TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

326
0 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo sƣ, tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhật đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ trong quá trình tác giả nghiên cứu, hoàn thành công trình này. Tác giả cũng chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tác giả hoàn thiện công trình: - GS. TS Lê Chí Quế - PGS.TS Trần Đức Ngôn - GS. TS Nguyễn Xuân Kính - PGS.TS Vũ Anh Tuấn - PGS.TS Nguyễn Chí Bền - TS. Nguyễn Hữu Thức - TS. Nguyễn Thị Huế. Tác giả xin chân thành cảm ơn trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn và Trung tâm Công nghệ thông tin (Văn phòng Bộ Văn hoá Thông tin , nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) đã giúp dỡ tận tình tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu, công bố công trình này. Phạm Việt Long

Transcript of TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

Page 1: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

0

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo sƣ, tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhật

đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ trong quá trình tác giả nghiên cứu, hoàn thành

công trình này.

Tác giả cũng chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã đóng góp nhiều ý

kiến quý báu giúp tác giả hoàn thiện công trình:

- GS. TS Lê Chí Quế

- PGS.TS Trần Đức Ngôn

- GS. TS Nguyễn Xuân Kính

- PGS.TS Vũ Anh Tuấn

- PGS.TS Nguyễn Chí Bền

- TS. Nguyễn Hữu Thức

- TS. Nguyễn Thị Huế.

Tác giả xin chân thành cảm ơn trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn và Trung tâm Công nghệ thông tin (Văn phòng Bộ Văn hoá Thông tin, nay là

Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) đã giúp dỡ tận tình tác giả trong suốt quá trình

nghiên cứu, công bố công trình này.

Phạm Việt Long

Page 2: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

1

ĐIỀU TÂM ĐẮC VỀ PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HOÁ DÂN TỘC

(Thay Lời giới thiệu)

GS. TSKH. Phan Đăng Nhật

Tôi không có dự định viết giới thiệu cuốn sách Tục ngữ ca dao về quan hệ

gia đình của TS. Phạm Việt Long. Vì thế e rằng sẽ nhắc lại trong vài trang, một

cách sơ lƣợc, thiếu thốn cả một cuốn sách hơn 300 trang và do vậy làm lãng phí

thì giờ bạn đọc.

Tôi chỉ dám phát biểu một điều tâm đắc: phƣơng pháp tiếp cận văn hoá để

tìm ra bản sắc văn hoá dân tộc. Điều này do phạm vi đề tài hạn chế,- tục ngữ, ca

dao về quan hệ gia đình,- nên tác giả không có điều kiện trình bày đầy đủ và trực

diện. Nhƣng chính những phƣơng pháp tiếp cận này, một mặt đem đến những

phát hiện mới mà có sức thuyết phục trong phạm vi đề tài của mình; mặt khác gợi

mở cho việc tìm hiểu bản sắc văn hoá nói chung.

*

1.Từ lâu một số nhà khoa học trong và ngoài nƣớc với mức độ khác nhau và

biểu hiện khác nhau, đã phủ định bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu

cho xu hƣớng này là “Bài tổng kết của trƣờng Viễn đông Bác cổ Pháp từ buổi

đầu cho đến năm 1920”: “Ấn Độ – Chi na (là tên gọi các nƣớc Đông Dƣơng,

trong đó có Việt Nam, do ngƣời Pháp dùng, tiếng Pháp là Indochine là từ ghép

tên hai nƣớc Ấn Độ và Trung Hoa- P.Đ.N), là khu vực ở Châu Á mà hai nền văn

minh lớn của bộ phận này của thế giới, văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa,

đụng độ với nhau và ít nhiều hoà lẫn vào nhau và là nơi mà các chủng tộc cƣ trú

ở lục địa và hải đảo ở phía đông châu Á kéo đến pha trộn vào nhau. Cho nên

ngƣời ta không thể thấy ở đấy, nhƣ ở nƣớc Trung Hoa hay ở nƣớcẤn Độ của

ngƣời Arirăng (Aryen), một chủng tộc riêng biệt và một nền văn minh độc đáo

xứng đáng đƣợc tìm hiểu vì bản thân chúng, một chủng tộc và một nền văn minh

chỉ nhờ vả rất ít vào ảnh hƣởng bên ngoài, mà hoàn toàn ngƣợc lại chỉ thấy ở đó

sự pha trộn khác thƣờng nhất của các nền văn minh và các chủng tộc linh tinh

(P.Đ.N.nhấn mạnh), không một nền văn minh nào- hình nhƣ thế lại có nguồn gốc

hoặc trung tâm ở đấy, ngay tại bản thân Ấn Độ- Chi na”1

Phân tích trên đây của bản tổng kết trang trọng này có mấy điểm chính:

- Các nƣớc Đông Dƣơng(trong đó có Việt Nam ), không có nền văn hoá văn

minh. Những lý do trên, không đáng nghiên cứu các nền văn hoá ở đây.

1 Trƣờng Viễn đông bác cổ Pháp từ buổi đầu cho đến 1920, //Tập san của Trƣờng Viễn đông bác cổ Pháp, tập

XXI, 1920,tr.4.

Page 3: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

2

Lời kết án trên là của cơ quan học thuật có quyền lực nhất đƣơng thời của

ngƣời Pháp, đã xoá sạch bản sắc văn hoá Việt Nam và các nƣớc lân cận. Đƣơng

thời nó ảnh hƣởng sâu sắc đối với thế giới và cả một số ngƣời Việt.

Về sau, dần dần quan niệm trên đây đƣợc điều chỉnh từng bƣớc. Một số

học giả Phƣơng Tây nhận thấy văn hoá “các cƣ dân của bán đảo Đông Dƣơng”

không phải là một sự pha trộn linh tinh nữa mà có thể nhận diện đƣợc và họ goị

là “Các quốc gia Ấn độ hoá” (G.Coedes). Có ngƣời còn khái quát đƣợc bản chất

văn hoá của vùng này, hơn nữa còn chỉ ra rằng một số triết lý của Trung Hoa đã

đƣợc tổng kết từ thực tế của văn hoá phƣơng Nam nhƣ lý thuyết về âm dƣơng

(Eveline Porée Maspéro).

Nếu chỉ có thế thì không cần nhắc lại ở đây, cái gì hoàn toàn thuộc về lịch

sử trả về cho quá khứ. Nhƣng không nhƣ vậy, gần đây, (1972), Arnold Toynbee,

mặc dầu đã công nhận Việt Nam có một nền văn minh riêng nhƣng là sự “mô

phỏng văn minh Trung Hoa”, là “nền văn minh riêng văn minh Trung Quốc.

Leon Vandermeeersch (1986) coi văn minh Việt Nam (cũng nhƣ Triều Tiên,

Nhật Bản) là “văn minh Trung Hoa hoá”, nói cách khác là sự đồng hoá theo văn

minh Trung Hoa.2

Về bản chất trên đây là tƣ tƣởng trung tâm văn minh nƣớc lớn, đến thời kỳ

hậu thực dân, nó không còn tính chất miệt thị nƣớc nhỏ của chủ nghĩa thực dân

cũ nữa, nhƣng có nhiều biến dạng, mà thế giới vẫn đang còn tiếp tục tranh luận

với chúng: nếu ở thế giới, đó là chủ nghĩa trung tâm Âu châu, đƣợc gọi là

eurocentrisme, européocentrisme, thì ở châu Á là chủ nghĩa trung tâm Trung

Hoa, có thể tạm gọi la sinocentrisme.

Ở trên có nhắc đến tƣ tƣởng trung tâm Trung Hoa của thời kỳ hậu thực dân

của một số tác giả nƣớc ngoài, riêng ở Việt Nam tƣ tƣởng đó vẫn tồn tại không ít.

Trong bối cảnh nhƣ vậy tác phẩm của Phạm Việt Long xử lý vấn đề nhƣ

thế nào?

2. Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình tự giới hạn trong một phạm vi nhỏ

của văn hoá, quan hệ gia đình, trong đó có quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, anh

em họ hàng… Nhƣ trên đã nói, chúng tôi không giới thiệu toàn diện nên chỉ nêu

mối quan hệ vợ chồng để xét về phƣơng pháp tiếp cận.

Về quan hệ vợ chồng trong ca dao Việt Nam, nhiều ngƣời cho rằng, đã ảnh

hƣởng sâu sắc đạo cƣờng thƣờng của Nho giáo, xuất giá tòng phu. Các tác giả

Thi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức xuất giá tòng phu nhƣ sau:

“Đây là một quy luật bắt buộc ngƣời đàn bà. Chữ “tòng” đây không chỉ có

nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của ngƣời chồng nữa. Ý thức

này ăn sâu vào dân gian… Bởi vậy, ngƣời đàn bà sống trong chế độ Tam tòng

thƣờng có tƣ tƣởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thƣơng

2 Tham khảo GS Đinh Gia Khánh: Mục đích nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu //Văn hoá dân gian Việt Nam

trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, NXB KHXH. H,1993.

Page 4: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

3

để nhờ vào sự che chở của ngƣời chồng… Xem thế, ngƣời đàn bà đối với chồng

chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”3

Nhƣ vậy các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam coi ngƣời phụ nữ Việt Nam

“sống trong chế độ Tam tòng” của Nho giáo, tuân theo đạo tam tòng nghiêm khắc

này. Phạm Việt Long có nhận định khác. Ông cho rằng: “Qua ca dao, chúng ta

thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng, mà có cả đàn ông theo vợ, và

quan trọng hơn là họ theo nhau, “phu phụ tƣơng tòng”… Cách thức theo chồng

của ngƣời phụ nữ Việt thời phong kiến đa dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩa

tích cực, thể hiện sự chủ động của ngƣời phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắp

hạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động ấy, ngƣời phụ nữ sẵn sàng gánh vác việc

khó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làm

cho vợ chồng đƣợc gắn bó. Từ khái niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả đã

chuyển hoá thành khái niệm theo nhau-“tƣơng tòng”, là biểu tƣợng cho sự gắn

bó vợ chồng ngƣời Việt trong xã hội phong kiến” 4

Kết luận nhƣ vậy có tính uyển chuyển, nhƣng quan trọng là bằng con

đƣờng nào, bằng phƣơng pháp nào để đi đến kết luận trên.

Trƣớc hết, tác giả không tự định ra trong đầu mình một tƣ tƣởng, rồi tìm

những đơn vị ca dao thích ứng để minh hoạ cho nó. Ông bao quát một kho tàng

ca dao đồ sộ khá đầy đủ 5, chứa đựng 11.825 đơn vị ca dao. Từ kho tàng đó, ông

chọn ra 1.179 đơn vị nói về đề tài gia đình, chiếm 9,97% tổng số. Từ đó, để khảo

sát vấn đề quan hệ vợ chồng, ông chọn đƣợc 690 đơn vị có đề tài này, chiếm

58,52% đơn vị ca dao nói về gia đình (ngoài quan hệ vợ chồng còn có các quan

hệ cha mẹ- con cái, anh chị em…)

Từ toàn bộ các đơn vị ca dao nói về quan hệ vợ chồng đƣợc rút ra từ Kho

tàng ca dao, gồm 11.825 câu, tác giả bằng thống kê, chỉ ra có 3 kiểu phục tòng

(nôm na là theo):

- Vợ theo chồng. “Lấy chồng theo thói nhà chồng”, “Có chồng thì

phải theo chồng, Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”... Trong quan hệ này,

tác giả cũng rút ra những trƣờng hợp ngƣợc lại, nghĩa là vợ không theo chồng, số

lƣợng không đáng kể, ví nhƣ: “ăn cam ngồi gốc cây cam, Lấy anh thì lấy về Nam

không về” “ăn chanh ngồi gốc cây chanh, Lấy anh thì lấy về Thanh không về”.

- Chồng theo vợ. “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo”, “Mình về anh

cũng về theo, Sum vầy phu phụ hiểm nghèo có nhau”…

- Cả hai theo nhau. “Theo nhau cho chọn lời vàng đá”, “Quyết theo

nhau cho trọn đạo”…

(Xin xem các trang 65,66- vi tính, ở đó có đầy đủ dẫn chứng)

3 Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập 1), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.198,

194. 4 Phạm Việt Long, sách đã dẫn, tr.66 (vi tính). 5 Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên và các cộng sự: Kho tàng ca dao ngƣời Việt, NXB Văn hoá-

Thông tin, H, năm 1995.

Page 5: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

4

Trên cơ sở khảo sát, thống kê một cách khách quan, thận trọng, khối tƣ liệu

to lớn, phong phú và đa dạng nói trên, tác giả mới đi đến nhận định: “Nhƣ vậy,

qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng…” (đã trích

ở trên). Tác giả cũng khảo sát quá trình từ tiếp thu vỏ ngôn ngữ tòng phu đến sự

chuyển hoá thành theo chồng, chồng phục tòng vợ và phu phụ tƣơng tòng. Nhƣ

vậy, quan hệ vợ chồng trong văn hoá Việt Nam theo nguyên lý Gắn bó (Vợ

chồng là nghĩa keo sơn), Thuận hoà (Thuận vợ thuận chồng bể Đông tát cạn).

Nhƣ vậy, theo đạo lý Việt Nam, mà tục ngữ ca dao là sự ghi nhận trung

thành, ngƣời phụ nữ Việt Nam không “sống trong chế độ Tam tòng” “yếu đuối,

cầu an”, không “chỉ biết làm sao cho chồng thƣơng để nhờ vào sự che chở của

ngƣời chồng”. Và càng không thích hợp khi kết luận “Xem thế, ngƣời đàn bà

Việt Nam đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”.

Trên đây là bàn về những kết luận qua việc khảo sát ca dao coi nó nhƣ một

tấm gƣơng phản chiếu, hơn nữa, một tài liệu để điều tra xã hội học về xã hội Việt

Nam truyền thống.

Trong quan hệ gia đình, ngoài quan hệ vợ chồng nhƣ đã nói trên, sách

TNCDVQHG còn đề cập đến các mặt khác nhƣ quan hệ cha mẹ- con cái, quan hệ

anh em- chị em, quan hệ dâu rể. Cách tiến hành, phƣơng pháp nghiên cứu đều

nhƣ trên. Và các kết luận cũng có đóng góp mới và có tính thuyết phục.

Cuối cùng tác giả kết luận: “Qua tục ngữ, ca dao, ngƣời nghiên cứu thấy rõ

tính chất dân chủ, bình đẳng, khoan hoà, nhân văn là tính chất “trội” của quan hệ

gia đình ngƣời Việt….(xem thêm ở tr.129- vi tính của sách TNCDVQHG)”.

3. Cho đến nay, đối với các hiện tƣợng khác của văn hoá Việt Nam vẫn tồn

tại những nhận định khác nhau.

Ví dụ nhƣ có ngƣời cho tục thờ Thành hoàng là sản phẩm của Trung Hoa.

Trong lúc đó, GS Nguyễn Duy Hinh, với một công trình nghiên cứu công phu,

hơn 500 trang, chƣa kể phụ lục, đã khẳng định: “Thành hoàng làng là tập đại

thành văn hoá mà ngƣời nông dân Việt Nam đã sáng tạo qua bao nhiêu thể

nghiệm, của bao nhiêu thế hệ” 6

Tục thờ cúng tổ tiên cũng vậy, GS Đinh Gia Khánh không cho là đặc thù

phƣơng Bắc mà là đặc thù của nền văn hoá Đông Nam Á: “Còn tục thờ cúng tổ

tiên thì lại là một trong những nét đặc thù của vùng văn hoá Đông Nam Á” 7

Sở dĩ có sự nhận định khác nhau đối với một nền văn hoá, và bản chất các

hiện tƣợng văn hoá, chủ yếu là do khác nhau về phƣơng pháp. Chúng ta coi trọng

quy luật giao lƣu văn hoá, nhƣng nhiều khi trong quá trình giao lƣu đó diễn ra sự

tiếp biến văn hoá lâu dài, khiến cho nội hàm của hiện tƣợng, khái niệm đã thay

đổi mà chỉ còn lƣu lại cái vỏ ngôn ngữ. GS Từ Chi cũng chia sẻ với ý kiến này:

“Trong không ít trƣờng hợp, những yếu tố mà tổ tiên ngƣời Việt hiện nay đã lần

6 Nguyễn Duy Hinh: Tín ngƣỡng thành hoàng Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr, 410. 7 Đinh Gia Khánh: Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, H,

1993, tr. 43.

Page 6: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

5

lƣợt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên niên kỷ Bắc thuộc, và cả

về sau nữa, khi đƣợc tích hợp vào cuộc sống hàng ngày của ngƣời bản địa, chỉ

còn giữ đƣợc ở nơi xuất phát có cái vỏ hình thức nữa thôi (thƣờng là tên gọi)

trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến đổi hẳn” 8

Tóm lại, tác giả Phạm Việt Long trong sách Tục ngữ ca dao về quan hệ gia

đình đã nghiêm túc tiếp thu ngƣời đi trƣớc về phƣơng pháp tiếp cận văn hoá, đó

là nguyên nhân quan trọng đem đến những đóng góp mới trong công trình nghiên

cứu của ông và đây cũng là kinh nghiệm cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểu

bản sắc văn hoá Việt Nam./.

P.Đ.N.

8 Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc ngƣời, NXB Văn hoá - Thông tin, Tạp chí văn hoá nghệ

thuật, H, 1996, tr.240.

Page 7: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

6

MỞ ĐẦU

Nhiều nƣớc, nhiều tổ chức trên thế giới đã nhận thức đƣợc tầm quan

trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội loài ngƣời nên đã có nhiều

hành động nhằm xây dựng và củng cố gia đình.

"Ngày 8 tháng 12 năm 1989 Đại Hội đồng Liên hợp quốc tuyên

bố năm 1994 là năm quốc tế về Gia đình (IYF) với chủ đề "Gia đình,

các nguồn lực, và các trách nhiệm trong thế giới đang thay đổi" và biểu

tƣợng một mái nhà ấp ủ những trái tim.

Tƣ tƣởng chủ đạo của năm quốc tế về gia đình là: sự thay đổi của

thế giới phải tạo nên sự tiến bộ và tăng cƣờng các phúc lợi cho cá nhân

cũng nhƣ sự phát triển ổn định của gia đình. Năm quốc tế về gia đình

nhấn mạnh đến việc đảm bảo các quyền cơ bản của con ngƣời, đặc biệt

chú ý đến quyền của phụ nữ và trẻ em, kêu gọi các chính phủ, các tổ

chức xã hội quan tâm giúp đỡ các gia đình làm tròn trách nhiệm đối với

các thành viên và là hạt nhân của sự phát triển tiến bộ các cộng đồng,

dân tộc, quốc gia."[96:3].

Đảng và Nhà nƣớc ta cũng đã sớm có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề

gia đình và có các biện pháp thiết thực chăm lo cho gia đình. Bên cạnh các

điều luật trong bộ Luật dân sự, ngày 29 tháng 12 năm 1986, Quốc hội nƣớc

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình,

trong đó khẳng định:

"Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã

hội tốt thì gia đình càng tốt;

Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình đẳng, thƣơng yêu,

giúp đỡ nhau tiến bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những

công dân có ích cho xã hội;". [75:94].

Nhƣ vậy, gia đình là vấn đề đƣợc sự quan tâm đặc biệt của tất cả các tổ

chức đảng, chính quyền, từ trong nƣớc đến toàn thế giới. Để xây dựng gia đình

hạnh phúc, cần có cả một hệ thống phƣơng hƣớng, biện pháp, trong đó có việc

quay trở về tìm hiểu những giá trị truyền thống của cha ông, tìm ra trong đó

những mẫu hình và kinh nghiệm tốt đẹp để áp dụng và nhận biết những mặt

tiêu cực để tránh.

Page 8: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

7

Văn học dân gian, trong đó có tục ngữ, ca dao, là kho tàng văn học quý

giá của đất nƣớc, đã vƣợt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một thành

tố quan trọng trong gia tài văn hoá nƣớc ta. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, tục

ngữ, ca dao đúc kết trí tuệ, tình cảm của nhân dân và phản ánh nhiều mặt của

xã hội, trong đó có phong tục, tập quán, có các mối quan hệ trong gia đình.

Việc đi sâu nghiên cứu tục ngữ, ca dao đã phát hiện ngày càng nhiều những

giá trị tiềm ẩn trong đó, giúp cho con ngƣời của xã hội đƣơng đại có cơ sở để

thực hiện đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn

hóa của dân tộc. Trong qúa trình nghiên cứu, sƣu tầm văn học dân gian, với

khối lƣợng lớn tục ngữ, ca dao đã đƣợc sƣu tầm, cần có các công trình nghiên

cứu theo chuyên đề, đi thật sâu vào những nội dung chủ yếu của tục ngữ, ca

dao, qua đó làm cho ngƣời đƣơng thời hiểu sâu hơn tục ngữ, ca dao, để có

cách thức ứng xử phù hợp với kho tàng văn hoá quý giá này của dân tộc và để

rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hiện tại.

Việt Nam đang bƣớc vào giai đoạn phát triển toàn diện, hƣớng tới mục

tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phù hợp với

xu hƣớng của thời đại, Đảng cộng sản Việt Nam coi văn hóa vừa là mục tiêu

vừa là động lực của phát triển.

Trong quá trình mở rộng cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,

hội nhập với thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, một vấn đề nóng bỏng

hiện nay là sự hấp thụ thiếu chọn lọc những biểu hiện văn hóa ngoại lai, xa rời

những tiêu chuẩn đạo lý dân tộc từng tồn tại hàng nghìn đời nay. Nhiều mặt

tiêu cực của xã hội hiện đại đã tác động vào gia đình, tạo ra nguy cơ phá vỡ sự

bình yên của gia đình.

Trong điều kiện đó, gia đình trong xã hội hiện đại đang là một vấn đề

đƣợc quan tâm. Quay trở về những giá trị truyền thống, trong đó có quan hệ

gia đình, đã trở thành xu hƣớng của thời đại. Việc nghiên cứu những giá trị

trong gia đình truyền thống thể hiện qua tục ngữ, ca dao là một cách thức đóng

góp vào việc định hƣớng xây dựng gia đình trong xã hội ngày nay.

Trong bối cảnh trên, việc làm sáng tỏ vấn đề phong tục, tập quán trong

quan hệ gia đình qua tục ngữ, ca dao, chọn lựa và đề cao những phong tục tập

quán tốt đẹp của dân tộc, tìm ra và loại bỏ những hủ tục, sẽ góp phần đáng kể

vào việc làm rõ nội hàm của khái niệm "Truyền thống văn hóa Việt Nam",

chống lại lối sống thực dụng, xa rời những chuẩn mực đạo đức, giáo dục, nâng

cao trình độ văn hóa, củng cố gia đình, ổn định xã hội, góp phần xây dựng nền

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự nghiệp cách mạng hiện

nay cũng nhƣ lâu dài.

Page 9: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

8

Với những lý do nhƣ đã trình bầy, chúng tôi căn cứ vào tục ngữ, ca dao

của ngƣời Việt đã đƣợc sƣu tầm và in thành sách để khảo sát về quan hệ gia

đình ngƣời Việt truyền thống. Sở dĩ chúng tôi chọn hai thể loại này vì chúng

gần gũi với nhau trong phƣơng thức hình thành, lƣu truyền cũng nhƣ trong nội

dung và nghệ thuật. Tục ngữ thiên về lý trí, ca dao thiên về tình cảm, hai thể

loại này sẽ bổ trợ cho nhau để chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề gia đình từ cả

hai góc độ lý trí và tình cảm.

Thực hiện phƣơng châm kế thừa có chọn lọc di sản văn hoá của dân tộc,

chúng tôi đã tìm hiểu khá kỹ công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao của

những bậc tiền bối và thấy nhƣ sau: Việc sƣu tầm, chú giải tục ngữ, ca dao nói

chung đã đƣợc tiến hành từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nhƣng chƣa có công

trình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phong tục tập quán trong quan hệ gia đình

ngƣời Việt mà chỉ có một số tác phẩm đề cập đến vấn đề này trong một số

chƣơng, mục.

Năm 1940, qua Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa (Trƣơng Tửu)

nói về Gia tộc phụ hệ và Chống nam quyền để phân tích về gia đình Việt Nam

thể hiện qua ca dao. Năm 1960, ở tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phong

kiến trong ca dao Việt Nam, Hằng Phƣơng nêu lên những nội dung có tính

chất chống đối trong ca dao. Từ năm 1956 đến năm 1978, qua việc phân tích

ca dao, Vũ Ngọc Phan nêu lên sự đối xử bất công đối với ngƣời phụ nữ, mâu

thuẫn mẹ chồng - nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tam tòng trói

buộc ngƣời phụ nữ.

Từ những năm 90 đến nay, các nhà nghiên cứu đã chú ý nghiên cứu về

tục ngữ, ca dao theo chuyên đề. Có những công trình đƣợc xuất bản hoặc tái

bản đáng chú ý nhƣ: Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính, Ca dao tục ngữ

với khoa học nông nghiệp của Bùi Huy Đáp, Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt

Nam của Phan Thị Đào, Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt của

Triều Nguyên, Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái

Hòa, Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc

của Triều Nguyên... Có hai tác phẩm đi sâu vào nội dung tục ngữ, ca dao, đặc

biệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của con ngƣời trong xã hội, đó là Thi

ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh và Đạo làm người

trong tục ngữ, ca dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân.

Nghiên cứu về phong tục, tập quán trong gia đình ngƣời Việt, các công

trình ngiên cứu khoa học trên góc độ xã hội học, văn hoá học, và đặc biệt là

dân tộc học, đã có những tác phẩm chuyên sâu hoặc đã có những chuyên mục

chuyên sâu.

Page 10: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

9

PGS. Nguyễn Từ Chi trong Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người

có Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ và Nhận xét bƣớc đầu về gia

đình của ngƣời Việt đã đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của làng xã, gia

đình cổ truyền, đồng thời cũng chú ý đến một số mối quan hệ trong gia đình,

đến vai trò ngƣời phụ nữ trong gia đình ấy.

Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục có phần khảo sát riêng về

Phong tục trong gia tộc. Đáng chú ý là trong khi giới thiệu phong tục tập quán,

tác giả thƣờng dẫn tục ngữ để minh chứng.

Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả Toan

Ánh đi sâu vào đời sống gia đình, trong đó nêu lên khái niệm về gia đình theo

Từ điển phổ thông và theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh. Tác giả giới

thiệu tóm tắt nhƣng khá sáng rõ về thành phần gia đình Việt Nam.

Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu dành hai chuyên mục trong tác phẩm Đến

hiện đại từ truyền thống để bàn luận về gia đình Việt Nam. Đó là Gia đình

truyền thống Việt Nam với ảnh hƣởng của Nho giáo, và Đổi mới cách quan

niệm giải phóng phụ nữ - Nhìn lại gia đình truyền thống để chuẩn bị thiết thực

cho các thiếu nữ vào đời.

Điểm qua các công trình, chuyên mục nhƣ trên, chúng ta thấy một

khoảng trống về nghiên cứu có thể bổ khuyết là khảo sát xem phong tục tập

quán trong quan hệ gia đình ngƣời Việt đƣợc phản ánh qua tục ngữ, ca dao

nhƣ thế nào? Cần nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề này trong một công

trình chuyên biệt để có cái nhìn toàn diện hơn, qua đó làm cho việc hiểu về gia

đình ngƣời Việt cũng nhƣ tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đƣợc sâu sắc hơn.

Trong công trình này, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp

nghiên cứu: phƣơng pháp nghiên cứu của các ngành văn học dân gian, xã hội

học văn hóa, văn hóa học, phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá dân

gian, văn học, xã hội học, dân tộc học…), phƣơng pháp thống kê, quy nạp,

phƣơng pháp hệ thống.

Vận dụng phƣơng pháp hệ thống, chúng tôi quan niệm rằng tục ngữ, ca

dao nằm trong hệ thống văn học dân gian, đồng thời mỗi thể loại là một hệ

thống riêng, và đi sâu hơn nữa, mỗi chủ đề lại là một hệ thống con, có cấu trúc

với những nhân tố nội tại, tạo nên những chất tích hợp của chúng... Nghiên

cứu tục ngữ, ca dao, bên cạnh việc tìm hiểu nội dung của từng đơn vị, chúng

tôi cố gắng tìm ra những chất tích hợp từ hệ thống các chủ đề và chất tích hợp

của toàn bộ hệ thống tục ngữ, ca dao.

Page 11: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

10

Vận dụng phƣơng pháp thống kê, chúng tôi kết hợp giữa thao tác định

tính là thao tác thông thƣờng của ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân

văn, với thao tác định lƣợng là thao tác thông thƣờng của ngành nghiên cứu

khoa học tự nhiên, để cố gắng đạt đƣợc sự chính xác trong nhận định, đánh giá

đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp thống kê ở đây phù hợp với đối tƣợng

nghiên cứu, vì thƣờng tục ngữ, ca dao là những đơn vị nhỏ, hầu hết có cùng

một kiểu cấu trúc. Chúng tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện

phƣơng pháp thống kê đƣợc triệt để, chính xác. Đây là phƣơng pháp hiện đại,

yêu cầu ngƣời sử dụng phải có một số kiến thức tối thiểu về tin học, đồng thời

phải cộng tác với những nhà chuyên môn về tin học để xây dựng hai phần

mềm chuyên biệt về tục ngữ, ca dao. Hai phần mềm này quản lý cơ sở dữ liệu

về tục ngữ, ca dao theo nhiều tiêu chí do ngƣời nghiên cứu quy định, trong đó

quan trọng nhất là các tiêu chí về thể loại, chủ đề, nội dung và ghi chú. Phần

ghi chú hết sức quan trọng, ghi đậm dấu ấn của ngƣời nghiên cứu, giúp ngƣời

nghiên cứu phân loại chi tiết hơn tục ngữ, ca dao theo nhiều yêu cầu (nhƣ về

nội dung, về thi pháp…) để rồi có thể tổng hợp nhanh chóng các câu tục ngữ,

ca dao cùng một tiêu chí, làm cho việc thống kê về số lƣợng và việc nhìn nhận

về chất lƣợng nội dung tục ngữ, ca dao đƣợc nhanh chóng và chính xác. Đối

với văn hóa dân gian nhƣ tục ngữ, ca dao, dân ca, cổ tích... lâu nay chúng ta

thƣờng vận dụng các phƣơng pháp có tính ƣớc lƣợng theo dự kiến sẵn có từ

ngƣời nghiên cứu. Trong giới thiệu, nghiên cứu về tục ngữ, ca dao, mô hình

chung thƣờng làm là đƣa ra một nhận định, lấy một vài đơn vị để chứng minh

rồi phân tích đơn vị đƣợc dẫn và đi đến kết luận (thực ra kết luận đã có trƣớc

khi khảo sát tƣ liệu, đây là một thao tác ngƣợc). Có thể mô hình hoá phƣơng

pháp đó nhƣ sau:

Nhận định

Dẫn chứng

Phân tích dẫn chứng

Kết luận

(theo hƣớng

đã nhận định)

Ví dụ : Khi nhận định rằng ngƣời Việt bao dung, dễ tha thứ, có thể dẫn

câu: "Ơn ai một chút chớ quên, oán ai một chút để bên dạ dày." Nhƣng nếu

nhận định rằng ngƣời Việt ơn oán rạch ròi, có thể dẫn câu: "Ơn đền ơn, oán trả

oán." Phải thống kê, so sánh giữa những câu nói lên sự bao dung và sự rạch

ròi, thì mới có thể rút ra kết luận khách quan, chính xác. Có tác giả khẳng định

"...ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân, tƣ tƣởng

Page 12: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

11

chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo". [99:322]. Ý kiến trên

có thể đúng hoặc không đúng. Tuy nhiên không có tƣ liệu số liệu để chứng

minh. Trong khi đó, dùng phƣơng pháp thống kê trong hệ thống, với số liệu

5.682 câu ca dao nói về giao duyên nam nữ trong tổng số 11.825 câu ca dao

đƣợc sƣu tầm, chiếm tỷ lệ 48%, thì có thể nói chắc chắn rằng giao duyên nam

nữ là chủ đề chiếm ƣu thế trong ca dao.

Văn hóa dân gian ở dạng nguyên hợp, đôi khi phức tạp, không thể nhặt ra

một vài đơn vị theo sự lựa chọn của riêng ngƣời nghiên cứu mà nhận định rằng

đó là những biểu hiện tiêu biểu cho tính dân tộc, tính Việt Nam. Phƣơng pháp

nghiên cứu thích hợp là tổng hợp từ một kho tàng văn hóa dân gian tƣơng đối

đầy đủ, bằng thống kê, so sánh, thực hành thao tác định lƣợng cùng với thao

tác định tính để rút ra những kết luận khách quan, khoa học.

Trong mọi vấn đề, mọi chủ đề, để rút ra nhận xét và kết luận, chúng tôi

đều dựa trên toàn thể các câu tục ngữ, ca dao thuộc chủ đề đó. Các ý kiến khác

nhau hoặc đối lập nhau (phản ánh trong tục ngữ, ca dao), chúng tôi đều ghi

nhận để xem xét, không đƣa ra những định kiến trƣớc. Nếu có ý kiến đối lập

(phản ánh trong tục ngữ, ca dao), để xem ý kiến nào là chủ đạo, chúng tôi tính

số lƣợng và tỷ lệ phần trăm. Để làm rõ hơn các nội dung giống nhau và khác

nhau, chúng tôi đƣa ra các bảng thống kê, so sánh.

Để chỉ tính chất của các hiện tƣợng thể hiện trong tục ngữ, ca dao, thay

cho những loại từ chỉ mức độ nhƣ: rất, vô cùng, tƣơng đối, phần nào, ít, ít ỏi,

hiếm thấy... chúng tôi diễn đạt bằng con số (trị số tuyệt đối và tỷ lệ). Chúng tôi

không dừng ở con số, bảng, biểu... vì nhận thức rằng chúng tuy cụ thể nhƣng

nhiều khi khô cứng, không phản ánh đầy đủ các khía cạnh của cuộc sống, nhất

là cuộc sống tinh thần, tƣ tƣởng, tình cảm. Do đó, chúng tôi cũng rất coi trọng

sự nhận xét, bàn luận bằng ngôn ngữ (định tính).

Phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ trên rất phù hợp với loại hình tục ngữ, ca

dao, là loại hình có các thành tố có cấu trúc tƣơng đối giống nhau, sự trùng

hợp của các thành tố ấy có tần xuất tƣơng đối lớn. Điều này đã đƣợc các nhà

nghiên cứu đi trƣớc chỉ ra nhƣ sau:

"Công trình Hình thái học truyện cổ tích (xuất bản lần đầu năm

1928) của Prốp là một thể nghiệm thành công của việc áp dụng những

phƣơng pháp nghiên cứu chính xác vào các khoa học nhân văn, vào

việc giải mã các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật. Mặc dù biết khả

năng to lớn của việc sử dụng các phƣơng pháp chính xác, Prốp vẫn thấy

Page 13: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

12

rõ những giới hạn của chúng. Theo ông, những phƣơng pháp này "chỉ

có thể đƣợc sử dụng và đem lại kết quả ở những nơi mà sự lặp lại có

trong một phạm vi lớn. Điều này chúng ta có ở trong ngôn ngữ, điều

này chúng ta có ở trong văn học dân gian" [Dẫn theo 151:138].

Chúng tôi đã khai thác một phần trong phần mềm Tục ngữ Việt Nam, Ca

dao Việt Nam mà chúng tôi mới xây dựng để làm tƣ liệu cho công trình nghiên

cứu này. Với khả năng quản lý tốt tƣ liệu, giúp phân loại, tra cứu nhanh và

chính xác nhiều loại chủ đề và nội dung theo yêu cầu phức tạp của ngƣời

nghiên cứu, phần mềm này sẽ là công cụ có ích cho việc nghiên cứu tục ngữ,

ca dao với các đề tài còn lại.

Lần đầu tiên tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đƣợc nghiên cứu một cách hệ

thống trên bình diện phong tục tập quán về gia đình với khối lƣợng khá lớn.

Qua tục ngữ, ca dao, công trình làm nổi rõ tính chất dân chủ, bình đẳng, khoan

hòa, nhân văn trong quan hệ gia đình ngƣời Việt. Tuy vậy, với khối lƣợng khá

lớn tƣ liệu, với tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, chắc chắn rằng công

trình không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong bạn đọc lƣợng thứ.

Page 14: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

13

CHƢƠNG MỘT

TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ GIA ĐÌNH

ĐƢỢC PHẢN ÁNH QUA TỄC NGỮ, CA DAO

1. NHỮNG QUAN NIỆM CHÍNH VỀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

TRUYỀN THỐNG

1.1. Khái niệm gia đình

Gia đình là một thực thể vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội,

gắn bó với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, thân tình và dòng máu để đáp

ứng nhu cầu về tình cảm, bảo tồn nòi giống, giữ gìn và phát huy những giá trị

văn hóa của cộng đồng và tộc ngƣời, góp phần nuôi dƣỡng nhân cách con

ngƣời, phát triển kinh tế - xã hội, phản ánh sự vận động của cộng đồng và quốc

gia trong tiến trình lịch sử.

1.2. Gia đình Việt Nam truyền thống

Gia đình là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa

Việt Nam. Mỗi tác giả tìm cách tiếp cận khác nhau về gia đình. Phan Kế Bính

trong Việt Nam phong tục khảo sát gia đình thông qua phong tục trong gia tộc,

gồm các mục: Cha mẹ với con, anh em, chị em, thân thuộc, phụng sự tổ tông,

đạo làm con, thƣợng thọ, sinh nhật, thần hoàng, tang ma, cải táng, kỵ nhựt, tứ

thời tiết lập, giá thú, vợ chồng, vợ lẽ, cầu tự, nuôi nghĩa tử. Đáng chú ý là

trong khi giới thiệu phong tục tập quán, tác giả thƣờng dẫn tục ngữ để minh

chứng. Phan Kế Bính đã đƣa ra nhận xét nhƣ sau: trong quan hệ gia đình ngƣời

Việt, hòa mục là điều hết sức quan trọng, đạo làm con phải trọng chữ hiếu, vợ

chồng phải giữ chữ tiết nghĩa với nhau. Ông cũng phê phán một số biểu hiện

tiêu cực đã thành tập tục trong quan hệ gia đình nhƣ trọng nam khinh nữ, đa

thê...

Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả Toan

Ánh đi sâu vào đời sống gia đình, theo cách hiểu của học giả Đào Duy Anh:

Gia đình chỉ "những ngƣời thân thuộc trong một nhà." [3:8]. Ông giới thiệu

tóm tắt về thành phần gia đình Việt Nam và viết: "Qua các thành phần trên cho

thấy rằng gia đình Việt Nam bao quát rất rộng, và mọi ngƣời đều có tình thân

thuộc với nhau qua mọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cả

hai bên nội ngoại." [3:24-25].

Ở góc độ tiếp cận khác, Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đã xem xét Gia

đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo và viết:

Page 15: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

14

"Gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hƣởng Nho giáo sâu sắc,

nhƣng tìm ảnh hƣởng đó không nên chỉ căn cứ vào lý thuyết Nho giáo,

mà nên nhìn gia đình trong thể chế chính trị - kinh tế - xã hội tổ chức và

quản lý theo Nho giáo, bị điều kiện hoá trong thể chế đó mà vận động

phát triển. Theo chúng tôi, những điều kiện đó là:

- Chế độ chuyên chế với quyền vƣơng hữu, quyền thần dân hoá toàn

thể với nền kinh tế cống nạp.

- Trật tự trên dƣới theo phân vị.

- Tổ chức làng - họ.

- Cuộc sống nông thôn và cung đình.

- Sự giáo hoá sâu rộng về trách nhiệm với vua với nƣớc, về tình

nghĩa gia đình, họ hàng, về lí tƣởng sống êm ấm, trên kính dƣới nhƣờng,

về quyền ngƣời đàn ông, ngƣời cha, ngƣời chồng". [57:314]

"Ảnh hƣởng Nho giáo đến gia đình truyền thống Việt Nam là lâu

dài và liên tục cho đến khi Việt Nam thành thuộc địa cuả Pháp và xã hội

Việt Nam bắt đầu Âu hoá.

Nhƣng ảnh hƣởng đó cũng có khác nhau tuỳ từng thời kỳ, từng

vùng và từng loại gia đình. Trong việc nghiên cứu gia đình truyền thống

và ảnh hƣởng Nho giáo trong đó, cũng chỉ một vài loại gia đình thực sự

có ý nghĩa". [57:315]

Tác giả đã phân tích các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nƣớc ta

trƣớc đây để chỉ ra có bốn hạng ngƣời trong dân là sĩ, nông, công, thƣơng,

nhƣng quan trọng nhất là nông và sĩ. Từ đó, ông "Phân biệt gia đình truyền

thống Việt Nam thành hai loại lớn: quan hộ và dân hộ."[48:320]. Tác giả viết:

"Trong xã hội trƣớc đây, nông dân và nhà nho có vai trò xã hội

lớn nhất, gia đình nông dân và gia đình nhà nho cũng là tiêu biểu nhất.

Gia đình nông dân, đặc biệt là gia đình trung nông, tiêu biểu cho cách

tổ chức làm ăn sản xuất nông nghiệp nhằm tự túc và đóng góp cho làng

nƣớc. Gia đình nhà nho tiêu biểu cho cách dùng lễ nghĩa xây dựng nền

nếp trong nhà và ăn ở với họ hàng làng xóm." [57:320].

PGS. Nguyễn Từ Chi nghiên cứu sâu vào cơ cấu tổ chức làng xóm và

nhận xét bƣớc đầu về gia đình ngƣời Việt, mà địa bàn chủ yếu là vùng đồng

bằng và trung du Bắc Bộ. Với gia đình ngƣời Việt cổ truyền, Nguyễn Từ Chi

nhấn mạnh đến loại mô hình gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân: “Gia tộc Việt, từ

nông thôn đến thành thị, ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, cả trên khắp đất

nƣớc, từ lâu cũng đã giải thể đến mức gia đình nhỏ rồi, thậm chí trong tuyệt

Page 16: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

15

đại đa số các trƣờng hợp, là gia đình hạt nhân.”[15:181. Ông nhìn sâu vào tính

chất của gia đình Việt cổ truyền nhƣ sau:

“Tính chất phụ quyền của gia tộc Việt là điều đã đƣợc nhiều lần

nhấn mạnh, với các nguyên lý chính làm khung cho nó: quyền uy tối

cao của ngƣời cha với con cái, của ngƣời chồng đối với ngƣời vợ, đặc

quyền thừa kế của con trai, đặc biệt của con trai trƣởng, vai trò quán

triệt, có khi hầu nhƣ độc tôn của đàn ông chủ hộ trong mọi tổ chức

ngoại gia đình... Tính chất phụ quyền ấy còn đƣợc tô đậm bởi nhiều thế

kỷ giáo dục nhà Nho. Trên bình diện sinh hoạt cộng đồng của làng – xã,

sự vắng mặt quá “lộ liễu” của phụ nữ trong cơ cấu tổ chức càng nói lên

thế lép vế của họ. Tuy nhiên, nguyên lý, nhiều khi chỉ là nguyên lý, chỉ

là biểu hiện của “cấu trúc hữu thức” cộng đồng. Xét lại vấn đề dƣới góc

độ thực tế hơn của nền kinh tế tiểu gia đình, thì số phận ngƣời phụ nữ

Việt đâu có hẩm hiu nhƣ thế.. Không phải chỉ vì họ là ngƣời tiếp tay

đắc lực và không thể thiếu cho cha, cho chồng, trong lao động nông

nghiệp nặng nhọc, mà còn (và chủ yếu?) bởi vì “luồng tiểu thƣơng rất

phát đạt trong vùng châu thổ [và trung du Bắc Bộ – TT], thực ra là nằm

trong tay phụ nữ. Nhƣ vậy, chính ngƣời phụ nữ mang về cho gia đình

một phần thu nhập không phải không đáng kể, dƣới dạng tiền mặt, còn

nông phẩm lại thể hiện khía cạnht tự cấp tự túc của nền kinh tế nông

thôn.[192]

Những tác phẩm đƣợc dẫn ra trên đây giúp chúng ta hình dung về tổ chức

và tính chất gia đình Việt Nam truyền thống để có thể so sánh với các hình

mẫu gia đình đƣợc tục ngữ, ca dao phản ánh. Xã hội Việt Nam cổ truyền có

hai loại gia đình cơ bản: gia đình nông dân và gia đình nhà nho. Gia đình nông

dân là một đơn vị sản xuất theo kiểu chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa. Gia

đình nhà nho là gia đình theo kiểu bên anh đọc sách bên nàng quay tơ.

Năm 1991, công trình Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt

Nam ( NXB Khoa học xã hội - Hà Nội- 1991) đã công bố 12 bài nghiên cứu về

gia đình, cho chúng ta hình dung về sự biến đổi sâu sắc của gia đình truyền

thống Việt Nam trong thời kỳ mới của lịch sử Việt Nam có chủ trƣơng đổi mới

của Đảng ( năm 1986).

Chúng ta biết rằng vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tăng cƣờng khai

thác thuộc địa Việt Nam, xã hội Việt Nam phân tầng sâu sắc, quá trình Âu hoá

diễn ra nhanh chóng ở các đô thị và có ảnh hƣởng nhất định vào nông thôn

Việt Nam. Triều đình Huế đã chấm dứt việc thi cử bằng chữ Hán, Hán học bị

Page 17: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

16

thất thế, Vũ Đình Liên với bài thơ Ông Đồ chia sẻ tâm trạng của cả xã hội Việt

Nam đối với tầng lớp Nho sĩ thất thế. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều giai

tầng mới, trong đó có viên chức và công nhân.

Ngày nay, từ kết quả của các công trình nghiên cứu về Nho giáo, chúng

ta không phủ nhận ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng Nho giáo đối với văn hóa gia

đình ở Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và xã hội cho nên mẫu hình

truyền thống của gia đình Việt Nam có những nét rất khác với gia đình truyền

thống ở Trung Quốc. Cũng vì vậy, tƣ tƣởng về gia đình của Nho giáo đã bị

khúc xạ trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ví dụ gia đình truyền thống

của Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của họ

tộc và thƣờng gia đình phát triển theo hƣớng gia đình nhỏ thành đại tộc. Trong

xƣng hô, ngƣời Trung Quốc đƣa họ lên vị trí chủ yếu (Lƣu tiên sinh, Trần đại

nhân...), tên ngƣời là phụ. Trong khi đó, ở Việt Nam, gia đình thƣờng ở quy

mô nhỏ, cách xƣng hô thân mật hơn, nhấn mạnh tên ngƣời, đề cao tính cộng

đồng “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần” chứ

không đề cao tuyệt đối tộc họ, coi đó nhƣ là một đẳng cấp phân biệt trong xã

hội.

Những đặc tính nói trên đƣợc phản ánh rõ trong các mối quan hệ trong

gia đình mà chúng tôi sẽ phân tích ở các chƣơng sau qua tục ngữ, ca dao.

2. KHÁI NIỆM TỤC NGỮ, CA DAO, PHONG TỤC, TẬP QUÁN

Đã có nhiều nhà nghiên cứu đƣa ra các khái niệm về tục ngữ, ca dao,

phong tục tập quán. Tuỳ từng góc độ chuyên môn, mỗi nhà nghiên cứu quan

tâm đến những đặc tính này hay đặc tính khác của đối tƣợng để định nghĩa

khái niệm, nhƣng nói chung đã tƣơng đối thống nhất ở những điểm cơ bản. Kế

thừa quan niệm của các nhà khoa học đi trƣớc, chúng tôi nêu lên những khái

niệm sát với hƣớng nghiên cứu của chúng tôi nhƣ sau:

2.1. Khái niệm tục ngữ

Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian, đƣợc hình thành và sử dụng

trong lời nói hàng ngày, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, thƣờng ngắn gọn,

có vần điệu, thành câu hoàn chỉnh, có chức năng thông báo, đƣợc phổ biến

rộng rãi trong nhân dân.

2.2. Khái niệm ca dao

Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu

(phần lớn là thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lƣu

truyền qua nhiều thế hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình

cảm. Nhiều câu ca dao vốn là lời của những bài dân ca. Vào giai đoạn muộn về

sau, ca dao cũng đƣợc sáng tác độc lập.

Page 18: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

17

Cần nói thêm rằng giữa tục ngữ và ca dao có sự giao thoa nhất định. Có

những trƣờng hợp tục ngữ dƣợc trình bầy dƣới hình thức ca dao (thể thơ lục

bát); có những trƣờng hợp khó phân biệt là tục ngữ hay ca dao.

2.3. Khái niệm phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình

Phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình là những thói quen đã thành

nếp lâu đời, đƣợc lan truyền rộng rãi, ăn sâu trong quan hệ giữa các thành viên

trong gia đình cũng nhƣ xã hội.

Phong tục và tập quán khác nhau ở chỗ: Tập quán là thói quen hình thành

trong các sinh hoạt mà con ngƣời tiếp thu đƣợc và tự giác thực hiện hành vi

của mình. Phong tục là quy định bất thành văn mà cộng đồng ngƣời quy ƣớc

với nhau có tính bắt buộc mọi ngƣời phải theo. Vì thế tục ngữ có câu "Nhập

gia tùy tục". Ai làm trái quy ƣớc đó sẽ bị dƣ luận chê bai và ngƣời có quyền uy

nhắc nhở. Ví nhƣ trong các cuộc giỗ họ, những ngƣời có thứ bậc ngang nhau

đƣợc ăn cùng mâm. Một số làng đặt ra hƣơng ƣớc - đây là cách thức văn bản

hoá phong tục để yêu cầu mọi ngƣời tuân thủ. Vì thế mới có câu "Phép vua

thua lệ làng".

2.4. Mối quan hệ giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán

Giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán có mối quan hệ hữu cơ,

tƣơng hỗ. Phong tục, tập quán là cái đƣợc phản ánh, còn tục ngữ, ca dao là

hình thức phản ánh của cái đƣợc phản ánh. Tục ngữ, ca dao xuất phát từ cuộc

sống, phản ánh phong tục, tập quán, đúc kết thành kinh nghiệm và biểu bộ tình

cảm theo quan niệm dân gian và trở lại tác động vào cuộc sống, góp phần phổ

biến những phong tục tập quán tốt đẹp, phê phán những thói hƣ tật xấu trong

xã hội.

3. NHỮNG Ý KIẾN CHÍNH XUNG QUANH CÁC MỐI QUAN HỆ

TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT ĐƢỢC PHẢN ÁNH QUA TỤC NGỮ,

CA DAO

Những nhà nghiên cứu đi trƣớc ít nhiều đã nghiên cứu về nội dung tục

ngữ, ca dao theo các góc tiếp cận khác nhau. Đóng góp của họ là rất lớn, đã

thúc đẩy ngành nghiên cứu văn học dân gian phát triển. Tuy vậy, việc phân

tích sâu chủ đề phong tục tập quán về gia đình trong tục ngữ, ca dao chiếm tỉ

trọng còn thấp trong những công trình khảo cứu về tục ngữ, ca dao nói chung.

Từ năm 1969 đến năm 1971 và năm 2000 có hai công trình đi sâu vào nội

dung tục ngữ, ca dao, đặc biệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của con

ngƣời trong xã hội, đó là Thi ca bình dân Việt Nam (1969 - 1971) của Nguyễn

Page 19: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

18

Tấn Long, Phan Canh và Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam

(2000) của Nguyễn Nghĩa Dân.

Chúng tôi xin lƣợc trích một số công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao

có liên quan đến chủ đề gia đình nhƣ sau:

Trong Ca dao - dân ca- tục ngữ - vè, Hoàng Nhƣ Mai có bài Tình yêu và

hạnh phúc gia đình trong thơ ca dân gian, Anh Biên có bài Quan niệm về

con người trong tục ngữ, Lê Anh Hiền có bài Tục ngữ và ca dao Việt Nam

với tình mẫu tử, trong đó các tác giả trình bày những biểu hiện tốt đẹp trong

quan hệ gia đình đƣợc tục ngữ, ca dao phản ánh, nhấn mạnh đến vấn đề đáng

quan tâm nhất là sự hoà thuận trong gia đình ngƣời Việt.

Các soạn giả Thi ca bình dân Việt Nam (tập 2) đã khảo sát 6 vấn đề đặt

ra:

- Phong tục Việt Nam xuyên qua ca dao.

- Quan niệm về chế độ gia đình.

- Những vui buồn trong mƣu sinh.

- Biến thái của tình cảm con ngƣời đối với sinh hoạt xã hội.

- Tình yêu quê hƣơng dân tộc.

- Ý thức đấu tranh của ngƣời bình dân qua các chế độ thống trị.

Khái quát các nội dung trên, các tác giả nêu nhận định:

"… dân chúng Việt Nam bị ách đô hộ ngƣời Tàu thống trị, nền

tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnh hƣởng

vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ. Vậy sự chống đối của ngƣời

bình dân đối với chế độ gia đình là sự chống đối giữa quan niệm ngƣời

bình dân trƣớc mọi ảnh hƣởng ngoại lai của lý thuyết Khổng Mạnh."

[73:161-162].

Vào năm 1940, Kinh Thi Việt Nam của Nguyễn Bách Khoa (Trƣơng

Tửu) nói về quan hệ gia đình, về Chống nam quyền nhƣ sau: "Luân lý phụ

quyền đặt ngƣời đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ Việt Nam đã mỉa mai, giày

đạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu của đàn ông đem ra trào phúng, để

chứng rằng địa vị ƣu thắng của đàn ông không đƣợc họ công nhận." [52.103].

Qua ca dao, ông rút ra những tính xấu của đàn ông bị phụ nữ mỉa mai là:

hoang đàng, đĩ thoã, phụ tình, và nhận định rằng ngƣời đàn bà đã nổi loạn, cố

đạp đổ cái hình tƣợng đàn ông.

Nguyễn Bách Khoa dành hai chƣơng Gia tộc phụ hệ và Chống nam

quyền để phân tích về gia đình Việt Nam thể hiện qua ca dao:

Page 20: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

19

"Đứa con không là gì hết, ngƣời đàn bà không là gì hết, con ngƣời

không là gì hết. Cha là tất cả, chồng là tất cả, đàn ông là tất cả. Đó là

chân lý phụ quyền của Nho giáo, mà giai cấp sĩ phu vẫn muốn dùng

làm luân lý nền tảng của xã hội Việt Nam cũ, bởi nó rất thích hợp với

chế độ quân quyền và kinh tế nông nghiệp, hai nguồn quyền lợi của giai

cấp ấy. Nhƣng chế độ quân quyền với trạng thái nông nghiệp ở xứ ta

cũng mang một hình thức đặc biệt không giống xã hội Trung Quốc.

Cho nên chế độ gia tộc Việt Nam chỉ tiến đƣợc đến khuôn khổ phụ hệ

là ngừng lại, không đủ điều kiện chuyển sang khuôn khổ phụ quyền

tuyệt đối nhƣ ở Trung Hoa. Vì thế mà ở trong dân gian luôn luôn lƣu

hành một sức chống nam quyền, chống phụ quyền, chống Nho giáo rất

là mạnh mẽ." [63:102].

Trong tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca dao Việt

Nam (1960), Hằng Phƣơng viết: "Dƣới chế độ phong kiến, mặc dầu bị đàn áp

thậm tệ, bị luân lý phong kiến mê hoặc, nhồi sọ, nhƣng những tƣ tƣởng chống

đối vẫn nẩy nở và phổ biến rộng rãi trong câu ca tiếng hát dân gian." [122:1].

Tác giả nêu lên những nội dung có tính chất chống đối trong ca dao là:

- Những nỗi lo âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xƣa.

- Cƣỡng ép hôn nhân.

- Tảo hôn.

- Đa thê

- Cảnh góa bụa.

- Mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng.

- Không dân chủ trong gia đình.

Vào năm 1960, viết nhƣ trong tiểu luận thể hiện một tinh thần chống đối

phong kiến đáng trân trọng. Công trình nghiên cứu tuy còn sơ lƣợc nhƣng

cũng đã nêu lên diện mạo phía trái của gia đình Việt Nam; tuy nhiên, nếu

không nhìn sang phía phải, thì e rằng sẽ không tìm ra những truyền thống quý

báu trong quan hệ gia đình ngƣời Việt để gìn giữ và phát huy.

Nguyễn Nghĩa Dân chia tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời thành hai loại:

một loại về lao động, học tập, tu dƣỡng rèn luyện bản thân, và loại về đạo làm

ngƣời trong quan hệ gia đình. Tác giả viết:

"Tục ngữ, ca dao nêu bật truyền thống hiếu thảo của con đối với

cha mẹ,"… "Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem

nhƣ một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con

ngƣời."[19:56].

Page 21: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

20

"Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tƣợng bất

hiếu đƣợc lƣu truyền nhƣ kinh nghiệm xấu..."

"Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi

và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này..." [21:57].

"Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận." [21:58].

Phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong chuyên luận trên bẩy chục

trang, do đó chỉ nêu đƣợc những ý chính mang tính nhận định khái quát, không

đi sâu phân tích, chứng minh. Trong khi phân tích, dẫn chứng, tác giả cũng

trích dẫn tục ngữ, ca dao.

Vũ Ngọc Phan viết:

"Trong chế độ phong kiến, việc quy định tài sản đối với phụ nữ rất

là khe khắt. Việc quy định ấy chủ yếu làm cho phụ nữ không bao giờ

đƣợc độc lập về kinh tế, dù chính phụ nữ đã góp phần xây dựng kinh tế

gia đình:

Hỡi cô cắt cỏ đồng mầu!

Chăn trâu cho khéo làm giầu cho cha.

- Giàu thì chia bảy chia ba,

Phận em là gái đƣợc là bao nhiêu!

Trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ tám

và thứ chín đã quy định về phụ nữ: "Khi chồng chết, phải thƣơng yêu

con vợ trƣớc hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không đƣợc

chiếm đoạt làm của riêng mình.", "Khi chồng chết mà mình chƣa có

con, thì phải ở lại nhà chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm

chuyển vận tài sản nhà chồng đem về nhà mình". [99:338].

"Nhƣng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân

dân, tƣ tƣởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo.

Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ƣng thuận, thì họ cũng không

kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh:" [114:339].

Vũ Ngọc Phan còn đề cập đến những vấn đề khác trong quan hệ gia đình

nhƣ: mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tam

tòng trói buộc ngƣời phụ nữ.

Giáo sƣ Đinh Gia Khánh viết:

“Điều 307 Lê triều hình luật quy định rằng ngƣời chồng xa cách

vợ năm tháng, không thăm hỏi đi lại thì có thể bị mất vợ. Đã có con với

nhau rồi thì gia hạn từ năm tháng lên một năm. Nếu vì công sai (đi việc

công) thì bất luật (tức là có thể vắng nhà lâu, không bàn tới kỳ hạn).

Page 22: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

21

Nhƣ vậy là quyền lợi và hạnh phúc ngƣời phụ nữ đƣợc coi trọng

và đƣợc bảo vệ, trái hẳn với quan niệm nam tôn nữ ty của Nho giáo.

Điều lệ thi hành từ năm Hồng Đức thú hai (1471) quy định rất rõ

quyền lợi của phụ nữ trong việc thừa kế gia sản.”

…“Nhƣ vậy là trong gia đình, con gái cũng đƣợc coi bình đẳng

nhƣ con trai. Thật là trái với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc”, “nhất nam

viết hữu, thập nữ viết vô” theo lễ giáo của nho gia.” [61: 285].

Nguyễn Tấn Long và Phan Canh nhấn mạnh đến luật pháp của phong

tục, nó khiến cho chế độ cai trị phải tôn trọng lề thói của địa phƣơng. Các tác

giả liên hệ: ''Trong thi ca bình dân, những tầng lớp phụ nữ đã nối tiếp nhau qua

nhiều thế hệ, nói lên ý thức chống đối của họ, cho nên, ngoài sự phát triển mức

sống của hệ thống kinh tế, sự chống đối giữa ý thức cai trị và ý thức tục lệ

chính là mầm mống phân chia trong hệ thống chính trị." [61:81].

Phân tích quan niệm về chế độ gia đình, các tác giả nêu ra 11 vấn đề là:

- Ảnh hƣởng của chế độ phụ hệ.

- Ý thức bất mãn trong chế độ phụ hệ.

- Nỗi khổ cực trong sinh hoạt gia đình bình dân.

- Ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình.

- Ý thức về giáo dục gia đình.

- Những khắc khoải của tình yêu qua phong tục lễ giáo.

- Hiếu đạo với ông bà, cha mẹ.

- Tình anh em.

- Tình vợ chồng.

- Tình thân thuộc.

- Tình làng xóm.

Trong quá trình phân tích, các tác giả đã nêu lên ảnh hƣởng của chế độ

phụ quyền vào gia đình ngƣời Việt, thể hiện ở ý thức của con ngƣời theo quan

điểm Nho giáo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nghĩa là: ở

nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con (trai).

Trong Thi ca bình dân Việt Nam, các tác giả cũng phân tích theo ba nội

dung của giáo lý tam tòng:

“Theo phân tích trên, chúng ta căn cứ vào tục ngữ, ca dao Việt

Nam để nhận xét, thì ngƣời Việt Nam không chống chế độ phụ hệ, mà

chống chế độ phụ quyền."

... "Ngƣời đàn bà Việt Nam thƣơng chồng và theo chồng trên căn

bản, không phải bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất từ tình thƣơng, ở

Page 23: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

22

lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Bởi vậy, chúng ta thấy trong tâm tƣ

họ có cái gì tha thiết, nhƣ:

Vai mang khăn gói theo chồng

Đắng cay thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam." [72:197-198].

Các tác giả nhận xét rằng ngƣời đàn bà bình dân đã chống lại chế độ phụ

quyền bằng cách lật đổ hình tƣợng ngƣời đàn ông, chỉ rõ những thứ xấu xa của

ngƣời đàn ông, phủ nhận ý thức tôn thờ ngƣời đàn ông:

"Cho nên, nếu ngƣời đàn ông đem giá trị ngƣời đàn bà hạ nhục để

khống trị9, thì ngƣời đàn bà cũng đem giá trị ngƣời đàn ông hạ nhục để

chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt Nam, ..."

[72:203].

"Sự khinh miệt giữa ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà chứng tỏ ý

thức chống đối mãnh liệt. Trong lúc chế độ phụ quyền bắt buộc ngƣời

đàn bà phải sống theo đạo tam tòng, mà ngƣời đàn bà lại đem những

thói hƣ, tật xấu của ngƣời đàn ông ra châm biếm, khác nào họ dùng

những mũi tên độc bắn thẳng vào nền phong kiến, đập vỡ những áp

bức, bất công mà gia đình Việt Nam đã chịu ảnh hƣởng xã hội Trung

Quốc.”

... "Tình thƣơng của họ đã đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ

cha. Thực ra, không phải họ bất hiếu, hay quên ơn cha mẹ, mà chính vì

họ cảm thấy chế độ phụ quyền đem đến cho đời sống họ những bất

công, những thảm trạng mà chính họ phải gánh chịu hậu quả." [72:205].

..."Tóm lại, giáo lý "tam tòng" của Khổng Mạnh đã bị đổ nát.

Dòng lịch sử đấu tranh chống phụ quyền của ngƣời đàn bà chiến thắng,

phá vỡ hoàn toàn cái hình tƣợng tôn thờ đàn ông. Trong khi chống phụ

quyền, họ đã tỏ ra một thái độ cƣơng quyết cực đoan, trắng trợn. Họ đòi

bình quyền với đàn ông về mọi phƣơng diện.

Nhƣng, cƣơng quyết và cực đoan chƣa phải là lợi khí mầu nhiệm

trong lịch sử đấu tranh của họ. Điều thành công là họ đã khéo lôi cuốn

đàn ông, lớp ngƣời tân tiến, cùng đứng chung trong ý thức chống đối

của họ để tạo thành một phong trào giải phóng phụ nữ." [72:220-221].

Nhận định trên đây có nét cực đoan, đã đối lập tuyệt đối ngƣời đàn ông

với ngƣời đàn bà. Về phƣơng pháp tiếp cận nội dung ca dao, không nên coi

những nội dung chống lại ngƣời đàn ông là của riêng ngƣời đàn bà, vì đó,

chính xác hơn, là ý thức phê phán của cả cộng đồng đối với những thói hƣ tật

9 Tác giả dùng khống trị chứ không phải là thống trị.

Page 24: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

23

xấu trong xã hội. Mặt khác, chống phụ quyền không phải bằng cách bêu xấu

ngƣời đàn ông, cũng không phải bêu xấu ngƣời đàn ông là nhằm chống phụ

quyền. Đúng ra, đó là sự nhìn nhận khách quan của các tác giả dân gian, không

bị ràng buộc bởi ý thức phụ quyền cực đoan, đã phê phán đúng những biểu

hiện xấu xa của một số ngƣời đàn ông trong xã hội. Về mặt thi pháp, không

nên phân tích nhân vật và hình tƣợng trong tục ngữ, ca dao theo cách phân tích

của văn học thành văn, bởi vì văn học thành văn là sản phẩm của một cá nhân,

mỗi tác phẩm là một sản phẩm riêng biệt, nhân vật, hình tƣợng trong đó mang

tính độc lập tƣơng đối, có thể đƣợc nhìn nhận một cách độc lập; trong khi đó

tục ngữ, ca dao là tác phẩm của tập thể, thể hiện ý thức của cả một cộng đồng,

không những thế lại đƣợc hình thành và hoàn thiện trong cả một quá trình lịch

sử, cũng vì vậy, từng đơn vị tục ngữ, ca dao dù có khả năng đứng độc lập vẫn

có mối quan hệ mật thiết với nhau, muốn nhìn nhận chính xác những vấn đề

mà nó đề cập thì phải nghiên cứu một cách tổng thể theo hệ thống. Cho nên

cách phân tích nhân vật ngƣời đàn bà nhƣ trên là không phù hợp.

Về ý thức bảo vệ, xây dựng gia đình, các tác giả của Thi ca bình dân

Việt Nam viết rằng dân tộc Á Đông coi trách nhiệm đối với gia đình là bổn

phận thiêng liêng, ý thức ấy đƣợc thể hiện mạnh mẽ trong ca dao:

"Về ý thức gia đình họ (tức ngƣời bình dân) không cho yếu tố tài

năng là căn bản, mà cho yếu tố hòa thuận là quan trọng thì đó chính là

một triết lý sâu xa mà chúng ta không thể xem thƣờng."

"Muốn tạo hòa khí gia đình, vợ chồng thƣờng lấy sự nhịn nhục

làm đầu."

..."Tuy nhiên, thời xƣa dƣới chế độ phụ quyền của nền móng

phong kiến, ngƣời đàn bà bị lắm điều áp chế, thành thử ý thức nhịn

nhục chỉ có trong ngƣời vợ." [72:283].

Về những khắc khoải của tình yêu qua tập tục lễ giáo, có những ý chính

nhƣ sau:

"Quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đƣơng của con chính là

nguyên nhân phát sinh những tâm hồn khắc khoải của nam nữ thanh

niên thời bấy giờ." [72:336].

"Tóm lại, đối với phong tục lễ giáo, ngƣời bình dân bao giờ cũng

cố sức bảo vệ và duy trì. Chính nhờ sự bảo vệ và duy trì ấy mà ngày

nay nƣớc Việt Nam ta còn đƣợc những mầu sắc dân tộc.” [72:342-343].

Về tình vợ chồng, các tác giả viết: "Trƣớc nhất, chúng ta thƣờng thấy

trong ca dao Việt Nam, ngƣời bình dân quan niệm sự sống chung giữa vợ

chồng là một cái "đạo". [72:491]. Các tác giả đã phân tích khá tỷ mỉ các mối

Page 25: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

24

quan hệ của tình vợ chồng khi gần gũi, khi sóng gió, khi xa cách, rồi đi đến kết

luận:

"Tóm lại, đối với tình vợ chồng, ngƣời bình dân gọi là cái đạo. Cái

đạo theo quan niệm của họ là bình đẳng, tƣơng thân và chung thủy,

khác với đạo "tam tòng" của Khổng Mạnh. Trong lúc đạo "tam tòng"

tƣớc đoạt hết quyền của ngƣời đàn bà, bắt ngƣời đàn bà phải sống lệ

thuộc vào đàn ông, tạo trong gia đình quý tộc sự bất bình đẳng, thì đạo

vợ chồng của ngƣời bình dân ngƣợc lại dùng ý thức sinh hoạt làm nghĩa

vụ, khiến cho nền tảng bình đẳng đƣợc bảo vệ và duy trì. Và ý thức dân

chủ cũng chính là ý thức của gia đình bình dân thuở xƣa." [72:418].

Nói về gia đình nhà nho, Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu đã nhận xét:

"Tuy thế, trong những gia đình gia thế, tay hòm chìa khoá lại là ở

ngƣời đàn bà, ngƣời chồng giao hết tiền nong cho vợ và không bao giờ

kiểm soát sự chi tiêu của vợ. Ngƣời đàn bà đƣợc coi là nội tƣớng, chủ

phụ, tuy về danh nghĩa là nghe theo lời chồng, giúp chồng, nhƣng thực

tế thì là ngƣời chủ trì việc nhà."[57:330-331], "Nhƣng quan hệ giữa nam

nữ phải hình dung theo quan hệ giữa âm và dƣơng, có chủ có tùng,

không thể thiếu nhau và phải dựa vào nhau. Một bên sinh một bên

dƣỡng, một bên bắt đầu, khởi xƣớng, một bên hoàn thành, hỗ trợ cho

nhau. Cho nên trong nhà đàn ông là chủ, đàn bà phải thuận tùng, nhƣng

đàn ông phải yêu thƣơng kính nể vợ."[57:331].

Nhà giáo Nguyễn Nghĩa Dân nghiên cứu một cách tổng thể tục ngữ, ca

dao theo phƣơng pháp nghiên cứu văn học dân gian, và đặc biệt là phƣơng

pháp quy nạp, để luận bàn về đạo làm ngƣời đƣợc thể hiện qua tục ngữ, ca

dao:

"Kinh tế nƣớc ta chủ yếu là nông nghiệp, gia đình vừa là đơn vị

lao động vừa là tế bào của tổ chức xã hội, lại đề cao phụ quyền nên ở

gia đình có nhiều "công thức" về đạo làm ngƣời do giai cấp phong kiến

thống trị áp đặt nhƣ phụ: từ, tử: hiếu, phu: xƣớng, phụ: tùy, tam tòng, tứ

đức; trọng nam, khinh nữ. Trong gia đình cũng có những thành kiến về

"bà gia10

nàng dâu", về "dì ghẻ con chồng", về "anh em rể, chị em dâu",

về "ông chú mụ o"... làm cho quan hệ gia đình thêm phức tạp. Gia đình

rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nông thôn, từ đó có những

quan hệ hẹp hòi "Một giọt máu đào hơn ao nƣớc lã", "Chín đời họ mẹ

còn hơn ngƣời dƣng". Tục ngữ về đạo làm ngƣời một mặt làm nhiệm

10

Từ bà gia do tác giả viết theo phƣơng ngữ, có nghĩa là mẹ chồng.

Page 26: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

25

vụ phản ánh, mặt khác đấu tranh chống lại những tập tục thành kiến nói

trên" [21:24].

Nói đến giai đoạn thế kỷ XV, tác giả nhận định:

“Chính trong thời kỳ này, tục ngữ về đạo làm ngƣời chịu ảnh

hƣởng tƣ tƣởng nhân văn của Nho giáo và Phật giáo có thể thẩm thấu từ

trên xuống hoặc hoặc từ ngoài vào do trí thức Nho hoặc Phật (kể cả nho

sĩ bình dân) làm chức năng sáng tác, đúc kết hoặc truyền đạt." [21:25].

"Cho nên, trƣớc kia cũng nhƣ hiện nay, trong đạo làm ngƣời của

Việt Nam vẫn tồn tại những tƣ tƣởng nhân văn của đạo đức Á Đông

nhƣng điều cần xác định là qua tục ngữ hoặc ca dao về đạo làm ngƣời,

những tƣ tƣởng đó đã đƣợc Việt hóa, hòa vào bản sắc dân tộc, vào tinh

hoa văn hóa chung về dựng nƣớc và giữ nƣớc hình thành từ hàng nghìn

năm qua." [21:26].

"Tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm ngƣời thể hiện không chỉ

tƣ tƣởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống trong đó nổi lên

nếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung,

gắn bó đoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nƣớc và giữ nƣớc."

[21:27].

"Nếp sống cộng đồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn

từ những điều kiện kinh tế nông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt

nguồn từ hoàn cảnh xã hội thƣờng xuyên phải đối phó với thiên tai và

ngoại xâm". [21:28].

"Quan hệ dọc trong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ,

quan hệ vợ chồng là chữ thuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên

là thờ kính, "Uống nƣớc nhớ nguồn"... "Cách xử lý trong gia đình bắt

nguồn từ sự thƣơng yêu, hòa hợp." [21:29].

"...trong quan hệ nếp sống cộng đồng ta cũng có những hạn chế

nhƣ gia trƣởng, cục bộ địa phƣơng, hủ tục, mê tín dị đoan... là những

nhƣợc điểm cần loại trừ khỏi đời sống hiện nay." [21:32].

Tác giả chia tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời thành hai loại: một loại về

lao động, học tập, tu dƣỡng rèn luyện bản thân và loại về đạo làm ngƣời trong

quan hệ gia đình. Tác giả viết:

"Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem nhƣ

một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con ngƣời."

[21:56].

"Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tƣợng bất

hiếu đƣợc lƣu truyền nhƣ kinh nghiệm xấu..."

Page 27: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

26

"Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi

và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này..." [21:57].

"Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận." [21:58].

Nhìn chung, phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong công trình

khảo luận trên bẩy chục trang, do đó chỉ nêu đƣợc những ý chính mang tính

nhận định khái quát. Tác phẩm còn có phần sƣu tập, lựa chọn, giải thích tục

ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm ngƣời theo 4 chuyên mục, trong đó có

chuyên mục thứ hai là Tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời trong quan hệ gia

đình.

Trong Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ

qua một số ca dao - tục ngữ, Trần Thúy Anh đề cập đến thế ứng xử theo một

tuyến mở rộng từ gia đình, qua họ hàng – làng xóm – vùng miền - đất nƣớc.

Theo định hƣớng “tiếp cận văn học dân gian từ ngả đƣờng văn hoá học”, tác

giả rút ra mấy thế ứng xử: có một tinh thần nhân văn dân gian, sự ứng biến,

tính dung hợp – hoà hợp – khoa học, thế ứng xử nƣớc đôi, lƣỡng tri, đa tri,

hành vi tình nghĩa, ứng xử bằng tình nghĩa.

Điểm lại nhƣ trên và so sánh, chúng tôi nhận thấy giữa các nhà nghiên

cứu có sự không thống nhất trong nhận định về sự kiềm tỏa của Nho giáo trong

đời sống xã hội (một bên coi sự ảnh hƣởng của Nho giáo vào xã hội Việt Nam

là sâu và rộng, tới tận gốc rễ, một bên coi sự ảnh hƣởng ấy bị hạn chế nhiều).

Theo chúng tôi, không thể nói nhƣ các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam:

"...nền tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnh hƣởng

vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ." [73:197]. Chúng tôi đồng tình với

nhận định của Quang Đạm và Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu: Quang Đạm nói

rằng sự kiềm tỏa của Nho giáo bị hạn chế khi đi sâu xuống các cơ tầng xã hội

ở bên dƣới. Phó giáo sƣ Trần Đình Hƣợu cũng đã viết: "Nho giáo ảnh hƣởng

sâu đến loại gia đình nhà nho, nhƣng cũng thấm vào toàn bộ xã hội, tức là ảnh

hƣởng đến cả gia đình nông dân ở một số mặt. Cả hai loại gia đình đó cho ta

thấy hình ảnh chung của gia đình truyền thống Việt Nam."

Với những cách chia nhóm phân loại, lƣợc giải trên đây, chúng tôi thấy

có hai điểm nổi bật là:

- Thứ nhất, về phong tục tập quán

Các tác giả nêu những ý chính là: Chế độ phụ quyền rộng rãi. Trọng nam

khinh nữ, quyền ngƣời chồng bao giờ cũng nặng hơn quyền ngƣời vợ. Tục vợ

lẽ cũng là một tục trái với văn minh đời nay. Thích con trai. Trên kính dƣới

nhƣờng, ở cho trong ấm ngoài êm, lấy hoà mục làm đầu. Dựng gia tộc là một

việc làm đƣợc chú trọng. Nhƣng gia đình quây quần với nhau thì nghĩa khí

Page 28: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

27

hẹp, kiến thức hẹp hòi, không bằng đƣợc ngƣời có giao tiếp rộng rãi. Phụng sự

tổ tiên rất thành kính. Đạo làm con: hiếu thảo - biết kính trọng, thƣơng mến,

biết vâng lời, biết phụng dƣỡng cha mẹ. Sự báo hiếu cho cha mẹ ở nghi lễ tang

ma lạc hậu phiền quá thể, ăn uống theo kiểu trả nợ miệng, làm cho nhiều ngƣời

khổ vì hủ tục. Đạo vợ chồng cƣ xử với nhau, trọng nhất là hai chữ hoà thuận.

Ngƣời chồng trọng nhất là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết hạnh

với chồng. Phụ nữ phải đủ tứ đức mới gọi là hiền, lại có nghĩa tam tòng nữa.

Nghĩa vụ của ngƣời chồng đối với vợ thì chỉ ăn ở cho đúng đắn, biết thƣơng

yêu, quý trọng vợ, nhất là có tài trí, khiến cho vợ đƣợc nƣơng nhờ. Vợ chồng

đồng tâm hiệp lực.

Gia đình là nền tảng của xã hội, có gia đình mới có xã hội.

Ở Việt Nam, gia đình là một nền tảng vững chắc của xã hội. Gia đình

Việt Nam bao quát rất rộng, mọi ngƣời đều có tình thân thuộc với nhau qua

mọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cả hai bên nội ngoại.

Nhìn tổng quát, tuy chƣa đi sâu theo chuyên đề gia đình, nhƣng những

tác phẩm đƣợc dẫn trên đây đều đã nêu lên những đặc trƣng chính của gia đình

ngƣời Việt.

- Thứ hai, về nội dung tục ngữ, ca dao

Thông qua việc khảo sát tục ngữ, ca dao, các tác giả phân tích về quan

niệm, cách ứng xử, những biểu hiện trong phong tục tập quán của ngƣời Việt

xung quanh vấn đề gia đình trên những nội dung lớn là ảnh hƣởng của chế độ

phụ hệ, phụ quyền và triết thuyết Khổng Mạnh vào gia đình Việt Nam, sự

chống lại triết thuyết ấy, những nội dung chung về gia đình, quan hệ cha mẹ

con, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh chị em.

Các tác giả nhận định chế độ phụ quyền có ảnh hƣởng đến gia đình Việt

Nam, đã tạo điều kiện cho ý thức tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử

tòng tử thâm nhập.

Những biểu hiện chính của thái độ chống lại triết thuyết Khổng Mạnh,

theo các tác giả, là:

+ Ngƣời phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền rất mạnh mẽ, họ mỉa mai,

nổi loạn, đạp đổ oai quyền đàn ông. Đem thói hƣ tật xấu của ngƣời đàn ông ra

châm biếm, đó cũng là cách tấn công vào chế độ phong kiến.

+ Tình thƣơng của ngƣời phụ nữ đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ

cha, nhƣng sự chống đối về ý thức “tại gia tòng phụ” không quyết liệt lắm.

+ Lôi kéo đàn ông, tạo thành phong trào giải phóng phụ nữ.

Về những đặc tính của gia đình ngƣời Việt, các tác giả nêu:

Page 29: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

28

+ Những nét chung nhất là: Tƣơng thân tƣơng ái. Muốn tạo hoà khí gia

đình thì cách ứng xử phổ biến là nhịn nhục, nhƣng chỉ có phụ nữ nhịn nhục.

Không lấy tình yêu trai gái làm yếu tố chính cho tình cảm gia đình, mà lấy tình

cảm sinh hoạt làm căn bản. Gia đình là cơ sở giáo dục con ngƣời. Ngƣời dân

Việt đã bảo vệ phong tục lễ giáo, nhờ thế mà ngày nay ta còn đƣợc những mầu

sắc dân tộc. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu đƣợc xem nhƣ

một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con ngƣời. Ngày nay,

đạo thờ cúng tổ tiên còn đƣợc duy trì và tồn tại chính là nhờ ý thức hiếu đạo

của ngƣời bình dân. Gia đình rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nông

thôn, từ đó có những quan hệ hẹp hòi. Trong đạo làm ngƣời của Việt Nam vẫn

lƣu giữ những tƣ tƣởng nhân văn của đạo đức Á Đông nhƣng điều cần xác

định là qua tục ngữ, ca dao, những tƣ tƣởng đó đã đƣợc Việt hóa, hòa vào bản

sắc dân tộc, góp phần tạo ra tinh hoa văn hóa chung từ thời dựng nƣớc, trải qua

hàng nghìn năm hình thành và phát triển. Tục ngữ, ca dao Việt Nam thể hiện

không chỉ tƣ tƣởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống, trong đó nổi lên

nếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung, gắn bó

đoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nƣớc và giữ nƣớc. Quan hệ dọc

trong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ, quan hệ vợ chồng là chữ

thuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên là thờ kính, "Uống nƣớc nhớ

nguồn”. Cách xử lý trong gia đình bắt nguồn từ sự thƣơng yêu, hòa hợp. Tình

nghĩa là chất keo sơn gắn bó mọi thành viên trong một gia đình, một địa

phƣơng và trong cả nƣớc, tạo nên sự cố kết vững chắc. "Nghĩa" là một giá trị

đạo đức có trong luân lý Khổng Mạnh nhƣng "nghĩa tình" lại là sáng tạo mang

bản sắc dân tộc Việt. Tình nghĩa làm cho quan hệ giữa ngƣời với ngƣời Việt

Nam bền chặt trong từng cộng đồng, từ gia đình đến xã hội. Nếp sống cộng

đồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế

nông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội thƣờng

xuyên phải đối phó với thiên tai và ngoại xâm. Trong quan hệ nếp sống cộng

đồng Việt cũng có những hạn chế nhƣ gia trƣởng, cục bộ địa phƣơng, hủ tục,

mê tín dị đoan... Cùng với xu hƣớng phản phong của văn học dân gian Việt

Nam, tục ngữ, ca dao về đạo làm ngƣời chống lại những thói hƣ tật xấu,

những hành vi vô đạo đức, phê phán những hiện tƣợng bất hiếu đƣợc lƣu

truyền nhƣ kinh nghiệm xấu, cần phải khắc phục...

+ Về mối quan hệ cha mẹ con: Tục ngữ, ca dao nhấn mạnh quan hệ mẹ

con, ghi lại thiên chức và tình cảm của ngƣời mẹ. Tục ngữ, ca dao cũng nêu

đƣợc truyền thống hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Có tác giả khẳng định

rằng qua tục ngữ, ca dao thấy quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đƣơng của

Page 30: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

29

con. Tục ngữ, ca dao phê phán những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ của con

đối với mẹ.

+ Về mối quan hệ vợ chồng: Tục ngữ, ca dao cho ta thấy rằng trong quan

niệm của ngƣời Việt, chung sống vợ chồng là một đạo lý. Vì vậy quyền hạn

giữa ngƣời chồng và ngƣời vợ không phải chỉ có một chiều mà phải đặt trên

tính chất tƣơng ứng và bình đẳng. Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và

hòa thuận. Ngƣời phụ nữ Việt theo chồng, nhƣng không theo kiểu “tòng phu”

của Nho giáo, không phải theo để hầu hạ, mà để chia sẻ niềm vui, là nghĩa vụ

tƣơng thân tƣơng ái và bình đẳng xây dựng trên ý thức đồng lao cộng lực,

chung thủy, khác với đạo "tam tòng" của Khổng Mạnh. Ngƣời phụ nữ Việt

Nam thƣơng chồng và theo chồng trên căn bản, không phải bị áp bức, bắt

buộc, mà phát xuất từ tình thƣơng, từ lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Trong

luật lệ của triều đình phong kiến, có một số trƣờng hợp, nhƣ Lê triều hình luật

có những điều khoản tỏ ra coi trọng phụ nữ.

+ Về mối quan hệ anh chị em: Trong tục ngữ, ca dao, tình anh em đƣợc

nói tới ít, nhƣng cũng thiết tha. Quan hệ anh em có khi bị ý thức tƣ hữu chi

phối, nhƣng tình huyết thống vẫn giữ một vai trò thiêng liêng.

4. NHÂN TỐ TÁC GIẢ CỦA TỤC NGỮ, CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA

ĐÌNH.

Tác giả của tục ngữ, ca dao chủ yếu là nông dân. Xã hội Việt Nam trƣớc

tháng 8 năm 1945 có tới 95% dân chúng mù chữ. Ngƣời đƣợc học chữ Hán hay

chữ quốc ngữ thời ấy không nhiều, hay nói đúng là quá ít ở nông thôn Việt

Nam. Phƣơng thức sáng tác ngẫu hứng, truyền miệng trong môi trƣờng sinh

hoạt dân dã sản sinh những câu ca dao chan chứa tình cảm và hàm chứa nhiều

tâm sự. Phƣơng thức canh tác nông nghiệp cổ truyền, những luật tục của họ

tộc, làng quê trong một xã hội tiến triển chậm chạp là môi trƣờng nẩy sinh

những câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm của con ngƣời đối với tự nhiên, xã hội

và gia đình để truyền lại các các thế hệ kế tiếp.

Tuy nhiên, nếu khảo sát hàng nghìn câu ca dao, tục ngữ còn lƣu giữ đến

hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của những nhà nho trong việc sáng

tác và phổ biến những câu ca dao, tục ngữ. Cũng cần nói thêm rằng ở một số

bài viết về tác giả của tục ngữ và ca dao, một số nhà nghiên cứu đã minh chứng

về sự hiện diện của tầng lớp nho sĩ trong các cuộc hát ví phƣờng vải, những bài

diễn ca tế thần, hát trống quân...

Cũng không là ngoại lệ trong số 730 câu tục ngữ và 1.179 câu ca dao nói

về gia đình có ghi dấu ấn của nhà nho. Điều này thể hiện ở chỗ họ đã đƣa

những câu tục ngữ, thành ngữ của Trung Quốc, những châm ngôn của Nho

Page 31: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

30

giáo thành tục ngữ, ca dao của ngƣời Việt. Nhƣ "phu xƣớng, phụ tuỳ", "Tại gia

tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", "phu quí, vợ vinh", "Trai làm nên

năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng", "Hổ phụ sinh hổ tử", "Hiếu

thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi", "Anh

thuận em hòa là nhà có phúc", "Quyền huynh thế phụ",... Dấu ấn của nhà nho

còn in đậm trong những câu ca dao nói về sinh hoạt gia đình, mà đặc biệt là

những gia đình nhà nho lấy việc học hành, thi cử làm trọng:

- Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi

Chồng tôi quyết đỗ khoa này

Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng

Bõ khi xắn váy quai cồng

Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.

- Một chữ kinh mẹ, một chữ thờ cha

Dẫu mà trăng xế, bóng anh qua cũng đành.

Nhƣ vậy, rõ ràng là với tƣ cách tác giả dân gian, nhà nho đã dân gian hóa

Nho giáo.

Trong số các nhà nho, chúng ta cần chú ý đến các nhà nho cấp thấp, họ là

hàn nho, những ngƣời đèn sách theo nghiệp thi cử nhƣng không đỗ đạt đành

phải quay về làng, sống với làng. Do có chữ nghĩa nên đƣợc dân làng kính

trọng và họ tham gia vào các sinh hoạt văn hóa của gia đình, làng xóm, thực

hành phổ biến tƣ tƣởng Nho giáo, cả cái tích cực và tiêu cực của tƣ tƣởng đó.

Phó Giáo Sƣ Nguyễn Từ Chi đã nêu lên những nhận xét xác đáng về tầng lớp

Nho sĩ ở nông thôn nhƣ sau:

Các nhà Nho mà kiến thức sách vở tạo ra một uy thế lớn trƣớc một

dân chúng gồm những nông dân hầu đều mù chữ tự tập họp thành

một tầng lớp xã hội riêng, có trẻ cũng từ thế kỷ XVII. Về mặt kinh

tế, tầng lớp ấy không tách lhỏi nông dân, trái lại, rất gắn bó với

nông dân. Quả vậy, trừ một số ít nhờ thi đỗ mà ra làm quan, đại đa

số các nhà Nho vẫn tiếp tục sống tại làng mình cuộc sống khổ ải

của ngƣời nông dân thƣờng lấy nghề dạy học làm lẽ sống. ẤY thế

mà chính cái đa số vô danh đó, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, đã

du nhập sâu vào nông thôn, vào từng xóm, từng nhà một, không

chỉ mô hình Nho giáo, mà cả nền đạo lý hàng ngày thoát thai từ

những lời dạy của Khổng Tử. [329]

Page 32: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

31

Vì thế, khi tiếp cận tục ngữ, ca dao nói về quan hệ gia đình, chúng ta dễ

dàng tìm ra nhiều câu truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo bên cạnh những câu phản

kháng. Từ đó chúng ta hiểu rõ thêm tính hai mặt của triết lý sống dân gian.

TIỂU KẾT

Chúng tôi đã nêu lên những định nghĩa khái niệm về gia đình, tục ngữ, ca

dao, phong tục tập quán trong quan hệ gia đình để thống nhất hƣớng lựa chọn

tƣ liệu, hƣớng tiếp cận nội dung và phƣơng pháp phản ánh của tục ngữ, ca dao.

Chúng tôi phân tích một số công trình chính trong nƣớc có đề cập đến gia

đình truyền thống Việt Nam để làm chỗ dựa cho sự so sánh sau này khi khảo

cứu tục ngữ, ca dao ngƣời Việt về gia đình. Với quan niệm tục ngữ, ca dao,

cũng nhƣ văn học nói chung, là tấm gƣơng phản chiếu hiện thực, cho nên

thông qua tục ngữ, ca dao, chúng tôi tìm ra những nét đặc trƣng của gia đình

ngƣời Việt truyền thống, qua đó góp phần tìm hiểu bản sắc dân tộc Việt.

Khảo sát những tác phẩm đã viết về tục ngữ, ca dao xoay quanh chủ đề

gia đình, chúng tôi chia ra hai loại ý kiến chính:

- Loại ý kiến thứ nhất nhận định: trong xã hội phong kiến, do ảnh hƣởng

sâu sắc đến tận gốc rễ của Nho giáo, và sự kiềm toả nghiệt ngã của lễ giáo

phong kiến, các mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là quan hệ vợ chồng, hết

sức căng thẳng, hôn nhân trong xã hội phong kiến không mang lại hạnh phúc

gia đình. Chống lại chế độ hà khắc ấy, ngƣời đàn bà đã nổi loạn, đạp đổ hình

tƣợng ngƣời đàn ông.

- Loại ý kiến thứ hai nhận định: sự ảnh hƣởng của Nho giáo đối với xã

hội Việt Nam tuy sâu sắc nhƣng cũng bị hạn chế, nhất là đối với gia đình nông

dân, cho nên trong quan hệ gia đình ngƣời Việt có nhiều yếu tố dân chủ, bình

đẳng.

Cuối cùng, chúng tôi đƣa ra một vài kiến giải về vai trò của nhà nho bị

thất thế sống ở làng quê trong việc sáng tác các câu tục ngữ, ca dao phản ánh

phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình của ngƣời Việt, và nội dung của

những câu này bị ảnh hƣởng nhất định của tƣ tƣởng Nho giáo.

Page 33: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

32

CHƢƠNG HAI

NHỮNG QUAN HỆ CHÍNH TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT

THỂ HIỆN QUA TỤC NGỮ

Sau khi thu thập và nhập 7.040 câu tục ngữ vào phần mềm, chúng tôi tiến

hành đánh dấu theo tiêu chí thể loại, nội dung, ghi chú những câu tục ngữ nói

về gia đình, trong đó có các quan hệ: Vợ chồng, Cha mẹ con, Anh chị em ruột,

dâu rể.

Trong việc khảo sát, phần mềm về tục ngữ đã giúp chúng tôi thống kê,

tổng hợp nhanh chóng các câu có cùng một tiêu chí. Chúng tôi đã đếm đƣợc số

câu về gia đình là 730 câu, bằng 10,36% tổng số câu tục ngữ. Đây là một tỷ lệ

khá cao, chứng tỏ ngƣời Việt rất quan tâm đến vấn đề gia đình. (Có thể lấy

một trƣờng hợp để so sánh: Nói về vấn đề thƣơng nghiệp, tục ngữ chỉ có 239

câu, bằng 3,39% tổng số câu tục ngữ, hoặc bằng 32,73% số câu nói về gia

đình).

1. Chiếm số lƣợng cao nhất là số câu nói về vợ chồng - gồm 285 câu,

chiếm 39,17% số câu nói về gia đình, có 229 câu về quan hệ cha mẹ con, tiếp

đến là anh chị em (40 câu), dâu rể (39 câu). Nhìn qua số lƣợng, có thể nhận

thấy rằng đối với ngƣời Việt, trong gia đình, đáng quan tâm nhất là quan hệ vợ

chồng, tiếp đó là quan hệ cha mẹ con, anh chị em, cuối cùng là dâu rể. Đó là lối

định giá trị rất thực tế, bởi vì suy cho cùng thì phải có vợ chồng mới có thể hình

thành nên các quan hệ khác trong gia đình, vợ chồng là trụ cột của một gia

đình. Cách định giá trị này rất phù hợp với gia đình cổ truyền ngƣời Việt, một

gia đình mà theo PGS. Nguyễn Từ Chi, “trong đại đa số các trƣờng hợp, chung

quy là gia đình hạt nhân: một cặp vợ chồng và con cái chƣa vợ chƣa chồng của

họ.” [330]

Sau đây là phần đi sâu khảo sát từng loại quan hệ trong gia đình qua tục

ngữ.

1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Phân loại 285 câu tục ngữ nói về quan hệ vợ chồng theo nội dung, thấy

nhƣ sau:

- 31 câu nói lên sự gắn bó vợ chồng, 4 câu ngƣợc lại.

- 93 câu về mối quan hệ vợ - chồng, 46 câu về mối quan hệ chồng - vợ.

- 20 câu về cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng.

- 87 câu về các tình huống tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng.

Page 34: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

33

- 3 câu về vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ.

- 2 câu về vợ chồng trong mối quan hệ với làng nƣớc.

- 44 câu về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng.

(Xin lƣu ý: có những câu tục ngữ mang nhiều ý nghĩa nên nhiều trƣờng

hợp một câu đƣợc thống kê ở 2, 3 tình huống khác nhau, do đó tổng số câu tục

ngữ trên đây không trùng hợp với tổng số câu tục ngữ đƣợc thống kê).

Thống kê trên cho thấy ngƣời Việt xƣa quan tâm nhìn nhận quan hệ vợ

chồng ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó đặc biệt quan tâm đến quan hệ

ứng xử giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với các thành viên trong gia đình và

với hàng xóm láng giềng.

1.1.Tình cảm vợ chồng

Nét đặc trƣng của ngƣời Việt là thủy chung, gắn bó với nhau. Điều này

đƣợc thể hiện nhất quán trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Khi khảo sát tục

ngữ, chúng tôi cũng có kết quả tƣơng tự. Về số lƣợng, số câu tục ngữ phản ánh

sự gắn bó vợ chồng nhiều gấp 5,25 lần số câu có nội dung ngƣợc lại (31/4).

Tuy mang đặc tính là thiên về lý trí, nhƣng khi đúc kết về sự gắn bó, chung

thủy trong quan hệ vợ chồng, tục ngữ lại biểu hiện đƣợc chiều sâu tình cảm

của ngƣời Việt xƣa. Có 10 cách thức thể hiện sự gắn bó, thủy chung. Cụ thể

nhƣ sau:

- Gắn bó trên phương diện vật chất: "Đói bụng chồng, hồng má vợ",

"Đói bụng chồng, đau lòng vợ", "Đói no một vợ một chồng, chia niêu sẻ đấu

đau lòng nát gan".

- Gắn bó trong sự hoà quyện thân thể và tinh thần: "Vợ chồng đầu gối

tay ấp", "Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời.", "Vợ chồng đồng tịch đồng sàng,

đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng lần", "Thia lia quen chậu, vợ chồng quen

hơi", "Vợ giống tính chồng, ngƣời ở giống tông chủ nhà", "Vợ chồng biết tính

nhau", "Làm quan hay quân, làm chồng hay vợ", "Làm tƣớng hay quân, làm

chồng hay vợ".

- Gắn bó trong sự tương hợp, hỗ trợ nhau: "Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ

hom", "Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom", "Vợ có chồng nhƣ rồng có vây, chồng

có vợ nhƣ cây có rừng", "Vợ chồng nhƣ đũa có đôi", "Xấu chàng hổ ai, xấu

thiếp hổ chàng".

- Gắn bó trong sự sở hữu: "Nhƣờng cơm nhƣờng áo không ai nhƣờng

chồng", "Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng đổi vợ xƣa nay chẳng lành".

- Gắn bó như một sự tất yếu: "Bà phải có ông, chồng phải có vợ", "Triều

đình có văn có vũ, trong nhà có mụ có ông".

Page 35: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

34

- Gắn bó trong sự an phận: "Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn

khéo cũng ra chồng ngƣời".

- Gắn bó bằng nhân nghĩa: "Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân

nghĩa","Vợ chồng là nghĩa già đời", "Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ

những lời thiệt hơn".

- Gắn bó bằng tình thương: "Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng".

"Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng", "Thƣơng chồng nên phải gắng công",

"Thƣơng chồng nên phải lầm than", "Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ",

"Thƣơng chồng phải khóc mụ gia", "Chồng em áo rách em thƣơng, chồng

ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời", "Gái thƣơng chồng đang đông buổi

chợ, trai thƣơng vợ nắng quái chiều hôm", "Chồng ta áo rách ta thƣơng".

- Gắn bó trọn đời: "Vợ chồng là nghĩa già đời", "Con nuôi cha không

bằng bà nuôi ông", "Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣơng", "Sống quê cha,

ma quê chồng."

- Gắn bó tạo nên sức mạnh: "Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng

cạn".

Tóm lại, sự thuỷ chung, gắn bó vợ chồng mà tục ngữ đúc kết thành quy

luật đƣợc biểu hiện cả trên phƣơng diện vật chất và phƣơng diện tinh thần, cả

ở góc độ đạo lý và góc độ tình cảm, cả ở trong sự hành xử và trong kết quả của

sự hành xử ấy. Về mặt đạo lý, các tác giả dân gian đã nhìn ra sự tất yếu của

việc gắn bó vợ chồng: đã là vợ chồng thì phải gắn bó, đã có chồng thì phải có

vợ; chính sự gắn bó ấy làm cho cuộc sống đƣợc cân bằng và phát triển. Mối

quan hệ tƣơng hỗ giữa hai vợ chồng cũng đã đƣợc chỉ ra: phẩm chất, hành

động của ngƣời này bao giờ cũng tác động sang ngƣời kia, cả vinh và nhục, cả

thành công và thất bại; qua sự đúc kết này, tục ngữ gián tiếp khuyên răn các

cặp vợ chồng trƣớc khi hành động phải suy xét cho kỹ tác động của việc mình

làm đến ngƣời kia thế nào, và nói chung là hãy sống có trách nhiệm với nhau.

Về phƣơng diện vật chất, tục ngữ nhìn nhận quan hệ vợ chồng trên hai yếu tố

cơ bản nhất của cuộc sống là ăn và mặc, biểu hiện qua hai cặp trạng thái đói -

no, lành - rách, thể hiện cách sống đạm bạc của ngƣời nông dân, cũng thể hiện

nhu cầu khá đơn giản của ngƣời nông dân về vật chất; mặt khác nói lên một

phẩm chất đáng quý của vợ chồng ngƣời Việt là do thủy chung, gắn bó, càng

khốn khó, họ càng thƣơng yêu nhau. Mặc dù bị quan niệm phong kiến đè nặng,

coi việc nói về chuyện chăn gối là điều cấm kỵ, thế nhƣng các tác giả dân gian

vẫn mạnh dạn chỉ ra rằng không những vợ chồng cần gần gũi với nhau về tình

cảm, mà còn phải gần gũi về thân thể - ấy là không những "quen hơi", "biết

tính" mà còn phải "chăn chiếu chẳng rời", là "đầu gối tay ấp". Tuy vậy, đậm đà

Page 36: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

35

nhất trong quan hệ vợ chồng vẫn là tình cảm. Đáng lƣu ý là trong số 285 câu

tục ngữ nói về vợ chồng, chỉ có một câu có từ yêu, còn chiếm ƣu thế là các từ

thƣơng, nghĩa (10 câu có từ thƣơng, 3 câu có từ nghĩa). Có lẽ, đây cũng là một

biểu hiện của đặc trƣng thể loại - tục ngữ thiên về lý trí, đòi hỏi trách nhiệm

cao trong quan hệ vợ chồng: trọng nhân nghĩa, giàu tình thƣơng. Suy nghĩ sâu

hơn, có thể thấy từ thƣơng có nghĩa rộng hơn từ yêu, trong thƣơng đã bao hàm

cả yêu, và có thƣơng, có nhân nghĩa là có sự bảo đảm cho một quan hệ lâu bền

giữa vợ chồng. Cùng với năm tháng, tình yêu có thể phai nhạt, nhƣng trong

quan hệ vợ chồng của ngƣời Việt, thì tình nghĩa lại ngày một đậm đà hơn. Vì

có tình thƣơng, có nhân nghĩa, nên cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng ngƣời

Việt dù có nhiều sắc thái nhƣng rất nhất quán: nếu may mà vợ chồng hòa hợp

thì "giữ" nhau, không "nhƣờng" cho ngƣời khác, nhƣng rủi mà vợ chồng

không cân xứng, ngƣời ta vẫn cam chịu, không "thay". Chính vì thế, tục ngữ

đã khẳng định một tất yếu là vợ chồng phải gắn bó đến già, gắn bó trọn đời,

không những vậy còn gắn bó với nhau khi đã sang thế giới bên kia. Sự gắn bó

ấy tạo nên sức mạnh giúp gia đình vƣợt qua mọi sóng gió cuộc đời, làm nên

đƣợc nghiệp lớn, mà câu tục ngữ tiêu biểu là "tát biển Đông cũng cạn".

Cuộc sống vốn phong phú, đa dạng, đa phƣơng. Xuất phát từ cuộc sống,

đúc kết kinh nghiệm sống, tục ngữ cũng có những câu mang nội dung trái

ngƣợc nhau. Trong 285 câu nói về vợ chồng, có 4 câu ngƣợc lại với sự gắn bó:

"Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa", "Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào

ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang", "Trai chê vợ mất của tay không, gái chê

chồng một đồng trả bốn.", "Chồng ăn chả, vợ ăn nem." Sự không gắn bó còn

thể hiện ở chỗ mâu thuẫn vợ chồng có thể nẩy sinh khi làm ăn thất bát: "Lúa

tháng bảy vợ chồng rẫy nhau.", "Lúa trỗ thập thòi, vợ chồng đánh nhau lòi

mắt.", "Cấy tháng bảy, vợ chồng rẫy nhau." Xem ra, sự không gắn bó đƣợc thể

hiện một cách khá gay gắt, tới mức chia lìa lứa đôi. Tuy vậy, cần chú ý trong

cách thức diễn đạt của tục ngữ: thƣờng một câu có hai vế, trong đó một vế

mang tính chất tạo cớ để dẫn đến vế thứ hai mang tính đúc kết, nghĩa là nội

dung đƣợc thể hiện ở một vế, còn vế kia chỉ là cái cớ để giúp khẳng định nội

dung mà thôi. Thƣờng thì, với lối nói thậm xƣng và đƣa đẩy của dân gian, vế

tạo cớ mang nội dung khá cực đoan (nói ngoa), không nên coi đó là nội dung

đích thực của câu tục ngữ. Ví dụ trong câu "Công cấy là công bỏ, công làm cỏ

là công ăn", thì vế đầu chỉ mang tính tạo cớ đƣa đến ý cần đúc kết trong vế thứ

hai nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc làm cỏ cho lúa, chứ không phải

nhằm phủ định công cấy. Do chƣa nắm vững đặc tính đƣa đẩy của lối nói dân

gian, đã có ngƣời chữa câu tục ngữ trên thành "Công cấy là công nhỏ, công

Page 37: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

36

làm cỏ là công lớn", làm giảm hẳn cái hay của câu tục ngữ. Trở lại câu tục ngữ

về mâu thuẫn vợ chồng nói trên, thì vế "Vợ chồng rẫy nhau" là vế có lối nói

thậm xƣng, chỉ để dẫn dắt, nội dung đích thực nằm ở vế "Cấy tháng bẩy", có

nghĩa là cấy sai thời vụ thì sẽ gặp tai họa. Nhìn chung, về số lƣợng, sự gắn bó,

chung thuỷ trong quan hệ vợ chồng chiếm ƣu thế tuyệt đối so với sự bội phản

đƣợc thể hiện qua tục ngữ. Điều đó thể hiện tâm thức dân gian Việt hƣớng

mạnh về sự chung thuỷ, nhân ái, coi trọng nghĩa tình trong quan hệ vợ chồng.

Tuy vậy, về nội dung, câu tục ngữ về sự bội phản và mâu thuẫn trong quan hệ

vợ chồng cũng khá gay gắt, chứng tỏ đó là một thực tế trong xã hội xƣa, các

tác giả dân gian đã phản ánh một cách khách quan. Điều này lại nói lên cách

thức ứng xử của ngƣời Việt trong quan hệ vợ chồng là rành mạch, dứt khoát,

không thích mập mờ, dây dƣa (trong ca dao, ngƣời Việt cũng thể hiện cách cƣ

xử dứt khoát nhƣ vậy:

Có yêu thì nói rằng yêu

Không yêu thì nói một điều cho xong).

1.2. Vợ trong mối quan hệ với chồng

Các tác giả dân gian rất tinh tế, phản ánh mối quan hệ vợ chồng trên

nhiều phƣơng diện, từ tinh thần tới vật chất, từ cảnh có chồng đến cảnh không

chồng:

- Xúc cảm của vợ xuất phát từ chồng: "Đói bụng chồng, đau lòng vợ".

- Vợ được nhờ chồng, phải dựa vào chồng: ""Có ông chồng siêng, nhƣ

có ông tiên nho nhỏ","Gái mạnh về chồng", "Lấy chồng nhờ hồng phúc nhà

chồng", "Phận gái theo chồng", "Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng"

- Trong hôn nhân, người phụ nữ phải chịu may rủi: "Tốt duyên lấy

đƣợc chồng hiền", "Tốt mối lấy đƣợc chồng sang", "Vô duyên lấy phải chồng

đần", "Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh"

- Giá trị, phẩm chất của người vợ được quy định bởi người chồng:

"Chồng yêu cái tóc nên dài, cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.", "Phu quý,

phụ vinh", "Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan chồng đƣợc tối ngày cậy

trông.", "Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe", "Vợ quá chiều ngoen ngoẻn nhƣ

chó con liếm mặt, vợ phải rẫy tiu ngỉu nhƣ mèo lành mất tai."

Nhƣ vậy, trong quan hệ với ngƣời chồng, thì ngƣời vợ đóng vai trò bị

động nhiều hơn, là ngƣời phải chịu đựng, phải hy sinh.

Sự bị động của ngƣời vợ thể hiện ở những yếu tố sau: Bƣớc vào hôn nhân

là chịu sự may rủi - may thì lấy đƣợc chồng hiền, chồng sang, không may thì

lấy phải chồng đần, chồng vũ phu; nhiều khi muốn trốn tránh cũng không

đƣợc, vì số phận đã định đoạt rồi. Về ở với chồng, ngƣời vợ phải dựa vào

Page 38: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

37

chồng, nhờ chồng mà có phúc, có sức mạnh, đƣợc nhờ vả trong việc nhà, vì

vậy cứ phải theo chồng. Nhiều khi, giá trị riêng của ngƣời phụ nữ không còn

phụ thuộc vào bản thân họ nữa, mà bị thay đổi theo cách nhìn, cách ứng xử, vị

thế của chồng - chồng yêu thì mọi điều ở ngƣời vợ đều tốt đẹp, chồng chiều thì

vênh vang, chồng rẫy thì tiu nghỉu, chồng giàu sang thì vợ cũng phú quý.

Chồng cũng là nguồn cảm xúc của vợ - sắc thái tình cảm của ngƣời vợ biểu

hiện theo tình trạng của chồng, nhƣng không thấy một câu tục ngữ nào nói đến

những xúc cảm vui mà chỉ có xúc cảm buồn, ấy là khi chồng khốn khó thì vợ

đau lòng.

Trên đây là những biểu hiện tiêu biểu cho chế độ phụ hệ.

Sống với chồng bị phụ thuộc, chịu hy sinh nhƣ vậy, nhƣng giữa có chồng

và không có chồng thì đằng nào hơn? Các tác giả dân gian đã phản ánh sinh

động cả hai cảnh huống để ngày nay chúng ta có thể so sánh nhƣ sau:

- Có chồng thì:

* Gò bó: "Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một

giờ", "Có chồng nhƣ ngựa có cƣơng", "Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ"

* Trách nhiệm nặng nề: "Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng".

* Phải chịu đựng: "Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay".

* Có môi trƣờng tốt: "Vợ có chồng nhƣ rồng có mây."

* Đƣợc hạnh phúc: "Có chồng thƣơng kẻ nằm không một mình".

- Không có chồng thì:

* Thiếu sức sống, chông chênh: "Gái không chồng nhƣ cối xay chết

ngõng", "Gái không chồng nhƣ phản gỗ long đanh", "Gái không chồng nhƣ

thuyền không lái", "Voi trên rừng không bành không tróc, gái không chồng

nhƣ cóc cụt đuôi".

So sánh, có thể thấy nhƣ sau: Nếu có chồng, cái mất của ngƣời phụ nữ là

mất tự do, gánh trách nhiệm nặng nề với nhà chồng, phải âm thầm chịu đựng

những điều đắng cay, còn cái đƣợc không đƣợc nói ra cụ thể, tuy thế cũng có

thể hiểu là đƣợc nhiều, vì thế mới thƣơng kẻ không chồng. Nếu không chồng,

thì chỉ mất chứ không đƣợc gì: mất động lực, mất chỗ dựa. Từ sự so sánh ấy,

tục ngữ dẫn đến một kết luận tất yếu là có chồng vẫn hơn.

1.3. Chồng trong mối quan hệ với vợ

Giống nhƣ trong mối quan hệ vợ - chồng, tuy số lƣợng không nhiều bằng,

mối quan hệ chồng - vợ đƣợc xem xét ở nhiều góc độ, và tục ngữ cũng phản

ánh cả hai tình trạng có vợ, không có vợ.

Trong mối quan hệ với vợ, thì ngƣời chồng:

Page 39: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

38

- Được nhờ cậy: "Nhà khó cậy vợ hiền, nƣớc loạn nhờ tƣớng giỏi",

"Chồng sang vì bởi vợ ngoan", "Làm ruộng phải có trâu, làm giầu phải có vợ",

"Gái ngoan làm quan cho chồng", "Giầu về bạn, sang về vợ"

- Chịu vất vả: "Trâu đẻ tháng sáu, vợ đẻ tháng mƣời"

- Tổn hại sức khoẻ: "Trai phải hơi vợ nhƣ cò bợ gặp trời mƣa", "Vợ đẹp

kém ngủ", "Vợ đẹp mặt, chồng đau lƣng"

- Chịu rủi ro: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa

cùn", "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi", "Có phúc lấy

đƣợc vợ già, sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh".

- Chịu gánh nặng của cuộc sống: "Một là vợ, hai là nợ", "Một vợ không

khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi", "Con là nợ, vợ là oan gia".

- Có lúc yếu thế: "Tay không chẳng thèm nhờ vợ".

- Bị vợ chi phối: "Lệnh ông không bằng cồng bà".

Xem nhƣ trên, thấy rằng trong mối quan hệ với vợ, nếu là vợ tốt, ngƣời

chồng đƣợc nhờ cậy trong việc lo kinh tế cho gia đình, đƣợc tiếng tốt, đƣợc

đóng góp trong công việc nhà nƣớc, nhƣng nếu ngƣời vợ không tốt, ngƣời

chồng cũng phải chịu đựng rất nhiều. Ngƣời chồng cũng chịu sự rủi ro - nếu

lấy phải vợ dại cũng đành chịu, còn muốn đƣợc chăm chiều lại phải lấy vợ già.

Chồng còn phải gánh vác công việc khi vợ đẻ, chẳng may vào vụ mùa thì càng

vất vả. Trong quan hệ với vợ, nếu thái quá, chồng bị tổn hại sức khỏe. Trong

công việc chung, có khi chồng bị vợ lấn át. Tuy vậy, những điều mà ngƣời

chồng phải chịu đựng không đƣợc tổng kết cụ thể bằng ngƣời vợ, trong khi đó,

những kết luận khái quát lại rất nghiêm trọng: vợ là gánh nặng, là tai vạ oan

của cuộc đời.

Xem xét hai cảnh huống mà tục ngữ phản ánh, thấy nhƣ sau:

- Có vợ thì:

* Gò bó: "Trai có vợ nhƣ rợ buộc chân"

* Chỉn chu: "Trai có vợ nhƣ giỏ có hom", "Trai có vợ nhƣ lỗ tiền

chôn"

* Lo việc nhà: "Trai có vợ tề gia nội trợ", "Đàn ông học sẩy học

sàng, đến cơn vợ đẻ phải làm mà ăn."

* Có môi trƣờng tốt: "Chồng có vợ nhƣ cây có rừng."

- Không có vợ thì:

* Thiếu kỷ luật: "Voi không nài nhƣ trai không vợ".

* Bơ vơ: "Không vợ đứng ở lề đƣờng".

Page 40: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

39

Nhƣ thế, có vợ thì ngƣời đàn ông mất tự do, phải lo việc nhà, ngƣời đàn

ông đƣợc ngƣời vợ thu vén, giữ của cho; không có vợ thì ngƣời đàn ông thiếu

kỷ luật (lại đƣợc tự do) và bơ vơ.

Nhìn tổng quát mối quan hệ vợ - chồng, chồng - vợ, thấy nhƣ sau:

CÓ CHỒNG CÓ VỢ

Chẳng đƣợc đi đâu Nhƣ rợ buộc chân

Nhƣ ngựa có cƣơng Nhƣ giỏ có hom

Nhƣ gông đeo cổ Nhƣ lỗ tiền chôn

Gánh giang sơn nhà chồng Tề gia nội chợ

Nhƣ rồng có mây Nhƣ cây có rừng

Ngậm bồ hòn đắng cay

Thƣơng kẻ nằm không

KHÔNG CÓ CHỒNG KHÔNG CÓ VỢ

Nhƣ cối xay chết ngõng Nhƣ voi không nài

Nhƣ phản gỗ long đanh Đứng ở lề đƣờng

Nhƣ thuyền không lái

Nhƣ cóc cụt đuôi

Nhƣ rác nhƣ rơm

-Những điểm tương đồng giữa hai vợ chồng trong hôn nhân:

* Nƣơng dựa lẫn nhau.

* Mất tự do, phải vào khuôn phép.

* Chịu vất vả, lo toan cho cuộc sống chung.

* Chịu sự may rủi.

- Những điểm khác biệt giữa hai vợ chồng trong hôn nhân:

* Khi không có chồng, ngƣời phụ nữ chịu thiệt thòi, thậm chí mất

động lực sống, còn khi không có vợ, ngƣời đàn ông chỉ mất sự ràng buộc hoặc

cùng lắm là chịu bơ vơ.

* Có chồng, ngƣời phụ nữ đƣợc hạnh phúc. Trong khi đó, tục ngữ

chỉ nói đến việc có vợ thì chồng đƣợc môi trƣờng phù hợp, nhƣng bị tổn hại

sức khỏe, không nói gì về việc có hạnh phúc hay không,

* Ngƣời vợ phải có trách nhiệm nặng nề với nhà chồng, còn ngƣời

chồng thì không có trách nhiệm gì với nhà vợ.

Page 41: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

40

* Khi không hài lòng đối với cuộc sống vợ chồng, thì thái độ của

ngƣời vợ là âm thầm chịu đựng, còn thái độ của ngƣời chồng thì bung phá, phủ

định.

1.4. Cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng

Các tình huống ứng xử trong quan hệ vợ chồng:

CHỒNG VỢ

Trạng

thái

Phải làm Không

được

làm

Trạng

thái

Phải làm Không

được

làm

Nếu

làm

Hệ quả

Giận Bớt lời Không bị chê

Làm lành

Lui

Giận Bị hành hung

Tới Lui

Hiền Bắt nạt

Hoà

thuận

Hoà thuận Hạnh phúc

Hoà Thuận

Ăn chả Ăn nem

Bình

thƣờng

Bắt nạt Bị phê phán

Nuôi

Chiều Có con

Lấy vợ

hai cho

chồng

Khôn

Thƣơng -Chờ

- Gắng công

- Lầm than

- Bồng con

ghẻ

- Khóc mụ gia

Theo Nối dối

Page 42: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

41

Chờ

chồng

Nhƣờng

chồng

Đổi vợ

đổi

chồng

Chẳng lành

Chấp nhặt Chấp

nhặt

Cãi

nhau

Cãi nhau Êm ấm

Chê

chồng

Chồng chê

Nhiều vợ Một

chồng

Đói Thƣơng

xót

Hƣởng

thụ

Cãi nhau Cãi nhau

Ngu si Cam chịu

Thuận Thuận Có sức mạnh

Không phụ Có công

Ăn ngon Bị loại trừ

Qua bảng trên ta thấy:

- Chồng trong 12 trạng thái thì vợ có 16 cách phải làm, 6 cách không

đƣợc làm, 4 cách nếu làm sẽ tạo hệ quả xấu, 2 trạng thái tƣơng ứng, các tình

huống này tạo ra 16 hệ quả khác nhau.

- Vợ trong 1 trạng thái thì chồng có 1 cách đáp ứng, có 1 cách phải làm

và 1 cách không đƣợc làm.

Xem xét đơn thuần về số lƣợng đã thấy qua tục ngữ, ngƣời Việt quan tâm

hơn đến trạng thái của ngƣời chồng để đòi hỏi ngƣời vợ phải đáp ứng, trong

khi đó hầu nhƣ không quan tâm đến trạng thái của ngƣời vợ để đòi hỏi ngƣời

chồng đáp ứng. Quan niệm này là biểu hiện của chế độ phụ hệ ở mức độ cao.

Xem xét vào nội dung của cách thức ứng xử, có thể rút ra mô hình là:

Chồng có biểu hiện A thì vợ phải có cách ứng xử B dẫn đến kết quả C

Page 43: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

42

- A gồm các trạng thái của chồng là bình thƣờng, giận giữ, lấn lƣớt, hiền,

hòa thuận, đói, ngu. đa thê.

- B gồm các cách ứng xử của vợ là nhƣờng nhịn, hòa thuận, nuôi, chiều,

cam chịu, thƣơng, theo, chờ, chung thủy.

- C là hệ quả của các cách ứng xử của vợ chồng, gồm phải hy sinh, đƣợc

hạnh phúc, êm ấm, có sức mạnh.

Nghiên cứu sâu vào từng câu tục ngữ trong 20 câu nói về cách ứng xử

trong quan hệ vợ chồng, có thể rút ra 6 kiểu ứng xử nhƣ sau:

- Vợ phải biết điều, nhường nhịn: "Đừng thấy chồng hiền xỏ chân lỗ

mũi", "Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời", ''Chê chồng chẳng bõ chồng chê",

"Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê", "Chồng giận

thì vợ làm lành", "Chồng giận thì vợ phải lui, chồng giận vợ giận thì dùi nó

quăng", "Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan"

- Vợ phải cam chịu: "Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng", "Ngu si cũng

thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời"

- Vợ phải biết thương chồng: "Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng",

"Thƣơng ai ví bằng gái son chờ chồng", "Thƣơng chồng nên phải gắng công",

"Thƣơng chồng nên phải lầm than", "Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ",

"Thƣơng chồng phải khóc mụ gia","Chồng em áo rách em thƣơng, chồng

ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời.", "Chồng ta áo rách, ta thƣơng.",

"Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.", "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải

theo."

- Vợ phải chiều chồng: "Chiều ngƣời lấy của, chiều chồng lấy con",

"Chiều ngƣời lấy việc, chiều chồng lấy con".

- Vợ phải chung thuỷ: "Trai làm nên năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ

tiết chờ chồng.", "Trai tân gái goá thì chơi, tránh nơi có vợ, xa nơi có chồng.",

"Gái chính chuyên chẳng lấy hai chồng."

- Vợ phải cống hiến, chồng phải công bằng: "Gái có công chồng không

phụ"

Từ 6 cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng, có thể rút ra nhận xét

nhƣ sau: Tục ngữ hƣớng vào việc yêu cầu ngƣời phụ nữ phải có cách ứng xử

thích hợp với các trạng thái của chồng. Dù chồng ở trạng thái nào, ứng xử cụ

thể thế nào, thì ngƣời phụ nữ cũng theo cái tình chứ không theo cái lý. Cái tình

dẫn dắt khiến ngƣời phụ nữ bỏ qua mọi tiêu chí về một ngƣời đàn ông, chỉ cần

ngƣời đó là chồng mình cũng đủ để mình tôn thờ. Theo cái tình, ngƣời phụ nữ

phải chịu mọi éo le của cuộc đời, từ việc phải gắng công, phải chịu lầm than,

tới việc phải làm cái điều phi lý là lấy vợ lẽ cho chồng, bồng con riêng của

Page 44: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

43

chồng, phải chung thủy, trong khi chồng năm thê bảy thiếp. Theo cái tình, có

lúc ngƣời vợ mù quáng theo chồng, vi phạm đạo làm con. Chỉ có một tình

huống trong đó ngƣời vợ đóng vai trò chủ động là có công thì thái độ của

ngƣời chồng phải là không phụ - cách đáp ứng này không tƣơng xứng với hành

động của ngƣời vợ, tục ngữ đòi hỏi ngƣời đàn ông quá ít. Duy có một câu

mang sắc thái phản ứng tiêu cực của ngƣời phụ nữ là làm việc xấu để đáp lại

việc xấu của chồng (ăn chả - ăn nem), có thể thấy đó là khi ngƣời phụ nữ đã bị

đẩy đến tột cùng của sự chịu đựng nên phải phản ứng ngầm nhƣ vậy.

Qua phần khảo sát về tục ngữ về quan hệ vợ chồng trên đây, chúng tôi có

nhận xét nhƣ sau: Trong quan hệ vợ chồng, sự hòa thuận là quan trọng nhất.

Muốn có sự hòa thuận, thì phụ nữ phải nhƣờng nhịn, hy sinh - phụ nữ đóng vai

trò điều tiết quan hệ gia đình. Nhƣ thế, sống trong gia đình phụ hệ, nhƣng

ngƣời phụ nữ Việt không bị lệ thuộc hoàn toàn vào ngƣời chồng mà vẫn có

vai trò trong gia đình, với cách thức ứng xử mềm mại, uyển chuyển, trọng tình

nghĩa.

1.5. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng

Tục ngữ có lúc phản ánh trực tiếp, nhƣng phần lớn là nói gián tiếp về

những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, với số lƣợng không ít - 44

câu, bằng 15,43% tổng số câu tục ngữ nói về quan hệ vợ chồng. Đúc rút lại,

thấy có 6 loại tiêu cực nhƣ sau:

- Đa thê: "Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi",

"Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may", "Một vợ

nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo", "Trai làm nên

năm thê bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng", "Lắm con lắm nợ, lắm vợ

nhiều cái oan gia", "Lắm duyên nhiều nợ, lắm vợ nhiều cái oan gia".

- Vũ phu: "Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.".

- Mất dân chủ: "Muốn nói không, làm chồng mà nói."

- Cờ bạc, rượu chè: "Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng", "Lấy

chồng cờ bạc nhƣ voi phá nhà", "Lấy chồng cờ bạc là tiên, Lấy chồng chè rƣợu

là duyên nợ nần", "Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ

nần"

- Phụ bạc: "Giầu đổi bạn, sang đổi vợ", "Phụ vợ, không gặp vợ", "Chồng

ăn chả, vợ ăn nem".

- Độc ác: "Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.", "Gái giết chồng

chứ đàn ông không ai giết vợ."

Đề cập đến 6 loại tiêu cực nói trên, thái độ của các tác giả dân gian không

gay gắt. Nói đến chế độ đa thê, tục ngữ không phê phán trực tiếp, mà chỉ châm

Page 45: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

44

biếm nhẹ nhàng, thậm chí châm biếm ngƣợc đối tƣợng - châm biếm chính

ngƣời phụ nữ. Điều này có thể giải thích đƣợc vì trong chế độ phong kiến, đa

thê đƣợc thừa nhận chứ không bị coi là vi phạm pháp luật nhƣ hiện nay. Đến

thói vũ phu, tục ngữ cũng chỉ phản ánh gián tiếp, coi nó nhƣ một cách thử

thách sự khôn ngoan của ngƣời vợ. Tệ cờ bạc bị phê phán khá nghiêm khắc,

nhƣng trong mối quan hệ vợ chồng, thói hƣ này cũng chỉ đƣợc nói gián tiếp,

nhẹ nhàng. Điều này cho thấy tục ngữ phản ánh khá nhất quán thái độ ứng xử

của ngƣời vợ đối với chồng - ứng xử theo tình chứ không theo lý. Chồng cờ

bạc thì vợ chỉ không thƣơng, chứ cũng không dùng lý lẽ để phê phán. Có một

kết luận bất ngờ mà tục ngữ nêu ra khi nói về ngƣời phụ nữ là giết chồng,

không những vậy, mà còn khẳng định chỉ phụ nữ mới giết chồng, còn đàn ông

không ai giết vợ! Điều này có hai mặt: một mặt phản ánh rằng trong thực tế có

hiện tƣợng phụ nữ giết chồng, mặt khác phản ánh sự khắt khe quá đáng của dƣ

luận đối với tội lỗi của ngƣời phụ nữ. Thực ra, trong cuộc sống, các vụ án giết

vợ không phải là không có, nhƣng chỉ những vụ án giết chồng mới bị xã hội

lúc đó coi là nghiêm trọng, trái với lẽ ứng xử thông thƣờng của ngƣời phụ nữ.

Chúng tôi nghĩ đây là câu tổng kết sai lầm nhất của các tác giả dân gian, thể

hiện sự bất bình đẳng trong đối xử với phụ nữ, quá nghiệt ngã trong xem xét

phụ nữ, cũng là biểu hiện của tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ của chế độ phụ

quyền. Tuy nhiên, cách tổng kết sai lầm nhƣ thế chỉ xảy ra trong một trƣờng

hợp, cho thấy ảnh hƣởng của Nho giáo vào xã hội Việt Nam tuy có mạnh

nhƣng không đều khắp, không có sức chi phối toàn bộ nhận thức dân gian.

Qua tục ngữ thấy rõ đặc tính nổi bật của ngƣời phụ nữ Việt xƣa là

nhƣờng nhịn, giàu tình thƣơng, hy sinh, và tuy bị đối xử rất khắt khe vẫn có

vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, do chính sự phấn đấu vƣơn lên của

ngƣời phụ nữ và do ngƣời Việt vẫn giữ đƣợc truyền thống của dân tộc là trọng

mẫu.

1.6. Những tình huống tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng

Tuy trong đa số tình huống, đa số cách ứng xử, ngƣời phụ nữ đều ở thế bị

động, phải nhún nhƣờng, chịu nhiều thiệt thòi, nhƣng tục ngữ cũng nêu lên

những tình huống nói về sự bình đẳng, vai trò chủ động của ngƣời vợ, lấy lại

sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng.

- Vợ tốt là mơ ước của đàn ông: "Vợ hiền hoà, nhà hƣớng Nam."

- Vợ chồng bình đẳng:

* Bình đẳng trong hành động: "Chồng chèo thì vợ cũng chèo", "Chồng

cần vợ kiệm là tiên; ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.", "Chồng ăn chả,

vợ ăn nem.", "Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.", "Cơm chẳng lành

Page 46: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

45

canh chẳng ngon, chín đụn mƣời con cũng lìa.", "Thuận vợ thuận chồng tát bể

đông cũng cạn","Chồng hoà, vợ thuận."

* Bình đẳng trong sự đánh giá: "Gái có công, chồng chẳng phụ.", "Tôi tớ

xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa", "Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan

chồng đƣợc tối ngày cậy trông.", "Của chồng công vợ.", "Vợ chồng là nghĩa

trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.", "Vợ có chồng nhƣ rồng có mây,

chồng có vợ nhƣ cây có rừng.", "Vợ chồng nhƣ đũa có đôi."

* Bình đẳng trong tâm lý, tình cảm: "Trai nhớ vợ cũ, gái nhớ chồng

xƣa", "Vợ chồng biết tính nhau.".

- Vợ có vai trò chủ động, có quyền lựa chọn, có giá trị, đòi hỏi giá trị

tương ứng: "Đừng thấy chồng hiền, xỏ chân lỗ mũi.","Củi mục khó đun,

chồng lành dễ khiến, chồng khôn dễ chiều.", "Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ

xài.", "Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai.", "Gái bắt nạt chồng, em chẳng có

ngoan.", "Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dƣa.", "Lấy chồng cho đáng hình

dong con ngƣời.", "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má

hồng răng đen.", "Chẳng tham nhà ngói ba toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền

lành.", "Chẳng tham nhà ngói rung rinh, tham về một nỗi anh xinh miệng

cƣời.", "Chẳng tham vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế gian.",

"Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống.", "Lấy chồng hơn ở goá.", "Trai

khôn kén vợ chợ đông, gái khôn kén chồng giữa đám ba quân."

- Vợ có vai trò quan trọng trong cuộc sống gia đình: "Có chồng phải

gánh giang sơn nhà chồng","Giàu về bạn, sang về vợ.", "Chồng sang vì bởi vợ

ngoan.", "Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.", "Làm

ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.", "Xấu thiếp, hổ chàng."

- Vợ được đối xử công bằng: "Làm ruộng có trâu, làm dâu có chồng." -

chống lại tƣ tƣởng phong kiến "thủ tiết thờ chồng", trói buộc phụ nữ trong gia

đình chồng, mặc dù không còn chồng nữa, chống lại quy định của chế độ

phong kiến: "Trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ tám

và thứ chín đã quy định nhƣ sau về phụ nữ: "Khi chồng chết, phải thƣơng yêu

con vợ trƣớc hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không đƣợc chiếm đoạt

làm của riêng mình.", "Khi chồng chết mà mình chƣa có con, thì phải ở lại nhà

chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm chuyển vận tài sản nhà chồng

đem về nhà mình". [Dẫn theo 99:332]. Câu tục ngữ này nêu lên hƣớng ứng xử

phù hợp với quy luật xã hội: ngƣời phụ nữ chỉ làm dâu khi có chồng, đã gián

tiếp chống lại quy định của nhà nƣớc phong kiến muốn trói buộc ngƣời phụ nữ

với nhà chồng, kể cả những trƣờng hợp không còn chồng (nhƣ chồng chết).

Page 47: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

46

- Vợ điều tiết quan hệ gia đình: "Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời.",

"Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.", "Chồng giận

thì vợ làm lành.", "Chồng tới vợ lui, chồng hoà vợ thuận."

- Vợ chi phối chồng: "Lệnh ông không bằng cồng bà.", "Nhất vợ nhì

trời."

- Vợ điều tiết cuộc sống của chồng: "Trai có vợ nhƣ giỏ có hom", "Trai

có vợ nhƣ rợ buộc chân.", "Trai có vợ nhƣ lỗ tiền chôn.", "Trai có vợ tề gia nội

trợ."

- Chồng cùng lo việc nhà: "Có ông chồng siêng nhƣ có ông tiên nho

nhỏ.", "Đàn ông học sẩy học sàng, đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn."

- Chồng có lúc yếu thế: "Tay không chẳng thèm nhờ vợ.", có lúc phải

trả giá: "Phụ vợ, không gặp vợ."

- Vợ chồng đều phải chịu sự may rủi: "Vợ chồng may rủi là duyên, vợ

chồng hoà thuận là tiên trên đời."

* Chồng thì: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột, thứ ba rựa

cùn.", "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi", "Thứ nhất

vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn."

* Vợ thì: "Chồng dại, luống tổn công phu nhọc mình.", "Chồng ăn giò vợ

co chân chạy, chồng ăn mày mạy vợ lạy vợ về.", "Vô duyên lấy phải chồng

đần.", "Tốt duyên lấy đƣợc chồng hiền.", "Chồng tốt ai chẳng muốn lấy, biết

giá chồng đáng mấy mà mua."

- Vợ chồng chê nhau: "Chê chồng chẳng bõ chồng chê.", "Chê thằng

một chai, lấy thằng hai nậm."

- Vợ chồng có nghĩa vụ với nhau: "Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn, gái nuôi

chồng ốm béo tròn cối xay."

- Vợ chồng có thể giáo dục lẫn nhau: "Mài gƣơm dạy vợ, giết chó

khuyên chồng", "Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.", "Con

hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.", "Vợ hƣ bởi tại thằng

chồng cả nghe." (Tuy nhiên, mức độ giáo dục có khác nhau, vợ chỉ khuyên,

còn chồng thì đƣợc dạy.)

- Chấp nhận một sự tương đối: "Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.",

"Thế gian đƣợc vợ hỏng chồng, có đâu lại đƣợc cả ông lẫn bà.", "Thế gian

đƣợc vợ hỏng chồng, có đâu vợ chồng mà đƣợc cả đôi."

Page 48: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

47

Từ những tình huống thể hiện sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng, có

thể lập một bảng nhƣ sau:

CHỒNG VỢ

1. Chèo 1. Chèo

2. Cần 2. Kiệm

3. Sang 3. Sang

4. Ăn chả 4. Ăn nem

5. Có của 5. Có công

6. Hòa 6. Thuận

7. Chê vợ 7. Chê chồng

8. Không phụ 8. Có công

9. Thuận 9. Thuận

10. Nhớ vợ cũ 10. Nhớ chồng xƣa

11. Nuôi vợ 11. Nuôi chồng

12. Đánh bạc 12. Đánh bài

13. Sang 13. Sung sƣớng

14. Cậy trông 14. Ngoan

15. Sai khiến chồng

16. Bắt nạt chồng

17. Ngủ tùy chồng

18. Lấy chồng cho đáng (với mình)

Bảng trên cho thấy:

- Vợ chồng có 14 cặp tình huống thể hiện sự cân bằng trong quan hệ.

- Riêng vợ còn có thêm 4 tình huống thể hiện vai trò chủ động của mình

so với chồng.

Những tình huống cân bằng giữa hai vợ chồng: Đũa có đôi, Nhân nghĩa,

Biết tính nhau, Chịu may rủi, Hòa thuận, Có lúc xô xát, Mâu thuẫn thì chia lìa,

Sức mạnh đoàn kết, Nghĩa trả đời.

Page 49: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

48

Cả nam và nữ đều góp phần làm hài hòa hoặc không hài hòa quan hệ

vợ chồng:

HÀI HÒA KHÔNG HÀI HÒA

CHỒNG VỢ CHỒNG VỢ

Đẹp Đẹp Bé Lớn

Cần Kiệm Dại

Già Trẻ Trẻ Già

Dữ

Khôn (6) Ngoan (2) Ngu

Lành (2)

Lớn Bé Bé Lớn

Sang (4) Hèn

Thấp Cao

Tốt Rẻ

Có mẹ cha hiền

lành

Chửa hoang

Tƣơi tắn Hiền Bắt nạt chồng

Có học

Con tông nhà nòi Con dòng Dại

Trƣởng nam (3) Khôn (3) Bị chồng rẫy

Làm quan Là học trò Hay ăn ngon

Nhà ở giữa làng

(4)

Đần

Cờ bạc

Rƣợu chè

Chê chồng Bị chồng chê

Con một Con một

Cùng tuổi với vợ Cùng tuổi với

chồng

Hòa thuận Hòa thuận

Từ những tình huống trên đây, có thể rút ra một số nhận xét nhƣ sau:

Page 50: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

49

- Khi lựa chọn "đối tƣợng", ngƣời đàn bà đòi hỏi ở ngƣời đàn ông nhiều

nhất là vị thế xã hội (làm quan, trƣởng nam, sang), ngƣời đàn ông đòi hỏi ở

ngƣời đàn bà nhiều nhất là về tính nết: hiền hòa, đức hạnh. Các tác giả dân

gian quan tâm nhiều hơn về tiêu chuẩn của ngƣời chồng so với ngƣời vợ (9 câu

so với 5 câu), chứng tỏ để đi tới hôn nhân, ngƣời phụ nữ băn khoăn nhiều hơn

đến giá trị của ngƣời chồng tƣơng lai, điều này có thể đƣợc chứng minh thêm

ở câu: "Chọn dâu thì dễ, chọn rể thì khó."

- Khi đã thành gia thất, tiêu chuẩn của một ngƣời chồng, quan trọng nhất

là về trí (tiêu chuẩn khôn xuất hiện nhiều nhất, 6 lần), tiếp đó là sang, nhà ở

giữa làng (đều 4 lần) - thực ra hai từ này đều thể hiện một nghĩa là vị thế xã hội

của ngƣời chồng; trong cơ cấu làng ở nông thôn Việt Nam xƣa, có dân bản

quán và dân ngụ cƣ, dân chính cƣ là dân gốc, thƣờng ở giữa làng, đƣợc coi

trọng, còn dân ngụ cƣ là dân nơi khác đến, thƣờng ở rìa làng, hay bị xem

thƣờng. Về ngƣời vợ, tiêu chuẩn cũng là trí tuệ (khôn - 3 lần), có đức tính tốt

(hiền, ngoan).

Những điều đƣợc coi là không tốt ở ngƣời chồng cũng thuộc về trí tuệ

(đần, dại, ngu), về phẩm chất (dữ, hèn, cờ bạc, rƣợu chè), còn ở ngƣời vợ cũng

là về trí tuệ (dại), về phẩm chất (chửa hoang, bị chồng rẫy, hay ăn ngon, bắt

nạt chồng).

So sánh với nhận định của các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam, trong

đó viết rằng về ý thức gia đình thể hiện qua tục ngữ, ca dao, ngƣời bình dân

không coi tài năng là căn bản, thấy rằng đó là nhận định thiếu chính xác. Thực

ra, ngƣời bình dân rất coi trọng tài năng, trí tuệ vì biết rằng đó cũng là một yếu

tố đảm bảo cho cuộc sống gia đình có đƣợc hạnh phúc.

Nhƣ vậy, trong khi nhìn nhận quan hệ vợ chồng, nhân dân lấy các tiêu

chí về tinh thần chứ không căn cứ vào tiêu chí vật chất, thể hiện quan niệm rất

đúng đắn về hạnh phúc lứa đôi - đƣợc quyết định ở những giá trị tinh thần chứ

không phải do vật chất.

Nhìn chung, có 16 cách thức tạo sự cân bằng trong quan hệ vợ chồng,

trong đó vai trò của ngƣời phụ nữ đƣợc đề cao. Qua các cách thức này, hình

ảnh ngƣời phụ nữ đƣợc hiện lên tƣơng xứng với nam giới, bằng những hành

động bình đẳng với nam giới và đƣợc đánh giá ngang hàng với nam giới.

1.7. Vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ

Tục ngữ ít xem xét vợ chồng trong mối quan hệ với cha mẹ, và sự tổng

kết có những kết luận trái ngƣợc nhau:

Page 51: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

50

- Nhìn chung, cha mẹ quan trọng hơn: "Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm,

chớ đạo vợ chồng chẳng hiếm gì nơi"

- Ngƣời chồng coi trọng cha mẹ hơn: "Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ

rầy vợ, đừng từ mẹ cha".

- Có lúc ngƣời vợ coi nhẹ mẹ: "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải

theo".

Một lần nữa, chúng ta thấy ngƣời phụ nữ thƣờng ứng xử bằng tình chứ ít

bằng lý, có khi vì tình lớn quá mà bỏ qua cả đạo lý làm con. Mặt khác, sự

không thống nhất trong quan niệm đƣợc nêu ở những câu tục ngữ khác nhau là

chuyện bình thƣờng, bởi vì tục ngữ là sản phẩm của tập thể, diễn ra trong một

không gian rộng và thời gian dài, không phải chỉ thể hiện quan niệm của một

ngƣời hay một loại ngƣời, mà thể hiện quan niệm của rất nhiều ngƣời, rất

nhiều loại ngƣời khác nhau trong xã hội, từ đó có những câu tục ngữ đem đến

những nhận thức trái ngƣợc nhau.

1.8. Vợ chồng trong mối quan hệ với xã hội

Nông thôn Việt Nam xƣa bị phân chia thành nhiều làng, với cơ cấu tổ

chức khá chặt chẽ, có phần cô lập với xã hội nói chung. Theo tài liệu Nông

thôn Việt Nam của nhóm Nghiên nông thôn công bố ở Sài Gòn tháng 11 năm

1974 (in rô nê ô), thì tại nông thôn Việt Nam xƣa,"- Làng là một đơn vị kinh tế

tự túc và gần nhƣ biệt lập, làng này với làng kia ít liên lạc với nhau, làng cũng

ít liên lạc với thành phố, làng nào cũng có sản xuất lúa gạo, rau trái, hoa quả,

gà vịt, heo, bò...

- Đơn vị sinh hoạt trong làng là gia đình: Gia đình là một định chế chi

phối về mọi lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục. Mọi sinh hoạt của cá

nhân đặt trực tiếp dƣới quyền điều khiển của một cá nhân là chủ gia đình" [70:

34].

Trong điều kiện kết cấu xã hội nhƣ vậy, tƣ tƣởng cục bộ là một đặc trƣng

của ngƣời nông dân xƣa. Tƣ tƣởng này đƣợc thể hiện đậm nét trong quan niệm

về hôn nhân của ngƣời Việt thông qua tục ngữ. Ngƣời ta muốn mọi việc trên

đời đều khép kín trong lũy tre làng, ngay cả việc xây dựng gia đình cũng vậy:

"Chồng khó giữa làng hơn chồng sang thiên hạ", "Lấy chồng khó giữa làng

hơn lấy chồng sang thiên hạ" - tiêu chí đảm bảo cho sự cục bộ lớn hơn hẳn tiêu

chí về phẩm chất của ngƣời chồng.

Tuy vậy, khi nhấn mạnh cái tình trong quan hệ vợ chồng, tục ngữ đã mở

rộng không gian: "Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó nƣớc ngƣời phải

kiếp cũng theo." Một lần nữa, chúng ta thấy lối nói thậm xƣng của dân gian:

Page 52: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

51

mở rộng vô cùng về không gian nhƣng không nhằm đƣa đến kết luận về không

gian, mà chỉ nhằm nói cho cùng cái cần coi trọng là tình duyên.

2. QUAN HỆ CHA MẸ CON

Số câu tục ngữ nói về quan hệ cha mẹ với con là 226 câu, chiếm 30,95%

số câu nói về gia đình, trong đó có thể chia làm 4 mối quan hệ: quan hệ chung

cha mẹ con, quan hệ con - cha mẹ, quan hệ mẹ con, quan hệ cha - con.

2.1. Quan hệ chung cha mẹ với con

Qua 108 câu tục ngữ, các tác giả dân gian nêu lên khá đầy đủ các mối

quan hệ giữa cha mẹ với con.

- Cha mẹ bị động: "Cha mẹ sinh con trời sinh tính.", "Sinh con ai nỡ sinh

lòng, mua dƣa ai biết trong lòng quả dƣa.", "Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con

ai chẳng vun trồng cho con."

- Cha mẹ là chỗ dựa cho con: "Bé thì nhờ mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ,

lúc già nhờ con.", "Cha sinh mẹ dƣỡng."

- Cha mẹ vất vả vì con: "Có con phải khổ vì con.", "Có con tội sống,

không có con tội chết.", "Cha lừa, mẹ ngựa.", "Hai vợ chồng son, đẻ một con

hoá bốn.", "Con là nợ, vợ là oan gia."

- Cha mẹ tốn kém vì con: "Của mòn, con lớn."

- Cha mẹ mất tỉnh táo vì con: "Mấy ai biết lúa gon, mấy ai biết con ác."

- Cha mẹ phải điều tiết quan hệ gia đình để đảm bảo quyền lợi cho con:

"Yêu con cậu, mới đậu con mình."

- Cha mẹ dựa vào con: "Giàu lúc còn son, giàu lúc con lớn.", "Bé thì nhờ

mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con."

- Cha mẹ ứng xử với con:

* Phải dạy dỗ: "Có con không dạy để vậy mà nuôi", "Nuôi con

chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.", "Muốn sang thì bắc

cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.", "Uốn cây từ thuở còn non, dạy

con từ thuở con còn ngây thơ.", "Dạy con từ thủa còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ

mới về."

* Phải chăm lo về vật chất: "Có của để cho con, không có để nợ cho

con."

* Phải hy sinh: - Nuôi con ai nỡ kể tiền cơm.", "Nuôi con không

phép kể tiền cơm."

* Phải gần gũi: "Con đâu cha mẹ đấy."

* Phải có trách nhiệm với con: "Đói lòng con héo hon cha mẹ",

"Sinh con ai chẳng vun trồng cho con".

Page 53: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

52

* Có lúc bất công với con: "Con dòng thì bỏ xuống đất, con vật thì

cất lên sàn."

Qua các nội dung trên đây, thấy tục ngữ phản ánh đầy đủ quá trình từ khi

cha mẹ chƣa sinh con, đến lúc nuôi con khôn lớn rồi về già nhờ con, cách thức

ứng xử với con. Tục ngữ đúc kết quan hệ cha mẹ con theo nhiều chiều, từ tinh

thần tới vật chất, từ chiều tích cực đến chiều tiêu cực.

Tình trạng "sinh con trời sinh tính", "ai nỡ sinh lòng" thể hiện sự bị động

của cha mẹ khi sinh con - ai cũng mong sinh đƣợc con tốt tính, nhƣng nhiều

khi lại sinh con trái tính. Có ý kiến phê phán hai câu này mang tính duy tâm,

phủ nhận vai trò của con ngƣời. Nhƣng cần hiểu rằng, trong quan niệm dân

gian, con ngƣời bên cạnh tính có nết - "Cái nết đánh chết cái đẹp"... Vậy cái

tính là do tự nhiên sinh ra, hoặc nói theo sinh học là do di truyền, còn nết thì

do rèn mà nên. Chính vì vậy, tục ngữ coi trọng vai trò của giáo dục, việc dạy

dỗ con đƣợc nêu lên hàng đầu trong trách nhiệm của cha mẹ với con - 4 câu

tục ngữ nói về điều này - không những vậy, phải giáo dục từ rất sớm - "dạy

con từ thủa con còn ngây thơ", "dạy con từ thủa còn thơ", bởi vì nếu không

chịu giáo dục, cứ ''để vậy mà nuôi", chắc chắn con sẽ chẳng nên ngƣời. Tục

ngữ cũng đã khẳng định công lao to lớn của cha mẹ đối với con, nhìn chung,

đó là sự hy sinh về tinh thần và vật chất, sự hy sinh vô tƣ, để may lắm khi già

đƣợc "dựa vào con". Đáng chú ý nhất là tục ngữ tổng kết 6 cách thức ứng xử

của cha mẹ với con thì 5 cách thể hiện trách nhiệm cao với con, chỉ có 1 cách

thể hiện sự bất công của cha mẹ trong ứng xử giữa con này với con khác. Căn

cứ vào số lƣợng và nội dung của các câu tục ngữ, có thể thấy các tác giả dân

gian đề cao nhất là trách nhiệm của cha mẹ đối với việc hình thành nhân cách

của con, cũng là thể hiện trách nhiệm với gia tộc, với đời sau. Đây là cách mà

nhân dân đã vận dụng khéo léo mặt tích cực của Nho giáo vào việc xây dựng

gia đình Việt, làm cho nó trở thành yếu tố tích cực trong truyền thống của dân

tộc, hiện nay đang đƣợc kế thừa và phát huy.

Từ quan hệ cha mẹ con, tục ngữ chiếu qua quan hệ với đất nƣớc, với một

trách nhiệm tự giác: "Bé thì con mẹ con cha, lớn thì con vua con chúa." (trong

xã hội phong kiến, thì vua chúa đại diện cho đất nƣớc). Chính nhờ ý thức trách

nhiệm cao với đất nƣớc nhƣ vậy, ngƣời Việt có tình yêu mạnh mẽ và dám xả

thân cho đất nƣớc, làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc từ thời dựng nƣớc đến

nay.

2.2. Quan hệ con với cha mẹ

Mối quan hệ giữa con với cha mẹ đƣợc tục ngữ đề cập đến ít hơn mối

quan hệ giữa cha mẹ và con, với nội dung không phong phú bằng.

Page 54: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

53

- Con dựa vào cha mẹ: "Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ nhƣ

đờn không dây."

- Con lợi dụng cha mẹ: "Con gái là cái bòn."

- Con không thống nhất với cha mẹ: "Đẹp duyên nhƣng chẳng đẹp lòng

mẹ cha."

- Coi trọng công mẹ hơn công cha: "Cha sinh không bằng mẹ dƣỡng."

- Coi cha có giá trị hơn: "Cha vàng, mẹ bạc, bác đồng đen."

- Con ứng xử với cha mẹ:

* Biết điều hoà quan hệ với vợ: "Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ

đừng từ mẹ cha.", "Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng

hiếm gì nơi."

* Biết ơn cha mẹ: "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.", "Lên non mới

biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ.", "Ơn cha là ba ngàn bảy,

nghĩa mẹ là bảy ngàn ba."

* Quý trọng cha mẹ: "Nhất mẹ nhì cha, thứ ba bà ngoại."

Nội dung chủ yếu mà tục ngữ tổng kết về mối quan hệ giữa con với cha

mẹ là lòng kính yêu, biết ơn; cả 3 cách thức ứng xử của con với cha mẹ đều

hƣớng vào sự gắn bó, biết ơn, quý trọng của con với cha mẹ. Trong rất nhiều

mối quan hệ trong gia đình, tục ngữ chỉ tổng kết về mâu thuẫn trong quan hệ

giữa con-cha mẹ với vợ, và khẳng định rằng nếu phải lựa chọn giữa vợ và cha

mẹ thì phải chọn cha mẹ. Nhƣ vậy, theo quan niệm dân gian, trong gia đình,

yếu tố đe dọa quan hệ cha mẹ con chính là nàng dâu. Điều này mâu thuẫn với

quan niệm phổ biến mà chính tục ngữ tổng kết về quan hệ giữa mẹ chồng -

nàng dâu, đó là mối quan hệ khá tốt đẹp. Tuy vậy, nếu vận dụng quan niệm về

hai vế trong tục ngữ, trong đó có vế tạo cớ thƣờng chỉ để dẫn dắt, thì có thể

thấy tục ngữ không có ý đối lập giữa cha mẹ và vợ, mà chỉ dùng khái niệm vợ

nhƣ một công cụ về hình tƣợng để dẫn dắt đến ý cần đúc kết là con không

đƣợc từ cha mẹ. Quan niệm này cũng phù hợp với quan niệm của Nho giáo là

trọng cha mẹ.

2.3. Quan hệ mẹ con

Số câu tục ngữ nói về quan hệ mẹ con gồm 72 câu, nhiều hơn nói về cha

con 23 câu. Điều đó nói lên vị trí, vai trò của ngƣời mẹ đối với việc chăm sóc

và nuôi dạy con cái, đồng thời cũng phản ánh đứa con có ý nghĩa rất lớn đối

với cuộc đời ngƣời mẹ. Mối quan hệ mẹ con biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Càng cụ thể hoá các mối quan hệ, tục ngữ, nhƣ tấm gƣơng phản chiếu

cuộc sống, càng tôn vinh hình ảnh cao cả của ngƣời mẹ hy sinh tất cả vì con.

Page 55: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

54

Những biểu hiện tiêu cực không phải dòng chảy chính của mối quan hệ này.

Các nội dung của quan hệ mẹ con đƣợc biểu hiện nhƣ sau:

- Có trách nhiệm với con, hy sinh cho con, vất vả vì con: "Ngƣời chửa

cửa mả", "Sinh đƣợc một con, mất một hòn máu.", "Có chồng chẳng đƣợc đi

đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.", "Có con phải khổ vì con, có chồng

phải gánh giang sơn nhà chồng.", "Chỗ ƣớt mẹ nằm, ráo xê con lại.", "Con biết

nói, mẹ hói đầu.", "Con biết ngồi, mẹ rời tay.", "Con lên ba, mẹ sa xƣơng

sƣờn.", "Con lên ba mới ra lòng mẹ.", "Một con so bằng ba con đẻ.", "Một con

so bằng ba con dạ.", "Một mẹ già bằng ba đứa ở."

- Mẹ có trách nhiệm về phẩm chất của con: "Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại

bà.", "Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn.", "Con dại cái mang."

- Con phải dựa vào mẹ: "Đầu măng ngã gục vào tre, nƣơng nhờ vào mẹ

kẻo e bão gào.", "Con có mạ nhƣ thiên hạ có vua.", "Con có mẹ nhƣ măng ấp

bẹ.", "Con ấp vú mẹ".

- Con phụ thuộc mẹ: "Mẹ ăn cơm chả, con lả bụng.", "Canh suông khéo

nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.", "Con có (hoặc không) khóc,

mẹ mới (hoặc chẳng) cho bú."

- Mẹ không muốn dựa vào con: "Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì

nhục.", "Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng".

- Mẹ dựa vào con: "Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con."

- Sắc thái tinh thần phụ thuộc vào con: "Đẻ con khôn mát nhƣ nƣớc, đẻ

con dại thì rát nhƣ hơ."

- Thích nhiều con: "Nhiều con giòn mẹ."

- Không có con thì cô đơn: "Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở

trên non một mình."

- Chịu ảnh hưởng của đạo Nho: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,

phu tử tòng tử."

- Con coi trọng chồng hơn mẹ: "Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải

theo."

- Mẹ con thắm thiết: "Ngầm ngập nhƣ mẹ gặp con, lon son nhƣ con gặp

mẹ.", "Mẹ con một lần da đến ruột.", "Nhất mẹ nhì con.", "Sành sẹ nhƣ mẹ với

con, lon ton nhƣ con với mẹ.", "Máu loãng còn hơn nƣớc lã, chín đời họ mẹ

còn hơn ngƣời dƣng."

- Mẹ chịu sự khó khăn, vất vả vì con: ”Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con,

mƣời con không nuôi đƣợc một mẹ.", "Mẹ sớm chiều ngƣợc xuôi tất tƣởi, con

đầy ngày đám dƣới đám trên.", "Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ

con kể từng ngày.", "Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể

Page 56: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

55

ngày.", "Mẹ nuôi con dùng dùng nén nén, con nuôi mẹ không đƣợc một nẹn

trong tay.", "Mẹ lá rau lá má, con đầy rá đầy mâm.", "Ngày sau con tế ba bò,

sao bằng lúc sống con cho lấy chồng."

- Tiêu cực trong quan hệ mẹ con: "Mẹ em tham giàu bắt chạch đằng

đuôi.", "Mẹ lừa ƣa con ngọng." Trong thị trƣờng, mẹ con cũng cạnh tranh:

"Đƣợc mối hàng, mẹ chẳng nhƣờng con.", "Mẹ với con lúa non cũng lấy."

Những tình huống dẫn ra trên đây cho thấy trong quan hệ mẹ con, tục

ngữ theo sát cuộc sống của ngƣời mẹ, từ lúc mang thai, đẻ con, tới khi con lớn,

mẹ về già, mẹ goá chồng. Sự quan tâm của dân gian đối với ngƣời mẹ thể hiện

tinh thần trọng mẫu của ngƣời Việt.

- Không can dự vào việc người khác: "Đình đám ngƣời, mẹ con ta."

- Quan hệ nhân quả: "Mẹ ăn con trả."

- ẢNH hưởng của mẹ tới con: "Mẹ đần lại đẻ con đần, gạo chiêm đem

giã mấy lần vẫn chiêm.", "Mẹ nào con ấy."

- Con không chịu ảnh hưởng của mẹ: "Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con xục

xạc.", "Mẹ tròn con méo.", "Vợ dại đẻ con khôn.", "Mẹ sống bằng hai bàn tay,

con ăn mày bằng hai đầu gối."

- Mẹ con đồng cảnh: "Con lở ghẻ, mẹ hắc lào."

- Không có mẹ thì phải tự lo: "Không mẹ lẹ chân tay."

- Cục bộ, mẹ chỉ biết con hoặc con chỉ biết mẹ: "Bà khen con bà tốt, một

chạp bà biết con bà.", "Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đƣờng lắm kẻ còn đẹp còn

giòn hơn ta.", "Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.", "Mẹ hát con khen hay.", "Mẹ

hát con khen, ai chen vô lọt."

- Hạn chế trong cuộc sống với mẹ: "Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn."

Nhìn tổng quát, ta thấy: Theo quan niệm dân gian, sinh con là một tất

yếu, đem lại hạnh phúc cho ngƣời mẹ, nếu không có con, cuộc sống ngƣời phụ

nữ trở nên cô đơn, thiếu niềm vui. Có con, ngƣời phụ nữ phải chịu trách nhiệm

nặng nề, phải hy sinh, vất vả vì con, đây là đặc trƣng cơ bản nhất trong quan

hệ mẹ con mà tục ngữ tổng kết (với 18 câu trong tổng số 64 câu, bằng

28,12%). Tuy vậy, sự hy sinh không đƣợc hoặc không đòi hỏi đƣợc đền đáp

xứng đáng.

2.4. Quan hệ cha con

Số câu tục ngữ nói về quan hệ cha con là 49, với các nội dung chính nhƣ

sau:

- Cha là chỗ dựa cho con: "Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.",

"Con có cha nhƣ nhà có nóc, con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.", "Còn

Page 57: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

56

cha ăn cơm với cá.", "Trẻ cậy cha, già cậy con.", "Một bát cơm cha bằng ba

bát cơm rể.", "Còn cha gót đỏ nhƣ son, Một mai cha thác, gót con nhƣ chì".

- Cha có trách nhiệm về phẩm chất của con: "Con hƣ bởi tại cha dung."

- Cha con giữ truyền thống: "Cha truyền, con nối."

- Con không cha thì cuộc sống khó khăn: "Con không cha thì con trễ,

cây không rễ thì cây hƣ.", "Con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.", "Thứ nhất

thì chết mất cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba ngƣợc đò.", "Thứ nhất thì mồ côi cha,

thứ nhì gánh vã, thứ ba buôn thuyền."

- Trách nhiệm của cha: "Cha muốn cho con hay, thầy mong cho con

khá."

- Quan hệ nhân quả: "Đời cha đắp nấm, đời con ấm mồ.", "Đời cha

trồng cây, đời con ăn qủa.", "Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc.", "Một đời

cha, ba đời con.", "Phụ trái tử hoàn, tử trái phụ bất can." (Cha mắc nợ thì con

phải trả, con mắc nợ thì cha khỏi trả.)

- Tình nghĩa: "Phụ tử tình thâm."

- Phép tắc: "Con có cha, nhà có chủ"

- Thể hiện quan điểm phát triển: "Con hơn cha là nhà có phúc."

- Con xứng đáng với cha: "Cha anh hùng, con hảo hán.", "Hổ phụ sinh

hổ tử."

- Cha con làm điều xấu: "Cha đào ngạch, con xách nồi."

- Con dối cha: "Đi dối cha, về nhà dối chú."

- Tiêu cực trong quan hệ cha con:

* Phá truyền thống: "Đời cha vo tròn, đời con bóp bẹp.", "Cha hổ

mang đẻ con liu điu.", "Hổ phụ sinh cẩu tử.", "Cha bòn con phá".

* Nghịch cảnh: "Cha trở ra trở vào, con ngồi cao gọi với.", "Cha để

nhà cho trƣởng, cha ngất ngƣởng đi ăn mày.", "Cha thƣơng con út, con út đái

lụt chân giƣờng.", "Cha bƣng mâm, con ngồi cỗ nhất."

* Cái khó làm mất tình cha con: "Khó thì hết thảo, hết ngay, công

cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên."

- Thể hiện phong tục: "Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy.''

- Cục bộ: "Cha hát, con khen, ai chen vô lọt."

- Tình cảnh đáng ái ngại: "Cha già con cọc.", "Cha già, con mọn."

- ẢNH hưởng Nho giáo: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử

tòng tử."

- Con bênh vực cha: "Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú.", "Con giữ cha, gà

giữ ổ."

- Coi trọng việc con gái giống cha: "Con gái giống cha giàu ba đụn."

Page 58: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

57

- Con không thể thay thế mẹ trong việc chăm sóc cha: "Con nuôi cha

không bằng bà nuôi ông."

Từ các nội dung trên đây, thấy nổi lên hai vấn đề là: vai trò quan trọng

của ngƣời cha đối với con, những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha con. Về

vai trò của ngƣời cha, tục ngữ khẳng định đó là vai trò trên những khía cạnh

quan trọng nhất của cuộc sống: toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con,

phẩm chất của con, tƣơng lai của con, truyền thống gia đình. Những tiêu cực

trong quan hệ cha con, tục ngữ khẳng định tác nhân là con: cả 14 câu tục ngữ

thể hiện 4 kiểu biểu hiện của sự tiêu cực thì con đều đóng vai trò chủ thể, trong

đó, nổi bật là sự cƣ xử bất hiếu và phá vỡ truyền thống, phá hoại thành quả do

cha xây đắp nên.

So sánh giữa quan hệ cha con và quan hệ mẹ con, thấy có nhiều điểm

giống nhau nhƣng cũng có những điểm khác nhau nhƣ sau:

- Giống nhau:

* Có trách nhiệm nặng nề với con, hy sinh cho con. Riêng trách nhiệm về

phẩm chất của con, vai trò của ngƣời mẹ đƣợc nhấn mạnh hơn: về số lƣợng, số

câu tục ngữ nói về trách nhiệm của mẹ khi con hƣ nhiều gấp 3 lần số câu

tƣơng tự đối với ngƣời cha, về nội dung, trách nhiệm của ngƣời mẹ đƣợc

khẳng định ở nhiều khía cạnh hơn (con hƣ tại mẹ, mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ

phải gánh chịu hoàn toàn trách nhiệm khi con dại, còn đối với ngƣời cha, tục

ngữ không quy trách nhiệm, mà chỉ tìm ra nguyên nhân (con hƣ là do cha

dung). Điều này cho thấy, trong việc dạy con, ngƣời cha chỉ "cầm cƣơng", còn

ngƣời mẹ thì "chi tiết hoá".

* Bị con đối xử không tốt. Điều này cho thấy, trong truyền thống của

ngƣời Việt, yếu tố tiêu cực đã chi phối quan hệ cha mẹ con, trong đó sự bất

hiếu của con đối với cha mẹ thể hiện khá phổ biến, trên khá nhiều phƣơng diện

- từ ăn uống, vui chơi con giành phần hơn, đùn đẩy việc nặng nhọc cho cha

mẹ, tới việc thiếu trách nhiệm phụng dƣỡng cha mẹ khi cha mẹ về già, thậm

chí còn ngăn cản việc đi bƣớc nữa tìm hạnh phúc của mẹ góa. Hiểu rõ điều

này, chúng ta nên có cách nhìn biện chứng hơn đối với tình trạng ngƣợc đãi

cha mẹ hiện nay đang phát triển trong xã hội, không nên đổ tại quá nhiều vào

nền kinh tế thị trƣờng. Nền kinh tế thị trƣờng chỉ là điều kiện thuận lợi cho

việc bộc lộ và phát triển sự bất hiếu của con đối với cha mẹ chứ không phải là

nguyên nhân của tình trạng này. Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh biện

pháp giáo dục, cần điều chỉnh cách ứng xử: không nên hy sinh một cách thái

quá, có khi mù quáng, theo kiểu truyền thống, mà phải có trách nhiệm với con

Page 59: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

58

theo những điều kiện nhất định, phải phát huy tính tự lực, trách nhiệm của con

đối với cuộc sống bản thân và gia đình.

* Dựa vào con: Sẽ phải dựa vào con khi về già, nhƣng không muốn dựa

vào con.

* Cục bộ: Từ quan hệ máu thịt dễ nảy sinh tƣ tƣởng cục bộ, kìm hãm

phát triển. Đây là phát hiện quan trọng của tục ngữ, chứng tỏ từ xƣa, ngƣời

Việt đã nhìn ra sự hạn chế của lối quan hệ khép kín, thiếu cởi mở của kiểu gia

đình tiểu nông và mong muốn có sự mở rộng quan hệ ra ngoài xã hội, khách

quan hơn, có điều kiện để phát triển.

- Khác nhau:

* Cha có vai trò quan trọng về truyền thống gia đình, truyền lại cho

con.

* Quan hệ mẹ con thắm thiết, thiên về tình cảm.

* Trong những biểu hiện tiêu cực, thì với quan hệ cha con, con luôn

đóng vai trò tác nhân, còn trong quan hệ với mẹ, thì đa số trƣờng hợp, con

đóng vai trò tác nhân, nhƣng cũng có trƣờng hợp mẹ đóng vai trò này.

Có một điều đáng ngạc nhiên là mặc dù quan tâm sâu sắc đến ngƣời mẹ,

nhƣng tục ngữ chỉ có một câu nói về trạng thái của con khi không có mẹ - đó

là phải "lẹ chân tay", tức là phải năng động hơn trong cuộc sống, trong khi đó

có tới 5 câu về trạng thái của con khi không có cha, nói chung đó là sự khốn

khó, cùng cực. Phải chăng, các tác giả dân gian coi nhẹ vai trò của ngƣời mẹ

trong việc là chỗ dựa cho con? Hoặc giả, tục ngữ thiên về lý trí, cho nên ở góc

độ này, về mặt lý trí, thì ngƣời cha có vai trò quan trọng hơn ngƣời mẹ. Mặt

khác, ngƣời cha có vai trò quan trọng hơn đối với số phận của ngƣời con,

nhƣng về tình cảm thì tình mẫu tử lại mạnh hơn.

3. QUAN HỆ ANH EM, CHỊ EM RUỘT.

Nói khái quát về quan hệ anh chị em, tục ngữ coi trọng tinh thần đoàn

kết: "Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Tục

ngữ đúc kết về anh em nhiều hơn so với về chị em (26/16 câu).

3.1. Quan hệ anh em

- Gắn bó: "Anh em hạt máu sẻ đôi.", "Anh em nhƣ chân tay.", "Anh em

trai ở với nhau mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời."

- Coi trọng sự hoà thuận: "Anh em chém nhau đằng dọng, không chém

đằng lƣỡi.", "Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.", "Anh thuận em hoà là

nhà có phúc.", "Em thuận, anh hoà là nhà có phúc."

Page 60: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

59

- Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ anh em:

* Bị vật chất chi phối: "Anh em hiền thậm là hiền, bởi một đồng tiền

nên mất lòng nhau.", "Anh em gạo, đạo ngãi tiền.", "Nghèo thì giỗ tết, giàu hết

anh em."

* Mâu thuẫn nhau: "Anh em nhƣ chông, nhƣ mác."

* Em chịu thiệt thòi: "Phận đàn em ăn thèm vác nặng."

- Trách nhiệm của anh:

* Thay thế cha: "Quyền huynh thế phụ."

* Chịu vất vả: "Làm chị phải lành, làm anh phải khó."

* Bao bọc em: "Của anh nhƣ của chú."

* Bất công: "Anh ngủ, em thức; em chực, anh đi nằm."

- Quan hệ thân tộc:

* Anh em trai gắn bó hơn: "Con cô con cậu thì xa, con chú con bác

thật là anh em."

* Họ hàng giúp gắn bó anh em: "Đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ

giữ lấy anh em."

- Ứng xử giữa anh em:

* Anh em phải nghiêm khắc hơn ngƣời ngoài: "Anh em khinh trƣớc,

làng nƣớc khinh sau."

* Phải thận trọng khi giải quyết công việc: "Anh em xem mặt cho

vay."

- Anh em trong quan hệ với hàng xóm: "Bán anh em xa, mua láng giềng

gần."

- Dùng anh em để nói lên cách ứng xử chung: "Khôn với vợ, dại với

anh em." (giống nhƣ "Khôn nhà dại chợ.")

3.2. Quan hệ chị em

- Quan hệ anh em trai lâu bền hơn chị em gái: "Anh em trai ở với nhau

mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời." (thể hiện phong tục: gái theo

chồng).

- Gắn bó: "Cắt dây bầu, dây bí, chẳng ai cắt dây chị, dây em.", "Yêu nhau

chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."

- Quan hệ tương hỗ, giúp nhau: "Chị dại đã có em khôn.", "Chị ngã em

nâng.", "Con chị dắt con em."

- Tiêu cực trong quan hệ chị em:

*Bị đồng tiền chi phối: "Chị em hiền thật là hiền, lâm đến đồng tiền mất

cả chị em.", "Chị em nắm nem ba đồng, muốn ăn thì trả sáu đồng mà ăn."

*Xa cách: "Chị em không thèm đến ngõ."

Page 61: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

60

- Cách thức ứng xử:

* Giữ nền nếp: - Chị em trên kính dƣới nhƣờng, là nhà có phúc mọi

đƣờng yên vui."

* Chị chịu thiệt thòi: "Con chị cõng con em, con em lèn con chị.", "Em

ngã thì chị phải nâng, đến khi chị ngã em bƣng miệng cƣời.", "Làm chị phải

lành, làm anh phải khó.", "Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em."

* Coi thƣờng em: "Chẳng khôn thể chị lâu ngày, chị đái ra váy cũng tày

em khôn.", "Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em." (Thể hiện lối

sống theo kinh nghiệm, "sống lâu lên lão làng".)

Khảo sát quan hệ anh - em, chị - em, thấy có những nét đáng chú ý nhƣ

sau:

Tục ngữ khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa anh em, chị em. Để giữ tình

máu mủ, quan trọng nhất trong quan hệ anh chị em là hòa thuận. Một lần nữa,

chúng ta thấy trong truyền thống, ngƣời Việt hết sức coi trọng sự hòa thuận.

Trong trách nhiệm của anh, chị với em, thì anh thiên về trách nhiệm

mang tính lý trí, chị thiên về tình cảm: Anh có thể thay thế cha, chị đỡ đần,

nâng giấc em. Tuy cùng có trách nhiệm với em, nhƣng anh đƣợc coi trọng hơn

chị. Điều này thêm một lần nữa khẳng định gia đình ngƣời Việt xƣa là gia đình

theo kiểu phụ quyền.

Trong những biểu hiện tiêu cực của quan hệ anh chị em, đáng chú ý nhất

là bị vật chất chi phối. Cả anh, chị và em đều bị đồng tiền, hạt gạo làm biến

dạng quan hệ. Nhƣ vậy, không đợi đến cơ chế thị trƣờng ngày nay, những

ngƣời trong gia đình mới bạc tình bạc nghĩa với nhau - nó đã đƣợc biểu hiện

khá sớm, là mặt trái ẩn sâu trong truyền thống gia đình - do vậy, một lần nữa

tục ngữ cho thấy chúng ta không nên quy kết mọi trách nhiệm về vấn đề đạo

đức xuống cấp cho cơ chế thị trƣờng, từ đó có giải pháp đúng đắn, nhƣ giáo

dục đạo đức, lối sống, đồng thời có các biện pháp hạn chế sự chi phối trái

chiều của vật chất đối với quan hệ gia đình nói riêng và quan hệ xã hội nói

chung.

4. QUAN HỆ DÂU RỂ VỚI GIA ĐÌNH

Với 39 câu tục ngữ, các tác giả dân gian phản ánh khá sâu sắc quan hệ

của gia đình đối với con dâu, con rể, trong đó nói nhiều hơn về quan hệ với

con dâu.

- Tinh thần dân chủ, rộng lượng: "Dâu dâu rể rể cũng kể là con.", "Dâu

hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.", "Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai.".

- Con dâu gắn bó với gia đình hơn con rể: "Dâu là con, rể là khách.".

Page 62: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

61

- Chọn con dâu khó khăn, nhưng chọn con rể phải kỹ hơn: "Lựa đƣợc

con dâu, sâu con mắt.", "Kén dâu thì dễ, kén rể thì khó."

- Con dâu gần gũi hơn: "Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó." (Phù hợp với

quan niệm “rể là khách”).

- Gia đình chịu may rủi khi có con dâu: "Có phúc lấy đƣợc dâu hiền, vô

duyên lấy phải dâu dại.", "Có phúc là dâu, vô phúc là bâu là báo", "Có phúc là

nàng dâu, vô phúc là cái báo.", "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng." Điều

này cũng chứng tỏ con dâu có tác động quan trọng đến cuộc sống gia đình.

- Tiêu cực trong quan hệ với con dâu, con rể:

+ Bất công với con dâu, con rể: "Con dâu thì dại, con gái thì

không.", "Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.", "Con dâu mới về đan bồ chịu

chửi.", "Bố chồng là lông con phƣợng, mẹ chồng là tƣợng mới tô, nàng dâu là

bồ nghe chửi.", "Của mình thì để, của rể thì bòn.", "Thƣơng con mà dễ, thƣơng

rể mà khó."

+ Mâu thuẫn mẹ chồng - con dâu là phổ biến: "Ƣa nhau cũng thể

nàng dâu mẹ chồng.", "Chê mẹ chồng trƣớc đánh đau, phải mẹ chồng sau mau

đánh.", "Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ

chồng.", "Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.", "Thật thà

cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng."

+ Mẹ chồng dữ tính: "Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.",

"Mẹ chồng dữ mẹ chồng chết, nàng dâu có nết nàng dâu chừa.", "Mẹ chồng

mà dữ mổ bò ăn khao." Đây cũng là cách nói ngƣợc của dân gian để thể hiện

một ý khác với vỏ ngôn ngữ đƣợc dùng ("ăn khao" không có nghĩa là mừng).

+ Con dâu đối xử không tốt: "Rau muống tháng chín, nàng dâu nhịn

cho mẹ chồng ăn.", "Mẹ chồng vai gồng vai gánh, cƣới dâu về để thánh lên

thờ."

- Anh em rể không gắn bó: "Anh em rể đánh nhau sể đùi.", "Yêu nhau

chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."

- Anh em rể cư xử với nhau theo nghi lễ, con trai trưởng có vai trò

quan trọng, uy quyền: "Anh em rể đúng lệ mà theo, sợ cái mắt nheo của ông

con trƣởng."

Nhìn chung, ngƣời Việt xƣa có quan niệm khá công bằng về con dâu, con

rể. Điều này có cơ sở xã hội - xƣa kia, trong công xã nông thôn, với lũy tre

làng bao bọc, quan hệ giữa các thành viên trong làng khá mật thiết, mà việc lấy

vợ lấy chồng thƣờng khép kín trong lũy tre làng, do đó, dâu rể không phải là

những ngƣời xa lạ và việc họ trở thành thành viên chính thức trong gia đình là

Page 63: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

62

điều dễ chấp nhận. Tuy cùng là thành viên mới của gia đình sau khi thành hôn,

nhƣng ngƣời đàn ông không gắn bó với gia đình vợ bằng ngƣời đàn bà gắn bó

với gia đình chồng - dâu là con, nuôi dễ, rể là khách, nuôi khó. Điều này cũng

chứng minh cho chế độ phụ quyền của xã hội Việt Nam xƣa, trong đó, khi đã

thành gia thất, thì ngƣời phụ nữ phải trao thân gửi phận cho gia đình chồng.

Tuy vậy, ngƣời phụ nữ không phải là kẻ phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình

chồng, ngƣợc lại, vẫn có vai trò điều tiết quan hệ của gia đình chồng, bởi vì tục

ngữ đã chỉ ra rằng lấy đƣợc dâu hiền là nhà có phúc, còn lấy phải dâu dại thì

nhà thật vô duyên. Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong quan hệ dâu, rể,

những biểu hiện tiêu cực cũng khá phổ biến: về số lƣợng, số câu tục ngữ nói

về tiêu cực là 16, bằng 41,25% số câu nói về con dâu, con rể. Về nội dung, tính

chất tiêu cực khá nghiêm trọng, trong đó quan hệ mẹ chồng - nàng dâu có

nhiều tiêu cực nhất, tới mức là phổ biến và không thể điều tiết đƣợc.

TIỂU KẾT

Qua khảo sát tục ngữ, chúng tôi đã tìm hiểu phong tục tập quán của

ngƣời Việt trong quan hệ gia đình ở những mối quan hệ cơ bản là vợ chồng,

cha mẹ con, dâu rể và anh chị em ruột.

Về quan hệ vợ chồng: Nổi bật là sự thuỷ chung, gắn bó. Ngƣời Việt coi

trọng sự hoà thuận, êm ấm. Ngƣời vợ thƣờng đóng vai trò điều tiết quan hệ vợ

chồng, mà biện pháp chính là khuyên bảo, nhƣờng nhịn chồng. Trong quan hệ

với ngƣời chồng, thì ngƣời vợ đóng vai trò bị động nhiều hơn, là ngƣời phải

chịu đựng, phải hy sinh. Trong quan hệ với ngƣời vợ, ngƣời chồng đóng vai

trò chủ động nhiều hơn, tuy vậy, không phải là sự chủ động của một vị thống

soái, mang ý nghĩa tuyệt đối. Qua tục ngữ, ngƣời Việt đã tổng kết về cách thức

ứng xử trong quan hệ vợ chồng là: Vợ phải biết điều, nhƣờng nhịn, thƣơng

chồng, chiều chồng, chung thuỷ. Vợ phải cống hiến, chồng phải công bằng.

Về quan hệ cha mẹ con: Tục ngữ ngƣời Việt khẳng định cha mẹ là chỗ

dựa cho con, phải vất vả, tốn kém vì con. Trách nhiệm chính của cha mẹ đối

với con là nuôi nấng, dạy dỗ con thành ngƣời có ích cho xã hội. Sống trong

chế độ phụ quyền, trong gia đình ngƣời Việt, ngƣời cha có vai trò quan trọng

đối với con trên những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc sống, ngƣời mẹ

đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc con trong đời thƣờng, tác động

của ngƣời mẹ đến con chủ yếu là về tình cảm. Sự hy sinh của cha mẹ, đặc biệt

là mẹ, với con là vô bờ bến. Con cái phải kính trọng và biết ơn cha mẹ. Điều

cần phê phán là con cái đối xử không tốt với cha mẹ, có nhiều trƣờng hợp phá

vỡ truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Page 64: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

63

Về quan hệ anh chị em ruột: Tục ngữ khẳng định sự gắn bó máu thịt

giữa anh em, chị em. Để giữ tình máu mủ, quan trọng nhất trong quan hệ anh

chị em là hòa thuận. Có một số trƣờng hợp, do tranh giành kinh tế mà quan hệ

anh chị em bị sứt mẻ. Cách thức giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là “đóng cửa

bảo nhau”.

Về quan hệ dâu rể: Tục ngữ phản ánh quan hệ dâu rể với gia đình bên

chồng hoặc vợ không nhiều, nhƣng có nhiều sắc thái. Quan niệm về dâu rể của

ngƣời Việt khá dân chủ, trọng tình nghĩa, nhƣng trong hành xử, nổi bật là mâu

thuẫn triền miên giữa con dâu và mẹ chồng.

Nhìn tổng quát về quan hệ gia đình người Việt, ngoài mối quan hệ có

phần căng thẳng giữa nàng dâu - mẹ chồng, còn lại các mối quan hệ khác đƣợc

tục ngữ phản ánh với cái nhìn ấm áp, làm nổi bật sự gắn bó, hoà thuận, có

trách nhiệm, coi đó là tiêu chí để xây dựng gia đình êm ấm và bền vững. Chính

nhờ vậy, dòng chảy chính trong các câu tục ngữ về gia đình đã tạo nên âm

hƣởng của chủ nghĩa nhân đạo, cổ vũ cho tình yêu thƣơng, gắn bó giữa những

con ngƣời với nhau.

Page 65: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

64

CHƢƠNG BA

NHỮNG QUAN HỆ CHÍNH TRONG GIA ĐÌNH NGƢỜI VIỆT

THỂ HIỆN QUA CA DAO

Trong phần khảo cứu này, chúng tôi dựa vào Kho tàng ca dao người Việt

do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên. Theo các tác giả, số câu

ca dao có trong sách là 11.825 đơn vị. Qua cách chọn lựa của chúng tôi theo

tiêu chí gia đình thì trong 11.825 đơn vị này có 1.179 câu ca dao nói về gia

đình, chiếm tỷ lệ 9,97% (gần bằng tỷ lệ này trong tục ngữ). Phần mềm về ca

dao cũng đã giúp chúng tôi thống kê nhanh chóng và chính xác những câu ca

dao theo những tiêu chí phù hợp với yêu cầu nghiên cứu về phong tục tập quán

thể hiện trong quan hệ gia đình, tuy chúng tôi mới chọn nhập vào phần mềm

này 6.995 đơn vị ca dao về gia đình và có liên quan đến gia đình.

Số câu ca dao về gia đình có những nội dung chính nhƣ sau:

- Phản ánh các mối quan hệ trong gia đình:

Trong tổng số 1.179 câu ca dao nói về gia đình, chúng tôi thống kê đƣợc

nhƣ sau:

Quan hệ vợ chồng: 690 câu, chiếm 58,52% tổng số câu ca dao về gia

đình.

Quan hệ cha mẹ con: 446 câu (37,79%).

Anh chị em: 27 câu (2,29%).

Dâu, rể: 87 câu (7,37%).

- Phản ánh tính chất của các mối quan hệ trong gia đình:

Gắn bó: 291 câu (vợ chồng: 261 câu. Cha mẹ con: 45 câu).

Lỏng lẻo: 128 câu (Vợ chồng: 107 câu. Cha mẹ con : 14 câu).

- Phản ánh vấn đề hôn nhân: 170 câu.

Từ số lƣợng các câu ca dao theo nội dung đƣợc thể hiện, chúng tôi lựa

chọn những vấn đề sau để khảo cứu:

Quan hệ vợ chồng.

Quan hệ cha mẹ con.

Quan hệ nàng dâu mẹ chồng.

Vấn đề hôn nhân.

Page 66: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

65

1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Nhƣ đã thống kê trên đây, trong Kho tàng ca dao người Việt, chủ đề gia

đình có 1.179 câu ca dao, trong đó quan hệ vợ chồng chiếm số lƣợng nhiều

nhất với 690 câu. Những nội dung chính trong quan hệ gia đình đƣợc phản ánh

qua ca dao nhƣ cách thức ứng xử, những biểu hiện tích cực hoặc tiêu cực, sự

gắn bó hay không gắn bó… cũng đƣợc phản ánh thông qua mối quan hệ vợ

chồng là chính. Trong mục này, chúng tôi khảo sát quan hệ gia đình thông qua

quan hệ vợ chồng đƣợc phản ánh trong 690 câu ca dao nói trên.

1.1. Những nét đặc trƣng trong quan hệ vợ chồng thể hiện qua ca

dao

Nhƣ đã nói ở phần mở đầu, số công trình nghiên cứu tục ngữ, ca dao về

gia đình không có nhiều, phần lớn là những ý hoặc mục trong một công trình;

chƣa có một công trình độc lập nào nghiên cứu về chủ đề này. Nhìn chung, các

nhà nghiên cứu nêu lên đặc trƣng của quan hệ vợ chồng ngƣời Việt thể hiện

qua ca dao là hoà thuận và gắn bó. Tuy vậy, cũng có một số tác giả chỉ phân

tích sâu về những nỗi bất hạnh trong quan hệ vợ chồng, quy kết đó là hậu quả

của quan niệm và cách thức ứng xử theo kiểu chế độ phong kiến, chịu sự áp

chế của chế độ phụ quyền, vì thế, trong quan hệ vợ chồng, ngƣời phụ nữ luôn

luôn bị thiệt thòi, cay đắng. Học giả Nguyễn Bách Khoa đã đối lập ngƣời đàn

ông với ngƣời đàn bà, nhìn nhận họ trong mâu thuẫn không thể điều hoà đƣợc.

Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:

"Luân lý phụ quyền đặt ngƣời đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ

Việt Nam đã mỉa mai, giày đạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu

của đàn ông đem ra trào phúng, để chứng rằng địa vị ƣu thắng của đàn

ông không đƣợc họ công nhận. Cái tính xấu thứ nhất mà họ chê bai ở

đàn ông là tính hoang toàng, đĩ thoã, phụ tình:

Khi thì là một cậu lính khinh bạc vợ:

Bông bông nẩy lộc ra hoa

Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng

Trẩy ra gánh gánh gồng gồng

Trẩy ra thăm chồng bẩy bị còn ba

"Nào ai nhắn nhủ mi ra

Mi ngồi mi kể con cà con kê?

Muốn tốt quẩy bị mà về

Việc quan tao chịu một bề cho xong

Xƣa kia tao ở trong phòng

Bây giờ tao đã vào trong hàng quyền"

Page 67: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

66

Hai tay bƣng đĩa giầu lên

Trƣớc lạy hàng quyền sau lạy cậu cai

|Chồng tôi tham sắc tham tài

Một chĩnh đôi gáo, tôi ngồi sao yên

Tôi xin chiếc đũa đồng tiền

Anh đi lấy vợ, tôi xin lấy chồng

Anh đi lấy vợ cách sông

Tôi về lấy chồng giữa ngõ anh ra."[63:103-104].

Sau đó, Nguyễn Bách khoa dẫn ra các câu ca dao để chứng minh cho

nhận định của mình về sự châm chọc của phụ nữ trƣớc những thói xấu của đàn

ông: đàng điếm, không đứng đắn, cờ bạc hoang toàng, tham ăn, ham sắc phụ

tình, rồi phân tích:

"Hạng ngƣời nhƣ thế mà bắt đàn bà phải phục tòng, trung thành,

trinh khiết, đức hạnh, cần kiệm, cam chịu thì thật là một sự tối ƣ vô lý.

Nghĩ thế nên đàn bà họ tƣởng có quyền đối lại cái ích kỷ của đàn ông

bằng một thái độ ích kỷ chẳng kém. Họ chống lại từng lời nói, từng ý

kiến, từng hành vi của đàn ông. Trƣớc hết, họ đem cái địa vị "chồng"

của đàn ông ra giễu cợt:

Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi! Cho tôi mƣợn cái gầu sòng

Để tôi tát nƣớc múc chồng tôi lên." [63:107].

Tiếp đó, Nguyễn Bách Khoa nhận định, dẫn chứng và phân tích nhƣ sau:

"Nhiều khi họ lại trâng tráo hơn thế nữa:

Hỡi cô mặc yếm hoa tằm

Chồng cô đi lính cô nằm với ai?

Cô đẻ thằng bé con giai

Chồng về chồng hỏi: con ai thế này?

Con tôi đi kiếm về đây

Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.

Thật là một mũi tên thuốc độc bắn trúng tim luân lý phụ quyền.

Sự đi ăn nằm với ngƣời khác mà đƣợc thú nhận một cách táo tợn nhƣ

thế tỏ ra rằng ngƣời đàn bà cũng đã hiểu cái độ lƣợng thuỷ chung của

chồng lắm lắm." [63:108].

Sau nhiều đoạn nhận định, dẫn chứng và phân tích dẫn chứng theo mô

hình trên đây, Nguyễn Bách Khoa đi đến kết luận:

Page 68: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

67

"Ngƣời đàn bà đã nổi loạn. Họ đã chống lại triết lý phụ quyền. Họ

đã cố đạp đổ cái hình tƣợng "Đàn ông". Trong khi chống phụ quyền, họ

đã tỏ ra một thái độ cƣơng quyết, cực đoan trắng trợn. Họ đòi sự bình

quyền với đàn ông ở các phƣơng diện." [63:114].

Nguyễn Bách Khoa viết Kinh Thi Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang

chống phong kiến mạnh mẽ, cho nên về mặt tâm lý, dễ dẫn đến lối phê phán

mạnh mẽ nhƣ trên, cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, ngay trong phƣơng pháp, tác

giả đã có những sai lầm, cho nên dẫn đến sự cực đoan về mặt khoa học. Cần

lƣu ý rằng, cùng trong một bối cảnh xã hội, nhƣng với phƣơng pháp nghiên

cứu khoa học, khách quan hơn, nhiều tác giả đã không mắc phải sai lầm nhƣ

Nguyễn Bách Khoa. Nguyễn Bách Khoa đã không nhìn nhận vấn đề thái độ

của phụ nữ đối với chồng trong hệ thống các biểu hiện, để thấy toàn diện cả

hai mặt tích cực và tiêu cực, mà chỉ dựa trên liên tƣởng chủ quan của mình, kết

hợp với phƣơng pháp lựa tìm chứng cứ theo hƣớng chủ quan, phiến diện, do

đó đã dẫn đến kết luận thiếu toàn diện, không chính xác. Thực ra, theo thống

kê và so sánh trong hệ thống mà chúng tôi đã sử dụng ở các chƣơng trên, có

thể thấy thái độ chủ đạo của phụ nữ đối với chồng là thƣơng yêu và quý trọng

chứ không phải là khinh mạn nhƣ nhận định của Nguyễn Bách Khoa.

Nghiên cứu tục ngữ, chúng tôi đã rút ra kết luận rằng đặc trƣng của quan

hệ vợ chồng ngƣời Việt là gắn bó trong hoà thuận, nhƣờng nhịn và thƣơng yêu

nhau, trong đó ngƣời phụ nữ thƣờng đóng vai trò điều tiết. Khi khảo sát ca

dao, chúng tôi cũng thu đƣợc kết quả tƣơng tự.

Về lƣợng, số câu ca dao thể hiện sự gắn bó vợ chồng là 258, nhiều gấp

2,4 lần số câu thể hiện sự không gắn bó (107 câu), và bằng 37,68% so với tổng

số câu ca dao về quan hệ vợ chồng. Qua ca dao, các tình huống thể hiện sự gắn

bó vợ chồng chiếm ƣu thế, hay nói cách khác, sự gắn bó là một đặc trƣng

trong quan hệ vợ chồng ngƣời Việt.

Ca dao ngƣời Việt phản ánh sự gắn bó nhƣ sau:

- Về phía người vợ: Không nghe lời tán tỉnh của ngƣời khác, Nguyện ở

với chồng đến già, Đi theo chồng khắp nơi, Chăm nom chồng, Thƣơng chồng,

Nhịn lúc chồng nóng giận, Nhớ chồng, Lao động thay chồng, Chờ chồng,

Chung thuỷ, Vƣợt mọi khó khăn, gian khổ, Gánh vác việc nhà, Làm chỗ dựa

cho chồng, Vui buồn cùng chồng, Giữ nền nếp, Cam chịu, Nghe lời chồng,

Thờ cha kính mẹ chồng, Trả công nợ, Khuyên chồng, Giữ duyên cho chồng,

Chịu đựng, Biết tính chồng, Nhƣờng vật chất cho chồng, Gắng công vì chồng,

Chịu lầm than.

Một số câu tiêu biểu là:

Page 69: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

68

1. Chàng ơi, chớ bực sầu tƣ

Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.

2. Có chồng thì phải theo chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo

Có chồng thì phải theo chồng

Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.

3. Chim xa bầy thƣơng cây nhớ cội

Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai

Vàng ròng cả lửa chẳng phai

Ở cho chung thuỷ có ngày gặp nhau.

4. Đi đò tát nƣớc cho chuyên

Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.

5. Em là con gái có chồng

Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.

Ca dao cho ta hình tƣợng về một ngƣời vợ lo toan, đảm đang công việc,

sẵn sàng hy sinh cho chồng, làm đẹp lòng chồng. Ở một chừng mực nào đó,

phẩm chất của ngƣời vợ do bị ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo với "tứ đức,

tam tòng" mà lại trở nên sáng lạn trong một số câu ca dao. Điều đó cũng dễ

hiểu, vì ngƣời phụ nữ Việt đã biết tiếp thu những yếu tố tích cực của đạo đức

Nho giáo, xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng theo một số khuôn mẫu mang

tính lý tƣởng của Nho giáo, nhƣng có biến cải đi ít nhiều cho đơn giản và gần

gũi đời thƣờng hơn.

- Về phía người chồng: Không tham giầu mà chuộng tính nết vợ, Lao

động nuôi con, Đón đƣa vợ, Nhớ vợ, Bỏ qua khuyết tật của vợ, Không vong

vợ, Thƣơng yêu mẹ vợ, Cùng hƣởng vinh hoa, Chịu khổ, không chịu chia lìa,

Chăm sóc vợ.

Một số câu tiêu biểu là:

1. Đôi bên bác mẹ tƣ tề

Anh đi làm rể em về làm dâu

Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu

Tham vì một nỗi em mau miệng cƣời

Trăm quan mua một miệng cƣời

Trăm quan không tiếc, tiếc ngƣời hồng nhan.

2. Làm trai giữ trọn ba giềng

Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.

3. Mẹ nàng khác thể mẹ ta

Phận dù đói rách, thiệt thà anh thƣơng.

Page 70: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

69

4. Ngọn lau lên khỏi bờ

Ngọn lúa trổ đòng đòng

Em đừng than đừng thở, để anh phải tủi lòng khóc theo

Hai tay anh bụm bọt phá bèo

Xƣa kia khắp chốn không ai nghèo nhƣ anh

Ban ngày anh đốn củi rừng xanh

Tối về chỉ một tấm tranh che đầu

Mƣa sa nhỏ giọt nhƣ dầu

Khổ thời anh chịu khổ, chứ lìa nhau anh không lìa.

5. Trời hè lắm trận mƣa rào

Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa

Khuyên em chớ ngại nắng mƣa

Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.

Hình tƣợng ngƣời chồng thật bình dị, không giầu sang, oai phong mà gần

gũi, đồng cảnh với ngƣời vợ. Điều đáng quý của ngƣời chồng mà ca dao phản

ánh là siêng năng, cần mẫn, biết yêu thƣơng vợ con, cảm thông cho hoàn cảnh

của nhau, tôn trọng những thành quả do hai ngƣời vun đắp nên.

Cả hai vợ chồng: Cùng lao động và chịu cảnh nghèo, Không thay lòng

đổi dạ, Theo nhau không kể giầu nghèo, Ngàn năm không quên, Thƣơng nhau,

Hài lòng trong cuộc sống vợ chồng, Vƣợt qua sự phân biệt tôn giáo, Hoà

thuận, Cùng chung vinh, nhục, thảm nghèo, Một vợ một chồng, Không rời

nhau, Sống với nhau suốt đời, Không thể dứt nhau, Chờ đợi nhau, Thuỷ chung.

Một điều dễ nhận thấy là ca dao về gia đình có rất nhiều câu rất hay, nói

về cảnh sinh hoạt vợ chồng, nhƣ:

Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Một bức tranh thuỷ mạc về vợ chồng ngƣời nông dân tuy lao động cực

nhọc nhƣng quấn quýt bên nhau trong khung cảnh yên bình. Hình ảnh con trâu

tham gia vào công việc nhà nông của họ làm cho bức tranh quê càng thêm sinh

động. Cùng với chồng và vợ, con trâu đã khắc hoạ đậm nét hình ảnh loại gia

đình Việt tiêu biểu – gia đình hạt nhân, với hai lao động chính. Ngƣời ta cảm

thấy một sự yên phận, không màng công danh, phú quý, vui với cái nghèo,

miễn là khuya sớm vợ chồng thuận hoà bên nhau. Điều ấy không phải là yếm

thế, tiêu cực. Trong cuộc sống bon chen, lọc lừa và nhiều bất trắc, thì ƣớc mơ

bình dị vợ chồng gắn bó, hoà thuận với nhau lại là tiếng nói tích cực, đầy nhân

bản.

Page 71: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

70

Một số câu tiêu biểu là:

1. Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!

2. Đêm hè gió mát trăng thanh

Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng

Lạt chẳng mỏng, sao thừng đƣợc tốt?

Duyên đôi ta đã trót cùng nhau

Trăm năm thề những bạc đầu

Chớ tham phú quí, đi cầu trăng hoa.

3. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm

Phải đâu cua cá với tôm

Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.

4. Bên lƣơng bên giáo, bên đạo cũng nhƣ bên ta

Về đây ta kết nghĩa giao hoà

Phải duyên phải kiếp, áo Chúa Bà ta mặc chung.

5. Công danh theo đuổi mà chi

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông

Sớm khuya có vợ có chồng

Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.

6. Đói no một vợ một chồng

Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.

Từ ba góc nhìn trên đây, chúng tôi nhận thấy các tác giả dân gian rất nhất

quán khi phản ánh sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng của ngƣời Việt xƣa: dù

nhìn từ phía vợ hay phía chồng, hoặc từ phía cả hai vợ chồng, thì nét đặc trƣng

cơ bản vẫn là sự gắn bó bằng tình cảm nồng thắm. Ngƣời Việt xây dựng quan

hệ vợ chồng trên cơ sở yêu thƣơng nhau ở tính nết, và tình yêu ấy đƣợc thử

thách qua việc họ cùng nhau chịu cảnh nghèo, cùng nhau lao động, tôn trọng

cha mẹ của nhau, sống chung thuỷ với nhau.

Để hiểu sâu hơn sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng ngƣời Việt, cần chú ý

đến một số đặc điểm là: theo nhau là biểu hiện của sự gắn bó, càng xa cách

càng gắn bó, gắn bó trong lao động.

1.1.1. Sự chuyển đổi ý nghĩa từ khái niệm ''tòng phu” sang khái niệm

“theo nhau”

Một số nhà nghiên cứu đi trƣớc nhận định rằng, do ảnh hƣởng của Nho

giáo, mà ngƣời phụ nữ Việt Nam phải tòng phu (theo chồng), và chính vì phải

Page 72: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

71

theo chồng nhƣ vậy nên ngƣời vợ luôn luôn phải chịu mọi áp bức, đắng cay,

thiệt thòi… Các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức tại gia tòng

phụ nhƣ sau:

"- Đây là một quy luật bắt buộc ngƣời đàn bà. Chữ “tòng” đây

không chỉ có nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của

ngƣời chồng nữa. Ý thức này ăn sâu vào dân gian đến nỗi trong ca dao

đã có những câu nhƣ:

Con vua ƣng thằng đốt than

Nó lên trên ngàn cũng phải đi theo…”

“… Bởi vậy, ngƣời đàn bà sống trong chế độ Tam tòng thƣờng có

tƣ tƣởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thƣơng để

nhờ vào sự che chở của ngƣời chồng.” [72:189].

“Xem thế, ngƣời đàn bà đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều

chuộng.” [72:194].

“Ngƣời đàn bà Việt Nam thƣơng chồng và theo chồng, trên căn

bản, không bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất ở tình thƣơng, ở lòng

mong mỏi xây dựng gia đình.” [72:198].

“Theo chồng với ý nghĩa của họ không phải nhƣ chế độ tòng phu

của Khổng Mạnh, mà chính là để xây dựng tình thƣơng, xây dựng cuộc

sống theo khái niệm xã hội tƣ hữu và thuỷ chung. Cho nên, trong ý thức

theo chồng của họ, chúng ta lại thấy phảng phất sự cân nhắc về cách

biệt gia đình cha mẹ.

Khi trong tâm tƣ con ngƣời đã có sự so sánh giữa bổn phận theo

chồng và bổn phận nuôi cha mẹ, tất nhiên đạo tòng phu không còn là

một quy luật tuyệt đối trong chế độ Khổng Mạnh nữa.” [72:198].

“Trong ca dao Việt Nam chúng ta thấy trƣớc mắt ngƣời đàn bà,

ngƣời đàn ông không phải là những thần tƣợng để tôn thờ nhƣ giáo lý

Khổng Mạnh đã lừa phỉnh họ. Vì vậy, tuy mến ngƣời đàn ông, nhƣng

họ vẫn phủ nhận ý thức tôn thờ ấy. Họ tìm cách mỉa mai, châm biếm,

đem thực tế ra chứng minh để tỏ rằng địa vị ngƣời đàn ông không đƣợc

họ công nhận và đáng tôn thờ.” [72:198-199].

“Cho nên, nếu ngƣời đàn ông đem giá trị ngƣời đàn bà hạ nhục để

khống trị, thì chính ngƣời đàn bà cũng đem giá trị ngƣời đàn ông hạ

nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt

Nam…” [72:203].

Các tác giả nói trên đã mâu thuẫn với chính mình khi phân tích về ngƣời

phụ nữ trong xã hội phụ quyền: trong khi khẳng định rằng ý thức tại gia tòng

Page 73: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

72

phụ đã ăn sâu vào dân gian, làm cho ngƣời vợ chỉ biết nhẫn nhục, chiều

chuộng chồng, thì lại cũng khẳng định rằng ngƣời phụ nữ theo chồng là do tự

nguyện, ngƣời đàn bà đã phủ nhận ý thức tôn thờ ngƣời đàn ông, đem giá trị

ngƣời đàn ông ra để hạ nhục. Chúng tôi cho rằng, trong khi phê phán những

thói hƣ tật xấu của ngƣời đàn ông cũng nhƣ ngƣời đàn bà, các tác giả dân gian

không nhằm hạ nhục cả một giới, mà chỉ nhằm chống lại những biểu hiện tiêu

cực cụ thể trong xã hội mà thôi. Mặt khác, không nên ngộ nhận rằng Nho giáo

đã lừa phỉnh ngƣời đàn bà khi khuyên họ tôn thờ ngƣời đàn ông. Trong quan

hệ vợ chồng, Nho giáo chủ trƣơng ngƣời vợ phải tôn kính ngƣời chồng. Trong

thực tế, nếu ngƣời chồng đáng tôn kính thì việc tôn kính chồng sẽ càng làm

cho quan hệ vợ chồng thêm gắn bó, có gì là trái lẽ thƣờng đâu!

Trở lại việc theo nhau của vợ chồng ngƣời Việt, chúng tôi thống kê đƣợc

nhƣ sau: Có 44 câu ca dao sử dụng từ theo, nhƣng không phải chỉ với nghĩa vợ

theo chồng, mà còn với nghĩa chồng theo vợ, và vợ chồng theo nhau. Nội dung

của việc theo chồng cũng không đơn thuần thể hiện tính phục tòng, lệ thuộc

của ngƣời vợ đối với ngƣời chồng, mà chủ yếu là biểu hiện tình cảm thắm thiết

giữa hai vợ chồng. Có thể thấy rõ điều này qua các câu ca dao trích dẫn nhƣ

sau:

- Cả hai theo nhau: “Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo

nhau”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Theo nhau cho trọn kiếp”, “Quyết

theo nhau cho trọn đạo”, “Theo nhau cho trọn lời vàng đá”, "Theo nhau cho

trọn, tử sinh cũng đành”, “Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.”.

- Vợ cheo chồng: “Làm thân con gái phải đi theo chồng”, “Lấy chồng,

theo thói nhà chồng”, “Võng anh đi trƣớc, võng nàng theo sau”, “Theo sau, em

có võng vàng đƣa chân”, “Chàng về thiếp cũng về theo/Mấy sông mấy cụm,

cũng trèo cũng qua”, “Chàng lên non, thiếp cũng lên non/Chàng lên trời, vƣợt

biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.”, “Chàng về cho thiếp theo cùng/Đói no

thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”, “Có chồng thì phải theo chồng/Chồng đi

hang rắn, hang rồng cũng theo.”, “Có chồng thì phải theo chồng/ Đắng cay

cũng chịu, mặn nồng cũng vui.”, “Tôi ngỡ anh khá tôi theo anh về”, “Duyên

ƣa phận đẹp thì nƣờng cũng theo.”, “Khó mà xứ ruộng em theo.”, “Phải duyên

em nhất định theo”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Thƣơng chồng phải

theo”, “Thiếp thƣơng chồng, thiếp phải chạy theo”. (Tuy vậy, cũng có lúc

ngƣời phụ nữ không theo chồng, ví nhƣ: “Ăn cam ngồi gốc cây cam/Lấy anh

thì lấy về Nam không về.”, “Ăn chanh ngồi gốc cây chanh/Lấy anh thì lấy về

Thanh không về.”)

Page 74: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

73

- Chồng theo vợ: “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo.”, “Phải duyên phải

kiếp thì theo/ Khuyên em đừng nghĩ đói nghèo làm chi”, “Giận chồng xách gói

ra đi/ Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.”, “Mình về tôi cũng đi theo/ Sum vầy phu

phụ, hiểm nghèo có nhau”.

Nhƣ vậy, qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo

chồng, mà còn có cả đàn ông theo vợ, và quan trọng hơn là họ theo nhau. Tất

nhiên, sống trong một chế độ xã hội, con ngƣời không thể không chịu ảnh

hƣởng của chế độ xã hội ấy, cho nên, ngƣời phụ nữ sống trong chế độ phong

kiến, tất phải chịu ảnh hƣởng của chế độ phong kiến, kể cả trong quan hệ vợ

chồng. Chính vì vậy mà qua ca dao, chúng ta thấy ngƣời phụ nữ hay nói đến

chữ theo chồng, không những thế mà còn theo cả thói nhà chồng, và họ coi đó

là sự tất yếu, nhiều khi không quan tâm đến cái nghĩa theo là thế nào. Liên hệ

đến yêu cầu của Khổng Khâu cốt làm cho dân theo giáo lý của mình chứ

không cốt làm cho dân hiểu nó, thì thấy rằng Nho giáo đã gặt hái đƣợc những

thành công nhất định trong việc truyền bá quan niệm tòng phu vào xã hội Việt

Nam, làm cho khái niệm này trở thành câu nói cửa miệng của dân gian. Mặt

khác, vợ theo chồng cũng là lẽ thƣờng tình, nếu nhƣ việc theo đó là để xây

dựng hạnh phúc lứa đôi. Tuy vậy, khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ tòng phu,

ngƣời Việt cũng khá mơ hồ trong việc hiểu nội dung của nó, họ không nói rõ

tòng phu là thế nào, đã vậy họ còn Việt hoá cả cái vỏ ngôn ngữ ấy thành theo

chồng, mở rộng ra thành vợ chồng theo nhau. Thế rồi, khái niệm theo chồng đã

chứa đựng những nội dung rất cụ thể và dung dị nhƣ chính cuộc sống của

ngƣời dân quê: theo là vì hợp duyên, vì thƣơng chồng, và quan trọng hơn là để

chung nhau gánh vác công việc, chung nhau thụ hƣởng niềm vinh quang hay

chia sẻ sự thống khổ, cũng có khi để dựa vào ngƣời chồng. Nhƣng, nổi bật là

ngƣời phụ nữ theo chồng với chí hƣớng cùng chồng xây đắp cuộc sống chung

hạnh phúc. Chính vì vậy mà ngƣời vợ xác định rõ theo chồng thì dù đi đến nơi

khó khăn hóc hiểm nhƣ hang rắn, hang rồng, hoặc nơi xa xôi sóng gió lên

trời, vƣợt biển, dù đắng cay hay mặn nồng, thì họ cũng theo, miễn là phải

duyên, phải kiếp. Cũng có khi, lỡ chọn phải chồng không phù hợp, ngƣời phụ

nữ cũng dám chủ động làm lại cuộc đời “Tôi trốn tôi tránh tôi về nhà tôi.”.

Độc đáo hơn nữa, theo chồng mà ngƣời phụ nữ không tự ti trong vị thế của

một ngƣời phải phục tòng, mà đầy tự tin ở vai trò của mình, vai trò làm chỗ

dựa cho chồng, bởi vậy, ngƣời vợ mới dám khuyên chồng: “Chàng ơi, chớ bực

sầu tƣ/ Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.”

Tóm lại, cách thức theo chồng của ngƣời phụ nữ Việt thời phong kiến đa

dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩa tích cực, thể hiện sự chủ động của ngƣời

Page 75: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

74

phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắp hạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động

ấy, ngƣời phụ nữ sẵn sàng gánh vác việc khó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu

đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làm cho vợ chồng đƣợc gắn bó. Từ khái

niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển hoá thành khái

niệm theo nhau, là biểu tƣợng cho sự gắn bó vợ chồng ngƣời Việt trong xã hội

phong kiến. Cách thức chuyển hoá nội hàm khái niệm nhƣ vậy đƣợc diễn ra

một cách lặng lẽ trong cuộc sống đời thƣờng, nhƣng lại phù hợp với quy luật

của tiếp biến văn hoá nói chung của dân tộc ta, mà PGS Nguyễn Từ Chi đã khái

quát nhƣ sau: “Trong không ít trƣờng hợp, những yếu tố mà tổ tiên của ngƣời

Việt hiện nay đã lần lƣợt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên

niên kỷ Bắc thuộc, và cả về sau nữa, khi đƣợc tích hợp vào cuộc sống hàng

ngày của ngƣời bản địa, chỉ còn giữ đƣợc của nơi xuất phát có cải vỏ hình thức

nữa thôi (thƣờng là tên gọi) trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến

đổi hẳn”.[240].

1.1.2. Vợ chồng trong lao động

Có 35 câu ca dao trực tiếp mô tả khung cảnh lao động, trong đó cho thấy

vợ chồng đồng tâm hiệp lực nhằm tạo dựng một cuộc sống no đủ, hạnh phúc.

Chúng tôi xin thống kê các tình huống nhƣ sau:

Việc do người vợ làm: Cày, Đạp xe nƣớc, Trồng hoa, Trồng khoai,

Trồng cà, Gieo mạ, Gặt hái, Quảy cơm, Dệt, Quay tơ, Xay thóc giã gạo, Chẻ

lạt, ủ phân, Nuôi lợn, Bắt cua, Chăm lo cha mẹ, Đứng mũi (thuyền), Làm thuê

làm mƣớn, Buôn bán.

Việc do người chồng làm: Làm ruộng, Cày, Gặt, Cuốc, Phát, Đốn củi,

Xúc giậm, Làm thầy, Làm thợ, Chịu sào (thuyền), Gánh muối, Gánh chè, Chắp

thừng, Đi lính, Vẽ, Viết, Đi học, Đọc sách.

Việc do cả hai cùng làm: Cày bừa, Làm mạ, Trồng khoai, Trồng cà, Gặt

hái, Hái rau, Mót khoai, đỗ, Đốn củi, Buôn bè.

Thái độ trong lao động: Vui phận nghèo, Tự giác, Tin vào thành công,

Kiên nhẫn, Không quản ngại, Lạc quan, Coi trọng công lao của nhau.

Có thể dẫn ra rất nhiều câu ca dao phản ánh khung cảnh gia đình êm ấm,

chồng hoà vợ thuận trong lao động và tình yêu thƣơng thắm thiết, kiểu nhƣ :

1. Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lƣu

Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

2. Sáng trăng trải chiếu hai hàng

Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.

Page 76: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

75

3. Trời hè lắm trận mƣa rào

Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa

Khuyên em chớ ngại nắng mƣa

Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.

4. Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!

5. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng

Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.

6. Cơm chiên ăn với cá ve

Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.

7. Kể chi trời rét đồng sâu

Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa

Bây giờ trƣa đã hồ trƣa

Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu

Một đoàn chồng trƣớc vợ sau

Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.

Nhìn chung, qua ca dao, chúng ta thấy về mặt lao động, vợ chồng có sự

phân công hợp lý và khá bình đẳng, việc mà ngƣời chồng làm thì ngƣời vợ

cũng làm, chỉ trừ việc đi học; thƣờng thì công việc đƣợc mô tả theo cặp đôi

tƣơng xứng - chồng việc này thì vợ việc nọ - A việc a thì B việc b (Chồng cày-

vợ cấy, Chồng sƣơng sớm- vợ sƣơng chiều, Anh đi gặt- nàng quảy cơm, Chồng

vác bừa - vợ dắt trâu, Em chẻ lạt - Anh chắp thừng, Thiếp đây - chàng đấy, Em

đững mũi - anh chịu sào, Chàng bòn - thiếp mót); về mặt thi pháp, có thể thấy

đây là "mô típ sóng đôi" độc đáo của văn học dân gian ngƣời Việt. Mô típ này

chỉ có thể xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ và bình đẳng giữa phụ nữ

và nam giới. Ngoài làm việc tại nhà, ngƣời phụ nữ cũng có dịp đi lao động

ngoài xã hội giống nhƣ nam giới, nhƣ đi buôn, đi làm mƣớn, đi bè… chứ

không phải chỉ quanh quẩn trong nhà. Nội dung nói trên xuất phát từ thực tế

lao động ở nông thôn, trong đó việc canh tác là cơ bản, sự phân biệt về khả

năng lao động trên lĩnh vực này chƣa nhiều, đó là lao động khá đơn giản và

nhiều khi cần sự hợp sức của cả hai vợ chồng. Có khác chăng là ở chỗ chồng

có thể làm việc nặng hơn, vợ có thể đƣợc làm việc nhẹ, yêu cầu sự khéo léo

hơn, chứ không khác ở sự phân công lao động trong một xã hội có nền kinh tế

phát triển, trong đó ngành nghề đƣợc phân chia rạch ròi và đòi hỏi sự đào tạo

nhất định về nghề nghiệp. Không những thế, trong xã hội mà ngành thƣong

Page 77: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

76

mại chƣa phát triển, ngƣời phụ nữ còn gần nhƣ độc chiếm nghề tiểu thƣơng

kiểu buôn đầu chợ bán cuối chợ, hoặc bán nông sản do gia đình làm ra tại các

chợ quê, tuy vốn và lãi không nhiều nhặn gì, nhƣng cũng đủ đem về gia đình

một khoản tiền mặt dùng cho chi tiêu hàng ngày, một giá trị kinh tế quan trọng

đối với gia đình nông dân. Chính điều kiện lao động nông nghiệp đơn giản, sự

phân công lao động chƣa rành mạch và khả năng làm kinh tế tiểu thƣơng của

ngƣời phụ nữ đã tạo điều kiện cho tính dân chủ, bình đẳng giữa hai vợ chồng

đƣợc xác lập, cho nên công lao của ngƣời phụ nữ đƣợc đánh giá ngang bằng

với công lao của ngƣời chồng “của chồng công vợ”. Tuy vậy, do ảnh hƣởng

của Nho giáo, ngƣời nông dân cũng hƣớng đến sự vinh thân qua con đƣờng

học hành, khoa cử. Chính vì vậy, trong các việc làm của ngƣời chồng, có việc

đi học, với 28 câu ca dao phản ánh công việc này. Với những gia đình nhà nho,

thì ảnh hƣởng của giáo lý Khổng Mạnh tất yếu mạnh hơn các gia đình khác, và

tƣ tƣởng dƣơng danh, hiển nhân cũng chi phối suy nghĩ của họ. Các câu ca

dao nói về việc đi học, đi thi của ngƣời đàn ông phần lớn thông qua lời nói của

ngƣời vợ, qua đó bộc lộ rõ rệt mục đích của việc học là đỗ đạt, làm quan, đem

vinh hiển về cho gia đình, vợ con (nhƣ: "Bảng vàng choi chói bia đề tên anh",

"Ngựa anh đi trƣớc, võng nàng theo sau", "Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay

võng đào", "Anh cƣỡi ngựa vua ban, em ngồi trên võng vàng", "Trƣớc là vinh

thiếp, sau mình vinh thân"). Có thể nói, tình trạng vợ chồng cùng nhau chăm

bẵm vào con đƣờng khoa cử nhằm vinh hiển, trong đó ngƣời chồng dấn bƣớc

vào khoa trƣờng, còn ngƣời vợ thì tần tảo nuôi chồng ăn học, chính là biểu

hiện rõ rệt nhất của sự ảnh hƣởng của Nho giáo vào gia đình ngƣời Việt, mà cụ

thể ở đây là loại gia đình nhà nho; sự ảnh hƣởng ấy cũng thấm cả vào ca dao.

Điều này có một lý do là một bộ phận của tục ngữ, ca dao do tầng lớp nho sĩ

sáng tác. Câu ca dao "Sáng trăng trải chiếu hai hàng/Bên anh đọc sách bên

nàng quay tơ" vẽ nên bức tranh đặc trƣng về sinh hoạt của gia đình nhà nho,

trong đó nhiệm vụ của ngƣời đàn ông là đọc sách, học hành, ngƣời đàn bà làm

lao động nhƣng không phải là làm nghề nông đơn thuần mà là làm nghề phụ,

đỡ cực nhọc hơn và có khả năng thu nhập cao hơn. Xác định rõ mục đích, phân

công công việc rõ ràng (anh đi học, em lo việc nhà), hai vợ chồng đều tự giác

chăm lo công việc của mình, nhƣng ngƣời vợ bao giờ cũng vừa làm vừa hƣớng

tâm tƣởng của mình về phía chồng, chăm lo chồng chu đáo, và do vậy, quan hệ

giữa hai vợ chồng càng gắn bó. Mặt khác, qua ca dao, cũng cần ghi nhận ảnh

hƣởng tích cực của Nho giáo vào xã hội Việt Nam là góp phần tạo nên truyền

thống hiếu học, một yếu tố hết sức cần thiết để đào tạo con ngƣời cho xã hội

hiện đại. Và thật thú vị, cái điểm “rất Nho” này lại tạo điều kiện cho, hoặc làm

Page 78: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

77

bộc lộ ra khả năng “giải Nho” trong quan hệ vợ chồng: anh chồng, từ vị trí

ngƣời chủ gia đình mà ngƣời vợ luôn luôn phải phục tòng theo quan điểm Nho

giáo, khi chăm bẵm theo con đƣờng khoa cử, trở thành anh “học trò dài lƣng

tốn vải ăn no lại nằm”, trông chờ ngƣời vợ lo toan cho cuộc sống, đã giảm dần

vai trò gia chủ, và nhờ thế, vai trò của ngƣời vợ ngày một trở nên quan trọng

hơn, tạo ra thế bình đẳng giữa hai vợ chồng. Có nhiều câu ca dao phản ánh tình

trạng này, ví nhƣ:

Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi

Chồng tôi quyết đỗ khoa này

Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng

Bõ khi xắn váy quai cồng

Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.

Một khi ngƣời phụ nữ đã nuôi đƣợc chồng, thì cũng có nghĩa là vai trò của

họ không bị lệ thuộc ngƣời chồng theo lễ giáo phong kiến nữa, mà nhƣ PGS

Nguyễn Từ Chi đã viết: “Một khi đã là vợ, là mẹ, là bà chủ một gia đình nhỏ,

với chìa khoá hòm trong tay, ngƣời nữ nông dân Việt, đặc biệt là ở Bắc Bộ, nơi

mà luồng buôn bán nhỏ trong nông thôn sinh động hơn nhiều, so với ở Trung

Bộ và Nam Bộ trƣớc kia, tất có tiếng nói quan trọng, nhiều khi quyết định,

trong nền kinh tế gia đình, xứng với danh hiệu “nội tƣớng” mà các ông chồng

sính chữ Nho thƣờng gán cho họ’’.[192]

Điểm hạn chế là trong cái nhìn của các tác giả dân gian, phụ nữ không

thuộc loại cần đƣợc đi học, đó là sự bất công với phụ nữ mà ngày nay tuy

chúng ta đã khắc phục, nhƣng không phải không còn rơi rớt ở nông thôn, khiến

cho nhiều gia đình chỉ cho con trai đi học và bắt con gái ở nhà giúp việc gia

đình.

Ngoại trừ hạn chế về tƣ tƣởng tìm cách đƣợc ăn trên ngồi trốc qua con

đƣờng khoa cử của giai cấp thống trị, nhìn chung lao động của gia đình ngƣời

Việt có mục đích đơn giản và chân chính, đó là tạo dựng một cuộc sống no đủ,

êm ấm. Cũng có lúc ngƣời nông dân phê phán lối học hành thoát nông, khẳng

định con đƣờng lao động ở nông thôn là đáng coi trọng:

Công danh theo đuổi mà chi

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông

Sớm khuya có vợ có chồng

Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.

Gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên và lao động, quan hệ vợ chồng ngƣời

Việt trở nên thơ mộng, đầy tính lãng mạn, do đó đã để lại cho kho tàng ca dao

Page 79: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

78

những bức tranh vô cùng đẹp đẽ. Cái cảnh “Chồng cày vợ cấy con trâu đi

bừa”, hay “Bao giờ lúa trỗ vàng vàng/Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm” vừa

là bức tranh hiện thực về cuộc sống lao động nặng nhọc của ngƣời nông dân,

vừa là bài ca lãng mạn bay bổng thể hiện sự lạc quan trƣớc cuộc sống, là bản

tình ca dung dị về hạnh phúc vợ chồng ngƣời Việt.

1.1.3. Vợ chồng trong sự xa cách

Có 118 câu ca dao nói về sự xa cách vợ chồng, thì 33 câu thể hiện sự gắn

bó, chỉ có 4 câu thể hiện sự lỏng lẻo trong quan hệ vợ chồng.

Nếu quả nhƣ nhận định của một số nhà nghiên cứu trƣớc đây, với ý

chung là hôn nhân trong xã hội phong kiến, do sự áp đặt của lễ giáo phong

kiến, của chế độ phụ quyền, nên ngƣời phụ nữ không có hạnh phúc, thì việc xa

cách chồng chính là điều kiện thuận lợi để giải phóng ngƣời vợ, và ngƣời vợ

phải thể hiện sự mừng vui khi xa cách chồng. Thế nhƣng, ngƣợc lại, qua ca

dao, chúng ta thấy càng xa cách chồng, ngƣời vợ càng thể hiện sự gắn bó với

chồng, vợ chồng càng xa cách càng gắn bó với nhau. Trong 118 câu ca dao thể

hiện sự xa cách vợ chồng, hầu hết là nói lên sự nhớ thƣơng day dứt của ngƣời

vợ hoặc ngƣời chồng. Nguyên nhân của sự xa cách này là do đi lính hoặc do

chiến tranh (24 trƣờng hợp), chồng đi học (9 trƣờng hợp), chồng đi làm ăn (6

trƣờng hợp), vì các công việc khác (55 trƣờng hợp). Nhiều khi ngƣời chồng đi

mà không nói lý do (9 trƣờng hợp), khiến ngƣời vợ khắc khoải, luôn tự hỏi

“Anh đi đâu…”, “Đi mô…”, "Đi mô mà chẳng thấy về”, “Đi đâu để nhện

giăng mùng/Năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm.”, “Anh đi đâu ba bốn năm

tròn/Để em giã gạo chày con một mình.” Và cũng nhiều khi sự xa cách chồng

đem lại nỗi thất vọng chua cay cho ngƣời vợ, làm cho ngƣời vợ phải “Khóc nỉ

non”, không “biết lấy ai than cùng”, khắc khoải “Một ngày đằng đẵng xem

bằng ba thu”, đến nỗi phải tự dằn vặt “Chẳng qua thân mẹ nhƣ đời thờn bơn”.

Vì vậy, có khi ngƣời phụ nữ thể hiện thái độ gay gắt, không thiết tiền bạc, chỉ

cần gần nhau: “Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn.”

Trong các tình huống khiến cho vợ chồng xa cách, đáng chú ý là các tình

huống thuộc về chiến tranh: ngƣời chồng phải đi lính. Có rất nhiều cách thức

trong ca dao diễn tả thái độ của ngƣời vợ trƣớc cảnh chồng đi lính: ngăn không

cho đi (“Anh ơi anh ở lại nhà”, “Anh đòi đi lính Tây bang/Em e anh bỏ mạng

bãi hoang đất ngƣời.”), đành phải cho đi (“Phải lính thì đi”), hứa hẹn làm tốt

việc nhà (“Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”), lo lắng, thƣơng xót ngƣời chồng

ngoài trận mạc (“Hòn tên mũi đạn, dạ em càng không yên”, “Lo chàng lao

khổ, chớ sá gì mẹ con tôi.”), oán trách sự bất công của xã hội (“lấy chồng lính

thiệt thua trăm đƣờng”), lên án chiến tranh (“Trời ơi sinh giặc làm chi/Bỏ nhà

Page 80: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

79

bỏ cửa mà đi chiến trƣờng.”), lo lắng cho cuộc sống gia đình (“Lấy chi nuôi

thầy với mẹ quanh năm/Đêm năm canh nằm nghĩ lại, ruột tằm héo hon.”),

trách chồng (“Tây bang anh đi lính/Sao anh không tính việc nhà.”, “Anh đi

lính mộ, đƣợc gì đâu na?”), sẵn sàng gánh vác việc nƣớc cho chồng (“Thiếp đi

lính thế cho chàng ít năm.”).

Dù ngƣời chồng đi đâu, vì lý do gì, thì ngƣời phụ nữ vẫn luôn luôn chờ

đợi. Có tới 62 câu với 3 loại từ diễn tả trạng thái đợi chờ của ngƣời phụ nữ

trong 102 trƣờng hợp xa cách chồng thể hiện qua ca dao, gồm: đợi (16 câu,

nhƣ “Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.”, “Thắp đèn em đợi, dựa kề

năm canh.”), chờ (30 câu, nhƣ “Con thơ vợ dại trông chờ từ đây.”), trông (16

câu, nhƣ: “Vợ trông chồng lên núi đứng vọng phu”.)

Phản ánh cách thức ứng xử trong điều kiện xa cách vợ chồng, ca dao ít

đứng từ góc độ ngƣời chồng (chỉ có 19 trƣờng hợp), nhƣng cũng cho thấy

trách nhiệm và lòng khao khát sum họp gia đình của ngƣời đàn ông. Tình cảm

của ngƣời chồng đƣợc phản ánh trong khung cảnh xa vợ là thƣơng vợ, cứng

rắn vƣợt qua hoàn cảnh, tin tƣởng giao việc nhà cho vợ, nhớ nhung, xót xa, an

ủi vợ, than thân trách phận, đau đớn, lo lắng trƣớc hoàn cảnh của vợ, chờ đợi,

tin tƣởng sẽ đạt mục đích; cũng có trƣờng hợp, dù là hiếm hoi, ngƣời chồng

cảm thấy đƣợc giải phóng, tự do (1 trƣờng hợp) hoặc cũng có khi bội bạc, lấy

vợ hai (1 trƣờng hợp). Tuy vậy, thái độ chung nổi bật của ngƣời chồng là trách

nhiệm và tình cảm thắm thiết với vợ con, mà câu ca dao tiêu biểu là “Dù lên

nguồn xuống bể anh cũng trở về với em.”

Qua sự thể hiện tình cảm của ngƣời vợ trƣớc cảnh xa cách chồng, chúng

ta thấy rõ ngƣời phụ nữ Việt luôn luôn lo lắng cho chồng, sẵn sàng gánh vác

công việc cho chồng, kể cả việc đi lính, sẵn sàng chăm lo việc nhà, mặc dù

chất chồng lên bản thân mình là những khó khăn, sự hẫng hụt khi trong nhà

mất đi ngƣời đàn ông. Điều này là tự giác, là biểu hiện của sự gắn bó vợ

chồng. Trong khi đó, vì công việc hoặc vì hoàn cảnh bắt buộc, ngƣời đàn ông

phải từ biệt gia đình sống cuộc sống tha hƣơng, nhƣng họ vẫn dành cho gia

đình tình cảm gắn bó, thƣơng yêu. Cho nên, phản ánh tình cảnh xa cách của vợ

chồng, ca dao đã chứng minh một cách đầy thuyết phục sự gắn bó của vợ

chồng, một sự gắn bó từ cả hai phía vợ và chồng, dựa trên tình thƣơng yêu và

trách nhiệm đối với nhau.

1.2. Đạo nghĩa vợ chồng theo quan niệm dân gian

Khảo cứu ca dao, chúng tôi nhận thấy khái niệm đạo nghĩa thƣờng đƣợc

các tác giả dân gian dùng để nói về quan hệ vợ chồng. Trong học thuyết Nho

giáo, thì chữ đạo cũng hay đƣợc sử dụng để nói về quan hệ gia đình, đó là đạo

Page 81: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

80

tam tòng. Khảo cứu kỹ những câu ca dao có dùng từ đạo nghĩa (hoặc đạo,

hoặc nghĩa), gồm 39 câu, chúng tôi thấy rằng trong khi sử dụng vỏ ngôn ngữ

đạo nghĩa của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển tải những nội dung

gần gũi với nhận thức, tình cảm và lối sống của dân tộc.

Theo các tác giả dân gian, đạo nghĩa vợ chồng rất nặng, rất sâu, rất khó,

với nội dung là: Hôm ấp mai ôm, Ăn mày cũng theo nhau, Ngàn dặm khôn

quên, Giận rồi lại thƣơng, Thƣơng, Chịu khó chịu khổ, Xa nhau vẫn nhớ, Đá

vàng trăm năm, Nhớ hoài không quên, Chăm nom chồng, Hoà hợp, thuận hoà,

Không ngại xa gần, Không vong vợ, Bền chặt, Không rời nhau, Không cần

biết đói no, Đợi chờ chồng, Chung thuỷ, Không tham sang giàu, Già đời, Sinh

tử có nhau, Cậy nhờ nhau.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Đạo cƣơng thƣờng khó lắm bạn ơi

Chẳng dễ nhƣ ong bƣớm đậu rồi lại bay

Đạo cƣơng thƣờng khá dễ đổi thay

Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.

2. Đốn cây ai nỡ dứt chồi

Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thƣơng.

3. Chữ rằng: quân tử tạo đoan

Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.

4. Lấy nhau cho trọn đạo Trời

Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.

5. Xét ra trong đạo vợ chồng

Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.

Các từ thể hiện đạo nghĩa ở đây thƣờng đƣợc dùng là Đạo vợ chồng, Đạo

vợ nghĩa chồng, Tình chồng nghĩa vợ.

Qua ca dao nói về đạo nghĩa vợ chồng, có thể thấy các tác giả dân gian

cũng nêu lên một số quy luật bao quát thể hiện nguyên tắc sống của vợ chồng,

nhƣ chung thuỷ trọn đời (thƣờng biểu hiện qua từ trăm năm, nhƣ “Vợ chồng là

nghĩa đá vàng trăm năm”, “Trăm năm gối phƣợng má đào bên em”, “Đạo vợ

chồng trăm năm không phải một ngày”). Quy luật này là phổ biến, từ trong đời

thƣờng mà ra, chứ không phải là theo triết thuyết Khổng Mạnh, bởi vì từ khi

chƣa có Nho giáo, thì con ngƣời đã có khái niệm vợ chồng, và thực tế cuộc

sống lao động cũng nhƣ tình cảm đã khiến cho sự chung thuỷ trọn đời là yêu

cầu tất yếu của quan hệ vợ chồng.

Nội dung chính trong ca dao về đạo nghĩa vợ chồng là những cách thức

ứng xử thắm thiết tình cảm giữa hai vợ chồng trong hoàn cảnh sống gắn với

Page 82: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

81

thiên nhiên, lao động. Đạo nghĩa vợ chồng giản dị và thuần phác, có khi thể

hiện ở nắm lá xông:

Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nắm lá nọ về xông

Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.

Quan niệm về nghĩa nhƣ trên cho thấy lối sống chất phác, tình cảm chân

thật và thực tế của ngƣời nông dân thuộc xã hội nông nghiệp, một xã hội mà

trong đó, con ngƣời sống gắn bó và hoà đồng với thiên nhiên.

Có một trƣờng hợp độc đáo, là trong khi sử dụng khái niệm Đạo của Nho

giáo, các tác giả dân gian lại chuyển tải một nội dung trái ngƣợc với Nho giáo.

Qua ca dao, ngƣời nông dân Việt khẳng định: "Đạo cƣơng thƣờng khá dễ đổi

thay/Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau”. Đây là một quan

niệm rất nhân ái của ngƣời Việt, đối lập với quan niệm Nho giáo đòi hỏi ngƣời

chồng phải dƣơng danh, hiển nhân. Thảm trạng của ngƣời đàn ông không làm

cho ngƣời đàn bà khinh ghét, ruồng rẫy mà càng làm sâu sắc thêm tình chồng

nghĩa vợ, đó là nét tâm lý độc đáo của ngƣời nông dân Việt.

Nhƣ vậy, khái niệm đạo nghĩa đƣợc dùng trong ca dao có nội dung khá

rộng, bao hàm cả ý nghĩa vật chất và ý nghĩa tinh thần. Về ý nghĩa vật chất,

các tác giả dân gian quan niệm rằng muốn làm tròn đạo nghĩa, vợ chồng cần

thể hiện sự âu yếm nhau, chịu đựng thiếu thốn, không phụ thuộc vào của cải.

Về ý nghĩa tinh thần, đạo nghĩa bao hàm cả tình cảm và ý chí, vợ chồng phải

thƣơng yêu, tƣơng trợ nhau, hoà thuận, chung thuỷ, không bị chi phối bởi

không gian và thời gian. Quan niệm nhƣ thế hoàn toàn phù hợp với cuộc sống

bình dị, không phải là những triết lý cao siêu.

1.3. Quan niệm dân gian về ông Tơ bà Nguyệt

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong xã hội phong kiến, do không tìm

đƣợc hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân, mà ngƣời ta hay trông chờ hoặc

đổ lỗi cho ông Tơ bà Nguyệt. Trong Kinh thi ViệtNam, Nguyễn Bách Khoa

viết: "Cha mẹ đặt đâu, họ phải ngồi đấy. Bao nhiêu tƣ tƣởng cá nhân của họ

đều nép mình dƣới cái uy lực tối thƣợng của gia đình. Họ chỉ còn biết nhắm

mắt đƣa chân trông cậy cả vào may rủi, vào ông Tơ bà Nguyệt" [52:99].

Thực ra trong ca dao nói về gia đình, chỉ có 5 câu trực tiếp nhắc đến ông

Tơ bà Nguyệt, chỉ có ca dao về chủ đề giao duyên nam nữ mới nhắc nhiều đến

hai từ này. Vì sự giao duyên có liên quan trực tiếp đến hôn nhân, cho nên

chúng tôi cũng mở rộng tƣ liệu ra loại chủ đề giao duyên để khảo cứu. Theo

phân loại của chúng tôi, có 5.862 câu ca dao thuộc chủ đề giao duyên nam nữ,

Page 83: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

82

cùng với 1.179 câu ca dao thuộc chủ đề gia đình, trong đó từ ông Tơ, bà

Nguyệt xuất hiện 164 lần trong 88 câu ca dao (dƣới nhiều tên gọi khác nhau:

ông Tơ bà Nguyệt, ông Tơ, bà Nguyệt, Nguyệt lão, bà Nguyệt lão, ông Nguyệt

lão). Các đôi nam nữ nói đến ông Tơ bà Nguyệt trong các trƣờng hợp sau đây:

+ Phản ánh tình trạng chƣa bén duyên nhau (30 câu), thí dụ: “Ông Tơ bà

Nguyệt chƣa xe”, “Đôi ta nhƣ vợ với chồng/Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng

chƣa xe.”, “Tuổi anh đang độ thơ đào/Ông tơ chƣa định nơi nào xe duyên.”

Ông Tơ bà Nguyệt ở đây chỉ nhƣ một cái cớ mà các đôi trai gái mƣợn để nói

lên tâm trạng “lửng lơ” chƣa định nơi chốn của mình.

+ Trách không xe duyên (13 câu), thí dụ: “Bắt ông Tơ mà đánh ba

hèo/Duyên ngƣời xe cả, phận em đói nghèo không xe.”, “Quyết lên trời kiện

đến ông Tơ”,” Ông vụng xe, xe phải vợ già/Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!”.

Thái độ của ngƣời nói ở đây khá trịch thƣợng, coi thƣờng ông Tơ, bà Nguyệt,

thƣờng dùng từ bắt.” (Ví dụ : “Bắt ông Tơ mà cho ba đấm/Bắt bà Nguyệt,

đánh bốn mƣơi chín cái hèo/Duyên ngƣời ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều

mới xe.”). Tuy nói là trách ông Tơ, thực ra con ngƣời trách cho sự chậm

duyên, vô duyên của mình chứ không nhằm đổ lỗi cho đấng siêu nhiên.

+ Thể hiện vai trò chủ động của con ngƣời trong tình duyên, không phụ

thuộc ông Tơ bà Nguyệt (17 câu), ví dụ: “Vừa đôi ta định, ông Tơ sá gì!”, “Kết

phức đi đây vợ đó chồng/Dù ông trời chƣa định, dù ông Tơ Hồng chƣa xe.”,

”Sáng trăng suông sáng cả bờ sông/Ta đƣợc cô ấy ta bồng ta chơi/Ta bồng ta

tếch lên trời/Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?”, “Phụ anh, tội lắm bớ

nàng!/Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn”, "Phải duyên thì lấy, tơ hồng nào se".

Qua các câu ca dao thuộc loại này, chúng ta thấy dù nhân duyên đã thành hay

bại, thì ông Tơ, bà Nguyệt cũng không có vai trò quyết định, mà vai trò ấy là ở

con ngƣời. Khi đã yêu, ngƣời ta cứ việc gắn bó với nhau, có hỏi đến ông Tơ

cũng chỉ là để cho vui, khi sự việc đã an bài. Còn khi trắc trở, ngƣời ta đem

ông Tơ bà Nguyệt ra hỗ trợ cho mình nhằm níu kéo ngƣời tình.

+ Cầu xin cho đƣợc xe duyên (5 câu), thí dụ: “Vái ông Tơ một đĩa bánh

bò bông/Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.”, “Vái ông Tơ đôi ba chầu

hát/Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh/Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm

tình/Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ƣng.” Trong trƣờng hợp này, con ngƣời

tỏ lòng thành kính trƣớc vai trò xe duyên của ông Tơ bà Nguyệt, nhƣng cũng

có khi chỉ là cách nói mà thôi. Số câu ca dao thuộc loại này chiếm tỷ lệ rất

thấp, chỉ bằng 7,46% số câu ca dao có nói đến ông Tơ bà Nguyệt, chứng tỏ

trong tâm thức dân gian, sự tin tƣởng vào vai trò của ông Tơ bà Nguyệt trong

xe duyên chỉ rất mờ nhạt.

Page 84: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

83

Với các nội dung đƣợc phân loại cùng những dẫn chứng nhƣ trên, có thể

thấy rằng trong ca dao, các tác giả dân gian chỉ mƣợn ông Tơ bà Nguyệt để nói

về tâm trạng của con ngƣời hoặc để làm cớ nói về tình cảm của con ngƣời, chứ

chủ yếu không phải coi ông Tơ bà Nguyệt nhƣ đấng thần linh quyết định hạnh

phúc lứa đôi. Điều này cho thấy, về mặt phƣơng pháp luận, khi nghiên cứu văn

học dân gian, trong đó có ca dao, cần chú ý đến cách sử dụng khái niệm của

các tác giả dân gian, nhiều khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ này để chuyển tải nội

dung khác.

1.4. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng

Phản ánh các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ gia đình ngƣời Việt có

150 câu ca dao, trong đó thuộc về quan hệ cha mẹ con có 37 câu, vợ chồng có

88 câu, anh chị em có 2 câu, còn lại là trong quan hệ dâu rể, họ hàng.

Khảo cứu loại ca dao phản ánh các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ vợ

chồng, chúng tôi rút ra bảng sau:

BIỂU HIệN NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN PHẢN ỨNG

Tảo hôn Tham giầu Nữ Phê phán

Phụ bạc Vợ già đi Nam Trách

Cờ bạc Nam Xa lánh

Chồng vừa chết đã

ngóng trai

Không nói rõ

Bóc lột Nhà giầu Nhà chồng Trách

Nợ nần (2 đơn vị) Cờ bạc Nam Không nói rõ

Rƣợu chè Nam Không nói rõ

Cờ Bạc (2) Nữ Không nói rõ

Cờ bạc (10) Nam Trách, khinh

Phụ bạc Nữ Không nói rõ

Phụ bạc Cả nam, nữ

Đa thê (9) Nam Trách

Đa thê (3) Nam Phản đối

Đa thê (5) Nữ Chấp nhận

Bỏ chồng, ngóng

trai

Nữ Phê phán

Tảo hôn (2) Không nói rõ

Bạc bẽo (7) Nam Trách

Bạc bẽo (2) Nam Không nói rõ

Page 85: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

84

Bạc bẽo Nam Phản đối kịch liệt

Bạc bẽo Nam Cầu xin

Chồng không

thƣơng

Nam Buồn

Đánh vợ (6) Nam Nhắc nhở

Đánh vợ Vợ lẳng lơ Nam Không nói rõ

Dữ tính Nam Lo

Đàng điếm (10) Nữ Dè bỉu

Nghiện hút Nam Dè bỉu

Bỏ chồng Công nợ Nữ

Vợ hƣ Cả nghe Nam Quy trách nhiệm

Vợ hƣ Chồng Quy lỗi

Con hƣ Cha dong Nam Quy trách nhiệm

Khổ Lấy chồng giầu Oán trách

Chê chồng (2) Chồng già, kém Nữ Oán cha mẹ

Nghèo khổ Lấy chồng Nhà chồng Oán trách

Bắt nạt chồng Nữ Phê phán

Tồi (2) Nam Than vãn

Đánh chồng (2) Nữ Không nói rõ

Chồng ngu Bị gả bán Bực

Bỏ chồng Nữ

Ghen chồng Nữ Không nói rõ

Không bênh vợ Nam Trách

Xung khắc Bị ép gả Nam và nữ Trách

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Gió đƣa bụi chuối sau hè

Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.

2. Vì đứt dây, nên gỗ mới chìm

Bởi anh ở bạc nên em phải tìm nơi xa.

3. Anh đi ghe nổi chín chèo

Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo

- Nợ treo mặc kệ nợ treo

Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.

4. Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

Page 86: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

85

Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.

5. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm

Còn nhƣ yêu vụng dấu thầm

Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!

6. ớt nào là ớt chẳng cay

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng?

Nói ra đau đớn trong lòng

ẤY cái nợ nần, có phải chồng đâu.

Từ các câu ca dao về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng,

chúng tôi thống kê đƣợc 40 tình huống, trong đó loại tiêu cực đƣợc nói đến

nhiều nhất là Đa thê (15 câu), Nghiện hút, cờ bạc (13 câu), Phụ bạc nhau (12

câu), Lẳng lơ, đàng điếm (12 câu), Đánh vợ (7 câu). Khi phản ánh các hiện

tƣợng tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, các tác giả dân gian thể hiện nhiều thái

độ khác nhau, nhƣng nhìn chung là không gay gắt lắm. Các loại biểu hiện tiêu

cực nhƣ nghiện hút, cờ bạc, đánh vợ… đều không bị phê phán trực diện. Đối

với hiện tƣợng đa thê, thái độ của ngƣời phụ nữ cũng đa chiều: khi thì chấp

nhận ("Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào/Thím tôi chả bảo làm sao,/ Nói lên vài tiếng,

lào nhào mấy câu.”), khi thì phản đối ("Chồng chung thì đừng"), và lúc lại

trách móc (“Anh lấy vợ lẽ phụ tình thiếp chăng?”), trong đó chủ yếu là trách

móc. Điều này cho thấy ngƣời Việt chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, của chế độ

phụ quyền, trong đó cho phép ngƣời đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp,

đồng thời thể hiện cách sống hồn nhiên chân chất của cƣ dân nông nghiệp. Tuy

nhiên, ở một góc nhìn khác, thì việc xuất hiện tần số cao nhất: 15 lần nhắc đến

đa thê trong các câu ca dao nói về tiêu cực vợ chồng, cho ta thấy lối ứng xử

cam chịu của ngƣời phụ nữ, đồng thời cũng là vấn đề nhức nhối hằn sâu trong

tâm tƣ của ngƣời phụ nữ. Sự bất công ấy phải chăng là nguyên nhân của việc

không ai khác, mà chính ngƣời phụ nữ, đã cất cao tiếng nói hạ bệ thần tƣợng

của chữ "trinh" để có những câu ca dao phản ánh thái độ bất cần của họ nhƣ

một thói xấu trêu ngƣơi các chàng trai, đó là tính lẳng lơ. Từ tình trạng này,

dẫn đến một hệ quả là trong ca dao, khuyết điểm bị nhắc đến nhiều nhất của

phụ nữ là tính lẳng lơ, đàng điếm, với thái độ dè bỉu khinh khi. Các tác giả dân

gian theo dõi từng trạng thái của ngƣời phụ nữ trong những cảnh huống khác

nhau để lột tả sinh động những thói xấu của ngƣời phụ nữ: khi ở với chồng thì

dành “quả ngọt” cho “trai", đang sống với chồng cũng “nom chồng ngƣời.”,

khi xa chồng - "Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thời nhiều.”, tới mức “Loạn trôn từ

Page 87: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

86

thuở vắng chồng đến nay”, bị chồng đánh vì “ve ông lái mành”, ngông cuồng

tới mức “Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!”, "Có chồng càng dễ chơi

ngang/Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?”, đến khi chồng chết cũng không

thờ chồng đƣợc ở mức tối thiểu: “Chồng tôi mới đƣợc ba ngày/Ai ơi có đợi tôi

rày hay không?" Những biểu hiện này cho thấy trong xã hội phong kiến, không

phải là phụ nữ không dám bung phá, sống theo sở ý riêng, mặt khác cũng cho

thấy dƣ luận hết sức quan tâm và khắt khe đối với phụ nữ. Điều này vừa biểu

hiện cho sự áp chế của lễ giáo phong kiến đối với ngƣời phụ nữ, vừa thể hiện

sự chống đối của ngƣời phụ nữ đối với lễ giáo ấy. Nƣơng nhẹ cho những

khuyết điểm của đàn ông, trong đó có những thói xấu mang tính phổ biến

trong xã hội nhƣ đa thê, cờ bạc, rƣợu chè, đánh vợ, đồng thời lại ngặt nghèo

đối với những khuyết điểm của phụ nữ, ca dao đã cho thấy rằng trong tâm thức

dân gian, ý thức phụ quyền đã có sự chi phối ở mức độ nhất định đến cách

nhìn nhận, đánh giá của nhân dân về cách thức ứng xử trong quan hệ vợ

chồng.

2. QUAN HỆ CHA MẸ CON

2.1. Quan niệm dân gian về chữ Hiếu

Hiếu là một khái niệm hết sức quan trọng trong Nho giáo. Trong Văn

hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Phan Ngọc viết: “Không đạo lý nào nói

đến chữ hiếu nhiều hơn Khổng giáo. Và dù cho chữ hiếu có đƣợc nhắc đến bởi

Khổng Tử, Tăng Tử và vô số học giả thì chung quy chỉ là bổn phận của đứa

con đối với cha mẹ mình. Và chấm dứt.” [81:112[. Trong Nho giáo xưa và

nay, Quang Đạm viết:

"Hiếu tất nhiên là biết yêu thƣơng cha mẹ, biết vào thƣa gửi, đi

báo cáo về trình diện, biết quạt nồng ấm lạnh, sớm hỏi chiều thăm, biết

lập thành gia thất có con nối dõi tông đƣờng, tránh đƣợc tội lớn "vô

hậu".v.v. Có thể nói rằng đó là những việc quen thuộc mà ngƣời ta hay

nói đến trong xã hội cũ trải qua mấy chục thế kỷ rồi. Nhƣng Khổng

Mạnh chủ yếu nhấn mạnh vào những điều có ý nghĩa cao sâu hơn về

mặt đạo lý triết học. Ngay đến việc nuôi nấng cha mẹ, Khổng Khâu

cũng dụng ý phê phán gay gắt một quan niệm đƣơng thời là cứ có nuôi

nấng là đƣợc. Lời phê phán nhƣ sau: "Ngày nay, nói ngƣời có hiếu là

nói biết nuôi nấng. Đến nhƣ con chó con ngựa cũng đều có nuôi nấng

cả. Không có lòng tôn kính thì có gì phân biệt." [30:177].

Page 88: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

87

Rất sợ hậu sinh không giữ đúng đạo của cha ông, thầy trò Khổng

Khâu nhiều lần nêu rõ những yêu cầu "kế", "thuật", "và "vô cải" (nghĩa

là nối tiếp, làm theo và không thay đổi)...[30:180].

“Dƣơng danh, hiển nhân, cách báo hiếu tốt nhất.

Rất sợ "hậu sinh' "đổi khác", Nho giáo tìm đủ mọi cách làm cho

con cháu cứ đi đúng theo cái đạo của cha ông, cứ "thiện kế", "thiện

thuật'' mà làm nên nghiệp lớn, vƣơn lên cao mãi. Con hơn cha nhƣ vậy

nhà càng có phúc. [30:180].

Trong ca dao, nhân dân ta cũng hay nói đến chữ Hiếu. Trong số 446 câu

ca dao nói về quan hệ cha mẹ con, thì có 100 câu phản ánh tình trạng có hiếu

hoặc bất hiếu, còn trong 1.179 câu ca dao nói về gia đình, có 25 câu ca dao có

dùng trực tiếp từ hiếu.

Khảo cứu ca dao nói về đạo hiếu trong gia đình Việt Nam, chúng tôi

thống kê nhƣ sau:

- Tổng số câu ca dao đề cập đến đạo hiếu: 100 câu (21 câu có dùng trực

tiếp chữ hiếu, hoặc hiếu trung), còn lại là nói gián tiếp.

- Số câu thể hiện sự có hiếu là 89 câu, sự bất hiếu là 11 câu.

Nội dung có hiếu đối với cha mẹ đƣợc ca dao phản ánh là: Đền ơn nuôi

dƣỡng, Chăm nom về vật chất, Thờ cha kính mẹ, Biết ơn cha mẹ, Chịu nhục,

Biết sợ, Chịu cúi luồn, Lo lắng cho cha mẹ, Thờ cúng chu tất (hơn với chồng),

Gắng học để thành danh, Coi cha mẹ hơn chồng, Coi trọng đền ơn hơn nhân

duyên, Nhớ thƣơng, Phụng dƣỡng mẹ cha, Trọng công cha nhƣ nghĩa thầy,

Mong cha mẹ sống lâu, Lao động làm giầu cho cha, Không đƣợc cãi cha mẹ,

Hầu mẹ cha, Vợ chồng thờ chung cha mẹ, Trong thời gian để tang cha mẹ

không nghĩ đến nhân duyên, Nối nghiệp cha ông.

Nội dung bất hiếu đối với cha mẹ đƣợc ca dao phản ánh là: Kể công nuôi

cha mẹ, Ăn chơi phung phí của cha mẹ, Sao nhãng thăm nom, Hƣởng riêng

sang giầu, để mặc cha mẹ nghèo, Hỗn láo với cha mẹ, Quên ơn cha mẹ.

Nói chung, những nội dung về chữ hiếu mà ca dao ngƣời Việt phản ánh

nhƣ đã dẫn trên đây đều đƣợc Nho giáo đề cập đến, chứng tỏ trên bình diện gia

đình, chữ hiếu của Nho giáo đã đƣợc chuyển tải và thâm nhập khá sâu, rộng

vào xã hội Việt Nam thời phong kiến. Tuy vậy, trong nội dung của chữ hiếu

mà ca dao chuyển tải, thƣờng hƣớng vào cách ứng xử thông thƣờng trong cuộc

sống, gần gũi với nếp sống, nếp nghĩ bình dị của ngƣời dân, còn những triết lý,

yêu cầu cao siêu hoặc ngặt nghèo của Nho giáo thì không đƣợc đề cập.

Page 89: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

88

Về đối tƣợng của chữ hiếu, Nho giáo quy định nhƣ sau: “Hiếu đạo là

nghĩa với cha mẹ, đồng thời cũng có thể là nghĩa đối với các thế hệ bề trên

trong gia đình.”, “Con ngƣời hiếu đễ bao giờ cũng làm vui lòng cha anh"

[30:175]. “Ba mối nhân luân trong gia đình là cha con, anh em và vợ chồng.”

[30:183]. Nhƣ vậy, đối tƣợng của chữ hiếu chính là cha mẹ, ngƣời bề trên,

nhƣng Nho giáo nhấn mạnh đến cha anh, đến mối quan hệ cha - con.

Khi nói về hiếu, ca dao ngƣời Việt cũng chỉ rõ đối tƣợng là cha mẹ: với

cha mẹ nói chung (88 câu), trong đó nói đến cả cha và mẹ trong cùng một câu

ca dao là 59 câu, nói riêng về cha là 4 câu, riêng về mẹ là 26 câu, số câu có

nhắc trực tiếp đến từ cha (hoặc thầy, thày) là 50 câu, mẹ (hoặc má) là 67 câu,

nói về công cha là 11 câu, về nghĩa mẹ là 20 câu. Có nghĩa là, đối tƣợng của

chữ hiếu đƣợc ca dao ngƣời Việt quan tâm hơn cả là cha mẹ nói chung, tiếp đó

là ngƣời mẹ. Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời cha đều đƣợc nói đến ít hơn ngƣời

mẹ. Điều này cho thấy, khi sử dụng khái niệm hiếu, phản ánh tình trạng có

hiếu hoặc bất hiếu, ca dao thiên về lối ứng xử thông thƣờng và nặng về tình

chứ không phải nặng về giáo lý, và ngƣời mẹ bao giờ cũng chiếm vị trí quan

trọng hơn ngƣời cha. Điều này cũng chứng tỏ rằng, khi nói về chữ hiếu, ngƣời

Việt giới hạn nó trong phạm vi gia đình là chính, không đồng nhất với quan

niệm của Nho giáo, tức là chỉ khuôn chữ hiếu vào việc làm sao cho con sống

có tình có nghĩa với cha mẹ là chính, chứ không phải hƣớng con ngƣời theo

cách báo hiếu mang tính giáo lý của Khổng Mạnh là phải xây dựng đƣợc

nghiệp lớn, biến nhà mình thành đại gia, có thế lực trong xã hội. Quan niệm

của Khổng giáo không có con trai là bất hiếu cũng không hề có mặt trong các

câu ca dao nói về đạo hiếu của ngƣời Việt, càng cho chúng ta thấy rõ khái

niệm hiếu của Nho giáo tuy đã thâm nhập sâu vào xã hội, gia đình Việt Nam

nhƣng nội dung đã mờ nhạt.

2.2. Trách nhiệm của cha mẹ đối với con

Có 18 câu ca dao thể hiện trách nhiệm của cha mẹ với con. Đó là: Nuôi

nấng, Chăm chút, Dạy dỗ, Dựng vợ gả chồng, Tạo dựng nhà cửa, Cho học

hành.

Trong các trách nhiệm nói trên, việc chăm lo cho con học hành đƣợc nói

đến nhiều hơn cả (5 câu), với mục đích rõ ràng là thành danh, hiển thân. Điều

này cho thấy, về mặt giáo dục, ngƣời Việt đã chịu ảnh hƣởng rõ rệt của Nho

giáo, và đây là ảnh hƣởng tích cực.

Page 90: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

89

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Gắng công mà học có ngày thành danh.

2. Con ơi muốn nên thân ngƣời

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha

Gái thời dệt gấm thêu hoa

Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa

Trai thời đọc sách ngâm nga

Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa

Nữa mai nối đặng nghiệp nhà

Trƣớc là mát mặt sau là hiển thân.

3. Con cò bay bổng bay la

Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng

Cha sinh mẹ đẻ tay không

Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi

Trƣớc là nuôi cái thân tôi

Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.

4. Nuôi con cho đƣợc vuông tròn

Mẹ thầy dầu dãi, xƣơng mòn gối long

Con ơi, cho trọn hiếu trung

Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.

Đáng lƣu ý là, tuy nói ít về trách nhiệm của cha mẹ đối với con, nhƣng ca

dao của ngƣời Việt lại nói nhiều đến công lao của cha mẹ, răn dạy con phải

báo đáp. Sở dĩ nhƣ vậy vì ca dao thiên về tình cảm, các tác giả dân gian không

chủ tâm đúc rút giáo lý trong quan hệ cha mẹ con, mà chủ yếu phản ánh tình

cảm đƣợc bộc lộ qua mối quan hệ ấy. Qua những câu ca dao nói lên công lao

của cha mẹ đối với con, lại thấy nổi lên trách nhiệm của cha mẹ rất lớn, thiên

về việc nuôi nấng, chăm chút, hy sinh cho con, mong con nên ngƣời, kể cả học

hành để thành danh, hiển thân.

Page 91: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

90

2.3. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con

Chúng tôi thống kê đƣợc 37 câu ca dao nói lên những biểu hiện tiêu cực

trong quan hệ cha mẹ con. Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

2. Mẹ già hết gạo treo niêu

Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.

Về các biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con, trong phần Hôn

nhân, chúng tôi sẽ có dịp nói đến khía cạnh ép duyên, mà chủ yếu là do yếu tố

kinh tế - cha mẹ tham tiền, tham giầu mà ép duyên con. Trong phần này,

chúng tôi xem xét khía cạnh con đối xử không tốt với cha mẹ. Có 7 câu ca dao

nói về hành động tiêu cực của con đối với cha mẹ là: Cãi cha mẹ, Kể công

nuôi cha mẹ, Để cho mẹ khổ trong khi mình giầu sang. Hai loại tiêu cực đầu

mang yếu tố tinh thần, loại tiêu cực sau mang yếu tố vật chất. Thái độ của các

tác giả dân gian trƣớc các hành vi sai trái của con đối với cha mẹ không đƣợc

bộc lộ rõ ràng, chỉ có một trƣờng hợp nói thẳng rằng "con cãi cha mẹ" là "con

hƣ". Trong các trƣờng hợp này, ca dao phản ánh một cách khách quan là

chính, để ngƣời nghe tự rút ra kết luận và tỏ thái độ.

3. QUAN HỆ NÀNG DÂU VÀ GIA ĐÌNH CHỒNG

Chúng tôi thống kê đƣợc 63 câu ca dao nói về quan hệ của nàng dâu đối

với gia đình nhà chồng, thì có tới 33 câu thể hiện những biểu hiện tiêu cực, chỉ

có 14 câu biểu hiện sự tích cực (chủ yếu là đối vơí mẹ chồng). Tức là có 52%

số câu ca dao về quan hệ nàng dâu - nhà chồng phản ánh tính tiêu cực, và số

câu ca dao nói về các hiện tƣợng tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng

nhiều gấp 2,35 lần số câu nói về các hiện tƣợng tích cực. Tỷ lệ này là cao,

đồng thời với nội dung của các câu ca dao nói lên những tiêu cực trong quan

hệ nàng dâu với nhà chồng cho thấy từ trong truyền thống, đây là mối quan hệ

mang nhiều nỗi nhức nhối thuộc gia đình ngƣời Việt. Nói cách khác, mâu

thuẫn nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của ngƣời

Việt.

Qua các câu ca dao nói về quan hệ nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi rút ra

bảng thống kê nhƣ sau:

Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng

HIỆN TƢỢNG NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN

Làm việc vất vả vẫn bị chê Nhà chồng

Đay nghiến Mẹ chồng

Page 92: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

91

Doạ khâu miệng mẹ chồng Bị đay nghiến Con dâu

Mong mẹ chồng chết Bị đay nghiến Con dâu

Khôn khéo vẫn bị chê (4 câu) Mẹ chồng

Bị chồng đánh, bị xui đánh thêm Mẹ chồng

Mong mẹ chồng ốm để cho

thuốc độc

Bị ngƣợc đãi Con dâu

Khóc than Bị hành hạ Mẹ chồng

Bỏ về nhà mẹ đẻ Mẹ chồng ác nghiệt Mẹ chồng

Khóc Bị chửi Mẹ chồng

Muốn bỏ đi Bị hành hạ, chê

nghèo

Mẹ chồng

Ăn không ngon Thấy mẹ chồng

Nghèo đi Lấy chồng

Tàn tạ đi Bị đánh mắng Mẹ chồng

Rầu Bị coi rẻ Mẹ chồng

Rủa mẹ chồng Con dâu

Không khen nhau Quan hệ không bình

đẳng

Mẹ chồng

Không dám về với chồng Sợ bị chê nghèo Cha mẹ chồng

Nhờ chồng lạy mẹ Bị đánh Mẹ chồng

Nhịn nhục, nhịn ăn mặc Mẹ chồng ác Mẹ chồng

Bị hành hạ Lấy chồng giầu Mẹ chồng

Không yêu nhau Vì là nàng dâu mẹ

chồng

Xui chồng chống mẹ Bị đòn Mẹ chồng

Chí nguyện vẫn bị chê Mẹ chồng

Bị đối xử bất công Là con dâu Mẹ chồng

Cực nhọc, đói khổ, rách rƣới Là con dâu Mẹ chồng

Các tình huống tiêu cực trong quan hệ nàng dâu mẹ chồng đƣợc thống kê

ở bảng trên cho thấy sự mâu thuẫn gay gắt của hai đối tƣợng này. Sự phản ứng

quyết liệt, những lời nói nặng nề, hành vi không khoan nhƣợng giữa mẹ chồng

- nàng dâu trong gia đình dƣới chế độ phong kiến ở Việt Nam cho thấy mặc dù

đề cao phụ quyền nhƣng vai trò của ngƣời cha cũng chƣa đủ mạnh để tạo dựng

nên những quan hệ tốt đẹp và chƣa đủ uy để trấn áp các hành động gây bất hoà

giữa các thành viên trong gia đình. Điều này khác với gia đình phụ quyền ở

Page 93: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

92

Trung Quốc, trong đó ngƣời con dâu chịu lép một bề, cúi đầu tuân phục mọi

phép tắc của nhà chồng.

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Mẹ chồng nàng dâu

Chúa nhà ngƣời ở, khen nhau bao giờ.

2. Thật thà cũng thể lái trâu

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

3. Bà kia bận áo xanh xanh

Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu

Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu

Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà

Chừng nào bà chết ra ma

Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng

Không khóc thì sợ lòng chồng

Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu.

4. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ

Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu

Mẹ cha hành hạ thân dâu

Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?

5. Cô kia đội áo đi đâu?

- Tôi là phận gái làm dâu mới về

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê

Tôi ở chẳng đƣợc tôi về nhà tôi.

Những biểu hiện tích cực trong quan hệ nhà chồng - nàng dâu.

HIỆN TƢỢNG NGUYÊN NHÂN TÁC NHÂN

Coi nhƣ con đẻ Dâu hiền Gia đình chồng

Cùng lao động

Thƣơng mẹ chồng Con dâu

Chăm mẹ chồng Con dâu

Coi bình đẳng nhƣ con Nhà chồng

Kính trọng mẹ cha chồng Con dâu

Nuôi mẹ thay chồng Con dâu

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Năm trai, năm gái là mƣời

Năm dâu, năm rể là đôi mƣơi tròn.

3. Xin anh đi học cho ngoan

Page 94: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

93

Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài

Quan tiền dài em ngắt làm đôi

Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già

Bát cơm em nấu nhƣ hoa

Bát canh em nấu nhƣ là mật ong

Nƣớc mắt em lọc cho trong

Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan .

Từ các tình huống thể hiện tính chất tích cực và tiêu cực trong quan hệ

nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi có mấy nhận xét nhƣ sau:

- Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu trong gia đình là mâu thuẫn giữa nàng dâu

và mẹ chồng mà tác nhân chính là mẹ chồng. Nói cách khác, mẹ chồng là

ngƣời chủ yếu tạo nên các mâu thuẫn với nàng dâu.

- Thứ hai, khi làm dâu, ngƣời con gái chịu đủ mọi nỗi khổ, cả về vật chất

và tinh thần, nhƣng không đƣợc biết rõ nguyên nhân thực sự làm cho mình bị

ngƣợc đãi. Có nghĩa là, qua ca dao, chúng ta thấy ở một bộ phận xã hội, làm

dâu đồng nghĩa với phải cam chịu cảnh sống tôi đòi. Đặc biệt, ca dao đã nhiều

lần khẳng định làm dâu nhà giầu thì chỉ có khổ.

- Thứ ba, các phản ứng tiêu cực của nàng dâu đều hƣớng vào mẹ chồng.

Sự phản ứng của nàng dâu có nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc ở sự ngƣợc

đãi đối với mình, trong đó nhiều trƣờng hợp đã phản ứng gay gắt, tới mức đối

kháng.

- Thứ tƣ, những biểu hiện tích cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng

chủ yếu do nàng dâu tạo nên, hoặc do nhà cha mẹ chồng tạo nên, không có

trƣờng hợp nào do mẹ chồng tạo nên. Trong các trƣờng hợp biểu hiện tính tích

cực trong quan hệ nàng dâu - mẹ chồng do cha mẹ chồng tạo nên, thể hiện tính

dân chủ, bình đẳng, nhƣng chỉ bộc lộ qua nhận thức chứ không phải là những

ứng xử cụ thể: nếu dâu mà hiền thì đƣợc coi nhƣ con, khi tính lƣợng ngƣời

trong nhà, con dâu con rể cũng đƣợc tính ngang hàng với con trai con gái.

Những nhận xét trên đây dẫn đến kết luận là ca dao đã phản ánh mâu

thuẫn trong gia đình ngƣời Việt trong xã hội phong kiến, chủ yếu bộc lộ qua

mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng. Mâu thuẫn này đƣợc thể hiện trên nhiều bình

diện của cuộc sống, từ vật chất tới tinh thần, với nhiều mức độ, mà cao nhất là

có thể dẫn đến hành động loại trừ nhau.

Tìm hiểu hoàn cảnh kinh tế - xã hội thời phong kiến, chúng ta có thể thấy

đƣợc nguyên nhân sâu sa của mâu thuẫn ấy. Nhƣ chúng ta đã biết, trong chế độ

Page 95: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

94

phong kiến, lao động của ngƣời nông dân phần lớn mang tính đơn giản, năng

suất thấp, đòi hỏi nhiều sức lao động. Sống ở nông thôn mà nhà neo ngƣời thì

gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, các gia đình ở nông thôn rất cần nhân lực.

Theo chế độ phụ hệ, ngƣời phụ nữ khi lấy chồng phải theo chồng. Khi về nhà

chồng, ngƣời phụ nữ là một nhân lực đƣợc bổ sung, do vậy bao giờ nhà chồng

cũng tìm cách khai thác tối đa khả năng lao động mới ấy. Vì thế, đã hình thành

trong tâm lý cƣ dân nông thôn thói quen tận dụng sức lao động của ngƣời làm

dâu. Điều này đƣợc thể hiện qua nhiều câu ca dao, trong đó có những câu nói

rõ làm dâu nhà giầu thì khổ - chính là vì nhà giầu ở nông thôn thƣờng là những

gia đình bóc lột, và thói quen bóc lột ấy đã khiến những gia đình này càng áp

chế, tận dụng sức lao động của nàng dâu hơn các gia đình khác (nói về hôn

nhân, có 14 câu ca dao có từ tham). Để thấy rõ hơn đặc điểm về việc tận dụng

sức lao động của nàng dâu trong gia đình nông dân thời phong kiến, chúng ta

có thể liên hệ qua số phận của những anh chàng gửi rể, nhƣ:

Trời mƣa cho ƣớt lá khoai

Công anh làm rể đã hai năm ròng

Nhà em lắm ruộng ngoài đồng

Bắt anh tát nƣớc, cực lòng anh thay

Tháng chín mƣa bụi gió may

Cất lấy gàu nƣớc, hai tay rụng rời.

Có nghĩa là, ngay cả nam giới, khi đem thân ở nhà ngƣời khác (bố mẹ

vợ) thì cũng bị tận dụng sức lao động, cũng chịu cảnh sống tôi đòi chứ không

riêng gì nàng dâu. Mặt khác, về tâm lý, tình cảm, dù sao nàng dâu cũng chỉ là

ngƣời dƣng, về chung sống với gia đình nhà chồng đã "chiếm mất" ngƣời con

trai của gia đình, làm cho anh ta không còn tập trung tình cảm cho mẹ nhƣ

trƣớc, rất dễ trở thành đối tƣợng ghen ghét của mẹ chồng. Cộng vào đó là cuộc

sống cực nhọc, thiếu thốn, gò bó khiến các thành viên gia đình phải xoay tròn

trong một vòng sống có nhiều va chạm, thì mâu thuẫn nảy sinh là khó tránh

khỏi. Còn một nguyên nhân nữa, theo quan niệm Nho giáo, con dâu về nhà

phải "theo thói nhà chồng", nhà chồng cần dạy bảo cho nàng dâu cách sống

thật sự thích hợp với yêu cầu của gia đình mình, do vậy rất nghiêm khắc, thậm

chí đối xử nghiệt ngã với nàng dâu.

Dựa vào sự dẫn chứng, phân tích trên đây, chúng tôi thấy rằng nguyên

nhân thuộc về yếu tố kinh tế và tâm lý, tình cảm, cùng với ảnh hƣởng của Nho

giáo đã làm nảy sinh những tiêu cực nặng nề trong quan hệ nàng dâu nhà

chồng. Trong xã hội ngày nay, di chứng này còn ảnh hƣởng tới cuộc sống gia

đình hiện đại, tuy đã giảm bớt mức độ gay gắt.

Page 96: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

95

Về những biểu hiện mang tính dân chủ trong quan hệ nhà chồng nàng

dâu, cũng chủ yếu xuất phát từ điều kiện xã hội nông thôn mà có. Đó là vì

ngƣời nông dân xƣa sống trong làng là chính, mà làng lại hình thành từ các

nhóm gia đình, gần gũi và thân thiết nhau. Với cơ cấu đặc biệt xóm, ngõ, giáp,

làng Việt là nơi cố kết các gia đình với nhau. Qua quá trình gây dựng quê

hƣơng, tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt. Cũng do các điều kiện kinh tế

- xã hội thời phong kiến, ngƣời nông dân thƣờng lấy vợ lấy chồng trong làng

trong xã, thế là những cô dâu, chú rể dù có trở thành thành viên của gia đình

khác, thì cũng có sự gần gũi của tình làng nghĩa xóm.

Tóm lại, quan hệ nàng dâu - nhà chồng dù là mang tính tích cực hay

mang tính tiêu cực, thì cũng đƣợc quy định bởi nhiều yếu tố kết hợp, gồm yếu

tố kinh tế - xã hội, yếu tố tâm lý, tình cảm, và yếu tố Nho giáo (ở một mức độ

nhất định).

4. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN

Tình yêu và hôn nhân là chủ đề muôn thủa của văn học. Qua các câu

chuyện về hôn nhân trong chế độ phong kiến, các tác giả đã phản ánh đƣợc

thực trạng cũng nhƣ quan niệm của xã hội về hôn nhân, trong đó phần lớn lên

án sự hà khắc của lễ giáo phong kiến, thứ lễ giáo đã làm thui chột tình yêu

chân chính của con ngƣời, dìm con ngƣời trong biển khổ của sự chia cắt nhân

duyên. Ca dao ngƣời Việt phản ánh khá sinh động tình trạng hôn nhân trong xã

hội phong kiến. Đã có một số nhà nghiên cứu đã đào sâu vào kho tàng ca dao

để tìm ra những vấn đề mang tính bản chất của hôn nhân trong xã hội phong

kiến.

Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:

"Cái tình yêu khăng khít, cái tƣơng tƣ nồng nàn, cái gắn bó keo

sơn của họ, rút cục, thƣờng chỉ đƣa đến một thất vọng chua cay.

Nguyên nhân của sự thất vọng là quyền áp chế của cha mẹ. Theo luân

lý phụ quyền thì cha mẹ có quyền tuyệt đối trong việc định hôn nhân

cho các con, vì hôn nhân không phải là công việc thụ hƣởng ái tình mà

chỉ là một khí cụ để nối truyền gia thống nên cha mẹ không để ý đến

cái yêu đƣơng của con trẻ." [63:125].

Trong Thi ca bình dân Việt Nam các tác giả phân tích quan niệm về gia

đình của ngƣời Việt Nam trong xã hội phong kiến nhƣ sau:

"Đối với ngƣời con gái, ý thức tại gia tòng phụ đƣợc thể hiện rõ

rệt nhất trong ca dao về phƣơng diện hôn nhân. Vì cho mình không có

Page 97: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

96

quyền hạn gì trong việc lựa chọn, nên họ đã đem số phận tƣơng lai uỷ

thác vào quyết định của cha mẹ. [72:186].

"Dù trai gái có thƣơng yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám

nghĩ đến vƣợt quyền quyết định của mẹ cha!… Quyền định đoạt của

cha mẹ đối với con một cách độc đoán nhƣ vậy đã nảy sinh trong gia

đình Việt Nam, nhất là đối với việc hôn nhân, không biết bao nhiêu đổ

vỡ, mà kẻ chịu thảm nạn là ngƣời con gái, lớp ngƣời mà chế độ “tại gia

tòng phụ” của Khổng Mạnh đã dành sẵn cho họ.… Dù trai gái có

thƣơng yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám nghĩ đến vƣợt quyền

quyết định của mẹ cha!... Hễ cha mẹ không bằng lòng thì hôn nhân của

đôi lứa phải tan vỡ, dù trai gái đã thƣơng nhau đến bực nào. Ngƣợc lại,

khi cha mẹ bằng lòng, dù trai gái không thƣơng nhau cũng phải lấy

nhau. [72:187].

Trong Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca dao Việt Nam,

Hằng Phƣơng viết:

"... ở nƣớc ta, dƣới chế độ phong kiến, việc hôn nhân của con đều

do cha mẹ quyết định: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.” [122:2].

“Thời phong kiến hầu hết cha mẹ thƣờng quan niệm mình có toàn

quyền lo liệu hôn nhân cho con. Không đếm xỉa đến những nguyện

vọng mơ ƣớc của tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình con sau này.’’ [122:7].

Tác giả đã trích dẫn ca dao để khái quát thành 7 vấn đề lớn nói lên những

mặt tiêu cực trong hôn nhân, gia đình dƣới chế độ phong kiến là: Những nỗi lo

âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xƣa, Cƣỡng ép hôn nhân, Tảo hôn,

Đa thê, Cảnh goá bụa, Mẹ chồng nàng dâu, Mẹ ghẻ con chồng, Không dân chủ

trong gia đình.

Trong Tục cưới hỏi, các tác giả Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo viết:

"Trong xã hội cũ, cha mẹ đóng vai trò quan trọng, quyết định

cuộc đời của các đôi nam nữ thanh niên. Với những gia đình nền nếp,

có gia giáo thì '’cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", và gia đình hai bên phải

"môn đăng hộ đối" [79:5].

Trong Tục ngữ, ca dao Việt Nam, Mã Giang Lân viết:

"Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động đƣợc thể hiện

bằng những tình cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp phong kiến muốn

bóp chết những tình cảm hồn nhiên, lành mạnh ấy. Vì vậy trong ca dao,

bên cạnh tiếng hát ƣớc mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng

kêu đau khổ xót xa về những trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do

nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan trai gái không hợp tính nết nhau

Page 98: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

97

hoặc ngập ngừng e ngại, nhƣng phần lớn là do những nguyên nhân xã

hội do xã hội phong kiến gây ra.… Và cũng dễ hiểu, trong ca dao có

nhiều bài phản ánh tinh thần đấu tranh để bảo vệ tình yêu chân chính

của những “chàng trai” và “cô gái”.

"Những câu ca dao về chủ đề hôn nhân và gia đình biểu hiện các

mối quan hệ đẹp đẽ giữa tình cảm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em,

họ hàng… Cho nên lời than thở của ngƣời phụ nữ về số phận của mình

dƣới chế độ phong kiến là âm điệu chủ yếu của mảng ca dao này."

[70:7].

Vũ Ngọc Phan viết:

"Nhƣng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân

dân, tƣ tƣởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tƣ tƣởng chủ đạo.

Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ƣng thuận, thì họ cũng không

kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh." [114:339].

Qua một số ý kiến dẫn ra trên đây, chúng tôi thấy có hai cách đánh giá

khác nhau: cách thứ nhất nhận định trai gái nƣớc ta hoàn toàn chịu phục tùng

lễ giáo phong kiến trong hôn nhân, cách thứ hai nhận định có sự đấu tranh

chống lại lễ giáo phong kiến. Qua khảo sát ca dao về hôn nhân, chúng tôi thấy

rằng ngƣời Việt có cách thức ứng xử nhiều chiều, có khi tuân phục lễ giáo

phong kiến, có khi bung phá, cũng có khi lƣỡng lự suy xét để hành động theo

lẽ thƣờng tình của quan hệ gia tộc.

Sau đây là một số điểm cần chú ý về số lƣợng:

Tổng số câu ca dao nói về hôn nhân: 171 câu.

Trong đó:

+ Thể hiên sự cam chịu: 38 câu

+ Thể hiện sự trách móc: 34 câu

+ Thể hiện quyền của cha mẹ: 5 câu

+ Thể hiện sự phản kháng: 17 câu

+ Thể hiện sự chủ động: 35 câu

+ Thể hiện sự lƣỡng lự: 21 câu

+ Thể hiện sự tự giác: 18 câu

Tổng hợp lại, có thể chia thành 4 loại thái độ:

+ Chịu sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 76 câu

+ Chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 53 câu

+ Giữ đúng bổn phận làm con theo lẽ thƣơng tình: 36 câu.

+ Thể hiện sự dân chủ trong hôn nhân: 6 câu.

Page 99: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

98

Nhƣ vậy, số câu thể hiện sự áp đặt của lễ giáo phong kiến về hôn nhân và

con phải chấp nhận là 76, số câu thể hiện ngƣợc lại hoặc khác với sự áp đặt là

95 câu. Nhìn vào số lƣợng các câu ca dao “trái chiều” nhau, cho thấy nhận

định rằng qua ca dao thấy rõ con hoàn toàn chịu sự áp chế của cha mẹ là

không đúng.

Sau đây, chúng ta tìm hiểu chi tiết hơn các tình huống ứng xử về hôn

nhân trong gia đình ngƣời Việt thể hiện qua ca dao.

4.1. Hôn nhân chịu sự chi phối của lễ giáo phong kiến

Qua 76 câu ca dao thể hiện sự cam chịu của con trƣớc sự áp đặt của cha

mẹ trong hôn nhân, chúng tôi rút ra các tình huống nhƣ sau:

TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON HẬU QUẢ

1. Đƣợc hỏi làm

vợ

Chê bai Bảo đem lễ về

2. Bị gả bán (2

câu)

Trách chồng Đau lòng

3. Đƣợc tỏ tình Không đồng tình Không dám cãi

4. Bị phụ tình (2) ép gả Ham quyền quý Lìa nhau

5. Yêu nhau Không đồng tình Thất ƣớc Lấy chồng xa

6. Muốn gặp

nhau

Sợ mẹ cha Không gặp

7. Đang gặp nhau Sợ mẹ cha Bảo về

8. Yêu nhau Không cho Khóc rồi về

9. Phải lòng nhau Rình Không làm quen Quên nhau

10. Yêu nhau Không đồng tình Cầu xin Sầu, than

11. Yêu nhau Không đồng tình Khóc Khổ

12. Quen nhau Nghiêm khắc ít đến Nhạt tình

13. Bị gả bán (3) Bực

14. Yêu Thách cƣới Mặc tình Tiếc công

15. Khuôn phép Không lai vãng Quên nhau

16. Tham việc tiếc

công

Không lo lấy

chồng

17. Gả chồng Không phản ứng Sầu

18. Yêu Ngăn cấm Đăm chiêu Sầu

19. Yêu nhau Ngăn cấm Nghe theo

Page 100: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

99

20. Yêu nhau Ngăn cấm Không lấy đƣợc

nhau

21. Hỏi vợ Không ƣa Trách

22. Không chiều Trách

23. Yêu nhau (2) Không lo cho Trách Xa nhau

24. Yêu nhau Ngăn cấm Trách Xa nhau

25. Yêu nhau Chọn nhầm Trách

26. Yêu nhau Quá lời Trách Bỏ rời

27. Bị ép gả ÉP, dỗ dành Xót xa Vợ chồng xung

khắc

28. Kén rể Lâu duyên con

29. Yêu nhau Không rõ thái độ Chờ đợi

30. Xa nhau Nghĩ không sâu Trách Sầu, nhớ

31. Bị ép duyên Trách Sầu

32. Bị gả bán Tham vàng Trách Sầu

33. Xa nhau Tham giầu

34. Gả không đúng chỗ Trở về

35. Lấy chồng

miền biển

Ham ăn ngon Xa quê

36. Xứng đôi Nói không Rời duyên

37. Xa nhau

38. Yêu nhau Theo hủ tục Lƣỡng lự

39. Cách phân Xui khiến Không bén duyên

40. Bị ép gả ÉP vào Chấp nhận Gắn bó

41. Bị ép gả Tham giàu

42. Bị ép gả Đau đớn

43. Lỡ thì

44. Chồng già Tham tiền Oán Tủi

45. Bội ƣớc

46. Mới bén

duyên

Cầm duyên Trách

47. Bị cắt duyên

48. Chồng thấp

vợ cao

Tham lam

49. Chồng thấp,

trẻ con (2)

Tham lam Trách Tủi

Page 101: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

100

50. Bị gả về

giồng

Than phận Không kham đƣợc

gánh gồng

51. Bị đòn Tham lam

52. Bị chồng

đòn

Tham lam

53. Hợp đôi Không tính Trách

54. Bị ép duyên Đắng cay

55. Bị ép duyên Tham lam Bị làm lẽ

56. Bị cầm

duyên

Tham, thách cƣới Chờ đợi Bị giảm giá trị

57. Tham giầu Trách Bị gả đi xa

58. Bực Ra đất ngƣời

76 câu ca dao với 58 tình huống thể hiện sự cam chịu của con cái trƣớc

sự áp đặt của cha mẹ về hôn nhân chứng tỏ vai trò của cha mẹ đối với con cái

trong các gia đình nông dân dƣới thời phong kiến rất quan trọng. Bố mẹ đƣợc

sự hỗ trợ của tƣ tƣởng phong kiến đã tạo ra đƣợc uy quyền chi phối hôn nhân

của con cái. Xem các tình huống cam chịu đƣợc kê ở bảng trên, chúng ta cần

chú ý rằng số tình huống cha mẹ tham của cải, tham gả con cho nhà giầu

chiếm tỷ lệ cao. Điều đó nói lên vật chất ở thời phong kiến đã là thứ đặt cƣợc

cho hạnh phúc của gái trai.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó

Chịu khó bƣng về

Em thƣơng anh thảm thiết trăm bề

Heo vay cau tạm áo mƣợn võng thuê

Thầy mẹ em nay nhún mai trề

Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo.

2. Em thƣơng anh, cha mẹ không cho

Tìm nơi khuất tịch, khóc no rồi về.

3. Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình

Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.

4. Thƣơng nhau chẳng lấy đƣợc nhau

Mẹ cha trồng sậy, trông lau ngăn rào.

5. Ba tàn ba heó vì cây

Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.

6. Bác mẹ em vội tham vàng

Page 102: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

101

Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con

Trƣớc thời thẹn với nƣớc non

Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày

Khi vui có bác mẹ thầy

Cơn sầu em chịu đắng cay một mình

Mang thơ ra dán cột đình

Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?

Phong ba nổi giữa đất bằng

Một dây một buộc ai dằng cho ra!

Thiết gì một cảnh vƣờn hoa

Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?

Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy

Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!

7. Anh đi về đi, kẻo thầy em dứt, kẻo mẹ em la

Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì!

8. Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng

Hàng Mật, Hàng Đƣờng, Hàng Muối trắng tinh

Từ ngày ta phải lòng mình

Bác mẹ đi rình đã mấy mƣơi phen

Làm quen chẳng đƣợc làm quen

Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.

Tình huống phổ biến là các đôi trai gái yêu nhau (26 trong 58 tình huống)

và bị cha mẹ ngăn cấm hoặc không đồng tình, do đó họ phải rời xa nhau, để rồi

buồn thảm, than khóc. Tuy vậy, trạng thái của các tình huống này không căng

thẳng lắm, không thể hiện sự áp chế gay gắt. Cách thức phản ứng của các đôi

trai gái trong các tình huống này mang tính buông xuôi. Nhƣ vậy, hậu quả mà

họ gánh chịu có phần do họ chứ không phải hoàn toàn do bị áp chế. Trong 8

câu ca dao dẫn ra trên đây, chúng ta thấy rằng trƣớc tình yêu của những đôi

trai gái, cha mẹ họ không tỏ thái độ quá gay gắt, mà chỉ ở mức vừa phải (nay

nhún mai trề, không cho, nghiêm khắc, ngăn rào) mà họ đã buông xuôi (không

nỡ, khóc, ít lai vãng), không vƣợt lên khỏi hoàn cảnh để đi đến với nhau.

Trong những trƣờng hợp này, chúng ta có thể quy trách nhiệm cho lễ giáo

phong kiến quá hà khắc, khiến con cái phải hy sinh tình yêu để giữ tròn chữ

hiếu với cha mẹ, cũng do điều kiện khá cô biệt của làng khiến các đôi trai gái

bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với gia tộc, xóm giềng, bị sức mạnh của

dƣ luận đè nén, không dễ gì bung phá để đến với nhau, nhƣng cũng có thể

nhận xét rằng tình yêu trong các trƣờng hợp này chƣa đủ mạnh tạo nên sự

Page 103: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

102

bung phá cho các đôi uyên ƣơng. Sự căng thẳng diễn ra qua 16 tình huống mà

trong đó cha mẹ gả bán, cầm duyên, ép buộc cũng nhận đƣợc phản ứng không

mấy mạnh mẽ (sầu, cay đắng). Những điều dẫn ra trên đây hoàn toàn trái

ngƣợc với các tình huống dẫn ra trong mục sau thể hiện tình yêu mãnh liệt của

trai gái, khiến họ bất chấp tất cả để bảo vệ tình yêu của mình.

Về quyền cha mẹ trong hôn nhân, có bốn câu ca dao nói trực tiếp, trong

đó có hai câu thể hiện cách thức sử dụng quyền ấy nhƣ sau:

1. Con ta gả bán cho ngƣời

Cờ ai nấy phất chứ chơi đâu mà.

2. Nuôi con những tƣởng về sau

Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi

Mực đen vô giấy khó chùi

Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.

Đó là hai lối suy nghĩ trái ngƣợc nhau, một là theo lối gia trƣởng, áp đặt

hôn nhân, hai là theo lối dân chủ có trách nhiệm với hạnh phúc của con. Nhƣ

vậy, ngay trong quan niệm của dân gian về quyền của cha mẹ trong hôn nhân

cũng có sự đa dạng, không phải là một chiều theo lễ giáo phong kiến.

4.2. Nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến

Qua 53 câu ca dao thể hiện sự chống lại của nam nữ đối với lễ giáo

phong kiến, chúng tôi rút ra 47 tình huống nhƣ sau:

TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON KẾT QUẢ

1. Yêu nhau Không bằng lòng Vẫn yêu

2. Chƣa chồng Tự liệu Kịp duyên

3. Yêu nhau Đánh đập Quyết lấy nhau

4. Bị gả bán Xin hoãn

5. Yêu nhau Đánh, ngăn Không xa nhau

6. Yêu nhau Đánh, ngầy Vẫn đi Gặp nhau

7. Bị ép gả Tìm cách thoát

8. Yêu nhau (3 câu) Đánh Vẫn yêu

9. Yêu nhau Doạ thả trôi bè Không sợ Lôi nhau về

10. Yêu nhau Chia rẽ Mặc Giữ lời nguyền

11. Bị ép gả Gả bừa Liều mình Thoát

12. Yêu nhau Chửi mắng Không sợ Càng yêu

13. Yêu nhau Đánh, chê Không nghe Quyết lấy

14. Bị ép gả Đòi tự vẫn

Page 104: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

103

15. Yêu nhau Đánh, đày Thà chịu chết Thuỷ chung

16. Đi lấy chồng (2) Lạy cha mẹ, xin

của

17. Yêu nhau Giấu cha mẹ

18. Yêu nhau Không thƣơng Lạy. Nhờ hàng

xóm

19. Yêu nhau Quên công cha mẹ Theo nhau

20. Yêu nhau Xe ít Xe nhiều. Nhờ xe

21. Yêu nhau Không thƣơng Vẫn đợi

22. Yêu nhau Phải theo

23. Yêu nhau Cấm đoán Vẫn sắm sửa Đi lấy chồng

24. Lấy chồng Răn dạy Xin vốn làm ăn

riêng

25. Yêu nhau Nghe theo Không chê nghèo

26. Yêu nhau Kén Không ngại

27. Cấm đoán Sắm sửa Đi lấy chồng

28. Cấm đoán Xin đừng cấm

29. Yêu nhau Nói Mặc Thƣơng lâu dài

30. Yêu nhau Tin rằng cha mẹ

cũng ƣng

31. Lấy chồng Để mẹ cho anh trai Theo chồng

32. Yêu nhau Bỏ mẹ ra đi Thất hiếu

33. Yêu nhau Dấu cha mẹ Đƣa anh về

34. Yêu nhau La rầy Không bỏ

35. Yêu nhau Thƣơng hay không Vẫn lấy nhau

36. Yêu nhau Vấn vƣơng Lỗi đạo

37. Thƣơng chồng Lạy mẹ Theo chồng

38. Thờ cha kính mẹ Theo đôi lứa Thành thất gia

39. Lấy chồng Để mẹ cho em Không sai chữ

tòng

40. Lấy chồng Để mẹ cho con trai Gắn bó với chồng

41. Yêu nhau Cắp nhau đi Đền công cha mẹ

sau

42. Yêu nhau Dối mẹ

43. Yêu nhau Thƣơng chàng hơn

44. Yêu nhau Ngồi không yên Than thở

Page 105: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

104

45. Lấy chồng Kêu Lạy. Thƣơng chồng Theo chồng

46. Yêu nhau Đánh mắng Không sợ Tung chiếu ra đi

47. Yêu nhau Lấy nhau

47 tình huống nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến nêu

trên phản ánh tính chất quyết liệt của hai xu hƣớng - xu hƣớng tự do hôn nhân,

và xu hƣớng ép hôn nhân vào trật tự của lễ giáo phong kiến. 47 tình huống ấy

đƣợc thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Con lạy cha hai lạy một quỳ

Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng

Mẹ sắm cho con yếm nhuộm nhất phẩm hồng

Thắt lƣng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay.

2. Dầu thầy mẹ không thƣơng

Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đƣờng lạy vô

Lạy cùng ông bác bà cô

Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ

Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ

Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.

3. Đôi ta nhƣ chỉ xe ba

Thầy mẹ xe ít thì ta xe nhiều

Đôi ta nhƣ chỉ xe năm

Thầy mẹ xe ít ta cầm ta xe

Đôi ta nhƣ chỉ xe mƣời

Thầy mẹ xe ít, mƣợn ngƣời ta xe.

4. Em thƣơng anh cha mẹ cũng phải theo

Chiếc tàu buồm kia đang chạy, quăng neo cũng ngừng.

5. Thƣơng nhau cắp quách nhau đi

Công cha nghĩa mẹ sau thì hãy hay.

6. Thờ cha, kính mẹ đã đành

Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.

7. Rƣợu ngon một chén cũng ngon

Thầy mẹ thƣơng con cũng gả, không thƣơng con cũng gả

Con thiên lí mã, con vạn lí vân

Biết rằng hai họ giao lân

Bốn sui gia ngồi lại, thiếp gửi thân cho chàng.

8. Tay đeo khăn gói qua sông

Page 106: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

105

Mẹ ôi lạy mẹ thƣơng chồng phải theo.

9. Vai mang khăn gói theo chồng

Mẹ kêu con dạ, trở vào lạy mẹ cùng cha

Xƣa kia con ở nội gia

Bây giờ con xuất giá tùng phu, nội gia tùng phụ

Sách có chữ: tam cƣơng thƣờng ngũ

Ngoài bìa có chữ phu phụ đạo đông

Thƣơng cha, nhớ mẹ, đạo thƣơng chồng phải theo.

10. Nơi mô em hãy chí quyết một nơi

Mẹ già không há dễ sống đời nuôi con.

Thống kê qua bảng trên cho thấy có 31 trƣờng hợp thể hiện rõ tình yêu

qua 47 tình huống ứng xử, và thái độ của cha mẹ cũng rất cứng rắn: ngăn cấm,

doạ nạt, đánh đập, doạ thả bè trôi sông, gả bừa. Đáp lại, thái độ của con vừa

khôn khéo vừa quyết liệt: lúc thì cầu xin, lúc thì vận động cả họ hàng giúp đỡ,

lúc thì mặc kệ, bỏ qua mọi rào cản để đến với nhau, dẫn đến kết quả là đạt

đƣợc ƣớc nguyện tình duyên. Qua 10 câu ca dao dẫn ra trên đây, thấy khi yêu

nhau mãnh liệt, các đôi trai gái đã vận dụng mọi biện pháp để đạt đƣợc nguyện

vọng của mình. Trong họ, giáo lý Khổng Mạnh và những quy định quản lý

nghiệt ngã ở làng xã không có tác dụng khống chế hoặc dẫn dắt hƣớng ứng xử,

mà chỉ có tiếng gọi của tình yêu (mặc dù có khi giáo lý này đƣợc gọi tên ra).

Và cũng chính tình yêu đã dẫn đến hôn nhân - ngƣời con gái “lạy mẹ” để đi

“lấy chồng”, không những lạy cha mẹ, mà họ còn lạy chú bác, họ hàng, làng

xóm, họ nhờ bất cứ ai có thể nhờ đƣợc trong việc xe duyên cho họ, cho đến khi

cha mẹ “cũng phải theo”, còn không thì họ “cắp quách nhau đi”, (và quyết liệt

hơn, trong Kho tàng ca dao xứ Nghệ còn có câu: "Cha mẹ dù có chặt chân chặt

tay/Khoét mặt, khoét mày cũng trốn theo anh.")

Không những thế, họ còn nêu lên triết lý là “Theo đôi, theo lứa mới thành

thất gia.” Đây là cách lập luận mang tính duy vật, phù hợp với quy luật của tự

nhiên, của xã hội, là một đòn tấn công vào lễ giáo phong kiến bắt con ngƣời

phải thành thất gia mà không cần biết có thƣơng yêu nhau hay không. Cũng vì

dựa trên lập luận vững chắc nhƣ thế, những đôi trai gái Việt xƣa đã đi đến

đƣợc hôn nhân trong tình yêu, và ngƣời phụ nữ đƣợc theo chồng (có 23 trƣờng

hợp nói rõ kết quả của tốt đẹp ấy, nhƣ đi lấy chồng, cắp nhau đi, gửi thân cho

nhau, theo chồng, lôi nhau về). Đáng lƣu ý là khái niệm theo chồng cuả dân

gian không trùng khớp khái niệm tòng phu của triết thuyết Nho giáo - theo

chồng vì thƣơng, vì đạo nghĩa là chính chứ không phải vì phục tòng (nội dung

Đạo thƣơng chồng, Tình và nghĩa vợ chồng đã đƣợc đề cập trong mục Quan

Page 107: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

106

hệ vợ chồng). Nhƣ thế, nhận định của Nguyễn Bách Khoa về hôn nhân trong

chế độ phong kiến Việt Nam thể hiện qua ca dao: "Đã trót yêu nhau mà gặp sự

ngăn trở của cha mẹ thì chỉ còn một cách là lìa nhau cho tròn chữ hiếu. Ở

những trƣờng hợp ấy thì trai gái đều phải phục tòng gia đình, nhƣng trong lòng

họ hậm hực lắm." [53:126] là nhận định không chính xác.

4.3. Nam nữ cƣ xử theo lẽ thƣờng tình.

Qua 36 câu ca dao phản anh về hôn nhân thể hiện cách cƣ xử theo lẽ

thƣờng tình, không bị trói buộc bởi triết thuyết, lễ giáo nào, chúng tôi thống kê

thành 29 tình huống nhƣ sau:

TÌNH HUỐNG CHA MẸ CON KẾT CỤC

1. Yêu nhau Chƣa rõ Ngại ngùng Chờ ý cha mẹ

2. Yêu nhau Đợi quyền cha mẹ

3. Muốn trao

duyên

Sợ lòng mẹ cha

4. Lựa chọn tình

hiếu

Lƣỡng lự

5. Lựa chọn

chồng

Chƣa rõ Hỏi mẹ cha

6. Muốn làm

quen

Sợ bác mẹ

7. Yêu nhau Chƣa rõ Sợ mẹ thầy

8. Yêu nhau Hỏi có nghĩ đến cha

mẹ mình không

9. Lựa chọn Ngăn cấm Lƣỡng lự Day dứt

10. Lựa chọn Chƣa rõ Lƣỡng lự Day dứt

11. Lấy chồng Nghĩ cách đền ơn

12. Lựa chọn (2) Thƣơng cha mẹ, lo

duyên

Day dứt

13. Gả chồng Lo xa nhà

14. Lựa chọn Chƣa rõ Băn khoăn Chờ ý cha mẹ

15. Yêu nhau Băn khoăn Bỏ đi theo

chồng

16. Lựa chọn Kêu gọi Nghe cả hai Dùng dằng

17. Đƣợc hỏi làm

vợ

Nghĩ đến hiếu trung Bảo về

18. Có ngƣời tỏ Nghĩ đến cha mẹ Không tự tình

Page 108: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

107

tình (3)

19. Chờ đợi Nuôi phụ mẫu Không sợ già

20. Chờ đợi Đền hiếu trung

21. Có ngƣời tỏ

tình

Dò ý cha mẹ Bảo chờ

22. Bị thách cƣới Thách cƣới Đáp ứng

23. Đƣợc tỏ tình Chờ ý cha mẹ Bảo chờ

24. Yêu nhau Nhớ công ơn cha mẹ Cúi luồn cha mẹ

25. Chƣa chồng Nhớ công ơn cha mẹ ở vậy lo phận

con

26. Yêu nhau Chờ lệnh mẹ cha Cùng chờ

27. Có ngƣời tỏ

tình

Để tang cha mẹ Không đáp lại

28. Có ngƣời tỏ

tình

Nhớ nghĩa vụ với cha

mẹ

Không sợ lỡ

duyên

29. Để tang cha

mẹ

Hỏi có chờ không

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Ơn hoài thai nhƣ biển

Ngãi dƣỡng dục, tợ sông

Em nguyền ở vậy phòng không

Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.

2. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non

Hai ta là đạo làm con

Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.

3. Chớ lo nốc nát, ván hà

Gắng thân nuôi phụ mẫu, duyên già có anh.

4. Phụ mẫu sơ sanh, hãy để ngƣời định

Trong việc vợ chồng, phải chờ lịnh mẹ cha

- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy

Nhƣng em phải hứa chắc một lời, anh sẽ cậy mai dong.

5.. Thuyền em lựa bến cắm sào

Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.

6. Lênh đênh nửa nƣớc nửa dầu

Nửa thƣơng cha mẹ nửa sầu căn duyên.

Page 109: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

108

Điều đáng quan tâm là trong loại tình huống thể hiện sự cƣ xử theo lẽ

thƣờng tình của con trƣớc việc hôn nhân, là trạng thái yêu có tần số thấp hơn

các loại tình huống nói ở các mục trên - có 28 tình huống thì chỉ có 7 tình

huống thể hiện tình yêu đã nảy nở giữa các đôi trai gái, còn đa số thể hiện tình

trạng mới chớm nở của tình yêu (21 trƣờng hợp phản ánh tình trạng mới làm

quen, mới đƣợc tỏ tình, đang lựa chọn đối tƣợng…), còn thái độ của cha mẹ

hầu hết trong các trƣờng hợp là chƣa rõ (26 trong tổng số 29 tình huống).

Ngƣời bộc lộ suy nghĩ trong các tình huống nói trên chủ yếu là con - họ nghĩ

về sự phản ứng của cha mẹ nếu biết đƣợc ý định tiến tới hôn nhân của họ.

Nhìn chung, họ sợ cha mẹ không đồng tình thì ít (4 trƣờng hợp) mà đợi ý mẹ

cha thì nhiều (7 trƣờng hợp), hơn nữa, họ nghĩ đến trách nhiệm của con đối với

cha mẹ là nhiều hơn cả (11 trƣờng hợp). Trong 6 câu ca dao trích dẫn trên đây,

thấy nổi bật là trách nhiệm của con đối với cha mẹ, trong đó, con lo đến việc

đền đáp công ơn cha mẹ và chờ ý kiến cha mẹ rồi mới tính đến hôn nhân. Đặc

biệt trong câu thứ ba, đã nói lên một cách mộc mạc mà sâu sắc sự tự giác, thấu

tình đạt lý của ngƣời nông dân về quan hệ giữa tình và hiếu: cứ lo cho cha mẹ,

dù “duyên già” thì đã "có anh". Đó là cách thức ứng xử phù hợp với truyền

thống kính trọng mẹ cha của dân tộc. Trong trƣờng hợp bị chi phối bởi bên

tình bên hiếu, các đôi trai gái dùng dằng, lƣỡng lự. Điều đó cũng cho thấy họ

sống theo lẽ thƣờng tình, không bị chi phối quá mạnh mẽ bởi học thuyết Nho

giáo, bởi vì Nho giáo quy định rằng con phải nghe lời cha, cha bảo chết mà

không chết là bất hiếu. Sự dùng dằng, lƣỡng lự “nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu

căn duyên”, “Mẹ kêu khốn tới, thƣơng chồng khốn lui” cho thấy rằng cái có

sức chi phối họ chủ yếu là cái tình chứ không phải là cái lý.

4.4. Tính dân chủ trong hôn nhân.

Giá trị đích thực của hôn nhân phải đƣợc xuất phát từ tình yêu gái trai,

không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, sang giầu, tôn giáo, cũng nhƣ thành

phần xuất thân. Tiến tới hôn nhân là quyền lựa chọn của đôi trai gái. Một khía

cạnh của dân chủ trong hôn nhân đƣợc biểu hiện ở sự lựa chọn đó. Ca dao là

tâm tƣ tình cảm của ngƣời lao động, mà dƣới thời phong kiến chủ yếu là ngƣời

nông dân. Môi trƣờng lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần

cho xã hội của những con ngƣời đồng cảnh đã nuôi dƣỡng tinh thần dân chủ.

Tuy nhiên, ý thức hệ của giai cấp thống trị đã ảnh hƣởng mạnh vào cơ tầng xã

hội và ý thức của ngƣời nông dân. Một mặt, họ muốn sống nhƣ cuộc sống vốn

có của họ, mặt khác, họ lại muốn lấy mô thức của giai cấp thống trị họ làm cái

đích để hƣớng tới. Do vậy, ca dao có cả mặt tiêu cực và tích cực của ý thức hệ

thống trị và bị trị. Có điều, liều lƣợng của hai loại này ẩn chứa trong đó là bao

Page 110: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

109

nhiêu, khó có thể đo đếm đƣợc. Ta thử xem tính dân chủ trong hôn nhân đƣợc

thể hiện qua 6 câu ca dao dƣới đây:

1. Đôi ta nhƣ ngọn nhang trần

Không cha không mẹ muôn phần cậy ai?

2. Mỗi năm mỗi thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con

Ngƣời còn thì của cũng còn

Để ngƣời ban bảo vuông tròn nhân duyên.

3. Sông Thanh nƣớc chảy lờ đờ

Con đi lấy chồng, mẹ biết nhờ ai?

4. Xiết bao bú mớm bù chì

Đến khi con lớn con đi lấy chồng

Có con đỡ gánh đỡ gồng

Con đi lấy chồng, vai gánh tay mang!

5. Khi đi mẹ đã dặn rồi

Đi thì đi một về đôi mẹ mừng.

6. Trách cha, trách mẹ em lầm

Cho nên em phải khóc thầm hôm mai

Trách chàng chẳng dám trách ai

Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơm.

Câu ca dao thứ nhất và thứ hai cho thấy rằng trong quan niệm của ngƣời

Việt xƣa, không phải lúc nào cha mẹ cũng là rào cản của con trong chuyện hôn

nhân. Rõ ràng, cha mẹ là chỗ để con nhờ cậy, nhờ cha mẹ ban bảo thì nhân

duyên mới đƣợc vuông tròn, có nghĩa là chính cha mẹ không những là ngƣời

nuôi dạy mà còn là ngƣời tác thành cho đôi lứa. Câu ca dao thứ ba và tƣ cho

thấy sự hẫng hụt của cha mẹ khi con đi lấy chồng, và lúc này, ngƣời phải cam

chịu là cha mẹ chứ không phải là con. Ngƣời mẹ ngẩn ngơ nhìn con theo

chồng, chỉ còn than thở “biết ở với ai!”, và xác định ngay cách sống phù hợp

là tự lực nuôi sống bản thân “vai gánh, tay mang”. Đến câu thứ năm, tính dân

chủ trong quan niệm về hôn nhân của ngƣời Việt xƣa đã thể hiện rất rõ. Câu ca

dao này gợi nên hình ảnh một ngƣời mẹ nhân từ, khi thấy con đi xa về vẫn

không cùng ai, đã mỉm cƣời hiền hậu mà trách nhẹ về sự không về đôi cuả

con. Nhƣ vậy là, ngay trong lòng chế độ phong kiến, ngƣời nông dân đã có

quan niệm tự do lựa chọn hôn nhân, sự lựa chọn ấy thuộc về con, trái ngƣợc

hẳn với quan niệm của lễ giáo phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Quyền

tự do hôn nhân có trƣờng hợp đƣợc mở đến vô cùng! Câu ca dao cuối cùng

thoạt nghe tƣởng rằng cha mẹ đã can thiệp thô bạo vào chuyện tình duyên cuả

Page 111: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

110

con, nhƣng đọc kỹ mới thấy rằng chính ngƣời con trai đã mƣợn thành kiến về

vai trò của cha mẹ trong chế độ phong kiến để đổ lỗi cho cha mẹ, khi chính

bản thân mình mới là ngƣời phụ tình. Anh chàng láu lỉnh ấy mặc dù đã đem

bức bình phong của lễ giáo phong kiến ra che chắn, vẫn không qua đƣợc đôi

mắt tinh tƣờng của ngƣời con gái để rồi đƣợc vạch mặt một cách tinh tế: anh

mới là ngƣời chê hoa nhài không thơm, anh mới là ngƣời tự chặt đứt duyên

tình!

Chúng ta có thể đặt câu hỏi vì sao ngay trong lòng xã hội phong kiến với

những giáo lý khắt khe, quan niệm và cách ứng xử trên bình diện hôn nhân thể

hiện qua ca dao lại đa chiều, trong đó có những yếu tố dân chủ nhƣ vậy? Có

thể tìm thấy câu trả lời khi xem xét hoàn cảnh xã hội mà trong đó ca dao ra đời

và đƣợc lƣu truyền đến ngày nay. Nho giáo hay lễ giáo phong kiến dù có hàng

ngàn năm thống trị, vẫn không thể lan toả vào mọi ngõ ngách của cuộc sống,

trong đó, nông thôn là địa hạt còn bị bỏ ngỏ nhiều. Đó là vì nông thôn Việt

Nam có một cơ cấu xã hội đặc thù, một cơ cấu mà trong đó làng tồn tại có tính

độc lập tƣơng đối, có phong tục tập quán đƣợc lƣu truyền từ lâu đời, là tấm rào

cản làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai

(nhƣ Nho giáo từ phƣơng Bắc sang).

Trong thời phong kiến ở Việt Nam, giao thông kém phát triển, phƣơng

tiện vận tải cũng nhƣ phƣơng tiện truyền thông còn thô sơ, cho nên giao tiếp

với thành thị thì khó, mà giao tiếp trong nội bộ làng quê lại thật dễ dàng. Đàn

ông, đàn bà không bị phân biệt sâu sắc về phân công lao động, về các nguyên

tắc của lễ giáo phong kiến, cho nên nguyên tắc thụ thụ bất thân khó mà vận

hành đƣợc ở đây. Họ cùng lao động, đặc biệt là lao động trong một môi trƣờng

phóng khoáng là đồng ruộng, thì sự gặp gỡ, giao duyên để đi tới tình yêu và

hôn nhân là điều không khó. Cộng vào đó, các sinh hoạt hội hè, đình đám, các

đêm xem diễn chèo ở đình làng... đều là điều kiện thuận lợi cho nam nữ gặp

gỡ, giao duyên. Ca dao chủ yếu phát sinh từ nông thôn, cho nên phản ánh chân

thật về tình yêu, hôn nhân theo cái phóng khoáng của thôn quê cũng là lẽ tất

yếu. Thật vậy, theo chúng tôi thống kê, trong số 11.825 đơn vị ca dao, có tới

5.682 đơn vị nói về giao duyên nam nữ. Họ giao duyên trong môi trƣờng rộng

mở của đồng ruộng, của bờ sông, bãi dâu, của giếng nƣớc, đầu đình… Thống

kê qua 6.862 đơn vị ca dao về giao duyên nam nữ và về gia đình, chúng tôi

thấy có 4.383 lƣợt đơn vị có chứa các từ chỉ khung cảnh nông thôn bình yên

với những cánh cò, đàn chim, cây đa, bến nƣớc, con đò, cây, hoa lá… (94 đơn

vị có từ ruộng, đồng, 123 đơn vị có từ vƣờn, 653 đơn vị có từ thuyền, đò, bến,

494 đơn vị có từ sông, 93 đơn vị có từ đình, chùa, 36 đơn vị có từ cây đa,

Page 112: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

111

1.452 đơn vị có từ lá, cây, cành, hoa, quả, tre, trúc, 385 đơn vị có từ trầu, cau,

74 đơn vị có từ lúa, thóc, 387 đơn vị có từ chim, cò, 82 đơn vị có từ trâu, bò,

320 đơn vị có từ cá). Có nghĩa là khung cảnh phổ biến mà trong đó nảy nở

duyên tình, dẫn đến hôn nhân của các đôi trai gái đƣợc phản ánh trong ca dao

là thiên nhiên, một thiên nhiên thuần khiết của nông thôn, không bị chi phối

bởi những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe nào, nó tạo điều kiện cho con

ngƣời sống cởi mở, chân thành với tình cảm dào dạt. Số lƣợng từ khá lớn về

thiên nhiên nói trên cũng đồng thời cho ta thấy cuộc sống của ngƣời Việt xƣa

chính là một cuộc sống nông nghiệp trồng lúa nƣớc gắn với sông nƣớc, đồng

ruộng. Có điều, trong khi sử dụng nhữug từ “thuần nông” nhƣ trên để diễn tả

tình yêu lứa đôi, các tác giả dân gian đã thi vị hoá và phi vật chất hoá nghĩa

của chúng, khiến chúng vừa gần gũi với cuộc sống của ngƣời nông dân, vừa

bay bổng lên trong tình yêu và khát vọng hạnh phúc của con ngƣời. Chẳng

hạn, từ cá, đƣợc xuất hiện tới 320 lần, nhƣng hầu nhƣ không lần nào mang ý

nghĩa vật chất, diễn tả một thứ thức ăn phổ biến của ngƣời nông dân vùng sông

nƣớc, mà chủ yếu là phƣơng tiện biểu đạt cho tình cảm con ngƣời. Có thể nhặt

ra bất cứ câu ca dao nào trong số 320 câu vừa nói trên để chứng minh điều

này, ví dụ nhƣ:

1. Công anh xe chỉ uốn cần

Vì chƣng trời động con cá lần ra khơi.

2. Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ

Đêm đêm hƣớng dải Ngân Hà

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn

Đá mòn nhƣng dạ chẳng mòn

Tào Khê nƣớc chảy vẫn còn trơ trơ.

3. Trèo lên cây bƣởi hái hoa

Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng rồi anh tiếc em thay

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Page 113: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

112

Nhƣ chim vào lồng nhƣ cá mắc câu

Cá mắc câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra.

4. Ai làm cá bống đi tu

Cá thu nó khóc, cá lóc nó rầu

Luỵ rơi hột hột, cơ cầu lắm bớ em!

5. Anh đừng thấy cá phụ canh

Thấy toà nhà ngói, phụ tranh rừng già.

Qua 5 câu ca dao trên đây, đã đủ thấy cách sử dụng từ cá (cũng nhƣ các

từ chỉ vật chất khác) linh hoạt và uyển chuyển nhƣ thế nào - lúc thì tƣợng

trƣng cho ngƣời con gái vừa tuột khỏi tầm tay ngƣời con trai, lúc lại tƣợng

trƣng cho nỗi buồn man mác của một ngƣời đang yêu mà phải xa ngƣời yêu,

lúc lại là biểu tƣợng cho sự chung thuỷ, không thay lòng đổi dạ… Mặt khác,

cách thức diễn đạt xuất phát từ trực quan sinh động ấy cũng biểu hiện cho lối

tƣ duy thuần phác của ngƣời nông dân, thứ tƣ duy không bị trói buộc bởi

những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe trong xã hội phong kiến mà xuất phát

từ thực tiễn sinh động trong cuộc sống hàng ngày ở nông thôn.

Đứng về mặt tác giả của những ca dao nói chung và ca dao về hôn nhân

nói riêng, chúng ta thấy cũng có sự đa dạng. Tuy nhìn chung thì đó là tác giả

tập thể, thế nhƣng nếu tìm về ngọn nguồn thì thấy từng câu ca dao đều phải

đƣợc sáng tác và phát ngôn bởi một ngƣời cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể

nào đó. Ca dao chủ yếu phát nguồn từ nông thôn, trong khung cảnh giao duyên

nam nữ và khung cảnh lao động hoặc hội hè là chính, với tác giả chủ yếu là

những ngƣời sống tại nông thôn. Trong số họ, có ngƣời là nông dân, có ngƣời

là nhà nho (đang học để đi thi, thi không đỗ, cáo quan về “vƣờn”, thầy đồ -

hƣơng sƣ). Chính những nhà nho này góp phần quan trọng chuyển tải tƣ tƣởng

Nho giáo về nông thôn, phổ biến nó trong học sinh, và khi họ tham gia sáng

tạo ca dao thì họ cũng chuyển tải quan điểm Nho giáo vào nội dung ca dao.

Tuy vậy, do ký thác cả cuộc sống trong làng quê, các nhà nho sống ở nông

thôn vừa chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, vừa có cái nhìn thực tế, cho nên, trong

ca dao về hôn nhân, gia đình mới có sự đa chiều về quan niệm nhƣ vậy, mà

chiếm ƣu thế là chiều đi theo tiếng gọi mạnh mẽ của tình yêu chân chính nảy

sinh trong lao động, trong môi trƣờng thiên nhiên trong lành của ngƣời Việt.

Qua ca dao, thấy rõ rằng trong cuộc sống của ngƣời Việt xƣa, tình yêu làm cơ

sở cho hôn nhân, tạo lập gia đình hạnh phúc.

Page 114: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

113

TIỂU KẾT

Chúng tôi đã khảo cứu ca dao về gia đình trên những quan hệ chính là vợ

chồng, cha mẹ con, nàng dâu - nhà chồng. Do ca dao phản ánh ít về quan hệ

anh chị em cho nên chúng tôi không khảo cứu nội dung này. Mặt khác, qua các

mối quan hệ, ca dao đã phản ánh một cách sinh động quan niệm dân gian trên

một số vấn đề nhƣ đạo hiếu, đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt, hôn nhân, cho nên

chúng tôi đi sâu khảo cứu những vấn đề này, tìm ra đƣợc một số nét đặc trƣng

trong nhận thức và cách thức ứng xử của ngƣời Việt trong cuộc sống gia đình.

Về quan hệ vợ chồng: Đặc trƣng cơ bản của quan hệ vợ chồng ngƣời Việt

thể hiện qua ca dao là gắn bó, với những biểu hiện chính là: theo nhau, gắn bó

trong lao động, càng xa cách càng gắn bó. Nét đặc thù của sự gắn bó vợ

chồng ngƣời Việt là theo nhau. Khái niệm tòng phu của Nho giáo ở Việt Nam

không đƣợc hiểu một cách bó hẹp, cứng nhắc, mà đƣợc mở rộng, mềm mại,

chuyển hoá thành vợ chồng theo nhau. Chính sự theo nhau của vợ chồng

ngƣời Việt thể hiện quan niệm và cách thức ứng xử dân chủ, mềm mại của

ngƣời nông dân thuần phác, chứng minh rằng gia đình ngƣời Việt tuy sống

trong chế độ phụ quyền, chịu ảnh hƣởng của Nho giáo, nhƣng không rập

khuôn theo đạo lý phong kiến, mà đa dạng, phong phú, mang tính dân chủ và

tính nhân văn sâu sắc.

Về các khái niệm của Nho giáo đƣợc vận dụng trong ca dao về gia đình:

Các từ đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt có tần số xuất hiện khá cao trong ca dao

chứng tỏ Nho giáo đã có ảnh hƣởng khá rộng trong dân gian. Tuy vậy, nội

dung của các khái niệm này đƣợc thể hiện qua ca dao lại không gần gũi với nội

hàm nguyên gốc Hán, mà chứa đựng những ý nghĩa phù hợp với tâm thức dân

tộc, một dân tộc có truyền thống nhân ái, coi trọng nghĩa tình, gắn bó với nhau

trong lao động, gần gũi và hoà đồng với thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ trong

cách tiếp thu Nho giáo, ngƣời Việt đã chuyển hoá nội dung cho phù hợp với

điều kiện sống và tập tục của dân tộc, có nhiều trƣờng hợp chỉ còn dùng vỏ

ngôn ngữ của các khái niệm thuộc giáo lý nhà Nho để chuyển tải những nội

dung gần gũi với cuộc sống bình thƣờng ở nông thôn.

Về quan hệ cha mẹ con: Ca dao nói nhiều đến đạo hiếu, với những nội

dung gần với những nội dung mà Nho giáo đề cập. Tuy vậy, đó không phải là

những giáo lí khô cứng, cao siêu theo triết thuyết Nho giáo mà gắn với đời

sống thƣờng ngày, đề cao cách thức ứng xử hƣớng về cội nguồn, tôn trọng và

kính yêu cha mẹ theo truyền thống của cƣ dân vùng Đông Nam Á vốn coi

trọng tổ tiên. Ảnh hƣởng rõ nhất của Nho giáo vào gia đình ngƣời Việt là coi

trọng việc học hành, nhằm dƣơng danh hiển thân. Qua ca dao thấy rõ điều này:

Page 115: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

114

cha mẹ coi trọng việc cho con theo học, đi thi và đỗ đạt. Những biểu hiện tiêu

cực trong quan hệ cha mẹ con mà ca dao phản ánh và phê phán là con đối xử

không tốt đối với cha mẹ.

Về quan hệ nàng dâu và gia đình chồng: Số lƣợng câu ca dao nói về

những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng nhiều gấp 2,35

lần số câu nói về những biểu hiện tích cực, cho thấy đây là mâu thuẫn đáng

quan tâm khắc phục nhất trong gia đình ngƣời Việt. Nói cách khác, mâu thuẫn

nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của ngƣời Việt.

Mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng diễn ra gay gắt trên nhiều bình diện, mà

nguyên nhân chính thuộc về yếu tố kinh tế và yếu tố tâm lý, đồng thời có yếu

tố Nho giáo.

Quan niệm về hôn nhân: Ngƣời Việt có quan niệm đa chiều về hôn nhân,

trong đó có chiều tiêu cực là chịu sự ràng buộc thái quá của lễ giáo phong

kiến, nhƣng chiều nổi bật, tích cực là quan niệm dân chủ, nhân văn. Chính vì

thế, vƣợt qua mọi sự áp chế của chế độ phong kiến, ngƣời Việt đã tìm thấy

hạnh phúc trong hôn nhân, từ đó xây dựng đƣợc một mẫu hình gia đình gắn

bó, hoà thuận trong lao động, trong môi trƣờng nông thôn thanh bình tuy lao

động nặng nhọc và vật chất thiếu thốn. Nguyên nhân của tình hình này là

ngƣời Việt sống trong môi trƣờng nông thôn có một thiết chế tƣơng đối khép

kín là làng, với phong tục tập quán đƣợc lƣu truyền từ lâu đời, là tấm rào cản

làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai. Mặt

khác, tình yêu nảy nở trong khung cảnh thiên nhiên hiền hoà, trong các dịp lễ

hội thắm tình làng nghĩa xóm, trong lao động trên đồng ruộng phóng khoáng,

trong sinh hoạt hội hè đình đám mang tính dân chủ làng xã là điều kiện khiến

cho các đôi trai gái nông thôn tiến tới hôn nhân một cách hồn nhiên và mộc

mạc, từ đó xây dựng đƣợc gia đình trên một cái nền vững chắc của làng quê

với những phong tục tập quán tốt đẹp. Chúng tôi nhận thấy ý kiến nói rằng

trong xã hội phong kiến, hôn nhân chỉ là kết quả của sự cƣỡng ép của cha mẹ

đối với con, hôn nhân không đem lại hạnh phúc cho con ngƣời là thiếu toàn

diện.

Từ các mối quan hệ trong gia đình và cách thức ứng xử của các đôi trai

gái trƣớc tình yêu và hôn nhân, giữa bên tình và bên hiếu, thấy nổi bật lên vấn

đề số phận cá nhân trong mối tƣơng quan với gia đình và trách nhiệm của từng

cá nhân trong gia đình của mình. Bao trùm, là trách nhiệm cao của từng cá

nhân với tƣ cách thành viên của gia đình với gia đình. Mỗi cá nhân đều phải ý

thức rõ vai trò của mình trong gia đình và thực hiện tốt vai trò ấy. Cha mẹ phải

ăn ở có đức, phải hy sinh, nuôi dƣỡng và giáo dục con cái. Con cái phải biết ơn

Page 116: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

115

và có trách nhiệm với cha mẹ. Vợ phải theo chồng, gánh vác giang sơn nhà

chồng. Chồng phải biết đến công lao của vợ, phải chung lƣng đấu cật với vợ.

Nhƣ thế, ý thức về gia đình mang ý nghĩa bao trùm, chi phối mọi hành động

của từng cá nhân trong gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, từng cá nhân, nhất là

ngƣời ở bậc dƣới, phải chịu hy sinh hoặc nhƣờng nhịn, ngƣời ở bậc trên phải

bao dung, khoan hoà. Tuy vậy, sự nhƣờng nhịn hay hy sinh ấy không bao trùm

toàn bộ cuộc sống gia đình, không thủ tiêu hết vai trò cá nhân, làm cho từng cá

thể tan biến trong gia đình. Thực ra, mỗi cá thể vẫn tồn tại tƣơng đối độc lập

trong gia đình, và một khi quyền lợi của cá nhân bị đe doạ hay một khi khát

vọng hạnh phúc cá nhân đã cháy bỏng, thì cá nhân ấy sẵn sàng phá bung mọi

lễ giáo, mọi mối ràng buộc để xây dựng hạnh phúc cho riêng mình. Tiêu biểu

cho tình trạng này là sự bung phá của con cái khi tình yêu và hôn nhân bị đe

doạ. Lúc này, con ngƣời cá nhân đã thắng thế, tự mình thoát khỏi mọi mối

ràng buộc của lễ giáo nhằm thoả mãn khát vọng hạnh phúc của mình, để rồi

khi đạt đƣợc ƣớc nguyện, họ lại trở về với cuộc sống bình yên trong gia đình.

Con ngƣời cá nhân trong văn học dân gian ngƣời Việt không nổi loạn, không

đạp đổ toàn bộ các mối ràng buộc để khẳng định một cách tuyệt đối cá nhân

mình nhƣ kiểu con ngƣời cá nhân trong văn học phƣơng Tây, mà biết tự điều

tiết ở một mức độ vừa phải, đủ để đem lại hạnh phúc cho mình mà không làm

tan vỡ các mối quan hệ khác.

Page 117: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

116

CHƢƠNG BỐN

SO SÁNH SỰ PHẢN ÁNH PHONG TỤC TẬP QUÁN

GIỮA TỤC NGỮ VÀ CA DAO

1. NHỮNG ĐIỂM CHUNG

1.1. Tục ngữ, ca dao đều là một trong những nguồn tài liệu cần thiết

cho việc nghiên cứu con ngƣời và xã hội Việt Nam trƣớc đây

Muốn nhận thức ngày càng đầy đủ và chính xác về con ngƣời và xã hội

Việt Nam thủa trƣớc, cần thiết phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu. Trƣớc đây,

chúng ta hay sử dụng sử liệu và những trƣớc tác khác của các nhà văn hoá bác

học. Đó là một cách làm quen thuộc và có cơ sở của sự đúng đắn.

Về sau, bên cạnh nguồn sử liệu chính thống, những trƣớc tác của các tác

giả trong nƣớc, chúng ta đã chú ý tới các ghi chép của các tác giả nƣớc ngoài

(ngƣời Trung Quốc, ngƣời Pháp...). Cách tiếp cận này cũng đã đem lại những

kết quả nhất định.

Ngƣời ta cũng tìm hiểu con ngƣời và xã hội Việt Nam trƣớc kia qua

những áng văn chƣơng của các tác giả thời ấy, nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...

Bên cạnh các nguồn tài liệu kể trên, văn học dân gian nói chung, tục ngữ,

ca dao nói riêng, cũng là một nguồn tài liệu cần thiết giúp ngƣời sau nhận biết

về quá khứ của cha ông.

Lời ca dao sau:

Trời mƣa Thái Tổ Thái Tông

Con bế con dắt con bồng con mang

Bò đen húc lẫn bò vàng

Húc quấy húc quá húc quàng xuống sông.

phản ánh một sự thật lịch sử vào thế kỷ XV. Giặc Minh xâm lƣợc nƣớc

ta, thực hiện triệt để âm mƣu đồng hoá, hòng biến đất nƣớc ta thành một quận

huyện của đế chế Trung Hoa. Chúng tàn phá các công trình về lịch sử văn hoá,

đốt phá sách vở, cƣỡng bức đàn bà phụ nữ, bắt nhiều ngƣời tài giỏi của ta đƣa

sang Trung Quốc, không ít đàn ông Việt bị thiến, nhiều ngƣời sợ quá phải trốn

vào nơi rừng rú. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, vua Lê Thái Tổ

và tiếp sau là vua Lê Thái Tông đã khôi phục sản xuất trong nƣớc, khuyến

khích nhân dân tăng gia sản xuất, chăn nuôi trâu bò lợn gà. Nhiều ngƣời dân

lƣu tán đã trở về xây dựng cuộc sống gia đình, trẻ em mỗi ngày một nhiều. Sự

thật lịch sử đó đã đƣợc bài ca dao chỉ gồm bốn dòng ghi lại khá sinh động, cụ

thể.

Page 118: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

117

Hoặc nhƣ qua 25 câu ca dao nói về tình cảnh xa cách vợ chồng bởi chồng

đi lính, ngƣời đời sau thấy rõ một sự thật lịch sử là trong chế độ phong kiến,

việc bắt lính đã gây nên nhiều nỗi đau khổ cho nhân dân, nhƣ:

Anh ơi phải lính thì đi

Cửa nhà đơn chiếc anh thì cậy ai?

Tháng chạp cày đất trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà

Tháng ba cày vỡ ruộng ra

Trời thời mƣa gió, nƣớc sa đầy đồng

Ngƣời ta có vợ có chồng

Chồng cày vợ cấy ngoài đồng có đôi

Nhà anh chỉ có mình tôi

Cày rồi lại cuốc, cuốc thôi lại bừa

Cho nên tôi phải về trƣa

Gẫy đôi vai bừa, ai kẻ chêm cho!

Ai về nhắn nhủ các cô

Đừng lấy chồng lính thiệt thua trăm đƣờng.

Chúng ta biết rằng pháp luật của Nhà nƣớc phong kiến từ những điều luật

đƣợc ban bố cho đến việc thực thi bao giờ cũng có một khoảng cách. Theo

Quốc triều hình luật (một bộ luật nhà Lê), nếu ngƣời vợ mà tố cáo chồng thì

sẽ phạm vào một trong mƣời tội thập ác. Nếu ngƣời đời sau chỉ nghiên cứu

các văn bản luật pháp thì có thể nghĩ rằng dƣới triều nhà Lê, quyền sống của

ngƣời phụ nữ nói chung, của ngƣời vợ nói riêng, bị bóp nghẹt, bị chà đạp đến

mức không thể làm theo công lý. Thế nhƣng, trên thực tế, ngƣời vợ vẫn có thể

tố cáo chồng. Khi thi đỗ năm 1757, ông Phạm Công Tiến đã lấy con gái một

nhà giàu làm vợ lẽ. Trong đám rƣớc vinh quy từ kinh đô về làng, ông đã tranh

cãi với bà vợ nhiều lần về quyền ƣu tiên của ngƣời vợ lẽ. Ngƣời vợ cả đã đƣa

việc này đi kiện và kết quả ông Phạm Công Tiến không đƣợc bổ nhiệm làm

quan. Hoặc nhƣ trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ

chín đã quy định về phụ nữ: "Khi chồng chết mà mình chƣa có con, thì phải ở

lại nhà chồng, giữ việc tang lễ, không đƣợc giấu giếm chuyển vận tài sản nhà

chồng đem về nhà mình". [Dẫn theo 99:338]. Thế nhƣng, tục ngữ lại có câu:

"Làm ruộng phải có trâu, làm dâu phải có chồng", chứng tỏ nhân dân không

thực hiện huấn điều ấy, mà thực hiện một lẽ phải thông thƣờng là chỉ ở lại nhà

chồng khi còn chồng.

Nhƣ vậy, phải bằng nhiều nguồn tƣ liệu, có phân tích, đối chứng thì

chúng ta mới có thể đi tới những nhận xét toàn diện và gần với sự thật lịch sử.

Page 119: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

118

Chỉ riêng trong lĩnh vực gia đình, nghiên cứu tục ngữ và ca dao, chúng ta

cũng có thể thấy đƣợc gia đình ngƣời Việt trƣớc kia không đến nỗi ngột ngạt

nhƣ một vài nhận định phiến diện đã công bố đây đó mà chúng tôi dã phân tích

trong các chƣơng trên.

Bên cạnh những nét son tốt đẹp, gia đình truyền thống cũng có những

mảng tối. Nhƣ đã phân tích ở các chƣơng trƣớc, rõ ràng quan hệ nàng dâu mẹ

chồng trong xã hội cũ là quan hệ không mấy tốt đẹp:

1. Thật thà cũng thể lái trâu

Yêu nhau cũng thể nàng dâu, mẹ chồng.

2. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia

Ngẫm tôi với mụ có bà con chi.

Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu luật pháp trong thời phong kiến và giáo

lý Nho gia, chúng ta cần tìm hiểu ca dao, tục ngữ. Bởi vì, luật lệ của chế độ

phong kiến, giáo lý đạo Nho nhiều khi chỉ nằm trong trang sách chứ không vận

hành đƣợc trong đời sống. Nói đến Nho giáo, ngƣời ta nghĩ ngay đến tam

cƣơng, ngũ thƣờng, nhƣng thật sai lầm khi nhìn nhận rằng xã hội Việt Nam, do

ảnh hƣởng sâu sắc của Nho giáo, mà đã tạo nên nền nếp theo đúng tam cƣơng

ngũ thƣờng. Sở dĩ nhƣ vậy, vì khi du nhập vào Việt Nam, trƣớc những biến

động của đời sống, Nho giáo đã trở nên không thuần nhất và "sắc thái Nho

giáo của nó không nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau" [57:28]. Nhƣ thế, giữa

giáo lý Nho giáo và thực tế vận hành giáo lý ấy ở Việt Nam có khoảng cách

nhất định và có những sắc thái khác nhau. Nói cụ thể vào một điểm để dễ nhận

biết, có thể thấy nhƣ sau: Nho giáo đề cao vai trò của ngƣời thầy, nhân dân ta

đã tiếp thu tinh thần tôn sƣ trọng đạo ấy cho nên mới có câu "Không thầy đố

mày làm nên"; nhƣng không phải chỉ có vậy, với tinh thần dân chủ rộng mở,

nhân dân còn coi trọng các hình thức học khác, cho nên mới có câu "Học thầy

không tầy học bạn". Có thể đối chiếu rất nhiều điều trong giáo lý nữa với thực

tế, và chúng ta sẽ bắt gặp sự không trùng khớp là phổ biến. Nếu chỉ căn cứ vào

giáo lý thì sẽ thấy cuộc sống khô cứng và đơn điệu.

Ngƣợc lại, khi khảo sát tục ngữ, ca dao, không những thấy đƣợc thực tế

cuộc sống đƣơng thời, mà còn có thể thấy đƣợc hình bóng của luật pháp, của

giáo lý. Chẳng hạn, khi đọc câu ca dao:

Tháng sáu có chiếu vua ra

Cấm quần không đáy ngƣời ta hãi hùng

Không đi thì chợ không đông

Đi thì phải mƣợn quần chồng sao đang

Page 120: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

119

chúng ta có thể biết đƣợc rằng vào thời điểm câu ca dao ra đời, nhà vua đã ra

chiếu cấm phụ nữ mặc váy, đồng thời hiểu rằng lệnh ấy không hợp lòng dân,

bị dân phản ứng. Cũng từ hiện tƣợng này, có thể thấy hình bóng lịch sử tƣ

tƣởng của dân tộc in khá đậm nét trong tục ngữ, ca dao và đó là cứ liệu đáng

tin cậy cho việc nghiên cứu xã hội.

Nhƣ thế, tục ngữ, ca dao là nguồn tài liệu đáng tin cậy cho việc nghiên

cứu xã hội.

1.2. Về nội dung, cả tục ngữ và ca dao đều phản ánh quan hệ gia đình

ở mức độ đáng kể

Là sản phẩm của dân gian, tục ngữ và ca dao đều chứa đựng nhận thức,

tình cảm của dân gian, đó là điểm chung lớn nhất giữa hai thể loại. Từ điểm

chung ấy, tục ngữ và ca dao có nhiều điểm tƣơng đồng trong việc phản ánh

hiện thực.

Tục ngữ và ca dao đều quan tâm ở mức độ đáng kể đến quan hệ gia đình.

Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy trong kho tàng tục ngữ, ca dao, hai thể loại

này có tỷ lệ tƣơng đƣơng nhau về chủ đề gia đình (10,36% trong tục ngữ,

9,97% trong ca dao). Tục ngữ, ca dao đã khắc hoạ một cách sinh động những

mặt mang tính bản chất của gia đình ngƣời Việt. Nếu nói rằng nhân dân Việt

Nam đã có khát vọng khôn nguôi về độc lập, tự do và đã đấu tranh không mệt

mỏi cho độc lập, tự do, thì cũng cần nói rằng ngƣời Việt có khát vọng khôn

nguôi về hạnh phúc gia đình và đã sống theo định hƣớng đúng đắn để đạt đƣợc

hạnh phúc gia đình. Không nên nhận xét một cách cực đoan rằng, trong xã hội

phong kiến, dƣới sự đè nén khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, trong hôn

nhân, ngƣời nông dân Việt Nam hoàn toàn không có tình yêu, và vì vậy mà gia

đình là nơi ngục tù của phụ nữ! Nếu vì để nhấn mạnh những mặt tiêu cực, lạc

hậu của xã hội phong kiến, mà bảo rằng trong xã hội ấy, ngƣời nông dân chỉ

sống trong tối tăm, khốn khổ, không có chút hạnh phúc nào, thì vô tình đã phủ

nhận tinh thần đấu tranh và tình cảm nồng thắm của ngƣời nông dân, biến họ

trở thành những kẻ bất lực, thụ động và cam chịu. Ngƣời nông dân dù có cực

khổ, dù có bị áp bức bóc lột, vẫn là những con ngƣời có ý chí, có tình cảm, và

họ đã vƣợt lên khỏi hoàn cảnh, xây dựng đƣợc cuộc sống hạnh phúc. Mặt

khác, dù sống trong bất kỳ chế độ xã hội nào, thì con ngƣời cũng cần tuân thủ

những khuôn phép nhất định, để đảm bảo một trật tự tối thiểu cho xã hội ấy.

Do vậy, trong xã hội phong kiến, tình yêu trai gái có bị ràng buộc bởi nhiều

giáo lý, trong đó có những điều quá khắt khe, cần phải tháo gỡ, thì cũng có

những điều cần thiết phải tuân thủ - chúng nhƣ những điều kiện bảo hiểm cho

Page 121: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

120

quan hệ hôn nhân đƣợc bền chặt. Liên hệ đến cuộc sống thời hiện đại, nhiều

khi con ngƣời hƣớng tới sự tự do vô bờ bến, đã dẫn đến hậu quả là hôn nhân

chỉ là sợi chỉ mỏng manh cột hờ hai số phận, dễ dàng bị bung đứt, làm cho gia

đình tan vỡ, thì thấy rằng tôn trọng những luân lý phù hợp trong quan hệ gia

đình là điều cần thiết.

Tục ngữ, ca dao về gia đình đã cho thấy rằng ngay trong lòng chế độ

phong kiến, ngƣời nông dân không tuân phục một chiều lễ giáo phong kiến,

mà có quan niệm và cách thức ứng xử linh hoạt, nhiều chiều, theo hƣớng nhân

văn, tôn trọng quyền hôn nhân chính đáng dựa trên tình yêu và coi trọng các

thành viên của gia đình, chứ không phải là theo hƣớng phi nhân bản, phủ nhận

tình yêu trong hôn nhân, chỉ coi hôn nhân là biện pháp truyền gia thống, coi

các thành viên khác trong gia đình chỉ là nô lệ cho một ngƣời chủ gia đình.

Cũng vì vậy, trong xã hội phong kiến, ngƣời nông dân vẫn xây dựng đƣợc tổ

ấm gia đình dựa trên tình yêu thƣơng. Nếu nhƣ không có tình yêu trong hôn

nhân, thì làm sao có đƣợc sự gắn bó đến nhƣ thế? Nếu vợ chồng chỉ là sự ép

uổng, sự gán ghép thô thiển do cha mẹ định đoạt, thì làm sao họ tự nguyện cột

chặt số phận vào nhau nhƣ vậy? Có tìm thấy hạnh phúc thật sự trong hôn nhân,

trong cuộc sống gia đình, thì ngƣời nông dân xƣa mới để lại cho chúng ta kho

tàng ca dao lãng mạn, bay bổng đồng thời cũng rất hiện thực mà chúng ta có

hôm nay. Ngƣời Việt trải qua cả ngàn năm đô hộ của phong kiến phƣơng Bắc

đã không bị thôn tính, vẫn giữ đƣợc bản sắc, giữ đƣợc truyền thống văn hoá

của mình, thì dù có bị ảnh hƣởng sâu sắc đến đâu của Nho giáo, vẫn không

đánh mất cái cốt cách dân tộc trong gia đình mình, và chính vì vậy mà trong

gia đình, ngƣời Việt đã xây dựng đƣợc những quan hệ dân chủ, nhân ái, khoan

dung, là một phần của bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhìn từ góc độ văn hoá, có

thể thấy rằng trong xã hội phong kiến, bên cạnh dòng văn hoá chính thống của

giai cấp thống trị toả rộng ảnh hƣờng trong xã hội, tục ngữ, ca dao về phong

tục tập quán của ngƣời Việt là một bộ phận của dòng văn hoá dân chủ của

giai cấp bị trị luôn luôn có sức sống dồi dào, luồn lỏi vào mọi ngõ ngách đời

sống thƣờng ngày, vừa phản ánh, vừa ảnh hƣởng mạnh mẽ đến tƣ tƣởng, tình

cảm, lối sống của những ngƣời lao động, góp phần tạo nên sắc thái đa dạng

của nền văn hoá Việt Nam.

Tục ngữ, ca dao đều đề cập đến những quan hệ chính trong gia đình, với

những nội dung chính dƣới đây:

Page 122: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

121

-Thứ nhất: Quan hệ vợ chồng

Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ rƣờng cột của gia đình.Vợ chồng, cha

mẹ có thƣơng yêu nhau, có gắn bó, thuận hoà thì gia đình mới thực sự hạnh

phúc, con cái mới đƣợc chăm sóc dạy bảo chu đáo. Nhiều gia đình mâu thuẫn

đi đến chia lìa, khiến con cái phải gánh chịu những hậu quả nặng nề.

Nhận biết vai trò của quan hệ vợ chồng trong gia đình và cả xã hội, tục

ngữ, ca dao nói nhiều về vấn đề này.

Tục ngữ, ca dao ngƣời Việt tuy phản ánh một xã hội phụ hệ ở mức độ

cao, có tính chất phụ quyền, nhƣng đó không phải là một xã hội theo quy tắc

miệt thị ngƣời phụ nữ. Ngƣời Việt (qua tục ngữ, ca dao) đề cao sự gắn bó, thủy

chung, sự hòa thuận giữa vợ và chồng. Quan hệ này có những yếu tố dân chủ,

có nhiều trƣờng hợp đề cao ngƣời phụ nữ; có khi quyền phụ nữ chi phối nam

quyền "Lệnh ông không bằng cồng bà". Đây là dấu vết còn lại của chế độ mẫu

hệ, đồng thời là sự bảo lƣu truyền thống dân chủ đơn sơ của cha ông chúng ta.

Mặt khác, đây cũng là hệ quả của hoạt động của ngƣời phụ nữ trong nền kinh

tế tiểu nông gắn với thiểu thƣơng, trong đó phụ nữ đóng vai trò ngang bằng

với nam giới trong lao động, thậm chí có chút ƣu việt nhờ hoạt động tiểu

thƣơng. Trong các khái niệm đạo, nghĩa, tình thuộc mối quan hệ vợ chồng thì

qua tục ngữ, ca dao, đạo đƣợc nhắc đến ít nhất, nghĩa, tình đƣợc nhắc đến

nhiều nhất. Đáng chú ý là trong khi sử dụng khái niệm đạo, các tác giả dân

gian không tiếp thu rập khuôn ý nghĩa do Nho giáo quy định, mà xây dựng

những nội dung đơn giản hơn, thiết thực hơn, gần gũi với cuộc sống vợ chồng

ngƣời Việt, một cuộc sống của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, lao động

cực nhọc, giản đơn và gần gũi thiên nhiên, đời sống tình cảm mộc mạc, chân

chất.

Quan hệ vợ chồng ngƣời Việt phản ánh trong tục ngữ, ca dao là quan hệ

nặng về tình nghĩa thủy chung, mang tính chất công bằng, dân chủ, nhân ái.

Nhân dân xây dựng một hình mẫu quan hệ gắn bó lâu bền "Vợ chồng là nghĩa

già đời", "sống gửi thịt, chết gửi xƣơng"... Sự gắn bó này không dựa trên sự

phục tùng tuyệt đối nhƣ tôi tớ của vợ đối với chồng, mà là dựa trên sự tƣơng

hợp nhƣ "giỏ" với "hom", nhƣ "rồng với mây", nhƣ "cây với rừng", nhƣ "đũa

có đôi"... Đây là kiểu quan hệ bình đẳng, không phải một ngƣời xƣớng một

ngƣời tuân theo. Đóng vai trò điều tiết quan hệ, tạo nên sự êm ấm, thuận hòa

trong gia đình là ngƣời phụ nữ, điều tiết bằng tình thƣơng, sự nhƣờng nhịn

theo lẽ phải là chính chứ không phải là sự phục tùng tuyệt đối theo khuôn phép

cứng nhắc của chế độ phong kiến.

Page 123: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

122

Chƣa kể là khi đất nƣớc lâm nguy, phụ nữ phải xung trận "giặc đến nhà

đàn bà phải đánh". Đây là một kiểu mẫu phụ nữ khác hẳn ngƣời đàn bà phải

theo tục bó chân để chỉ quanh quẩn bếp núc hầu hạ chồng.

Nếu gói gọn quan hệ vợ chồng ngƣời Việt trong một vài cụm từ mà tục

ngữ, ca dao đã phản ánh, thì không phải "nam tôn nữ ty ", "phu xƣớng phụ

tuỳ" mà là "tình nghĩa thuỷ chung", "chồng hòa vợ thuận".

Những điều tục ngữ, ca dao phản ánh phù hợp với thực tế lịch sử. Giáo

sƣ Yu Insun (Lƣu Nhân Thiện) ngƣời Hàn Quốc, trong một cuốn sách rất công

phu Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17 - 18 đã khẳng định tính chất dân chủ

trong quan hệ vợ chồng Việt Nam: "Theo nhƣ chúng tôi hình dung, ở Việt

Nam, ngƣời chồng không phải là nhân vật thống trị trong gia đình, ngƣời vợ

gần nhƣ bình quyền với chồng, và do đó hôn nhân không đƣợc xem nhƣ sự

chuyển giao hoàn toàn cô gái từ gia đình bên nội của mình sang nhà chồng"

[139:126].

-Thứ hai: Quan hệ cha mẹ con

Trong quan hệ cha mẹ con, ngƣời ta hay nói đến đạo hiếu. Tuy vậy, với

tục ngữ, ca dao, trong cái vỏ ngôn ngữ này, nội dung chữ Hiếu của Nho giáo

đã biến đổi khá nhiều.

Quan hệ cha mẹ con không phải chỉ là quan hệ một chiều từ trên dội

xuống, mà là quan hệ qua lại hai chiều đan xen chặt chẽ. Cha mẹ phải dạy dỗ

nuôi nấng con, hy sinh, vất vả, tốn kém vì con, cha mẹ chịu trách nhiệm về

phẩm chất của con "Con hƣ bởi tại cha dung", "Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại bà".

Cha mẹ không những có trách nhiệm dạy bảo nuôi nấng con khi họ còn sống,

mà còn phải sống lƣơng thiện, tu nhân tích đức để phúc cho con "Đời cha đắp

nấm, đời con ấm mồ", "Đời cha trồng cây, đời con ăn quả", tránh tình trạng

"Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc".

Con cái thì coi trọng công lao của cha mẹ nhƣ núi nhƣ sông, bằng trời

bằng biển "Công cha nhƣ núi Thái Sơn, nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy

ra". Càng từng trải con cái càng thấm thía công lao cha mẹ "Trèo non mới biết

non cao, nuôi con mới biết công lao mẹ thầy".

Rõ ràng là quan hệ cha mẹ con ở đây đƣợc xây dựng trên tình thƣơng

yêu, lòng biết ơn, sự lo toan đến nhau. Nếu dùng khái niệm chữ hiếu thì đây là

đặc điểm chữ hiếu Việt Nam, khác với chữ hiếu khô cứng, mệnh lệnh và khắc

nghiệt theo kiểu Cha bảo con chết con phải chết mới là hiếu, cha bảo con chết

con không chết là bất hiếu.

Page 124: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

123

Tuy vậy, qua tục ngữ, ca dao, những biểu hiện bất hiếu đã đƣợc phản ánh

và phê phán. Điều này khiến chúng ta có cách nhìn biện chứng và khách quan

đối với tình trạng bất hiếu đang phát triển trong xã hội hiện đại, để có biện

pháp giáo dục con cái và có cách ứng xử thích ứng, không đòi hỏi cha mẹ hy

sinh tất cả, hy sinh mù quáng cho con cái, đồng thời đòi hỏi con cái phải coi

trọng cha mẹ, có trách nhiệm với cha mẹ.

-Thứ ba: Quan hệ anh em, chị em

Tình cảm ruột thịt là nền tảng của mối quan hệ anh chị em "Anh em nhƣ

chân với tay". Trên cơ sở đó, nguyên tắc ứng xử của họ chủ yếu dựa trên sự

đoàn kết hoà thuận "Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài

đá nhau", "Anh thuận em hoà là nhà có phúc". Khi có mâu thuẫn thì tự dàn xếp

nội bộ là chính "Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau".

Tiếp cận vấn đề gia đình qua tục ngữ và ca dao, chúng tôi không có tham

vọng nhìn nhận đƣợc thấu đáo và toàn diện mọi mặt của gia đình ngƣời Việt.

Tuy vậy, tục ngữ, ca dao có một chiều dài lịch sử và chiều rộng xã hội khá lớn

nên chúng là một trong những tài liệu đáng tin cậy, giúp chúng ta nhận ra định

hƣớng ứng xử trong các quan hệ của gia đình, từ đó thấy đƣợc truyền thống

của dân tộc và nhờ vậy có thể hiểu đƣợc phần nào bản sắc văn hoá Việt Nam.

Nói nhƣ các tác giả trong Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì:

“Bản sắc văn hoá Việt Nam chính là ở chỗ nền văn hoá đó luôn luôn

lấy sứ mệnh của dân tộc - vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội làm sứ mệnh

của mình; là ở chỗ nền văn hoá đó luôn lấy sự bao dung và hoà đồng làm cơ

sở để xem xét những hiện tƣợng tự nhiên, xã hội và con ngƣời, để đề ra các

giải pháp sáng tạo văn hoá; là chủ nghĩa nhân bản đƣợc tích hợp từ những tƣ

tƣởng truyền thống và tƣ tƣởng hiện đại; là nền văn hoá mở trong không gian

(giao tiếp văn hoá qua các kinh tuyến và vĩ tuyến), trong thời gian (tiếp tục

nắm bắt cái đã qua, nhạy cảm với cái sắp tới) và biến đổi theo quá trình điều

chỉnh xã hội (nó tồn tại ngay trong những thiết chế chính trị trái ngƣợc bản

chất của nó); là nền văn hoá giàu sức chuyển hoá (cái bi trong cái hài, cái hài

trong cái bi, duy lý trong nhân bản - nhân bản trong duy lý) giàu sự tƣơng

phản đăng đối (trong cú pháp, trong sắc màu); là nền văn hoá giàu tính

nhân dân, tính cộng đồng." [30:35-41].

Page 125: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

124

1.3. Tục ngữ và ca dao đều phản ánh quan hệ gia đình trong một

"diện tích nghệ thuật" nhỏ hơn các thể loại khác

Văn học dân gian ngƣời Việt có nhiều thể loại: truyện cổ tích, truyền

thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cƣời, vè, ca dao, tục ngữ v.v.. Phản ánh quan

hệ gia đình không chỉ có tục ngữ và ca dao. Các thể loại khác nhƣ đã nêu trên

đây cũng đề cập đến quan hệ này. Có điều, các tác phẩm tục ngữ, ca dao ngắn

gọn hơn nhiều so với các tác phẩm thuộc loại truyện cổ tích, truyện cƣời.

Thí dụ: Cùng nói về quan hệ anh em bị chi phối tiêu cực bởi lợi ích vật

chất, thì:

- Tục ngữ nói ngắn gọn: Anh em gạo, đạo ngãi tiền (7 tiếng).

- Ca dao nói dài hơn một chút:

Anh em hiền thật là hiền

Chỉ vì đồng tiền sinh mất lòng nhau (14 tiếng).

- Truyện cổ tích lại thông qua một câu chuyện dài, nhƣ Cây khế : Các tác

giả dân gian đã kể chi tiết quan hệ anh em, với nhiều tình tiết, qua đó cho thấy

ngƣời em hiền lành, chăm chỉ, thực thà, còn ngƣời anh thì giầu có nhƣng tham

lam và độc ác, luôn luôn tìm cách chiếm đoạt của cải, công sức của ngƣời em,

cuối cùng, do chính lòng tham vô đáy mà ngƣời anh bị mất mạng. Câu chuyện

này đƣợc tuyển vào Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, in tới 4 trang giấy,

gồm trên 1.600 tiếng.

Ta có thể khảo sát thêm một ví dụ nữa để thấy do ngắn gọn, tục ngữ, ca

dao có cách diễn đạt riêng của mình. Để khẳng định tình máu mủ hơn tình bạn

bè, trong truyện cổ tích có câu chuyện Giết chó khuyên chồng (trong Tuyển

tập văn học dân gian Việt Nam ghi là Dạy chồng). Qua rất nhiều tình tiết, từ

việc ngƣời anh giầu có nhƣng không quan tâm đến em mà chỉ bù khú với

những ngƣời bạn hay lợi dụng, ngƣời vợ khuyên bảo không đƣợc, mới giết

một con chó, nói dối chồng là mình giết phải thằng bé ăn mày, rồi thử nhờ

những ngƣời bạn mà chồng coi là thân thiết giúp chôn cất, kết quả là những

ngƣời bạn đó không những không giúp mà còn tìm cách tống tiền, còn ngƣời

em thì giúp một cách vô tƣ, từ đó, ngƣời chồng mới nhận ra rõ ràng là tình anh

em ruột thịt vẫn hơn những ngƣời bạn cơ hội (Câu chuyện này in ra 3 trang

sách với hơn 1.300 tiếng). Cùng ý nghĩa trên, ca dao miêu tả bằng 4 dòng (28

tiếng):

Ơn cha mẹ trời cao khôn thấu

Nghĩa anh em xƣơng cốt ruột rà

Page 126: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

125

Muốn cho trên thuận dƣới hoà

Chẳng thà chịu nhục, hơn là rẽ nhau.

Trong khi đó, tục ngữ khẳng định bằng 8 tiếng: "Một giọt máu đào hơn

ao nƣớc lã".

Có thể hình dung rằng, khi đi vào vƣờn văn học dân gian, thì truyện cổ

tích cho ta một cây với đầy đủ hoa, quả, lá, cành, ca dao cho ta một chùm trái

ngọt, còn tục ngữ thì cho ta một trái đậm đà nhất.

Hình tƣợng nghệ thuật của tục ngữ, ca dao mang tính đặc thù - không

đƣợc hình thành trong từng tác phẩm đơn lẻ, mà qua một hệ thống tác phẩm.

Phải hệ thống hoá các nhân vật của tục ngữ hay ca dao, mới nhận ra hình

tƣợng mà chúng thể hiện. Thí dụ, trong ca dao, nhân vật con cò đƣợc thể hiện

trong nhiều tác phẩm khác nhau, trong nhiều tình huống khác nhau, với các

cách ứng xử khác nhau, nếu xâu kết các nhân vật con cò ấy vào một hệ thống,

sẽ thấy hiện lên hình tƣợng về ngƣời phụ nữ nông thôn tần tảo sớm hôm, lặn

lội kiếm ăn nuôi chồng nuôi con, vất vả hy sinh cho chồng cho con. Điều này

dẫn đến một vấn đề có tính phƣơng pháp luận: Muốn hiểu thấu đáo tục ngữ, ca

dao, phải nghiên cứu chúng trong hệ thống, phải biết xâu kết các yếu tố tƣơng

đồng và so sánh các yếu tố khác biệt trong hệ thống, từ đó mới có thể rút ra

những kết luận khả dĩ xác đáng.

1.4. Tục ngữ, ca dao đều nói ít về quan hệ gia tộc, quan hệ gia đình

với làng xóm

Thống kê chi tiết ở tục ngữ và ca dao, đều thấy rất ít đơn vị đề cập tới

quan hệ gia tộc, quan hệ gia đình với làng xóm. Do giới hạn của đề tài nghiên

cứu, chúng tôi chƣa đi sâu lý giải nguyên nhân của hiện tƣợng này.

1.5. Tục ngữ, ca dao đều có giá trị đối với cuộc sống đƣơng đại

Cho dù là sản phẩm của xã hội phong kiến, nhƣng tục ngữ, ca dao chứa

đựng tâm tƣ, tình cảm, lý trí của nhân dân ta qua nhiều thế hệ, dạy cho con

ngƣời cách sống nhân ái, hoà hợp để tạo dựng hạnh phúc. Những bài học đó có

sức sống vƣợt thời gian, hết sức bổ ích đối với cuộc sống ngừy nay.

2. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU

2.1. Tục ngữ thiên về lí trí, ca dao thiên về tình cảm

Tục ngữ thiên về lý trí, cho nên khi phản ánh các quan hệ trong gia đình,

tục ngữ thƣờng đúc kết những kinh nghiệm hoặc những yêu cầu ứng xử, ít biểu

lộ tình cảm. Ca dao là thể loại trữ tình, cho nên ca dao phản ánh quan hệ gia

đình trong chiều sâu tình cảm nhiều hơn. Chính vì vậy, tuy cùng quan tâm đến

gia đình, nhƣng tục ngữ và ca dao phản ánh các mối quan hệ trong gia đình từ

những góc tiếp cận và hình thức phản ánh khác nhau. Do quan hệ vợ chồng có

Page 127: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

126

nhiều sắc thái tình cảm, cho nên ca dao phản ánh nhiều hơn, còn quan hệ anh

chị em, sắc thái tình cảm nghèo nàn hơn, cho nên ca dao đề cập tới ít hơn tục

ngữ (so với chủ đề chung về gia đình, thì ở ca dao, chủ đề vợ chồng có 690

câu, chiếm 58,64%, còn ở tục ngữ có 285 câu, chiếm 39%). Rõ ràng, vợ chồng

là quan hệ nặng về tình nghĩa, và ca dao là thể loại thích hợp cho việc phản

ánh quan hệ ấy. Mặt khác, tuy cùng nói về quan hệ vợ chồng, nhƣng tục ngữ

thiên về phản ánh những biểu hiện mang tính luân lý, còn ca dao thì đi sâu vào

tình cảm của con ngƣời. Chẳng hạn, cùng nói về cách thức ứng xử trong quan

hệ vợ chồng, tục ngữ rút ra 6 kiểu ứng xử khác nhau (nhƣ đã phân tích ở

chƣơng 2), các câu tục ngữ không cho biết trạng thái tình cảm của con ngƣời,

mà chỉ nêu lên những yêu cầu của xã hội. Trong khi đó, ca dao phản ánh sinh

động các cách thức ứng xử thể hiện tình nghĩa vợ chồng, mà đậm đà là tình

yêu thƣơng, sự chăm nom săn sóc của ngƣời vợ với ngƣời chồng (trong 465

câu ca dao về cách thức ứng xử vợ chồng có 66 câu ca dao chứa đựng hai chữ

thƣơng, yêu). Chúng tôi nêu một số ví dụ để so sánh nhƣ sau:

- Về cách thức ứng xử, tục ngữ nói: "Chồng giận thì vợ làm lành", ca

dao nói: "Chồng giận thì vợ làm lành/Miệng cƣời hớn hở rằng: Anh giận gì?".

Rõ ràng, ca dao không những nêu lên yêu cầu ứng xử giống nhƣ tục ngữ nêu,

mà còn miêu tả thái độ của ngƣời vợ đối với chồng, một thái độ vui vẻ nhẹ

nhõm, biểu hiện tình cảm thắm thiết của ngƣời vợ.

- Về tình trạng đa thê, tục ngữ nói một cách lạnh lùng: "Một vợ nằm

giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng heo", ca dao nói nhƣ

một sự bộc bạch tâm can:

Viết thƣ sang hỏi thăm chàng

Còn không hay đã đá vàng nơi nao?

Hay là mắc phải con nào

Bùa yêu bả lú phải làm sao cho tỏ tƣờng

Vắng chàng tôi những nhớ thƣơng

Vì chàng mê gái tìm đƣờng phụ tôi

Tôi làm cho lứa quên đôi

Page 128: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

127

Tôi làm cho rã cho rời nhau ra

Làm cho tan nát biệt xa

Cho chim lìa tổ cho hoa lìa cành

Tôi làm cho nó lìa anh

Cho ngƣời ta biết anh tình phụ tôi.

Qua câu ca dao trên, ta thấy hiển hiện lên hình ảnh một ngƣời vợ yêu

chồng tha thiết nhƣng cũng khá đáo để, có thái độ cứng rắn, kiên quyết giành

lại chồng từ tay tình địch.

Ngƣợc lại, quan hệ anh chị em lại đƣợc ca dao nói tới ít hơn tục ngữ (tục

ngữ có 40 câu, ca dao chỉ có 27 câu). Điều này phản ánh một sự thật là quan

hệ anh chị em dù có mật thiết đến đâu, thì cũng không thể có những sắc thái

tình cảm tinh tế và đằm thắm nhƣ quan hệ vợ chồng. Không những thế, với

quan niệm anh em mỗi ngƣời một thân một phận, hoặc bán anh em xa mua

láng giềng gần, thì cùng với thời gian trong đó chứa đựng những xung đột,

mâu thuẫn, quan hệ anh chị em luôn luôn có khả năng giảm thiểu chất kết

dính tình cảm. Cũng do vậy, nhân dân phải bổ sung một loại chất kết dính

khác, đó là những yêu cầu về luân lý. Đây chính là mảnh đất phù hợp cho tục

ngữ toả ảnh hƣởng: khi thì nhắc nhở tình máu mủ giữa anh em: "Anh em hạt

máu sẻ đôi", "Anh em nhƣ chân nhƣ tay", khi thì nêu lên phƣơng cách ứng

xử: "Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau", "Làm chị phải lành, làm anh phải

khó", lúc lại yêu cầu sự gắn bó: "Cắt dây bầu dây bí, chẳng ai cắt dây chị dây

em".

Về quan hệ nàng dâu - mẹ chồng, cả tục ngữ và ca dao đều cho thấy đây

là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình ngƣời Việt. Tuy vậy, chỉ có ca dao

mới phản ánh đƣợc nỗi cay đắng, tâm trạng uất ức của nàng dâu, nhƣ:

"Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau

Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi

Làm thì xem chẳng ra gì

Page 129: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

128

Làm tất làm tả nói thì điếc tai

Đi ngủ thời hết canh hai

Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu

Sớm ngày đi cắt cỏ trâu

Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!

Hết mẹ rồi lại đến thầy

Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi

Nói thì nói thật là dai

Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều

Phận em là gái nhà nghèo

Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng

Nói ra đau đớn trong lòng

Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời".

Đó là một bức tranh hiện thực về cảnh làm dâu, là khúc ca bi thƣơng của

ngƣời phụ nữ trƣớc những nỗi khổ mà mình phải gánh chịu. Trong khi đó tục

ngữ hƣớng tới cách ứng xử cần phải có, cho nên qua tục ngữ, thấy quan hệ

nàng dâu - nhà chồng bớt căng thẳng hơn, không những thế lại còn có cái vẻ

ấm áp và thân tình, nhƣ: "Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai", "Dâu dâu rể rể

cũng kể là con".

Qua tục ngữ, ca dao, ta càng thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa nội

dung và hình thức của văn học: tục ngữ chứa đựng những nội dung mang tính

lý trí, ca dao chứa đựng những nội dung mang tính tình cảm. Để phản ánh

chân thực và sinh động cuộc sống, các tác giả dân gian đã thực hành một

nguyên lý sáng tác mà ngày nay chúng ta đang vận dụng, đó là hình thức phải

phù hợp với nội dung, nội dung nào, hình thức ấy.

Page 130: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

129

2.2. Tục ngữ ngắn gọn hơn ca dao

Ca dao ít nhất có 2 dòng với 14 tiếng, rất hiếm trƣờng hợp có số lƣợng ít

hơn. Trong khi đó, với tục ngữ, đa số là một câu. Có khi một câu tục ngữ chỉ

gồm 3 tiếng (nhƣ "Chó cắn quanh", "Lành nhƣ bụt") và không ít trƣờng hợp

chỉ gồm 4 tiếng (nhƣ "ÁC giả ác báo", "Ăn lắm trả nhiều"). Trong Tục ngữ

phong dao, Ôn nhƣ Nguyễn Văn Ngọc đã ghi ra ở phần một mà theo tác giả là

gồm phƣơng ngôn, tục ngữ, có tới 1.171 câu thuộc loại chỉ gồm 4 tiếng. Nhƣ

vậy, về mặt dung lƣợng, ca dao lớn hơn tục ngữ. Cũng với đặc trƣng ngắn gọn

nhƣ vậy, tục ngữ thƣờng ở thể khẳng định tổng thể, mang tính khái quát, còn

ca dao thƣờng ở thể phản ánh hiện tƣợng, miêu tả chi tiết. Thí dụ: Cũng nói về

sự gắn bó vợ chồng, tục ngữ khẳng định "Vợ chồng đầu gối tay ấp", trong khi

đó ca dao miêu tả khá tỷ mỷ:

Cái quạt mƣời tám cái nan

Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu

Quạt này anh để che đầu

Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này

Ƣớc gì chung mẹ chung thầy

Để em giữ cái quạt này làm thân

Rồi ta chung gối chung chăn

Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu

Nằm thời chung cái giƣờng Tàu

Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi

Ăn thời chung cả một nồi

Gội đầu chung cả dầu hồi nƣớc hoa

Chải đầu chung cái lƣợc ngà

Soi gƣơng chung cả nhành hoa giắt đầu.

2.3. Trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật đối, thì tục ngữ dùng

nhiều hơn ca dao

2.3.1. Đối ở tục ngữ đƣợc thể hiện ở hai bộ phận của câu, tạo ra hai ý

khác nhau hoặc dẫn dắt, đƣa đẩy nhau. Ví dụ :

Anh em trai ở với nhau mãn đại (a),

Chị em gái ở với nhau một thời (b).

Trong câu tục ngữ này, có đối cục bộ và đối tổng thể.

Đối cục bộ:

- Anh em trai đối với chị em gái

- Mãn đại đối với một thời

Page 131: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

130

Đối tổng thể: vế (a) đối với vế (b).

Đối cục bộ và đối tổng thể hợp với nhau, đƣa đến ý nghĩa khái quát là

trong quan hệ gia đình, thì anh em trai gắn bó lâu dài hơn chị em gái.

Các thí dụ: "Bán anh em xa mua láng giềng gần" hay "Cha muốn cho con

hay, thầy mong cho con khá" cũng có cách đối tƣơng tự.

2.3.2. Nhiều câu ca dao không có đối. Nếu có đối, ở ca dao thƣờng mang

tính cục bộ, xảy ra giữa hai bộ phận của một dòng của tác phẩm, chứ ít xảy ra

giữa hai dòng. Thí dụ, câu ca dao sau không có đối:

Ai kêu ai hú bên sông

Tôi đang nấu nƣớng cho chồng tôi ăn.

Những câu ca dao sau có đối cục bộ:

1. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng

Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm

2. Cơm chiên ăn với cá ve

Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.

3. Củ lang Đống Ngỗ

Đỗ phụng Đồng Đinh

Chàng bòn thiếp mót

Để chung một gùi.

4. Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!

Trong các câu ca dao trên thì chỉ một bộ phận của câu có đối, cụ thể là

"Anh đi gặt" đối với "nàng quẩy cơm", "Thiếp đây" đối với "chàng đấy",

"chàng bòn" đối với "thiếp mót", "Chồng sƣơng sớm" đối với "vợ sƣơng

chiều" nhƣng không tạo ra sự đối lập, ngƣợc lại, tạo ra sự cân bằng, hoà quyện,

nói lên tình gắn bó vợ chồng.

2.4. Tục ngữ và ca dao khác nhau ở việc sử dụng ngôn từ

Trong tục ngữ, tác giả dân gian không sử dụng các đại từ nhân xƣng nhƣ

anh, chị, tôi, ta, mà dùng câu trần thuật để đúc kết một quy luật ("Dâu dâu rể rể

cũng kể là con") hoặc câu cầu khiến ((Phải) "Dạy con từ thủa còn thơ"). Trong

ca dao, vì là tiếng hát trữ tình, tiếng hát nội tâm, cần biểu đạt "cái tôi", cho nên

những đại từ ấy đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, không những vậy mà biến hoá

linh hoạt, tạo nên những sắc thái biểu cảm độc đáo. Đặc biệt là đại từ "Ai", đã

đƣợc các tác giả ca dao sử dụng nhƣ một công cụ biểu cảm sắc bén. Trong 730

câu ca dao về gia đình đã có tới 148 lƣợt đại từ "Ai" đƣợc sử dụng. Trong

Page 132: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

131

tiếng Việt, thì từ "Ai" vốn là một đại từ nghi vấn, dùng để hỏi, nhƣng khi đƣợc

sử dụng trong ca dao, nó có nhiều chức năng hơn. Có trƣờng hợp, "ai" chỉ

ngƣời đối thoại:

1. Ai về anh dặn lời này

Phƣợng hoàng chỉ quyết đậu cây ngô đồng

2. Anh đi đƣờng ấy xa xa

Để em ôm bóng trăng tà năm canh

Nƣớc non một gánh chung tình

Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng.

Rất nhiều trƣờng hợp "ai" chỉ ngƣời thứ ba không xác định:

1. Mặc ai lên võng xuống dù

Em đây đứng dƣới giàn bù vẫn vui.

2. Canh cải mà nấu với gừng

Không ăn thời chớ xin đừng mỉa mai

Khuyên chàng đừng ở đơn sai

Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng.

Các đại từ ta, mình cũng thƣờng đƣợc dùng, tạo không khí thân tình cho

văn cảnh:

Ăn mít bỏ xơ

Ăn cá bỏ lờ, mình chớ hay quên

Mình quên ta chả cho quên

Mình nhớ, ta nhớ mới nên vợ chồng.

Không những thế, các tác giả dân gian còn dùng rất nhiều danh từ chỉ các

loài thực vật thay cho đại từ nhân xƣng, khiến cho ca dao có hình ảnh, gần gũi

với thiên nhiên, nhƣ các danh từ trúc, mai, mận, đào... Thí dụ:

1. Bây giờ mận mới hỏi đào

Vƣờn hồng đã có ai vào hay chƣa?

Mận hỏi thời đào xin thƣa

Vƣờn hồng có lối nhƣng chƣa ai vào.

2. Ra về nhớ trúc nhớ mai

Nhớ đào nhớ liễu nhớ ai kết nguyền.

Lối dùng từ gắn với cỏ cây hoa lá nhƣ trên phản ánh cuộc sống của cƣ

dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc. Các loài thảo mộc gắn bó với con ngƣời tới

mức ăn sâu vào tiềm thức, bật ra thành những thành tố sinh động của tục ngữ,

ca dao. Trong Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ

qua một số ca dao – tục ngữ, Trần Thuý Anh cũng đã có nhận xét rằng ngƣời

nông dân thƣờng lấy hình ảnh trồng cây để làm khuôn mẫu.

Page 133: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

132

Ca dao còn là tiếng nói giao duyên, cho nên có rất nhiều bài có các đoạn

đối thoại, mà tục ngữ thì không có nhƣ vậy. Thí dụ:

Ai về đƣờng ấy hôm nay

Ngựa hồng ai cƣỡi, dù tay ai cầm

- Ngựa hồng đã có tri âm

Dù tay đã có ngƣời cầm thì thôi.

Một nét phân biệt giữa tục ngữ và ca dao nữa, là trong ca dao có rất nhiều

thán từ, còn trong tục ngữ thì hầu nhƣ không có.

Thán từ hỡi ơi, chỉ thấy xuất hiện trong ca dao:

1. Mấy đời chỉ trắng bằng vôi

Ai thƣơng ai nhớ bằng đôi đứa mình

Bạn ơi! thức ngủ làm thinh

Dậy đây anh kể sự tình cho nghe

Ai làm chén nọ xa ve

Mùa thu đón đợi, mùa hè ngóng trông

Tam tứ bề yến bắc nhạn đông

Làm sao cho cá chậu xa chim lồng, hỡi ơi!

2. Hỡi ơi chú tiểu trên chùa

Chú tu sao chú bỏ bùa cho tôi.

Thống kê trong 730 câu tục ngữ về gia đình, không gặp một từ ơi nào,

trong khi đó qua 1.179 câu ca dao về gia đình có tới 43 từ ơi, mà phổ biến là Ai

ơi, Mẹ ơi, Bà ơi, Chàng ơi, Nàng ơi... nhƣ:

1. Cơm sôi bớt lửa kẻo trào

Mẹ ơi khoan bán, má đào đang non.

2. Ai ơi đợi với tôi cùng

Tôi còn gỡ mối tơ hồng chƣa ra.

Rõ ràng là, để bộc lộ tâm tƣ, tình cảm, các tác giả dân gian đã sử dụng

thành công biện pháp tu từ, làm cho các con chữ trở nên có hồn. Một lần nữa

chúng ta thấy các tác giả dân gian là bậc thầy về sử dụng ngôn từ.

TIỂU KẾT

1. Tục ngữ và ca dao là hai thể loại văn học dân gian, chúng có nhiều

điểm giống nhau dƣới đây:

- Phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống, tục ngữ, ca dao là một

trong những tƣ liệu đáng tin cậy để nghiên cứu về lịch sử, xã hội, tâm lý của

một đất nƣớc, một dân tộc.

- Tục ngữ và ca dao đều quan tâm đến việc phản ánh các mối quan hệ

trong gia đình, dành tỷ lệ trên dƣới 10% cho chủ đề này. Đây là tỷ lệ khá cao,

Page 134: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

133

khác với một số thể loại khác. Tục ngữ, ca dao về gia đình là một bộ phận của

dòng văn hoá dân chủ của giai cấp bị trị, có nhiều nét khác biệt, có khi đối lập

so với dòng văn hoá của giai cấp thống trị, đi sâu vào đời sống thƣờng ngày,

vừa phản ánh, vừa ảnh hƣởng mạnh mẽ đến tƣ tƣởng, tình cảm, phƣơng cách

ứng xử của ngƣời lao động, góp phần tạo nên sắc thái đa dạng của nền văn hoá

Việt Nam.

- Tục ngữ, ca dao là thể loại có hình thức ngắn gọn, nội dung cô đọng

hơn các thể loại khác nhƣ truyện cổ tích, truyện cƣời...

- Do tục ngữ, ca dao quá ngắn gọn, cho nên khi nghiên cứu hình tƣợng

hay nội dung, không nên xem xét một cách đơn lẻ từng đơn vị mà cần xem xét

một cách tổng thể trong hệ thống.

2. Tục ngữ và ca dao có những điểm khác nhau dƣới đây:

- Tục ngữ thiên về lý trí, cho nên khi phản ánh các quan hệ trong gia

đình, tục ngữ thƣờng đúc kết những kinh nghiệm hoặc những yêu cầu ứng xử.

Ca dao là thể loại trữ tình, cho nên ca dao phản ánh quan hệ gia đình trong

chiều sâu tình cảm nhiều hơn.

- Nói về chủ đề quan hệ vợ chồng, ca dao dành tỷ lệ cao hơn tục ngữ (so

với chủ đề chung về gia đình, thì chủ đề vợ chồng chiếm 59% trong ca dao và

39% trong tục ngữ).

- Tục ngữ và ca dao có những nét khác biệt trong việc sử dụng các biện

pháp nghệ thuật nhƣ đối, tu từ... Ca dao thiên về xây dựng hình ảnh, hình

tƣợng, còn tục ngữ thiên về xử lí từ ngữ.

Page 135: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

134

KẾT LUẬN

1. Tục ngữ, ca dao ngƣời Việt đã phản ánh sinh động, đa dạng và sâu sắc các

mối quan hệ chính của gia đình ngƣời Việt. Dựa vào phƣơng pháp nghiên cứu

đƣợc gọi là "toán học hoá ngôn ngữ" của khoa học xã hội, với bộ công cụ là

Phần mềm về tục ngữ, Phần mềm về ca dao, từ việc định tính kết hợp với

định lƣợng đối tƣợng nghiên cứu, công trình đã tiến hành khảo sát một cách chi

tiết, tổng thể việc phản ánh phong tục tập quán của ngƣời Việt (trong quan hệ

gia đình) thể hiện qua tục ngữ, ca dao. Kết quả phân tích cho thấy: nội dung về

các mối quan hệ trong gia đình chiếm tỷ lệ khá cao so với các nội dung khác

của tục ngữ, ca dao. Điều đó chứng tỏ từ xa xƣa, ngƣời Việt đã rất coi trọng gia

đình và bằng văn học dân gian, họ đã bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của mình về các

mối quan hệ đa dạng của gia đình, truyền kinh nghiệm của mình lại cho muôn

đời sau. Gia đình có một hệ thống quan hệ chằng chịt chi phối lẫn nhau: cha

mẹ-con cái, vợ-chồng, anh chị-em, cha mẹ vợ-con rể, cha mẹ chồng-nàng dâu,

ông bà-con cháu. Các quan hệ đó có tính nhiều chiều và mỗi ngƣời thƣờng

đóng hai ba vai khác nhau, phải luôn điều chỉnh trong các vị thế đó để tạo sự

hài hoà. Công trình đã chứng minh đƣợc rằng tục ngữ, ca dao vừa phản ánh,

vừa quy định sự điều chỉnh này, làm cho các quan hệ gia đình không bị đứt ở

một mối quan hệ nào, gây nguy cơ phá vỡ toàn bộ hệ thống quan hệ.

2. Qua tục ngữ, ca dao, công trình đã cho thấy phong tục tập quán ngƣời Việt

trong quan hệ gia đình có những nét riêng độc đáo mang tính truyền thống bền

vững bên cạnh những nét chung của cƣ dân vùng Đông Nam Á chịu ảnh hƣởng

của nhiều luồng tƣ tƣởng, trong đó đáng kể nhất là tƣ tƣởng Nho giáo và Phật

giáo.

3. Qua tục ngữ, ca dao, ngƣời nghiên cứu thấy rõ tính chất dân chủ, bình

đẳng, khoan hòa, nhân văn là tính chất "trội" của quan hệ gia đình ngƣời Việt.

Ở đây sự thƣơng yêu, nhƣờng nhịn, hợp lực với nhau "chồng cày vợ cấy",

"thuận vợ thuận chồng" là nguyên tắc cơ bản, nhằm cùng nhau xây dựng hạnh

phúc gia đình. Với bản tính ôn hoà, gắn bó với cộng đồng, hoà đồng với thiên

nhiên, ngƣời Việt xây dựng gia đình trên nền tảng coi trọng tổ tiên, coi trọng

tình nghĩa, coi trọng sự hoà thuận, xa lạ với lối sống gây hiềm khích, ƣa hung

bạo.

Page 136: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

135

4. Trên cơ sở nhận thức rằng cấu trúc của văn hóa Việt Nam là một tổng thể

có hai tầng bậc chính: văn hoá bác học và văn hoá dân gian, công trình đã đi

sâu vào tầng bậc văn hoá dân gian, có đối chiếu với tầng bậc văn hoá bác học.

Văn hóa bác học ảnh hƣởng chủ yếu đến tầng lớp trên - vua quan, nhà giàu,

nho sĩ bậc cao... và văn hóa dân gian ảnh hƣởng chủ yếu đến tầng lớp dƣới -

nông dân, ngƣời buôn bán, ngƣời thợ thủ công, nho sĩ nghèo... Hai tầng văn

hóa đó vừa có tính riêng biệt vừa thƣờng xuyên ảnh hƣởng lẫn nhau.

5. Công trình đã thực hành một quan điểm tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt

Nam qua văn hóa dân gian, cụ thể là qua hệ thống tục ngữ, ca dao, bằng thao

tác tiếp cận tổng thể trong hệ thống, trong mối quan hệ với văn hóa bác học, do

đó đem đến những kết quả có phần phong phú, có sức thuyết phục hơn so với

kết luận của một số tác giả đi trƣớc.

6. Ông cha chúng ta đã để lại một kho tàng tục ngữ, ca dao phong phú, trong

đó chứa đựng một mô hình gia đình cùng với những mối quan hệ tốt đẹp thuộc

về bản sắc văn hoá Việt Nam. Công trình cho thấy tục ngữ, ca dao cũng đã

cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm ứng xử, giáo dục gia đình sinh động và khả

thi. Với những giá trị lớn nhƣ đã phân tích trên đây, tục ngữ, ca dao vẫn đƣợc

đánh giá cao và có tác dụng tích cực làm giầu nhận thức, làm đẹp tâm hồn của

con ngƣời trong xã hội hiện đại, đặc biệt là có giá trị thiết thực giúp con ngƣời

giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Nhƣ vậy, tục ngữ, ca dao không những là vốn quý về văn học nghệ thuật, mà

còn là vốn quý về kinh nghiệm sống, về cách thức ứng xử để giữ yên tổ ấm gia

đình, về cách nghĩ, cách diễn đạt của nhân dân mà chúng ta cần nghiên cứu,

thấm nhuần để vận dụng vào công việc hàng ngày.

7. Công trình cũng đã nêu lên những khiếm khuyết cần khắc phục trong quan

hệ của gia đình ngƣời Việt đƣợc phản ánh qua tục ngữ, ca dao. Những khiếm

khuyết chính là cách đối xử nghiệt ngã, bất công của không ít gia đình nhà

chồng với nàng dâu, là sự đối xử không tốt của một số con cái đối với cha mẹ,

là sự chi phối của vật chất vào các quan hệ gia đình mà tục ngữ, ca dao đã phản

ánh và phê phán. Đó còn là sự chi phối tiêu cực của lễ giáo phong kiến, của

Nho giáo, là tƣ tƣởng cục bộ trong một số phƣơng cách ứng xử. Những khiếm

khuyết ấy còn tồn tại đến ngày nay, và chúng ta cần nhận thức đúng để khắc

phục.

Page 137: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

136

8. Kết quả nghiên cứu của công trình cho thấy công nghệ thông tin có khả

năng giúp cho việc khảo sát tƣ liệu đƣợc chính xác, nhanh chóng, từ đó dẫn tới

những kết luận mang tính khách quan, khoa học. Cần mở rộng phạm vi ứng

dụng của công nghệ thông tin, trong đó có việc xây dựng những phần mềm

chuyên dụng vào việc nghiên cứu văn học dân gian nói riêng, khoa học xã hội

và nhân văn nói chung. Bộ công cụ sử dụng để khảo cứu công trình (Phần

mềm về tục ngữ, Phần mềm về ca dao) có thể đƣợc phổ biến rộng rãi để khai

thác tiếp những nội dung khác của tục ngữ, ca dao, đồng thời có thể coi là mô

hình cho việc xây dựng các phần mềm chuyên dụng khác dùng để khảo cứu văn

học dân gian nói riêng cũng nhƣ khoa học xã hội và nhân văn nói chung.

Công trình đã bƣớc đầu thực hiện đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu tục ngữ, ca dao

của ngƣời Việt ở chủ đề phản ánh quan hệ gia đình. Để góp phần tiến tới nhận

thức, hiểu biết toàn diện hơn về con ngƣời Việt Nam, dân tộc Việt Nam, bản

sắc văn hoá Việt Nam, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu tục ngữ, ca dao

theo các chủ đề khác nữa, và cần có những công trình nghiên cứu tục ngữ, ca

dao của các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam ./.

Page 138: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

137

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thuý Anh (2000), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu

thổ Bắc Bộ qua một số ca dao – tục ngữ. NXB Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

2. Toan Ánh (1999), Làng xóm Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Tp

Hồ Chí Minh.

3. Toan Ánh (2000), Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình,

NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

4. Ăng-ghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của

Nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Bảo (1998), Thành ngữ - cách ngôn gốc Hán, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở

Hà Nội và châu thổ Bắc bộ, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

7. Nguyễn Bình (1999), Tục ngữ - ca dao cười (Hài hước trẻ 2), NXB

Thanh niên, Hà Nội.

8. Nguyễn Viết Bình (1997), Gia đình, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2,

tr.69-70.

9. Phan Kế Bính (1990) (tái bản), Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp Đồng

Tháp, Đồng Tháp.

10. Nguyễn Văn Bổn (1983), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng,

Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng.

11. Nguyễn Văn Bổn (2001), Văn học dân gian Quảng Nam, Sở Văn hoá -

Thông tin Quảng Nam, Quảng Nam,.

12. Trần Đức Các (1995), Tục ngữ với một số thể loại văn học, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

13. Bùi Hạnh Cẩn - Bích Hằng - Việt Anh (2000), Thành ngữ - tục ngữ

Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

14. Nguyễn Đổng Chi - Ninh Viết Giao - Võ Văn Trực (chủ biên) (1996),

Kho tàng ca dao xứ Nghệ, NXB Nghệ An, Nghệ An.

15. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,

Nxb Văn hóa Thông tin, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.

16. Đoàn Văn Chúc (1997) (tái bản), Văn hóa học, NXB Văn hóa - Thông

tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

Page 139: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

138

17. Việt Chƣơng (1998) (tái bản), Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao

Việt Nam (Quyển thƣợng), NXB Đồng Nai, Đồng Nai,.

18. Việt Chƣơng (1998) (tái bản), Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt

Nam (Quyển hạ), NXB Đồng Nai, Đồng Nai.

19. Bùi Văn Cƣờng (1987), Phương ngôn, tục ngữ - ca dao, Hội Văn học

nghệ thuật Hà Nam Ninh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Nguyễn Nghĩa Dân (1977), Ca dao Việt Nam (1945 - 1975), NXB Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

21. Nguyễn Nghĩa Dân (2000), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt

Nam, NXB Thanh niên.

22. Chu Xuân Diên - Lƣơng Văn Đang - Phƣơng Tri (1975), Tục ngữ Việt

Nam, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội.

23. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội,

NXB Khoa học xã hội, NXB Mũi Cà Mau.

24. Phan Đại Doãn (1998), Về dòng họ ở nông thôn hiện nay, Tạp chí Văn

hoá nghệ thuật, số 10, tr.9-10.

25. Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ

và tục ngữ Việt nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.

26. Phạm Đức Duật (chủ biên) (1981), Văn học dân gian Thái Bình, Ty Văn

hóa Thông tin Thái Bình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Phạm Vũ Dũng (1998), Gia đình và sự nhập thân văn hóa của trẻ em,

Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 1, tr45-49.

28. Phạm Vũ Dũng (1999), Văn hóa ứng xử của người phụ nữ qua "Kho

tàng ca dao người Việt" (Luận văn Thạc sĩ), Viện nghiên cứu văn hóa

dân gian, Hà Nội.

29. Vũ Cao Đàm (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB

Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

30. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội.

31. Phan Thị Đào (1999), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, NXB

Thuận Hóa, Huế.

32. Bùi Huy Đáp (1999), Ca dao tục ngữ về khoa học nông nghiệp, NXB

Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, Đà Nẵng.

33. Nhàn Vân Đình (1999), Câu cửa miệng, NXB Văn học và Trung tâm

Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

Page 140: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

139

34. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001) Xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

35. Cao Huy Đỉnh (1998), Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh,

NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

36. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 10),

NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

37. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 11),

NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

38. Lê Gia (1995), Tâm hồn mẹ Việt Nam - Tục ngữ, ca dao (Quyển 12),

NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

39. Lê Giang - Lƣ Nhất Vũ - Nguyễn Văn Hòa - Minh Luân (1986), Dân ca

Hậu Giang, Sở Văn hóa - Thông tin Hậu Giang, Cần Thơ.

40. Phi Hà và Thanh Bình (1960), Để xây dựng một chế độ hôn nhân và gia

đình kiểu mới, NXB Thanh Niên, Hà Nội.

41. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản

sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

42. Mai Văn Hai - Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ

sông Hồng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1999) (tái bản), Kể chuyện thành ngữ -

tục ngữ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Hằng (1999), Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện

đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Võ Nhƣ Hầu (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam = Vietnamese

prverbs folk poems and folk songs (Song ngữ Việt - Anh), NXB Đồng

Nai, Đồng Nai.

46. Vƣơng Trung Hiếu (1996), Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, NXB Văn

nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.

47. Lê Nhƣ Hoa (chủ biên) (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam

trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

48. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,.

49. Nguyễn Huy Hoàng (2000), Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử

của C.Mác, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

50. Lê Văn Hòe (1952), Tục ngữ lược giải, NXB Quốc học thƣ xã, Hà Nội.

Page 141: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

140

51. Đào Văn Hội (1971), Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao, Sống

mới, Sài Gòn.

52. Đỗ Huy, Trƣờng Lƣu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong Văn hóa

Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

53. Đỗ Huy (1997), Xây dựng văn hóa gia đình trong văn hóa cơ sở, Tạp

chí Văn hoá nghệ thuật, số 7, tr.34-37,40.

54. Đỗ Huy (1998), Văn hóa gia đình trong nền văn hóa truyền thống ở

nước ta, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 3, tr.64-67.

55. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Phùng Hƣng (1996), Phụ nữ và văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

57. Trần Đình Hƣợu (1996, in lần 2), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB

Văn hoá.

58. Trần Đình Hƣợu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, NXB

Đại học quốc gia, Hà Nội.

59. Châu Nhiên Khanh (2000), Ca dao Việt Nam: Tác phẩm. Những bài

nhận định, phê bình tiêu biểu, NXB Đồng Nai, Đồng Nai.

60. Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên (1973), Văn học dân gian Việt Nam,

NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

61. ĐINH Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh

văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

62. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (1998), Từ điển thành ngữ - tục ngữ

Hoa - Việt, NXB Khoa học xã hội.

63. Nguyễn Bách Khoa (2000) (tái bản), Kinh thi Việt Nam, NXB Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Kiêu (1982), Bàn về xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa,

NXB Sự thật, Hà Nội.

65. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

66. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca

dao người Việt (tập 1), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

67. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao

người Việt (tập 2), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

68. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao

người Việt (tập 3), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Page 142: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

141

69. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao

người Việt (tập 4), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

70. Mã Giang Lân (1998), Tục ngữ - ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

71. Võ Thị Hồng Loan (1998), Nhân cách văn hóa và ảnh hưởng của gia

đình, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6, tr.76-77.

72. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập

1), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

73. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập

2), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

74. Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản có liên quan (1996), (Tài

liệu), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

75. Một số giá trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở nông

thôn hiện nay (1998), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

76. Hồ Chí Minh (1962), Hồ Chủ Tịch bàn về giáo dục, NXB Giáo dục, Hà

nội.

77. Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

78. Lê Minh (chủ biên) (1994), Những tình huống ứng xử trong gia đình,

NXB Lao Động.

79. Bùi Xuân Mỹ - Phan Minh Thảo (1995), Tục cưới hỏi, NXB Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

80. Sơn Nam (1997), Truyền thống gia đình Nam Bộ, Tạp chí Văn hoá nghệ

thuật, số 5, tr.73-74.

81. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

82. Ôn nhƣ Nguyễn Văn Ngọc (tái bản) (1957), Tục ngữ - phong dao, NXB

Minh Đức.

83. Phạm Thế Ngũ (tái bản) (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên

(tập 1), NXB Đồng Tháp.

84. Triều Nguyên (1999), Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi

theo mô hình cấu trúc, NXB Thuận Hóa, Huế.

85. Triều Nguyên (2000), Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt,

NXB Thuận Hóa, Huế.

86. Triều Nguyên (2001), Bình giải ca dao, NXB Thuận Hóa, Huế.

87. Hồ Quốc Nhạc (chủ biên) (2000), Ca dao Việt Nam (tập 1), NXB Đồng

Nai, Đồng Nai.

Page 143: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

142

88. Hồ Quốc Nhạc (chủ biên) (2000), Ca dao Việt Nam (tập 2), NXB Đồng

Nai, Đồng Nai.

89. Nguyễn Tá Nhí (2000), Làng mỹ tục Hà Tây, Sở Văn hóa - Thông tin

Hà Tây, Hà Tây.

90. Nhiều tác giả (1976), Xây dựng gia đình, xây dựng cuộc sống văn minh,

hạnh phúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

91. Nhiều tác giả (1991), Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu

hội nghị. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu khoa

học về phụ nữ, Hà Nội.

92. Nhiều tác giả (1991), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Nhiều tác giả (1992), Một trăm câu ca dân gian Quảng Ngãi, Sở Văn

hóa - Thông tin và Thể thao Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

94. Nhiều tác giả (1992), Văn học dân gian Quảng Trị, Sở Văn hóa Thông

tin Thể thao, Thƣ Viện Quảng Trị, Quảng Trị.

95. Nhiều tác giả (1993), Tục ngữ - ca dao - dân ca Hà Tây, Sở Văn hóa

Thông Tin Thể thao Hà Tây, Hà Tây, 1993.

96. Nhiều tác giả (1995), Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các nguồn

lực trong sự đổi mới của đất nước, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

97. Nhiều tác giả (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội,

cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

98. Nhiều tác giả (1996), Ca dao dân ca trên vùng đất Phú Yên, Sở Khoa

học - Công nghệ - Môi trƣờng, Hội Văn nghệ dân gian và văn hóa các

dân tộc tỉnh Phú Yên, Tuy Hòa.

99. Nhiều tác giả (tái bản) (1997), Phê bình, bình luận văn học (Ca dao -

dân ca - Tục ngữ - vè), NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành

phố Hồ Chí Minh.

100. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 1), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

101. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 2), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

102. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 3), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

103. Nhiều tác giả (1998), Đại việt sử ký toàn thư (tập 4), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

104. Nhiều tác giả (1999), Tết năm mới ở Việt Nam, Viện Văn hóa - NXB

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Page 144: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

143

105. Nhiều tác giả (1999), Văn hóa dòng họ ở Thái Bình, Sở văn hóa -

Thông tin Thái Bình và Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, Thái Bình.

106. Nhiều tác giả (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (Tập IV,

Quyển 1), NXB Giáo dục, Hà Nội.

107. Nhiều tác giả (2000), Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ,

+NXB Tp Hồ Chí Minh.

108. Nhiều tác giả (2001), Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB Văn

học.

109. Nhiều tác giả (2001), Ca dao Việt Nam - những lời bình, NXB Văn hóa

- Thông tin, Hà Nội.

110. Nhiều tác giả (không rõ năm ), Quốc hội Việt Nam với Luật Hôn nhân

gia đình, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

111. Nhóm nghiên cứu nông thôn (1974), Nông thôn Việt Nam (tài liệu in rô

nê ô), Sài gòn.

112. Lƣơng Ninh (chủ biên) (2000), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

113. Những văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình (1994) (tài liệu),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

114. Vũ Ngọc Phan (in lần thứ 12) (1999), Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội.

115. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Viện Khoa học xã hội

Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

116. Chúc Phong (ngày 15 tháng 9 năm 1999), Có thể gọi đây là những gia

đình được không?, Văn hóa thứ tƣ, Hà Nội.

117. Đông Phong (1998), Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Mũi

Cà Mau, Cà Mau.

118. Thuần Phong (1057), Tính giao kết trong câu hò miền Nam, Tạp chí

Bách khoa số 9, Sài Gòn.

119. Thuần Phong (1957), Đạo nghĩa vợ chồng trong câu hò miền Nam, Tạp

chí Bách khoa số 13, Sài Gòn.

120. Lê Chân Phƣơng (1960), Luật Hôn nhân gia đình triệt để giải phóng

phụ nữ, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

121. Đạm Phƣơng nữ sử (2000), Tuyển tập Đạm Phương nữ sử, NXB Văn

học, Hà Nội.

122. Hằng Phƣơng (1960), Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca

dao Việt Nam, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

Page 145: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

144

123. Đỗ Lan Phƣơng (1997), Về quan hệ gia đình và xã hội ở nông thôn Bắc

Bộ hiện nay (qua khảo sát làng Mẫn Xá - Văn Môn - Yên Phong - Bắc

Ninh), Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 9, tr.73-76, số 10, tr.78-80.

124. Đỗ Lan Phƣơng (1996), Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong văn hóa

nghệ thuật truyền thống, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12, tr.64-65,

72.

125. Tam Phƣơng (1958), Giải thích vài tục ngữ về trồng lúa, NXB Nông

Thôn, Hà Nội.

126. Lê Chí Quế (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

127. Lê Quốc, Ý đẹp lời hay (1999), NXB Văn hóa - Thông tin,.

128. Vũ Tiến Quỳnh (2000), Ca dao tình yêu, NXB Văn nghệ thành phố Hồ

Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

129. Anh Sơn (1998), Trao đổi về công, dung, ngôn, hạnh ở Huế hiện nay,

Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 9, tr.78-81.

130. Phạm Côn Sơn (1998), Nền nếp gia phong, NXB Tổng hợp Đồng Tháp,

Đồng Tháp.

131. Từ Sơn (1998), Giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục, một phương

diện của chiến lược văn hóa giáo dục lòng yêu nước, Tạp chí Văn hoá

nghệ thuật, số 2, tr.4-7, số 3, tr.6-8.

132. Nguyễn Quốc Tăng (2000), Tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB Thuận Hóa,

Huế.

133. Đỗ Văn Tân (chủ biên) (1984), Ca dao đồng Tháp Mười, Sở Văn hóa -

Thông tin Đồng Tháp, Đồng Tháp.

134. Tạ Văn Thành (1998), Xây dựng gia đình văn hóa trong bối cảnh của

lối sống đô thị, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 7, tr.73-74.

135. Nguyễn Phƣơng Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác

thảo, NXB Giáo dục, Hà Nội.

136. Lê Ngọc Thắng (chủ biên) (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

137. Lê Thi (Chủ biên) (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội.

138. Trƣơng Thìn (chủ biên) (1996), Văn hóa phi vật thể xứ Huế, NXB Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

139. Lƣu Nhân Thiện (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 146: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

145

140. Ngô Đức Thịnh (1997), Văn hóa dòng họ ở Nghệ An trong sự nghiệp

thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI (Tổng thuật

hội thảo), Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 4, tr.61-64.

141. Lê Viết Thọ (1997), Gia đình Việt Nam truyền thống và việc xây dựng

gia đình văn hóa hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7, tr.43-46.

142. Nguyễn Hữu Thức (1996), Văn học dân gian Hà Tây và việc chấn hưng

văn hóa địa phương (Luận văn Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn), Trƣờng

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

143. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước lệ làng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

144. Trọng Toàn (1999), Hương hoa đất nước (tập 1), NXB Trẻ, thành phố

Hồ Chí Minh.

145. Trọng Toàn (1999), Hương hoa đất nước (tập 2), NXB Trẻ, thành phố

Hồ Chí Minh.

146. Tổ Biên tập văn học dân gian Tiền Giang, Văn học dân gian Tiền Giang

(1985) Sở Văn hóa - Thông tin Tiền Giang, Mỹ Tho.

147. Hà Huy Tú (1997), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với việc hình thành

văn hóa gia đình, Tham luận Hội thảo khoa học Văn hóa gia đình với

chiến lƣợc dân số và phát triển, Bộ Văn hoá Thông tn, Hà Nội.

148. Hoàng Tiến Tựu, Bình giảng ca dao (2000) (tái bản lần thứ 5), NXB

Giáo dục, Hà Nội

149. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), Tài liệu, Bộ Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

150. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa

VIII (1998) Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

151. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp

nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

152. Huỳnh Khái Vinh (2000), Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

153. Lƣ Nhất Vũ - Lê Giang (2000), Dân ca Bến tre, Sở Văn hóa - Thông tin

Bến Tre, Bến Tre.

154. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình học tác giả văn học Nhà nho tài tử

và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

155. Trần Quốc Vƣợng (1996), Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam,

Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 12, tr.43-44.

156. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

Page 147: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

146

157. Nguyễn Khắc Xuyên (1998), Những tác phẩm ca dao - tục ngữ được

xuất bản trước đây một thế kỷ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

158. Nguyễn Khắc Xƣơng (1994), Tục ngữ - ca dao - dân ca Vĩnh Phú, Sở

Văn hóa - Thông tin - Thể thao Vĩnh Phú, Phú Thọ.

159. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG PHÁP

1. Balmir, Guy-Claude (1982), Essai de littérature sur le chant et la poésie

populaire de Noirs Americains, Payot, Paris.

2. Mori, Toshiko (1987), Folklore et théatre au Japon, Publ. Orientaliste de

Paris, Paris.

3. Ri Il Bok (1989), Kim Djeung IL une grande personnalité, Youn Sang

Hyeun-Pyongyang, Corée.

Page 148: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

147

MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC

1. Tục ngữ Trang 151

1.1. Mối quan hệ vợ chồng

1.2. Tình cảm vợ chồng - gắn bó

1.3. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng

1.4. Quan hệ cha mẹ con

1.5. quan hệ anh chị em

1.6. quan hệ con dâu, con rể

2. Ca dao

2.1. quan hệ vợ chồng - gắn bó

2.2. đạo nghĩa vợ chông

2.3. ông tơ bà nguyệt

2.4. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng

2.5. Quan hệ cha mẹ con - về đạo hiếu

2.6. Quan hệ cha mẹ con - trách nhiệm

2.7. quan hệ cha mẹ con - Những biểu hiện tiêu cực

2.8. Quan hệ nàng dâu và gia đình chồng

2.9. Hôn nhân - cam chịu

2.10. Hôn nhân - trách móc

2.11. Hôn nhân - quyền cha mẹ

2.12. Hôn nhân - chống lại lễ giáo phong kiến

2.13. Hôn nhân - lƣỡng lự

2.14. Hôn nhân - tự giác

2.15. Con cá trong ca dao về tình yêu, hôn nhân và gia đình

Page 149: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

148

1. TỤC NGỮ

1.1. MỐI QUAN HỆ VỢ CHỒNG

STT NỘI DUNG

1. Ai mà nói dối cùng chồng, thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao.

2. Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại.

3. Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì nhục.

4. Bà phải có ông, chồng phải có vợ.

5. Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.

6. Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.

7. Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ đừng từ mẹ cha.

8. Bởi chồng cờ bạc, nên lòng chẳng thƣơng.

9. Cá dƣới sông, vợ chồng thuyền chài đánh nhau.

10. Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.

11. Chẳng tham nhà ngói ba toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.

12. Chẳng tham nhà ngói rung rinh, tham về một mối anh xinh miệng

cƣời.

13. Chẳng tham vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế gian.

14. Chê chồng chẳng bõ chồng chê.

15. Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.

16. Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.

17. Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng ngƣời.

18. Chết trẻ còn hơn lấy lẽ.

19. Chiếu hoa, nệm gấm không chồng cũng hƣ.

20. Chiều ngƣời lấy của, chiều chồng lấy con.

- Chiều ngƣời lấy việc, chiều chồng lấy con.

21. Chồng ăn chả, vợ ăn nem.

22. Chồng ăn giò vợ co chân chạy, chồng ăn mày mạy vợ lạy vợ về.

23. Chồng bé vợ lớn ra tình chị em.

24. Chồng cần vợ kiệm là tiên; ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.

25. Chồng chèo thì vợ cũng chèo.

26. Chồng chết chƣa héo cỏ đã bỏ đi lấy chồng.

27. Chồng còng lấy vợ cũng còng, nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.

28. Chồng dại, luống tổn công phu nhọc mình.

29. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài.

30. Chồng đôi vợ ba.

31. Chồng đông, vợ đoài.

32. Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.

- Chồng dữ thì em mới lo.

Page 150: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

149

- Chồng dữ thì em mới sầu.

33. Chồng đƣờng, vợ sá.

34. Chồng em áo rách em thƣơng, chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc

ngƣời.

35. Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào.

36. Chồng già vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.

- Chồng già, vợ trẻ là tiên.

37. Chồng già vợ trẻ nâng niu, chồng trẻ vợ già nhiều điều đắng cay.

38. Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.

- Chồng giận thì vợ bớt lời.

39. Chồng giận thì vợ làm lành.

40. Chồng giận thì vợ phải lui, chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng.

41. Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.

42. Chồng hen lại lấy vợ hen, đêm nằm cò cử nhƣ kèn thổi đôi.

43. Chồng hoà, vợ thuận.

44. Chồng học trò, vợ con hát.

45. Chồng khó giữa làng còn hơn chồng sang thiên hạ.

46. Chồng khôn vợ ngoan, chồng quan vợ bợm.

- Chồng khôn vợ ngoan.

47. Chồng khôn thì nổi cơ đồ, chồng dại luống cổ công phu nặng mình.

- Chồng khôn thì nổi cơ đồ.

48. Chồng lành dễ khiến, chồng khôn khó chiều.

49. Chồng loan, vợ phƣợng.

50. Chồng lớn vợ bé thì xinh, chồng bé vợ lớn ra tình chị em.

51. Chồng ma, vợ quỉ.

52. Chồng nào vợ nấy.

53. Chồng ngƣời chẳng mƣợn đƣợc lâu.

54. Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ hom.

- Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom.

55. Chồng què lấy vợ kiễng chân, nuôi đƣợc đứa ở đứt chân cũng què.

56. Chồng sang đi võng đầu rồng, chồng hèn gánh nặng đè còng cả lƣng.

57. Chồng sang vì bởi vợ ngoan.

58. Chồng sang vợ đƣợc đi giầy, vợ ngoan chồng đƣợc tối ngày cậy

trông.

59. Chồng ta áo rách, ta thƣơng.

60. Chồng tới vợ lui, chồng hoà vợ thuận.

61. Chồng tốt ai chẳng muốn lấy, biết giá chồng đáng mấy mà mua.

62. Chồng thấp mà lấy vợ cao, nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.

63. Chồng thấp vợ cao nhƣ đôi đũa lệch biết bao giờ bằng.

64. Chồng yêu cái tóc nên dài, cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.

Page 151: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

150

65. Chƣa chồng đi dọc đi ngang, có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.

66. Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.

- Có chồng chẳng đƣợc đi đâu.

67. Có chồng nhƣ ngựa có cƣơng.

68. Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

69. Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.

70. Có chồng thƣơng kẻ nằm không một mình.

71. Có con phải khổ vì con, có chồng phải gánh giang sn nhà chồng.

- Có con phi khổ vì con.

72. Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng.

73. Có ông chồng siêng nhƣ có ông tiên nho nhỏ.

74. Có phúc lấy đƣợc vợ già, sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh.

75. Có tiền vợ vợ chồng chồng, hết tiền chồng đông vợ đoài.

76. Có vợ có chồng nhƣ đũa có đôi.

77. Coi vợ già nhƣ chó nằm nhà gác.

78. Cơm chẳng lành canh chẳng ngon, chín đụn mƣời con cũng lìa.

79. Cơm sôi bớt lửa, chồng giận bớt lời.

80. Cơm trắng ăn với chả chim, chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no.

81. Còn duyên đóng cửa kén chồng.

82. Còn duyên kén những trai tơ.

83. Con giai ở nhà vợ, nhƣ chó nằm gầm chạn.

84. Con hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.

85. Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

86. Của chồng công vợ.

87. Của ngƣời thì đứng mà trông, của chồng thì cất lấy mà ăn.

88. Của rẻ của ôi, tôi rẻ tôi trốn, vợ rẻ vợ lộn.

89. Củi mục cành đun, chồng lành dễ khiến, chồng khôn khó chiều.

90. Củi mục khó đun, chồng lành dễ khiến, chồng khôn dễ chiều.

91. Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài.

92. Đàn bà mà lấy đàn ông thiệt gì.

93. Đàn ông vƣợt bể có chúng có bạn, đàn bà vƣợt cạn chỉ có một mình.

94. Đói bụng chồng, hồng má vợ.

95. Đau đẻ, ngứa ghẻ, đòn ghen.

96. Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chăn loan gối phƣợng không chồng cũng

hƣ.

97. Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.

98. Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.

99. Đói bụng chồng, đau lòng vợ.

100. Đói no có vợ có chồng, chia niêu sẻ đấu đau lòng nát gan.

101. Đói no một vợ, một chồng.

Page 152: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

151

102. Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng, đổi vợ xƣa nay chẳng lành.

103. Đừng thấy chồng hiền, xỏ chân lỗ mũi.

104. Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.

105. Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan.

106. Gái chính chuyên chẳng lấy hai chồng.

107. Gái có chồng nhƣ chông nhƣ mác, gái không chồng nhƣ rác nhƣ rơm.

108. Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ, gái không chồng nhƣ phản gỗ long

đanh.

109. Gái có chồng nhƣ rồng có vây, gái không chồng nhƣ cối xay chết

ngõng.

110. Gái có công, chồng chẳng phụ.

111. Gái giết chồng, đàn ông ai nỡ giết vợ.

- Gái giết chồng, chứ đàn ông không ai giết vợ.

112. Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.

113. Gái không chồng nhƣ thuyền không lái.

114. Gái kia chồng rẫy khoe tài chi em.

115. Gái mạnh về chồng.

116. Gái năm con ở chƣa hết lòng chồng.

117. Gái ngoan làm quan cho chồng.

118. Gái rẫy chồng mƣời lăm quan quí, trai rẫy vợ tiền phí xuống sông.

119. Gái trồng rẫy không phải chứng nọ, thì tật kia.

120. Gái thƣơng chồng đang đông buổi chợ, trai thƣơng vợ nắng quái

chiều hôm.

121. Ghe bầu chở lái về đông, làm thân con gái thờ chồng nuôi con.

122. Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.

123. Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó nƣớc ngƣời phải kiếp cũng

theo.

124. Giàu về bạn, sang về vợ.

125. Hẩm duyên lấy phải chồng đần, có trăm mẫu ruộng bán dần mà ăn.

126. Hay ăn miếng ngon chồng con trả ngƣời.

127. Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.

128. Khó giữa làng, còn hơn chồng sang thiên hạ.

129. Khôn đi làm lẽ, khoẻ đi ở mùa.

130. Khôn với vợ, dại với anh em.

131. Không vợ đứng ở lề đƣờng.

132. Lắm con, lắm nợ, lắm vợ nhiều cái oan gia.

133. Lắm duyên nhiều nợ, lắm vợ nhiều oan gia.

134. Làm quan đã có cơm vua, lấy chồng đã có cơm mua của chồng.

135. Làm quan hay quân, làm chồng hay vợ.

136. Làm ruộng có trâu, làm dâu có chồng.

Page 153: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

152

137. Làm ruộng phải có trâu, làm giàu phải có vợ.

138. Làm trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu nghé hoa.

139. Làm tƣớng hay quân, làm chồng hay vợ.

140. Làm tuỳ chủ, ngủ tuỳ chồng.

141. Làm thân con gái thờ chồng, nuôi con.

142. Lấy chồng ăn mày chồng.

143. Lấy chồng bắt thói nhà chồng, đừng giữ thói cũ ở cùng mẹ cha.

144. Lấy chồng chè rƣợu là duyên nợ nần.

145. Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.

146. Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dƣa.

147. Lấy chồng cho đáng hình dong con ngƣời.

148. Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng

đen.

149. Lấy chồng cho đáng tấm chồng.

150. Lấy chồng cho đáng việc vua, việc làng.

151. Lấy chồng cờ bạc là tiên.

152. Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh.

153. Lấy chồng đánh bạc nhƣ voi phá nhà.

154. Lấy chồng hay chữ nhƣ soi gƣơng vàng.

155. Lấy chồng hơn ở goá.

156. Lấy chồng khó giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ.

157. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.

158. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may.

159. Lấy chồng nhờ hồng phúc nhà chồng.

160. Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.

161. Lấy chồng thì chọn trƣởng nam cho giàu.

162. Lấy chồng thì phải theo chồng, thôi đừng theo thói cha ông nhà mình.

163. Lấy chồng thì phải theo chồng.

164. Lấy con xem nạ, lấy gái hoá xem đời chồng xƣa.

165. Lấy kẻ chê chồng, chớ lấy kẻ chồng chê.

166. Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống.

167. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống.

168. Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.

169. Lệnh ông không bằng cồng bà.

170. Lúa trỗ thập thòi, vợ chồng đánh nhau lòi mắt.

171. Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì

nơi.

172. Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải theo.

173. Mảnh chồng quan bằng đàn chồng dân.

174. Một chồng rẫy là bảy chồng chờ.

Page 154: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

153

175. Một là vợ, hai là nợ.

176. Một vợ không khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi.

177. Một vợ nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng

heo.

178. Mua cam thì chọn giống cam, lấy chồng thì chọn trƣởng nam cho

giàu.

179. Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng.

180. Mua thịt thì chọn miếng mông, lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.

181. Muôn nghìn chớ lấy học trò, dài lƣng tốn vải ăn no lại nằm.

182. Muốn nói không, làm chồng mà nói.

183. Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời.

184. Ngƣời ba bốn vợ, ngƣời không vợ nào.

185. Nhà khó cậy vợ hiền, nƣớc loạn nhờ tƣớng giỏi.

186. Nhất vợ nhì trời.

187. Nhƣờng cơm nhƣờng áo, không ai nhƣờng chồng.

188. Nhứt củ khoai đầu vồng, nhì có chồng trƣởng nam.

189. Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai.

190. Ở goá ba đông, lấy chồng hay ngủ.

191. Phận gái theo chồng.

192. Phu quí, vợ vinh.

193. Phụ vợ, không gặp vợ.

194. Phu xƣớng, phụ tòng.

195. Phúc nhà vợ chẳng bằng nợ nhà chồng.

196. Quen nhà mạ, lạ nhà chồng.

197. Quen việc nhà mạ, lạ việc nhà chồng.

198. Ruộng đầu chợ, vợ đầu làng.

199. Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng.

200. San sát nhƣ hai gái lấy một chồng.

201. Sống quê cha, ma quê chồng.

202. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

203. Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.

204. Tạm vợ, vợ già; tạm nhà, nhà nát.

205. Tay không chẳng thèm nhờ vợ.

206. Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.

207. Thà rằng làm lẽ thứ mƣời, còn hơn chính thất những ngƣời đần ngu.

208. Thế gian một vợ một chồng, chẳng nhƣ vua bếp hai ông một bà.

209. Thế gian vợ giống tính chồng, đời nào đầy tớ giống ông chủ nhà.

210. Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

211. Thứ nhất đau đẻ, thứ hai ngứa ghẻ, đòn ghen.

212. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.

Page 155: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

154

213. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đòi.

214. Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.

215. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn

216. Thƣơng chồng nên phải lầm than.

217. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.

218. Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.

219. Thƣơng chồng nên phải gắng công.

220. Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ.

221. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia.

222. Thuyền không lái nhƣ gái không chồng.

223. Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng.

224. Thuyền theo lái, gái theo chồng.

225. Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa

226. Tốt duyên lấy đƣợc chồng chung.

227. Tốt duyên lấy đƣợc chồng hiền.

228. Tốt mối lấy đƣợc chồng sang.

229. Trai chê vợ mất của tay không, gái chê chồng một đồng trả bốn.

230. Trai bao nhiêu vợ cũng chƣa bằng lòng.

231. Trai có vợ nhƣ giỏ có hom.

232. Trai có vợ nhƣ lỗ tiền chôn.

233. Trai có vợ nhƣ rợ buộc chân.

234. Trai có vợ tề gia nội trợ.

235. Trai con một thì lấy, gái con một thì đừng.

236. Trai hơn vua đƣợc lúc đua thuyền, gái hơn chồng đƣợc lúc bồng con.

237. Trai làm nên năm thê, bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng.

238. Trai ơn Vua lúc đua thuyền rồng, gái ơn chồng lúc bồng con thơ.

239. Trai ơn Vua ngồi võng đòn rồng, gái ơn chồng ngồi võng ru con.

240. Trai nhớ vợ cũ, gái nhớ chồng xƣa.

241. Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn, gái nuôi chồng ốm béo tròn cối xay.

242. Trai phải hơi vợ nhƣ cò bợ gặp trời mƣa.

243. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, gái ruộng đợ phải ăn mày chồng.

244. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, trăm mẫu ruộng đợ cũng tiếng

nhờ chồng.

245. Trâu đẻ tháng sáu, vợ đẻ tháng mƣời.

246. Triều đình có văn có vũ, nhƣ trong nhà có mụ, có ông.

247. Túi ông xã, quả nhà hàng.

248. Vợ ba con ở chƣa hết lòng chồng.

249. Vợ bắt thói chồng, đứa ở giống tông chúa nhà.

250. Vợ cái con cột, vợ lẽ con thêm.

251. Vợ chồng biết tính nhau.

Page 156: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

155

252. Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời; bán buôn là nghĩa ở đời với nhau.

253. Vợ chồng chớ cãi nhau hoài, sao cho trong ấm thì ngòai mới êm.

254. Vợ chồng cùng một tuổi, nằm duỗi ra mà ăn.

255. Vợ chồng đầu gối tay ấp.

256. Vợ chồng đồng tịch đồng sàng, đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng

lần.

257. Vợ chồng khi nồng khi nhạt.

258. Vợ chồng là nghĩa già đời.

259. Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.

260. Vợ chồng may rủi là duyên, vợ chồng hoà thuận là duyên trên đời.

261. Vợ chồng nhƣ đũa có đôi.

262. Vợ chồng phận đẹp duyên ƣa.

263. Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣng.

264. Vợ có chồng nhƣ rồng có mây, chồng có vợ nhƣ cây có rừng.

265. Vợ có khách nợ đến nhà, chồng có quan toà gửi trát.

266. Vợ dại đẻ con khôn.

267. Vợ dại không hại bằng đũa vênh.

268. Vợ đẹp càng tổ đau lƣng.

269. Vợ đẹp kém ngủ.

270. Vợ đẹp mặt, chồng đau lƣng.

271. Vô duyên lấy phải chồng đần.

272. Vợ già, chồng trẻ là duyên nợ nần.

273. Vợ giống tính chồng, ngƣời ở giống tông chủ nhà.

274. Vợ hiền hoà, nhà hƣớng Nam.

275. Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.

276. Vợ không cheo nhƣ cù nèo không móc.

277. Vợ quá chiều ngoen ngỏen nhƣ chó con liếm mặt, vợ phải rẫy tiu

nghỉu nhƣ mèo lành mất tai.

278. Vợ yên, nhƣng tiền chƣa có.

279. Vợ thì muốn lấy, chồng e mất tiền.

280. Voi không nài nhƣ trai không vợ.

281. Voi trên rừng không bành không tróc, gái không chồng nhƣ cóc cụt

đuôi.

282. Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa.

283. Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang.

284. Xấu chàng, hổ ai.

285. Xấu thiếp, hổ chàng.

1.2. TÌNH CẢM VỢ CHỒNG - GẮN BÓ

Page 157: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

156

STT NỘI DUNG

1. Bà phải có ông, chồng phải có vợ.

2. Chồng nhƣ đó, vợ nhƣ hom.

- Chồng nhƣ giỏ, vợ nhƣ hom.

3. Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

4. Đói bụng chồng, đau lòng vợ.

5. Đói bụng chồng, hồng má vợ.

6. Đói no có vợ có chồng, chia niêu sẻ đấu đau lòng nát gan.

7. Đói no một vợ, một chồng.

8. Đổi quần đổi áo thời hay, đổi chồng, đổi vợ xƣa nay chẳng lành.

9. Ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng ngƣời.

10. Nhƣờng cơm nhƣờng áo, không ai nhƣờng chồng.

11. Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

12. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn

13. Thƣơng chồng nên phải lầm than.

14. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng.

15. Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.

16. Thƣơng chồng nên phải gắng công.

17. Thƣơng chồng phải bồng con ghẻ.

18. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia.

19. Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa

20. Triều đình có văn có vũ, nhƣ trong nhà có mụ, có ông.

21. Vợ chồng biết tính nhau.

22. Vợ chồng chăn chiếu chẳng rời; bán buôn là nghĩa ở đời với nhau.

23. Vợ chồng đầu gối tay ấp.

24. Vợ chồng đồng tịch đồng sàng, đồng sinh đồng tử cƣu mang đồng

lần.

25. Vợ chồng là nghĩa già đời.

26. Vợ chồng là nghĩa trả đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.

27. Vợ chồng nhƣ đũa có đôi.

28. Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xƣơng.

29. Vợ có chồng nhƣ rồng có mây, chồng có vợ nhƣ cây có rừng.

30. Xấu chàng, hổ ai.

31. Xấu thiếp, hổ chàng.

1.3. NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC TRONG QUAN HỆ VỢ CHỒNG

STT NỘI DUNG

1. ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại.

2. Bởi chồng cờ bạc, nên lòng chẳng thƣơng.

Page 158: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

157

3. Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.

4. Chê chồng trƣớc đánh đau, gặp chồng sau mau đánh.

5. Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.

6. Chồng ăn chả, vợ ăn nem.

7. Chồng bé vợ lớn ra tình chị em.

8. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài.

9. Chồng đôi vợ ba.

10. Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào. - Chồng dữ thì em

mới lo. - Chồng dữ thì em mới sầu.

11. Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.

12. Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay.

13. Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng.

14. Có tiền vợ vợ chồng chồng, hết tiền chồng đông vợ đoài.

15. Con giai ở nhà vợ, nhƣ chó nằm gầm chạn.

16. Đàn ông vƣợt bể có chúng có bạn, đàn bà vƣợt cạn chỉ có một mình.

17. Đói bụng chồng, hồng má vợ.

18. Đau đẻ, ngứa ghẻ, đòn ghen.

19. Đƣợc cả đôi, Thiên Lôi đánh một.

20. Gái giết chồng, đàn ông ai nỡ giết vợ.

- Gái giết chồng, chứ đàn ông không ai giết vợ.

21. Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.

22. Làm trai lấy vợ bé, nhà giàu tậu nghé hoa.

23. Lấy chồng chè rƣợu là duyên nợ nần.

24. Lấy chồng chè rƣợu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần.

25. Lấy chồng cờ bạc là tiên.

26. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.

27. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo, lƣơng vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may.

28. Mảnh chồng quan bằng đàn chồng dân.

29. Một vợ không khố mà mang, hai vợ bỏ làng mà đi.

30. Một vợ nằm giƣờng lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ nằm chuồng

heo.

31. Ngƣời ba bốn vợ, ngƣời không vợ nào.

32. San sát nhƣ hai gái lấy một chồng.

33. Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.

34. Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang quân.

35. Thứ nhất đau đẻ, thứ hai ngứa ghẻ, đòn ghen.

36. Tốt duyên lấy đƣợc chồng chung.

37. Trai bao nhiêu vợ cũng chƣa bằng lòng.

38. Trai làm nên năm thê, bảy thiếp, gái làm nên thủ tiết thờ chồng.

39. Trai tay không chẳng thèm nhờ vợ, trăm mẫu ruộng đợ cũng tiếng

Page 159: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

158

nhờ chồng.

40. Vợ cái con cột, vợ lẽ con thêm.

41. Vợ chồng nhƣ áo cởi ngay nên lìa.

42. Vợ với chồng nhƣ hồng với cốm, nào ngờ nhƣ chó đốm mèo khoang.

1.4. QUAN HỆ CHA MẸ CON

STT NỘI DUNG

1 Ăn của chồng thì ngon, ăn của con thì nhục.

2 Ơn cha là ba ngàn bảy, nghĩa mẹ là bảy ngàn ba.

3 Đình đám ngƣời, mẹ con ta.

4 Đói lòng con, héo hon cha mẹ.

5 Đầu măng ngã gục vào tre, nƣơng nhờ vào mẹ kẻo e bão gào.

6 Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc.

7 Đời cha đắp nấm, đời con ấm mồ.

8 Đời cha trồng cây, đời con ăn qủa.

9 Đời cha vo tròn, đời con bóp bẹp.

10 Đẻ con khôn mát nhƣ nƣớc, đẻ con dại thì rát nhƣ hơ.

11 Đi dối cha, về nhà dối chú.

12 Đƣợc mối hàng, mẹ chẳng nhƣờng con.

13 Đẹp đôi ta mẹ cha không đẹp; đẹp gia nghiệp, lại lép duyên hài.

14 Đẹp duyên nhƣng chẳng đẹp lòng mẹ cha.

15 Đuổi con vào đám giỗ.

16 Bà khen con bà tốt, một chạp bà biết con bà.

17 Bà khoe con bà tốt, đến tháng mƣời một bà biết con bà.

18 Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con.

19 Bé thì con mẹ con cha, lớn thì con vua con chúa.

20 Cá không ăn muối cá ƣơn, con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

21 Cô cũng nhƣ cha, gì cũng nhƣ mẹ.

22 Công cha nghĩa mẹ.

23 Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con.

24 Cơm mẹ thì ngon, cơm con thì đắng.

25 Có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ nhƣ đờn không dây.

26 Có chồng chẳng đƣợc đi đâu, có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.

27 Có chồng chẳng đƣợc đi đâu.

28 Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở trên non một mình.

29 Có của để cho con, không có để nợ cho con.

30 Có con chẳng đƣợc đứng lâu một giờ.

31 Có con không dậy để vậy mà nuôi.

32 Có con nhờ con, có của nhờ của.

Page 160: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

159

33 Có con phải khổ vì con, có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

34 Có con phải khổ vì con.

35 Có con tội sống, hai con tội chết, ba con hết tội.

36 Có con tội sống, không có con tội chết.

37 Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.

38 Có phúc đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo.

39 Có vàng, vàng chẳng hay phô, có con, con nói trầm trồ mẹ nghe.

40 Canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.

41 Cha "vặt, riệt", con đánh tiệt chõ xôi.

42 Cha đào ngạch, con xách nồi.

43 Cha để nhà cho trƣởng, cha ngất ngƣởng đi ăn mày.

44 Cha anh hùng, con hảo hán.

45 Cha bƣng mâm, con ngồi cỗ nhất.

46 Cha bòn con phá.

47 Cha cầm khoáng, con bẻ măng.

48 Cha già đi nuôi con mƣợn

49 Cha hổ mang đẻ con liu điu.

50 Cha làm thầy, con bán sách.

51 Cha mẹ giàu con có, cha mẹ khó con không.

52 Cha mẹ hiền lành để phúc cho con

53 Cha mẹ ngoảnh đi con dại, cha mẹ ngoảnh lại con khôn.

54 Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng

ngày.

55 Cha mẹ trông đi thì con dại, cha mẹ trông lại thì con khôn.

56 Cha muốn cho con hay, thầy mong cho con khá.

57 Cha sinh chẳng bằng mẹ dƣỡng.

58 Cha sinh mẹ dƣỡng.

59 Cha thƣơng con út, con út đái lụt chân giƣờng.

60 Cha thắt khố dài, con cài thiết lĩnh.

61 Cha trở ra trở vào, con ngồi cao gọi với.

62 Cha truyền, con nối.

63 Chỗ ƣớt mẹ nằm, ráo xê con lại.

64 Chó cắn thì chìa con ra.

65 Chim trời ai nỡ đếm lông, nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày.

66 Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú.

67 Của mòn, con lớn.

68 Cú đói ăn con.

69 Con đâu cha mẹ đấy.

70 Con đóng khố, bố cởi truồng.

71 Con đẹn con sài, chớ hoài bỏ đi.

Page 161: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

160

72 Con ai cha mẹ ấy.

73 Con ai ngƣời ấy xót.

74 Con biết nói, mẹ hói đầu.

75 Con biết ngồi, mẹ rời tay.

76 Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ.

77 Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

78 Con có khóc, mẹ mới cho bú.

- Con không khóc mẹ chẳng cho bú.

79 Con có cha nhƣ nhà có nóc, con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.

80 Con có cha nhƣ nhà có nóc.

81 Con có cha, nhà có chủ.

82 Con có mạ nhƣ thiên hạ có vua.

83 Con có mẹ nhƣ măng ấp bẹ.

84 Con chẳng chê cha mẹ khó, chó chẳng chê nhà chủ nghèo.

85 Con cha, gà giống.

86 Con dại cái mang.

87 Con dòng thì bỏ xuống đất, con vật thì cất lên sàn.

88 Con ấp vú mẹ.

89 Con gái giống cha giàu ba đụn.

90 Con gái giống cha giàu ba mƣơi đụn, con trai giống mẹ khó lụn tận

xƣơng.

91 Con gái mƣời bảy chớ ngủ với cha, con trai mƣời ba đừng nằm với

mẹ.

92 Con giữ cha, gà giữ ổ.

93 Con giàu một bó, con khó một nén.

94 Con hƣ bởi tại cha dung, vợ hƣ bởi tại anh chồng cả nghe.

95 Con hƣ bởi tại cha dung.

96 Con hƣ tại mẹ, cháu hƣ tại bà.

97 Con hơn cha là nhà có phúc.

98 Con học, thóc vay.

99 Con khôn nở mặt mẹ cha.

100 Con không cha nhƣ nòng nọc đứt đuôi.

101 Con không cha thì con trễ, cây không rễ thì cây hƣ.

102 Con khó có lòng.

103 Con lên ba mới ra lòng mẹ.

104 Con lên ba, mẹ sa xƣơng sƣờn.

105 Con lở ghẻ, mẹ hắc lào.

106 Con liền với ruột.

107 Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.

108 Con ngƣời ỉa đầu đƣờng thì thối, con mình ỉa đầu gối thì thơm.

Page 162: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

161

109 Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

110 Con thì mạ, cá thì nƣớc.

111 Con voi, voi dấu; con châu chấu, châu chấu yêu.

112 Con vua tốt, vua dấu, con tôi xấu tôi yêu.

113 Con vua, vua dấu; con chúa, chúa yêu.

114 Còn cha ăn cơm với cá.

115 Còn cha gót đỏ nhƣ son, một mai cha thác gót con nhƣ chì.

116 Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ lúc bơ vơ mới về.

117 Dạy con tử thuở còn thơ.

118 Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đƣờng lắm kẻ còn đẹp còn giòn hơn ta.

119 Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.

120 Gái có con nhƣ bồ hòn có rễ.

121 Gái chậm chồng, mẹ cha khắc khoải.

122 Gái khôn thì chồng con nhờ, gái đần đơm đó thả lờ trôi sông.

123 Gái làm chi, trai làm chi, sinh ra có nghĩa, có nghì là hơn.

124 Ghe bầu chở lái về đông, làm thân con gái thờ chồng nuôi con.

125 Giàu bán chó, khó bán con.

126 Giàu lúc còn son, giàu lúc con lớn.

127 Giầu bán ló (lúa), khó bán con.

128 Hổ phụ sinh hổ tử.

129 Hổ phụ sinh khuyển tử.

130 Hai vợ chồng son, đẻ một con hoá bốn.

131 Hồn rằng hồn thác ban ngày, thƣơng cha, nhớ mẹ, hồn rày thác đêm.

132 Hay ăn miếng ngon chồng con trả ngƣời.

133 Hay đi chợ để nợ cho con.

134 Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ

nghịch nhi.

135 Không cha, không mẹ, nhƣ đờn không dây

136 Không con héo hon một đời.

137 Không con, chó ỉa mả.

138 Không mẹ lẹ chân tay.

139 Khó thì hết thảo, hết ngay, công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên.

140 Làm thân con gái thờ chồng, nuôi con.

141 Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ.

142 Liệu cơm gắp mắm, liệu con gả chồng.

143 Máu loãng còn hơn nƣớc lã, chín đời họ mẹ còn hơn ngƣời dƣng.

144 Mài mực dạy con, mài son đánh giặc.

145 Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ (đƣờng).

146 Mồ cha không khóc, khóc đống mối, mồ mẹ không khóc, khóc bối

bòng bong.

Page 163: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

162

147 Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy.

148 Một con so bằng ba con đẻ.

149 Một con so bằng ba con dạ.

150 Một con tội sống, hai con tội chết, ba con hết tội.

151 Một mẹ già bằng ba đứa ở.

152 Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì

nơi.

153 Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con, mƣời con không nuôi đƣợc một mẹ.

154 Một sào lúa non nuôi con nửa ngày.

155 Mấy ai biết lúa gon, mấy ai biết con ác.

156 Mấy ai biết lúa von, mấy ai biết con hƣ.

157 Mẹ ăn cơm chả, con lả bụng.

158 Mẹ ăn con trả.

159 Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng.

160 Mẹ đần lại đẻ con đần, gạo chiêm đem giã mấy lần vẫn chiêm.

161 Mẹ cú con tiên, mẹ hiền con xục xạc.

162 Mẹ con một lần da đến ruột.

163 Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn.

164 Mẹ em tham giàu bắt chạch đằng đuôi.

165 Mẹ già thì sâu nƣớc ăn.

166 Mẹ hát con khen hay.

167 Mẹ hát con khen, ai chen vô lọt.

168 Mẹ kêu mặc mẹ, thƣơng chồng phải theo.

169 Mẹ lá rau lá má, con đầy rá đầy mâm.

170 Mẹ lừa ƣa con ngọng.

171 Mẹ nào con ấy.

172 Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn.

173 Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày.

174 Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.

175 Mẹ nuôi con dùng dùng nén nén, con nuôi mẹ không đƣợc một nẹn

trong tay

176 Mẹ sống bằng hai bàn tay, con ăn mày bằng hai đầu gối.

177 Mẹ sớm chiều ngƣợc xuôi tất tƣởi, con đầy ngày đám dƣới đám trên.

178 Mẹ tròn con méo.

179 Mẹ với con lúa non cũng lấy.

180 Muốn đánh thì đẻ con ra, muốn ăn thì thổi cơm nhà mà ăn.

181 Muốn đánh thì đẻ con ra.

182 Muốn con hay chữ thời yêu lấy thầy.

183 Muốn nói ngoa làm mẹ cha mà nói.

184 Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.

Page 164: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

163

185 Ngày sau con tế ba bò, sao bằng lúc sống con cho lấy chồng.

186 Ngầm ngập nhƣ mẹ gặp con, lon son nhƣ con gặp mẹ.

187 Ngƣời ăn thì còn, con ăn thì mất.

188 Nghe con lon xon mắng láng giềng.

189 Nhà gần chợ, để nợ cho con.

190 Nhà khó đẻ con khôn.

191 Nhất mẹ nhì con.

192 Nhớn vú bụ con.

193 Nhiều con giòn mẹ.

194 Nuôi con ai nỡ kể tiền cơm.

195 Nuôi con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.

196 Nuôi con không phép kể tiền cơm.

197 Nuôi con thì tốn tiền quà, nuôi gà thì tốn tiền thóc.

198 Nuôi con trống dạ, đổ vạ ông vải.

199 Nuôi con trong dạ đổ vạ cho ông vải.

200 Nuôi con trong dạ mang vạ vào thân.

201 Phụ tử tình thâm.

202 Phụ trái tử hoàn, tử trái phụ bất can.

203 Sành sẹ nhƣ mẹ với con, lon ton nhƣ con với mẹ.

204 Sẩy cha ăn cơm với cá, sẩy mẹ lót lá mà nằm.

205 Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì..

206 Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì.

207 Sinh đƣợc một con, mất một hòn máu.

208 Sinh con ai chẳng vun trồng cho con

209 Sinh con ai nỡ sinh lòng, mua dƣa ai biết trong lòng quả dƣa.

210 Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai chẳng vun trồng cho con.

211 Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

212 Thƣơng ai ví bằng thƣơng con.

213 Thƣơng con bằng roi, thƣơng con đòi thì thƣơng bằng rơm.

214 Thƣơng con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi.

215 Thƣơng con mà dễ, thƣơng rể mà khó.

216 Thƣơng con ngon rau.

217 Thƣơng con ngon rể, vác ghế đi tìm.

218 Thƣơng con thì cho ăn quà, nuôi gà phải tốn thóc.

219 Thờ cha kính mẹ đã đành, theo đôi theo lứa mới thành thất gia.

220 Thứ nhất thì chết mất cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba ngƣợc đò.

221 Thứ nhất thì mồ côi cha, thứ nhì gánh vã, thứ ba buôn thuyền.

222 Trẻ cậy cha, già cậy con.

223 Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn ngây thơ.

224 Vợ dại đẻ con khôn.

Page 165: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

164

225 Yêu con cậu, mới đậu con mình.

226 Yêu con ngƣời, mát con ta.

227 Yêu con, ngon của.

1.5. QUAN HỆ ANH CHỊ EM

TT NỘI DUNG

1 Đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ giữ lấy anh em.

2 Anh em chém nhau đằng dọng, không chém đằng lƣỡi.

3 Anh em gạo, đạo ngãi tiền.

4 Anh em hạt máu sẻ đôi

5 Anh em hiền thậm là hiền, bởi một đồng tiền nên mất lòng nhau.

6 Anh em khinh trƣớc, làng nƣớc khinh sau.

7 Anh em nhƣ chân tay.

8 Anh em nhƣ chông, nhƣ mác.

9 Anh em rể đúng lệ mà theo, sợ cái mắt nheo của ông con trƣởng.

10 Anh em trai ở với nhau mãn đại, chị em gái ở với nhau một thời.

11 Anh em trong nhà, đóng cửa bảo nhau.

12 Anh em xem mặt cho vay.

13 Anh ngủ, em thức; em chực, anh đi nằm.

14 Anh thuận em hoà là nhà có phúc

15 Có chú chê anh hèn, không chú rèn lấy anh.

16 Cắt dây bầu, dây bí, chẳng ai cắt dây chị, dây em.

17 Chẳng khôn thể chị lâu ngày, chị đái ra váy cũng tày em khôn.

18 Chị dại đã có em khôn.

19 Chị em hiền thật là hiền, lâm đến đồng tiền mất cả chị em.

20 Chị em không thèm đến ngõ.

21 Chị em nắm nem ba đồng.

22 Chị em trên kính dƣới nhƣờng, là nhà có phúc mọi đƣờng yên vui.

23 Chị ngã em nâng.

24 Của anh nhƣ của chú.

25 Con chị cõng con em, con em lèn con chị.

26 Con chị dắt con em.

27 Em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em.

28 Em ngã thì chị phải nâng, đến khi chị ngã em bƣng miệng cƣời.

29 Em thuận, anh hoà là nhà có phúc.

30 Huynh đệ nhƣ thủ túc.

31 Khôn ngoan đá đáp ngƣời ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

32 Khôn với vợ, dại với anh em.

33 Làm chị phải lành, làm anh phải khó.

Page 166: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

165

34 Nghèo thì giỗ tết, giàu hết anh em.

35 Phận đàn em ăn thèm vác nặng.

36 Quyền huynh thế phụ.

37 Tiền lĩnh quần chị không bằng tiền chỉ quần em.

38 Tiền lĩnh quần chị, bằng tiền chỉ quần em.

39 Yêu con cậu, mới đậu con mình.

40 Yêu nhau chị em gái, rái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em

rể.

1.6. QUAN HỆ CON DÂU, CON RỂ

STT NỘI DUNG

1 Ƣa nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

2 Bình phong cẩn ốc xà cừ, vợ hƣ rầy vợ đừng từ mẹ cha.

3 Bắt chấy cho mẹ chồng, thấy bồ nông dƣới biển.

4 Bố chồng là ông lợn bạch, mẹ chồng là đách lợn lang,

5 Bố chồng là lông con phƣợng, mẹ chồng là tƣợng mới tô, nàng dâu

là bồ nghe chửi.

6 Bố chồng nhƣ lông con phƣợng, mẹ chồng nhƣ tƣợng mới tô.

7 Bố vợ là vớ cọc chèo, mẹ vợ là bèo trôi sông, chàng rể là ông Ba

vì.

8 Có phúc là dâu, vô phúc là bâu là báo.

9 Có phúc là nàng dâu, vô phúc là cái báo.

10 Chăn tằm rồi mới ƣơm tơ, làm dâu rồi mới đƣợc nhƣ mẹ chồng.

11 Chƣa học làm dâu đã hay đâu làm mẹ chồng.

12 Chê mẹ chồng trƣớc đánh đau, phải mẹ chồng sau mau đánh.

13 Chồng dữ thì lo, mẹ chồng dữ đánh co mà vào.

14 Của mình để, của rể thì bòn.

15 Con dâu mới về đan bồ chịu chửi.

16 Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu.

17 Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng.

18 Dâu dâu rể rể cũng kể là con.

19 Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.

20 Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai.

21 Dâu là con, rể là khách.

22 Làm dâu vụng kho, chồng không bắt bẻ mụ o nhún trề.

23 Làm rể chớ xáo thịt trâu, làm dâu chớ đồ xôi lại.

24 Làm rể nhà giàu vừa đƣợc cơm no, vừa đƣợc bò cƣỡi.

Page 167: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

166

25 Lựa đƣợc con dâu, sâu con mắt.

26 Một bát cơm cha bằng ba bát cơm rể.

27 Mẹ chồng dữ mẹ chồng chết, nàng dâu có nết nàng dâu chừa.

28 Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ

chồng.

29 Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.

30 Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.

31 Mẹ chồng vai gồng vai gánh, cƣới dâu về để thánh lên thờ.

32 Nàng dâu mới về là bà hoàng hậu.

33 Nàng dâu mới về là hoàng thái hậu.

34 Nuôi dâu thì dễ, nuôi rể thì khó.

35 Rau muống tháng chín, nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn.

36 Rể hiền hơn con trai.

37 Thƣơng con mà dễ, thƣơng rể mà khó.

38 Thật thà cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

39 Trƣớc làm nàng dâu, sau mới làm mẹ chồng.

2. CA DAO

2.1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG - GẮN BÓ

STT NỘI DUNG

1. Ai chèo ghe bí qua sông

Đạo vợ nghĩa chồng nặng lắm anh ơi!

2. Ai đi bờ đắp một mình

Phất phơ chéo áo giống hình phu quân.

3. Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi

Chồng tôi quyết đỗ khoa này

Chữ tốt nhƣ rắn, văn hay nhƣ rồng

Bõ khi xắn váy quai cồng

Cơm niêu nƣớc lọ nuôi chồng đi thi.

4. Ai kêu ai hú bên sông

Tôi đang nấu nƣớng cho chồng tôi ăn.

5. Ai kêu léo nhéo bên sông

Tôi đƣơng vá áo cho chồng tôi đây.

BK

a- Ai kêu veo véo bên sông

Page 168: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

167

- Ai kêu xeo xéo bên sông

b- Tôi đƣơng sắm thuốc cho chồng tôi đây

- Tôi đƣơng bắt ốc cho chồng tôi đây

- Tôi đang vá áo cho chồng tôi đây

- Tôi còn vá áo cho chồng tôi đây.

6. Ai kêu, ai hú bên sông?

Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe

Chồng xuống ghe, quạt che tay ngoắt

Cất mái chèo ruột thắt từng cơn...

7. Ai kia một mạn thuyền bồng

Kẻ loan ngƣời phƣợng, mặc lòng ngƣợc xuôi.

8. Ai về bên ấy bây giờ

Cho tôi gởi một bức thƣ thăm chồng.

9. Ai về Cầu Ngói, Gia Lê

Cho em về với, thăm quê bên chồng.

10. Ai về Phú Lộc(1) gửi lời

Thƣ này một bức nhắn ngƣời tri âm

Mối tơ chín khúc ruột tằm

Khi tháng, tháng đợi mà năm, năm chờ

Vì tình, ai lẽ làm ngơ

Cắm sào chỉ quyết đợi chờ nƣớc xuân

Ƣớc sao chỉ Tấn tơ Tần

Sắt cầm hảo hợp lựa vần quan thƣ

Đôi bên ý hợp lòng ƣa

Mới phu công thiếp mới vừa lòng anh

Thiếp thời tần tảo cửi canh

Chàng thời nấu sử sôi kinh kịp thì

Một mai chiếm bảng xuân vi

ấy là đề diệp tinh kỳ từ đây

Ai ơi nghe thiếp lời này.

(1) Phú Lộc: thuộc huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá.

11. Ai xui anh lấy đƣợc mình

Để anh vun xới ruộng tình cho xanh

Ai xui mình lấy đƣợc anh

Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.

12. Ăn cà ngồi cạnh vại cà

Lấy anh thì lấy đến già mới thôi.

13. Ăn cam ngồi gốc cây cam

Lấy anh về Bắc về Nam cũng về.

14. Anh ơi! phải lính thì đi

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi

Page 169: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

168

Tháng chạp là tiết trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà

Tháng ba cày bở ruộng ra

Tháng tƣ gieo mạ thuận hoà mọi nơi

Tháng năm gặt hái vừa rồi

Trời đổ mƣa xuống, nƣớc trôi đầy đồng

Anh ơi, giữ lấy việc công

Để em cày cấy mặc lòng em đây.

15. Anh đi chơi nhởn đâu đây?

Phải cơn mƣa này ƣớt áo lấm chân

Chậu nƣớc em để ngoài sân

Em chờ anh rửa xong chân, anh vào nhà

Vào nhà em hỏi tình ta

Trăm năm duyên ngãi mặn mà hay không?

16. Anh đi làm mƣớn nuôi ai

Cho áo anh rách, cho vai anh mòn?

- Anh đi làm mƣớn nuôi con

áo rách mặc áo, vai mòn mặc vai.

17. Anh em cốt nhục đồng bào

Vợ chồng là nghĩa lẽ nào chẳng thƣơng?

18. Anh lanh cƣới vợ cho lanh

Đến khi có khách đỡ anh trăm bề.

19. Anh ra đi, em lập kiểng trồng hoa

Anh về hoa đã đƣợc ba trăm nhành

Một nhành đã chín búp xanh

Bán ba đồng một để dành có nơi

Bây giờ đến lúc thảnh thơi

Cậy anh tính thử vốn lời bao nhiêu.

20. Anh tới nhà em, anh ăn cơm với cá

Em tới nhà anh, em ăn rau má với cua đồng

Khó em chịu khó, đạo vợ chồng em vẫn thƣơng.

21. áo vá vai, vợ ai không biết

áo vá quàng, chí quyết vợ anh.

22. Ba năm sƣơng tuyết lạnh lùng

Một giờ ôm ấp thoả lòng ƣớc ao

Nắng lâu gặp trận mƣa rào

Bõ công chờ đợi dầu hao bấc tàn.

23. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng

Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.

BK

- Mong sao cho lúa vàng vàng

Page 170: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

169

Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.

- Trông sao cho lúa vàng vàng

Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.

- Trời mƣa cho lúa chín vàng

Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.

- Trăng chƣa cho lúa vàng vang

Cho anh đi cắt cho nàng quảy cơm.

- Bao giờ cho lúa vàng vàng

Cho anh đi cắt cho nàng bới cơm.

- Trời mƣa cho lúa chín vàng

Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.

24. Bên đây sông bắc cầu mƣời tấm ván

Bên kia sông lập cái quán mƣời hai từng

Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng

Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.

25. Bên lƣơng bên giáo, bên đạo cũng nhƣ bên ta

Về đây ta kết nghĩa giao hoà

Phải duyên phải kiếp, áo Chúa Bà ta mặc chung.

26. Bông bống bồng bồng

Trai ơn vua chầu chực sân rồng

Gái ơn chồng ngồi võng ru con

Ơn vua xem trọng bằng non

Ơn chồng, nhờ phúc tổ tông dõi truyền

Làm trai lấy đƣợc vợ hiền

Nhƣ cầm đồng tiền mua đƣợc của ngon

Phận gái lấy đƣợc chồng khôn

Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn(1) hoá rồng

Bông bống bồng bồng

Bồng bống bồng bông.

(1) Cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng, Cửa Vũ, Cửa Võ: cũng gọi là Long

Môn, ở thƣợng lƣu sông Hoàng Hà, giữa huyện Hà Tân, tỉnh Sơn

Tây và huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Nơi đây

có mỏm đá nhƣ hình cái cửa. Truyền thuyết kể rằng thời thƣợng cổ,

vua Vũ nhà Hạ trị thuỷ đã đục phá mỏm đá này cho rộng thêm ra,

nên gọi là Vũ Môn (cửa vua Vũ).

Theo Tam Tân ký và Thuỷ kinh chú thì Vũ Môn có sóng dữ, hàng

năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung đến đây thi vƣợt qua Vũ

Môn. Con nào vƣợt qua đƣợc chỉ trốn trƣờng thi và việc thi đỗ đƣợc

gọi là vƣợt qua cửa Vũ. Theo Đại Nam nhất thống chí, ở nƣớc ta

cũng có Vũ Môn ở dãy núi Khai Trƣớng (núi Giăng Màn) thuộc

Page 171: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

170

huyện Hƣơng Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một con suối lớn có ba bậc.

Truyền thuyết kể rằng hàng năm đến tháng tƣ mƣa to, cá chép

ngƣợc dòng nhảy qua Vũ Môn để hoá rồng.

27. Cơm chiên ăn với cá ve

Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.

28. Cơm không lành, canh không ngọt

Tôi với mình đã trót lấy nhau

Thề cam tâm mà chịu, chớ để nhau sao đành.

29. Cái bống là cái bống bình

Thổi cơm nấu nƣớc một mình mồ hôi

Rạng ngày có khách đến chơi

Cơm ăn rƣợu uống cho vui lòng chồng

Rạng ngày ăn uống vừa xong

Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa

Nhịn miệng đãi khách đàng xa

ấy là của gửi chồng ta ăn đàng.

30. Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non.

31. Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo cho chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Cho anh đi chẩy nƣớc non Cau Bằng.

BK

(a) Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non

- Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng

Ở nhà có nhớ anh chăng?

Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.

(b) Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng ơi trở lại cùng con

Để anh đi trẩy nƣớc non kịp ngƣời

Cho kịp chân ngựa, chân voi

Cho kịp chân ngƣời kẻo thiếu việc quan.

(c) Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đƣa chồng nƣớc mắt nỉ non

Nàng bay trở lại cùng con

Để anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng

Chân đi đá lại dùng dằng

Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con

Page 172: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

171

Đi thời nhớ vợ cùng con

Khi về nhớ củ khoai môn trên rừng.

(d) Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đƣa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Cho anh đi trẩy nƣớc non Cao Bằng

Ngày đi trúc chửa mọc măng

Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre

Ngày đi lúa chửa chia vè

Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng

Ngày đi em chửa có chồng

Ngày về em đã tay bồng tay mang

Con thì chẻ nứa đan giƣờng

Con thì vặn dây đan võng cho nàng ru con.

32. Cái gì anh đổ vào bồ?

Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?

Cái gì anh thả vào xanh?

Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tƣơi?

Cái gì đi chín về mƣời?

Cái gì sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm?

Cái gì chung chiếu chung chăn?

Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?

- Lúa khô anh đổ vào bồ

Cau thì róc vỏ phơi khô để dành

Con cá anh bỏ vào xanh

Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tƣơi

Mặt Trăng kia đi chín về mƣời

Ông Bành Tổ (1) sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm

Vợ chồng chung chiếu chung chăn

Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời.

(1) Bành Tổ: Nhân vật thần thoại Trung Quốc, bề tôi của vua

Nghiêu, đƣợc phong ở đất Bành Thành, tƣơng truyền thọ tám trăm

tuổi.

33. Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chƣa về.

Bắt đƣợc con giếc con trê

Cầm cổ lôi về bắc nƣớc làm lông

Miếng nạc thời để phần chồng

Miếng xƣơng mẹ gặm, miếng lòng con ăn.

34. Cái quạt mƣới tám cái nan

Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu

Page 173: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

172

Quạt này anh để che đầu

Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này

Ƣớc gì chung mẹ chung thầy

Để em giữ cái quạt này làm thân

Rồi ta chung gối chung chăn

Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu

Nằm thời chung cái giƣờng tàu

Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi

Ăn thời chung cả một nồi

Gội đầu chung cả dầu hồi nƣớc hoa

Chải đầu chung cái lƣợc ngà

Soi gƣơng chung cả ngành hoa giắt đầu.

35. Cái số tôi giàu

Số nghèo chín đụn, mƣời trâu cũng nghèo

Phải duyên phải kiếp thì theo

Lấy tôi chớ quản khó nghèo làm chi

Chúng tôi đây quân tử nhất thì

Đẹp duyên cứ lấy lo gì mà lo

Đôi ta đã trót hẹn hò

Đẹp duyên cứ lấy chớ lo bạc tiền.

36. Canh ba trống điểm trên lầu

Phần thƣơng cho vợ, phần sầu cho con.

37. Canh cải mà nấu với gừng

Không ăn thời chớ xin đừng mỉa mai

Khuyên chàng đừng ở đơn sai

Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng.

38. Câu lƣơng duyên thề nguyền giao ƣớc

Nghĩa sắt cầm giữ vẹn trƣớc cũng nhƣ sau

Anh chớ có thấy sang mà bỏ bạn cựu

Chớ có phụ khó tham giàu mà bỏ em.

39. Cầu mô cao bằng cầu danh vọng

Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con

Ví dầu nƣớc chảy đá mòn

Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thƣơng.

40. Cây đa bến cũ năm xƣa

Chữ tình ta cũng đón đƣa cho trọn đời.

41. Cây trăm nhánh cùng về một cội

Nƣớc nghìn sông chảy hội một dòng

Ai dầu lánh đục tìm trong

Đây em vẫn giữ một lòng với anh.

42. Chân trời lính mộ chàng ra đi

Page 174: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

173

Lo chàng lao khổ, chớ sá gì mẹ con tôi.

43. Chàng ơi, chớ bực sầu tƣ

Khi xƣa có mẹ, bây chừ có em.

44. Chẳng ai đẹp bằng anh chồng tôi

Cái miệng cái môi, nhắm nha nhắm nhẩy

Hay vẽ, hay viết, hay cuốc hay phát

Làm thầy, làm thợ, việc làng việc xã, đủ cả mọi điều.

45. Chàng đề phú, thiếp đề thơ

Tƣởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên

Khuyên chàng giữ việc bút nghiên

Đừng tham nhan sắc mà quên học hành.

46. Chàng đừng trời tối trông sao

Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng

Đêm qua nằm cạnh nhà ngang

Lầu suông gió lọt, thƣơng chàng biết bao.

47. Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi

Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh

Đôi ta lên thác xuống ghềnh

Em ra đứng mũi để anh chịu sào

Sông Bờ, sông Mã, sông Thao

Ba ngọn sông ấy đổ vào sông Gâm.

48. Chàng lên non, thiếp cũng lên non

Chàng lên trời, vƣợt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.

49. Chàng về thiếp cũng về theo

Qua truông, rồi lại lên đèo

Mấy sông mấy cụm, cũng trèo cũng qua.

50. Chàng thốt ra, thiếp đây luỵ sa không ráo

Thốt ra chi mà thảm não rứa chàng

Giàu ngƣời ta mâm thau, đũa trắc, chén ngọc bịt vàng

Khó đôi đứa mình đọi dá mâm nan

Thế mô thế ni theo nhau cho trọn, thiếp không phàn nàn mà chàng

lo.

51. Chè Ô Long nấu nƣớc ấm đồng

Để vô bình tích thuỷ đãi đằng lang quân.

52. Chi ngon bằng gỏi cá nhồng

Chi vui bằng đƣợc tin chồng vinh qui.

53. Chim chuyền nhành ớt, rớt xuống nhành mai

Vợ chồng xa cách, lâm ai cũng buồn.

54. Chim đa đa đậu nhánh đa đa

Mãn mùa đa nhảy qua cây khế

Em đang còn tang chế khó lắm anh ơi!

Page 175: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

174

Bao giờ chế mãn tang hồi

Em ra tạ từ phần mộ, khi nớ mới trao lời nợ duyên.

55. Chim quyên ăn trái nhãn lồng

Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

56. Chim quyên ăn trái ổi tàu

Thƣơng nhau bất luận khó giàu mà chi

Chữ rằng chi tử vu qui

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

57. Chim xa bầy thƣơng cây nhớ cội

Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai

Vàng ròng cả lửa chẳng phai

Ở cho chúng thuỷ có ngày gặp nhau.

58. Chồng già vợ trẻ mới xinh

Vợ già chồng trẻ nhƣ hình chị em

Vợ chồng may rủi là duyên

Vợ chồng hoà thuận là tiên trên đời.

59. Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.

60. Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cƣời hớn hở rằng: Anh giận gì?

61. Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cƣời chúm chím: Thƣa anh giận gì?

Thƣa anh, anh giận em chi

Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho.

62. Chồng sang vợ đƣợc đi giầy

Vợ sang chồng đƣợc ghe ngày cậy trông.

63. Chồng ta áo rách ta thƣơng

Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời.

BK

Chồng ngƣời áo gấm xênh xang mặc ngƣời.

64. Chồng tôi đi đã ba đông

Hẹn về năm ngoái sao không thấy về ?

65. Chữ rằng: chi tử vu qui

Làm thân con gái phải đi theo chồng.

66. Chữ rằng: quân tử tạo đoan

Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.

67. Có ai những bận cùng ai

Vắng ai gƣờng rộng chiếu dài đễ lăn

Vì chàng thiếp phải mua mâm

Những nhƣ mình thiếp bốc ngầm cũng xong

Vì chàng thiếp phải long đong

Page 176: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

175

Những nhƣ mình thiếp là xong đôi bờ.

68. Có chàng, nói một cƣời hai

Vắng chàng em biết lấy ai than cùng?

Trời ơi; có thấu tình chăng

Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu.

69. Có chồng kẻ đón ngƣời đƣa

Không chồng đi sớm về trƣa mặc lòng.

70. Có chồng nhƣ ngựa có yên

Anh đây lẻ bạn nhƣ chim quyên lạc bầy.

71. Có chồng ông nọ bà kia

Không chồng nhƣ thúng nhƣ nia bung vành

-Không chồng bạn nói rằng hƣ

Có chồng biết bỏ mẫu từ cho ai?

72. Có chồng thì phải theo chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo

Có chồng thì phải theo chồng

Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.

73. Có chồng thì phải theo chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.

74. Có chồng thì phải theo chồng

Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải theo.

75. Có chồng thủ phận thủ duyên

Trăm con bƣớm đậu cửa quyền xin lui.

76. Có con gây dựng cho con

Có chồng gánh vác nƣớc non nhà chồng.

77. Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

78. Có con rễ bấn, rễ bàng

Không con thiếp ở với chàng không công.

79. Con chim nho nhỏ

Lông đuôi nó đỏ

Cái mỏ nó vàng

Nó đậu cành bàng

Nó kêu, bớ Tiết Đinh Sơn! Bớ chàng Ninh Sĩ!

Em có chồng rồi, em không thể nghĩ đến anh.

80. Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè

Làm thân con gái phải nghe lời chồng

Sách có chữ rằng: phu xƣớng phụ tòng

Làm thân con gái lấy chồng xuất gia

Lấy em về thờ mẹ, kính cha

Thờ cha, kính mẹ ấy là ngƣời ngoan.

Page 177: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

176

81. Con gái thì đà nên con gái

Cái áo em mặc chải chải hoa hồng

Trong yếm đại hồng chuỗi xe con toán

Cái quai thao chàm em đội trên đầu

Cái nhôi thao dập dìu đỏ chói

Lỗ miệng em nói có đôi đồng tiền

Nhƣ cánh hoa sen giữa ngày mới nở

Mẹ em đi chợ có kẻ gánh gồng

Anh đứng anh trông má hồng đỏ thắm

Anh đứng anh ngắm đẹp đẽ làm sao

Con cháu ông nào chân đi đẹp đẽ

Anh có vợ rồi chẳng lẽ anh theo.

BK

Con gái đƣơng thời đã nên con gái

Cái áo mặc chải chải hoa hồng

Trong yếm đại hồng, chuỗi xe con toán

Cái quai dâu chạm đội trên đầu

Cái nhôi dâu gấp, quấn vào đỏ chói

Lỗ miệng em nói có hai đồng tiền

Nhƣ cánh hoa sen giữa ngày mới nở

Khi em đi chợ có kẻ gánh gồng

Anh đứng anh trông má hồng đỏ thắm

Anh đứng anh ngắm đẹp dẽ làm sao!

Lấy anh, anh sắm sửa cho

Sắm ăn sắm mặc, sắm cho chơi bời

Khuyên em có bấy nhiêu lời

Thuỷ chung nhƣ nhất là ngƣời phải nghe

Mùa đông lụa lụa the the

Mùa hè bán bạc hoa xoè sắm khăn

Sắm gƣơng sắm lƣợc sắm khăn đựng trầu

Sắm cho em lƣợc chải đầu

Cái ống đựng sáp vuốt đầu cho xinh.

82. Con xa mẹ thèm ăn khát bú

Vợ xa chồng, đi thú biệt li

Đêm nằm ấp lấy hài nhi

Con hời con hỡi, cha con phƣơng nào.

83. Công danh theo đuổi mà chi

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông

Sớm khuya có vợ có chồng

Cầy sâu bừa kỹ mà mong đƣợc mùa.

84. Công nợ thiếp trả cho chàng

Page 178: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

177

Xin đừng lên thác, xuống hàn (1) nắng mƣa.

(1) Hàn: chỗ nƣớc chảy mạnh dƣới có lƣờn đá ngầm.

85. Củ lang Đống Ngỗ

Đỗ phụng Đồng Đinh

Chàng bòn thiếp mót

Để chung một gùi.

86. Cùng nguyền một tấm lòng son

Anh dầu có phụ keo sơn có trời

Sống dƣơng gian hai đứa đôi nơi

Thác xuống âm phủ cũng nhớ lời thề xƣa.

87. Dạ ai hoài dù cho xa ngái

Em xin chàng chớ ngại đừng nghi

Để cho em lên Đợi xuống Tuy (1)

Đắt làm thuê, ế làm mƣớn đỡ khi đói nghèo.

(1) Lên Đợi xuống Tuy, lên Đại Phong xuống Tuy lộc; hai địa điểm

trên thuộc huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình.

88. Đã rằng là nghĩa vợ chồng

Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.

89. Đang khi chồng giận mình đi

Hết khi nóng giận đến khi vui vầy

Ngãi nhân nhƣ bát nƣớc đầy

Bƣng đi mà đổ hốt rày đặng đâu.

90. Dang tay đánh thiếp sao đành

Tấm rách ai vá, tấm lành ai mang?

91. Đạo cang thƣờng khó lắm bạn ơi

Chẳng dễ nhƣ ong bƣớm đậu rồi lại bay

Đạo cang thƣờng khá dễ đổi thay

Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.

92. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm

Phải đâu cua cá với tôm

Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.

93. Đạp xe nƣớc chảy lên đồng

Bao nhiêu nƣớc chảy, thƣơng chồng bấy nhiêu.

94. Dầu ai áo rách nón xơ

Quyết theo nhau cho trọn đạo, ông Tơ đã đề.

95. Đầu đội chúa, vai mang cốt mẹ

Tay dìu dắt cha già

Gặp mặt đây nƣớc mắt nhỏ sa

Thò tay trong túi bà ba

Lấy cái khăn mu soa anh chặm

Đạo vợ chồng ngàn dặm không quên.

Page 179: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

178

96. Dầu xa nhau năm bảy ngày đƣờng

Duyên ƣa phận đẹp thì nƣờng cũng theo.

97. Dãy dọc toà ngang, giàu sang có số

Kim Long(1), Nam Phổ(2), nƣớc đổ về sình(3)

Đôi đứa mình chút nghĩa ba sinh

Có làm răng đi nữa cũng không đành bỏ nhau.

BK

a- Nhƣ đôi lứa mình chút nghĩa ba sinh

b- Có làm răng đi nữa đôi lứa mình không bỏ nhau!

(1) Kim Long: một làng bên bờ sông Hƣơng, trên con đƣờng từ Huế

đi thiên Mụ.

(2) Nam Phổ: còn gọi là nam Phố, nằm trên con đƣờng từ Huế đi

Thuận An.

(3) Sình: địa điểm thuộc Huế.

98. Đêm hè gió mát trăng thanh

Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng

Lạt chẳng mỏng, sao thừng đƣợc tốt?

Duyên đôi ta đã trót cùng nhau

Trăm năm thề những bạc đầu

Chớ tham phú quí, đi cầu trăng hoa.

99. Đèn lồng khi xách khi treo

Vợ chồng khi thảm, khi nghèo có nhau.

100. Đi đâu có anh có tôi

Ngƣời ta mới biết rằng đôi vợ chồng.

101. Đi đâu có anh có tôi

Ngƣời ta mới biết có đôi vợ chồng

Đi đâu cho thiếp đi cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

102. Đi đò tát nƣớc cho chuyên

Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.

103. Đi thời nhớ vợ nhớ con

Về thời nhớ củ khoai môn trên rừng.

104. Đôi bên bác mẹ cùng già

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông

Mùa hè cho chí mùa đông

Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi

Hết gạo thiếp lại gánh đi

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao?

Hỏi thăm đến ngõ thì vào

Tay đặt gánh xuống, miệng chào: thƣa anh!

BK

Page 180: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

179

(a) Cây cao gió đƣợm la đà

Thấy anh hay chữ em đà cậy trông

Mùa hè cho chí mùa đông

Mùa nào áo nấy cho chồng đi thi

Hết gạo em lại gánh đi

Hỏi thăm trƣờng học ở thì nơi nao

Hỏi thăm chỗ đến liền vào

Vai thì đặt gánh, miệng chào: thƣa anh!

(b) Trèo lên cây khế nửa ngày

Ai làm chua xót lòng này khế ơi!

Khế chết đi, khế lại mọc chồi

Cây sung có nhị, cây hành có hoa

Đôi bên bác mẹ thì già

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông

Mùa hè cho chí mùa đông

Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi

Hết gạo em gánh gạo đi

Hỏi thăm trƣờng học vậy thì nơi nao?

Hỏi thăm đến ngõ mà vào

Tay cất gánh gạo miệng chào: thƣa anh.

105. Đôi bên bác mẹ tƣ tề

Anh đi làm rể em về làm dâu

Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu

Tham vì một nỗi em mau miệng cƣời

Trăm quan mua một miệng cƣời

Trăm quan không tiếc, tiếc ngƣời hồng nhan.

106. Đói no một vợ một chồng

Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.

107. Đôi ta nhƣ cánh hoa đào

Vợ đây chồng đây ai nào kém ai?

Đôi ta nhƣ bông hoa nhài

Vợ đây chồng đấy kém ai trên đời?

108. Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sƣơng sớm vợ nay sƣơng chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sƣơng sớm, sƣơng chiều, hỡi anh!

109. Đốn cây ai nỡ dứt chồi

Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thƣơng.

110. Đốt than nƣớng cá cho vàng

Đem tiền mua rƣợu cho chàng uống chơi

Phòng khi có khách đến chơi

Page 181: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

180

Cơm ăn, rƣợu uống cho vui lòng chàng.

111. Ở sao nhƣ lụa đừng phai

Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên.

112. Em có chồng rồi nhƣ ngựa có cƣơng

Ngõ em em đứng, đƣờng trƣờng anh đi.

113. Em đã thuận lấy anh chƣa

Để anh đốn gỗ rừng Nƣa(1) đóng thuyền?

Con thuyền mang đôi chữ nhân duyên

Chồng chèo vợ chống, thuyền quyên chẳng vời.

114. Em đƣa anh lên ga Thuận Lí(1)

Ba giờ chiều vô nghỉ Đông Hà(2)

Phần thời anh thƣơng mẹ nhớ cha

Phần thời thƣơng con nhớ vợ xót xa trong lòng.

(1) Thuận Lí: Một địa điểm ở Quảng Bình (2) Đông Hà: Một địa

điển ở Quảng Trị, cách Đồng Hới 92km về phía Nam, ở trên sông

Cam Lộ, đầu đƣờng số 9 đi Lao Bảo sang Lào.

115. Em là con gái có chồng

Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.

116. Em là con gái Phụng Thiên(1)

Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng

Nữa mai chồng chiếm bảng rồng

Bõ công tắm tƣới vun trồng cho rau.

(1) Phụng Thiên: thuộc địa phận của ba mƣơi sáu phố phƣờng Hà

Nội cũ, trƣớc là phủ Trung Đô, năm 1469 đời Lê Thánh Tông đƣợc

đổi là phủ Phụng Thiên.

117. Em nghe anh tỏ lời này

Em đòi để bỏ nhƣ vầy sao nên

Tao khang nghĩa ở cho bền

Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà.

118. Em ngồi dệt cửi trên khung

Anh đến ngồi học cùng chung một đèn

Lấy chồng nhƣ trống cặp kèn

Nhƣ dao cặp thớt, nhƣ đèn cặp khâu

Lấy chồng chẳng đƣợc đi đâu

Nhƣ trống cặp chầu, nhƣ ngựa cặp quân.

119. Em thời canh cửi trong nhà

Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng

Trƣớc là vinh hiển tổ đƣờng

Bõ công đèn sách, lƣu phƣơng đời đời.

120. Em thì canh cửi việc nhà

Chàng thì đi học, đỗ ba khoa liền

Page 182: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

181

Khoa trƣớc thì đỗ giải nguyên

Khoa sau tiến sĩ, đỗ liền ba khoa

Vinh qui bái tổ về nhà

Để thiếp trông thấy thiếp hoà mừng thay

Công thiếp lo liệu bấy chầy

Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay võng đào

Thiếp sắm cho chàng một chiếc nhà cao

Bằng chín mẫu đất, bằng ba quãng đồng

Cột cái thăm thẳm vẽ rồng

Mƣợn ba vạn thợ trả công đề huề

Thiếp đánh hòn đá xây hè

Thiếp cho xẻ núi Ba Vì về xây

Trên thềm ngựa chạy bảy ngày

Chung quanh lát ván cột tày gỗ thông

Gỗ mun đóng chiếc thuyền rồng

Cửa ngõ bằng đồng sáng lộn nhƣ gƣơng

121. Gai trong bụi ai vót mà nhọn

Đạo vợ chồng ai chọn mà cân

Trên trời đã định xây vần

Xây cho gấp gấp trong lần năm nay.

122. Gan khô ruột thắt chín từng

Em náu nƣơng phụ mẫu cầm chừng đợi anh.

123. Gởi thơ một bức

Đêm nằm thổn thức, dạ những luống trông

Biết làm sao cho vợ gặp chồng

Cho én hiệp nhạn

Gan teo từng đoạn, ruột thắt chín từng

Anh với em nhƣ quế với gừng

Dẫu xa nhân ngãi, xin đừng tiếng chi.

BK.

Sao hỡi sao! Sao chừng này chƣa mọc

Sao mọc bên bắc, nƣớc mắt bên đông

Làm sao cho vợ gặp chồng

Cho én gặp nhạn, ruột đau từng đoạn, gan thắt chín từng

Đôi ta nhƣ quế với gừng

Dầu xa nhân ngãi, xin đừng tiếng tăm.

124. Giận chồng xách gói ra đi

Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.

125. Giàu nhƣ ngƣời ta lƣơng điền vạn khoảnh

Khó nhƣ hai đứa mình bá nghệ tuỳ thân

Sớm hái rau, chiều đốn củi đỡ đần nuôi nhau.

Page 183: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

182

126. Gió đƣa bụi mía lùm tum

Chồng tôi vừa đi khỏi, ông trùm tới chi?

127. Gió đƣa cây cửu li hƣơng

Hai ngƣời hai họ mà thƣơng nhau cùng.

128. Gió lùa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ

Gió đƣa bụi trúc ngả quì

Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!

129. Giƣờng dọc mà trải chiếu ngang

Chàng ngồi một góc

Thiếp ngồi một góc

Chàng than, thiếp khóc

Thiếp khóc, chàng than

Khung cửi bắc ngang, thoi nàng biếng dệt

Em vắng anh một ngày, mỏi mệt chân tay

BK

Giƣờng dọc mà trải chiếu ngang

Chàng ngồi một góc, thiếp ngồi một góc

Chàng than thiếp khóc, thiếp khóc chàng than

Huơ chao! cây úa lá vàng

Nƣớc đâu mà tƣới cho hoàn nhƣ xƣa.

130. Hai nách những lông xồm xồm

Chồng yêu chồng bảo mối tơ hồng trời cho

Đêm ngủ thì ngáy o o

Chồng yêu chồng bảo lái đò cầm canh

Ăn vụng bụng to tày thùng

Chồng yêu chồng bảo cái giành đựng cơm!

131. Kể chi trời rét đồng sâu

Có chồng có vợ rủ nhàu cày bừa

Bây giờ trƣa đã hồ trƣa

Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu

Một đoàn chồng trƣớc vợ sau

Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.

132. Kể từ lính mộ ra đi

Ở nhà nhiều nỗi sầu bi thất tình

Việc này là việc trào đình

Đêm nằm nghĩ lại phận mình gian nan

Rủ nhau ra tới ngoài Hàn

Thấy đang tập lính dƣ ngàn dƣ trăm

Thƣơng chàng thiếp phải ra thăm

Chàng qua nƣớc bên ấy, biết mấy năm chàng về?

Page 184: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

183

133. Khi em chƣa có chồng, anh nỏ dốc lòng gắn bó

Giờ em có chồng rồi, anh đón ngõ trao thƣ

Ngãi nhân nhân ngãi chi giừ

Gái có chồng nhƣ đạo bùa trừ đeo tay.

BK

Lúc xuân xanh anh không gắn bó

Em có chồng rồi, anh đón ngõ trao thƣ

Thôi thôi nhân ngãi xin từ

Em có chồng nhƣ đạo bùa trừ đeo tay.

134. Không ai tin tức, gởi bức thơ về

Trong thơ viếng mẹ, ngoài lề thăm thiếp

Anh mắc nghề nghiệp anh không đi đặng

Em nhớ em trông

Mắc ngồi khung cửi lựa bông

Mồ hôi nhỏ đƣợm, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.

135. Khuyên anh chăm chỉ nghề nho

Thức khuya dậy sớm sao cho kịp ngƣời

Ngƣời ta đƣợc một, em muốn đƣợc mƣời

Học cho hơn ngƣời: tiến sĩ, trạng nguyên

Anh về cƣỡi ngựa vua ban

Nhờ anh em sẽ ngồi trên võng vàng

Cờ quạt hai hàng

Đẹp mặt mẹ cha.

BK

a - Học sớm học tối, học cho kịp ngƣời

b - Theo sau, em có võng vàng đƣa chân.

136. Khuyên anh đi học em vâng

Việc trong gia thất, việc đồng mặc em

Bút nghiên giấy má đã mua rồi

Khuyên anh đi học, em thời cửi canh

Nữa mai gia thất đƣợc thành

Bõ công anh học, bõ lòng em khuyên.

137. Khuyên anh đọc sách ngâm thơ

Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.

138. Làm ngƣời phải biết cƣơng thƣờng

Xem trong ngũ đẳng, quân vƣơng ở đầu

Thờ cha, kính mẹ trƣớc sau

Anh em hoà thuận mới hầu làm nên

Vợ chồng đạo nghĩa cho bền

Bạn bè cho thực, dƣới trên đứng thƣờng.

139. Làm trai giữ trọn ba giềng

Page 185: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

184

Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.

140. Lạnh lùng thiếp đắp chiếu cho

Giận ai nên nỗi giày vò chiếu đi.

141. Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh

Bánh nào trắng bằng bánh bò bông

Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng

Đêm nằm nghĩ lại, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.

142. Lấy anh thì sƣớng hơn vua

Anh đi xúc giậm, đƣợc cua kềnh càng

Đem về nấu nấu rang rang

Chồng chan vợ húp lại càng hơn vua.

143. Lấy chồng theo thói nhà chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng đi.

144. Lấy nhau cho trọn đạo Trời

Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.

145. Luỵ sa đƣa chàng xuống huyệt

Mai táng chàng rồi li biệt ngàn năm.

146. Mặc ai một dạ đôi lòng

Em đây thủ tiết loan phòng chờ anh.

147. Mây giăng trên ngọn non Vồng (1)

Em nhớ thƣơng chồng đứng bến Châu Giang(2)

Bến Châu Giang thuyền ngang sóng ngƣợc

Đỉnh non vồng mây trƣớc mây sau

Ai về có nhớ lời nhau...?

(1) Non Vồng: ngọn núi cao phía bắc xã Thị Sơn, huyện Kim Bảng,

tỉnh Nam Hà.

(2) Châu Giang: con sông lớn của tỉnh Nam Hà (cũ). Bến Châu

Giang có lẽ ngã ba Đạm. thuộc xã Phù Vân, huyện Kim Bảng, nơi

sông Đáy gặp sông Châu Giang.

148. Mẹ già là mẹ già chung

Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.

149. Mẹ nàng khác thể mẹ ta

Phận dù đói rách, thiệt thà anh thƣơng.

150. Mình đƣa bâu áo tui viết tháo vài hàng

Trƣớc thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu

Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu

Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền.

151. Mình đừng sầu muộn ốm đau

Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng

Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng

Cang thƣờng li biệt, đạo vợ chồng còn thƣơng.

Page 186: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

185

152. Mình về tôi cũng đi theo

Sum vầy phu phụ, hiểm nghèo có nhau

Chẳng thà đĩa muối chén rau

Thuỷ chung sống ở, sang giàu mƣợc ai.

153. Mình về tôi cũng về theo

Sum vầy phu phụ, giàu nghèo có nhau.

154. Mồ hôi gió đƣợm

Thiếp thƣơng chồng, thiếp phải chạy theo

Con ơi! Mẹ dắt lên đèo

Chim kêu bên nọ, vƣờn trèo bên kia.

155. Một thƣơng, hai thƣơng

Ba thƣơng, bốn nhớ

Đạo chồng, nghĩa vợ

Là đức cù lao

Nhớ khi trăng gió, mƣa rào

Trăm năm gối phƣợng má đào bên em.

156. Một thƣơng, hai thƣơng, ba thƣơng, bốn nhớ

Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao

Sông sâu ai dám tới đào

Bạn về nhà bạn, nƣớc mắt ào nhƣ mƣa.

157. Mƣa rơi gió tạt vô thành

Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu.

158. Mủng sứt vành không bƣng khó bợ

Đồng tiền điếu vỡ, ai nỡ bán buôn

Anh đi làm thợ trên nguồn

No cơm ấm áo, luông tuồng bỏ em

Đồng tiền điếu vỡ, anh đúc lại thành chuông

Đem lên chùa Nam Định khắc muôn chữ vàng

Mủng sứt vành, anh lận lại thành tàn

Đƣa lên Nam Định hai hàng lọng che

Sớm mai anh lên gánh muối

Chiều anh xuống gánh chè

Tai nghe em than thở, te te anh trở về

Trời làm cực khổ trăm bề

Dù lên nguồn xuống biển, anh cũng trở về với em.

159. Muốn cho no vợ đủ chồng

Để mà kết tóc trông mong ở đời.

160. Nàng ơi! Thử nghĩ mà xem

Vợ chồng phận cải duyên kim ở đời

Khi nên Trời cũng chiều ngƣời

Có công đèn sách ắt thời làm nên

Page 187: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

186

Bởi lòng cha mẹ thảo hiền

Cho nên ta mới đậu liền khôi khoa

Cũng đà sắp đến không xa

Nàng ơi! Sắm sửa cho ta thế nào?

Dù ta có đậu quan cao

áo gấm ta mặc, võng đào nàng đi

Thế là phận gái nữ nhi

Ơn chồng lại đƣợc vinh qui với chồng

Thế là nàng thoả tấm lòng

Bõ công đóng cửa kén chồng bấy lâu.

161. Nay mai anh lại sang Tây(1)

Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh

Không đi thì sợ không lành

Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền

Em ở nhà bình yên buôn bán

Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau

Anh đi chỉ dặn mấy câu

Em về cố giữ lấy màu cho xinh

Nhờ em mọi việc gia đình

Tứ thân phụ mẫu một mình em lo

Em đã là con nhà gia giáo

Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền

Anh đi vì lệnh quan trên

Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về

Bấy giờ sum họp đề huề

Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui

Đạo vợ chồng giờ xui ra thế

Anh nói câu này em để trong tai

Bấy kì thứ bảy, thứ hai

Anh đi em tiễn ra ngoài la ga

Gửi lời thăm hỏi ông bà

Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng

Còn đây một chút bế bồng

Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn

Xa anh lấy đó làm tin

Cũng là bớt nỗi ƣu phiền chia li

Anh đành gạt lệ ra đi

Thƣơng anh chẳng biết nói gì nửa đâu.

(1) Vào thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914 - 1918) thực

dân Pháp đã dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính

sang Pháp.

Page 188: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

187

162. Nghĩa tao khang ai đà vội dứt

Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi

Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời

Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau.

163. Ngồi buồn thƣơng mẹ nhớ cha

Gối loan ai đỡ, kỉ trà ai nƣng

- Mẹ già trao lại anh trai

Phận em là gái một hai theo chồng.

164. Ngọn lau lên khỏi bờ

Ngọn lúa trổ đòng đòng

Em đừng than đừng thở, để anh phải tủi lòng khóc theo

Hai tay anh bụm bọt phá bèo

Xƣa kia khắp chốn không ai nghèo nhƣ anh

Ban ngày anh đốn củi rừng xanh

Tối về chỉ một tấm tranh che đầu

Mƣa sa nhỏ giọt nhƣ dầu

Khổ thời anh chịu khổ, chứ lìa nhau anh không lìa.

165. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng

Đêm xuân ai dễ cầm lòng đƣợc mơ

Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ

Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.

166. Nhà em có bụi trầu cay

Nhà anh có khách sang vay lá vàng.

Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn

Thời buổi này kén chọn làm chi

Yêu nhau lấy quách nhau đi

Ở trong giá thú luận cho hoá tài

Đƣờng còn dài, trông sao cho xiết

Đạo vợ chồng ai biết đói no

Quí hồ thầy mẹ gả cho.

167. Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng

Ngƣời trong một nƣớc thì thƣơng nhau cùng

Phu thê trong nghĩa tƣơng phùng

Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai

Tấm đá hoa ghi tạc để đời.

168. Nhởn nhơ cô gái cửa Đông (1)

Quần là áo lƣợt nhƣng lòng không ƣa

Tao khang là vợ ngày xƣa

Khăn thâm, áo vải sớm trƣa vui cùng.

(1) Cửa Đông: tức cửa Đông thành Thăng Long cũ, ở cuối phố Cửa

Đông hiện nay.

Page 189: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

188

169. Những khi vai gánh tay đèo

Đi về lấy quách chồng nghèo cho xong

Ngày ngày quang thúng đi đong

Chày gạo, cối lúa không xong có chồng

Nhỡ khi đi gánh về gồng

Trời mƣa, trời gió dặn chồng gánh đƣa

Nhỡ khi đi sớm về trƣa

Ta ngồi nghỉ mát đò đa thanh nhàn

Không ai đo đếm ruột gan

Vợ chồng ta sẽ thở than ta làm

Mai sau đã có phận Trời

Khi nào lại khổ suốt đời mà lo.

170. Nợ chồng lắm lắm anh ơi

Bao giờ cho hết mà chơi kẻo già.

171. Nói ra sợ chị em cƣời

Lấy chồng tháng chín tháng mƣời có con

Có con tôi năn nỉ cùng con

Có chồng tôi phải gánh lấy giang sơn nhà chồng.

172. Nuôi con những tƣởng về sau

Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi

Mực đen vô giấy khó chùi

Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.

173. Phải căn duyên cái áo rách cũng mang

Trái duyên cái áo lót bộ nút vàng, anh không ham.

174. Phải duyên em nhất định theo

Nào ai có quản khó nghèo chi đâu

Đời này ai muốn chuốc lấy thảm sầu

Cầu dừa mà vững nhịp, còn bằng vạn cầu Bông Miêu.

175. Phải duyên phải kiếp thì theo

Cám còn ăn đƣợc, nữa bèo hử anh.

176. Phận bạc khôn nƣơng nhà bạc

Thân hèn đâu dám gác cửa không!

Dứt đƣợc sao cái nợ vợ chồng

Nƣớc nhành dƣơng rửa sao đƣợc bụi hồng, bớ anh!

177. Phụ hề sanh, mẫu hề dƣỡng

Đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng (1)

Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phƣơng

Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn

sông Hƣơng đợi chờ.

(1) Phú hề sanh, mẫu hề dƣờng, đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng:

Cha mẹ có sông sinh ra và nuôi dƣỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải

Page 190: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

189

coi trọng cƣơng thƣờng (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử

truyền thống).

178. Phụ mẫu tình thâm

Phu thê nhân ngãi trọng

Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.

179. Phụ tuỳ phu xƣớng(1), ấy là lẽ thƣờng

Anh bảo sao em nghe vậy, cho vẹn đƣờng ái ân

- Nắm tay bạn, xót thƣơng vô hạn

Nhớ đến việc chia phôi én nhạn

Lòng anh đây dứt đoạn can tràng.

(1) Phụ tuỳ phu xƣớng: chồng xƣớng vợ theo, tức là vợ chồng hoà

hảo (theo quan niệm cũ).

180. Phƣợng chắp cánh lòng còn đợi gió

Rồng chờ trăng còn đậu trên mây

Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày

Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa.

181. Phƣơng ngôn câu ví để đời

Nhƣờng cơm nhƣờng áo, dễ ai nhƣờng chồng.

182. Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Tiền gạo thì của mẹ cha

Cái nghiên cái bút thật là của em.

BK

a- Trái cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Anh lấy em từ thuở mƣời ba

Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con

Ra đƣờng ngƣời ngỡ còn son

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

Con cả đi học xa đàng

Con thứ hai dệt cửa nó càng xinh ghê

Con thứ ba buôn bán trăm nghề

Còn hai đứa bé nó thì ăn chơi.

b- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai lại học xa

Lấy anh từ thuở mƣời ba

Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con

Ra đƣờng ngƣời tƣởng còn son

Về nhà thiếp đã năm con với chàng.

c- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Page 191: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

190

Anh lấy em từ thuở mƣời ba

Đến năm mƣời tám em đà năm con

Ra đƣờng ngƣời nghĩ còn son

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

Cái cả đã biết dọn hàng

Cái hai đi học về tràng khoa thi

Cái ba buôn bán trăm nghề

Còn hai con nhỏ trở về ăn chơi

Chơi cho nƣớc Hán sang Hồ

Nƣớc Tần sang Sở nƣớc Ngô sang Lào

Chơi cho sấm động mƣa rào

Một trăm cái núi lọt vào trôn kim

Chơi cho bong bóng thì chìm

Hòn đá thì nổi, gỗ lim bập bềnh.

d- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân

Nay anh học gần, mai anh học xa

Anh lấy em từ thuở mƣời ba

Đến năm mƣời tám thiếp đà năm con

Ra ngoài thiếp hãy còn son

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

Con cả thì bắn cung múa kiếm ngang tàng

Con thứ hai đã biết cắp sách vào tràng đi thi

Con thứ ba buôn bán trăm nghề

Còn hai đứa bé ở nhà ăn chơi

Ăn chơi may túi đựng trời

Đan phên chặn gió giết voi xem giò

Chơi cho sấm động mƣa rào

Mƣời hai cửa bể đút vào trôn kim

Chơi cho bong bóng phải chìm

Đá vàng thả nổi gỗ lim mập mờ.

183. Qua đây ghé nón thăm đồng

Đồng bao nhiêu lúa, thƣơng chồng bấy nhiêu.

184. Râu tôm nấu với ruột vầu

Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon..

185. Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lƣu

Trên đồng cạn, dƣới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

186. Sạch con thì lắm ngƣời bồng

Xinh chồng thì lắm ngƣời thƣơng

Tin chàng lòng dạ nhƣ gƣơng

Page 192: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

191

Không quên nghĩa thiếp, ngƣời thƣơng mặc ngƣời.

187. Sáng trăng trải chiếu hai hàng

Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.

188. Sập vàng mà trải chiếu hoa

Không bằng áo thiếp đắp qua dạ chàng.

189. Sớm khuya có vợ có chồng

Cày sâu bừa kĩ mà mong đƣợc mùa.

190. Sông dài cá lội biệt tăm

Phải duyên chồng vợ, ngàn năm cũng chờ.

191. Sóng xao mình vịt ƣớt lông

Rùa kêu đá nổi thiếp không bỏ chàng.

192. Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nắm lá nọ về xông

Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.

BK

Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng vƣợt sá, bẻ nạm lá anh xông

Có làm vậy mới trọn đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che.

193. Tai nghe trống điểm trên lầu

Nửa thƣơng phần vợ, nửa rầu phần con.

194. Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1)

Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình

Một câu phân với nữ trinh

Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung

Hai câu ta phân với anh hùng

Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời

Ba câu anh nói, em phải nghe lời

Đừng nghe lời thá sự (2) đổi lời duyên ta

Bốn câu nuôi chút mẹ già

Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi.

(1) Hoà châu: hoà nƣớc mắt.

(2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời.

195. Tay bƣng đĩa muối chấm gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau

Tay bƣng đĩa muối sàng rau

Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham.

196. Tay cầm đĩa muối sàng rau

Thuỷ chung nhƣ nhất sang giàu mặc ai.

197. Tay mang khăn gói sang sông

Page 193: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

192

Bồ hôi nó đẫm thƣơng chồng phải theo.

198. Tay anh nắm con dao sắc

Cắt chín lát gừng bỏ vô thang thuốc sắc lại bảy phân

Tay mặt anh bƣng chén thuốc, tay trái anh khoát màn

Cúc Hoa (1) ơi, em uống chén thuốc này cho nạn khỏi tai qua

Kẻo con mồ côi mẹ, lấy ai cá vẽ cơm và mà nuôi con.

(1) Cúc Hoa: nhân vật chính của truyện Tống Trân Cúc Hoa.

199. Tép đồng ăn với rau mƣng

Chồng ăn vợ nhịn xin đừng bỏ nhau.

200. Thà lăn xuống giếng mà chết cả đôi

Không thể loan xa phƣợng, anh thác để em ngồi chịu tang.

201. Tháng chạp là tháng trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà

Tháng ba cày vỡ ruộng ra

Tháng tƣ làm mạ mƣa sa đầy đồng

Ai ai cũng vợ cũng chồng

Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay

Tháng năm gặt hái đã xong

Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy

Năm nong đầu em xay em giã

Trấu ủ phân cám bã nuôi heo

Sang năm lúa tốt tiền nhiều

Em đem đóng thuế đóng sƣu cho chồng

Đói no có thiếp có chàng

Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.

202. Tháng hai cho chí tháng mƣời

Năm mƣời hai tháng em ngồi em suy

Vụ chiêm em cấy lúa di

Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba trăng

Thú quê rau cá đã từng

Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan

Việc nhà em liệu lo toan

Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.

203. Thang mô cao bằng thang danh vọng

Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con?

Trăm năm nƣớc chảy đá mòn

Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thƣơng.

204. Thấy anh em cũng muốn theo

Em sợ anh nghèo, anh bán em đi

Lấy anh em biết ăn gì?

Lộc sắn thì chát, lộc si thì già

Page 194: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

193

- Nghèo thì bán khố, bán khăn

Có ai bán vợ mà ăn bao giờ.

205. Theo anh em cũng muốn theo

Em sợ anh nghèo, anh bán mất em.

- Nghèo thời bán cột bán kèo

Nào ai có bán vợ theo bao giờ!

206. Thiếp gặp chàng nhƣ Ngƣu Lang gặp hội

Chàng gặp thiếp nhƣ hạc đỗ lƣng qui

Cứ lời anh dặn em ri

Giàu sang mặc họ, khó khăn chi cũng vợ chồng.

207. Thiếp vì chàng, thiếp mới lênh đênh nơi biển ái

Chàng vì thiếp mới lỗi đạo tâm can

Em đây thủ tiết buồng lan

Dẫu hồn về chín suối, hãy còn mang tƣợng chồng.

208. Thiếp với chàng vƣơng mang câu tình tự

Trên thời núi Ngự dƣới có sông Hƣơng

Trăm năm thiếp quyết bó buộc hai chữ can thƣờng

Sợ là sợ cho chàng ham vui cảnh khác, lại bỏ duyên tơ hƣờng khổ

em.

209. Thứ nhất vợ dại trong nhà

Thứ hai trâu chậm thứ ba dao cùn

- Trâu chậm thời anh bán đi

Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao

Vợ dại thời đẻ con khôn

Trâu chậm chắc bƣớc dao cùn dễ băm.

210. Thƣơng chồng nấu cháo le le

Nấu canh bông lí, nấu chè hạt sen.

BK

Thƣơng chàng nấu cháo le le

Nấu canh hoa lí, nấu chè hạt sen.

211. Thƣơng nhau vì nết, chẳng hết chi ngƣời

Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời

Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh

- Nghe em phân cạn, vô hạn thƣơng tâm

Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm

Em thề không thuyền khác ôm cầm

Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu.

212. Thƣơng ai bằng nỗi thƣơng con

Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.

BK

- Thƣơng ai ví bằng thƣơng con

Page 195: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

194

Thƣơng ai ví bằng gái son nhớ chồng.

- Thƣơng ai ví bằng thƣơng con

Thƣơng ai ví thể gái son nhớ chồng.

213. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng

Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng.

BK

Yêu ai cho bằng yêu chồng

Bởi chồng cờ bạc, nên lòng không yêu.

214. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng

Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng

Khuyên chàng cờ bạc thì chừa

Rƣợu chè trai gái say sƣa mặc lòng.

215. Thƣơng cha thƣơng mẹ có hồi

Thƣơng anh nhƣ đọi nƣớc sôi đổ đầy.

BK

Thƣơng cha thƣơng mẹ có khi

Thƣơng em lúc đứng, lúc đi lúc ngồi

Thƣơng cha thƣơng mẹ có hồi

Thƣơng em lúc đứng, lúc ngồi cũng thƣơng.

216. Thƣơng chồng nên phải gắng công

Nào ai xƣơng sắt da đồng chi đây.

217. Thƣơng chồng nên phải lầm than

Xƣa nay ai bắt việc quan đàn bà.

218. Thƣơng chồng phải khóc mụ gia

Gẫm tôi với mụ có bà con chi.

219. Thuyền bầu trở lái về đông

Con đi theo chồng để mẹ cho ai?

Mẹ già đã có con trai

Con là phận gái dám sai chữ tòng?

Chỉ thề nƣớc biếc non xanh

Theo nhau cho trọn tử sinh cũng đành

Trời cao bể rộng mông mệnh

Ở sao cho trọn tấm tình phu thê

Trót đà ngọc ƣớc vàng thề

Dầu mà cách trở giang khê cũng liều.

220. Tôi đà biết tính chồng tôi

Cơm no thì nƣớc, nƣớc thôi thì trầu.

221. Trăm năm ai chớ bỏ ai

Nghĩa trong vàng đá, tình ngoài nƣớc mây.

222. Trăm năm ai chớ bỏ ai

Chỉ thêu nên gấm sắt mài thành kim.

Page 196: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

195

223. Trăm năm cũng bạn với ta

Gặp nơi long ẩn thuỷ ba cũng đừng.

224. Trăm năm đã nát vàng phai

Ngã thì lại dậy, kén ai trên đời

Trăm năm đã nát vàng mƣời

Ngã thì lại dậy, ai cƣời mặc ai.

225. Trăm năm dạ ở đinh ninh

Nào ai phụ ngãi, quên tình mặc ai!

226. Trăm năm lòng gắn dạ ghi

Nào ai thay nút, đổi khuy cũng đừng.

227. Trăm năm lòng gắn dạ ghi

Dầu ai đem bạc đổi chì mặc ai

228. Trăm năm tạc đá bia vàng

Đá thời thành gạch ngãi chàng không quên.

229. Trăm năm tạc một chữ đồng

Dù ai thêu phụng vẽ rồng cũng không.

230. Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng

Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.

231. Trăm năm ƣớc bạn chung tình

Trên trời dƣới đất có mình với ta.

232. Trăng lên vành vạnh trăng tròn

Trƣớc răng sau rứa đừng còn đổi thay.

233. Trăng tròn chỉ có đêm rằm

Tình ta tháng tháng, năm năm vẫn tròn.

234. Trời hè lắm trận mƣa rào

Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa

Khuyên em chớ ngại nắng mƣa

Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.

235. Trời xanh nƣớc biếc một màu

Em cƣời là khóc, em sầu là tƣơi

Nỗi lòng cực lắm anh ơi

Dâu con ăn ở đôi nơi song toàn

Ai ngờ chỉ thắm dây oan

Ai ngờ Tần Tấn mà nên Việt Hồ

Một thân năm liệu bảy lo

Chiều chồng, đôi họ, mẹ cha cũng chiều.

236. Trót lời hẹn với lang quân

Dẫu rằng gió Sở mƣa Tần cũng đi.

237. Trót lời hẹn với lang quân

Dẫu rằng mƣa Sở gió Tần cũng đi

Yêu nhau sớm đợi tối chờ

Page 197: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

196

Dẫu rằng dãi gió dầu mƣa mặc lòng.

238. Vì chàng thiếp phải bắt cua

Những nhƣ thân thiếp, thiếp mua ba đồng

Vì chàng thiếp phải long đong

Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.

239. Vì chàng thiếp phải bắt cua

Những nhƣ thân thiếp, thiếp mua ba đồng

Vì chàng nên phải mua mâm

Những nhƣ thân thiếp, bốc ngầm cũng xong

Vì chàng thiếp phải long đong

Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.

240. Vì chàng thiếp phải long đong

Những nhƣ thân thiếp cũng xong một bề.

241. Vì chàng thiếp phải ngả mâm

Những nhƣ mình thiếp bốc ngầm trong niêu

Vì chàng những thuế cùng sƣu

Những nhƣ mình thiếp một niêu cũng thừa.

242. Vì chàng thiếp phải ngủ ngồi

Nghĩ nhƣ thân thiếp tìm nơi mà nằm.

243. Vợ chồng là nghĩa già đời

Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.

244. Vợ chồng là nghĩa phu thê

Tay ấp má kề, sinh tử có nhau

Chẳng tham của sẵn anh đâu

Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay

Bao giờ cho đặng sum vầy

Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui.

245. Vợ chồng là nghĩa tao khang

Chồng hoà vợ thuận nhà thƣờng yên vui

Sinh con mới ra thân ngƣời

Làm ăn thịnh vƣợng đời đời ấm no.

BK

Vợ chồng là nghĩa tao khang

Chồng hoà vợ kính nhà thƣờng yên vui

Sinh con mới ra mặt ngƣời

Làm ăn thanh thản đời đời không lo.

246. Vợ chồng là nghĩa tao khang

Chồng hoà vợ huận gia đƣờng yên vui.

247. Vì tằm em phải chạy dâu

Vì chồng em phải qua cầu đắng cay.

248. Vợ chồng đầu gối, má kề

Page 198: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

197

Lòng nào mà bỏ, mà về cho đang

Hồ về, chân lại đá ngang

Về sao cho đứt cho đang mà về.

249. Vợ chồng kết tóc trên trời

Đói no ta sẽ lấy lời bảo nhau

Ăn thƣờng cơm muối canh rau

Hàn vi thuở trƣớc, thuở sau thanh nhàn.

250. Vợ chồng nhƣ đôi cu cu

Chồng thì đi trƣớc, vợ gật gù theo sau.

251. Vợ chồng nhƣ nút với khuy

Sao anh không than vãn lời gì cho em nghe?

252. Vợ nên rồng, chồng nên Tiên

Quí lại gặp quí, bạn hiền gặp nhau.

253. Xấu xa cũng thể chồng ta

Dẫu rằng tốt đẹp cũng ra chồng ngƣời.

254. Xét ra trong đạo vợ chồng

Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.

255. Xin anh đi học cho ngoan

Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài

Quan tiền dài em ngắt làm đôi

Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già

Bát cơm em nấu nhƣ hoa

Bát canh em nấu nhƣ là mật ong

Nƣớc mắt em lọc cho trong

Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan.

256. Xin chàng giữ lấy bút nghiên

Đừng tham nhan sắc chớ quên học hành

Nữa mai đƣợc chiếm khoa danh

Trƣớc là vinh thiếp sau mình vinh thân.

257. Xin chàng kinh sử học hành

Để em cày cấy, cửi canh kịp ngƣời

Mai sau xiêm áo thảnh thơi

Ơn Trời lộc nƣớc đời đời hiển vinh.

258. Yêu nhau cho mặn cho mà

Chồng vợ thuận hoà trong ấm ngoài êm.

2.2. ®¹O NGHÜA Vî chỒng

STT NÉI DUNG

Page 199: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

198

1. Ai chÌo ghe bÝ qua s«ng

§¹o vî nghÜa chång nÆng l¾m anh ¬i!

2. Anh em cèt nhôc ®ång bµo

Vî chång lµ nghÜa lÏ nµo ch¼ng th­¬ng?

3. Anh tíi nhµ em, anh ¨n c¬m víi c¸

Em tíi nhµ anh, em ¨n rau m¸ víi cua ®ång

Khã em chÞu khã, ®¹o vî chång em vÉn th­¬ng.

4. CÇu m« cao b»ng cÇu danh väng

NghÜa m« nÆng b»ng nghÜa chång con

VÝ dÇu n­íc ch¶y ®¸ mßn

Xa nhau ngh×n dÆm lßng cßn nhí th­¬ng.

5. Ch÷ r»ng: qu©n tö t¹o ®oan

Vî chång lµ nghÜa ®¸ vµng tr¨m n¨m.

6. §¹o cang th­êng khã l¾m b¹n ¬i

Ch¼ng dÔ nh­ ong b­ím ®Ëu råi l¹i bay

§¹o cang th­êng kh¸ dÔ ®æi thay

DÇu lµm nªn vâng gi¸, rñi ¨n mµy còng theo nhau.

BK

- Ch¼ng nh­ ong b­ím ®Ëu råi l¹i bay .

7. §¹o vî chång h«m Êp mai «m

Ph¶i ®©u cua c¸ víi t«m

Khi ®ßi mí nä khi chåm mí kia.

8. §Çu ®éi chóa, vai mang cèt mÑ

Tay d×u d¾t cha giµ

GÆp mÆt ®©y n­íc m¾t nhá sa

Thß tay trong tói bµ ba

LÊy c¸i kh¨n mu soa anh chÆm

§¹o vî chång ngµn dÆm kh«ng quªn.

9. §èn c©y ai nì døt chåi

§¹o chång nghÜa vî, giËn råi l¹i th­¬ng.

10. ë lµm ri ®©u cho trän nghÜa vî chång

§æ må h«i em chÆm, ngän giã lång em che.

11. ở sao nhƣ lụa đừng phai

Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên.

12. Em nghe anh tỏ lời này

Em đòi để bỏ nhƣ vầy sao nên

Tao khang nghĩa ở cho bền

Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà.

13. Gai trong bụi ai vót mà nhọn

Đạo vợ chồng ai chọn mà cân

Trên trời đã định xây vần

Page 200: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

199

Xây cho gấp gấp trong lần năm nay.

14. Hữu bằng tự viễn phƣơng lai(1)

Lạc hồ quân tử(2) lấy ai bạn cùng

Chữ hiếu, là thầy với mẹ

Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân

Yêu nhau bao quản xa gần.

(1) và (2) Hữu bằng tự viễn phƣơng lai, lạc hồ quân tử: nguyên nhân

là một câu trong thiên "Học nhi" của sách "Luận ngữ". Trọn câu là:

"Hữu bằng tự viễn phƣơng lai, bất diệc lạc hồ". Có thể hiểu câu đó

một cách đơn giản nhất là: có ngƣời bạn từ phƣơng xa đến khá lại

không vui mừng ƣ.

15. Làm ngƣời phải biết cƣơng thƣờng

Xem trong ngũ đẳng, quân vƣơng ở đầu

Thờ cha, kính mẹ trƣớc sau

Anh em hoà thuận mới hầu làm nên

Vợ chồng đạo nghĩa cho bền

Bạn bè cho thực, dƣới trên đứng thƣờng.

16. Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh

Bánh nào trắng bằng bánh bò bông

Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng

Đêm nằm nghĩ lại, nƣớc mắt hồng tuôn rơi.

17. Lấy nhau cho trọn đạo Trời

Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.

18. Mình đƣa bâu áo tui viết tháo vài hàng

Trƣớc thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu

Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu

Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền.

19. Mình đừng sầu muộn ốm đau

Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng

Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng

Cang thƣờng li biệt, đạo vợ chồng còn thƣơng.

20. Một thƣơng, hai thƣơng

Ba thƣơng, bốn nhớ

Đạo chồng, nghĩa vợ

Là đức cù lao

Nhớ khi trăng gió, mƣa rào

Trăm năm gối phƣợng má đào bên em.

21. Một thƣơng, hai thƣơng, ba thƣơng, bốn nhớ

Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao

Sông sâu ai dám tới đào

Bạn về nhà bạn, nƣớc mắt ào nhƣ mƣa.

Page 201: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

200

22. Nay mai anh lại sang Tây(1)

Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh

Không đi thì sợ không lành

Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền

Em ở nhà bình yên buôn bán

Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau

Anh đi chỉ dặn mấy câu

Em về cố giữ lấy màu cho xinh

Nhờ em mọi việc gia đình

Tứ thân phụ mẫu một mình em lo

Em đã là con nhà gia giáo

Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền

Anh đi vì lệnh quan trên

Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về

Bấy giờ sum họp đề huề

Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui

Đạo vợ chồng giờ xui ra thế

Anh nói câu này em để trong tai

Bấy kì thứ bảy, thứ hai

Anh đi em tiễn ra ngoài la ga

Gửi lời thăm hỏi ông bà

Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng

Còn đây một chút bế bồng

Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn

Xa anh lấy đó làm tin

Cũng là bớt nỗi ƣu phiền chia li

Anh đành gạt lệ ra đi

Thƣơng anh chẳng biết nói gì nữaa đâu.

(1)Thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914-1918) thực dân Pháp

dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính sang Pháp.

23. Nghĩa tao khang ai đà vội dứt

Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi

Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời

Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau.

24. Nhà em có bụi trầu cay

Nhà anh có khách sang vay lá vàng.

Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn

Thời buổi này kén chọn làm chi

Yêu nhau lấy quách nhau đi

Ở trong giá thú luận cho hoá tài

Đƣờng còn dài, trông sao cho xiết

Page 202: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

201

Đạo vợ chồng ai biết đói no

Quí hồ thầy mẹ gả cho.

25. Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng

Ngƣời trong một nƣớc thì thƣơng nhau cùng

Phu thê trong nghĩa tƣơng phùng

Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai

Tấm đá hoa ghi tạc để đời.

26. Phụ hề sanh, mẫu hề dƣỡng

Đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng (1)

Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phƣơng

Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn

sông Hƣơng đợi chờ.

(1) Phú hề sanh, mẫu hề dƣờng, đạo mạc trọng ƣ cƣơng thƣờng: Cha

mẹ có sông sinh ra và nuôi dƣỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải coi

trọng cƣơng thƣờng (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử

truyền thống).

27. Phƣợng chắp cánh lòng còn đợi gió

Rồng chờ trăng còn đậu trên mây

Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày

Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa.

28. Sạch con thì lắm ngƣời bồng

Xinh chồng thì lắm ngƣời thƣơng

Tin chàng lòng dạ nhƣ gƣơng

Không quên nghĩa thiếp, ngƣời thƣơng mặc ngƣời.

29. Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nạm lá anh xông

Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.

BK

Tai em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng vƣợt sá, bẻ nạm lá anh xông

Có làm gì vậy mới trọn đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che.

30. Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1)

Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình

Một câu phân với nữ trinh

Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung

Hai câu ta phân với anh hùng

Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời

Ba câu anh nói, em phải nghe lời

Đừng nghe lời thá sự, (2) đổi lời duyên ta

Page 203: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

202

Bốn câu nuôi chút mẹ già

Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi.

(1) Hoà châu: hoà ngƣời mắt.

(2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời.

31. Tay bƣng đĩa muối chấm gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau

Tay bƣng đĩa muối sàng rau

Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham.

32. Thang mô cao bằng thang danh vọng

Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con?

Trăm năm nƣớc chảy đá mòn

Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thƣơng.

33. Thƣơng nhau vì nết, chẳng hết chi ngƣời

Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời

Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh

- Nghe em phân cạn, vô hạn thƣơng tâm

Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm

Em thề không thuyền khác ôm cầm

Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu.

34. Vợ chồng là nghĩa già đời

Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.

35. Vợ chồng là nghĩa phu thê

Tay ấp má kề, sinh tử có nhau

Chẳng tham của sẵn anh đâu

Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay

Bao giờ cho đặng sum vầy

Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui.

36. Vợ chồng là nghia tao khang

Chồng hoà vợ huận gia đƣờng yên vui.

37. Vợ chồng là nghia tao khang

Chồng hoà vợ thuận nhà thƣờng yên vui

Sinh con mới ra thân ngƣời

Làm ăn thịnh vƣợng đời đời ấm no.

BK

Vợ chồng là nghĩa tao khang

Chồng hoà vợ kính nhà thƣờng yên vui

Sinh con mới ra mặt ngƣời

Làm ăn thanh thản đời đời không lo.

38. Xét ra trong đạo vợ chồng

Cùng nhau tƣơng cậy đề phòng nắng mƣa.

Page 204: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

203

2.3. ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT

STT NỘI DUNG

1. Ông Nguyệt Lão (1) ngồi rồi xe chỉ thắm

Xe bốn tôi vào làm bạn với tiên cung

Lòng ƣớc ao sánh với nhau cùng

Đây với đấy duyên phận phải chiều

Tơ hồng vấn vít, chỉ điều xe săn

Cầm tay, giao mặt rõ ràng

Chỉ thề nƣớc biếc nhà hằng dám quên

Bốn tôi lên miếu xuống đền

Lên đền, xuống miếu dám quên đâu là

Canh ba nghe vẳng tiếng gà

Gà đƣơng gáy giục, dạ đà tƣơng tƣ

Canh tƣ chuông khắc trên lầu

Trên lầu chuông khắc, đã rầu chiêu đăm

Bây giờ sang trống canh năm

Tâm hồn chuyển động, giục xuân bồi hồi

Nhớ ai hết đứng lại ngồi

Hết nằm lại chỗi, hết ngồi lại đi

Phải khi sóng gió bất kỳ

Tƣởng chi đến nguyệt, tiếc gì đến xuân

Đã sinh ra số phong trần.

2. Ông Tơ bà Nguyệt đi đâu?

Không về mà gỡ mối sầu cho ta

Ông Tơ bà Nguyệt ở nhà

Không đi mà gỡ cho ra mối sầu.

3. Ông Tơ hồng ơi! Sao ông đành dạ đành lòng

Đôi lứa tôi nhƣ sợi chỉ lộn vòng

ông không xe lại, để lòng nhớ thƣơng.

4. Ông Tơ xe chi nghe đà oan khổ

Xe anh lúc còn ở lổ (1)

Xe em thuở chƣa mặc quần

Anh thƣơng em từ thuở lọt lòng

Ông Tơ xe sao đƣợc tơ hồng mà xe.

(1) Ở lô: ở truồng.

5. Đôi chúng ta duyên phận phải chiều

Dây tơ hồng đang xe vấn vít

Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt khéo xe

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.

6. Đôi chúng ta duyên phận phải chiều

Page 205: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

204

Dây tơ hồng đang xe vấn vít

Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt(1) khéo xe

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.

7. Đôi ta nhƣ vợ với chồng

Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng chƣa xe.

8. Đã thành gia thất hay chƣa

Mà anh ƣớc những mây mƣa cùng ngƣời?

- Tuổi anh đang độ thơ đào

Ông tơ chƣa định nơi nào xe duyên.

9. Đêm nằm đặt lƣng xuống chiếu

Nghe mấy lời thiết yếu em than

Mau mau trỗi dậy ruột gan đau từ hồi

Canh khuya anh thở vắn than dài

Vái xin Nguyệt Lão trúc mai một nhà

Chữ cận là gần Chữ viễn là xa

Anh với em cách trở tại mẹ cha không đành

Ngãi nhân nay đã gần thành

Mình về thƣa lại phụ mẫu đành tôi ƣng.

10. Đêm ngắn, tình dài

Tƣơng tƣ bao nhạt, bao phai hỡi tình!

Bỗng đâu mắc mối xích thằng

Khăng khăng ngƣời buộc, ai giằng cho ra

Lên tận trăng già

Hỏi ông Nguyệt Lão có nhà hay không.

11. Đêm qua bƣớc chân lên trời

Lạc đƣờng lạ ngõ gặp ngƣời cung Tiên

Ƣớc chi duyên sẽ bén duyên

Cho duyên cõi thọ, thành duyên cõi trần

Dạ buồn chân bƣớc phân vân

Trời xui anh thẳng tới sân tơ hồng

- Ông Tơ, ông có nhà không

Ông ra xua chó cho tôi cùng với nao!

Tơ duyên ông cất nơi nao

Cất trong chum quả, hay vào ao sen?

Ngƣời nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền một đôi

Còn nhƣ ông ấy với tôi

Thì ông xe thẳng làm đôi vợ chồng.

12. Đêm qua nguyệt đổi sao dời

Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan

Lời thề xƣa đã lỗi muôn vàn

Page 206: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

205

Mảnh gƣơng còn đó, phím đàn còn đây

Ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão sao khéo xe dây

Xe cho các cô mình ấy lấy chúng anh đây cũng vừa.

13. Đồn đây có gái má đào

Các Đằng đƣa lại, anh hào tới đây

Trƣớc nhờ Nguyệt Lão xe dây

Sắt cầm đƣa lại đó đây một nhà.

14. Đấy với đây chẳng duyên thì nợ

Đây với đấy chẳng vợ thì chồng

Dây tơ hồng chƣa xe đã mắc

Rƣợu quỳnh tƣơng chƣa nhắp đã say

Chẳng nhè chẳng chén sao say

Chẳng thƣơng chẳng nhớ sao hay đi tìm?

Tìm em nhƣ thể tìm chim

Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông.

15. Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu

Bóng trăng đủng đỉnh ra màu khơi trêu.

Ớ ông Tơ! ông để vƣơng đâu sợi chỉ điều

16. Ai ơi đợi mấy tôi cùng

Tôi còn gỡ mỗi tơ hồng(1) chƣa xong

Tơ hồng hồ gỡ đã xong

Ai đem cái bối bòng bong buộc vào.

(1) Tơ hồng, ông Tơ, Nguyệt lão: Theo tục u quái lục, Vi Cố, ngƣời

đời Đƣờng, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dƣới

bóng trăng đang kiếm sổ sách (Nguyệt Lão) trong túi có một cuộn dây

đỏ. Vi Cố hỏi chuyện ông già cho biết: "Cuốn sách là sổ hôn nhân và

cuộn dây đỏ dùng để buộc nam nữ lại với nhau. Dầu cho hai bên có

thù hằn với nhau hoặc dù ở cách xa nhau, đã lấy dây đỏ buộc đôi nam

nữ lại thì tất sẽ thành vợ chồng". Do điển này mà những từ Xích

thằng, Tơ Hồng, chỉ hồng, chỉ thắm v.v... đều chỉ tình vợ chồng, và

Nguyệt lão, Trăng Già, Ông Tơ... Đều chỉ ngƣời làm mai mối trong

việc hôn nhân.

17. Ai ơi đợi với tôi cùng

Tôi còn dở mối tơ hồng chƣa xe.

BK

Anh ơi đợi với tôi cùng

Tôi còn gỡ mối tơ hồng chƣa xong.

18. Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn dở mối tơ hồng chửa xe

Có nghe nín lặng mà nghe

Những lời anh nói nhƣ xe vào lòng.

Page 207: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

206

19. Ai xinh thì mặc ai xinh

Ông Tơ chỉ quyết xe mình với ta.

20. Anh về sao đƣợc mà về

Dây giăng tứ phía tính bề gặp anh

Dây giăng mặc kệ dây giăng

Ông Tơ bà Nguyệt đón ngăn cùng về.

21. Bây giờ tác hiệp nhân duyên

Ngƣời hiền gặp đƣợc bạn Tiên từ rày

Xin ngài đừng ngại đấy đây

Để cho Nguyệt Lão xe dây muôn đời

Xin nàng đừng ngại gần xa

Để cho chén ngọc đũa ngà có đôi.

22. Bây giờ ta lại gặp ta

Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây

Xe vào nhƣ gió nhƣ mây

Nhƣ chim loan phƣợng đỗ cây ngô đồng

Thuyền quyên sánh với anh hùng

Những ngƣời thục nữ sánh cùng văn nhân

Tình xa nhƣng ngãi còn gần

Tràng An quận Bắc giao lân thế nào?

23. Bắc thang lên đến tận trời

Tìm ông Nguyệt Lão đánh mƣời cẳng tay

Đánh rồi lại trói vào cây

Hỏi ông Nguyệt Lão: nào dây tơ hồng?

Nào dây xe bắc xe đông

Nào dây xe vợ xe chồng ngƣời ta?

Ông vụng xe, xe phải vợ già

Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!

BK

Bắc thang lên đến tận trời

Bắt ông Nguyệt Lão đánh mƣời cẳng tay

Đánh thôi lại trói vào đây

Hỏi ông Nguyệt Lão: Nào dây tơ hồng.

24. Bắt ông Tơ mà cho ba đấm

Bắt bà Nguyệt, đánh bốn mƣơi chín cái hèo

Duyên ngƣời ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều mới xe.

25. Bắt tay ông Tơ mà bơ mà bớp

Bắt lấy bà Nguyệt mà cột cội cau

Cứ xe khắp thiên hạ đâu đâu

Bỏ hai đứa mình lận đận ruột héo gan sầu không xe.

26. Ba năm chẳng xứng duyên hài

Page 208: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

207

Nằm lăn xuống bệ lạy dài ông Tơ.

27. Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi!

Bớ bạn tình nhân ơi!

Thân em nhƣ cái quả xoài trên cây

Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc

Nó đánh lúc la lúc lắc, trên cành

Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai?

Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thƣơng

Một lần chờ, hai lần chờ

Sớm lần nhớ, chớ lần thƣơng

Anh thƣơng em nhƣng bác mẹ họ hàng chẳng thƣơng.

BK

Bớ thảm bớ thiết ơi

Bớ bạn tình nhân ơi

Thân em nhƣ cái trái xoài trên cây

Gió đông gió tây gió nam gió bắc

Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành

Một mai vô tình nó rớt xuống biết vào tay ai?

28. Bực mình lên tận tiên cung

Đem ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời

Nữ lòng trêu ghẹo chi tôi

Lênh đênh bèo nổi, mây trôi một thì

Biết ngƣời biết mặt nhau chi

Để đêm em tƣởng, ngày thì em thƣơng

Bắc Ninh cho đến Phủ Từ

Qua cầu sông Nhị(1), ngẩn ngơ tìm ngƣời

Tìm ngƣời chẳng biết mấy nơi

Tìm ba mƣơi sáu phố thấy ngƣời ở đây.

(2) Nhị sông: còn gọi là Nhị Hà hay Nhĩ Hà, khúc sông Hồng chảy

gần Hà Nội.

29. Căn duyên này, ai phá cho rời

Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu không.

30. Công anh lên rừng đốn trúc

Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài

Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ

Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn

Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức

Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi

Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái

Đây cần câu nhân, cần câu ngãi

Page 209: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

208

Đây cần câu phải cần câu khôn

Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng

Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu

- Con cá anh đạp nó đã có cặp

Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu

Anh về sửa lại lƣỡi câu

Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng?

31. Cây cao bóng cả duyên mòn

Ƣớc gì tôi đƣợc chồng con với ngƣời

Có anh nhƣ đũa có đôi

Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thƣơng

Khối tơ vƣơng, ruột tằm vấn vít

Bởi ông Tơ bà Nguyệt chƣa xe

Quan tƣớng nghe hiệu lệnh thì về

Chữ dục đã vậy chữ tuỳ làm sao ?

Muốn cho đông liễu tây đào

Cảnh sầu bể thảm, lẽ nào thiếp mang

Phòng khi lỡ bƣớc theo chàng

Lấy ai chầu chực thành hoàng quốc gia

Phòng khi thiếp ở lại nhà

Một mình thân thiếp biết là làm sao?

32. Cổ tay vừa trắng vừa tròn

Mó vào mát lạnh nhƣ hòn tuyết đông

Đôi ta đã xứng vợ chồng

Duyên trời đã định tơ hồng đã xe.

33. Chăn đơn nửa đắp nửa hong

Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau

Từ ngày ăn phải miếng trầu

Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu

Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu

Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa

Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà

Làm cho quên cả đƣờng ra lối vào

Làm cho quên cá dƣới ao

Quên sông tắm mát quên sao trên trời

Đất Bụt mà ném chim trời

Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!

Cho nên cá chẳng bén câu

Lƣợc chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim

Thƣơng nhau nên phải đi tìm

Nhớ nhau một lúc nhƣ chim lạc đàn.

Page 210: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

209

34. Cha mẹ hồi trƣớc có xem

Ông Tơ đã định em với anh vợ chồng.

35. Con dao be bé sắc thay

Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm

Lòng tôi yêu vụng nhớ thầm

Trách ông Nguyệt Lão xe nhầm duyên ai!

Duyên tôi còn thắm chƣa phai

Hay là ngƣời đã nghe ai dỗ dành?

36. Dầu thầy mẹ không thƣơng

Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đƣờng lạy vô

Lạy cùng ông bác bà cô

Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ

Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ

Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.

37. Ở đây ai có sẵn tiền

Cho tôi mƣợn năm quan tiền, tôi quá giang ra ngoài Bắc

Tôi mua một trăm cái đục, một chục cái chàng, mƣời tám cái khoan

Tôi đóng cái thang một trăm ba mƣơi hai nấc

Tôi bắc thấu ông Trời vàng

Hỏi thăm Nguyệt Lão chớ duyên nàng về đâu?

38. Ở đây lắm kẻ gièm pha

Nói vào thì ít, nói ra thì nhiều

Thƣơng anh, thƣơng đủ mọi điều

Gió quanh em sẽ lựa chiều em che

Ai nói chi chàng chớ có nghe

Ông Tơ bà Nguyệt đã xe ta rồi

Dù ai khuyên đứng, dỗ ngồi

Thì chàng cũng cứ đãi bôi qua lần.

39. Em là con út nhất nhà

Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai

Miệng em cƣời nhƣ cánh hoa nhài

Nhƣ nụ hoa quế nhƣ tai hoa hồng

Ƣớc gì anh đƣợc làm chồng

Để em làm vợ, tơ hồng trời xe.

40. Em phải gặp ông Tơ hỏi sao cho biết

Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa cành

Nợ duyên sao sớm dứt tình cho đang.

41. Gặp đây anh nắm cổ tay

Buông ra, em nói lời này thở than

Châu Trần chớ vội bắc ngang

Page 211: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

210

Xa xôi vƣợt mấy ngày đàng nên quen

Tơ hồng chỉ thắm là duyên

Dẫu bao giờ gặp thì nên bấy giờ.

42. Hôm nay anh đi chợ trời

Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên

Tay thì cầm bút cầm nghiên

Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành

Biên ta rồi lại biên mình

Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta

Chẳng tin lên hỏi trăng già

Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình

Chẳng tin lên hỏi thiên đình

Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta

Quyết liều một trận phong ba

Để cho thiên hạ ngƣời ta trông vào

Quyết liều một trận mƣa rào

Để cho thiên hạ trông vào đôi ta.

43. Hỡi ngƣời đi ở bên bờ

Phen này ắt hẳn ông Tơ xe vào.

44. Hẹn với nƣớc non

Kim xe mũi chỉ, cho tròn vuông tơ

Nguồn ân, bể ái hẹn hò

Dẫu xa nghìn dặm, hồ đồ vẫn không

Nguồn ân một mảnh trăng trong

Có nơi xếp để tơ hồng kíp xe

Đa đoan một mảnh trăng già

Xe đâu, xe hẳn một nhà vui chung

Xe đâu, xe hẳn cho xong.

BK

Trót lời hẹn với nƣớc non

Tơ xe nên để cho tròn duyên tơ

Nguồn ân, bể ái hẹn hò

Dẫu xa nghìn dặm hồ đồ(?) giao thông

Lạnh lùng một cảnh trăng trong

Bốn tôi khấn nguyện ông tơ hồng kíp xe

Đa đoan lắm mấy ông trăng già

Xe đâu xe hẳn một nhà vui chung

Nên chăng hãy quyết cho xong.

45. Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Ông Tơ, bà Nguyệt, xe hoài chẳng thƣơng.

46. Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Page 212: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

211

Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thƣơng

Một lần chờ, hai lần đợi

Ba lần nhớ, bốn lần thƣơng

Anh thƣơng em, nhƣng phụ mẫu với họ hàng chẳng thƣơng.

47. Khi xƣa em ở ngoài biển anh ở trốn lâm trung

Đến nay đôi ta hội ngộ tƣơng phùng

Trời kia đã định, mối tơ hồng phải xe.

48. Kẻ về, ngƣời ở trông theo

Ngựa Hồ chim Việt đôi điều ái ân

Một mình tựa án tần ngần

Năm canh khúc ruột nhƣ dần cả năm

Vắng mình ta vẫn hỏi thăm

Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm sao?

Bấy lâu nay những khát khao

Mong chƣa thấy mặt lòng nào đã quên

Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên

Vì ai xui giục cho nên nỗi này

Trách ông Tơ ra tay hờ hững

Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày

Bây giờ hai ngả đông, tây

Trƣớc sao xe mối tơ này làm chi?

Chửa biết nhau sao không nói trƣớc

Biết nhau rồi kẻ ngƣợc ngƣời xuôi

Bao giờ cho đƣợc đủ đôi

Nhƣ sen tịnh đế một chồi hai hoa.

49. Kết phức đi đây duyên đó nợ

Kết phức đi đây vợ đó chồng

Dù ông trời chƣa định, dù ông Tơ Hồng chƣa xe.

50. Lá ngọc cành vàng

Lan huệ tốt tƣơi

Ngƣời có đôi, nhƣ đũa có đôi

Vắng tôi quan tƣớng ngẫm, quan tƣớng nghĩ, bùi ngùi nhớ trông

Lệch sai ngọc nữ kim đồng

Rẽ mây mà xuống đánh đồng giúp tôi

Gió hiu hiu ngồi chốn năm canh

Quan tƣớng đi, quan tƣớng ngẫm, quan tƣớng nghĩ cái chữ chung tình

vân vi

Thƣơng ngƣời nhƣ lá đài bi

Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sƣơng

Bối tơ vƣơng cái ruột con tằm

Bối rối, ông trăng già, bà Nguyệt khéo xe

Page 213: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

212

Quan tƣớng nghe hiệu lệnh thì về

Chữ đúc đã vậy vì làm sao?

51. Lại đây anh hỏi cho rành

Cửa nhà gia thất em thành hay chƣa?

Má hồng hƣơng thoảng gió đƣa

Hỏi nàng có chốn hay chƣa hỡi nàng?

- Khoan khoan anh hãy xe ra

Để em biết hết chuyện nhà anh hay

Phủ Hà(1) quê quán xƣa nay

Cha mẹ đã định những ngày còn thơ

Bởi vì duyên kiếp hững hờ

Số mình đã lỗi ông Tơ lại lầm

Thuyền son đậu phải vũng đầm

Tại trâu mà gảy đàn cầm biết chi!

Vậy nên em phải ra đi

Đến đâu, ai kẻ thƣơng vì hãy hay.

(1) Phủ Hà Trung: xƣa gồm bốn huyện ở phía đông Thanh Hoá là:

Hoằng Hoá, Phong Lộc, Nga Sơn, Tống Sơn.

52. Lửng lơ vừng quế soi thềm

Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này

Ở đây gần bạn gần thầy

Có công mài sắc có ngày nên kim.

BK

(a) Lửng lơ vầng quế soi thềm

Hƣơng đƣa thơm ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này?

(b) Lửng lơ vừng quế dọi thềm

Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng trốn này.

(c) Lửng lơ bóng quế dãi thềm

Nhang đƣa bát ngát càng thêm bận lòng

Page 214: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

213

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?

Thấp thoáng cái bóng ông Trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này

Rồng vàng lên đổ cạn giƣờng vây

Biết rằng đây đấy sum vày gần xa

Xăm xăm bƣớc tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không?

Xăm xăm tới gốc cây thông

Cô Đôi xin nhớ ra lòng ngẩn ngơ.

(d) Lửng lơ bóng quế dãi thềm

Nhang đƣa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng cho chăng?

Thấp thoán cái bóng ông Trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này

Rồng vàng lên bể cạn giƣơng vây

Biết rằng đây đấy sum vầy gần xa.

(đ) Lẳng lơ vừng quế dọi thềm

Chuông đƣa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng để đãy kim nhung

Biết ngƣời quân tử có dùng ta chăng?

53. Mây bay xao xác gặp rồng

Tình cờ gặp bạn tơ hồng ta xe.

54. Một đời đƣợc mấy anh hùng?

Một nƣớc đƣợc mấy ông trị vì?

Anh đừng cợt diễu em chi a

Em đang chắp chỉ chọn ngày cài hoa

Tin lên thiên thƣơng Hằng Nga

Cậy ông Nguyệt lão với bà Tơ vƣơng

Chăn loan, gối phƣợng sẵn sàng

Màn đào rủ dọc, trƣớng hồng trải ngang

Còn đang chọn đá thử vàng

Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao

Quan quan bốn tiếng thƣ cƣu

Mong ngƣời quân tử hảo cầu kết duyên

Phấn son cho phỉ tấm nguyền

Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình

Phạt kia thơ ấy rành rành,

Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lƣờng.

55. Một mình thiếp giữ lời thề

Page 215: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

214

Hai tình chớ đợi đêm khuya lạnh lùng

Ba tình gánh cát bể Đông

Bốn tình chờ đợi tơ hồng khéo xe

Năm tình một hội hai hè

Sáu tình chỉ quyết xe tơ đá vàng

Bảy tình bia tạc chứ vàng

Tám tình em quyết lấy chàng, chàng ơi!

Chín tình nhớ mãi không nguôi

Mƣời tình, tính chẳng sang chơi với tình

Tình còn vƣơng nợ ba sinh

Tính ơi, có gỡ cho tình đắp mùa đông

áo tình, tính mặc cho xong mùa hè

Tay tình, tính vốn ngồi kề

Chân tình, tính đội cũng vừa

Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.

56. Mấy năm trời qua tƣởng xa em

Hay đâu Trời định anh với em lại cang thƣờng

Ông Tơ xe sợi chỉ hƣờng

Đố em có biết điệu cang thƣờng của ai

Đêm cách bức, ngày chẳng vãng lai

Ông Tơ xe mối chỉ cho hai đứa mình

Chỉ tơ đứt mói thình lình

Bậu ơi, thƣơng chƣa phải dạ mà tình đã khiến xa.

57. Năm Thìn trời bão thình lình

Kẻ trôi ngƣời nổi, hai đứa mình còn đây

Tơ hồng nay đã về tay

Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình

Điệu phu thê mình giữ trọn tình

Để phụ mẫu hay đặng đánh mình đau tôi.

58. Năm voi anh đúc năm chuông

Năm cô anh đóng năm giƣờng bình phong

Còn một cô bé chửa chồng

Lại đây anh kén cho bằng lòng cô

Một là ông Cống, ông Đồ

Hai là ông Bát, ông Cửu, ông Đô cũng vừa

Giả ơn bà Nguyệt, ông Tơ

Sớm đi cầu Thƣớc, tối mơ mộng hùng

Cho mau cửa lại treo cung

Để cho cô bế cô bồng cô ru

Cô ru rằng:

Con ăn, con bú, con nô

Page 216: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

215

Con lẫy, con bò, con chững, con đi

Ngày sau con cả lớn khôn

Con học, con thi, nhảy ba tầng sóng kinh kì khai nhan.

59. Nằm đêm nghĩ lại trách thầm

Ông Tơ sao cắc cớ(1)

Nhớ ai, rứt xé ruột tằm

Mơ hình tƣởng bóng, luỵ dầm thấm bâu.

(1) Cắc cớ: oái oăm, ngƣợc đời.

60. Nào em phụ nghĩa bỏ chồng

Bởi chƣng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi.

61. Ngày nay Nguyệt Lão vấn vƣơng

Trăm năm quyết giữ tao khƣơng một đời.

62. Ngồi buồn trách mẹ trách cha

Trách ông Nguyệt Lão, trách bà xe dây.

63. Ngậm ngùi chả dám nói ra

Những lời ngào ngạt chật nhà năm gian

Ông Tơ sao khéo đa đoan

Một lời lan huệ, đá vàng thuỷ chung.

64. Nghĩa non sông há dễ thờ ơ

Hay là tình tự đợi chờ đã lâu

Vẻ chi từ giã cùng nhau

Điều chi nói thực kẻo sầu ai mang

Ông Tơ sao khéo đa đoan

Đang vui xao nỡ để đàn ngang cung

Cùng nhau gắn bó thuỷ chung

Trăm năm tạc dạ ghi lòng dám sai

Đã đành hợp tác bởi Trời

Bởi Trời nhƣng cũng có ngƣời mới nên

Một lời đây đó là duyên

Chớ nên chểnh mảng để phiền cho nhau.

65. Nhác trông em cái áo vá vai

Thầy mẹ em vá hay tài vá nên

Cái mụn vá em trông cũng có duyên.

BK

Nhác trông tấm áo vá vai

Thầy mẹ anh vá hay tài vá nên?

Nhác trông tấm áo có duyên

Miệng cƣời hoa nở, càng nhìn càng ƣa

áo anh, em mặc cũng vừa

Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.

66. Nhân bất tri nhi bất uẩn

Page 217: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

216

Bất diệc quân tử hồ?

Anh thƣơng em ruột héo gan khô

Trách ai phân rẽ Hán Hồ đôi nơi

Cánh bèo mặt nƣớc nổi trôi

Thƣơng nhau phải nhớ những lời sớm trƣa

Lạc bầy chim nhạn bơ vơ

Đôi ta không nợ ông Tơ bỏ liều

Sao trên trời bao nhiêu

Qua thƣơng bậu bấy nhiêu

Ngày đêm qua nhớ bậu, những trăm chiều quặn đau.

67. Nhờ ai lên đến cung mây

Hỏi ông Nguyệt Lão nào dây tơ hồng

Nào dây xe bắc xe đông

Nào dây xe vợ xe chồng ở đâu.

68. Nƣớc chảy đã vẫn chƣa mòn

Ƣớc gì kết ngãi nƣớc non với chàng

Ƣớc gì tạc đá ghi vàng

Ƣớc gì em sánh với chàng từ đây

Ƣớc gì Nguyệt Lão xe dây

Xe cho mình đấy ra đây một nhà.

69. Phải em gặp ông Tơ, hỏi sơ cho biết

Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa nhành

Nợ duyên sao sớm dứt cho đành dạ em?

BK

Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết

Phải gặp bà Nguyệt, gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa nhành

Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ em?

70. Phụ anh, tội lắm bớ nàng!

Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn.

71. Quyết lên trời kiện đến ông Tơ

Nơi thƣơng không vấn, vấn vơ nơi nào.

72. Rồi đây ta kiện ông Tơ

Nơi thƣơng không vấn, vấn vơ nơi nào.

73. Rủ nhau đi gánh nƣớc thuyền

Đứt quãng vỡ sải nƣớc liền ra sông

Nhất chờ, nhị đợi, tam mong

Tứ thƣơng, ngũ nhớ, lục mong, thất bát cửu chờ

Mặt trời đã xế về nam

Trách ông Tơ Hồng cùng bà Nguyệt Lão đa đoan nửa chừng!

Page 218: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

217

Cây muốn lặng, gió chẳng muốn dừng.

74. Sáng trăng suông sáng cả bờ sông

Ta đƣợc cô ấy ta bồng ta chơi

Ta bồng ta tếch lên trời

Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?

75. Tôi rằng:

Lâm Tri (1) chút ngãi đèo bòng

Hỏi ngƣời còn nhớ hay lòng đã quên

Chữ chung tình gánh nặng đôi bên

Dƣới dòng nƣớc chảy đôi bên có cầu

Có lòng hạ cố đến nhau

Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã nhiều

Những là đắp nhớ đổi sầu

Tuyết sƣơng nhuộm nửa mái đầu huê râm

Ngày thì luống những âm thầm

Đêm nằm ít cũng tám, chín mƣời lần chiêm bao

Tối qua lên tận trên mây

Tôi bẩm là mây

Hôm nay mới đƣợc đến đây hầu ngƣời

Thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng

Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng

Dây nào xe vợ xe chồng ngƣời ta

Dây nào xe phố Thanh Hoa

Thì ông xe lại cho liền lỡ duyên

Thì ông xe lại ngƣời ta cho liền

Dây nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền ông ơi!

Dây nào xe bốn chúng tôi

Xe chín lần kép, xe mƣời lần đơn.

(1) Lâm Tri: địa danh dùng trong truyện Kiều của Nguyễn Du,

nguyên là tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

76. Tối qua lên tận trên mây

Hôm nay mới đƣợc đén đây hầu ngƣời

thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng

Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng

Dây nào xe vợ, xe chồng ngƣời ta

Dây nào xe phố thành hoa

Thì ông xe lại ngƣời ta cho liền

Dây nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền ông ơi!

Dây nào xe bốn chúng tôi

Page 219: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

218

Xe chín lần kép, xe mƣời lần đơn.

77. Thẩn thơ tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay chăng?

Ngọn đèn thấp hoáng dƣới bóng ông trăng

Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này.

78. Thuyền quyên gặp kẻ anh hùng

Tay mang nguyệt lão, tay bồng càn khôn.

79. Trách ông Tơ cùng bà Nguyệt Lão

Xe dây vào lại đảo dây ra.

80. Trách ông tơ xe lơi mối chỉ

Trách bà Nguyệt để lỗi đạo tao khang

Vì ai phân rẽ đôi đàng

Dù cho đó dặng chốn giàu sang

Phải nhớ mấy câu ân tình thuở trƣớc chớ có phụ phàng duyên em.

81. Trách ông Tơ ba bảy mƣơi phần

Dây xe chƣa chắc đã lần dây ra.

82. Trách ông tơ giận với bà Tơ

Nơi khẩn cầu không mộ, nơi thờ ơ buộc vào.

83. Trời đã vẹn toàn

Công em lặn suối qua ngàn trèo non

Em thấy ngƣời đôi đã đáng đôi

Nhân duyên cũng bởi ông Trời chả xe

Mảnh tơ tình ai xẻ làm hai

Để em chờ đợi mấy ngƣời đáng đôi.

bk a-Giời đã vẹn toàn

b-Nhân duyên cũng bởi ông Tơ Hồng chả xe.

84. Vái ông Tơ vài ve rƣợu thiệt

Vái bà Nguyệt dăm bảy con gà

Xui cho đôi lứa hiệp hoà

Nếu mà đặng vậy, sau trả lễ ông bà chẳng sai.

85. Vái ông Tơ đôi ba chầu hát

Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh

Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm tình

Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ƣng.

86. Vái ông Tơ một đĩa bánh bò bông

Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.

87. Vì ông Tơ ham đánh bài xẹp

Vì bà Nguyệt ham đánh bài linh

Xe dây không rành mối, nên duyên nợ đôi đứa mình lửng lơ.

88. Xăm xăm tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không ?

Page 220: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

219

Bạn loan nay đã có chồng

Hay còn ở ngã ba Bông lững lời?

2.4. NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC

TRONG QUAN HỆ VỢ CHỒNG

STT NỘI DUNG

1. Ai ơi đợi mấy tôi cùng

Tôi còn đốt mã cho chồng tôi đây

Chồng tôi mới đƣợc ba ngày

Ai ơi có đợi tôi rày hay không .

2. Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau

Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi

Làm thì xem chẳng ra gì

Làm tất làm tả nói thì điếc tai

Đi ngủ thời hết canh hai

Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu

Sớm ngày đi cắt cỏ trâu

Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!

Hết mẹ rồi lại đến thầy

Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi

Nói thì nói thật là dai

Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều

Phận em là gái nhà nghèo

Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng

Nói ra đau đớn trong lòng

Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời.

3. Anh đi ghe nổi chín chèo

Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo

- Nợ treo mặc kệ nợ treo

Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.

4. Anh ham xóc đĩa cò quay

Máu mê cờ bạc, lại hay rƣợu chè

Eo sèo công nợ tứ bề

Kẻ lôi ngƣời kéo, ê chề lắm thay!

Nợ nần em trả, chàng vay

Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi!

5. Anh về rẫy vợ anh ra

Công nợ em trả, mẹ già em nuôi

Bây giờ anh rẫy vợ rồi

Công nợ anh trả, anh nuôi mẹ già.

Page 221: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

220

6. Anh thua chi, thua dại thua khờ

Nhà cửa anh thua hết, đồ thờ anh cũng thua

Nay chừ em còn cái quần lãnh mới mua

Anh năn năn nỉ nỉ, anh đem thua cho rồi

Con anh đứa đặt đứa ngồi

Em than em khóc, chồng ơi là chồng!

7. ấu nào ấu lại tròn, bồ hòn nào bồ hòn lại méo

Anh mở lời nói khéo, em nghe trắc tréo khó trông

Đời thuở nhà ai hai gái lấy một chồng

Tiếc công chờ đợi, lại băng suối vƣợt đồng đến đây.

8. Bớ cô chít khăn lòm lòm

Chồng cô, cô bỏ, cô nom chồng ngƣời.

9. Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Cõng qua chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi cho tôi mƣợn cái gàu sòng

Để tôi tát nƣớc cho chồng tôi lên.

10. Buồn từ trong dạ buồn ra

Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.

11. Buồn về một nỗi phu quân

Thà rằng tát cạn cấy cần cho xanh

Phu quân sao chả thƣơng tình

Cho nên sông lở mà thành cũng xiêu

Lòng tôi áy náy trăm chiều

Phu quân có biết những điều ấy cho.

12. Cái bống cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chú lại ơi, tôi mƣợn chú cái cỗ gàu sòng

Tôi tát, tôi múc cho chồng tôi lên.

BK

a- Chú lái ơi cho tôi mƣợn cỗ gàu sòng

b- Tôi tát nƣớc cạn cho chồng tôi lên

- Để tôi tát nƣớc múc chồng tôi lên.

13. Cái cầu ba mƣơi sáu nhịp

Em chẳng kịp nhắn vội với chàng

Nghĩa tao khang sao chàng vội dứt

Đêm nằm thao thức tƣởng bức thƣ anh?

Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời

Bây giờ anh ở bạc, ông Trời nào để anh.

14. Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ tối nằm với ai.

15. Cái cò là cái cò quăm

Page 222: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

221

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.

16. Cái cuốc là cái cuốc đen

Đôi vợ chồng trẻ đốt đèn ăn cơm

Ăn hết xới xới đơm đơm

Ăn cho sạch sẽ lấy rơm mà chùi

Chồng giận chồng đánh ba dùi

Mẹ chồng chẳng chữa lại xui đánh què

Đánh cho què quặt chân tay

Hễ nó có khóc thời mày bỏ tro

Bao giờ mẹ chồng ốm ho

Nàng dâu lấy thuốc đem cho mẹ chồng

Lấy những lông cú, lông cáo, lông công

Lấy cà độc dƣợc cùng lông con mèo.

17. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ

Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu

Mẹ cha hành hạ thân dâu

Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?

18. Chiều chiều ra đứng bờ sông

Hỏi thăm chú lái, nào chồng em đâu?

- Chồng em đang ở Khuê Cầu

Đánh thua quay đất những đầu tháng giêng

Cầm khăn, bán áo, cổ kiềng

Bán nón quai lụa, bán chiêng cố nồi

Bây giờ túng lắm em ơi!

Có tiền riêng giấu mẹ mà nuôi lấy chồng.

19. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài

Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.

20. Chồng dữ thì em mời rầu

Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.

21. Chồng dữ thì em mới lo

Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.

22. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm

Còn nhƣ yêu vụng dấu thầm

Họp chợ trên bụng đến trăm con ngƣời!

23. Có chồng càng dễ chơi ngang

Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?

24. Có chồng càng dễ chơi ngang

Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?

Page 223: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

222

Vắng hôm thời đã có mai

Chồng khi đi vắng đã ai ở nhà.

25. Có chồng thì mặc có chồng

Còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau.

26. Có thằng chồng nghiền nhƣ ông Tiên nho nhỏ

Tối lại vô mùng đèn đỏ tợ sao.

27. Con cóc mà ngóc ao bèo

Tôi ngỡ anh khá tôi theo anh về

Ai ngờ công nợ rề rề

Tôi trốn tôi tránh tôi về nhà tôi

Nƣớc nóng để miệng bình vôi

Tôi ngồi tôi nghĩ thân tôi tôi buồn.

28. Con cú ăn trầu đỏ môi

Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào

Thím tôi chả bảo làm sao

Nói lên vài tiếng, lào nhào mấy câu.

29. Con hƣ bởi tại cha dong

Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.

30. Đánh vợ thời đánh sáng mai

Chớ đánh chiều tối không ai nằm cùng.

31. Đêm nằm nghĩ lại mà coi

Lấy chồng đánh bạc nhƣ voi phá nhà.

32. Dù chàng năm thiếp bảy thê

Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu.

BK

- Chàng cũng chẳng bỏ nái sề này đâu.

- Chẳng qua đƣợc cái gái sề này đâu

- Thì chàng chẳng khỏi nái sề này đâu.

33. Em là con gái Phủ Từ(1)

Lộn chồng chồng trả, theo sƣ chùa Viềng

Nó ăn thịt chó nấu giềng

Bán rau mảnh bát lấy tiền nộp cheo

Dù còn thiếu thốn bao nhiêu

Xin chàng đừng có cắm nêu ruộng chùa.

(1) Phủ Từ: Phủ Từ Sơn, nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

34. Em tham giàu lấy thằng bé tí tị tì ti

Làng trên xã dƣới thiếu gì con trai to

Em đem thân đi cho thằng bé nó giày vò

Mùa đông tháng rét nó nằm co trong lòng.

Tƣởng đến cơn em bồng đức ông chồng lên

Nó còn niên thiếu chẳng nên cơm cháo gì

Page 224: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

223

Nó cứ ngủ, đêm nó ngáy khì khì

Để nó lên bụng, nó thì rằng: thôi!

BK

(a)Em tham giàu em lấy thằng bé tí ti

Làng trên xã dƣới thiếu gì trai to

Em đem thân cho thằng bé nó giày vò

Mùa đông tháng rét nó nằm co trong lòng

Cũng mang là gái có chồng

Chín đêm chực tiết nằm không cả mƣời

Nói ra sợ chị em cƣời

Má hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh

Em cũng liều thân về thằng bé trẻ ranh

Đêm nằm sờ mó lần quanh cho nó đỡ buồn

Buồn mình em bế nó lên

Nó còn bé dại đã nên cơm cháo gì?

Nó ngủ nó ngáy khì khì

Một giấc đến sáng còn gì là xuân

Chị em ơi! Hoa nở mấy lần.

35. Gà tơ xào với mƣớp già

Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi

Ra đƣờng chị giễu em cƣời

Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng

Đêm nằm tƣởng cái gối bông

Giật mình gối phải râu chồng nằm bên

Sụt sùi tủi phận hờn duyên

Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.

36. Gió đƣa bụi chuối sau hè

Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.

37. Gió lùa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ

Gió đƣa bụi trúc ngả quì

Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!

38. Hai tay cầm hai quả bòng

Quả đắng phần chồng, quả ngọt phần trai.

39. Hai tay cầm hai quả hồng

Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai

Nằm đêm vuốt bụng thở dài

Thƣơng chồng thì ít nhớ trai thì nhiều.

40. Hồi nào lấy em, anh nói với em một rằng thƣơng hai rằng thƣơng

Đến nay anh ở ra dạ điếm đàng

Trời cao có mắt, anh có trốn lên ngàn chẳng yên.

Page 225: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

224

41. Khi anh mặt bủng da chì

Tay bƣng bát thuốc, tay thì bát canh

Bây giờ anh đẹp anh xinh

Anh lấy vợ lẽ phụ tình thiếp chăng?

42. Khi xƣa anh ở cùng ai

Bây giờ đặng chiếc thuyền hai, phụ đò

Khi xƣa anh ở cùng đò

Bây giờ đò lủng anh mò thuyền quyên.

43. Khi xƣa em ở với mẹ với cha

Một năm chín yếm xót xa trong lòng

Từ khi em về nhà chồng

Chín năm một yếm, em lộn lần trong ra ngoài.

44. Khi xƣa thiếp sáng ràng rạng nhƣ gƣơng

Thiếp liều mình trao thƣơng cho chàng

Nay chừ huệ héo lan tàn

Thầy mẹ đánh mắng, dạ chàng khiến vong.

45. Không thƣơng để thiếp lui ra

Tội gì một ổ để đôi gà ấp chung.

46. Làm gì những thói đƣa đong

Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan.

47. Làm tài trai ăn chơi cho đủ mùi

Khi uống thuốc phiện, khi vui chè tàu

Suốt năm canh năm vợ ngồi hầu

Vợ cả têm thuốc, têm trầu vợ hai

Vợ thứ ba trải chiếu chia bài

Vợ thứ tƣ coi sóc nhà ngoài nhà trong

Vợ thứ năm sửa chốn loan phòng.

48. Lấy anh anh sắm sửa cho

Dùi đục cho sẵn anh ghè đầu xƣơng

Khi vui anh gối đầu giƣờng

Khi buồn anh cứ đầu xƣơng anh ghè.

49. Lấy chồng gặp phải kẻ tồi

Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay

Cả ngày chỉ rƣợu với say

Khi nay thuốc phiện, khi mai tài bàn

Nói ra mang tiếng phủ phàng

Nín đi thì não can tràng xiết bao!

Cũng thì phận gái má đào

Ngƣời thì gặp đƣợc anh hào đảm đang

Mình thì cũng dự phấn hƣơng

Gặp nơi lều lổng, chẳng thƣơng chút nào!

Page 226: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

225

50. Mật ngọt rót xuống thau đồng

Những lời anh nói cho lòng em say

Một trâu anh sắm đôi cày

Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia.

Chàng ơi! Chàng cho em ra

Lẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung!

51. Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng

Em đã bảo mẹ rằng đừng

Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà

Bây giờ tôi bán oan gia

Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân

Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần

Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.

52. Mới hay của trọng hơn ngƣời

Giàu sang đổi bạn, khổ đời đổi duyên.

53. Một chàng hai thiếp khó phân

Anh về lƣờng lại để cầm cân cho thăng bằng.

54. Nào em phụ nghĩa bỏ chồng

Bởi chƣng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi.

55. Nào khi hai đứa mình kê chung một gối

Bởi vì ai lỡ hội ra ri?

Trách ai quên ngãi bỏ nghì

Đồng đen chê nhẹ, than chì vụng suy.

56. Ngày xƣa ta chửa lấy mày

Thời ta trải chiếu bàn tay cho ngồi

Bây giờ ta lấy đƣợc rồi

Chiếu chả cho ngồi, đất lại thả chông.

57. Ngồi buồn vuốt bụng thở dài

Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thời nhiều.

58. Ngọn roi mẹ uốn trăm chiều

Anh vô lạy mẹ bốn lạy, kẻo mẹ đánh nhiều thì em đau.

59. Nhà anh có ruộng giữa đồng

Để em tát nƣớc cực lòng em thay

Trời làm mƣa bấc gió may

Để em tát nƣớc giơ tay vái Trời

Tháng tám anh đi dạm lời

Tháng chín ăn cƣới tháng mƣời làm dâu

Từ ngày em về làm dâu

Thì anh dặn trƣớc, dặn sau nghe lời

Mẹ già ác lắm anh ơi!

Page 227: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

226

Nhịn ăn nhịn mặc, nghe lời mẹ cha

Nhịn cho nên cửa, nên nhà

Nhịn cho nên cột, xà nhà bằng bông

Nhịn cho nên vợ, nên chồng

Để em chỉ thiết một lòng lấy anh.

60. Nhà rƣờng mái lợp tranh mây

Thân anh hai vợ nhƣ cây cột dòng.

BK

a - Nhà rƣờng mà lợp tranh mây

b - Thân anh hai vợ nhƣ dây buộc mình.

61. Nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài

Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu

Rồng vàng tắm nƣớc ao tù

Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.

BK

(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau

Cái mâm triện tự đựng rau thài lài

Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài

Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.

(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài

Tiếc ngƣời da trắng tóc dài

Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.

62. Nƣớc nguồn chảy xuống soi dâu(1)

Thấy anh đánh bạc lùa trâu đi cầm

Cầm trâu, cầm áo, cầm khăn

Cầm dây lƣng lụa, xin đừng cầm tay em!

(1) Soi dâu: doi nhỏ, dài trồng dâu.

63. Nƣớc sông đổ lẫn nƣớc ngòi

Con gái Linh Xá cầm roi đánh chồng

Nƣớc sông đổ lẫn nƣớc đồng

Con gái Linh Xá dạy chồng bằng dao.

64. Nƣớc sông pha lẫn nƣớc đồng

Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm.

65. Ở đời nên phải chiều đời

Chồng thời nhƣ cú, vợ thời nhƣ Tiên

Bởi chƣng bố mẹ em tham bạc, tham tiền

Cho nên cú ở với Tiên cùn đời

Bao giờ mãn kiếp, con cú kia ơi?

Page 228: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

227

Thì Tiên với cú mới rời đƣợc nhau!

66. ớt nào là ớt chẳng cay

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng?

Nói ra đau đớn trong lòng

ấy cái nợ nần, có phải chồng đâu.

67. Rừng xanh con cọp nó gầm

Hỡi cô chồng đánh la rầm xóm kia

Đầu đuôi bởi tại chuyện chi

Hay là bởi chuyện cô mi ve ông lái mành.

68. Rƣợu chè cờ bạc lu bù

Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng.

69. Thân em đi lấy chồng chung

Khác nào nhƣ cái bung xung chịu đòn!

70. Thân em làm tốt làm lành

Lấy chồng làm lẽ nhƣ giành thủng trôn.

71. Thân em mƣời sáu tuổi đầu

Cha mẹ ép gả làm dâu nhà ngƣời

Nói ra sợ chị em cƣời

Năm ba chuyện thảm chín mƣời chuyện cay

Tôi về đã mấy năm nay

Buồn riêng thì có vui vầy thì không

Ngày thì vất vả ngoài đồng

Tối về thời lại nằm không một mình

Có đêm thức suốt năm canh

Rau héo cháo chó loanh quanh đủ trò

Ai về nhắn mẹ cùng cha

Lấy chồng nhà có, khổ ba bảy đƣờng

Đêm nằm lƣng nỏ bén giƣờng

Mụ gia đã xốc vô buồng kéo ra

Bảo lo con lợn con gà

Lo xong cối lúa, quét nhà nấu cơm

ốm đau thì mụ nỏ thƣơng

Mụ hành mụ hạ, đủ đƣờng khốn thân

Tối về bƣng bát cơm ăn

Mụ cầm cái đọi, mụ quăng vô ngƣời

Lấy chồng giàu, khổ lắm, chị ơi!

72. Thân thiếp nhƣ cánh hoa đào

Đang tƣơi đang tốt thiếp trao cho chàng

Bây giờ nhuỵ rữa, hoa tàn

Vƣờn xuân nó kém, sao chàng lại chê?

Chàng cho đôi chữ thiếp về

Page 229: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

228

Dầu chàng năm thiếp, mƣời thê, mặc chàng

Lắm quân quan nhộn nhà hàng

Lắm nơi lịch sự, hỡi chàng, chàng ơi!

Chàng ngồi chàng nghĩ mà coi

Sao chàng chẳng nghĩ những hồi ngày xƣa

Nào khi cờ bạc chàng thua

Nào quần, nào áo, thiếp mua cho chàng

Nào khi công nợ nhà hàng

Thiếp tháo nhẫn bạc nhẫn vàng trao cho

Nào khi trai gái nhà trò

Một mình thân thiếp chàng vò mấy phen

Bay giờ chàng ăn ở ra dạ bạc đen

Có bóng trăng, tình phụ bóng đèn thoảng qua

Chàng từ, thiếp cũng xin thôi

Bể hồ tát cạn, ai hôi mặc lòng.

BK

Thiếp xƣa nhƣ cánh hoa nhài

Đƣơng tƣơi đƣơng tốt, trao tay cho chàng

Thiếp nay nhuỵ rữa, hoa tàn

Hồng nhan thiếp kém, duyên chàng lại chê

Thiếp xin hai chữ thiếp về

Dù chàng năm thiếp bảy thê mặc chàng

Nƣớc sông Lèn vẫn chảy đò lại sang ngang

Nhiều ngƣời lịch sự hơn chàng chàng ơi!

Chàng ngồi ngẫm nghĩ mà coi

Sao chàng chẳng nhớ khi cờ bạc chàng thua

Ruộng nƣơng thiếp bán, thiếp đƣa cho chàng

Khi công nợ lúc lại nhà hàng

Thiếp tháo nhẫn bạc, vòng vàng trao cho

Khi trai gái lúc lại nhà trò

Phận thiếp là gái tò vò mấy phen

Bây giờ lấy mực làm đen

Lấy vôi làm trắng lấy phèn làm trong.

73. Thằng chồng em là đứa vô nghì

Tổ tôm xóc đĩa việc gì cũng ngoan.

74. Thầy mẹ đập thiếp, chàng đứng chàng coi

Sao chàng không vào cƣớp lấy ngọn roi cho thiếp nhờ?

75. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng

Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng.

BK

Yêu ai cho bằng yêu chồng

Page 230: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

229

Bởi chồng cờ bạc, nên lòng không yêu.

76. Thƣơng ai cho bằng thƣơng chồng

Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thƣơng

Khuyên chàng cờ bạc thì chừa

Rƣợu chè trai gái say sƣa mặc lòng.

77. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.

78. Trách chàng ăn ở chấp chênh

Em nhƣ thuyền thúng lênh đênh giữa dòng

May ra trời lặng nƣớc trong

Chẳng may bão táp cực lòng thiếp thay

Công thiếp vò võ đêm ngày

Mà chàng ăn ở thế này, chàng ôi!

Thiếp nhƣ hoa đã nở rồi

Xin chàng che lấy mặt trời cho tƣơi.

79. Trách duyên, lại giận trăng già

Xe tơ lầm lỗi hoá ra chỉ mành

Biết ai than thở sự tình?

Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi!

Lấy chồng gặp phải kẻ tồi

Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay

Cả ngày chỉ rƣợu sƣa say

Khi nay thuốc phiện, khi nay tài bàn

Nói ra mang tiếng phũ phàng

Nín đi thì não can tràng xiết bao!

Cũng thì phận gái má đào

Ngƣời thì gặp đƣợc anh hào dảm đang

Mình thì cũng dự phấn hƣơng

Gặp nơi lêu lổng, chẳng thƣơng chút nào!

80. Trách thân mà lại giận Trời

Trách chàng quân tử ở ra ngƣời thờ ơ!

Phòng không để thiếp đợi chờ

Năm canh vò võ những là thở than

Nào khi họp mặt chén vàng

Non nguyền biển hẹn, tƣởng chàng chẳng quên.

Ai ngờ ra bạc đen

Say bên nhan sắc bỏ bên ngãi tình

Để cho em vò võ một mình

Tƣơng tƣ khắc khoải bệnh thất tình đầy vơi

Trách thân mà lại giận Trời...

81. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi

Page 231: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

230

Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông

Gió bên đông xin chàng gỡ giúp

Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan

Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán

Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng

Em còn trong tròng xin chàng thong thả

Em quyết trận này trả của lấy cho anh

Em hai mƣơi tuổi xuân xanh

Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta

Cho nên duyên chẳng thuận hoà

Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.

82. Trời sinh ra ông tƣớng tài

Cờ bạc, xóc đĩa dông dài cả đêm

Canh trƣớc tƣớng hãy còn tiền

Canh sau cố áo ngồi bên lọ hồ

Cái ngảnh đi, thò tay móc lọ

Cái ngảnh lại, phì phò chén say

Còn tiền, đánh cái cũng hay

Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình

Tƣởng sự tình bạc này hai sấp

Chẳng ai ngờ nó lại sấp ba

Bấy giờ quan tƣớng thua ra

áo quần cố hết trơ ra về trần

Về giữa sân vạch quần bắt rận

Vợ trong nhà vợ giận chẳng nấu cơm

Bấy giờ tƣớng chúi ổ rơm

Chẳng dám hạch nƣớc, hạch cơm, hạch trầu

Vợ thƣơng chồng ra màu rét mƣớt

Đem tiền đi chuộc lấy áo về

Từ rày tƣớng hẳn xin thề

Đã đi cờ bạc xóc đĩa còn về chi đây.

83. Từ khi em về làm dâu

Anh thì dặn trƣớc, bảo sau mọi lời

Mẹ già dữ lắm em ơi!

Nhịn ăn nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha

Nhịn cho nên cửa nên nhà

Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông

Nhịn cho nên vợ nên chồng

Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà

Đi chợ thời chớ ăn quà

Đi chợ thời chớ rề rà ở trƣa

Page 232: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

231

Dù ai bảo đợi, bảo chờ

Thời em nói dối con thơ em về.

84. Vì đứt dây, nên gỗ mới chìm

Bởi anh ở bạc nên em phải tìm nơi xa.

85. Viết thƣ sang hỏi thăm chàng

Còn không hay đã đá vàng nơi nao?

Hay là mắc phải con nào

Bùa yêu bả lú(1) phải làm sao cho tỏ tƣờng

Vắng chàng tôi những nhớ thƣơng

Vì chàng mê gái tìm đƣờng phụ tôi

Tôi làm cho lứa quên đôi

Tôi làm cho rã cho rời nhau ra

Làm cho tan nát biệt xa

Cho chim lìa tổ cho hoa lìa cành

Tôi làm cho nó lìa anh

Cho ngƣời ta biết anh tình phụ tôi.

(1) Bả lú: đánh bả làm cho ngƣời ta lú lấp, say mê.

86. Vợ đôi, chồng một, ra gì

Mỗi ngƣời mỗi bụng ở thì sao nên.

87. Xống thâm vắt ngọn cành hồng

Loạn trôn từ thuở vắng chồng đến nay.

88. Yêu vợ đƣợc lúc bấy giờ

Rồi ra đến lúc con thơ mặc lòng.

2.5. QUAN HỆ CHA MẸ CON - VỀ ĐẠO HIẾU

STT NỘI DUNG

1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó

Phải chịu khó bƣng về

Em đang ở hầu thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.

BK

(a) Ai bƣng bầu rƣợu tới đó thì chịu khó bƣng về

Kẻo em đây đang còn theo chân thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.

(b) Ông mai ơi!

Ông xách bầu rƣợu tới đó

Ông hãy chịu khó ông xách trở về

Tôi còn ở nuôi phụ mẫu, cho trọn bề hiếu trung.

Page 233: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

232

(c) Ai bƣng trầu rƣợu tới đó

Chịu khó bƣng về

Em đây thiệt vẫn không chê

Ở làm ri nuôi thầy mẹ, cho trọn bề hiếu trung.

2. Ai về tôi gửi buồng cau

Buồng trƣớc kính mẹ, buồng sau kính thầy.

3. Ai về tôi gửi buồng cau

Buồng trƣớc kính mẹ buồng sau kính thầy

Ai về tôi gửi đôi giày

Phòng khi mƣa nắng cho thày mẹ đi.

4. Ai về tôi gửi đôi giày

Phòng khi mƣa gió để thày mẹ đi.

5. Ai vô Quảng Nam cho tôi gửi mua đôi ba lƣợng quế

Ai ra ngoài Nghệ cho tôi gởi mua tám chín lƣợng sâm

Đem về nuôi dƣỡng phụ thân

Hai ta đền đáp công ơn sinh thành.

6. Ân cha nặng lắm cha ơi

Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cƣu mang.

7. Anh đi vắng cửa vắng nhà

Giƣờng loan gối quế, mẹ già ai nuôi?

- Cá rô anh chặt bỏ đuôi

Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.

8. Anh lấy em về thờ mẹ kính cha

Rồi sau coi sóc cửa nhà cho anh.

9. Ba tiền một khứa cá buôi

Cũng mua cho đƣợc mà nuôi mẹ già.

10. Bao giờ cá lí hoá long

Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xƣa.

BK

Một mai con cá hoá rồng

Đền ơn cha mẹ bõ công sinh thành.

11. Bên đây sông bắc cầu mƣời tấm ván

Bên kia sông lập cái quán mƣời hai từng

Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng

Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.

BK

Bên này sông, bắc cây cầu mƣời tấm ván

Bên kia sông, lập cái quán mƣời hai từng

Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.

12. Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Gắng công mà học có ngày thành danh.

Page 234: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

233

13. Cha mẹ tóc bạc da mồi

Ơn thâm em đền bồi không phỉ

Nên em giãi thân hèn, kim chỉ nuôi thân

- Ơn cha rộng thinh thinh nhƣ biển

Nghĩa mẹ sâu thăm thẳm tợ sông

Thƣơng cho thân em là gái chƣa chồng

Mà lắm điều cực nhọc, não lòng thế ni

- Công sanh dục, bằng công tạo hoá

Có cha mẹ sau mới có chồng

Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng

Cho nên ngày nay, dẫu thiên lao vạn khổ, em cũng vui lòng chẳng

than.

14. Chàng ơi, ơn thày ba năm cúc dục

Nghĩa mẹ chín tháng cù lao

Ai đền ơn cho thiếp mà nhủ thiếp trao ân tình?

15. Chẳng lo thân bậu với qua

Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.

16. Chết ba năm sống lại một giờ

Để coi ngƣời nghĩa phụng thờ ra sao?

- Thờ chàng đĩa muối đĩa rau

Thờ cha cúng mẹ mâm cao cỗ đầy.

17. Chiều chiều xách giỏ hái rau

Ngó lên mả mẹ ruột đau nhƣ dần.

18. Chim còn mến cội mến cành

Anh cũng biết cho em còn mến nghĩa sanh thành mẹ cha.

BK

Anh đây cũng biết nghĩa sinh thành công lao.

19. Chim kêu dƣới suối ao đàng

Em còn chút mẹ, cậy chàng viếng thăm.

20. Công ơn thầy mẹ em không đền đƣợc

Giao cho anh đến thế

Ra Thanh bổ quế

Vào Nghệ bổ sâm

Lên non ngậm ngải tìm trầm

Đền công ơn phụ mẫu đã lao tâm sinh thành.

21. Công cha ba năm sinh thành tạo hoá

Nghĩa mẹ chín tháng cực khổ cƣu mang

Hai đứa mình lấy chi đền nghĩa báo ân

Lên non gánh đá, xuống xây lăng phụng thờ.

22. Công cha nghĩa mẹ ai đền

Mà em ôm áo, ôm mền theo anh.

Page 235: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

234

23. Công cha nhƣ núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra.

BK

-Công mẹ nhƣ nƣớc suối nguồn chảy ra

-Sữa mẹ nhƣ nƣớc suối nguồn chảy ra.

24. Công cha nhƣ núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

25. Công sinh dục bằng công tạo hoá

Có cha mẹ, sau mới có chồng

Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng

Nay em lao khổ não nùng, không than.

26. Dầu mà không lấy đƣợc em

anh về đóng cửa, cài rèm đi tu

- Tu mô cho em tu cùng

May ra thành Phật thờ chung một chùa

- Tu mô cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ cũng là đi tu.

27. Độc bình chƣng trƣớc tam sơn

Đôi ta quì xuống đền ơn mẫu tử.

28. Đói lòng ăn hạt chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

29. Đói lòng ăn trái ổi non

Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xƣa.

30. Đồi mô cao bằng đồi danh vọng

Nghĩa mô trọng bằng nghĩa mẹ cha.

31. Đôi ta nhƣ bộ con cờ

Trƣớc ơn cha mẹ, sau nhờ phận duyên.

32. Em đƣa anh lên ga Thuận Lí(1)

Ba giờ chiều vô nghỉ Đông Hà(2)

Phần thời anh thƣơng mẹ nhớ cha

Phần thời thƣơng con nhớ vợ xót xa trong lòng.

(1) Thuận Lí: Một địa điểm ở Quảng Bình

(2) Đông Hà: Một địa điển ở Quảng Trị, cách Đồng Hới 92km về

phía Nam, ở trên sông Cam Lộ, đầu đƣờng số 9 đi Lao Bảo sang

Lào.

33. Em thì đi cấy ruộng bông

Anh thì cắt lúa để chung một nhà

Đem về phụng dƣỡng mẹ cha

Muôn đời tiếng hiếu ngƣời ta còn truyền.

Page 236: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

235

BK

- Để anh đi gặt lúa chung một nhà.

34. Giàu ngƣời ba phủ Thanh Hoa

Mẹ ngƣời về chợ thì ta không mừng

Mẹ ta đói rách não nùng

Mẹ ta về chợ ta mừng mẹ ta.

35. Gió đƣa cây cửu li hƣơng

Giờ xa cha mẹ thất thƣờng bữa ăn

Sầu riêng bữa chẳng muốn ăn

Đã bƣng lấy bát lại dằn xuống mâm.

36. Gƣơm vàng rớt xuống Hồ Tây

Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.

BK

Gƣơm vàng rớt xuống Hồ Tây

Công cha cũng nặng, nghĩa thầy cũng sâu.

37. Khó nghèo đòn gánh liền vai

Bán buôn nuôi mẹ giàu ai mặc giàu.

38. Khó nghèo xé vạt vá vai

Làm thuê nuôi mẹ không quản ai chê cƣời.

39. Khoan khoan chờ đợi em cùng

Em còn hai chữ hiếu trung chƣa đền.

40. Làm ngƣời trƣớc liệu hiếu thân

Cảm ơn cha mẹ ân cần nuôi con

Trăm năm mấy buổi thần hôn

Một mai mấy buổi liệu đƣờng kính lên

Sao cho trọn chữ tri niên

Sao cho trọn chữ chung thiên với ngƣời

Kể từ mẹ mới thụ thai

Biết bao khí huyết mẹ bù cho con

Đến ngày hình thể vẹn tròn

Ví nhƣ vƣợt biển trèo non nặng nề

Kiêng ăn kiêng ngủ ê chề

Đã e chín tháng còn e mƣời ngày

Kể từ hoa nở liền tay

Bao giờ mẹ đó con đây mới mừng

Lòng yêu con mấy cho bằng

Nâng chừng nhƣ trứng, hứng chừng nhƣ hoa

Phải con hay khóc hay la

Bao đêm quên ngủ, ngày đà quên ăn

Tháng hè đƣa võng liền chân

Tháng đông ƣớt áo, dậy trần quản chi

Page 237: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

236

Đầy năm biết đứng biết đi

Dắt tay từng bƣớc phòng khi lỡ làng

Miếng ngon cũng nhịn cùng nhƣờng

Ba năm bú mớm, mẹ gầy dƣờng xác ve

Nghĩ đã ơn mẹ nhiều bề

Kìa nhƣ dạy dỗ lại về ơn cha.

41. Lâm râm khấn vái Phật, Trời

Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con.

42. Làm trai nết đủ trăm đƣờng

Trƣớc tiên điều hiếu đạo thƣờng xƣa nay

Công cha đức mẹ cao dày

Cƣu mang trứng nƣớc những ngày ngây thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trƣởng thành con phải biết thờ hai thân

Thức khuya dậy sớm cho cần

Quạt nồng ấm lạnh giữ phần đạo con.

43. Lấy chi đền ngãi mẹ chừ

Cƣu mang chín tháng với dƣ mƣời ngày.

44. Lên chùa thấy Phật muốn tu

Về nhà thấy mẹ, công phu chƣa đền.

45. Lên non mới biết non cao

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.

BK

- Có con mới biết công lao mẫu từ.

- Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.

46. Má ơi đừng đánh con đau

Để con bắt ốc hái rau má nhờ

Má ơi đừng đánh con đau

Để con hát bội làm đào má coi

Má ơi đừng đánh con hoài

Để con câu cá nấu xoài má ăn.

BK

Má ơi đừng đánh con đau

Để con hát bội làm đào má coi

Má ơi đừng đánh con đau

Để con bắt cá nấu xoài má ăn.

47. Mất mẹ với cha thiệt là khó kiếm

Chớ điệu vợ chồng không hiếm gì nơi.

48. Mặt trời đã xế ngang đầu

Em còn ở lại làm giàu cho cha.

BK

Page 238: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

237

Tua rua đã xế ngang đầu

Em còn đứng lại làm giàu cho cha.

49. Mẹ ơi đừng đánh con đau

Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.

BK

a - Mẹ ơi chớ đánh con đau

- Má ơi đừng đánh con đau

b - Để con bắt ốc hái rau má nhờ.

50. Mẹ ơi! đừng đánh con đau

Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ

Mẹ ơi! đừng đánh con khờ

Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn.

51. Mẹ ơi, từ mấy tháng nay

Con vắng tin mẹ, lâu ngày nhớ thƣơng

Xƣa rày con bận việc quân vƣơng

Cho nên con với mẹ đôi đƣờng cách xa.

52. Mẹ cha là biển là trời

Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha.

53. Mẹ cha trƣợng quá ngọc vàng

Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn?

54. Mẹ già đầu bạc nhƣ tơ

Lƣng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi.

55. Mẹ già ở chốn lều tranh

Sớm thăm tối viếng cho đành lòng em

Lòng son dạ sắt càng thêm

Lòng đà trăng gió ai tìm thấy ai.

56. Mẹ già là mẹ già chung

Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.

57. Mẹ già nhƣ quả đò ho

Dẫu rằng héo hắt thơm tho đủ mùi.

58. Miếng trầu em têm bỏ đĩa con rồng

Trƣờc mời thầy mẹ, sau vợ chồng ta ăn.

59. Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

60. Mỗi năm mỗi thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con

Ngƣời còn thì của cũng còn

Để ngƣời ban bảo vuông tròn nhân duyên.

61. Ngày đêm em may vá kiếm tiền

Trƣớc nuôi cha mẹ, sau tuyền đạo con.

62. Ngày nào em bé cỏn con

Page 239: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

238

Bây giờ đã lớn khôn thế này

Cơm cha, áo mẹ, công thầy

Nghĩ sao cho bõ những ngày ƣớc ao.

63. Ngó lên dàng dạng da trời

Thƣơng cha nhớ mẹ biết đời nào nguôi.

64. Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng(1)

Thƣơng cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!

- Thƣơng cha nhớ mẹ thì về

Nhƣợc bằng thƣơng kiểng nhớ quê thì đừng.

(1) Hòn Kẽm, Đá Dừng: thuộc Quảng Nam.

65. Ngó lên ngó xuống thì vui

Ngó về quê mẹ ngậm ngùi nhớ thƣơng.

66. Ngó lên trên trời thấy cặp cu đƣơng đá

Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đƣơng đua

Biểu em về lập chùa thờ cha.

BK

Ngó lên trời thấy cặp cu đƣơng đá

Ngó xuông biển cặp cá đƣơng đua

Anh về lập miếu thờ vua

Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

67. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng

Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông

Biết rằng chừ cá gáy hoá rồng

Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xƣa.

68. Ngọc còn ẩn bóng cây ngâu

Em đang tùng phụ mẫu dám đâu tự tình?

69. Nhất đẹp là gái làng Cầu (1)

Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.

(1) Làng Cầu: tức làng Lam Cầu, thuộc huyện Duy tiên, tỉnh Hà

Nam

70. Nuôi con mới biết sự tình

Thảm thƣơng cha mẹ nuôi mình khi xƣa.

71. Ơn cha mẹ ba năm cúc dục

Nghĩa mẹ chín tháng cƣu mang

Ơn cha đền bạc, nghĩa mẹ đền vàng

Em đền chƣa nổi, huống chi chàng ngƣời dƣng.

72. Ơn cha mẹ trời cao khôn thấu

Nghĩa anh em xƣơng cốt ruột rà

Muốn cho trên thuận dƣới hoà

Chẳng thà chịu nhục, hơn là rẽ nhau.

73. Ơn cha nhƣ biển, nghĩa mẹ nhƣ trời

Page 240: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

239

Thƣơng mừng ghét sợ, không dám trao lời thở than.

74. Ơn hoài thai nhƣ biển

Ngãi dƣỡng dục, tợ sông

Em nguyền ở vậy phòng không

Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.

75. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non

Hai ta là đạo làm con

Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.

76. Phụ mẫu bên anh cũng nhƣ phụ mẫu bên nàng

Lẽ thƣờng anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.

77. Phụ mẫu thiếp cũng nhƣ phụ mẫu chàng

Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.

78. Thờ cha mẹ, ở hết lòng

ấy là chữ hiếu dạy trong luân thƣờng

Chữ đễ nghĩa là nhƣờng

Nhƣờng anh nhƣờng chị, lại nhƣờng ngƣời trên

Ghi lòng tạc dạ chớ quên

Con em phải giữ lấy nền con em.

79. Thƣơng mẹ nhớ cha nhƣ kim châm vào dạ

Nghĩ đến chừng nào, luỵ hạ tuôn rơi.

80. Tiếc cây mía tốt có sâu

Tiếc ngƣời lịch sự trên đầu có tang

Tang chồng thì bỏ tang đi

Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung

- Tang cha, tang mẹ trên đầu

Lẽ nào em dám bán sầu mua vui.

81. Tôm càng lột vỏ để đuôi

Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.

BK

Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi

Gạo nhe giã trắng mà nuôi mẹ già.

82. Trời cho cày cấy đầy đồng

Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê

Một mai gặt lúa đem về

Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.

83. Trông lên thấy đạo cha già

Lòng con tƣởng nhớ xót xa rầu rầu

Xa cha lòng những quặn đau

Biết ngày nào mới cùng nhau quây quần.

84. Trứng rồng lại nở ra rồng

Hạt thông lại nở cây thông rƣờm rà

Page 241: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

240

Có cha sinh mới ra ta

Làm nên thì bởi mẹ cha vun trồng

Khôn ngoan nhờ ấm cha ông

Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ

Đạo làm con chớ có hững hờ

Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.

85. Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.

86. Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.

87. Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau

Thƣơng thay chín chữ cù lao(1)

Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

(1) Cù lao: công nuôi nấng vất vả của cha mẹ, lấy từ cụm từ "cù lao

dƣỡng dục".

88. Xin ngƣời hiếu tử lắng khuyên

Kịp thì nuôi nấng cho toàn đạo con

Kẻo khi sông cạn, đá mòn

Phú nga phú uỷ có còn ra chi.

89. Cơm cha, áo mẹ, ai ơi

Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài.

BK

- Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già.

90. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

91. Đƣờng đi không tới nửa ngày

Nói về thăm mẹ, hẹn rày hẹn mai.

92. Mẹ già hết gạo treo niêu

Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai...

93. Mẹ già ở chốn lều tranh

Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.

BK

a - Mẹ già ở tấm lều tranh

b - Đói no không biết rách lành nỏ hay.

- Đói no không biết rách lành không hay.

94. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể

Con nuôi mẹ con kể công tháng ngày.

95. Mẹ nuôi con biển hồ lại láng

Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.

BK

Page 242: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

241

- Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.

96. Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con

Mƣời con bỏ mẹ trong ngàn xót xa

Trai cả uống rƣợu la đà

Tối tăm chả tiếc cửa nhà là đâu

Nào con, nào rể, nào dâu

Trai thì sợ vợ, gái âu nể chồng.

97. Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra

Nhai cơm sún(1) nƣớc, lớn mà chừng ni

Nghe lời chàng, bỏ mẹ ra đi

Thất hiếu với phụ mẫu có hề chi không, huớ chàng?

(1) Sún: mớm.

98. Những ngƣời chửi mẹ mắng cha

Chết xuống âm phủ leo qua cầu vồng.

99. Sống thì con chẳng cho ăn

Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.

BK

a-Lúc sống thời chả cho ăn

b-Đến khi ngƣời chết làm văn tế ruồi.

- Để đến lúc chết làm văn tế ruồi.

- Chết rồi xôi thịt làm văn tế ruồi.

100. Trách ai đặng cá quên nơm

Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.

2.6. QUAN HỆ CHA MẸ CON - TRÁCH NHIỆM

STT NỘI DUNG

1. Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Khuyên con lo học cho tày ngƣời ta.

2. Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Gắng công mà học có ngày thành danh.

3. Có con nỏ muốn ai bồng

Nỏ thuê ai ẵm, hai vợ chồng đổi nhau.

4. Cha sinh mẹ dƣỡng ra con

Cũng nhƣ trời đất nƣớc non không cùng

Vẫn là một khí huyết chung

Chia riêng mày mặt trong lòng sinh ra

Bào thai chín tháng mang ta

Kiêng khem tật bệnh ai hoà chịu chung

Vƣợt bể Đông có bè có bạn

Mẹ sinh ta vƣợt cạn một mình

Page 243: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

242

Sinh ta mát mẻ yên lành

Từ nay mẹ mới nhẹ mình không lo

Chốn lạnh ƣớt để cho mẹ ngủ

Nơi ấm êm mẹ ủ con nằm

Năm canh con khóc cả năm

Ôm con mẹ chịu khổ tâm lo phiền

Khi con ốm sốt chẳng yên

Con phiền có một, mẹ phiền bằng hai

Ngọn đèn chong bóng canh dài

Nghĩ thua nghĩ đƣợc có ai ngỏ cùng

Con rày đã yên lành mát mẻ

Mẹ mới lòng yên vui vẻ không lo

Dành riêng quà bánh nhƣờng cho

Sắm riêng quần áo mới đồ chiều con

Trông con nằm ngủ ăn ngon

Sợ con thất ý lại còn hờn lâu

Hai ba tuổi độ hầu học nói

Tập dạy cho thƣa nói dần dần

Đến chừng biết mặc áo quần

Nuôi thầy dạy học tập văn tập bài

Kể với ai cửa nhà nghèo đói

Trông cho con theo dõi ngƣời ta

Đến ngày con bƣớc đi ra

Mẹ cha biết mấy thịt da tiêu mòn

Đến khi con mƣời lăm mƣời tám

Lấy vợ cho lại sắm cửa nhà

Sinh ta rồi lại nuôi ta

Cũng nhƣ trời đất sinh ra giống ngƣời.

5. Con tài lo láo lo kiêu

Con ngu thì lại lo sao kịp ngƣời.

6. Con ơi muốn nên thân ngƣời

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha

Gái thời dệt gấm thêu hoa

Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa

Trai thời đọc sách ngâm nga

Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa

Nữa mai nối đặng nghiệp nhà

Trƣớc là mát mặt sau là hiển thân.

7. Con cò bay bổng bay la

Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng

Cha sinh mẹ đẻ tay không

Page 244: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

243

Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi

Trƣớc là nuôi cái thân tôi

Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.

8. Dạy con từ thuở hài đề(1)

Dạy vợ từ thuở mới về làm dâu.

(1) Thuở hài đề: lúc trẻ con đang ở thời kì con bú mớm.

9. Dạy con từ thuở còn thơ

Dạy vợ dạy thuở bơ vơ mới về.

10. Làm trai nết đủ trăm đƣờng

Trƣớc tiên điều hiếu đạo thƣờng xƣa nay

Công cha đức mẹ cao dày

Cƣu mang trứng nƣớc những ngày ngây thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trƣởng thành con phải biết thờ hai thân

Thức khuya dậy sớm cho cần

Quạt nồng ấm lạnh giữ phần đạo con.

11. Lắng tai nghe mẹ giãi bày

Cha sinh mẹ dƣỡng sánh tày bể Đông

Lấy gì trả nghĩa đền công

Ở sao cho xứng tấm lòng mẹ cha

Nuôi con tƣơi tốt nhƣ hoa

Phòng khi cha già mẹ yếu cậy con

Bữa ăn không biết mùi ngon

Đắng cay mẹ chịu vì con đêm ngày

Cha mẹ mong tháng mong ngày

Nặng nề chín tháng mƣời ngày cƣu mang

Công cha xiết kể bằng ngàn (1)

Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra

Cha mẹ một tuổi một già

Cù lao dƣỡng dục con nhà dám quên

Mẹ cha nuôi nấng dƣỡng sinh

Bù trì khó nhọc sinh thành ra con

Sớm khuya định tỉnh thần hôn

Mong cho con chóng lớn khôn kịp ngƣời

Mẹ cha vất vả mấy mƣơi

Cái giƣờng cái chiếu, cái nôi con nằm

Vui khi con ngủ con ăn

Buồn khi khó ở, nhọc nhằn không yên

Chốn ráo con nằm đã êm

Cha mẹ thắp đèn, thức giấc thấu đêm

Công cha nghĩa mẹ đừng quên

Page 245: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

244

Con nên báo đáp trả đền hẳn hoi

Dù cho vật đổi sao dời

Có biết công cha mẹ mới phải ngƣời hiếu trung.

(1) Ngàn: ngàn đây là núi non.

12. Lúc em bƣớc chân ra

Má ở nhà có dặn

Công sanh thành là nặng

Điều tình ái là khinh

Hãy đừng tham sắc đắm tình

Lánh xa tiểu điểm trà đình chớ vô.

13. Muốn sang thời bắc cầu Ô

Muốn con hay chữ cƣới cô cho thày.

14. Muốn sang thì bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.

15. Nuôi con những tƣởng về sau

Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi

Mực đen vô giấy khó chùi

Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.

16. Nuôi con cho đƣợc vuông tròn

Mẹ thầy dầu dãi, xƣơng mòn gối long

Con ơi, cho trọn hiếu trung

Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.

17. Riêng than đất chín, trời mƣời

Cây khô há dễ mọc chồi đâm bông

Một cây khô mộc đợi trông

Hai cây khô mộc đợi trông

Gió đánh trắt tra, trắt tréo, trặt trà trặt trẹo

Trên ngọn cành tùng chơ vơ

Sách có chữ rằng:

Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn

Nữ đáo nam phòng, nữ tắc dâm

Sinh tử, mạc sinh tâm(1)

Sinh con ai nỡ sinh lòng

Sinh con ai chẳng vun trồng cho con

Mạc đạo xà vô giác

Trƣớc long dã vị tri (2)

BK

Riêng than đất chín trời mƣời

Cây khô há dễ nẩy chồi đơm bông

Trên cây kiều mộc dợi trông

Dƣới cây kiều mộc cũng đợi trông

Page 246: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

245

Gió đƣa lắt la lắt lẻo, ngọn cây tùng xơ rơ

Có câu: Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn

Nữ đáo nam phòng nữ tắc dâm

Dầu lòng sinh tử, bất sinh tâm(1)

Sinh con há dễ sinh lòng chỉn khôn

Ai tầng con cù nó mọc sừng

Đến khi nó hoá cái gạc, vẫy vùng làm mƣa

Biết đà có khỏi nhau chƣa

Đặt tay lên dạ lại lừa tay đi.

(1) Nam đáo nữ phòng, nam tắc loạn, nữ đáo nam phòng, nữ tắc

dâm, sinh tử, mạc sinh tâm: Con trai đến phòng con gái thì sinh

loạn, con gái đến phòng con trai là có ý dâm, sinh con không thể

sinh lòng.

(2) Mạc dạo xà vô giác, thành long dã vị tri: chớ nói rắn không

có sừng, chƣa biết chừng rắn thành rồng (có thể có sừng).

18. Trên trời có cái cầu vồng

Kẻ Chợ cầu Muống, cửa Đông cầu Rền

Vua trên đền, cầu vàng cầu bạc

Các lái buôn cầu nƣớc, cầu non

Đôi ta cầu của cầu non

Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha

Con gái dệt cửi trong nhà

Con trai đi học đỗ ba khoa liền

Con lớn thì đỗ Trạng nguyên

Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba

Vinh qui bái tổ về nhà

Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy.

BK

Trên trời có cái cầu vồng

Kẻ Chợ, Cầu Muống(1), Cầu Đông(2), Cầu Giền

Việc trên đền cầu vàng cầu bạc

Các lái buôn cầu nƣớc cầu non

Đôi ta cầu của cầu con

Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha

Con gái dệt cửi trong nhà

Con trai đi học khôi khoa hơn ngƣời .

(1) Cầu Muống: ở địa phận làng Trung Phụng, Đống Đa, hà Nội

hiện nay.

(2) Cầu Đông: chỉ chiếc cầu bắc qua sông Tô ở phía đông thành

Đại La cũ, trên bản đồ cũ ghi ở Ô Thịnh Yên nay là ngã tƣ giữa

các Phố Huế. Bạch Mai đƣờng Đại Cồ Việt và đƣờng Trần Khát

Page 247: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

246

Chân.

2.7. QUAN HỆ CHA MẸ CON - NHỮNG BIỂU HIỆN TIÊU CỰC

STT NỘI DUNG

1. áo rách vai, vá hoài vá huỷ

Mẹ có chồng không nghĩ đến con

Trái bầu trái bì còn non

Cầm dao cắt ruột, bỏ con sao đành.

2. Ba tàn ba héo vì cây

Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.

3. Bác mẹ em vội tham vàng

Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con

Trƣớc thời thẹn với nƣớc non

Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày

Khi vui có bác mẹ thầy

Cơn sầu em chịu đắng cay một mình

Mang thơ ra dán cột đình

Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?

Phong ba nổi giữa đất bằng

Một dây một buộc ai dằng cho ra!

Thiết gì một cảnh vƣờn hoa

Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?

Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy

Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!

4. Cá chẳng ăn muối cá ƣơn

Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

BK a- Cá không ăn muối cá ƣơn

b- Không nghe cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

- Con cƣỡng cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

5. Cái bống là cái bống bang

Con đi lấy sàng cho mẹ đổ khoai

Con ăn một, mẹ ăn hai

Con đi bốc muối thời khoai chẳng còn

Con ngồi con khóc nỉ non

Mẹ giận mẹ đạp, con bon đầu hè

Có đánh thì đánh vọt tre

Chớ đánh vọt nứa nữa què chân con.

BK

Tích tịch tình tang

Mẹ đi tìm sàng cho con đổ đỗ

Page 248: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

247

Con đi tìm rổ

Cho mẹ đổ khoai

Con ăn một, mẹ ăn hai

Con đi bốc muối thì khoai chẳng còn

Con ngồi con khóc nỉ non

Mẹ đi lấy vọt con ton đầu hè

Có đánh thì đánh vọt tre

Chớ đánh vọt nứa mà què chân con.

6. Cây oằn vì bởi gió nam

Xa mình là bởi mẹ cha ham chỗ giàu.

BK

Xa mình vì bởi phụ mẫu ham chỗ giầu.

7. Cha già con muộn vơi vơi

Gần đất xa trời con chịu mồ côi

Mồ côi cực lắm bớ Trời

Mẹ ruột cha ghẻ nhiều lời đắng cay.

8. Cha mẹ nuôi con nhƣ biển hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

9. Con gái là con ngƣời ta

Con dâu mới thật mẹ cha mua về.

BK

- Nàng dâu mới thực mẹ cha mua về.

10. Con hƣ bởi tại cha dong

Vợ hƣ bởi tại thằng chồng cả nghe.

11. Đá cheo leo, trâu trèo trâu trƣợt

Ngựa trèo ngựa đỏ

Tiếc công anh lao khổ

Tự cổ chí kim

Mất em đi anh khó kiếm khó tìm

Cũng giả tỉ nhƣ cây kim mà lòn sợi chỉ

Sao em không biết nghĩ biết suy

Em ham nơi quyền quí, em không có nghĩ gì đến anh

Hoa kia gió thổi lìa cành

Mẹ cha ép gả, em đành chịu sao?

12. Đƣờng đi những lách cùng lau

Cha mẹ tham giầu, ép uổng duyên con.

BK

- Cha mẹ tham giàu ép gả duyên con.

13. Gà tơ xào với mƣớp già

Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi

Ra đƣờng chị giễu em cƣời

Page 249: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

248

Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng

Đêm nằm tƣởng cái gối bông

Giật mình gối phải râu chồng nằm bên

Sụt sùi tủi phận hờn duyên

Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.

14. Gió đƣa bụi chuối sau hè

Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.

15. Gió lùa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ

Gió đƣa bụi trúc ngả quì

Thƣơng cha phải chịu luỵ dì, dì ơi!

16. Khi con thƣơng thầy mẹ không thƣơng

Nay chừ công bất thành, danh bất toại,

Thầy với mẹ đẩy vại con vô

Liều mình con muốn vọt xuống hồ

Măng non làm bạn với tre không cực lòng.

17. Không trách mẹ, cũng chẳng hờn cha

Chỉ trách mẹ bội ƣớc, nên sinh ra thế này.

18. Mẹ em tham gạo tham gà

Bắt em để bán cho nhà cao sang

Chồng em thì thấp một gang

Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau

Nghĩ mình càng tủi càng đau

Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.

19. Mẹ em tham gạo tham gà

Bắt em để bán cho nhà cao sang

Chồng em thì thấp một gang

Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau

Nghĩ mình càng tủi càng đau

Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.

20. Mẹ em tham việc tiếc công

Cầm duyên em lại, tiết thu đông muộn màng.

21. Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng

Em đã bảo mẹ rằng đừng

Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà

Bây giờ tôi bán oan gia

Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân

Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần

Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.

22. Mẹ em tham thúng xôi rền

Page 250: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

249

Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng

Tôi đã bảo mẹ răng đừng

Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bƣng ngày vào

Bây giờ kẻ thấp,ngƣời cao

Nhƣ đôi đũa lệch so sao cho bằng?

23. Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng

Mẹ em tham thúng bánh chƣng

Tham con lợn béo, lƣng em chịu đòn.

24. Mẹ già chặt đũa từ em

Không cho ve rƣợu gói nem mặn nồng.

25. Mẹ già hết gạo treo niêu

Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai...

26. Mẹ già ở chốn lều tranh

Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.

BK

a - Mẹ già ở tấm lều tranh

b - Đói no không biết, rách lành nỏ hay.

- Đói no không biết rách lành không hay.

27. Mẹ mong con đẹp lứa đôi

Con xin đƣợc tỏ đôi lời đục trong:

Lấy nhau lòng hiểu đƣợc lòng

Tình kia mới đƣợc đƣợm nồng dài lâu

Vì chƣng mẹ trót nhận trầu

Bắt con ngậm miệng cúi đầu vâng theo

Lấy ngƣời chẳng biết, chẳng yêu

Sống sao cho mãn bóng chiều trăm năm

Dù nay muốn dứt tơ tằm

Mẹ thƣơng thì sự lỡ lầm đã qua.

28. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể

Con nuôi mẹ con kể công tháng ngày.

29. Mẹ nuôi con biển hồ lại láng

Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.

BK

- Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.

30. Mẹ ơi trái bí còn non

Mẹ cầm dao cắt duyên con sao đành?

31. Một mẹ nuôi đƣợc mƣời con

Mƣời con bỏ mẹ trong ngàn xót xa

Trai cả uống rƣợu la đà

Tối tăm chả tiếc cửa nhà là đâu

Page 251: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

250

Nào con, nào rể, nào dâu

Trai thì sợ vợ, gái âu nể chồng.

32. Nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài

Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu

Rồng vàng tắm nƣớc ao tù

Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.

BK

(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau

Cái mâm triện tự đựng rau thài lài

Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài

Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.

(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài

Tiếc ngƣời da trắng tóc dài

Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.

33. Tham giàu thầy mẹ ép gả em ra

Tƣởng là mẹ chính, hoá ra mụ hầu.

34. Thầy mẹ em tham ruộng đầu cầu

Tham nhà con một, tham trâu đầy chuồng

Thầy mẹ em tham bạc tham tiền

Tham con lợn béo, cầm duyên em già

Để đến nay anh cƣới em nửa con gà

Dăm ba sợi bún, một và hột xôi.

35. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.

36. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi

Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông

Gió bên đông xin chàng gỡ giúp

Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan

Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán

Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng

Em còn trong tròng xin chàng thong thả

Em quyết trận này trả của lấy cho anh

Em hai mƣơi tuổi xuân xanh

Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta

Cho nên duyên chẳng thuận hoà

Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.

37. Vì chàng nên chi thiếp chịu đòn oan

Thầy đập mẹ mắng, thế gian chê cƣời

Page 252: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

251

- Thầy mẹ đập em anh đau thấu tận xƣơng

Xóm làng ơi, mau mau cứu ngƣời thƣơng tôi cùng!

- Thầy mẹ đập thiếp bò lăn bò lóc

Có khúc có đận (vết)

Nhờ bên tiếp cận

Chàng vô bóp muối thoa chanh

Chàng nay là phận rể không há dễ vô giành ngọn roi.

2.8. QUAN HỆ NÀNG DÂU VÀ GIA ĐÌNH CHỒNG

STT NỘI DUNG

1. Ai ơi, phải nghĩ trƣớc sau

Đừng tham lắm của nhà giàu làm chi

Làm thì xem chẳng ra gì

Làm tất làm tả nói thì điếc tai

Đi ngủ thời hết canh hai

Thức khuya dậy sớm mình ai dãi dầu

Sớm ngày đi cắt cỏ trâu

Trƣa về lại bảo: ngồi đâu, không đầy!

Hết mẹ rồi lại đến thầy

Gánh cỏ có đầy, vẫn nói rằng vơi

Nói thì nói thật là dai

Lắm câu chua cạnh, đắng cay trăm chiều

Phận em là gái nhà nghèo

Lấy phải chồng giàu, ai thấu cho chăng

Nói ra đau đớn trong lòng

Chịu khổ, chịu nhục suốt trong một đời.

2. Ai về nhắn với bà cai

Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về

Dâu về dâu chẳng về không

Ngựa ô đi trƣớc, ngựa hồng đi sau

Ngựa ô đi tới vƣờn cau

Ngựa hồng chậm rãi đi sau vƣờn dừa.

3. Bà kia bận áo xanh xanh

Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu

Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu

Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà

Chừng nào bà chết ra ma

Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng

Không khóc thì sợ lòng chồng

Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu.

Page 253: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

252

4. Bình phong cẩn ốc xa cừ

Vợ hƣ để vợ, đừng từ mẹ cha.

5. Cái cuốc là cái cuốc đen

Đôi vợ chồng trẻ đốt đèn ăn cơm

Ăn hết xới xới đơm đơm

Ăn cho sạch sẽ lấy rơm mà chùi

Chồng giận chồng đánh ba dùi

Mẹ chồng chẳng chữa lại xui đánh què

Đánh cho què quặt chân tay

Hễ nó có khóc thời mày bỏ tro

Bao giờ mẹ chồng ốm ho

Nàng dâu lấy thuốc đem cho mẹ chồng

Lấy những lông cú, lông cáo, lông công

Lấy cà độc dƣợc cùng lông con mèo.

6. Cây khô chết đứng giữa đồng

Nàng dâu khôn khéo, mẹ chồng cũng chê.

7. Cha chài mẹ lƣới con câu

Chàng rể đi tát, con dâu đi mò.

BK

- Thằng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.

- Con trai tát nƣớc, nàng dâu đi mò.

8. Chăn tằm rồi lại ƣơm tơ

Làm dâu rồi mới đƣợc nhƣ mẹ chồng.

9. Chàng nhìn thiếp rƣng rƣng hột luỵ

Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu

Mẹ cha hành hạ thân dâu

Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?

10. Chẳng tham nhà ngói ba toà

Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.

11. Chồng dữ thì em mời rầu

Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.

12. Chồng dữ thì em mới lo

Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.

BK

a- Ai ơi chồng dữ thì lo

b- Mẹ chồng mà dữ mổ bò mà ăn.

- Mẹ chồng mà dữ giết bò khao quân.

13. Chữ dâu hiền, con gái

Câu rể thảo, con trai

Bậu dầu đôi lứa trúc mai

Bớ bậu ơi!

Page 254: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

253

Qua kính thờ song nhạc dễ nài công lao.

14. Cô kia đội áo đi đâu?

- Tôi là phận gái làm dâu mới về

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê

Tôi ở chẳng đƣợc tôi về nhà tôi.

15. Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè

Làm thân con gái phải nghe lời chồng

Sách có chữ rằng; phu xƣớng phụ tòng

Làm thân con gái lấy chồng xuất gia

Lấy em về thờ mẹ, kính cha

Thờ cha, kính mẹ ấy là ngƣời ngoan.

16. Con gái là con ngƣời ta

Con dâu mới thật mẹ cha mua về.

17. Con mẹ có thƣơng mẹ đâu

Để cho chàng rể, nàng dâu thƣơng cùng.

18. Con mèo mà trèo cây táo

Bà già lơ láo, mắng chƣởi nàng dâu

Dâu nằm dâu khóc tỉ ti:

Thà phu Gia Định, cu li Sài Gòn.

19. Của rẻ thật là của ôi

Lấy phải dâu dại khốn tôi trăm đƣờng.

BK

a- Của rẻ thật là của hôi

- Của rẻ ấy là của ôi

b- Lấy phải chồng dại khốn tôi trăm đƣờng

- Lấy phải vợ dại khốn tôi trăm đƣờng.

20. Đêm nằm tôi nghĩ tôi sầu

Làm dâu thật khổ từ đầu chí đuôi

Ra thân tối mặt vùi đầu

Các chị sung sƣớng, riêng dâu mẹ hành

Chê tôi khờ dại không lành

Mẹ đào mẹ chƣởi, mẹ hành xót xa

Công trình cha mẹ tôi, sanh đẻ tôi ra

Gả cho con mẹ còn bù của thêm

Phải thời chồng vợ trọn niềm

Sui gia đi lại ấm êm ở đời

Không nên mỗi đứa một nơi

Tôi ra khỏi cửa để mẹ kiếm nơi sang giầu

Ở chi đây mẹ mắng trƣớc, chƣởi sau

Ngày nào mẹ cũng cứ nghèo giàu mẹ đay.

21. Đói thì ăn khế ăn sung

Page 255: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

254

Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi.

22. Em ở nhà với mẹ với cha

Cái nón tiền rƣỡi quai ba mƣơi đồng

Đến khi bƣớc về nhà chồng

Cái nón mƣời đồng quai lại bằng mo.

BK

a - Từ ngày tôi ở cùng cha

Cái nón chín rƣỡi, thao ba mƣơi đồng

Đến khi tôi về nhà chồng

Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo.

b - Từ ngày tôi ở với cha

Cái nón chín rƣỡi thao ba mƣơi đồng

Đến khi tôi về nhà chồng

Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo.

23. Em về làm dâu ba với má, giả nhƣ gió nọ làm dƣa

Ba bốn năm trời, ba với má còn bó buộc đi thƣa về trình.

24. Khi xƣa em ở với mẹ với cha

Một năm chín yếm xót xa trong lòng

Từ khi em về nhà chồng

Chín năm một yếm, em lộn lần trong ra ngoài.

25. Khi xƣa thiếp sáng ràng rạng nhƣ gƣơng

Thiếp liều mình trao thƣơng cho chàng

Nay chừ huệ héo lan tàn

Thầy mẹ đánh mắng, dạ chàng khiến vong.

26. Làm dâu vụng nấu vụng kho

Chồng không bắt bẻ, mụ o nhún trề.

27. Lúc bé con mẹ con cha

Lấy chồng con gái hoá ra dâu ngƣời

Gái khôn, gái phải nghe lời

Thờ chung bác mẹ ắt thời chở che.

28. Mẹ anh năm lọc bảy lừa

Mua cam phải quít, mua dƣa phải bầu

Mua kim mua phải lƣỡi câu

Mua mật phải dầu, cực lắm anh ơi!

29. Mẹ chồng là mẹ chồng tôi

Cái tôm bóc nõn tôi nuôi mẹ chồng.

30. Mẹ chồng là mẹ chồng tôi

Năm bảy cái quạ nó lôi mẹ chồng.

31. Mẹ chồng nàng dâu

Chúa nhà ngƣời ở, khen nhau bao giờ

BK

Page 256: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

255

- Chúa nhà ngƣời ở yêu nhau bao giờ.

32. Một nhà có ba bốn dâu

Dâu cả buôn bán ra màu sân sau

Dâu hai có ý mĩ miều

Tiền tiền, thóc thóc bao nhiêu chẳng về

Dâu ba chum chúm râu trê

Nhờ ơn bác mẹ đi về tỉnh Nam

Dâu tƣ có tính tham lam

Chăn trâu cắt cỏ nhôm nhoam ngoài đồng.

33. Mụ già là mụ già còng

Ăn ngày ba bữa lòng thòng chuyện dâu.

34. Muốn lấy con tao

Bắc cầu qua bể

Làm rể cho lâu

Nuôi lợn mƣời năm

Chăn tằm mỏi gối

Nhà ngói năm gian

Bức bàn cho rộng

Ông Cống, ông Nghè

Dù che ngựa cƣỡi

Dâu về nhắn nhủ:

"Các cô hàng xóm láng giềng

Quét sân dọn cỏ, tháng giêng dâu về

Dâu về dâu chả về không

Ngựa bạch tới trƣớc, rƣợu nồng tới sau".

35. Muốn theo anh về bến cho liền

Sợ cha với mẹ nói coi dâu không tiền,(1) dâu hƣ.

(1) Có lẽ "con dâu không hiền" thì đúng hơn(Nhbs).

36. Năm trai, năm gái là mƣời

Năm dâu, năm rể là đôi mƣơi tròn.

37. Ngọn roi mẹ uốn trăm chiều

Anh vô lạy mẹ bốn lạy, kẻo mẹ đánh nhiều thì em đau.

38. Nhà anh có ruộng giữa đồng

Để em tát nƣớc cực lòng em thay

Trời làm mƣa bấc gió may

Để em tát nƣớc giơ tay vái Trời

Tháng tám anh đi dạm lời

Tháng chín ăn cƣới tháng mƣời làm dâu

Từ ngày em về làm dâu

Thì anh dặn trƣớc, dặn sau nghe lời

Mẹ già ác lắm anh ơi!

Page 257: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

256

Nhịn ăn nhịn mặc, nghe lời mẹ cha

Nhịn cho nên cửa, nên nhà

Nhịn cho nên cột, xà nhà bằng bông

Nhịn cho nên vợ, nên chồng

Để em chỉ thiết một lòng lấy anh.

39. Nhà này có quỉ hay ma

Mà dâu chẳng ở dâu ra dâu về.

40. Nhất ngon là mía Lan Điền

Dâu ngoan ngồi đấy, rể hiền ngồi đâu?

BK

a-Nhất ngon là mía Lam Điền

b-Dâu ngoan ngồi đấy, rể hiền ngồi đây.

41. Phụ mẫu bên anh cũng nhƣ phụ mẫu bên nàng

Lẽ thƣờng anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.

42. Phụ mẫu tình thâm

Phu thê nhân ngãi trọng

Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.

43. Phụ mẫu thiếp cũng nhƣ phụ mẫu chàng

Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.

44. Song thân bên thiếp cũng nhƣ phụ mẫu bên chàng

Đồng tình bốn chữ cƣu mang

Lẽ thời ta đâu khảm phết vàng thờ chung.

45. Tay em cầm một nạm gạo lƣơng

Đem đi đổi lấy một nạm gạo già

Để về nấu cháo cho ông nhạc mụ gia

Kẻo anh đi qua bên nƣớc Lang Sa(1) lâu về.

(1) Lang Sa: phiên âm tiếng Pháp, France, nƣớc Pháp.

46. Thân em mƣời sáu tuổi đầu

Cha mẹ ép gả làm dâu nhà ngƣời

Nói ra sợ chị em cƣời

Năm ba chuyện thảm chín mƣời chuyện cay

Tôi về đã mấy năm nay

Buồn riêng thì có vui vầy thì không

Ngày thì vất vả ngoài đồng

Tối về thời lại nằm không một mình

Có đêm thức suốt năm canh

Rau héo cháo chó loanh quanh đủ trò

Ai về nhắn mẹ cùng cha

Lấy chồng nhà có, khổ ba bảy đƣờng

Đêm nằm lƣng nỏ bén giƣờng

Mụ gia đã xốc vô buồng kéo ra

Page 258: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

257

Bảo lo con lợn con gà

Lo xong cối lúa, quét nhà nấu cơm

ốm đau thì mụ nỏ thƣơng

Mụ hành mụ hạ, đủ đƣờng khốn thân

Tối về bƣng bát cơm ăn

Mụ cầm cái đọi, mụ quăng vô ngƣời

Lấy chồng giàu, khổ lắm, chị ơi!

47. Thật thà cũng thê lái trâu

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

BK

- Hiền lành cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

- Yêu thƣơng cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

- Hẳn hoi cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

48. Thầy mẹ đập thiếp, chàng đứng chàng coi

Sao chàng không vào cƣớp lấy ngọn roi cho thiếp nhờ?

49. Thầy mẹ không thƣơng con dâu mới, hồ dễ thƣơng ai

Em nói ra chi những chuyện ai hoài tình thâm.

50. Theo không chẳng tốn một đồng

Làm dâu chí nguyện, mẹ chồng còn chê.

51. Tiếc tiền mua lóng mía sâu

Tiếc bạn đi cƣới con dâu ăn hàng.

52. - Tiếng anh ăn học cựu trào

Chị dâu té giếng, anh biết chỗ nào kéo lên

- Nắm đầu chị, sợ tội Trời

Nắm ngay khúc giữa lại sợ lỗi thế gian

- Giếng sâu anh phải thông thang

Kéo chị dâu lên đƣợc kẻo chết oan linh hồn.

53. Tới nơi đây lỡ chợ, lỡ đò

Xẻo cẳng tay nuôi mẹ, giã thịt bò mẹ xơi

Mẹ thƣơng con sa rơi nƣớc mắt

Nghĩ tới dâu hiền ruột thắt tận da

Thôi hỡi con ơi, cháo rau cho qua bữa,

thịt với thà làm chi.

54. Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi

Gạo nhƣ An Cựu (1) mà nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Em vô bảo dƣỡng cá canh cho thƣờng

Mẹ già nhƣ chuối bà hƣơng

Nhƣ xôi nếp một, nhƣ đƣờng mía lau.

(1) An Cựu: có nơi ghi "Gạo de An Cựu", một thứ gạo thơm ngon

xƣa đƣợc dâng lên vua, đƣợc gọi là gạo tiến, chuyên trồng ở cánh

Page 259: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

258

đồng An Cựu, phía nam của Huế.

55. Trách cha, trách mẹ nhà chàng

Cầm cân chẳng biết rằng vàng hay thau

Thực vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng.

BK

(a) Trách cha trách mẹ nhà nàng

Cầm cân chả biết là vàng hay thau

Vàng đây chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa thử than

Ngƣời khôn thử tiếng ngƣời ngoan thử lời.

(b) Trách cha trách mẹ nhà chàng

Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau

Thật vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng

Tham vàng bỏ ngãi chàng ơi!

Vàng ăn thì hết ngãi tôi hãy còn.

56. Trời mƣa nƣớc chảy vân vi

Mẹ thƣơng con mẹ, chứ thƣơng gì nàng dâu.

57. Trời mƣa ƣớt lá đài bi

Con mẹ mẹ xót, thƣơng gì con dâu.

BK

- Con mẹ mẹ xót, xót gì con dâu.

58. Trời che đất chở rộng thênh

Lò âm dƣơng đốt nên hình ngƣời ra

Chữ tài sánh lại là ba

Gồm no thiên tính khác xa vật tình

Kẻ tài là bậc tinh anh

Sinh tri lọ phải học hành mới hay

Vua tôi sẵn có nghĩa dày

Cha con thân lắm đáng ngƣời nên trông

Khi ấp lạnh lúc quạt nồng

Bữa dâng ngon ngọt bữa dùng sớm trƣa

Ở cho thoả chí ngƣời xƣa

Đền ơn trả nghĩa thuở xƣa bế bồng

Nhất hiếu lập vạn thiện tòng(1)

Ông gồng cháu cháu lại nên ông

Hoàng thiên chẳng phụ tấm lòng hiếu đâu

Đàn bà phận gái làm dâu

Làm dâu ắt muốn mai sau mẹ chồng

Phải nhằm bƣớc trƣớc cho xong

Page 260: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

259

Bƣớc sau theo lối ông ông bà bà

Chữ rằng tích thiện chi gia(2)

Đƣờng kia lối nọ chẳng qua nợ lần

ấy là khuyến hiếu ở thân

Lại còn một nỗi ái ân bạn bầu

Anh em cốt nhục đồng bào

Kẻ sau ngƣời trƣớc phải hầu cho vui

Lọ là ăn thịt ăn xôi

Quí hồ ở nết tới lui bằng lòng

Chớ bề tranh cạnh hành hung

Chớ nên khinh dị dốc lòng yêu đƣơng

Cứ trong nghĩa lí luân thƣờng

Làm ngƣời phải giữ kỉ cƣơng mới màu

Đừng cậy khoẻ, chớ khoe giàu

Trời kia còn ở trên đầu còn kinh.

(1) Nhất hiếu lập, vạn thiện tòng: Làm đƣợc một việc hiếu thì vạn

điều tốt đi theo.

(2) Tích thiện chi gia: gia đình làm đƣợc nhiều điều lành.

59. Từ khi em về làm dâu

Anh thì dặn trƣớc, bảo sau mọi lời

Mẹ già dữ lắm em ơi!

Nhịn ăn nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha

Nhịn cho nên cửa nên nhà

Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông

Nhịn cho nên vợ nên chồng

Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà

Đi chợ thời chớ ăn quà

Đi chợ thời chớ rề rà ở trƣa

Dù ai bảo đợi, bảo chờ

Thời em nói dối con thơ em về.

BK

a- Thì anh dặn bảo trƣớc sau mọi lời

b- Nhịn ăn bớt ngủ mà nuôi mẹ già

- Khoan ăn bớt ngủ mà nuôi mẹ già

c- Về chợ thì chớ rề rà ở trƣa.

- Đi chợ thì chớ dần dà ở trƣa.

60. Tuổi em hai tám tuổi đầu

Cha mẹ đã định làm dâu nhà ngƣời

Nói ra sợ chị em cƣời

Năm ba trận chở, chín mƣời trận đay

Việc làm chẳng kịp trở tay

Page 261: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

260

Mẹ chồng mắng mỏ, la rầy gay go

Cơm ăn trong bụng chẳng no

Tấm quần, tấm áo, không cho mặc lành

Đêm thì thức đủ năm canh

Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò.

61. Uổng tiền mua giống mía sâu

Để dành đi cƣới con dâu mà nhờ.

62. Xin anh đi học cho ngoan

Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài

Quan tiền dài em ngắt làm đôi

Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già

Bát cơm em nấu nhƣ hoa

Bát canh em nấu nhƣ là mật ong

Nƣớc mắt em lọc cho trong

Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan .

63. Xƣa kia tôi ở với mẹ cha

Chƣa từng xách mủng(1), đi ra ngoài đồng

Bây giờ về với mẹ chồng

Cay đắng mặn nồng, ra chuyện tây riêng

Khi xƣa tôi ở với mẹ cha

Tôi bận cái yếm thêu hoa rồng

Bây giờ tôi ở với mẹ chồng

Tôi bận cái yếm bề trong ra ngoài

Xƣa kia nón Quảng quan hai

Bây giờ nón rách lại gài khuy mo.

(1) Mủng: Một thứ thúng nhỏ, đan dày kín.

2.9. HÔN NHÂN - CAM CHỊU

STT NỘI DUNG

1. Ai bƣng trầu rƣợu tới đó

Chịu khó bƣng về

Em thƣơng anh thảm thiết trăm bề

Heo vay cau tạm áo mƣợn võng thuê

Thầy mẹ bên em nay nhún mai trề

Page 262: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

261

Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo.

2. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh

Thầy mẹ gả bán cho anh thật thà

Bây giờ chê xấu chê xa

Chê cửa, chê nhà, chê khó, chê khăn

Ơ đâu yểu điệu thanh tân

Sao anh chẳng chịu cầm cân đi lừa?

3. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh

Thầy mẹ gả bán cho anh thật thà

Anh còn chê xấu chê xa

Chê vụng, chê dại, cửa nhà khó khăn

Tìm nơi yểu điệu thanh tân

Mẹ anh lại gác đồng cân đi lừa

Đây em vàng bảy chả mua

Vác cân đi lừa lại phải vàng năm

Vàng năm lại phải vàng mƣời

Rắn nằm cuộn khúc tƣởng nơi rồng vàng

Mẹ anh ngồi quán bán hàng

Sao anh chẳng biết rằng vàng hay thau

Thực vàng chẳng phải thau đâu

Đừng đem thử lửa cho đau lòng vàng.

4. Anh đi về đi, kẻo thầy em dứt, kẻo mẹ em la

Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì!

5. Chim thằng chài có ngày mắc bẫy

Em cho hay rằng anh hãy lánh xa

Mẹ cha không thể chịu hoà

Em đâu dám cãi vậy mà theo anh.

6. Đá cheo leo, trâu trèo trâu trƣợt

Ngựa trèo ngựa đỏ

Tiếc công anh lao khổ

Tự cổ chí kim

Mất em đi anh khó kiếm khó tìm

Cũng giả tỉ nhƣ cây kim mà lòn sợi chỉ

Sao em không biết nghĩ biết suy

Em ham nơi quyền quí, em không có nghĩ gì đến anh

Hoa kia gió thổi lìa cành

Mẹ cha ép gả, em đành chịu sao?

7. Đêm trăng thắp ngọn đèn lồng

Mình về có nhớ ta không, hỡi mình?

Chiếc thuyền nan anh giậm thình thình

Anh thì cầm lái, cô mình phách ba

Page 263: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

262

Có thƣơng anh, em bẻ mái chèo ra

Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.

8. Đèn chong giữa gió, khi tỏ khi mờ

Bạn thƣơng đứng đó, biết cơ vạn sầu

Bởi anh thất ƣớc bƣớc đầu

Phải nhƣ anh bỏ miếng trầu đã xong

Vì ai thiếp phải long đong

Một thân thiếp đã tính xong một bề

Làm trai thấy gái đừng mê

Cây cao bóng cả dựa kề đừng xiêu

Anh yêu cha mẹ chẳng yêu

Lụa kia em muốn nhúng, chỉ điều không ăn

Tiếc thay áo chẳng đặng khăn

Em đã có chồng xa xứ, anh đừng đón ngăn làm gì.

9. Em thƣơng anh, cha mẹ không cho

Tìm nơi khuất tịch khóc no rồi về.

10. Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng

Hàng Mật, Hàng Đƣờng, Hàng Muối trắng tinh

Từ ngày ta phải lòng mình

Bác mẹ đi rình đã mấy mƣơi phen

Làm quen chẳng đƣợc làm quen

Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.

BK

a - Làm quen chả đƣợc làm quen

b - Làm bạn mất bạn ai đền công cho

11. Kiến bò vành chậu sáng trƣng

Thấy em có nghĩa, lòng ƣng dạ đành

Anh đành, cha mẹ không đành

Mẹ ơi! Đừng dứt duyên lành tội con

Tai nghe trống điểm lầu son

Anh sầu một nỗi, héo hon đoạn trƣờng

Than cho thấu dạ ngƣời thƣơng

Bữa ăn rớt đũa, đêm trƣờng chiêm bao!

12. Mái tóc tơ không bao giờ phân rẽ

Dạ thƣơng, thầy mẹ khiến đừng

Hai hàng nƣớc mắt rƣng rƣng

Khổ cam trong dạ biết chừng nào phai.

13. Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình

Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.

14. Nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài

Page 264: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

263

Tiếc thay con ngƣời da trắng tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu

Rồng vàng tắm nƣớc ao tù

Ngƣời khôn ở với ngƣời ngu bực mình.

BK

(a) Bát nƣớc lắng mà đựng chậu thau

Cái mâm triện tự đựng rau thài lài

Anh tiếc cho con ngƣời da trẳng tóc dài

Mẹ cha ép gả cho ngƣời đần ngu.

(b) Tiếc thay nƣớc đục mà đựng chậu thau

Cái mâm chữ triện đựng rau thìa lài

Tiếc ngƣời da trắng tóc dài

Đƣơng xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mƣơi.

15. Nƣớc đứng mà đựng chậu thau

Tiếc mâm sơn tử đơm rau thài lài

Tiếc em da trắng tóc dài

Cha mẹ ép gả cho ngƣời phàm phu

Mình vàng xuống tắm ao tù

Ngƣời khôn ở với đứa ngu bực mình

Qua đình nghiêng nón trông đình

Đình bao nhiêu gói thƣơng mình bấy nhiêu

Khi nào nƣớc đục cơm thiu

Chồng con chƣa mấy, bỏ liều cho ta

Trông em chẳng thấy em ra

Anh ngồi anh đợi sƣơng sa lạnh lùng

Đêm nằm cởi áo đắp chung

Sao em không đắp lại vùng áo đi

Thƣơng em kịp thuở thì xuân xanh

Bữa cơm có cá có canh

Sao không mát dạ, vƣơng anh làm gì.

16. Nƣớc ngâm mà đậu chƣa chà

Lòng em thì muốn, mẹ cha chƣa ừ.

17. Ở nhà anh đã khiến sang

Nghe thầy mẹ nói dở dang nhiều điều

Đôi ta mến yêu

Những điều trung hiếu

Tình kia dan đíu

Nhạn én bay qua

Vịt lội Ngân Hà

Bây chừ dang dở

Thấy mẹ úp mở

Page 265: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

264

Cho lỡ chiếu giƣờng

Thấy mẹ không thƣơng

Sao ban đầu không nói?

Anh sang anh hỏi

Mẹ nói rằng: ừ!

Đi sang cƣới chừ

Trăm điều thách lại

Này yếm thêu hoa cả dải

Vòng xuyến dăm đôi

Này khăn nhiễu tàu

Mƣơi vuông cho đủ

Bỏ quả sơn son

Này rƣợu cho ngon

Năm bảy vò đầy ắp

Này mƣơi gánh nếp

Thết đãi họ hàng

Nhà anh khó khăn

Lấy đâu đồ sính lễ

Mẹ cha chẳng nghĩ

Em cũng mặc tình

Bỏ lời nguyện với ba sinh

Tiếc con rồng vàng bỏ đám mây xanh ngậm ngùi.

18. Phụ mẫu mình khuôn phép luật hình

Tôi không từng lai vãng nên mình quên tôi.

19. Ra đƣờng gặp khách cung mây

Chẳng dây nào rối bằng dây tơ vò

Thầy mẹ ngƣời vụng liệu vụng lo

Đôi mƣơi, mƣời tám chẳng lo lấy chồng

Thầy mẹ ngƣời tham việc tiếc công.

20. Sách Luận ngữ có hai chữ thị hồ (1)

Sách Tăng tử có hai chữ ta hồ (2)

Dầu thầy mẹ có gả thiếp đi mô

Thiếp cƣu sầu (3) trong dạ ruột khô gan vàng.

(1) Thị hồ: phải thế chăng, thƣờng đi đôi với phủ hồ là không phải

thế chăng?

(2) Ta hồ: than ôi!

(3) Cƣu sầu: mang sầu

21. Sáng ngày cắp nón đón đò

Gặp thầy, gặp mẹ chả cho xuống đò

Lạy thầy, lạy mẹ xin chừa

Từ rày chả dám đò đƣa với chàng

Page 266: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

265

Chốn sơn lâm lá cỗi thông vàng

Cây bao nhiêu lá thƣơng chàng bấy nhiêu

Bởi chƣng bác mẹ nhiều điều

Cho nên tôi phải đăm chiêu với chàng

Ruột tôi héo, gan tôi vàng

Nào ai có biết đoạn tràng này không ?

22. Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt

Khuyên em đừng chực tiết uổng công.

23. Thiếp đứng gần chàng nhƣ vàng mƣời nén

Chàng đứng gần thiếp nhƣ chén trà tiên

Anh thƣơng em, em chẳng dám thị thiền

ẩn cây nấp bóng, đợi quyền mẹ cha.

24. Thôi thôi buông áo em ra

Để em đi bán kẻo hoa em tàn

- Hoa tàn vì bởi mẹ cha

Khi búp không bán để tàn ai mua?

25. Thƣơng nhau chẳng lấy đƣợc nhau

Mẹ cha trồng sậy trồng lau ngăn rào.

26. Thuyền em lựa bến cắm sào

Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.

27. Tiếc công anh lau đĩa chùi bình

Cậy ông mai tới nói, cha mẹ nhìn bà con

Trời mƣa, nhà chiếc dột hom

Cha mẹ không thƣơng thì nói vậy, chớ bà con đâu nhìn.

BK

Tiếc công anh lau đĩa chùi bình

Cậy mai dong tới nói phụ mẫu nhìn bà con

Trời mƣa nhà thiếc dột bon bon

Phụ mẫu không thƣơng nói vậy, chớ bà con đâu mà nhìn.

28. Tiếc thay con ngƣời da trắng, tóc dài

Bác mẹ gả bán cho ngƣời đần ngu.

29. Trách hồng nhan vô duyên bạc chẳng phải hận

Duyên nợ ở gần sao không đặng xứng đôi

Để chàng với thiếp xa xôi

Oán cha trách mẹ chẳng lo việc đứng ngồi cho con.

30. Trách ai lấp nẻo sông ngân

Làm cho đôi lứa cố nhân bặt đƣờng

Thƣơng nhau dòng luỵ chảy tuôn

Trách cha mẹ gắt chẳng thƣơng chút tình

Anh về em nhớ dạng nhớ hình

Ngàn năm li biệt đôi đứa mình phải xa

Page 267: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

266

Vái Trời cho đặng chữ hiệp hoà

Lâu lâu thăm viếng kẻo mà đợi trông

Xin thƣơng cho chút má hồng

Chớ đừng bạc nghĩa vong ân đoạn tình.

31. Trách cha trách mẹ muôn phần

Ngồi trốc đống bạc mà cân lấy chì.

32. Trách cha trách mẹ quá lời

Cho nên anh phải bỏ rời bấy lâu

Bây giờ lòng mới sở cầu

Có chăng nói lại với nhau vài lời.

33. Trách hồng nhan vô duyên bạc phận

Duyên nợ ở gần sao không đặng xứng đôi

Để chàng với thiếp xa xôi

Oán cha trách mẹ chẳng lo việc đứng ngồi cho con.

34. Trách Trời sao lại hiu hiu

Trách lòng cha mẹ không chiều lòng em.

35. Trăm khúc sông khúc lở, khúc bồi

Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông

Gió bên đông xin chàng gỡ giúp

Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan

Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán

Trƣớc thì là bạn, sau nên vợ chồng

Em còn trong tròng xin chàng thong thả

Em quyết trận này trả của lấy cho anh

Em hai mƣơi tuổi xuân xanh

Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa ngƣời ta

Cho nên duyên chẳng thuận hoà

Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề.

36. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn

Mụ già kén rể, con còn hoá lâu.

37. Trèo đèo Cổ Mã

Ngó xuống Vạn Giả, Tu Bông(1)

Biết là phụ mẫu đành không

Chàng chờ thiếp đợi, uổng công hai đàng

(1) Vạn Giả, Tu Bông: các địa danh thuộc tỉnh Phú Yên.

38. Vì chàng nên chi thiếp chịu đòn oan

Thầy đập mẹ mắng, thế gian chê cƣời

- Thầy mẹ đập em anh đau thấu tận xƣơng

Xóm làng ơi, mau mau cứu ngƣời thƣơng tôi cùng!

- Thầy mẹ đập thiếp bò lăn bò lóc

Có khúc có đận (vết)

Page 268: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

267

Nhờ bên tiếp cận

Chàng vô bóp muối thoa chanh

Chàng nay là phận rể không há dễ vô giành ngọn roi.

2.10. HÔN NHÂN - TRÁCH MÓC

STT NỘI DUNG

1 Ai làm cho bến xa thuyền

Cho Trăng xa Cuội(1), bạn hiền xa nhau

Cha mẹ sao nghĩ chẳng sâu

Để thƣơng để nhớ để sầu cho cả hai ta.

2 Ba tàn ba héo vì cây

Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.

3 Bác mẹ em vội tham vàng

Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con

Trƣớc thời thẹn với nƣớc non

Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày

Khi vui có bác mẹ thầy

Cơn sầu em chịu đắng cay một mình

Mang thơ ra dán cột đình

Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc thấu tình em chăng?

Phong ba nổi giữa đất bằng

Một dây một buộc ai dằng cho ra!

Thiết gì một cảnh vƣờn hoa

Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?

Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy

Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!

4 Cây oằn vì bởi gió nam

Xa mình là bởi mẹ cha ham chỗ giàu.

BK

a- xa mình vì bởi phụ mẫu ham chỗ giầu.

5 Cha mẹ đòi ăn cá thu

Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.

6 Cha mẹ em cho em sang chiếc đò nghiêng

Đò trùng triềng đôi mạn em ôm duyên trở về.

7 Chim bay về núi Sơn Trà

Chồng nam vợ bắc, ai mà muốn xa

Sự này cũng tại mẹ cha

Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.

8 Chim xanh ăn trái xoài xanh

Ăn no tắm mát lên nhành rỉa lông

Page 269: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

268

Đôi ta xứng vợ xứng chồng

Cực vì cha mẹ nói không xƣa rày

Bữa nay tỏ thiệt bạn hay

Kiếm nơi mô thì bạn kiếm, chớ duyên rày rời duyên.

9 Đôi ta mặt nguyệt hôm rằm

Bởi chƣng mƣa dầm nhìn chẳng thấy sao

Bởi chƣng cha mẹ ép vào

Làm cho khốn khổ đời nào cho ra

Thác đi sợ tiếng gièm pha

Thiệt thân mà miệng ngƣời ta chê cƣời

Chơi trăng không thẹn với trời

Chơi gƣơng không thẹn với ngƣời trong gƣơng

Hỡi ngƣời em nhớ em thƣơng

Sống còn em nguyện cùng chàng trăm năm.

10 Dòng nƣớc chảy xuôi, con cá buôi lội ngƣợc

Dòng nƣớc chảy ngƣợc, ông Nƣợc rƣợt theo

Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo

Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền.

11 Đứng bên ni sông cách ba tay sáo

Nghe giọng em hò vắt áo ra đi

Tai nghe thầy mẹ ở nhà bán gả em đi

Bằng ai giơ dao cắt ruột anh đi cho rồi.

12 Duyên kia chƣa bén, tình nọ chƣa nồng

Xốn xang bứt rứt trong lòng

Hay là Trời khiến vợ chồng cách phân?

- Em đừng đem dạ sầu tây

Gây nên cơn cớ sự này

Bởi chƣng cha mẹ xui rày mới xa.

13 Em là con gái lỡ thì

Thầy mẹ nỏ gả để làm chi trong nhà?

14 Gà tơ xào với mƣớp già

Vợ hai mƣơi mốt, chồng đà sáu mƣơi

Ra đƣờng chị giễu em cƣời

Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng

Đêm nằm tƣởng cái gối bông

Giật mình gối phải râu chồng nằm bên

Sụt sùi tủi phận hờn duyên

Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con.

15 Không trách mẹ, cũng chẳng hờn cha

Chỉ trách mẹ bội ƣớc, nên sinh ra thế này.

16 Lửa nhen vừa mới bén trầm

Page 270: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

269

Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con.

17 Mẹ em tham gạo tham gà

Bắt em để bán cho nhà cao sang

Chồng em thì thấp một gang

Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau

Nghĩ mình càng tủi càng đau

Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.

18 Mẹ em tham gạo tham gà

Bắt em để bán cho nhà cao sang

Chồng em thì thấp một gang

Vắt mũi chƣa sạch ra đàng đánh nhau

Nghĩ mình càng tủi càng đau

Trách cha trách mẹ tham giàu tham sang.

19 Mẹ em tham việc tiếc công

Cầm duyên em lại, tiết thu đông muộn màng.

20 Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng

Tôi đã bảo mẹ răng đừng

Mẹ hấm, mẹ hứ mẹ bƣng ngày vào

Bây giờ kẻ thấp,ngƣời cao

Nhƣ đôi đũa lệch so sao cho bằng?

BK

a - Mẹ tôi tham thúng xôi rền

b - Em đã bảo mẹ rằng đừng

c - Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bƣng mâm vào

d - Bây giờ chồng thấp, vợ cao

21 Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hƣng

Mẹ em tham thúng bánh chƣng

Tham con lợn béo,lƣng em chịu đòn.

22 Mẹ em tham thúng xôi rền

Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hƣng

Em đã bảo mẹ rằng đừng

Mẹ giấm mẹ giúi mẹ bƣng vào nhà

Bây giờ tôi bán oan gia

Nó đánh trong nhà, nó quật ngoài sân

Mẹ ngồi mẹ nghĩ tần ngần

Mẹ bán táo rụng, gỡ dần con ra.

23 Mẹ mong con đẹp lứa đôi

Con xin đƣợc tỏ đôi lời đục trong:

Lấy nhau lòng hiểu đƣợc lòng

Page 271: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

270

Tình kia mới đƣợc đƣợm nồng dài lâu

Vì chƣng mẹ trót nhận trầu

Bắt con ngậm miệng cúi đầu vâng theo

Lấy ngƣời chẳng biết, chẳng yêu

Sống sao cho mãn bóng chiều trăm năm

Dù nay muốn dứt tơ tằm

Mẹ thƣơng thì sự lỡ lầm đã qua.

24 Mẹ mong gả thiếp về giồng

Thiếp than phận thiếp gánh gồng chẳng kham.

25 Mẹ ơi trái bí còn non

Mẹ cầm dao cắt duyên con sao đành?

26 Sự tình trọng đại, đây chẳng phải buồn chi

Buồn thời một phận sầu bi

Trai tài gái sắc, thầy mẹ không tính hƣơng chi con nhờ.

27 Tay gắp miếng mỡ

Tay đỡ miếng quay

Sửa mặt, sửa mày

Quần hồ áo cánh

Thầy mẹ sứm sanh

Sao anh không mặc?

Cái phận anh cực

Cái phận anh sầu

Ruột cắt không đau

Bằng duyên ép cƣỡng

Có hơn sào ruộng

Lúa bán hơn ngƣời

Nuôi ăn nuôi chơi

Thầy mẹ không gả

Nuôi uổng thân con

Đắng cay nhƣ quả bồ hòn

Khác nào nhƣ thể hồng non ngậm vào.

28 Tham giàu thầy mẹ ép gả em ra

Tƣởng là mẹ chính, hoá ra mụ hầu.

29 Thầy mẹ em tham ruộng đầu cầu

Tham nhà con một, tham trâu đầy chuồng

Thầy mẹ em tham bạc tham tiền

Tham con lợn béo, cầm duyên em già

Để đến nay anh cƣới em nửa con gà

Dăm ba sợi bún, một và hột xôi.

30 Trách cha mẹ nàng ăn ở đảo điên

Để trai anh hùng chịu thảm, gái thuyền quyên chịu sầu.

Page 272: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

271

31 Trách cha, trách mẹ muôn phần

Ngồi trốc đống bạc mà cân phải chì

Trách cha trách mẹ vụng suy

Sinh chi cho luống công trình

Để cho chúng bạn đồng tình mỉa mai.

32 Trách mẹ với cha chớ anh đây không trách bậu

Cha mẹ tham giàu gả bậu đi xa.

2.11. HÔN NHÂN - QUYỀN CHA MẸ

STT NỘI DUNG

1. Có con mà gả chồng gần

Có bát canh cần nó cũng đem cho

Hoài con mà gả chồng xa

Trƣớc là mất giỗ sau là mất con.

BK

(a)Có con mà gả chồng gần

Nửa đêm đốt đuốc mang phần cho cha

Hoài con mà gả chồng xa

Ba sào ruộng chéo chẳng ma nào cày.

(b)Có con mà gả chồng xa

trƣớc là mất gỗ, sau là mất con

Có con mà gả chồng gần

Có bát canh cần nó cũng đem cho.

2. Con ta gả bán cho ngƣời

Cờ ai nấy phất chứ chơi đâu mà.

3. Mẹ mong gả thiếp về vƣờn

Ăn bông bí luộc dƣa hƣờng nấu canh.

BK

Mẹ mong gả thiếp về giồng

Ăn bông bí luộc, dƣa hồng nấu canh.

4. Nuôi con những tƣởng về sau

Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi

Mực đen vô giấy khó chùi

Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.

5. Trèo lên cây gạo con con

Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo

Nặng là bao nhiêu?

Ba mƣơi quan quí

Mẹ anh có ý mới lấy đƣợc nàng

Mai mẹ anh sang, mẹ nàng thách cƣới

Page 273: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

272

Bạc thì trăm rƣởi, tiền chín mƣơi chum

Lụa thì chín tấm cho dày

Trâu bò chín chục đuổi ngay vào làng

Anh sắm đƣợc, anh mới hỏi nàng

Nếu không sắm đủ, chớ vào làng làm chi.

BK

Trèo lên cây gạo son son

Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo

Ba mƣơi quan quí

Mẹ anh có ý mới lấy đƣợc nàng

Anh về bảo mẹ anh sang

Mẹ nàng thách cƣới:

- Tiền thì trăm rƣởi

Bạc chín mƣơi thoi

Cƣới em mƣời chín con trâu

Mƣời hai con lợn thì dâu mới về

Dâu về trƣớc ngựa hồng theo sau.

2.12. HÔN NHÂN - CHỐNG LẠI LỄ GIÁO PHONG KIẾN

STT

NỘI DUNG

1. Cơm ăn hai bát, bát ăn bát để

Đũa so hai đôi, đôi đứng đôi nằm

Dầu mà thầy mẹ đập chín chục một trăm

Đập rồi lại dậy quyết nhất tâm lấy chàng.

2. Cơm sôi bớt lửa kẻo trào

Mẹ ơi khoan bán, má đào đang non.

3. Cá lƣỡi trâu dầm trong nƣớc mắm

Qua với nàng duyên thắm mấy trăng

Mẹ cha tuy chẳng bằng lòng

Đôi ta cố giữ chữ đồng trăm năm.

4. Chƣa chồng thì liệu đi nghe

Để bác mẹ liệu thì huê em tàn

Có thì liệu lấy mới ngoan

Để bác mẹ liệu thế gian đã đành.

5. Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng

Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi

Con rồng nằm bãi cát bày vi

Vì chƣng thƣơng bạn, nên ra đi làm vầy

Page 274: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

273

Ra đi, cha đánh, mẹ ngầy

Không đi, bạn ở ngoài này bạn trông!

6. Dù cho cha đánh ngõ đình

Mẹ ngăn ngõ chợ, đôi đứa mình đừng xa.

7. Em còn bé dại thơ ngây

Thầy mẹ ép uổng những ngày còn thơ

Bây giờ duyên số chả vừa

Có thƣơng thì gỡ cho nhau ra cùng

Em còn mắc míu trong tròng

Mƣợn dao lá trúc cắt tròng em ra

Bao giờ em ra khỏi tròng

Giã ơn dao trúc, giã lòng ngƣời thƣơng

Bao giờ em ra khỏi chiếu, khỏi giƣờng

Để thiếp với chàng lồng áo đắp chung.

8. Em ngủ dậy sớm mai

Em xúc hai chén cơm

So hai đôi đũa

Đôi đứng đôi nằm

Dầu thầy mẹ có đánh chín chục, một trăm

Đánh rồi em dậy, em cũng chí lăm thƣơng chàng.

9. Em thƣơng anh dầu cha mẹ có quấn tóc kèo nhà

Đánh bằng roi sắt, xa mà không xa

Chừng nào roi sắt trổ hoa

Cây khô nở nhuỵ, đôi đứa ta mới lìa.

10. Em thƣơng anh thầy mẹ ngăm nghe

Cậu, cô, chú, bác, đòi đậu bè thả trôi

Thả trôi răng đặng mà thả trôi

Anh Hồ em Hán cũng lôi nhau về.

11. Hai hàng nƣớc mắt tuôn rơi

Khóc lên thì sợ bạn cƣời đôi ta

Việc này tại mẹ cùng cha

Tại chú cùng bác ông bà anh em

Mặc ai chia rẽ phận duyên

Đôi ta cứ giữ lời nguyền sắt son.

12. Khi con thƣơng thầy mẹ không thƣơng

Nay chừ công bất thành, danh bất toại, thầy với mẹ đẩy vại con vô

Liều mình con muốn vọt xuống hồ

Măng non làm bạn với tre không cực lòng.

13. Mặc dầu cha đánh mẹ treo

Đứt dây té xuống cũng theo chung tình.

14. Mình ơi! tôi nhớ thƣơng mình

Page 275: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

274

Mẹ cha chửi mắng chữ tình nặng thêm.

15. Rau răm ngắt ngọn còn tƣơi

Rƣợu ngon chuốc chén đợi ngƣời tri âm

Đôi đũa em đã toan cầm

Chàng lấy một chiếc cho lòng em mê

Về nhà cha đánh, mẹ chê

Nhƣng em chỉ quyết một bề lấy anh

Cây xanh thì lá cũng xanh

Đã trót vin cành thì phải hái hoa.

16. Thiếp đây không phải con ngƣời lòng chim dạ cá

Trách tấm lòng thầy mẹ bán gả đôi nơi

Trăm năm thề thốt nặng lời

Thiếp xin lấy con dao vàng tự vẫn giữa trời phen ni.

17. Từ khi gặp mặt giữa đàng

Thiếp quyết thƣơng chàng, cha mẹ nào hay

Có hay thì nhất đánh, nhì đày

Hai lẽ mà thôi

Thuỷ chung em giữ trọn mấy lời

Chết thời chịu chết, lìa đôi em không lìa!

(b) Từ khi gặp mặt giữa đàng

Thiếp quyết thƣơng chàng, cha mẹ nào hay

Có hay thì nhất đánh nhì đày

Thuỷ chung giữ trọn, chết thà chịu chết lìa đây không lìa.

2.13. HÔN NHÂN - LƢỠNG LỰ

STT NỘI DUNG

1. Ai về anh dặn lời này

Phƣợng hoàng chỉ quyết đậu cây ngô đồng

Song le còn chút ngại ngùng

Biết rằng thầy mẹ thƣơng cùng cho chăng?

Nẻo xa thấp thoáng bóng trăng

Cũng mong nhờ gió cát đằng(1) dƣa dây

Để cho duyên hiệp đấy đây cho gần.

(1) Cát đằng: loài dây leo phải bám vào những cây to khác. Trong

văn học cổ thƣờng dùng cát đằng để chỉ sự phụ thuộc, lẽ mọn.

(2) Quảng Hàn: nghĩa gốc là rộng và lạnh lẽo, theo Long thành lục,

vua Đƣờng Minh Hoàng, nhân đêm rằm tháng tám, đƣợc nhà thuật

sỹ làm phép lạ đƣa lên mặt trăng chơi, thấy cửa vào cung trăng có

biển đề "Quảng hàn thanh hƣ chi phủ" (cái phủ trống rỗng, trong

suốt, lạnh và rộng) do đó Quảng Hàn, Cung Quảng Hàn, Cung

Page 276: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

275

Quảng, Cung Hàn v.v đều dùng để chỉ mặt trăng.

2. Chim manh manh bay quanh vòng cỏ

Qua với nàng hiểu rõ mấy năm

Tình yêu vẫn giữ âm thầm

Đợi quyền cha mẹ sắt cầm định phân.

3. Công anh gánh đá tạc bia

Công em trò chuyện sớm khuya với chàng

Bây giờ bác mẹ bàn ngang

Công em trò chuyền với chàng mất không

Ai ngờ chuối trổ mùa đông

Biết rằng có chắc hay không mà chờ

Chờ anh chờ ngẩn, chờ ngơ

Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa hồng

Cắm sào em đợi nƣớc trong

Nƣớc nguồn chảy xuống còn mong nỗi gì

4. Đêm khuya trăng lệch trời trong

Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha.

5. Đƣợc hoặc chữ trung mất dùng chữ hiếu

Đƣợc chữ tam tùng lỗi đạo mẹ cha.

6. Em về em hỏi mẹ cha

Có cho em lấy chồng xa hay gần?

Có con mà gả chồng xa

Một là mất giỗ, hai là mất con

Có con mà gả chồng gần

Có bát canh cần nó cũng đem cho.

7. Em thấy anh em cũng mong chào

Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài.

8. Em thƣơng còn bụng mẹ thầy

Đèn treo trƣớc gió biết xây ngả nào.

9. Gặp anh đây em hỏi giao hoà

Thƣơng em anh có nghĩ đến mẹ già em không?

10. Không nghe anh thì lỗi đạo tam tùng

Nghe anh thì thất hứa thất trung với mẹ thầy.

11. Không theo anh thì đêm tƣởng ngày trông

Theo anh thì thầy mẹ vẽ vòng uốn roi.

12. Lăm le muốn nhảy qua mƣơng

Nhảy thời đặng đó, còn thƣơng mẹ già.

13. Lấy chi trả thảo cho cha

Đền ơn cho mẹ, con ra lấy chồng.

14. Lênh đênh nửa nƣớc nửa dầu

Nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu căn duyên.

Page 277: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

276

15. Lƣỡi câu anh đã uốn vừa

Sợ lòng bác mẹ lọc lừa nơi nao

Bắc thang lên hỏi thiên tào

Rằng cô bán cá rẽ vào duyên ai(1)

(1) Rẽ vào duyên ai: ngƣời ấy sẽ lấy ai?

16. Lƣu li nửa nƣớc, nửa dầu

Nửa thƣơng cha mẹ, nửa sầu căn duyên.

17. Mẹ em tham con lợn béo mùi

Để anh chểnh mảng nhƣ nồi canh rau

Bắt tay qua trán mà nghĩ trƣớc sau

Thịt lợn chóng chán, canh rau mát lòng.

18. Mẹ mong gả thiếp về vƣờn

Thiếp lo một nỗi đƣờng trƣờng xa xôi.

19. Một nghiên năm bảy bút giao kề

Biết lòng thày mẹ chấm phê bút nào.

20. Ông Trời năng mƣa, năng vận chuyển

Đất cát ngoài biển, năng lở năng bồi

Đôi ta yêu lỡ nhau rồi

Chàng than thiếp thở, phụ mẫu ngồi sao yên?

21. Vai mang khăn gói sang sông

Mẹ kêu khốn tới, thƣơng chồng khốn lui.

2.14. HÔN NHÂN - TỰ GIÁC

STT NỘI DUNG

1. Ai bƣng bầu rƣợu đến đó

Phải chịu khó bƣng về

Em đang ở hầu thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.

BK

(a)Ai bƣng bầu rƣợu tới đó thì chịu khó bƣng về

Kẻo em đây đang còn theo chân thày mẹ cho trọn bề hiếu trung.

(b)Ông mai ơi!

Ông xách bầu rƣợu tới đó

Ông hãy chịu khó ông xách trở về

Tôi còn ở nuôi phụ mẫu, cho trọn bề hiếu trung.

(c) Ai bƣng trầu rƣợu tới đó

Chịu khó bƣng về

Em đây thiệt vẫn không chê

Ở làm ri nuôi thầy mẹ, cho trọn bề hiếu trung.

2. Bông ngâu rụng xuống cội ngâu

Em còn phụ mẫu dám đâu tƣ tình.

Page 278: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

277

3. Chỉ còn đƣơng nối trong cuồng

Em còn phụ mẫu, luông tuồng sao nên.

4. Chớ lo nốc nát, ván hà

Gắng thân nuôi phụ mẫu, duyên già có anh.

5. Khoan khoan bƣớc tới thềm vàng

Để em thƣa với thầy mẹ, biết có thƣơng chàng hay không?

6. Khoan khoan chờ đợi em cùng

Em còn hai chữ hiếu trung chƣa đền.

7. Mẹ em muốn ăn cá thu

Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm

Mẹ em thách cƣới một trăm

Anh đi chín chục, mƣời lăm quan ngoài.

8. Mẹ em thách cƣới một trăm

Anh đi chín chục mƣời lăm quan ngoài

Mẹ em thách cƣới hoa tai

Anh ra thợ bạc đánh hai đôi liền.

9. Ngại vì một nỗi xa đàng

Bác mẹ chƣa biết họ hàng chƣa hay

Anh có lòng thƣơng chờ đợi ít ngày

Đƣợc phép mẹ thầy, anh hãy vãng lai

Trƣớc răng sau rứa không sai!

10. Ngọc còn ẩn bóng cây ngâu

Em đang tùng phụ mẫu dám đâu tự tình?

11. Ơn hoài thai nhƣ biển

Ngãi dƣỡng dục, tợ sông

Em nguyền ở vậy phòng không

Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.

12. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non

Hai ta là đạo làm con

Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.

13. Phụ mẫu sơ sanh, hãy để ngƣời định

Trong việc vợ chồng, phải chờ lịnh mẹ cha

- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy

Nhƣng em phải hứa chắc một lời, anh sẽ cậy mai dong.

14. Thuyền em lựa bến cắm sào

Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.

15. Tiếc cây mía tốt có sâu

Tiếc ngƣời lịch sự trên đầu có tang

Tang chồng thì bỏ tang đi

Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung

- Tang cha, tang mẹ trên đầu

Page 279: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

278

Lẽ nào em dám bán sầu mua vui.

16. Tiếng đồn anh con nhà nhân gia tử đệ

Anh ơi! Anh thiếu chi kẻ thƣơng yêu

Cớ làm sao anh lại để đứng bóng xế chiều hỡi anh?

- Em ơi, em thốt ra anh cũng phải

Nhƣng cho anh trả lại mần ri

Chốn mô nghiêm trang bằng chốn bến Ngự? (1)

Chỗ mô lịch sự bằng chợ Đông Ba (2)

Anh không bôn theo đƣờng con vợ

Mà nhớ đến hai chữ thất gia

Một chữ kính mẹ, một chữ thờ cha

Dẫu mà trăng xế, bóng qua anh cũng đành.

(1) Bên ngự: địa điểm trên sông An Cựu (một nhánh của sông

hƣơng) gần ga Huế.

(2) Đông Ba: xem chú thích ở Ch 406.

17. Trăng lên khỏi núi trăng sáng

Bởi vì mây ám nên trăng mờ

Anh mắc đƣờng hiếu sự, em đợi chờ có đặng không?

2.15. CON CÁ TRONG CA DAO

VỀ TÌNH YÊU, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

STT NỘI DUNG

1. Ai làm bát bể cơm rơi

Đĩa nghiêng cá đổ, rã rời đôi ta.

2. Ai làm cá bống đi tu

Cá thu nó khóc, cá lóc nó rầu

Luỵ rơi hột hột, cơ cầu lắm bớ em!

3. Ai làm cho cải tôi ngồng

Cho dƣa tôi khú, cho chồng tôi chê

Chồng chê thì mặc chồng chê

Dƣa khú nấu với cá trê ngọt lừ.

4. Ai lên nhắn nhủ hàng bông

Có muốn lấy chồng thì xuống Nguyệt Viên(1)

Nguyệt Viên lắm lúa nhiều tiền

Lại có sông tiền tắm mát nghỉ ngơi

Chiều chiều ba dãy cá tƣơi

Chẳng ăn thời thiệt, chẳng chơi thời hèn.

(1) Nguyệt Viên: một địa điểm thuộc xã Hoằng Quang, huyện

Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.

5. Ai ơi, trẻ mãi ru mà

Page 280: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

279

Càng so sánh lắm, càng già mất duyên

Còn duyên nhƣ tƣợng tô vàng

Hết duyên nhƣ tổ ong tàn ngày mƣa

Còn duyên đóng cửa kén chồng

Hết duyên ngồi gốc cây hồng lƣợm hoa

Còn duyên kén cá chọn canh

Hết duyên củ ráy dƣa hành cũng trôi

Còn duyên kén những trai tơ

Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng

Còn duyên đóng cửa kén chồng

Hết duyên bán quán ngồi trông bộ hành.

6. Ai về nhắn nhủ ông câu

Cá ăn thì giật để lâu mất mồi -

Mất mồi này ta câu mồi khác

Cá biển hồ sao xác thiếu chi.

7. Ăn mít bỏ xơ

Ăn cá bỏ lờ, mình chớ hay quên

Mình quên ta chả cho quên

Mình nhớ, ta nhớ mới nên vợ chồng.

8. Ăn trầu ngƣời nhƣ chim mắc nhợ

Uống rƣợu ngƣời nhƣ cá mắc câu

Thƣơng em chẳng nói khi đầu

Để cho bác mẹ ăn trầu khác kơi

Đau lòng em lắm anh ơi!

Riêng em cứ quyết đợi ngƣời đấy thôi

Sông kia khi lở khi bồi

Thƣơng em lúc đứng lúc ngồi cũng thƣơng.

9. Anh ăn cơm cũng thấy nghẹn

Uống nƣớc cũng thấy nghẹn

Nghe lời em bậu hẹn, ra bãi đứng trông

Biển xanh bát ngát, nhìn không thấy ngƣời

Mênh mông sông nƣớc xa vời

Biết rằng còn nhớ những lời thể xƣa

Trông ai nhƣ cá trông mƣa

Ngày đêm tƣởng nhớ, nhƣ đò đƣa trông nồm

Bậu ơi! bậu có nhớ không ?

Anh trông ngóng bậu, nhƣ rồng ngóng mƣa.

10. Anh Ba yêu đến tôi chăng?

Gió đƣa trăng là trăng đƣa gió

Thung thăng cá vƣợt qua đăng

Xin đừng lắm chốn, nhiều nơi nhỡ nhàng.

Page 281: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

280

11. Anh bứt cỏ ngựa(1) ngôi đầu cửa ngọ

Kẻ bắn con nây(2) ngồi cội cây non

Chàng mà đối đƣợc thiếp trao tròn một quan?

- Con cá đối(3) nằm trên cối đá Con mèo cụt(4) nằm trên mút kèo

Trai thanh tân đã đối đƣợc, tiền cheo mô mà?

(1) (2) (3) (4): Đây là cách nói lái của miền Trung khác với cách

nói lái miền Bắc.

12. Anh đi phe cá mũi Son

Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay

Móng tay, móng vắn, móng dài

Trồng một cây xoài trái chín trái chua.

13. Anh đi vắng cửa vắng nhà

Giƣờng loan gối quế, mẹ già ai nuôi?

- Cá rô anh chặt bỏ đuôi

Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.

14. Anh đừng thấy cá phụ canh

Thấy toà nhà ngói, phụ tranh rừng già.

15. Anh mong bắt cá chuồn chuồn

Khi vui nó lội khi buồn nó bay

Chim trời cá nƣớc chi đây

Các lội đằng cá, chuồn bay đằng chuồn.

16. Anh mong gởi cá cho chim

Chim bay ngàn dặm cá chìm biển Đông.

17. Anh muốn câu con cá gáy bốn đòn

Con cá sơn, con cá móm anh ngồi bòn cũng ra.

18. Anh ngó lên trời thấy đám mây bạch

Anh ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi

Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc

Anh mảng thƣơng nàng biết đƣợc hay không ?

19. Anh ngồi bậc lở anh câu

Khen ai khéo mách, cá sầu chẳng ăn.

20. Anh ngồi trƣớc mũi ghe lê

Chớ em chi đặng ngồi kề một bên.

BK

Anh ngồi vực lở quăng câu

Khen ai xui giục con cá sầu không ăn

Con cá không ăn câu anh con cá dại

Con cá ăn câu anh thì có ngãi có nhân.

21. Anh tiếc ao cá nƣớc trong

Để cho bèo tấm, bèo ong dạt vào

Anh tiếc cái thuyền thúng mà chở đò ngang

Page 282: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

281

Để cho thuyền ván nghênh ngang giữa dòng.

22. Anh tới đây đất nƣớc lạ lùng

Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kiêng

Tới đây đầu lạ sau quen

Bóng trăng là nghĩa, ngọn đèn là duyên.

23. Anh trông em nhƣ cá trông mƣa

Ngày trông đêm tƣởng nhƣ đò đƣa trông nồm.

24. Anh trông em nhƣ cá trông mƣa

Nhƣ con trông mẹ chợ trƣa chƣa về.

25. Anh trông xuống sông

Buồm rung gió thổi

Kẻ lặn ngƣời lội

Kẻ chắn ngƣời đăng

Nƣớc bạc lăn tăn

Phao chìm chuyển động

Giật lên mau chóng

Kẻo cá nhả ra...

Mình lấy đƣợc ta

Bõ công ao ƣớc

Ta lấy đƣợc mình

Thoả dạ ƣớc ao

Bõ công anh đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi.

26. Anh về đi ngủ kẻo khuya

Xấu chuôm, cá chẳng vào đìa anh đâu!

- Xấu chuôm tốt cá, em ơi

Tốt chuôm mà nỏ có nơi cá nằm.

27. Anh về tìm vảy cá trê

Tìm gan tim thú tìm mề con lƣơn

Tìm cho con bún có xƣơng

Tìm dây tơ hồng có rễ em mà theo không ?

- Em về đánh kiểng la làng

Tới đây anh chỉ vảy cá trên vàng anh coi

Em đừng nói dại, nói khờ

Bún làm bằng bột ê hề xƣơng đâu.

28. Anh về xứ Đế thành Đô

Nhƣ cá Biển Hồ, bao thuở gặp nhau.

29. Ba tiền một khứa cá buôi

Cũng mua cho đƣợc mà nuôi mẹ già.

30. BK

(a)Bao giờ cá lí hoá long

Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xƣa.

Page 283: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

282

(b)Một mai con cá hoá rồng

Đền ơn cha mẹ bõ công sinh thành.

31. Bây giờ ta gặp nhau đây

Nhƣ con cá cạn gặp ngày trời mƣa.

32. Bấy lâu lên ngọn sông Tân

Muốn tìm cá nƣớc phải lần trời mƣa

Tiếc công anh đắp đập coi bờ

Để ai quảy đó, đem lờ đến đơm.

33. Bèo than phận bèo khi trôi khi nổi

Bí than phận bí, ngắt ngọn nấu canh

Anh than phận anh, vợ con chƣa có

Nay chọc ngƣời nọ, mai ghẹo ngƣời kia

Mắt nhìn em nhƣ súng nhìn bia

Bấy lâu con cá cựu ở đìa

Bao giờ con cá cựu trở về ao sâu?

BK

Bèo than phận bèo ở trên mặt nƣớc

Bí than phận bí, xắt nhỏ nấu canh

Anh than phận anh, vợ con chƣa có

Không ai coi đầu nọ, không ai ngó đầu kia

Anh chờ em nhƣ súng chờ bia

Tƣởng là cá nọ men đìa

Hay đâu cá nọ dứt lìa ao sâu.

34. Biển rộng thênh thang, con cá nằm ngƣợc

Cây cao chót vót điểu nọ nằm ngang

Tiếc vì xa xã ngái làng

Em muốn phân nhân ngãi sợ làng khó phân.

35. Biển sâu cá lội mất tăm

Dầu chờ dầu ngóng trăm năm cũng chờ

Sông sâu cá lƣợn lờ đờ

Dầu trông dầu đợi cho chí chờ trăm năm.

36. Biết thuở nào con cá nhào khỏi vực

Biết thuở nào hết cực thân em.

37. Bởi vì say thƣa nên chi sáo bổ

Cơ chi say dày, dông tố quản chi

Buồn tình cá bỏ cá đi

Ai ra đón ngăn cá lại, giữa chốn vọng trì khen cho.

38. Bông bống bồng bồng

Trai ơn vua chầu chực sân rồng

Gái ơn chồng ngồi võng ru con

Ơn vua xem trọng bằng non

Page 284: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

283

Ơn chồng, nhờ phúc tổ tông dõi truyền

Làm trai lấy đƣợc vợ hiền

Nhƣ cầm đồng tiền mua đƣợc của ngon

Phận gái lấy đƣợc chồng khôn

Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hoa rồng

Bông bống bồng bồng

Bồng bống bồng bông.

BK

(a)Bông bống bồng bông

Trai ơn vua chầu chực sân rồng

Gái ơn chồng ngồi võng nuôi con

Ơn vua xem trọng bằng non

Ơn chồng nhƣ đức tổ tôn ghi truyền

Làm trai lấy đƣợc vợ hiền

Nhƣ cầm đồng tiền, mua đƣợc của ngon

Phận gái lấy đƣợc chồng khôn

Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hóa rồng.

(b)Làm trai lấy đƣợc vợ hiền

Bằng cầm đồng tiền mua đƣợc miếng ngon

Làm gái lấy đƣợc chồng khôn

Cầm bằng cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng.

39. Bữa ăn có cá cùng canh

Anh chƣa mát dạ bằng anh thấy nàng.

BK

Bữa cơm có cá với canh

Anh không mát dạ bằng anh thấy nàng.

40. Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt

Buổi chợ tan rồi, con tép bạc cũng phải mua.

BK

Buổi chợ đông con cá hồng em chê lạt

Buổi chợ tan rồi con tép bạc em khen ngon.

41. Cơm chiên ăn với cá ve

Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.

42. Cơm trắng ăn với chả chim

Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no.

Cơm hẩm ăn với cá kho

Chồng xấu, vợ xấu, những lo mà gầy.

43. Cá bã trầu ăn bọt thia thia

Đôi ta thƣơng chắc, phận chia tại trời.

44. Cá bống đi tu

Cá thu nó khóc

Page 285: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

284

Cá lóc nó rầu

Phải chi ngoài biển có cầu

Anh ra đến đó giải đoạn sầu cho em.

45. Cá buồn cá chạy thung thăng

Ngƣời buồn ngƣời biết than rằng cùng ai?

BK

(a)Cá buồn cá vƣợt qua đăng

Em buồn em biết than rằng cùng ai?

(b)Cá buồn cá lội tung tăng

Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?

46. Cá buồn cá lội thung thăng

Ngƣời buồn ngƣời biết đãi đằng cùng ai?

Phƣơng đông chƣa rạng sao Mai

Đồng hồ chƣa cạn, biết lấy ai bạn cùng!

47. Cá buồn cá vọt qua đăng

Em buồn em biết than rằng cùng ai!

Than rằng cùng trúc, cùng mai

Cùng cây gỗ táu, cùng cây ngô đồng

Xót xa nhƣ muối đổ vào lòng

Đắng cay nhƣ ngậm bồ hòn vẫn phải gƣợng vui.

48. Cá buồn cá vƣợt qua đò

Em buồn em biết hẹn hò cùng ai?

Hẹn hòn ông Nón(1) hôm mai

Sao cho em gặp chàng trai tốt hò.

(1) Hòn ông Nón: hòn đá lớn giữa sông, giống hình cái nón úp.

Hòn đá này ở quãng sông thuộc xã Quý Lƣơng, huyện Bá thƣớc,

Thanh Hoá.

49. Cá buồn cá vƣợt qua đò

Em buồn em biết chuyện trò cùng ai?

50. Cá chẳng ăn muối cá ƣơn

Con cãi cha mẹ trăm đƣờng con hƣ.

51. Cá đáy nƣớc, nhạn lƣng trời

Nhạn bay còn bắn đặng

Cá lặn còn dễ câu

Ngƣời đứng một bên, ai nào thấu nỗi lòng

E sau lòng lại đổi lòng

Ngƣời đời tham bƣởi bỏ lòng nhiều thay.

52. Cá không ăn câu là con cá dại

Câu anh này, câu ngãi câu nhơn!

Cái cần câu trúc

Cái ống câu trắc

Page 286: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

285

Cái lƣỡi câu vàng

Cái đàn chỉ tơ

Sáng trăng anh câu nhởi ai ngờ bén duyên.

53. Cá lên khỏi nƣớc cá khô

Thƣơng em thì chớ loã lồ tiếng tăm

Vắng mặt qua lại hỏi thăm

Ghét nhau chi đó, mấy năm giân hờn?

- Chàng giận em lại cƣời luôn

Bớt giận, bớt hờn, xắm rắm với nhau

Thƣơng nhau ăn một trái cau

Giấu cha, giấu mẹ, ăn sau bóng đèn.

54. Cá lí ngƣ sầu tƣ biếng lội

Chim phụng hoàng vì cội biếng bay

Anh thƣơng em đừng vội nắm tay

Miệng thế gian ngôn dực(1), phụ mẫu hay rầy rà

Nếu mà thƣơng bữa lại qua

Thấu tai phụ mẫu đôi ta chia lìa

Anh với em nhƣ khoá với chìa

Nhƣ chìa với khoá không lìa mới hay

Nếu để mà cha mẹ em hay

Thời nghĩa nhân hai đứa phải càng ngày ắt xa.

(1) Ngôn dực: từ nhóm từ "ngôn dực trƣờng phi" nghĩa là lời nói

nhƣ có cánh có thể bay xa.

55. Cá lí ngƣ sầu tƣ biếng lội

Chim phụng hoàng sầu cội biếng bay.

BK

Con cá ngƣ sàu tƣ biếng lội

Con chim trên nhành sầu cội biếng bay.

56. Cá lƣỡi trâu dầm trong nƣớc mắm

Qua với nàng duyên thắm mấy trăng

Mẹ cha tuy chẳng bằng lòng

Đôi ta cố giữ chữ đồng trăm năm.

57. Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi

Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tui sầu mình

Tử sanh, sanh tử tận tình

Dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thƣơng.

58. Cá sầu ai chẳng quật đuôi

Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tôi sầu chồng.

59. Cá vàng lơ lửng giếng xanh

Thong dong chốn ấy một mình thảnh thơi

Ai ngờ cá lại ham mồi

Page 287: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

286

Bỏ nơi mát mẻ, tìm nơi lạnh lùng.

60. Cá về biển Bắc hết trông

Em vào trong nớ, bỏ chồng cho ai?

61. Cái bống còn ở trong hang

Cái rau tập tàng còn ở nƣơng dâu

Ta về ta sắm cần câu

Câu lấy cá bống nấu rau tập tàng.

62. Cái cần câu trúc, anh đem bịt bạc

Cái chạc thật chắc, quăng sang bể bắc, câu con cá nƣớc Tề

Anh chộ em thân thiết nhiều bề

Ƣớc khi mô cho đƣợc nằm kề lƣng em.

BK

Cái cần câu bạc

Cai chạc câu chắc Quăng sang bể Bắc Câu con cá núi Tê

Anh chộ em thân thiết nhiều bề

Ƣớc khi nào, cho đƣợc nằm kề lƣng em.

63. Cái gì anh đổ vào bồ?

Cái gì róc vỏ phơi khô để dành?

Cái gì anh thả vào xanh?

Cái gì lắt lẻo trên cành tốt tƣơi?

Cái gì đi chín về mƣời?

Cái gì sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm?

Cái gì chung chiếu chung chăn?

Cái gì chung bóng ông trăng trên trời?

- Lúa khô anh đổ vào bồ

Cau thì róc vỏ phơi khô để dành

Con cá anh bỏ vào xanh

Bông hoa lắt lẻo trên cành tốt tƣơi

Mặt Trăng kia đi chín về mƣời

Ông Bành Tổ sống đủ trên đời đƣợc tám trăm năm

Vợ chồng chung chiếu chung chăn

Đôi ta chung bóng ông trăng trên trời.

64. Cầm chài mà vãi cá căng

Cá đi đƣờng cá chài phăng đƣờng chài.

65. Cầm chài mã vãi lỗ tre

Cá không thấy cá, lại nghe rách chài.

66. Cần trắc, ống trúc, chỉ bạc, tơ tàu

Sao không câu con cá rô biển, lại câu con cá rô bàu làm chi?

67. Canh một cho chí canh hai

Có ai vui thay nhƣ cá nƣớc, bạn xa nhau rồi bạn không nói trƣớc

cho em hay

Page 288: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

287

Qua chuyến đò đầy nhớ nghĩa đó thay

Huống chi đôi đứa mình ơn trung nghĩa trọng ba bốn tháng rày nhớ

thƣơng.

68. Cây chi trên rừng không có lá

Cá chi dƣới biển không có sƣơng

Liễu mà thƣơng đƣợc thì thƣơng

Để chi chúng bạn, thế thƣờng cƣời chê.

69. Cây chi trên rừng không lá?

Con cá chi dƣới biển không xƣơng?

Trai nam nhân đối đặng thiếp kết nghĩa tào khƣơng với cùng

- Cây xƣơng rồng trên rừng không lá

Con sứa dƣới biển không xƣơng

Anh đà đối đặng phải kết nghĩa cƣơng thƣờng với anh.

70. Cha mẹ đòi ăn cá thu

Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.

71. Chăn đơn nửa đắp nửa hong

Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau

Từ ngày ăn phải miếng trầu

Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu

Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu

Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa

Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà

Làm cho quên cả đƣờng ra lối vào

Làm cho quên cá dƣới ao

Quên sông tắm mát quên sao trên trời

Đất Bụt mà ném chim trời

Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!

Cho nên cá chẳng bén câu

Lƣợc chẳng bén đàu, chỉ chẳng bén kim

Thƣơng nhau nên phải đi tìm

Nhớ nhau một lúc nhƣ chim lạc đàn.

72. Chàng về đƣờng trúc ngõ trắc

Khác chi biển bắc xa khơi

Thiếp đây khác thể chim trời

Chàng nhƣ cá nƣớc biết mấy đời gặp nhau!

73. Chẳng tham vựa lúa anh đầy

Tham năm ba chữ cho tày thế gian.

BK

a- Chẳng tham vựa cá anh đầy

- Chẳng tham bồ lúa anh đầy

b- Tham ba hàng chữ cho tày thế gian.

Page 289: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

288

74. Chi ngon bằng gỏi cá nhồng

Chi vui bằng đƣợc tin chồng vinh qui.

75. Chị Xuân đi chợ mùa hè

Mua cá thu về chợ hãy còn đông

Anh Hƣơu đi chợ Đồng Nai

Bƣớc qua bến Nghé, ngóng ai đận đà.

76. Chiều nay ngƣời nghĩa xa anh

Chim sa cá lặn, kiểng đƣơng xanh vội tàn.

77. Chim bay cá lội chăn văn

Bao giờ đèn hiệp với trăng một nhà.

78. Chim bay về núi túi rồi

Em không lo liệu còn ngồi chi đây.

79. Chim bay về rú, về non

Cá kia về vực, anh còn đợi em.

80. Chim buồn chim bay vào núi

Cá buồn cá chúi xuống sông

Anh buồn uống chén rƣợu nồng

Em buồn em ăn một miếng trầu không giải buồn.

81. Chim chuyền bụi sậy

Cá quậy bụi sậy

Cá quậy bụi tùng

Anh thƣơng em thắm thiết vô cùng

Đĩa nghiên mài mực, tàm cùng bức thƣ.

82. Chim nhàn bắt cá lòng khơi

Thấy anh chàng chấu nhiều nơi em buồn.

83. Chim quyên ăn trái nhãn lồng

Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi

BK

Cá thia quen chậu vợ chồng quen hơi.

84. Có chà cá mới ở ao

Có em, anh mới ra vào chốn ni.

85. Có chuôm cá mới ở đìa

Có em anh mới sớm khuya chốn này.

86. Cô Xuân mà đi chợ Hạ

Mua một con cá thu về chợ hãy còn đông

Trai nam nhi đối đặng thiếp theo không chàng về

- Trai thanh nam ngồi hàng thuốc bắc

Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây

Hai ta tình nặng nghĩa dầy

Đối ra đáp đƣợc lúc này tính sao.

87. Con cá bống cát, nằm trên bãi cát

Page 290: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

289

Con chim chài đậu chiếc thuyền chài

Anh với em nỏ thành gia thất vì ai?

Xƣa kia trúc đà làm bạn với mai một cành.

88. Con cá đối nằm trên cối đá

Con chim đa đậu nhánh đa đa

Chồng gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa

Mai sau cha yếu mẹ già

Chén cơm, bát nƣớc, bọ kỉ trà ai bƣng?

89. Con cá đối nằm trên cối đá

Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo

Anh mà đối đƣợc, dẫu nghèo em cũng ƣng

Con mỏ kiến, đậu trong miếng cỏ

Chim vàng lông đáp dựa vồng lang

Đây anh đối đƣợc e nàng chẳng ƣng.

BK

Con cá đối nằm trên cối đá

Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo

Anh mà đối đặng, dẫu anh nghèo em cũng ƣng

Con chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ

Chim vàng lông đáp tại vồng lang

Anh đã đối đặng, e nàng vong ngôn.

90. Con cá hồng trừng ngoài biển Bắc

Con chim nhạn liệng tít mây xanh

Anh thƣơng em lâu cũng phải thành

Nhƣ chị Thôi Lƣợng lúc trƣơcƣ gặp anh Châu Kì.

91. Con cá rô thia nấp bụi rêu rong

Anh quăng cái mồi ngọc, con cá động lòng phải ăn.

92. Con cá thia lia, nó núp vũng chân bò

Em có chồng về bên nớ, ốm o gầy mòn.

93. Còn cha cơm trắng cá ngon

Ăn rồi lại giở bàn son con ngà.

94. Con chim đa mà đỗ cành đa

Cất tiếng gáy đa đa ích thiện (1)

Con cá ốc nằm dƣới vũng úc

Vãy đuôi lên úc úc hồ văn (2)

Rằng chàng là đấng văn nhân

Chàng mà đối đƣợc thiếp theo chân chàng về

Con muông mang ăn bụi chuối mang

Xuống uống nƣớc mang mang đại hải (3)

Con rắn lục leo cây liễu lục

Lên khỏi khoe lục lục kì công (4)

Page 291: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

290

Ta nay là đấng anh hùng

Theo ta ta cũng rộng lòng bao dung.

(1) Đa đa ích thiện: nhiều bao nhiều tốt bấy nhiêu.

(2) úc úc hồ văn: lời văn ngào ngạt, chữ dùng để khem nền văn hoá

của nhà Chu.

(3) Mang mang đại hải; mênh mông biển cả.

(4) Lục lục kì công: công lao to tát thần kì.

95. Con chim phƣợng hoàng đậu hòn núi bạc

Con cá ngƣ ông móng nƣớc ngoài khơi

Gặp nhau đây phân giải đôi lời

Kẻo mai tê con cá kia trở về sông Vịnh, con chim nọ đổi đời non

xanh.

96. Con chim sa sả đậu trên cây sả

Con cá thia lia nấp bụi cỏ thia

Trách ai làm cho khoá rã chìa

Khi thƣơng tận, khi lìa lìa xa.

97. Con chim trên rừng kêu thánh tha thánh thót

Mẹ thƣơng con cắt ruột xẻ hai

Gái thƣơng trai đứng đƣờng đứng ngõ

Trai thƣơng gái tối mấy cũng đi

Con cá trƣơng vi vì hồ nƣớc chảy

Cần câu không gãy bởi ống tre cong

Mƣợn ngƣời mối lái cái sự cho xong

Để đem em về tề gia nội trợ coi trong coi ngoài.

98. Con chim trong lồng khôn bay lỡ nhảy

Con cá trong chậu khôn liếc lỡ trừng

Ngày xƣa kia em bảo anh đừng

Thƣơng làm chi đặng đó, nữa chừng lại thôi.

99. Con chim trong rừng, con chim đừng múa mỏ

Con cá dƣới vực, con cá chớ có phùng mang

Anh muốn nơi má ngọc mình vàng

Đây em than cho một tiếng con chim phƣợng hoàng cũng phải sa.

100. Con cò đậu cọc cầu ao

Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua

Sớm mai ra đứng cổng chùa

Trông ra Hà Nội thấy vua đúc tiền

Ngọn sông Điền vừa sâu vừa chảy

Anh đi kén vợ mƣời bảy năm nay

Tình cờ bắt gặp em đây

Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ mây gặp rồng

Mây gặp rồng, cơn dông cơn tố

Page 292: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

291

Cá gặp nƣớc, cơn ngƣợc cơn xuôi

Chồng nam vợ bắc em ơi!

Đố em lấy đƣợc một ngƣời nhƣ anh.

BK

(a)Ruộng tƣ điền không ai cày cấy

Liệu cô mình ở vậy đƣợc chăng?

Mƣời hai cửa biển, anh cũng cắm đăng

Cửa nào lắm cá, anh quăng chài vào

Anh đi gáh nƣớc sông Đào vừa cao vừa chảy

Anh đi kén vợ mƣời bảy năm nay

tình cờ bắt gặp em đây

Nhƣ cá gặp nƣớc, nhƣ mây gặp rồng

Mây gặp rồng, cơn giông cơn tố

Cá gặp nƣớc, cơn ngƣợc cơn xuôi

chồng Nam vợ Bắc em ơi!

Đố em lấy đƣợc một ngƣời nhƣ anh.

(b) Con cò đậu cọc bờ ao

Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua

Sớm mai ra đứng cổng chùa

Trông ra Hà Nội thấy vua đúc tiền

Ruộng tƣ điền không ai cầy cấy

Liệu cô mình đứng vậy đƣợc chăng?

Mƣời hai cửa bể anh đã cắm đăng

Cửa nào lắm cá thì quăng chài vào.

101. Còn duyên kén cá chọn canh

Hết duyên dầu rễ dƣa hành cũng xơi.

102. Còn duyên kén cá chọn canh

Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ.

103. Con gà cồ lại mổ bông kê

Ngựa nọ ăn cồn Mã, rồng về Cảnh Long

Dƣơng đi dê lại có vòng

Cá lên khỏi nƣớc cá hòng ngất ngƣ

Trai nam nhơn anh đà đối đƣợc, hỏi thiếp có giữ lời trƣớc không?

104. Con nƣớc chảy, bèo nọ có tua

Gặp ai tôi hỏi, hơn thua đôi lời

Ăn cơm sao đặng mà mời

Nƣớc mắt tra lai láng rã rời hột cơm

Mình ơi, đừng đặng cá quên cơm

Đôi ta gá ngãi danh thơm ở đời

Cóc nghiến răng còn động lòng Trời

Sao mình chẳng tƣởng mấy lời tôi thở than.

Page 293: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

292

105. Công anh làm rể ba năm

Ăn những cơm hớt với hàm cá trê

Ba năm anh trở ra về

Cơm hớt phần chó, hàm trê phần mèo.

106. Công anh lên rừng đốn trúc

Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài

Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ

Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn

Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức

Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi

Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái

Đây cần câu nhân, cần câu ngãi

Đây cần câu phải cần câu khôn

Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng

Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu

- Con cá anh đạp nó đã có cặp

Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu

Anh về sửa lại lƣỡi câu

Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng?

107. Công anh xe chỉ uốn cần

Vì chƣng trời động con cá lần ra khơi.

BK

Ngồi buồn xe chỉ uốn cần

Chỉ xe chƣa đặng cá lần ra khơi.

108. Cồng cộc bắt cá dƣới bàu

Cha mẹ mày giàu, đám giỗ đầu heo

Cồng cộc bắt cá dƣới sông

Mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ.

109. Đàn ai khéo gảy tính tinh

Một đàn con cá nƣớc lặn ghềnh nó nghe

Con cá nó lội so le

Một đàn con cá lớn nó đè con cá con

Con cá nó vƣợt Vũ môn

Con chim nó ngậm mồi về tổ

Nó mớm con trên ngành

Ai về tin tức thăm oanh.

110. Đạn đâu mà bắn chim trời

Lƣới đâu mà thả những nơi cá thần

Một mai thiên hạ xoay vần

Con chim trời anh cũng bắt, con cá thần anh cũng câu.

111. Đào lí một cành, tơ trúc phiếm loan

Page 294: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

293

Ban tối hôm qua, nguyệt lặn, bóng ông sao tàn

Đêm khuya thanh vắng khách hồng nhan lửng lờ

Cây xanh thì lá cũng xanh

Đã trót vin ngành thì hái lấy hoa

Cung đàn tỳ bà ai khéo gảy tang tình, tính tang

long ngâm hổ đối, cá cống xang hồ, cái hồ xang

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầu sƣơng.

112. Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm

Phải đâu cua cá với tôm

Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.

113. Đắp đập thì có be bờ

Sóng gió chả có, sao lờ tôi trôi?

Con cá nó ở trong lờ

Nƣớc thì mặc nƣớc, đợi chờ lấy nhau.

114. Đất Lam Kiều (1) ngỡ ngàng khó bƣớc

Động Đào Nguyên (2) lạch nƣớc quanh co

Trách mình không đắn nỏ đo

Rã rời duyên nợ, oan chƣa, hỡi trời!

(1) Lam Kiều, cầu Lam: Lam Kiều, tên một chiếc cầu thuộc huyện

Lam Diễn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Theo Truyền Kỳ, dẫn

trong Thái bình quan kí. Bùi Hàng, ngƣời đời Đƣờng, gặp nàng

Vân Kiều và đƣợc nàng tặng một bài thơ trong đó có ý: Lam Kiều

chính là nơi động tiên. Bùi Hàng đi đến Lam Kiều gặp ngƣời đẹp

và Vân Anh (em Vân Kiều), hai ngƣời kết duyên và sau đó lên cõi

tiên. do điểm này. Lam Kiều cầu Lam đƣợc dùng để chỉ nơi ngƣời

đẹp ở hoặc để nói việc nhân duyên, việc trai gái gặp gỡ nhau mà

sau nên vợ nên chồng.

(2) Đào Động Nguyên: tên ngọn núi ở phía Tây Nam huyện Đào

Nguyên tỉnh Hồ Nam. Trung Quốc. Dƣới núi có động Đào

Nguyên.

Về động này, trong bài Đào hoa Nguyên kí, Đào tiêm có kể rằng:

"Một ngƣời đánh cá ở Vũ Lăng bơi thuyền ngƣợc dòng suối. Hai

bên đầy hoa đào. Đi mãi, ngƣời đấy đến một nơi có dân cƣ ăn mặc

theo phục đời Tần. Hỏi thăm mới biết họ tránh chế độ hà khắc của

Tần Thuỷ Hoàng đến đó ở đã nhiều đời rồi và sống ở đó rất sung

sƣớng hạnh phúc. Ngƣời đánh cá về thuật chuyện lại với mọi

ngƣời, về sau mấy lần muốn vào lại Đào Nguyên nhƣng tìm đƣợc

lối vào cửa động". Văn học cổ dùng Đào Nguyên để chỉ nơi có

cảnh đẹp, ngƣời đẹp, cuộc sống hạnh phúc, hoặc hoặc chỉ cõi tiên.

115. Đêm hôm qua nằm chốn nhà ngang

Rèm thƣa gió lọt dạ càng xót xa

Page 295: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

294

Em thƣơng nhà anh không có đàn bà

Phòng khi có khách ai hoà đỡ anh

Anh cho em ghé lƣng vào

Phòng khi có khách em chào đỡ anh

Khách vào đánh cá nấu canh

Chanh kia muối nọ để dành chàng xơi

Em bƣng ra cái miệng em cƣời

Trƣớc đƣợc lòng khách, sau vui lòng chàng.

116. Đêm khuya thắp ngọn đèn chai

Quen o nốc đáy ăn hoài cá tƣơi.

117. Đêm qua bóc uốn (1) một mình

Nghe hơi sƣơng xuống nhớ tình nhân xƣa

Tình nhân xƣa bây giờ xa vắng

Nỗi mong chờ cay đắng riêng em

than ôi tăm cá bóng chim

Biết đâu đƣờng lối mà tìm hỡi ai!

(1) Bóc uốn: từ của nghề làm giấy.

118. Đêm qua khi lạnh khi lùng

Khi đắp áo ngắn, khi chung áo dài

Bây giờ mình đã nghe ai

áo ngắn chẳng đáp, áo dài chẳng chung

BK

Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng

Đêm đắp áo ngắn đêm chung áo dài

Bây giờ chàng đã nghe ai

áo ngắn chàng đắp áo dài không chung

Bây giờ sự đã nhạt nhùng

Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua

Cá lên mặt nƣớc cá khô

Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm.

119. Đêm qua mới thật là đêm

Ruột xót nhƣ muối, dạ mềm nhƣ dƣa

Mong chàng nhƣ cá mong mƣa

Nhớ chàng nhƣ bữa cơm trƣa đói lòng.

120. Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ

Đêm đêm hƣớng dải Ngân Hà

Page 296: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

295

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn

Đá mòn nhƣng dạ chẳng mòn

Tào Khê nƣớc chảy vẫn còn trơ trơ.

121. Đến đây cận thuỷ xa ngƣ

Hỏi rằng cá đã vào lừ ai chƣa?

- Con cá đợi gió chờ mƣa

Trời chƣa phong vũ, cá chƣa vào lừ.

122. Đến đây hỏi bạn một lời

Ai đào sông cho cá lội, ai trổ trời cho chim bay?

123. Đến đây nƣớc thẳm non cao

Chim đôi cá lứa, lẽ nào chẳng vui.

124. Đèn nào cao bằng đèn Châu đốc

Đất nào dốc bằng đất Nam Vang

Một tiếng anh than

Hai hàng luỵ nhỏ

Anh có một mẹ già biết bỏ ai nuôi?

Nƣớc chảy xuôi, cá buôi lội ngƣợc

Anh muốn thƣơng nàng biết đƣợc hay chăng?

125. Đi ngang lên mũi xa kì

Ngó ra lao Ré xiết chi nỗi sầu

Kể sao cho xiết thƣơng âu

Ông bà ta trƣớc bây giờ ở đây

Cũng vì mƣa tạt gió này

Cho nên xiêu bạt chỗ này, chỗ kia

Thân ta nhƣ cá trong đìa

Việc quan chƣa thấu sớm khuya cũng buồn.

126. Đi qua nghe tiếng em đàn

Cá mƣời khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im.

127. Đố ai tìm vảy con cá trê vàng

Tìm gan co tép bạc, thời nàng theo không

- Chừng nào đá nổi vông chìm

Muối chua chanh mặn, thì tìm lấy anh.

128. Đó đây xa lạ chi nhau

Một sông cá lội một bàu chim ăn.

129. Đôi ta gặp nhau giữa đồng

Ngƣời dƣng ai biết vợ chồng ai hay

Bây giờ ta gặp nhau đây

Thuỷ chung ta ngỏ, lời nay trao lời

Kìa kìa cá cũng tốt đôi

Lúa kia con gái, cũng đến thời đâm bông.

130. Đôi ta nhƣ cá lờn mơn

Page 297: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

296

Ở trên mặt nƣớc chờ cơn mƣa rào.

131. Đồn anh đi nghề đã tinh

Cá chi dƣới nƣớc một mình bốn tên?

132. Đón ngăn đƣờng sắt

Tôi hỏi gắt chung tình

Điểu xa mai, mai xa điểu

Tôi xa mình tại ai?

Cá sầu ai cá lại quạt đuôi

Nhƣ lan sầu huệ, nhƣ tôi sầu mình

Ngày sầu duyên, tối lại sầu tình

Nƣớc mắt ra lai láng nhƣ bình nƣớc nghiêng

Trách ai làm duyên phận đảo điên

Mình ơi!

Trai anh hùng chịu thảm, gái thuyền quyên chịu sầu.

133. Đồn rằng cá uốn thân cây

Đồn em hay hát, hát hay anh tìm.

134. Dòng nƣớc chảy xuôi, con cá buôi lội ngƣợc

Dòng nƣớc chảy ngƣợc, ông Nƣợc rƣợt theo

Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo

Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền.

135. Đốt than nƣớng cá cho vàng

Đem tiền mua rƣợu cho chàng uống chơi

Phòng khi có khách đến chơi

Cơm ăn, rƣợu uống cho vui lòng chàng.

136. Đũa vàng đầu bịt đầu sơn

Mấy lời bạn nói cảm ơn quá chừng

Đó xa nhân ngãi đó mừng

Đây xa nhân ngãi nhƣ gừng xát gan

Ngồi buồn nhớ bạn thở than

Kiểng xanh sao héo hỏi nàng tại ai?

Cá nằm trong chậu sè đuôi

Mình về ở bển cho tôi theo cùng.

137. Em có chồng còn nhỏ, nhƣ ngọn cỏ còn non

Loan phòng kia chƣa nhập, dạ còn nhƣ xƣa

- Đƣờng đi không lỡ cũng mòn

Lẽ đâu có lẽ hoa còn duyên tƣơi

Em nói ra sợ chúng bạn cƣời

Cá đôi ba buổi chợ, còn khoe tƣơi nỗi gì.

138. Em là con gái đến thì

Nhƣ con cá rô thia ăn vực, có khi hoá rồng.

139. Em là con gái nữ nhi

Page 298: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

297

Sợi gai, mắt lƣới, chẳng bì cùng ai

Đôi bên bác mẹ thì già

Kiếm tí rùng rách để mà kéo tôm

Giêng, hai, ti tí giông nồm

Rùng đi ra bể, lại ồn lẩm doan(1)

Tháng ba anh xuống lƣới quàng

Cá xủ, cá xác, cá han, cá thiều.

Tháng tƣ anh mới xuống theo

Em rung lặng gió, ruốc kheo vào bờ

Đôi ta kết chỉ xe tơ

Ruốc ràm ngƣời đánh đổ bờ chan chan

Tháng năm te chạy hết ngàn

Cá trà(2) cũng lắm khơi đàng vào ra

Tháng sáu gõ đánh cá hoa

Cá bẹ, cá trắng cùng là thu lanh

Tháng bảy là tháng hiền lành

Lƣới khoai(3) đánh những lành canh, cá thè

Tháng tám nùng nục, tôm he

Lƣới dở(4) ra xuống Mả Nghè(5) cũng đông

Tháng chín là tháng giã sung

Bằng chặng, láo mắt cùng là láo tây(6)

Hồng hoa, cá ruối thiếu gì

Kể giống cá quí, kể chi cá chuồn

Tháng mƣời anh mới kể luôn

Câu bè ngƣời đánh những tuồng cá dƣa

Quí hồ phận đẹp duyên ƣa

Kìa nhƣ tôm sắt gặp dƣa tháng mƣời

Tháng một là tháng không vừa Rủ nhau mua cá câu dƣa để dành

Tháng chạp văng kéo lùng quanh

Cá cồi, cá nụ để dành tháng giêng.

(1) và (6): tên các loại cá.

(2) cá Trà: còn gọi là chim.

(3) Lƣới khoai: lƣới mắt nhỏ.

(4) lƣới dở: lƣới mắt vừa.

(5) Mả Nghè: ở gần bải biển Sầm Sơn, Thanh Hoá.

140. Em nhớ ngày nào bên ao cá lội

Anh chỉ, anh thề không lỗi nghĩa keo sơn

Mà giờ đây anh đã sang giàu

Anh quên đi lời hứa buổi ban đầu cùng em.

141. Em nhƣ cá lẹp rút xƣơng

Gặp ngƣời quân tử giữa đƣờng hỏi mua.

Page 299: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

298

142. Em nhƣ cá lƣợn đầu cầu

Anh về lấy lƣới, ngƣời câu mất rồi

Nƣớc trong cá chẳng cắn mồi

Càng câu càng mất, càng ngồi càng khuya.

143. Em nhƣ cây cá giữa vời

Ai lanh tay đƣợc, ai chậm lời thì thôi.

144. Em nhƣ chim nọ đang bay

Anh nhƣ cá mắc rày lƣới giăng.

145. Em nhƣ con cá rô kia lóc vũng trâu đằm

Ngƣời mong thả lƣới, ngƣời nhằm buông câu

Em nhƣ con cá rô kia lóc vũng chân trâu

Ba bảy hăm mốt cái cần câu châu vào.

146. Em trông anh nhƣ cá trông sao

Nhƣ lệ trông lựu, nhƣ đào trông mƣa.

147. Gái đƣơng xuân đi chợ hạ mua con cá thu về chợ hãy còn đông

Ai nói với anh rằng em đã có chồng

Mà tức mình đổ cá xuống sông anh về?

- Gái nƣớc Nam buôn hàng thuốc bắc

Trai Đông sàng cảm động niềm tây

Tai anh nghe có đôi ba chốn xe dây

Anh tức mình đổ cá thử mẹ thầy ăn chi?

148. Gặp anh hỏi thiệt đôi lời

Ai đào sông cho cá lội, ai bẻ mạng chống trời cho chim bay.

149. Gặp em nhƣ cá gặp mồi

Đặng, không, anh cũng giỡn một hồi cùng em.

150. Giàn hoa bể cạn nƣớc đầy

Cá vàng hoá bạc chàng rày đối chi?

- Thuyền tình sao vắn sông sâu

Tầu đồng neo sắt gái đâu dám chèo.

151. Giếng sâu gàu xuống bấm boong

Đặng con cá trích phụ con cá sòng.

152. Giếng sâu thì phải thừng dài

Có khôn thì chịu khó ngồi cho lâu

Em chần chừ cũng chẳng đƣợc đâu

Sắm mồi mắc nhợ anh câu con cá này.

153. Hỡi cô cắt cỏ bên sông

Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây

Sang đây anh nắm cổ tay

Hỏi rằng duyên ấy tình này làm sao?

Cái gì là mận là đào

Cái gì là nghĩa tƣơng giao hỡi nàng

Page 300: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

299

Phận gái lấy đƣợc chồng khôn

Xem bằng cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng.

154. Hỡi cô thắt lƣng bao xanh

Có về Vĩnh Đặng với anh thì về

Vĩnh đặng có gốc bồ đề

Có ao thả cá có nghề khâu ren.

155. Hồm nay lan huệ sánh bày

Đào đông ƣớm hỏi liễu tây một lời

Lạ lùng ƣớm hỏi nhau chơi

Một mai cá nƣớc chim trời gặp nhau.

156. Kẻ bứt cỏ ngựa ngồi đầu cửa ngọ

Ngƣời bắn con nây(1)ngồi cậy cây non

Chàng mà đối đƣợc thiếp trao tròn một quan.

Con cá có đối nằm trên mút kèo

Trai thanh tân đã đối đƣợc, tiền cheo mô nà?

(1) Con nây: con nai.

157. Khi đầu thiếp tính đi về

Bây giờ thiếp phải liệu bề ra đi

Khi hồi thiếp tính đi ra

Bây giờ thiếp phải liệu bề đi lui

Kêu chi ai hỡi là ai!

Thân này dạ chịu lạc loài thì thôi

Khen ai miệng mật khéo dồi

Cắt lìa ân ái nhƣ mài lƣỡi gƣơm

Trách ai đặng cá quên nơm

Đặng chim quên ná, mai hôm khác lòng

Giận ai chƣa thoát khỏi vòng

Đem dây thối địt lại tròng vào lƣng

Thƣơng ai công khó nửa chừng

Trăm năm rơi luỵ, tang thƣơng một giờ.

158. Lá thắm đã trôi về bến khác

Tơ đào này buộc lạc nhau rồi!

Khuyên ai đừng có nhiều lời

Em nhƣ cá đã mắc mồi rồi đâu!

159. Làm chi cao cách rứa bạn mồ

Thiếu chi nơi cho én đậu, thiếu chi hồ cho cá ăn.

160. Lắng nghe nàng nói nhƣ màu

Tháng chạp rùng kéo cá rầu, lành canh

Bẹ dày cho chí thu lanh

Cá lẹp, tôm sắt lại dành hố đao

Hố rồng, hố hột(1) nhiều sao

Page 301: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

300

Đắt thì anh bán, rẻ vào thùng khoang

Bổng nay gặp đƣợc cô nàng

Con nhà thảo thuận trong làng xƣa nay

Chƣa ai kết ngãi xƣớng tuỳ

Hay là bác mẹ nay thì cấm ngăn Hay là ông Nguyệt dùng dằng

Mà xe anh lại chơi trăng trƣớc nhà?

Nàng về thƣa với ông bà

Để anh kiếm lễ lên nhà vấn danh.

BK

Lắng nghe nàng nói cũng xinh

Một chạp gõ lại giao đanh ca mòi.

Ai ơi, đứng lại mà coi

Thợ chèo, bạn ngoáy ngoài khơi cũng tình

Khen thay chút nỗi cô mình

Thuyền kia mỏng lái, lênh đênh giữa vời

Thợ tài, bạn mạnh, mình ơi

Thƣơng em là gái nắng nôi dãi dầu.

161. Lấy anh ăn cháo hột đào

Uống chè Tiên tử nằm võng đào màn the

Qua đông rồi lại sang hè

Rồi anh lại sắm nhiều the cho nàng

Thoạt tiên anh sắm một cái nhà ngói năm gian

Tứ vi bít đốc cửa bàn, nàng ơi!

Gian giữa anh để thờ Trời

Hai gian để khách vãng lai ra vào

Một gian cung cấm động Đào

Một gian để lối đi vào Thiên Thai

Vƣờn anh những trúc cùng mai

Quít cam cùng bƣởi lại hai cây hồng

Hoa thiên lí, giàn trầu không

Cá vàng thả bể, em trông cho tƣờng

Sắm lƣợc anh lại sắm gƣơng

Ông vôi bình phấn, khăn vuông bịt đầu

Dao chuôi ngà em lấy bổ cau

Xà cừ khảm tráp đựng trầu đi chơi

Tràng kỉ anh sắm một đôi

Chấn song con tiện hành ngơi trong nhà

Đồng hồ treo cột giữa nhà

Mâm son, bát bít, đũa ngà thiếu chi

Sắm cho em sập đá chân quì

án thƣ dàn mặt, em thì ngồi chơi

Page 302: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

301

Lại nuôi mấy đứa ở bồi

Sớm trƣa cơm nƣớc hầu tôi với nàng.

162. Lấy chồng Trịnh Mễ(1) làm chi?

Đồng sâu ruộng hiếm, lội khe trèo rừng

Ở đây cơm chạu(2) cá chƣng (3)

Tha hồ chả phải cầm chừng mà lo.

CDTH 4

(1) Trịnh Mễ: một làng ở chân núi Nƣa, Thanh Hoá.

(2) Cơm chạu: là cơm gạo chạu, một thứ gạo nhƣ gạo dự, gạo

chăm.

(3) Cá chƣng: cá xắt khúc kho kĩ.

163. Lỗi lầm vì cá trích ve

Bát đầy thì ít, bát vơi thì nhiều.

164. Lòng riêng nhớ mẹ thƣơng cha

Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu

Trong vòng binh lửa dãi dầu

Bơ vơ lƣu lạc bạn bầu cùng ai.

165. Lƣỡi câu anh đã uốn vừa

Sợ lòng bác mẹ lọc lừa nơi nao

Bắc thang lên hỏi thiên tào

Rằng cô bán cá rẽ vào duyên ai(1)

(1) Rẽ vào duyên ai: ngƣời ấy sẽ lấy ai?

166. Má ơi đừng đánh con đau

Để con bắt ốc hái rau má nhờ

Má ơi đừng đánh con đau

Để con hát bội làm đào má coi

Má ơi đừng đánh con hoài

Để con câu cá nấu xoài má ăn.

BK

Má ơi đừng đánh con đau

Để con hát bội làm đào má coi

Má ơi đừng đánh con đau

Để con bắt cá nấu xoài má ăn.

167. Má ơi, đừng đánh con hoài

Để con đi câu cá nấu xoài má ăn.

168. Mắm ngon chấm cá liệt

Em có chồng rồi bảo thiệt anh hay.

169. Mấy đời chỉ trắng bằng vôi

Ai thƣơng ai nhớ bằng đôi đứa mình

Bạn ơi! thức ngủ làm thinh

Dậy đây anh kể sự tình cho nghe

Page 303: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

302

Ai làm chén nọ xa ve

Mùa thu đón đợi, mùa hè ngóng trông

Tam tứ bề yến bắc nhạn đông

Làm sao cho cá chậu xa chim lồng, hỡi ơi!

170. Mấy khi nam nữ đua đờn

Cá vui với nƣớc, sóng dờn với mây.

171. Mấy lâu cách trở giang biên

Cá sầu không lội, chim phiền không bay.

172. Mẹ ơi! đừng đánh con đau

Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ

Mẹ ơi! đừng đánh con khờ

Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn.

173. Mẹ em muốn ăn cá thu

Bắt anh ra biển mù mù tăm tăm

Mẹ em thách cƣới một trăm

Anh đi chín chục, mƣời lăm quan ngoài.

174. Mình buồn tôi dễ chẳng buồn

Cá sông biếng lội, chim trên nguồn biếng bay.

175. Mình đừng đặng cá quên nơm

Đôi ta gá nghĩa danh thơm ở đời

Cóc nghiến răng còn động lòng Trời

Sao mình chẳng tƣởng mấy lời tôi than?

Đờn tranh dây xế, dây xang

Anh còn thƣơng bạn, bạn khoan lấy chồng.

176. Mình em nhƣ cá giữa rào

Kẻ chài ngƣời lái biết vào tay ai.

177. Mình em nhƣ cá hoá long

Chín tầng mây phủ ở trong da trời

- Anh đây lục trí thần thông

Vạch mây đón gió bắt rồng cỡi chơi.

178. Mình em nhƣ con cá giữa vời

Ai mau tay thì đƣợc ai chậm lời thì thôi.

179. Mình em nhƣ con cá trong thùng

Ai khéo nơm thì đƣợc, ai vẫy vùng thì bƣơng.

180. Mình rằng mình quyết lấy ta

Để ta hẹn cƣới hăm ba tháng này

Hăm ba nay đã đến ngày

Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng

Tháng giêng năm mới chƣa nên

Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai

Tháng hai có đỗ có khoai

Page 304: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

303

Ta lại vật nài cho đến tháng tƣ

Tháng tƣ ngày chẵn tháng dƣ

Ta lại chần chừ cho đến tháng năm

Tháng năm là tháng trâu đằm

Ta hẹn mình rằm tháng sáu mình lên

Tháng sau lo chửa kịp tiền

Bƣớc sang tháng bảy lại liền mƣa Ngây

Tháng bảy là tháng mƣa Ngâu

Bƣớc sang tháng tám là đầu trăng thu

Bƣớc sang tháng chín mù mù mƣa rƣơi

Tháng chín là tháng mƣa rƣơi

Bƣớc sang tháng mƣời đã đến mùa đông

Quanh đi quẩn lại em đã có chồng

Nhƣ chim trong lồng, nhƣ cá cắn câu.

181. Mồ côi cha đốn cây bần

Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.

182. Mù u nhỏ rễ ăn bàn

Sợ mình nói gạt, qua đàng đó thôi

Phụng hoàng chắp cánh bay xuôi

Liệu bề thƣơng đặng mình ơi tôi chờ

Nƣớc lên khỏi bực tràn bờ

Thƣơng thì thƣơng vậy, biết chờ đặng không?

Đặng không, tôi cũng gắng công

Đợi bao con cá hoá rồng sẽ bay

Gặp mình thôi may quá là may

Trông mong cho trời tối để bắt tay đặng về.

183. Mƣa dông nắng đất, cá cất len đồng

Chị em ngƣời ta có chồng lả rả

Mình không lấy chồng còn đợi ai chăng?

Tối trời đom đom chớp giăng

Xa em một bữa mấy cái khăn ƣớt dầm.

184. Mƣa từ Ba Dội(1) mƣa ra

Mƣa khắp thiên hạ, mƣa qua Đồn Vàng(2)

Gió đƣa quanh đƣa về Hùng Nhĩ(2)

Bây giờ đây anh nghĩ làm sao?

Trận này rồng cá kết giao.

(1) Ba Dội: đèo Ba Dội thuộc tỉnh Ninh Bình, giáp với Thanh Hoá.

(2) Đồn Vàng: Đồn của Pháp lập ra, trƣớc đây ở huyện lị Thanh

Sơn, tỉnh Vĩnh Phú, nay là nông trƣờng Phú Sơn

(3) Hùng Nhĩ: xƣa là Hùng Nhĩ thuộc huyện Thanh Sơn, thƣờng

kết nghĩa với xã Bảo Vệ, huyện Tam Nông(cũ), Vĩnh Phú. Nhƣng

Page 305: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

304

xã này xƣa kia thƣờng năm nào cũng tổ chức hát ghẹo với nhau.

185. Mùa xuân nói với mùa thu

Đứa khôn nói với đứa ngu cực lòng

Tƣởng là bột lọc nấu với nƣớc lạnh trong

Hay đâu bột lọc nấu với rau rong ngoài đìa

Chén bịt lại dọn bằng nia

Độc bình khay cẩn dọn rìa chõng tre

Tiếc con chim phƣợng hoàng ở lộn với le le

Chiếu bông để tạm ngoài hè khó coi

Bột sam nấu với măng vòi

Bún tàu lại nấu với cá mòi nhãi ranh

Tiếc duyên nàng gặp đến anh

Gặp chị không xứng, thất thanh thiên hạ cƣời.

186. Mừng chàng nho sĩ đến chơi

Vũ Môn cá nƣớc thảnh thơi đua tài

- Mừng nàng chân giậm tay đƣa

Miệng cƣời mắt liếc, tình tơ tơ tình

- Mừng chàng bƣớc tới Kim Liên(1)

Bạch liên trắng bạch, hồng liên đổ hồng

- Mừng nàng dựa áng xuân tiêu

Thanh tiêu xanh biếc, tử tiêu tía vàng.

(1) Kim Liên: một làng ở Nam Đàn, trƣớc đây có bàu Đầm trồng

rất nhiều sen.

187. Mƣời giờ cửa bể, cô nàng!

Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào

Mƣời hai cửa bể, nàng ơi!

Gửi thƣ thƣ mất, gửi lời lời bay.

188. Muốn ăn cơm trắng cá chim

Thì về thụt bễ, đi rèn với anh.

189. Muốn ăn cơm trắng cá kho

Trốn cha chốn mẹ xuống đò cùng anh.

190. Muốn ăn cơm trắng cá thèn

Thì về Đa Bút(1) đi rèn với anh

Một ngày ba bữa cơm canh

Tối về quạt mát cho anh ngồi rèn.

(1) Đa Bút: một thôn ở phía đông nam huyện Vĩnh Lộc, Thanh

Hoá. Trƣớc đây Tống Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp lấy Đa Bút

làm một cứ điểm. Có ngƣời cho Đa Bút ở Hậu Lộc, Thanh Hoá.

191. Nàng đứng ở đó làm chi

Nàng về bể mà đi kéo rùng

Nhà tôi nghề giã, nghề sông

Page 306: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

305

Lặng thì tôm cá đầy trong, đầy ngoài

Cá trắng cho chí cá khoai

Còn nhƣ cá lẹp, cá mai cũng nhiều

Quí hồ nàng có lòng yêu

Cái đƣờng đi lại còn nhiều khi ta

Nàng về thƣa với ông bà

Có cho nàng lấy chồng xa hay đừng?

192. Nàng nhƣ chim nọ đang bay

Anh nhƣ con cá mắc rày lƣới giăng.

193. Nào khi thiếp một đàng, chàng một ngả

Bầng khuâng nhƣ con cá hiệp vầy

Thiếp gặp đặng chàng giữa hội trời mây

Trƣớc là họi ngộ sau kết nghĩa sum vầy nợ duyên.

194. Ngày ngày ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn trông sao, sao mờ

Trông ngƣời, ngƣời vẫn làm ngơ

Trông sao, sao mờ, em biết trông ai!

Răng đen còn có khi phai

Má hồng khi nhạt, tóc dài khi thƣa

Ở đây lấy đấy đƣơng vừa

Ngƣời còn kén chọn hay lừa nơi nao?

195. Nghe tin anh buôn bán tài tình

Đố anh đếm đƣợc con cá kình mấy xƣơng?

- Em về đếm mạ trỉa nƣơng

Thì đây anh đếm đƣợc mấy xƣơng con cá kình.

196. Nghe tin anh hay hát hay hò

Đố anh đếm đƣợc cổ cò mấy lông

- Em về đếm cá dƣới sông

Anh đây sẽ đếm đƣợc lông cổ cò.

197. Nghĩ con cá lí ngƣ nó cũng không nhƣ thân thiếp

Chờ cho mãn kiếp tu đƣợc hoá rồng

Thôi anh đừng mong vợ mong chồng

Để cho em xa lánh bụi hồng gió trăng.

198. Ngó lên trên trời thấy cặp cu đƣơng đá

Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đƣơng đua

Biểu em về lập chùa thờ cha.

BK

Ngó lên trời thấy cặp cu đƣơng đá

Ngó xuông biển cặp cá đƣơng đua

Anh về lập miếu thờ vua

Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Page 307: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

306

199. Ngó lên trời thấy một đám mây bạch

Ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi

Nƣớc chảy xuôi, cá buôi lội ngƣợc

Anh mảng thƣơng nàng biết đƣợc hay không?

200. Ngó lên trời thấy sao, trăng tứ viện

Ngó ra ngoài biển thấy chim liệng, cá đua

Em thề với anh cho biết miễu, hết chùa

Ai cho em uống một thang thuốc bùa mà em mê?

201. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng

Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông

Biết rằng chừ cá gáy hoá rồng

Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xƣa.

202. Ngó ra ngoài biển mù mù

Thấy anh câu đục, câu đù(1) mà thƣơng.

(1) Đục, đù: 2 loại cá nhỏ, rẻ tiền.

203. Ngó ra ngoài biển mù mù

Ngồi buồn xe chỉ, chạm dù cánh dơi

Bƣớm bay mỏi cánh bƣớm rơi

Cá đua hết nƣớc tìm nơi vũng chà

Hồi nào em thề nguyện với qua

Bây giờ em dứt nghĩa, em ra lấy chồng.

204. Ngồi buồn bắt cá câu chình

Suy qua nghĩ lại chạnh tình ngƣời xƣa.

205. Ngồi buồn chặt thép uốn câu

Đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi

Trải chiếu ra ngồi

Bờ sông đủng đỉnh

Là chốn thanh nhàn

Là chốn ngao du

Cá vƣợc cá thu

Nghe mồi tìm lại

Cá ở dƣới bãi

Cá trắng nhƣ bông

Anh trông xuống sông

Buồm rung gió thổi

Kẻ lặn ngƣời lội

Kẻ chắn ngƣời đăng

Nƣớc bạc lăn tăn

Phao chìm chuyển động

Giật lên mau chóng

Kẻo cá nhả ra

Page 308: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

307

Mình lấy đƣợc ta

Bõ công ao ƣớc

Ta lấy đƣợc mình

Thoả dạ ƣớc ao

Bõ công anh đốn cần, xe nhợ, buộc phao, mắc mồi.

206. Ngồi buồn chặt thép uốn câu

Chặt cần, xe chỉ, buộc phao, mắc mồi

Trải chiếu ra ngồi bờ sông bến mát

Anh ngồi trên bến, cát trắng nhƣ bông

Anh mang xuống sông, buồm rung gió thổi

Kẻ lặn ngƣời lội, kẻ chắn ngƣời đăng

Nƣớc đục băng lăng, phao chìm cần động

Giật lên mau chóng, kẻo cá nhả mồi

Mình lấy đƣợc ta, bõ công ao ƣớc

Ta lấy đƣợc mình, khỏi ƣớc không ao.

207. Ngồi buồn giở sách ra coi

Tuổi anh tuổi Ngọ, tuổi tôi tuổi Mùi

Hai ta tốt lứa đẹp đôi

Rồng mây cá nƣớc duyên Trời đã xe.

208. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xƣa

Miệng nhai cơm búng, lƣỡi lừa cá xƣơng.

209. Ngồi buồn xe chỉ uốn câu

Chỉ xe chƣa đặng, cá lần ra khơi.

210. Ngồi rồi chăn chiếu trải êm

Chiếu trải nằm thềm, muỗi cắn tứ tung

Yêu nhau thì bảo nhau cùng

Tôi nhắn lời nọ, ngƣời dùng lời kia

Vì chuôm cho cá bén chà

Vì ngƣời tôi đƣợc vào ra chốn này.

211. Ngồi trên hòn đá buông câu

Bởi vì ai xui giục, cá sầu không ăn.

212. Ngóng lên rừng thấy con chim chiền chiện

Ngóng xuống bể thấy cá liệng tứ bề

Ƣớc sao đặng chữ phu thê

Anh chồng em vợ đi về đôi ta.

BK

Ngó lên rừng thấy con chiền chiện

Ngó xuống biển thấy cá liệng tứ bề

Mong sao trọn nghĩa phu thê

Anh chồng em vợ đi về có nhau.

213. Ngƣời ngoan lên bãi hái chè

Page 309: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

308

Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi

Chim khôn chết mệt vì mồi

Ngƣời khôn chết mệt vì lời nhỏ to

Chim khôn tránh lƣới mắc dò

Cá khôn tránh mãi, lững lờ mắc đăng

Ngƣời ngoan yêu đến tôi chăng?

214. Ngƣời ta chọn cá nấu canh

Em đây chỉ chọn một anh tƣợng đồng.

215. Nhà ngƣời có bụi chuối non

Tôi xin đánh tỉa trăm con về trồng

Nhà ngƣời những trúc cùng thông

Hoa lan, hoa huệ, hoa hồng nở ra

Nhà ngƣời ở gần hay xa?

Cách tổng, cách xã, hay là cách sông?

Xa xôi cách mấy quãng đồng?

Để tôi bỏ việc, bỏ công đi tìm

Tìm ngƣời nhƣ thể tìm chim

Chim ăn bể bắc, tôi tìm bể đông.

BK - Sau dòng này, có nơi hát thêm:

Tìm ngƣời nhƣ vợ tìm chồng

Bây giờ cá nƣớc chim lồng gặp nhau.

216. Nhạn lạc bầy hai ngả kêu sƣơng

Cá ao hồ trông nguyệt, đêm trƣờng qua trông em.

217. Nhiều ngƣời một mặt hai lòng

Nói thì nói vậy, chớ không giữ lời

- Em đừng nghi ngại em ơi!

Lòng em chứng có đất trời thấu tri

- Chớ thề chớ thốt làm chi

Miễn là lời hứa nhớ ghi cho bền

- Chứng cùng thiên hạ địa đôi bên

Nỡ nào ở bạc mà quên cho đành

- Thƣơng sao thƣơng mặt, thƣơng đành

Hay là căn nợ để dành cho tôi

- Phụ mẫu già để lại tôi nuôi

Bấy lâu cam chịu cui côi một mình

- Vô duyên thác trƣớc cho trọn tình

Phụ mẫu rằng:"Bởi sầu mình thác oan"

- Mình sầu còn chỗ thở than

Tôi sầu chẳng khác nhang tàn đêm khuya

- Cá bã trầu ăn bọt thia thia

Đôi ta thƣơng chắc, phân chia tại trời

Page 310: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

309

- Đêm khuya thơ thẩn mình tôi

Ruột bầm gan tím vì lời mình than

- Đàn kêu cống xự hồ xang

Lòng tôi thƣơng bạn, biết chăng bạn vàng?...

218. Nhìn nàng nƣớc mắt thấm bâu

Nhạn bay cao bắn với, cá ở ao sâu câu ngầm.

219. Nhìn nàng nƣớc mắt thấm bâu

Nhạn bay bắn với, cá ở ao sâu câu ngầm

Bởi nghe ai dối trá mắc lầm

Vàng rơi khó kiếm, chân trầm khôn theo.

220. Nói mà chơi vậy chớ, gió thổi hiu hiu

Lục bình trôi riu ríu

Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình

Con nhạn ba cao khó bắn

Mà con cá ở ao huỳnh cũng khó câu.

221. Núi kia ai đắp nên cao

Sông kia bể nọ ai đắp mà sâu?

Vì ai cá chẳng bén câu

Lƣợc chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim

Muốn ăn mơ nổi mận chìm

Anh cũng lặn lội đi tìm về cho

Thế gian thấy bán thì mua

Biết rằng mặn nhạt chát chua nhƣờng nào.

222. Nƣớc chảy re re, con cá he nó xoè đuôi phụng

Anh xa em rồi, trong bụng còn thƣơng.

223. Nƣớc chảy xuôi con cá buộc lội ngƣợc

Nƣớc chảy con cá vƣợc lội ngang

Hẩm hiu thiếp chẳng gặp chàng

Thôi thì coi nhau nhƣ Lƣu Bình Dƣơng Lễ, cho trọn vẹn cả hai

đàng đó anh.

224. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc

Nƣớc chảy ngƣợc con cá vƣợc lội xuôi

Anh với em xa cách ngậm ngùi

Mong cho gặp mặt xác vùi cũng ƣng.

225. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc

Nƣớc chảy ngƣợc, con cá vƣợc sang ngang

Thuyền em vào bến Lại Giang(1)

Sao thuyền anh lại ngƣợc đàng Quảng Nam

Hay là anh đã ra dạ phụ phàng?

(1) Lại Giang: bến sông ở Bình Định.

226. Nƣớc chảy xuôi con cá buôi lội ngƣợc

Page 311: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

310

Nƣớc chảy ngƣợc con cá vƣợc lội ngang

Thuyền em cập bến Thuận An

Thuyền anh lại vƣợt lên ngàn đó anh ơi!

227. Nƣớc đứng mà đựng chậu thau

Tiếc mâm sơn tử đơm rau thài lài

Tiếc em da trắng tóc dài

Cha mẹ ép gả cho ngƣời phàm phu

Mình vàng xuống tắm ao tù

Ngƣời khôn ở với đứa ngu bực mình

Qua đình nghiêng nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu

Khi nào nƣớc đục cơm thiu

Chồng con chƣa mấy, bỏ liều cho ta

Trông em chẳng thấy em ra

Anh ngồi anh đợi sƣơng sa lạnh lùng

Đêm nằm cởi áo đắp chung

Sao em không đắp lại vùng áo đi

Thƣơng em kịp thuở thì xuân xanh

Bữa cơm có cá có canh

Sao không mát dạ, vƣơng anh làm gì.

228. Nƣớc không chân sao rằng nƣớc đứng

Cá không giò sao gọi cá leo

Anh mà đáp trúng, em thả chèo đợi anh

- Ghe không tay, sao kêu ghe vạch

Bánh không cẳng, sao gọi bánh bò

Anh đã đáp trúng nói ngay giờ em nghe.

229. Nƣớc lên bè anh xuôi

Một đàn cá gáy(1) vẫy đuôi hồng hồng

Gái em chƣa chồng

Là hoa dâm bụt

Trai anh chƣa vợ

Là búp măng tơ

Anh đánh bàn cờ(2)

Bên nam bên nữ

Trong sách có chữ:

Chữ hiếu chữ trung

Ngồi giữa đình trung

Bao lơn con tiện(3)

Chiếu anh chiếu miến(4)

Võng anh võng đào

Làng nƣớc trông vào

Page 312: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

311

Con nhà phú quí

Con tốt con sĩ

Kéo ra hai hàng

Pháo mã dàn ngang

Cho xe lội nƣớc(5)

Rƣớc xe về thành(6)

Ai về quê cũ với anh thì về?

Có sập để kề

Có võng mắc ngang

Giƣờng trên phản dƣới

Cây cam rƣời rƣợi(7)

Trƣớc cửa anh ra

Của bác mẹ ta

Với lại của anh tƣơng tậu(8)

Đôi bên giƣờng dạo(9)

Trong sáo ngoài màn

Muốn lấy chồng quan

Lên voi xuống ngựa

Muốn lấy chồng chúa?

Quạt đỏ tàn xanh

Em thuận lấy anh

Dầm mƣa dãi nắng

Nắng đổ lên đầu

Mồ hôi đổ xuống

Thƣờng an em luống

Ra ngẩn vào ngơ

Lênh đênh duyên hững phận hờ

Bè xuôi nƣớc ngƣợc bao giờ gặp nhau!

(1) Cá gáy: cá chép.

(2) Đánh bàn cờ: có nghĩa là chơi cờ.

(3) Bao lơn: lan can, can tiện, những chấn song tiện bằng gỗ, đóng

vào bao lơn.

(4) Chiếu miến: một loai chiếu tốt, làm bằng cói nhỏ và trắng, dệt

rất công phu.

(5) Xe lội nƣớc: cho con xe(tên một quân cờ) sang hà (ranh giới

giữa 2 thế trận trong bàn cờ).

(6) Thành: vì trí và đƣờng đi của tƣớng sĩ trong bàn cờ.

(7) Rƣời rƣợi: xanh tốt và rƣờm rà.

(8) Tƣơng tậu: mua sắm.

(9) Giƣờng dạo: chỉ chung giƣờng chiếu; từ dạo dùng nhƣ một từ

đệm.

Page 313: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

312

230. Nƣớc lên cho bóng lên theo

Anh giàu có của, em nghèo có công.

BK

Nƣớc lên cho cá lên theo

231. Nƣớc lên con cá đối theo lên

Nƣớc rặc(1), con cá đối nằm trên miệng bờ

Thƣơng con cá kia khỏi nƣớc chịu khô

Thƣờng cho anh những trông chờ uổng công.

(1) Rặc: cạn khô

232. Nƣớc lên đầu cống chảy xuôi

Có con cá gáy đỏ đuôi hồng hồng

Gái em chƣa chồng, còn mong đi chợ

Trai anh chƣa vợ, mong mỏi làm sao

Miếng trầu anh trao

Lòng em chƣa mộ

Giàu duyên, giàu số

Giàu mẹ, giàu cha

Giàu đâu đến ta

Mà ta lƣỡng lự

Mƣời lăm mƣời bảy

Làm chả nên giàu

Nói có trƣớc sau

Cho chị em biết

Vâng thì ăn hết

Nghĩa ở đang còn

Ra đàng hỏi con

Nào ai hỏi của

Hỏi thật em rày

Mấy gái mấy trai

Lời nói thƣa ngài:

Trai năm gái bảy

Trai thời học chữ

Gái giữ nghề buôn

Lấy đâu dâu khôn

Xem bằng con gái

Chàng rể có ngãi

Xem bằng con trai

Em tham giàu để khó cho ai?

233. Nƣớc lên khỏi bậc tràn bờ

Thƣơng thì nói vậy, biết chờ đặng không?

Đặng không tôi cũng gắng công

Page 314: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

313

Chừng nào ao cá hoá rồng sẽ hay.

234. Nƣớc mắm ngon chấm con cá liệt

Em có chồng rồi nói thiệt anh hay.

235. Nƣớc mắm ngon dầm con cá đối

Nhắn với nàng đợi tối anh qua.

236. Nƣớc ngƣợc, con cá vƣợc(1) cũng hồi đầu(2)

Lòng em nhƣ đá tảng(3), khiến anh sầu lắm thay

Chốn này nƣớc nƣớc, mây mây

Chim đàn cá lũ, anh chẳng khuây chút nào.

(1) Cá vƣợc: một loại cá khoẻ, dữ ở nƣớc ngọt.

(2) Hồi đầu: quay đầu trở lại.

(3) Đá tảng: phiến đá vuông kê dƣới chân cột nhà cho vững. Lòng

nhƣ đá tảng ý nói vững vàng, khăng khăng không lay chuyển đƣợc.

237. Nƣớc sông còn đỏ nhƣ vang

Nhiều nơi lịch sự hơn nàng, nàng ơi

Nƣớc sông cuồn cuộn chảy xuôi

Có con cá giếc đỏ đuôi theo mồi.

238. Nƣớc sông cuồn cuộn chảy xuôi

Có con cá giếc đỏ đuôi theo mồi

Gặp em, thấy khéo miệng cƣời

Thấy xinh con mắt, thấy tƣơi má hồng.

239. Nƣớc trong cá chẳng ăn mồi

Đừng câu mà mệt, đừng ngồi mà trƣa.

240. Nƣớc trong cá lội thấy vi

Anh câu không đƣợc cũng vì sóng xao.

241. Nƣớc trong cá lội, thấy kì

Thấy em ăn nói ngoan nghì anh thƣơng.

242. Nƣớc trong cá lƣợn bên bờ

Hỏi em mấy tuổi mà chƣa lấy chồng?

243. Nƣớc trong giếng đá, cá lội thấy hình

Thấy em có nghĩa, động tình anh thƣơng.

244. Nƣớc trong xanh thả con cá vàng

Nào ai đánh đục cho chàng ngẩn ngơ.

245. Nƣớc trong thấy cát mờ nờ

Bủa câu đã lỡ, cá chờ mồi ai?

246. Nƣớc trong thấy đá, cá lội thấy hình

Có đôi cũng vậy, một mình cũng xong.

247. Nƣớc xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng

Con chim phƣợng hoàng rày vắng tiếng kêu

Ơi ngƣời thƣơng ôi! Ta nhắn một đôi điều

Dẫu mà mai quán, chiều lều, cũng ƣng

Page 315: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

314

Con cá thia lia giỡn bóng lăng xăng trong hồ.

248. Ớ em ơi! Tới đây cận thuỷ xa ngƣ

Chừ hỏi thăm con cá nó đã vào lừ mô chƣa.

249. Ra về én bắc, nhạn đông

Đôi bên đôi ngả, lệ hồng tuôn rơi

Lắng tai nghe tiếng bạn cƣời

Lòng còn bát ngát

Nghe tiếng bạn hát

Ngƣớc mắt trông lên

Ông Bụt thờ trên

Gió đƣa mát lạnh

Dạ em thƣơng ai

Trong chừng dƣới bến

Đƣa thƣ cho đến

Gửi bức thƣ trầm

Mƣợn cá hỏi thăm

Cá lững lờ dƣới nƣớc

Em ngồi em ƣớc

Nhân ngãi tới đây

Cơn sầu đã khuây

Cơn buồn đã hết

Anh đừng tham tiếc

Vui cảnh non bồng

Lâu về kẻ nhớ ngƣời mong.

250. Rộng đồng mặc sức chim bay

Biển hồ lai láng, cá bầy đua bơi

Bao giờ cho đặng thảnh thơi

Tay bƣng chén cúc, miệng mời phu quân.

251. Sớm mai anh ngủ dậy

Anh súc miệng, anh rửa mặt

Anh xách cái rựa quéo

Anh lên hòn núi quẹo

Anh đốn cây củi còng queo

Anh than với em, cha anh khó mẹ anh nghèo

Đôi đũa tre yếu ớt, không dám quèo con mắm nhum(1).

(1) Con mắm nhum: cá làm mắm.

252. Sông dài cá lội biệt tăm

Phải duyên chồng vợ, ngàn năm cũng chờ.

253. Sông sâu cá lặn mất tăm

Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ

Sông sâu cá lặn vào bờ

Page 316: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

315

Lấy ai thì lấy đợi chờ ta chi.

254. Sông sâu cá lặn vào bờ

Lấy ai thì lấy đợi chờ nhau chi.

255. Sông sâu cá lội lờ mờ

Biết anh mấy tuổi mà chờ đợi anh.

256. Sông sâu cá lội mất tăm

Chín tháng cũng đợi, mƣời năm cũng chờ.

257. Sông sâu cá lội mất tăm

Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ

Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ

Chờ hết mùa mạn, mùa mơ mùa đào

Chờ anh cho tuổi em cao

Cho duyên em muộn má đào em phai.

258. Sông sâu cá lội ngù ngờ

Biết em có đợi mà chờ uổng công.

259. Sông sâu cá lƣợn mất tăm

Dẫu em bé nhỏ cũng chờ trăm năm.

260. Sông Tiền Đƣờng cá lội giao đuôi

Kiều thƣơng Kim Trọng giả nhƣ tui thƣơng mình.

261. Tay anh cầm cần câu trúc, sợi nhợ thau

Anh câu con cá biển, chớ cá bèo anh không câu.

262. Tay anh cầm cần câu trúc, sợi nhợ thau

Anh câu con cá biển, chớ cá bèo anh không câu.

263. Tay cầm cái dát nắm nan

Vừa đi vừa hát, vừa đan cái lờ

Rách ai ăn mít bỏ xơ

Ăn cá bỏ lờ, ở dạ bạc đen

Ngồi buồn rọc lá gói nem

Cô chị trốn mất, cô em tôi hò

Ngồi buồn rọc lá gói giò

Cô chị trốn mất, tôi hò cô em.

264. Tay cầm dao mác

Tay vác nắm nan

Lên chùa thanh vắng tôi đan cái lờ

Hỡi ngƣời ăn mít bỏ xơ

Ăn cá bỏ lờ có nhớ tôi chăng?

265. Tay cầm dao mác nắm nan

Lên chùa Tiên Tích mà đan cái lờ

Bây giờ đƣợc cá quên lờ

Đƣợc ngƣời thì chẳng đợi chờ đến ai.

266. Tay lại bắt tay luỵ rơi ngang má

Page 317: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

316

Mặt lại nhìn mặt thảm quá Trời ơi!

Mấy lâu ni chim lƣợn, cá khơi

Bắt tay mà hỏi đôi lời đặng không?

267. Tay anh nắm con dao sắc

Cắt chín lát gừng bỏ vô thang thuốc sắc lại bảy phân

Tay mặt anh bƣng chén thuốc, tay trái anh khoát màn

Cúc Hoa (1) ơi, em uống chén thuốc này cho nạn khỏi tai qua

Kẻo con mồ côi mẹ, lấy ai cá vẽ cơm và mà nuôi con.

(1) Cúc Hoa: nhân vật chính của truyện Tống Trân Cúc Hoa.

268. Thà rằng chẳng biết cho đừng

Biết ra dan díu nửa chừng lại thôi

Con sông bên lở bên bồi

Một con cá lội mấy ngƣời buông câu!

269. Thân em nhƣ cá lội tranh mồi

Em tìm nơi sông lớn, vịnh bồi ẩn thân.

- Anh đây nhƣ thể lão chài

Vực sâu anh thả lƣới, bãi lài (1) anh buông câu.

(1) Lài: có độ dốc thoai thoai.

270. Tháng hai cho chí tháng mƣời

Năm mƣời hai tháng em ngồi em suy

Vụ chiêm em cấy lúa di

Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba trăng

Thú quê rau cá đã từng

Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan

Việc nhà em liệu lo toan

Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.

271. - Thầy anh hay chữ hỏi thử đôi lời

Cây cỏ chi không lá, con cá gì không xƣơng?

- Thầy em hỏi tức anh nói phứt cho rồi

Cây cỏ năn không lá con cá hoạ không xƣơng

- Thầy anh hay chữ hỏi thử đôi hàn

Tiết Đinh San sao dám gƣơng giàng bắn cha?

- Tử Nhơn Quí nằm dƣới gốc đa

Hoá hình cọp bạc, Tiết Đinh San bắn lầm.

272. Thấy em đẹp nói đẹp cƣời

Đẹp ngƣời đẹp nết lại tƣơi răng vàng

Chân em đi dép quai ngang

Mặt vuông chữ điền liền vành cá trôi

Ta thƣơng mình lắm mình ôi

Cá chết về mồi khốn nạn đôi ta.

273. Theo nhau cho trọn lời vàng đá

Page 318: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

317

Không hay chừ kẻ Á, ngƣời Âu

Gối loan chẳng đặng giao đầu

Con chim bơ vơ núi Ngự, con cá thảm sầu sông Hƣơng..

274. Thiếp nhƣ cá ở Biển Đông

Chờ khi nƣớc cạn, hoá rồng lên mây

- Phải chi anh có phép thần thông

Ngăn mây đón gió, bắt rồng cƣỡi chơi.

275. Thiếp trông chàng nhƣ cá hạn trông mƣa

Nhƣ con trông mẹ chợ trƣa chƣa về.

276. Thôi thôi đừng nói mà buồn

Cá lui về biển, chim ngƣợc nguồn kiếm đôi.

277. Thôi thôi từ tạ biển vàng

Cá lui về sông Vịnh, chim ngƣợc ngàn kiếm đôi.

278. Thuốc nam thuốc bắc, thuốc xắt cho nhỏ

Địa liền gừng gió vị nọ vị kia

Dầu mà trời đất phân chia

Đôi ta nhƣ cá dƣới đìa đừng xa.

279. Thƣơng ai em nói khi đầu

Để cho thầy mẹ ăn trầu một nơi

Ăn trầu ngƣời ta nhƣ chim mắc nhợ

Uống rƣợu ngƣời ta nhƣ cá mắc câu.

280. Thƣơng em ruột nát da vàng

Cá dƣới sông ngơ ngẩn, cây trên ngàn héo hon.

281. Thƣơng mình lắm lắm mình ơi!

Cá chết vì mồi, khốn nạn thân anh.

282. Thuỷ để ngƣ, thiên biên nhạn

Cao khả xa hề, để khả điếu

Chỉ xích nhân tâm bất khả phòng(1)

E sau lòng lại đổi lòng

Nhiều tay tham bƣởi chê bòng lắm anh.

(1) Thuỷ đê ngƣ, thiên biên nhạn, Cao khả xa hề, đê kha điếu, Chỉ

xích nhân tâm bất khả phòng: cá dƣới đáy nƣớc, chim bên chân

trời, cao có thể bắn, thấp có thể câu, lòng ngƣời đâu chỉ trong gang

tấc cũng không thể đề phòng.

283. Thuyền dời bến khác

Tơ hồng buộc nơi rồi

Anh đừng than thở i ôi!

Em đà nhƣ cá no mồi khó câu.

284. Thƣ một bức gửi ngƣời thục nữ

Bức thƣ tình nhắn gửi chim

Thƣ gửi cá còn e dạ cá

Page 319: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

318

Thƣ gửi chim còn sợ lòng chim

Anh nói với ngƣời có lạ chi không ?

Nàng nhƣ hoa quế hoa thông

Anh nhƣ hoa cúc, hoa lí sánh cùng lứa đôi

Đừng thấy vắng mặt mà nguôi tấm lòng

Miếng trầu nên đạo vợ chồng

Đem nằm mơ tƣởng thấy cùng ở bên

Hỏi làng, hỏi họ hỏi tên

Hỏi thăm ông bà trƣờng mạnh mời lên xơi trầu.

285. Thuyền thúng là thuyền thúng ơi!

Có về Đặng Xá cho tôi về nhờ

Chèo đò lên bãi Dƣơng Khê

Thuyền nan chắp cánh gió đƣa đằng đằng

Tôi chèo thuyền lên bãi bắt con cá lăng.

286. Tiếc cho con tôm rằn nấu với ngọn rau má

Tiếc cho con cá bống thệ đem nấu với ngọn lá cỏ hôi

Tiếc công ơn thầy với mẹ trau điểm phấn dồi

Em ra đi lấy chồng không đặng hai chữ cân đôi với chồng.

287. Tiếc công anh chẻ nứa đan lờ

Để cho cá vƣợt lờ nó đi.

288. Tiếc công anh xe sợ nhợ uống cây cần

Xe rồi sợ nhợ, con cá lần ra khơi.

289. Tiếc công lao đào ao thả cá

Ba bốn năm trời ngƣời lạ tới câu.

290. Tìm duyên mà chẳng thấy duyên

Mất niêu cơm trắng chín tiền cá rô.

BK

- Một niêu cơm tám chín tiền cá rô.

291. Tình cờ anh gặp nàng đây

Nhƣ cá gặp nƣớc, nhƣ mây gặp rồng

Rồng gặp mây, bán vân bán vũ

Cá gặp nƣớc, con ngƣợc, con xuôi

Chồng nam vợ bắc anh ơi!

Sao anh chẳng lấy một ngƣời nhƣ em?

292. Tình cờ gặp đƣợc nàng đây

Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ mây gặp rồng.

293. Tối qua cửa phƣợng loan phòng

Một mình vò võ, trăng tàn, sao khuya

Tôi xin kết ngãi đi về

Nên chăng ngƣời nói, chớ hề ngó ngang

Tôi xin kết ngãi lan vàng

Page 320: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

319

Bõ công vàng sắt, bõ lòng chắt chiu

Bõ công vàng đá nâng niu đêm ngày

Đƣơng còn ngọc đúc doi doi

Má tô phấn điểm sóng bày trên ngai

Anh bƣớc chân ra cá nhảy nhạn sa

Chim bay về, nhan sắc anh đáng lạng vàng

Miệng tiếng anh cƣời nở cánh hoa sen

Tôi xin kết ngãi Châu Trần

Kìa nhƣ con nhện mấy lần chăng tơ.

294. Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi

Gạo nhƣ An Cựu (1) mà nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Em vô bảo dƣỡng cá canh cho thƣờng

Mẹ già nhƣ chuối bà hƣơng

Nhƣ xôi nếp một, nhƣ đƣờng mía lau.

(1) An Cựu: có nơi ghi "Gạo de An Cựu", một thứ gạo thơm ngon

xƣa đƣợc dâng lên vua, đƣợc gọi là gạo tiến, chuyên trồng ở cánh

đồng An Cựu, phía nam của Huế.

295. Trách ai đặng cá quên nơm

Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.

BK

-Đựng chim bẻ ná, quên ơn vội thù.

296. Trăm thức hoa đua nở về tiết tháng giêng

Có bông hoa cải nở riêng tháng mƣời

Trăm cành hoa cƣời, trăm nụ bông hoa nở mùa xuân sang

Đàn con yến trắng, dập dìu đàng ong

Con chim kia sao khéo não nùng

Cuốc kêu gióng giả, nhƣ nung dạ sầu

Gió nam hây hây lúc ban chiều

Một đàn bƣớm trắng dập đìu trên non

Đêm đông trƣờng nghe vƣợn ru con

Vƣợn hót ru con, cá khe lẩn bóng, chim luồn cỗi cây

Con ve kêu ong anh tiếng chày

Kìa quân tử trúc dạ này bâng khuâng

Em nhƣ hoa thơm mà mọc góc rừng

Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.

297. Trăng lên đến đó rồi tề

Nói răng thì nói anh về kẻo khuya

- Anh về đi ngủ kẻo khuya

Xấu chuôm thì mặc xấu chuôm

Trời làm một trộ cá tuôn vô bờ.

Page 321: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

320

298. Trên có trăng, dƣới có nƣớc, anh giao ƣớc một lời

Dẫu trăng lờ nƣớc cạn, trọn đời anh chẳng quên em

- Nƣớc có khi trong khi đục

Ngƣời có kẻ tục kẻ thanh

Hễ con cá khôn lựa vịnh, con chim khôn lựa nhành

Mặc ai nay đỗ mai dành, bền lòng chờ ngóng chẳng đành bỏ anh.

299. Trên rừng có cây bông kiểng

Dƣới biển có cá hoá long

Anh đi lục tỉnh giáp vòng

Tới đây Trời khiến đem lòng thƣơng em

Nhớ em tƣởng bóng ngày đêm

Nhớ răng em trắng má em đỏ hồng

Nhớ em vắng vẻ cô phòng

Một mình vò võ đem đông lạnh lùng

Nhớ em luỵ nhỏ ròng ròng

Xe duyên chửa đặng đau lòng Trời ơi

Chỉ còn đêm nữa mà thôi

Giã từ em ở lại, anh hồi cố hƣơng.

300. Trên sơn dƣới thuỷ, anh thấy em con cá lí ngƣ

Anh móc mồi cây quăng xuống hàng cừ(1)

Để coi bạn ngọc bây chừ về ai.

(1) Hàng cừ: hàng cọc cắm ngăn ở hồ, ao sông, ngòi thành từng

khoảng để thả lƣới, đánh cá.

301. Trên trời có sao Tua rua

Ở dƣới Hà Nội có vua đúc tiền

Ruộng tƣ điền không ai cày cấy

Hỏi cô mình ở vậy đƣợc chăng?

Mƣời hai cửa bể anh đã cắm đăng

Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào.

302. Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng

Ƣớc gì anh lấy đƣợc nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xay dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân

Có rửa thì rửa chân tay

Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh.

303. Trèo lên cây bƣởi hái hoa

Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng rồi anh tiếc em thay

Page 322: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

321

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Nhƣ chim vào lồng nhƣ cá mắc câu

Cá mắc câu biết dâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra.

304. Trời đất một vùng

Bắc, nam đôi ngả

Phận hồng nhan buồn bã thiếp lo

Sầu từ bể Sở, sông Ngô

Lấy ai săn sóc sớm khuya việc chƣờng

Ai làm nam bắc đôi đƣờng

Chiếu chăn tếch lác(1), buồng hƣơng lạnh lùng

Trời ơi, có tháu tình chăng

Một ngày thiếp bén duyên chàng

Bƣớm ong sum họp, phƣợng hoàng bƣa đôi

Tƣởng rằng trên thẳm dƣới khơi

Phòng khi lở đất long trời có nhau

Ai ngờ chim lƣới, cá câu

Chơ vơ ai biết ai đâu mà tìm.

(1) Tếch lác: quăng bỏ bừa bãi.

305. Trời xanh đất đỏ mây vàng

Anh đi thơ thẩn gặp nàng thẩn thơ

Bấy lâu loan đợi phƣợng chờ

Loan sầu phƣợng ủ biết cơ hội nào!

May chờ rồng cá kết giao

Thề nguyền đông liễu, tây đào phòng chung

Bây giờ kể đã mấy đông

Thuyền quyên sầu một, anh hùng sầu hai

Còn non, còn nƣớc, còn dài

Còn vè còn nhớ tới ngƣời hôm nay.

306. Trời xanh dƣới nƣớc cũng xanh

Trên non gió thổi dƣới gành sóng xao

Bấy lâu cách liễu trở đào

Chim trong lồng chim thảm, cá dƣới ao cá sầu.

307. Trông anh nhƣ bấc trông dầu

Nhƣ con cá cạn trông chầu trời mƣa.

308. Trông anh nhƣ cá trông sao

Ngày trông đêm tƣởng chiêm bao mơ màng.

309. Trông mây thấy cặp rồng xanh

Thƣơng mình thao thức năm canh khóc ròng

Page 323: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

322

Thỏ giỡn trăng thỏ lại mắc vòng

Mình có lâm nơi sinh tử chốn loan phòng có tôi

Sông Tiền Đƣờng(1) cá lội giao đuôi

Kiều thƣơng Kim Trọng giả nhƣ tôi thƣơng mình.

310. Trƣớc không thảo sau nào có thảo

Thuyền không ngay, bẻ lái khó ngay

Em đây suy cạn lẽ này

Thà em ở vá hơn buổi rày lấy anh

- Bậu chƣa nghĩ kĩ, bậu ti hƣ vầy

Chim uyên ƣơng còn biết kết bầy

Cá bi nục còn vầy đôi bạn

Chẳng qua bởi vận hạn qua mới xa nàng

Chớ ai mà có muốn dứt đàng ngãi nhân.

311. Trƣớc mừng chàng nhƣ cây có cội

Sau vui thay duyên hiệp đạo ngƣời

Hai ta xin gá tiếng trao lời

Dƣới sông con cá lội, trên trời con chim bay.

312. Từ ngày gặp gỡ giữa đƣờng

Nghe lời bạn nói nhớ thƣơng vô chừng

Tƣởng là thành cơm thành cháo mà mừng

Hay đâu cá dời về biển, chim rừng xa bay.

313. Từ ngày thiếp bén duyên chàng

Dạ nhƣ con cá trích mắc vào lƣới xƣa.

314. Vào rừng chẳng biết lối ra

Thấy cây núc nác ngỡ la vàng tâm

Anh trông em anh cũng yêu thầm

Sợ mẹ bằng bể, sợ cha bằng trời

Thấy em đẹp nói đẹp cƣời

Đẹp quần đẹp áo lại tƣơi răng vàng

Chân em đi dép quai ngang

Mặt vuông chữ điền liền vành cá trôi

Ta thƣơng mình lắm mình ơi

Cá chết về mối, khốn nạn đôi ta

Ngồi buồn trách mẹ cùng cha

Trách anh thầy bói rẽ ra đôi đƣờng

Ở đây đồng đất phố phƣờng

Để anh mua cốm, mua hồng sang sêu

Sêu em mối lái làm đều

Để cốm anh mốc, để hồng long tai

Hồng long tai nhƣ quạt long nhài

Cầu Ô long nhịp, cửa cài long then

Page 324: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

323

Anh tiếc cô mình má phấn, răng đen

Để cốm anh mốc để hồng nứt ra

Bao giờ cho đến tháng ba

Gió thu lại thổi xuân ra cõi ngoài.

315. Vào vƣờn trảy quả cau non

Anh thấy em giòn, muốn kết nhân duyên

Hai má có hai đồng tiền

Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ƣa

- Anh đã có vợ con chƣa

Mà anh ăn nói gió đƣa ngọt ngào

Mẹ già anh để nơi nao

Để em tìm vào hầu hạ thay anh

Chả tham nhà ngói rung rinh

Tham về một nỗi anh xinh miệng cƣời

Miệng cƣời anh đáng mấy mƣơi

Chân đi đáng nén, miệng cƣời đáng trăm

- Tờ giấy hồng anh phong chữ thọ

Anh gửi thƣ này cả họ bình yên

Đầu rồng mà gối tay Tiên

Ƣớc gì tay ấy gối lên đầu này

Nhƣ chim loan phƣợng ấp cây ngô đồng

Một mai nên vợ nên chồng

Nhƣ cá gặp nƣớc nhƣ rồng gặp mây.

316. Vì ai cách trở giang biên

Cá sầu không lội, chim phiền không bay.

317. Vì chuôm cho cá bén đăng

Vì tình nên phải đi trăng về mờ.

318. Vì mây cho núi lên trời

Vì cơn gió thổi, hoa cƣời với trăng

Vì chuôm cho cá bén đăng

Vì tình nên phải đi trăng về mờ.

319. Xƣa rày biệt tích âm hao

Hỏi cá chẳng thấy, tin sao vắng trùng

Xốn xang dạ ngọc bâng khuâng

Ngày thì sầu não, đêm rƣng luỵ tràn

Nhân nay lặn lội băng ngàn

Muốn đi lãnh Bắc, lại sang non Tần

Than rằng, ngọc hỡi tình nhân

Tôi đi tìm bạn, bạn vàng ở đâu?

320. Yên Thái có giếng trong xanh

Page 325: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

324

Có đôi cá sấu ngồi canh đầu làng

Ai qua nhắn nhủ cô nàng

Yêu nhau xin chớ phũ phàng đổi thay.

Hà Nội, năm 2003

Điều chỉnh khi tái bản: tháng6 - 2009

TS. Phạm Việt Long

Page 326: TỤC NGỮ CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH

325

TS. Phạm Việt Long

Sinh ngày: 1 tháng 7 năm 1946

Tại: Ngô Khê, Bắc Quang, Hà Giang

Nguyên Quán: Ninh Bình

Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam

Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam

Tác phẩm chính:

- B. trọc

- Du khảo Hoa kỳ sau thảm hoạ 11 tháng 9

- Âm bản

- Ngờ vực

- Mố số giá trị văn hoá truyền thống với việc xây dựng đời sống văn hoá ở đồng

bằng Bắc Bộ

- Khía cạnh văn hoá trong thƣơng mại điện tử