dân và nhà nho có vai trò xã hội
lớn nhất, gia đình nông dân và gia đình nhà nho cũng là tiêu biểu nhất.
Gia đình nông dân, đặc biệt là gia đình trung nông, tiêu biểu cho cách
tổ chức làm ăn sản xuất nông nghiệp nhằm tự túc và đóng góp cho làng
nƣớc. Gia đình nhà nho tiêu biểu cho cách dùng lễ nghĩa xây dựng nền
nếp trong nhà và ăn ở với họ hàng làng xóm." [57:320].
PGS. Nguyễn Từ Chi nghiên cứu sâu vào cơ cấu tổ chức làng xóm và
nhận xét bƣớc đầu về gia đình ngƣời Việt, mà địa bàn chủ yếu là vùng đồng
bằng và trung du Bắc Bộ. Với gia đình ngƣời Việt cổ truyền, Nguyễn Từ Chi
nhấn mạnh đến loại mô hình gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân: “Gia tộc Việt, từ
nông thôn đến thành thị, ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, cả trên khắp đất
nƣớc, từ lâu cũng đã giải thể đến mức gia đình nhỏ rồi, thậm chí trong tuyệt
15
đại đa số các trƣờng hợp, là gia đình hạt nhân.”[15:181. Ông nhìn sâu vào tính
chất của gia đình Việt cổ truyền nhƣ sau:
“Tính chất phụ quyền của gia tộc Việt là điều đã đƣợc nhiều lần
nhấn mạnh, với các nguyên lý chính làm khung cho nó: quyền uy tối
cao của ngƣời cha với con cái, của ngƣời chồng đối với ngƣời vợ, đặc
quyền thừa kế của con trai, đặc biệt của con trai trƣởng, vai trò quán
triệt, có khi hầu nhƣ độc tôn của đàn ông chủ hộ trong mọi tổ chức
ngoại gia đình... Tính chất phụ quyền ấy còn đƣợc tô đậm bởi nhiều thế
kỷ giáo dục nhà Nho. Trên bình diện sinh hoạt cộng đồng của làng – xã,
sự vắng mặt quá “lộ liễu” của phụ nữ trong cơ cấu tổ chức càng nói lên
thế lép vế của họ. Tuy nhiên, nguyên lý, nhiều khi chỉ là nguyên lý, chỉ
là biểu hiện của “cấu trúc hữu thức” cộng đồng. Xét lại vấn đề dƣới góc
độ thực tế hơn của nền kinh tế tiểu gia đình, thì số phận ngƣời phụ nữ
Việt đâu có hẩm hiu nhƣ thế.. Không phải chỉ vì họ là ngƣời tiếp tay
đắc lực và không thể thiếu cho cha, cho chồng, trong lao động nông
nghiệp nặng nhọc, mà còn (và chủ yếu?) bởi vì “luồng tiểu thƣơng rất
phát đạt trong vùng châu thổ [và trung du Bắc Bộ – TT], thực ra là nằm
trong tay phụ nữ. Nhƣ vậy, chính ngƣời phụ nữ mang về cho gia đình
một phần thu nhập không phải không đáng kể, dƣới dạng tiền mặt, còn
nông phẩm lại thể hiện khía cạnht tự cấp tự túc của nền kinh tế nông
thôn.[192]
Những tác phẩm đƣợc dẫn ra trên đây giúp chúng ta hình dung về tổ chức
và tính chất gia đình Việt Nam truyền thống để có thể so sánh với các hình
mẫu gia đình đƣợc tục ngữ, ca dao phản ánh. Xã hội Việt Nam cổ truyền có
hai loại gia đình cơ bản: gia đình nông dân và gia đình nhà nho. Gia đình nông
dân là một đơn vị sản xuất theo kiểu chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa. Gia
đình nhà nho là gia đình theo kiểu bên anh đọc sách bên nàng quay tơ.
Năm 1991, công trình Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam ( NXB Khoa học xã hội - Hà Nội- 1991) đã công bố 12 bài nghiên cứu về
gia đình, cho chúng ta hình dung về sự biến đổi sâu sắc của gia đình truyền
thống Việt Nam trong thời kỳ mới của lịch sử Việt Nam có chủ trƣơng đổi mới
của Đảng ( năm 1986).
Chúng ta biết rằng vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tăng cƣờng khai
thác thuộc địa Việt Nam, xã hội Việt Nam phân tầng sâu sắc, quá trình Âu hoá
diễn ra nhanh chóng ở các đô thị và có ảnh hƣởng nhất định vào nông thôn
Việt Nam. Triều đình Huế đã chấm dứt việc thi cử bằng chữ Hán, Hán học bị
16
thất thế, Vũ Đình Liên với bài thơ Ông Đồ chia sẻ tâm trạng của cả xã hội Việt
Nam đối với tầng lớp Nho sĩ thất thế. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều giai
tầng mới, trong đó có viên chức và công nhân.
Ngày nay, từ kết quả của các công trình nghiên cứu về Nho giáo, chúng
ta không phủ nhận ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng Nho giáo đối với văn hóa gia
đình ở Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và xã hội cho nên mẫu hình
truyền thống của gia đình Việt Nam có những nét rất khác với gia đình truyền
thống ở Trung Quốc. Cũng vì vậy, tƣ tƣởng về gia đình của Nho giáo đã bị
khúc xạ trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ví dụ gia đình truyền thống
của Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của họ
tộc và thƣờng gia đình phát triển theo hƣớng gia đình nhỏ thành đại tộc. Trong
xƣng hô, ngƣời Trung Quốc đƣa họ lên vị trí chủ yếu (Lƣu tiên sinh, Trần đại
nhân...), tên ngƣời là phụ. Trong khi đó, ở Việt Nam, gia đình thƣờng ở quy
mô nhỏ, cách xƣng hô thân mật hơn, nhấn mạnh tên ngƣời, đề cao tính cộng
đồng “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần” chứ
không đề cao tuyệt đối tộc họ, coi đó nhƣ là một đẳng cấp phân biệt trong xã
hội.
Những đặc tính nói trên đƣợc phản ánh rõ trong các mối quan hệ trong
gia đình mà chúng tôi sẽ phân tích ở các chƣơng sau qua tục ngữ, ca dao.
2. KHÁI NIỆM TỤC NGỮ, CA DAO, PHONG TỤC, TẬP QUÁN
Đã có nhiều nhà nghiên cứu đƣa ra các khái niệm về tục ngữ, ca dao,
phong tục tập quán. Tuỳ từng góc độ chuyên môn, mỗi nhà nghiên cứu quan
tâm đến những đặc tính này hay đặc tính khác của đối tƣợng để định nghĩa
khái niệm, nhƣng nói chung đã tƣơng đối thống nhất ở những điểm cơ bản. Kế
thừa quan niệm của các nhà khoa học đi trƣớc, chúng tôi nêu lên những khái
niệm sát với hƣớng nghiên cứu của chúng tôi nhƣ sau:
2.1. Khái niệm tục ngữ
Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian, đƣợc hình thành và sử dụng
trong lời nói hàng ngày, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, thƣờng ngắn gọn,
có vần điệu, thành câu hoàn chỉnh, có chức năng thông báo, đƣợc phổ biến
rộng rãi trong nhân dân.
2.2. Khái niệm ca dao
Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu
(phần lớn là thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lƣu
truyền qua nhiều thế hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình
cảm. Nhiều câu ca dao vốn là lời của những bài dân ca. Vào giai đoạn muộn về
sau, ca dao cũng đƣợc sáng tác độc lập.
17
Cần nói thêm rằng giữa tục ngữ và ca dao có sự giao thoa nhất định. Có
những trƣờng hợp tục ngữ dƣợc trình bầy dƣới hình thức ca dao (thể thơ lục
bát); có những trƣờng hợp khó phân biệt là tục ngữ hay ca dao.
2.3. Khái niệm phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình
Phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình là những thói quen đã thành
nếp lâu đời, đƣợc lan truyền rộng rãi, ăn sâu trong quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình cũng nhƣ xã hội.
Phong tục và tập quán khác nhau ở chỗ: Tập quán là thói quen hình thành
trong các sinh hoạt mà con ngƣời tiếp thu đƣợc và tự giác thực hiện hành vi
của mình. Phong tục là quy định bất thành văn mà cộng đồng ngƣời quy ƣớc
với nhau có tính bắt buộc mọi ngƣời phải theo. Vì thế tục ngữ có câu "Nhập
gia tùy tục". Ai làm trái quy ƣớc đó sẽ bị dƣ luận chê bai và ngƣời có quyền uy
nhắc nhở. Ví nhƣ trong các cuộc giỗ họ, những ngƣời có thứ bậc ngang nhau
đƣợc ăn cùng mâm. Một số làng đặt ra hƣơng ƣớc - đây là cách thức văn bản
hoá phong tục để yêu cầu mọi ngƣời tuân thủ. Vì thế mới có câu "Phép vua
thua lệ làng".
2.4. Mối quan hệ giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán
Giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán có mối quan hệ hữu cơ,
tƣơng hỗ. Phong tục, tập quán là cái đƣợc phản ánh, còn tục ngữ, ca dao là
hình thức phản ánh của cái đƣợc phản ánh. Tục ngữ, ca dao xuất phát từ cuộc
sống, phản ánh phong tục, tập quán, đúc kết thành kinh nghiệm và biểu bộ tình
cảm theo quan niệm dân gian và trở lại tác động vào cuộc sống, góp phần phổ
biến những phong tục tập quán tốt đẹp, phê phán những thói hƣ tật xấu trong
xã hội.
3. NHỮNG Ý KIẾN CHÍNH XUNG QUANH CÁC MỐI QUAN HỆ
TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT ĐƢỢC PHẢN ÁNH QUA TỤC NGỮ,
CA DAO
Những nhà nghiên cứu đi trƣớc ít nhiều đã nghiên cứu về nội dung tục
ngữ, ca dao theo các góc tiếp cận khác nhau. Đóng góp của họ là rất lớn, đã
thúc đẩy ngành nghiên cứu văn học dân gian phát triển. Tuy vậy, việc phân
tích sâu chủ đề phong tục tập quán về gia đình trong tục ngữ, ca dao chiếm tỉ
trọng còn thấp trong những công trình khảo cứu về tục ngữ, ca dao nói chung.
Từ năm 1969 đến năm 1971 và năm 2000 có hai công trình đi sâu vào nội
dung tục ngữ, ca dao, đặc biệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của con
ngƣời trong xã hội, đó là Thi ca bình dân Việt Nam (1969 - 1971) của Nguyễn
18
Tấn Long, Phan Canh và Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
(2000) của Nguyễn Nghĩa Dân.
Chúng tôi xin lƣợc trích một số công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao
có liên quan đến chủ đề gia đình nhƣ sau:
Trong Ca dao - dân ca- tục ngữ - vè, Hoàng Nhƣ Mai có bài Tình yêu và
hạnh phúc gia đình trong thơ ca dân gian, Anh Biên có bài Quan niệm về
con người trong tục ngữ, Lê Anh Hiền có bài Tục ngữ và ca dao Việt Nam
với tình mẫu tử, trong đó các tác giả trình bày những biểu hiện tốt đẹp trong
quan hệ gia đình đƣợc tục ngữ, ca dao phản ánh, nhấn mạnh đến vấn đề đáng
quan tâm nhất là sự hoà thuận trong gia đình ngƣời Việt.
Các soạn giả Thi ca bình dân Việt Nam (tập 2) đã khảo sát 6 vấn đề đặt
ra:
- Phong tục Việt Nam xuyên qua ca dao.
- Quan niệm về chế độ gia đình.
- Những vui buồn trong mƣu sinh.
- Biến thái của tình cảm con ngƣời đối với sinh hoạt xã hội.
- Tình yêu quê hƣơng dân tộc.
- Ý thức đấu tranh của ngƣời bình dân qua các chế độ thống trị.
Khái quát các nội dung trên, các tác giả nêu nhận định:
"… dân chúng Việt Nam bị ách đô hộ ngƣời Tàu thống trị, nền
tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnh hƣởng
vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ. Vậy sự chống đối của ngƣời
bình dân đối với chế độ gia đình là sự chống đối giữa quan niệm ngƣời
bình dân trƣớc mọi ảnh hƣởng ngoại lai của lý thuyết Khổng Mạnh."
[73:161-162].
Vào năm 1940, Kinh Thi Việt Nam của Nguyễn Bách Khoa (Trƣơng
Tửu) nói về quan hệ gia đình, về Chống nam quyền nhƣ sau: "Luân lý phụ
quyền đặt ngƣời đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ Việt Nam đã mỉa mai, giày
đạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu của đàn ông đem ra trào phúng, để
chứng rằng địa vị ƣu thắng của đàn ông không đƣợc họ công nhận." [52.103].
Qua ca dao, ông rút ra những tính xấu của đàn ông bị phụ nữ mỉa mai là:
hoang đàng, đĩ thoã, phụ tình, và nhận định rằng ngƣời đàn bà đã nổi loạn, cố
đạp đổ cái hình tƣợng đàn ông.
Nguyễn Bách Khoa dành hai chƣơng Gia tộc phụ hệ và Chống nam
quyền để phân tích về gia đình Việt Nam thể hiện qua ca dao:
19
"Đứa con không là gì hết, ngƣời đàn bà không là gì hết, con ngƣời
không là gì hết. Cha là tất cả, chồng là tất cả, đàn ông là tất cả. Đó là
chân lý phụ quyền của Nho giáo, mà giai cấp sĩ phu vẫn muốn dùng
làm luân lý nền tảng của xã hội Việt Nam cũ, bởi nó rất thích hợp với
chế độ quân quyền và kinh tế nông nghiệp, hai nguồn quyền lợi của giai
cấp ấy. Nhƣng chế độ quân quyền với trạng thái nông nghiệp ở xứ ta
cũng mang một hình thức đặc biệt không giống xã hội Trung Quốc.
Cho nên chế độ gia tộc Việt Nam chỉ tiến đƣợc đến khuôn khổ phụ hệ
là ngừng lại, không đủ điều kiện chuyển sang khuôn khổ phụ quyền
tuyệt đối nhƣ ở Trung Hoa. Vì thế mà ở trong dân gian luôn luôn lƣu
hành một sức chống nam quyền, chống phụ quyền, chống Nho giáo rất
là mạnh mẽ." [63:102].
Trong tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca dao Việt
Nam (1960), Hằng Phƣơng viết: "Dƣới chế độ phong kiến, mặc dầu bị đàn áp
thậm tệ, bị luân lý phong kiến mê hoặc, nhồi sọ, nhƣng những tƣ tƣởng chống
đối vẫn nẩy nở và phổ biến rộng rãi trong câu ca tiếng hát dân gian." [122:1].
Tác giả nêu lên những nội dung có tính chất chống đối trong ca dao là:
- Những nỗi lo âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xƣa.
- Cƣỡng ép hôn nhân.
- Tảo hôn.
- Đa thê
- Cảnh góa bụa.
- Mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng.
- Không dân chủ trong gia đình.
Vào năm 1960, viết nhƣ trong tiểu luận thể hiện một tinh thần chống đối
phong kiến đáng trân trọng. Công trình nghiên cứu tuy còn sơ lƣợc nhƣng
cũng đã nêu lên diện mạo phía trái của gia đình Việt Nam; tuy nhiên, nếu
không nhìn sang phía phải, thì e rằng sẽ không tìm ra những truyền thống quý
báu trong quan hệ gia đình ngƣời Việt để gìn giữ và phát huy.
Nguyễn Nghĩa Dân chia tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời thành hai loại:
một loại về lao động, học tập, tu dƣỡng rèn luyện bản thân, và loại về đạo làm
ngƣời trong quan hệ gia đình. Tác giả viết:
"Tục ngữ, ca dao nêu bật truyền thống hiếu thảo của con đối với
cha mẹ,"… "Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem
nhƣ một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con
ngƣời."[19:56].
20
"Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tƣợng bất
hiếu đƣợc lƣu truyền nhƣ kinh nghiệm xấu..."
"Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi
và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này..." [21:57].
"Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận." [21:58].
Phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong chuyên luận trên bẩy chục
trang, do đó chỉ nêu đƣợc những ý chính mang tính nhận định khái quát, không
đi sâu phân tích, chứng minh. Trong khi phân tích, dẫn chứng, tác giả cũng
trích dẫn tục ngữ, ca dao.
Vũ Ngọc Phan viết:
"Trong chế độ phong kiến, việc quy định tài sản đối với phụ nữ rất
là khe khắt. Việc quy định ấy chủ yếu làm cho phụ nữ không bao giờ
đƣợc độc lập về kinh tế, dù chính phụ nữ đã góp phần xây dựng kinh tế
gia đình:
Hỡi cô cắt cỏ đồng mầu!
Chăn trâu cho khéo làm giầu cho cha.
- Giàu thì chia bảy chia ba,
Phận em là gái đƣợc là bao nhiêu!
Trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ tám
và thứ chín đã quy định về phụ nữ: "Khi chồng chết, phải thƣơng yêu
con vợ trƣớc hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không đƣợc
chiếm đoạt làm của riêng mình.", "Khi chồng chết mà mình chƣa có
con, thì phải ở lại nhà chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm
chuyển vận tài sản nhà chồng đem về nhà mình". [99:338].
"Nhƣng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân
dân, tƣ tƣởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo.
Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ƣng thuận, thì họ cũng không
kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh:" [114:339].
Vũ Ngọc Phan còn đề cập đến những vấn đề khác trong quan hệ gia đình
nhƣ: mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tam
tòng trói buộc ngƣời phụ nữ.
Giáo sƣ Đinh Gia Khánh viết:
“Điều 307 Lê triều hình luật quy định rằng ngƣời chồng xa cách
vợ năm tháng, không thăm hỏi đi lại thì có thể bị mất vợ. Đã có con với
nhau rồi thì gia hạn từ năm tháng lên một năm. Nếu vì công sai (đi việc
công) thì bất luật (tức là có thể vắng nhà lâu, không bàn tới kỳ hạn).
21
Nhƣ vậy là quyền lợi và hạnh phúc ngƣời phụ nữ đƣợc coi trọng
và đƣợc bảo vệ, trái hẳn với quan niệm nam tôn nữ ty của Nho giáo.
Điều lệ thi hành từ năm Hồng Đức thú hai (1471) quy định rất rõ
quyền lợi của phụ nữ trong việc thừa kế gia sản.”
…“Nhƣ vậy là trong gia đình, con gái cũng đƣợc coi bình đẳng
nhƣ con trai. Thật là trái với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc”, “nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô” theo lễ giáo của nho gia.” [61: 285].
Nguyễn Tấn Long và Phan Canh nhấn mạnh đến luật pháp của phong
tục, nó khiến cho chế độ cai trị phải tôn trọng lề thói của địa phƣơng. Các tác
giả liên hệ: ''Trong thi ca bình dân, những tầng lớp phụ nữ đã nối tiếp nhau qua
nhiều thế hệ, nói lên ý thức chống đối của họ, cho nên, ngoài sự phát triển mức
sống của hệ thống kinh tế, sự chống đối giữa ý thức cai trị và ý thức tục lệ
chính là mầm mống phân chia trong hệ thống chính trị." [61:81].
Phân tích quan niệm về chế độ gia đình, các tác giả nêu ra 11 vấn đề là:
- Ảnh hƣởng của chế độ phụ hệ.
- Ý thức bất mãn trong chế độ phụ hệ.
- Nỗi khổ cực trong sinh hoạt gia đình bình dân.
- Ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình.
- Ý thức về giáo dục gia đình.
- Những khắc khoải của tình yêu qua phong tục lễ giáo.
- Hiếu đạo với ông bà, cha mẹ.
- Tình anh em.
- Tình vợ chồng.
- Tình thân thuộc.
- Tình làng xóm.
Trong quá trình phân tích, các tác giả đã nêu lên ảnh hƣởng của chế độ
phụ quyền vào gia đình ngƣời Việt, thể hiện ở ý thức của con ngƣời theo quan
điểm Nho giáo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nghĩa là: ở
nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con (trai).
Trong Thi ca bình dân Việt Nam, các tác giả cũng phân tích theo ba nội
dung của giáo lý tam tòng:
“Theo phân tích trên, chúng ta căn cứ vào tục ngữ, ca dao Việt
Nam để nhận xét, thì ngƣời Việt Nam không chống chế độ phụ hệ, mà
chống chế độ phụ quyền."
... "Ngƣời đàn bà Việt Nam thƣơng chồng và theo chồng trên căn
bản, không phải bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất từ tình thƣơng, ở
22
lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Bởi vậy, chúng ta thấy trong tâm tƣ
họ có cái gì tha thiết, nhƣ:
Vai mang khăn gói theo chồng
Đắng cay thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam." [72:197-198].
Các tác giả nhận xét rằng ngƣời đàn bà bình dân đã chống lại chế độ phụ
quyền bằng cách lật đổ hình tƣợng ngƣời đàn ông, chỉ rõ những thứ xấu xa của
ngƣời đàn ông, phủ nhận ý thức tôn thờ ngƣời đàn ông:
"Cho nên, nếu ngƣời đàn ông đem giá trị ngƣời đàn bà hạ nhục để
khống trị9, thì ngƣời đàn bà cũng đem giá trị ngƣời đàn ông hạ nhục để
chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt Nam, ..."
[72:203].
"Sự khinh miệt giữa ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà chứng tỏ ý
thức chống đối mãnh liệt. Trong lúc chế độ phụ quyền bắt buộc ngƣời
đàn bà phải sống theo đạo tam tòng, mà ngƣời đàn bà lại đem những
thói hƣ, tật xấu của ngƣời đàn ông ra châm biếm, khác nào họ dùng
những mũi tên độc bắn thẳng vào nền phong kiến, đập vỡ những áp
bức, bất công mà gia đình Việt Nam đã chịu ảnh hƣởng xã hội Trung
Quốc.”
... "Tình thƣơng của họ đã đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ
cha. Thực ra, không phải họ bất hiếu, hay quên ơn cha mẹ, mà chính vì
họ cảm thấy chế độ phụ quyền đem đến cho đời sống họ những bất
công, những thảm trạng mà chính họ phải gánh chịu hậu quả." [72:205].
..."Tóm lại, giáo lý "tam tòng" của Khổng Mạnh đã bị đổ nát.
Dòng lịch sử đấu tranh chống phụ quyền của ngƣời đàn bà chiến thắng,
phá vỡ hoàn toàn cái hình tƣợng tôn thờ đàn ông. Trong khi chống phụ
quyền, họ đã tỏ ra một thái độ cƣơng quyết cực đoan, trắng trợn. Họ đòi
bình quyền với đàn ông về mọi phƣơng diện.
Nhƣng, cƣơng quyết và cực đoan chƣa phải là lợi khí mầu nhiệm
trong lịch sử đấu tranh của họ. Điều thành công là họ đã khéo lôi cuốn
đàn ông, lớp ngƣời tân tiến, cùng đứng chung trong ý thức chống đối
của họ để tạo thành một phong trào giải phóng phụ nữ." [72:220-221].
Nhận định trên đây có nét cực đoan, đã đối lập tuyệt đối ngƣời đàn ông
với ngƣời đàn bà. Về phƣơng pháp tiếp cận nội dung ca dao, không nên coi
những nội dung chống lại ngƣời đàn ông là của riêng ngƣời đàn bà, vì đó,
chính xác hơn, là ý thức phê phán của cả cộng đồng đối với những thói hƣ tật
9 Tác giả dùng khống trị chứ không phải là thống trị.
23
xấu trong xã hội. Mặt khác, chống phụ quyền không phải bằng cách bêu xấu
ngƣời đàn ông, cũng không phải bêu xấu ngƣời đàn ông là nhằm chống phụ
quyền. Đúng ra, đó là sự nhìn nhận khách quan của các tác giả dân gian, không
bị ràng buộc bởi ý thức phụ quyền cực đoan, đã phê phán đúng những biểu
hiện xấu xa của một số ngƣời đàn ông trong xã hội. Về mặt thi pháp, không
nên phân tích nhân vật và hình tƣợng trong tục ngữ, ca dao theo cách phân tích
của văn học thành văn, bởi vì văn học thành văn là sản phẩm của một cá nhân,
mỗi tác phẩm là một sản phẩm riêng biệt, nhân vật, hình tƣợng trong đó mang
tính độc lập tƣơng đối, có thể đƣợc nhìn nhận một cách độc lập; trong khi đó
tục ngữ, ca dao là tác phẩm của tập thể, thể hiện ý thức của cả một cộng đồng,
không những thế lại đƣợc hình thành và hoàn thiện trong cả một quá trình lịch
sử, cũng vì vậy, từng đơn vị tục ngữ, ca dao dù có khả năng đứng độc lập vẫn
có mối quan hệ mật thiết với nhau, muốn nhìn nhận chính xác những vấn đề
mà nó đề cập thì phải nghiên cứu một cách tổng thể theo hệ thống. Cho nên
cách phân tích nhân vật ngƣời đàn bà nhƣ trên là không phù hợp.
Về ý thức bảo vệ, xây dựng gia đình, các tác giả của Thi ca bình dân
Việt Nam viết rằng dân tộc Á Đông coi trách nhiệm đối với gia đình là bổn
phận thiêng liêng, ý thức ấy đƣợc thể hiện mạnh mẽ trong ca dao:
"Về ý thức gia đình họ (tức ngƣời bình dân) không cho yếu tố tài
năng là căn bản, mà cho yếu tố hòa thuận là quan trọng thì đó chính là
một triết lý sâu xa mà chúng ta không thể xem thƣờng."
"Muốn tạo hòa khí gia đình, vợ chồng thƣờng lấy sự nhịn nhục
làm đầu."
..."Tuy nhiên, thời xƣa dƣới chế độ phụ quyền của nền móng
phong kiến, ngƣời đàn bà bị lắm điều áp chế, thành thử ý thức nhịn
nhục chỉ có trong ngƣời vợ." [72:283].
Về những khắc khoải của tình yêu qua tập tục lễ giáo, có những ý chính
nhƣ sau:
"Quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đƣơng của con chính là
nguyên nhân phát sinh những tâm hồn khắc khoải của nam nữ thanh
niên thời bấy giờ." [72:336].
"Tóm lại, đối với phong tục lễ giáo, ngƣời bình dân bao giờ cũng
cố sức bảo vệ và duy trì. Chính nhờ sự bảo vệ và duy trì ấy mà ngày
nay nƣớc Việt Nam ta còn đƣợc những mầu sắc dân tộc.” [72:342-343].
Về tình vợ chồng, các tác giả viết: "Trƣớc nhất, chúng ta thƣờng thấy
trong ca dao Việt Nam, ngƣời bình dân quan niệm sự sống chung giữa vợ
chồng là một cái "đạo". [72:491]. Các tác giả đã phân tích khá tỷ mỉ các mối
24
quan hệ của tình vợ chồng khi gần gũi, khi sóng gió, khi xa cách, rồi đi đến kết
luận:
"Tóm lại, đối với tình vợ chồng, ngƣời bình dân gọi là cái đạo. Cái
đạo theo quan niệm của họ là bình đẳng, tƣơng thân và chung thủy,
khác với đạo "tam tòng" của Khổng Mạnh. Trong lúc đạo "tam tòng"
tƣớc đoạt hết quyền của ngƣời đàn bà, bắt ngƣời đàn bà phải sống lệ
thuộc vào đàn ông, tạo trong gia đình quý tộc sự bất bình đẳng, thì đạo
vợ chồng của ngƣời bình dân ngƣợc lại dùng ý thức sinh hoạt làm nghĩa
vụ, khiến cho nền tảng bình đẳng đƣợc bảo vệ và duy trì. Và ý thức dân
chủ cũng chính là ý thức của gia đình bình dân thuở xƣa." [72:418].
Nói về gia đình nhà nho, Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đã nhận xét:
"Tuy thế, trong những gia đình gia thế, tay hòm chìa khoá lại là ở
ngƣời đàn bà, ngƣời chồng giao hết tiền nong cho vợ và không bao giờ
kiểm soát sự chi tiêu của vợ. Ngƣời đàn bà đƣợc coi là nội tƣớng, chủ
phụ, tuy về danh nghĩa là nghe theo lời chồng, giúp chồng, nhƣng thực
tế thì là ngƣời chủ trì việc nhà."[57:330-331], "Nhƣng quan hệ giữa nam
nữ phải hình dung theo quan hệ giữa âm và dƣơng, có chủ có tùng,
không thể thiếu nhau và phải dựa vào nhau. Một bên sinh một bên
dƣỡng, một bên bắt đầu, khởi xƣớng, một bên hoàn thành, hỗ trợ cho
nhau. Cho nên trong nhà đàn ông là chủ, đàn bà phải thuận tùng, nhƣng
đàn ông phải yêu thƣơng kính nể vợ."[57:331].
Nhà giáo Nguyễn Nghĩa Dân nghiên cứu một cách tổng thể tục ngữ, ca
dao theo phƣơng pháp nghiên cứu văn học dân gian, và đặc biệt là phƣơng
pháp quy nạp, để luận bàn về đạo làm ngƣời đƣợc thể hiện qua tục ngữ, ca
dao:
"Kinh tế nƣớc ta chủ yếu là nông nghiệp, gia đình vừa là đơn vị
lao động vừa là tế bào của tổ chức xã hội, lại đề cao phụ quyền nên ở
gia đình có nhiều "công thức" về đạo làm ngƣời do giai cấp phong kiến
thống trị áp đặt nhƣ phụ: từ, tử: hiếu, phu: xƣớng, phụ: tùy, tam tòng, tứ
đức; trọng nam, khinh nữ. Trong gia đình cũng có những thành kiến về
"bà gia10
nàng dâu", về "dì ghẻ con chồng", về "anh em rể, chị em dâu",
về "ông chú mụ o"... làm cho quan hệ gia đình thêm phức tạp. Gia đình
rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nông thôn, từ đó có những
quan hệ hẹp hòi "Một giọt máu đào hơn ao nƣớc lã", "Chín đời họ mẹ
còn hơn ngƣời dƣng". Tục ngữ về đạo làm ngƣời một mặt làm nhiệm
10
Từ bà gia do tác giả viết theo phƣơng ngữ, có nghĩa là mẹ chồng.
25
vụ phản ánh, mặt khác đấu tranh chống lại những tập tục thành kiến nói
trên" [21:24].
Nói đến giai đoạn thế kỷ XV, tác giả nhận định:
“Chính trong thời kỳ này, tục ngữ về đạo làm ngƣời chịu ảnh
hƣởng tƣ tƣởng nhân văn của Nho giáo và Phật giáo có thể thẩm thấu từ
trên xuống hoặc hoặc từ ngoài vào do trí thức Nho hoặc Phật (kể cả nho
sĩ bình dân) làm chức năng sáng tác, đúc kết hoặc truyền đạt." [21:25].
"Cho nên, trƣớc kia cũng nhƣ hiện nay, trong đạo làm ngƣời của
Việt Nam vẫn tồn tại những tƣ tƣởng nhân văn của đạo đức Á Đông
nhƣng điều cần xác định là qua tục ngữ hoặc ca dao về đạo làm ngƣời,
những tƣ tƣởng đó đã đƣợc Việt hóa, hòa vào bản sắc dân tộc, vào tinh
hoa văn hóa chung về dựng nƣớc và giữ nƣớc hình thành từ hàng nghìn
năm qua." [21:26].
"Tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm ngƣời thể hiện không chỉ
tƣ tƣởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống trong đó nổi lên
nếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung,
gắn bó đoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nƣớc và giữ nƣớc."
[21:27].
"Nếp sống cộng đồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn
từ những điều kiện kinh tế nông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt
nguồn từ hoàn cảnh xã hội thƣờng xuyên phải đối phó với thiên tai và
ngoại xâm". [21:28].
"Quan hệ dọc trong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ,
quan hệ vợ chồng là chữ thuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên
là thờ kính, "Uống nƣớc nhớ nguồn"... "Cách xử lý trong gia đình bắt
nguồn từ sự thƣơng yêu, hòa hợp." [21:29].
"...trong quan hệ nếp sống cộng đồng ta cũng có những hạn chế
nhƣ gia trƣởng, cục bộ địa phƣơng, hủ tục, mê tín dị đoan... là những
nhƣợc điểm cần loại trừ khỏi đời sống hiện nay." [21:32].
Tác giả chia tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời thành hai loại: một loại về
lao động, học tập, tu dƣỡng rèn luyện bản thân và loại về đạo làm ngƣời trong
quan hệ gia đình. Tác giả viết:
"Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem nhƣ
một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con ngƣời."
[21:56].
"Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tƣợng bất
hiếu đƣợc lƣu truyền nhƣ kinh nghiệm xấu..."
26
"Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi
và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này..." [21:57].
"Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận." [21:58].
Nhìn chung, phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong công trình
khảo luận trên bẩy chục trang, do đó chỉ nêu đƣợc những ý chính mang tính
nhận định khái quát. Tác phẩm còn có phần sƣu tập, lựa chọn, giải thích tục
ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm ngƣời theo 4 chuyên mục, trong đó có
chuyên mục thứ hai là Tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời trong quan hệ gia
đình.
Trong Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ
qua một số ca dao - tục ngữ, Trần Thúy Anh đề cập đến thế ứng xử theo một
tuyến mở rộng từ gia đình, qua họ hàng – làng xóm – vùng miền - đất nƣớc.
Theo định hƣớng “tiếp cận văn học dân gian từ ngả đƣờng văn hoá học”, tác
giả rút ra mấy thế ứng xử: có một tinh thần nhân văn dân gian, sự ứng biến,
tính dung hợp – hoà hợp – khoa học, thế ứng xử nƣớc đôi, lƣỡng tri, đa tri,
hành vi tình nghĩa, ứng xử bằng tình nghĩa.
Điểm lại nhƣ trên và so sánh, chúng tôi nhận thấy giữa các nhà nghiên
cứu có sự không thống nhất trong nhận định về sự kiềm tỏa của Nho giáo trong
đời sống xã hội (một bên coi sự ảnh hƣởng của Nho giáo vào xã hội Việt Nam
là sâu và rộng, tới tận gốc rễ, một bên coi sự ảnh hƣởng ấy bị hạn chế nhiều).
Theo chúng tôi, không thể nói nhƣ các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam:
"...nền tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnh hƣởng
vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ." [73:197]. Chúng tôi đồng tình với
nhận định của Quang Đạm và Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu: Quang Đạm nói
rằng sự kiềm tỏa của Nho giáo bị hạn chế khi đi sâu xuống các cơ tầng xã hội
ở bên dƣới. Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu cũng đã viết: "Nho giáo ảnh hƣởng
sâu đến loại gia đình nhà nho, nhƣng cũng thấm vào toàn bộ xã hội, tức là ảnh
hƣởng đến cả gia đình nông dân ở một số mặt. Cả hai loại gia đình đó cho ta
thấy hình ảnh chung của gia đình truyền thống Việt Nam."
Với những cách chia nhóm phân loại, lƣợc giải trên đây, chúng tôi thấy
có hai điểm nổi bật là:
- Thứ nhất, về phong tục tập quán
Các tác giả nêu những ý chính là: Chế độ phụ quyền rộng rãi. Trọng nam
khinh nữ, quyền ngƣời chồng bao giờ cũng nặng hơn quyền ngƣời vợ. Tục vợ
lẽ cũng là một tục trái với văn minh đời nay. Thích con trai. Trên kính dƣới
nhƣờng, ở cho trong ấm ngoài êm, lấy hoà mục làm đầu. Dựng gia tộc là một
việc làm đƣợc chú trọng. Nhƣng gia đình quây quần với nhau thì nghĩa khí
27
hẹp, kiến thức hẹp hòi, không bằng đƣợc ngƣời có giao tiếp rộng rãi. Phụng sự
tổ tiên rất thành kính. Đạo làm con: hiếu thảo - biết kính trọng, thƣơng mến,
biết vâng lời, biết phụng dƣỡng cha mẹ. Sự báo hiếu cho cha mẹ ở nghi lễ tang
ma lạc hậu phiền quá thể, ăn uống theo kiểu trả nợ miệng, làm cho nhiều ngƣời
khổ vì hủ tục. Đạo vợ chồng cƣ xử với nhau, trọng nhất là hai chữ hoà thuận.
Ngƣời chồng trọng nhất là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết hạnh
với chồng. Phụ nữ phải đủ tứ đức mới gọi là hiền, lại có nghĩa tam tòng nữa.
Nghĩa vụ của ngƣời chồng đối với vợ thì chỉ ăn ở cho đúng đắn, biết thƣơng
yêu, quý trọng vợ, nhất là có tài trí, khiến cho vợ đƣợc nƣơng nhờ. Vợ chồng
đồng tâm hiệp lực.
Gia đình là nền tảng của xã hội, có gia đình mới có xã hội.
Ở Việt Nam, gia đình là một nền tảng vững chắc của xã hội. Gia đình
Việt Nam bao quát rất rộng, mọi ngƣời đều có tình thân thuộc với nhau qua
mọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cả hai bên nội ngoại.
Nhìn tổng quát, tuy chƣa đi sâu theo chuyên đề gia đình, nhƣng những
tác phẩm đƣợc dẫn trên đây đều đã nêu lên những đặc trƣng chính của gia đình
ngƣời Việt.
- Thứ hai, về nội dung tục ngữ, ca dao
Thông qua việc khảo sát tục ngữ, ca dao, các tác giả phân tích về quan
niệm, cách ứng xử, những biểu hiện trong phong tục tập quán của ngƣời Việt
xung quanh vấn đề gia đình trên những nội dung lớn là ảnh hƣởng của chế độ
phụ hệ, phụ quyền và triết thuyết Khổng Mạnh vào gia đình Việt Nam, sự
chống lại triết thuyết ấy, những nội dung chung về gia đình, quan hệ cha mẹ
con, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh chị em.
Các tác giả nhận định chế độ phụ quyền có ảnh hƣởng đến gia đình Việt
Nam, đã tạo điều kiện cho ý thức tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử thâm nhập.
Những biểu hiện chính của thái độ chống lại triết thuyết Khổng Mạnh,
theo các tác giả, là:
+ Ngƣời phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền rất mạnh mẽ, họ mỉa mai,
nổi loạn, đạp đổ oai quyền đàn ông. Đem thói hƣ tật xấu của ngƣời đàn ông ra
châm biếm, đó cũng là cách tấn công vào chế độ phong kiến.
+ Tình thƣơng của ngƣời phụ nữ đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ
cha, nhƣng sự chống đối về ý thức “tại gia tòng phụ” không quyết liệt lắm.
+ Lôi kéo đàn ông, tạo thành phong trào giải phóng phụ nữ.
Về những đặc tính của gia đình ngƣời Việt, các tác giả nêu:
28
+ Những nét chung nhất là: Tƣơng thân tƣơng ái. Muốn tạo hoà khí gia
đình thì cách ứng xử phổ biến là nhịn nhục, nhƣng chỉ có phụ nữ nhịn nhục.
Không lấy tình yêu trai gái làm yếu tố chính cho tình cảm gia đình, mà lấy tình
cảm sinh hoạt làm căn bản. Gia đình là cơ sở giáo dục con ngƣời. Ngƣời dân
Việt đã bảo vệ phong tục lễ giáo, nhờ thế mà ngày nay ta còn đƣợc những mầu
sắc dân tộc. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem nhƣ
một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con ngƣời. Ngày nay,
đạo thờ cúng tổ tiên còn đƣợc duy trì và tồn tại chính là nhờ ý thức hiếu đạo
của ngƣời bình dân. Gia đình rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nông
thôn, từ đó có những quan hệ hẹp hòi. Trong đạo làm ngƣời của Việt Nam vẫn
lƣu giữ những tƣ tƣởng nhân văn của đạo đức Á Đông nhƣng điều cần xác
định là qua tục ngữ, ca dao, những tƣ tƣởng đó đã đƣợc Việt hóa, hòa vào bản
sắc dân tộc, góp phần tạo ra tinh hoa văn hóa chung từ thời dựng nƣớc, trải qua
hàng nghìn năm hình thành và phát triển. Tục ngữ, ca dao Việt Nam thể hiện
không chỉ tƣ tƣởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống, trong đó nổi lên
nếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung, gắn bó
đoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nƣớc và giữ nƣớc. Quan hệ dọc
trong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ, quan hệ vợ chồng là chữ
thuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên là thờ kính, "Uống nƣớc nhớ
nguồn”. Cách xử lý trong gia đình bắt nguồn từ sự thƣơng yêu, hòa hợp. Tình
nghĩa là chất keo sơn gắn bó mọi thành viên trong một gia đình, một địa
phƣơng và trong cả nƣớc, tạo nên sự cố kết vững chắc. "Nghĩa" là một giá trị
đạo đức có trong luân lý Khổng Mạnh nhƣng "nghĩa tình" lại là sáng tạo mang
bản sắc dân tộc Việt. Tình nghĩa làm cho quan hệ giữa ngƣời với ngƣời Việt
Nam bền chặt trong từng cộng đồng, từ gia đình đến xã hội. Nếp sống cộng
đồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế
nông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội thƣờng
xuyên phải đối phó với thiên tai và ngoại xâm. Trong quan hệ nếp sống cộng
đồng Việt cũng có những hạn chế nhƣ gia trƣởng, cục bộ địa phƣơng, hủ tục,
mê tín dị đoan... Cùng với xu hƣớng phản phong của văn học dân gian Việt
Nam, tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời chống lại những thói hƣ tật xấu,
những hành vi vô đạo đức, phê phán những hiện tƣợng bất hiếu đƣợc lƣu
truyền nhƣ kinh nghiệm xấu, cần phải khắc phục...
+ Về mối quan hệ cha mẹ con: Tục ngữ, ca dao nhấn mạnh quan hệ mẹ
con, ghi lại thiên chức và tình cảm của ngƣời mẹ. Tục ngữ, ca dao cũng nêu
đƣợc truyền thống hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Có tác giả khẳng định
rằng qua tục ngữ, ca dao thấy quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đƣơng của
29
con. Tục ngữ, ca dao phê phán những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ của con
đối với mẹ.
+ Về mối quan hệ vợ chồng: Tục ngữ, ca dao cho ta thấy rằng trong quan
niệm của ngƣời Việt, chung sống vợ chồng là một đạo lý. Vì vậy quyền hạn
giữa ngƣời chồng và ngƣời vợ không phải chỉ có một chiều mà phải đặt trên
tính chất tƣơng ứng và bình đẳng. Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và
hòa thuận. Ngƣời phụ nữ Việt theo chồng, nhƣng không theo kiểu “tòng phu”
của Nho giáo, không phải theo để hầu hạ, mà để chia sẻ niềm vui, là nghĩa vụ
tƣơng thân tƣơng ái và bình đẳng xây dựng trên ý thức đồng lao cộng lực,
chung thủy, khác với đạo "tam tòng" của Khổng Mạnh. Ngƣời phụ nữ Việt
Nam thƣơng chồng và theo chồng trên căn bản, không phải bị áp bức, bắt
buộc, mà phát xuất từ tình thƣơng, từ lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Trong
luật lệ của triều đình phong kiến, có một số trƣờng hợp, nhƣ Lê triều hình luật
có những điều khoản tỏ ra coi trọng phụ nữ.
+ Về mối quan hệ anh chị em: Trong tục ngữ, ca dao, tình anh em đƣợc
nói tới ít, nhƣng cũng thiết tha. Quan hệ anh em có khi bị ý thức tƣ hữu chi
phối, nhƣng tình huyết thống vẫn giữ một vai trò thiêng liêng.
4. NHÂN TỐ TÁC GIẢ CỦA TỤC NGỮ, CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA
ĐÌNH.
Tác giả của tục ngữ, ca dao chủ yếu là nông dân. Xã hội Việt Nam trƣớc
tháng 8 năm 1945 có tới 95% dân chúng mù chữ. Ngƣời đƣợc học chữ Hán hay
chữ quốc ngữ thời ấy không nhiều, hay nói đúng là quá ít ở nông thôn Việt
Nam. Phƣơng thức sáng tác ngẫu hứng, truyền miệng trong môi trƣờng sinh
hoạt dân dã sản sinh những câu ca dao chan chứa tình cảm và hàm chứa nhiều
tâm sự. Phƣơng thức canh tác nông nghiệp cổ truyền, những luật tục của họ
tộc, làng quê trong một xã hội tiến triển chậm chạp là môi trƣờng nẩy sinh
những câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm của con ngƣời đối với tự nhiên, xã hội
và gia đình để truyền lại các các thế hệ kế tiếp.
Tuy nhiên, nếu khảo sát hàng nghìn câu ca dao, tục ngữ còn lƣu giữ đến
hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của những nhà nho trong việc sáng
tác và phổ biến những câu ca dao, tục ngữ. Cũng cần nói thêm rằng ở một số
bài viết về tác giả của tục ngữ và ca dao, một số nhà nghiên cứu đã minh chứng
về sự hiện diện của tầng lớp nho sĩ trong các cuộc hát ví phƣờng vải, những bài
diễn ca tế thần, hát trống quân...
Cũng không là ngoại lệ trong số 730 câu tục ngữ và 1.179 câu ca dao nói
về gia đình có ghi dấu ấn của nhà nho. Điều này thể hiện ở chỗ họ đã đƣa
những câu tục ngữ, thành ngữ của Trung Quốc, những châm ngôn của Nho
30
giáo thành tục ngữ, ca dao của ngƣời Việt. Nhƣ "phu xƣớng, phụ tuỳ", "Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", "phu quí, vợ vinh", "Trai làm nên
năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng", "Hổ phụ sinh hổ tử", "Hiếu
thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi", "Anh
thuận em hòa là nhà có phúc", "Quyền huynh thế phụ",... Dấu ấn của nhà nho
còn in đậm trong những câu ca dao nói về sinh hoạt gia đình, mà đặc biệt là
những gia đình nhà nho lấy việc học hành, thi cử làm trọng:
- Ai đi đợi với tôi cùng
Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi
Chồng tôi quyết đỗ khoa này
Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng
Bõ khi xắn váy quai cồng
Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.
- Một chữ kinh mẹ, một chữ thờ cha
Dẫu mà trăng xế, bóng anh qua cũng đành.
Nhƣ vậy, rõ ràng là với tƣ cách tác giả dân gian, nhà nho đã dân gian hóa
Nho giáo.
Trong số các nhà nho, chúng ta cần chú ý đến các nhà nho cấp thấp, họ là
hàn nho, những ngƣời đèn sách theo nghiệp thi cử nhƣng không đỗ đạt đành
phải quay về làng, sống với làng. Do có chữ nghĩa nên đƣợc dân làng kính
trọng và họ tham gia vào các sinh hoạt văn hóa của gia đình, làng xóm, thực
hành phổ biến tƣ tƣởng Nho giáo, cả cái tích cực và tiêu cực của tƣ tƣởng đó.
Phó Giáo Sƣ Nguyễn Từ Chi đã nêu lên những nhận xét xác đáng về tầng lớp
Nho sĩ ở nông thôn nhƣ sau:
Các nhà Nho mà kiến thức sách vở tạo ra một uy thế lớn trƣớc một
dân chúng gồm những nông dân hầu đều mù chữ tự tập họp thành
một tầng lớp xã hội riêng, có trẻ cũng từ thế kỷ XVII. Về mặt kinh
tế, tầng lớp ấy không tách lhỏi nông dân, trái lại, rất gắn bó với
nông dân. Quả vậy, trừ một số ít nhờ thi đỗ mà ra làm quan, đại đa
số các nhà Nho vẫn tiếp tục sống tại làng mình cuộc sống khổ ải
của ngƣời nông dân thƣờng lấy nghề dạy học làm lẽ sống. ẤY thế
mà chính cái đa số vô danh đó, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, đã
du nhập sâu vào nông thôn, vào từng xóm, từng nhà một, không
chỉ mô hình Nho giáo, mà cả nền đạo lý hàng ngày thoát thai từ
những lời dạy của Khổng Tử. [329]
31
Vì thế, khi tiếp cận tục ngữ, ca dao nói về quan hệ gia đình, chúng ta dễ
dàng tìm ra nhiều câu truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo bên cạnh những câu phản
kháng. Từ đó chúng ta hiểu rõ thêm tính hai mặt của triết lý sống dân gian.
TIỂU KẾT
Chúng tôi đã nêu lên những định nghĩa khái niệm về gia đình, tục ngữ, ca
dao, phong tục tập quán trong quan hệ gia đình để thống nhất hƣớng lựa chọn
tƣ liệu, hƣớng tiếp cận nội dung và phƣơng pháp phản ánh của tục ngữ, ca dao.
Chúng tôi phân tích một số công trình chính trong nƣớc có đề cập đến gia
đình truyền thống Việt Nam để làm chỗ dựa cho sự so sánh sau này khi khảo
cứu tục ngữ, ca dao ngƣời Việt về gia đình. Với quan niệm tục ngữ, ca dao,
cũng nhƣ văn học nói chung, là tấm gƣơng phản chiếu hiện thực, cho nên
thông qua tục ngữ, ca dao, chúng tôi tìm ra những nét đặc trƣng của gia đình
ngƣời Việt truyền thống, qua đó góp phần tìm hiểu bản sắc dân tộc Việt.
Khảo sát những tác phẩm đã viết về tục ngữ, ca dao xoay quanh chủ đề
gia đình, chúng tôi chia ra hai loại ý kiến chính:
- Loại ý kiến thứ nhất nhận định: trong xã hội phong kiến, do ảnh hƣởng
sâu sắc đến tận gốc rễ của Nho giáo, và sự kiềm toả nghiệt ngã của lễ giáo
phong kiến, các mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là quan hệ vợ chồng, hết
sức căng thẳng, hôn nhân trong xã hội phong kiến không mang lại hạnh phúc
gia đình. Chống lại chế độ hà khắc ấy, ngƣời đàn bà đã nổi loạn, đạp đổ hình
tƣợng ngƣời đàn ông.
- Loại ý kiến thứ hai nhận định: sự ảnh hƣởng của Nho giáo đối với xã
hội Việt Nam tuy sâu sắc nhƣng cũng bị hạn chế, nhất là đối với gia đình nông
dân, cho nên trong quan hệ gia đình ngƣời Việt có nhiều yếu tố dân chủ, bình
đẳng.
Cuối cùng, chúng tôi đƣa ra một vài kiến giải về vai trò của nhà nho bị
thất thế sống ở làng quê trong việc sáng tác các câu tục ngữ, ca dao phản ánh
phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình của ngƣời Việt, và nội dung của
những câu này bị ảnh hƣởng nhất định của tƣ tƣởng Nho giáo.
32
CHƢƠNG HAI
NHỮNG QUAN HỆ CHÍNH TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT
THỂ HIỆN QUA TỤC NGỮ
Sau khi thu thập và nhập 7.040 câu tục ngữ vào phần mềm, chúng tôi tiến
hành đánh dấu theo tiêu chí thể loại, nội dung, ghi chú những câu tục ngữ nói
về gia đình, trong đó có các quan hệ: Vợ chồng, Cha mẹ con, Anh chị em ruột,
dâu rể.
Trong việc khảo sát, phần mềm về tục ngữ đã giúp chúng tôi thống kê,
tổng hợp nhanh chóng các câu có cùng một tiêu chí. Chúng tôi đã đếm đƣợc số
câu về gia đình là 730 câu, bằng 10,36% tổng số câu tục ngữ. Đây là một tỷ lệ
khá cao, chứng tỏ ngƣời Việt rất quan tâm đến vấn đề gia đình. (Có thể lấy
một trƣờng hợp để so sánh: Nói về vấn đề thƣơng nghiệp, tục ngữ chỉ có 239
câu, bằng 3,39% tổng số câu tục ngữ, hoặc bằng 32,73% số câu nói về gia
đình).
1. Chiếm số lƣợng cao nhất là số câu nói về vợ chồng - gồm 285 câu,
chiếm 39,17% số câu nói về gia đình, có 229 câu về quan hệ cha mẹ con, tiếp
đến là anh chị em (40 câu), dâu rể (39 câu). Nhìn qua số lƣợng, có thể nhận
thấy rằng đối với ngƣời Việt, trong gia đình, đáng quan tâm nhất là quan hệ vợ
chồng, tiếp đó là quan hệ cha mẹ con, anh chị em, cuối cùng là dâu rể. Đó là lối
định giá trị rất thực tế, bởi vì suy cho cùng thì phải có vợ chồng mới có thể hình
thành nên các quan hệ khác trong gia đình, vợ chồng là trụ cột của một gia
đình. Cách định giá trị này rất phù hợp với gia đình cổ truyền ngƣời Việt, một
gia đình mà theo PGS. Nguyễn Từ Chi, “trong đại đa số các trƣờng hợp, chung
quy là gia đình hạt nhân: một cặp vợ chồng và con cái chƣa vợ chƣa chồng của
họ.” [330]
Sau đây là phần đi sâu khảo sát từng loại quan hệ trong gia đình qua tục
ngữ.
1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Phân loại 285 câu tục ngữ nói về quan hệ vợ chồng theo nội dung, thấy
nhƣ sau:
- 31 câu nói lên sự gắn bó vợ chồng, 4 câu ngƣợc lại.
- 93 câu về mối quan hệ vợ - chồng, 46 câu về mối quan hệ chồng - vợ.
- 20 câu về cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng.
- 87 câu về các tình huống tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng.
33
- 3 câu về vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ.
- 2 câu về vợ chồng trong mối quan hệ với làng nƣớc.
- 44 câu về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng.
(Xin lƣu ý: có những câu tục ngữ mang nhiều ý nghĩa nên nhiều trƣờng
hợp một câu đƣợc thống kê ở 2, 3 tình huống khác nhau, do đó tổng số câu tục
ngữ trên đây không trùng hợp với tổng số câu tục ngữ đƣợc thống kê).
Thống kê trên cho thấy ngƣời Việt xƣa quan tâm nhìn nhận quan hệ vợ
chồng ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó đặc biệt quan tâm đến quan hệ
ứng xử giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với các thành viên trong gia đình và
với hàng xóm láng giềng.
1.1.Tình cảm vợ chồng
Nét đặc trƣng của ngƣời Việt là thủy chung, gắn bó với nhau. Điều này
đƣợc thể hiện nhất quán trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Khi khảo sát tục
ngữ, chúng tôi cũng có kết quả tƣơng tự. Về số lƣợng, số câu tục ngữ phản ánh
sự gắn bó vợ chồng nhiều gấp 5,25 lần số câu có nội dung ngƣợc lại (31/4).
Tuy mang đặc tính là thiên về lý trí, nhƣng khi đúc kết về sự gắn bó, chung
thủy trong quan hệ vợ chồng, tục ngữ lại biểu hiện đƣợc chiều sâu tình cảm
của ngƣời Việt xƣa. Có 10 cách thức thể hiện sự gắn bó, thủy chung. Cụ thể
nhƣ sau:
- Gắn bó trên phương diện vật chất: "Đói bụng chồng, hồng má vợ",
"Đói bụng chồng, đau lòng vợ", "Đói no một vợ một chồng, chia niêu sẻ đấu
đau lòng nát gan".
- Gắn bó trong sự hoà quyện thân thể và tinh thần: "Vợ chồng đầu gối
tay ấp", "Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời.", "Vợ chồng đồng tịch đồng sàng,
đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng lần", "Thia lia quen chậu, vợ chồng quen
hơi", "Vợ giống tính chồng, ngƣời ở giống tông chủ nhà", "Vợ chồng biết tính
nhau", "Làm quan hay quân, làm chồng hay vợ", "Làm tƣớng hay quân, làm
chồng hay vợ".
- Gắn bó trong sự tương hợp, hỗ trợ nhau: "Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ
hom", "Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom", "Vợ có chồng nhƣ rồng có vây, chồng
có vợ nhƣ cây có rừng", "Vợ chồng nhƣ đũa có đôi", "Xấu chàng hổ ai, xấu
thiếp hổ chàng".
- Gắn bó trong sự sở hữu: "Nhƣờng cơm nhƣờng áo không ai nhƣờng
chồng", "Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng đổi vợ xƣa nay chẳng lành".
- Gắn bó như một sự tất yếu: "Bà phải có ông, chồng phải có vợ", "Triều
đình có văn có vũ, trong nhà có mụ có ông".
34
- Gắn bó trong sự an phận: "Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn
khéo cũng ra chồng ngƣời".
- Gắn bó bằng nhân nghĩa: "Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân
nghĩa","Vợ chồng là nghĩa già đời", "Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ
những lời thiệt hơn".
- Gắn bó bằng tình thương: "Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng".
"Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng", "Thƣơng chồng nên phải gắng công",
"Thƣơng chồng nên phải lầm than", "Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ",
"Thƣơng chồng phải khóc mụ gia", "Chồng em áo rách em thƣơng, chồng
ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời", "Gái thƣơng chồng đang đông buổi
chợ, trai thƣơng vợ nắng quái chiều hôm", "Chồng ta áo rách ta thƣơng".
- Gắn bó trọn đời: "Vợ chồng là nghĩa già đời", "Con nuôi cha không
bằng bà nuôi ông", "Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣơng", "Sống quê cha,
ma quê chồng."
- Gắn bó tạo nên sức mạnh: "Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng
cạn".
Tóm lại, sự thuỷ chung, gắn bó vợ chồng mà tục ngữ đúc kết thành quy
luật đƣợc biểu hiện cả trên phƣơng diện vật chất và phƣơng diện tinh thần, cả
ở góc độ đạo lý và góc độ tình cảm, cả ở trong sự hành xử và trong kết quả của
sự hành xử ấy. Về mặt đạo lý, các tác giả dân gian đã nhìn ra sự tất yếu của
việc gắn bó vợ chồng: đã là vợ chồng thì phải gắn bó, đã có chồng thì phải có
vợ; chính sự gắn bó ấy làm cho cuộc sống đƣợc cân bằng và phát triển. Mối
quan hệ tƣơng hỗ giữa hai vợ chồng cũng đã đƣợc chỉ ra: phẩm chất, hành
động của ngƣời này bao giờ cũng tác động sang ngƣời kia, cả vinh và nhục, cả
thành công và thất bại; qua sự đúc kết này, tục ngữ gián tiếp khuyên răn các
cặp vợ chồng trƣớc khi hành động phải suy xét cho kỹ tác động của việc mình
làm đến ngƣời kia thế nào, và nói chung là hãy sống có trách nhiệm với nhau.
Về phƣơng diện vật chất, tục ngữ nhìn nhận quan hệ vợ chồng trên hai yếu tố
cơ bản nhất của cuộc sống là ăn và mặc, biểu hiện qua hai cặp trạng thái đói -
no, lành - rách, thể hiện cách sống đạm bạc của ngƣời nông dân, cũng thể hiện
nhu cầu khá đơn giản của ngƣời nông dân về vật chất; mặt khác nói lên một
phẩm chất đáng quý của vợ chồng ngƣời Việt là do thủy chung, gắn bó, càng
khốn khó, họ càng thƣơng yêu nhau. Mặc dù bị quan niệm phong kiến đè nặng,
coi việc nói về chuyện chăn gối là điều cấm kỵ, thế nhƣng các tác giả dân gian
vẫn mạnh dạn chỉ ra rằng không những vợ chồng cần gần gũi với nhau về tình
cảm, mà còn phải gần gũi về thân thể - ấy là không những "quen hơi", "biết
tính" mà còn phải "chăn chiếu chẳng rời", là "đầu gối tay ấp". Tuy vậy, đậm đà
35
nhất trong quan hệ vợ chồng vẫn là tình cảm. Đáng lƣu ý là trong số 285 câu
tục ngữ nói về vợ chồng, chỉ có một câu có từ yêu, còn chiếm ƣu thế là các từ
thƣơng, nghĩa (10 câu có từ thƣơng, 3 câu có từ nghĩa). Có lẽ, đây cũng là một
biểu hiện của đặc trƣng thể loại - tục ngữ thiên về lý trí, đòi hỏi trách nhiệm
cao trong quan hệ vợ chồng: trọng nhân nghĩa, giàu tình thƣơng. Suy nghĩ sâu
hơn, có thể thấy từ thƣơng có nghĩa rộng hơn từ yêu, trong thƣơng đã bao hàm
cả yêu, và có thƣơng, có nhân nghĩa là có sự bảo đảm cho một quan hệ lâu bền
giữa vợ chồng. Cùng với năm tháng, tình yêu có thể phai nhạt, nhƣng trong
quan hệ vợ chồng của ngƣời Việt, thì tình nghĩa lại ngày một đậm đà hơn. Vì
có tình thƣơng, có nhân nghĩa, nên cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng ngƣời
Việt dù có nhiều sắc thái nhƣng rất nhất quán: nếu may mà vợ chồng hòa hợp
thì "giữ" nhau, không "nhƣờng" cho ngƣời khác, nhƣng rủi mà vợ chồng
không cân xứng, ngƣời ta vẫn cam chịu, không "thay". Chính vì thế, tục ngữ
đã khẳng định một tất yếu là vợ chồng phải gắn bó đến già, gắn bó trọn đời,
không những vậy còn gắn bó với nhau khi đã sang thế giới bên kia. Sự gắn bó
ấy tạo nên sức mạnh giúp gia đình vƣợt qua mọi sóng gió cuộc đời, làm nên
đƣợc nghiệp lớn, mà câu tục ngữ tiêu biểu là "tát biển Đông cũng cạn".
Cuộc sống vốn phong phú, đa dạng, đa phƣơng. Xuất phát từ cuộc sống,
đúc kết kinh nghiệm sống, tục ngữ cũng có những câu mang nội dung trái
ngƣợc nhau. Trong 285 câu nói về vợ chồng, có 4 câu ngƣợc lại với sự gắn bó:
"Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa", "Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào
ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang", "Trai chê vợ mất của tay không, gái chê
chồng một đồng trả bốn.", "Chồng ăn chả, vợ ăn nem." Sự không gắn bó còn
thể hiện ở chỗ mâu thuẫn vợ chồng có thể nẩy sinh khi làm ăn thất bát: "Lúa
tháng bảy vợ chồng rẫy nhau.", "Lúa trỗ thập thòi, vợ chồng đánh nhau lòi
mắt.", "Cấy tháng bảy, vợ chồng rẫy nhau." Xem ra, sự không gắn bó đƣợc thể
hiện một cách khá gay gắt, tới mức chia lìa lứa đôi. Tuy vậy, cần chú ý trong
cách thức diễn đạt của tục ngữ: thƣờng một câu có hai vế, trong đó một vế
mang tính chất tạo cớ để dẫn đến vế thứ hai mang tính đúc kết, nghĩa là nội
dung đƣợc thể hiện ở một vế, còn vế kia chỉ là cái cớ để giúp khẳng định nội
dung mà thôi. Thƣờng thì, với lối nói thậm xƣng và đƣa đẩy của dân gian, vế
tạo cớ mang nội dung khá cực đoan (nói ngoa), không nên coi đó là nội dung
đích thực của câu tục ngữ. Ví dụ trong câu "Công cấy là công bỏ, công làm cỏ
là công ăn", thì vế đầu chỉ mang tính tạo cớ đƣa đến ý cần đúc kết trong vế thứ
hai nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc làm cỏ cho lúa, chứ không phải
nhằm phủ định công cấy. Do chƣa nắm vững đặc tính đƣa đẩy của lối nói dân
gian, đã có ngƣời chữa câu tục ngữ trên thành "Công cấy là công nhỏ, công
36
làm cỏ là công lớn", làm giảm hẳn cái hay của câu tục ngữ. Trở lại câu tục ngữ
về mâu thuẫn vợ chồng nói trên, thì vế "Vợ chồng rẫy nhau" là vế có lối nói
thậm xƣng, chỉ để dẫn dắt, nội dung đích thực nằm ở vế "Cấy tháng bẩy", có
nghĩa là cấy sai thời vụ thì sẽ gặp tai họa. Nhìn chung, về số lƣợng, sự gắn bó,
chung thuỷ trong quan hệ vợ chồng chiếm ƣu thế tuyệt đối so với sự bội phản
đƣợc thể hiện qua tục ngữ. Điều đó thể hiện tâm thức dân gian Việt hƣớng
mạnh về sự chung thuỷ, nhân ái, coi trọng nghĩa tình trong quan hệ vợ chồng.
Tuy vậy, về nội dung, câu tục ngữ về sự bội phản và mâu thuẫn trong quan hệ
vợ chồng cũng khá gay gắt, chứng tỏ đó là một thực tế trong xã hội xƣa, các
tác giả dân gian đã phản ánh một cách khách quan. Điều này lại nói lên cách
thức ứng xử của ngƣời Việt trong quan hệ vợ chồng là rành mạch, dứt khoát,
không thích mập mờ, dây dƣa (trong ca dao, ngƣời Việt cũng thể hiện cách cƣ
xử dứt khoát nhƣ vậy:
Có yêu thì nói rằng yêu
Không yêu thì nói một điều cho xong).
1.2. Vợ trong mối quan hệ với chồng
Các tác giả dân gian rất tinh tế, phản ánh mối quan hệ vợ chồng trên
nhiều phƣơng diện, từ tinh thần tới vật chất, từ cảnh có chồng đến cảnh không
chồng:
- Xúc cảm của vợ xuất phát từ chồng: "Đói bụng chồng, đau lòng vợ".
- Vợ được nhờ chồng, phải dựa vào chồng: ""Có ông chồng siêng, nhƣ
có ông tiên nho nhỏ","Gái mạnh về chồng", "Lấy chồng nhờ hồng phúc nhà
chồng", "Phận gái theo chồng", "Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng"
- Trong hôn nhân, người phụ nữ phải chịu may rủi: "Tốt duyên lấy
đƣợc chồng hiền", "Tốt mối lấy đƣợc chồng sang", "Vô duyên lấy phải chồng
đần", "Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh"
- Giá trị, phẩm chất của người vợ được quy định bởi người chồng:
"Chồng yêu cái tóc nên dài, cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.", "Phu quý,
phụ vinh", "Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan chồng đƣợc tối ngày cậy
trông.", "Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe", "Vợ quá chiều ngoen ngoẻn nhƣ
chó con liếm mặt, vợ phải rẫy tiu ngỉu nhƣ mèo lành mất tai."
Nhƣ vậy, trong quan hệ với ngƣời chồng, thì ngƣời vợ đóng vai trò bị
động nhiều hơn, là ngƣời phải chịu đựng, phải hy sinh.
Sự bị động của ngƣời vợ thể hiện ở những yếu tố sau: Bƣớc vào hôn nhân
là chịu sự may rủi - may thì lấy đƣợc chồng hiền, chồng sang, không may thì
lấy phải chồng đần, chồng vũ phu; nhiều khi muốn trốn tránh cũng không
đƣợc, vì số phận đã định đoạt rồi. Về ở với chồng, ngƣời vợ phải dựa vào
37
chồng, nhờ chồng mà có phúc, có sức mạnh, đƣợc nhờ vả trong việc nhà, vì
vậy cứ phải theo chồng. Nhiều khi, giá trị riêng của ngƣời phụ nữ không còn
phụ thuộc vào bản thân họ nữa, mà bị thay đổi theo cách nhìn, cách ứng xử, vị
thế của chồng - chồng yêu thì mọi điều ở ngƣời vợ đều tốt đẹp, chồng chiều thì
vênh vang, chồng rẫy thì tiu nghỉu, chồng giàu sang thì vợ cũng phú quý.
Chồng cũng là nguồn cảm xúc của vợ - sắc thái tình cảm của ngƣời vợ biểu
hiện theo tình trạng của chồng, nhƣng không thấy một câu tục ngữ nào nói đến
những xúc cảm vui mà chỉ có xúc cảm buồn, ấy là khi chồng khốn khó thì vợ
đau lòng.
Trên đây là những biểu hiện tiêu biểu cho chế độ phụ hệ.
Sống với chồng bị phụ thuộc, chịu hy sinh nhƣ vậy, nhƣng giữa có chồng
và không có chồng thì đằng nào hơn? Các tác giả dân gian đã phản ánh sinh
động cả hai cảnh huống để ngày nay chúng ta có thể so sánh nhƣ sau:
- Có chồng thì:
* Gò bó: "Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một
giờ", "Có chồng nhƣ ngựa có cƣơng", "Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ"
* Trách nhiệm nặng nề: "Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng".
* Phải chịu đựng: "Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay".
* Có môi trƣờng tốt: "Vợ có chồng nhƣ rồng có mây."
* Đƣợc hạnh phúc: "Có chồng thƣơng kẻ nằm không một mình".
- Không có chồng thì:
* Thiếu sức sống, chông chênh: "Gái không chồng nhƣ cối xay chết
ngõng", "Gái không chồng nhƣ phản gỗ long đanh", "Gái không chồng nhƣ
thuyền không lái", "Voi trên rừng không bành không tróc, gái không chồng
nhƣ cóc cụt đuôi".
So sánh, có thể thấy nhƣ sau: Nếu có chồng, cái mất của ngƣời phụ nữ là
mất tự do, gánh trách nhiệm nặng nề với nhà chồng, phải âm thầm chịu đựng
những điều đắng cay, còn cái đƣợc không đƣợc nói ra cụ thể, tuy thế cũng có
thể hiểu là đƣợc nhiều, vì thế mới thƣơng kẻ không chồng. Nếu không chồng,
thì chỉ mất chứ không đƣợc gì: mất động lực, mất chỗ dựa. Từ sự so sánh ấy,
tục ngữ dẫn đến một kết luận tất yếu là có chồng vẫn hơn.
1.3. Chồng trong mối quan hệ với vợ
Giống nhƣ trong mối quan hệ vợ - chồng, tuy số lƣợng không nhiều bằng,
mối quan hệ chồng - vợ đƣợc xem xét ở nhiều góc độ, và tục ngữ cũng phản
ánh cả hai tình trạng có vợ, không có vợ.
Trong mối quan hệ với vợ, thì ngƣời chồng:
38
- Được nhờ cậy: "Nhà khó cậy vợ hiền, nƣớc loạn nhờ tƣớng giỏi",
"Chồng sang vì bởi vợ ngoan", "Làm ruộng phải có trâu, làm giầu phải có vợ",
"Gái ngoan làm quan cho chồng", "Giầu về bạn, sang về vợ"
- Chịu vất vả: "Trâu đẻ tháng sáu, vợ đẻ tháng mƣời"
- Tổn hại sức khoẻ: "Trai phải hơi vợ nhƣ cò bợ gặp trời mƣa", "Vợ đẹp
kém ngủ", "Vợ đẹp mặt, chồng đau lƣng"
- Chịu rủi ro: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa
cùn", "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi", "Có phúc lấy
đƣợc vợ già, sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh".
- Chịu gánh nặng của cuộc sống: "Một là vợ, hai là nợ", "Một vợ không
khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi", "Con là nợ, vợ là oan gia".
- Có lúc yếu thế: "Tay không chẳng thèm nhờ vợ".
- Bị vợ chi phối: "Lệnh ông không bằng cồng bà".
Xem nhƣ trên, thấy rằng trong mối quan hệ với vợ, nếu là vợ tốt, ngƣời
chồng đƣợc nhờ cậy trong việc lo kinh tế cho gia đình, đƣợc tiếng tốt, đƣợc
đóng góp trong công việc nhà nƣớc, nhƣng nếu ngƣời vợ không tốt, ngƣời
chồng cũng phải chịu đựng rất nhiều. Ngƣời chồng cũng chịu sự rủi ro - nếu
lấy phải vợ dại cũng đành chịu, còn muốn đƣợc chăm chiều lại phải lấy vợ già.
Chồng còn phải gánh vác công việc khi vợ đẻ, chẳng may vào vụ mùa thì càng
vất vả. Trong quan hệ với vợ, nếu thái quá, chồng bị tổn hại sức khỏe. Trong
công việc chung, có khi chồng bị vợ lấn át. Tuy vậy, những điều mà ngƣời
chồng phải chịu đựng không đƣợc tổng kết cụ thể bằng ngƣời vợ, trong khi đó,
những kết luận khái quát lại rất nghiêm trọng: vợ là gánh nặng, là tai vạ oan
của cuộc đời.
Xem xét hai cảnh huống mà tục ngữ phản ánh, thấy nhƣ sau:
- Có vợ thì:
* Gò bó: "Trai có vợ nhƣ rợ buộc chân"
* Chỉn chu: "Trai có vợ nhƣ giỏ có hom", "Trai có vợ nhƣ lỗ tiền
chôn"
* Lo việc nhà: "Trai có vợ tề gia nội trợ", "Đàn ông học sẩy học
sàng, đến cơn vợ đẻ phải làm mà ăn."
* Có môi trƣờng tốt: "Chồng có vợ nhƣ cây có rừng."
- Không có vợ thì:
* Thiếu kỷ luật: "Voi không nài nhƣ trai không vợ".
* Bơ vơ: "Không vợ đứng ở lề đƣờng".
39
Nhƣ thế, có vợ thì ngƣời đàn ông mất tự do, phải lo việc nhà, ngƣời đàn
ông đƣợc ngƣời vợ thu vén, giữ của cho; không có vợ thì ngƣời đàn ông thiếu
kỷ luật (lại đƣợc tự do) và bơ vơ.
Nhìn tổng quát mối quan hệ vợ - chồng, chồng - vợ, thấy nhƣ sau:
CÓ CHỒNG CÓ VỢ
Chẳng đƣợc đi đâu Nhƣ rợ buộc chân
Nhƣ ngựa có cƣơng Nhƣ giỏ có hom
Nhƣ gông đeo cổ Nhƣ lỗ tiền chôn
Gánh giang sơn nhà chồng Tề gia nội chợ
Nhƣ rồng có mây Nhƣ cây có rừng
Ngậm bồ hòn đắng cay
Thƣơng kẻ nằm không
KHÔNG CÓ CHỒNG KHÔNG CÓ VỢ
Nhƣ cối xay chết ngõng Nhƣ voi không nài
Nhƣ phản gỗ long đanh Đứng ở lề đƣờng
Nhƣ thuyền không lái
Nhƣ cóc cụt đuôi
Hƣ
Nhƣ rác nhƣ rơm
-Những điểm tương đồng giữa hai vợ chồng trong hôn nhân:
* Nƣơng dựa lẫn nhau.
* Mất tự do, phải vào khuôn phép.
* Chịu vất vả, lo toan cho cuộc sống chung.
* Chịu sự may rủi.
- Những điểm khác biệt giữa hai vợ chồng trong hôn nhân:
* Khi không có chồng, ngƣời phụ nữ chịu thiệt thòi, thậm chí mất
động lực sống, còn khi không có vợ, ngƣời đàn ông chỉ mất sự ràng buộc hoặc
cùng lắm là chịu bơ vơ.
* Có chồng, ngƣời phụ nữ đƣợc hạnh phúc. Trong khi đó, tục ngữ
chỉ nói đến việc có vợ thì chồng đƣợc môi trƣờng phù hợp, nhƣng bị tổn hại
sức khỏe, không nói gì về việc có hạnh phúc hay không,
* Ngƣời vợ phải có trách nhiệm nặng nề với nhà chồng, còn ngƣời
chồng thì không có trách nhiệm gì với nhà vợ.
40
* Khi không hài lòng đối với cuộc sống vợ chồng, thì thái độ của
ngƣời vợ là âm thầm chịu đựng, còn thái độ của ngƣời chồng thì bung phá, phủ
định.
1.4. Cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng
Các tình huống ứng xử trong quan hệ vợ chồng:
CHỒNG VỢ
Trạng
thái
Phải làm Không
được
làm
Trạng
thái
Phải làm Không
được
làm
Nếu
làm
Hệ quả
Giận Bớt lời Không bị chê
Làm lành
Lui
Giận Bị hành hung
Tới Lui
Hiền Bắt nạt
Hoà
thuận
Hoà thuận Hạnh phúc
Hoà Thuận
Ăn chả Ăn nem
Bình
thƣờng
Bắt nạt Bị phê phán
Nuôi
Chiều Có con
Lấy vợ
hai cho
chồng
Khôn
Thƣơng -Chờ
- Gắng công
- Lầm than
- Bồng con
ghẻ
- Khóc mụ gia
Theo Nối dối
41
Chờ
chồng
Nhƣờng
chồng
Đổi vợ
đổi
chồng
Chẳng lành
Chấp nhặt Chấp
nhặt
Cãi
nhau
Cãi nhau Êm ấm
Chê
chồng
Chồng chê
Nhiều vợ Một
chồng
Đói Thƣơng
xót
Hƣởng
thụ
Cãi nhau Cãi nhau
Ngu si Cam chịu
Thuận Thuận Có sức mạnh
Không phụ Có công
Ăn ngon Bị loại trừ
Qua bảng trên ta thấy:
- Chồng trong 12 trạng thái thì vợ có 16 cách phải làm, 6 cách không
đƣợc làm, 4 cách nếu làm sẽ tạo hệ quả xấu, 2 trạng thái tƣơng ứng, các tình
huống này tạo ra 16 hệ quả khác nhau.
- Vợ trong 1 trạng thái thì chồng có 1 cách đáp ứng, có 1 cách phải làm
và 1 cách không đƣợc làm.
Xem xét đơn thuần về số lƣợng đã thấy qua tục ngữ, ngƣời Việt quan tâm
hơn đến trạng thái của ngƣời chồng để đòi hỏi ngƣời vợ phải đáp ứng, trong
khi đó hầu nhƣ không quan tâm đến trạng thái của ngƣời vợ để đòi hỏi ngƣời
chồng đáp ứng. Quan niệm này là biểu hiện của chế độ phụ hệ ở mức độ cao.
Xem xét vào nội dung của cách thức ứng xử, có thể rút ra mô hình là:
Chồng có biểu hiện A thì vợ phải có cách ứng xử B dẫn đến kết quả C
42
- A gồm các trạng thái của chồng là bình thƣờng, giận giữ, lấn lƣớt, hiền,
hòa thuận, đói, ngu. đa thê.
- B gồm các cách ứng xử của vợ là nhƣờng nhịn, hòa thuận, nuôi, chiều,
cam chịu, thƣơng, theo, chờ, chung thủy.
- C là hệ quả của các cách ứng xử của vợ chồng, gồm phải hy sinh, đƣợc
hạnh phúc, êm ấm, có sức mạnh.
Nghiên cứu sâu vào từng câu tục ngữ trong 20 câu nói về cách ứng xử
trong quan hệ vợ chồng, có thể rút ra 6 kiểu ứng xử nhƣ sau:
- Vợ phải biết điều, nhường nhịn: "Đừng thấy chồng hiền xỏ chân lỗ
mũi", "Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời", ''Chê chồng chẳng bõ chồng chê",
"Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê", "Chồng giận
thì vợ làm lành", "Chồng giận thì vợ phải lui, chồng giận vợ giận thì dùi nó
quăng", "Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan"
- Vợ phải cam chịu: "Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng", "Ngu si cũng
thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời"
- Vợ phải biết thương chồng: "Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng",
"Thƣơng ai ví bằng gái son chờ chồng", "Thƣơng chồng nên phải gắng công",
"Thƣơng chồng nên phải lầm than", "Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ",
"Thƣơng chồng phải khóc mụ gia","Chồng em áo rách em thƣơng, chồng
ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời.", "Chồng ta áo rách, ta thƣơng.",
"Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.", "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải
theo."
- Vợ phải chiều chồng: "Chiều ngƣời lấy của, chiều chồng lấy con",
"Chiều ngƣời lấy việc, chiều chồng lấy con".
- Vợ phải chung thuỷ: "Trai làm nên năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ
tiết chờ chồng.", "Trai tân gái goá thì chơi, tránh nơi có vợ, xa nơi có chồng.",
"Gái chính chuyên chẳng lấy hai chồng."
- Vợ phải cống hiến, chồng phải công bằng: "Gái có công chồng không
phụ"
Từ 6 cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng, có thể rút ra nhận xét
nhƣ sau: Tục ngữ hƣớng vào việc yêu cầu ngƣời phụ nữ phải có cách ứng xử
thích hợp với các trạng thái của chồng. Dù chồng ở trạng thái nào, ứng xử cụ
thể thế nào, thì ngƣời phụ nữ cũng theo cái tình chứ không theo cái lý. Cái tình
dẫn dắt khiến ngƣời phụ nữ bỏ qua mọi tiêu chí về một ngƣời đàn ông, chỉ cần
ngƣời đó là chồng mình cũng đủ để mình tôn thờ. Theo cái tình, ngƣời phụ nữ
phải chịu mọi éo le của cuộc đời, từ việc phải gắng công, phải chịu lầm than,
tới việc phải làm cái điều phi lý là lấy vợ lẽ cho chồng, bồng con riêng của
43
chồng, phải chung thủy, trong khi chồng năm thê bảy thiếp. Theo cái tình, có
lúc ngƣời vợ mù quáng theo chồng, vi phạm đạo làm con. Chỉ có một tình
huống trong đó ngƣời vợ đóng vai trò chủ động là có công thì thái độ của
ngƣời chồng phải là không phụ - cách đáp ứng này không tƣơng xứng với hành
động của ngƣời vợ, tục ngữ đòi hỏi ngƣời đàn ông quá ít. Duy có một câu
mang sắc thái phản ứng tiêu cực của ngƣời phụ nữ là làm việc xấu để đáp lại
việc xấu của chồng (ăn chả - ăn nem), có thể thấy đó là khi ngƣời phụ nữ đã bị
đẩy đến tột cùng của sự chịu đựng nên phải phản ứng ngầm nhƣ vậy.
Qua phần khảo sát về tục ngữ về quan hệ vợ chồng trên đây, chúng tôi có
nhận xét nhƣ sau: Trong quan hệ vợ chồng, sự hòa thuận là quan trọng nhất.
Muốn có sự hòa thuận, thì phụ nữ phải nhƣờng nhịn, hy sinh - phụ nữ đóng vai
trò điều tiết quan hệ gia đình. Nhƣ thế, sống trong gia đình phụ hệ, nhƣng
ngƣời phụ nữ Việt không bị lệ thuộc hoàn toàn vào ngƣời chồng mà vẫn có
vai trò trong gia đình, với cách thức ứng xử mềm mại, uyển chuyển, trọng tình
nghĩa.
1.5. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng
Tục ngữ có lúc phản ánh trực tiếp, nhƣng phần lớn là nói gián tiếp về
những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, với số lƣợng không ít - 44
câu, bằng 15,43% tổng số câu tục ngữ nói về quan hệ vợ chồng. Đúc rút lại,
thấy có 6 loại tiêu cực nhƣ sau:
- Đa thê: "Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi",
"Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may", "Một vợ
nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo", "Trai làm nên
năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng", "Lắm con lắm nợ, lắm vợ
nhiều cái oan gia", "Lắm duyên nhiều nợ, lắm vợ nhiều cái oan gia".
- Vũ phu: "Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.".
- Mất dân chủ: "Muốn nói không, làm chồng mà nói."
- Cờ bạc, rượu chè: "Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng", "Lấy
chồng cờ bạc nhƣ voi phá nhà", "Lấy chồng cờ bạc là tiên, Lấy chồng chè rƣợu
là duyên nợ nần", "Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ
nần"
- Phụ bạc: "Giầu đổi bạn, sang đổi vợ", "Phụ vợ, không gặp vợ", "Chồng
ăn chả, vợ ăn nem".
- Độc ác: "Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.", "Gái giết chồng
chứ đàn ông không ai giết vợ."
Đề cập đến 6 loại tiêu cực nói trên, thái độ của các tác giả dân gian không
gay gắt. Nói đến chế độ đa thê, tục ngữ không phê phán trực tiếp, mà chỉ châm
44
biếm nhẹ nhàng, thậm chí châm biếm ngƣợc đối tƣợng - châm biếm chính
ngƣời phụ nữ. Điều này có thể giải thích đƣợc vì trong chế độ phong kiến, đa
thê đƣợc thừa nhận chứ không bị coi là vi phạm pháp luật nhƣ hiện nay. Đến
thói vũ phu, tục ngữ cũng chỉ phản ánh gián tiếp, coi nó nhƣ một cách thử
thách sự khôn ngoan của ngƣời vợ. Tệ cờ bạc bị phê phán khá nghiêm khắc,
nhƣng trong mối quan hệ vợ chồng, thói hƣ này cũng chỉ đƣợc nói gián tiếp,
nhẹ nhàng. Điều này cho thấy tục ngữ phản ánh khá nhất quán thái độ ứng xử
của ngƣời vợ đối với chồng - ứng xử theo tình chứ không theo lý. Chồng cờ
bạc thì vợ chỉ không thƣơng, chứ cũng không dùng lý lẽ để phê phán. Có một
kết luận bất ngờ mà tục ngữ nêu ra khi nói về ngƣời phụ nữ là giết chồng,
không những vậy, mà còn khẳng định chỉ phụ nữ mới giết chồng, còn đàn ông
không ai giết vợ! Điều này có hai mặt: một mặt phản ánh rằng trong thực tế có
hiện tƣợng phụ nữ giết chồng, mặt khác phản ánh sự khắt khe quá đáng của dƣ
luận đối với tội lỗi của ngƣời phụ nữ. Thực ra, trong cuộc sống, các vụ án giết
vợ không phải là không có, nhƣng chỉ những vụ án giết chồng mới bị xã hội
lúc đó coi là nghiêm trọng, trái với lẽ ứng xử thông thƣờng của ngƣời phụ nữ.
Chúng tôi nghĩ đây là câu tổng kết sai lầm nhất của các tác giả dân gian, thể
hiện sự bất bình đẳng trong đối xử với phụ nữ, quá nghiệt ngã trong xem xét
phụ nữ, cũng là biểu hiện của tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ của chế độ phụ
quyền. Tuy nhiên, cách tổng kết sai lầm nhƣ thế chỉ xảy ra trong một trƣờng
hợp, cho thấy ảnh hƣởng của Nho giáo vào xã hội Việt Nam tuy có mạnh
nhƣng không đều khắp, không có sức chi phối toàn bộ nhận thức dân gian.
Qua tục ngữ thấy rõ đặc tính nổi bật của ngƣời phụ nữ Việt xƣa là
nhƣờng nhịn, giàu tình thƣơng, hy sinh, và tuy bị đối xử rất khắt khe vẫn có
vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, do chính sự phấn đấu vƣơn lên của
ngƣời phụ nữ và do ngƣời Việt vẫn giữ đƣợc truyền thống của dân tộc là trọng
mẫu.
1.6. Những tình huống tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng
Tuy trong đa số tình huống, đa số cách ứng xử, ngƣời phụ nữ đều ở thế bị
động, phải nhún nhƣờng, chịu nhiều thiệt thòi, nhƣng tục ngữ cũng nêu lên
những tình huống nói về sự bình đẳng, vai trò chủ động của ngƣời vợ, lấy lại
sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng.
- Vợ tốt là mơ ước của đàn ông: "Vợ hiền hoà, nhà hƣớng Nam."
- Vợ chồng bình đẳng:
* Bình đẳng trong hành động: "Chồng chèo thì vợ cũng chèo", "Chồng
cần vợ kiệm là tiên; ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.", "Chồng ăn chả,
vợ ăn nem.", "Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.", "Cơm chẳng lành
45
canh chẳng ngon, chín đụn mƣời con cũng lìa.", "Thuận vợ thuận chồng tát bể
đông cũng cạn","Chồng hoà, vợ thuận."
* Bình đẳng trong sự đánh giá: "Gái có công, chồng chẳng phụ.", "Tôi tớ
xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa", "Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan
chồng đƣợc tối ngày cậy trông.", "Của chồng công vợ.", "Vợ chồng là nghĩa
trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.", "Vợ có chồng nhƣ rồng có mây,
chồng có vợ nhƣ cây có rừng.", "Vợ chồng nhƣ đũa có đôi."
* Bình đẳng trong tâm lý, tình cảm: "Trai nhớ vợ cũ, gái nhớ chồng
xƣa", "Vợ chồng biết tính nhau.".
- Vợ có vai trò chủ động, có quyền lựa chọn, có giá trị, đòi hỏi giá trị
tương ứng: "Đừng thấy chồng hiền, xỏ chân lỗ mũi.","Củi mục khó đun,
chồng lành dễ khiến, chồng khôn dễ chiều.", "Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ
xài.", "Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai.", "Gái bắt nạt chồng, em chẳng có
ngoan.", "Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dƣa.", "Lấy chồng cho đáng hình
dong con ngƣời.", "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má
hồng răng đen.", "Chẳng tham nhà ngói ba toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền
lành.", "Chẳng tham nhà ngói rung rinh, tham về một nỗi anh xinh miệng
cƣời.", "Chẳng tham vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế gian.",
"Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống.", "Lấy chồng hơn ở goá.", "Trai
khôn kén vợ chợ đông, gái khôn kén chồng giữa đám ba quân."
- Vợ có vai trò quan trọng trong cuộc sống gia đình: "Có chồng phải
gánh giang sơn nhà chồng","Giàu về bạn, sang về vợ.", "Chồng sang vì bởi vợ
ngoan.", "Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.", "Làm
ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.", "Xấu thiếp, hổ chàng."
- Vợ được đối xử công bằng: "Làm ruộng có trâu, làm dâu có chồng." -
chống lại tƣ tƣởng phong kiến "thủ tiết thờ chồng", trói buộc phụ nữ trong gia
đình chồng, mặc dù không còn chồng nữa, chống lại quy định của chế độ
phong kiến: "Trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ tám
và thứ chín đã quy định nhƣ sau về phụ nữ: "Khi chồng chết, phải thƣơng yêu
con vợ trƣớc hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không đƣợc chiếm đoạt
làm của riêng mình.", "Khi chồng chết mà mình chƣa có con, thì phải ở lại nhà
chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm chuyển vận tài sản nhà chồng
đem về nhà mình". [Dẫn theo 99:332]. Câu tục ngữ này nêu lên hƣớng ứng xử
phù hợp với quy luật xã hội: ngƣời phụ nữ chỉ làm dâu khi có chồng, đã gián
tiếp chống lại quy định của nhà nƣớc phong kiến muốn trói buộc ngƣời phụ nữ
với nhà chồng, kể cả những trƣờng hợp không còn chồng (nhƣ chồng chết).
46
- Vợ điều tiết quan hệ gia đình: "Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời.",
"Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.", "Chồng giận
thì vợ làm lành.", "Chồng tới vợ lui, chồng hoà vợ thuận."
- Vợ chi phối chồng: "Lệnh ông không bằng cồng bà.", "Nhất vợ nhì
trời."
- Vợ điều tiết cuộc sống của chồng: "Trai có vợ nhƣ giỏ có hom", "Trai
có vợ nhƣ rợ buộc chân.", "Trai có vợ nhƣ lỗ tiền chôn.", "Trai có vợ tề gia nội
trợ."
- Chồng cùng lo việc nhà: "Có ông chồng siêng nhƣ có ông tiên nho
nhỏ.", "Đàn ông học sẩy học sàng, đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn."
- Chồng có lúc yếu thế: "Tay không chẳng thèm nhờ vợ.", có lúc phải
trả giá: "Phụ vợ, không gặp vợ."
- Vợ chồng đều phải chịu sự may rủi: "Vợ chồng may rủi là duyên, vợ
chồng hoà thuận là tiên trên đời."
* Chồng thì: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột, thứ ba rựa
cùn.", "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi", "Thứ nhất
vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn."
* Vợ thì: "Chồng dại, luống tổn công phu nhọc mình.", "Chồng ăn giò vợ
co chân chạy, chồng ăn mày mạy vợ lạy vợ về.", "Vô duyên lấy phải chồng
đần.", "Tốt duyên lấy đƣợc chồng hiền.", "Chồng tốt ai chẳng muốn lấy, biết
giá chồng đáng mấy mà mua."
- Vợ chồng chê nhau: "Chê chồng chẳng bõ chồng chê.", "Chê thằng
một chai, lấy thằng hai nậm."
- Vợ chồng có nghĩa vụ với nhau: "Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn, gái nuôi
chồng ốm béo tròn cối xay."
- Vợ chồng có thể giáo dục lẫn nhau: "Mài gƣơm dạy vợ, giết chó
khuyên chồng", "Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.", "Con
hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.", "Vợ hƣ bởi tại thằng
chồng cả nghe." (Tuy nhiên, mức độ giáo dục có khác nhau, vợ chỉ khuyên,
còn chồng thì đƣợc dạy.)
- Chấp nhận một sự tương đối: "Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.",
"Thế gian đƣợc vợ hỏng chồng, có đâu lại đƣợc cả ông lẫn bà.", "Thế gian
đƣợc vợ hỏng chồng, có đâu vợ chồng mà đƣợc cả đôi."
47
Từ những tình huống thể hiện sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng, có
thể lập một bảng nhƣ sau:
CHỒNG VỢ
1. Chèo 1. Chèo
2. Cần 2. Kiệm
3. Sang 3. Sang
4. Ăn chả 4. Ăn nem
5. Có của 5. Có công
6. Hòa 6. Thuận
7. Chê vợ 7. Chê chồng
8. Không phụ 8. Có công
9. Thuận 9. Thuận
10. Nhớ vợ cũ 10. Nhớ chồng xƣa
11. Nuôi vợ 11. Nuôi chồng
12. Đánh bạc 12. Đánh bài
13. Sang 13. Sung sƣớng
14. Cậy trông 14. Ngoan
15. Sai khiến chồng
16. Bắt nạt chồng
17. Ngủ tùy chồng
18. Lấy chồng cho đáng (với mình)
Bảng trên cho thấy:
- Vợ chồng có 14 cặp tình huống thể hiện sự cân bằng trong quan hệ.
- Riêng vợ còn có thêm 4 tình huống thể hiện vai trò chủ động của mình
so với chồng.
Những tình huống cân bằng giữa hai vợ chồng: Đũa có đôi, Nhân nghĩa,
Biết tính nhau, Chịu may rủi, Hòa thuận, Có lúc xô xát, Mâu thuẫn thì chia lìa,
Sức mạnh đoàn kết, Nghĩa trả đời.
48
Cả nam và nữ đều góp phần làm hài hòa hoặc không hài hòa quan hệ
vợ chồng:
HÀI HÒA KHÔNG HÀI HÒA
CHỒNG VỢ CHỒNG VỢ
Đẹp Đẹp Bé Lớn
Cần Kiệm Dại
Già Trẻ Trẻ Già
Dữ
Khôn (6) Ngoan (2) Ngu
Lành (2)
Lớn Bé Bé Lớn
Sang (4) Hèn
Thấp Cao
Tốt Rẻ
Có mẹ cha hiền
lành
Chửa hoang
Tƣơi tắn Hiền Bắt nạt chồng
Có học
Con tông nhà nòi Con dòng Dại
Trƣởng nam (3) Khôn (3) Bị chồng rẫy
Làm quan Là học trò Hay ăn ngon
Nhà ở giữa làng
(4)
Đần
Cờ bạc
Rƣợu chè
Chê chồng Bị chồng chê
Con một Con một
Cùng tuổi với vợ Cùng tuổi với
chồng
Hòa thuận Hòa thuận
Từ những tình huống trên đây, có thể rút ra một số nhận xét nhƣ sau:
49
- Khi lựa chọn "đối tƣợng", ngƣời đàn bà đòi hỏi ở ngƣời đàn ông nhiều
nhất là vị thế xã hội (làm quan, trƣởng nam, sang), ngƣời đàn ông đòi hỏi ở
ngƣời đàn bà nhiều nhất là về tính nết: hiền hòa, đức hạnh. Các tác giả dân
gian quan tâm nhiều hơn về tiêu chuẩn của ngƣời chồng so với ngƣời vợ (9 câu
so với 5 câu), chứng tỏ để đi tới hôn nhân, ngƣời phụ nữ băn khoăn nhiều hơn
đến giá trị của ngƣời chồng tƣơng lai, điều này có thể đƣợc chứng minh thêm
ở câu: "Chọn dâu thì dễ, chọn rể thì khó."
- Khi đã thành gia thất, tiêu chuẩn của một ngƣời chồng, quan trọng nhất
là về trí (tiêu chuẩn khôn xuất hiện nhiều nhất, 6 lần), tiếp đó là sang, nhà ở
giữa làng (đều 4 lần) - thực ra hai từ này đều thể hiện một nghĩa là vị thế xã hội
của ngƣời chồng; trong cơ cấu làng ở nông thôn Việt Nam xƣa, có dân bản
quán và dân ngụ cƣ, dân chính cƣ là dân gốc, thƣờng ở giữa làng, đƣợc coi
trọng, còn dân ngụ cƣ là dân nơi khác đến, thƣờng ở rìa làng, hay bị xem
thƣờng. Về ngƣời vợ, tiêu chuẩn cũng là trí tuệ (khôn - 3 lần), có đức tính tốt
(hiền, ngoan).
Những điều đƣợc coi là không tốt ở ngƣời chồng cũng thuộc về trí tuệ
(đần, dại, ngu), về phẩm chất (dữ, hèn, cờ bạc, rƣợu chè), còn ở ngƣời vợ cũng
là về trí tuệ (dại), về phẩm chất (chửa hoang, bị chồng rẫy, hay ăn ngon, bắt
nạt chồng).
So sánh với nhận định của các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam, trong
đó viết rằng về ý thức gia đình thể hiện qua tục ngữ, ca dao, ngƣời bình dân
không coi tài năng là căn bản, thấy rằng đó là nhận định thiếu chính xác. Thực
ra, ngƣời bình dân rất coi trọng tài năng, trí tuệ vì biết rằng đó cũng là một yếu
tố đảm bảo cho cuộc sống gia đình có đƣợc hạnh phúc.
Nhƣ vậy, trong khi nhìn nhận quan hệ vợ chồng, nhân dân lấy các tiêu
chí về tinh thần chứ không căn cứ vào tiêu chí vật chất, thể hiện quan niệm rất
đúng đắn về hạnh phúc lứa đôi - đƣợc quyết định ở những giá trị tinh thần chứ
không phải do vật chất.
Nhìn chung, có 16 cách thức tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng,
trong đó vai trò của ngƣời phụ nữ đƣợc đề cao. Qua các cách thức này, hình
ảnh ngƣời phụ nữ đƣợc hiện lên tƣơng xứng với nam giới, bằng những hành
động bình đẳng với nam giới và đƣợc đánh giá ngang hàng với nam giới.
1.7. Vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ
Tục ngữ ít xem xét vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ, và sự tổng
kết có những kết luận trái ngƣợc nhau:
50
- Nhìn chung, cha mẹ quan trọng hơn: "Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm,
chớ đạo vợ chồng chẳng hiếm gì nơi"
- Ngƣời chồng coi trọng cha mẹ hơn: "Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ
rầy vợ, đừng từ mẹ cha".
- Có lúc ngƣời vợ coi nhẹ mẹ: "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải
theo".
Một lần nữa, chúng ta thấy ngƣời phụ nữ thƣờng ứng xử bằng tình chứ ít
bằng lý, có khi vì tình lớn quá mà bỏ qua cả đạo lý làm con. Mặt khác, sự
không thống nhất trong quan niệm đƣợc nêu ở những câu tục ngữ khác nhau là
chuyện bình thƣờng, bởi vì tục ngữ là sản phẩm của tập thể, diễn ra trong một
không gian rộng và thời gian dài, không phải chỉ thể hiện quan niệm của một
ngƣời hay một loại ngƣời, mà thể hiện quan niệm của rất nhiều ngƣời, rất
nhiều loại ngƣời khác nhau trong xã hội, từ đó có những câu tục ngữ đem đến
những nhận thức trái ngƣợc nhau.
1.8. Vợ chồng trong mối quan hệ với xã hội
Nông thôn Việt Nam xƣa bị phân chia thành nhiều làng, với cơ cấu tổ
chức khá chặt chẽ, có phần cô lập với xã hội nói chung. Theo tài liệu Nông
thôn Việt Nam của nhóm Nghiên nông thôn công bố ở Sài Gòn tháng 11 năm
1974 (in rô nê ô), thì tại nông thôn Việt Nam xƣa,"- Làng là một đơn vị kinh tế
tự túc và gần nhƣ biệt lập, làng này với làng kia ít liên lạc với nhau, làng cũng
ít liên lạc với thành phố, làng nào cũng có sản xuất lúa gạo, rau trái, hoa quả,
gà vịt, heo, bò...
- Đơn vị sinh hoạt trong làng là gia đình: Gia đình là một định chế chi
phối về mọi lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục. Mọi sinh hoạt của cá
nhân đặt trực tiếp dƣới quyền điều khiển của một cá nhân là chủ gia đình" [70:
34].
Trong điều kiện kết cấu xã hội nhƣ vậy, tƣ tƣởng cục bộ là một đặc trƣng
của ngƣời nông dân xƣa. Tƣ tƣởng này đƣợc thể hiện đậm nét trong quan niệm
về hôn nhân của ngƣời Việt thông qua tục ngữ. Ngƣời ta muốn mọi việc trên
đời đều khép kín trong lũy tre làng, ngay cả việc xây dựng gia đình cũng vậy:
"Chồng khó giữa làng hơn chồng sang thiên hạ", "Lấy chồng khó giữa làng
hơn lấy chồng sang thiên hạ" - tiêu chí đảm bảo cho sự cục bộ lớn hơn hẳn tiêu
chí về phẩm chất của ngƣời chồng.
Tuy vậy, khi nhấn mạnh cái tình trong quan hệ vợ chồng, tục ngữ đã mở
rộng không gian: "Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó nƣớc ngƣời phải
kiếp cũng theo." Một lần nữa, chúng ta thấy lối nói thậm xƣng của dân gian:
51
mở rộng vô cùng về không gian nhƣng không nhằm đƣa đến kết luận về không
gian, mà chỉ nhằm nói cho cùng cái cần coi trọng là tình duyên.
2. QUAN HỆ CHA MẸ CON
Số câu tục ngữ nói về quan hệ cha mẹ với con là 226 câu, chiếm 30,95%
số câu nói về gia đình, trong đó có thể chia làm 4 mối quan hệ: quan hệ chung
cha mẹ con, quan hệ con - cha mẹ, quan hệ mẹ con, quan hệ cha - con.
2.1. Quan hệ chung cha mẹ với con
Qua 108 câu tục ngữ, các tác giả dân gian nêu lên khá đầy đủ các mối
quan hệ giữa cha mẹ với con.
- Cha mẹ bị động: "Cha mẹ sinh con trời sinh tính.", "Sinh con ai nỡ sinh
lòng, mua dƣa ai biết trong lòng quả dƣa.", "Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con
ai chẳng vun trồng cho con."
- Cha mẹ là chỗ dựa cho con: "Bé thì nhờ mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ,
lúc già nhờ con.", "Cha sinh mẹ dƣỡng."
- Cha mẹ vất vả vì con: "Có con phải khổ vì con.", "Có con tội sống,
không có con tội chết.", "Cha lừa, mẹ ngựa.", "Hai vợ chồng son, đẻ một con
hoá bốn.", "Con là nợ, vợ là oan gia."
- Cha mẹ tốn kém vì con: "Của mòn, con lớn."
- Cha mẹ mất tỉnh táo vì con: "Mấy ai biết lúa gon, mấy ai biết con ác."
- Cha mẹ phải điều tiết quan hệ gia đình để đảm bảo quyền lợi cho con:
"Yêu con cậu, mới đậu con mình."
- Cha mẹ dựa vào con: "Giàu lúc còn son, giàu lúc con lớn.", "Bé thì nhờ
mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con."
- Cha mẹ ứng xử với con:
* Phải dạy dỗ: "Có con không dạy để vậy mà nuôi", "Nuôi con
chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.", "Muốn sang thì bắc
cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.", "Uốn cây từ thuở còn non, dạy
con từ thuở con còn ngây thơ.", "Dạy con từ thủa còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ
mới về."
* Phải chăm lo về vật chất: "Có của để cho con, không có để nợ cho
con."
* Phải hy sinh: - Nuôi con ai nỡ kể tiền cơm.", "Nuôi con không
phép kể tiền cơm."
* Phải gần gũi: "Con đâu cha mẹ đấy."
* Phải có trách nhiệm với con: "Đói lòng con héo hon cha mẹ",
"Sinh con ai chẳng vun trồng cho con".
52
* Có lúc bất công với con: "Con dòng thì bỏ xuống đất, con vật thì
cất lên sàn."
Qua các nội dung trên đây, thấy tục ngữ phản ánh đầy đủ quá trình từ khi
cha mẹ chƣa sinh con, đến lúc nuôi con khôn lớn rồi về già nhờ con, cách thức
ứng xử với con. Tục ngữ đúc kết quan hệ cha mẹ con theo nhiều chiều, từ tinh
thần tới vật chất, từ chiều tích cực đến chiều tiêu cực.
Tình trạng "sinh con trời sinh tính", "ai nỡ sinh lòng" thể hiện sự bị động
của cha mẹ khi sinh con - ai cũng mong sinh đƣợc con tốt tính, nhƣng nhiều
khi lại sinh con trái tính. Có ý kiến phê phán hai câu này mang tính duy tâm,
phủ nhận vai trò của con ngƣời. Nhƣng cần hiểu rằng, trong quan niệm dân
gian, con ngƣời bên cạnh tính có nết - "Cái nết đánh chết cái đẹp"... Vậy cái
tính là do tự nhiên sinh ra, hoặc nói theo sinh học là do di truyền, còn nết thì
do rèn mà nên. Chính vì vậy, tục ngữ coi trọng vai trò của giáo dục, việc dạy
dỗ con đƣợc nêu lên hàng đầu trong trách nhiệm của cha mẹ với con - 4 câu
tục ngữ nói về điều này - không những vậy, phải giáo dục từ rất sớm - "dạy
con từ thủa con còn ngây thơ", "dạy con từ thủa còn thơ", bởi vì nếu không
chịu giáo dục, cứ ''để vậy mà nuôi", chắc chắn con sẽ chẳng nên ngƣời. Tục
ngữ cũng đã khẳng định công lao to lớn của cha mẹ đối với con, nhìn chung,
đó là sự hy sinh về tinh thần và vật chất, sự hy sinh vô tƣ, để may lắm khi già
đƣợc "dựa vào con". Đáng chú ý nhất là tục ngữ tổng kết 6 cách thức ứng xử
của cha mẹ với con thì 5 cách thể hiện trách nhiệm cao với con, chỉ có 1 cách
thể hiện sự bất công của cha mẹ trong ứng xử giữa con này với con khác. Căn
cứ vào số lƣợng và nội dung của các câu tục ngữ, có thể thấy các tác giả dân
gian đề cao nhất là trách nhiệm của cha mẹ đối với việc hình thành nhân cách
của con, cũng là thể hiện trách nhiệm với gia tộc, với đời sau. Đây là cách mà
nhân dân đã vận dụng khéo léo mặt tích cực của Nho giáo vào việc xây dựng
gia đình Việt, làm cho nó trở thành yếu tố tích cực trong truyền thống của dân
tộc, hiện nay đang đƣợc kế thừa và phát huy.
Từ quan hệ cha mẹ con, tục ngữ chiếu qua quan hệ với đất nƣớc, với một
trách nhiệm tự giác: "Bé thì con mẹ con cha, lớn thì con vua con chúa." (trong
xã hội phong kiến, thì vua chúa đại diện cho đất nƣớc). Chính nhờ ý thức trách
nhiệm cao với đất nƣớc nhƣ vậy, ngƣời Việt có tình yêu mạnh mẽ và dám xả
thân cho đất nƣớc, làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc từ thời dựng nƣớc đến
nay.
2.2. Quan hệ con với cha mẹ
Mối quan hệ giữa con với cha mẹ đƣợc tục ngữ đề cập đến ít hơn mối
quan hệ giữa cha mẹ và con, với nội dung không phong phú bằng.
53
- Con dựa vào cha mẹ: "Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ nhƣ
đờn không dây."
- Con lợi dụng cha mẹ: "Con gái là cái bòn."
- Con không thống nhất với cha mẹ: "Đẹp duyên nhƣng chẳng đẹp lòng
mẹ cha."
- Coi trọng công mẹ hơn công cha: "Cha sinh không bằng mẹ dƣỡng."
- Coi cha có giá trị hơn: "Cha vàng, mẹ bạc, bác đồng đen."
- Con ứng xử với cha mẹ:
* Biết điều hoà quan hệ với vợ: "Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ
đừng từ mẹ cha.", "Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng
hiếm gì nơi."
* Biết ơn cha mẹ: "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.", "Lên non mới
biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ.", "Ơn cha là ba ngàn bảy,
nghĩa mẹ là bảy ngàn ba."
* Quý trọng cha mẹ: "Nhất mẹ nhì cha, thứ ba bà ngoại."
Nội dung chủ yếu mà tục ngữ tổng kết về mối quan hệ giữa con với cha
mẹ là lòng kính yêu, biết ơn; cả 3 cách thức ứng xử của con với cha mẹ đều
hƣớng vào sự gắn bó, biết ơn, quý trọng của con với cha mẹ. Trong rất nhiều
mối quan hệ trong gia đình, tục ngữ chỉ tổng kết về mâu thuẫn trong quan hệ
giữa con-cha mẹ với vợ, và khẳng định rằng nếu phải lựa chọn giữa vợ và cha
mẹ thì phải chọn cha mẹ. Nhƣ vậy, theo quan niệm dân gian, trong gia đình,
yếu tố đe dọa quan hệ cha mẹ con chính là nàng dâu. Điều này mâu thuẫn với
quan niệm phổ biến mà chính tục ngữ tổng kết về quan hệ giữa mẹ chồng -
nàng dâu, đó là mối quan hệ khá tốt đẹp. Tuy vậy, nếu vận dụng quan niệm về
hai vế trong tục ngữ, trong đó có vế tạo cớ thƣờng chỉ để dẫn dắt, thì có thể
thấy tục ngữ không có ý đối lập giữa cha mẹ và vợ, mà chỉ dùng khái niệm vợ
nhƣ một công cụ về hình tƣợng để dẫn dắt đến ý cần đúc kết là con không
đƣợc từ cha mẹ. Quan niệm này cũng phù hợp với quan niệm của Nho giáo là
trọng cha mẹ.
2.3. Quan hệ mẹ con
Số câu tục ngữ nói về quan hệ mẹ con gồm 72 câu, nhiều hơn nói về cha
con 23 câu. Điều đó nói lên vị trí, vai trò của ngƣời mẹ đối với việc chăm sóc
và nuôi dạy con cái, đồng thời cũng phản ánh đứa con có ý nghĩa rất lớn đối
với cuộc đời ngƣời mẹ. Mối quan hệ mẹ con biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Càng cụ thể hoá các mối quan hệ, tục ngữ, nhƣ tấm gƣơng phản chiếu
cuộc sống, càng tôn vinh hình ảnh cao cả của ngƣời mẹ hy sinh tất cả vì con.
54
Những biểu hiện tiêu cực không phải dòng chảy chính của mối quan hệ này.
Các nội dung của quan hệ mẹ con đƣợc biểu hiện nhƣ sau:
- Có trách nhiệm với con, hy sinh cho con, vất vả vì con: "Ngƣời chửa
cửa mả", "Sinh đƣợc một con, mất một hòn máu.", "Có chồng chẳng đƣợc đi
đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.", "Có con phải khổ vì con, có chồng
phải gánh giang sơn nhà chồng.", "Chỗ ƣớt mẹ nằm, ráo xê con lại.", "Con biết
nói, mẹ hói đầu.", "Con biết ngồi, mẹ rời tay.", "Con lên ba, mẹ sa xƣơng
sƣờn.", "Con lên ba mới ra lòng mẹ.", "Một con so bằng ba con đẻ.", "Một con
so bằng ba con dạ.", "Một mẹ già bằng ba đứa ở."
- Mẹ có trách nhiệm về phẩm chất của con: "Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại
bà.", "Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn.", "Con dại cái mang."
- Con phải dựa vào mẹ: "Đầu măng ngã gục vào tre, nƣơng nhờ vào mẹ
kẻo e bão gào.", "Con có mạ nhƣ thiên hạ có vua.", "Con có mẹ nhƣ măng ấp
bẹ.", "Con ấp vú mẹ".
- Con phụ thuộc mẹ: "Mẹ ăn cơm chả, con lả bụng.", "Canh suông khéo
nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.", "Con có (hoặc không) khóc,
mẹ mới (hoặc chẳng) cho bú."
- Mẹ không muốn dựa vào con: "Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì
nhục.", "Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng".
- Mẹ dựa vào con: "Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con."
- Sắc thái tinh thần phụ thuộc vào con: "Đẻ con khôn mát nhƣ nƣớc, đẻ
con dại thì rát nhƣ hơ."
- Thích nhiều con: "Nhiều con giòn mẹ."
- Không có con thì cô đơn: "Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở
trên non một mình."
- Chịu ảnh hưởng của đạo Nho: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử."
- Con coi trọng chồng hơn mẹ: "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải
theo."
- Mẹ con thắm thiết: "Ngầm ngập nhƣ mẹ gặp con, lon son nhƣ con gặp
mẹ.", "Mẹ con một lần da đến ruột.", "Nhất mẹ nhì con.", "Sành sẹ nhƣ mẹ với
con, lon ton nhƣ con với mẹ.", "Máu loãng còn hơn nƣớc lã, chín đời họ mẹ
còn hơn ngƣời dƣng."
- Mẹ chịu sự khó khăn, vất vả vì con: ”Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con,
mƣời con không nuôi đƣợc một mẹ.", "Mẹ sớm chiều ngƣợc xuôi tất tƣởi, con
đầy ngày đám dƣới đám trên.", "Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ
con kể từng ngày.", "Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể
55
ngày.", "Mẹ nuôi con dùng dùng nén nén, con nuôi mẹ không đƣợc một nẹn
trong tay.", "Mẹ lá rau lá má, con đầy rá đầy mâm.", "Ngày sau con tế ba bò,
sao bằng lúc sống con cho lấy chồng."
- Tiêu cực trong quan hệ mẹ con: "Mẹ em tham giàu bắt chạch đằng
đuôi.", "Mẹ lừa ƣa con ngọng." Trong thị trƣờng, mẹ con cũng cạnh tranh:
"Đƣợc mối hàng, mẹ chẳng nhƣờng con.", "Mẹ với con lúa non cũng lấy."
Những tình huống dẫn ra trên đây cho thấy trong quan hệ mẹ con, tục
ngữ theo sát cuộc sống của ngƣời mẹ, từ lúc mang thai, đẻ con, tới khi con lớn,
mẹ về già, mẹ goá chồng. Sự quan tâm của dân gian đối với ngƣời mẹ thể hiện
tinh thần trọng mẫu của ngƣời Việt.
- Không can dự vào việc người khác: "Đình đám ngƣời, mẹ con ta."
- Quan hệ nhân quả: "Mẹ ăn con trả."
- ẢNH hưởng của mẹ tới con: "Mẹ đần lại đẻ con đần, gạo chiêm đem
giã mấy lần vẫn chiêm.", "Mẹ nào con ấy."
- Con không chịu ảnh hưởng của mẹ: "Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con xục
xạc.", "Mẹ tròn con méo.", "Vợ dại đẻ con khôn.", "Mẹ sống bằng hai bàn tay,
con ăn mày bằng hai đầu gối."
- Mẹ con đồng cảnh: "Con lở ghẻ, mẹ hắc lào."
- Không có mẹ thì phải tự lo: "Không mẹ lẹ chân tay."
- Cục bộ, mẹ chỉ biết con hoặc con chỉ biết mẹ: "Bà khen con bà tốt, một
chạp bà biết con bà.", "Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đƣờng lắm kẻ còn đẹp còn
giòn hơn ta.", "Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.", "Mẹ hát con khen hay.", "Mẹ
hát con khen, ai chen vô lọt."
- Hạn chế trong cuộc sống với mẹ: "Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn."
Nhìn tổng quát, ta thấy: Theo quan niệm dân gian, sinh con là một tất
yếu, đem lại hạnh phúc cho ngƣời mẹ, nếu không có con, cuộc sống ngƣời phụ
nữ trở nên cô đơn, thiếu niềm vui. Có con, ngƣời phụ nữ phải chịu trách nhiệm
nặng nề, phải hy sinh, vất vả vì con, đây là đặc trƣng cơ bản nhất trong quan
hệ mẹ con mà tục ngữ tổng kết (với 18 câu trong tổng số 64 câu, bằng
28,12%). Tuy vậy, sự hy sinh không đƣợc hoặc không đòi hỏi đƣợc đền đáp
xứng đáng.
2.4. Quan hệ cha con
Số câu tục ngữ nói về quan hệ cha con là 49, với các nội dung chính nhƣ
sau:
- Cha là chỗ dựa cho con: "Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.",
"Con có cha nhƣ nhà có nóc, con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.", "Còn
56
cha ăn cơm với cá.", "Trẻ cậy cha, già cậy con.", "Một bát cơm cha bằng ba
bát cơm rể.", "Còn cha gót đỏ nhƣ son, Một mai cha thác, gót con nhƣ chì".
- Cha có trách nhiệm về phẩm chất của con: "Con hƣ bởi tại cha dung."
- Cha con giữ truyền thống: "Cha truyền, con nối."
- Con không cha thì cuộc sống khó khăn: "Con không cha thì con trễ,
cây không rễ thì cây hƣ.", "Con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.", "Thứ nhất
thì chết mất cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba ngƣợc đò.", "Thứ nhất thì mồ côi cha,
thứ nhì gánh vã, thứ ba buôn thuyền."
- Trách nhiệm của cha: "Cha muốn cho con hay, thầy mong cho con
khá."
- Quan hệ nhân quả: "Đời cha đắp nấm, đời con ấm mồ.", "Đời cha
trồng cây, đời con ăn qủa.", "Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc.", "Một đời
cha, ba đời con.", "Phụ trái tử hoàn, tử trái phụ bất can." (Cha mắc nợ thì con
phải trả, con mắc nợ thì cha khỏi trả.)
- Tình nghĩa: "Phụ tử tình thâm."
- Phép tắc: "Con có cha, nhà có chủ"
- Thể hiện quan điểm phát triển: "Con hơn cha là nhà có phúc."
- Con xứng đáng với cha: "Cha anh hùng, con hảo hán.", "Hổ phụ sinh
hổ tử."
- Cha con làm điều xấu: "Cha đào ngạch, con xách nồi."
- Con dối cha: "Đi dối cha, về nhà dối chú."
- Tiêu cực trong quan hệ cha con:
* Phá truyền thống: "Đời cha vo tròn, đời con bóp bẹp.", "Cha hổ
mang đẻ con liu điu.", "Hổ phụ sinh cẩu tử.", "Cha bòn con phá".
* Nghịch cảnh: "Cha trở ra trở vào, con ngồi cao gọi với.", "Cha để
nhà cho trƣởng, cha ngất ngƣởng đi ăn mày.", "Cha thƣơng con út, con út đái
lụt chân giƣờng.", "Cha bƣng mâm, con ngồi cỗ nhất."
* Cái khó làm mất tình cha con: "Khó thì hết thảo, hết ngay, công
cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên."
- Thể hiện phong tục: "Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy.''
- Cục bộ: "Cha hát, con khen, ai chen vô lọt."
- Tình cảnh đáng ái ngại: "Cha già con cọc.", "Cha già, con mọn."
- ẢNH hưởng Nho giáo: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử."
- Con bênh vực cha: "Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú.", "Con giữ cha, gà
giữ ổ."
- Coi trọng việc con gái giống cha: "Con gái giống cha giàu ba đụn."
57
- Con không thể thay thế mẹ trong việc chăm sóc cha: "Con nuôi cha
không bằng bà nuôi ông."
Từ các nội dung trên đây, thấy nổi lên hai vấn đề là: vai trò quan trọng
của ngƣời cha đối với con, những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha con. Về
vai trò của ngƣời cha, tục ngữ khẳng định đó là vai trò trên những khía cạnh
quan trọng nhất của cuộc sống: toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con,
phẩm chất của con, tƣơng lai của con, truyền thống gia đình. Những tiêu cực
trong quan hệ cha con, tục ngữ khẳng định tác nhân là con: cả 14 câu tục ngữ
thể hiện 4 kiểu biểu hiện của sự tiêu cực thì con đều đóng vai trò chủ thể, trong
đó, nổi bật là sự cƣ xử bất hiếu và phá vỡ truyền thống, phá hoại thành quả do
cha xây đắp nên.
So sánh giữa quan hệ cha con và quan hệ mẹ con, thấy có nhiều điểm
giống nhau nhƣng cũng có những điểm khác nhau nhƣ sau:
- Giống nhau:
* Có trách nhiệm nặng nề với con, hy sinh cho con. Riêng trách nhiệm về
phẩm chất của con, vai trò của ngƣời mẹ đƣợc nhấn mạnh hơn: về số lƣợng, số
câu tục ngữ nói về trách nhiệm của mẹ khi con hƣ nhiều gấp 3 lần số câu
tƣơng tự đối với ngƣời cha, về nội dung, trách nhiệm của ngƣời mẹ đƣợc
khẳng định ở nhiều khía cạnh hơn (con hƣ tại mẹ, mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ
phải gánh chịu hoàn toàn trách nhiệm khi con dại, còn đối với ngƣời cha, tục
ngữ không quy trách nhiệm, mà chỉ tìm ra nguyên nhân (con hƣ là do cha
dung). Điều này cho thấy, trong việc dạy con, ngƣời cha chỉ "cầm cƣơng", còn
ngƣời mẹ thì "chi tiết hoá".
* Bị con đối xử không tốt. Điều này cho thấy, trong truyền thống của
ngƣời Việt, yếu tố tiêu cực đã chi phối quan hệ cha mẹ con, trong đó sự bất
hiếu của con đối với cha mẹ thể hiện khá phổ biến, trên khá nhiều phƣơng diện
- từ ăn uống, vui chơi con giành phần hơn, đùn đẩy việc nặng nhọc cho cha
mẹ, tới việc thiếu trách nhiệm phụng dƣỡng cha mẹ khi cha mẹ về già, thậm
chí còn ngăn cản việc đi bƣớc nữa tìm hạnh phúc của mẹ góa. Hiểu rõ điều
này, chúng ta nên có cách nhìn biện chứng hơn đối với tình trạng ngƣợc đãi
cha mẹ hiện nay đang phát triển trong xã hội, không nên đổ tại quá nhiều vào
nền kinh tế thị trƣờng. Nền kinh tế thị trƣờng chỉ là điều kiện thuận lợi cho
việc bộc lộ và phát triển sự bất hiếu của con đối với cha mẹ chứ không phải là
nguyên nhân của tình trạng này. Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh biện
pháp giáo dục, cần điều chỉnh cách ứng xử: không nên hy sinh một cách thái
quá, có khi mù quáng, theo kiểu truyền thống, mà phải có trách nhiệm với con
58
theo những điều kiện nhất định, phải phát huy tính tự lực, trách nhiệm của con
đối với cuộc sống bản thân và gia đình.
* Dựa vào con: Sẽ phải dựa vào con khi về già, nhƣng không muốn dựa
vào con.
* Cục bộ: Từ quan hệ máu thịt dễ nảy sinh tƣ tƣởng cục bộ, kìm hãm
phát triển. Đây là phát hiện quan trọng của tục ngữ, chứng tỏ từ xƣa, ngƣời
Việt đã nhìn ra sự hạn chế của lối quan hệ khép kín, thiếu cởi mở của kiểu gia
đình tiểu nông và mong muốn có sự mở rộng quan hệ ra ngoài xã hội, khách
quan hơn, có điều kiện để phát triển.
- Khác nhau:
* Cha có vai trò quan trọng về truyền thống gia đình, truyền lại cho
con.
* Quan hệ mẹ con thắm thiết, thiên về tình cảm.
* Trong những biểu hiện tiêu cực, thì với quan hệ cha con, con luôn
đóng vai trò tác nhân, còn trong quan hệ với mẹ, thì đa số trƣờng hợp, con
đóng vai trò tác nhân, nhƣng cũng có trƣờng hợp mẹ đóng vai trò này.
Có một điều đáng ngạc nhiên là mặc dù quan tâm sâu sắc đến ngƣời mẹ,
nhƣng tục ngữ chỉ có một câu nói về trạng thái của con khi không có mẹ - đó
là phải "lẹ chân tay", tức là phải năng động hơn trong cuộc sống, trong khi đó
có tới 5 câu về trạng thái của con khi không có cha, nói chung đó là sự khốn
khó, cùng cực. Phải chăng, các tác giả dân gian coi nhẹ vai trò của ngƣời mẹ
trong việc là chỗ dựa cho con? Hoặc giả, tục ngữ thiên về lý trí, cho nên ở góc
độ này, về mặt lý trí, thì ngƣời cha có vai trò quan trọng hơn ngƣời mẹ. Mặt
khác, ngƣời cha có vai trò quan trọng hơn đối với số phận của ngƣời con,
nhƣng về tình cảm thì tình mẫu tử lại mạnh hơn.
3. QUAN HỆ ANH EM, CHỊ EM RUỘT.
Nói khái quát về quan hệ anh chị em, tục ngữ coi trọng tinh thần đoàn
kết: "Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Tục
ngữ đúc kết về anh em nhiều hơn so với về chị em (26/16 câu).
3.1. Quan hệ anh em
- Gắn bó: "Anh em hạt máu sẻ đôi.", "Anh em nhƣ chân tay.", "Anh em
trai ở với nhau mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời."
- Coi trọng sự hoà thuận: "Anh em chém nhau đằng dọng, không chém
đằng lƣỡi.", "Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.", "Anh thuận em hoà là
nhà có phúc.", "Em thuận, anh hoà là nhà có phúc."
59
- Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ anh em:
* Bị vật chất chi phối: "Anh em hiền thậm là hiền, bởi một đồng tiền
nên mất lòng nhau.", "Anh em gạo, đạo ngãi tiền.", "Nghèo thì giỗ tết, giàu hết
anh em."
* Mâu thuẫn nhau: "Anh em nhƣ chông, nhƣ mác."
* Em chịu thiệt thòi: "Phận đàn em ăn thèm vác nặng."
- Trách nhiệm của anh:
* Thay thế cha: "Quyền huynh thế phụ."
* Chịu vất vả: "Làm chị phải lành, làm anh phải khó."
* Bao bọc em: "Của anh nhƣ của chú."
* Bất công: "Anh ngủ, em thức; em chực, anh đi nằm."
- Quan hệ thân tộc:
* Anh em trai gắn bó hơn: "Con cô con cậu thì xa, con chú con bác
thật là anh em."
* Họ hàng giúp gắn bó anh em: "Đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ
giữ lấy anh em."
- Ứng xử giữa anh em:
* Anh em phải nghiêm khắc hơn ngƣời ngoài: "Anh em khinh trƣớc,
làng nƣớc khinh sau."
* Phải thận trọng khi giải quyết công việc: "Anh em xem mặt cho
vay."
- Anh em trong quan hệ với hàng xóm: "Bán anh em xa, mua láng giềng
gần."
- Dùng anh em để nói lên cách ứng xử chung: "Khôn với vợ, dại với
anh em." (giống nhƣ "Khôn nhà dại chợ.")
3.2. Quan hệ chị em
- Quan hệ anh em trai lâu bền hơn chị em gái: "Anh em trai ở với nhau
mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời." (thể hiện phong tục: gái theo
chồng).
- Gắn bó: "Cắt dây bầu, dây bí, chẳng ai cắt dây chị, dây em.", "Yêu nhau
chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."
- Quan hệ tương hỗ, giúp nhau: "Chị dại đã có em khôn.", "Chị ngã em
nâng.", "Con chị dắt con em."
- Tiêu cực trong quan hệ chị em:
*Bị đồng tiền chi phối: "Chị em hiền thật là hiền, lâm đến đồng tiền mất
cả chị em.", "Chị em nắm nem ba đồng, muốn ăn thì trả sáu đồng mà ăn."
*Xa cách: "Chị em không thèm đến ngõ."
60
- Cách thức ứng xử:
* Giữ nền nếp: - Chị em trên kính dƣới nhƣờng, là nhà có phúc mọi
đƣờng yên vui."
* Chị chịu thiệt thòi: "Con chị cõng con em, con em lèn con chị.", "Em
ngã thì chị phải nâng, đến khi chị ngã em bƣng miệng cƣời.", "Làm chị phải
lành, làm anh phải khó.", "Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em."
* Coi thƣờng em: "Chẳng khôn thể chị lâu ngày, chị đái ra váy cũng tày
em khôn.", "Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em." (Thể hiện lối
sống theo kinh nghiệm, "sống lâu lên lão làng".)
Khảo sát quan hệ anh - em, chị - em, thấy có những nét đáng chú ý nhƣ
sau:
Tục ngữ khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa anh em, chị em. Để giữ tình
máu mủ, quan trọng nhất trong quan hệ anh chị em là hòa thuận. Một lần nữa,
chúng ta thấy trong truyền thống, ngƣời Việt hết sức coi trọng sự hòa thuận.
Trong trách nhiệm của anh, chị với em, thì anh thiên về trách nhiệm
mang tính lý trí, chị thiên về tình cảm: Anh có thể thay thế cha, chị đỡ đần,
nâng giấc em. Tuy cùng có trách nhiệm với em, nhƣng anh đƣợc coi trọng hơn
chị. Điều này thêm một lần nữa khẳng định gia đình ngƣời Việt xƣa là gia đình
theo kiểu phụ quyền.
Trong những biểu hiện tiêu cực của quan hệ anh chị em, đáng chú ý nhất
là bị vật chất chi phối. Cả anh, chị và em đều bị đồng tiền, hạt gạo làm biến
dạng quan hệ. Nhƣ vậy, không đợi đến cơ chế thị trƣờng ngày nay, những
ngƣời trong gia đình mới bạc tình bạc nghĩa với nhau - nó đã đƣợc biểu hiện
khá sớm, là mặt trái ẩn sâu trong truyền thống gia đình - do vậy, một lần nữa
tục ngữ cho thấy chúng ta không nên quy kết mọi trách nhiệm về vấn đề đạo
đức xuống cấp cho cơ chế thị trƣờng, từ đó có giải pháp đúng đắn, nhƣ giáo
dục đạo đức, lối sống, đồng thời có các biện pháp hạn chế sự chi phối trái
chiều của vật chất đối với quan hệ gia đình nói riêng và quan hệ xã hội nói
chung.
4. QUAN HỆ DÂU RỂ VỚI GIA ĐÌNH
Với 39 câu tục ngữ, các tác giả dân gian phản ánh khá sâu sắc quan hệ
của gia đình đối với con dâu, con rể, trong đó nói nhiều hơn về quan hệ với
con dâu.
- Tinh thần dân chủ, rộng lượng: "Dâu dâu rể rể cũng kể là con.", "Dâu
hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.", "Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai.".
- Con dâu gắn bó với gia đình hơn con rể: "Dâu là con, rể là khách.".
61
- Chọn con dâu khó khăn, nhưng chọn con rể phải kỹ hơn: "Lựa đƣợc
con dâu, sâu con mắt.", "Kén dâu thì dễ, kén rể thì khó."
- Con dâu gần gũi hơn: "Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó." (Phù hợp với
quan niệm “rể là khách”).
- Gia đình chịu may rủi khi có con dâu: "Có phúc lấy đƣợc dâu hiền, vô
duyên lấy phải dâu dại.", "Có phúc là dâu, vô phúc là bâu là báo", "Có phúc là
nàng dâu, vô phúc là cái báo.", "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng." Điều
này cũng chứng tỏ con dâu có tác động quan trọng đến cuộc sống gia đình.
- Tiêu cực trong quan hệ với con dâu, con rể:
+ Bất công với con dâu, con rể: "Con dâu thì dại, con gái thì
không.", "Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.", "Con dâu mới về đan bồ chịu
chửi.", "Bố chồng là lông con phƣợng, mẹ chồng là tƣợng mới tô, nàng dâu là
bồ nghe chửi.", "Của mình thì để, của rể thì bòn.", "Thƣơng con mà dễ, thƣơng
rể mà khó."
+ Mâu thuẫn mẹ chồng - con dâu là phổ biến: "Ƣa nhau cũng thể
nàng dâu mẹ chồng.", "Chê mẹ chồng trƣớc đánh đau, phải mẹ chồng sau mau
đánh.", "Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ
chồng.", "Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.", "Thật thà
cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng."
+ Mẹ chồng dữ tính: "Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.",
"Mẹ chồng dữ mẹ chồng chết, nàng dâu có nết nàng dâu chừa.", "Mẹ chồng
mà dữ mổ bò ăn khao." Đây cũng là cách nói ngƣợc của dân gian để thể hiện
một ý khác với vỏ ngôn ngữ đƣợc dùng ("ăn khao" không có nghĩa là mừng).
+ Con dâu đối xử không tốt: "Rau muống tháng chín, nàng dâu nhịn
cho mẹ chồng ăn.", "Mẹ chồng vai gồng vai gánh, cƣới dâu về để thánh lên
thờ."
- Anh em rể không gắn bó: "Anh em rể đánh nhau sể đùi.", "Yêu nhau
chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."
- Anh em rể cư xử với nhau theo nghi lễ, con trai trưởng có vai trò
quan trọng, uy quyền: "Anh em rể đúng lệ mà theo, sợ cái mắt nheo của ông
con trƣởng."
Nhìn chung, ngƣời Việt xƣa có quan niệm khá công bằng về con dâu, con
rể. Điều này có cơ sở xã hội - xƣa kia, trong công xã nông thôn, với lũy tre
làng bao bọc, quan hệ giữa các thành viên trong làng khá mật thiết, mà việc lấy
vợ lấy chồng thƣờng khép kín trong lũy tre làng, do đó, dâu rể không phải là
những ngƣời xa lạ và việc họ trở thành thành viên chính thức trong gia đình là
62
điều dễ chấp nhận. Tuy cùng là thành viên mới của gia đình sau khi thành hôn,
nhƣng ngƣời đàn ông không gắn bó với gia đình vợ bằng ngƣời đàn bà gắn bó
với gia đình chồng - dâu là con, nuôi dễ, rể là khách, nuôi khó. Điều này cũng
chứng minh cho chế độ phụ quyền của xã hội Việt Nam xƣa, trong đó, khi đã
thành gia thất, thì ngƣời phụ nữ phải trao thân gửi phận cho gia đình chồng.
Tuy vậy, ngƣời phụ nữ không phải là kẻ phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình
chồng, ngƣợc lại, vẫn có vai trò điều tiết quan hệ của gia đình chồng, bởi vì tục
ngữ đã chỉ ra rằng lấy đƣợc dâu hiền là nhà có phúc, còn lấy phải dâu dại thì
nhà thật vô duyên. Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong quan hệ dâu, rể,
những biểu hiện tiêu cực cũng khá phổ biến: về số lƣợng, số câu tục ngữ nói
về tiêu cực là 16, bằng 41,25% số câu nói về con dâu, con rể. Về nội dung, tính
chất tiêu cực khá nghiêm trọng, trong đó quan hệ mẹ chồng - nàng dâu có
nhiều tiêu cực nhất, tới mức là phổ biến và không thể điều tiết đƣợc.
TIỂU KẾT
Qua khảo sát tục ngữ, chúng tôi đã tìm hiểu phong tục tập quán của
ngƣời Việt trong quan hệ gia đình ở những mối quan hệ cơ bản là vợ chồng,
cha mẹ con, dâu rể và anh chị em ruột.
Về quan hệ vợ chồng: Nổi bật là sự thuỷ chung, gắn bó. Ngƣời Việt coi
trọng sự hoà thuận, êm ấm. Ngƣời vợ thƣờng đóng vai trò điều tiết quan hệ vợ
chồng, mà biện pháp chính là khuyên bảo, nhƣờng nhịn chồng. Trong quan hệ
với ngƣời chồng, thì ngƣời vợ đóng vai trò bị động nhiều hơn, là ngƣời phải
chịu đựng, phải hy sinh. Trong quan hệ với ngƣời vợ, ngƣời chồng đóng vai
trò chủ động nhiều hơn, tuy vậy, không phải là sự chủ động của một vị thống
soái, mang ý nghĩa tuyệt đối. Qua tục ngữ, ngƣời Việt đã tổng kết về cách thức
ứng xử trong quan hệ vợ chồng là: Vợ phải biết điều, nhƣờng nhịn, thƣơng
chồng, chiều chồng, chung thuỷ. Vợ phải cống hiến, chồng phải công bằng.
Về quan hệ cha mẹ con: Tục ngữ ngƣời Việt khẳng định cha mẹ là chỗ
dựa cho con, phải vất vả, tốn kém vì con. Trách nhiệm chính của cha mẹ đối
với con là nuôi nấng, dạy dỗ con thành ngƣời có ích cho xã hội. Sống trong
chế độ phụ quyền, trong gia đình ngƣời Việt, ngƣời cha có vai trò quan trọng
đối với con trên những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc sống, ngƣời mẹ
đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc con trong đời thƣờng, tác động
của ngƣời mẹ đến con chủ yếu là về tình cảm. Sự hy sinh của cha mẹ, đặc biệt
là mẹ, với con là vô bờ bến. Con cái phải kính trọng và biết ơn cha mẹ. Điều
cần phê phán là con cái đối xử không tốt với cha mẹ, có nhiều trƣờng hợp phá
vỡ truyền thống tốt đẹp của gia đình.
63
Về quan hệ anh chị em ruột: Tục ngữ khẳng định sự gắn bó máu thịt
giữa anh em, chị em. Để giữ tình máu mủ, quan trọng nhất trong quan hệ anh
chị em là hòa thuận. Có một số trƣờng hợp, do tranh giành kinh tế mà quan hệ
anh chị em bị sứt mẻ. Cách thức giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là “đóng cửa
bảo nhau”.
Về quan hệ dâu rể: Tục ngữ phản ánh quan hệ dâu rể với gia đình bên
chồng hoặc vợ không nhiều, nhƣng có nhiều sắc thái. Quan niệm về dâu rể của
ngƣời Việt khá dân chủ, trọng tình nghĩa, nhƣng trong hành xử, nổi bật là mâu
thuẫn triền miên giữa con dâu và mẹ chồng.
Nhìn tổng quát về quan hệ gia đình người Việt, ngoài mối quan hệ có
phần căng thẳng giữa nàng dâu - mẹ chồng, còn lại các mối quan hệ khác đƣợc
tục ngữ phản ánh với cái nhìn ấm áp, làm nổi bật sự gắn bó, hoà thuận, có
trách nhiệm, coi đó là tiêu chí để xây dựng gia đình êm ấm và bền vững. Chính
nhờ vậy, dòng chảy chính trong các câu tục ngữ về gia đình đã tạo nên âm
hƣởng của chủ nghĩa nhân đạo, cổ vũ cho tình yêu thƣơng, gắn bó giữa những
con ngƣời với nhau.
64
CHƢƠNG BA
NHỮNG QUAN HỆ CHÍNH TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT
THỂ HIỆN QUA CA DAO
Trong phần khảo cứu này, chúng tôi dựa vào Kho tàng ca dao người Việt
do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên. Theo các tác giả, số câu
ca dao có trong sách là 11.825 đơn vị. Qua cách chọn lựa của chúng tôi theo
tiêu chí gia đình thì trong 11.825 đơn vị này có 1.179 câu ca dao nói về gia
đình, chiếm tỷ lệ 9,97% (gần bằng tỷ lệ này trong tục ngữ). Phần mềm về ca
dao cũng đã giúp chúng tôi thống kê nhanh chóng và chính xác những câu ca
dao theo những tiêu chí phù hợp với yêu cầu nghiên cứu về phong tục tập quán
thể hiện trong quan hệ gia đình, tuy chúng tôi mới chọn nhập vào phần mềm
này 6.995 đơn vị ca dao về gia đình và có liên quan đến gia đình.
Số câu ca dao về gia đình có những nội dung chính nhƣ sau:
- Phản ánh các mối quan hệ trong gia đình:
Trong tổng số 1.179 câu ca dao nói về gia đình, chúng tôi thống kê đƣợc
nhƣ sau:
Quan hệ vợ chồng: 690 câu, chiếm 58,52% tổng số câu ca dao về gia
đình.
Quan hệ cha mẹ con: 446 câu (37,79%).
Anh chị em: 27 câu (2,29%).
Dâu, rể: 87 câu (7,37%).
- Phản ánh tính chất của các mối quan hệ trong gia đình:
Gắn bó: 291 câu (vợ chồng: 261 câu. Cha mẹ con: 45 câu).
Lỏng lẻo: 128 câu (Vợ chồng: 107 câu. Cha mẹ con : 14 câu).
- Phản ánh vấn đề hôn nhân: 170 câu.
Từ số lƣợng các câu ca dao theo nội dung đƣợc thể hiện, chúng tôi lựa
chọn những vấn đề sau để khảo cứu:
Quan hệ vợ chồng.
Quan hệ cha mẹ con.
Quan hệ nàng dâu mẹ chồng.
Vấn đề hôn nhân.
65
1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Nhƣ đã thống kê trên đây, trong Kho tàng ca dao người Việt, chủ đề gia
đình có 1.179 câu ca dao, trong đó quan hệ vợ chồng chiếm số lƣợng nhiều
nhất với 690 câu. Những nội dung chính trong quan hệ gia đình đƣợc phản ánh
qua ca dao nhƣ cách thức ứng xử, những biểu hiện tích cực hoặc tiêu cực, sự
gắn bó hay không gắn bó… cũng đƣợc phản ánh thông qua mối quan hệ vợ
chồng là chính. Trong mục này, chúng tôi khảo sát quan hệ gia đình thông qua
quan hệ vợ chồng đƣợc phản ánh trong 690 câu ca dao nói trên.
1.1. Những nét đặc trƣng trong quan hệ vợ chồng thể hiện qua ca
dao
Nhƣ đã nói ở phần mở đầu, số công trình nghiên cứu tục ngữ, ca dao về
gia đình không có nhiều, phần lớn là những ý hoặc mục trong một công trình;
chƣa có một công trình độc lập nào nghiên cứu về chủ đề này. Nhìn chung, các
nhà nghiên cứu nêu lên đặc trƣng của quan hệ vợ chồng ngƣời Việt thể hiện
qua ca dao là hoà thuận và gắn bó. Tuy vậy, cũng có một số tác giả chỉ phân
tích sâu về những nỗi bất hạnh trong quan hệ vợ chồng, quy kết đó là hậu quả
của quan niệm và cách thức ứng xử theo kiểu chế độ phong kiến, chịu sự áp
chế của chế độ phụ quyền, vì thế, trong quan hệ vợ chồng, ngƣời phụ nữ luôn
luôn bị thiệt thòi, cay đắng. Học giả Nguyễn Bách Khoa đã đối lập ngƣời đàn
ông với ngƣời đàn bà, nhìn nhận họ trong mâu thuẫn không thể điều hoà đƣợc.
Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:
"Luân lý phụ quyền đặt ngƣời đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ
Việt Nam đã mỉa mai, giày đạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu
của đàn ông đem ra trào phúng, để chứng rằng địa vị ƣu thắng của đàn
ông không đƣợc họ công nhận. Cái tính xấu thứ nhất mà họ chê bai ở
đàn ông là tính hoang toàng, đĩ thoã, phụ tình:
Khi thì là một cậu lính khinh bạc vợ:
Bông bông nẩy lộc ra hoa
Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng
Trẩy ra gánh gánh gồng gồng
Trẩy ra thăm chồng bẩy bị còn ba
"Nào ai nhắn nhủ mi ra
Mi ngồi mi kể con cà con kê?
Muốn tốt quẩy bị mà về
Việc quan tao chịu một bề cho xong
Xƣa kia tao ở trong phòng
Bây giờ tao đã vào trong hàng quyền"
66
Hai tay bƣng đĩa giầu lên
Trƣớc lạy hàng quyền sau lạy cậu cai
|Chồng tôi tham sắc tham tài
Một chĩnh đôi gáo, tôi ngồi sao yên
Tôi xin chiếc đũa đồng tiền
Anh đi lấy vợ, tôi xin lấy chồng
Anh đi lấy vợ cách sông
Tôi về lấy chồng giữa ngõ anh ra."[63:103-104].
Sau đó, Nguyễn Bách khoa dẫn ra các câu ca dao để chứng minh cho
nhận định của mình về sự châm chọc của phụ nữ trƣớc những thói xấu của đàn
ông: đàng điếm, không đứng đắn, cờ bạc hoang toàng, tham ăn, ham sắc phụ
tình, rồi phân tích:
"Hạng ngƣời nhƣ thế mà bắt đàn bà phải phục tòng, trung thành,
trinh khiết, đức hạnh, cần kiệm, cam chịu thì thật là một sự tối ƣ vô lý.
Nghĩ thế nên đàn bà họ tƣởng có quyền đối lại cái ích kỷ của đàn ông
bằng một thái độ ích kỷ chẳng kém. Họ chống lại từng lời nói, từng ý
kiến, từng hành vi của đàn ông. Trƣớc hết, họ đem cái địa vị "chồng"
của đàn ông ra giễu cợt:
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi! Cho tôi mƣợn cái gầu sòng
Để tôi tát nƣớc múc chồng tôi lên." [63:107].
Tiếp đó, Nguyễn Bách Khoa nhận định, dẫn chứng và phân tích nhƣ sau:
"Nhiều khi họ lại trâng tráo hơn thế nữa:
Hỡi cô mặc yếm hoa tằm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai?
Cô đẻ thằng bé con giai
Chồng về chồng hỏi: con ai thế này?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.
Thật là một mũi tên thuốc độc bắn trúng tim luân lý phụ quyền.
Sự đi ăn nằm với ngƣời khác mà đƣợc thú nhận một cách táo tợn nhƣ
thế tỏ ra rằng ngƣời đàn bà cũng đã hiểu cái độ lƣợng thuỷ chung của
chồng lắm lắm." [63:108].
Sau nhiều đoạn nhận định, dẫn chứng và phân tích dẫn chứng theo mô
hình trên đây, Nguyễn Bách Khoa đi đến kết luận:
67
"Ngƣời đàn bà đã nổi loạn. Họ đã chống lại triết lý phụ quyền. Họ
đã cố đạp đổ cái hình tƣợng "Đàn ông". Trong khi chống phụ quyền, họ
đã tỏ ra một thái độ cƣơng quyết, cực đoan trắng trợn. Họ đòi sự bình
quyền với đàn ông ở các phƣơng diện." [63:114].
Nguyễn Bách Khoa viết Kinh Thi Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang
chống phong kiến mạnh mẽ, cho nên về mặt tâm lý, dễ dẫn đến lối phê phán
mạnh mẽ nhƣ trên, cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, ngay trong phƣơng pháp, tác
giả đã có những sai lầm, cho nên dẫn đến sự cực đoan về mặt khoa học. Cần
lƣu ý rằng, cùng trong một bối cảnh xã hội, nhƣng với phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học, khách quan hơn, nhiều tác giả đã không mắc phải sai lầm nhƣ
Nguyễn Bách Khoa. Nguyễn Bách Khoa đã không nhìn nhận vấn đề thái độ
của phụ nữ đối với chồng trong hệ thống các biểu hiện, để thấy toàn diện cả
hai mặt tích cực và tiêu cực, mà chỉ dựa trên liên tƣởng chủ quan của mình, kết
hợp với phƣơng pháp lựa tìm chứng cứ theo hƣớng chủ quan, phiến diện, do
đó đã dẫn đến kết luận thiếu toàn diện, không chính xác. Thực ra, theo thống
kê và so sánh trong hệ thống mà chúng tôi đã sử dụng ở các chƣơng trên, có
thể thấy thái độ chủ đạo của phụ nữ đối với chồng là thƣơng yêu và quý trọng
chứ không phải là khinh mạn nhƣ nhận định của Nguyễn Bách Khoa.
Nghiên cứu tục ngữ, chúng tôi đã rút ra kết luận rằng đặc trƣng của quan
hệ vợ chồng ngƣời Việt là gắn bó trong hoà thuận, nhƣờng nhịn và thƣơng yêu
nhau, trong đó ngƣời phụ nữ thƣờng đóng vai trò điều tiết. Khi khảo sát ca
dao, chúng tôi cũng thu đƣợc kết quả tƣơng tự.
Về lƣợng, số câu ca dao thể hiện sự gắn bó vợ chồng là 258, nhiều gấp
2,4 lần số câu thể hiện sự không gắn bó (107 câu), và bằng 37,68% so với tổng
số câu ca dao về quan hệ vợ chồng. Qua ca dao, các tình huống thể hiện sự gắn
bó vợ chồng chiếm ƣu thế, hay nói cách khác, sự gắn bó là một đặc trƣng
trong quan hệ vợ chồng ngƣời Việt.
Ca dao ngƣời Việt phản ánh sự gắn bó nhƣ sau:
- Về phía người vợ: Không nghe lời tán tỉnh của ngƣời khác, Nguyện ở
với chồng đến già, Đi theo chồng khắp nơi, Chăm nom chồng, Thƣơng chồng,
Nhịn lúc chồng nóng giận, Nhớ chồng, Lao động thay chồng, Chờ chồng,
Chung thuỷ, Vƣợt mọi khó khăn, gian khổ, Gánh vác việc nhà, Làm chỗ dựa
cho chồng, Vui buồn cùng chồng, Giữ nền nếp, Cam chịu, Nghe lời chồng,
Thờ cha kính mẹ chồng, Trả công nợ, Khuyên chồng, Giữ duyên cho chồng,
Chịu đựng, Biết tính chồng, Nhƣờng vật chất cho chồng, Gắng công vì chồng,
Chịu lầm than.
Một số câu tiêu biểu là:
68
1. Chàng ơi, chớ bực sầu tƣ
Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.
2. Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo
Có chồng thì phải theo chồng
Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.
3. Chim xa bầy thƣơng cây nhớ cội
Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai
Vàng ròng cả lửa chẳng phai
Ở cho chung thuỷ có ngày gặp nhau.
4. Đi đò tát nƣớc cho chuyên
Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.
5. Em là con gái có chồng
Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.
Ca dao cho ta hình tƣợng về một ngƣời vợ lo toan, đảm đang công việc,
sẵn sàng hy sinh cho chồng, làm đẹp lòng chồng. Ở một chừng mực nào đó,
phẩm chất của ngƣời vợ do bị ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo với "tứ đức,
tam tòng" mà lại trở nên sáng lạn trong một số câu ca dao. Điều đó cũng dễ
hiểu, vì ngƣời phụ nữ Việt đã biết tiếp thu những yếu tố tích cực của đạo đức
Nho giáo, xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng theo một số khuôn mẫu mang
tính lý tƣởng của Nho giáo, nhƣng có biến cải đi ít nhiều cho đơn giản và gần
gũi đời thƣờng hơn.
- Về phía người chồng: Không tham giầu mà chuộng tính nết vợ, Lao
động nuôi con, Đón đƣa vợ, Nhớ vợ, Bỏ qua khuyết tật của vợ, Không vong
vợ, Thƣơng yêu mẹ vợ, Cùng hƣởng vinh hoa, Chịu khổ, không chịu chia lìa,
Chăm sóc vợ.
Một số câu tiêu biểu là:
1. Đôi bên bác mẹ tƣ tề
Anh đi làm rể em về làm dâu
Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu
Tham vì một nỗi em mau miệng cƣời
Trăm quan mua một miệng cƣời
Trăm quan không tiếc, tiếc ngƣời hồng nhan.
2. Làm trai giữ trọn ba giềng
Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.
3. Mẹ nàng khác thể mẹ ta
Phận dù đói rách, thiệt thà anh thƣơng.
69
4. Ngọn lau lên khỏi bờ
Ngọn lúa trổ đòng đòng
Em đừng than đừng thở, để anh phải tủi lòng khóc theo
Hai tay anh bụm bọt phá bèo
Xƣa kia khắp chốn không ai nghèo nhƣ anh
Ban ngày anh đốn củi rừng xanh
Tối về chỉ một tấm tranh che đầu
Mƣa sa nhỏ giọt nhƣ dầu
Khổ thời anh chịu khổ, chứ lìa nhau anh không lìa.
5. Trời hè lắm trận mƣa rào
Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa
Khuyên em chớ ngại nắng mƣa
Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.
Hình tƣợng ngƣời chồng thật bình dị, không giầu sang, oai phong mà gần
gũi, đồng cảnh với ngƣời vợ. Điều đáng quý của ngƣời chồng mà ca dao phản
ánh là siêng năng, cần mẫn, biết yêu thƣơng vợ con, cảm thông cho hoàn cảnh
của nhau, tôn trọng những thành quả do hai ngƣời vun đắp nên.
Cả hai vợ chồng: Cùng lao động và chịu cảnh nghèo, Không thay lòng
đổi dạ, Theo nhau không kể giầu nghèo, Ngàn năm không quên, Thƣơng nhau,
Hài lòng trong cuộc sống vợ chồng, Vƣợt qua sự phân biệt tôn giáo, Hoà
thuận, Cùng chung vinh, nhục, thảm nghèo, Một vợ một chồng, Không rời
nhau, Sống với nhau suốt đời, Không thể dứt nhau, Chờ đợi nhau, Thuỷ chung.
Một điều dễ nhận thấy là ca dao về gia đình có rất nhiều câu rất hay, nói
về cảnh sinh hoạt vợ chồng, nhƣ:
Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Một bức tranh thuỷ mạc về vợ chồng ngƣời nông dân tuy lao động cực
nhọc nhƣng quấn quýt bên nhau trong khung cảnh yên bình. Hình ảnh con trâu
tham gia vào công việc nhà nông của họ làm cho bức tranh quê càng thêm sinh
động. Cùng với chồng và vợ, con trâu đã khắc hoạ đậm nét hình ảnh loại gia
đình Việt tiêu biểu – gia đình hạt nhân, với hai lao động chính. Ngƣời ta cảm
thấy một sự yên phận, không màng công danh, phú quý, vui với cái nghèo,
miễn là khuya sớm vợ chồng thuận hoà bên nhau. Điều ấy không phải là yếm
thế, tiêu cực. Trong cuộc sống bon chen, lọc lừa và nhiều bất trắc, thì ƣớc mơ
bình dị vợ chồng gắn bó, hoà thuận với nhau lại là tiếng nói tích cực, đầy nhân
bản.
70
Một số câu tiêu biểu là:
1. Đôi ta vợ cấy chồng cày
Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều
Ta nghèo vui phận ta nghèo
Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!
2. Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng
Lạt chẳng mỏng, sao thừng đƣợc tốt?
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quí, đi cầu trăng hoa.
3. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm
Phải đâu cua cá với tôm
Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.
4. Bên lƣơng bên giáo, bên đạo cũng nhƣ bên ta
Về đây ta kết nghĩa giao hoà
Phải duyên phải kiếp, áo Chúa Bà ta mặc chung.
5. Công danh theo đuổi mà chi
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông
Sớm khuya có vợ có chồng
Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.
6. Đói no một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.
Từ ba góc nhìn trên đây, chúng tôi nhận thấy các tác giả dân gian rất nhất
quán khi phản ánh sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng của ngƣời Việt xƣa: dù
nhìn từ phía vợ hay phía chồng, hoặc từ phía cả hai vợ chồng, thì nét đặc trƣng
cơ bản vẫn là sự gắn bó bằng tình cảm nồng thắm. Ngƣời Việt xây dựng quan
hệ vợ chồng trên cơ sở yêu thƣơng nhau ở tính nết, và tình yêu ấy đƣợc thử
thách qua việc họ cùng nhau chịu cảnh nghèo, cùng nhau lao động, tôn trọng
cha mẹ của nhau, sống chung thuỷ với nhau.
Để hiểu sâu hơn sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng ngƣời Việt, cần chú ý
đến một số đặc điểm là: theo nhau là biểu hiện của sự gắn bó, càng xa cách
càng gắn bó, gắn bó trong lao động.
1.1.1. Sự chuyển đổi ý nghĩa từ khái niệm ''tòng phu” sang khái niệm
“theo nhau”
Một số nhà nghiên cứu đi trƣớc nhận định rằng, do ảnh hƣởng của Nho
giáo, mà ngƣời phụ nữ Việt Nam phải tòng phu (theo chồng), và chính vì phải
71
theo chồng nhƣ vậy nên ngƣời vợ luôn luôn phải chịu mọi áp bức, đắng cay,
thiệt thòi… Các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức tại gia tòng
phụ nhƣ sau:
"- Đây là một quy luật bắt buộc ngƣời đàn bà. Chữ “tòng” đây
không chỉ có nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của
ngƣời chồng nữa. Ý thức này ăn sâu vào dân gian đến nỗi trong ca dao
đã có những câu nhƣ:
Con vua ƣng thằng đốt than
Nó lên trên ngàn cũng phải đi theo…”
“… Bởi vậy, ngƣời đàn bà sống trong chế độ Tam tòng thƣờng có
tƣ tƣởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thƣơng để
nhờ vào sự che chở của ngƣời chồng.” [72:189].
“Xem thế, ngƣời đàn bà đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều
chuộng.” [72:194].
“Ngƣời đàn bà Việt Nam thƣơng chồng và theo chồng, trên căn
bản, không bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất ở tình thƣơng, ở lòng
mong mỏi xây dựng gia đình.” [72:198].
“Theo chồng với ý nghĩa của họ không phải nhƣ chế độ tòng phu
của Khổng Mạnh, mà chính là để xây dựng tình thƣơng, xây dựng cuộc
sống theo khái niệm xã hội tƣ hữu và thuỷ chung. Cho nên, trong ý thức
theo chồng của họ, chúng ta lại thấy phảng phất sự cân nhắc về cách
biệt gia đình cha mẹ.
Khi trong tâm tƣ con ngƣời đã có sự so sánh giữa bổn phận theo
chồng và bổn phận nuôi cha mẹ, tất nhiên đạo tòng phu không còn là
một quy luật tuyệt đối trong chế độ Khổng Mạnh nữa.” [72:198].
“Trong ca dao Việt Nam chúng ta thấy trƣớc mắt ngƣời đàn bà,
ngƣời đàn ông không phải là những thần tƣợng để tôn thờ nhƣ giáo lý
Khổng Mạnh đã lừa phỉnh họ. Vì vậy, tuy mến ngƣời đàn ông, nhƣng
họ vẫn phủ nhận ý thức tôn thờ ấy. Họ tìm cách mỉa mai, châm biếm,
đem thực tế ra chứng minh để tỏ rằng địa vị ngƣời đàn ông không đƣợc
họ công nhận và đáng tôn thờ.” [72:198-199].
“Cho nên, nếu ngƣời đàn ông đem giá trị ngƣời đàn bà hạ nhục để
khống trị, thì chính ngƣời đàn bà cũng đem giá trị ngƣời đàn ông hạ
nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt
Nam…” [72:203].
Các tác giả nói trên đã mâu thuẫn với chính mình khi phân tích về ngƣời
phụ nữ trong xã hội phụ quyền: trong khi khẳng định rằng ý thức tại gia tòng
72
phụ đã ăn sâu vào dân gian, làm cho ngƣời vợ chỉ biết nhẫn nhục, chiều
chuộng chồng, thì lại cũng khẳng định rằng ngƣời phụ nữ theo chồng là do tự
nguyện, ngƣời đàn bà đã phủ nhận ý thức tôn thờ ngƣời đàn ông, đem giá trị
ngƣời đàn ông ra để hạ nhục. Chúng tôi cho rằng, trong khi phê phán những
thói hƣ tật xấu của ngƣời đàn ông cũng nhƣ ngƣời đàn bà, các tác giả dân gian
không nhằm hạ nhục cả một giới, mà chỉ nhằm chống lại những biểu hiện tiêu
cực cụ thể trong xã hội mà thôi. Mặt khác, không nên ngộ nhận rằng Nho giáo
đã lừa phỉnh ngƣời đàn bà khi khuyên họ tôn thờ ngƣời đàn ông. Trong quan
hệ vợ chồng, Nho giáo chủ trƣơng ngƣời vợ phải tôn kính ngƣời chồng. Trong
thực tế, nếu ngƣời chồng đáng tôn kính thì việc tôn kính chồng sẽ càng làm
cho quan hệ vợ chồng thêm gắn bó, có gì là trái lẽ thƣờng đâu!
Trở lại việc theo nhau của vợ chồng ngƣời Việt, chúng tôi thống kê đƣợc
nhƣ sau: Có 44 câu ca dao sử dụng từ theo, nhƣng không phải chỉ với nghĩa vợ
theo chồng, mà còn với nghĩa chồng theo vợ, và vợ chồng theo nhau. Nội dung
của việc theo chồng cũng không đơn thuần thể hiện tính phục tòng, lệ thuộc
của ngƣời vợ đối với ngƣời chồng, mà chủ yếu là biểu hiện tình cảm thắm thiết
giữa hai vợ chồng. Có thể thấy rõ điều này qua các câu ca dao trích dẫn nhƣ
sau:
- Cả hai theo nhau: “Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo
nhau”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Theo nhau cho trọn kiếp”, “Quyết
theo nhau cho trọn đạo”, “Theo nhau cho trọn lời vàng đá”, "Theo nhau cho
trọn, tử sinh cũng đành”, “Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.”.
- Vợ cheo chồng: “Làm thân con gái phải đi theo chồng”, “Lấy chồng,
theo thói nhà chồng”, “Võng anh đi trƣớc, võng nàng theo sau”, “Theo sau, em
có võng vàng đƣa chân”, “Chàng về thiếp cũng về theo/Mấy sông mấy cụm,
cũng trèo cũng qua”, “Chàng lên non, thiếp cũng lên non/Chàng lên trời, vƣợt
biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.”, “Chàng về cho thiếp theo cùng/Đói no
thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”, “Có chồng thì phải theo chồng/Chồng đi
hang rắn, hang rồng cũng theo.”, “Có chồng thì phải theo chồng/ Đắng cay
cũng chịu, mặn nồng cũng vui.”, “Tôi ngỡ anh khá tôi theo anh về”, “Duyên
ƣa phận đẹp thì nƣờng cũng theo.”, “Khó mà xứ ruộng em theo.”, “Phải duyên
em nhất định theo”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Thƣơng chồng phải
theo”, “Thiếp thƣơng chồng, thiếp phải chạy theo”. (Tuy vậy, cũng có lúc
ngƣời phụ nữ không theo chồng, ví nhƣ: “Ăn cam ngồi gốc cây cam/Lấy anh
thì lấy về Nam không về.”, “Ăn chanh ngồi gốc cây chanh/Lấy anh thì lấy về
Thanh không về.”)
73
- Chồng theo vợ: “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo.”, “Phải duyên phải
kiếp thì theo/ Khuyên em đừng nghĩ đói nghèo làm chi”, “Giận chồng xách gói
ra đi/ Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.”, “Mình về tôi cũng đi theo/ Sum vầy phu
phụ, hiểm nghèo có nhau”.
Nhƣ vậy, qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo
chồng, mà còn có cả đàn ông theo vợ, và quan trọng hơn là họ theo nhau. Tất
nhiên, sống trong một chế độ xã hội, con ngƣời không thể không chịu ảnh
hƣởng của chế độ xã hội ấy, cho nên, ngƣời phụ nữ sống trong chế độ phong
kiến, tất phải chịu ảnh hƣởng của chế độ phong kiến, kể cả trong quan hệ vợ
chồng. Chính vì vậy mà qua ca dao, chúng ta thấy ngƣời phụ nữ hay nói đến
chữ theo chồng, không những thế mà còn theo cả thói nhà chồng, và họ coi đó
là sự tất yếu, nhiều khi không quan tâm đến cái nghĩa theo là thế nào. Liên hệ
đến yêu cầu của Khổng Khâu cốt làm cho dân theo giáo lý của mình chứ
không cốt làm cho dân hiểu nó, thì thấy rằng Nho giáo đã gặt hái đƣợc những
thành công nhất định trong việc truyền bá quan niệm tòng phu vào xã hội Việt
Nam, làm cho khái niệm này trở thành câu nói cửa miệng của dân gian. Mặt
khác, vợ theo chồng cũng là lẽ thƣờng tình, nếu nhƣ việc theo đó là để xây
dựng hạnh phúc lứa đôi. Tuy vậy, khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ tòng phu,
ngƣời Việt cũng khá mơ hồ trong việc hiểu nội dung của nó, họ không nói rõ
tòng phu là thế nào, đã vậy họ còn Việt hoá cả cái vỏ ngôn ngữ ấy thành theo
chồng, mở rộng ra thành vợ chồng theo nhau. Thế rồi, khái niệm theo chồng đã
chứa đựng những nội dung rất cụ thể và dung dị nhƣ chính cuộc sống của
ngƣời dân quê: theo là vì hợp duyên, vì thƣơng chồng, và quan trọng hơn là để
chung nhau gánh vác công việc, chung nhau thụ hƣởng niềm vinh quang hay
chia sẻ sự thống khổ, cũng có khi để dựa vào ngƣời chồng. Nhƣng, nổi bật là
ngƣời phụ nữ theo chồng với chí hƣớng cùng chồng xây đắp cuộc sống chung
hạnh phúc. Chính vì vậy mà ngƣời vợ xác định rõ theo chồng thì dù đi đến nơi
khó khăn hóc hiểm nhƣ hang rắn, hang rồng, hoặc nơi xa xôi sóng gió lên
trời, vƣợt biển, dù đắng cay hay mặn nồng, thì họ cũng theo, miễn là phải
duyên, phải kiếp. Cũng có khi, lỡ chọn phải chồng không phù hợp, ngƣời phụ
nữ cũng dám chủ động làm lại cuộc đời “Tôi trốn tôi tránh tôi về nhà tôi.”.
Độc đáo hơn nữa, theo chồng mà ngƣời phụ nữ không tự ti trong vị thế của
một ngƣời phải phục tòng, mà đầy tự tin ở vai trò của mình, vai trò làm chỗ
dựa cho chồng, bởi vậy, ngƣời vợ mới dám khuyên chồng: “Chàng ơi, chớ bực
sầu tƣ/ Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.”
Tóm lại, cách thức theo chồng của ngƣời phụ nữ Việt thời phong kiến đa
dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩa tích cực, thể hiện sự chủ động của ngƣời
74
phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắp hạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động
ấy, ngƣời phụ nữ sẵn sàng gánh vác việc khó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu
đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làm cho vợ chồng đƣợc gắn bó. Từ khái
niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển hoá thành khái
niệm theo nhau, là biểu tƣợng cho sự gắn bó vợ chồng ngƣời Việt trong xã hội
phong kiến. Cách thức chuyển hoá nội hàm khái niệm nhƣ vậy đƣợc diễn ra
một cách lặng lẽ trong cuộc sống đời thƣờng, nhƣng lại phù hợp với quy luật
của tiếp biến văn hoá nói chung của dân tộc ta, mà PGS Nguyễn Từ Chi đã khái
quát nhƣ sau: “Trong không ít trƣờng hợp, những yếu tố mà tổ tiên của ngƣời
Việt hiện nay đã lần lƣợt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên
niên kỷ Bắc thuộc, và cả về sau nữa, khi đƣợc tích hợp vào cuộc sống hàng
ngày của ngƣời bản địa, chỉ còn giữ đƣợc của nơi xuất phát có cải vỏ hình thức
nữa thôi (thƣờng là tên gọi) trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến
đổi hẳn”.[240].
1.1.2. Vợ chồng trong lao động
Có 35 câu ca dao trực tiếp mô tả khung cảnh lao động, trong đó cho thấy
vợ chồng đồng tâm hiệp lực nhằm tạo dựng một cuộc sống no đủ, hạnh phúc.
Chúng tôi xin thống kê các tình huống nhƣ sau:
Việc do người vợ làm: Cày, Đạp xe nƣớc, Trồng hoa, Trồng khoai,
Trồng cà, Gieo mạ, Gặt hái, Quảy cơm, Dệt, Quay tơ, Xay thóc giã gạo, Chẻ
lạt, ủ phân, Nuôi lợn, Bắt cua, Chăm lo cha mẹ, Đứng mũi (thuyền), Làm thuê
làm mƣớn, Buôn bán.
Việc do người chồng làm: Làm ruộng, Cày, Gặt, Cuốc, Phát, Đốn củi,
Xúc giậm, Làm thầy, Làm thợ, Chịu sào (thuyền), Gánh muối, Gánh chè, Chắp
thừng, Đi lính, Vẽ, Viết, Đi học, Đọc sách.
Việc do cả hai cùng làm: Cày bừa, Làm mạ, Trồng khoai, Trồng cà, Gặt
hái, Hái rau, Mót khoai, đỗ, Đốn củi, Buôn bè.
Thái độ trong lao động: Vui phận nghèo, Tự giác, Tin vào thành công,
Kiên nhẫn, Không quản ngại, Lạc quan, Coi trọng công lao của nhau.
Có thể dẫn ra rất nhiều câu ca dao phản ánh khung cảnh gia đình êm ấm,
chồng hoà vợ thuận trong lao động và tình yêu thƣơng thắm thiết, kiểu nhƣ :
1. Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lƣu
Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
2. Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
75
3. Trời hè lắm trận mƣa rào
Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa
Khuyên em chớ ngại nắng mƣa
Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.
4. Đôi ta vợ cấy chồng cày
Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều
Ta nghèo vui phận ta nghèo
Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!
5. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.
6. Cơm chiên ăn với cá ve
Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.
7. Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa
Bây giờ trƣa đã hồ trƣa
Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu
Một đoàn chồng trƣớc vợ sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.
Nhìn chung, qua ca dao, chúng ta thấy về mặt lao động, vợ chồng có sự
phân công hợp lý và khá bình đẳng, việc mà ngƣời chồng làm thì ngƣời vợ
cũng làm, chỉ trừ việc đi học; thƣờng thì công việc đƣợc mô tả theo cặp đôi
tƣơng xứng - chồng việc này thì vợ việc nọ - A việc a thì B việc b (Chồng cày-
vợ cấy, Chồng sƣơng sớm- vợ sƣơng chiều, Anh đi gặt- nàng quảy cơm, Chồng
vác bừa - vợ dắt trâu, Em chẻ lạt - Anh chắp thừng, Thiếp đây - chàng đấy, Em
đững mũi - anh chịu sào, Chàng bòn - thiếp mót); về mặt thi pháp, có thể thấy
đây là "mô típ sóng đôi" độc đáo của văn học dân gian ngƣời Việt. Mô típ này
chỉ có thể xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ và bình đẳng giữa phụ nữ
và nam giới. Ngoài làm việc tại nhà, ngƣời phụ nữ cũng có dịp đi lao động
ngoài xã hội giống nhƣ nam giới, nhƣ đi buôn, đi làm mƣớn, đi bè… chứ
không phải chỉ quanh quẩn trong nhà. Nội dung nói trên xuất phát từ thực tế
lao động ở nông thôn, trong đó việc canh tác là cơ bản, sự phân biệt về khả
năng lao động trên lĩnh vực này chƣa nhiều, đó là lao động khá đơn giản và
nhiều khi cần sự hợp sức của cả hai vợ chồng. Có khác chăng là ở chỗ chồng
có thể làm việc nặng hơn, vợ có thể đƣợc làm việc nhẹ, yêu cầu sự khéo léo
hơn, chứ không khác ở sự phân công lao động trong một xã hội có nền kinh tế
phát triển, trong đó ngành nghề đƣợc phân chia rạch ròi và đòi hỏi sự đào tạo
nhất định về nghề nghiệp. Không những thế, trong xã hội mà ngành thƣong
76
mại chƣa phát triển, ngƣời phụ nữ còn gần nhƣ độc chiếm nghề tiểu thƣơng
kiểu buôn đầu chợ bán cuối chợ, hoặc bán nông sản do gia đình làm ra tại các
chợ quê, tuy vốn và lãi không nhiều nhặn gì, nhƣng cũng đủ đem về gia đình
một khoản tiền mặt dùng cho chi tiêu hàng ngày, một giá trị kinh tế quan trọng
đối với gia đình nông dân. Chính điều kiện lao động nông nghiệp đơn giản, sự
phân công lao động chƣa rành mạch và khả năng làm kinh tế tiểu thƣơng của
ngƣời phụ nữ đã tạo điều kiện cho tính dân chủ, bình đẳng giữa hai vợ chồng
đƣợc xác lập, cho nên công lao của ngƣời phụ nữ đƣợc đánh giá ngang bằng
với công lao của ngƣời chồng “của chồng công vợ”. Tuy vậy, do ảnh hƣởng
của Nho giáo, ngƣời nông dân cũng hƣớng đến sự vinh thân qua con đƣờng
học hành, khoa cử. Chính vì vậy, trong các việc làm của ngƣời chồng, có việc
đi học, với 28 câu ca dao phản ánh công việc này. Với những gia đình nhà nho,
thì ảnh hƣởng của giáo lý Khổng Mạnh tất yếu mạnh hơn các gia đình khác, và
tƣ tƣởng dƣơng danh, hiển nhân cũng chi phối suy nghĩ của họ. Các câu ca
dao nói về việc đi học, đi thi của ngƣời đàn ông phần lớn thông qua lời nói của
ngƣời vợ, qua đó bộc lộ rõ rệt mục đích của việc học là đỗ đạt, làm quan, đem
vinh hiển về cho gia đình, vợ con (nhƣ: "Bảng vàng choi chói bia đề tên anh",
"Ngựa anh đi trƣớc, võng nàng theo sau", "Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay
võng đào", "Anh cƣỡi ngựa vua ban, em ngồi trên võng vàng", "Trƣớc là vinh
thiếp, sau mình vinh thân"). Có thể nói, tình trạng vợ chồng cùng nhau chăm
bẵm vào con đƣờng khoa cử nhằm vinh hiển, trong đó ngƣời chồng dấn bƣớc
vào khoa trƣờng, còn ngƣời vợ thì tần tảo nuôi chồng ăn học, chính là biểu
hiện rõ rệt nhất của sự ảnh hƣởng của Nho giáo vào gia đình ngƣời Việt, mà cụ
thể ở đây là loại gia đình nhà nho; sự ảnh hƣởng ấy cũng thấm cả vào ca dao.
Điều này có một lý do là một bộ phận của tục ngữ, ca dao do tầng lớp nho sĩ
sáng tác. Câu ca dao "Sáng trăng trải chiếu hai hàng/Bên anh đọc sách bên
nàng quay tơ" vẽ nên bức tranh đặc trƣng về sinh hoạt của gia đình nhà nho,
trong đó nhiệm vụ của ngƣời đàn ông là đọc sách, học hành, ngƣời đàn bà làm
lao động nhƣng không phải là làm nghề nông đơn thuần mà là làm nghề phụ,
đỡ cực nhọc hơn và có khả năng thu nhập cao hơn. Xác định rõ mục đích, phân
công công việc rõ ràng (anh đi học, em lo việc nhà), hai vợ chồng đều tự giác
chăm lo công việc của mình, nhƣng ngƣời vợ bao giờ cũng vừa làm vừa hƣớng
tâm tƣởng của mình về phía chồng, chăm lo chồng chu đáo, và do vậy, quan hệ
giữa hai vợ chồng càng gắn bó. Mặt khác, qua ca dao, cũng cần ghi nhận ảnh
hƣởng tích cực của Nho giáo vào xã hội Việt Nam là góp phần tạo nên truyền
thống hiếu học, một yếu tố hết sức cần thiết để đào tạo con ngƣời cho xã hội
hiện đại. Và thật thú vị, cái điểm “rất Nho” này lại tạo điều kiện cho, hoặc làm
77
bộc lộ ra khả năng “giải Nho” trong quan hệ vợ chồng: anh chồng, từ vị trí
ngƣời chủ gia đình mà ngƣời vợ luôn luôn phải phục tòng theo quan điểm Nho
giáo, khi chăm bẵm theo con đƣờng khoa cử, trở thành anh “học trò dài lƣng
tốn vải ăn no lại nằm”, trông chờ ngƣời vợ lo toan cho cuộc sống, đã giảm dần
vai trò gia chủ, và nhờ thế, vai trò của ngƣời vợ ngày một trở nên quan trọng
hơn, tạo ra thế bình đẳng giữa hai vợ chồng. Có nhiều câu ca dao phản ánh tình
trạng này, ví nhƣ:
Ai đi đợi với tôi cùng
Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi
Chồng tôi quyết đỗ khoa này
Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng
Bõ khi xắn váy quai cồng
Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.
Một khi ngƣời phụ nữ đã nuôi đƣợc chồng, thì cũng có nghĩa là vai trò của
họ không bị lệ thuộc ngƣời chồng theo lễ giáo phong kiến nữa, mà nhƣ PGS
Nguyễn Từ Chi đã viết: “Một khi đã là vợ, là mẹ, là bà chủ một gia đình nhỏ,
với chìa khoá hòm trong tay, ngƣời nữ nông dân Việt, đặc biệt là ở Bắc Bộ, nơi
mà luồng buôn bán nhỏ trong nông thôn sinh động hơn nhiều, so với ở Trung
Bộ và Nam Bộ trƣớc kia, tất có tiếng nói quan trọng, nhiều khi quyết định,
trong nền kinh tế gia đình, xứng với danh hiệu “nội tƣớng” mà các ông chồng
sính chữ Nho thƣờng gán cho họ’’.[192]
Điểm hạn chế là trong cái nhìn của các tác giả dân gian, phụ nữ không
thuộc loại cần đƣợc đi học, đó là sự bất công với phụ nữ mà ngày nay tuy
chúng ta đã khắc phục, nhƣng không phải không còn rơi rớt ở nông thôn, khiến
cho nhiều gia đình chỉ cho con trai đi học và bắt con gái ở nhà giúp việc gia
đình.
Ngoại trừ hạn chế về tƣ tƣởng tìm cách đƣợc ăn trên ngồi trốc qua con
đƣờng khoa cử của giai cấp thống trị, nhìn chung lao động của gia đình ngƣời
Việt có mục đích đơn giản và chân chính, đó là tạo dựng một cuộc sống no đủ,
êm ấm. Cũng có lúc ngƣời nông dân phê phán lối học hành thoát nông, khẳng
định con đƣờng lao động ở nông thôn là đáng coi trọng:
Công danh theo đuổi mà chi
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông
Sớm khuya có vợ có chồng
Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.
Gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên và lao động, quan hệ vợ chồng ngƣời
Việt trở nên thơ mộng, đầy tính lãng mạn, do đó đã để lại cho kho tàng ca dao
78
những bức tranh vô cùng đẹp đẽ. Cái cảnh “Chồng cày vợ cấy con trâu đi
bừa”, hay “Bao giờ lúa trỗ vàng vàng/Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm” vừa
là bức tranh hiện thực về cuộc sống lao động nặng nhọc của ngƣời nông dân,
vừa là bài ca lãng mạn bay bổng thể hiện sự lạc quan trƣớc cuộc sống, là bản
tình ca dung dị về hạnh phúc vợ chồng ngƣời Việt.
1.1.3. Vợ chồng trong sự xa cách
Có 118 câu ca dao nói về sự xa cách vợ chồng, thì 33 câu thể hiện sự gắn
bó, chỉ có 4 câu thể hiện sự lỏng lẻo trong quan hệ vợ chồng.
Nếu quả nhƣ nhận định của một số nhà nghiên cứu trƣớc đây, với ý
chung là hôn nhân trong xã hội phong kiến, do sự áp đặt của lễ giáo phong
kiến, của chế độ phụ quyền, nên ngƣời phụ nữ không có hạnh phúc, thì việc xa
cách chồng chính là điều kiện thuận lợi để giải phóng ngƣời vợ, và ngƣời vợ
phải thể hiện sự mừng vui khi xa cách chồng. Thế nhƣng, ngƣợc lại, qua ca
dao, chúng ta thấy càng xa cách chồng, ngƣời vợ càng thể hiện sự gắn bó với
chồng, vợ chồng càng xa cách càng gắn bó với nhau. Trong 118 câu ca dao thể
hiện sự xa cách vợ chồng, hầu hết là nói lên sự nhớ thƣơng day dứt của ngƣời
vợ hoặc ngƣời chồng. Nguyên nhân của sự xa cách này là do đi lính hoặc do
chiến tranh (24 trƣờng hợp), chồng đi học (9 trƣờng hợp), chồng đi làm ăn (6
trƣờng hợp), vì các công việc khác (55 trƣờng hợp). Nhiều khi ngƣời chồng đi
mà không nói lý do (9 trƣờng hợp), khiến ngƣời vợ khắc khoải, luôn tự hỏi
“Anh đi đâu…”, “Đi mô…”, "Đi mô mà chẳng thấy về”, “Đi đâu để nhện
giăng mùng/Năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm.”, “Anh đi đâu ba bốn năm
tròn/Để em giã gạo chày con một mình.” Và cũng nhiều khi sự xa cách chồng
đem lại nỗi thất vọng chua cay cho ngƣời vợ, làm cho ngƣời vợ phải “Khóc nỉ
non”, không “biết lấy ai than cùng”, khắc khoải “Một ngày đằng đẵng xem
bằng ba thu”, đến nỗi phải tự dằn vặt “Chẳng qua thân mẹ nhƣ đời thờn bơn”.
Vì vậy, có khi ngƣời phụ nữ thể hiện thái độ gay gắt, không thiết tiền bạc, chỉ
cần gần nhau: “Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn.”
Trong các tình huống khiến cho vợ chồng xa cách, đáng chú ý là các tình
huống thuộc về chiến tranh: ngƣời chồng phải đi lính. Có rất nhiều cách thức
trong ca dao diễn tả thái độ của ngƣời vợ trƣớc cảnh chồng đi lính: ngăn không
cho đi (“Anh ơi anh ở lại nhà”, “Anh đòi đi lính Tây bang/Em e anh bỏ mạng
bãi hoang đất ngƣời.”), đành phải cho đi (“Phải lính thì đi”), hứa hẹn làm tốt
việc nhà (“Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”), lo lắng, thƣơng xót ngƣời chồng
ngoài trận mạc (“Hòn tên mũi đạn, dạ em càng không yên”, “Lo chàng lao
khổ, chớ sá gì mẹ con tôi.”), oán trách sự bất công của xã hội (“lấy chồng lính
thiệt thua trăm đƣờng”), lên án chiến tranh (“Trời ơi sinh giặc làm chi/Bỏ nhà
79
bỏ cửa mà đi chiến trƣờng.”), lo lắng cho cuộc sống gia đình (“Lấy chi nuôi
thầy với mẹ quanh năm/Đêm năm canh nằm nghĩ lại, ruột tằm héo hon.”),
trách chồng (“Tây bang anh đi lính/Sao anh không tính việc nhà.”, “Anh đi
lính mộ, đƣợc gì đâu na?”), sẵn sàng gánh vác việc nƣớc cho chồng (“Thiếp đi
lính thế cho chàng ít năm.”).
Dù ngƣời chồng đi đâu, vì lý do gì, thì ngƣời phụ nữ vẫn luôn luôn chờ
đợi. Có tới 62 câu với 3 loại từ diễn tả trạng thái đợi chờ của ngƣời phụ nữ
trong 102 trƣờng hợp xa cách chồng thể hiện qua ca dao, gồm: đợi (16 câu,
nhƣ “Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.”, “Thắp đèn em đợi, dựa kề
năm canh.”), chờ (30 câu, nhƣ “Con thơ vợ dại trông chờ từ đây.”), trông (16
câu, nhƣ: “Vợ trông chồng lên núi đứng vọng phu”.)
Phản ánh cách thức ứng xử trong điều kiện xa cách vợ chồng, ca dao ít
đứng từ góc độ ngƣời chồng (chỉ có 19 trƣờng hợp), nhƣng cũng cho thấy
trách nhiệm và lòng khao khát sum họp gia đình của ngƣời đàn ông. Tình cảm
của ngƣời chồng đƣợc phản ánh trong khung cảnh xa vợ là thƣơng vợ, cứng
rắn vƣợt qua hoàn cảnh, tin tƣởng giao việc nhà cho vợ, nhớ nhung, xót xa, an
ủi vợ, than thân trách phận, đau đớn, lo lắng trƣớc hoàn cảnh của vợ, chờ đợi,
tin tƣởng sẽ đạt mục đích; cũng có trƣờng hợp, dù là hiếm hoi, ngƣời chồng
cảm thấy đƣợc giải phóng, tự do (1 trƣờng hợp) hoặc cũng có khi bội bạc, lấy
vợ hai (1 trƣờng hợp). Tuy vậy, thái độ chung nổi bật của ngƣời chồng là trách
nhiệm và tình cảm thắm thiết với vợ con, mà câu ca dao tiêu biểu là “Dù lên
nguồn xuống bể anh cũng trở về với em.”
Qua sự thể hiện tình cảm của ngƣời vợ trƣớc cảnh xa cách chồng, chúng
ta thấy rõ ngƣời phụ nữ Việt luôn luôn lo lắng cho chồng, sẵn sàng gánh vác
công việc cho chồng, kể cả việc đi lính, sẵn sàng chăm lo việc nhà, mặc dù
chất chồng lên bản thân mình là những khó khăn, sự hẫng hụt khi trong nhà
mất đi ngƣời đàn ông. Điều này là tự giác, là biểu hiện của sự gắn bó vợ
chồng. Trong khi đó, vì công việc hoặc vì hoàn cảnh bắt buộc, ngƣời đàn ông
phải từ biệt gia đình sống cuộc sống tha hƣơng, nhƣng họ vẫn dành cho gia
đình tình cảm gắn bó, thƣơng yêu. Cho nên, phản ánh tình cảnh xa cách của vợ
chồng, ca dao đã chứng minh một cách đầy thuyết phục sự gắn bó của vợ
chồng, một sự gắn bó từ cả hai phía vợ và chồng, dựa trên tình thƣơng yêu và
trách nhiệm đối với nhau.
1.2. Đạo nghĩa vợ chồng theo quan niệm dân gian
Khảo cứu ca dao, chúng tôi nhận thấy khái niệm đạo nghĩa thƣờng đƣợc
các tác giả dân gian dùng để nói về quan hệ vợ chồng. Trong học thuyết Nho
giáo, thì chữ đạo cũng hay đƣợc sử dụng để nói về quan hệ gia đình, đó là đạo
80
tam tòng. Khảo cứu kỹ những câu ca dao có dùng từ đạo nghĩa (hoặc đạo,
hoặc nghĩa), gồm 39 câu, chúng tôi thấy rằng trong khi sử dụng vỏ ngôn ngữ
đạo nghĩa của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển tải những nội dung
gần gũi với nhận thức, tình cảm và lối sống của dân tộc.
Theo các tác giả dân gian, đạo nghĩa vợ chồng rất nặng, rất sâu, rất khó,
với nội dung là: Hôm ấp mai ôm, Ăn mày cũng theo nhau, Ngàn dặm khôn
quên, Giận rồi lại thƣơng, Thƣơng, Chịu khó chịu khổ, Xa nhau vẫn nhớ, Đá
vàng trăm năm, Nhớ hoài không quên, Chăm nom chồng, Hoà hợp, thuận hoà,
Không ngại xa gần, Không vong vợ, Bền chặt, Không rời nhau, Không cần
biết đói no, Đợi chờ chồng, Chung thuỷ, Không tham sang giàu, Già đời, Sinh
tử có nhau, Cậy nhờ nhau.
Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:
1. Đạo cƣơng thƣờng khó lắm bạn ơi
Chẳng dễ nhƣ ong bƣớm đậu rồi lại bay
Đạo cƣơng thƣờng khá dễ đổi thay
Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.
2. Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thƣơng.
3. Chữ rằng: quân tử tạo đoan
Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.
4. Lấy nhau cho trọn đạo Trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.
5. Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.
Các từ thể hiện đạo nghĩa ở đây thƣờng đƣợc dùng là Đạo vợ chồng, Đạo
vợ nghĩa chồng, Tình chồng nghĩa vợ.
Qua ca dao nói về đạo nghĩa vợ chồng, có thể thấy các tác giả dân gian
cũng nêu lên một số quy luật bao quát thể hiện nguyên tắc sống của vợ chồng,
nhƣ chung thuỷ trọn đời (thƣờng biểu hiện qua từ trăm năm, nhƣ “Vợ chồng là
nghĩa đá vàng trăm năm”, “Trăm năm gối phƣợng má đào bên em”, “Đạo vợ
chồng trăm năm không phải một ngày”). Quy luật này là phổ biến, từ trong đời
thƣờng mà ra, chứ không phải là theo triết thuyết Khổng Mạnh, bởi vì từ khi
chƣa có Nho giáo, thì con ngƣời đã có khái niệm vợ chồng, và thực tế cuộc
sống lao động cũng nhƣ tình cảm đã khiến cho sự chung thuỷ trọn đời là yêu
cầu tất yếu của quan hệ vợ chồng.
Nội dung chính trong ca dao về đạo nghĩa vợ chồng là những cách thức
ứng xử thắm thiết tình cảm giữa hai vợ chồng trong hoàn cảnh sống gắn với
81
thiên nhiên, lao động. Đạo nghĩa vợ chồng giản dị và thuần phác, có khi thể
hiện ở nắm lá xông:
Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nắm lá nọ về xông
Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.
Quan niệm về nghĩa nhƣ trên cho thấy lối sống chất phác, tình cảm chân
thật và thực tế của ngƣời nông dân thuộc xã hội nông nghiệp, một xã hội mà
trong đó, con ngƣời sống gắn bó và hoà đồng với thiên nhiên.
Có một trƣờng hợp độc đáo, là trong khi sử dụng khái niệm Đạo của Nho
giáo, các tác giả dân gian lại chuyển tải một nội dung trái ngƣợc với Nho giáo.
Qua ca dao, ngƣời nông dân Việt khẳng định: "Đạo cƣơng thƣờng khá dễ đổi
thay/Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau”. Đây là một quan
niệm rất nhân ái của ngƣời Việt, đối lập với quan niệm Nho giáo đòi hỏi ngƣời
chồng phải dƣơng danh, hiển nhân. Thảm trạng của ngƣời đàn ông không làm
cho ngƣời đàn bà khinh ghét, ruồng rẫy mà càng làm sâu sắc thêm tình chồng
nghĩa vợ, đó là nét tâm lý độc đáo của ngƣời nông dân Việt.
Nhƣ vậy, khái niệm đạo nghĩa đƣợc dùng trong ca dao có nội dung khá
rộng, bao hàm cả ý nghĩa vật chất và ý nghĩa tinh thần. Về ý nghĩa vật chất,
các tác giả dân gian quan niệm rằng muốn làm tròn đạo nghĩa, vợ chồng cần
thể hiện sự âu yếm nhau, chịu đựng thiếu thốn, không phụ thuộc vào của cải.
Về ý nghĩa tinh thần, đạo nghĩa bao hàm cả tình cảm và ý chí, vợ chồng phải
thƣơng yêu, tƣơng trợ nhau, hoà thuận, chung thuỷ, không bị chi phối bởi
không gian và thời gian. Quan niệm nhƣ thế hoàn toàn phù hợp với cuộc sống
bình dị, không phải là những triết lý cao siêu.
1.3. Quan niệm dân gian về ông Tơ bà Nguyệt
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong xã hội phong kiến, do không tìm
đƣợc hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân, mà ngƣời ta hay trông chờ hoặc
đổ lỗi cho ông Tơ bà Nguyệt. Trong Kinh thi ViệtNam, Nguyễn Bách Khoa
viết: "Cha mẹ đặt đâu, họ phải ngồi đấy. Bao nhiêu tƣ tƣởng cá nhân của họ
đều nép mình dƣới cái uy lực tối thƣợng của gia đình. Họ chỉ còn biết nhắm
mắt đƣa chân trông cậy cả vào may rủi, vào ông Tơ bà Nguyệt" [52:99].
Thực ra trong ca dao nói về gia đình, chỉ có 5 câu trực tiếp nhắc đến ông
Tơ bà Nguyệt, chỉ có ca dao về chủ đề giao duyên nam nữ mới nhắc nhiều đến
hai từ này. Vì sự giao duyên có liên quan trực tiếp đến hôn nhân, cho nên
chúng tôi cũng mở rộng tƣ liệu ra loại chủ đề giao duyên để khảo cứu. Theo
phân loại của chúng tôi, có 5.862 câu ca dao thuộc chủ đề giao duyên nam nữ,
82
cùng với 1.179 câu ca dao thuộc chủ đề gia đình, trong đó từ ông Tơ, bà
Nguyệt xuất hiện 164 lần trong 88 câu ca dao (dƣới nhiều tên gọi khác nhau:
ông Tơ bà Nguyệt, ông Tơ, bà Nguyệt, Nguyệt lão, bà Nguyệt lão, ông Nguyệt
lão). Các đôi nam nữ nói đến ông Tơ bà Nguyệt trong các trƣờng hợp sau đây:
+ Phản ánh tình trạng chƣa bén duyên nhau (30 câu), thí dụ: “Ông Tơ bà
Nguyệt chƣa xe”, “Đôi ta nhƣ vợ với chồng/Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng
chƣa xe.”, “Tuổi anh đang độ thơ đào/Ông tơ chƣa định nơi nào xe duyên.”
Ông Tơ bà Nguyệt ở đây chỉ nhƣ một cái cớ mà các đôi trai gái mƣợn để nói
lên tâm trạng “lửng lơ” chƣa định nơi chốn của mình.
+ Trách không xe duyên (13 câu), thí dụ: “Bắt ông Tơ mà đánh ba
hèo/Duyên ngƣời xe cả, phận em đói nghèo không xe.”, “Quyết lên trời kiện
đến ông Tơ”,” Ông vụng xe, xe phải vợ già/Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!”.
Thái độ của ngƣời nói ở đây khá trịch thƣợng, coi thƣờng ông Tơ, bà Nguyệt,
thƣờng dùng từ bắt.” (Ví dụ : “Bắt ông Tơ mà cho ba đấm/Bắt bà Nguyệt,
đánh bốn mƣơi chín cái hèo/Duyên ngƣời ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều
mới xe.”). Tuy nói là trách ông Tơ, thực ra con ngƣời trách cho sự chậm
duyên, vô duyên của mình chứ không nhằm đổ lỗi cho đấng siêu nhiên.
+ Thể hiện vai trò chủ động của con ngƣời trong tình duyên, không phụ
thuộc ông Tơ bà Nguyệt (17 câu), ví dụ: “Vừa đôi ta định, ông Tơ sá gì!”, “Kết
phức đi đây vợ đó chồng/Dù ông trời chƣa định, dù ông Tơ Hồng chƣa xe.”,
”Sáng trăng suông sáng cả bờ sông/Ta đƣợc cô ấy ta bồng ta chơi/Ta bồng ta
tếch lên trời/Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?”, “Phụ anh, tội lắm bớ
nàng!/Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn”, "Phải duyên thì lấy, tơ hồng nào se".
Qua các câu ca dao thuộc loại này, chúng ta thấy dù nhân duyên đã thành hay
bại, thì ông Tơ, bà Nguyệt cũng không có vai trò quyết định, mà vai trò ấy là ở
con ngƣời. Khi đã yêu, ngƣời ta cứ việc gắn bó với nhau, có hỏi đến ông Tơ
cũng chỉ là để cho vui, khi sự việc đã an bài. Còn khi trắc trở, ngƣời ta đem
ông Tơ bà Nguyệt ra hỗ trợ cho mình nhằm níu kéo ngƣời tình.
+ Cầu xin cho đƣợc xe duyên (5 câu), thí dụ: “Vái ông Tơ một đĩa bánh
bò bông/Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.”, “Vái ông Tơ đôi ba chầu
hát/Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh/Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm
tình/Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ƣng.” Trong trƣờng hợp này, con ngƣời
tỏ lòng thành kính trƣớc vai trò xe duyên của ông Tơ bà Nguyệt, nhƣng cũng
có khi chỉ là cách nói mà thôi. Số câu ca dao thuộc loại này chiếm tỷ lệ rất
thấp, chỉ bằng 7,46% số câu ca dao có nói đến ông Tơ bà Nguyệt, chứng tỏ
trong tâm thức dân gian, sự tin tƣởng vào vai trò của ông Tơ bà Nguyệt trong
xe duyên chỉ rất mờ nhạt.
83
Với các nội dung đƣợc phân loại cùng những dẫn chứng nhƣ trên, có thể
thấy rằng trong ca dao, các tác giả dân gian chỉ mƣợn ông Tơ bà Nguyệt để nói
về tâm trạng của con ngƣời hoặc để làm cớ nói về tình cảm của con ngƣời, chứ
chủ yếu không phải coi ông Tơ bà Nguyệt nhƣ đấng thần linh quyết định hạnh
phúc lứa đôi. Điều này cho thấy, về mặt phƣơng pháp luận, khi nghiên cứu văn
học dân gian, trong đó có ca dao, cần chú ý đến cách sử dụng khái niệm của
các tác giả dân gian, nhiều khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ này để chuyển tải nội
dung khác.
1.4. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng
Phản ánh các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ gia đình ngƣời Việt có
150 câu ca dao, trong đó thuộc về quan hệ cha mẹ con có 37 câu, vợ chồng có
88 câu, anh chị em có 2 câu, còn lại là trong quan hệ dâu rể, họ hàng.
Khảo cứu loại ca dao phản ánh các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ vợ
chồng, chúng tôi rút ra bảng sau:
BIỂU HIệN NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN PHẢN ỨNG
Tảo hôn Tham giầu Nữ Phê phán
Phụ bạc Vợ già đi Nam Trách
Cờ bạc Nam Xa lánh
Chồng vừa chết đã
ngóng trai
Không nói rõ
Bóc lột Nhà giầu Nhà chồng Trách
Nợ nần (2 đơn vị) Cờ bạc Nam Không nói rõ
Rƣợu chè Nam Không nói rõ
Cờ Bạc (2) Nữ Không nói rõ
Cờ bạc (10) Nam Trách, khinh
Phụ bạc Nữ Không nói rõ
Phụ bạc Cả nam, nữ
Đa thê (9) Nam Trách
Đa thê (3) Nam Phản đối
Đa thê (5) Nữ Chấp nhận
Bỏ chồng, ngóng
trai
Nữ Phê phán
Tảo hôn (2) Không nói rõ
Bạc bẽo (7) Nam Trách
Bạc bẽo (2) Nam Không nói rõ
84
Bạc bẽo Nam Phản đối kịch liệt
Bạc bẽo Nam Cầu xin
Chồng không
thƣơng
Nam Buồn
Đánh vợ (6) Nam Nhắc nhở
Đánh vợ Vợ lẳng lơ Nam Không nói rõ
Dữ tính Nam Lo
Đàng điếm (10) Nữ Dè bỉu
Nghiện hút Nam Dè bỉu
Bỏ chồng Công nợ Nữ
Vợ hƣ Cả nghe Nam Quy trách nhiệm
Vợ hƣ Chồng Quy lỗi
Con hƣ Cha dong Nam Quy trách nhiệm
Khổ Lấy chồng giầu Oán trách
Chê chồng (2) Chồng già, kém Nữ Oán cha mẹ
Nghèo khổ Lấy chồng Nhà chồng Oán trách
Bắt nạt chồng Nữ Phê phán
Tồi (2) Nam Than vãn
Đánh chồng (2) Nữ Không nói rõ
Chồng ngu Bị gả bán Bực
Bỏ chồng Nữ
Ghen chồng Nữ Không nói rõ
Không bênh vợ Nam Trách
Xung khắc Bị ép gả Nam và nữ Trách
Một số câu ca dao tiêu biểu là:
1. Gió đƣa bụi chuối sau hè
Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.
2. Vì đứt dây, nên gỗ mới chìm
Bởi anh ở bạc nên em phải tìm nơi xa.
3. Anh đi ghe nổi chín chèo
Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo
- Nợ treo mặc kệ nợ treo
Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.
4. Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
85
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.
5. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn nhƣ yêu vụng dấu thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!
6. ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng?
Nói ra đau đớn trong lòng
ẤY cái nợ nần, có phải chồng đâu.
Từ các câu ca dao về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng,
chúng tôi thống kê đƣợc 40 tình huống, trong đó loại tiêu cực đƣợc nói đến
nhiều nhất là Đa thê (15 câu), Nghiện hút, cờ bạc (13 câu), Phụ bạc nhau (12
câu), Lẳng lơ, đàng điếm (12 câu), Đánh vợ (7 câu). Khi phản ánh các hiện
tƣợng tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, các tác giả dân gian thể hiện nhiều thái
độ khác nhau, nhƣng nhìn chung là không gay gắt lắm. Các loại biểu hiện tiêu
cực nhƣ nghiện hút, cờ bạc, đánh vợ… đều không bị phê phán trực diện. Đối
với hiện tƣợng đa thê, thái độ của ngƣời phụ nữ cũng đa chiều: khi thì chấp
nhận ("Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào/Thím tôi chả bảo làm sao,/ Nói lên vài tiếng,
lào nhào mấy câu.”), khi thì phản đối ("Chồng chung thì đừng"), và lúc lại
trách móc (“Anh lấy vợ lẽ phụ tình thiếp chăng?”), trong đó chủ yếu là trách
móc. Điều này cho thấy ngƣời Việt chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, của chế độ
phụ quyền, trong đó cho phép ngƣời đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp,
đồng thời thể hiện cách sống hồn nhiên chân chất của cƣ dân nông nghiệp. Tuy
nhiên, ở một góc nhìn khác, thì việc xuất hiện tần số cao nhất: 15 lần nhắc đến
đa thê trong các câu ca dao nói về tiêu cực vợ chồng, cho ta thấy lối ứng xử
cam chịu của ngƣời phụ nữ, đồng thời cũng là vấn đề nhức nhối hằn sâu trong
tâm tƣ của ngƣời phụ nữ. Sự bất công ấy phải chăng là nguyên nhân của việc
không ai khác, mà chính ngƣời phụ nữ, đã cất cao tiếng nói hạ bệ thần tƣợng
của chữ "trinh" để có những câu ca dao phản ánh thái độ bất cần của họ nhƣ
một thói xấu trêu ngƣơi các chàng trai, đó là tính lẳng lơ. Từ tình trạng này,
dẫn đến một hệ quả là trong ca dao, khuyết điểm bị nhắc đến nhiều nhất của
phụ nữ là tính lẳng lơ, đàng điếm, với thái độ dè bỉu khinh khi. Các tác giả dân
gian theo dõi từng trạng thái của ngƣời phụ nữ trong những cảnh huống khác
nhau để lột tả sinh động những thói xấu của ngƣời phụ nữ: khi ở với chồng thì
dành “quả ngọt” cho “trai", đang sống với chồng cũng “nom chồng ngƣời.”,
khi xa chồng - "Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thời nhiều.”, tới mức “Loạn trôn từ
86
thuở vắng chồng đến nay”, bị chồng đánh vì “ve ông lái mành”, ngông cuồng
tới mức “Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!”, "Có chồng càng dễ chơi
ngang/Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?”, đến khi chồng chết cũng không
thờ chồng đƣợc ở mức tối thiểu: “Chồng tôi mới đƣợc ba ngày/Ai ơi có đợi tôi
rày hay không?" Những biểu hiện này cho thấy trong xã hội phong kiến, không
phải là phụ nữ không dám bung phá, sống theo sở ý riêng, mặt khác cũng cho
thấy dƣ luận hết sức quan tâm và khắt khe đối với phụ nữ. Điều này vừa biểu
hiện cho sự áp chế của lễ giáo phong kiến đối với ngƣời phụ nữ, vừa thể hiện
sự chống đối của ngƣời phụ nữ đối với lễ giáo ấy. Nƣơng nhẹ cho những
khuyết điểm của đàn ông, trong đó có những thói xấu mang tính phổ biến
trong xã hội nhƣ đa thê, cờ bạc, rƣợu chè, đánh vợ, đồng thời lại ngặt nghèo
đối với những khuyết điểm của phụ nữ, ca dao đã cho thấy rằng trong tâm thức
dân gian, ý thức phụ quyền đã có sự chi phối ở mức độ nhất định đến cách
nhìn nhận, đánh giá của nhân dân về cách thức ứng xử trong quan hệ vợ
chồng.
2. QUAN HỆ CHA MẸ CON
2.1. Quan niệm dân gian về chữ Hiếu
Hiếu là một khái niệm hết sức quan trọng trong Nho giáo. Trong Văn
hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Phan Ngọc viết: “Không đạo lý nào nói
đến chữ hiếu nhiều hơn Khổng giáo. Và dù cho chữ hiếu có đƣợc nhắc đến bởi
Khổng Tử, Tăng Tử và vô số học giả thì chung quy chỉ là bổn phận của đứa
con đối với cha mẹ mình. Và chấm dứt.” [81:112[. Trong Nho giáo xưa và
nay, Quang Đạm viết:
"Hiếu tất nhiên là biết yêu thƣơng cha mẹ, biết vào thƣa gửi, đi
báo cáo về trình diện, biết quạt nồng ấm lạnh, sớm hỏi chiều thăm, biết
lập thành gia thất có con nối dõi tông đƣờng, tránh đƣợc tội lớn "vô
hậu".v.v. Có thể nói rằng đó là những việc quen thuộc mà ngƣời ta hay
nói đến trong xã hội cũ trải qua mấy chục thế kỷ rồi. Nhƣng Khổng
Mạnh chủ yếu nhấn mạnh vào những điều có ý nghĩa cao sâu hơn về
mặt đạo lý triết học. Ngay đến việc nuôi nấng cha mẹ, Khổng Khâu
cũng dụng ý phê phán gay gắt một quan niệm đƣơng thời là cứ có nuôi
nấng là đƣợc. Lời phê phán nhƣ sau: "Ngày nay, nói ngƣời có hiếu là
nói biết nuôi nấng. Đến nhƣ con chó con ngựa cũng đều có nuôi nấng
cả. Không có lòng tôn kính thì có gì phân biệt." [30:177].
87
Rất sợ hậu sinh không giữ đúng đạo của cha ông, thầy trò Khổng
Khâu nhiều lần nêu rõ những yêu cầu "kế", "thuật", "và "vô cải" (nghĩa
là nối tiếp, làm theo và không thay đổi)...[30:180].
“Dƣơng danh, hiển nhân, cách báo hiếu tốt nhất.
Rất sợ "hậu sinh' "đổi khác", Nho giáo tìm đủ mọi cách làm cho
con cháu cứ đi đúng theo cái đạo của cha ông, cứ "thiện kế", "thiện
thuật'' mà làm nên nghiệp lớn, vƣơn lên cao mãi. Con hơn cha nhƣ vậy
nhà càng có phúc. [30:180].
Trong ca dao, nhân dân ta cũng hay nói đến chữ Hiếu. Trong số 446 câu
ca dao nói về quan hệ cha mẹ con, thì có 100 câu phản ánh tình trạng có hiếu
hoặc bất hiếu, còn trong 1.179 câu ca dao nói về gia đình, có 25 câu ca dao có
dùng trực tiếp từ hiếu.
Khảo cứu ca dao nói về đạo hiếu trong gia đình Việt Nam, chúng tôi
thống kê nhƣ sau:
- Tổng số câu ca dao đề cập đến đạo hiếu: 100 câu (21 câu có dùng trực
tiếp chữ hiếu, hoặc hiếu trung), còn lại là nói gián tiếp.
- Số câu thể hiện sự có hiếu là 89 câu, sự bất hiếu là 11 câu.
Nội dung có hiếu đối với cha mẹ đƣợc ca dao phản ánh là: Đền ơn nuôi
dƣỡng, Chăm nom về vật chất, Thờ cha kính mẹ, Biết ơn cha mẹ, Chịu nhục,
Biết sợ, Chịu cúi luồn, Lo lắng cho cha mẹ, Thờ cúng chu tất (hơn với chồng),
Gắng học để thành danh, Coi cha mẹ hơn chồng, Coi trọng đền ơn hơn nhân
duyên, Nhớ thƣơng, Phụng dƣỡng mẹ cha, Trọng công cha nhƣ nghĩa thầy,
Mong cha mẹ sống lâu, Lao động làm giầu cho cha, Không đƣợc cãi cha mẹ,
Hầu mẹ cha, Vợ chồng thờ chung cha mẹ, Trong thời gian để tang cha mẹ
không nghĩ đến nhân duyên, Nối nghiệp cha ông.
Nội dung bất hiếu đối với cha mẹ đƣợc ca dao phản ánh là: Kể công nuôi
cha mẹ, Ăn chơi phung phí của cha mẹ, Sao nhãng thăm nom, Hƣởng riêng
sang giầu, để mặc cha mẹ nghèo, Hỗn láo với cha mẹ, Quên ơn cha mẹ.
Nói chung, những nội dung về chữ hiếu mà ca dao ngƣời Việt phản ánh
nhƣ đã dẫn trên đây đều đƣợc Nho giáo đề cập đến, chứng tỏ trên bình diện gia
đình, chữ hiếu của Nho giáo đã đƣợc chuyển tải và thâm nhập khá sâu, rộng
vào xã hội Việt Nam thời phong kiến. Tuy vậy, trong nội dung của chữ hiếu
mà ca dao chuyển tải, thƣờng hƣớng vào cách ứng xử thông thƣờng trong cuộc
sống, gần gũi với nếp sống, nếp nghĩ bình dị của ngƣời dân, còn những triết lý,
yêu cầu cao siêu hoặc ngặt nghèo của Nho giáo thì không đƣợc đề cập.
88
Về đối tƣợng của chữ hiếu, Nho giáo quy định nhƣ sau: “Hiếu đạo là
nghĩa với cha mẹ, đồng thời cũng có thể là nghĩa đối với các thế hệ bề trên
trong gia đình.”, “Con ngƣời hiếu đễ bao giờ cũng làm vui lòng cha anh"
[30:175]. “Ba mối nhân luân trong gia đình là cha con, anh em và vợ chồng.”
[30:183]. Nhƣ vậy, đối tƣợng của chữ hiếu chính là cha mẹ, ngƣời bề trên,
nhƣng Nho giáo nhấn mạnh đến cha anh, đến mối quan hệ cha - con.
Khi nói về hiếu, ca dao ngƣời Việt cũng chỉ rõ đối tƣợng là cha mẹ: với
cha mẹ nói chung (88 câu), trong đó nói đến cả cha và mẹ trong cùng một câu
ca dao là 59 câu, nói riêng về cha là 4 câu, riêng về mẹ là 26 câu, số câu có
nhắc trực tiếp đến từ cha (hoặc thầy, thày) là 50 câu, mẹ (hoặc má) là 67 câu,
nói về công cha là 11 câu, về nghĩa mẹ là 20 câu. Có nghĩa là, đối tƣợng của
chữ hiếu đƣợc ca dao ngƣời Việt quan tâm hơn cả là cha mẹ nói chung, tiếp đó
là ngƣời mẹ. Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời cha đều đƣợc nói đến ít hơn ngƣời
mẹ. Điều này cho thấy, khi sử dụng khái niệm hiếu, phản ánh tình trạng có
hiếu hoặc bất hiếu, ca dao thiên về lối ứng xử thông thƣờng và nặng về tình
chứ không phải nặng về giáo lý, và ngƣời mẹ bao giờ cũng chiếm vị trí quan
trọng hơn ngƣời cha. Điều này cũng chứng tỏ rằng, khi nói về chữ hiếu, ngƣời
Việt giới hạn nó trong phạm vi gia đình là chính, không đồng nhất với quan
niệm của Nho giáo, tức là chỉ khuôn chữ hiếu vào việc làm sao cho con sống
có tình có nghĩa với cha mẹ là chính, chứ không phải hƣớng con ngƣời theo
cách báo hiếu mang tính giáo lý của Khổng Mạnh là phải xây dựng đƣợc
nghiệp lớn, biến nhà mình thành đại gia, có thế lực trong xã hội. Quan niệm
của Khổng giáo không có con trai là bất hiếu cũng không hề có mặt trong các
câu ca dao nói về đạo hiếu của ngƣời Việt, càng cho chúng ta thấy rõ khái
niệm hiếu của Nho giáo tuy đã thâm nhập sâu vào xã hội, gia đình Việt Nam
nhƣng nội dung đã mờ nhạt.
2.2. Trách nhiệm của cha mẹ đối với con
Có 18 câu ca dao thể hiện trách nhiệm của cha mẹ với con. Đó là: Nuôi
nấng, Chăm chút, Dạy dỗ, Dựng vợ gả chồng, Tạo dựng nhà cửa, Cho học
hành.
Trong các trách nhiệm nói trên, việc chăm lo cho con học hành đƣợc nói
đến nhiều hơn cả (5 câu), với mục đích rõ ràng là thành danh, hiển thân. Điều
này cho thấy, về mặt giáo dục, ngƣời Việt đã chịu ảnh hƣởng rõ rệt của Nho
giáo, và đây là ảnh hƣởng tích cực.
89
Một số câu ca dao tiêu biểu là:
1. Cơm cha áo mẹ chữ thầy
Gắng công mà học có ngày thành danh.
2. Con ơi muốn nên thân ngƣời
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thời dệt gấm thêu hoa
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thời đọc sách ngâm nga
Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa
Nữa mai nối đặng nghiệp nhà
Trƣớc là mát mặt sau là hiển thân.
3. Con cò bay bổng bay la
Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng
Cha sinh mẹ đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trƣớc là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.
4. Nuôi con cho đƣợc vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi, xƣơng mòn gối long
Con ơi, cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
Đáng lƣu ý là, tuy nói ít về trách nhiệm của cha mẹ đối với con, nhƣng ca
dao của ngƣời Việt lại nói nhiều đến công lao của cha mẹ, răn dạy con phải
báo đáp. Sở dĩ nhƣ vậy vì ca dao thiên về tình cảm, các tác giả dân gian không
chủ tâm đúc rút giáo lý trong quan hệ cha mẹ con, mà chủ yếu phản ánh tình
cảm đƣợc bộc lộ qua mối quan hệ ấy. Qua những câu ca dao nói lên công lao
của cha mẹ đối với con, lại thấy nổi lên trách nhiệm của cha mẹ rất lớn, thiên
về việc nuôi nấng, chăm chút, hy sinh cho con, mong con nên ngƣời, kể cả học
hành để thành danh, hiển thân.
90
2.3. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con
Chúng tôi thống kê đƣợc 37 câu ca dao nói lên những biểu hiện tiêu cực
trong quan hệ cha mẹ con. Một số câu ca dao tiêu biểu là:
1. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
2. Mẹ già hết gạo treo niêu
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.
Về các biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con, trong phần Hôn
nhân, chúng tôi sẽ có dịp nói đến khía cạnh ép duyên, mà chủ yếu là do yếu tố
kinh tế - cha mẹ tham tiền, tham giầu mà ép duyên con. Trong phần này,
chúng tôi xem xét khía cạnh con đối xử không tốt với cha mẹ. Có 7 câu ca dao
nói về hành động tiêu cực của con đối với cha mẹ là: Cãi cha mẹ, Kể công
nuôi cha mẹ, Để cho mẹ khổ trong khi mình giầu sang. Hai loại tiêu cực đầu
mang yếu tố tinh thần, loại tiêu cực sau mang yếu tố vật chất. Thái độ của các
tác giả dân gian trƣớc các hành vi sai trái của con đối với cha mẹ không đƣợc
bộc lộ rõ ràng, chỉ có một trƣờng hợp nói thẳng rằng "con cãi cha mẹ" là "con
hƣ". Trong các trƣờng hợp này, ca dao phản ánh một cách khách quan là
chính, để ngƣời nghe tự rút ra kết luận và tỏ thái độ.
3. QUAN HỆ NÀNG DÂU VÀ GIA ĐÌNH CHỒNG
Chúng tôi thống kê đƣợc 63 câu ca dao nói về quan hệ của nàng dâu đối
với gia đình nhà chồng, thì có tới 33 câu thể hiện những biểu hiện tiêu cực, chỉ
có 14 câu biểu hiện sự tích cực (chủ yếu là đối vơí mẹ chồng). Tức là có 52%
số câu ca dao về quan hệ nàng dâu - nhà chồng phản ánh tính tiêu cực, và số
câu ca dao nói về các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng
nhiều gấp 2,35 lần số câu nói về các hiện tƣợng tích cực. Tỷ lệ này là cao,
đồng thời với nội dung của các câu ca dao nói lên những tiêu cực trong quan
hệ nàng dâu với nhà chồng cho thấy từ trong truyền thống, đây là mối quan hệ
mang nhiều nỗi nhức nhối thuộc gia đình ngƣời Việt. Nói cách khác, mâu
thuẫn nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của ngƣời
Việt.
Qua các câu ca dao nói về quan hệ nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi rút ra
bảng thống kê nhƣ sau:
Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng
HIỆN TƢỢNG NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN
Làm việc vất vả vẫn bị chê Nhà chồng
Đay nghiến Mẹ chồng
91
Doạ khâu miệng mẹ chồng Bị đay nghiến Con dâu
Mong mẹ chồng chết Bị đay nghiến Con dâu
Khôn khéo vẫn bị chê (4 câu) Mẹ chồng
Bị chồng đánh, bị xui đánh thêm Mẹ chồng
Mong mẹ chồng ốm để cho
thuốc độc
Bị ngƣợc đãi Con dâu
Khóc than Bị hành hạ Mẹ chồng
Bỏ về nhà mẹ đẻ Mẹ chồng ác nghiệt Mẹ chồng
Khóc Bị chửi Mẹ chồng
Muốn bỏ đi Bị hành hạ, chê
nghèo
Mẹ chồng
Ăn không ngon Thấy mẹ chồng
Nghèo đi Lấy chồng
Tàn tạ đi Bị đánh mắng Mẹ chồng
Rầu Bị coi rẻ Mẹ chồng
Rủa mẹ chồng Con dâu
Không khen nhau Quan hệ không bình
đẳng
Mẹ chồng
Không dám về với chồng Sợ bị chê nghèo Cha mẹ chồng
Nhờ chồng lạy mẹ Bị đánh Mẹ chồng
Nhịn nhục, nhịn ăn mặc Mẹ chồng ác Mẹ chồng
Bị hành hạ Lấy chồng giầu Mẹ chồng
Không yêu nhau Vì là nàng dâu mẹ
chồng
Xui chồng chống mẹ Bị đòn Mẹ chồng
Chí nguyện vẫn bị chê Mẹ chồng
Bị đối xử bất công Là con dâu Mẹ chồng
Cực nhọc, đói khổ, rách rƣới Là con dâu Mẹ chồng
Các tình huống tiêu cực trong quan hệ nàng dâu mẹ chồng đƣợc thống kê
ở bảng trên cho thấy sự mâu thuẫn gay gắt của hai đối tƣợng này. Sự phản ứng
quyết liệt, những lời nói nặng nề, hành vi không khoan nhƣợng giữa mẹ chồng
- nàng dâu trong gia đình dƣới chế độ phong kiến ở Việt Nam cho thấy mặc dù
đề cao phụ quyền nhƣng vai trò của ngƣời cha cũng chƣa đủ mạnh để tạo dựng
nên những quan hệ tốt đẹp và chƣa đủ uy để trấn áp các hành động gây bất hoà
giữa các thành viên trong gia đình. Điều này khác với gia đình phụ quyền ở
92
Trung Quốc, trong đó ngƣời con dâu chịu lép một bề, cúi đầu tuân phục mọi
phép tắc của nhà chồng.
Một số câu ca dao tiêu biểu là:
1. Mẹ chồng nàng dâu
Chúa nhà ngƣời ở, khen nhau bao giờ.
2. Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
3. Bà kia bận áo xanh xanh
Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu
Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu
Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà
Chừng nào bà chết ra ma
Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng
Không khóc thì sợ lòng chồng
Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu.
4. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ
Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu
Mẹ cha hành hạ thân dâu
Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?
5. Cô kia đội áo đi đâu?
- Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng đƣợc tôi về nhà tôi.
Những biểu hiện tích cực trong quan hệ nhà chồng - nàng dâu.
HIỆN TƢỢNG NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN
Coi nhƣ con đẻ Dâu hiền Gia đình chồng
Cùng lao động
Thƣơng mẹ chồng Con dâu
Chăm mẹ chồng Con dâu
Coi bình đẳng nhƣ con Nhà chồng
Kính trọng mẹ cha chồng Con dâu
Nuôi mẹ thay chồng Con dâu
Một số câu ca dao tiêu biểu là:
1. Năm trai, năm gái là mƣời
Năm dâu, năm rể là đôi mƣơi tròn.
3. Xin anh đi học cho ngoan
93
Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài
Quan tiền dài em ngắt làm đôi
Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già
Bát cơm em nấu nhƣ hoa
Bát canh em nấu nhƣ là mật ong
Nƣớc mắt em lọc cho trong
Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan .
Từ các tình huống thể hiện tính chất tích cực và tiêu cực trong quan hệ
nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi có mấy nhận xét nhƣ sau:
- Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu trong gia đình là mâu thuẫn giữa nàng dâu
và mẹ chồng mà tác nhân chính là mẹ chồng. Nói cách khác, mẹ chồng là
ngƣời chủ yếu tạo nên các mâu thuẫn với nàng dâu.
- Thứ hai, khi làm dâu, ngƣời con gái chịu đủ mọi nỗi khổ, cả về vật chất
và tinh thần, nhƣng không đƣợc biết rõ nguyên nhân thực sự làm cho mình bị
ngƣợc đãi. Có nghĩa là, qua ca dao, chúng ta thấy ở một bộ phận xã hội, làm
dâu đồng nghĩa với phải cam chịu cảnh sống tôi đòi. Đặc biệt, ca dao đã nhiều
lần khẳng định làm dâu nhà giầu thì chỉ có khổ.
- Thứ ba, các phản ứng tiêu cực của nàng dâu đều hƣớng vào mẹ chồng.
Sự phản ứng của nàng dâu có nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc ở sự ngƣợc
đãi đối với mình, trong đó nhiều trƣờng hợp đã phản ứng gay gắt, tới mức đối
kháng.
- Thứ tƣ, những biểu hiện tích cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng
chủ yếu do nàng dâu tạo nên, hoặc do nhà cha mẹ chồng tạo nên, không có
trƣờng hợp nào do mẹ chồng tạo nên. Trong các trƣờng hợp biểu hiện tính tích
cực trong quan hệ nàng dâu - mẹ chồng do cha mẹ chồng tạo nên, thể hiện tính
dân chủ, bình đẳng, nhƣng chỉ bộc lộ qua nhận thức chứ không phải là những
ứng xử cụ thể: nếu dâu mà hiền thì đƣợc coi nhƣ con, khi tính lƣợng ngƣời
trong nhà, con dâu con rể cũng đƣợc tính ngang hàng với con trai con gái.
Những nhận xét trên đây dẫn đến kết luận là ca dao đã phản ánh mâu
thuẫn trong gia đình ngƣời Việt trong xã hội phong kiến, chủ yếu bộc lộ qua
mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng. Mâu thuẫn này đƣợc thể hiện trên nhiều bình
diện của cuộc sống, từ vật chất tới tinh thần, với nhiều mức độ, mà cao nhất là
có thể dẫn đến hành động loại trừ nhau.
Tìm hiểu hoàn cảnh kinh tế - xã hội thời phong kiến, chúng ta có thể thấy
đƣợc nguyên nhân sâu sa của mâu thuẫn ấy. Nhƣ chúng ta đã biết, trong chế độ
94
phong kiến, lao động của ngƣời nông dân phần lớn mang tính đơn giản, năng
suất thấp, đòi hỏi nhiều sức lao động. Sống ở nông thôn mà nhà neo ngƣời thì
gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, các gia đình ở nông thôn rất cần nhân lực.
Theo chế độ phụ hệ, ngƣời phụ nữ khi lấy chồng phải theo chồng. Khi về nhà
chồng, ngƣời phụ nữ là một nhân lực đƣợc bổ sung, do vậy bao giờ nhà chồng
cũng tìm cách khai thác tối đa khả năng lao động mới ấy. Vì thế, đã hình thành
trong tâm lý cƣ dân nông thôn thói quen tận dụng sức lao động của ngƣời làm
dâu. Điều này đƣợc thể hiện qua nhiều câu ca dao, trong đó có những câu nói
rõ làm dâu nhà giầu thì khổ - chính là vì nhà giầu ở nông thôn thƣờng là những
gia đình bóc lột, và thói quen bóc lột ấy đã khiến những gia đình này càng áp
chế, tận dụng sức lao động của nàng dâu hơn các gia đình khác (nói về hôn
nhân, có 14 câu ca dao có từ tham). Để thấy rõ hơn đặc điểm về việc tận dụng
sức lao động của nàng dâu trong gia đình nông dân thời phong kiến, chúng ta
có thể liên hệ qua số phận của những anh chàng gửi rể, nhƣ:
Trời mƣa cho ƣớt lá khoai
Công anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nƣớc, cực lòng anh thay
Tháng chín mƣa bụi gió may
Cất lấy gàu nƣớc, hai tay rụng rời.
Có nghĩa là, ngay cả nam giới, khi đem thân ở nhà ngƣời khác (bố mẹ
vợ) thì cũng bị tận dụng sức lao động, cũng chịu cảnh sống tôi đòi chứ không
riêng gì nàng dâu. Mặt khác, về tâm lý, tình cảm, dù sao nàng dâu cũng chỉ là
ngƣời dƣng, về chung sống với gia đình nhà chồng đã "chiếm mất" ngƣời con
trai của gia đình, làm cho anh ta không còn tập trung tình cảm cho mẹ nhƣ
trƣớc, rất dễ trở thành đối tƣợng ghen ghét của mẹ chồng. Cộng vào đó là cuộc
sống cực nhọc, thiếu thốn, gò bó khiến các thành viên gia đình phải xoay tròn
trong một vòng sống có nhiều va chạm, thì mâu thuẫn nảy sinh là khó tránh
khỏi. Còn một nguyên nhân nữa, theo quan niệm Nho giáo, con dâu về nhà
phải "theo thói nhà chồng", nhà chồng cần dạy bảo cho nàng dâu cách sống
thật sự thích hợp với yêu cầu của gia đình mình, do vậy rất nghiêm khắc, thậm
chí đối xử nghiệt ngã với nàng dâu.
Dựa vào sự dẫn chứng, phân tích trên đây, chúng tôi thấy rằng nguyên
nhân thuộc về yếu tố kinh tế và tâm lý, tình cảm, cùng với ảnh hƣởng của Nho
giáo đã làm nảy sinh những tiêu cực nặng nề trong quan hệ nàng dâu nhà
chồng. Trong xã hội ngày nay, di chứng này còn ảnh hƣởng tới cuộc sống gia
đình hiện đại, tuy đã giảm bớt mức độ gay gắt.
95
Về những biểu hiện mang tính dân chủ trong quan hệ nhà chồng nàng
dâu, cũng chủ yếu xuất phát từ điều kiện xã hội nông thôn mà có. Đó là vì
ngƣời nông dân xƣa sống trong làng là chính, mà làng lại hình thành từ các
nhóm gia đình, gần gũi và thân thiết nhau. Với cơ cấu đặc biệt xóm, ngõ, giáp,
làng Việt là nơi cố kết các gia đình với nhau. Qua quá trình gây dựng quê
hƣơng, tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt. Cũng do các điều kiện kinh tế
- xã hội thời phong kiến, ngƣời nông dân thƣờng lấy vợ lấy chồng trong làng
trong xã, thế là những cô dâu, chú rể dù có trở thành thành viên của gia đình
khác, thì cũng có sự gần gũi của tình làng nghĩa xóm.
Tóm lại, quan hệ nàng dâu - nhà chồng dù là mang tính tích cực hay
mang tính tiêu cực, thì cũng đƣợc quy định bởi nhiều yếu tố kết hợp, gồm yếu
tố kinh tế - xã hội, yếu tố tâm lý, tình cảm, và yếu tố Nho giáo (ở một mức độ
nhất định).
4. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN
Tình yêu và hôn nhân là chủ đề muôn thủa của văn học. Qua các câu
chuyện về hôn nhân trong chế độ phong kiến, các tác giả đã phản ánh đƣợc
thực trạng cũng nhƣ quan niệm của xã hội về hôn nhân, trong đó phần lớn lên
án sự hà khắc của lễ giáo phong kiến, thứ lễ giáo đã làm thui chột tình yêu
chân chính của con ngƣời, dìm con ngƣời trong biển khổ của sự chia cắt nhân
duyên. Ca dao ngƣời Việt phản ánh khá sinh động tình trạng hôn nhân trong xã
hội phong kiến. Đã có một số nhà nghiên cứu đã đào sâu vào kho tàng ca dao
để tìm ra những vấn đề mang tính bản chất của hôn nhân trong xã hội phong
kiến.
Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:
"Cái tình yêu khăng khít, cái tƣơng tƣ nồng nàn, cái gắn bó keo
sơn của họ, rút cục, thƣờng chỉ đƣa đến một thất vọng chua cay.
Nguyên nhân của sự thất vọng là quyền áp chế của cha mẹ. Theo luân
lý phụ quyền thì cha mẹ có quyền tuyệt đối trong việc định hôn nhân
cho các con, vì hôn nhân không phải là công việc thụ hƣởng ái tình mà
chỉ là một khí cụ để nối truyền gia thống nên cha mẹ không để ý đến
cái yêu đƣơng của con trẻ." [63:125].
Trong Thi ca bình dân Việt Nam các tác giả phân tích quan niệm về gia
đình của ngƣời Việt Nam trong xã hội phong kiến nhƣ sau:
"Đối với ngƣời con gái, ý thức tại gia tòng phụ đƣợc thể hiện rõ
rệt nhất trong ca dao về phƣơng diện hôn nhân. Vì cho mình không có
96
quyền hạn gì trong việc lựa chọn, nên họ đã đem số phận tƣơng lai uỷ
thác vào quyết định của cha mẹ. [72:186].
"Dù trai gái có thƣơng yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám
nghĩ đến vƣợt quyền quyết định của mẹ cha!… Quyền định đoạt của
cha mẹ đối với con một cách độc đoán nhƣ vậy đã nảy sinh trong gia
đình Việt Nam, nhất là đối với việc hôn nhân, không biết bao nhiêu đổ
vỡ, mà kẻ chịu thảm nạn là ngƣời con gái, lớp ngƣời mà chế độ “tại gia
tòng phụ” của Khổng Mạnh đã dành sẵn cho họ.… Dù trai gái có
thƣơng yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám nghĩ đến vƣợt quyền
quyết định của mẹ cha!... Hễ cha mẹ không bằng lòng thì hôn nhân của
đôi lứa phải tan vỡ, dù trai gái đã thƣơng nhau đến bực nào. Ngƣợc lại,
khi cha mẹ bằng lòng, dù trai gái không thƣơng nhau cũng phải lấy
nhau. [72:187].
Trong Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca dao Việt Nam,
Hằng Phƣơng viết:
"... ở nƣớc ta, dƣới chế độ phong kiến, việc hôn nhân của con đều
do cha mẹ quyết định: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.” [122:2].
“Thời phong kiến hầu hết cha mẹ thƣờng quan niệm mình có toàn
quyền lo liệu hôn nhân cho con. Không đếm xỉa đến những nguyện
vọng mơ ƣớc của tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình con sau này.’’ [122:7].
Tác giả đã trích dẫn ca dao để khái quát thành 7 vấn đề lớn nói lên những
mặt tiêu cực trong hôn nhân, gia đình dƣới chế độ phong kiến là: Những nỗi lo
âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xƣa, Cƣỡng ép hôn nhân, Tảo hôn,
Đa thê, Cảnh goá bụa, Mẹ chồng nàng dâu, Mẹ ghẻ con chồng, Không dân chủ
trong gia đình.
Trong Tục cưới hỏi, các tác giả Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo viết:
"Trong xã hội cũ, cha mẹ đóng vai trò quan trọng, quyết định
cuộc đời của các đôi nam nữ thanh niên. Với những gia đình nền nếp,
có gia giáo thì '’cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", và gia đình hai bên phải
"môn đăng hộ đối" [79:5].
Trong Tục ngữ, ca dao Việt Nam, Mã Giang Lân viết:
"Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động đƣợc thể hiện
bằng những tình cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp phong kiến muốn
bóp chết những tình cảm hồn nhiên, lành mạnh ấy. Vì vậy trong ca dao,
bên cạnh tiếng hát ƣớc mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng
kêu đau khổ xót xa về những trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do
nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan trai gái không hợp tính nết nhau
97
hoặc ngập ngừng e ngại, nhƣng phần lớn là do những nguyên nhân xã
hội do xã hội phong kiến gây ra.… Và cũng dễ hiểu, trong ca dao có
nhiều bài phản ánh tinh thần đấu tranh để bảo vệ tình yêu chân chính
của những “chàng trai” và “cô gái”.
"Những câu ca dao về chủ đề hôn nhân và gia đình biểu hiện các
mối quan hệ đẹp đẽ giữa tình cảm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em,
họ hàng… Cho nên lời than thở của ngƣời phụ nữ về số phận của mình
dƣới chế độ phong kiến là âm điệu chủ yếu của mảng ca dao này."
[70:7].
Vũ Ngọc Phan viết:
"Nhƣng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân
dân, tƣ tƣởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo.
Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ƣng thuận, thì họ cũng không
kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh." [114:339].
Qua một số ý kiến dẫn ra trên đây, chúng tôi thấy có hai cách đánh giá
khác nhau: cách thứ nhất nhận định trai gái nƣớc ta hoàn toàn chịu phục tùng
lễ giáo phong kiến trong hôn nhân, cách thứ hai nhận định có sự đấu tranh
chống lại lễ giáo phong kiến. Qua khảo sát ca dao về hôn nhân, chúng tôi thấy
rằng ngƣời Việt có cách thức ứng xử nhiều chiều, có khi tuân phục lễ giáo
phong kiến, có khi bung phá, cũng có khi lƣỡng lự suy xét để hành động theo
lẽ thƣờng tình của quan hệ gia tộc.
Sau đây là một số điểm cần chú ý về số lƣợng:
Tổng số câu ca dao nói về hôn nhân: 171 câu.
Trong đó:
+ Thể hiên sự cam chịu: 38 câu
+ Thể hiện sự trách móc: 34 câu
+ Thể hiện quyền của cha mẹ: 5 câu
+ Thể hiện sự phản kháng: 17 câu
+ Thể hiện sự chủ động: 35 câu
+ Thể hiện sự lƣỡng lự: 21 câu
+ Thể hiện sự tự giác: 18 câu
Tổng hợp lại, có thể chia thành 4 loại thái độ:
+ Chịu sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 76 câu
+ Chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 53 câu
+ Giữ đúng bổn phận làm con theo lẽ thƣơng tình: 36 câu.
+ Thể hiện sự dân chủ trong hôn nhân: 6 câu.
98
Nhƣ vậy, số câu thể hiện sự áp đặt của lễ giáo phong kiến về hôn nhân và
con phải chấp nhận là 76, số câu thể hiện ngƣợc lại hoặc khác với sự áp đặt là
95 câu. Nhìn vào số lƣợng các câu ca dao “trái chiều” nhau, cho thấy nhận
định rằng qua ca dao thấy rõ con hoàn toàn chịu sự áp chế của cha mẹ là
không đúng.
Sau đây, chúng ta tìm hiểu chi tiết hơn các tình huống ứng xử về hôn
nhân trong gia đình ngƣời Việt thể hiện qua ca dao.
4.1. Hôn nhân chịu sự chi phối của lễ giáo phong kiến
Qua 76 câu ca dao thể hiện sự cam chịu của con trƣớc sự áp đặt của cha
mẹ trong hôn nhân, chúng tôi rút ra các tình huống nhƣ sau:
TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON HẬU QUẢ
1. Đƣợc hỏi làm
vợ
Chê bai Bảo đem lễ về
2. Bị gả bán (2
câu)
Trách chồng Đau lòng
3. Đƣợc tỏ tình Không đồng tình Không dám cãi
4. Bị phụ tình (2) ép gả Ham quyền quý Lìa nhau
5. Yêu nhau Không đồng tình Thất ƣớc Lấy chồng xa
6. Muốn gặp
nhau
Sợ mẹ cha Không gặp
7. Đang gặp nhau Sợ mẹ cha Bảo về
8. Yêu nhau Không cho Khóc rồi về
9. Phải lòng nhau Rình Không làm quen Quên nhau
10. Yêu nhau Không đồng tình Cầu xin Sầu, than
11. Yêu nhau Không đồng tình Khóc Khổ
12. Quen nhau Nghiêm khắc ít đến Nhạt tình
13. Bị gả bán (3) Bực
14. Yêu Thách cƣới Mặc tình Tiếc công
15. Khuôn phép Không lai vãng Quên nhau
16. Tham việc tiếc
công
Không lo lấy
chồng
17. Gả chồng Không phản ứng Sầu
18. Yêu Ngăn cấm Đăm chiêu Sầu
19. Yêu nhau Ngăn cấm Nghe theo
99
20. Yêu nhau Ngăn cấm Không lấy đƣợc
nhau
21. Hỏi vợ Không ƣa Trách
22. Không chiều Trách
23. Yêu nhau (2) Không lo cho Trách Xa nhau
24. Yêu nhau Ngăn cấm Trách Xa nhau
25. Yêu nhau Chọn nhầm Trách
26. Yêu nhau Quá lời Trách Bỏ rời
27. Bị ép gả ÉP, dỗ dành Xót xa Vợ chồng xung
khắc
28. Kén rể Lâu duyên con
29. Yêu nhau Không rõ thái độ Chờ đợi
30. Xa nhau Nghĩ không sâu Trách Sầu, nhớ
31. Bị ép duyên Trách Sầu
32. Bị gả bán Tham vàng Trách Sầu
33. Xa nhau Tham giầu
34. Gả không đúng chỗ Trở về
35. Lấy chồng
miền biển
Ham ăn ngon Xa quê
36. Xứng đôi Nói không Rời duyên
37. Xa nhau
38. Yêu nhau Theo hủ tục Lƣỡng lự
39. Cách phân Xui khiến Không bén duyên
40. Bị ép gả ÉP vào Chấp nhận Gắn bó
41. Bị ép gả Tham giàu
42. Bị ép gả Đau đớn
43. Lỡ thì
44. Chồng già Tham tiền Oán Tủi
45. Bội ƣớc
46. Mới bén
duyên
Cầm duyên Trách
47. Bị cắt duyên
48. Chồng thấp
vợ cao
Tham lam
49. Chồng thấp,
trẻ con (2)
Tham lam Trách Tủi
100
50. Bị gả về
giồng
Than phận Không kham đƣợc
gánh gồng
51. Bị đòn Tham lam
52. Bị chồng
đòn
Tham lam
53. Hợp đôi Không tính Trách
54. Bị ép duyên Đắng cay
55. Bị ép duyên Tham lam Bị làm lẽ
56. Bị cầm
duyên
Tham, thách cƣới Chờ đợi Bị giảm giá trị
57. Tham giầu Trách Bị gả đi xa
58. Bực Ra đất ngƣời
76 câu ca dao với 58 tình huống thể hiện sự cam chịu của con cái trƣớc
sự áp đặt của cha mẹ về hôn nhân chứng tỏ vai trò của cha mẹ đối với con cái
trong các gia đình nông dân dƣới thời phong kiến rất quan trọng. Bố mẹ đƣợc
sự hỗ trợ của tƣ tƣởng phong kiến đã tạo ra đƣợc uy quyền chi phối hôn nhân
của con cái. Xem các tình huống cam chịu đƣợc kê ở bảng trên, chúng ta cần
chú ý rằng số tình huống cha mẹ tham của cải, tham gả con cho nhà giầu
chiếm tỷ lệ cao. Điều đó nói lên vật chất ở thời phong kiến đã là thứ đặt cƣợc
cho hạnh phúc của gái trai.
Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:
1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó
Chịu khó bƣng về
Em thƣơng anh thảm thiết trăm bề
Heo vay cau tạm áo mƣợn võng thuê
Thầy mẹ em nay nhún mai trề
Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo.
2. Em thƣơng anh, cha mẹ không cho
Tìm nơi khuất tịch, khóc no rồi về.
3. Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình
Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.
4. Thƣơng nhau chẳng lấy đƣợc nhau
Mẹ cha trồng sậy, trông lau ngăn rào.
5. Ba tàn ba heó vì cây
Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.
6. Bác mẹ em vội tham vàng
101
Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con
Trƣớc thời thẹn với nƣớc non
Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày
Khi vui có bác mẹ thầy
Cơn sầu em chịu đắng cay một mình
Mang thơ ra dán cột đình
Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?
Phong ba nổi giữa đất bằng
Một dây một buộc ai dằng cho ra!
Thiết gì một cảnh vƣờn hoa
Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?
Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy
Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!
7. Anh đi về đi, kẻo thầy em dứt, kẻo mẹ em la
Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì!
8. Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng
Hàng Mật, Hàng Đƣờng, Hàng Muối trắng tinh
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mƣơi phen
Làm quen chẳng đƣợc làm quen
Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.
Tình huống phổ biến là các đôi trai gái yêu nhau (26 trong 58 tình huống)
và bị cha mẹ ngăn cấm hoặc không đồng tình, do đó họ phải rời xa nhau, để rồi
buồn thảm, than khóc. Tuy vậy, trạng thái của các tình huống này không căng
thẳng lắm, không thể hiện sự áp chế gay gắt. Cách thức phản ứng của các đôi
trai gái trong các tình huống này mang tính buông xuôi. Nhƣ vậy, hậu quả mà
họ gánh chịu có phần do họ chứ không phải hoàn toàn do bị áp chế. Trong 8
câu ca dao dẫn ra trên đây, chúng ta thấy rằng trƣớc tình yêu của những đôi
trai gái, cha mẹ họ không tỏ thái độ quá gay gắt, mà chỉ ở mức vừa phải (nay
nhún mai trề, không cho, nghiêm khắc, ngăn rào) mà họ đã buông xuôi (không
nỡ, khóc, ít lai vãng), không vƣợt lên khỏi hoàn cảnh để đi đến với nhau.
Trong những trƣờng hợp này, chúng ta có thể quy trách nhiệm cho lễ giáo
phong kiến quá hà khắc, khiến con cái phải hy sinh tình yêu để giữ tròn chữ
hiếu với cha mẹ, cũng do điều kiện khá cô biệt của làng khiến các đôi trai gái
bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với gia tộc, xóm giềng, bị sức mạnh của
dƣ luận đè nén, không dễ gì bung phá để đến với nhau, nhƣng cũng có thể
nhận xét rằng tình yêu trong các trƣờng hợp này chƣa đủ mạnh tạo nên sự
102
bung phá cho các đôi uyên ƣơng. Sự căng thẳng diễn ra qua 16 tình huống mà
trong đó cha mẹ gả bán, cầm duyên, ép buộc cũng nhận đƣợc phản ứng không
mấy mạnh mẽ (sầu, cay đắng). Những điều dẫn ra trên đây hoàn toàn trái
ngƣợc với các tình huống dẫn ra trong mục sau thể hiện tình yêu mãnh liệt của
trai gái, khiến họ bất chấp tất cả để bảo vệ tình yêu của mình.
Về quyền cha mẹ trong hôn nhân, có bốn câu ca dao nói trực tiếp, trong
đó có hai câu thể hiện cách thức sử dụng quyền ấy nhƣ sau:
1. Con ta gả bán cho ngƣời
Cờ ai nấy phất chứ chơi đâu mà.
2. Nuôi con những tƣởng về sau
Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi
Mực đen vô giấy khó chùi
Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.
Đó là hai lối suy nghĩ trái ngƣợc nhau, một là theo lối gia trƣởng, áp đặt
hôn nhân, hai là theo lối dân chủ có trách nhiệm với hạnh phúc của con. Nhƣ
vậy, ngay trong quan niệm của dân gian về quyền của cha mẹ trong hôn nhân
cũng có sự đa dạng, không phải là một chiều theo lễ giáo phong kiến.
4.2. Nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến
Qua 53 câu ca dao thể hiện sự chống lại của nam nữ đối với lễ giáo
phong kiến, chúng tôi rút ra 47 tình huống nhƣ sau:
TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON KẾT QUẢ
1. Yêu nhau Không bằng lòng Vẫn yêu
2. Chƣa chồng Tự liệu Kịp duyên
3. Yêu nhau Đánh đập Quyết lấy nhau
4. Bị gả bán Xin hoãn
5. Yêu nhau Đánh, ngăn Không xa nhau
6. Yêu nhau Đánh, ngầy Vẫn đi Gặp nhau
7. Bị ép gả Tìm cách thoát
8. Yêu nhau (3 câu) Đánh Vẫn yêu
9. Yêu nhau Doạ thả trôi bè Không sợ Lôi nhau về
10. Yêu nhau Chia rẽ Mặc Giữ lời nguyền
11. Bị ép gả Gả bừa Liều mình Thoát
12. Yêu nhau Chửi mắng Không sợ Càng yêu
13. Yêu nhau Đánh, chê Không nghe Quyết lấy
14. Bị ép gả Đòi tự vẫn
103
15. Yêu nhau Đánh, đày Thà chịu chết Thuỷ chung
16. Đi lấy chồng (2) Lạy cha mẹ, xin
của
17. Yêu nhau Giấu cha mẹ
18. Yêu nhau Không thƣơng Lạy. Nhờ hàng
xóm
19. Yêu nhau Quên công cha mẹ Theo nhau
20. Yêu nhau Xe ít Xe nhiều. Nhờ xe
21. Yêu nhau Không thƣơng Vẫn đợi
22. Yêu nhau Phải theo
23. Yêu nhau Cấm đoán Vẫn sắm sửa Đi lấy chồng
24. Lấy chồng Răn dạy Xin vốn làm ăn
riêng
25. Yêu nhau Nghe theo Không chê nghèo
26. Yêu nhau Kén Không ngại
27. Cấm đoán Sắm sửa Đi lấy chồng
28. Cấm đoán Xin đừng cấm
29. Yêu nhau Nói Mặc Thƣơng lâu dài
30. Yêu nhau Tin rằng cha mẹ
cũng ƣng
31. Lấy chồng Để mẹ cho anh trai Theo chồng
32. Yêu nhau Bỏ mẹ ra đi Thất hiếu
33. Yêu nhau Dấu cha mẹ Đƣa anh về
34. Yêu nhau La rầy Không bỏ
35. Yêu nhau Thƣơng hay không Vẫn lấy nhau
36. Yêu nhau Vấn vƣơng Lỗi đạo
37. Thƣơng chồng Lạy mẹ Theo chồng
38. Thờ cha kính mẹ Theo đôi lứa Thành thất gia
39. Lấy chồng Để mẹ cho em Không sai chữ
tòng
40. Lấy chồng Để mẹ cho con trai Gắn bó với chồng
41. Yêu nhau Cắp nhau đi Đền công cha mẹ
sau
42. Yêu nhau Dối mẹ
43. Yêu nhau Thƣơng chàng hơn
44. Yêu nhau Ngồi không yên Than thở
104
45. Lấy chồng Kêu Lạy. Thƣơng chồng Theo chồng
46. Yêu nhau Đánh mắng Không sợ Tung chiếu ra đi
47. Yêu nhau Lấy nhau
47 tình huống nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến nêu
trên phản ánh tính chất quyết liệt của hai xu hƣớng - xu hƣớng tự do hôn nhân,
và xu hƣớng ép hôn nhân vào trật tự của lễ giáo phong kiến. 47 tình huống ấy
đƣợc thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau.
Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:
1. Con lạy cha hai lạy một quỳ
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng
Mẹ sắm cho con yếm nhuộm nhất phẩm hồng
Thắt lƣng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay.
2. Dầu thầy mẹ không thƣơng
Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đƣờng lạy vô
Lạy cùng ông bác bà cô
Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ
Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ
Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.
3. Đôi ta nhƣ chỉ xe ba
Thầy mẹ xe ít thì ta xe nhiều
Đôi ta nhƣ chỉ xe năm
Thầy mẹ xe ít ta cầm ta xe
Đôi ta nhƣ chỉ xe mƣời
Thầy mẹ xe ít, mƣợn ngƣời ta xe.
4. Em thƣơng anh cha mẹ cũng phải theo
Chiếc tàu buồm kia đang chạy, quăng neo cũng ngừng.
5. Thƣơng nhau cắp quách nhau đi
Công cha nghĩa mẹ sau thì hãy hay.
6. Thờ cha, kính mẹ đã đành
Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.
7. Rƣợu ngon một chén cũng ngon
Thầy mẹ thƣơng con cũng gả, không thƣơng con cũng gả
Con thiên lí mã, con vạn lí vân
Biết rằng hai họ giao lân
Bốn sui gia ngồi lại, thiếp gửi thân cho chàng.
8. Tay đeo khăn gói qua sông
105
Mẹ ôi lạy mẹ thƣơng chồng phải theo.
9. Vai mang khăn gói theo chồng
Mẹ kêu con dạ, trở vào lạy mẹ cùng cha
Xƣa kia con ở nội gia
Bây giờ con xuất giá tùng phu, nội gia tùng phụ
Sách có chữ: tam cƣơng thƣờng ngũ
Ngoài bìa có chữ phu phụ đạo đông
Thƣơng cha, nhớ mẹ, đạo thƣơng chồng phải theo.
10. Nơi mô em hãy chí quyết một nơi
Mẹ già không há dễ sống đời nuôi con.
Thống kê qua bảng trên cho thấy có 31 trƣờng hợp thể hiện rõ tình yêu
qua 47 tình huống ứng xử, và thái độ của cha mẹ cũng rất cứng rắn: ngăn cấm,
doạ nạt, đánh đập, doạ thả bè trôi sông, gả bừa. Đáp lại, thái độ của con vừa
khôn khéo vừa quyết liệt: lúc thì cầu xin, lúc thì vận động cả họ hàng giúp đỡ,
lúc thì mặc kệ, bỏ qua mọi rào cản để đến với nhau, dẫn đến kết quả là đạt
đƣợc ƣớc nguyện tình duyên. Qua 10 câu ca dao dẫn ra trên đây, thấy khi yêu
nhau mãnh liệt, các đôi trai gái đã vận dụng mọi biện pháp để đạt đƣợc nguyện
vọng của mình. Trong họ, giáo lý Khổng Mạnh và những quy định quản lý
nghiệt ngã ở làng xã không có tác dụng khống chế hoặc dẫn dắt hƣớng ứng xử,
mà chỉ có tiếng gọi của tình yêu (mặc dù có khi giáo lý này đƣợc gọi tên ra).
Và cũng chính tình yêu đã dẫn đến hôn nhân - ngƣời con gái “lạy mẹ” để đi
“lấy chồng”, không những lạy cha mẹ, mà họ còn lạy chú bác, họ hàng, làng
xóm, họ nhờ bất cứ ai có thể nhờ đƣợc trong việc xe duyên cho họ, cho đến khi
cha mẹ “cũng phải theo”, còn không thì họ “cắp quách nhau đi”, (và quyết liệt
hơn, trong Kho tàng ca dao xứ Nghệ còn có câu: "Cha mẹ dù có chặt chân chặt
tay/Khoét mặt, khoét mày cũng trốn theo anh.")
Không những thế, họ còn nêu lên triết lý là “Theo đôi, theo lứa mới thành
thất gia.” Đây là cách lập luận mang tính duy vật, phù hợp với quy luật của tự
nhiên, của xã hội, là một đòn tấn công vào lễ giáo phong kiến bắt con ngƣời
phải thành thất gia mà không cần biết có thƣơng yêu nhau hay không. Cũng vì
dựa trên lập luận vững chắc nhƣ thế, những đôi trai gái Việt xƣa đã đi đến
đƣợc hôn nhân trong tình yêu, và ngƣời phụ nữ đƣợc theo chồng (có 23 trƣờng
hợp nói rõ kết quả của tốt đẹp ấy, nhƣ đi lấy chồng, cắp nhau đi, gửi thân cho
nhau, theo chồng, lôi nhau về). Đáng lƣu ý là khái niệm theo chồng cuả dân
gian không trùng khớp khái niệm tòng phu của triết thuyết Nho giáo - theo
chồng vì thƣơng, vì đạo nghĩa là chính chứ không phải vì phục tòng (nội dung
Đạo thƣơng chồng, Tình và nghĩa vợ chồng đã đƣợc đề cập trong mục Quan
106
hệ vợ chồng). Nhƣ thế, nhận định của Nguyễn Bách Khoa về hôn nhân trong
chế độ phong kiến Việt Nam thể hiện qua ca dao: "Đã trót yêu nhau mà gặp sự
ngăn trở của cha mẹ thì chỉ còn một cách là lìa nhau cho tròn chữ hiếu. Ở
những trƣờng hợp ấy thì trai gái đều phải phục tòng gia đình, nhƣng trong lòng
họ hậm hực lắm." [53:126] là nhận định không chính xác.
4.3. Nam nữ cƣ xử theo lẽ thƣờng tình.
Qua 36 câu ca dao phản anh về hôn nhân thể hiện cách cƣ xử theo lẽ
thƣờng tình, không bị trói buộc bởi triết thuyết, lễ giáo nào, chúng tôi thống kê
thành 29 tình huống nhƣ sau:
TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON KẾT CỤC
1. Yêu nhau Chƣa rõ Ngại ngùng Chờ ý cha mẹ
2. Yêu nhau Đợi quyền cha mẹ
3. Muốn trao
duyên
Sợ lòng mẹ cha
4. Lựa chọn tình
hiếu
Lƣỡng lự
5. Lựa chọn
chồng
Chƣa rõ Hỏi mẹ cha
6. Muốn làm
quen
Sợ bác mẹ
7. Yêu nhau Chƣa rõ Sợ mẹ thầy
8. Yêu nhau Hỏi có nghĩ đến cha
mẹ mình không
9. Lựa chọn Ngăn cấm Lƣỡng lự Day dứt
10. Lựa chọn Chƣa rõ Lƣỡng lự Day dứt
11. Lấy chồng Nghĩ cách đền ơn
12. Lựa chọn (2) Thƣơng cha mẹ, lo
duyên
Day dứt
13. Gả chồng Lo xa nhà
14. Lựa chọn Chƣa rõ Băn khoăn Chờ ý cha mẹ
15. Yêu nhau Băn khoăn Bỏ đi theo
chồng
16. Lựa chọn Kêu gọi Nghe cả hai Dùng dằng
17. Đƣợc hỏi làm
vợ
Nghĩ đến hiếu trung Bảo về
18. Có ngƣời tỏ Nghĩ đến cha mẹ Không tự tình
107
tình (3)
19. Chờ đợi Nuôi phụ mẫu Không sợ già
20. Chờ đợi Đền hiếu trung
21. Có ngƣời tỏ
tình
Dò ý cha mẹ Bảo chờ
22. Bị thách cƣới Thách cƣới Đáp ứng
23. Đƣợc tỏ tình Chờ ý cha mẹ Bảo chờ
24. Yêu nhau Nhớ công ơn cha mẹ Cúi luồn cha mẹ
25. Chƣa chồng Nhớ công ơn cha mẹ ở vậy lo phận
con
26. Yêu nhau Chờ lệnh mẹ cha Cùng chờ
27. Có ngƣời tỏ
tình
Để tang cha mẹ Không đáp lại
28. Có ngƣời tỏ
tình
Nhớ nghĩa vụ với cha
mẹ
Không sợ lỡ
duyên
29. Để tang cha
mẹ
Hỏi có chờ không
Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:
1. Ơn hoài thai nhƣ biển
Ngãi dƣỡng dục, tợ sông
Em nguyền ở vậy phòng không
Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.
2. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non
Hai ta là đạo làm con
Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.
3. Chớ lo nốc nát, ván hà
Gắng thân nuôi phụ mẫu, duyên già có anh.
4. Phụ mẫu sơ sanh, hãy để ngƣời định
Trong việc vợ chồng, phải chờ lịnh mẹ cha
- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy
Nhƣng em phải hứa chắc một lời, anh sẽ cậy mai dong.
5.. Thuyền em lựa bến cắm sào
Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.
6. Lênh đênh nửa nƣớc nửa dầu
Nửa thƣơng cha mẹ nửa sầu căn duyên.
108
Điều đáng quan tâm là trong loại tình huống thể hiện sự cƣ xử theo lẽ
thƣờng tình của con trƣớc việc hôn nhân, là trạng thái yêu có tần số thấp hơn
các loại tình huống nói ở các mục trên - có 28 tình huống thì chỉ có 7 tình
huống thể hiện tình yêu đã nảy nở giữa các đôi trai gái, còn đa số thể hiện tình
trạng mới chớm nở của tình yêu (21 trƣờng hợp phản ánh tình trạng mới làm
quen, mới đƣợc tỏ tình, đang lựa chọn đối tƣợng…), còn thái độ của cha mẹ
hầu hết trong các trƣờng hợp là chƣa rõ (26 trong tổng số 29 tình huống).
Ngƣời bộc lộ suy nghĩ trong các tình huống nói trên chủ yếu là con - họ nghĩ
về sự phản ứng của cha mẹ nếu biết đƣợc ý định tiến tới hôn nhân của họ.
Nhìn chung, họ sợ cha mẹ không đồng tình thì ít (4 trƣờng hợp) mà đợi ý mẹ
cha thì nhiều (7 trƣờng hợp), hơn nữa, họ nghĩ đến trách nhiệm của con đối với
cha mẹ là nhiều hơn cả (11 trƣờng hợp). Trong 6 câu ca dao trích dẫn trên đây,
thấy nổi bật là trách nhiệm của con đối với cha mẹ, trong đó, con lo đến việc
đền đáp công ơn cha mẹ và chờ ý kiến cha mẹ rồi mới tính đến hôn nhân. Đặc
biệt trong câu thứ ba, đã nói lên một cách mộc mạc mà sâu sắc sự tự giác, thấu
tình đạt lý của ngƣời nông dân về quan hệ giữa tình và hiếu: cứ lo cho cha mẹ,
dù “duyên già” thì đã "có anh". Đó là cách thức ứng xử phù hợp với truyền
thống kính trọng mẹ cha của dân tộc. Trong trƣờng hợp bị chi phối bởi bên
tình bên hiếu, các đôi trai gái dùng dằng, lƣỡng lự. Điều đó cũng cho thấy họ
sống theo lẽ thƣờng tình, không bị chi phối quá mạnh mẽ bởi học thuyết Nho
giáo, bởi vì Nho giáo quy định rằng con phải nghe lời cha, cha bảo chết mà
không chết là bất hiếu. Sự dùng dằng, lƣỡng lự “nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu
căn duyên”, “Mẹ kêu khốn tới, thƣơng chồng khốn lui” cho thấy rằng cái có
sức chi phối họ chủ yếu là cái tình chứ không phải là cái lý.
4.4. Tính dân chủ trong hôn nhân.
Giá trị đích thực của hôn nhân phải đƣợc xuất phát từ tình yêu gái trai,
không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, sang giầu, tôn giáo, cũng nhƣ thành
phần xuất thân. Tiến tới hôn nhân là quyền lựa chọn của đôi trai gái. Một khía
cạnh của dân chủ trong hôn nhân đƣợc biểu hiện ở sự lựa chọn đó. Ca dao là
tâm tƣ tình cảm của ngƣời lao động, mà dƣới thời phong kiến chủ yếu là ngƣời
nông dân. Môi trƣờng lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần
cho xã hội của những con ngƣời đồng cảnh đã nuôi dƣỡng tinh thần dân chủ.
Tuy nhiên, ý thức hệ của giai cấp thống trị đã ảnh hƣởng mạnh vào cơ tầng xã
hội và ý thức của ngƣời nông dân. Một mặt, họ muốn sống nhƣ cuộc sống vốn
có của họ, mặt khác, họ lại muốn lấy mô thức của giai cấp thống trị họ làm cái
đích để hƣớng tới. Do vậy, ca dao có cả mặt tiêu cực và tích cực của ý thức hệ
thống trị và bị trị. Có điều, liều lƣợng của hai loại này ẩn chứa trong đó là bao
109
nhiêu, khó có thể đo đếm đƣợc. Ta thử xem tính dân chủ trong hôn nhân đƣợc
thể hiện qua 6 câu ca dao dƣới đây:
1. Đôi ta nhƣ ngọn nhang trần
Không cha không mẹ muôn phần cậy ai?
2. Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Ngƣời còn thì của cũng còn
Để ngƣời ban bảo vuông tròn nhân duyên.
3. Sông Thanh nƣớc chảy lờ đờ
Con đi lấy chồng, mẹ biết nhờ ai?
4. Xiết bao bú mớm bù chì
Đến khi con lớn con đi lấy chồng
Có con đỡ gánh đỡ gồng
Con đi lấy chồng, vai gánh tay mang!
5. Khi đi mẹ đã dặn rồi
Đi thì đi một về đôi mẹ mừng.
6. Trách cha, trách mẹ em lầm
Cho nên em phải khóc thầm hôm mai
Trách chàng chẳng dám trách ai
Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơm.
Câu ca dao thứ nhất và thứ hai cho thấy rằng trong quan niệm của ngƣời
Việt xƣa, không phải lúc nào cha mẹ cũng là rào cản của con trong chuyện hôn
nhân. Rõ ràng, cha mẹ là chỗ để con nhờ cậy, nhờ cha mẹ ban bảo thì nhân
duyên mới đƣợc vuông tròn, có nghĩa là chính cha mẹ không những là ngƣời
nuôi dạy mà còn là ngƣời tác thành cho đôi lứa. Câu ca dao thứ ba và tƣ cho
thấy sự hẫng hụt của cha mẹ khi con đi lấy chồng, và lúc này, ngƣời phải cam
chịu là cha mẹ chứ không phải là con. Ngƣời mẹ ngẩn ngơ nhìn con theo
chồng, chỉ còn than thở “biết ở với ai!”, và xác định ngay cách sống phù hợp
là tự lực nuôi sống bản thân “vai gánh, tay mang”. Đến câu thứ năm, tính dân
chủ trong quan niệm về hôn nhân của ngƣời Việt xƣa đã thể hiện rất rõ. Câu ca
dao này gợi nên hình ảnh một ngƣời mẹ nhân từ, khi thấy con đi xa về vẫn
không cùng ai, đã mỉm cƣời hiền hậu mà trách nhẹ về sự không về đôi cuả
con. Nhƣ vậy là, ngay trong lòng chế độ phong kiến, ngƣời nông dân đã có
quan niệm tự do lựa chọn hôn nhân, sự lựa chọn ấy thuộc về con, trái ngƣợc
hẳn với quan niệm của lễ giáo phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Quyền
tự do hôn nhân có trƣờng hợp đƣợc mở đến vô cùng! Câu ca dao cuối cùng
thoạt nghe tƣởng rằng cha mẹ đã can thiệp thô bạo vào chuyện tình duyên cuả
110
con, nhƣng đọc kỹ mới thấy rằng chính ngƣời con trai đã mƣợn thành kiến về
vai trò của cha mẹ trong chế độ phong kiến để đổ lỗi cho cha mẹ, khi chính
bản thân mình mới là ngƣời phụ tình. Anh chàng láu lỉnh ấy mặc dù đã đem
bức bình phong của lễ giáo phong kiến ra che chắn, vẫn không qua đƣợc đôi
mắt tinh tƣờng của ngƣời con gái để rồi đƣợc vạch mặt một cách tinh tế: anh
mới là ngƣời chê hoa nhài không thơm, anh mới là ngƣời tự chặt đứt duyên
tình!
Chúng ta có thể đặt câu hỏi vì sao ngay trong lòng xã hội phong kiến với
những giáo lý khắt khe, quan niệm và cách ứng xử trên bình diện hôn nhân thể
hiện qua ca dao lại đa chiều, trong đó có những yếu tố dân chủ nhƣ vậy? Có
thể tìm thấy câu trả lời khi xem xét hoàn cảnh xã hội mà trong đó ca dao ra đời
và đƣợc lƣu truyền đến ngày nay. Nho giáo hay lễ giáo phong kiến dù có hàng
ngàn năm thống trị, vẫn không thể lan toả vào mọi ngõ ngách của cuộc sống,
trong đó, nông thôn là địa hạt còn bị bỏ ngỏ nhiều. Đó là vì nông thôn Việt
Nam có một cơ cấu xã hội đặc thù, một cơ cấu mà trong đó làng tồn tại có tính
độc lập tƣơng đối, có phong tục tập quán đƣợc lƣu truyền từ lâu đời, là tấm rào
cản làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai
(nhƣ Nho giáo từ phƣơng Bắc sang).
Trong thời phong kiến ở Việt Nam, giao thông kém phát triển, phƣơng
tiện vận tải cũng nhƣ phƣơng tiện truyền thông còn thô sơ, cho nên giao tiếp
với thành thị thì khó, mà giao tiếp trong nội bộ làng quê lại thật dễ dàng. Đàn
ông, đàn bà không bị phân biệt sâu sắc về phân công lao động, về các nguyên
tắc của lễ giáo phong kiến, cho nên nguyên tắc thụ thụ bất thân khó mà vận
hành đƣợc ở đây. Họ cùng lao động, đặc biệt là lao động trong một môi trƣờng
phóng khoáng là đồng ruộng, thì sự gặp gỡ, giao duyên để đi tới tình yêu và
hôn nhân là điều không khó. Cộng vào đó, các sinh hoạt hội hè, đình đám, các
đêm xem diễn chèo ở đình làng... đều là điều kiện thuận lợi cho nam nữ gặp
gỡ, giao duyên. Ca dao chủ yếu phát sinh từ nông thôn, cho nên phản ánh chân
thật về tình yêu, hôn nhân theo cái phóng khoáng của thôn quê cũng là lẽ tất
yếu. Thật vậy, theo chúng tôi thống kê, trong số 11.825 đơn vị ca dao, có tới
5.682 đơn vị nói về giao duyên nam nữ. Họ giao duyên trong môi trƣờng rộng
mở của đồng ruộng, của bờ sông, bãi dâu, của giếng nƣớc, đầu đình… Thống
kê qua 6.862 đơn vị ca dao về giao duyên nam nữ và về gia đình, chúng tôi
thấy có 4.383 lƣợt đơn vị có chứa các từ chỉ khung cảnh nông thôn bình yên
với những cánh cò, đàn chim, cây đa, bến nƣớc, con đò, cây, hoa lá… (94 đơn
vị có từ ruộng, đồng, 123 đơn vị có từ vƣờn, 653 đơn vị có từ thuyền, đò, bến,
494 đơn vị có từ sông, 93 đơn vị có từ đình, chùa, 36 đơn vị có từ cây đa,
111
1.452 đơn vị có từ lá, cây, cành, hoa, quả, tre, trúc, 385 đơn vị có từ trầu, cau,
74 đơn vị có từ lúa, thóc, 387 đơn vị có từ chim, cò, 82 đơn vị có từ trâu, bò,
320 đơn vị có từ cá). Có nghĩa là khung cảnh phổ biến mà trong đó nảy nở
duyên tình, dẫn đến hôn nhân của các đôi trai gái đƣợc phản ánh trong ca dao
là thiên nhiên, một thiên nhiên thuần khiết của nông thôn, không bị chi phối
bởi những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe nào, nó tạo điều kiện cho con
ngƣời sống cởi mở, chân thành với tình cảm dào dạt. Số lƣợng từ khá lớn về
thiên nhiên nói trên cũng đồng thời cho ta thấy cuộc sống của ngƣời Việt xƣa
chính là một cuộc sống nông nghiệp trồng lúa nƣớc gắn với sông nƣớc, đồng
ruộng. Có điều, trong khi sử dụng nhữug từ “thuần nông” nhƣ trên để diễn tả
tình yêu lứa đôi, các tác giả dân gian đã thi vị hoá và phi vật chất hoá nghĩa
của chúng, khiến chúng vừa gần gũi với cuộc sống của ngƣời nông dân, vừa
bay bổng lên trong tình yêu và khát vọng hạnh phúc của con ngƣời. Chẳng
hạn, từ cá, đƣợc xuất hiện tới 320 lần, nhƣng hầu nhƣ không lần nào mang ý
nghĩa vật chất, diễn tả một thứ thức ăn phổ biến của ngƣời nông dân vùng sông
nƣớc, mà chủ yếu là phƣơng tiện biểu đạt cho tình cảm con ngƣời. Có thể nhặt
ra bất cứ câu ca dao nào trong số 320 câu vừa nói trên để chứng minh điều
này, ví dụ nhƣ:
1. Công anh xe chỉ uốn cần
Vì chƣng trời động con cá lần ra khơi.
2. Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ
Đêm đêm hƣớng dải Ngân Hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhƣng dạ chẳng mòn
Tào Khê nƣớc chảy vẫn còn trơ trơ.
3. Trèo lên cây bƣởi hái hoa
Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc em thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
112
Nhƣ chim vào lồng nhƣ cá mắc câu
Cá mắc câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
4. Ai làm cá bống đi tu
Cá thu nó khóc, cá lóc nó rầu
Luỵ rơi hột hột, cơ cầu lắm bớ em!
5. Anh đừng thấy cá phụ canh
Thấy toà nhà ngói, phụ tranh rừng già.
Qua 5 câu ca dao trên đây, đã đủ thấy cách sử dụng từ cá (cũng nhƣ các
từ chỉ vật chất khác) linh hoạt và uyển chuyển nhƣ thế nào - lúc thì tƣợng
trƣng cho ngƣời con gái vừa tuột khỏi tầm tay ngƣời con trai, lúc lại tƣợng
trƣng cho nỗi buồn man mác của một ngƣời đang yêu mà phải xa ngƣời yêu,
lúc lại là biểu tƣợng cho sự chung thuỷ, không thay lòng đổi dạ… Mặt khác,
cách thức diễn đạt xuất phát từ trực quan sinh động ấy cũng biểu hiện cho lối
tƣ duy thuần phác của ngƣời nông dân, thứ tƣ duy không bị trói buộc bởi
những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe trong xã hội phong kiến mà xuất phát
từ thực tiễn sinh động trong cuộc sống hàng ngày ở nông thôn.
Đứng về mặt tác giả của những ca dao nói chung và ca dao về hôn nhân
nói riêng, chúng ta thấy cũng có sự đa dạng. Tuy nhìn chung thì đó là tác giả
tập thể, thế nhƣng nếu tìm về ngọn nguồn thì thấy từng câu ca dao đều phải
đƣợc sáng tác và phát ngôn bởi một ngƣời cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể
nào đó. Ca dao chủ yếu phát nguồn từ nông thôn, trong khung cảnh giao duyên
nam nữ và khung cảnh lao động hoặc hội hè là chính, với tác giả chủ yếu là
những ngƣời sống tại nông thôn. Trong số họ, có ngƣời là nông dân, có ngƣời
là nhà nho (đang học để đi thi, thi không đỗ, cáo quan về “vƣờn”, thầy đồ -
hƣơng sƣ). Chính những nhà nho này góp phần quan trọng chuyển tải tƣ tƣởng
Nho giáo về nông thôn, phổ biến nó trong học sinh, và khi họ tham gia sáng
tạo ca dao thì họ cũng chuyển tải quan điểm Nho giáo vào nội dung ca dao.
Tuy vậy, do ký thác cả cuộc sống trong làng quê, các nhà nho sống ở nông
thôn vừa chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, vừa có cái nhìn thực tế, cho nên, trong
ca dao về hôn nhân, gia đình mới có sự đa chiều về quan niệm nhƣ vậy, mà
chiếm ƣu thế là chiều đi theo tiếng gọi mạnh mẽ của tình yêu chân chính nảy
sinh trong lao động, trong môi trƣờng thiên nhiên trong lành của ngƣời Việt.
Qua ca dao, thấy rõ rằng trong cuộc sống của ngƣời Việt xƣa, tình yêu làm cơ
sở cho hôn nhân, tạo lập gia đình hạnh phúc.
113
TIỂU KẾT
Chúng tôi đã khảo cứu ca dao về gia đình trên những quan hệ chính là vợ
chồng, cha mẹ con, nàng dâu - nhà chồng. Do ca dao phản ánh ít về quan hệ
anh chị em cho nên chúng tôi không khảo cứu nội dung này. Mặt khác, qua các
mối quan hệ, ca dao đã phản ánh một cách sinh động quan niệm dân gian trên
một số vấn đề nhƣ đạo hiếu, đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt, hôn nhân, cho nên
chúng tôi đi sâu khảo cứu những vấn đề này, tìm ra đƣợc một số nét đặc trƣng
trong nhận thức và cách thức ứng xử của ngƣời Việt trong cuộc sống gia đình.
Về quan hệ vợ chồng: Đặc trƣng cơ bản của quan hệ vợ chồng ngƣời Việt
thể hiện qua ca dao là gắn bó, với những biểu hiện chính là: theo nhau, gắn bó
trong lao động, càng xa cách càng gắn bó. Nét đặc thù của sự gắn bó vợ
chồng ngƣời Việt là theo nhau. Khái niệm tòng phu của Nho giáo ở Việt Nam
không đƣợc hiểu một cách bó hẹp, cứng nhắc, mà đƣợc mở rộng, mềm mại,
chuyển hoá thành vợ chồng theo nhau. Chính sự theo nhau của vợ chồng
ngƣời Việt thể hiện quan niệm và cách thức ứng xử dân chủ, mềm mại của
ngƣời nông dân thuần phác, chứng minh rằng gia đình ngƣời Việt tuy sống
trong chế độ phụ quyền, chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, nhƣng không rập
khuôn theo đạo lý phong kiến, mà đa dạng, phong phú, mang tính dân chủ và
tính nhân văn sâu sắc.
Về các khái niệm của Nho giáo đƣợc vận dụng trong ca dao về gia đình:
Các từ đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt có tần số xuất hiện khá cao trong ca dao
chứng tỏ Nho giáo đã có ảnh hƣởng khá rộng trong dân gian. Tuy vậy, nội
dung của các khái niệm này đƣợc thể hiện qua ca dao lại không gần gũi với nội
hàm nguyên gốc Hán, mà chứa đựng những ý nghĩa phù hợp với tâm thức dân
tộc, một dân tộc có truyền thống nhân ái, coi trọng nghĩa tình, gắn bó với nhau
trong lao động, gần gũi và hoà đồng với thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ trong
cách tiếp thu Nho giáo, ngƣời Việt đã chuyển hoá nội dung cho phù hợp với
điều kiện sống và tập tục của dân tộc, có nhiều trƣờng hợp chỉ còn dùng vỏ
ngôn ngữ của các khái niệm thuộc giáo lý nhà Nho để chuyển tải những nội
dung gần gũi với cuộc sống bình thƣờng ở nông thôn.
Về quan hệ cha mẹ con: Ca dao nói nhiều đến đạo hiếu, với những nội
dung gần với những nội dung mà Nho giáo đề cập. Tuy vậy, đó không phải là
những giáo lí khô cứng, cao siêu theo triết thuyết Nho giáo mà gắn với đời
sống thƣờng ngày, đề cao cách thức ứng xử hƣớng về cội nguồn, tôn trọng và
kính yêu cha mẹ theo truyền thống của cƣ dân vùng Đông Nam Á vốn coi
trọng tổ tiên. Ảnh hƣởng rõ nhất của Nho giáo vào gia đình ngƣời Việt là coi
trọng việc học hành, nhằm dƣơng danh hiển thân. Qua ca dao thấy rõ điều này:
114
cha mẹ coi trọng việc cho con theo học, đi thi và đỗ đạt. Những biểu hiện tiêu
cực trong quan hệ cha mẹ con mà ca dao phản ánh và phê phán là con đối xử
không tốt đối với cha mẹ.
Về quan hệ nàng dâu và gia đình chồng: Số lƣợng câu ca dao nói về
những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng nhiều gấp 2,35
lần số câu nói về những biểu hiện tích cực, cho thấy đây là mâu thuẫn đáng
quan tâm khắc phục nhất trong gia đình ngƣời Việt. Nói cách khác, mâu thuẫn
nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của ngƣời Việt.
Mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng diễn ra gay gắt trên nhiều bình diện, mà
nguyên nhân chính thuộc về yếu tố kinh tế và yếu tố tâm lý, đồng thời có yếu
tố Nho giáo.
Quan niệm về hôn nhân: Ngƣời Việt có quan niệm đa chiều về hôn nhân,
trong đó có chiều tiêu cực là chịu sự ràng buộc thái quá của lễ giáo phong
kiến, nhƣng chiều nổi bật, tích cực là quan niệm dân chủ, nhân văn. Chính vì
thế, vƣợt qua mọi sự áp chế của chế độ phong kiến, ngƣời Việt đã tìm thấy
hạnh phúc trong hôn nhân, từ đó xây dựng đƣợc một mẫu hình gia đình gắn
bó, hoà thuận trong lao động, trong môi trƣờng nông thôn thanh bình tuy lao
động nặng nhọc và vật chất thiếu thốn. Nguyên nhân của tình hình này là
ngƣời Việt sống trong môi trƣờng nông thôn có một thiết chế tƣơng đối khép
kín là làng, với phong tục tập quán đƣợc lƣu truyền từ lâu đời, là tấm rào cản
làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai. Mặt
khác, tình yêu nảy nở trong khung cảnh thiên nhiên hiền hoà, trong các dịp lễ
hội thắm tình làng nghĩa xóm, trong lao động trên đồng ruộng phóng khoáng,
trong sinh hoạt hội hè đình đám mang tính dân chủ làng xã là điều kiện khiến
cho các đôi trai gái nông thôn tiến tới hôn nhân một cách hồn nhiên và mộc
mạc, từ đó xây dựng đƣợc gia đình trên một cái nền vững chắc của làng quê
với những phong tục tập quán tốt đẹp. Chúng tôi nhận thấy ý kiến nói rằng
trong xã hội phong kiến, hôn nhân chỉ là kết quả của sự cƣỡng ép của cha mẹ
đối với con, hôn nhân không đem lại hạnh phúc cho con ngƣời là thiếu toàn
diện.
Từ các mối quan hệ trong gia đình và cách thức ứng xử của các đôi trai
gái trƣớc tình yêu và hôn nhân, giữa bên tình và bên hiếu, thấy nổi bật lên vấn
đề số phận cá nhân trong mối tƣơng quan với gia đình và trách nhiệm của từng
cá nhân trong gia đình của mình. Bao trùm, là trách nhiệm cao của từng cá
nhân với tƣ cách thành viên của gia đình với gia đình. Mỗi cá nhân đều phải ý
thức rõ vai trò của mình trong gia đình và thực hiện tốt vai trò ấy. Cha mẹ phải
ăn ở có đức, phải hy sinh, nuôi dƣỡng và giáo dục con cái. Con cái phải biết ơn
115
và có trách nhiệm với cha mẹ. Vợ phải theo chồng, gánh vác giang sơn nhà
chồng. Chồng phải biết đến công lao của vợ, phải chung lƣng đấu cật với vợ.
Nhƣ thế, ý thức về gia đình mang ý nghĩa bao trùm, chi phối mọi hành động
của từng cá nhân trong gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, từng cá nhân, nhất là
ngƣời ở bậc dƣới, phải chịu hy sinh hoặc nhƣờng nhịn, ngƣời ở bậc trên phải
bao dung, khoan hoà. Tuy vậy, sự nhƣờng nhịn hay hy sinh ấy không bao trùm
toàn bộ cuộc sống gia đình, không thủ tiêu hết vai trò cá nhân, làm cho từng cá
thể tan biến trong gia đình. Thực ra, mỗi cá thể vẫn tồn tại tƣơng đối độc lập
trong gia đình, và một khi quyền lợi của cá nhân bị đe doạ hay một khi khát
vọng hạnh phúc cá nhân đã cháy bỏng, thì cá nhân ấy sẵn sàng phá bung mọi
lễ giáo, mọi mối ràng buộc để xây dựng hạnh phúc cho riêng mình. Tiêu biểu
cho tình trạng này là sự bung phá của con cái khi tình yêu và hôn nhân bị đe
doạ. Lúc này, con ngƣời cá nhân đã thắng thế, tự mình thoát khỏi mọi mối
ràng buộc của lễ giáo nhằm thoả mãn khát vọng hạnh phúc của mình, để rồi
khi đạt đƣợc ƣớc nguyện, họ lại trở về với cuộc sống bình yên trong gia đình.
Con ngƣời cá nhân trong văn học dân gian ngƣời Việt không nổi loạn, không
đạp đổ toàn bộ các mối ràng buộc để khẳng định một cách tuyệt đối cá nhân
mình nhƣ kiểu con ngƣời cá nhân trong văn học phƣơng Tây, mà biết tự điều
tiết ở một mức độ vừa phải, đủ để đem lại hạnh phúc cho mình mà không làm
tan vỡ các mối quan hệ khác.
116
CHƢƠNG BỐN
SO SÁNH SỰ PHẢN ÁNH PHONG TỤC TẬP QUÁN
GIỮA TỤC NGỮ VÀ CA DAO
1. NHỮNG ĐIỂM CHUNG
1.1. Tục ngữ, ca dao đều là một trong những nguồn tài liệu cần thiết
cho việc nghiên cứu con ngƣời và xã hội Việt Nam trƣớc đây
Muốn nhận thức ngày càng đầy đủ và chính xác về con ngƣời và xã hội
Việt Nam thủa trƣớc, cần thiết phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu. Trƣớc đây,
chúng ta hay sử dụng sử liệu và những trƣớc tác khác của các nhà văn hoá bác
học. Đó là một cách làm quen thuộc và có cơ sở của sự đúng đắn.
Về sau, bên cạnh nguồn sử liệu chính thống, những trƣớc tác của các tác
giả trong nƣớc, chúng ta đã chú ý tới các ghi chép của các tác giả nƣớc ngoài
(ngƣời Trung Quốc, ngƣời Pháp...). Cách tiếp cận này cũng đã đem lại những
kết quả nhất định.
Ngƣời ta cũng tìm hiểu con ngƣời và xã hội Việt Nam trƣớc kia qua
những áng văn chƣơng của các tác giả thời ấy, nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...
Bên cạnh các nguồn tài liệu kể trên, văn học dân gian nói chung, tục ngữ,
ca dao nói riêng, cũng là một nguồn tài liệu cần thiết giúp ngƣời sau nhận biết
về quá khứ của cha ông.
Lời ca dao sau:
Trời mƣa Thái Tổ Thái Tông
Con bế con dắt con bồng con mang
Bò đen húc lẫn bò vàng
Húc quấy húc quá húc quàng xuống sông.
phản ánh một sự thật lịch sử vào thế kỷ XV. Giặc Minh xâm lƣợc nƣớc
ta, thực hiện triệt để âm mƣu đồng hoá, hòng biến đất nƣớc ta thành một quận
huyện của đế chế Trung Hoa. Chúng tàn phá các công trình về lịch sử văn hoá,
đốt phá sách vở, cƣỡng bức đàn bà phụ nữ, bắt nhiều ngƣời tài giỏi của ta đƣa
sang Trung Quốc, không ít đàn ông Việt bị thiến, nhiều ngƣời sợ quá phải trốn
vào nơi rừng rú. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, vua Lê Thái Tổ
và tiếp sau là vua Lê Thái Tông đã khôi phục sản xuất trong nƣớc, khuyến
khích nhân dân tăng gia sản xuất, chăn nuôi trâu bò lợn gà. Nhiều ngƣời dân
lƣu tán đã trở về xây dựng cuộc sống gia đình, trẻ em mỗi ngày một nhiều. Sự
thật lịch sử đó đã đƣợc bài ca dao chỉ gồm bốn dòng ghi lại khá sinh động, cụ
thể.
117
Hoặc nhƣ qua 25 câu ca dao nói về tình cảnh xa cách vợ chồng bởi chồng
đi lính, ngƣời đời sau thấy rõ một sự thật lịch sử là trong chế độ phong kiến,
việc bắt lính đã gây nên nhiều nỗi đau khổ cho nhân dân, nhƣ:
Anh ơi phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc anh thì cậy ai?
Tháng chạp cày đất trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Trời thời mƣa gió, nƣớc sa đầy đồng
Ngƣời ta có vợ có chồng
Chồng cày vợ cấy ngoài đồng có đôi
Nhà anh chỉ có mình tôi
Cày rồi lại cuốc, cuốc thôi lại bừa
Cho nên tôi phải về trƣa
Gẫy đôi vai bừa, ai kẻ chêm cho!
Ai về nhắn nhủ các cô
Đừng lấy chồng lính thiệt thua trăm đƣờng.
Chúng ta biết rằng pháp luật của Nhà nƣớc phong kiến từ những điều luật
đƣợc ban bố cho đến việc thực thi bao giờ cũng có một khoảng cách. Theo
Quốc triều hình luật (một bộ luật nhà Lê), nếu ngƣời vợ mà tố cáo chồng thì
sẽ phạm vào một trong mƣời tội thập ác. Nếu ngƣời đời sau chỉ nghiên cứu
các văn bản luật pháp thì có thể nghĩ rằng dƣới triều nhà Lê, quyền sống của
ngƣời phụ nữ nói chung, của ngƣời vợ nói riêng, bị bóp nghẹt, bị chà đạp đến
mức không thể làm theo công lý. Thế nhƣng, trên thực tế, ngƣời vợ vẫn có thể
tố cáo chồng. Khi thi đỗ năm 1757, ông Phạm Công Tiến đã lấy con gái một
nhà giàu làm vợ lẽ. Trong đám rƣớc vinh quy từ kinh đô về làng, ông đã tranh
cãi với bà vợ nhiều lần về quyền ƣu tiên của ngƣời vợ lẽ. Ngƣời vợ cả đã đƣa
việc này đi kiện và kết quả ông Phạm Công Tiến không đƣợc bổ nhiệm làm
quan. Hoặc nhƣ trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ
chín đã quy định về phụ nữ: "Khi chồng chết mà mình chƣa có con, thì phải ở
lại nhà chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm chuyển vận tài sản nhà
chồng đem về nhà mình". [Dẫn theo 99:338]. Thế nhƣng, tục ngữ lại có câu:
"Làm ruộng phải có trâu, làm dâu phải có chồng", chứng tỏ nhân dân không
thực hiện huấn điều ấy, mà thực hiện một lẽ phải thông thƣờng là chỉ ở lại nhà
chồng khi còn chồng.
Nhƣ vậy, phải bằng nhiều nguồn tƣ liệu, có phân tích, đối chứng thì
chúng ta mới có thể đi tới những nhận xét toàn diện và gần với sự thật lịch sử.
118
Chỉ riêng trong lĩnh vực gia đình, nghiên cứu tục ngữ và ca dao, chúng ta
cũng có thể thấy đƣợc gia đình ngƣời Việt trƣớc kia không đến nỗi ngột ngạt
nhƣ một vài nhận định phiến diện đã công bố đây đó mà chúng tôi dã phân tích
trong các chƣơng trên.
Bên cạnh những nét son tốt đẹp, gia đình truyền thống cũng có những
mảng tối. Nhƣ đã phân tích ở các chƣơng trƣớc, rõ ràng quan hệ nàng dâu mẹ
chồng trong xã hội cũ là quan hệ không mấy tốt đẹp:
1. Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu, mẹ chồng.
2. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia
Ngẫm tôi với mụ có bà con chi.
Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu luật pháp trong thời phong kiến và giáo
lý Nho gia, chúng ta cần tìm hiểu ca dao, tục ngữ. Bởi vì, luật lệ của chế độ
phong kiến, giáo lý đạo Nho nhiều khi chỉ nằm trong trang sách chứ không vận
hành đƣợc trong đời sống. Nói đến Nho giáo, ngƣời ta nghĩ ngay đến tam
cƣơng, ngũ thƣờng, nhƣng thật sai lầm khi nhìn nhận rằng xã hội Việt Nam, do
ảnh hƣởng sâu sắc của Nho giáo, mà đã tạo nên nền nếp theo đúng tam cƣơng
ngũ thƣờng. Sở dĩ nhƣ vậy, vì khi du nhập vào Việt Nam, trƣớc những biến
động của đời sống, Nho giáo đã trở nên không thuần nhất và "sắc thái Nho
giáo của nó không nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau" [57:28]. Nhƣ thế, giữa
giáo lý Nho giáo và thực tế vận hành giáo lý ấy ở Việt Nam có khoảng cách
nhất định và có những sắc thái khác nhau. Nói cụ thể vào một điểm để dễ nhận
biết, có thể thấy nhƣ sau: Nho giáo đề cao vai trò của ngƣời thầy, nhân dân ta
đã tiếp thu tinh thần tôn sƣ trọng đạo ấy cho nên mới có câu "Không thầy đố
mày làm nên"; nhƣng không phải chỉ có vậy, với tinh thần dân chủ rộng mở,
nhân dân còn coi trọng các hình thức học khác, cho nên mới có câu "Học thầy
không tầy học bạn". Có thể đối chiếu rất nhiều điều trong giáo lý nữa với thực
tế, và chúng ta sẽ bắt gặp sự không trùng khớp là phổ biến. Nếu chỉ căn cứ vào
giáo lý thì sẽ thấy cuộc sống khô cứng và đơn điệu.
Ngƣợc lại, khi khảo sát tục ngữ, ca dao, không những thấy đƣợc thực tế
cuộc sống đƣơng thời, mà còn có thể thấy đƣợc hình bóng của luật pháp, của
giáo lý. Chẳng hạn, khi đọc câu ca dao:
Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy ngƣời ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải mƣợn quần chồng sao đang
119
chúng ta có thể biết đƣợc rằng vào thời điểm câu ca dao ra đời, nhà vua đã ra
chiếu cấm phụ nữ mặc váy, đồng thời hiểu rằng lệnh ấy không hợp lòng dân,
bị dân phản ứng. Cũng từ hiện tƣợng này, có thể thấy hình bóng lịch sử tƣ
tƣởng của dân tộc in khá đậm nét trong tục ngữ, ca dao và đó là cứ liệu đáng
tin cậy cho việc nghiên cứu xã hội.
Nhƣ thế, tục ngữ, ca dao là nguồn tài liệu đáng tin cậy cho việc nghiên
cứu xã hội.
1.2. Về nội dung, cả tục ngữ và ca dao đều phản ánh quan hệ gia đình
ở mức độ đáng kể
Là sản phẩm của dân gian, tục ngữ và ca dao đều chứa đựng nhận thức,
tình cảm của dân gian, đó là điểm chung lớn nhất giữa hai thể loại. Từ điểm
chung ấy, tục ngữ và ca dao có nhiều điểm tƣơng đồng trong việc phản ánh
hiện thực.
Tục ngữ và ca dao đều quan tâm ở mức độ đáng kể đến quan hệ gia đình.
Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy trong kho tàng tục ngữ, ca dao, hai thể loại
này có tỷ lệ tƣơng đƣơng nhau về chủ đề gia đình (10,36% trong tục ngữ,
9,97% trong ca dao). Tục ngữ, ca dao đã khắc hoạ một cách sinh động những
mặt mang tính bản chất của gia đình ngƣời Việt. Nếu nói rằng nhân dân Việt
Nam đã có khát vọng khôn nguôi về độc lập, tự do và đã đấu tranh không mệt
mỏi cho độc lập, tự do, thì cũng cần nói rằng ngƣời Việt có khát vọng khôn
nguôi về hạnh phúc gia đình và đã sống theo định hƣớng đúng đắn để đạt đƣợc
hạnh phúc gia đình. Không nên nhận xét một cách cực đoan rằng, trong xã hội
phong kiến, dƣới sự đè nén khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, trong hôn
nhân, ngƣời nông dân Việt Nam hoàn toàn không có tình yêu, và vì vậy mà gia
đình là nơi ngục tù của phụ nữ! Nếu vì để nhấn mạnh những mặt tiêu cực, lạc
hậu của xã hội phong kiến, mà bảo rằng trong xã hội ấy, ngƣời nông dân chỉ
sống trong tối tăm, khốn khổ, không có chút hạnh phúc nào, thì vô tình đã phủ
nhận tinh thần đấu tranh và tình cảm nồng thắm của ngƣời nông dân, biến họ
trở thành những kẻ bất lực, thụ động và cam chịu. Ngƣời nông dân dù có cực
khổ, dù có bị áp bức bóc lột, vẫn là những con ngƣời có ý chí, có tình cảm, và
họ đã vƣợt lên khỏi hoàn cảnh, xây dựng đƣợc cuộc sống hạnh phúc. Mặt
khác, dù sống trong bất kỳ chế độ xã hội nào, thì con ngƣời cũng cần tuân thủ
những khuôn phép nhất định, để đảm bảo một trật tự tối thiểu cho xã hội ấy.
Do vậy, trong xã hội phong kiến, tình yêu trai gái có bị ràng buộc bởi nhiều
giáo lý, trong đó có những điều quá khắt khe, cần phải tháo gỡ, thì cũng có
những điều cần thiết phải tuân thủ - chúng nhƣ những điều kiện bảo hiểm cho
120
quan hệ hôn nhân đƣợc bền chặt. Liên hệ đến cuộc sống thời hiện đại, nhiều
khi con ngƣời hƣớng tới sự tự do vô bờ bến, đã dẫn đến hậu quả là hôn nhân
chỉ là sợi chỉ mỏng manh cột hờ hai số phận, dễ dàng bị bung đứt, làm cho gia
đình tan vỡ, thì thấy rằng tôn trọng những luân lý phù hợp trong quan hệ gia
đình là điều cần thiết.
Tục ngữ, ca dao về gia đình đã cho thấy rằng ngay trong lòng chế độ
phong kiến, ngƣời nông dân không tuân phục một chiều lễ giáo phong kiến,
mà có quan niệm và cách thức ứng xử linh hoạt, nhiều chiều, theo hƣớng nhân
văn, tôn trọng quyền hôn nhân chính đáng dựa trên tình yêu và coi trọng các
thành viên của gia đình, chứ không phải là theo hƣớng phi nhân bản, phủ nhận
tình yêu trong hôn nhân, chỉ coi hôn nhân là biện pháp truyền gia thống, coi
các thành viên khác trong gia đình chỉ là nô lệ cho một ngƣời chủ gia đình.
Cũng vì vậy, trong xã hội phong kiến, ngƣời nông dân vẫn xây dựng đƣợc tổ
ấm gia đình dựa trên tình yêu thƣơng. Nếu nhƣ không có tình yêu trong hôn
nhân, thì làm sao có đƣợc sự gắn bó đến nhƣ thế? Nếu vợ chồng chỉ là sự ép
uổng, sự gán ghép thô thiển do cha mẹ định đoạt, thì làm sao họ tự nguyện cột
chặt số phận vào nhau nhƣ vậy? Có tìm thấy hạnh phúc thật sự trong hôn nhân,
trong cuộc sống gia đình, thì ngƣời nông dân xƣa mới để lại cho chúng ta kho
tàng ca dao lãng mạn, bay bổng đồng thời cũng rất hiện thực mà chúng ta có
hôm nay. Ngƣời Việt trải qua cả ngàn năm đô hộ của phong kiến phƣơng Bắc
đã không bị thôn tính, vẫn giữ đƣợc bản sắc, giữ đƣợc truyền thống văn hoá
của mình, thì dù có bị ảnh hƣởng sâu sắc đến đâu của Nho giáo, vẫn không
đánh mất cái cốt cách dân tộc trong gia đình mình, và chính vì vậy mà trong
gia đình, ngƣời Việt đã xây dựng đƣợc những quan hệ dân chủ, nhân ái, khoan
dung, là một phần của bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhìn từ góc độ văn hoá, có
thể thấy rằng trong xã hội phong kiến, bên cạnh dòng văn hoá chính thống của
giai cấp thống trị toả rộng ảnh hƣờng trong xã hội, tục ngữ, ca dao về phong
tục tập quán của ngƣời Việt là một bộ phận của dòng văn hoá dân chủ của
giai cấp bị trị luôn luôn có sức sống dồi dào, luồn lỏi vào mọi ngõ ngách đời
sống thƣờng ngày, vừa phản ánh, vừa ảnh hƣởng mạnh mẽ đến tƣ tƣởng, tình
cảm, lối sống của những ngƣời lao động, góp phần tạo nên sắc thái đa dạng
của nền văn hoá Việt Nam.
Tục ngữ, ca dao đều đề cập đến những quan hệ chính trong gia đình, với
những nội dung chính dƣới đây:
121
-Thứ nhất: Quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ rƣờng cột của gia đình.Vợ chồng, cha
mẹ có thƣơng yêu nhau, có gắn bó, thuận hoà thì gia đình mới thực sự hạnh
phúc, con cái mới đƣợc chăm sóc dạy bảo chu đáo. Nhiều gia đình mâu thuẫn
đi đến chia lìa, khiến con cái phải gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Nhận biết vai trò của quan hệ vợ chồng trong gia đình và cả xã hội, tục
ngữ, ca dao nói nhiều về vấn đề này.
Tục ngữ, ca dao ngƣời Việt tuy phản ánh một xã hội phụ hệ ở mức độ
cao, có tính chất phụ quyền, nhƣng đó không phải là một xã hội theo quy tắc
miệt thị ngƣời phụ nữ. Ngƣời Việt (qua tục ngữ, ca dao) đề cao sự gắn bó, thủy
chung, sự hòa thuận giữa vợ và chồng. Quan hệ này có những yếu tố dân chủ,
có nhiều trƣờng hợp đề cao ngƣời phụ nữ; có khi quyền phụ nữ chi phối nam
quyền "Lệnh ông không bằng cồng bà". Đây là dấu vết còn lại của chế độ mẫu
hệ, đồng thời là sự bảo lƣu truyền thống dân chủ đơn sơ của cha ông chúng ta.
Mặt khác, đây cũng là hệ quả của hoạt động của ngƣời phụ nữ trong nền kinh
tế tiểu nông gắn với thiểu thƣơng, trong đó phụ nữ đóng vai trò ngang bằng
với nam giới trong lao động, thậm chí có chút ƣu việt nhờ hoạt động tiểu
thƣơng. Trong các khái niệm đạo, nghĩa, tình thuộc mối quan hệ vợ chồng thì
qua tục ngữ, ca dao, đạo đƣợc nhắc đến ít nhất, nghĩa, tình đƣợc nhắc đến
nhiều nhất. Đáng chú ý là trong khi sử dụng khái niệm đạo, các tác giả dân
gian không tiếp thu rập khuôn ý nghĩa do Nho giáo quy định, mà xây dựng
những nội dung đơn giản hơn, thiết thực hơn, gần gũi với cuộc sống vợ chồng
ngƣời Việt, một cuộc sống của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, lao động
cực nhọc, giản đơn và gần gũi thiên nhiên, đời sống tình cảm mộc mạc, chân
chất.
Quan hệ vợ chồng ngƣời Việt phản ánh trong tục ngữ, ca dao là quan hệ
nặng về tình nghĩa thủy chung, mang tính chất công bằng, dân chủ, nhân ái.
Nhân dân xây dựng một hình mẫu quan hệ gắn bó lâu bền "Vợ chồng là nghĩa
già đời", "sống gửi thịt, chết gửi xƣơng"... Sự gắn bó này không dựa trên sự
phục tùng tuyệt đối nhƣ tôi tớ của vợ đối với chồng, mà là dựa trên sự tƣơng
hợp nhƣ "giỏ" với "hom", nhƣ "rồng với mây", nhƣ "cây với rừng", nhƣ "đũa
có đôi"... Đây là kiểu quan hệ bình đẳng, không phải một ngƣời xƣớng một
ngƣời tuân theo. Đóng vai trò điều tiết quan hệ, tạo nên sự êm ấm, thuận hòa
trong gia đình là ngƣời phụ nữ, điều tiết bằng tình thƣơng, sự nhƣờng nhịn
theo lẽ phải là chính chứ không phải là sự phục tùng tuyệt đối theo khuôn phép
cứng nhắc của chế độ phong kiến.
122
Chƣa kể là khi đất nƣớc lâm nguy, phụ nữ phải xung trận "giặc đến nhà
đàn bà phải đánh". Đây là một kiểu mẫu phụ nữ khác hẳn ngƣời đàn bà phải
theo tục bó chân để chỉ quanh quẩn bếp núc hầu hạ chồng.
Nếu gói gọn quan hệ vợ chồng ngƣời Việt trong một vài cụm từ mà tục
ngữ, ca dao đã phản ánh, thì không phải "nam tôn nữ ty ", "phu xƣớng phụ
tuỳ" mà là "tình nghĩa thuỷ chung", "chồng hòa vợ thuận".
Những điều tục ngữ, ca dao phản ánh phù hợp với thực tế lịch sử. Giáo
sƣ Yu Insun (Lƣu Nhân Thiện) ngƣời Hàn Quốc, trong một cuốn sách rất công
phu Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17 - 18 đã khẳng định tính chất dân chủ
trong quan hệ vợ chồng Việt Nam: "Theo nhƣ chúng tôi hình dung, ở Việt
Nam, ngƣời chồng không phải là nhân vật thống trị trong gia đình, ngƣời vợ
gần nhƣ bình quyền với chồng, và do đó hôn nhân không đƣợc xem nhƣ sự
chuyển giao hoàn toàn cô gái từ gia đình bên nội của mình sang nhà chồng"
[139:126].
-Thứ hai: Quan hệ cha mẹ con
Trong quan hệ cha mẹ con, ngƣời ta hay nói đến đạo hiếu. Tuy vậy, với
tục ngữ, ca dao, trong cái vỏ ngôn ngữ này, nội dung chữ Hiếu của Nho giáo
đã biến đổi khá nhiều.
Quan hệ cha mẹ con không phải chỉ là quan hệ một chiều từ trên dội
xuống, mà là quan hệ qua lại hai chiều đan xen chặt chẽ. Cha mẹ phải dạy dỗ
nuôi nấng con, hy sinh, vất vả, tốn kém vì con, cha mẹ chịu trách nhiệm về
phẩm chất của con "Con hƣ bởi tại cha dung", "Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại bà".
Cha mẹ không những có trách nhiệm dạy bảo nuôi nấng con khi họ còn sống,
mà còn phải sống lƣơng thiện, tu nhân tích đức để phúc cho con "Đời cha đắp
nấm, đời con ấm mồ", "Đời cha trồng cây, đời con ăn quả", tránh tình trạng
"Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc".
Con cái thì coi trọng công lao của cha mẹ nhƣ núi nhƣ sông, bằng trời
bằng biển "Công cha nhƣ núi Thái Sơn, nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy
ra". Càng từng trải con cái càng thấm thía công lao cha mẹ "Trèo non mới biết
non cao, nuôi con mới biết công lao mẹ thầy".
Rõ ràng là quan hệ cha mẹ con ở đây đƣợc xây dựng trên tình thƣơng
yêu, lòng biết ơn, sự lo toan đến nhau. Nếu dùng khái niệm chữ hiếu thì đây là
đặc điểm chữ hiếu Việt Nam, khác với chữ hiếu khô cứng, mệnh lệnh và khắc
nghiệt theo kiểu Cha bảo con chết con phải chết mới là hiếu, cha bảo con chết
con không chết là bất hiếu.
123
Tuy vậy, qua tục ngữ, ca dao, những biểu hiện bất hiếu đã đƣợc phản ánh
và phê phán. Điều này khiến chúng ta có cách nhìn biện chứng và khách quan
đối với tình trạng bất hiếu đang phát triển trong xã hội hiện đại, để có biện
pháp giáo dục con cái và có cách ứng xử thích ứng, không đòi hỏi cha mẹ hy
sinh tất cả, hy sinh mù quáng cho con cái, đồng thời đòi hỏi con cái phải coi
trọng cha mẹ, có trách nhiệm với cha mẹ.
-Thứ ba: Quan hệ anh em, chị em
Tình cảm ruột thịt là nền tảng của mối quan hệ anh chị em "Anh em nhƣ
chân với tay". Trên cơ sở đó, nguyên tắc ứng xử của họ chủ yếu dựa trên sự
đoàn kết hoà thuận "Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài
đá nhau", "Anh thuận em hoà là nhà có phúc". Khi có mâu thuẫn thì tự dàn xếp
nội bộ là chính "Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau".
Tiếp cận vấn đề gia đình qua tục ngữ và ca dao, chúng tôi không có tham
vọng nhìn nhận đƣợc thấu đáo và toàn diện mọi mặt của gia đình ngƣời Việt.
Tuy vậy, tục ngữ, ca dao có một chiều dài lịch sử và chiều rộng xã hội khá lớn
nên chúng là một trong những tài liệu đáng tin cậy, giúp chúng ta nhận ra định
hƣớng ứng xử trong các quan hệ của gia đình, từ đó thấy đƣợc truyền thống
của dân tộc và nhờ vậy có thể hiểu đƣợc phần nào bản sắc văn hoá Việt Nam.
Nói nhƣ các tác giả trong Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì:
“Bản sắc văn hoá Việt Nam chính là ở chỗ nền văn hoá đó luôn luôn
lấy sứ mệnh của dân tộc - vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội làm sứ mệnh
của mình; là ở chỗ nền văn hoá đó luôn lấy sự bao dung và hoà đồng làm cơ
sở để xem xét những hiện tƣợng tự nhiên, xã hội và con ngƣời, để đề ra các
giải pháp sáng tạo văn hoá; là chủ nghĩa nhân bản đƣợc tích hợp từ những tƣ
tƣởng truyền thống và tƣ tƣởng hiện đại; là nền văn hoá mở trong không gian
(giao tiếp văn hoá qua các kinh tuyến và vĩ tuyến), trong thời gian (tiếp tục
nắm bắt cái đã qua, nhạy cảm với cái sắp tới) và biến đổi theo quá trình điều
chỉnh xã hội (nó tồn tại ngay trong những thiết chế chính trị trái ngƣợc bản
chất của nó); là nền văn hoá giàu sức chuyển hoá (cái bi trong cái hài, cái hài
trong cái bi, duy lý trong nhân bản - nhân bản trong duy lý) giàu sự tƣơng
phản đăng đối (trong cú pháp, trong sắc màu); là nền văn hoá giàu tính
nhân dân, tính cộng đồng." [30:35-41].
124
1.3. Tục ngữ và ca dao đều phản ánh quan hệ gia đình trong một
"diện tích nghệ thuật" nhỏ hơn các thể loại khác
Văn học dân gian ngƣời Việt có nhiều thể loại: truyện cổ tích, truyền
thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cƣời, vè, ca dao, tục ngữ v.v.. Phản ánh quan
hệ gia đình không chỉ có tục ngữ và ca dao. Các thể loại khác nhƣ đã nêu trên
đây cũng đề cập đến quan hệ này. Có điều, các tác phẩm tục ngữ, ca dao ngắn
gọn hơn nhiều so với các tác phẩm thuộc loại truyện cổ tích, truyện cƣời.
Thí dụ: Cùng nói về quan hệ anh em bị chi phối tiêu cực bởi lợi ích vật
chất, thì:
- Tục ngữ nói ngắn gọn: Anh em gạo, đạo ngãi tiền (7 tiếng).
- Ca dao nói dài hơn một chút:
Anh em hiền thật là hiền
Chỉ vì đồng tiền sinh mất lòng nhau (14 tiếng).
- Truyện cổ tích lại thông qua một câu chuyện dài, nhƣ Cây khế : Các tác
giả dân gian đã kể chi tiết quan hệ anh em, với nhiều tình tiết, qua đó cho thấy
ngƣời em hiền lành, chăm chỉ, thực thà, còn ngƣời anh thì giầu có nhƣng tham
lam và độc ác, luôn luôn tìm cách chiếm đoạt của cải, công sức của ngƣời em,
cuối cùng, do chính lòng tham vô đáy mà ngƣời anh bị mất mạng. Câu chuyện
này đƣợc tuyển vào Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, in tới 4 trang giấy,
gồm trên 1.600 tiếng.
Ta có thể khảo sát thêm một ví dụ nữa để thấy do ngắn gọn, tục ngữ, ca
dao có cách diễn đạt riêng của mình. Để khẳng định tình máu mủ hơn tình bạn
bè, trong truyện cổ tích có câu chuyện Giết chó khuyên chồng (trong Tuyển
tập văn học dân gian Việt Nam ghi là Dạy chồng). Qua rất nhiều tình tiết, từ
việc ngƣời anh giầu có nhƣng không quan tâm đến em mà chỉ bù khú với
những ngƣời bạn hay lợi dụng, ngƣời vợ khuyên bảo không đƣợc, mới giết
một con chó, nói dối chồng là mình giết phải thằng bé ăn mày, rồi thử nhờ
những ngƣời bạn mà chồng coi là thân thiết giúp chôn cất, kết quả là những
ngƣời bạn đó không những không giúp mà còn tìm cách tống tiền, còn ngƣời
em thì giúp một cách vô tƣ, từ đó, ngƣời chồng mới nhận ra rõ ràng là tình anh
em ruột thịt vẫn hơn những ngƣời bạn cơ hội (Câu chuyện này in ra 3 trang
sách với hơn 1.300 tiếng). Cùng ý nghĩa trên, ca dao miêu tả bằng 4 dòng (28
tiếng):
Ơn cha mẹ trời cao khôn thấu
Nghĩa anh em xƣơng cốt ruột rà
125
Muốn cho trên thuận dƣới hoà
Chẳng thà chịu nhục, hơn là rẽ nhau.
Trong khi đó, tục ngữ khẳng định bằng 8 tiếng: "Một giọt máu đào hơn
ao nƣớc lã".
Có thể hình dung rằng, khi đi vào vƣờn văn học dân gian, thì truyện cổ
tích cho ta một cây với đầy đủ hoa, quả, lá, cành, ca dao cho ta một chùm trái
ngọt, còn tục ngữ thì cho ta một trái đậm đà nhất.
Hình tƣợng nghệ thuật của tục ngữ, ca dao mang tính đặc thù - không
đƣợc hình thành trong từng tác phẩm đơn lẻ, mà qua một hệ thống tác phẩm.
Phải hệ thống hoá các nhân vật của tục ngữ hay ca dao, mới nhận ra hình
tƣợng mà chúng thể hiện. Thí dụ, trong ca dao, nhân vật con cò đƣợc thể hiện
trong nhiều tác phẩm khác nhau, trong nhiều tình huống khác nhau, với các
cách ứng xử khác nhau, nếu xâu kết các nhân vật con cò ấy vào một hệ thống,
sẽ thấy hiện lên hình tƣợng về ngƣời phụ nữ nông thôn tần tảo sớm hôm, lặn
lội kiếm ăn nuôi chồng nuôi con, vất vả hy sinh cho chồng cho con. Điều này
dẫn đến một vấn đề có tính phƣơng pháp luận: Muốn hiểu thấu đáo tục ngữ, ca
dao, phải nghiên cứu chúng trong hệ thống, phải biết xâu kết các yếu tố tƣơng
đồng và so sánh các yếu tố khác biệt trong hệ thống, từ đó mới có thể rút ra
những kết luận khả dĩ xác đáng.
1.4. Tục ngữ, ca dao đều nói ít về quan hệ gia tộc, quan hệ gia đình
với làng xóm
Thống kê chi tiết ở tục ngữ và ca dao, đều thấy rất ít đơn vị đề cập tới
quan hệ gia tộc, quan hệ gia đình với làng xóm. Do giới hạn của đề tài nghiên
cứu, chúng tôi chƣa đi sâu lý giải nguyên nhân của hiện tƣợng này.
1.5. Tục ngữ, ca dao đều có giá trị đối với cuộc sống đƣơng đại
Cho dù là sản phẩm của xã hội phong kiến, nhƣng tục ngữ, ca dao chứa
đựng tâm tƣ, tình cảm, lý trí của nhân dân ta qua nhiều thế hệ, dạy cho con
ngƣời cách sống nhân ái, hoà hợp để tạo dựng hạnh phúc. Những bài học đó có
sức sống vƣợt thời gian, hết sức bổ ích đối với cuộc sống ngừy nay.
2. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU
2.1. Tục ngữ thiên về lí trí, ca dao thiên về tình cảm
Tục ngữ thiên về lý trí, cho nên khi phản ánh các quan hệ trong gia đình,
tục ngữ thƣờng đúc kết những kinh nghiệm hoặc những yêu cầu ứng xử, ít biểu
lộ tình cảm. Ca dao là thể loại trữ tình, cho nên ca dao phản ánh quan hệ gia
đình trong chiều sâu tình cảm nhiều hơn. Chính vì vậy, tuy cùng quan tâm đến
gia đình, nhƣng tục ngữ và ca dao phản ánh các mối quan hệ trong gia đình từ
những góc tiếp cận và hình thức phản ánh khác nhau. Do quan hệ vợ chồng có
126
nhiều sắc thái tình cảm, cho nên ca dao phản ánh nhiều hơn, còn quan hệ anh
chị em, sắc thái tình cảm nghèo nàn hơn, cho nên ca dao đề cập tới ít hơn tục
ngữ (so với chủ đề chung về gia đình, thì ở ca dao, chủ đề vợ chồng có 690
câu, chiếm 58,64%, còn ở tục ngữ có 285 câu, chiếm 39%). Rõ ràng, vợ chồng
là quan hệ nặng về tình nghĩa, và ca dao là thể loại thích hợp cho việc phản
ánh quan hệ ấy. Mặt khác, tuy cùng nói về quan hệ vợ chồng, nhƣng tục ngữ
thiên về phản ánh những biểu hiện mang tính luân lý, còn ca dao thì đi sâu vào
tình cảm của con ngƣời. Chẳng hạn, cùng nói về cách thức ứng xử trong quan
hệ vợ chồng, tục ngữ rút ra 6 kiểu ứng xử khác nhau (nhƣ đã phân tích ở
chƣơng 2), các câu tục ngữ không cho biết trạng thái tình cảm của con ngƣời,
mà chỉ nêu lên những yêu cầu của xã hội. Trong khi đó, ca dao phản ánh sinh
động các cách thức ứng xử thể hiện tình nghĩa vợ chồng, mà đậm đà là tình
yêu thƣơng, sự chăm nom săn sóc của ngƣời vợ với ngƣời chồng (trong 465
câu ca dao về cách thức ứng xử vợ chồng có 66 câu ca dao chứa đựng hai chữ
thƣơng, yêu). Chúng tôi nêu một số ví dụ để so sánh nhƣ sau:
- Về cách thức ứng xử, tục ngữ nói: "Chồng giận thì vợ làm lành", ca
dao nói: "Chồng giận thì vợ làm lành/Miệng cƣời hớn hở rằng: Anh giận gì?".
Rõ ràng, ca dao không những nêu lên yêu cầu ứng xử giống nhƣ tục ngữ nêu,
mà còn miêu tả thái độ của ngƣời vợ đối với chồng, một thái độ vui vẻ nhẹ
nhõm, biểu hiện tình cảm thắm thiết của ngƣời vợ.
- Về tình trạng đa thê, tục ngữ nói một cách lạnh lùng: "Một vợ nằm
giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo", ca dao nói nhƣ
một sự bộc bạch tâm can:
Viết thƣ sang hỏi thăm chàng
Còn không hay đã đá vàng nơi nao?
Hay là mắc phải con nào
Bùa yêu bả lú phải làm sao cho tỏ tƣờng
Vắng chàng tôi những nhớ thƣơng
Vì chàng mê gái tìm đƣờng phụ tôi
Tôi làm cho lứa quên đôi
127
Tôi làm cho rã cho rời nhau ra
Làm cho tan nát biệt xa
Cho chim lìa tổ cho hoa lìa cành
Tôi làm cho nó lìa anh
Cho ngƣời ta biết anh tình phụ tôi.
Qua câu ca dao trên, ta thấy hiển hiện lên hình ảnh một ngƣời vợ yêu
chồng tha thiết nhƣng cũng khá đáo để, có thái độ cứng rắn, kiên quyết giành
lại chồng từ tay tình địch.
Ngƣợc lại, quan hệ anh chị em lại đƣợc ca dao nói tới ít hơn tục ngữ (tục
ngữ có 40 câu, ca dao chỉ có 27 câu). Điều này phản ánh một sự thật là quan
hệ anh chị em dù có mật thiết đến đâu, thì cũng không thể có những sắc thái
tình cảm tinh tế và đằm thắm nhƣ quan hệ vợ chồng. Không những thế, với
quan niệm anh em mỗi ngƣời một thân một phận, hoặc bán anh em xa mua
láng giềng gần, thì cùng với thời gian trong đó chứa đựng những xung đột,
mâu thuẫn, quan hệ anh chị em luôn luôn có khả năng giảm thiểu chất kết
dính tình cảm. Cũng do vậy, nhân dân phải bổ sung một loại chất kết dính
khác, đó là những yêu cầu về luân lý. Đây chính là mảnh đất phù hợp cho tục
ngữ toả ảnh hƣởng: khi thì nhắc nhở tình máu mủ giữa anh em: "Anh em hạt
máu sẻ đôi", "Anh em nhƣ chân nhƣ tay", khi thì nêu lên phƣơng cách ứng
xử: "Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau", "Làm chị phải lành, làm anh phải
khó", lúc lại yêu cầu sự gắn bó: "Cắt dây bầu dây bí, chẳng ai cắt dây chị dây
em".
Về quan hệ nàng dâu - mẹ chồng, cả tục ngữ và ca dao đều cho thấy đây
là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình ngƣời Việt. Tuy vậy, chỉ có ca dao
mới phản ánh đƣợc nỗi cay đắng, tâm trạng uất ức của nàng dâu, nhƣ:
"Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau
Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi
Làm thì xem chẳng ra gì
128
Làm tất làm tả nói thì điếc tai
Đi ngủ thời hết canh hai
Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu
Sớm ngày đi cắt cỏ trâu
Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!
Hết mẹ rồi lại đến thầy
Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi
Nói thì nói thật là dai
Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều
Phận em là gái nhà nghèo
Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng
Nói ra đau đớn trong lòng
Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời".
Đó là một bức tranh hiện thực về cảnh làm dâu, là khúc ca bi thƣơng của
ngƣời phụ nữ trƣớc những nỗi khổ mà mình phải gánh chịu. Trong khi đó tục
ngữ hƣớng tới cách ứng xử cần phải có, cho nên qua tục ngữ, thấy quan hệ
nàng dâu - nhà chồng bớt căng thẳng hơn, không những thế lại còn có cái vẻ
ấm áp và thân tình, nhƣ: "Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai", "Dâu dâu rể rể
cũng kể là con".
Qua tục ngữ, ca dao, ta càng thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa nội
dung và hình thức của văn học: tục ngữ chứa đựng những nội dung mang tính
lý trí, ca dao chứa đựng những nội dung mang tính tình cảm. Để phản ánh
chân thực và sinh động cuộc sống, các tác giả dân gian đã thực hành một
nguyên lý sáng tác mà ngày nay chúng ta đang vận dụng, đó là hình thức phải
phù hợp với nội dung, nội dung nào, hình thức ấy.
129
2.2. Tục ngữ ngắn gọn hơn ca dao
Ca dao ít nhất có 2 dòng với 14 tiếng, rất hiếm trƣờng hợp có số lƣợng ít
hơn. Trong khi đó, với tục ngữ, đa số là một câu. Có khi một câu tục ngữ chỉ
gồm 3 tiếng (nhƣ "Chó cắn quanh", "Lành nhƣ bụt") và không ít trƣờng hợp
chỉ gồm 4 tiếng (nhƣ "ÁC giả ác báo", "Ăn lắm trả nhiều"). Trong Tục ngữ
phong dao, Ôn nhƣ Nguyễn Văn Ngọc đã ghi ra ở phần một mà theo tác giả là
gồm phƣơng ngôn, tục ngữ, có tới 1.171 câu thuộc loại chỉ gồm 4 tiếng. Nhƣ
vậy, về mặt dung lƣợng, ca dao lớn hơn tục ngữ. Cũng với đặc trƣng ngắn gọn
nhƣ vậy, tục ngữ thƣờng ở thể khẳng định tổng thể, mang tính khái quát, còn
ca dao thƣờng ở thể phản ánh hiện tƣợng, miêu tả chi tiết. Thí dụ: Cũng nói về
sự gắn bó vợ chồng, tục ngữ khẳng định "Vợ chồng đầu gối tay ấp", trong khi
đó ca dao miêu tả khá tỷ mỷ:
Cái quạt mƣời tám cái nan
Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu
Quạt này anh để che đầu
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này
Ƣớc gì chung mẹ chung thầy
Để em giữ cái quạt này làm thân
Rồi ta chung gối chung chăn
Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu
Nằm thời chung cái giƣờng Tàu
Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi
Ăn thời chung cả một nồi
Gội đầu chung cả dầu hồi nƣớc hoa
Chải đầu chung cái lƣợc ngà
Soi gƣơng chung cả nhành hoa giắt đầu.
2.3. Trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật đối, thì tục ngữ dùng
nhiều hơn ca dao
2.3.1. Đối ở tục ngữ đƣợc thể hiện ở hai bộ phận của câu, tạo ra hai ý
khác nhau hoặc dẫn dắt, đƣa đẩy nhau. Ví dụ :
Anh em trai ở với nhau mãn đại (a),
Chị em gái ở với nhau một thời (b).
Trong câu tục ngữ này, có đối cục bộ và đối tổng thể.
Đối cục bộ:
- Anh em trai đối với chị em gái
- Mãn đại đối với một thời
130
Đối tổng thể: vế (a) đối với vế (b).
Đối cục bộ và đối tổng thể hợp với nhau, đƣa đến ý nghĩa khái quát là
trong quan hệ gia đình, thì anh em trai gắn bó lâu dài hơn chị em gái.
Các thí dụ: "Bán anh em xa mua láng giềng gần" hay "Cha muốn cho con
hay, thầy mong cho con khá" cũng có cách đối tƣơng tự.
2.3.2. Nhiều câu ca dao không có đối. Nếu có đối, ở ca dao thƣờng mang
tính cục bộ, xảy ra giữa hai bộ phận của một dòng của tác phẩm, chứ ít xảy ra
giữa hai dòng. Thí dụ, câu ca dao sau không có đối:
Ai kêu ai hú bên sông
Tôi đang nấu nƣớng cho chồng tôi ăn.
Những câu ca dao sau có đối cục bộ:
1. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm
2. Cơm chiên ăn với cá ve
Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.
3. Củ lang Đống Ngỗ
Đỗ phụng Đồng Đinh
Chàng bòn thiếp mót
Để chung một gùi.
4. Đôi ta vợ cấy chồng cày
Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều
Ta nghèo vui phận ta nghèo
Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!
Trong các câu ca dao trên thì chỉ một bộ phận của câu có đối, cụ thể là
"Anh đi gặt" đối với "nàng quẩy cơm", "Thiếp đây" đối với "chàng đấy",
"chàng bòn" đối với "thiếp mót", "Chồng sƣơng sớm" đối với "vợ sƣơng
chiều" nhƣng không tạo ra sự đối lập, ngƣợc lại, tạo ra sự cân bằng, hoà quyện,
nói lên tình gắn bó vợ chồng.
2.4. Tục ngữ và ca dao khác nhau ở việc sử dụng ngôn từ
Trong tục ngữ, tác giả dân gian không sử dụng các đại từ nhân xƣng nhƣ
anh, chị, tôi, ta, mà dùng câu trần thuật để đúc kết một quy luật ("Dâu dâu rể rể
cũng kể là con") hoặc câu cầu khiến ((Phải) "Dạy con từ thủa còn thơ"). Trong
ca dao, vì là tiếng hát trữ tình, tiếng hát nội tâm, cần biểu đạt "cái tôi", cho nên
những đại từ ấy đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, không những vậy mà biến hoá
linh hoạt, tạo nên những sắc thái biểu cảm độc đáo. Đặc biệt là đại từ "Ai", đã
đƣợc các tác giả ca dao sử dụng nhƣ một công cụ biểu cảm sắc bén. Trong 730
câu ca dao về gia đình đã có tới 148 lƣợt đại từ "Ai" đƣợc sử dụng. Trong
131
tiếng Việt, thì từ "Ai" vốn là một đại từ nghi vấn, dùng để hỏi, nhƣng khi đƣợc
sử dụng trong ca dao, nó có nhiều chức năng hơn. Có trƣờng hợp, "ai" chỉ
ngƣời đối thoại:
1. Ai về anh dặn lời này
Phƣợng hoàng chỉ quyết đậu cây ngô đồng
2. Anh đi đƣờng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nƣớc non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng.
Rất nhiều trƣờng hợp "ai" chỉ ngƣời thứ ba không xác định:
1. Mặc ai lên võng xuống dù
Em đây đứng dƣới giàn bù vẫn vui.
2. Canh cải mà nấu với gừng
Không ăn thời chớ xin đừng mỉa mai
Khuyên chàng đừng ở đơn sai
Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng.
Các đại từ ta, mình cũng thƣờng đƣợc dùng, tạo không khí thân tình cho
văn cảnh:
Ăn mít bỏ xơ
Ăn cá bỏ lờ, mình chớ hay quên
Mình quên ta chả cho quên
Mình nhớ, ta nhớ mới nên vợ chồng.
Không những thế, các tác giả dân gian còn dùng rất nhiều danh từ chỉ các
loài thực vật thay cho đại từ nhân xƣng, khiến cho ca dao có hình ảnh, gần gũi
với thiên nhiên, nhƣ các danh từ trúc, mai, mận, đào... Thí dụ:
1. Bây giờ mận mới hỏi đào
Vƣờn hồng đã có ai vào hay chƣa?
Mận hỏi thời đào xin thƣa
Vƣờn hồng có lối nhƣng chƣa ai vào.
2. Ra về nhớ trúc nhớ mai
Nhớ đào nhớ liễu nhớ ai kết nguyền.
Lối dùng từ gắn với cỏ cây hoa lá nhƣ trên phản ánh cuộc sống của cƣ
dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc. Các loài thảo mộc gắn bó với con ngƣời tới
mức ăn sâu vào tiềm thức, bật ra thành những thành tố sinh động của tục ngữ,
ca dao. Trong Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ
qua một số ca dao – tục ngữ, Trần Thuý Anh cũng đã có nhận xét rằng ngƣời
nông dân thƣờng lấy hình ảnh trồng cây để làm khuôn mẫu.
132
Ca dao còn là tiếng nói giao duyên, cho nên có rất nhiều bài có các đoạn
đối thoại, mà tục ngữ thì không có nhƣ vậy. Thí dụ:
Ai về đƣờng ấy hôm nay
Ngựa hồng ai cƣỡi, dù tay ai cầm
- Ngựa hồng đã có tri âm
Dù tay đã có ngƣời cầm thì thôi.
Một nét phân biệt giữa tục ngữ và ca dao nữa, là trong ca dao có rất nhiều
thán từ, còn trong tục ngữ thì hầu nhƣ không có.
Thán từ hỡi ơi, chỉ thấy xuất hiện trong ca dao:
1. Mấy đời chỉ trắng bằng vôi
Ai thƣơng ai nhớ bằng đôi đứa mình
Bạn ơi! thức ngủ làm thinh
Dậy đây anh kể sự tình cho nghe
Ai làm chén nọ xa ve
Mùa thu đón đợi, mùa hè ngóng trông
Tam tứ bề yến bắc nhạn đông
Làm sao cho cá chậu xa chim lồng, hỡi ơi!
2. Hỡi ơi chú tiểu trên chùa
Chú tu sao chú bỏ bùa cho tôi.
Thống kê trong 730 câu tục ngữ về gia đình, không gặp một từ ơi nào,
trong khi đó qua 1.179 câu ca dao về gia đình có tới 43 từ ơi, mà phổ biến là Ai
ơi, Mẹ ơi, Bà ơi, Chàng ơi, Nàng ơi... nhƣ:
1. Cơm sôi bớt lửa kẻo trào
Mẹ ơi khoan bán, má đào đang non.
2. Ai ơi đợi với tôi cùng
Tôi còn gỡ mối tơ hồng chƣa ra.
Rõ ràng là, để bộc lộ tâm tƣ, tình cảm, các tác giả dân gian đã sử dụng
thành công biện pháp tu từ, làm cho các con chữ trở nên có hồn. Một lần nữa
chúng ta thấy các tác giả dân gian là bậc thầy về sử dụng ngôn từ.
TIỂU KẾT
1. Tục ngữ và ca dao là hai thể loại văn học dân gian, chúng có nhiều
điểm giống nhau dƣới đây:
- Phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống, tục ngữ, ca dao là một
trong những tƣ liệu đáng tin cậy để nghiên cứu về lịch sử, xã hội, tâm lý của
một đất nƣớc, một dân tộc.
- Tục ngữ và ca dao đều quan tâm đến việc phản ánh các mối quan hệ
trong gia đình, dành tỷ lệ trên dƣới 10% cho chủ đề này. Đây là tỷ lệ khá cao,
133
khác với một số thể loại khác. Tục ngữ, ca dao về gia đình là một bộ phận của
dòng văn hoá dân chủ của giai cấp bị trị, có nhiều nét khác biệt, có khi đối lập
so với dòng văn hoá của giai cấp thống trị, đi sâu vào đời sống thƣờng ngày,
vừa phản ánh, vừa ảnh hƣởng mạnh mẽ đến tƣ tƣởng, tình cảm, phƣơng cách
ứng xử của ngƣời lao động, góp phần tạo nên sắc thái đa dạng của nền văn hoá
Việt Nam.
- Tục ngữ, ca dao là thể loại có hình thức ngắn gọn, nội dung cô đọng
hơn các thể loại khác nhƣ truyện cổ tích, truyện cƣời...
- Do tục ngữ, ca dao quá ngắn gọn, cho nên khi nghiên cứu hình tƣợng
hay nội dung, không nên xem xét một cách đơn lẻ từng đơn vị mà cần xem xét
một cách tổng thể trong hệ thống.
2. Tục ngữ và ca dao có những điểm khác nhau dƣới đây:
- Tục ngữ thiên về lý trí, cho nên khi phản ánh các quan hệ trong gia
đình, tục ngữ thƣờng đúc kết những kinh nghiệm hoặc những yêu cầu ứng xử.
Ca dao là thể loại trữ tình, cho nên ca dao phản ánh quan hệ gia đình trong
chiều sâu tình cảm nhiều hơn.
- Nói về chủ đề quan hệ vợ chồng, ca dao dành tỷ lệ cao hơn tục ngữ (so
với chủ đề chung về gia đình, thì chủ đề vợ chồng chiếm 59% trong ca dao và
39% trong tục ngữ).
- Tục ngữ và ca dao có những nét khác biệt trong việc sử dụng các biện
pháp nghệ thuật nhƣ đối, tu từ... Ca dao thiên về xây dựng hình ảnh, hình
tƣợng, còn tục ngữ thiên về xử lí từ ngữ.
134
KẾT LUẬN
1. Tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đã phản ánh sinh động, đa dạng và sâu sắc các
mối quan hệ chính của gia đình ngƣời Việt. Dựa vào phƣơng pháp nghiên cứu
đƣợc gọi là "toán học hoá ngôn ngữ" của khoa học xã hội, với bộ công cụ là
Phần mềm về tục ngữ, Phần mềm về ca dao, từ việc định tính kết hợp với
định lƣợng đối tƣợng nghiên cứu, công trình đã tiến hành khảo sát một cách chi
tiết, tổng thể việc phản ánh phong tục tập quán của ngƣời Việt (trong quan hệ
gia đình) thể hiện qua tục ngữ, ca dao. Kết quả phân tích cho thấy: nội dung về
các mối quan hệ trong gia đình chiếm tỷ lệ khá cao so với các nội dung khác
của tục ngữ, ca dao. Điều đó chứng tỏ từ xa xƣa, ngƣời Việt đã rất coi trọng gia
đình và bằng văn học dân gian, họ đã bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của mình về các
mối quan hệ đa dạng của gia đình, truyền kinh nghiệm của mình lại cho muôn
đời sau. Gia đình có một hệ thống quan hệ chằng chịt chi phối lẫn nhau: cha
mẹ-con cái, vợ-chồng, anh chị-em, cha mẹ vợ-con rể, cha mẹ chồng-nàng dâu,
ông bà-con cháu. Các quan hệ đó có tính nhiều chiều và mỗi ngƣời thƣờng
đóng hai ba vai khác nhau, phải luôn điều chỉnh trong các vị thế đó để tạo sự
hài hoà. Công trình đã chứng minh đƣợc rằng tục ngữ, ca dao vừa phản ánh,
vừa quy định sự điều chỉnh này, làm cho các quan hệ gia đình không bị đứt ở
một mối quan hệ nào, gây nguy cơ phá vỡ toàn bộ hệ thống quan hệ.
2. Qua tục ngữ, ca dao, công trình đã cho thấy phong tục tập quán ngƣời Việt
trong quan hệ gia đình có những nét riêng độc đáo mang tính truyền thống bền
vững bên cạnh những nét chung của cƣ dân vùng Đông Nam Á chịu ảnh hƣởng
của nhiều luồng tƣ tƣởng, trong đó đáng kể nhất là tƣ tƣởng Nho giáo và Phật
giáo.
3. Qua tục ngữ, ca dao, ngƣời nghiên cứu thấy rõ tính chất dân chủ, bình
đẳng, khoan hòa, nhân văn là tính chất "trội" của quan hệ gia đình ngƣời Việt.
Ở đây sự thƣơng yêu, nhƣờng nhịn, hợp lực với nhau "chồng cày vợ cấy",
"thuận vợ thuận chồng" là nguyên tắc cơ bản, nhằm cùng nhau xây dựng hạnh
phúc gia đình. Với bản tính ôn hoà, gắn bó với cộng đồng, hoà đồng với thiên
nhiên, ngƣời Việt xây dựng gia đình trên nền tảng coi trọng tổ tiên, coi trọng
tình nghĩa, coi trọng sự hoà thuận, xa lạ với lối sống gây hiềm khích, ƣa hung
bạo.
135
4. Trên cơ sở nhận thức rằng cấu trúc của văn hóa Việt Nam là một tổng thể
có hai tầng bậc chính: văn hoá bác học và văn hoá dân gian, công trình đã đi
sâu vào tầng bậc văn hoá dân gian, có đối chiếu với tầng bậc văn hoá bác học.
Văn hóa bác học ảnh hƣởng chủ yếu đến tầng lớp trên - vua quan, nhà giàu,
nho sĩ bậc cao... và văn hóa dân gian ảnh hƣởng chủ yếu đến tầng lớp dƣới -
nông dân, ngƣời buôn bán, ngƣời thợ thủ công, nho sĩ nghèo... Hai tầng văn
hóa đó vừa có tính riêng biệt vừa thƣờng xuyên ảnh hƣởng lẫn nhau.
5. Công trình đã thực hành một quan điểm tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt
Nam qua văn hóa dân gian, cụ thể là qua hệ thống tục ngữ, ca dao, bằng thao
tác tiếp cận tổng thể trong hệ thống, trong mối quan hệ với văn hóa bác học, do
đó đem đến những kết quả có phần phong phú, có sức thuyết phục hơn so với
kết luận của một số tác giả đi trƣớc.
6. Ông cha chúng ta đã để lại một kho tàng tục ngữ, ca dao phong phú, trong
đó chứa đựng một mô hình gia đình cùng với những mối quan hệ tốt đẹp thuộc
về bản sắc văn hoá Việt Nam. Công trình cho thấy tục ngữ, ca dao cũng đã
cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm ứng xử, giáo dục gia đình sinh động và khả
thi. Với những giá trị lớn nhƣ đã phân tích trên đây, tục ngữ, ca dao vẫn đƣợc
đánh giá cao và có tác dụng tích cực làm giầu nhận thức, làm đẹp tâm hồn của
con ngƣời trong xã hội hiện đại, đặc biệt là có giá trị thiết thực giúp con ngƣời
giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhƣ vậy, tục ngữ, ca dao không những là vốn quý về văn học nghệ thuật, mà
còn là vốn quý về kinh nghiệm sống, về cách thức ứng xử để giữ yên tổ ấm gia
đình, về cách nghĩ, cách diễn đạt của nhân dân mà chúng ta cần nghiên cứu,
thấm nhuần để vận dụng vào công việc hàng ngày.
7. Công trình cũng đã nêu lên những khiếm khuyết cần khắc phục trong quan
hệ của gia đình ngƣời Việt đƣợc phản ánh qua tục ngữ, ca dao. Những khiếm
khuyết chính là cách đối xử nghiệt ngã, bất công của không ít gia đình nhà
chồng với nàng dâu, là sự đối xử không tốt của một số con cái đối với cha mẹ,
là sự chi phối của vật chất vào các quan hệ gia đình mà tục ngữ, ca dao đã phản
ánh và phê phán. Đó còn là sự chi phối tiêu cực của lễ giáo phong kiến, của
Nho giáo, là tƣ tƣởng cục bộ trong một số phƣơng cách ứng xử. Những khiếm
khuyết ấy còn tồn tại đến ngày nay, và chúng ta cần nhận thức đúng để khắc
phục.
136
8. Kết quả nghiên cứu của công trình cho thấy công nghệ thông tin có khả
năng giúp cho việc khảo sát tƣ liệu đƣợc chính xác, nhanh chóng, từ đó dẫn tới
những kết luận mang tính khách quan, khoa học. Cần mở rộng phạm vi ứng
dụng của công nghệ thông tin, trong đó có việc xây dựng những phần mềm
chuyên dụng vào việc nghiên cứu văn học dân gian nói riêng, khoa học xã hội
và nhân văn nói chung. Bộ công cụ sử dụng để khảo cứu công trình (Phần
mềm về tục ngữ, Phần mềm về ca dao) có thể đƣợc phổ biến rộng rãi để khai
thác tiếp những nội dung khác của tục ngữ, ca dao, đồng thời có thể coi là mô
hình cho việc xây dựng các phần mềm chuyên dụng khác dùng để khảo cứu văn
học dân gian nói riêng cũng nhƣ khoa học xã hội và nhân văn nói chung.
Công trình đã bƣớc đầu thực hiện đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu tục ngữ, ca dao
của ngƣời Việt ở chủ đề phản ánh quan hệ gia đình. Để góp phần tiến tới nhận
thức, hiểu biết toàn diện hơn về con ngƣời Việt Nam, dân tộc Việt Nam, bản
sắc văn hoá Việt Nam, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu tục ngữ, ca dao
theo các chủ đề khác nữa, và cần có những công trình nghiên cứu tục ngữ, ca
dao của các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam ./.
137
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thuý Anh (2000), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu
thổ Bắc Bộ qua một số ca dao – tục ngữ. NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
2. Toan Ánh (1999), Làng xóm Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Tp
Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2000), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình,
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
4. Ăng-ghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Bảo (1998), Thành ngữ - cách ngôn gốc Hán, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở
Hà Nội và châu thổ Bắc bộ, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
7. Nguyễn Bình (1999), Tục ngữ - ca dao cười (Hài hước trẻ 2), NXB
Thanh niên, Hà Nội.
8. Nguyễn Viết Bình (1997), Gia đình, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2,
tr.69-70.
9. Phan Kế Bính (1990) (tái bản), Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp Đồng
Tháp, Đồng Tháp.
10. Nguyễn Văn Bổn (1983), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng,
Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng.
11. Nguyễn Văn Bổn (2001), Văn học dân gian Quảng Nam, Sở Văn hoá -
Thông tin Quảng Nam, Quảng Nam,.
12. Trần Đức Các (1995), Tục ngữ với một số thể loại văn học, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
13. Bùi Hạnh Cẩn - Bích Hằng - Việt Anh (2000), Thành ngữ - tục ngữ
Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
14. Nguyễn Đổng Chi - Ninh Viết Giao - Võ Văn Trực (chủ biên) (1996),
Kho tàng ca dao xứ Nghệ, NXB Nghệ An, Nghệ An.
15. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,
Nxb Văn hóa Thông tin, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.
16. Đoàn Văn Chúc (1997) (tái bản), Văn hóa học, NXB Văn hóa - Thông
tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
138
17. Việt Chƣơng (1998) (tái bản), Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao
Việt Nam (Quyển thƣợng), NXB Đồng Nai, Đồng Nai,.
18. Việt Chƣơng (1998) (tái bản), Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt
Nam (Quyển hạ), NXB Đồng Nai, Đồng Nai.
19. Bùi Văn Cƣờng (1987), Phương ngôn, tục ngữ - ca dao, Hội Văn học
nghệ thuật Hà Nam Ninh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Nghĩa Dân (1977), Ca dao Việt Nam (1945 - 1975), NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
21. Nguyễn Nghĩa Dân (2000), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt
Nam, NXB Thanh niên.
22. Chu Xuân Diên - Lƣơng Văn Đang - Phƣơng Tri (1975), Tục ngữ Việt
Nam, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
23. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội,
NXB Khoa học xã hội, NXB Mũi Cà Mau.
24. Phan Đại Doãn (1998), Về dòng họ ở nông thôn hiện nay, Tạp chí Văn
hoá nghệ thuật, số 10, tr.9-10.
25. Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ
và tục ngữ Việt nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
26. Phạm Đức Duật (chủ biên) (1981), Văn học dân gian Thái Bình, Ty Văn
hóa Thông tin Thái Bình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Phạm Vũ Dũng (1998), Gia đình và sự nhập thân văn hóa của trẻ em,
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 1, tr45-49.
28. Phạm Vũ Dũng (1999), Văn hóa ứng xử của người phụ nữ qua "Kho
tàng ca dao người Việt" (Luận văn Thạc sĩ), Viện nghiên cứu văn hóa
dân gian, Hà Nội.
29. Vũ Cao Đàm (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB
Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
30. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
31. Phan Thị Đào (1999), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, NXB
Thuận Hóa, Huế.
32. Bùi Huy Đáp (1999), Ca dao tục ngữ về khoa học nông nghiệp, NXB
Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, Đà Nẵng.
33. Nhàn Vân Đình (1999), Câu cửa miệng, NXB Văn học và Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
139
34. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001) Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
35. Cao Huy Đỉnh (1998), Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
36. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 10),
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
37. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 11),
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
38. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 12),
NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
39. Lê Giang - Lƣ Nhất Vũ - Nguyễn Văn Hòa - Minh Luân (1986), Dân ca
Hậu Giang, Sở Văn hóa - Thông tin Hậu Giang, Cần Thơ.
40. Phi Hà và Thanh Bình (1960), Để xây dựng một chế độ hôn nhân và gia
đình kiểu mới, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
41. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
42. Mai Văn Hai - Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ
sông Hồng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1999) (tái bản), Kể chuyện thành ngữ -
tục ngữ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hằng (1999), Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện
đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Võ Nhƣ Hầu (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam = Vietnamese
prverbs folk poems and folk songs (Song ngữ Việt - Anh), NXB Đồng
Nai, Đồng Nai.
46. Vƣơng Trung Hiếu (1996), Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, NXB Văn
nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
47. Lê Nhƣ Hoa (chủ biên) (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam
trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
48. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,.
49. Nguyễn Huy Hoàng (2000), Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử
của C.Mác, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
50. Lê Văn Hòe (1952), Tục ngữ lược giải, NXB Quốc học thƣ xã, Hà Nội.
140
51. Đào Văn Hội (1971), Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao, Sống
mới, Sài Gòn.
52. Đỗ Huy, Trƣờng Lƣu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong Văn hóa
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Đỗ Huy (1997), Xây dựng văn hóa gia đình trong văn hóa cơ sở, Tạp
chí Văn hoá nghệ thuật, số 7, tr.34-37,40.
54. Đỗ Huy (1998), Văn hóa gia đình trong nền văn hóa truyền thống ở
nước ta, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 3, tr.64-67.
55. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Phùng Hƣng (1996), Phụ nữ và văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
57. Trần Đình Hƣợu (1996, in lần 2), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB
Văn hoá.
58. Trần Đình Hƣợu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, NXB
Đại học quốc gia, Hà Nội.
59. Châu Nhiên Khanh (2000), Ca dao Việt Nam: Tác phẩm. Những bài
nhận định, phê bình tiêu biểu, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.
60. Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên (1973), Văn học dân gian Việt Nam,
NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
61. ĐINH Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh
văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (1998), Từ điển thành ngữ - tục ngữ
Hoa - Việt, NXB Khoa học xã hội.
63. Nguyễn Bách Khoa (2000) (tái bản), Kinh thi Việt Nam, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Kiêu (1982), Bàn về xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa,
NXB Sự thật, Hà Nội.
65. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
66. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca
dao người Việt (tập 1), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
67. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 2), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
68. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 3), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
141
69. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 4), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
70. Mã Giang Lân (1998), Tục ngữ - ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
71. Võ Thị Hồng Loan (1998), Nhân cách văn hóa và ảnh hưởng của gia
đình, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6, tr.76-77.
72. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập
1), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
73. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập
2), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
74. Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản có liên quan (1996), (Tài
liệu), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Một số giá trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở nông
thôn hiện nay (1998), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (1962), Hồ Chủ Tịch bàn về giáo dục, NXB Giáo dục, Hà
nội.
77. Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
78. Lê Minh (chủ biên) (1994), Những tình huống ứng xử trong gia đình,
NXB Lao Động.
79. Bùi Xuân Mỹ - Phan Minh Thảo (1995), Tục cưới hỏi, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
80. Sơn Nam (1997), Truyền thống gia đình Nam Bộ, Tạp chí Văn hoá nghệ
thuật, số 5, tr.73-74.
81. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
82. Ôn nhƣ Nguyễn Văn Ngọc (tái bản) (1957), Tục ngữ - phong dao, NXB
Minh Đức.
83. Phạm Thế Ngũ (tái bản) (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
(tập 1), NXB Đồng Tháp.
84. Triều Nguyên (1999), Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi
theo mô hình cấu trúc, NXB Thuận Hóa, Huế.
85. Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt,
NXB Thuận Hóa, Huế.
86. Triều Nguyên (2001), Bình giải ca dao, NXB Thuận Hóa, Huế.
87. Hồ Quốc Nhạc (chủ biên) (2000), Ca dao Việt Nam (tập 1), NXB Đồng
Nai, Đồng Nai.
142
88. Hồ Quốc Nhạc (chủ biên) (2000), Ca dao Việt Nam (tập 2), NXB Đồng
Nai, Đồng Nai.
89. Nguyễn Tá Nhí (2000), Làng mỹ tục Hà Tây, Sở Văn hóa - Thông tin
Hà Tây, Hà Tây.
90. Nhiều tác giả (1976), Xây dựng gia đình, xây dựng cuộc sống văn minh,
hạnh phúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
91. Nhiều tác giả (1991), Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu
hội nghị. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu khoa
học về phụ nữ, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (1991), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (1992), Một trăm câu ca dân gian Quảng Ngãi, Sở Văn
hóa - Thông tin và Thể thao Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
94. Nhiều tác giả (1992), Văn học dân gian Quảng Trị, Sở Văn hóa Thông
tin Thể thao, Thƣ Viện Quảng Trị, Quảng Trị.
95. Nhiều tác giả (1993), Tục ngữ - ca dao - dân ca Hà Tây, Sở Văn hóa
Thông Tin Thể thao Hà Tây, Hà Tây, 1993.
96. Nhiều tác giả (1995), Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn
lực trong sự đổi mới của đất nước, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Nhiều tác giả (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội,
cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Nhiều tác giả (1996), Ca dao dân ca trên vùng đất Phú Yên, Sở Khoa
học - Công nghệ - Môi trƣờng, Hội Văn nghệ dân gian và văn hóa các
dân tộc tỉnh Phú Yên, Tuy Hòa.
99. Nhiều tác giả (tái bản) (1997), Phê bình, bình luận văn học (Ca dao -
dân ca - Tục ngữ - vè), NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Hồ Chí Minh.
100. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 1), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
101. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 2), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 3), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
103. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 4), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
104. Nhiều tác giả (1999), Tết năm mới ở Việt Nam, Viện Văn hóa - NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
143
105. Nhiều tác giả (1999), Văn hóa dòng họ ở Thái Bình, Sở văn hóa -
Thông tin Thái Bình và Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, Thái Bình.
106. Nhiều tác giả (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (Tập IV,
Quyển 1), NXB Giáo dục, Hà Nội.
107. Nhiều tác giả (2000), Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ,
+NXB Tp Hồ Chí Minh.
108. Nhiều tác giả (2001), Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB Văn
học.
109. Nhiều tác giả (2001), Ca dao Việt Nam - những lời bình, NXB Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.
110. Nhiều tác giả (không rõ năm ), Quốc hội Việt Nam với Luật Hôn nhân
gia đình, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
111. Nhóm nghiên cứu nông thôn (1974), Nông thôn Việt Nam (tài liệu in rô
nê ô), Sài gòn.
112. Lƣơng Ninh (chủ biên) (2000), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
113. Những văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình (1994) (tài liệu),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
114. Vũ Ngọc Phan (in lần thứ 12) (1999), Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội.
115. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
116. Chúc Phong (ngày 15 tháng 9 năm 1999), Có thể gọi đây là những gia
đình được không?, Văn hóa thứ tƣ, Hà Nội.
117. Đông Phong (1998), Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Mũi
Cà Mau, Cà Mau.
118. Thuần Phong (1057), Tính giao kết trong câu hò miền Nam, Tạp chí
Bách khoa số 9, Sài Gòn.
119. Thuần Phong (1957), Đạo nghĩa vợ chồng trong câu hò miền Nam, Tạp
chí Bách khoa số 13, Sài Gòn.
120. Lê Chân Phƣơng (1960), Luật Hôn nhân gia đình triệt để giải phóng
phụ nữ, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
121. Đạm Phƣơng nữ sử (2000), Tuyển tập Đạm Phương nữ sử, NXB Văn
học, Hà Nội.
122. Hằng Phƣơng (1960), Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca
dao Việt Nam, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
144
123. Đỗ Lan Phƣơng (1997), Về quan hệ gia đình và xã hội ở nông thôn Bắc
Bộ hiện nay (qua khảo sát làng Mẫn Xá - Văn Môn - Yên Phong - Bắc
Ninh), Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 9, tr.73-76, số 10, tr.78-80.
124. Đỗ Lan Phƣơng (1996), Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong văn hóa
nghệ thuật truyền thống, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12, tr.64-65,
72.
125. Tam Phƣơng (1958), Giải thích vài tục ngữ về trồng lúa, NXB Nông
Thôn, Hà Nội.
126. Lê Chí Quế (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
127. Lê Quốc, Ý đẹp lời hay (1999), NXB Văn hóa - Thông tin,.
128. Vũ Tiến Quỳnh (2000), Ca dao tình yêu, NXB Văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
129. Anh Sơn (1998), Trao đổi về công, dung, ngôn, hạnh ở Huế hiện nay,
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 9, tr.78-81.
130. Phạm Côn Sơn (1998), Nền nếp gia phong, NXB Tổng hợp Đồng Tháp,
Đồng Tháp.
131. Từ Sơn (1998), Giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục, một phương
diện của chiến lược văn hóa giáo dục lòng yêu nước, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, số 2, tr.4-7, số 3, tr.6-8.
132. Nguyễn Quốc Tăng (2000), Tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB Thuận Hóa,
Huế.
133. Đỗ Văn Tân (chủ biên) (1984), Ca dao đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa -
Thông tin Đồng Tháp, Đồng Tháp.
134. Tạ Văn Thành (1998), Xây dựng gia đình văn hóa trong bối cảnh của
lối sống đô thị, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 7, tr.73-74.
135. Nguyễn Phƣơng Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác
thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.
136. Lê Ngọc Thắng (chủ biên) (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
137. Lê Thi (Chủ biên) (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
138. Trƣơng Thìn (chủ biên) (1996), Văn hóa phi vật thể xứ Huế, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
139. Lƣu Nhân Thiện (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
145
140. Ngô Đức Thịnh (1997), Văn hóa dòng họ ở Nghệ An trong sự nghiệp
thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI (Tổng thuật
hội thảo), Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 4, tr.61-64.
141. Lê Viết Thọ (1997), Gia đình Việt Nam truyền thống và việc xây dựng
gia đình văn hóa hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7, tr.43-46.
142. Nguyễn Hữu Thức (1996), Văn học dân gian Hà Tây và việc chấn hưng
văn hóa địa phương (Luận văn Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn), Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
143. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước lệ làng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
144. Trọng Toàn (1999), Hương hoa đất nước (tập 1), NXB Trẻ, thành phố
Hồ Chí Minh.
145. Trọng Toàn (1999), Hương hoa đất nước (tập 2), NXB Trẻ, thành phố
Hồ Chí Minh.
146. Tổ Biên tập văn học dân gian Tiền Giang, Văn học dân gian Tiền Giang
(1985) Sở Văn hóa - Thông tin Tiền Giang, Mỹ Tho.
147. Hà Huy Tú (1997), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với việc hình thành
văn hóa gia đình, Tham luận Hội thảo khoa học Văn hóa gia đình với
chiến lƣợc dân số và phát triển, Bộ Văn hoá Thông tn, Hà Nội.
148. Hoàng Tiến Tựu, Bình giảng ca dao (2000) (tái bản lần thứ 5), NXB
Giáo dục, Hà Nội
149. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), Tài liệu, Bộ Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
150. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII (1998) Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
151. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp
nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
152. Huỳnh Khái Vinh (2000), Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
153. Lƣ Nhất Vũ - Lê Giang (2000), Dân ca Bến tre, Sở Văn hóa - Thông tin
Bến Tre, Bến Tre.
154. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình học tác giả văn học Nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
155. Trần Quốc Vƣợng (1996), Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam,
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 12, tr.43-44.
156. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
146
157. Nguyễn Khắc Xuyên (1998), Những tác phẩm ca dao - tục ngữ được
xuất bản trước đây một thế kỷ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
158. Nguyễn Khắc Xƣơng (1994), Tục ngữ - ca dao - dân ca Vĩnh Phú, Sở
Văn hóa - Thông tin - Thể thao Vĩnh Phú, Phú Thọ.
159. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG PHÁP
1. Balmir, Guy-Claude (1982), Essai de littérature sur le chant et la poésie
populaire de Noirs Americains, Payot, Paris.
2. Mori, Toshiko (1987), Folklore et théatre au Japon, Publ. Orientaliste de
Paris, Paris.
3. Ri Il Bok (1989), Kim Djeung IL une grande personnalité, Youn Sang
Hyeun-Pyongyang, Corée.
147
MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC
1. Tục ngữ Trang 151
1.1. Mối quan hệ vợ chồng
1.2. Tình cảm vợ chồng - gắn bó
1.3. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng
1.4. Quan hệ cha mẹ con
1.5. quan hệ anh chị em
1.6. quan hệ con dâu, con rể
2. Ca dao
2.1. quan hệ vợ chồng - gắn bó
2.2. đạo nghĩa vợ chông
2.3. ông tơ bà nguyệt
2.4. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng
2.5. Quan hệ cha mẹ con - về đạo hiếu
2.6. Quan hệ cha mẹ con - trách nhiệm
2.7. quan hệ cha mẹ con - Những biểu hiện tiêu cực
2.8. Quan hệ nàng dâu và gia đình chồng
2.9. Hôn nhân - cam chịu
2.10. Hôn nhân - trách móc
2.11. Hôn nhân - quyền cha mẹ
2.12. Hôn nhân - chống lại lễ giáo phong kiến
2.13. Hôn nhân - lƣỡng lự
2.14. Hôn nhân - tự giác
2.15. Con cá trong ca dao về tình yêu, hôn nhân và gia đình
148
1. TỤC NGỮ
1.1. MỐI QUAN HỆ VỢ CHỒNG
STT NỘI DUNG
1. Ai mà nói dối cùng chồng, thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao.
2. Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại.
3. Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì nhục.
4. Bà phải có ông, chồng phải có vợ.
5. Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.
6. Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.
7. Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ đừng từ mẹ cha.
8. Bởi chồng cờ bạc, nên lòng chẳng thƣơng.
9. Cá dƣới sông, vợ chồng thuyền chài đánh nhau.
10. Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.
11. Chẳng tham nhà ngói ba toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.
12. Chẳng tham nhà ngói rung rinh, tham về một mối anh xinh miệng
cƣời.
13. Chẳng tham vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế gian.
14. Chê chồng chẳng bõ chồng chê.
15. Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.
16. Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.
17. Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng ngƣời.
18. Chết trẻ còn hơn lấy lẽ.
19. Chiếu hoa, nệm gấm không chồng cũng hƣ.
20. Chiều ngƣời lấy của, chiều chồng lấy con.
- Chiều ngƣời lấy việc, chiều chồng lấy con.
21. Chồng ăn chả, vợ ăn nem.
22. Chồng ăn giò vợ co chân chạy, chồng ăn mày mạy vợ lạy vợ về.
23. Chồng bé vợ lớn ra tình chị em.
24. Chồng cần vợ kiệm là tiên; ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.
25. Chồng chèo thì vợ cũng chèo.
26. Chồng chết chƣa héo cỏ đã bỏ đi lấy chồng.
27. Chồng còng lấy vợ cũng còng, nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.
28. Chồng dại, luống tổn công phu nhọc mình.
29. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài.
30. Chồng đôi vợ ba.
31. Chồng đông, vợ đoài.
32. Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.
- Chồng dữ thì em mới lo.
149
- Chồng dữ thì em mới sầu.
33. Chồng đƣờng, vợ sá.
34. Chồng em áo rách em thƣơng, chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc
ngƣời.
35. Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào.
36. Chồng già vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.
- Chồng già, vợ trẻ là tiên.
37. Chồng già vợ trẻ nâng niu, chồng trẻ vợ già nhiều điều đắng cay.
38. Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
- Chồng giận thì vợ bớt lời.
39. Chồng giận thì vợ làm lành.
40. Chồng giận thì vợ phải lui, chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng.
41. Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
42. Chồng hen lại lấy vợ hen, đêm nằm cò cử nhƣ kèn thổi đôi.
43. Chồng hoà, vợ thuận.
44. Chồng học trò, vợ con hát.
45. Chồng khó giữa làng còn hơn chồng sang thiên hạ.
46. Chồng khôn vợ ngoan, chồng quan vợ bợm.
- Chồng khôn vợ ngoan.
47. Chồng khôn thì nổi cơ đồ, chồng dại luống cổ công phu nặng mình.
- Chồng khôn thì nổi cơ đồ.
48. Chồng lành dễ khiến, chồng khôn khó chiều.
49. Chồng loan, vợ phƣợng.
50. Chồng lớn vợ bé thì xinh, chồng bé vợ lớn ra tình chị em.
51. Chồng ma, vợ quỉ.
52. Chồng nào vợ nấy.
53. Chồng ngƣời chẳng mƣợn đƣợc lâu.
54. Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ hom.
- Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom.
55. Chồng què lấy vợ kiễng chân, nuôi đƣợc đứa ở đứt chân cũng què.
56. Chồng sang đi võng đầu rồng, chồng hèn gánh nặng đè còng cả lƣng.
57. Chồng sang vì bởi vợ ngoan.
58. Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan chồng đƣợc tối ngày cậy
trông.
59. Chồng ta áo rách, ta thƣơng.
60. Chồng tới vợ lui, chồng hoà vợ thuận.
61. Chồng tốt ai chẳng muốn lấy, biết giá chồng đáng mấy mà mua.
62. Chồng thấp mà lấy vợ cao, nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.
63. Chồng thấp vợ cao nhƣ đôi đũa lệch biết bao giờ bằng.
64. Chồng yêu cái tóc nên dài, cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.
150
65. Chƣa chồng đi dọc đi ngang, có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.
66. Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.
- Có chồng chẳng đƣợc đi đâu.
67. Có chồng nhƣ ngựa có cƣơng.
68. Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
69. Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.
70. Có chồng thƣơng kẻ nằm không một mình.
71. Có con phải khổ vì con, có chồng phải gánh giang sn nhà chồng.
- Có con phi khổ vì con.
72. Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng.
73. Có ông chồng siêng nhƣ có ông tiên nho nhỏ.
74. Có phúc lấy đƣợc vợ già, sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh.
75. Có tiền vợ vợ chồng chồng, hết tiền chồng đông vợ đoài.
76. Có vợ có chồng nhƣ đũa có đôi.
77. Coi vợ già nhƣ chó nằm nhà gác.
78. Cơm chẳng lành canh chẳng ngon, chín đụn mƣời con cũng lìa.
79. Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời.
80. Cơm trắng ăn với chả chim, chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no.
81. Còn duyên đóng cửa kén chồng.
82. Còn duyên kén những trai tơ.
83. Con giai ở nhà vợ, nhƣ chó nằm gầm chạn.
84. Con hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.
85. Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.
86. Của chồng công vợ.
87. Của ngƣời thì đứng mà trông, của chồng thì cất lấy mà ăn.
88. Của rẻ của ôi, tôi rẻ tôi trốn, vợ rẻ vợ lộn.
89. Củi mục cành đun, chồng lành dễ khiến, chồng khôn khó chiều.
90. Củi mục khó đun, chồng lành dễ khiến, chồng khôn dễ chiều.
91. Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài.
92. Đàn bà mà lấy đàn ông thiệt gì.
93. Đàn ông vƣợt bể có chúng có bạn, đàn bà vƣợt cạn chỉ có một mình.
94. Đói bụng chồng, hồng má vợ.
95. Đau đẻ, ngứa ghẻ, đòn ghen.
96. Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chăn loan gối phƣợng không chồng cũng
hƣ.
97. Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.
98. Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
99. Đói bụng chồng, đau lòng vợ.
100. Đói no có vợ có chồng, chia niêu sẻ đấu đau lòng nát gan.
101. Đói no một vợ, một chồng.
151
102. Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng, đổi vợ xƣa nay chẳng lành.
103. Đừng thấy chồng hiền, xỏ chân lỗ mũi.
104. Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.
105. Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan.
106. Gái chính chuyên chẳng lấy hai chồng.
107. Gái có chồng nhƣ chông nhƣ mác, gái không chồng nhƣ rác nhƣ rơm.
108. Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ, gái không chồng nhƣ phản gỗ long
đanh.
109. Gái có chồng nhƣ rồng có vây, gái không chồng nhƣ cối xay chết
ngõng.
110. Gái có công, chồng chẳng phụ.
111. Gái giết chồng, đàn ông ai nỡ giết vợ.
- Gái giết chồng, chứ đàn ông không ai giết vợ.
112. Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.
113. Gái không chồng nhƣ thuyền không lái.
114. Gái kia chồng rẫy khoe tài chi em.
115. Gái mạnh về chồng.
116. Gái năm con ở chƣa hết lòng chồng.
117. Gái ngoan làm quan cho chồng.
118. Gái rẫy chồng mƣời lăm quan quí, trai rẫy vợ tiền phí xuống sông.
119. Gái trồng rẫy không phải chứng nọ, thì tật kia.
120. Gái thƣơng chồng đang đông buổi chợ, trai thƣơng vợ nắng quái
chiều hôm.
121. Ghe bầu chở lái về đông, làm thân con gái thờ chồng nuôi con.
122. Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.
123. Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó nƣớc ngƣời phải kiếp cũng
theo.
124. Giàu về bạn, sang về vợ.
125. Hẩm duyên lấy phải chồng đần, có trăm mẫu ruộng bán dần mà ăn.
126. Hay ăn miếng ngon chồng con trả ngƣời.
127. Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
128. Khó giữa làng, còn hơn chồng sang thiên hạ.
129. Khôn đi làm lẽ, khoẻ đi ở mùa.
130. Khôn với vợ, dại với anh em.
131. Không vợ đứng ở lề đƣờng.
132. Lắm con, lắm nợ, lắm vợ nhiều cái oan gia.
133. Lắm duyên nhiều nợ, lắm vợ nhiều oan gia.
134. Làm quan đã có cơm vua, lấy chồng đã có cơm mua của chồng.
135. Làm quan hay quân, làm chồng hay vợ.
136. Làm ruộng có trâu, làm dâu có chồng.
152
137. Làm ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.
138. Làm trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu nghé hoa.
139. Làm tƣớng hay quân, làm chồng hay vợ.
140. Làm tuỳ chủ, ngủ tuỳ chồng.
141. Làm thân con gái thờ chồng, nuôi con.
142. Lấy chồng ăn mày chồng.
143. Lấy chồng bắt thói nhà chồng, đừng giữ thói cũ ở cùng mẹ cha.
144. Lấy chồng chè rƣợu là duyên nợ nần.
145. Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.
146. Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dƣa.
147. Lấy chồng cho đáng hình dong con ngƣời.
148. Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng
đen.
149. Lấy chồng cho đáng tấm chồng.
150. Lấy chồng cho đáng việc vua, việc làng.
151. Lấy chồng cờ bạc là tiên.
152. Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh.
153. Lấy chồng đánh bạc nhƣ voi phá nhà.
154. Lấy chồng hay chữ nhƣ soi gƣơng vàng.
155. Lấy chồng hơn ở goá.
156. Lấy chồng khó giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ.
157. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.
158. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may.
159. Lấy chồng nhờ hồng phúc nhà chồng.
160. Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.
161. Lấy chồng thì chọn trƣởng nam cho giàu.
162. Lấy chồng thì phải theo chồng, thôi đừng theo thói cha ông nhà mình.
163. Lấy chồng thì phải theo chồng.
164. Lấy con xem nạ, lấy gái hoá xem đời chồng xƣa.
165. Lấy kẻ chê chồng, chớ lấy kẻ chồng chê.
166. Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống.
167. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống.
168. Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
169. Lệnh ông không bằng cồng bà.
170. Lúa trỗ thập thòi, vợ chồng đánh nhau lòi mắt.
171. Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì
nơi.
172. Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải theo.
173. Mảnh chồng quan bằng đàn chồng dân.
174. Một chồng rẫy là bảy chồng chờ.
153
175. Một là vợ, hai là nợ.
176. Một vợ không khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi.
177. Một vợ nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng
heo.
178. Mua cam thì chọn giống cam, lấy chồng thì chọn trƣởng nam cho
giàu.
179. Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng.
180. Mua thịt thì chọn miếng mông, lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.
181. Muôn nghìn chớ lấy học trò, dài lƣng tốn vải ăn no lại nằm.
182. Muốn nói không, làm chồng mà nói.
183. Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời.
184. Ngƣời ba bốn vợ, ngƣời không vợ nào.
185. Nhà khó cậy vợ hiền, nƣớc loạn nhờ tƣớng giỏi.
186. Nhất vợ nhì trời.
187. Nhƣờng cơm nhƣờng áo, không ai nhƣờng chồng.
188. Nhứt củ khoai đầu vồng, nhì có chồng trƣởng nam.
189. Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai.
190. Ở goá ba đông, lấy chồng hay ngủ.
191. Phận gái theo chồng.
192. Phu quí, vợ vinh.
193. Phụ vợ, không gặp vợ.
194. Phu xƣớng, phụ tòng.
195. Phúc nhà vợ chẳng bằng nợ nhà chồng.
196. Quen nhà mạ, lạ nhà chồng.
197. Quen việc nhà mạ, lạ việc nhà chồng.
198. Ruộng đầu chợ, vợ đầu làng.
199. Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng.
200. San sát nhƣ hai gái lấy một chồng.
201. Sống quê cha, ma quê chồng.
202. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
203. Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.
204. Tạm vợ, vợ già; tạm nhà, nhà nát.
205. Tay không chẳng thèm nhờ vợ.
206. Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.
207. Thà rằng làm lẽ thứ mƣời, còn hơn chính thất những ngƣời đần ngu.
208. Thế gian một vợ một chồng, chẳng nhƣ vua bếp hai ông một bà.
209. Thế gian vợ giống tính chồng, đời nào đầy tớ giống ông chủ nhà.
210. Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
211. Thứ nhất đau đẻ, thứ hai ngứa ghẻ, đòn ghen.
212. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.
154
213. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi.
214. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
215. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn
216. Thƣơng chồng nên phải lầm than.
217. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.
218. Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.
219. Thƣơng chồng nên phải gắng công.
220. Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ.
221. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia.
222. Thuyền không lái nhƣ gái không chồng.
223. Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng.
224. Thuyền theo lái, gái theo chồng.
225. Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa
226. Tốt duyên lấy đƣợc chồng chung.
227. Tốt duyên lấy đƣợc chồng hiền.
228. Tốt mối lấy đƣợc chồng sang.
229. Trai chê vợ mất của tay không, gái chê chồng một đồng trả bốn.
230. Trai bao nhiêu vợ cũng chƣa bằng lòng.
231. Trai có vợ nhƣ giỏ có hom.
232. Trai có vợ nhƣ lỗ tiền chôn.
233. Trai có vợ nhƣ rợ buộc chân.
234. Trai có vợ tề gia nội trợ.
235. Trai con một thì lấy, gái con một thì đừng.
236. Trai hơn vua đƣợc lúc đua thuyền, gái hơn chồng đƣợc lúc bồng con.
237. Trai làm nên năm thê, bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng.
238. Trai ơn Vua lúc đua thuyền rồng, gái ơn chồng lúc bồng con thơ.
239. Trai ơn Vua ngồi võng đòn rồng, gái ơn chồng ngồi võng ru con.
240. Trai nhớ vợ cũ, gái nhớ chồng xƣa.
241. Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn, gái nuôi chồng ốm béo tròn cối xay.
242. Trai phải hơi vợ nhƣ cò bợ gặp trời mƣa.
243. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, gái ruộng đợ phải ăn mày chồng.
244. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, trăm mẫu ruộng đợ cũng tiếng
nhờ chồng.
245. Trâu đẻ tháng sáu, vợ đẻ tháng mƣời.
246. Triều đình có văn có vũ, nhƣ trong nhà có mụ, có ông.
247. Túi ông xã, quả nhà hàng.
248. Vợ ba con ở chƣa hết lòng chồng.
249. Vợ bắt thói chồng, đứa ở giống tông chúa nhà.
250. Vợ cái con cột, vợ lẽ con thêm.
251. Vợ chồng biết tính nhau.
155
252. Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời; bán buôn là nghĩa ở đời với nhau.
253. Vợ chồng chớ cãi nhau hoài, sao cho trong ấm thì ngòai mới êm.
254. Vợ chồng cùng một tuổi, nằm duỗi ra mà ăn.
255. Vợ chồng đầu gối tay ấp.
256. Vợ chồng đồng tịch đồng sàng, đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng
lần.
257. Vợ chồng khi nồng khi nhạt.
258. Vợ chồng là nghĩa già đời.
259. Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
260. Vợ chồng may rủi là duyên, vợ chồng hoà thuận là duyên trên đời.
261. Vợ chồng nhƣ đũa có đôi.
262. Vợ chồng phận đẹp duyên ƣa.
263. Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣng.
264. Vợ có chồng nhƣ rồng có mây, chồng có vợ nhƣ cây có rừng.
265. Vợ có khách nợ đến nhà, chồng có quan toà gửi trát.
266. Vợ dại đẻ con khôn.
267. Vợ dại không hại bằng đũa vênh.
268. Vợ đẹp càng tổ đau lƣng.
269. Vợ đẹp kém ngủ.
270. Vợ đẹp mặt, chồng đau lƣng.
271. Vô duyên lấy phải chồng đần.
272. Vợ già, chồng trẻ là duyên nợ nần.
273. Vợ giống tính chồng, ngƣời ở giống tông chủ nhà.
274. Vợ hiền hoà, nhà hƣớng Nam.
275. Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.
276. Vợ không cheo nhƣ cù nèo không móc.
277. Vợ quá chiều ngoen ngỏen nhƣ chó con liếm mặt, vợ phải rẫy tiu
nghỉu nhƣ mèo lành mất tai.
278. Vợ yên, nhƣng tiền chƣa có.
279. Vợ thì muốn lấy, chồng e mất tiền.
280. Voi không nài nhƣ trai không vợ.
281. Voi trên rừng không bành không tróc, gái không chồng nhƣ cóc cụt
đuôi.
282. Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa.
283. Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang.
284. Xấu chàng, hổ ai.
285. Xấu thiếp, hổ chàng.
1.2. TÌNH CẢM VỢ CHỒNG - GẮN BÓ
156
STT NỘI DUNG
1. Bà phải có ông, chồng phải có vợ.
2. Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ hom.
- Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom.
3. Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.
4. Đói bụng chồng, đau lòng vợ.
5. Đói bụng chồng, hồng má vợ.
6. Đói no có vợ có chồng, chia niêu sẻ đấu đau lòng nát gan.
7. Đói no một vợ, một chồng.
8. Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng, đổi vợ xƣa nay chẳng lành.
9. Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời.
10. Nhƣờng cơm nhƣờng áo, không ai nhƣờng chồng.
11. Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
12. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn
13. Thƣơng chồng nên phải lầm than.
14. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.
15. Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.
16. Thƣơng chồng nên phải gắng công.
17. Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ.
18. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia.
19. Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa
20. Triều đình có văn có vũ, nhƣ trong nhà có mụ, có ông.
21. Vợ chồng biết tính nhau.
22. Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời; bán buôn là nghĩa ở đời với nhau.
23. Vợ chồng đầu gối tay ấp.
24. Vợ chồng đồng tịch đồng sàng, đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng
lần.
25. Vợ chồng là nghĩa già đời.
26. Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
27. Vợ chồng nhƣ đũa có đôi.
28. Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣơng.
29. Vợ có chồng nhƣ rồng có mây, chồng có vợ nhƣ cây có rừng.
30. Xấu chàng, hổ ai.
31. Xấu thiếp, hổ chàng.
1.3. NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC TRONG QUAN HỆ VỢ CHỒNG
STT NỘI DUNG
1. ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại.
2. Bởi chồng cờ bạc, nên lòng chẳng thƣơng.
157
3. Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.
4. Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.
5. Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.
6. Chồng ăn chả, vợ ăn nem.
7. Chồng bé vợ lớn ra tình chị em.
8. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài.
9. Chồng đôi vợ ba.
10. Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào. - Chồng dữ thì em
mới lo. - Chồng dữ thì em mới sầu.
11. Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
12. Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.
13. Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng.
14. Có tiền vợ vợ chồng chồng, hết tiền chồng đông vợ đoài.
15. Con giai ở nhà vợ, nhƣ chó nằm gầm chạn.
16. Đàn ông vƣợt bể có chúng có bạn, đàn bà vƣợt cạn chỉ có một mình.
17. Đói bụng chồng, hồng má vợ.
18. Đau đẻ, ngứa ghẻ, đòn ghen.
19. Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.
20. Gái giết chồng, đàn ông ai nỡ giết vợ.
- Gái giết chồng, chứ đàn ông không ai giết vợ.
21. Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.
22. Làm trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu nghé hoa.
23. Lấy chồng chè rƣợu là duyên nợ nần.
24. Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.
25. Lấy chồng cờ bạc là tiên.
26. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.
27. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may.
28. Mảnh chồng quan bằng đàn chồng dân.
29. Một vợ không khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi.
30. Một vợ nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng
heo.
31. Ngƣời ba bốn vợ, ngƣời không vợ nào.
32. San sát nhƣ hai gái lấy một chồng.
33. Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.
34. Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.
35. Thứ nhất đau đẻ, thứ hai ngứa ghẻ, đòn ghen.
36. Tốt duyên lấy đƣợc chồng chung.
37. Trai bao nhiêu vợ cũng chƣa bằng lòng.
38. Trai làm nên năm thê, bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng.
39. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, trăm mẫu ruộng đợ cũng tiếng
158
nhờ chồng.
40. Vợ cái con cột, vợ lẽ con thêm.
41. Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa.
42. Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang.
1.4. QUAN HỆ CHA MẸ CON
STT NỘI DUNG
1 Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì nhục.
2 Ơn cha là ba ngàn bảy, nghĩa mẹ là bảy ngàn ba.
3 Đình đám ngƣời, mẹ con ta.
4 Đói lòng con, héo hon cha mẹ.
5 Đầu măng ngã gục vào tre, nƣơng nhờ vào mẹ kẻo e bão gào.
6 Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc.
7 Đời cha đắp nấm, đời con ấm mồ.
8 Đời cha trồng cây, đời con ăn qủa.
9 Đời cha vo tròn, đời con bóp bẹp.
10 Đẻ con khôn mát nhƣ nƣớc, đẻ con dại thì rát nhƣ hơ.
11 Đi dối cha, về nhà dối chú.
12 Đƣợc mối hàng, mẹ chẳng nhƣờng con.
13 Đẹp đôi ta mẹ cha không đẹp; đẹp gia nghiệp, lại lép duyên hài.
14 Đẹp duyên nhƣng chẳng đẹp lòng mẹ cha.
15 Đuổi con vào đám giỗ.
16 Bà khen con bà tốt, một chạp bà biết con bà.
17 Bà khoe con bà tốt, đến tháng mƣời một bà biết con bà.
18 Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.
19 Bé thì con mẹ con cha, lớn thì con vua con chúa.
20 Cá không ăn muối cá ƣơn, con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
21 Cô cũng nhƣ cha, gì cũng nhƣ mẹ.
22 Công cha nghĩa mẹ.
23 Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con.
24 Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng.
25 Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ nhƣ đờn không dây.
26 Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.
27 Có chồng chẳng đƣợc đi đâu.
28 Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở trên non một mình.
29 Có của để cho con, không có để nợ cho con.
30 Có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.
31 Có con không dậy để vậy mà nuôi.
32 Có con nhờ con, có của nhờ của.
159
33 Có con phải khổ vì con, có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
34 Có con phải khổ vì con.
35 Có con tội sống, hai con tội chết, ba con hết tội.
36 Có con tội sống, không có con tội chết.
37 Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
38 Có phúc đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo.
39 Có vàng, vàng chẳng hay phô, có con, con nói trầm trồ mẹ nghe.
40 Canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.
41 Cha "vặt, riệt", con đánh tiệt chõ xôi.
42 Cha đào ngạch, con xách nồi.
43 Cha để nhà cho trƣởng, cha ngất ngƣởng đi ăn mày.
44 Cha anh hùng, con hảo hán.
45 Cha bƣng mâm, con ngồi cỗ nhất.
46 Cha bòn con phá.
47 Cha cầm khoáng, con bẻ măng.
48 Cha già đi nuôi con mƣợn
49 Cha hổ mang đẻ con liu điu.
50 Cha làm thầy, con bán sách.
51 Cha mẹ giàu con có, cha mẹ khó con không.
52 Cha mẹ hiền lành để phúc cho con
53 Cha mẹ ngoảnh đi con dại, cha mẹ ngoảnh lại con khôn.
54 Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng
ngày.
55 Cha mẹ trông đi thì con dại, cha mẹ trông lại thì con khôn.
56 Cha muốn cho con hay, thầy mong cho con khá.
57 Cha sinh chẳng bằng mẹ dƣỡng.
58 Cha sinh mẹ dƣỡng.
59 Cha thƣơng con út, con út đái lụt chân giƣờng.
60 Cha thắt khố dài, con cài thiết lĩnh.
61 Cha trở ra trở vào, con ngồi cao gọi với.
62 Cha truyền, con nối.
63 Chỗ ƣớt mẹ nằm, ráo xê con lại.
64 Chó cắn thì chìa con ra.
65 Chim trời ai nỡ đếm lông, nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày.
66 Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú.
67 Của mòn, con lớn.
68 Cú đói ăn con.
69 Con đâu cha mẹ đấy.
70 Con đóng khố, bố cởi truồng.
71 Con đẹn con sài, chớ hoài bỏ đi.
160
72 Con ai cha mẹ ấy.
73 Con ai ngƣời ấy xót.
74 Con biết nói, mẹ hói đầu.
75 Con biết ngồi, mẹ rời tay.
76 Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ.
77 Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
78 Con có khóc, mẹ mới cho bú.
- Con không khóc mẹ chẳng cho bú.
79 Con có cha nhƣ nhà có nóc, con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.
80 Con có cha nhƣ nhà có nóc.
81 Con có cha, nhà có chủ.
82 Con có mạ nhƣ thiên hạ có vua.
83 Con có mẹ nhƣ măng ấp bẹ.
84 Con chẳng chê cha mẹ khó, chó chẳng chê nhà chủ nghèo.
85 Con cha, gà giống.
86 Con dại cái mang.
87 Con dòng thì bỏ xuống đất, con vật thì cất lên sàn.
88 Con ấp vú mẹ.
89 Con gái giống cha giàu ba đụn.
90 Con gái giống cha giàu ba mƣơi đụn, con trai giống mẹ khó lụn tận
xƣơng.
91 Con gái mƣời bảy chớ ngủ với cha, con trai mƣời ba đừng nằm với
mẹ.
92 Con giữ cha, gà giữ ổ.
93 Con giàu một bó, con khó một nén.
94 Con hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.
95 Con hƣ bởi tại cha dung.
96 Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại bà.
97 Con hơn cha là nhà có phúc.
98 Con học, thóc vay.
99 Con khôn nở mặt mẹ cha.
100 Con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.
101 Con không cha thì con trễ, cây không rễ thì cây hƣ.
102 Con khó có lòng.
103 Con lên ba mới ra lòng mẹ.
104 Con lên ba, mẹ sa xƣơng sƣờn.
105 Con lở ghẻ, mẹ hắc lào.
106 Con liền với ruột.
107 Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.
108 Con ngƣời ỉa đầu đƣờng thì thối, con mình ỉa đầu gối thì thơm.
161
109 Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.
110 Con thì mạ, cá thì nƣớc.
111 Con voi, voi dấu; con châu chấu, châu chấu yêu.
112 Con vua tốt, vua dấu, con tôi xấu tôi yêu.
113 Con vua, vua dấu; con chúa, chúa yêu.
114 Còn cha ăn cơm với cá.
115 Còn cha gót đỏ nhƣ son, một mai cha thác gót con nhƣ chì.
116 Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.
117 Dạy con tử thuở còn thơ.
118 Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đƣờng lắm kẻ còn đẹp còn giòn hơn ta.
119 Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
120 Gái có con nhƣ bồ hòn có rễ.
121 Gái chậm chồng, mẹ cha khắc khoải.
122 Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.
123 Gái làm chi, trai làm chi, sinh ra có nghĩa, có nghì là hơn.
124 Ghe bầu chở lái về đông, làm thân con gái thờ chồng nuôi con.
125 Giàu bán chó, khó bán con.
126 Giàu lúc còn son, giàu lúc con lớn.
127 Giầu bán ló (lúa), khó bán con.
128 Hổ phụ sinh hổ tử.
129 Hổ phụ sinh khuyển tử.
130 Hai vợ chồng son, đẻ một con hoá bốn.
131 Hồn rằng hồn thác ban ngày, thƣơng cha, nhớ mẹ, hồn rày thác đêm.
132 Hay ăn miếng ngon chồng con trả ngƣời.
133 Hay đi chợ để nợ cho con.
134 Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ
nghịch nhi.
135 Không cha, không mẹ, nhƣ đờn không dây
136 Không con héo hon một đời.
137 Không con, chó ỉa mả.
138 Không mẹ lẹ chân tay.
139 Khó thì hết thảo, hết ngay, công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên.
140 Làm thân con gái thờ chồng, nuôi con.
141 Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
142 Liệu cơm gắp mắm, liệu con gả chồng.
143 Máu loãng còn hơn nƣớc lã, chín đời họ mẹ còn hơn ngƣời dƣng.
144 Mài mực dạy con, mài son đánh giặc.
145 Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ (đƣờng).
146 Mồ cha không khóc, khóc đống mối, mồ mẹ không khóc, khóc bối
bòng bong.
162
147 Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy.
148 Một con so bằng ba con đẻ.
149 Một con so bằng ba con dạ.
150 Một con tội sống, hai con tội chết, ba con hết tội.
151 Một mẹ già bằng ba đứa ở.
152 Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì
nơi.
153 Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con, mƣời con không nuôi đƣợc một mẹ.
154 Một sào lúa non nuôi con nửa ngày.
155 Mấy ai biết lúa gon, mấy ai biết con ác.
156 Mấy ai biết lúa von, mấy ai biết con hƣ.
157 Mẹ ăn cơm chả, con lả bụng.
158 Mẹ ăn con trả.
159 Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng.
160 Mẹ đần lại đẻ con đần, gạo chiêm đem giã mấy lần vẫn chiêm.
161 Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con xục xạc.
162 Mẹ con một lần da đến ruột.
163 Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn.
164 Mẹ em tham giàu bắt chạch đằng đuôi.
165 Mẹ già thì sâu nƣớc ăn.
166 Mẹ hát con khen hay.
167 Mẹ hát con khen, ai chen vô lọt.
168 Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải theo.
169 Mẹ lá rau lá má, con đầy rá đầy mâm.
170 Mẹ lừa ƣa con ngọng.
171 Mẹ nào con ấy.
172 Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn.
173 Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày.
174 Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
175 Mẹ nuôi con dùng dùng nén nén, con nuôi mẹ không đƣợc một nẹn
trong tay
176 Mẹ sống bằng hai bàn tay, con ăn mày bằng hai đầu gối.
177 Mẹ sớm chiều ngƣợc xuôi tất tƣởi, con đầy ngày đám dƣới đám trên.
178 Mẹ tròn con méo.
179 Mẹ với con lúa non cũng lấy.
180 Muốn đánh thì đẻ con ra, muốn ăn thì thổi cơm nhà mà ăn.
181 Muốn đánh thì đẻ con ra.
182 Muốn con hay chữ thời yêu lấy thầy.
183 Muốn nói ngoa làm mẹ cha mà nói.
184 Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
163
185 Ngày sau con tế ba bò, sao bằng lúc sống con cho lấy chồng.
186 Ngầm ngập nhƣ mẹ gặp con, lon son nhƣ con gặp mẹ.
187 Ngƣời ăn thì còn, con ăn thì mất.
188 Nghe con lon xon mắng láng giềng.
189 Nhà gần chợ, để nợ cho con.
190 Nhà khó đẻ con khôn.
191 Nhất mẹ nhì con.
192 Nhớn vú bụ con.
193 Nhiều con giòn mẹ.
194 Nuôi con ai nỡ kể tiền cơm.
195 Nuôi con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
196 Nuôi con không phép kể tiền cơm.
197 Nuôi con thì tốn tiền quà, nuôi gà thì tốn tiền thóc.
198 Nuôi con trống dạ, đổ vạ ông vải.
199 Nuôi con trong dạ đổ vạ cho ông vải.
200 Nuôi con trong dạ mang vạ vào thân.
201 Phụ tử tình thâm.
202 Phụ trái tử hoàn, tử trái phụ bất can.
203 Sành sẹ nhƣ mẹ với con, lon ton nhƣ con với mẹ.
204 Sẩy cha ăn cơm với cá, sẩy mẹ lót lá mà nằm.
205 Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì..
206 Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì.
207 Sinh đƣợc một con, mất một hòn máu.
208 Sinh con ai chẳng vun trồng cho con
209 Sinh con ai nỡ sinh lòng, mua dƣa ai biết trong lòng quả dƣa.
210 Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai chẳng vun trồng cho con.
211 Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
212 Thƣơng ai ví bằng thƣơng con.
213 Thƣơng con bằng roi, thƣơng con đòi thì thƣơng bằng rơm.
214 Thƣơng con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi.
215 Thƣơng con mà dễ, thƣơng rể mà khó.
216 Thƣơng con ngon rau.
217 Thƣơng con ngon rể, vác ghế đi tìm.
218 Thƣơng con thì cho ăn quà, nuôi gà phải tốn thóc.
219 Thờ cha kính mẹ đã đành, theo đôi theo lứa mới thành thất gia.
220 Thứ nhất thì chết mất cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba ngƣợc đò.
221 Thứ nhất thì mồ côi cha, thứ nhì gánh vã, thứ ba buôn thuyền.
222 Trẻ cậy cha, già cậy con.
223 Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
224 Vợ dại đẻ con khôn.
164
225 Yêu con cậu, mới đậu con mình.
226 Yêu con ngƣời, mát con ta.
227 Yêu con, ngon của.
1.5. QUAN HỆ ANH CHỊ EM
TT NỘI DUNG
1 Đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ giữ lấy anh em.
2 Anh em chém nhau đằng dọng, không chém đằng lƣỡi.
3 Anh em gạo, đạo ngãi tiền.
4 Anh em hạt máu sẻ đôi
5 Anh em hiền thậm là hiền, bởi một đồng tiền nên mất lòng nhau.
6 Anh em khinh trƣớc, làng nƣớc khinh sau.
7 Anh em nhƣ chân tay.
8 Anh em nhƣ chông, nhƣ mác.
9 Anh em rể đúng lệ mà theo, sợ cái mắt nheo của ông con trƣởng.
10 Anh em trai ở với nhau mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời.
11 Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.
12 Anh em xem mặt cho vay.
13 Anh ngủ, em thức; em chực, anh đi nằm.
14 Anh thuận em hoà là nhà có phúc
15 Có chú chê anh hèn, không chú rèn lấy anh.
16 Cắt dây bầu, dây bí, chẳng ai cắt dây chị, dây em.
17 Chẳng khôn thể chị lâu ngày, chị đái ra váy cũng tày em khôn.
18 Chị dại đã có em khôn.
19 Chị em hiền thật là hiền, lâm đến đồng tiền mất cả chị em.
20 Chị em không thèm đến ngõ.
21 Chị em nắm nem ba đồng.
22 Chị em trên kính dƣới nhƣờng, là nhà có phúc mọi đƣờng yên vui.
23 Chị ngã em nâng.
24 Của anh nhƣ của chú.
25 Con chị cõng con em, con em lèn con chị.
26 Con chị dắt con em.
27 Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em.
28 Em ngã thì chị phải nâng, đến khi chị ngã em bƣng miệng cƣời.
29 Em thuận, anh hoà là nhà có phúc.
30 Huynh đệ nhƣ thủ túc.
31 Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
32 Khôn với vợ, dại với anh em.
33 Làm chị phải lành, làm anh phải khó.
165
34 Nghèo thì giỗ tết, giàu hết anh em.
35 Phận đàn em ăn thèm vác nặng.
36 Quyền huynh thế phụ.
37 Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em.
38 Tiền lĩnh quần chị, bằng tiền chỉ quần em.
39 Yêu con cậu, mới đậu con mình.
40 Yêu nhau chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em
rể.
1.6. QUAN HỆ CON DÂU, CON RỂ
STT NỘI DUNG
1 Ƣa nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
2 Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ đừng từ mẹ cha.
3 Bắt chấy cho mẹ chồng, thấy bồ nông dƣới biển.
4 Bố chồng là ông lợn bạch, mẹ chồng là đách lợn lang,
5 Bố chồng là lông con phƣợng, mẹ chồng là tƣợng mới tô, nàng dâu
là bồ nghe chửi.
6 Bố chồng nhƣ lông con phƣợng, mẹ chồng nhƣ tƣợng mới tô.
7 Bố vợ là vớ cọc chèo, mẹ vợ là bèo trôi sông, chàng rể là ông Ba
vì.
8 Có phúc là dâu, vô phúc là bâu là báo.
9 Có phúc là nàng dâu, vô phúc là cái báo.
10 Chăn tằm rồi mới ƣơm tơ, làm dâu rồi mới đƣợc nhƣ mẹ chồng.
11 Chƣa học làm dâu đã hay đâu làm mẹ chồng.
12 Chê mẹ chồng trƣớc đánh đau, phải mẹ chồng sau mau đánh.
13 Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.
14 Của mình để, của rể thì bòn.
15 Con dâu mới về đan bồ chịu chửi.
16 Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.
17 Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng.
18 Dâu dâu rể rể cũng kể là con.
19 Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.
20 Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai.
21 Dâu là con, rể là khách.
22 Làm dâu vụng kho, chồng không bắt bẻ mụ o nhún trề.
23 Làm rể chớ xáo thịt trâu, làm dâu chớ đồ xôi lại.
24 Làm rể nhà giàu vừa đƣợc cơm no, vừa đƣợc bò cƣỡi.
166
25 Lựa đƣợc con dâu, sâu con mắt.
26 Một bát cơm cha bằng ba bát cơm rể.
27 Mẹ chồng dữ mẹ chồng chết, nàng dâu có nết nàng dâu chừa.
28 Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ
chồng.
29 Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
30 Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.
31 Mẹ chồng vai gồng vai gánh, cƣới dâu về để thánh lên thờ.
32 Nàng dâu mới về là bà hoàng hậu.
33 Nàng dâu mới về là hoàng thái hậu.
34 Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó.
35 Rau muống tháng chín, nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn.
36 Rể hiền hơn con trai.
37 Thƣơng con mà dễ, thƣơng rể mà khó.
38 Thật thà cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
39 Trƣớc làm nàng dâu, sau mới làm mẹ chồng.
2. CA DAO
2.1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG - GẮN BÓ
STT NỘI DUNG
1. Ai chèo ghe bí qua sông
Đạo vợ nghĩa chồng nặng lắm anh ơi!
2. Ai đi bờ đắp một mình
Phất phơ chéo áo giống hình phu quân.
3. Ai đi đợi với tôi cùng
Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi
Chồng tôi quyết đỗ khoa này
Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng
Bõ khi xắn váy quai cồng
Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.
4. Ai kêu ai hú bên sông
Tôi đang nấu nƣớng cho chồng tôi ăn.
5. Ai kêu léo nhéo bên sông
Tôi đƣơng vá áo cho chồng tôi đây.
BK
a- Ai kêu veo véo bên sông
167
- Ai kêu xeo xéo bên sông
b- Tôi đƣơng sắm thuốc cho chồng tôi đây
- Tôi đƣơng bắt ốc cho chồng tôi đây
- Tôi đang vá áo cho chồng tôi đây
- Tôi còn vá áo cho chồng tôi đây.
6. Ai kêu, ai hú bên sông?
Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe
Chồng xuống ghe, quạt che tay ngoắt
Cất mái chèo ruột thắt từng cơn...
7. Ai kia một mạn thuyền bồng
Kẻ loan ngƣời phƣợng, mặc lòng ngƣợc xuôi.
8. Ai về bên ấy bây giờ
Cho tôi gởi một bức thƣ thăm chồng.
9. Ai về Cầu Ngói, Gia Lê
Cho em về với, thăm quê bên chồng.
10. Ai về Phú Lộc(1) gửi lời
Thƣ này một bức nhắn ngƣời tri âm
Mối tơ chín khúc ruột tằm
Khi tháng, tháng đợi mà năm, năm chờ
Vì tình, ai lẽ làm ngơ
Cắm sào chỉ quyết đợi chờ nƣớc xuân
Ƣớc sao chỉ Tấn tơ Tần
Sắt cầm hảo hợp lựa vần quan thƣ
Đôi bên ý hợp lòng ƣa
Mới phu công thiếp mới vừa lòng anh
Thiếp thời tần tảo cửi canh
Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thì
Một mai chiếm bảng xuân vi
ấy là đề diệp tinh kỳ từ đây
Ai ơi nghe thiếp lời này.
(1) Phú Lộc: thuộc huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
11. Ai xui anh lấy đƣợc mình
Để anh vun xới ruộng tình cho xanh
Ai xui mình lấy đƣợc anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
12. Ăn cà ngồi cạnh vại cà
Lấy anh thì lấy đến già mới thôi.
13. Ăn cam ngồi gốc cây cam
Lấy anh về Bắc về Nam cũng về.
14. Anh ơi! phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi
168
Tháng chạp là tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày bở ruộng ra
Tháng tƣ gieo mạ thuận hoà mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Trời đổ mƣa xuống, nƣớc trôi đầy đồng
Anh ơi, giữ lấy việc công
Để em cày cấy mặc lòng em đây.
15. Anh đi chơi nhởn đâu đây?
Phải cơn mƣa này ƣớt áo lấm chân
Chậu nƣớc em để ngoài sân
Em chờ anh rửa xong chân, anh vào nhà
Vào nhà em hỏi tình ta
Trăm năm duyên ngãi mặn mà hay không?
16. Anh đi làm mƣớn nuôi ai
Cho áo anh rách, cho vai anh mòn?
- Anh đi làm mƣớn nuôi con
áo rách mặc áo, vai mòn mặc vai.
17. Anh em cốt nhục đồng bào
Vợ chồng là nghĩa lẽ nào chẳng thƣơng?
18. Anh lanh cƣới vợ cho lanh
Đến khi có khách đỡ anh trăm bề.
19. Anh ra đi, em lập kiểng trồng hoa
Anh về hoa đã đƣợc ba trăm nhành
Một nhành đã chín búp xanh
Bán ba đồng một để dành có nơi
Bây giờ đến lúc thảnh thơi
Cậy anh tính thử vốn lời bao nhiêu.
20. Anh tới nhà em, anh ăn cơm với cá
Em tới nhà anh, em ăn rau má với cua đồng
Khó em chịu khó, đạo vợ chồng em vẫn thƣơng.
21. áo vá vai, vợ ai không biết
áo vá quàng, chí quyết vợ anh.
22. Ba năm sƣơng tuyết lạnh lùng
Một giờ ôm ấp thoả lòng ƣớc ao
Nắng lâu gặp trận mƣa rào
Bõ công chờ đợi dầu hao bấc tàn.
23. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.
BK
- Mong sao cho lúa vàng vàng
169
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.
- Trông sao cho lúa vàng vàng
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.
- Trời mƣa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.
- Trăng chƣa cho lúa vàng vang
Cho anh đi cắt cho nàng quảy cơm.
- Bao giờ cho lúa vàng vàng
Cho anh đi cắt cho nàng bới cơm.
- Trời mƣa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.
24. Bên đây sông bắc cầu mƣời tấm ván
Bên kia sông lập cái quán mƣời hai từng
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng
Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.
25. Bên lƣơng bên giáo, bên đạo cũng nhƣ bên ta
Về đây ta kết nghĩa giao hoà
Phải duyên phải kiếp, áo Chúa Bà ta mặc chung.
26. Bông bống bồng bồng
Trai ơn vua chầu chực sân rồng
Gái ơn chồng ngồi võng ru con
Ơn vua xem trọng bằng non
Ơn chồng, nhờ phúc tổ tông dõi truyền
Làm trai lấy đƣợc vợ hiền
Nhƣ cầm đồng tiền mua đƣợc của ngon
Phận gái lấy đƣợc chồng khôn
Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn(1) hoá rồng
Bông bống bồng bồng
Bồng bống bồng bông.
(1) Cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng, Cửa Vũ, Cửa Võ: cũng gọi là Long
Môn, ở thƣợng lƣu sông Hoàng Hà, giữa huyện Hà Tân, tỉnh Sơn
Tây và huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Nơi đây
có mỏm đá nhƣ hình cái cửa. Truyền thuyết kể rằng thời thƣợng cổ,
vua Vũ nhà Hạ trị thuỷ đã đục phá mỏm đá này cho rộng thêm ra,
nên gọi là Vũ Môn (cửa vua Vũ).
Theo Tam Tân ký và Thuỷ kinh chú thì Vũ Môn có sóng dữ, hàng
năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung đến đây thi vƣợt qua Vũ
Môn. Con nào vƣợt qua đƣợc chỉ trốn trƣờng thi và việc thi đỗ đƣợc
gọi là vƣợt qua cửa Vũ. Theo Đại Nam nhất thống chí, ở nƣớc ta
cũng có Vũ Môn ở dãy núi Khai Trƣớng (núi Giăng Màn) thuộc
170
huyện Hƣơng Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một con suối lớn có ba bậc.
Truyền thuyết kể rằng hàng năm đến tháng tƣ mƣa to, cá chép
ngƣợc dòng nhảy qua Vũ Môn để hoá rồng.
27. Cơm chiên ăn với cá ve
Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.
28. Cơm không lành, canh không ngọt
Tôi với mình đã trót lấy nhau
Thề cam tâm mà chịu, chớ để nhau sao đành.
29. Cái bống là cái bống bình
Thổi cơm nấu nƣớc một mình mồ hôi
Rạng ngày có khách đến chơi
Cơm ăn rƣợu uống cho vui lòng chồng
Rạng ngày ăn uống vừa xong
Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa
Nhịn miệng đãi khách đàng xa
ấy là của gửi chồng ta ăn đàng.
30. Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non.
31. Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo cho chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Cho anh đi chẩy nƣớc non Cau Bằng.
BK
(a) Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non
- Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng
Ở nhà có nhớ anh chăng?
Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.
(b) Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng ơi trở lại cùng con
Để anh đi trẩy nƣớc non kịp ngƣời
Cho kịp chân ngựa, chân voi
Cho kịp chân ngƣời kẻo thiếu việc quan.
(c) Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đƣa chồng nƣớc mắt nỉ non
Nàng bay trở lại cùng con
Để anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng
Chân đi đá lại dùng dằng
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con
171
Đi thời nhớ vợ cùng con
Khi về nhớ củ khoai môn trên rừng.
(d) Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Cho anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng
Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chia vè
Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã tay bồng tay mang
Con thì chẻ nứa đan giƣờng
Con thì vặn dây đan võng cho nàng ru con.
32. Cái gì anh đổ vào bồ?
Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?
Cái gì anh thả vào xanh?
Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tƣơi?
Cái gì đi chín về mƣời?
Cái gì sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm?
Cái gì chung chiếu chung chăn?
Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?
- Lúa khô anh đổ vào bồ
Cau thì róc vỏ phơi khô để dành
Con cá anh bỏ vào xanh
Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tƣơi
Mặt Trăng kia đi chín về mƣời
Ông Bành Tổ (1) sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm
Vợ chồng chung chiếu chung chăn
Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời.
(1) Bành Tổ: Nhân vật thần thoại Trung Quốc, bề tôi của vua
Nghiêu, đƣợc phong ở đất Bành Thành, tƣơng truyền thọ tám trăm
tuổi.
33. Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chƣa về.
Bắt đƣợc con giếc con trê
Cầm cổ lôi về bắc nƣớc làm lông
Miếng nạc thời để phần chồng
Miếng xƣơng mẹ gặm, miếng lòng con ăn.
34. Cái quạt mƣới tám cái nan
Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu
172
Quạt này anh để che đầu
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này
Ƣớc gì chung mẹ chung thầy
Để em giữ cái quạt này làm thân
Rồi ta chung gối chung chăn
Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu
Nằm thời chung cái giƣờng tàu
Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi
Ăn thời chung cả một nồi
Gội đầu chung cả dầu hồi nƣớc hoa
Chải đầu chung cái lƣợc ngà
Soi gƣơng chung cả ngành hoa giắt đầu.
35. Cái số tôi giàu
Số nghèo chín đụn, mƣời trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp thì theo
Lấy tôi chớ quản khó nghèo làm chi
Chúng tôi đây quân tử nhất thì
Đẹp duyên cứ lấy lo gì mà lo
Đôi ta đã trót hẹn hò
Đẹp duyên cứ lấy chớ lo bạc tiền.
36. Canh ba trống điểm trên lầu
Phần thƣơng cho vợ, phần sầu cho con.
37. Canh cải mà nấu với gừng
Không ăn thời chớ xin đừng mỉa mai
Khuyên chàng đừng ở đơn sai
Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng.
38. Câu lƣơng duyên thề nguyền giao ƣớc
Nghĩa sắt cầm giữ vẹn trƣớc cũng nhƣ sau
Anh chớ có thấy sang mà bỏ bạn cựu
Chớ có phụ khó tham giàu mà bỏ em.
39. Cầu mô cao bằng cầu danh vọng
Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con
Ví dầu nƣớc chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thƣơng.
40. Cây đa bến cũ năm xƣa
Chữ tình ta cũng đón đƣa cho trọn đời.
41. Cây trăm nhánh cùng về một cội
Nƣớc nghìn sông chảy hội một dòng
Ai dầu lánh đục tìm trong
Đây em vẫn giữ một lòng với anh.
42. Chân trời lính mộ chàng ra đi
173
Lo chàng lao khổ, chớ sá gì mẹ con tôi.
43. Chàng ơi, chớ bực sầu tƣ
Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.
44. Chẳng ai đẹp bằng anh chồng tôi
Cái miệng cái môi, nhắm nha nhắm nhẩy
Hay vẽ, hay viết, hay cuốc hay phát
Làm thầy, làm thợ, việc làng việc xã, đủ cả mọi điều.
45. Chàng đề phú, thiếp đề thơ
Tƣởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên
Khuyên chàng giữ việc bút nghiên
Đừng tham nhan sắc mà quên học hành.
46. Chàng đừng trời tối trông sao
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng
Đêm qua nằm cạnh nhà ngang
Lầu suông gió lọt, thƣơng chàng biết bao.
47. Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh
Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi để anh chịu sào
Sông Bờ, sông Mã, sông Thao
Ba ngọn sông ấy đổ vào sông Gâm.
48. Chàng lên non, thiếp cũng lên non
Chàng lên trời, vƣợt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.
49. Chàng về thiếp cũng về theo
Qua truông, rồi lại lên đèo
Mấy sông mấy cụm, cũng trèo cũng qua.
50. Chàng thốt ra, thiếp đây luỵ sa không ráo
Thốt ra chi mà thảm não rứa chàng
Giàu ngƣời ta mâm thau, đũa trắc, chén ngọc bịt vàng
Khó đôi đứa mình đọi dá mâm nan
Thế mô thế ni theo nhau cho trọn, thiếp không phàn nàn mà chàng
lo.
51. Chè Ô Long nấu nƣớc ấm đồng
Để vô bình tích thuỷ đãi đằng lang quân.
52. Chi ngon bằng gỏi cá nhồng
Chi vui bằng đƣợc tin chồng vinh qui.
53. Chim chuyền nhành ớt, rớt xuống nhành mai
Vợ chồng xa cách, lâm ai cũng buồn.
54. Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Mãn mùa đa nhảy qua cây khế
Em đang còn tang chế khó lắm anh ơi!
174
Bao giờ chế mãn tang hồi
Em ra tạ từ phần mộ, khi nớ mới trao lời nợ duyên.
55. Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
56. Chim quyên ăn trái ổi tàu
Thƣơng nhau bất luận khó giàu mà chi
Chữ rằng chi tử vu qui
Làm thân con gái phải đi theo chồng.
57. Chim xa bầy thƣơng cây nhớ cội
Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai
Vàng ròng cả lửa chẳng phai
Ở cho chúng thuỷ có ngày gặp nhau.
58. Chồng già vợ trẻ mới xinh
Vợ già chồng trẻ nhƣ hình chị em
Vợ chồng may rủi là duyên
Vợ chồng hoà thuận là tiên trên đời.
59. Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
60. Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cƣời hớn hở rằng: Anh giận gì?
61. Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cƣời chúm chím: Thƣa anh giận gì?
Thƣa anh, anh giận em chi
Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho.
62. Chồng sang vợ đƣợc đi giầy
Vợ sang chồng đƣợc ghe ngày cậy trông.
63. Chồng ta áo rách ta thƣơng
Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời.
BK
Chồng ngƣời áo gấm xênh xang mặc ngƣời.
64. Chồng tôi đi đã ba đông
Hẹn về năm ngoái sao không thấy về ?
65. Chữ rằng: chi tử vu qui
Làm thân con gái phải đi theo chồng.
66. Chữ rằng: quân tử tạo đoan
Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.
67. Có ai những bận cùng ai
Vắng ai gƣờng rộng chiếu dài đễ lăn
Vì chàng thiếp phải mua mâm
Những nhƣ mình thiếp bốc ngầm cũng xong
Vì chàng thiếp phải long đong
175
Những nhƣ mình thiếp là xong đôi bờ.
68. Có chàng, nói một cƣời hai
Vắng chàng em biết lấy ai than cùng?
Trời ơi; có thấu tình chăng
Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu.
69. Có chồng kẻ đón ngƣời đƣa
Không chồng đi sớm về trƣa mặc lòng.
70. Có chồng nhƣ ngựa có yên
Anh đây lẻ bạn nhƣ chim quyên lạc bầy.
71. Có chồng ông nọ bà kia
Không chồng nhƣ thúng nhƣ nia bung vành
-Không chồng bạn nói rằng hƣ
Có chồng biết bỏ mẫu từ cho ai?
72. Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo
Có chồng thì phải theo chồng
Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.
73. Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
74. Có chồng thì phải theo chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải theo.
75. Có chồng thủ phận thủ duyên
Trăm con bƣớm đậu cửa quyền xin lui.
76. Có con gây dựng cho con
Có chồng gánh vác nƣớc non nhà chồng.
77. Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
78. Có con rễ bấn, rễ bàng
Không con thiếp ở với chàng không công.
79. Con chim nho nhỏ
Lông đuôi nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Nó đậu cành bàng
Nó kêu, bớ Tiết Đinh Sơn! Bớ chàng Ninh Sĩ!
Em có chồng rồi, em không thể nghĩ đến anh.
80. Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Sách có chữ rằng: phu xƣớng phụ tòng
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia
Lấy em về thờ mẹ, kính cha
Thờ cha, kính mẹ ấy là ngƣời ngoan.
176
81. Con gái thì đà nên con gái
Cái áo em mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm đại hồng chuỗi xe con toán
Cái quai thao chàm em đội trên đầu
Cái nhôi thao dập dìu đỏ chói
Lỗ miệng em nói có đôi đồng tiền
Nhƣ cánh hoa sen giữa ngày mới nở
Mẹ em đi chợ có kẻ gánh gồng
Anh đứng anh trông má hồng đỏ thắm
Anh đứng anh ngắm đẹp đẽ làm sao
Con cháu ông nào chân đi đẹp đẽ
Anh có vợ rồi chẳng lẽ anh theo.
BK
Con gái đƣơng thời đã nên con gái
Cái áo mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm đại hồng, chuỗi xe con toán
Cái quai dâu chạm đội trên đầu
Cái nhôi dâu gấp, quấn vào đỏ chói
Lỗ miệng em nói có hai đồng tiền
Nhƣ cánh hoa sen giữa ngày mới nở
Khi em đi chợ có kẻ gánh gồng
Anh đứng anh trông má hồng đỏ thắm
Anh đứng anh ngắm đẹp dẽ làm sao!
Lấy anh, anh sắm sửa cho
Sắm ăn sắm mặc, sắm cho chơi bời
Khuyên em có bấy nhiêu lời
Thuỷ chung nhƣ nhất là ngƣời phải nghe
Mùa đông lụa lụa the the
Mùa hè bán bạc hoa xoè sắm khăn
Sắm gƣơng sắm lƣợc sắm khăn đựng trầu
Sắm cho em lƣợc chải đầu
Cái ống đựng sáp vuốt đầu cho xinh.
82. Con xa mẹ thèm ăn khát bú
Vợ xa chồng, đi thú biệt li
Đêm nằm ấp lấy hài nhi
Con hời con hỡi, cha con phƣơng nào.
83. Công danh theo đuổi mà chi
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông
Sớm khuya có vợ có chồng
Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.
84. Công nợ thiếp trả cho chàng
177
Xin đừng lên thác, xuống hàn (1) nắng mƣa.
(1) Hàn: chỗ nƣớc chảy mạnh dƣới có lƣờn đá ngầm.
85. Củ lang Đống Ngỗ
Đỗ phụng Đồng Đinh
Chàng bòn thiếp mót
Để chung một gùi.
86. Cùng nguyền một tấm lòng son
Anh dầu có phụ keo sơn có trời
Sống dƣơng gian hai đứa đôi nơi
Thác xuống âm phủ cũng nhớ lời thề xƣa.
87. Dạ ai hoài dù cho xa ngái
Em xin chàng chớ ngại đừng nghi
Để cho em lên Đợi xuống Tuy (1)
Đắt làm thuê, ế làm mƣớn đỡ khi đói nghèo.
(1) Lên Đợi xuống Tuy, lên Đại Phong xuống Tuy lộc; hai địa điểm
trên thuộc huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình.
88. Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
89. Đang khi chồng giận mình đi
Hết khi nóng giận đến khi vui vầy
Ngãi nhân nhƣ bát nƣớc đầy
Bƣng đi mà đổ hốt rày đặng đâu.
90. Dang tay đánh thiếp sao đành
Tấm rách ai vá, tấm lành ai mang?
91. Đạo cang thƣờng khó lắm bạn ơi
Chẳng dễ nhƣ ong bƣớm đậu rồi lại bay
Đạo cang thƣờng khá dễ đổi thay
Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.
92. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm
Phải đâu cua cá với tôm
Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.
93. Đạp xe nƣớc chảy lên đồng
Bao nhiêu nƣớc chảy, thƣơng chồng bấy nhiêu.
94. Dầu ai áo rách nón xơ
Quyết theo nhau cho trọn đạo, ông Tơ đã đề.
95. Đầu đội chúa, vai mang cốt mẹ
Tay dìu dắt cha già
Gặp mặt đây nƣớc mắt nhỏ sa
Thò tay trong túi bà ba
Lấy cái khăn mu soa anh chặm
Đạo vợ chồng ngàn dặm không quên.
178
96. Dầu xa nhau năm bảy ngày đƣờng
Duyên ƣa phận đẹp thì nƣờng cũng theo.
97. Dãy dọc toà ngang, giàu sang có số
Kim Long(1), Nam Phổ(2), nƣớc đổ về sình(3)
Đôi đứa mình chút nghĩa ba sinh
Có làm răng đi nữa cũng không đành bỏ nhau.
BK
a- Nhƣ đôi lứa mình chút nghĩa ba sinh
b- Có làm răng đi nữa đôi lứa mình không bỏ nhau!
(1) Kim Long: một làng bên bờ sông Hƣơng, trên con đƣờng từ Huế
đi thiên Mụ.
(2) Nam Phổ: còn gọi là nam Phố, nằm trên con đƣờng từ Huế đi
Thuận An.
(3) Sình: địa điểm thuộc Huế.
98. Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng
Lạt chẳng mỏng, sao thừng đƣợc tốt?
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ tham phú quí, đi cầu trăng hoa.
99. Đèn lồng khi xách khi treo
Vợ chồng khi thảm, khi nghèo có nhau.
100. Đi đâu có anh có tôi
Ngƣời ta mới biết rằng đôi vợ chồng.
101. Đi đâu có anh có tôi
Ngƣời ta mới biết có đôi vợ chồng
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
102. Đi đò tát nƣớc cho chuyên
Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.
103. Đi thời nhớ vợ nhớ con
Về thời nhớ củ khoai môn trên rừng.
104. Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi
Hết gạo thiếp lại gánh đi
Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao?
Hỏi thăm đến ngõ thì vào
Tay đặt gánh xuống, miệng chào: thƣa anh!
BK
179
(a) Cây cao gió đƣợm la đà
Thấy anh hay chữ em đà cậy trông
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào áo nấy cho chồng đi thi
Hết gạo em lại gánh đi
Hỏi thăm trƣờng học ở thì nơi nao
Hỏi thăm chỗ đến liền vào
Vai thì đặt gánh, miệng chào: thƣa anh!
(b) Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Khế chết đi, khế lại mọc chồi
Cây sung có nhị, cây hành có hoa
Đôi bên bác mẹ thì già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi
Hết gạo em gánh gạo đi
Hỏi thăm trƣờng học vậy thì nơi nao?
Hỏi thăm đến ngõ mà vào
Tay cất gánh gạo miệng chào: thƣa anh.
105. Đôi bên bác mẹ tƣ tề
Anh đi làm rể em về làm dâu
Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu
Tham vì một nỗi em mau miệng cƣời
Trăm quan mua một miệng cƣời
Trăm quan không tiếc, tiếc ngƣời hồng nhan.
106. Đói no một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.
107. Đôi ta nhƣ cánh hoa đào
Vợ đây chồng đây ai nào kém ai?
Đôi ta nhƣ bông hoa nhài
Vợ đây chồng đấy kém ai trên đời?
108. Đôi ta vợ cấy chồng cày
Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều
Ta nghèo vui phận ta nghèo
Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!
109. Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thƣơng.
110. Đốt than nƣớng cá cho vàng
Đem tiền mua rƣợu cho chàng uống chơi
Phòng khi có khách đến chơi
180
Cơm ăn, rƣợu uống cho vui lòng chàng.
111. Ở sao nhƣ lụa đừng phai
Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên.
112. Em có chồng rồi nhƣ ngựa có cƣơng
Ngõ em em đứng, đƣờng trƣờng anh đi.
113. Em đã thuận lấy anh chƣa
Để anh đốn gỗ rừng Nƣa(1) đóng thuyền?
Con thuyền mang đôi chữ nhân duyên
Chồng chèo vợ chống, thuyền quyên chẳng vời.
114. Em đƣa anh lên ga Thuận Lí(1)
Ba giờ chiều vô nghỉ Đông Hà(2)
Phần thời anh thƣơng mẹ nhớ cha
Phần thời thƣơng con nhớ vợ xót xa trong lòng.
(1) Thuận Lí: Một địa điểm ở Quảng Bình (2) Đông Hà: Một địa
điển ở Quảng Trị, cách Đồng Hới 92km về phía Nam, ở trên sông
Cam Lộ, đầu đƣờng số 9 đi Lao Bảo sang Lào.
115. Em là con gái có chồng
Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.
116. Em là con gái Phụng Thiên(1)
Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng
Nữa mai chồng chiếm bảng rồng
Bõ công tắm tƣới vun trồng cho rau.
(1) Phụng Thiên: thuộc địa phận của ba mƣơi sáu phố phƣờng Hà
Nội cũ, trƣớc là phủ Trung Đô, năm 1469 đời Lê Thánh Tông đƣợc
đổi là phủ Phụng Thiên.
117. Em nghe anh tỏ lời này
Em đòi để bỏ nhƣ vầy sao nên
Tao khang nghĩa ở cho bền
Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà.
118. Em ngồi dệt cửi trên khung
Anh đến ngồi học cùng chung một đèn
Lấy chồng nhƣ trống cặp kèn
Nhƣ dao cặp thớt, nhƣ đèn cặp khâu
Lấy chồng chẳng đƣợc đi đâu
Nhƣ trống cặp chầu, nhƣ ngựa cặp quân.
119. Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng
Trƣớc là vinh hiển tổ đƣờng
Bõ công đèn sách, lƣu phƣơng đời đời.
120. Em thì canh cửi việc nhà
Chàng thì đi học, đỗ ba khoa liền
181
Khoa trƣớc thì đỗ giải nguyên
Khoa sau tiến sĩ, đỗ liền ba khoa
Vinh qui bái tổ về nhà
Để thiếp trông thấy thiếp hoà mừng thay
Công thiếp lo liệu bấy chầy
Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay võng đào
Thiếp sắm cho chàng một chiếc nhà cao
Bằng chín mẫu đất, bằng ba quãng đồng
Cột cái thăm thẳm vẽ rồng
Mƣợn ba vạn thợ trả công đề huề
Thiếp đánh hòn đá xây hè
Thiếp cho xẻ núi Ba Vì về xây
Trên thềm ngựa chạy bảy ngày
Chung quanh lát ván cột tày gỗ thông
Gỗ mun đóng chiếc thuyền rồng
Cửa ngõ bằng đồng sáng lộn nhƣ gƣơng
121. Gai trong bụi ai vót mà nhọn
Đạo vợ chồng ai chọn mà cân
Trên trời đã định xây vần
Xây cho gấp gấp trong lần năm nay.
122. Gan khô ruột thắt chín từng
Em náu nƣơng phụ mẫu cầm chừng đợi anh.
123. Gởi thơ một bức
Đêm nằm thổn thức, dạ những luống trông
Biết làm sao cho vợ gặp chồng
Cho én hiệp nhạn
Gan teo từng đoạn, ruột thắt chín từng
Anh với em nhƣ quế với gừng
Dẫu xa nhân ngãi, xin đừng tiếng chi.
BK.
Sao hỡi sao! Sao chừng này chƣa mọc
Sao mọc bên bắc, nƣớc mắt bên đông
Làm sao cho vợ gặp chồng
Cho én gặp nhạn, ruột đau từng đoạn, gan thắt chín từng
Đôi ta nhƣ quế với gừng
Dầu xa nhân ngãi, xin đừng tiếng tăm.
124. Giận chồng xách gói ra đi
Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.
125. Giàu nhƣ ngƣời ta lƣơng điền vạn khoảnh
Khó nhƣ hai đứa mình bá nghệ tuỳ thân
Sớm hái rau, chiều đốn củi đỡ đần nuôi nhau.
182
126. Gió đƣa bụi mía lùm tum
Chồng tôi vừa đi khỏi, ông trùm tới chi?
127. Gió đƣa cây cửu li hƣơng
Hai ngƣời hai họ mà thƣơng nhau cùng.
128. Gió lùa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ
Gió đƣa bụi trúc ngả quì
Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!
129. Giƣờng dọc mà trải chiếu ngang
Chàng ngồi một góc
Thiếp ngồi một góc
Chàng than, thiếp khóc
Thiếp khóc, chàng than
Khung cửi bắc ngang, thoi nàng biếng dệt
Em vắng anh một ngày, mỏi mệt chân tay
BK
Giƣờng dọc mà trải chiếu ngang
Chàng ngồi một góc, thiếp ngồi một góc
Chàng than thiếp khóc, thiếp khóc chàng than
Huơ chao! cây úa lá vàng
Nƣớc đâu mà tƣới cho hoàn nhƣ xƣa.
130. Hai nách những lông xồm xồm
Chồng yêu chồng bảo mối tơ hồng trời cho
Đêm ngủ thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo lái đò cầm canh
Ăn vụng bụng to tày thùng
Chồng yêu chồng bảo cái giành đựng cơm!
131. Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhàu cày bừa
Bây giờ trƣa đã hồ trƣa
Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu
Một đoàn chồng trƣớc vợ sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.
132. Kể từ lính mộ ra đi
Ở nhà nhiều nỗi sầu bi thất tình
Việc này là việc trào đình
Đêm nằm nghĩ lại phận mình gian nan
Rủ nhau ra tới ngoài Hàn
Thấy đang tập lính dƣ ngàn dƣ trăm
Thƣơng chàng thiếp phải ra thăm
Chàng qua nƣớc bên ấy, biết mấy năm chàng về?
183
133. Khi em chƣa có chồng, anh nỏ dốc lòng gắn bó
Giờ em có chồng rồi, anh đón ngõ trao thƣ
Ngãi nhân nhân ngãi chi giừ
Gái có chồng nhƣ đạo bùa trừ đeo tay.
BK
Lúc xuân xanh anh không gắn bó
Em có chồng rồi, anh đón ngõ trao thƣ
Thôi thôi nhân ngãi xin từ
Em có chồng nhƣ đạo bùa trừ đeo tay.
134. Không ai tin tức, gởi bức thơ về
Trong thơ viếng mẹ, ngoài lề thăm thiếp
Anh mắc nghề nghiệp anh không đi đặng
Em nhớ em trông
Mắc ngồi khung cửi lựa bông
Mồ hôi nhỏ đƣợm, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.
135. Khuyên anh chăm chỉ nghề nho
Thức khuya dậy sớm sao cho kịp ngƣời
Ngƣời ta đƣợc một, em muốn đƣợc mƣời
Học cho hơn ngƣời: tiến sĩ, trạng nguyên
Anh về cƣỡi ngựa vua ban
Nhờ anh em sẽ ngồi trên võng vàng
Cờ quạt hai hàng
Đẹp mặt mẹ cha.
BK
a - Học sớm học tối, học cho kịp ngƣời
b - Theo sau, em có võng vàng đƣa chân.
136. Khuyên anh đi học em vâng
Việc trong gia thất, việc đồng mặc em
Bút nghiên giấy má đã mua rồi
Khuyên anh đi học, em thời cửi canh
Nữa mai gia thất đƣợc thành
Bõ công anh học, bõ lòng em khuyên.
137. Khuyên anh đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.
138. Làm ngƣời phải biết cƣơng thƣờng
Xem trong ngũ đẳng, quân vƣơng ở đầu
Thờ cha, kính mẹ trƣớc sau
Anh em hoà thuận mới hầu làm nên
Vợ chồng đạo nghĩa cho bền
Bạn bè cho thực, dƣới trên đứng thƣờng.
139. Làm trai giữ trọn ba giềng
184
Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.
140. Lạnh lùng thiếp đắp chiếu cho
Giận ai nên nỗi giày vò chiếu đi.
141. Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng
Đêm nằm nghĩ lại, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.
142. Lấy anh thì sƣớng hơn vua
Anh đi xúc giậm, đƣợc cua kềnh càng
Đem về nấu nấu rang rang
Chồng chan vợ húp lại càng hơn vua.
143. Lấy chồng theo thói nhà chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng đi.
144. Lấy nhau cho trọn đạo Trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.
145. Luỵ sa đƣa chàng xuống huyệt
Mai táng chàng rồi li biệt ngàn năm.
146. Mặc ai một dạ đôi lòng
Em đây thủ tiết loan phòng chờ anh.
147. Mây giăng trên ngọn non Vồng (1)
Em nhớ thƣơng chồng đứng bến Châu Giang(2)
Bến Châu Giang thuyền ngang sóng ngƣợc
Đỉnh non vồng mây trƣớc mây sau
Ai về có nhớ lời nhau...?
(1) Non Vồng: ngọn núi cao phía bắc xã Thị Sơn, huyện Kim Bảng,
tỉnh Nam Hà.
(2) Châu Giang: con sông lớn của tỉnh Nam Hà (cũ). Bến Châu
Giang có lẽ ngã ba Đạm. thuộc xã Phù Vân, huyện Kim Bảng, nơi
sông Đáy gặp sông Châu Giang.
148. Mẹ già là mẹ già chung
Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.
149. Mẹ nàng khác thể mẹ ta
Phận dù đói rách, thiệt thà anh thƣơng.
150. Mình đƣa bâu áo tui viết tháo vài hàng
Trƣớc thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu
Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu
Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền.
151. Mình đừng sầu muộn ốm đau
Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng
Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng
Cang thƣờng li biệt, đạo vợ chồng còn thƣơng.
185
152. Mình về tôi cũng đi theo
Sum vầy phu phụ, hiểm nghèo có nhau
Chẳng thà đĩa muối chén rau
Thuỷ chung sống ở, sang giàu mƣợc ai.
153. Mình về tôi cũng về theo
Sum vầy phu phụ, giàu nghèo có nhau.
154. Mồ hôi gió đƣợm
Thiếp thƣơng chồng, thiếp phải chạy theo
Con ơi! Mẹ dắt lên đèo
Chim kêu bên nọ, vƣờn trèo bên kia.
155. Một thƣơng, hai thƣơng
Ba thƣơng, bốn nhớ
Đạo chồng, nghĩa vợ
Là đức cù lao
Nhớ khi trăng gió, mƣa rào
Trăm năm gối phƣợng má đào bên em.
156. Một thƣơng, hai thƣơng, ba thƣơng, bốn nhớ
Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao
Sông sâu ai dám tới đào
Bạn về nhà bạn, nƣớc mắt ào nhƣ mƣa.
157. Mƣa rơi gió tạt vô thành
Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu.
158. Mủng sứt vành không bƣng khó bợ
Đồng tiền điếu vỡ, ai nỡ bán buôn
Anh đi làm thợ trên nguồn
No cơm ấm áo, luông tuồng bỏ em
Đồng tiền điếu vỡ, anh đúc lại thành chuông
Đem lên chùa Nam Định khắc muôn chữ vàng
Mủng sứt vành, anh lận lại thành tàn
Đƣa lên Nam Định hai hàng lọng che
Sớm mai anh lên gánh muối
Chiều anh xuống gánh chè
Tai nghe em than thở, te te anh trở về
Trời làm cực khổ trăm bề
Dù lên nguồn xuống biển, anh cũng trở về với em.
159. Muốn cho no vợ đủ chồng
Để mà kết tóc trông mong ở đời.
160. Nàng ơi! Thử nghĩ mà xem
Vợ chồng phận cải duyên kim ở đời
Khi nên Trời cũng chiều ngƣời
Có công đèn sách ắt thời làm nên
186
Bởi lòng cha mẹ thảo hiền
Cho nên ta mới đậu liền khôi khoa
Cũng đà sắp đến không xa
Nàng ơi! Sắm sửa cho ta thế nào?
Dù ta có đậu quan cao
áo gấm ta mặc, võng đào nàng đi
Thế là phận gái nữ nhi
Ơn chồng lại đƣợc vinh qui với chồng
Thế là nàng thoả tấm lòng
Bõ công đóng cửa kén chồng bấy lâu.
161. Nay mai anh lại sang Tây(1)
Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh
Không đi thì sợ không lành
Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền
Em ở nhà bình yên buôn bán
Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau
Anh đi chỉ dặn mấy câu
Em về cố giữ lấy màu cho xinh
Nhờ em mọi việc gia đình
Tứ thân phụ mẫu một mình em lo
Em đã là con nhà gia giáo
Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền
Anh đi vì lệnh quan trên
Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về
Bấy giờ sum họp đề huề
Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui
Đạo vợ chồng giờ xui ra thế
Anh nói câu này em để trong tai
Bấy kì thứ bảy, thứ hai
Anh đi em tiễn ra ngoài la ga
Gửi lời thăm hỏi ông bà
Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng
Còn đây một chút bế bồng
Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn
Xa anh lấy đó làm tin
Cũng là bớt nỗi ƣu phiền chia li
Anh đành gạt lệ ra đi
Thƣơng anh chẳng biết nói gì nửa đâu.
(1) Vào thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914 - 1918) thực
dân Pháp đã dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính
sang Pháp.
187
162. Nghĩa tao khang ai đà vội dứt
Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi
Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời
Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau.
163. Ngồi buồn thƣơng mẹ nhớ cha
Gối loan ai đỡ, kỉ trà ai nƣng
- Mẹ già trao lại anh trai
Phận em là gái một hai theo chồng.
164. Ngọn lau lên khỏi bờ
Ngọn lúa trổ đòng đòng
Em đừng than đừng thở, để anh phải tủi lòng khóc theo
Hai tay anh bụm bọt phá bèo
Xƣa kia khắp chốn không ai nghèo nhƣ anh
Ban ngày anh đốn củi rừng xanh
Tối về chỉ một tấm tranh che đầu
Mƣa sa nhỏ giọt nhƣ dầu
Khổ thời anh chịu khổ, chứ lìa nhau anh không lìa.
165. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng đƣợc mơ
Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.
166. Nhà em có bụi trầu cay
Nhà anh có khách sang vay lá vàng.
Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn
Thời buổi này kén chọn làm chi
Yêu nhau lấy quách nhau đi
Ở trong giá thú luận cho hoá tài
Đƣờng còn dài, trông sao cho xiết
Đạo vợ chồng ai biết đói no
Quí hồ thầy mẹ gả cho.
167. Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng
Ngƣời trong một nƣớc thì thƣơng nhau cùng
Phu thê trong nghĩa tƣơng phùng
Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai
Tấm đá hoa ghi tạc để đời.
168. Nhởn nhơ cô gái cửa Đông (1)
Quần là áo lƣợt nhƣng lòng không ƣa
Tao khang là vợ ngày xƣa
Khăn thâm, áo vải sớm trƣa vui cùng.
(1) Cửa Đông: tức cửa Đông thành Thăng Long cũ, ở cuối phố Cửa
Đông hiện nay.
188
169. Những khi vai gánh tay đèo
Đi về lấy quách chồng nghèo cho xong
Ngày ngày quang thúng đi đong
Chày gạo, cối lúa không xong có chồng
Nhỡ khi đi gánh về gồng
Trời mƣa, trời gió dặn chồng gánh đƣa
Nhỡ khi đi sớm về trƣa
Ta ngồi nghỉ mát đò đa thanh nhàn
Không ai đo đếm ruột gan
Vợ chồng ta sẽ thở than ta làm
Mai sau đã có phận Trời
Khi nào lại khổ suốt đời mà lo.
170. Nợ chồng lắm lắm anh ơi
Bao giờ cho hết mà chơi kẻo già.
171. Nói ra sợ chị em cƣời
Lấy chồng tháng chín tháng mƣời có con
Có con tôi năn nỉ cùng con
Có chồng tôi phải gánh lấy giang sơn nhà chồng.
172. Nuôi con những tƣởng về sau
Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi
Mực đen vô giấy khó chùi
Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.
173. Phải căn duyên cái áo rách cũng mang
Trái duyên cái áo lót bộ nút vàng, anh không ham.
174. Phải duyên em nhất định theo
Nào ai có quản khó nghèo chi đâu
Đời này ai muốn chuốc lấy thảm sầu
Cầu dừa mà vững nhịp, còn bằng vạn cầu Bông Miêu.
175. Phải duyên phải kiếp thì theo
Cám còn ăn đƣợc, nữa bèo hử anh.
176. Phận bạc khôn nƣơng nhà bạc
Thân hèn đâu dám gác cửa không!
Dứt đƣợc sao cái nợ vợ chồng
Nƣớc nhành dƣơng rửa sao đƣợc bụi hồng, bớ anh!
177. Phụ hề sanh, mẫu hề dƣỡng
Đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng (1)
Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phƣơng
Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn
sông Hƣơng đợi chờ.
(1) Phú hề sanh, mẫu hề dƣờng, đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng:
Cha mẹ có sông sinh ra và nuôi dƣỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải
189
coi trọng cƣơng thƣờng (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử
truyền thống).
178. Phụ mẫu tình thâm
Phu thê nhân ngãi trọng
Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.
179. Phụ tuỳ phu xƣớng(1), ấy là lẽ thƣờng
Anh bảo sao em nghe vậy, cho vẹn đƣờng ái ân
- Nắm tay bạn, xót thƣơng vô hạn
Nhớ đến việc chia phôi én nhạn
Lòng anh đây dứt đoạn can tràng.
(1) Phụ tuỳ phu xƣớng: chồng xƣớng vợ theo, tức là vợ chồng hoà
hảo (theo quan niệm cũ).
180. Phƣợng chắp cánh lòng còn đợi gió
Rồng chờ trăng còn đậu trên mây
Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày
Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa.
181. Phƣơng ngôn câu ví để đời
Nhƣờng cơm nhƣờng áo, dễ ai nhƣờng chồng.
182. Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa
Tiền gạo thì của mẹ cha
Cái nghiên cái bút thật là của em.
BK
a- Trái cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa
Anh lấy em từ thuở mƣời ba
Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con
Ra đƣờng ngƣời ngỡ còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng
Con cả đi học xa đàng
Con thứ hai dệt cửa nó càng xinh ghê
Con thứ ba buôn bán trăm nghề
Còn hai đứa bé nó thì ăn chơi.
b- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai lại học xa
Lấy anh từ thuở mƣời ba
Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con
Ra đƣờng ngƣời tƣởng còn son
Về nhà thiếp đã năm con với chàng.
c- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa
190
Anh lấy em từ thuở mƣời ba
Đến năm mƣời tám em đà năm con
Ra đƣờng ngƣời nghĩ còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng
Cái cả đã biết dọn hàng
Cái hai đi học về tràng khoa thi
Cái ba buôn bán trăm nghề
Còn hai con nhỏ trở về ăn chơi
Chơi cho nƣớc Hán sang Hồ
Nƣớc Tần sang Sở nƣớc Ngô sang Lào
Chơi cho sấm động mƣa rào
Một trăm cái núi lọt vào trôn kim
Chơi cho bong bóng thì chìm
Hòn đá thì nổi, gỗ lim bập bềnh.
d- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa
Anh lấy em từ thuở mƣời ba
Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con
Ra ngoài thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng
Con cả thì bắn cung múa kiếm ngang tàng
Con thứ hai đã biết cắp sách vào tràng đi thi
Con thứ ba buôn bán trăm nghề
Còn hai đứa bé ở nhà ăn chơi
Ăn chơi may túi đựng trời
Đan phên chặn gió giết voi xem giò
Chơi cho sấm động mƣa rào
Mƣời hai cửa bể đút vào trôn kim
Chơi cho bong bóng phải chìm
Đá vàng thả nổi gỗ lim mập mờ.
183. Qua đây ghé nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa, thƣơng chồng bấy nhiêu.
184. Râu tôm nấu với ruột vầu
Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon..
185. Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lƣu
Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
186. Sạch con thì lắm ngƣời bồng
Xinh chồng thì lắm ngƣời thƣơng
Tin chàng lòng dạ nhƣ gƣơng
191
Không quên nghĩa thiếp, ngƣời thƣơng mặc ngƣời.
187. Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
188. Sập vàng mà trải chiếu hoa
Không bằng áo thiếp đắp qua dạ chàng.
189. Sớm khuya có vợ có chồng
Cày sâu bừa kĩ mà mong đƣợc mùa.
190. Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ, ngàn năm cũng chờ.
191. Sóng xao mình vịt ƣớt lông
Rùa kêu đá nổi thiếp không bỏ chàng.
192. Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nắm lá nọ về xông
Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.
BK
Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng vƣợt sá, bẻ nạm lá anh xông
Có làm vậy mới trọn đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che.
193. Tai nghe trống điểm trên lầu
Nửa thƣơng phần vợ, nửa rầu phần con.
194. Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1)
Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình
Một câu phân với nữ trinh
Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung
Hai câu ta phân với anh hùng
Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời
Ba câu anh nói, em phải nghe lời
Đừng nghe lời thá sự (2) đổi lời duyên ta
Bốn câu nuôi chút mẹ già
Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi.
(1) Hoà châu: hoà nƣớc mắt.
(2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời.
195. Tay bƣng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau
Tay bƣng đĩa muối sàng rau
Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham.
196. Tay cầm đĩa muối sàng rau
Thuỷ chung nhƣ nhất sang giàu mặc ai.
197. Tay mang khăn gói sang sông
192
Bồ hôi nó đẫm thƣơng chồng phải theo.
198. Tay anh nắm con dao sắc
Cắt chín lát gừng bỏ vô thang thuốc sắc lại bảy phân
Tay mặt anh bƣng chén thuốc, tay trái anh khoát màn
Cúc Hoa (1) ơi, em uống chén thuốc này cho nạn khỏi tai qua
Kẻo con mồ côi mẹ, lấy ai cá vẽ cơm và mà nuôi con.
(1) Cúc Hoa: nhân vật chính của truyện Tống Trân Cúc Hoa.
199. Tép đồng ăn với rau mƣng
Chồng ăn vợ nhịn xin đừng bỏ nhau.
200. Thà lăn xuống giếng mà chết cả đôi
Không thể loan xa phƣợng, anh thác để em ngồi chịu tang.
201. Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tƣ làm mạ mƣa sa đầy đồng
Ai ai cũng vợ cũng chồng
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay
Tháng năm gặt hái đã xong
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy
Năm nong đầu em xay em giã
Trấu ủ phân cám bã nuôi heo
Sang năm lúa tốt tiền nhiều
Em đem đóng thuế đóng sƣu cho chồng
Đói no có thiếp có chàng
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
202. Tháng hai cho chí tháng mƣời
Năm mƣời hai tháng em ngồi em suy
Vụ chiêm em cấy lúa di
Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba trăng
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan
Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.
203. Thang mô cao bằng thang danh vọng
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con?
Trăm năm nƣớc chảy đá mòn
Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thƣơng.
204. Thấy anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi
Lấy anh em biết ăn gì?
Lộc sắn thì chát, lộc si thì già
193
- Nghèo thì bán khố, bán khăn
Có ai bán vợ mà ăn bao giờ.
205. Theo anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán mất em.
- Nghèo thời bán cột bán kèo
Nào ai có bán vợ theo bao giờ!
206. Thiếp gặp chàng nhƣ Ngƣu Lang gặp hội
Chàng gặp thiếp nhƣ hạc đỗ lƣng qui
Cứ lời anh dặn em ri
Giàu sang mặc họ, khó khăn chi cũng vợ chồng.
207. Thiếp vì chàng, thiếp mới lênh đênh nơi biển ái
Chàng vì thiếp mới lỗi đạo tâm can
Em đây thủ tiết buồng lan
Dẫu hồn về chín suối, hãy còn mang tƣợng chồng.
208. Thiếp với chàng vƣơng mang câu tình tự
Trên thời núi Ngự dƣới có sông Hƣơng
Trăm năm thiếp quyết bó buộc hai chữ can thƣờng
Sợ là sợ cho chàng ham vui cảnh khác, lại bỏ duyên tơ hƣờng khổ
em.
209. Thứ nhất vợ dại trong nhà
Thứ hai trâu chậm thứ ba dao cùn
- Trâu chậm thời anh bán đi
Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao
Vợ dại thời đẻ con khôn
Trâu chậm chắc bƣớc dao cùn dễ băm.
210. Thƣơng chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông lí, nấu chè hạt sen.
BK
Thƣơng chàng nấu cháo le le
Nấu canh hoa lí, nấu chè hạt sen.
211. Thƣơng nhau vì nết, chẳng hết chi ngƣời
Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời
Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh
- Nghe em phân cạn, vô hạn thƣơng tâm
Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm
Em thề không thuyền khác ôm cầm
Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu.
212. Thƣơng ai bằng nỗi thƣơng con
Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.
BK
- Thƣơng ai ví bằng thƣơng con
194
Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.
- Thƣơng ai ví bằng thƣơng con
Thƣơng ai ví thể gái son nhớ chồng.
213. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng.
BK
Yêu ai cho bằng yêu chồng
Bởi chồng cờ bạc, nên lòng không yêu.
214. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng
Khuyên chàng cờ bạc thì chừa
Rƣợu chè trai gái say sƣa mặc lòng.
215. Thƣơng cha thƣơng mẹ có hồi
Thƣơng anh nhƣ đọi nƣớc sôi đổ đầy.
BK
Thƣơng cha thƣơng mẹ có khi
Thƣơng em lúc đứng, lúc đi lúc ngồi
Thƣơng cha thƣơng mẹ có hồi
Thƣơng em lúc đứng, lúc ngồi cũng thƣơng.
216. Thƣơng chồng nên phải gắng công
Nào ai xƣơng sắt da đồng chi đây.
217. Thƣơng chồng nên phải lầm than
Xƣa nay ai bắt việc quan đàn bà.
218. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia
Gẫm tôi với mụ có bà con chi.
219. Thuyền bầu trở lái về đông
Con đi theo chồng để mẹ cho ai?
Mẹ già đã có con trai
Con là phận gái dám sai chữ tòng?
Chỉ thề nƣớc biếc non xanh
Theo nhau cho trọn tử sinh cũng đành
Trời cao bể rộng mông mệnh
Ở sao cho trọn tấm tình phu thê
Trót đà ngọc ƣớc vàng thề
Dầu mà cách trở giang khê cũng liều.
220. Tôi đà biết tính chồng tôi
Cơm no thì nƣớc, nƣớc thôi thì trầu.
221. Trăm năm ai chớ bỏ ai
Nghĩa trong vàng đá, tình ngoài nƣớc mây.
222. Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài thành kim.
195
223. Trăm năm cũng bạn với ta
Gặp nơi long ẩn thuỷ ba cũng đừng.
224. Trăm năm đã nát vàng phai
Ngã thì lại dậy, kén ai trên đời
Trăm năm đã nát vàng mƣời
Ngã thì lại dậy, ai cƣời mặc ai.
225. Trăm năm dạ ở đinh ninh
Nào ai phụ ngãi, quên tình mặc ai!
226. Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Nào ai thay nút, đổi khuy cũng đừng.
227. Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dầu ai đem bạc đổi chì mặc ai
228. Trăm năm tạc đá bia vàng
Đá thời thành gạch ngãi chàng không quên.
229. Trăm năm tạc một chữ đồng
Dù ai thêu phụng vẽ rồng cũng không.
230. Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
231. Trăm năm ƣớc bạn chung tình
Trên trời dƣới đất có mình với ta.
232. Trăng lên vành vạnh trăng tròn
Trƣớc răng sau rứa đừng còn đổi thay.
233. Trăng tròn chỉ có đêm rằm
Tình ta tháng tháng, năm năm vẫn tròn.
234. Trời hè lắm trận mƣa rào
Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa
Khuyên em chớ ngại nắng mƣa
Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.
235. Trời xanh nƣớc biếc một màu
Em cƣời là khóc, em sầu là tƣơi
Nỗi lòng cực lắm anh ơi
Dâu con ăn ở đôi nơi song toàn
Ai ngờ chỉ thắm dây oan
Ai ngờ Tần Tấn mà nên Việt Hồ
Một thân năm liệu bảy lo
Chiều chồng, đôi họ, mẹ cha cũng chiều.
236. Trót lời hẹn với lang quân
Dẫu rằng gió Sở mƣa Tần cũng đi.
237. Trót lời hẹn với lang quân
Dẫu rằng mƣa Sở gió Tần cũng đi
Yêu nhau sớm đợi tối chờ
196
Dẫu rằng dãi gió dầu mƣa mặc lòng.
238. Vì chàng thiếp phải bắt cua
Những nhƣ thân thiếp, thiếp mua ba đồng
Vì chàng thiếp phải long đong
Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.
239. Vì chàng thiếp phải bắt cua
Những nhƣ thân thiếp, thiếp mua ba đồng
Vì chàng nên phải mua mâm
Những nhƣ thân thiếp, bốc ngầm cũng xong
Vì chàng thiếp phải long đong
Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.
240. Vì chàng thiếp phải long đong
Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.
241. Vì chàng thiếp phải ngả mâm
Những nhƣ mình thiếp bốc ngầm trong niêu
Vì chàng những thuế cùng sƣu
Những nhƣ mình thiếp một niêu cũng thừa.
242. Vì chàng thiếp phải ngủ ngồi
Nghĩ nhƣ thân thiếp tìm nơi mà nằm.
243. Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
244. Vợ chồng là nghĩa phu thê
Tay ấp má kề, sinh tử có nhau
Chẳng tham của sẵn anh đâu
Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay
Bao giờ cho đặng sum vầy
Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui.
245. Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hoà vợ thuận nhà thƣờng yên vui
Sinh con mới ra thân ngƣời
Làm ăn thịnh vƣợng đời đời ấm no.
BK
Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hoà vợ kính nhà thƣờng yên vui
Sinh con mới ra mặt ngƣời
Làm ăn thanh thản đời đời không lo.
246. Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hoà vợ huận gia đƣờng yên vui.
247. Vì tằm em phải chạy dâu
Vì chồng em phải qua cầu đắng cay.
248. Vợ chồng đầu gối, má kề
197
Lòng nào mà bỏ, mà về cho đang
Hồ về, chân lại đá ngang
Về sao cho đứt cho đang mà về.
249. Vợ chồng kết tóc trên trời
Đói no ta sẽ lấy lời bảo nhau
Ăn thƣờng cơm muối canh rau
Hàn vi thuở trƣớc, thuở sau thanh nhàn.
250. Vợ chồng nhƣ đôi cu cu
Chồng thì đi trƣớc, vợ gật gù theo sau.
251. Vợ chồng nhƣ nút với khuy
Sao anh không than vãn lời gì cho em nghe?
252. Vợ nên rồng, chồng nên Tiên
Quí lại gặp quí, bạn hiền gặp nhau.
253. Xấu xa cũng thể chồng ta
Dẫu rằng tốt đẹp cũng ra chồng ngƣời.
254. Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.
255. Xin anh đi học cho ngoan
Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài
Quan tiền dài em ngắt làm đôi
Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già
Bát cơm em nấu nhƣ hoa
Bát canh em nấu nhƣ là mật ong
Nƣớc mắt em lọc cho trong
Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan.
256. Xin chàng giữ lấy bút nghiên
Đừng tham nhan sắc chớ quên học hành
Nữa mai đƣợc chiếm khoa danh
Trƣớc là vinh thiếp sau mình vinh thân.
257. Xin chàng kinh sử học hành
Để em cày cấy, cửi canh kịp ngƣời
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn Trời lộc nƣớc đời đời hiển vinh.
258. Yêu nhau cho mặn cho mà
Chồng vợ thuận hoà trong ấm ngoài êm.
2.2. ®¹O NGHÜA Vî chỒng
STT NÉI DUNG
198
1. Ai chÌo ghe bÝ qua s«ng
§¹o vî nghÜa chång nÆng l¾m anh ¬i!
2. Anh em cèt nhôc ®ång bµo
Vî chång lµ nghÜa lÏ nµo ch¼ng th¬ng?
3. Anh tíi nhµ em, anh ¨n c¬m víi c¸
Em tíi nhµ anh, em ¨n rau m¸ víi cua ®ång
Khã em chÞu khã, ®¹o vî chång em vÉn th¬ng.
4. CÇu m« cao b»ng cÇu danh väng
NghÜa m« nÆng b»ng nghÜa chång con
VÝ dÇu níc ch¶y ®¸ mßn
Xa nhau ngh×n dÆm lßng cßn nhí th¬ng.
5. Ch÷ r»ng: qu©n tö t¹o ®oan
Vî chång lµ nghÜa ®¸ vµng tr¨m n¨m.
6. §¹o cang thêng khã l¾m b¹n ¬i
Ch¼ng dÔ nh ong bím ®Ëu råi l¹i bay
§¹o cang thêng kh¸ dÔ ®æi thay
DÇu lµm nªn vâng gi¸, rñi ¨n mµy còng theo nhau.
BK
- Ch¼ng nh ong bím ®Ëu råi l¹i bay .
7. §¹o vî chång h«m Êp mai «m
Ph¶i ®©u cua c¸ víi t«m
Khi ®ßi mí nä khi chåm mí kia.
8. §Çu ®éi chóa, vai mang cèt mÑ
Tay d×u d¾t cha giµ
GÆp mÆt ®©y níc m¾t nhá sa
Thß tay trong tói bµ ba
LÊy c¸i kh¨n mu soa anh chÆm
§¹o vî chång ngµn dÆm kh«ng quªn.
9. §èn c©y ai nì døt chåi
§¹o chång nghÜa vî, giËn råi l¹i th¬ng.
10. ë lµm ri ®©u cho trän nghÜa vî chång
§æ må h«i em chÆm, ngän giã lång em che.
11. ở sao nhƣ lụa đừng phai
Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên.
12. Em nghe anh tỏ lời này
Em đòi để bỏ nhƣ vầy sao nên
Tao khang nghĩa ở cho bền
Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà.
13. Gai trong bụi ai vót mà nhọn
Đạo vợ chồng ai chọn mà cân
Trên trời đã định xây vần
199
Xây cho gấp gấp trong lần năm nay.
14. Hữu bằng tự viễn phƣơng lai(1)
Lạc hồ quân tử(2) lấy ai bạn cùng
Chữ hiếu, là thầy với mẹ
Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân
Yêu nhau bao quản xa gần.
(1) và (2) Hữu bằng tự viễn phƣơng lai, lạc hồ quân tử: nguyên nhân
là một câu trong thiên "Học nhi" của sách "Luận ngữ". Trọn câu là:
"Hữu bằng tự viễn phƣơng lai, bất diệc lạc hồ". Có thể hiểu câu đó
một cách đơn giản nhất là: có ngƣời bạn từ phƣơng xa đến khá lại
không vui mừng ƣ.
15. Làm ngƣời phải biết cƣơng thƣờng
Xem trong ngũ đẳng, quân vƣơng ở đầu
Thờ cha, kính mẹ trƣớc sau
Anh em hoà thuận mới hầu làm nên
Vợ chồng đạo nghĩa cho bền
Bạn bè cho thực, dƣới trên đứng thƣờng.
16. Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bò bông
Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng
Đêm nằm nghĩ lại, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.
17. Lấy nhau cho trọn đạo Trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.
18. Mình đƣa bâu áo tui viết tháo vài hàng
Trƣớc thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu
Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu
Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền.
19. Mình đừng sầu muộn ốm đau
Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng
Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng
Cang thƣờng li biệt, đạo vợ chồng còn thƣơng.
20. Một thƣơng, hai thƣơng
Ba thƣơng, bốn nhớ
Đạo chồng, nghĩa vợ
Là đức cù lao
Nhớ khi trăng gió, mƣa rào
Trăm năm gối phƣợng má đào bên em.
21. Một thƣơng, hai thƣơng, ba thƣơng, bốn nhớ
Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao
Sông sâu ai dám tới đào
Bạn về nhà bạn, nƣớc mắt ào nhƣ mƣa.
200
22. Nay mai anh lại sang Tây(1)
Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh
Không đi thì sợ không lành
Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền
Em ở nhà bình yên buôn bán
Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau
Anh đi chỉ dặn mấy câu
Em về cố giữ lấy màu cho xinh
Nhờ em mọi việc gia đình
Tứ thân phụ mẫu một mình em lo
Em đã là con nhà gia giáo
Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền
Anh đi vì lệnh quan trên
Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về
Bấy giờ sum họp đề huề
Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui
Đạo vợ chồng giờ xui ra thế
Anh nói câu này em để trong tai
Bấy kì thứ bảy, thứ hai
Anh đi em tiễn ra ngoài la ga
Gửi lời thăm hỏi ông bà
Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng
Còn đây một chút bế bồng
Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn
Xa anh lấy đó làm tin
Cũng là bớt nỗi ƣu phiền chia li
Anh đành gạt lệ ra đi
Thƣơng anh chẳng biết nói gì nữaa đâu.
(1)Thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914-1918) thực dân Pháp
dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính sang Pháp.
23. Nghĩa tao khang ai đà vội dứt
Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi
Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời
Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau.
24. Nhà em có bụi trầu cay
Nhà anh có khách sang vay lá vàng.
Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn
Thời buổi này kén chọn làm chi
Yêu nhau lấy quách nhau đi
Ở trong giá thú luận cho hoá tài
Đƣờng còn dài, trông sao cho xiết
201
Đạo vợ chồng ai biết đói no
Quí hồ thầy mẹ gả cho.
25. Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng
Ngƣời trong một nƣớc thì thƣơng nhau cùng
Phu thê trong nghĩa tƣơng phùng
Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai
Tấm đá hoa ghi tạc để đời.
26. Phụ hề sanh, mẫu hề dƣỡng
Đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng (1)
Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phƣơng
Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn
sông Hƣơng đợi chờ.
(1) Phú hề sanh, mẫu hề dƣờng, đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng: Cha
mẹ có sông sinh ra và nuôi dƣỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải coi
trọng cƣơng thƣờng (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử
truyền thống).
27. Phƣợng chắp cánh lòng còn đợi gió
Rồng chờ trăng còn đậu trên mây
Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày
Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa.
28. Sạch con thì lắm ngƣời bồng
Xinh chồng thì lắm ngƣời thƣơng
Tin chàng lòng dạ nhƣ gƣơng
Không quên nghĩa thiếp, ngƣời thƣơng mặc ngƣời.
29. Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nạm lá anh xông
Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.
BK
Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng vƣợt sá, bẻ nạm lá anh xông
Có làm gì vậy mới trọn đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che.
30. Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1)
Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình
Một câu phân với nữ trinh
Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung
Hai câu ta phân với anh hùng
Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời
Ba câu anh nói, em phải nghe lời
Đừng nghe lời thá sự, (2) đổi lời duyên ta
202
Bốn câu nuôi chút mẹ già
Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi.
(1) Hoà châu: hoà ngƣời mắt.
(2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời.
31. Tay bƣng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau
Tay bƣng đĩa muối sàng rau
Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham.
32. Thang mô cao bằng thang danh vọng
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con?
Trăm năm nƣớc chảy đá mòn
Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thƣơng.
33. Thƣơng nhau vì nết, chẳng hết chi ngƣời
Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời
Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh
- Nghe em phân cạn, vô hạn thƣơng tâm
Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm
Em thề không thuyền khác ôm cầm
Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu.
34. Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
35. Vợ chồng là nghĩa phu thê
Tay ấp má kề, sinh tử có nhau
Chẳng tham của sẵn anh đâu
Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay
Bao giờ cho đặng sum vầy
Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui.
36. Vợ chồng là nghia tao khang
Chồng hoà vợ huận gia đƣờng yên vui.
37. Vợ chồng là nghia tao khang
Chồng hoà vợ thuận nhà thƣờng yên vui
Sinh con mới ra thân ngƣời
Làm ăn thịnh vƣợng đời đời ấm no.
BK
Vợ chồng là nghĩa tao khang
Chồng hoà vợ kính nhà thƣờng yên vui
Sinh con mới ra mặt ngƣời
Làm ăn thanh thản đời đời không lo.
38. Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.
203
2.3. ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT
STT NỘI DUNG
1. Ông Nguyệt Lão (1) ngồi rồi xe chỉ thắm
Xe bốn tôi vào làm bạn với tiên cung
Lòng ƣớc ao sánh với nhau cùng
Đây với đấy duyên phận phải chiều
Tơ hồng vấn vít, chỉ điều xe săn
Cầm tay, giao mặt rõ ràng
Chỉ thề nƣớc biếc nhà hằng dám quên
Bốn tôi lên miếu xuống đền
Lên đền, xuống miếu dám quên đâu là
Canh ba nghe vẳng tiếng gà
Gà đƣơng gáy giục, dạ đà tƣơng tƣ
Canh tƣ chuông khắc trên lầu
Trên lầu chuông khắc, đã rầu chiêu đăm
Bây giờ sang trống canh năm
Tâm hồn chuyển động, giục xuân bồi hồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Hết nằm lại chỗi, hết ngồi lại đi
Phải khi sóng gió bất kỳ
Tƣởng chi đến nguyệt, tiếc gì đến xuân
Đã sinh ra số phong trần.
2. Ông Tơ bà Nguyệt đi đâu?
Không về mà gỡ mối sầu cho ta
Ông Tơ bà Nguyệt ở nhà
Không đi mà gỡ cho ra mối sầu.
3. Ông Tơ hồng ơi! Sao ông đành dạ đành lòng
Đôi lứa tôi nhƣ sợi chỉ lộn vòng
ông không xe lại, để lòng nhớ thƣơng.
4. Ông Tơ xe chi nghe đà oan khổ
Xe anh lúc còn ở lổ (1)
Xe em thuở chƣa mặc quần
Anh thƣơng em từ thuở lọt lòng
Ông Tơ xe sao đƣợc tơ hồng mà xe.
(1) Ở lô: ở truồng.
5. Đôi chúng ta duyên phận phải chiều
Dây tơ hồng đang xe vấn vít
Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt khéo xe
Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.
6. Đôi chúng ta duyên phận phải chiều
204
Dây tơ hồng đang xe vấn vít
Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt(1) khéo xe
Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.
7. Đôi ta nhƣ vợ với chồng
Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng chƣa xe.
8. Đã thành gia thất hay chƣa
Mà anh ƣớc những mây mƣa cùng ngƣời?
- Tuổi anh đang độ thơ đào
Ông tơ chƣa định nơi nào xe duyên.
9. Đêm nằm đặt lƣng xuống chiếu
Nghe mấy lời thiết yếu em than
Mau mau trỗi dậy ruột gan đau từ hồi
Canh khuya anh thở vắn than dài
Vái xin Nguyệt Lão trúc mai một nhà
Chữ cận là gần Chữ viễn là xa
Anh với em cách trở tại mẹ cha không đành
Ngãi nhân nay đã gần thành
Mình về thƣa lại phụ mẫu đành tôi ƣng.
10. Đêm ngắn, tình dài
Tƣơng tƣ bao nhạt, bao phai hỡi tình!
Bỗng đâu mắc mối xích thằng
Khăng khăng ngƣời buộc, ai giằng cho ra
Lên tận trăng già
Hỏi ông Nguyệt Lão có nhà hay không.
11. Đêm qua bƣớc chân lên trời
Lạc đƣờng lạ ngõ gặp ngƣời cung Tiên
Ƣớc chi duyên sẽ bén duyên
Cho duyên cõi thọ, thành duyên cõi trần
Dạ buồn chân bƣớc phân vân
Trời xui anh thẳng tới sân tơ hồng
- Ông Tơ, ông có nhà không
Ông ra xua chó cho tôi cùng với nao!
Tơ duyên ông cất nơi nao
Cất trong chum quả, hay vào ao sen?
Ngƣời nào trái kiếp lỡ duyên
Thì ông xe lại cho liền một đôi
Còn nhƣ ông ấy với tôi
Thì ông xe thẳng làm đôi vợ chồng.
12. Đêm qua nguyệt đổi sao dời
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan
Lời thề xƣa đã lỗi muôn vàn
205
Mảnh gƣơng còn đó, phím đàn còn đây
Ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão sao khéo xe dây
Xe cho các cô mình ấy lấy chúng anh đây cũng vừa.
13. Đồn đây có gái má đào
Các Đằng đƣa lại, anh hào tới đây
Trƣớc nhờ Nguyệt Lão xe dây
Sắt cầm đƣa lại đó đây một nhà.
14. Đấy với đây chẳng duyên thì nợ
Đây với đấy chẳng vợ thì chồng
Dây tơ hồng chƣa xe đã mắc
Rƣợu quỳnh tƣơng chƣa nhắp đã say
Chẳng nhè chẳng chén sao say
Chẳng thƣơng chẳng nhớ sao hay đi tìm?
Tìm em nhƣ thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông.
15. Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu
Bóng trăng đủng đỉnh ra màu khơi trêu.
Ớ ông Tơ! ông để vƣơng đâu sợi chỉ điều
16. Ai ơi đợi mấy tôi cùng
Tôi còn gỡ mỗi tơ hồng(1) chƣa xong
Tơ hồng hồ gỡ đã xong
Ai đem cái bối bòng bong buộc vào.
(1) Tơ hồng, ông Tơ, Nguyệt lão: Theo tục u quái lục, Vi Cố, ngƣời
đời Đƣờng, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dƣới
bóng trăng đang kiếm sổ sách (Nguyệt Lão) trong túi có một cuộn dây
đỏ. Vi Cố hỏi chuyện ông già cho biết: "Cuốn sách là sổ hôn nhân và
cuộn dây đỏ dùng để buộc nam nữ lại với nhau. Dầu cho hai bên có
thù hằn với nhau hoặc dù ở cách xa nhau, đã lấy dây đỏ buộc đôi nam
nữ lại thì tất sẽ thành vợ chồng". Do điển này mà những từ Xích
thằng, Tơ Hồng, chỉ hồng, chỉ thắm v.v... đều chỉ tình vợ chồng, và
Nguyệt lão, Trăng Già, Ông Tơ... Đều chỉ ngƣời làm mai mối trong
việc hôn nhân.
17. Ai ơi đợi với tôi cùng
Tôi còn dở mối tơ hồng chƣa xe.
BK
Anh ơi đợi với tôi cùng
Tôi còn gỡ mối tơ hồng chƣa xong.
18. Ai đi đợi với tôi cùng
Tôi còn dở mối tơ hồng chửa xe
Có nghe nín lặng mà nghe
Những lời anh nói nhƣ xe vào lòng.
206
19. Ai xinh thì mặc ai xinh
Ông Tơ chỉ quyết xe mình với ta.
20. Anh về sao đƣợc mà về
Dây giăng tứ phía tính bề gặp anh
Dây giăng mặc kệ dây giăng
Ông Tơ bà Nguyệt đón ngăn cùng về.
21. Bây giờ tác hiệp nhân duyên
Ngƣời hiền gặp đƣợc bạn Tiên từ rày
Xin ngài đừng ngại đấy đây
Để cho Nguyệt Lão xe dây muôn đời
Xin nàng đừng ngại gần xa
Để cho chén ngọc đũa ngà có đôi.
22. Bây giờ ta lại gặp ta
Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây
Xe vào nhƣ gió nhƣ mây
Nhƣ chim loan phƣợng đỗ cây ngô đồng
Thuyền quyên sánh với anh hùng
Những ngƣời thục nữ sánh cùng văn nhân
Tình xa nhƣng ngãi còn gần
Tràng An quận Bắc giao lân thế nào?
23. Bắc thang lên đến tận trời
Tìm ông Nguyệt Lão đánh mƣời cẳng tay
Đánh rồi lại trói vào cây
Hỏi ông Nguyệt Lão: nào dây tơ hồng?
Nào dây xe bắc xe đông
Nào dây xe vợ xe chồng ngƣời ta?
Ông vụng xe, xe phải vợ già
Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!
BK
Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt Lão đánh mƣời cẳng tay
Đánh thôi lại trói vào đây
Hỏi ông Nguyệt Lão: Nào dây tơ hồng.
24. Bắt ông Tơ mà cho ba đấm
Bắt bà Nguyệt, đánh bốn mƣơi chín cái hèo
Duyên ngƣời ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều mới xe.
25. Bắt tay ông Tơ mà bơ mà bớp
Bắt lấy bà Nguyệt mà cột cội cau
Cứ xe khắp thiên hạ đâu đâu
Bỏ hai đứa mình lận đận ruột héo gan sầu không xe.
26. Ba năm chẳng xứng duyên hài
207
Nằm lăn xuống bệ lạy dài ông Tơ.
27. Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi!
Bớ bạn tình nhân ơi!
Thân em nhƣ cái quả xoài trên cây
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc
Nó đánh lúc la lúc lắc, trên cành
Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai?
Kìa khóm trúc, nọ khóm mai
Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thƣơng
Một lần chờ, hai lần chờ
Sớm lần nhớ, chớ lần thƣơng
Anh thƣơng em nhƣng bác mẹ họ hàng chẳng thƣơng.
BK
Bớ thảm bớ thiết ơi
Bớ bạn tình nhân ơi
Thân em nhƣ cái trái xoài trên cây
Gió đông gió tây gió nam gió bắc
Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai vô tình nó rớt xuống biết vào tay ai?
28. Bực mình lên tận tiên cung
Đem ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời
Nữ lòng trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi, mây trôi một thì
Biết ngƣời biết mặt nhau chi
Để đêm em tƣởng, ngày thì em thƣơng
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị(1), ngẩn ngơ tìm ngƣời
Tìm ngƣời chẳng biết mấy nơi
Tìm ba mƣơi sáu phố thấy ngƣời ở đây.
(2) Nhị sông: còn gọi là Nhị Hà hay Nhĩ Hà, khúc sông Hồng chảy
gần Hà Nội.
29. Căn duyên này, ai phá cho rời
Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu không.
30. Công anh lên rừng đốn trúc
Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài
Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ
Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn
Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức
Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi
Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái
Đây cần câu nhân, cần câu ngãi
208
Đây cần câu phải cần câu khôn
Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng
Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu
- Con cá anh đạp nó đã có cặp
Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu
Anh về sửa lại lƣỡi câu
Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng?
31. Cây cao bóng cả duyên mòn
Ƣớc gì tôi đƣợc chồng con với ngƣời
Có anh nhƣ đũa có đôi
Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thƣơng
Khối tơ vƣơng, ruột tằm vấn vít
Bởi ông Tơ bà Nguyệt chƣa xe
Quan tƣớng nghe hiệu lệnh thì về
Chữ dục đã vậy chữ tuỳ làm sao ?
Muốn cho đông liễu tây đào
Cảnh sầu bể thảm, lẽ nào thiếp mang
Phòng khi lỡ bƣớc theo chàng
Lấy ai chầu chực thành hoàng quốc gia
Phòng khi thiếp ở lại nhà
Một mình thân thiếp biết là làm sao?
32. Cổ tay vừa trắng vừa tròn
Mó vào mát lạnh nhƣ hòn tuyết đông
Đôi ta đã xứng vợ chồng
Duyên trời đã định tơ hồng đã xe.
33. Chăn đơn nửa đắp nửa hong
Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đƣờng ra lối vào
Làm cho quên cá dƣới ao
Quên sông tắm mát quên sao trên trời
Đất Bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lƣợc chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim
Thƣơng nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc nhƣ chim lạc đàn.
209
34. Cha mẹ hồi trƣớc có xem
Ông Tơ đã định em với anh vợ chồng.
35. Con dao be bé sắc thay
Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm
Lòng tôi yêu vụng nhớ thầm
Trách ông Nguyệt Lão xe nhầm duyên ai!
Duyên tôi còn thắm chƣa phai
Hay là ngƣời đã nghe ai dỗ dành?
36. Dầu thầy mẹ không thƣơng
Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đƣờng lạy vô
Lạy cùng ông bác bà cô
Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ
Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ
Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.
37. Ở đây ai có sẵn tiền
Cho tôi mƣợn năm quan tiền, tôi quá giang ra ngoài Bắc
Tôi mua một trăm cái đục, một chục cái chàng, mƣời tám cái khoan
Tôi đóng cái thang một trăm ba mƣơi hai nấc
Tôi bắc thấu ông Trời vàng
Hỏi thăm Nguyệt Lão chớ duyên nàng về đâu?
38. Ở đây lắm kẻ gièm pha
Nói vào thì ít, nói ra thì nhiều
Thƣơng anh, thƣơng đủ mọi điều
Gió quanh em sẽ lựa chiều em che
Ai nói chi chàng chớ có nghe
Ông Tơ bà Nguyệt đã xe ta rồi
Dù ai khuyên đứng, dỗ ngồi
Thì chàng cũng cứ đãi bôi qua lần.
39. Em là con út nhất nhà
Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai
Miệng em cƣời nhƣ cánh hoa nhài
Nhƣ nụ hoa quế nhƣ tai hoa hồng
Ƣớc gì anh đƣợc làm chồng
Để em làm vợ, tơ hồng trời xe.
40. Em phải gặp ông Tơ hỏi sao cho biết
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
Vì đâu hoa nọ lìa cành
Nợ duyên sao sớm dứt tình cho đang.
41. Gặp đây anh nắm cổ tay
Buông ra, em nói lời này thở than
Châu Trần chớ vội bắc ngang
210
Xa xôi vƣợt mấy ngày đàng nên quen
Tơ hồng chỉ thắm là duyên
Dẫu bao giờ gặp thì nên bấy giờ.
42. Hôm nay anh đi chợ trời
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên
Tay thì cầm bút cầm nghiên
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành
Biên ta rồi lại biên mình
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
Chẳng tin lên hỏi trăng già
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình
Chẳng tin lên hỏi thiên đình
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta
Quyết liều một trận phong ba
Để cho thiên hạ ngƣời ta trông vào
Quyết liều một trận mƣa rào
Để cho thiên hạ trông vào đôi ta.
43. Hỡi ngƣời đi ở bên bờ
Phen này ắt hẳn ông Tơ xe vào.
44. Hẹn với nƣớc non
Kim xe mũi chỉ, cho tròn vuông tơ
Nguồn ân, bể ái hẹn hò
Dẫu xa nghìn dặm, hồ đồ vẫn không
Nguồn ân một mảnh trăng trong
Có nơi xếp để tơ hồng kíp xe
Đa đoan một mảnh trăng già
Xe đâu, xe hẳn một nhà vui chung
Xe đâu, xe hẳn cho xong.
BK
Trót lời hẹn với nƣớc non
Tơ xe nên để cho tròn duyên tơ
Nguồn ân, bể ái hẹn hò
Dẫu xa nghìn dặm hồ đồ(?) giao thông
Lạnh lùng một cảnh trăng trong
Bốn tôi khấn nguyện ông tơ hồng kíp xe
Đa đoan lắm mấy ông trăng già
Xe đâu xe hẳn một nhà vui chung
Nên chăng hãy quyết cho xong.
45. Kìa khóm trúc, nọ khóm mai
Ông Tơ, bà Nguyệt, xe hoài chẳng thƣơng.
46. Kìa khóm trúc, nọ khóm mai
211
Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thƣơng
Một lần chờ, hai lần đợi
Ba lần nhớ, bốn lần thƣơng
Anh thƣơng em, nhƣng phụ mẫu với họ hàng chẳng thƣơng.
47. Khi xƣa em ở ngoài biển anh ở trốn lâm trung
Đến nay đôi ta hội ngộ tƣơng phùng
Trời kia đã định, mối tơ hồng phải xe.
48. Kẻ về, ngƣời ở trông theo
Ngựa Hồ chim Việt đôi điều ái ân
Một mình tựa án tần ngần
Năm canh khúc ruột nhƣ dần cả năm
Vắng mình ta vẫn hỏi thăm
Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm sao?
Bấy lâu nay những khát khao
Mong chƣa thấy mặt lòng nào đã quên
Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên
Vì ai xui giục cho nên nỗi này
Trách ông Tơ ra tay hờ hững
Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày
Bây giờ hai ngả đông, tây
Trƣớc sao xe mối tơ này làm chi?
Chửa biết nhau sao không nói trƣớc
Biết nhau rồi kẻ ngƣợc ngƣời xuôi
Bao giờ cho đƣợc đủ đôi
Nhƣ sen tịnh đế một chồi hai hoa.
49. Kết phức đi đây duyên đó nợ
Kết phức đi đây vợ đó chồng
Dù ông trời chƣa định, dù ông Tơ Hồng chƣa xe.
50. Lá ngọc cành vàng
Lan huệ tốt tƣơi
Ngƣời có đôi, nhƣ đũa có đôi
Vắng tôi quan tƣớng ngẫm, quan tƣớng nghĩ, bùi ngùi nhớ trông
Lệch sai ngọc nữ kim đồng
Rẽ mây mà xuống đánh đồng giúp tôi
Gió hiu hiu ngồi chốn năm canh
Quan tƣớng đi, quan tƣớng ngẫm, quan tƣớng nghĩ cái chữ chung tình
vân vi
Thƣơng ngƣời nhƣ lá đài bi
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sƣơng
Bối tơ vƣơng cái ruột con tằm
Bối rối, ông trăng già, bà Nguyệt khéo xe
212
Quan tƣớng nghe hiệu lệnh thì về
Chữ đúc đã vậy vì làm sao?
51. Lại đây anh hỏi cho rành
Cửa nhà gia thất em thành hay chƣa?
Má hồng hƣơng thoảng gió đƣa
Hỏi nàng có chốn hay chƣa hỡi nàng?
- Khoan khoan anh hãy xe ra
Để em biết hết chuyện nhà anh hay
Phủ Hà(1) quê quán xƣa nay
Cha mẹ đã định những ngày còn thơ
Bởi vì duyên kiếp hững hờ
Số mình đã lỗi ông Tơ lại lầm
Thuyền son đậu phải vũng đầm
Tại trâu mà gảy đàn cầm biết chi!
Vậy nên em phải ra đi
Đến đâu, ai kẻ thƣơng vì hãy hay.
(1) Phủ Hà Trung: xƣa gồm bốn huyện ở phía đông Thanh Hoá là:
Hoằng Hoá, Phong Lộc, Nga Sơn, Tống Sơn.
52. Lửng lơ vừng quế soi thềm
Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này
Ở đây gần bạn gần thầy
Có công mài sắc có ngày nên kim.
BK
(a) Lửng lơ vầng quế soi thềm
Hƣơng đƣa thơm ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này?
(b) Lửng lơ vừng quế dọi thềm
Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng trốn này.
(c) Lửng lơ bóng quế dãi thềm
Nhang đƣa bát ngát càng thêm bận lòng
213
Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?
Thấp thoáng cái bóng ông Trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này
Rồng vàng lên đổ cạn giƣờng vây
Biết rằng đây đấy sum vày gần xa
Xăm xăm bƣớc tới gốc mai già
Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không?
Xăm xăm tới gốc cây thông
Cô Đôi xin nhớ ra lòng ngẩn ngơ.
(d) Lửng lơ bóng quế dãi thềm
Nhang đƣa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng cho chăng?
Thấp thoán cái bóng ông Trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này
Rồng vàng lên bể cạn giƣơng vây
Biết rằng đây đấy sum vầy gần xa.
(đ) Lẳng lơ vừng quế dọi thềm
Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng để đãy kim nhung
Biết ngƣời quân tử có dùng ta chăng?
53. Mây bay xao xác gặp rồng
Tình cờ gặp bạn tơ hồng ta xe.
54. Một đời đƣợc mấy anh hùng?
Một nƣớc đƣợc mấy ông trị vì?
Anh đừng cợt diễu em chi a
Em đang chắp chỉ chọn ngày cài hoa
Tin lên thiên thƣơng Hằng Nga
Cậy ông Nguyệt lão với bà Tơ vƣơng
Chăn loan, gối phƣợng sẵn sàng
Màn đào rủ dọc, trƣớng hồng trải ngang
Còn đang chọn đá thử vàng
Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao
Quan quan bốn tiếng thƣ cƣu
Mong ngƣời quân tử hảo cầu kết duyên
Phấn son cho phỉ tấm nguyền
Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình
Phạt kia thơ ấy rành rành,
Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lƣờng.
55. Một mình thiếp giữ lời thề
214
Hai tình chớ đợi đêm khuya lạnh lùng
Ba tình gánh cát bể Đông
Bốn tình chờ đợi tơ hồng khéo xe
Năm tình một hội hai hè
Sáu tình chỉ quyết xe tơ đá vàng
Bảy tình bia tạc chứ vàng
Tám tình em quyết lấy chàng, chàng ơi!
Chín tình nhớ mãi không nguôi
Mƣời tình, tính chẳng sang chơi với tình
Tình còn vƣơng nợ ba sinh
Tính ơi, có gỡ cho tình đắp mùa đông
áo tình, tính mặc cho xong mùa hè
Tay tình, tính vốn ngồi kề
Chân tình, tính đội cũng vừa
Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.
56. Mấy năm trời qua tƣởng xa em
Hay đâu Trời định anh với em lại cang thƣờng
Ông Tơ xe sợi chỉ hƣờng
Đố em có biết điệu cang thƣờng của ai
Đêm cách bức, ngày chẳng vãng lai
Ông Tơ xe mối chỉ cho hai đứa mình
Chỉ tơ đứt mói thình lình
Bậu ơi, thƣơng chƣa phải dạ mà tình đã khiến xa.
57. Năm Thìn trời bão thình lình
Kẻ trôi ngƣời nổi, hai đứa mình còn đây
Tơ hồng nay đã về tay
Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình
Điệu phu thê mình giữ trọn tình
Để phụ mẫu hay đặng đánh mình đau tôi.
58. Năm voi anh đúc năm chuông
Năm cô anh đóng năm giƣờng bình phong
Còn một cô bé chửa chồng
Lại đây anh kén cho bằng lòng cô
Một là ông Cống, ông Đồ
Hai là ông Bát, ông Cửu, ông Đô cũng vừa
Giả ơn bà Nguyệt, ông Tơ
Sớm đi cầu Thƣớc, tối mơ mộng hùng
Cho mau cửa lại treo cung
Để cho cô bế cô bồng cô ru
Cô ru rằng:
Con ăn, con bú, con nô
215
Con lẫy, con bò, con chững, con đi
Ngày sau con cả lớn khôn
Con học, con thi, nhảy ba tầng sóng kinh kì khai nhan.
59. Nằm đêm nghĩ lại trách thầm
Ông Tơ sao cắc cớ(1)
Nhớ ai, rứt xé ruột tằm
Mơ hình tƣởng bóng, luỵ dầm thấm bâu.
(1) Cắc cớ: oái oăm, ngƣợc đời.
60. Nào em phụ nghĩa bỏ chồng
Bởi chƣng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi.
61. Ngày nay Nguyệt Lão vấn vƣơng
Trăm năm quyết giữ tao khƣơng một đời.
62. Ngồi buồn trách mẹ trách cha
Trách ông Nguyệt Lão, trách bà xe dây.
63. Ngậm ngùi chả dám nói ra
Những lời ngào ngạt chật nhà năm gian
Ông Tơ sao khéo đa đoan
Một lời lan huệ, đá vàng thuỷ chung.
64. Nghĩa non sông há dễ thờ ơ
Hay là tình tự đợi chờ đã lâu
Vẻ chi từ giã cùng nhau
Điều chi nói thực kẻo sầu ai mang
Ông Tơ sao khéo đa đoan
Đang vui xao nỡ để đàn ngang cung
Cùng nhau gắn bó thuỷ chung
Trăm năm tạc dạ ghi lòng dám sai
Đã đành hợp tác bởi Trời
Bởi Trời nhƣng cũng có ngƣời mới nên
Một lời đây đó là duyên
Chớ nên chểnh mảng để phiền cho nhau.
65. Nhác trông em cái áo vá vai
Thầy mẹ em vá hay tài vá nên
Cái mụn vá em trông cũng có duyên.
BK
Nhác trông tấm áo vá vai
Thầy mẹ anh vá hay tài vá nên?
Nhác trông tấm áo có duyên
Miệng cƣời hoa nở, càng nhìn càng ƣa
áo anh, em mặc cũng vừa
Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.
66. Nhân bất tri nhi bất uẩn
216
Bất diệc quân tử hồ?
Anh thƣơng em ruột héo gan khô
Trách ai phân rẽ Hán Hồ đôi nơi
Cánh bèo mặt nƣớc nổi trôi
Thƣơng nhau phải nhớ những lời sớm trƣa
Lạc bầy chim nhạn bơ vơ
Đôi ta không nợ ông Tơ bỏ liều
Sao trên trời bao nhiêu
Qua thƣơng bậu bấy nhiêu
Ngày đêm qua nhớ bậu, những trăm chiều quặn đau.
67. Nhờ ai lên đến cung mây
Hỏi ông Nguyệt Lão nào dây tơ hồng
Nào dây xe bắc xe đông
Nào dây xe vợ xe chồng ở đâu.
68. Nƣớc chảy đã vẫn chƣa mòn
Ƣớc gì kết ngãi nƣớc non với chàng
Ƣớc gì tạc đá ghi vàng
Ƣớc gì em sánh với chàng từ đây
Ƣớc gì Nguyệt Lão xe dây
Xe cho mình đấy ra đây một nhà.
69. Phải em gặp ông Tơ, hỏi sơ cho biết
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
Vì đâu hoa nọ lìa nhành
Nợ duyên sao sớm dứt cho đành dạ em?
BK
Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết
Phải gặp bà Nguyệt, gạn thiệt cho rành
Vì đâu hoa nọ lìa nhành
Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ em?
70. Phụ anh, tội lắm bớ nàng!
Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn.
71. Quyết lên trời kiện đến ông Tơ
Nơi thƣơng không vấn, vấn vơ nơi nào.
72. Rồi đây ta kiện ông Tơ
Nơi thƣơng không vấn, vấn vơ nơi nào.
73. Rủ nhau đi gánh nƣớc thuyền
Đứt quãng vỡ sải nƣớc liền ra sông
Nhất chờ, nhị đợi, tam mong
Tứ thƣơng, ngũ nhớ, lục mong, thất bát cửu chờ
Mặt trời đã xế về nam
Trách ông Tơ Hồng cùng bà Nguyệt Lão đa đoan nửa chừng!
217
Cây muốn lặng, gió chẳng muốn dừng.
74. Sáng trăng suông sáng cả bờ sông
Ta đƣợc cô ấy ta bồng ta chơi
Ta bồng ta tếch lên trời
Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?
75. Tôi rằng:
Lâm Tri (1) chút ngãi đèo bòng
Hỏi ngƣời còn nhớ hay lòng đã quên
Chữ chung tình gánh nặng đôi bên
Dƣới dòng nƣớc chảy đôi bên có cầu
Có lòng hạ cố đến nhau
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã nhiều
Những là đắp nhớ đổi sầu
Tuyết sƣơng nhuộm nửa mái đầu huê râm
Ngày thì luống những âm thầm
Đêm nằm ít cũng tám, chín mƣời lần chiêm bao
Tối qua lên tận trên mây
Tôi bẩm là mây
Hôm nay mới đƣợc đến đây hầu ngƣời
Thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng
Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng
Dây nào xe vợ xe chồng ngƣời ta
Dây nào xe phố Thanh Hoa
Thì ông xe lại cho liền lỡ duyên
Thì ông xe lại ngƣời ta cho liền
Dây nào trái kiếp lỡ duyên
Thì ông xe lại cho liền ông ơi!
Dây nào xe bốn chúng tôi
Xe chín lần kép, xe mƣời lần đơn.
(1) Lâm Tri: địa danh dùng trong truyện Kiều của Nguyễn Du,
nguyên là tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
76. Tối qua lên tận trên mây
Hôm nay mới đƣợc đén đây hầu ngƣời
thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng
Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng
Dây nào xe vợ, xe chồng ngƣời ta
Dây nào xe phố thành hoa
Thì ông xe lại ngƣời ta cho liền
Dây nào trái kiếp lỡ duyên
Thì ông xe lại cho liền ông ơi!
Dây nào xe bốn chúng tôi
218
Xe chín lần kép, xe mƣời lần đơn.
77. Thẩn thơ tới gốc mai già
Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay chăng?
Ngọn đèn thấp hoáng dƣới bóng ông trăng
Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này.
78. Thuyền quyên gặp kẻ anh hùng
Tay mang nguyệt lão, tay bồng càn khôn.
79. Trách ông Tơ cùng bà Nguyệt Lão
Xe dây vào lại đảo dây ra.
80. Trách ông tơ xe lơi mối chỉ
Trách bà Nguyệt để lỗi đạo tao khang
Vì ai phân rẽ đôi đàng
Dù cho đó dặng chốn giàu sang
Phải nhớ mấy câu ân tình thuở trƣớc chớ có phụ phàng duyên em.
81. Trách ông Tơ ba bảy mƣơi phần
Dây xe chƣa chắc đã lần dây ra.
82. Trách ông tơ giận với bà Tơ
Nơi khẩn cầu không mộ, nơi thờ ơ buộc vào.
83. Trời đã vẹn toàn
Công em lặn suối qua ngàn trèo non
Em thấy ngƣời đôi đã đáng đôi
Nhân duyên cũng bởi ông Trời chả xe
Mảnh tơ tình ai xẻ làm hai
Để em chờ đợi mấy ngƣời đáng đôi.
bk a-Giời đã vẹn toàn
b-Nhân duyên cũng bởi ông Tơ Hồng chả xe.
84. Vái ông Tơ vài ve rƣợu thiệt
Vái bà Nguyệt dăm bảy con gà
Xui cho đôi lứa hiệp hoà
Nếu mà đặng vậy, sau trả lễ ông bà chẳng sai.
85. Vái ông Tơ đôi ba chầu hát
Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh
Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm tình
Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ƣng.
86. Vái ông Tơ một đĩa bánh bò bông
Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.
87. Vì ông Tơ ham đánh bài xẹp
Vì bà Nguyệt ham đánh bài linh
Xe dây không rành mối, nên duyên nợ đôi đứa mình lửng lơ.
88. Xăm xăm tới gốc mai già
Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không ?
219
Bạn loan nay đã có chồng
Hay còn ở ngã ba Bông lững lời?
2.4. NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC
TRONG QUAN HỆ VỢ CHỒNG
STT NỘI DUNG
1. Ai ơi đợi mấy tôi cùng
Tôi còn đốt mã cho chồng tôi đây
Chồng tôi mới đƣợc ba ngày
Ai ơi có đợi tôi rày hay không .
2. Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau
Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi
Làm thì xem chẳng ra gì
Làm tất làm tả nói thì điếc tai
Đi ngủ thời hết canh hai
Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu
Sớm ngày đi cắt cỏ trâu
Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!
Hết mẹ rồi lại đến thầy
Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi
Nói thì nói thật là dai
Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều
Phận em là gái nhà nghèo
Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng
Nói ra đau đớn trong lòng
Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời.
3. Anh đi ghe nổi chín chèo
Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo
- Nợ treo mặc kệ nợ treo
Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.
4. Anh ham xóc đĩa cò quay
Máu mê cờ bạc, lại hay rƣợu chè
Eo sèo công nợ tứ bề
Kẻ lôi ngƣời kéo, ê chề lắm thay!
Nợ nần em trả, chàng vay
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi!
5. Anh về rẫy vợ anh ra
Công nợ em trả, mẹ già em nuôi
Bây giờ anh rẫy vợ rồi
Công nợ anh trả, anh nuôi mẹ già.
220
6. Anh thua chi, thua dại thua khờ
Nhà cửa anh thua hết, đồ thờ anh cũng thua
Nay chừ em còn cái quần lãnh mới mua
Anh năn năn nỉ nỉ, anh đem thua cho rồi
Con anh đứa đặt đứa ngồi
Em than em khóc, chồng ơi là chồng!
7. ấu nào ấu lại tròn, bồ hòn nào bồ hòn lại méo
Anh mở lời nói khéo, em nghe trắc tréo khó trông
Đời thuở nhà ai hai gái lấy một chồng
Tiếc công chờ đợi, lại băng suối vƣợt đồng đến đây.
8. Bớ cô chít khăn lòm lòm
Chồng cô, cô bỏ, cô nom chồng ngƣời.
9. Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Cõng qua chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mƣợn cái gàu sòng
Để tôi tát nƣớc cho chồng tôi lên.
10. Buồn từ trong dạ buồn ra
Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.
11. Buồn về một nỗi phu quân
Thà rằng tát cạn cấy cần cho xanh
Phu quân sao chả thƣơng tình
Cho nên sông lở mà thành cũng xiêu
Lòng tôi áy náy trăm chiều
Phu quân có biết những điều ấy cho.
12. Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chú lại ơi, tôi mƣợn chú cái cỗ gàu sòng
Tôi tát, tôi múc cho chồng tôi lên.
BK
a- Chú lái ơi cho tôi mƣợn cỗ gàu sòng
b- Tôi tát nƣớc cạn cho chồng tôi lên
- Để tôi tát nƣớc múc chồng tôi lên.
13. Cái cầu ba mƣơi sáu nhịp
Em chẳng kịp nhắn vội với chàng
Nghĩa tao khang sao chàng vội dứt
Đêm nằm thao thức tƣởng bức thƣ anh?
Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời
Bây giờ anh ở bạc, ông Trời nào để anh.
14. Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ tối nằm với ai.
15. Cái cò là cái cò quăm
221
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.
16. Cái cuốc là cái cuốc đen
Đôi vợ chồng trẻ đốt đèn ăn cơm
Ăn hết xới xới đơm đơm
Ăn cho sạch sẽ lấy rơm mà chùi
Chồng giận chồng đánh ba dùi
Mẹ chồng chẳng chữa lại xui đánh què
Đánh cho què quặt chân tay
Hễ nó có khóc thời mày bỏ tro
Bao giờ mẹ chồng ốm ho
Nàng dâu lấy thuốc đem cho mẹ chồng
Lấy những lông cú, lông cáo, lông công
Lấy cà độc dƣợc cùng lông con mèo.
17. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ
Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu
Mẹ cha hành hạ thân dâu
Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?
18. Chiều chiều ra đứng bờ sông
Hỏi thăm chú lái, nào chồng em đâu?
- Chồng em đang ở Khuê Cầu
Đánh thua quay đất những đầu tháng giêng
Cầm khăn, bán áo, cổ kiềng
Bán nón quai lụa, bán chiêng cố nồi
Bây giờ túng lắm em ơi!
Có tiền riêng giấu mẹ mà nuôi lấy chồng.
19. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
20. Chồng dữ thì em mời rầu
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.
21. Chồng dữ thì em mới lo
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
22. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn nhƣ yêu vụng dấu thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!
23. Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?
24. Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?
222
Vắng hôm thời đã có mai
Chồng khi đi vắng đã ai ở nhà.
25. Có chồng thì mặc có chồng
Còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau.
26. Có thằng chồng nghiền nhƣ ông Tiên nho nhỏ
Tối lại vô mùng đèn đỏ tợ sao.
27. Con cóc mà ngóc ao bèo
Tôi ngỡ anh khá tôi theo anh về
Ai ngờ công nợ rề rề
Tôi trốn tôi tránh tôi về nhà tôi
Nƣớc nóng để miệng bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ thân tôi tôi buồn.
28. Con cú ăn trầu đỏ môi
Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào
Thím tôi chả bảo làm sao
Nói lên vài tiếng, lào nhào mấy câu.
29. Con hƣ bởi tại cha dong
Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.
30. Đánh vợ thời đánh sáng mai
Chớ đánh chiều tối không ai nằm cùng.
31. Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng đánh bạc nhƣ voi phá nhà.
32. Dù chàng năm thiếp bảy thê
Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu.
BK
- Chàng cũng chẳng bỏ nái sề này đâu.
- Chẳng qua đƣợc cái gái sề này đâu
- Thì chàng chẳng khỏi nái sề này đâu.
33. Em là con gái Phủ Từ(1)
Lộn chồng chồng trả, theo sƣ chùa Viềng
Nó ăn thịt chó nấu giềng
Bán rau mảnh bát lấy tiền nộp cheo
Dù còn thiếu thốn bao nhiêu
Xin chàng đừng có cắm nêu ruộng chùa.
(1) Phủ Từ: Phủ Từ Sơn, nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
34. Em tham giàu lấy thằng bé tí tị tì ti
Làng trên xã dƣới thiếu gì con trai to
Em đem thân đi cho thằng bé nó giày vò
Mùa đông tháng rét nó nằm co trong lòng.
Tƣởng đến cơn em bồng đức ông chồng lên
Nó còn niên thiếu chẳng nên cơm cháo gì
223
Nó cứ ngủ, đêm nó ngáy khì khì
Để nó lên bụng, nó thì rằng: thôi!
BK
(a)Em tham giàu em lấy thằng bé tí ti
Làng trên xã dƣới thiếu gì trai to
Em đem thân cho thằng bé nó giày vò
Mùa đông tháng rét nó nằm co trong lòng
Cũng mang là gái có chồng
Chín đêm chực tiết nằm không cả mƣời
Nói ra sợ chị em cƣời
Má hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh
Em cũng liều thân về thằng bé trẻ ranh
Đêm nằm sờ mó lần quanh cho nó đỡ buồn
Buồn mình em bế nó lên
Nó còn bé dại đã nên cơm cháo gì?
Nó ngủ nó ngáy khì khì
Một giấc đến sáng còn gì là xuân
Chị em ơi! Hoa nở mấy lần.
35. Gà tơ xào với mƣớp già
Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi
Ra đƣờng chị giễu em cƣời
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tƣởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.
36. Gió đƣa bụi chuối sau hè
Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.
37. Gió lùa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ
Gió đƣa bụi trúc ngả quì
Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!
38. Hai tay cầm hai quả bòng
Quả đắng phần chồng, quả ngọt phần trai.
39. Hai tay cầm hai quả hồng
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai
Nằm đêm vuốt bụng thở dài
Thƣơng chồng thì ít nhớ trai thì nhiều.
40. Hồi nào lấy em, anh nói với em một rằng thƣơng hai rằng thƣơng
Đến nay anh ở ra dạ điếm đàng
Trời cao có mắt, anh có trốn lên ngàn chẳng yên.
224
41. Khi anh mặt bủng da chì
Tay bƣng bát thuốc, tay thì bát canh
Bây giờ anh đẹp anh xinh
Anh lấy vợ lẽ phụ tình thiếp chăng?
42. Khi xƣa anh ở cùng ai
Bây giờ đặng chiếc thuyền hai, phụ đò
Khi xƣa anh ở cùng đò
Bây giờ đò lủng anh mò thuyền quyên.
43. Khi xƣa em ở với mẹ với cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lộn lần trong ra ngoài.
44. Khi xƣa thiếp sáng ràng rạng nhƣ gƣơng
Thiếp liều mình trao thƣơng cho chàng
Nay chừ huệ héo lan tàn
Thầy mẹ đánh mắng, dạ chàng khiến vong.
45. Không thƣơng để thiếp lui ra
Tội gì một ổ để đôi gà ấp chung.
46. Làm gì những thói đƣa đong
Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan.
47. Làm tài trai ăn chơi cho đủ mùi
Khi uống thuốc phiện, khi vui chè tàu
Suốt năm canh năm vợ ngồi hầu
Vợ cả têm thuốc, têm trầu vợ hai
Vợ thứ ba trải chiếu chia bài
Vợ thứ tƣ coi sóc nhà ngoài nhà trong
Vợ thứ năm sửa chốn loan phòng.
48. Lấy anh anh sắm sửa cho
Dùi đục cho sẵn anh ghè đầu xƣơng
Khi vui anh gối đầu giƣờng
Khi buồn anh cứ đầu xƣơng anh ghè.
49. Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rƣợu với say
Khi nay thuốc phiện, khi mai tài bàn
Nói ra mang tiếng phủ phàng
Nín đi thì não can tràng xiết bao!
Cũng thì phận gái má đào
Ngƣời thì gặp đƣợc anh hào đảm đang
Mình thì cũng dự phấn hƣơng
Gặp nơi lều lổng, chẳng thƣơng chút nào!
225
50. Mật ngọt rót xuống thau đồng
Những lời anh nói cho lòng em say
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia.
Chàng ơi! Chàng cho em ra
Lẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung!
51. Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà
Bây giờ tôi bán oan gia
Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân
Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần
Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.
52. Mới hay của trọng hơn ngƣời
Giàu sang đổi bạn, khổ đời đổi duyên.
53. Một chàng hai thiếp khó phân
Anh về lƣờng lại để cầm cân cho thăng bằng.
54. Nào em phụ nghĩa bỏ chồng
Bởi chƣng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi.
55. Nào khi hai đứa mình kê chung một gối
Bởi vì ai lỡ hội ra ri?
Trách ai quên ngãi bỏ nghì
Đồng đen chê nhẹ, than chì vụng suy.
56. Ngày xƣa ta chửa lấy mày
Thời ta trải chiếu bàn tay cho ngồi
Bây giờ ta lấy đƣợc rồi
Chiếu chả cho ngồi, đất lại thả chông.
57. Ngồi buồn vuốt bụng thở dài
Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thời nhiều.
58. Ngọn roi mẹ uốn trăm chiều
Anh vô lạy mẹ bốn lạy, kẻo mẹ đánh nhiều thì em đau.
59. Nhà anh có ruộng giữa đồng
Để em tát nƣớc cực lòng em thay
Trời làm mƣa bấc gió may
Để em tát nƣớc giơ tay vái Trời
Tháng tám anh đi dạm lời
Tháng chín ăn cƣới tháng mƣời làm dâu
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn trƣớc, dặn sau nghe lời
Mẹ già ác lắm anh ơi!
226
Nhịn ăn nhịn mặc, nghe lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nhịn cho nên cột, xà nhà bằng bông
Nhịn cho nên vợ, nên chồng
Để em chỉ thiết một lòng lấy anh.
60. Nhà rƣờng mái lợp tranh mây
Thân anh hai vợ nhƣ cây cột dòng.
BK
a - Nhà rƣờng mà lợp tranh mây
b - Thân anh hai vợ nhƣ dây buộc mình.
61. Nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài
Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu
Rồng vàng tắm nƣớc ao tù
Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.
BK
(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau
Cái mâm triện tự đựng rau thài lài
Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài
Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.
(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài
Tiếc ngƣời da trắng tóc dài
Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.
62. Nƣớc nguồn chảy xuống soi dâu(1)
Thấy anh đánh bạc lùa trâu đi cầm
Cầm trâu, cầm áo, cầm khăn
Cầm dây lƣng lụa, xin đừng cầm tay em!
(1) Soi dâu: doi nhỏ, dài trồng dâu.
63. Nƣớc sông đổ lẫn nƣớc ngòi
Con gái Linh Xá cầm roi đánh chồng
Nƣớc sông đổ lẫn nƣớc đồng
Con gái Linh Xá dạy chồng bằng dao.
64. Nƣớc sông pha lẫn nƣớc đồng
Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm.
65. Ở đời nên phải chiều đời
Chồng thời nhƣ cú, vợ thời nhƣ Tiên
Bởi chƣng bố mẹ em tham bạc, tham tiền
Cho nên cú ở với Tiên cùn đời
Bao giờ mãn kiếp, con cú kia ơi?
227
Thì Tiên với cú mới rời đƣợc nhau!
66. ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng?
Nói ra đau đớn trong lòng
ấy cái nợ nần, có phải chồng đâu.
67. Rừng xanh con cọp nó gầm
Hỡi cô chồng đánh la rầm xóm kia
Đầu đuôi bởi tại chuyện chi
Hay là bởi chuyện cô mi ve ông lái mành.
68. Rƣợu chè cờ bạc lu bù
Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng.
69. Thân em đi lấy chồng chung
Khác nào nhƣ cái bung xung chịu đòn!
70. Thân em làm tốt làm lành
Lấy chồng làm lẽ nhƣ giành thủng trôn.
71. Thân em mƣời sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà ngƣời
Nói ra sợ chị em cƣời
Năm ba chuyện thảm chín mƣời chuyện cay
Tôi về đã mấy năm nay
Buồn riêng thì có vui vầy thì không
Ngày thì vất vả ngoài đồng
Tối về thời lại nằm không một mình
Có đêm thức suốt năm canh
Rau héo cháo chó loanh quanh đủ trò
Ai về nhắn mẹ cùng cha
Lấy chồng nhà có, khổ ba bảy đƣờng
Đêm nằm lƣng nỏ bén giƣờng
Mụ gia đã xốc vô buồng kéo ra
Bảo lo con lợn con gà
Lo xong cối lúa, quét nhà nấu cơm
ốm đau thì mụ nỏ thƣơng
Mụ hành mụ hạ, đủ đƣờng khốn thân
Tối về bƣng bát cơm ăn
Mụ cầm cái đọi, mụ quăng vô ngƣời
Lấy chồng giàu, khổ lắm, chị ơi!
72. Thân thiếp nhƣ cánh hoa đào
Đang tƣơi đang tốt thiếp trao cho chàng
Bây giờ nhuỵ rữa, hoa tàn
Vƣờn xuân nó kém, sao chàng lại chê?
Chàng cho đôi chữ thiếp về
228
Dầu chàng năm thiếp, mƣời thê, mặc chàng
Lắm quân quan nhộn nhà hàng
Lắm nơi lịch sự, hỡi chàng, chàng ơi!
Chàng ngồi chàng nghĩ mà coi
Sao chàng chẳng nghĩ những hồi ngày xƣa
Nào khi cờ bạc chàng thua
Nào quần, nào áo, thiếp mua cho chàng
Nào khi công nợ nhà hàng
Thiếp tháo nhẫn bạc nhẫn vàng trao cho
Nào khi trai gái nhà trò
Một mình thân thiếp chàng vò mấy phen
Bay giờ chàng ăn ở ra dạ bạc đen
Có bóng trăng, tình phụ bóng đèn thoảng qua
Chàng từ, thiếp cũng xin thôi
Bể hồ tát cạn, ai hôi mặc lòng.
BK
Thiếp xƣa nhƣ cánh hoa nhài
Đƣơng tƣơi đƣơng tốt, trao tay cho chàng
Thiếp nay nhuỵ rữa, hoa tàn
Hồng nhan thiếp kém, duyên chàng lại chê
Thiếp xin hai chữ thiếp về
Dù chàng năm thiếp bảy thê mặc chàng
Nƣớc sông Lèn vẫn chảy đò lại sang ngang
Nhiều ngƣời lịch sự hơn chàng chàng ơi!
Chàng ngồi ngẫm nghĩ mà coi
Sao chàng chẳng nhớ khi cờ bạc chàng thua
Ruộng nƣơng thiếp bán, thiếp đƣa cho chàng
Khi công nợ lúc lại nhà hàng
Thiếp tháo nhẫn bạc, vòng vàng trao cho
Khi trai gái lúc lại nhà trò
Phận thiếp là gái tò vò mấy phen
Bây giờ lấy mực làm đen
Lấy vôi làm trắng lấy phèn làm trong.
73. Thằng chồng em là đứa vô nghì
Tổ tôm xóc đĩa việc gì cũng ngoan.
74. Thầy mẹ đập thiếp, chàng đứng chàng coi
Sao chàng không vào cƣớp lấy ngọn roi cho thiếp nhờ?
75. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng.
BK
Yêu ai cho bằng yêu chồng
229
Bởi chồng cờ bạc, nên lòng không yêu.
76. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng
Khuyên chàng cờ bạc thì chừa
Rƣợu chè trai gái say sƣa mặc lòng.
77. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.
78. Trách chàng ăn ở chấp chênh
Em nhƣ thuyền thúng lênh đênh giữa dòng
May ra trời lặng nƣớc trong
Chẳng may bão táp cực lòng thiếp thay
Công thiếp vò võ đêm ngày
Mà chàng ăn ở thế này, chàng ôi!
Thiếp nhƣ hoa đã nở rồi
Xin chàng che lấy mặt trời cho tƣơi.
79. Trách duyên, lại giận trăng già
Xe tơ lầm lỗi hoá ra chỉ mành
Biết ai than thở sự tình?
Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi!
Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rƣợu sƣa say
Khi nay thuốc phiện, khi nay tài bàn
Nói ra mang tiếng phũ phàng
Nín đi thì não can tràng xiết bao!
Cũng thì phận gái má đào
Ngƣời thì gặp đƣợc anh hào dảm đang
Mình thì cũng dự phấn hƣơng
Gặp nơi lêu lổng, chẳng thƣơng chút nào!
80. Trách thân mà lại giận Trời
Trách chàng quân tử ở ra ngƣời thờ ơ!
Phòng không để thiếp đợi chờ
Năm canh vò võ những là thở than
Nào khi họp mặt chén vàng
Non nguyền biển hẹn, tƣởng chàng chẳng quên.
Ai ngờ ra bạc đen
Say bên nhan sắc bỏ bên ngãi tình
Để cho em vò võ một mình
Tƣơng tƣ khắc khoải bệnh thất tình đầy vơi
Trách thân mà lại giận Trời...
81. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi
230
Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông
Gió bên đông xin chàng gỡ giúp
Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan
Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán
Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng
Em còn trong tròng xin chàng thong thả
Em quyết trận này trả của lấy cho anh
Em hai mƣơi tuổi xuân xanh
Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta
Cho nên duyên chẳng thuận hoà
Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.
82. Trời sinh ra ông tƣớng tài
Cờ bạc, xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trƣớc tƣớng hãy còn tiền
Canh sau cố áo ngồi bên lọ hồ
Cái ngảnh đi, thò tay móc lọ
Cái ngảnh lại, phì phò chén say
Còn tiền, đánh cái cũng hay
Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình
Tƣởng sự tình bạc này hai sấp
Chẳng ai ngờ nó lại sấp ba
Bấy giờ quan tƣớng thua ra
áo quần cố hết trơ ra về trần
Về giữa sân vạch quần bắt rận
Vợ trong nhà vợ giận chẳng nấu cơm
Bấy giờ tƣớng chúi ổ rơm
Chẳng dám hạch nƣớc, hạch cơm, hạch trầu
Vợ thƣơng chồng ra màu rét mƣớt
Đem tiền đi chuộc lấy áo về
Từ rày tƣớng hẳn xin thề
Đã đi cờ bạc xóc đĩa còn về chi đây.
83. Từ khi em về làm dâu
Anh thì dặn trƣớc, bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà
Đi chợ thời chớ ăn quà
Đi chợ thời chớ rề rà ở trƣa
231
Dù ai bảo đợi, bảo chờ
Thời em nói dối con thơ em về.
84. Vì đứt dây, nên gỗ mới chìm
Bởi anh ở bạc nên em phải tìm nơi xa.
85. Viết thƣ sang hỏi thăm chàng
Còn không hay đã đá vàng nơi nao?
Hay là mắc phải con nào
Bùa yêu bả lú(1) phải làm sao cho tỏ tƣờng
Vắng chàng tôi những nhớ thƣơng
Vì chàng mê gái tìm đƣờng phụ tôi
Tôi làm cho lứa quên đôi
Tôi làm cho rã cho rời nhau ra
Làm cho tan nát biệt xa
Cho chim lìa tổ cho hoa lìa cành
Tôi làm cho nó lìa anh
Cho ngƣời ta biết anh tình phụ tôi.
(1) Bả lú: đánh bả làm cho ngƣời ta lú lấp, say mê.
86. Vợ đôi, chồng một, ra gì
Mỗi ngƣời mỗi bụng ở thì sao nên.
87. Xống thâm vắt ngọn cành hồng
Loạn trôn từ thuở vắng chồng đến nay.
88. Yêu vợ đƣợc lúc bấy giờ
Rồi ra đến lúc con thơ mặc lòng.
2.5. QUAN HỆ CHA MẸ CON - VỀ ĐẠO HIẾU
STT NỘI DUNG
1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó
Phải chịu khó bƣng về
Em đang ở hầu thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.
BK
(a) Ai bƣng bầu rƣợu tới đó thì chịu khó bƣng về
Kẻo em đây đang còn theo chân thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.
(b) Ông mai ơi!
Ông xách bầu rƣợu tới đó
Ông hãy chịu khó ông xách trở về
Tôi còn ở nuôi phụ mẫu, cho trọn bề hiếu trung.
232
(c) Ai bƣng trầu rƣợu tới đó
Chịu khó bƣng về
Em đây thiệt vẫn không chê
Ở làm ri nuôi thầy mẹ, cho trọn bề hiếu trung.
2. Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trƣớc kính mẹ, buồng sau kính thầy.
3. Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trƣớc kính mẹ buồng sau kính thầy
Ai về tôi gửi đôi giày
Phòng khi mƣa nắng cho thày mẹ đi.
4. Ai về tôi gửi đôi giày
Phòng khi mƣa gió để thày mẹ đi.
5. Ai vô Quảng Nam cho tôi gửi mua đôi ba lƣợng quế
Ai ra ngoài Nghệ cho tôi gởi mua tám chín lƣợng sâm
Đem về nuôi dƣỡng phụ thân
Hai ta đền đáp công ơn sinh thành.
6. Ân cha nặng lắm cha ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cƣu mang.
7. Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giƣờng loan gối quế, mẹ già ai nuôi?
- Cá rô anh chặt bỏ đuôi
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
8. Anh lấy em về thờ mẹ kính cha
Rồi sau coi sóc cửa nhà cho anh.
9. Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đƣợc mà nuôi mẹ già.
10. Bao giờ cá lí hoá long
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xƣa.
BK
Một mai con cá hoá rồng
Đền ơn cha mẹ bõ công sinh thành.
11. Bên đây sông bắc cầu mƣời tấm ván
Bên kia sông lập cái quán mƣời hai từng
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng
Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.
BK
Bên này sông, bắc cây cầu mƣời tấm ván
Bên kia sông, lập cái quán mƣời hai từng
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.
12. Cơm cha áo mẹ chữ thầy
Gắng công mà học có ngày thành danh.
233
13. Cha mẹ tóc bạc da mồi
Ơn thâm em đền bồi không phỉ
Nên em giãi thân hèn, kim chỉ nuôi thân
- Ơn cha rộng thinh thinh nhƣ biển
Nghĩa mẹ sâu thăm thẳm tợ sông
Thƣơng cho thân em là gái chƣa chồng
Mà lắm điều cực nhọc, não lòng thế ni
- Công sanh dục, bằng công tạo hoá
Có cha mẹ sau mới có chồng
Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng
Cho nên ngày nay, dẫu thiên lao vạn khổ, em cũng vui lòng chẳng
than.
14. Chàng ơi, ơn thày ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cù lao
Ai đền ơn cho thiếp mà nhủ thiếp trao ân tình?
15. Chẳng lo thân bậu với qua
Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.
16. Chết ba năm sống lại một giờ
Để coi ngƣời nghĩa phụng thờ ra sao?
- Thờ chàng đĩa muối đĩa rau
Thờ cha cúng mẹ mâm cao cỗ đầy.
17. Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau nhƣ dần.
18. Chim còn mến cội mến cành
Anh cũng biết cho em còn mến nghĩa sanh thành mẹ cha.
BK
Anh đây cũng biết nghĩa sinh thành công lao.
19. Chim kêu dƣới suối ao đàng
Em còn chút mẹ, cậy chàng viếng thăm.
20. Công ơn thầy mẹ em không đền đƣợc
Giao cho anh đến thế
Ra Thanh bổ quế
Vào Nghệ bổ sâm
Lên non ngậm ngải tìm trầm
Đền công ơn phụ mẫu đã lao tâm sinh thành.
21. Công cha ba năm sinh thành tạo hoá
Nghĩa mẹ chín tháng cực khổ cƣu mang
Hai đứa mình lấy chi đền nghĩa báo ân
Lên non gánh đá, xuống xây lăng phụng thờ.
22. Công cha nghĩa mẹ ai đền
Mà em ôm áo, ôm mền theo anh.
234
23. Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra.
BK
-Công mẹ nhƣ nƣớc suối nguồn chảy ra
-Sữa mẹ nhƣ nƣớc suối nguồn chảy ra.
24. Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
25. Công sinh dục bằng công tạo hoá
Có cha mẹ, sau mới có chồng
Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng
Nay em lao khổ não nùng, không than.
26. Dầu mà không lấy đƣợc em
anh về đóng cửa, cài rèm đi tu
- Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa
- Tu mô cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu.
27. Độc bình chƣng trƣớc tam sơn
Đôi ta quì xuống đền ơn mẫu tử.
28. Đói lòng ăn hạt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
29. Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xƣa.
30. Đồi mô cao bằng đồi danh vọng
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa mẹ cha.
31. Đôi ta nhƣ bộ con cờ
Trƣớc ơn cha mẹ, sau nhờ phận duyên.
32. Em đƣa anh lên ga Thuận Lí(1)
Ba giờ chiều vô nghỉ Đông Hà(2)
Phần thời anh thƣơng mẹ nhớ cha
Phần thời thƣơng con nhớ vợ xót xa trong lòng.
(1) Thuận Lí: Một địa điểm ở Quảng Bình
(2) Đông Hà: Một địa điển ở Quảng Trị, cách Đồng Hới 92km về
phía Nam, ở trên sông Cam Lộ, đầu đƣờng số 9 đi Lao Bảo sang
Lào.
33. Em thì đi cấy ruộng bông
Anh thì cắt lúa để chung một nhà
Đem về phụng dƣỡng mẹ cha
Muôn đời tiếng hiếu ngƣời ta còn truyền.
235
BK
- Để anh đi gặt lúa chung một nhà.
34. Giàu ngƣời ba phủ Thanh Hoa
Mẹ ngƣời về chợ thì ta không mừng
Mẹ ta đói rách não nùng
Mẹ ta về chợ ta mừng mẹ ta.
35. Gió đƣa cây cửu li hƣơng
Giờ xa cha mẹ thất thƣờng bữa ăn
Sầu riêng bữa chẳng muốn ăn
Đã bƣng lấy bát lại dằn xuống mâm.
36. Gƣơm vàng rớt xuống Hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
BK
Gƣơm vàng rớt xuống Hồ Tây
Công cha cũng nặng, nghĩa thầy cũng sâu.
37. Khó nghèo đòn gánh liền vai
Bán buôn nuôi mẹ giàu ai mặc giàu.
38. Khó nghèo xé vạt vá vai
Làm thuê nuôi mẹ không quản ai chê cƣời.
39. Khoan khoan chờ đợi em cùng
Em còn hai chữ hiếu trung chƣa đền.
40. Làm ngƣời trƣớc liệu hiếu thân
Cảm ơn cha mẹ ân cần nuôi con
Trăm năm mấy buổi thần hôn
Một mai mấy buổi liệu đƣờng kính lên
Sao cho trọn chữ tri niên
Sao cho trọn chữ chung thiên với ngƣời
Kể từ mẹ mới thụ thai
Biết bao khí huyết mẹ bù cho con
Đến ngày hình thể vẹn tròn
Ví nhƣ vƣợt biển trèo non nặng nề
Kiêng ăn kiêng ngủ ê chề
Đã e chín tháng còn e mƣời ngày
Kể từ hoa nở liền tay
Bao giờ mẹ đó con đây mới mừng
Lòng yêu con mấy cho bằng
Nâng chừng nhƣ trứng, hứng chừng nhƣ hoa
Phải con hay khóc hay la
Bao đêm quên ngủ, ngày đà quên ăn
Tháng hè đƣa võng liền chân
Tháng đông ƣớt áo, dậy trần quản chi
236
Đầy năm biết đứng biết đi
Dắt tay từng bƣớc phòng khi lỡ làng
Miếng ngon cũng nhịn cùng nhƣờng
Ba năm bú mớm, mẹ gầy dƣờng xác ve
Nghĩ đã ơn mẹ nhiều bề
Kìa nhƣ dạy dỗ lại về ơn cha.
41. Lâm râm khấn vái Phật, Trời
Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con.
42. Làm trai nết đủ trăm đƣờng
Trƣớc tiên điều hiếu đạo thƣờng xƣa nay
Công cha đức mẹ cao dày
Cƣu mang trứng nƣớc những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trƣởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm cho cần
Quạt nồng ấm lạnh giữ phần đạo con.
43. Lấy chi đền ngãi mẹ chừ
Cƣu mang chín tháng với dƣ mƣời ngày.
44. Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ, công phu chƣa đền.
45. Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
BK
- Có con mới biết công lao mẫu từ.
- Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.
46. Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Má ơi đừng đánh con hoài
Để con câu cá nấu xoài má ăn.
BK
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt cá nấu xoài má ăn.
47. Mất mẹ với cha thiệt là khó kiếm
Chớ điệu vợ chồng không hiếm gì nơi.
48. Mặt trời đã xế ngang đầu
Em còn ở lại làm giàu cho cha.
BK
237
Tua rua đã xế ngang đầu
Em còn đứng lại làm giàu cho cha.
49. Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.
BK
a - Mẹ ơi chớ đánh con đau
- Má ơi đừng đánh con đau
b - Để con bắt ốc hái rau má nhờ.
50. Mẹ ơi! đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Mẹ ơi! đừng đánh con khờ
Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn.
51. Mẹ ơi, từ mấy tháng nay
Con vắng tin mẹ, lâu ngày nhớ thƣơng
Xƣa rày con bận việc quân vƣơng
Cho nên con với mẹ đôi đƣờng cách xa.
52. Mẹ cha là biển là trời
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.
53. Mẹ cha trƣợng quá ngọc vàng
Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn?
54. Mẹ già đầu bạc nhƣ tơ
Lƣng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi.
55. Mẹ già ở chốn lều tranh
Sớm thăm tối viếng cho đành lòng em
Lòng son dạ sắt càng thêm
Lòng đà trăng gió ai tìm thấy ai.
56. Mẹ già là mẹ già chung
Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.
57. Mẹ già nhƣ quả đò ho
Dẫu rằng héo hắt thơm tho đủ mùi.
58. Miếng trầu em têm bỏ đĩa con rồng
Trƣờc mời thầy mẹ, sau vợ chồng ta ăn.
59. Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
60. Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Ngƣời còn thì của cũng còn
Để ngƣời ban bảo vuông tròn nhân duyên.
61. Ngày đêm em may vá kiếm tiền
Trƣớc nuôi cha mẹ, sau tuyền đạo con.
62. Ngày nào em bé cỏn con
238
Bây giờ đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ƣớc ao.
63. Ngó lên dàng dạng da trời
Thƣơng cha nhớ mẹ biết đời nào nguôi.
64. Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng(1)
Thƣơng cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
- Thƣơng cha nhớ mẹ thì về
Nhƣợc bằng thƣơng kiểng nhớ quê thì đừng.
(1) Hòn Kẽm, Đá Dừng: thuộc Quảng Nam.
65. Ngó lên ngó xuống thì vui
Ngó về quê mẹ ngậm ngùi nhớ thƣơng.
66. Ngó lên trên trời thấy cặp cu đƣơng đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đƣơng đua
Biểu em về lập chùa thờ cha.
BK
Ngó lên trời thấy cặp cu đƣơng đá
Ngó xuông biển cặp cá đƣơng đua
Anh về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
67. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Biết rằng chừ cá gáy hoá rồng
Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xƣa.
68. Ngọc còn ẩn bóng cây ngâu
Em đang tùng phụ mẫu dám đâu tự tình?
69. Nhất đẹp là gái làng Cầu (1)
Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.
(1) Làng Cầu: tức làng Lam Cầu, thuộc huyện Duy tiên, tỉnh Hà
Nam
70. Nuôi con mới biết sự tình
Thảm thƣơng cha mẹ nuôi mình khi xƣa.
71. Ơn cha mẹ ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cƣu mang
Ơn cha đền bạc, nghĩa mẹ đền vàng
Em đền chƣa nổi, huống chi chàng ngƣời dƣng.
72. Ơn cha mẹ trời cao khôn thấu
Nghĩa anh em xƣơng cốt ruột rà
Muốn cho trên thuận dƣới hoà
Chẳng thà chịu nhục, hơn là rẽ nhau.
73. Ơn cha nhƣ biển, nghĩa mẹ nhƣ trời
239
Thƣơng mừng ghét sợ, không dám trao lời thở than.
74. Ơn hoài thai nhƣ biển
Ngãi dƣỡng dục, tợ sông
Em nguyền ở vậy phòng không
Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.
75. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non
Hai ta là đạo làm con
Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.
76. Phụ mẫu bên anh cũng nhƣ phụ mẫu bên nàng
Lẽ thƣờng anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.
77. Phụ mẫu thiếp cũng nhƣ phụ mẫu chàng
Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
78. Thờ cha mẹ, ở hết lòng
ấy là chữ hiếu dạy trong luân thƣờng
Chữ đễ nghĩa là nhƣờng
Nhƣờng anh nhƣờng chị, lại nhƣờng ngƣời trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em phải giữ lấy nền con em.
79. Thƣơng mẹ nhớ cha nhƣ kim châm vào dạ
Nghĩ đến chừng nào, luỵ hạ tuôn rơi.
80. Tiếc cây mía tốt có sâu
Tiếc ngƣời lịch sự trên đầu có tang
Tang chồng thì bỏ tang đi
Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung
- Tang cha, tang mẹ trên đầu
Lẽ nào em dám bán sầu mua vui.
81. Tôm càng lột vỏ để đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
BK
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo nhe giã trắng mà nuôi mẹ già.
82. Trời cho cày cấy đầy đồng
Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê
Một mai gặt lúa đem về
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
83. Trông lên thấy đạo cha già
Lòng con tƣởng nhớ xót xa rầu rầu
Xa cha lòng những quặn đau
Biết ngày nào mới cùng nhau quây quần.
84. Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rƣờm rà
240
Có cha sinh mới ra ta
Làm nên thì bởi mẹ cha vun trồng
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ
Đạo làm con chớ có hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
85. Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
86. Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
87. Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Thƣơng thay chín chữ cù lao(1)
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
(1) Cù lao: công nuôi nấng vất vả của cha mẹ, lấy từ cụm từ "cù lao
dƣỡng dục".
88. Xin ngƣời hiếu tử lắng khuyên
Kịp thì nuôi nấng cho toàn đạo con
Kẻo khi sông cạn, đá mòn
Phú nga phú uỷ có còn ra chi.
89. Cơm cha, áo mẹ, ai ơi
Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài.
BK
- Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già.
90. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
91. Đƣờng đi không tới nửa ngày
Nói về thăm mẹ, hẹn rày hẹn mai.
92. Mẹ già hết gạo treo niêu
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai...
93. Mẹ già ở chốn lều tranh
Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.
BK
a - Mẹ già ở tấm lều tranh
b - Đói no không biết rách lành nỏ hay.
- Đói no không biết rách lành không hay.
94. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi mẹ con kể công tháng ngày.
95. Mẹ nuôi con biển hồ lại láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
BK
241
- Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
96. Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con
Mƣời con bỏ mẹ trong ngàn xót xa
Trai cả uống rƣợu la đà
Tối tăm chả tiếc cửa nhà là đâu
Nào con, nào rể, nào dâu
Trai thì sợ vợ, gái âu nể chồng.
97. Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra
Nhai cơm sún(1) nƣớc, lớn mà chừng ni
Nghe lời chàng, bỏ mẹ ra đi
Thất hiếu với phụ mẫu có hề chi không, huớ chàng?
(1) Sún: mớm.
98. Những ngƣời chửi mẹ mắng cha
Chết xuống âm phủ leo qua cầu vồng.
99. Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.
BK
a-Lúc sống thời chả cho ăn
b-Đến khi ngƣời chết làm văn tế ruồi.
- Để đến lúc chết làm văn tế ruồi.
- Chết rồi xôi thịt làm văn tế ruồi.
100. Trách ai đặng cá quên nơm
Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
2.6. QUAN HỆ CHA MẸ CON - TRÁCH NHIỆM
STT NỘI DUNG
1. Cơm cha áo mẹ chữ thầy
Khuyên con lo học cho tày ngƣời ta.
2. Cơm cha áo mẹ chữ thầy
Gắng công mà học có ngày thành danh.
3. Có con nỏ muốn ai bồng
Nỏ thuê ai ẵm, hai vợ chồng đổi nhau.
4. Cha sinh mẹ dƣỡng ra con
Cũng nhƣ trời đất nƣớc non không cùng
Vẫn là một khí huyết chung
Chia riêng mày mặt trong lòng sinh ra
Bào thai chín tháng mang ta
Kiêng khem tật bệnh ai hoà chịu chung
Vƣợt bể Đông có bè có bạn
Mẹ sinh ta vƣợt cạn một mình
242
Sinh ta mát mẻ yên lành
Từ nay mẹ mới nhẹ mình không lo
Chốn lạnh ƣớt để cho mẹ ngủ
Nơi ấm êm mẹ ủ con nằm
Năm canh con khóc cả năm
Ôm con mẹ chịu khổ tâm lo phiền
Khi con ốm sốt chẳng yên
Con phiền có một, mẹ phiền bằng hai
Ngọn đèn chong bóng canh dài
Nghĩ thua nghĩ đƣợc có ai ngỏ cùng
Con rày đã yên lành mát mẻ
Mẹ mới lòng yên vui vẻ không lo
Dành riêng quà bánh nhƣờng cho
Sắm riêng quần áo mới đồ chiều con
Trông con nằm ngủ ăn ngon
Sợ con thất ý lại còn hờn lâu
Hai ba tuổi độ hầu học nói
Tập dạy cho thƣa nói dần dần
Đến chừng biết mặc áo quần
Nuôi thầy dạy học tập văn tập bài
Kể với ai cửa nhà nghèo đói
Trông cho con theo dõi ngƣời ta
Đến ngày con bƣớc đi ra
Mẹ cha biết mấy thịt da tiêu mòn
Đến khi con mƣời lăm mƣời tám
Lấy vợ cho lại sắm cửa nhà
Sinh ta rồi lại nuôi ta
Cũng nhƣ trời đất sinh ra giống ngƣời.
5. Con tài lo láo lo kiêu
Con ngu thì lại lo sao kịp ngƣời.
6. Con ơi muốn nên thân ngƣời
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thời dệt gấm thêu hoa
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thời đọc sách ngâm nga
Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa
Nữa mai nối đặng nghiệp nhà
Trƣớc là mát mặt sau là hiển thân.
7. Con cò bay bổng bay la
Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng
Cha sinh mẹ đẻ tay không
243
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trƣớc là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.
8. Dạy con từ thuở hài đề(1)
Dạy vợ từ thuở mới về làm dâu.
(1) Thuở hài đề: lúc trẻ con đang ở thời kì con bú mớm.
9. Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ dạy thuở bơ vơ mới về.
10. Làm trai nết đủ trăm đƣờng
Trƣớc tiên điều hiếu đạo thƣờng xƣa nay
Công cha đức mẹ cao dày
Cƣu mang trứng nƣớc những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trƣởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm cho cần
Quạt nồng ấm lạnh giữ phần đạo con.
11. Lắng tai nghe mẹ giãi bày
Cha sinh mẹ dƣỡng sánh tày bể Đông
Lấy gì trả nghĩa đền công
Ở sao cho xứng tấm lòng mẹ cha
Nuôi con tƣơi tốt nhƣ hoa
Phòng khi cha già mẹ yếu cậy con
Bữa ăn không biết mùi ngon
Đắng cay mẹ chịu vì con đêm ngày
Cha mẹ mong tháng mong ngày
Nặng nề chín tháng mƣời ngày cƣu mang
Công cha xiết kể bằng ngàn (1)
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra
Cha mẹ một tuổi một già
Cù lao dƣỡng dục con nhà dám quên
Mẹ cha nuôi nấng dƣỡng sinh
Bù trì khó nhọc sinh thành ra con
Sớm khuya định tỉnh thần hôn
Mong cho con chóng lớn khôn kịp ngƣời
Mẹ cha vất vả mấy mƣơi
Cái giƣờng cái chiếu, cái nôi con nằm
Vui khi con ngủ con ăn
Buồn khi khó ở, nhọc nhằn không yên
Chốn ráo con nằm đã êm
Cha mẹ thắp đèn, thức giấc thấu đêm
Công cha nghĩa mẹ đừng quên
244
Con nên báo đáp trả đền hẳn hoi
Dù cho vật đổi sao dời
Có biết công cha mẹ mới phải ngƣời hiếu trung.
(1) Ngàn: ngàn đây là núi non.
12. Lúc em bƣớc chân ra
Má ở nhà có dặn
Công sanh thành là nặng
Điều tình ái là khinh
Hãy đừng tham sắc đắm tình
Lánh xa tiểu điểm trà đình chớ vô.
13. Muốn sang thời bắc cầu Ô
Muốn con hay chữ cƣới cô cho thày.
14. Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
15. Nuôi con những tƣởng về sau
Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi
Mực đen vô giấy khó chùi
Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.
16. Nuôi con cho đƣợc vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi, xƣơng mòn gối long
Con ơi, cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
17. Riêng than đất chín, trời mƣời
Cây khô há dễ mọc chồi đâm bông
Một cây khô mộc đợi trông
Hai cây khô mộc đợi trông
Gió đánh trắt tra, trắt tréo, trặt trà trặt trẹo
Trên ngọn cành tùng chơ vơ
Sách có chữ rằng:
Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn
Nữ đáo nam phòng, nữ tắc dâm
Sinh tử, mạc sinh tâm(1)
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con
Mạc đạo xà vô giác
Trƣớc long dã vị tri (2)
BK
Riêng than đất chín trời mƣời
Cây khô há dễ nẩy chồi đơm bông
Trên cây kiều mộc dợi trông
Dƣới cây kiều mộc cũng đợi trông
245
Gió đƣa lắt la lắt lẻo, ngọn cây tùng xơ rơ
Có câu: Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn
Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm
Dầu lòng sinh tử, bất sinh tâm(1)
Sinh con há dễ sinh lòng chỉn khôn
Ai tầng con cù nó mọc sừng
Đến khi nó hoá cái gạc, vẫy vùng làm mƣa
Biết đà có khỏi nhau chƣa
Đặt tay lên dạ lại lừa tay đi.
(1) Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn, nữ đáo nam phòng, nữ tắc
dâm, sinh tử, mạc sinh tâm: Con trai đến phòng con gái thì sinh
loạn, con gái đến phòng con trai là có ý dâm, sinh con không thể
sinh lòng.
(2) Mạc dạo xà vô giác, thành long dã vị tri: chớ nói rắn không
có sừng, chƣa biết chừng rắn thành rồng (có thể có sừng).
18. Trên trời có cái cầu vồng
Kẻ Chợ cầu Muống, cửa Đông cầu Rền
Vua trên đền, cầu vàng cầu bạc
Các lái buôn cầu nƣớc, cầu non
Đôi ta cầu của cầu non
Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha
Con gái dệt cửi trong nhà
Con trai đi học đỗ ba khoa liền
Con lớn thì đỗ Trạng nguyên
Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba
Vinh qui bái tổ về nhà
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy.
BK
Trên trời có cái cầu vồng
Kẻ Chợ, Cầu Muống(1), Cầu Đông(2), Cầu Giền
Việc trên đền cầu vàng cầu bạc
Các lái buôn cầu nƣớc cầu non
Đôi ta cầu của cầu con
Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha
Con gái dệt cửi trong nhà
Con trai đi học khôi khoa hơn ngƣời .
(1) Cầu Muống: ở địa phận làng Trung Phụng, Đống Đa, hà Nội
hiện nay.
(2) Cầu Đông: chỉ chiếc cầu bắc qua sông Tô ở phía đông thành
Đại La cũ, trên bản đồ cũ ghi ở Ô Thịnh Yên nay là ngã tƣ giữa
các Phố Huế. Bạch Mai đƣờng Đại Cồ Việt và đƣờng Trần Khát
246
Chân.
2.7. QUAN HỆ CHA MẸ CON - NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC
STT NỘI DUNG
1. áo rách vai, vá hoài vá huỷ
Mẹ có chồng không nghĩ đến con
Trái bầu trái bì còn non
Cầm dao cắt ruột, bỏ con sao đành.
2. Ba tàn ba héo vì cây
Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.
3. Bác mẹ em vội tham vàng
Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con
Trƣớc thời thẹn với nƣớc non
Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày
Khi vui có bác mẹ thầy
Cơn sầu em chịu đắng cay một mình
Mang thơ ra dán cột đình
Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?
Phong ba nổi giữa đất bằng
Một dây một buộc ai dằng cho ra!
Thiết gì một cảnh vƣờn hoa
Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?
Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy
Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!
4. Cá chẳng ăn muối cá ƣơn
Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
BK a- Cá không ăn muối cá ƣơn
b- Không nghe cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
- Con cƣỡng cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
5. Cái bống là cái bống bang
Con đi lấy sàng cho mẹ đổ khoai
Con ăn một, mẹ ăn hai
Con đi bốc muối thời khoai chẳng còn
Con ngồi con khóc nỉ non
Mẹ giận mẹ đạp, con bon đầu hè
Có đánh thì đánh vọt tre
Chớ đánh vọt nứa nữa què chân con.
BK
Tích tịch tình tang
Mẹ đi tìm sàng cho con đổ đỗ
247
Con đi tìm rổ
Cho mẹ đổ khoai
Con ăn một, mẹ ăn hai
Con đi bốc muối thì khoai chẳng còn
Con ngồi con khóc nỉ non
Mẹ đi lấy vọt con ton đầu hè
Có đánh thì đánh vọt tre
Chớ đánh vọt nứa mà què chân con.
6. Cây oằn vì bởi gió nam
Xa mình là bởi mẹ cha ham chỗ giàu.
BK
Xa mình vì bởi phụ mẫu ham chỗ giầu.
7. Cha già con muộn vơi vơi
Gần đất xa trời con chịu mồ côi
Mồ côi cực lắm bớ Trời
Mẹ ruột cha ghẻ nhiều lời đắng cay.
8. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
9. Con gái là con ngƣời ta
Con dâu mới thật mẹ cha mua về.
BK
- Nàng dâu mới thực mẹ cha mua về.
10. Con hƣ bởi tại cha dong
Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.
11. Đá cheo leo, trâu trèo trâu trƣợt
Ngựa trèo ngựa đỏ
Tiếc công anh lao khổ
Tự cổ chí kim
Mất em đi anh khó kiếm khó tìm
Cũng giả tỉ nhƣ cây kim mà lòn sợi chỉ
Sao em không biết nghĩ biết suy
Em ham nơi quyền quí, em không có nghĩ gì đến anh
Hoa kia gió thổi lìa cành
Mẹ cha ép gả, em đành chịu sao?
12. Đƣờng đi những lách cùng lau
Cha mẹ tham giầu, ép uổng duyên con.
BK
- Cha mẹ tham giàu ép gả duyên con.
13. Gà tơ xào với mƣớp già
Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi
Ra đƣờng chị giễu em cƣời
248
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tƣởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.
14. Gió đƣa bụi chuối sau hè
Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.
15. Gió lùa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ
Gió đƣa bụi trúc ngả quì
Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!
16. Khi con thƣơng thầy mẹ không thƣơng
Nay chừ công bất thành, danh bất toại,
Thầy với mẹ đẩy vại con vô
Liều mình con muốn vọt xuống hồ
Măng non làm bạn với tre không cực lòng.
17. Không trách mẹ, cũng chẳng hờn cha
Chỉ trách mẹ bội ƣớc, nên sinh ra thế này.
18. Mẹ em tham gạo tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.
19. Mẹ em tham gạo tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.
20. Mẹ em tham việc tiếc công
Cầm duyên em lại, tiết thu đông muộn màng.
21. Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà
Bây giờ tôi bán oan gia
Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân
Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần
Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.
22. Mẹ em tham thúng xôi rền
249
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng
Tôi đã bảo mẹ răng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bƣng ngày vào
Bây giờ kẻ thấp,ngƣời cao
Nhƣ đôi đũa lệch so sao cho bằng?
23. Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng
Mẹ em tham thúng bánh chƣng
Tham con lợn béo, lƣng em chịu đòn.
24. Mẹ già chặt đũa từ em
Không cho ve rƣợu gói nem mặn nồng.
25. Mẹ già hết gạo treo niêu
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai...
26. Mẹ già ở chốn lều tranh
Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.
BK
a - Mẹ già ở tấm lều tranh
b - Đói no không biết, rách lành nỏ hay.
- Đói no không biết rách lành không hay.
27. Mẹ mong con đẹp lứa đôi
Con xin đƣợc tỏ đôi lời đục trong:
Lấy nhau lòng hiểu đƣợc lòng
Tình kia mới đƣợc đƣợm nồng dài lâu
Vì chƣng mẹ trót nhận trầu
Bắt con ngậm miệng cúi đầu vâng theo
Lấy ngƣời chẳng biết, chẳng yêu
Sống sao cho mãn bóng chiều trăm năm
Dù nay muốn dứt tơ tằm
Mẹ thƣơng thì sự lỡ lầm đã qua.
28. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi mẹ con kể công tháng ngày.
29. Mẹ nuôi con biển hồ lại láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
BK
- Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
30. Mẹ ơi trái bí còn non
Mẹ cầm dao cắt duyên con sao đành?
31. Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con
Mƣời con bỏ mẹ trong ngàn xót xa
Trai cả uống rƣợu la đà
Tối tăm chả tiếc cửa nhà là đâu
250
Nào con, nào rể, nào dâu
Trai thì sợ vợ, gái âu nể chồng.
32. Nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài
Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu
Rồng vàng tắm nƣớc ao tù
Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.
BK
(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau
Cái mâm triện tự đựng rau thài lài
Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài
Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.
(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài
Tiếc ngƣời da trắng tóc dài
Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.
33. Tham giàu thầy mẹ ép gả em ra
Tƣởng là mẹ chính, hoá ra mụ hầu.
34. Thầy mẹ em tham ruộng đầu cầu
Tham nhà con một, tham trâu đầy chuồng
Thầy mẹ em tham bạc tham tiền
Tham con lợn béo, cầm duyên em già
Để đến nay anh cƣới em nửa con gà
Dăm ba sợi bún, một và hột xôi.
35. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.
36. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi
Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông
Gió bên đông xin chàng gỡ giúp
Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan
Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán
Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng
Em còn trong tròng xin chàng thong thả
Em quyết trận này trả của lấy cho anh
Em hai mƣơi tuổi xuân xanh
Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta
Cho nên duyên chẳng thuận hoà
Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.
37. Vì chàng nên chi thiếp chịu đòn oan
Thầy đập mẹ mắng, thế gian chê cƣời
251
- Thầy mẹ đập em anh đau thấu tận xƣơng
Xóm làng ơi, mau mau cứu ngƣời thƣơng tôi cùng!
- Thầy mẹ đập thiếp bò lăn bò lóc
Có khúc có đận (vết)
Nhờ bên tiếp cận
Chàng vô bóp muối thoa chanh
Chàng nay là phận rể không há dễ vô giành ngọn roi.
2.8. QUAN HỆ NÀNG DÂU VÀ GIA ĐÌNH CHỒNG
STT NỘI DUNG
1. Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau
Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi
Làm thì xem chẳng ra gì
Làm tất làm tả nói thì điếc tai
Đi ngủ thời hết canh hai
Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu
Sớm ngày đi cắt cỏ trâu
Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!
Hết mẹ rồi lại đến thầy
Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi
Nói thì nói thật là dai
Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều
Phận em là gái nhà nghèo
Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng
Nói ra đau đớn trong lòng
Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời.
2. Ai về nhắn với bà cai
Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về
Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trƣớc, ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới vƣờn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vƣờn dừa.
3. Bà kia bận áo xanh xanh
Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu
Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu
Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà
Chừng nào bà chết ra ma
Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng
Không khóc thì sợ lòng chồng
Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu.
252
4. Bình phong cẩn ốc xa cừ
Vợ hƣ để vợ, đừng từ mẹ cha.
5. Cái cuốc là cái cuốc đen
Đôi vợ chồng trẻ đốt đèn ăn cơm
Ăn hết xới xới đơm đơm
Ăn cho sạch sẽ lấy rơm mà chùi
Chồng giận chồng đánh ba dùi
Mẹ chồng chẳng chữa lại xui đánh què
Đánh cho què quặt chân tay
Hễ nó có khóc thời mày bỏ tro
Bao giờ mẹ chồng ốm ho
Nàng dâu lấy thuốc đem cho mẹ chồng
Lấy những lông cú, lông cáo, lông công
Lấy cà độc dƣợc cùng lông con mèo.
6. Cây khô chết đứng giữa đồng
Nàng dâu khôn khéo, mẹ chồng cũng chê.
7. Cha chài mẹ lƣới con câu
Chàng rể đi tát, con dâu đi mò.
BK
- Thằng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.
- Con trai tát nƣớc, nàng dâu đi mò.
8. Chăn tằm rồi lại ƣơm tơ
Làm dâu rồi mới đƣợc nhƣ mẹ chồng.
9. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ
Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu
Mẹ cha hành hạ thân dâu
Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?
10. Chẳng tham nhà ngói ba toà
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.
11. Chồng dữ thì em mời rầu
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.
12. Chồng dữ thì em mới lo
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
BK
a- Ai ơi chồng dữ thì lo
b- Mẹ chồng mà dữ mổ bò mà ăn.
- Mẹ chồng mà dữ giết bò khao quân.
13. Chữ dâu hiền, con gái
Câu rể thảo, con trai
Bậu dầu đôi lứa trúc mai
Bớ bậu ơi!
253
Qua kính thờ song nhạc dễ nài công lao.
14. Cô kia đội áo đi đâu?
- Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng đƣợc tôi về nhà tôi.
15. Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Sách có chữ rằng; phu xƣớng phụ tòng
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia
Lấy em về thờ mẹ, kính cha
Thờ cha, kính mẹ ấy là ngƣời ngoan.
16. Con gái là con ngƣời ta
Con dâu mới thật mẹ cha mua về.
17. Con mẹ có thƣơng mẹ đâu
Để cho chàng rể, nàng dâu thƣơng cùng.
18. Con mèo mà trèo cây táo
Bà già lơ láo, mắng chƣởi nàng dâu
Dâu nằm dâu khóc tỉ ti:
Thà phu Gia Định, cu li Sài Gòn.
19. Của rẻ thật là của ôi
Lấy phải dâu dại khốn tôi trăm đƣờng.
BK
a- Của rẻ thật là của hôi
- Của rẻ ấy là của ôi
b- Lấy phải chồng dại khốn tôi trăm đƣờng
- Lấy phải vợ dại khốn tôi trăm đƣờng.
20. Đêm nằm tôi nghĩ tôi sầu
Làm dâu thật khổ từ đầu chí đuôi
Ra thân tối mặt vùi đầu
Các chị sung sƣớng, riêng dâu mẹ hành
Chê tôi khờ dại không lành
Mẹ đào mẹ chƣởi, mẹ hành xót xa
Công trình cha mẹ tôi, sanh đẻ tôi ra
Gả cho con mẹ còn bù của thêm
Phải thời chồng vợ trọn niềm
Sui gia đi lại ấm êm ở đời
Không nên mỗi đứa một nơi
Tôi ra khỏi cửa để mẹ kiếm nơi sang giầu
Ở chi đây mẹ mắng trƣớc, chƣởi sau
Ngày nào mẹ cũng cứ nghèo giàu mẹ đay.
21. Đói thì ăn khế ăn sung
254
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi.
22. Em ở nhà với mẹ với cha
Cái nón tiền rƣỡi quai ba mƣơi đồng
Đến khi bƣớc về nhà chồng
Cái nón mƣời đồng quai lại bằng mo.
BK
a - Từ ngày tôi ở cùng cha
Cái nón chín rƣỡi, thao ba mƣơi đồng
Đến khi tôi về nhà chồng
Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo.
b - Từ ngày tôi ở với cha
Cái nón chín rƣỡi thao ba mƣơi đồng
Đến khi tôi về nhà chồng
Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo.
23. Em về làm dâu ba với má, giả nhƣ gió nọ làm dƣa
Ba bốn năm trời, ba với má còn bó buộc đi thƣa về trình.
24. Khi xƣa em ở với mẹ với cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lộn lần trong ra ngoài.
25. Khi xƣa thiếp sáng ràng rạng nhƣ gƣơng
Thiếp liều mình trao thƣơng cho chàng
Nay chừ huệ héo lan tàn
Thầy mẹ đánh mắng, dạ chàng khiến vong.
26. Làm dâu vụng nấu vụng kho
Chồng không bắt bẻ, mụ o nhún trề.
27. Lúc bé con mẹ con cha
Lấy chồng con gái hoá ra dâu ngƣời
Gái khôn, gái phải nghe lời
Thờ chung bác mẹ ắt thời chở che.
28. Mẹ anh năm lọc bảy lừa
Mua cam phải quít, mua dƣa phải bầu
Mua kim mua phải lƣỡi câu
Mua mật phải dầu, cực lắm anh ơi!
29. Mẹ chồng là mẹ chồng tôi
Cái tôm bóc nõn tôi nuôi mẹ chồng.
30. Mẹ chồng là mẹ chồng tôi
Năm bảy cái quạ nó lôi mẹ chồng.
31. Mẹ chồng nàng dâu
Chúa nhà ngƣời ở, khen nhau bao giờ
BK
255
- Chúa nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.
32. Một nhà có ba bốn dâu
Dâu cả buôn bán ra màu sân sau
Dâu hai có ý mĩ miều
Tiền tiền, thóc thóc bao nhiêu chẳng về
Dâu ba chum chúm râu trê
Nhờ ơn bác mẹ đi về tỉnh Nam
Dâu tƣ có tính tham lam
Chăn trâu cắt cỏ nhôm nhoam ngoài đồng.
33. Mụ già là mụ già còng
Ăn ngày ba bữa lòng thòng chuyện dâu.
34. Muốn lấy con tao
Bắc cầu qua bể
Làm rể cho lâu
Nuôi lợn mƣời năm
Chăn tằm mỏi gối
Nhà ngói năm gian
Bức bàn cho rộng
Ông Cống, ông Nghè
Dù che ngựa cƣỡi
Dâu về nhắn nhủ:
"Các cô hàng xóm láng giềng
Quét sân dọn cỏ, tháng giêng dâu về
Dâu về dâu chả về không
Ngựa bạch tới trƣớc, rƣợu nồng tới sau".
35. Muốn theo anh về bến cho liền
Sợ cha với mẹ nói coi dâu không tiền,(1) dâu hƣ.
(1) Có lẽ "con dâu không hiền" thì đúng hơn(Nhbs).
36. Năm trai, năm gái là mƣời
Năm dâu, năm rể là đôi mƣơi tròn.
37. Ngọn roi mẹ uốn trăm chiều
Anh vô lạy mẹ bốn lạy, kẻo mẹ đánh nhiều thì em đau.
38. Nhà anh có ruộng giữa đồng
Để em tát nƣớc cực lòng em thay
Trời làm mƣa bấc gió may
Để em tát nƣớc giơ tay vái Trời
Tháng tám anh đi dạm lời
Tháng chín ăn cƣới tháng mƣời làm dâu
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn trƣớc, dặn sau nghe lời
Mẹ già ác lắm anh ơi!
256
Nhịn ăn nhịn mặc, nghe lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nhịn cho nên cột, xà nhà bằng bông
Nhịn cho nên vợ, nên chồng
Để em chỉ thiết một lòng lấy anh.
39. Nhà này có quỉ hay ma
Mà dâu chẳng ở dâu ra dâu về.
40. Nhất ngon là mía Lan Điền
Dâu ngoan ngồi đấy, rể hiền ngồi đâu?
BK
a-Nhất ngon là mía Lam Điền
b-Dâu ngoan ngồi đấy, rể hiền ngồi đây.
41. Phụ mẫu bên anh cũng nhƣ phụ mẫu bên nàng
Lẽ thƣờng anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.
42. Phụ mẫu tình thâm
Phu thê nhân ngãi trọng
Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.
43. Phụ mẫu thiếp cũng nhƣ phụ mẫu chàng
Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
44. Song thân bên thiếp cũng nhƣ phụ mẫu bên chàng
Đồng tình bốn chữ cƣu mang
Lẽ thời ta đâu khảm phết vàng thờ chung.
45. Tay em cầm một nạm gạo lƣơng
Đem đi đổi lấy một nạm gạo già
Để về nấu cháo cho ông nhạc mụ gia
Kẻo anh đi qua bên nƣớc Lang Sa(1) lâu về.
(1) Lang Sa: phiên âm tiếng Pháp, France, nƣớc Pháp.
46. Thân em mƣời sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà ngƣời
Nói ra sợ chị em cƣời
Năm ba chuyện thảm chín mƣời chuyện cay
Tôi về đã mấy năm nay
Buồn riêng thì có vui vầy thì không
Ngày thì vất vả ngoài đồng
Tối về thời lại nằm không một mình
Có đêm thức suốt năm canh
Rau héo cháo chó loanh quanh đủ trò
Ai về nhắn mẹ cùng cha
Lấy chồng nhà có, khổ ba bảy đƣờng
Đêm nằm lƣng nỏ bén giƣờng
Mụ gia đã xốc vô buồng kéo ra
257
Bảo lo con lợn con gà
Lo xong cối lúa, quét nhà nấu cơm
ốm đau thì mụ nỏ thƣơng
Mụ hành mụ hạ, đủ đƣờng khốn thân
Tối về bƣng bát cơm ăn
Mụ cầm cái đọi, mụ quăng vô ngƣời
Lấy chồng giàu, khổ lắm, chị ơi!
47. Thật thà cũng thê lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
BK
- Hiền lành cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
- Yêu thƣơng cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
- Hẳn hoi cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
48. Thầy mẹ đập thiếp, chàng đứng chàng coi
Sao chàng không vào cƣớp lấy ngọn roi cho thiếp nhờ?
49. Thầy mẹ không thƣơng con dâu mới, hồ dễ thƣơng ai
Em nói ra chi những chuyện ai hoài tình thâm.
50. Theo không chẳng tốn một đồng
Làm dâu chí nguyện, mẹ chồng còn chê.
51. Tiếc tiền mua lóng mía sâu
Tiếc bạn đi cƣới con dâu ăn hàng.
52. - Tiếng anh ăn học cựu trào
Chị dâu té giếng, anh biết chỗ nào kéo lên
- Nắm đầu chị, sợ tội Trời
Nắm ngay khúc giữa lại sợ lỗi thế gian
- Giếng sâu anh phải thông thang
Kéo chị dâu lên đƣợc kẻo chết oan linh hồn.
53. Tới nơi đây lỡ chợ, lỡ đò
Xẻo cẳng tay nuôi mẹ, giã thịt bò mẹ xơi
Mẹ thƣơng con sa rơi nƣớc mắt
Nghĩ tới dâu hiền ruột thắt tận da
Thôi hỡi con ơi, cháo rau cho qua bữa,
thịt với thà làm chi.
54. Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo nhƣ An Cựu (1) mà nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Em vô bảo dƣỡng cá canh cho thƣờng
Mẹ già nhƣ chuối bà hƣơng
Nhƣ xôi nếp một, nhƣ đƣờng mía lau.
(1) An Cựu: có nơi ghi "Gạo de An Cựu", một thứ gạo thơm ngon
xƣa đƣợc dâng lên vua, đƣợc gọi là gạo tiến, chuyên trồng ở cánh
258
đồng An Cựu, phía nam của Huế.
55. Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng.
BK
(a) Trách cha trách mẹ nhà nàng
Cầm cân chả biết là vàng hay thau
Vàng đây chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa thử than
Ngƣời khôn thử tiếng ngƣời ngoan thử lời.
(b) Trách cha trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thật vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng
Tham vàng bỏ ngãi chàng ơi!
Vàng ăn thì hết ngãi tôi hãy còn.
56. Trời mƣa nƣớc chảy vân vi
Mẹ thƣơng con mẹ, chứ thƣơng gì nàng dâu.
57. Trời mƣa ƣớt lá đài bi
Con mẹ mẹ xót, thƣơng gì con dâu.
BK
- Con mẹ mẹ xót, xót gì con dâu.
58. Trời che đất chở rộng thênh
Lò âm dƣơng đốt nên hình ngƣời ra
Chữ tài sánh lại là ba
Gồm no thiên tính khác xa vật tình
Kẻ tài là bậc tinh anh
Sinh tri lọ phải học hành mới hay
Vua tôi sẵn có nghĩa dày
Cha con thân lắm đáng ngƣời nên trông
Khi ấp lạnh lúc quạt nồng
Bữa dâng ngon ngọt bữa dùng sớm trƣa
Ở cho thoả chí ngƣời xƣa
Đền ơn trả nghĩa thuở xƣa bế bồng
Nhất hiếu lập vạn thiện tòng(1)
Ông gồng cháu cháu lại nên ông
Hoàng thiên chẳng phụ tấm lòng hiếu đâu
Đàn bà phận gái làm dâu
Làm dâu ắt muốn mai sau mẹ chồng
Phải nhằm bƣớc trƣớc cho xong
259
Bƣớc sau theo lối ông ông bà bà
Chữ rằng tích thiện chi gia(2)
Đƣờng kia lối nọ chẳng qua nợ lần
ấy là khuyến hiếu ở thân
Lại còn một nỗi ái ân bạn bầu
Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau ngƣời trƣớc phải hầu cho vui
Lọ là ăn thịt ăn xôi
Quí hồ ở nết tới lui bằng lòng
Chớ bề tranh cạnh hành hung
Chớ nên khinh dị dốc lòng yêu đƣơng
Cứ trong nghĩa lí luân thƣờng
Làm ngƣời phải giữ kỉ cƣơng mới màu
Đừng cậy khoẻ, chớ khoe giàu
Trời kia còn ở trên đầu còn kinh.
(1) Nhất hiếu lập, vạn thiện tòng: Làm đƣợc một việc hiếu thì vạn
điều tốt đi theo.
(2) Tích thiện chi gia: gia đình làm đƣợc nhiều điều lành.
59. Từ khi em về làm dâu
Anh thì dặn trƣớc, bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà
Đi chợ thời chớ ăn quà
Đi chợ thời chớ rề rà ở trƣa
Dù ai bảo đợi, bảo chờ
Thời em nói dối con thơ em về.
BK
a- Thì anh dặn bảo trƣớc sau mọi lời
b- Nhịn ăn bớt ngủ mà nuôi mẹ già
- Khoan ăn bớt ngủ mà nuôi mẹ già
c- Về chợ thì chớ rề rà ở trƣa.
- Đi chợ thì chớ dần dà ở trƣa.
60. Tuổi em hai tám tuổi đầu
Cha mẹ đã định làm dâu nhà ngƣời
Nói ra sợ chị em cƣời
Năm ba trận chở, chín mƣời trận đay
Việc làm chẳng kịp trở tay
260
Mẹ chồng mắng mỏ, la rầy gay go
Cơm ăn trong bụng chẳng no
Tấm quần, tấm áo, không cho mặc lành
Đêm thì thức đủ năm canh
Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò.
61. Uổng tiền mua giống mía sâu
Để dành đi cƣới con dâu mà nhờ.
62. Xin anh đi học cho ngoan
Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài
Quan tiền dài em ngắt làm đôi
Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già
Bát cơm em nấu nhƣ hoa
Bát canh em nấu nhƣ là mật ong
Nƣớc mắt em lọc cho trong
Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan .
63. Xƣa kia tôi ở với mẹ cha
Chƣa từng xách mủng(1), đi ra ngoài đồng
Bây giờ về với mẹ chồng
Cay đắng mặn nồng, ra chuyện tây riêng
Khi xƣa tôi ở với mẹ cha
Tôi bận cái yếm thêu hoa rồng
Bây giờ tôi ở với mẹ chồng
Tôi bận cái yếm bề trong ra ngoài
Xƣa kia nón Quảng quan hai
Bây giờ nón rách lại gài khuy mo.
(1) Mủng: Một thứ thúng nhỏ, đan dày kín.
2.9. HÔN NHÂN - CAM CHỊU
STT NỘI DUNG
1. Ai bƣng trầu rƣợu tới đó
Chịu khó bƣng về
Em thƣơng anh thảm thiết trăm bề
Heo vay cau tạm áo mƣợn võng thuê
Thầy mẹ bên em nay nhún mai trề
261
Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo.
2. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
Thầy mẹ gả bán cho anh thật thà
Bây giờ chê xấu chê xa
Chê cửa, chê nhà, chê khó, chê khăn
Ơ đâu yểu điệu thanh tân
Sao anh chẳng chịu cầm cân đi lừa?
3. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
Thầy mẹ gả bán cho anh thật thà
Anh còn chê xấu chê xa
Chê vụng, chê dại, cửa nhà khó khăn
Tìm nơi yểu điệu thanh tân
Mẹ anh lại gác đồng cân đi lừa
Đây em vàng bảy chả mua
Vác cân đi lừa lại phải vàng năm
Vàng năm lại phải vàng mƣời
Rắn nằm cuộn khúc tƣởng nơi rồng vàng
Mẹ anh ngồi quán bán hàng
Sao anh chẳng biết rằng vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa cho đau lòng vàng.
4. Anh đi về đi, kẻo thầy em dứt, kẻo mẹ em la
Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì!
5. Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho hay rằng anh hãy lánh xa
Mẹ cha không thể chịu hoà
Em đâu dám cãi vậy mà theo anh.
6. Đá cheo leo, trâu trèo trâu trƣợt
Ngựa trèo ngựa đỏ
Tiếc công anh lao khổ
Tự cổ chí kim
Mất em đi anh khó kiếm khó tìm
Cũng giả tỉ nhƣ cây kim mà lòn sợi chỉ
Sao em không biết nghĩ biết suy
Em ham nơi quyền quí, em không có nghĩ gì đến anh
Hoa kia gió thổi lìa cành
Mẹ cha ép gả, em đành chịu sao?
7. Đêm trăng thắp ngọn đèn lồng
Mình về có nhớ ta không, hỡi mình?
Chiếc thuyền nan anh giậm thình thình
Anh thì cầm lái, cô mình phách ba
262
Có thƣơng anh, em bẻ mái chèo ra
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.
8. Đèn chong giữa gió, khi tỏ khi mờ
Bạn thƣơng đứng đó, biết cơ vạn sầu
Bởi anh thất ƣớc bƣớc đầu
Phải nhƣ anh bỏ miếng trầu đã xong
Vì ai thiếp phải long đong
Một thân thiếp đã tính xong một bề
Làm trai thấy gái đừng mê
Cây cao bóng cả dựa kề đừng xiêu
Anh yêu cha mẹ chẳng yêu
Lụa kia em muốn nhúng, chỉ điều không ăn
Tiếc thay áo chẳng đặng khăn
Em đã có chồng xa xứ, anh đừng đón ngăn làm gì.
9. Em thƣơng anh, cha mẹ không cho
Tìm nơi khuất tịch khóc no rồi về.
10. Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng
Hàng Mật, Hàng Đƣờng, Hàng Muối trắng tinh
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mƣơi phen
Làm quen chẳng đƣợc làm quen
Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.
BK
a - Làm quen chả đƣợc làm quen
b - Làm bạn mất bạn ai đền công cho
11. Kiến bò vành chậu sáng trƣng
Thấy em có nghĩa, lòng ƣng dạ đành
Anh đành, cha mẹ không đành
Mẹ ơi! Đừng dứt duyên lành tội con
Tai nghe trống điểm lầu son
Anh sầu một nỗi, héo hon đoạn trƣờng
Than cho thấu dạ ngƣời thƣơng
Bữa ăn rớt đũa, đêm trƣờng chiêm bao!
12. Mái tóc tơ không bao giờ phân rẽ
Dạ thƣơng, thầy mẹ khiến đừng
Hai hàng nƣớc mắt rƣng rƣng
Khổ cam trong dạ biết chừng nào phai.
13. Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình
Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.
14. Nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài
263
Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu
Rồng vàng tắm nƣớc ao tù
Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.
BK
(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau
Cái mâm triện tự đựng rau thài lài
Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài
Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.
(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài
Tiếc ngƣời da trắng tóc dài
Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.
15. Nƣớc đứng mà đựng chậu thau
Tiếc mâm sơn tử đơm rau thài lài
Tiếc em da trắng tóc dài
Cha mẹ ép gả cho ngƣời phàm phu
Mình vàng xuống tắm ao tù
Ngƣời khôn ở với đứa ngu bực mình
Qua đình nghiêng nón trông đình
Đình bao nhiêu gói thƣơng mình bấy nhiêu
Khi nào nƣớc đục cơm thiu
Chồng con chƣa mấy, bỏ liều cho ta
Trông em chẳng thấy em ra
Anh ngồi anh đợi sƣơng sa lạnh lùng
Đêm nằm cởi áo đắp chung
Sao em không đắp lại vùng áo đi
Thƣơng em kịp thuở thì xuân xanh
Bữa cơm có cá có canh
Sao không mát dạ, vƣơng anh làm gì.
16. Nƣớc ngâm mà đậu chƣa chà
Lòng em thì muốn, mẹ cha chƣa ừ.
17. Ở nhà anh đã khiến sang
Nghe thầy mẹ nói dở dang nhiều điều
Đôi ta mến yêu
Những điều trung hiếu
Tình kia dan đíu
Nhạn én bay qua
Vịt lội Ngân Hà
Bây chừ dang dở
Thấy mẹ úp mở
264
Cho lỡ chiếu giƣờng
Thấy mẹ không thƣơng
Sao ban đầu không nói?
Anh sang anh hỏi
Mẹ nói rằng: ừ!
Đi sang cƣới chừ
Trăm điều thách lại
Này yếm thêu hoa cả dải
Vòng xuyến dăm đôi
Này khăn nhiễu tàu
Mƣơi vuông cho đủ
Bỏ quả sơn son
Này rƣợu cho ngon
Năm bảy vò đầy ắp
Này mƣơi gánh nếp
Thết đãi họ hàng
Nhà anh khó khăn
Lấy đâu đồ sính lễ
Mẹ cha chẳng nghĩ
Em cũng mặc tình
Bỏ lời nguyện với ba sinh
Tiếc con rồng vàng bỏ đám mây xanh ngậm ngùi.
18. Phụ mẫu mình khuôn phép luật hình
Tôi không từng lai vãng nên mình quên tôi.
19. Ra đƣờng gặp khách cung mây
Chẳng dây nào rối bằng dây tơ vò
Thầy mẹ ngƣời vụng liệu vụng lo
Đôi mƣơi, mƣời tám chẳng lo lấy chồng
Thầy mẹ ngƣời tham việc tiếc công.
20. Sách Luận ngữ có hai chữ thị hồ (1)
Sách Tăng tử có hai chữ ta hồ (2)
Dầu thầy mẹ có gả thiếp đi mô
Thiếp cƣu sầu (3) trong dạ ruột khô gan vàng.
(1) Thị hồ: phải thế chăng, thƣờng đi đôi với phủ hồ là không phải
thế chăng?
(2) Ta hồ: than ôi!
(3) Cƣu sầu: mang sầu
21. Sáng ngày cắp nón đón đò
Gặp thầy, gặp mẹ chả cho xuống đò
Lạy thầy, lạy mẹ xin chừa
Từ rày chả dám đò đƣa với chàng
265
Chốn sơn lâm lá cỗi thông vàng
Cây bao nhiêu lá thƣơng chàng bấy nhiêu
Bởi chƣng bác mẹ nhiều điều
Cho nên tôi phải đăm chiêu với chàng
Ruột tôi héo, gan tôi vàng
Nào ai có biết đoạn tràng này không ?
22. Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt
Khuyên em đừng chực tiết uổng công.
23. Thiếp đứng gần chàng nhƣ vàng mƣời nén
Chàng đứng gần thiếp nhƣ chén trà tiên
Anh thƣơng em, em chẳng dám thị thiền
ẩn cây nấp bóng, đợi quyền mẹ cha.
24. Thôi thôi buông áo em ra
Để em đi bán kẻo hoa em tàn
- Hoa tàn vì bởi mẹ cha
Khi búp không bán để tàn ai mua?
25. Thƣơng nhau chẳng lấy đƣợc nhau
Mẹ cha trồng sậy trồng lau ngăn rào.
26. Thuyền em lựa bến cắm sào
Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.
27. Tiếc công anh lau đĩa chùi bình
Cậy ông mai tới nói, cha mẹ nhìn bà con
Trời mƣa, nhà chiếc dột hom
Cha mẹ không thƣơng thì nói vậy, chớ bà con đâu nhìn.
BK
Tiếc công anh lau đĩa chùi bình
Cậy mai dong tới nói phụ mẫu nhìn bà con
Trời mƣa nhà thiếc dột bon bon
Phụ mẫu không thƣơng nói vậy, chớ bà con đâu mà nhìn.
28. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài
Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.
29. Trách hồng nhan vô duyên bạc chẳng phải hận
Duyên nợ ở gần sao không đặng xứng đôi
Để chàng với thiếp xa xôi
Oán cha trách mẹ chẳng lo việc đứng ngồi cho con.
30. Trách ai lấp nẻo sông ngân
Làm cho đôi lứa cố nhân bặt đƣờng
Thƣơng nhau dòng luỵ chảy tuôn
Trách cha mẹ gắt chẳng thƣơng chút tình
Anh về em nhớ dạng nhớ hình
Ngàn năm li biệt đôi đứa mình phải xa
266
Vái Trời cho đặng chữ hiệp hoà
Lâu lâu thăm viếng kẻo mà đợi trông
Xin thƣơng cho chút má hồng
Chớ đừng bạc nghĩa vong ân đoạn tình.
31. Trách cha trách mẹ muôn phần
Ngồi trốc đống bạc mà cân lấy chì.
32. Trách cha trách mẹ quá lời
Cho nên anh phải bỏ rời bấy lâu
Bây giờ lòng mới sở cầu
Có chăng nói lại với nhau vài lời.
33. Trách hồng nhan vô duyên bạc phận
Duyên nợ ở gần sao không đặng xứng đôi
Để chàng với thiếp xa xôi
Oán cha trách mẹ chẳng lo việc đứng ngồi cho con.
34. Trách Trời sao lại hiu hiu
Trách lòng cha mẹ không chiều lòng em.
35. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi
Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông
Gió bên đông xin chàng gỡ giúp
Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan
Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán
Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng
Em còn trong tròng xin chàng thong thả
Em quyết trận này trả của lấy cho anh
Em hai mƣơi tuổi xuân xanh
Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta
Cho nên duyên chẳng thuận hoà
Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.
36. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn
Mụ già kén rể, con còn hoá lâu.
37. Trèo đèo Cổ Mã
Ngó xuống Vạn Giả, Tu Bông(1)
Biết là phụ mẫu đành không
Chàng chờ thiếp đợi, uổng công hai đàng
(1) Vạn Giả, Tu Bông: các địa danh thuộc tỉnh Phú Yên.
38. Vì chàng nên chi thiếp chịu đòn oan
Thầy đập mẹ mắng, thế gian chê cƣời
- Thầy mẹ đập em anh đau thấu tận xƣơng
Xóm làng ơi, mau mau cứu ngƣời thƣơng tôi cùng!
- Thầy mẹ đập thiếp bò lăn bò lóc
Có khúc có đận (vết)
267
Nhờ bên tiếp cận
Chàng vô bóp muối thoa chanh
Chàng nay là phận rể không há dễ vô giành ngọn roi.
2.10. HÔN NHÂN - TRÁCH MÓC
STT NỘI DUNG
1 Ai làm cho bến xa thuyền
Cho Trăng xa Cuội(1), bạn hiền xa nhau
Cha mẹ sao nghĩ chẳng sâu
Để thƣơng để nhớ để sầu cho cả hai ta.
2 Ba tàn ba héo vì cây
Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.
3 Bác mẹ em vội tham vàng
Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con
Trƣớc thời thẹn với nƣớc non
Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày
Khi vui có bác mẹ thầy
Cơn sầu em chịu đắng cay một mình
Mang thơ ra dán cột đình
Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?
Phong ba nổi giữa đất bằng
Một dây một buộc ai dằng cho ra!
Thiết gì một cảnh vƣờn hoa
Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?
Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy
Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!
4 Cây oằn vì bởi gió nam
Xa mình là bởi mẹ cha ham chỗ giàu.
BK
a- xa mình vì bởi phụ mẫu ham chỗ giầu.
5 Cha mẹ đòi ăn cá thu
Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.
6 Cha mẹ em cho em sang chiếc đò nghiêng
Đò trùng triềng đôi mạn em ôm duyên trở về.
7 Chim bay về núi Sơn Trà
Chồng nam vợ bắc, ai mà muốn xa
Sự này cũng tại mẹ cha
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.
8 Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát lên nhành rỉa lông
268
Đôi ta xứng vợ xứng chồng
Cực vì cha mẹ nói không xƣa rày
Bữa nay tỏ thiệt bạn hay
Kiếm nơi mô thì bạn kiếm, chớ duyên rày rời duyên.
9 Đôi ta mặt nguyệt hôm rằm
Bởi chƣng mƣa dầm nhìn chẳng thấy sao
Bởi chƣng cha mẹ ép vào
Làm cho khốn khổ đời nào cho ra
Thác đi sợ tiếng gièm pha
Thiệt thân mà miệng ngƣời ta chê cƣời
Chơi trăng không thẹn với trời
Chơi gƣơng không thẹn với ngƣời trong gƣơng
Hỡi ngƣời em nhớ em thƣơng
Sống còn em nguyện cùng chàng trăm năm.
10 Dòng nƣớc chảy xuôi, con cá buôi lội ngƣợc
Dòng nƣớc chảy ngƣợc, ông Nƣợc rƣợt theo
Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo
Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền.
11 Đứng bên ni sông cách ba tay sáo
Nghe giọng em hò vắt áo ra đi
Tai nghe thầy mẹ ở nhà bán gả em đi
Bằng ai giơ dao cắt ruột anh đi cho rồi.
12 Duyên kia chƣa bén, tình nọ chƣa nồng
Xốn xang bứt rứt trong lòng
Hay là Trời khiến vợ chồng cách phân?
- Em đừng đem dạ sầu tây
Gây nên cơn cớ sự này
Bởi chƣng cha mẹ xui rày mới xa.
13 Em là con gái lỡ thì
Thầy mẹ nỏ gả để làm chi trong nhà?
14 Gà tơ xào với mƣớp già
Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi
Ra đƣờng chị giễu em cƣời
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tƣởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.
15 Không trách mẹ, cũng chẳng hờn cha
Chỉ trách mẹ bội ƣớc, nên sinh ra thế này.
16 Lửa nhen vừa mới bén trầm
269
Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con.
17 Mẹ em tham gạo tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.
18 Mẹ em tham gạo tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.
19 Mẹ em tham việc tiếc công
Cầm duyên em lại, tiết thu đông muộn màng.
20 Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng
Tôi đã bảo mẹ răng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bƣng ngày vào
Bây giờ kẻ thấp,ngƣời cao
Nhƣ đôi đũa lệch so sao cho bằng?
BK
a - Mẹ tôi tham thúng xôi rền
b - Em đã bảo mẹ rằng đừng
c - Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bƣng mâm vào
d - Bây giờ chồng thấp, vợ cao
21 Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng
Mẹ em tham thúng bánh chƣng
Tham con lợn béo,lƣng em chịu đòn.
22 Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà
Bây giờ tôi bán oan gia
Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân
Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần
Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.
23 Mẹ mong con đẹp lứa đôi
Con xin đƣợc tỏ đôi lời đục trong:
Lấy nhau lòng hiểu đƣợc lòng
270
Tình kia mới đƣợc đƣợm nồng dài lâu
Vì chƣng mẹ trót nhận trầu
Bắt con ngậm miệng cúi đầu vâng theo
Lấy ngƣời chẳng biết, chẳng yêu
Sống sao cho mãn bóng chiều trăm năm
Dù nay muốn dứt tơ tằm
Mẹ thƣơng thì sự lỡ lầm đã qua.
24 Mẹ mong gả thiếp về giồng
Thiếp than phận thiếp gánh gồng chẳng kham.
25 Mẹ ơi trái bí còn non
Mẹ cầm dao cắt duyên con sao đành?
26 Sự tình trọng đại, đây chẳng phải buồn chi
Buồn thời một phận sầu bi
Trai tài gái sắc, thầy mẹ không tính hƣơng chi con nhờ.
27 Tay gắp miếng mỡ
Tay đỡ miếng quay
Sửa mặt, sửa mày
Quần hồ áo cánh
Thầy mẹ sứm sanh
Sao anh không mặc?
Cái phận anh cực
Cái phận anh sầu
Ruột cắt không đau
Bằng duyên ép cƣỡng
Có hơn sào ruộng
Lúa bán hơn ngƣời
Nuôi ăn nuôi chơi
Thầy mẹ không gả
Nuôi uổng thân con
Đắng cay nhƣ quả bồ hòn
Khác nào nhƣ thể hồng non ngậm vào.
28 Tham giàu thầy mẹ ép gả em ra
Tƣởng là mẹ chính, hoá ra mụ hầu.
29 Thầy mẹ em tham ruộng đầu cầu
Tham nhà con một, tham trâu đầy chuồng
Thầy mẹ em tham bạc tham tiền
Tham con lợn béo, cầm duyên em già
Để đến nay anh cƣới em nửa con gà
Dăm ba sợi bún, một và hột xôi.
30 Trách cha mẹ nàng ăn ở đảo điên
Để trai anh hùng chịu thảm, gái thuyền quyên chịu sầu.
271
31 Trách cha, trách mẹ muôn phần
Ngồi trốc đống bạc mà cân phải chì
Trách cha trách mẹ vụng suy
Sinh chi cho luống công trình
Để cho chúng bạn đồng tình mỉa mai.
32 Trách mẹ với cha chớ anh đây không trách bậu
Cha mẹ tham giàu gả bậu đi xa.
2.11. HÔN NHÂN - QUYỀN CHA MẸ
STT NỘI DUNG
1. Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho
Hoài con mà gả chồng xa
Trƣớc là mất giỗ sau là mất con.
BK
(a)Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm đốt đuốc mang phần cho cha
Hoài con mà gả chồng xa
Ba sào ruộng chéo chẳng ma nào cày.
(b)Có con mà gả chồng xa
trƣớc là mất gỗ, sau là mất con
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho.
2. Con ta gả bán cho ngƣời
Cờ ai nấy phất chứ chơi đâu mà.
3. Mẹ mong gả thiếp về vƣờn
Ăn bông bí luộc dƣa hƣờng nấu canh.
BK
Mẹ mong gả thiếp về giồng
Ăn bông bí luộc, dƣa hồng nấu canh.
4. Nuôi con những tƣởng về sau
Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi
Mực đen vô giấy khó chùi
Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.
5. Trèo lên cây gạo con con
Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo
Nặng là bao nhiêu?
Ba mƣơi quan quí
Mẹ anh có ý mới lấy đƣợc nàng
Mai mẹ anh sang, mẹ nàng thách cƣới
272
Bạc thì trăm rƣởi, tiền chín mƣơi chum
Lụa thì chín tấm cho dày
Trâu bò chín chục đuổi ngay vào làng
Anh sắm đƣợc, anh mới hỏi nàng
Nếu không sắm đủ, chớ vào làng làm chi.
BK
Trèo lên cây gạo son son
Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo
Ba mƣơi quan quí
Mẹ anh có ý mới lấy đƣợc nàng
Anh về bảo mẹ anh sang
Mẹ nàng thách cƣới:
- Tiền thì trăm rƣởi
Bạc chín mƣơi thoi
Cƣới em mƣời chín con trâu
Mƣời hai con lợn thì dâu mới về
Dâu về trƣớc ngựa hồng theo sau.
2.12. HÔN NHÂN - CHỐNG LẠI LỄ GIÁO PHONG KIẾN
STT
NỘI DUNG
1. Cơm ăn hai bát, bát ăn bát để
Đũa so hai đôi, đôi đứng đôi nằm
Dầu mà thầy mẹ đập chín chục một trăm
Đập rồi lại dậy quyết nhất tâm lấy chàng.
2. Cơm sôi bớt lửa kẻo trào
Mẹ ơi khoan bán, má đào đang non.
3. Cá lƣỡi trâu dầm trong nƣớc mắm
Qua với nàng duyên thắm mấy trăng
Mẹ cha tuy chẳng bằng lòng
Đôi ta cố giữ chữ đồng trăm năm.
4. Chƣa chồng thì liệu đi nghe
Để bác mẹ liệu thì huê em tàn
Có thì liệu lấy mới ngoan
Để bác mẹ liệu thế gian đã đành.
5. Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng
Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi
Con rồng nằm bãi cát bày vi
Vì chƣng thƣơng bạn, nên ra đi làm vầy
273
Ra đi, cha đánh, mẹ ngầy
Không đi, bạn ở ngoài này bạn trông!
6. Dù cho cha đánh ngõ đình
Mẹ ngăn ngõ chợ, đôi đứa mình đừng xa.
7. Em còn bé dại thơ ngây
Thầy mẹ ép uổng những ngày còn thơ
Bây giờ duyên số chả vừa
Có thƣơng thì gỡ cho nhau ra cùng
Em còn mắc míu trong tròng
Mƣợn dao lá trúc cắt tròng em ra
Bao giờ em ra khỏi tròng
Giã ơn dao trúc, giã lòng ngƣời thƣơng
Bao giờ em ra khỏi chiếu, khỏi giƣờng
Để thiếp với chàng lồng áo đắp chung.
8. Em ngủ dậy sớm mai
Em xúc hai chén cơm
So hai đôi đũa
Đôi đứng đôi nằm
Dầu thầy mẹ có đánh chín chục, một trăm
Đánh rồi em dậy, em cũng chí lăm thƣơng chàng.
9. Em thƣơng anh dầu cha mẹ có quấn tóc kèo nhà
Đánh bằng roi sắt, xa mà không xa
Chừng nào roi sắt trổ hoa
Cây khô nở nhuỵ, đôi đứa ta mới lìa.
10. Em thƣơng anh thầy mẹ ngăm nghe
Cậu, cô, chú, bác, đòi đậu bè thả trôi
Thả trôi răng đặng mà thả trôi
Anh Hồ em Hán cũng lôi nhau về.
11. Hai hàng nƣớc mắt tuôn rơi
Khóc lên thì sợ bạn cƣời đôi ta
Việc này tại mẹ cùng cha
Tại chú cùng bác ông bà anh em
Mặc ai chia rẽ phận duyên
Đôi ta cứ giữ lời nguyền sắt son.
12. Khi con thƣơng thầy mẹ không thƣơng
Nay chừ công bất thành, danh bất toại, thầy với mẹ đẩy vại con vô
Liều mình con muốn vọt xuống hồ
Măng non làm bạn với tre không cực lòng.
13. Mặc dầu cha đánh mẹ treo
Đứt dây té xuống cũng theo chung tình.
14. Mình ơi! tôi nhớ thƣơng mình
274
Mẹ cha chửi mắng chữ tình nặng thêm.
15. Rau răm ngắt ngọn còn tƣơi
Rƣợu ngon chuốc chén đợi ngƣời tri âm
Đôi đũa em đã toan cầm
Chàng lấy một chiếc cho lòng em mê
Về nhà cha đánh, mẹ chê
Nhƣng em chỉ quyết một bề lấy anh
Cây xanh thì lá cũng xanh
Đã trót vin cành thì phải hái hoa.
16. Thiếp đây không phải con ngƣời lòng chim dạ cá
Trách tấm lòng thầy mẹ bán gả đôi nơi
Trăm năm thề thốt nặng lời
Thiếp xin lấy con dao vàng tự vẫn giữa trời phen ni.
17. Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thƣơng chàng, cha mẹ nào hay
Có hay thì nhất đánh, nhì đày
Hai lẽ mà thôi
Thuỷ chung em giữ trọn mấy lời
Chết thời chịu chết, lìa đôi em không lìa!
(b) Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thƣơng chàng, cha mẹ nào hay
Có hay thì nhất đánh nhì đày
Thuỷ chung giữ trọn, chết thà chịu chết lìa đây không lìa.
2.13. HÔN NHÂN - LƢỠNG LỰ
STT NỘI DUNG
1. Ai về anh dặn lời này
Phƣợng hoàng chỉ quyết đậu cây ngô đồng
Song le còn chút ngại ngùng
Biết rằng thầy mẹ thƣơng cùng cho chăng?
Nẻo xa thấp thoáng bóng trăng
Cũng mong nhờ gió cát đằng(1) dƣa dây
Để cho duyên hiệp đấy đây cho gần.
(1) Cát đằng: loài dây leo phải bám vào những cây to khác. Trong
văn học cổ thƣờng dùng cát đằng để chỉ sự phụ thuộc, lẽ mọn.
(2) Quảng Hàn: nghĩa gốc là rộng và lạnh lẽo, theo Long thành lục,
vua Đƣờng Minh Hoàng, nhân đêm rằm tháng tám, đƣợc nhà thuật
sỹ làm phép lạ đƣa lên mặt trăng chơi, thấy cửa vào cung trăng có
biển đề "Quảng hàn thanh hƣ chi phủ" (cái phủ trống rỗng, trong
suốt, lạnh và rộng) do đó Quảng Hàn, Cung Quảng Hàn, Cung
275
Quảng, Cung Hàn v.v đều dùng để chỉ mặt trăng.
2. Chim manh manh bay quanh vòng cỏ
Qua với nàng hiểu rõ mấy năm
Tình yêu vẫn giữ âm thầm
Đợi quyền cha mẹ sắt cầm định phân.
3. Công anh gánh đá tạc bia
Công em trò chuyện sớm khuya với chàng
Bây giờ bác mẹ bàn ngang
Công em trò chuyền với chàng mất không
Ai ngờ chuối trổ mùa đông
Biết rằng có chắc hay không mà chờ
Chờ anh chờ ngẩn, chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa hồng
Cắm sào em đợi nƣớc trong
Nƣớc nguồn chảy xuống còn mong nỗi gì
4. Đêm khuya trăng lệch trời trong
Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha.
5. Đƣợc hoặc chữ trung mất dùng chữ hiếu
Đƣợc chữ tam tùng lỗi đạo mẹ cha.
6. Em về em hỏi mẹ cha
Có cho em lấy chồng xa hay gần?
Có con mà gả chồng xa
Một là mất giỗ, hai là mất con
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho.
7. Em thấy anh em cũng mong chào
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài.
8. Em thƣơng còn bụng mẹ thầy
Đèn treo trƣớc gió biết xây ngả nào.
9. Gặp anh đây em hỏi giao hoà
Thƣơng em anh có nghĩ đến mẹ già em không?
10. Không nghe anh thì lỗi đạo tam tùng
Nghe anh thì thất hứa thất trung với mẹ thầy.
11. Không theo anh thì đêm tƣởng ngày trông
Theo anh thì thầy mẹ vẽ vòng uốn roi.
12. Lăm le muốn nhảy qua mƣơng
Nhảy thời đặng đó, còn thƣơng mẹ già.
13. Lấy chi trả thảo cho cha
Đền ơn cho mẹ, con ra lấy chồng.
14. Lênh đênh nửa nƣớc nửa dầu
Nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu căn duyên.
276
15. Lƣỡi câu anh đã uốn vừa
Sợ lòng bác mẹ lọc lừa nơi nao
Bắc thang lên hỏi thiên tào
Rằng cô bán cá rẽ vào duyên ai(1)
(1) Rẽ vào duyên ai: ngƣời ấy sẽ lấy ai?
16. Lƣu li nửa nƣớc, nửa dầu
Nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu căn duyên.
17. Mẹ em tham con lợn béo mùi
Để anh chểnh mảng nhƣ nồi canh rau
Bắt tay qua trán mà nghĩ trƣớc sau
Thịt lợn chóng chán, canh rau mát lòng.
18. Mẹ mong gả thiếp về vƣờn
Thiếp lo một nỗi đƣờng trƣờng xa xôi.
19. Một nghiên năm bảy bút giao kề
Biết lòng thày mẹ chấm phê bút nào.
20. Ông Trời năng mƣa, năng vận chuyển
Đất cát ngoài biển, năng lở năng bồi
Đôi ta yêu lỡ nhau rồi
Chàng than thiếp thở, phụ mẫu ngồi sao yên?
21. Vai mang khăn gói sang sông
Mẹ kêu khốn tới, thƣơng chồng khốn lui.
2.14. HÔN NHÂN - TỰ GIÁC
STT NỘI DUNG
1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó
Phải chịu khó bƣng về
Em đang ở hầu thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.
BK
(a)Ai bƣng bầu rƣợu tới đó thì chịu khó bƣng về
Kẻo em đây đang còn theo chân thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.
(b)Ông mai ơi!
Ông xách bầu rƣợu tới đó
Ông hãy chịu khó ông xách trở về
Tôi còn ở nuôi phụ mẫu, cho trọn bề hiếu trung.
(c) Ai bƣng trầu rƣợu tới đó
Chịu khó bƣng về
Em đây thiệt vẫn không chê
Ở làm ri nuôi thầy mẹ, cho trọn bề hiếu trung.
2. Bông ngâu rụng xuống cội ngâu
Em còn phụ mẫu dám đâu tƣ tình.
277
3. Chỉ còn đƣơng nối trong cuồng
Em còn phụ mẫu, luông tuồng sao nên.
4. Chớ lo nốc nát, ván hà
Gắng thân nuôi phụ mẫu, duyên già có anh.
5. Khoan khoan bƣớc tới thềm vàng
Để em thƣa với thầy mẹ, biết có thƣơng chàng hay không?
6. Khoan khoan chờ đợi em cùng
Em còn hai chữ hiếu trung chƣa đền.
7. Mẹ em muốn ăn cá thu
Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm
Mẹ em thách cƣới một trăm
Anh đi chín chục, mƣời lăm quan ngoài.
8. Mẹ em thách cƣới một trăm
Anh đi chín chục mƣời lăm quan ngoài
Mẹ em thách cƣới hoa tai
Anh ra thợ bạc đánh hai đôi liền.
9. Ngại vì một nỗi xa đàng
Bác mẹ chƣa biết họ hàng chƣa hay
Anh có lòng thƣơng chờ đợi ít ngày
Đƣợc phép mẹ thầy, anh hãy vãng lai
Trƣớc răng sau rứa không sai!
10. Ngọc còn ẩn bóng cây ngâu
Em đang tùng phụ mẫu dám đâu tự tình?
11. Ơn hoài thai nhƣ biển
Ngãi dƣỡng dục, tợ sông
Em nguyền ở vậy phòng không
Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.
12. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non
Hai ta là đạo làm con
Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.
13. Phụ mẫu sơ sanh, hãy để ngƣời định
Trong việc vợ chồng, phải chờ lịnh mẹ cha
- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy
Nhƣng em phải hứa chắc một lời, anh sẽ cậy mai dong.
14. Thuyền em lựa bến cắm sào
Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.
15. Tiếc cây mía tốt có sâu
Tiếc ngƣời lịch sự trên đầu có tang
Tang chồng thì bỏ tang đi
Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung
- Tang cha, tang mẹ trên đầu
278
Lẽ nào em dám bán sầu mua vui.
16. Tiếng đồn anh con nhà nhân gia tử đệ
Anh ơi! Anh thiếu chi kẻ thƣơng yêu
Cớ làm sao anh lại để đứng bóng xế chiều hỡi anh?
- Em ơi, em thốt ra anh cũng phải
Nhƣng cho anh trả lại mần ri
Chốn mô nghiêm trang bằng chốn bến Ngự? (1)
Chỗ mô lịch sự bằng chợ Đông Ba (2)
Anh không bôn theo đƣờng con vợ
Mà nhớ đến hai chữ thất gia
Một chữ kính mẹ, một chữ thờ cha
Dẫu mà trăng xế, bóng qua anh cũng đành.
(1) Bên ngự: địa điểm trên sông An Cựu (một nhánh của sông
hƣơng) gần ga Huế.
(2) Đông Ba: xem chú thích ở Ch 406.
17. Trăng lên khỏi núi trăng sáng
Bởi vì mây ám nên trăng mờ
Anh mắc đƣờng hiếu sự, em đợi chờ có đặng không?
2.15. CON CÁ TRONG CA DAO
VỀ TÌNH YÊU, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
STT NỘI DUNG
1. Ai làm bát bể cơm rơi
Đĩa nghiêng cá đổ, rã rời đôi ta.
2. Ai làm cá bống đi tu
Cá thu nó khóc, cá lóc nó rầu
Luỵ rơi hột hột, cơ cầu lắm bớ em!
3. Ai làm cho cải tôi ngồng
Cho dƣa tôi khú, cho chồng tôi chê
Chồng chê thì mặc chồng chê
Dƣa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
4. Ai lên nhắn nhủ hàng bông
Có muốn lấy chồng thì xuống Nguyệt Viên(1)
Nguyệt Viên lắm lúa nhiều tiền
Lại có sông tiền tắm mát nghỉ ngơi
Chiều chiều ba dãy cá tƣơi
Chẳng ăn thời thiệt, chẳng chơi thời hèn.
(1) Nguyệt Viên: một địa điểm thuộc xã Hoằng Quang, huyện
Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
5. Ai ơi, trẻ mãi ru mà
279
Càng so sánh lắm, càng già mất duyên
Còn duyên nhƣ tƣợng tô vàng
Hết duyên nhƣ tổ ong tàn ngày mƣa
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên ngồi gốc cây hồng lƣợm hoa
Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên củ ráy dƣa hành cũng trôi
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên bán quán ngồi trông bộ hành.
6. Ai về nhắn nhủ ông câu
Cá ăn thì giật để lâu mất mồi -
Mất mồi này ta câu mồi khác
Cá biển hồ sao xác thiếu chi.
7. Ăn mít bỏ xơ
Ăn cá bỏ lờ, mình chớ hay quên
Mình quên ta chả cho quên
Mình nhớ, ta nhớ mới nên vợ chồng.
8. Ăn trầu ngƣời nhƣ chim mắc nhợ
Uống rƣợu ngƣời nhƣ cá mắc câu
Thƣơng em chẳng nói khi đầu
Để cho bác mẹ ăn trầu khác kơi
Đau lòng em lắm anh ơi!
Riêng em cứ quyết đợi ngƣời đấy thôi
Sông kia khi lở khi bồi
Thƣơng em lúc đứng lúc ngồi cũng thƣơng.
9. Anh ăn cơm cũng thấy nghẹn
Uống nƣớc cũng thấy nghẹn
Nghe lời em bậu hẹn, ra bãi đứng trông
Biển xanh bát ngát, nhìn không thấy ngƣời
Mênh mông sông nƣớc xa vời
Biết rằng còn nhớ những lời thể xƣa
Trông ai nhƣ cá trông mƣa
Ngày đêm tƣởng nhớ, nhƣ đò đƣa trông nồm
Bậu ơi! bậu có nhớ không ?
Anh trông ngóng bậu, nhƣ rồng ngóng mƣa.
10. Anh Ba yêu đến tôi chăng?
Gió đƣa trăng là trăng đƣa gió
Thung thăng cá vƣợt qua đăng
Xin đừng lắm chốn, nhiều nơi nhỡ nhàng.
280
11. Anh bứt cỏ ngựa(1) ngôi đầu cửa ngọ
Kẻ bắn con nây(2) ngồi cội cây non
Chàng mà đối đƣợc thiếp trao tròn một quan?
- Con cá đối(3) nằm trên cối đá Con mèo cụt(4) nằm trên mút kèo
Trai thanh tân đã đối đƣợc, tiền cheo mô mà?
(1) (2) (3) (4): Đây là cách nói lái của miền Trung khác với cách
nói lái miền Bắc.
12. Anh đi phe cá mũi Son
Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay
Móng tay, móng vắn, móng dài
Trồng một cây xoài trái chín trái chua.
13. Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giƣờng loan gối quế, mẹ già ai nuôi?
- Cá rô anh chặt bỏ đuôi
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
14. Anh đừng thấy cá phụ canh
Thấy toà nhà ngói, phụ tranh rừng già.
15. Anh mong bắt cá chuồn chuồn
Khi vui nó lội khi buồn nó bay
Chim trời cá nƣớc chi đây
Các lội đằng cá, chuồn bay đằng chuồn.
16. Anh mong gởi cá cho chim
Chim bay ngàn dặm cá chìm biển Đông.
17. Anh muốn câu con cá gáy bốn đòn
Con cá sơn, con cá móm anh ngồi bòn cũng ra.
18. Anh ngó lên trời thấy đám mây bạch
Anh ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi
Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc
Anh mảng thƣơng nàng biết đƣợc hay không ?
19. Anh ngồi bậc lở anh câu
Khen ai khéo mách, cá sầu chẳng ăn.
20. Anh ngồi trƣớc mũi ghe lê
Chớ em chi đặng ngồi kề một bên.
BK
Anh ngồi vực lở quăng câu
Khen ai xui giục con cá sầu không ăn
Con cá không ăn câu anh con cá dại
Con cá ăn câu anh thì có ngãi có nhân.
21. Anh tiếc ao cá nƣớc trong
Để cho bèo tấm, bèo ong dạt vào
Anh tiếc cái thuyền thúng mà chở đò ngang
281
Để cho thuyền ván nghênh ngang giữa dòng.
22. Anh tới đây đất nƣớc lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kiêng
Tới đây đầu lạ sau quen
Bóng trăng là nghĩa, ngọn đèn là duyên.
23. Anh trông em nhƣ cá trông mƣa
Ngày trông đêm tƣởng nhƣ đò đƣa trông nồm.
24. Anh trông em nhƣ cá trông mƣa
Nhƣ con trông mẹ chợ trƣa chƣa về.
25. Anh trông xuống sông
Buồm rung gió thổi
Kẻ lặn ngƣời lội
Kẻ chắn ngƣời đăng
Nƣớc bạc lăn tăn
Phao chìm chuyển động
Giật lên mau chóng
Kẻo cá nhả ra...
Mình lấy đƣợc ta
Bõ công ao ƣớc
Ta lấy đƣợc mình
Thoả dạ ƣớc ao
Bõ công anh đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi.
26. Anh về đi ngủ kẻo khuya
Xấu chuôm, cá chẳng vào đìa anh đâu!
- Xấu chuôm tốt cá, em ơi
Tốt chuôm mà nỏ có nơi cá nằm.
27. Anh về tìm vảy cá trê
Tìm gan tim thú tìm mề con lƣơn
Tìm cho con bún có xƣơng
Tìm dây tơ hồng có rễ em mà theo không ?
- Em về đánh kiểng la làng
Tới đây anh chỉ vảy cá trên vàng anh coi
Em đừng nói dại, nói khờ
Bún làm bằng bột ê hề xƣơng đâu.
28. Anh về xứ Đế thành Đô
Nhƣ cá Biển Hồ, bao thuở gặp nhau.
29. Ba tiền một khứa cá buôi
Cũng mua cho đƣợc mà nuôi mẹ già.
30. BK
(a)Bao giờ cá lí hoá long
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xƣa.
282
(b)Một mai con cá hoá rồng
Đền ơn cha mẹ bõ công sinh thành.
31. Bây giờ ta gặp nhau đây
Nhƣ con cá cạn gặp ngày trời mƣa.
32. Bấy lâu lên ngọn sông Tân
Muốn tìm cá nƣớc phải lần trời mƣa
Tiếc công anh đắp đập coi bờ
Để ai quảy đó, đem lờ đến đơm.
33. Bèo than phận bèo khi trôi khi nổi
Bí than phận bí, ngắt ngọn nấu canh
Anh than phận anh, vợ con chƣa có
Nay chọc ngƣời nọ, mai ghẹo ngƣời kia
Mắt nhìn em nhƣ súng nhìn bia
Bấy lâu con cá cựu ở đìa
Bao giờ con cá cựu trở về ao sâu?
BK
Bèo than phận bèo ở trên mặt nƣớc
Bí than phận bí, xắt nhỏ nấu canh
Anh than phận anh, vợ con chƣa có
Không ai coi đầu nọ, không ai ngó đầu kia
Anh chờ em nhƣ súng chờ bia
Tƣởng là cá nọ men đìa
Hay đâu cá nọ dứt lìa ao sâu.
34. Biển rộng thênh thang, con cá nằm ngƣợc
Cây cao chót vót điểu nọ nằm ngang
Tiếc vì xa xã ngái làng
Em muốn phân nhân ngãi sợ làng khó phân.
35. Biển sâu cá lội mất tăm
Dầu chờ dầu ngóng trăm năm cũng chờ
Sông sâu cá lƣợn lờ đờ
Dầu trông dầu đợi cho chí chờ trăm năm.
36. Biết thuở nào con cá nhào khỏi vực
Biết thuở nào hết cực thân em.
37. Bởi vì say thƣa nên chi sáo bổ
Cơ chi say dày, dông tố quản chi
Buồn tình cá bỏ cá đi
Ai ra đón ngăn cá lại, giữa chốn vọng trì khen cho.
38. Bông bống bồng bồng
Trai ơn vua chầu chực sân rồng
Gái ơn chồng ngồi võng ru con
Ơn vua xem trọng bằng non
283
Ơn chồng, nhờ phúc tổ tông dõi truyền
Làm trai lấy đƣợc vợ hiền
Nhƣ cầm đồng tiền mua đƣợc của ngon
Phận gái lấy đƣợc chồng khôn
Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hoa rồng
Bông bống bồng bồng
Bồng bống bồng bông.
BK
(a)Bông bống bồng bông
Trai ơn vua chầu chực sân rồng
Gái ơn chồng ngồi võng nuôi con
Ơn vua xem trọng bằng non
Ơn chồng nhƣ đức tổ tôn ghi truyền
Làm trai lấy đƣợc vợ hiền
Nhƣ cầm đồng tiền, mua đƣợc của ngon
Phận gái lấy đƣợc chồng khôn
Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hóa rồng.
(b)Làm trai lấy đƣợc vợ hiền
Bằng cầm đồng tiền mua đƣợc miếng ngon
Làm gái lấy đƣợc chồng khôn
Cầm bằng cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng.
39. Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chƣa mát dạ bằng anh thấy nàng.
BK
Bữa cơm có cá với canh
Anh không mát dạ bằng anh thấy nàng.
40. Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt
Buổi chợ tan rồi, con tép bạc cũng phải mua.
BK
Buổi chợ đông con cá hồng em chê lạt
Buổi chợ tan rồi con tép bạc em khen ngon.
41. Cơm chiên ăn với cá ve
Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.
42. Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no.
Cơm hẩm ăn với cá kho
Chồng xấu, vợ xấu, những lo mà gầy.
43. Cá bã trầu ăn bọt thia thia
Đôi ta thƣơng chắc, phận chia tại trời.
44. Cá bống đi tu
Cá thu nó khóc
284
Cá lóc nó rầu
Phải chi ngoài biển có cầu
Anh ra đến đó giải đoạn sầu cho em.
45. Cá buồn cá chạy thung thăng
Ngƣời buồn ngƣời biết than rằng cùng ai?
BK
(a)Cá buồn cá vƣợt qua đăng
Em buồn em biết than rằng cùng ai?
(b)Cá buồn cá lội tung tăng
Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?
46. Cá buồn cá lội thung thăng
Ngƣời buồn ngƣời biết đãi đằng cùng ai?
Phƣơng đông chƣa rạng sao Mai
Đồng hồ chƣa cạn, biết lấy ai bạn cùng!
47. Cá buồn cá vọt qua đăng
Em buồn em biết than rằng cùng ai!
Than rằng cùng trúc, cùng mai
Cùng cây gỗ táu, cùng cây ngô đồng
Xót xa nhƣ muối đổ vào lòng
Đắng cay nhƣ ngậm bồ hòn vẫn phải gƣợng vui.
48. Cá buồn cá vƣợt qua đò
Em buồn em biết hẹn hò cùng ai?
Hẹn hòn ông Nón(1) hôm mai
Sao cho em gặp chàng trai tốt hò.
(1) Hòn ông Nón: hòn đá lớn giữa sông, giống hình cái nón úp.
Hòn đá này ở quãng sông thuộc xã Quý Lƣơng, huyện Bá thƣớc,
Thanh Hoá.
49. Cá buồn cá vƣợt qua đò
Em buồn em biết chuyện trò cùng ai?
50. Cá chẳng ăn muối cá ƣơn
Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.
51. Cá đáy nƣớc, nhạn lƣng trời
Nhạn bay còn bắn đặng
Cá lặn còn dễ câu
Ngƣời đứng một bên, ai nào thấu nỗi lòng
E sau lòng lại đổi lòng
Ngƣời đời tham bƣởi bỏ lòng nhiều thay.
52. Cá không ăn câu là con cá dại
Câu anh này, câu ngãi câu nhơn!
Cái cần câu trúc
Cái ống câu trắc
285
Cái lƣỡi câu vàng
Cái đàn chỉ tơ
Sáng trăng anh câu nhởi ai ngờ bén duyên.
53. Cá lên khỏi nƣớc cá khô
Thƣơng em thì chớ loã lồ tiếng tăm
Vắng mặt qua lại hỏi thăm
Ghét nhau chi đó, mấy năm giân hờn?
- Chàng giận em lại cƣời luôn
Bớt giận, bớt hờn, xắm rắm với nhau
Thƣơng nhau ăn một trái cau
Giấu cha, giấu mẹ, ăn sau bóng đèn.
54. Cá lí ngƣ sầu tƣ biếng lội
Chim phụng hoàng vì cội biếng bay
Anh thƣơng em đừng vội nắm tay
Miệng thế gian ngôn dực(1), phụ mẫu hay rầy rà
Nếu mà thƣơng bữa lại qua
Thấu tai phụ mẫu đôi ta chia lìa
Anh với em nhƣ khoá với chìa
Nhƣ chìa với khoá không lìa mới hay
Nếu để mà cha mẹ em hay
Thời nghĩa nhân hai đứa phải càng ngày ắt xa.
(1) Ngôn dực: từ nhóm từ "ngôn dực trƣờng phi" nghĩa là lời nói
nhƣ có cánh có thể bay xa.
55. Cá lí ngƣ sầu tƣ biếng lội
Chim phụng hoàng sầu cội biếng bay.
BK
Con cá ngƣ sàu tƣ biếng lội
Con chim trên nhành sầu cội biếng bay.
56. Cá lƣỡi trâu dầm trong nƣớc mắm
Qua với nàng duyên thắm mấy trăng
Mẹ cha tuy chẳng bằng lòng
Đôi ta cố giữ chữ đồng trăm năm.
57. Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi
Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tui sầu mình
Tử sanh, sanh tử tận tình
Dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thƣơng.
58. Cá sầu ai chẳng quật đuôi
Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tôi sầu chồng.
59. Cá vàng lơ lửng giếng xanh
Thong dong chốn ấy một mình thảnh thơi
Ai ngờ cá lại ham mồi
286
Bỏ nơi mát mẻ, tìm nơi lạnh lùng.
60. Cá về biển Bắc hết trông
Em vào trong nớ, bỏ chồng cho ai?
61. Cái bống còn ở trong hang
Cái rau tập tàng còn ở nƣơng dâu
Ta về ta sắm cần câu
Câu lấy cá bống nấu rau tập tàng.
62. Cái cần câu trúc, anh đem bịt bạc
Cái chạc thật chắc, quăng sang bể bắc, câu con cá nƣớc Tề
Anh chộ em thân thiết nhiều bề
Ƣớc khi mô cho đƣợc nằm kề lƣng em.
BK
Cái cần câu bạc
Cai chạc câu chắc Quăng sang bể Bắc Câu con cá núi Tê
Anh chộ em thân thiết nhiều bề
Ƣớc khi nào, cho đƣợc nằm kề lƣng em.
63. Cái gì anh đổ vào bồ?
Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?
Cái gì anh thả vào xanh?
Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tƣơi?
Cái gì đi chín về mƣời?
Cái gì sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm?
Cái gì chung chiếu chung chăn?
Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?
- Lúa khô anh đổ vào bồ
Cau thì róc vỏ phơi khô để dành
Con cá anh bỏ vào xanh
Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tƣơi
Mặt Trăng kia đi chín về mƣời
Ông Bành Tổ sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm
Vợ chồng chung chiếu chung chăn
Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời.
64. Cầm chài mà vãi cá căng
Cá đi đƣờng cá chài phăng đƣờng chài.
65. Cầm chài mã vãi lỗ tre
Cá không thấy cá, lại nghe rách chài.
66. Cần trắc, ống trúc, chỉ bạc, tơ tàu
Sao không câu con cá rô biển, lại câu con cá rô bàu làm chi?
67. Canh một cho chí canh hai
Có ai vui thay nhƣ cá nƣớc, bạn xa nhau rồi bạn không nói trƣớc
cho em hay
287
Qua chuyến đò đầy nhớ nghĩa đó thay
Huống chi đôi đứa mình ơn trung nghĩa trọng ba bốn tháng rày nhớ
thƣơng.
68. Cây chi trên rừng không có lá
Cá chi dƣới biển không có sƣơng
Liễu mà thƣơng đƣợc thì thƣơng
Để chi chúng bạn, thế thƣờng cƣời chê.
69. Cây chi trên rừng không lá?
Con cá chi dƣới biển không xƣơng?
Trai nam nhân đối đặng thiếp kết nghĩa tào khƣơng với cùng
- Cây xƣơng rồng trên rừng không lá
Con sứa dƣới biển không xƣơng
Anh đà đối đặng phải kết nghĩa cƣơng thƣờng với anh.
70. Cha mẹ đòi ăn cá thu
Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.
71. Chăn đơn nửa đắp nửa hong
Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đƣờng ra lối vào
Làm cho quên cá dƣới ao
Quên sông tắm mát quên sao trên trời
Đất Bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lƣợc chẳng bén đàu, chỉ chẳng bén kim
Thƣơng nhau nên phải đi tìm
Nhớ nhau một lúc nhƣ chim lạc đàn.
72. Chàng về đƣờng trúc ngõ trắc
Khác chi biển bắc xa khơi
Thiếp đây khác thể chim trời
Chàng nhƣ cá nƣớc biết mấy đời gặp nhau!
73. Chẳng tham vựa lúa anh đầy
Tham năm ba chữ cho tày thế gian.
BK
a- Chẳng tham vựa cá anh đầy
- Chẳng tham bồ lúa anh đầy
b- Tham ba hàng chữ cho tày thế gian.
288
74. Chi ngon bằng gỏi cá nhồng
Chi vui bằng đƣợc tin chồng vinh qui.
75. Chị Xuân đi chợ mùa hè
Mua cá thu về chợ hãy còn đông
Anh Hƣơu đi chợ Đồng Nai
Bƣớc qua bến Nghé, ngóng ai đận đà.
76. Chiều nay ngƣời nghĩa xa anh
Chim sa cá lặn, kiểng đƣơng xanh vội tàn.
77. Chim bay cá lội chăn văn
Bao giờ đèn hiệp với trăng một nhà.
78. Chim bay về núi túi rồi
Em không lo liệu còn ngồi chi đây.
79. Chim bay về rú, về non
Cá kia về vực, anh còn đợi em.
80. Chim buồn chim bay vào núi
Cá buồn cá chúi xuống sông
Anh buồn uống chén rƣợu nồng
Em buồn em ăn một miếng trầu không giải buồn.
81. Chim chuyền bụi sậy
Cá quậy bụi sậy
Cá quậy bụi tùng
Anh thƣơng em thắm thiết vô cùng
Đĩa nghiên mài mực, tàm cùng bức thƣ.
82. Chim nhàn bắt cá lòng khơi
Thấy anh chàng chấu nhiều nơi em buồn.
83. Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
BK
Cá thia quen chậu vợ chồng quen hơi.
84. Có chà cá mới ở ao
Có em, anh mới ra vào chốn ni.
85. Có chuôm cá mới ở đìa
Có em anh mới sớm khuya chốn này.
86. Cô Xuân mà đi chợ Hạ
Mua một con cá thu về chợ hãy còn đông
Trai nam nhi đối đặng thiếp theo không chàng về
- Trai thanh nam ngồi hàng thuốc bắc
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dầy
Đối ra đáp đƣợc lúc này tính sao.
87. Con cá bống cát, nằm trên bãi cát
289
Con chim chài đậu chiếc thuyền chài
Anh với em nỏ thành gia thất vì ai?
Xƣa kia trúc đà làm bạn với mai một cành.
88. Con cá đối nằm trên cối đá
Con chim đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm, bát nƣớc, bọ kỉ trà ai bƣng?
89. Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối đƣợc, dẫu nghèo em cũng ƣng
Con mỏ kiến, đậu trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp dựa vồng lang
Đây anh đối đƣợc e nàng chẳng ƣng.
BK
Con cá đối nằm trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối đặng, dẫu anh nghèo em cũng ƣng
Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
Chim vàng lông đáp tại vồng lang
Anh đã đối đặng, e nàng vong ngôn.
90. Con cá hồng trừng ngoài biển Bắc
Con chim nhạn liệng tít mây xanh
Anh thƣơng em lâu cũng phải thành
Nhƣ chị Thôi Lƣợng lúc trƣơcƣ gặp anh Châu Kì.
91. Con cá rô thia nấp bụi rêu rong
Anh quăng cái mồi ngọc, con cá động lòng phải ăn.
92. Con cá thia lia, nó núp vũng chân bò
Em có chồng về bên nớ, ốm o gầy mòn.
93. Còn cha cơm trắng cá ngon
Ăn rồi lại giở bàn son con ngà.
94. Con chim đa mà đỗ cành đa
Cất tiếng gáy đa đa ích thiện (1)
Con cá ốc nằm dƣới vũng úc
Vãy đuôi lên úc úc hồ văn (2)
Rằng chàng là đấng văn nhân
Chàng mà đối đƣợc thiếp theo chân chàng về
Con muông mang ăn bụi chuối mang
Xuống uống nƣớc mang mang đại hải (3)
Con rắn lục leo cây liễu lục
Lên khỏi khoe lục lục kì công (4)
290
Ta nay là đấng anh hùng
Theo ta ta cũng rộng lòng bao dung.
(1) Đa đa ích thiện: nhiều bao nhiều tốt bấy nhiêu.
(2) úc úc hồ văn: lời văn ngào ngạt, chữ dùng để khem nền văn hoá
của nhà Chu.
(3) Mang mang đại hải; mênh mông biển cả.
(4) Lục lục kì công: công lao to tát thần kì.
95. Con chim phƣợng hoàng đậu hòn núi bạc
Con cá ngƣ ông móng nƣớc ngoài khơi
Gặp nhau đây phân giải đôi lời
Kẻo mai tê con cá kia trở về sông Vịnh, con chim nọ đổi đời non
xanh.
96. Con chim sa sả đậu trên cây sả
Con cá thia lia nấp bụi cỏ thia
Trách ai làm cho khoá rã chìa
Khi thƣơng tận, khi lìa lìa xa.
97. Con chim trên rừng kêu thánh tha thánh thót
Mẹ thƣơng con cắt ruột xẻ hai
Gái thƣơng trai đứng đƣờng đứng ngõ
Trai thƣơng gái tối mấy cũng đi
Con cá trƣơng vi vì hồ nƣớc chảy
Cần câu không gãy bởi ống tre cong
Mƣợn ngƣời mối lái cái sự cho xong
Để đem em về tề gia nội trợ coi trong coi ngoài.
98. Con chim trong lồng khôn bay lỡ nhảy
Con cá trong chậu khôn liếc lỡ trừng
Ngày xƣa kia em bảo anh đừng
Thƣơng làm chi đặng đó, nữa chừng lại thôi.
99. Con chim trong rừng, con chim đừng múa mỏ
Con cá dƣới vực, con cá chớ có phùng mang
Anh muốn nơi má ngọc mình vàng
Đây em than cho một tiếng con chim phƣợng hoàng cũng phải sa.
100. Con cò đậu cọc cầu ao
Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua
Sớm mai ra đứng cổng chùa
Trông ra Hà Nội thấy vua đúc tiền
Ngọn sông Điền vừa sâu vừa chảy
Anh đi kén vợ mƣời bảy năm nay
Tình cờ bắt gặp em đây
Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ mây gặp rồng
Mây gặp rồng, cơn dông cơn tố
291
Cá gặp nƣớc, cơn ngƣợc cơn xuôi
Chồng nam vợ bắc em ơi!
Đố em lấy đƣợc một ngƣời nhƣ anh.
BK
(a)Ruộng tƣ điền không ai cày cấy
Liệu cô mình ở vậy đƣợc chăng?
Mƣời hai cửa biển, anh cũng cắm đăng
Cửa nào lắm cá, anh quăng chài vào
Anh đi gáh nƣớc sông Đào vừa cao vừa chảy
Anh đi kén vợ mƣời bảy năm nay
tình cờ bắt gặp em đây
Nhƣ cá gặp nƣớc, nhƣ mây gặp rồng
Mây gặp rồng, cơn giông cơn tố
Cá gặp nƣớc, cơn ngƣợc cơn xuôi
chồng Nam vợ Bắc em ơi!
Đố em lấy đƣợc một ngƣời nhƣ anh.
(b) Con cò đậu cọc bờ ao
Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua
Sớm mai ra đứng cổng chùa
Trông ra Hà Nội thấy vua đúc tiền
Ruộng tƣ điền không ai cầy cấy
Liệu cô mình đứng vậy đƣợc chăng?
Mƣời hai cửa bể anh đã cắm đăng
Cửa nào lắm cá thì quăng chài vào.
101. Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên dầu rễ dƣa hành cũng xơi.
102. Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ.
103. Con gà cồ lại mổ bông kê
Ngựa nọ ăn cồn Mã, rồng về Cảnh Long
Dƣơng đi dê lại có vòng
Cá lên khỏi nƣớc cá hòng ngất ngƣ
Trai nam nhơn anh đà đối đƣợc, hỏi thiếp có giữ lời trƣớc không?
104. Con nƣớc chảy, bèo nọ có tua
Gặp ai tôi hỏi, hơn thua đôi lời
Ăn cơm sao đặng mà mời
Nƣớc mắt tra lai láng rã rời hột cơm
Mình ơi, đừng đặng cá quên cơm
Đôi ta gá ngãi danh thơm ở đời
Cóc nghiến răng còn động lòng Trời
Sao mình chẳng tƣởng mấy lời tôi thở than.
292
105. Công anh làm rể ba năm
Ăn những cơm hớt với hàm cá trê
Ba năm anh trở ra về
Cơm hớt phần chó, hàm trê phần mèo.
106. Công anh lên rừng đốn trúc
Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài
Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ
Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn
Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức
Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi
Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái
Đây cần câu nhân, cần câu ngãi
Đây cần câu phải cần câu khôn
Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng
Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu
- Con cá anh đạp nó đã có cặp
Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu
Anh về sửa lại lƣỡi câu
Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng?
107. Công anh xe chỉ uốn cần
Vì chƣng trời động con cá lần ra khơi.
BK
Ngồi buồn xe chỉ uốn cần
Chỉ xe chƣa đặng cá lần ra khơi.
108. Cồng cộc bắt cá dƣới bàu
Cha mẹ mày giàu, đám giỗ đầu heo
Cồng cộc bắt cá dƣới sông
Mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ.
109. Đàn ai khéo gảy tính tinh
Một đàn con cá nƣớc lặn ghềnh nó nghe
Con cá nó lội so le
Một đàn con cá lớn nó đè con cá con
Con cá nó vƣợt Vũ môn
Con chim nó ngậm mồi về tổ
Nó mớm con trên ngành
Ai về tin tức thăm oanh.
110. Đạn đâu mà bắn chim trời
Lƣới đâu mà thả những nơi cá thần
Một mai thiên hạ xoay vần
Con chim trời anh cũng bắt, con cá thần anh cũng câu.
111. Đào lí một cành, tơ trúc phiếm loan
293
Ban tối hôm qua, nguyệt lặn, bóng ông sao tàn
Đêm khuya thanh vắng khách hồng nhan lửng lờ
Cây xanh thì lá cũng xanh
Đã trót vin ngành thì hái lấy hoa
Cung đàn tỳ bà ai khéo gảy tang tình, tính tang
long ngâm hổ đối, cá cống xang hồ, cái hồ xang
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầu sƣơng.
112. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm
Phải đâu cua cá với tôm
Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.
113. Đắp đập thì có be bờ
Sóng gió chả có, sao lờ tôi trôi?
Con cá nó ở trong lờ
Nƣớc thì mặc nƣớc, đợi chờ lấy nhau.
114. Đất Lam Kiều (1) ngỡ ngàng khó bƣớc
Động Đào Nguyên (2) lạch nƣớc quanh co
Trách mình không đắn nỏ đo
Rã rời duyên nợ, oan chƣa, hỡi trời!
(1) Lam Kiều, cầu Lam: Lam Kiều, tên một chiếc cầu thuộc huyện
Lam Diễn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Theo Truyền Kỳ, dẫn
trong Thái bình quan kí. Bùi Hàng, ngƣời đời Đƣờng, gặp nàng
Vân Kiều và đƣợc nàng tặng một bài thơ trong đó có ý: Lam Kiều
chính là nơi động tiên. Bùi Hàng đi đến Lam Kiều gặp ngƣời đẹp
và Vân Anh (em Vân Kiều), hai ngƣời kết duyên và sau đó lên cõi
tiên. do điểm này. Lam Kiều cầu Lam đƣợc dùng để chỉ nơi ngƣời
đẹp ở hoặc để nói việc nhân duyên, việc trai gái gặp gỡ nhau mà
sau nên vợ nên chồng.
(2) Đào Động Nguyên: tên ngọn núi ở phía Tây Nam huyện Đào
Nguyên tỉnh Hồ Nam. Trung Quốc. Dƣới núi có động Đào
Nguyên.
Về động này, trong bài Đào hoa Nguyên kí, Đào tiêm có kể rằng:
"Một ngƣời đánh cá ở Vũ Lăng bơi thuyền ngƣợc dòng suối. Hai
bên đầy hoa đào. Đi mãi, ngƣời đấy đến một nơi có dân cƣ ăn mặc
theo phục đời Tần. Hỏi thăm mới biết họ tránh chế độ hà khắc của
Tần Thuỷ Hoàng đến đó ở đã nhiều đời rồi và sống ở đó rất sung
sƣớng hạnh phúc. Ngƣời đánh cá về thuật chuyện lại với mọi
ngƣời, về sau mấy lần muốn vào lại Đào Nguyên nhƣng tìm đƣợc
lối vào cửa động". Văn học cổ dùng Đào Nguyên để chỉ nơi có
cảnh đẹp, ngƣời đẹp, cuộc sống hạnh phúc, hoặc hoặc chỉ cõi tiên.
115. Đêm hôm qua nằm chốn nhà ngang
Rèm thƣa gió lọt dạ càng xót xa
294
Em thƣơng nhà anh không có đàn bà
Phòng khi có khách ai hoà đỡ anh
Anh cho em ghé lƣng vào
Phòng khi có khách em chào đỡ anh
Khách vào đánh cá nấu canh
Chanh kia muối nọ để dành chàng xơi
Em bƣng ra cái miệng em cƣời
Trƣớc đƣợc lòng khách, sau vui lòng chàng.
116. Đêm khuya thắp ngọn đèn chai
Quen o nốc đáy ăn hoài cá tƣơi.
117. Đêm qua bóc uốn (1) một mình
Nghe hơi sƣơng xuống nhớ tình nhân xƣa
Tình nhân xƣa bây giờ xa vắng
Nỗi mong chờ cay đắng riêng em
than ôi tăm cá bóng chim
Biết đâu đƣờng lối mà tìm hỡi ai!
(1) Bóc uốn: từ của nghề làm giấy.
118. Đêm qua khi lạnh khi lùng
Khi đắp áo ngắn, khi chung áo dài
Bây giờ mình đã nghe ai
áo ngắn chẳng đáp, áo dài chẳng chung
BK
Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn đêm chung áo dài
Bây giờ chàng đã nghe ai
áo ngắn chàng đắp áo dài không chung
Bây giờ sự đã nhạt nhùng
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Cá lên mặt nƣớc cá khô
Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm.
119. Đêm qua mới thật là đêm
Ruột xót nhƣ muối, dạ mềm nhƣ dƣa
Mong chàng nhƣ cá mong mƣa
Nhớ chàng nhƣ bữa cơm trƣa đói lòng.
120. Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ
Đêm đêm hƣớng dải Ngân Hà
295
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhƣng dạ chẳng mòn
Tào Khê nƣớc chảy vẫn còn trơ trơ.
121. Đến đây cận thuỷ xa ngƣ
Hỏi rằng cá đã vào lừ ai chƣa?
- Con cá đợi gió chờ mƣa
Trời chƣa phong vũ, cá chƣa vào lừ.
122. Đến đây hỏi bạn một lời
Ai đào sông cho cá lội, ai trổ trời cho chim bay?
123. Đến đây nƣớc thẳm non cao
Chim đôi cá lứa, lẽ nào chẳng vui.
124. Đèn nào cao bằng đèn Châu đốc
Đất nào dốc bằng đất Nam Vang
Một tiếng anh than
Hai hàng luỵ nhỏ
Anh có một mẹ già biết bỏ ai nuôi?
Nƣớc chảy xuôi, cá buôi lội ngƣợc
Anh muốn thƣơng nàng biết đƣợc hay chăng?
125. Đi ngang lên mũi xa kì
Ngó ra lao Ré xiết chi nỗi sầu
Kể sao cho xiết thƣơng âu
Ông bà ta trƣớc bây giờ ở đây
Cũng vì mƣa tạt gió này
Cho nên xiêu bạt chỗ này, chỗ kia
Thân ta nhƣ cá trong đìa
Việc quan chƣa thấu sớm khuya cũng buồn.
126. Đi qua nghe tiếng em đàn
Cá mƣời khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im.
127. Đố ai tìm vảy con cá trê vàng
Tìm gan co tép bạc, thời nàng theo không
- Chừng nào đá nổi vông chìm
Muối chua chanh mặn, thì tìm lấy anh.
128. Đó đây xa lạ chi nhau
Một sông cá lội một bàu chim ăn.
129. Đôi ta gặp nhau giữa đồng
Ngƣời dƣng ai biết vợ chồng ai hay
Bây giờ ta gặp nhau đây
Thuỷ chung ta ngỏ, lời nay trao lời
Kìa kìa cá cũng tốt đôi
Lúa kia con gái, cũng đến thời đâm bông.
130. Đôi ta nhƣ cá lờn mơn
296
Ở trên mặt nƣớc chờ cơn mƣa rào.
131. Đồn anh đi nghề đã tinh
Cá chi dƣới nƣớc một mình bốn tên?
132. Đón ngăn đƣờng sắt
Tôi hỏi gắt chung tình
Điểu xa mai, mai xa điểu
Tôi xa mình tại ai?
Cá sầu ai cá lại quạt đuôi
Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tôi sầu mình
Ngày sầu duyên, tối lại sầu tình
Nƣớc mắt ra lai láng nhƣ bình nƣớc nghiêng
Trách ai làm duyên phận đảo điên
Mình ơi!
Trai anh hùng chịu thảm, gái thuyền quyên chịu sầu.
133. Đồn rằng cá uốn thân cây
Đồn em hay hát, hát hay anh tìm.
134. Dòng nƣớc chảy xuôi, con cá buôi lội ngƣợc
Dòng nƣớc chảy ngƣợc, ông Nƣợc rƣợt theo
Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo
Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền.
135. Đốt than nƣớng cá cho vàng
Đem tiền mua rƣợu cho chàng uống chơi
Phòng khi có khách đến chơi
Cơm ăn, rƣợu uống cho vui lòng chàng.
136. Đũa vàng đầu bịt đầu sơn
Mấy lời bạn nói cảm ơn quá chừng
Đó xa nhân ngãi đó mừng
Đây xa nhân ngãi nhƣ gừng xát gan
Ngồi buồn nhớ bạn thở than
Kiểng xanh sao héo hỏi nàng tại ai?
Cá nằm trong chậu sè đuôi
Mình về ở bển cho tôi theo cùng.
137. Em có chồng còn nhỏ, nhƣ ngọn cỏ còn non
Loan phòng kia chƣa nhập, dạ còn nhƣ xƣa
- Đƣờng đi không lỡ cũng mòn
Lẽ đâu có lẽ hoa còn duyên tƣơi
Em nói ra sợ chúng bạn cƣời
Cá đôi ba buổi chợ, còn khoe tƣơi nỗi gì.
138. Em là con gái đến thì
Nhƣ con cá rô thia ăn vực, có khi hoá rồng.
139. Em là con gái nữ nhi
297
Sợi gai, mắt lƣới, chẳng bì cùng ai
Đôi bên bác mẹ thì già
Kiếm tí rùng rách để mà kéo tôm
Giêng, hai, ti tí giông nồm
Rùng đi ra bể, lại ồn lẩm doan(1)
Tháng ba anh xuống lƣới quàng
Cá xủ, cá xác, cá han, cá thiều.
Tháng tƣ anh mới xuống theo
Em rung lặng gió, ruốc kheo vào bờ
Đôi ta kết chỉ xe tơ
Ruốc ràm ngƣời đánh đổ bờ chan chan
Tháng năm te chạy hết ngàn
Cá trà(2) cũng lắm khơi đàng vào ra
Tháng sáu gõ đánh cá hoa
Cá bẹ, cá trắng cùng là thu lanh
Tháng bảy là tháng hiền lành
Lƣới khoai(3) đánh những lành canh, cá thè
Tháng tám nùng nục, tôm he
Lƣới dở(4) ra xuống Mả Nghè(5) cũng đông
Tháng chín là tháng giã sung
Bằng chặng, láo mắt cùng là láo tây(6)
Hồng hoa, cá ruối thiếu gì
Kể giống cá quí, kể chi cá chuồn
Tháng mƣời anh mới kể luôn
Câu bè ngƣời đánh những tuồng cá dƣa
Quí hồ phận đẹp duyên ƣa
Kìa nhƣ tôm sắt gặp dƣa tháng mƣời
Tháng một là tháng không vừa Rủ nhau mua cá câu dƣa để dành
Tháng chạp văng kéo lùng quanh
Cá cồi, cá nụ để dành tháng giêng.
(1) và (6): tên các loại cá.
(2) cá Trà: còn gọi là chim.
(3) Lƣới khoai: lƣới mắt nhỏ.
(4) lƣới dở: lƣới mắt vừa.
(5) Mả Nghè: ở gần bải biển Sầm Sơn, Thanh Hoá.
140. Em nhớ ngày nào bên ao cá lội
Anh chỉ, anh thề không lỗi nghĩa keo sơn
Mà giờ đây anh đã sang giàu
Anh quên đi lời hứa buổi ban đầu cùng em.
141. Em nhƣ cá lẹp rút xƣơng
Gặp ngƣời quân tử giữa đƣờng hỏi mua.
298
142. Em nhƣ cá lƣợn đầu cầu
Anh về lấy lƣới, ngƣời câu mất rồi
Nƣớc trong cá chẳng cắn mồi
Càng câu càng mất, càng ngồi càng khuya.
143. Em nhƣ cây cá giữa vời
Ai lanh tay đƣợc, ai chậm lời thì thôi.
144. Em nhƣ chim nọ đang bay
Anh nhƣ cá mắc rày lƣới giăng.
145. Em nhƣ con cá rô kia lóc vũng trâu đằm
Ngƣời mong thả lƣới, ngƣời nhằm buông câu
Em nhƣ con cá rô kia lóc vũng chân trâu
Ba bảy hăm mốt cái cần câu châu vào.
146. Em trông anh nhƣ cá trông sao
Nhƣ lệ trông lựu, nhƣ đào trông mƣa.
147. Gái đƣơng xuân đi chợ hạ mua con cá thu về chợ hãy còn đông
Ai nói với anh rằng em đã có chồng
Mà tức mình đổ cá xuống sông anh về?
- Gái nƣớc Nam buôn hàng thuốc bắc
Trai Đông sàng cảm động niềm tây
Tai anh nghe có đôi ba chốn xe dây
Anh tức mình đổ cá thử mẹ thầy ăn chi?
148. Gặp anh hỏi thiệt đôi lời
Ai đào sông cho cá lội, ai bẻ mạng chống trời cho chim bay.
149. Gặp em nhƣ cá gặp mồi
Đặng, không, anh cũng giỡn một hồi cùng em.
150. Giàn hoa bể cạn nƣớc đầy
Cá vàng hoá bạc chàng rày đối chi?
- Thuyền tình sao vắn sông sâu
Tầu đồng neo sắt gái đâu dám chèo.
151. Giếng sâu gàu xuống bấm boong
Đặng con cá trích phụ con cá sòng.
152. Giếng sâu thì phải thừng dài
Có khôn thì chịu khó ngồi cho lâu
Em chần chừ cũng chẳng đƣợc đâu
Sắm mồi mắc nhợ anh câu con cá này.
153. Hỡi cô cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây
Sang đây anh nắm cổ tay
Hỏi rằng duyên ấy tình này làm sao?
Cái gì là mận là đào
Cái gì là nghĩa tƣơng giao hỡi nàng
299
Phận gái lấy đƣợc chồng khôn
Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng.
154. Hỡi cô thắt lƣng bao xanh
Có về Vĩnh Đặng với anh thì về
Vĩnh đặng có gốc bồ đề
Có ao thả cá có nghề khâu ren.
155. Hồm nay lan huệ sánh bày
Đào đông ƣớm hỏi liễu tây một lời
Lạ lùng ƣớm hỏi nhau chơi
Một mai cá nƣớc chim trời gặp nhau.
156. Kẻ bứt cỏ ngựa ngồi đầu cửa ngọ
Ngƣời bắn con nây(1)ngồi cậy cây non
Chàng mà đối đƣợc thiếp trao tròn một quan.
Con cá có đối nằm trên mút kèo
Trai thanh tân đã đối đƣợc, tiền cheo mô nà?
(1) Con nây: con nai.
157. Khi đầu thiếp tính đi về
Bây giờ thiếp phải liệu bề ra đi
Khi hồi thiếp tính đi ra
Bây giờ thiếp phải liệu bề đi lui
Kêu chi ai hỡi là ai!
Thân này dạ chịu lạc loài thì thôi
Khen ai miệng mật khéo dồi
Cắt lìa ân ái nhƣ mài lƣỡi gƣơm
Trách ai đặng cá quên nơm
Đặng chim quên ná, mai hôm khác lòng
Giận ai chƣa thoát khỏi vòng
Đem dây thối địt lại tròng vào lƣng
Thƣơng ai công khó nửa chừng
Trăm năm rơi luỵ, tang thƣơng một giờ.
158. Lá thắm đã trôi về bến khác
Tơ đào này buộc lạc nhau rồi!
Khuyên ai đừng có nhiều lời
Em nhƣ cá đã mắc mồi rồi đâu!
159. Làm chi cao cách rứa bạn mồ
Thiếu chi nơi cho én đậu, thiếu chi hồ cho cá ăn.
160. Lắng nghe nàng nói nhƣ màu
Tháng chạp rùng kéo cá rầu, lành canh
Bẹ dày cho chí thu lanh
Cá lẹp, tôm sắt lại dành hố đao
Hố rồng, hố hột(1) nhiều sao
300
Đắt thì anh bán, rẻ vào thùng khoang
Bổng nay gặp đƣợc cô nàng
Con nhà thảo thuận trong làng xƣa nay
Chƣa ai kết ngãi xƣớng tuỳ
Hay là bác mẹ nay thì cấm ngăn Hay là ông Nguyệt dùng dằng
Mà xe anh lại chơi trăng trƣớc nhà?
Nàng về thƣa với ông bà
Để anh kiếm lễ lên nhà vấn danh.
BK
Lắng nghe nàng nói cũng xinh
Một chạp gõ lại giao đanh ca mòi.
Ai ơi, đứng lại mà coi
Thợ chèo, bạn ngoáy ngoài khơi cũng tình
Khen thay chút nỗi cô mình
Thuyền kia mỏng lái, lênh đênh giữa vời
Thợ tài, bạn mạnh, mình ơi
Thƣơng em là gái nắng nôi dãi dầu.
161. Lấy anh ăn cháo hột đào
Uống chè Tiên tử nằm võng đào màn the
Qua đông rồi lại sang hè
Rồi anh lại sắm nhiều the cho nàng
Thoạt tiên anh sắm một cái nhà ngói năm gian
Tứ vi bít đốc cửa bàn, nàng ơi!
Gian giữa anh để thờ Trời
Hai gian để khách vãng lai ra vào
Một gian cung cấm động Đào
Một gian để lối đi vào Thiên Thai
Vƣờn anh những trúc cùng mai
Quít cam cùng bƣởi lại hai cây hồng
Hoa thiên lí, giàn trầu không
Cá vàng thả bể, em trông cho tƣờng
Sắm lƣợc anh lại sắm gƣơng
Ông vôi bình phấn, khăn vuông bịt đầu
Dao chuôi ngà em lấy bổ cau
Xà cừ khảm tráp đựng trầu đi chơi
Tràng kỉ anh sắm một đôi
Chấn song con tiện hành ngơi trong nhà
Đồng hồ treo cột giữa nhà
Mâm son, bát bít, đũa ngà thiếu chi
Sắm cho em sập đá chân quì
án thƣ dàn mặt, em thì ngồi chơi
301
Lại nuôi mấy đứa ở bồi
Sớm trƣa cơm nƣớc hầu tôi với nàng.
162. Lấy chồng Trịnh Mễ(1) làm chi?
Đồng sâu ruộng hiếm, lội khe trèo rừng
Ở đây cơm chạu(2) cá chƣng (3)
Tha hồ chả phải cầm chừng mà lo.
CDTH 4
(1) Trịnh Mễ: một làng ở chân núi Nƣa, Thanh Hoá.
(2) Cơm chạu: là cơm gạo chạu, một thứ gạo nhƣ gạo dự, gạo
chăm.
(3) Cá chƣng: cá xắt khúc kho kĩ.
163. Lỗi lầm vì cá trích ve
Bát đầy thì ít, bát vơi thì nhiều.
164. Lòng riêng nhớ mẹ thƣơng cha
Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu
Trong vòng binh lửa dãi dầu
Bơ vơ lƣu lạc bạn bầu cùng ai.
165. Lƣỡi câu anh đã uốn vừa
Sợ lòng bác mẹ lọc lừa nơi nao
Bắc thang lên hỏi thiên tào
Rằng cô bán cá rẽ vào duyên ai(1)
(1) Rẽ vào duyên ai: ngƣời ấy sẽ lấy ai?
166. Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Má ơi đừng đánh con hoài
Để con câu cá nấu xoài má ăn.
BK
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt cá nấu xoài má ăn.
167. Má ơi, đừng đánh con hoài
Để con đi câu cá nấu xoài má ăn.
168. Mắm ngon chấm cá liệt
Em có chồng rồi bảo thiệt anh hay.
169. Mấy đời chỉ trắng bằng vôi
Ai thƣơng ai nhớ bằng đôi đứa mình
Bạn ơi! thức ngủ làm thinh
Dậy đây anh kể sự tình cho nghe
302
Ai làm chén nọ xa ve
Mùa thu đón đợi, mùa hè ngóng trông
Tam tứ bề yến bắc nhạn đông
Làm sao cho cá chậu xa chim lồng, hỡi ơi!
170. Mấy khi nam nữ đua đờn
Cá vui với nƣớc, sóng dờn với mây.
171. Mấy lâu cách trở giang biên
Cá sầu không lội, chim phiền không bay.
172. Mẹ ơi! đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Mẹ ơi! đừng đánh con khờ
Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn.
173. Mẹ em muốn ăn cá thu
Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm
Mẹ em thách cƣới một trăm
Anh đi chín chục, mƣời lăm quan ngoài.
174. Mình buồn tôi dễ chẳng buồn
Cá sông biếng lội, chim trên nguồn biếng bay.
175. Mình đừng đặng cá quên nơm
Đôi ta gá nghĩa danh thơm ở đời
Cóc nghiến răng còn động lòng Trời
Sao mình chẳng tƣởng mấy lời tôi than?
Đờn tranh dây xế, dây xang
Anh còn thƣơng bạn, bạn khoan lấy chồng.
176. Mình em nhƣ cá giữa rào
Kẻ chài ngƣời lái biết vào tay ai.
177. Mình em nhƣ cá hoá long
Chín tầng mây phủ ở trong da trời
- Anh đây lục trí thần thông
Vạch mây đón gió bắt rồng cỡi chơi.
178. Mình em nhƣ con cá giữa vời
Ai mau tay thì đƣợc ai chậm lời thì thôi.
179. Mình em nhƣ con cá trong thùng
Ai khéo nơm thì đƣợc, ai vẫy vùng thì bƣơng.
180. Mình rằng mình quyết lấy ta
Để ta hẹn cƣới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chƣa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
303
Ta lại vật nài cho đến tháng tƣ
Tháng tƣ ngày chẵn tháng dƣ
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đằm
Ta hẹn mình rằm tháng sáu mình lên
Tháng sau lo chửa kịp tiền
Bƣớc sang tháng bảy lại liền mƣa Ngây
Tháng bảy là tháng mƣa Ngâu
Bƣớc sang tháng tám là đầu trăng thu
Bƣớc sang tháng chín mù mù mƣa rƣơi
Tháng chín là tháng mƣa rƣơi
Bƣớc sang tháng mƣời đã đến mùa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Nhƣ chim trong lồng, nhƣ cá cắn câu.
181. Mồ côi cha đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.
182. Mù u nhỏ rễ ăn bàn
Sợ mình nói gạt, qua đàng đó thôi
Phụng hoàng chắp cánh bay xuôi
Liệu bề thƣơng đặng mình ơi tôi chờ
Nƣớc lên khỏi bực tràn bờ
Thƣơng thì thƣơng vậy, biết chờ đặng không?
Đặng không, tôi cũng gắng công
Đợi bao con cá hoá rồng sẽ bay
Gặp mình thôi may quá là may
Trông mong cho trời tối để bắt tay đặng về.
183. Mƣa dông nắng đất, cá cất len đồng
Chị em ngƣời ta có chồng lả rả
Mình không lấy chồng còn đợi ai chăng?
Tối trời đom đom chớp giăng
Xa em một bữa mấy cái khăn ƣớt dầm.
184. Mƣa từ Ba Dội(1) mƣa ra
Mƣa khắp thiên hạ, mƣa qua Đồn Vàng(2)
Gió đƣa quanh đƣa về Hùng Nhĩ(2)
Bây giờ đây anh nghĩ làm sao?
Trận này rồng cá kết giao.
(1) Ba Dội: đèo Ba Dội thuộc tỉnh Ninh Bình, giáp với Thanh Hoá.
(2) Đồn Vàng: Đồn của Pháp lập ra, trƣớc đây ở huyện lị Thanh
Sơn, tỉnh Vĩnh Phú, nay là nông trƣờng Phú Sơn
(3) Hùng Nhĩ: xƣa là Hùng Nhĩ thuộc huyện Thanh Sơn, thƣờng
kết nghĩa với xã Bảo Vệ, huyện Tam Nông(cũ), Vĩnh Phú. Nhƣng
304
xã này xƣa kia thƣờng năm nào cũng tổ chức hát ghẹo với nhau.
185. Mùa xuân nói với mùa thu
Đứa khôn nói với đứa ngu cực lòng
Tƣởng là bột lọc nấu với nƣớc lạnh trong
Hay đâu bột lọc nấu với rau rong ngoài đìa
Chén bịt lại dọn bằng nia
Độc bình khay cẩn dọn rìa chõng tre
Tiếc con chim phƣợng hoàng ở lộn với le le
Chiếu bông để tạm ngoài hè khó coi
Bột sam nấu với măng vòi
Bún tàu lại nấu với cá mòi nhãi ranh
Tiếc duyên nàng gặp đến anh
Gặp chị không xứng, thất thanh thiên hạ cƣời.
186. Mừng chàng nho sĩ đến chơi
Vũ Môn cá nƣớc thảnh thơi đua tài
- Mừng nàng chân giậm tay đƣa
Miệng cƣời mắt liếc, tình tơ tơ tình
- Mừng chàng bƣớc tới Kim Liên(1)
Bạch liên trắng bạch, hồng liên đổ hồng
- Mừng nàng dựa áng xuân tiêu
Thanh tiêu xanh biếc, tử tiêu tía vàng.
(1) Kim Liên: một làng ở Nam Đàn, trƣớc đây có bàu Đầm trồng
rất nhiều sen.
187. Mƣời giờ cửa bể, cô nàng!
Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào
Mƣời hai cửa bể, nàng ơi!
Gửi thƣ thƣ mất, gửi lời lời bay.
188. Muốn ăn cơm trắng cá chim
Thì về thụt bễ, đi rèn với anh.
189. Muốn ăn cơm trắng cá kho
Trốn cha chốn mẹ xuống đò cùng anh.
190. Muốn ăn cơm trắng cá thèn
Thì về Đa Bút(1) đi rèn với anh
Một ngày ba bữa cơm canh
Tối về quạt mát cho anh ngồi rèn.
(1) Đa Bút: một thôn ở phía đông nam huyện Vĩnh Lộc, Thanh
Hoá. Trƣớc đây Tống Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp lấy Đa Bút
làm một cứ điểm. Có ngƣời cho Đa Bút ở Hậu Lộc, Thanh Hoá.
191. Nàng đứng ở đó làm chi
Nàng về bể mà đi kéo rùng
Nhà tôi nghề giã, nghề sông
305
Lặng thì tôm cá đầy trong, đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn nhƣ cá lẹp, cá mai cũng nhiều
Quí hồ nàng có lòng yêu
Cái đƣờng đi lại còn nhiều khi ta
Nàng về thƣa với ông bà
Có cho nàng lấy chồng xa hay đừng?
192. Nàng nhƣ chim nọ đang bay
Anh nhƣ con cá mắc rày lƣới giăng.
193. Nào khi thiếp một đàng, chàng một ngả
Bầng khuâng nhƣ con cá hiệp vầy
Thiếp gặp đặng chàng giữa hội trời mây
Trƣớc là họi ngộ sau kết nghĩa sum vầy nợ duyên.
194. Ngày ngày ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao, sao mờ
Trông ngƣời, ngƣời vẫn làm ngơ
Trông sao, sao mờ, em biết trông ai!
Răng đen còn có khi phai
Má hồng khi nhạt, tóc dài khi thƣa
Ở đây lấy đấy đƣơng vừa
Ngƣời còn kén chọn hay lừa nơi nao?
195. Nghe tin anh buôn bán tài tình
Đố anh đếm đƣợc con cá kình mấy xƣơng?
- Em về đếm mạ trỉa nƣơng
Thì đây anh đếm đƣợc mấy xƣơng con cá kình.
196. Nghe tin anh hay hát hay hò
Đố anh đếm đƣợc cổ cò mấy lông
- Em về đếm cá dƣới sông
Anh đây sẽ đếm đƣợc lông cổ cò.
197. Nghĩ con cá lí ngƣ nó cũng không nhƣ thân thiếp
Chờ cho mãn kiếp tu đƣợc hoá rồng
Thôi anh đừng mong vợ mong chồng
Để cho em xa lánh bụi hồng gió trăng.
198. Ngó lên trên trời thấy cặp cu đƣơng đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đƣơng đua
Biểu em về lập chùa thờ cha.
BK
Ngó lên trời thấy cặp cu đƣơng đá
Ngó xuông biển cặp cá đƣơng đua
Anh về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
306
199. Ngó lên trời thấy một đám mây bạch
Ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi
Nƣớc chảy xuôi, cá buôi lội ngƣợc
Anh mảng thƣơng nàng biết đƣợc hay không?
200. Ngó lên trời thấy sao, trăng tứ viện
Ngó ra ngoài biển thấy chim liệng, cá đua
Em thề với anh cho biết miễu, hết chùa
Ai cho em uống một thang thuốc bùa mà em mê?
201. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Biết rằng chừ cá gáy hoá rồng
Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xƣa.
202. Ngó ra ngoài biển mù mù
Thấy anh câu đục, câu đù(1) mà thƣơng.
(1) Đục, đù: 2 loại cá nhỏ, rẻ tiền.
203. Ngó ra ngoài biển mù mù
Ngồi buồn xe chỉ, chạm dù cánh dơi
Bƣớm bay mỏi cánh bƣớm rơi
Cá đua hết nƣớc tìm nơi vũng chà
Hồi nào em thề nguyện với qua
Bây giờ em dứt nghĩa, em ra lấy chồng.
204. Ngồi buồn bắt cá câu chình
Suy qua nghĩ lại chạnh tình ngƣời xƣa.
205. Ngồi buồn chặt thép uốn câu
Đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi
Trải chiếu ra ngồi
Bờ sông đủng đỉnh
Là chốn thanh nhàn
Là chốn ngao du
Cá vƣợc cá thu
Nghe mồi tìm lại
Cá ở dƣới bãi
Cá trắng nhƣ bông
Anh trông xuống sông
Buồm rung gió thổi
Kẻ lặn ngƣời lội
Kẻ chắn ngƣời đăng
Nƣớc bạc lăn tăn
Phao chìm chuyển động
Giật lên mau chóng
Kẻo cá nhả ra
307
Mình lấy đƣợc ta
Bõ công ao ƣớc
Ta lấy đƣợc mình
Thoả dạ ƣớc ao
Bõ công anh đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi.
206. Ngồi buồn chặt thép uốn câu
Chặt cần, xe chỉ, buộc phao, mắc mồi
Trải chiếu ra ngồi bờ sông bến mát
Anh ngồi trên bến, cát trắng nhƣ bông
Anh mang xuống sông, buồm rung gió thổi
Kẻ lặn ngƣời lội, kẻ chắn ngƣời đăng
Nƣớc đục băng lăng, phao chìm cần động
Giật lên mau chóng, kẻo cá nhả mồi
Mình lấy đƣợc ta, bõ công ao ƣớc
Ta lấy đƣợc mình, khỏi ƣớc không ao.
207. Ngồi buồn giở sách ra coi
Tuổi anh tuổi Ngọ, tuổi tôi tuổi Mùi
Hai ta tốt lứa đẹp đôi
Rồng mây cá nƣớc duyên Trời đã xe.
208. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xƣa
Miệng nhai cơm búng, lƣỡi lừa cá xƣơng.
209. Ngồi buồn xe chỉ uốn câu
Chỉ xe chƣa đặng, cá lần ra khơi.
210. Ngồi rồi chăn chiếu trải êm
Chiếu trải nằm thềm, muỗi cắn tứ tung
Yêu nhau thì bảo nhau cùng
Tôi nhắn lời nọ, ngƣời dùng lời kia
Vì chuôm cho cá bén chà
Vì ngƣời tôi đƣợc vào ra chốn này.
211. Ngồi trên hòn đá buông câu
Bởi vì ai xui giục, cá sầu không ăn.
212. Ngóng lên rừng thấy con chim chiền chiện
Ngóng xuống bể thấy cá liệng tứ bề
Ƣớc sao đặng chữ phu thê
Anh chồng em vợ đi về đôi ta.
BK
Ngó lên rừng thấy con chiền chiện
Ngó xuống biển thấy cá liệng tứ bề
Mong sao trọn nghĩa phu thê
Anh chồng em vợ đi về có nhau.
213. Ngƣời ngoan lên bãi hái chè
308
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi
Chim khôn chết mệt vì mồi
Ngƣời khôn chết mệt vì lời nhỏ to
Chim khôn tránh lƣới mắc dò
Cá khôn tránh mãi, lững lờ mắc đăng
Ngƣời ngoan yêu đến tôi chăng?
214. Ngƣời ta chọn cá nấu canh
Em đây chỉ chọn một anh tƣợng đồng.
215. Nhà ngƣời có bụi chuối non
Tôi xin đánh tỉa trăm con về trồng
Nhà ngƣời những trúc cùng thông
Hoa lan, hoa huệ, hoa hồng nở ra
Nhà ngƣời ở gần hay xa?
Cách tổng, cách xã, hay là cách sông?
Xa xôi cách mấy quãng đồng?
Để tôi bỏ việc, bỏ công đi tìm
Tìm ngƣời nhƣ thể tìm chim
Chim ăn bể bắc, tôi tìm bể đông.
BK - Sau dòng này, có nơi hát thêm:
Tìm ngƣời nhƣ vợ tìm chồng
Bây giờ cá nƣớc chim lồng gặp nhau.
216. Nhạn lạc bầy hai ngả kêu sƣơng
Cá ao hồ trông nguyệt, đêm trƣờng qua trông em.
217. Nhiều ngƣời một mặt hai lòng
Nói thì nói vậy, chớ không giữ lời
- Em đừng nghi ngại em ơi!
Lòng em chứng có đất trời thấu tri
- Chớ thề chớ thốt làm chi
Miễn là lời hứa nhớ ghi cho bền
- Chứng cùng thiên hạ địa đôi bên
Nỡ nào ở bạc mà quên cho đành
- Thƣơng sao thƣơng mặt, thƣơng đành
Hay là căn nợ để dành cho tôi
- Phụ mẫu già để lại tôi nuôi
Bấy lâu cam chịu cui côi một mình
- Vô duyên thác trƣớc cho trọn tình
Phụ mẫu rằng:"Bởi sầu mình thác oan"
- Mình sầu còn chỗ thở than
Tôi sầu chẳng khác nhang tàn đêm khuya
- Cá bã trầu ăn bọt thia thia
Đôi ta thƣơng chắc, phân chia tại trời
309
- Đêm khuya thơ thẩn mình tôi
Ruột bầm gan tím vì lời mình than
- Đàn kêu cống xự hồ xang
Lòng tôi thƣơng bạn, biết chăng bạn vàng?...
218. Nhìn nàng nƣớc mắt thấm bâu
Nhạn bay cao bắn với, cá ở ao sâu câu ngầm.
219. Nhìn nàng nƣớc mắt thấm bâu
Nhạn bay bắn với, cá ở ao sâu câu ngầm
Bởi nghe ai dối trá mắc lầm
Vàng rơi khó kiếm, chân trầm khôn theo.
220. Nói mà chơi vậy chớ, gió thổi hiu hiu
Lục bình trôi riu ríu
Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình
Con nhạn ba cao khó bắn
Mà con cá ở ao huỳnh cũng khó câu.
221. Núi kia ai đắp nên cao
Sông kia bể nọ ai đắp mà sâu?
Vì ai cá chẳng bén câu
Lƣợc chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim
Muốn ăn mơ nổi mận chìm
Anh cũng lặn lội đi tìm về cho
Thế gian thấy bán thì mua
Biết rằng mặn nhạt chát chua nhƣờng nào.
222. Nƣớc chảy re re, con cá he nó xoè đuôi phụng
Anh xa em rồi, trong bụng còn thƣơng.
223. Nƣớc chảy xuôi con cá buộc lội ngƣợc
Nƣớc chảy con cá vƣợc lội ngang
Hẩm hiu thiếp chẳng gặp chàng
Thôi thì coi nhau nhƣ Lƣu Bình Dƣơng Lễ, cho trọn vẹn cả hai
đàng đó anh.
224. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc
Nƣớc chảy ngƣợc con cá vƣợc lội xuôi
Anh với em xa cách ngậm ngùi
Mong cho gặp mặt xác vùi cũng ƣng.
225. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc
Nƣớc chảy ngƣợc, con cá vƣợc sang ngang
Thuyền em vào bến Lại Giang(1)
Sao thuyền anh lại ngƣợc đàng Quảng Nam
Hay là anh đã ra dạ phụ phàng?
(1) Lại Giang: bến sông ở Bình Định.
226. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc
310
Nƣớc chảy ngƣợc con cá vƣợc lội ngang
Thuyền em cập bến Thuận An
Thuyền anh lại vƣợt lên ngàn đó anh ơi!
227. Nƣớc đứng mà đựng chậu thau
Tiếc mâm sơn tử đơm rau thài lài
Tiếc em da trắng tóc dài
Cha mẹ ép gả cho ngƣời phàm phu
Mình vàng xuống tắm ao tù
Ngƣời khôn ở với đứa ngu bực mình
Qua đình nghiêng nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu
Khi nào nƣớc đục cơm thiu
Chồng con chƣa mấy, bỏ liều cho ta
Trông em chẳng thấy em ra
Anh ngồi anh đợi sƣơng sa lạnh lùng
Đêm nằm cởi áo đắp chung
Sao em không đắp lại vùng áo đi
Thƣơng em kịp thuở thì xuân xanh
Bữa cơm có cá có canh
Sao không mát dạ, vƣơng anh làm gì.
228. Nƣớc không chân sao rằng nƣớc đứng
Cá không giò sao gọi cá leo
Anh mà đáp trúng, em thả chèo đợi anh
- Ghe không tay, sao kêu ghe vạch
Bánh không cẳng, sao gọi bánh bò
Anh đã đáp trúng nói ngay giờ em nghe.
229. Nƣớc lên bè anh xuôi
Một đàn cá gáy(1) vẫy đuôi hồng hồng
Gái em chƣa chồng
Là hoa dâm bụt
Trai anh chƣa vợ
Là búp măng tơ
Anh đánh bàn cờ(2)
Bên nam bên nữ
Trong sách có chữ:
Chữ hiếu chữ trung
Ngồi giữa đình trung
Bao lơn con tiện(3)
Chiếu anh chiếu miến(4)
Võng anh võng đào
Làng nƣớc trông vào
311
Con nhà phú quí
Con tốt con sĩ
Kéo ra hai hàng
Pháo mã dàn ngang
Cho xe lội nƣớc(5)
Rƣớc xe về thành(6)
Ai về quê cũ với anh thì về?
Có sập để kề
Có võng mắc ngang
Giƣờng trên phản dƣới
Cây cam rƣời rƣợi(7)
Trƣớc cửa anh ra
Của bác mẹ ta
Với lại của anh tƣơng tậu(8)
Đôi bên giƣờng dạo(9)
Trong sáo ngoài màn
Muốn lấy chồng quan
Lên voi xuống ngựa
Muốn lấy chồng chúa?
Quạt đỏ tàn xanh
Em thuận lấy anh
Dầm mƣa dãi nắng
Nắng đổ lên đầu
Mồ hôi đổ xuống
Thƣờng an em luống
Ra ngẩn vào ngơ
Lênh đênh duyên hững phận hờ
Bè xuôi nƣớc ngƣợc bao giờ gặp nhau!
(1) Cá gáy: cá chép.
(2) Đánh bàn cờ: có nghĩa là chơi cờ.
(3) Bao lơn: lan can, can tiện, những chấn song tiện bằng gỗ, đóng
vào bao lơn.
(4) Chiếu miến: một loai chiếu tốt, làm bằng cói nhỏ và trắng, dệt
rất công phu.
(5) Xe lội nƣớc: cho con xe(tên một quân cờ) sang hà (ranh giới
giữa 2 thế trận trong bàn cờ).
(6) Thành: vì trí và đƣờng đi của tƣớng sĩ trong bàn cờ.
(7) Rƣời rƣợi: xanh tốt và rƣờm rà.
(8) Tƣơng tậu: mua sắm.
(9) Giƣờng dạo: chỉ chung giƣờng chiếu; từ dạo dùng nhƣ một từ
đệm.
312
230. Nƣớc lên cho bóng lên theo
Anh giàu có của, em nghèo có công.
BK
Nƣớc lên cho cá lên theo
231. Nƣớc lên con cá đối theo lên
Nƣớc rặc(1), con cá đối nằm trên miệng bờ
Thƣơng con cá kia khỏi nƣớc chịu khô
Thƣờng cho anh những trông chờ uổng công.
(1) Rặc: cạn khô
232. Nƣớc lên đầu cống chảy xuôi
Có con cá gáy đỏ đuôi hồng hồng
Gái em chƣa chồng, còn mong đi chợ
Trai anh chƣa vợ, mong mỏi làm sao
Miếng trầu anh trao
Lòng em chƣa mộ
Giàu duyên, giàu số
Giàu mẹ, giàu cha
Giàu đâu đến ta
Mà ta lƣỡng lự
Mƣời lăm mƣời bảy
Làm chả nên giàu
Nói có trƣớc sau
Cho chị em biết
Vâng thì ăn hết
Nghĩa ở đang còn
Ra đàng hỏi con
Nào ai hỏi của
Hỏi thật em rày
Mấy gái mấy trai
Lời nói thƣa ngài:
Trai năm gái bảy
Trai thời học chữ
Gái giữ nghề buôn
Lấy đâu dâu khôn
Xem bằng con gái
Chàng rể có ngãi
Xem bằng con trai
Em tham giàu để khó cho ai?
233. Nƣớc lên khỏi bậc tràn bờ
Thƣơng thì nói vậy, biết chờ đặng không?
Đặng không tôi cũng gắng công
313
Chừng nào ao cá hoá rồng sẽ hay.
234. Nƣớc mắm ngon chấm con cá liệt
Em có chồng rồi nói thiệt anh hay.
235. Nƣớc mắm ngon dầm con cá đối
Nhắn với nàng đợi tối anh qua.
236. Nƣớc ngƣợc, con cá vƣợc(1) cũng hồi đầu(2)
Lòng em nhƣ đá tảng(3), khiến anh sầu lắm thay
Chốn này nƣớc nƣớc, mây mây
Chim đàn cá lũ, anh chẳng khuây chút nào.
(1) Cá vƣợc: một loại cá khoẻ, dữ ở nƣớc ngọt.
(2) Hồi đầu: quay đầu trở lại.
(3) Đá tảng: phiến đá vuông kê dƣới chân cột nhà cho vững. Lòng
nhƣ đá tảng ý nói vững vàng, khăng khăng không lay chuyển đƣợc.
237. Nƣớc sông còn đỏ nhƣ vang
Nhiều nơi lịch sự hơn nàng, nàng ơi
Nƣớc sông cuồn cuộn chảy xuôi
Có con cá giếc đỏ đuôi theo mồi.
238. Nƣớc sông cuồn cuộn chảy xuôi
Có con cá giếc đỏ đuôi theo mồi
Gặp em, thấy khéo miệng cƣời
Thấy xinh con mắt, thấy tƣơi má hồng.
239. Nƣớc trong cá chẳng ăn mồi
Đừng câu mà mệt, đừng ngồi mà trƣa.
240. Nƣớc trong cá lội thấy vi
Anh câu không đƣợc cũng vì sóng xao.
241. Nƣớc trong cá lội, thấy kì
Thấy em ăn nói ngoan nghì anh thƣơng.
242. Nƣớc trong cá lƣợn bên bờ
Hỏi em mấy tuổi mà chƣa lấy chồng?
243. Nƣớc trong giếng đá, cá lội thấy hình
Thấy em có nghĩa, động tình anh thƣơng.
244. Nƣớc trong xanh thả con cá vàng
Nào ai đánh đục cho chàng ngẩn ngơ.
245. Nƣớc trong thấy cát mờ nờ
Bủa câu đã lỡ, cá chờ mồi ai?
246. Nƣớc trong thấy đá, cá lội thấy hình
Có đôi cũng vậy, một mình cũng xong.
247. Nƣớc xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng
Con chim phƣợng hoàng rày vắng tiếng kêu
Ơi ngƣời thƣơng ôi! Ta nhắn một đôi điều
Dẫu mà mai quán, chiều lều, cũng ƣng
314
Con cá thia lia giỡn bóng lăng xăng trong hồ.
248. Ớ em ơi! Tới đây cận thuỷ xa ngƣ
Chừ hỏi thăm con cá nó đã vào lừ mô chƣa.
249. Ra về én bắc, nhạn đông
Đôi bên đôi ngả, lệ hồng tuôn rơi
Lắng tai nghe tiếng bạn cƣời
Lòng còn bát ngát
Nghe tiếng bạn hát
Ngƣớc mắt trông lên
Ông Bụt thờ trên
Gió đƣa mát lạnh
Dạ em thƣơng ai
Trong chừng dƣới bến
Đƣa thƣ cho đến
Gửi bức thƣ trầm
Mƣợn cá hỏi thăm
Cá lững lờ dƣới nƣớc
Em ngồi em ƣớc
Nhân ngãi tới đây
Cơn sầu đã khuây
Cơn buồn đã hết
Anh đừng tham tiếc
Vui cảnh non bồng
Lâu về kẻ nhớ ngƣời mong.
250. Rộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng, cá bầy đua bơi
Bao giờ cho đặng thảnh thơi
Tay bƣng chén cúc, miệng mời phu quân.
251. Sớm mai anh ngủ dậy
Anh súc miệng, anh rửa mặt
Anh xách cái rựa quéo
Anh lên hòn núi quẹo
Anh đốn cây củi còng queo
Anh than với em, cha anh khó mẹ anh nghèo
Đôi đũa tre yếu ớt, không dám quèo con mắm nhum(1).
(1) Con mắm nhum: cá làm mắm.
252. Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ, ngàn năm cũng chờ.
253. Sông sâu cá lặn mất tăm
Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ
Sông sâu cá lặn vào bờ
315
Lấy ai thì lấy đợi chờ ta chi.
254. Sông sâu cá lặn vào bờ
Lấy ai thì lấy đợi chờ nhau chi.
255. Sông sâu cá lội lờ mờ
Biết anh mấy tuổi mà chờ đợi anh.
256. Sông sâu cá lội mất tăm
Chín tháng cũng đợi, mƣời năm cũng chờ.
257. Sông sâu cá lội mất tăm
Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ
Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ hết mùa mạn, mùa mơ mùa đào
Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em muộn má đào em phai.
258. Sông sâu cá lội ngù ngờ
Biết em có đợi mà chờ uổng công.
259. Sông sâu cá lƣợn mất tăm
Dẫu em bé nhỏ cũng chờ trăm năm.
260. Sông Tiền Đƣờng cá lội giao đuôi
Kiều thƣơng Kim Trọng giả nhƣ tui thƣơng mình.
261. Tay anh cầm cần câu trúc, sợi nhợ thau
Anh câu con cá biển, chớ cá bèo anh không câu.
262. Tay anh cầm cần câu trúc, sợi nhợ thau
Anh câu con cá biển, chớ cá bèo anh không câu.
263. Tay cầm cái dát nắm nan
Vừa đi vừa hát, vừa đan cái lờ
Rách ai ăn mít bỏ xơ
Ăn cá bỏ lờ, ở dạ bạc đen
Ngồi buồn rọc lá gói nem
Cô chị trốn mất, cô em tôi hò
Ngồi buồn rọc lá gói giò
Cô chị trốn mất, tôi hò cô em.
264. Tay cầm dao mác
Tay vác nắm nan
Lên chùa thanh vắng tôi đan cái lờ
Hỡi ngƣời ăn mít bỏ xơ
Ăn cá bỏ lờ có nhớ tôi chăng?
265. Tay cầm dao mác nắm nan
Lên chùa Tiên Tích mà đan cái lờ
Bây giờ đƣợc cá quên lờ
Đƣợc ngƣời thì chẳng đợi chờ đến ai.
266. Tay lại bắt tay luỵ rơi ngang má
316
Mặt lại nhìn mặt thảm quá Trời ơi!
Mấy lâu ni chim lƣợn, cá khơi
Bắt tay mà hỏi đôi lời đặng không?
267. Tay anh nắm con dao sắc
Cắt chín lát gừng bỏ vô thang thuốc sắc lại bảy phân
Tay mặt anh bƣng chén thuốc, tay trái anh khoát màn
Cúc Hoa (1) ơi, em uống chén thuốc này cho nạn khỏi tai qua
Kẻo con mồ côi mẹ, lấy ai cá vẽ cơm và mà nuôi con.
(1) Cúc Hoa: nhân vật chính của truyện Tống Trân Cúc Hoa.
268. Thà rằng chẳng biết cho đừng
Biết ra dan díu nửa chừng lại thôi
Con sông bên lở bên bồi
Một con cá lội mấy ngƣời buông câu!
269. Thân em nhƣ cá lội tranh mồi
Em tìm nơi sông lớn, vịnh bồi ẩn thân.
- Anh đây nhƣ thể lão chài
Vực sâu anh thả lƣới, bãi lài (1) anh buông câu.
(1) Lài: có độ dốc thoai thoai.
270. Tháng hai cho chí tháng mƣời
Năm mƣời hai tháng em ngồi em suy
Vụ chiêm em cấy lúa di
Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba trăng
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan
Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.
271. - Thầy anh hay chữ hỏi thử đôi lời
Cây cỏ chi không lá, con cá gì không xƣơng?
- Thầy em hỏi tức anh nói phứt cho rồi
Cây cỏ năn không lá con cá hoạ không xƣơng
- Thầy anh hay chữ hỏi thử đôi hàn
Tiết Đinh San sao dám gƣơng giàng bắn cha?
- Tử Nhơn Quí nằm dƣới gốc đa
Hoá hình cọp bạc, Tiết Đinh San bắn lầm.
272. Thấy em đẹp nói đẹp cƣời
Đẹp ngƣời đẹp nết lại tƣơi răng vàng
Chân em đi dép quai ngang
Mặt vuông chữ điền liền vành cá trôi
Ta thƣơng mình lắm mình ôi
Cá chết về mồi khốn nạn đôi ta.
273. Theo nhau cho trọn lời vàng đá
317
Không hay chừ kẻ Á, ngƣời Âu
Gối loan chẳng đặng giao đầu
Con chim bơ vơ núi Ngự, con cá thảm sầu sông Hƣơng..
274. Thiếp nhƣ cá ở Biển Đông
Chờ khi nƣớc cạn, hoá rồng lên mây
- Phải chi anh có phép thần thông
Ngăn mây đón gió, bắt rồng cƣỡi chơi.
275. Thiếp trông chàng nhƣ cá hạn trông mƣa
Nhƣ con trông mẹ chợ trƣa chƣa về.
276. Thôi thôi đừng nói mà buồn
Cá lui về biển, chim ngƣợc nguồn kiếm đôi.
277. Thôi thôi từ tạ biển vàng
Cá lui về sông Vịnh, chim ngƣợc ngàn kiếm đôi.
278. Thuốc nam thuốc bắc, thuốc xắt cho nhỏ
Địa liền gừng gió vị nọ vị kia
Dầu mà trời đất phân chia
Đôi ta nhƣ cá dƣới đìa đừng xa.
279. Thƣơng ai em nói khi đầu
Để cho thầy mẹ ăn trầu một nơi
Ăn trầu ngƣời ta nhƣ chim mắc nhợ
Uống rƣợu ngƣời ta nhƣ cá mắc câu.
280. Thƣơng em ruột nát da vàng
Cá dƣới sông ngơ ngẩn, cây trên ngàn héo hon.
281. Thƣơng mình lắm lắm mình ơi!
Cá chết vì mồi, khốn nạn thân anh.
282. Thuỷ để ngƣ, thiên biên nhạn
Cao khả xa hề, để khả điếu
Chỉ xích nhân tâm bất khả phòng(1)
E sau lòng lại đổi lòng
Nhiều tay tham bƣởi chê bòng lắm anh.
(1) Thuỷ đê ngƣ, thiên biên nhạn, Cao khả xa hề, đê kha điếu, Chỉ
xích nhân tâm bất khả phòng: cá dƣới đáy nƣớc, chim bên chân
trời, cao có thể bắn, thấp có thể câu, lòng ngƣời đâu chỉ trong gang
tấc cũng không thể đề phòng.
283. Thuyền dời bến khác
Tơ hồng buộc nơi rồi
Anh đừng than thở i ôi!
Em đà nhƣ cá no mồi khó câu.
284. Thƣ một bức gửi ngƣời thục nữ
Bức thƣ tình nhắn gửi chim
Thƣ gửi cá còn e dạ cá
318
Thƣ gửi chim còn sợ lòng chim
Anh nói với ngƣời có lạ chi không ?
Nàng nhƣ hoa quế hoa thông
Anh nhƣ hoa cúc, hoa lí sánh cùng lứa đôi
Đừng thấy vắng mặt mà nguôi tấm lòng
Miếng trầu nên đạo vợ chồng
Đem nằm mơ tƣởng thấy cùng ở bên
Hỏi làng, hỏi họ hỏi tên
Hỏi thăm ông bà trƣờng mạnh mời lên xơi trầu.
285. Thuyền thúng là thuyền thúng ơi!
Có về Đặng Xá cho tôi về nhờ
Chèo đò lên bãi Dƣơng Khê
Thuyền nan chắp cánh gió đƣa đằng đằng
Tôi chèo thuyền lên bãi bắt con cá lăng.
286. Tiếc cho con tôm rằn nấu với ngọn rau má
Tiếc cho con cá bống thệ đem nấu với ngọn lá cỏ hôi
Tiếc công ơn thầy với mẹ trau điểm phấn dồi
Em ra đi lấy chồng không đặng hai chữ cân đôi với chồng.
287. Tiếc công anh chẻ nứa đan lờ
Để cho cá vƣợt lờ nó đi.
288. Tiếc công anh xe sợ nhợ uống cây cần
Xe rồi sợ nhợ, con cá lần ra khơi.
289. Tiếc công lao đào ao thả cá
Ba bốn năm trời ngƣời lạ tới câu.
290. Tìm duyên mà chẳng thấy duyên
Mất niêu cơm trắng chín tiền cá rô.
BK
- Một niêu cơm tám chín tiền cá rô.
291. Tình cờ anh gặp nàng đây
Nhƣ cá gặp nƣớc, nhƣ mây gặp rồng
Rồng gặp mây, bán vân bán vũ
Cá gặp nƣớc, con ngƣợc, con xuôi
Chồng nam vợ bắc anh ơi!
Sao anh chẳng lấy một ngƣời nhƣ em?
292. Tình cờ gặp đƣợc nàng đây
Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ mây gặp rồng.
293. Tối qua cửa phƣợng loan phòng
Một mình vò võ, trăng tàn, sao khuya
Tôi xin kết ngãi đi về
Nên chăng ngƣời nói, chớ hề ngó ngang
Tôi xin kết ngãi lan vàng
319
Bõ công vàng sắt, bõ lòng chắt chiu
Bõ công vàng đá nâng niu đêm ngày
Đƣơng còn ngọc đúc doi doi
Má tô phấn điểm sóng bày trên ngai
Anh bƣớc chân ra cá nhảy nhạn sa
Chim bay về, nhan sắc anh đáng lạng vàng
Miệng tiếng anh cƣời nở cánh hoa sen
Tôi xin kết ngãi Châu Trần
Kìa nhƣ con nhện mấy lần chăng tơ.
294. Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo nhƣ An Cựu (1) mà nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Em vô bảo dƣỡng cá canh cho thƣờng
Mẹ già nhƣ chuối bà hƣơng
Nhƣ xôi nếp một, nhƣ đƣờng mía lau.
(1) An Cựu: có nơi ghi "Gạo de An Cựu", một thứ gạo thơm ngon
xƣa đƣợc dâng lên vua, đƣợc gọi là gạo tiến, chuyên trồng ở cánh
đồng An Cựu, phía nam của Huế.
295. Trách ai đặng cá quên nơm
Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
BK
-Đựng chim bẻ ná, quên ơn vội thù.
296. Trăm thức hoa đua nở về tiết tháng giêng
Có bông hoa cải nở riêng tháng mƣời
Trăm cành hoa cƣời, trăm nụ bông hoa nở mùa xuân sang
Đàn con yến trắng, dập dìu đàng ong
Con chim kia sao khéo não nùng
Cuốc kêu gióng giả, nhƣ nung dạ sầu
Gió nam hây hây lúc ban chiều
Một đàn bƣớm trắng dập đìu trên non
Đêm đông trƣờng nghe vƣợn ru con
Vƣợn hót ru con, cá khe lẩn bóng, chim luồn cỗi cây
Con ve kêu ong anh tiếng chày
Kìa quân tử trúc dạ này bâng khuâng
Em nhƣ hoa thơm mà mọc góc rừng
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.
297. Trăng lên đến đó rồi tề
Nói răng thì nói anh về kẻo khuya
- Anh về đi ngủ kẻo khuya
Xấu chuôm thì mặc xấu chuôm
Trời làm một trộ cá tuôn vô bờ.
320
298. Trên có trăng, dƣới có nƣớc, anh giao ƣớc một lời
Dẫu trăng lờ nƣớc cạn, trọn đời anh chẳng quên em
- Nƣớc có khi trong khi đục
Ngƣời có kẻ tục kẻ thanh
Hễ con cá khôn lựa vịnh, con chim khôn lựa nhành
Mặc ai nay đỗ mai dành, bền lòng chờ ngóng chẳng đành bỏ anh.
299. Trên rừng có cây bông kiểng
Dƣới biển có cá hoá long
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Tới đây Trời khiến đem lòng thƣơng em
Nhớ em tƣởng bóng ngày đêm
Nhớ răng em trắng má em đỏ hồng
Nhớ em vắng vẻ cô phòng
Một mình vò võ đem đông lạnh lùng
Nhớ em luỵ nhỏ ròng ròng
Xe duyên chửa đặng đau lòng Trời ơi
Chỉ còn đêm nữa mà thôi
Giã từ em ở lại, anh hồi cố hƣơng.
300. Trên sơn dƣới thuỷ, anh thấy em con cá lí ngƣ
Anh móc mồi cây quăng xuống hàng cừ(1)
Để coi bạn ngọc bây chừ về ai.
(1) Hàng cừ: hàng cọc cắm ngăn ở hồ, ao sông, ngòi thành từng
khoảng để thả lƣới, đánh cá.
301. Trên trời có sao Tua rua
Ở dƣới Hà Nội có vua đúc tiền
Ruộng tƣ điền không ai cày cấy
Hỏi cô mình ở vậy đƣợc chăng?
Mƣời hai cửa bể anh đã cắm đăng
Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào.
302. Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ƣớc gì anh lấy đƣợc nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xay dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh.
303. Trèo lên cây bƣởi hái hoa
Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc em thay
321
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Nhƣ chim vào lồng nhƣ cá mắc câu
Cá mắc câu biết dâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra.
304. Trời đất một vùng
Bắc, nam đôi ngả
Phận hồng nhan buồn bã thiếp lo
Sầu từ bể Sở, sông Ngô
Lấy ai săn sóc sớm khuya việc chƣờng
Ai làm nam bắc đôi đƣờng
Chiếu chăn tếch lác(1), buồng hƣơng lạnh lùng
Trời ơi, có tháu tình chăng
Một ngày thiếp bén duyên chàng
Bƣớm ong sum họp, phƣợng hoàng bƣa đôi
Tƣởng rằng trên thẳm dƣới khơi
Phòng khi lở đất long trời có nhau
Ai ngờ chim lƣới, cá câu
Chơ vơ ai biết ai đâu mà tìm.
(1) Tếch lác: quăng bỏ bừa bãi.
305. Trời xanh đất đỏ mây vàng
Anh đi thơ thẩn gặp nàng thẩn thơ
Bấy lâu loan đợi phƣợng chờ
Loan sầu phƣợng ủ biết cơ hội nào!
May chờ rồng cá kết giao
Thề nguyền đông liễu, tây đào phòng chung
Bây giờ kể đã mấy đông
Thuyền quyên sầu một, anh hùng sầu hai
Còn non, còn nƣớc, còn dài
Còn vè còn nhớ tới ngƣời hôm nay.
306. Trời xanh dƣới nƣớc cũng xanh
Trên non gió thổi dƣới gành sóng xao
Bấy lâu cách liễu trở đào
Chim trong lồng chim thảm, cá dƣới ao cá sầu.
307. Trông anh nhƣ bấc trông dầu
Nhƣ con cá cạn trông chầu trời mƣa.
308. Trông anh nhƣ cá trông sao
Ngày trông đêm tƣởng chiêm bao mơ màng.
309. Trông mây thấy cặp rồng xanh
Thƣơng mình thao thức năm canh khóc ròng
322
Thỏ giỡn trăng thỏ lại mắc vòng
Mình có lâm nơi sinh tử chốn loan phòng có tôi
Sông Tiền Đƣờng(1) cá lội giao đuôi
Kiều thƣơng Kim Trọng giả nhƣ tôi thƣơng mình.
310. Trƣớc không thảo sau nào có thảo
Thuyền không ngay, bẻ lái khó ngay
Em đây suy cạn lẽ này
Thà em ở vá hơn buổi rày lấy anh
- Bậu chƣa nghĩ kĩ, bậu ti hƣ vầy
Chim uyên ƣơng còn biết kết bầy
Cá bi nục còn vầy đôi bạn
Chẳng qua bởi vận hạn qua mới xa nàng
Chớ ai mà có muốn dứt đàng ngãi nhân.
311. Trƣớc mừng chàng nhƣ cây có cội
Sau vui thay duyên hiệp đạo ngƣời
Hai ta xin gá tiếng trao lời
Dƣới sông con cá lội, trên trời con chim bay.
312. Từ ngày gặp gỡ giữa đƣờng
Nghe lời bạn nói nhớ thƣơng vô chừng
Tƣởng là thành cơm thành cháo mà mừng
Hay đâu cá dời về biển, chim rừng xa bay.
313. Từ ngày thiếp bén duyên chàng
Dạ nhƣ con cá trích mắc vào lƣới xƣa.
314. Vào rừng chẳng biết lối ra
Thấy cây núc nác ngỡ la vàng tâm
Anh trông em anh cũng yêu thầm
Sợ mẹ bằng bể, sợ cha bằng trời
Thấy em đẹp nói đẹp cƣời
Đẹp quần đẹp áo lại tƣơi răng vàng
Chân em đi dép quai ngang
Mặt vuông chữ điền liền vành cá trôi
Ta thƣơng mình lắm mình ơi
Cá chết về mối, khốn nạn đôi ta
Ngồi buồn trách mẹ cùng cha
Trách anh thầy bói rẽ ra đôi đƣờng
Ở đây đồng đất phố phƣờng
Để anh mua cốm, mua hồng sang sêu
Sêu em mối lái làm đều
Để cốm anh mốc, để hồng long tai
Hồng long tai nhƣ quạt long nhài
Cầu Ô long nhịp, cửa cài long then
323
Anh tiếc cô mình má phấn, răng đen
Để cốm anh mốc để hồng nứt ra
Bao giờ cho đến tháng ba
Gió thu lại thổi xuân ra cõi ngoài.
315. Vào vƣờn trảy quả cau non
Anh thấy em giòn, muốn kết nhân duyên
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ƣa
- Anh đã có vợ con chƣa
Mà anh ăn nói gió đƣa ngọt ngào
Mẹ già anh để nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh
Chả tham nhà ngói rung rinh
Tham về một nỗi anh xinh miệng cƣời
Miệng cƣời anh đáng mấy mƣơi
Chân đi đáng nén, miệng cƣời đáng trăm
- Tờ giấy hồng anh phong chữ thọ
Anh gửi thƣ này cả họ bình yên
Đầu rồng mà gối tay Tiên
Ƣớc gì tay ấy gối lên đầu này
Nhƣ chim loan phƣợng ấp cây ngô đồng
Một mai nên vợ nên chồng
Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ rồng gặp mây.
316. Vì ai cách trở giang biên
Cá sầu không lội, chim phiền không bay.
317. Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về mờ.
318. Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi, hoa cƣời với trăng
Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về mờ.
319. Xƣa rày biệt tích âm hao
Hỏi cá chẳng thấy, tin sao vắng trùng
Xốn xang dạ ngọc bâng khuâng
Ngày thì sầu não, đêm rƣng luỵ tràn
Nhân nay lặn lội băng ngàn
Muốn đi lãnh Bắc, lại sang non Tần
Than rằng, ngọc hỡi tình nhân
Tôi đi tìm bạn, bạn vàng ở đâu?
320. Yên Thái có giếng trong xanh
324
Có đôi cá sấu ngồi canh đầu làng
Ai qua nhắn nhủ cô nàng
Yêu nhau xin chớ phũ phàng đổi thay.
Hà Nội, năm 2003
Điều chỉnh khi tái bản: tháng6 - 2009
TS. Phạm Việt Long
325
TS. Phạm Việt Long
Sinh ngày: 1 tháng 7 năm 1946
Tại: Ngô Khê, Bắc Quang, Hà Giang
Nguyên Quán: Ninh Bình
Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Tác phẩm chính:
- B. trọc
- Du khảo Hoa kỳ sau thảm hoạ 11 tháng 9
- Âm bản
- Ngờ vực
- Mố số giá trị văn hoá truyền thống với việc xây dựng đời sống văn hoá ở đồng
bằng Bắc Bộ
- Khía cạnh văn hoá trong thƣơng mại điện tử