Triet Hoc Nhom 2 Ver1

46
Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng Danh sách Nhóm 2 STT Họ và tên Ngày sinh Ghi chú 1 Đoàn Nguyễn Kim Cươn g 27/01/1990 2 Hoàng Tiến Đạt 21/05/1969 3 Nguyễn Thị Thanh Du 20/01/1978 4 Võ Thị Diệu Hiền 20/11/1989 Nhóm trưởng 5 Ngô Hoàng Kim 15/10/1990 6 Đặng Liên Minh 06/09/1993 7 Ngô Xuân Niệm 01/04/1991 8 Phạm Thị Ngọc Thàn h 10/05/1991 9 Nguyễn Thị Thanh 11/04/1981 Nhóm 2 Page 1

description

Cao học Triết học, Khổng tử

Transcript of Triet Hoc Nhom 2 Ver1

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Danh sách Nhóm 2

STT Họ và tên Ngày sinh Ghi chú

1 Đoàn Nguyễn Kim Cương 27/01/1990  

2 Hoàng Tiến Đạt 21/05/1969  

3 Nguyễn Thị Thanh Du 20/01/1978  

4 Võ Thị Diệu Hiền 20/11/1989 Nhóm trưởng

5 Ngô Hoàng Kim 15/10/1990  

6 Đặng Liên Minh 06/09/1993  

7 Ngô Xuân Niệm 01/04/1991

8 Phạm Thị Ngọc Thành 10/05/1991  

9 Nguyễn Thị Thanh Tư 11/04/1981  

Nhóm 2 Page 1

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Lời mở đầu

Nho giáo là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và phương pháp có bề

dày lịch sử hơn 2500 năm. Được khởi xướng bởi Khổng Tư và phát triển bởi các môn

sinh của ông để xây dựng một xã hội thịnh Trị. Nho giáo có sức ảnh hưởng lớn đến các

nước Á Châu đặc biệt là Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản Hàn Quốc. Cho đến nay, nho

giáo vẫn được xã hội hiện đại đánh giá cao bởi các giá trị mà nó đem lại trong việc tu

dưỡng và giáo dục con người.

Nhóm 2 Page 2

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Phần 1. Khái quát về Nho giáo

1.1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo

1.1.1. Nho giáo là gì?

Nho giáo (儒教) còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết

học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Đức Khổng Tử đề xướng và được các

môn đồ của ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng

tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt

Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà

Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp

của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.‘Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử

(sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và

tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng

lập ra Nho giáo.

Nho giáo nguyên thủy

Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm

có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh

Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng

Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc

nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách

Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn

Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của

ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo

nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay “tư tưởng

Nhóm 2 Page 3

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Khổng-Mạnh“. Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia

mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính

tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ,

giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.

Hán Nho

Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho

giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ

đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa

trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so

với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử

là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.

Tống Nho

Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận

ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu

giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi

như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16,

Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là “Trạng Trình”). Phương Tây gọi

Tống nho là “Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là

việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy từ

Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.

1.2. Nội dung cơ bản về tư tưởng Nho giáo

Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã

hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người

cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ

tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp kém về địa vị xã

hội; sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: Những người cao thượng, phẩm chất tốt

đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn

Nhóm 2 Page 4

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là

những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tự

đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải

“hành đạo” (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lý. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu

thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ

trụ, vấn đề là nguyên lý đó là những nguyên lý đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như

họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có

Đạo, tức là nắm được đạo Trời, biết sợ mệnh Trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng

vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở triết lý của Nho giáo mới nắm

được logic phát triển và tồn tại của nó.

1.2.1. Tu thân

Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức… để làm

chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.

Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ

đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam

cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.

Tam cương: Tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: Quân

thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng). Trong xã hội phong kiến, những

mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc “chết người”

- Quân thần: (“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là: Dù Vua có bảo cấp

dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp

dưới không trung với Vua) Trong quan hệ Vua - Tôi, Vua thưởng phạt luôn luôn công

minh, tôi trung thành một dạ.

- Phụ tử: “Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: Cha khiến con chết, con

không chết thì con không có hiếu”

- Phu phụ: “Phu xướng phụ tùy” nghĩa là: Chồng nói ra, vợ phải theo.

Ngũ thường: Ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng

có trong khi ở đời, gồm: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nhóm 2 Page 5

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.

- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.

- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.

- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.

Tam tòng: Tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo,

gồm: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”

- Tại gia tòng phụ: Người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,

- Xuất giá tòng phu: Lúc lấy chồng phải theo chồng,

- Phu tử tòng tử: Nếu chồng qua đời phải theo con”

Tứ đức: Tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải

có, là: công – dung – ngôn – hạnh.

- Công: Khéo léo trong việc làm.

- Dung: Hòa nhã trong sắc diện.

- Ngôn: Mềm mại trong lời nói.

- Hạnh: Nhu mì trong tính nết.

Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:

Đạt đạo: Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà người quân

tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: Đạo vua tôi, đạo

cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với

“quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ

luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân

được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay

còn gọi là Tam tòng.

Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “Nhân – trí – dũng”. Khổng Tử nói: “Đức

của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí

Nhóm 2 Page 6

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

không nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay

“dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán

nho thêm một đức là “tín” nên có tất cả năm đức là: “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức

này còn gọi là ngũ thường.

Biết thi, thư, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn

phải biết “thi, thư, lễ, nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn

diện.

1.2.2. Hành đạo

Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị.

Nội dung của công việc này được công thức hóa thành “tề gia, trị quốc, thiên hạ bình “.

Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ – gia đình, cho đến lớn – trị quốc, và đạt đến mức

cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của

người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:

Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và

coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ

sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”

(sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói:

“Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?”

(sách Luận ngữ).

Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người

phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì lời không thuận, lời không

thuận tất việc không thành” (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công:

“Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử – Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”

(sách Luận ngữ).

Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng

được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình,

chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.

Nhóm 2 Page 7

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ,

nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải

có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu

nhân (như dân thường).

1.3. Đánh giá về Nho giáo

1.3.1. Ưu điểm của Nho giáo

* Về giáo dục : Nho giáo đề cao việc giáo dục con người, xem việc giáo dục là

cần thiết cho tất cả mọi người và giáo dục là biện pháp để hướng con người tới những

phẩm chất cao quý như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các nhà Nho đã chủ trương giáo dục “đạo

làm người’, nhằm đào tạo ra những con người luôn luôn suy nghĩ và hành động theo

những chuẩn mực, quy phạm đạo đức. Đề cao vai trò của lễ, nhạc trong việc giáo dục con

người, trong đó chữ nhân có nội hàm sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ

bản để quy định bản tính của con người và thiết lập mối quan hệ giữa người với người

trong gia đình và xã hội. Đây là nội dung sâu sắc, có tác dụng giáo hóa con người, giúp

con người hướng đến những giá trị tốt đẹp. Nho giáo đã đưa ra những phương pháp rất cụ

thể, thiết thực nhằm giúp cho học trò có thể lĩnh hội được tri thức, không ngừng hoàn

thiện bản thân mình. Nó cũng làm cho những nội dung của tư tưởng giáo dục trở nên

phong phú, có ý nghĩa to lớn đối với không chỉ người học và còn với cả người thầy và

hoạt động giáo dục.

* Về triết học : Nho giáo tuy còn mang nặng tư tưởng duy tâm, thần bí trong các

học thuyết của mình nhưng bước đầu đã có những học thuyết về chính trị xã hội với tư

tưởng “ nhân chính:, “bảo dân” có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát

triển của lịch sử, xã hội.

* Về chính trị: Nho giáo góp phần xây dựng, củng cố chính quyền phong kiến

với tư tưởng trung quân, thuyết “ Chính danh” được tiếp thu trên tinh thần yêu nước và

tinh thần dân tộc. Tổ chức ra hệ thống thi cử, nhằm tuyển chọn nhân tài để bổ sung vào

bộ máy cai trị.

Nhóm 2 Page 8

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

* Về xã hội : Nho giáo với “Ngũ luân”: (Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh –

em, bạn – bè) giúp cho việc củng cố, tạo kỷ cương, trật tự trong mối quan hệ từ gia đình

đến xã hội, có ảnh hưởng trong việc tạo ra xu hướng thờ cúng tổ tiên.

1.3.2. Hạn chế của Nho giáo

*Về Giáo dục: Đối với Khổng Tử, việc dạy học chủ yếu là dạy kẻ cầm quyền trị

dân “tu lễ, nghĩa, tín…khiến dân từ bốn phương sẽ đưa con đến phục dịch mình…” chứ

không phải học nghề cày cấy. Mục đích chính của giáo dục theo quan điểm Nho giáo là

nhằm đào tạo ra những con người lý tưởng để cai quản và thống trị xã hội theo hệ tư

tưởng phong kiến chứ không phải nhằm mục đích lo cho tầng lớp dân nghèo.

*Về Chính trị - Xã hội: Học thuyết “chính danh” của Khổng Tử là một học

thuyết bảo thủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cầm quyền, quí tộc, khuyên người

nghèo, bị áp bức an phận. Trên nền tảng thế giới quan duy tâm, Mạnh Tử đã tuyên truyền

lý luận thần quyền. Ông cho rằng chính quyền là do Trời ban cho vua chúa. Tính duy tâm

còn thể hiện trong học thuyết”nhất loạn, nhất trị” và qua việc tìm cách gán tính thần bí

cho học thuyết “Ngũ hành”. Mạnh Tử còn cho rằng, theo bản chất, con người phân ra làm

2 hạng người: lao tâm (vua chúa, quí tộc, giai cấp thống trị) và lao lực (nhân dân lao

động). Mỗi hạng người có nhiệm vụ riêng, trong đó người lao động phải phục tùng và

làm việc nuôi sống giai cấp thống trị. Thực chất, quan điểm này nhằm biện hộ cho trật tự,

đẳng cấp của xã hội phong kiến và cho đó là trật tự hợp lý, vĩnh viễn.

Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử cho rằng “bản tính người là ác, thiện là do người làm

ra” việc đi tìm sự thỏa mãn về dục vọng sinh lý là bản tính con người, nếu thuận theo bản

tính tự nhiên ấy thì xã hội tất nhiên sinh ra cướp bóc, tranh đoạt. Dựa trên quan điểm sai

lầm đó, Tuân Tử cho rằng các khuôn phép như “lễ nghĩa hình phạt” của giai cấp quý tộc

và thể chế của giai cấp phong kiến là tất yếu tồn tại. Vua phải dùng pháp luật, quyền thế

để qui định danh, phận rõ ràng. Với quan điểm đó, ông đã đặt nền móng cho Hàn Phi

trong lý luận về pháp trị và mở đường cho chế độ độc tài phong kiến của Tần Thủy

Hoàng sau này.

Nhóm 2 Page 9

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

*Về Triết học : Nho giáo còn mang nặng tư tưởng duy tâm, thần bí, quá chú trọng

hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên

ngoài thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên vạn vật xung quanh.Điều

này làm cho nền văn minh, khoa học tự nhiên – kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã

bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.

1.4. Ý nghĩa của Nho giáo

1.4.1. Ý nghĩa lý luận

Nho giáo được xem là 1 học thuyết chính trị có ích trong tổ chức xã hội. Ngày

nay, nho giáo có vai trò quan trọng trong việc phát huy tinh thần hiếu học, tôn sư trọng

đạo, coi trọng người có học. Từ đó khiến cho con người biết sống có văn hóa và đạo đức.

Nho giáo giúp con người hướng về cái thiện (giống như Phật giáo), và cái đức để

cư xử tốt hơn trong tập thể, trong gia đình, trong cộng đồng. Theo Khổng tử, chữ “Nhân”

có ý nghĩa trong việc hoàn thiện giá trị con người và là nguyên tắc quy định bản tính,

quan hệ giữa người với người, ở mọi tầng lớp trong xã hội. Cả Khổng Tử và Tuân Tử

cùng quan điểm cho rằng bản tích con người có thể giáo hóa được, dù một bên cho rằng

xuất phát bản tính con người là thiện còn 1 bên cho rằng xuất phát bản tính con người là

ác.

Ngoài ra Khổng tử đã coi trọng khái niệm người “quân tử” và phân biệt với kẻ

“tiểu nhân”. Theo đó, 5 đức hạnh “nhân lễ nghĩa trí tín” được gắn cho người quân tử. Đây

còn được gọi là ngũ thường. Khổng tử cũng chia con người làm 3 hạng: thánh nhân – bậc

hiền giả hay hiền triết, quân tử - người cao nhã và tiểu nhân – kẻ hèn mọn. Do đó, người

cầm quyền cần hiểu mẫu người quân tử của Khổng tử, là người lý tưởng về phẩm chất

đạo đức XH và hiểu được thời mệnh, kính trên nhường dưới và sống thân ái, hòa đồng

với mọi người.

Và cũng theo thuyết nho giáo của Khổng tử, con người trong xã hội phải coi trọng

tam cương, ngũ luân. Tam cương đó là 3 mối quan hệ cơ bản trong xã hội: vua – tôi, cha

– con, chồng – vợ. Ngũ luân bao gồm 5 mối quan hệ: Anh – em, bạn bè và 3 mối quan hệ

Nhóm 2 Page 10

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

kể trên. Tục ngữ Trung Hoa có câu “nhân chi sơ tính bổn thiện”, tuy nhiên trong quá trình

phát triển con người có thể hình thành tính ác, tức là nhiễm phải thói hư tính xấu trong xã

hội. Do vậy, nho giáo coi trọng giáo dục và rèn luyện đạo đức. Nho giáo coi trọng giáo

dục kẻ sĩ và đặt cho họ trách nhiệm đối với xã hội.

Ngày nay trong xã hội đương đại, nho giáo tạo được cơ chế tuyển dụng chọn lọc

người tài thông qua thi tuyển và xét tuyển. Các cá nhân nếu học giỏi và đỗ đạt, có thể có

việc làm tốt giúp nước bất kể xuất thân sang hèn. Nho giáo coi trọng giáo dục đạo làm

người. Chính nhờ nho giáo, lực lượng tri thức ngày nay được tạo ra kế thừa và phát huy

các giá trị tốt đẹp của xã hội tiến bộ.

Nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc đào tạo ra những con người có đức, có

tài cho đội ngũ trị nước. Mặt khác, nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc chú trọng

giáo dục các tầng lớp khác. tư tưởng “tiên học lễ, hậu học văn” đã được thấm nhuần bởi

các học sinh. Chữ “Lễ” luôn nhắc các học sinh cư xử lễ độ với bố mẹ, thầy cô, ứng xử có

tôn ti trật tự, đề cao lễ giáo và sự lễ phép là truyền thống văn hóa tốt đẹp phương Đông.

Chữ “Văn” luôn nhắc nhở các thế hệ học sinh phải dùi mài kinh sử để ghi nhớ bao công

lao dựng và giữ nước của cha ông ta. Chính tư tưởng Hồ Chí Minh khi dặn dò bao thế hệ

học sinh trong việc đưa tổ quốc Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu một

phần là nhờ công lao học tập của các cháu” đã thể hiện chữ “Văn” của nho giáo. Tư

tưởng này đã phổ biến trong khắp các trường học trong cả nước, và là 1 công cụ hữu ích

trong phát triển xã hội Việt Nam

Hoc thuyết “đức trị” của Khổng Tử thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Ở

Trung quốc và Việt Nam, nho giáo do lịch sử hình thành từ xa xưa, ngàn năm trước, nên

nho giáo đã ảnh hưởng vào văn hóa.

Tóm lại:

Học thuyết nho giáo của Khổng Tử có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trong tất cả

lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội – chính trị - văn hóa – gia đình.

Nhóm 2 Page 11

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Nho giáo cũng phải giải quyết những mối quan hệ mới bao gồm MQH giữa giai

cấp nắm chính quyền mới, giai cấp tư sản mới và giai cấp vô sản mới.

các học thuyết nho giáo có giá trị trong việc xây dựng con người, xây dựng nhân

cách cho con người.

Cùng với các học thuyết Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nho giáo có vai trò

trong việc xây dựng con người XHCN.

Nho giáo cũng có mặt tốt và mặt xấu. Biết tiếp thu chọn lọc tinh hoa nho giáo

phục vụ cho cuộc sống là nhiệm vụ của nho giáo thời đại.

Đạo đức của nho giáo kết hợp với đạo đức cách mạng hình thành nên một trong

những vấn đề căn bản của nho giáo thời đại.

Nho giáo có tính kế thừa và phát triển và được nhìn nhận có tính chất khoa học,

đổi mới giáo dục trong thời đại ngày nay chính là đổi mới nho giáo.

1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn

+ Nho giáo ảnh hưởng đến cá nhân

Nho giáo ảnh hưởng đến con người và cá nhân, duy trì tinh thần học hỏi, hiếu học

thành công hơn trong xã hội. Nho giáo giúp con người hướng về cái thiện (giống như

Phật giáo), và cái đức để cư xử tốt hơn trong tập thể, trong gia đình, trong cộng đồng.

Theo Khổng tử, chữ “Nhân” có ý nghĩa trong việc hoàn thiện giá trị con người và là

nguyên tắc quy định bản tính, quan hệ giữa người với người, ở mọi tầng lớp trong xã hội.

Cả Khổng Tử và Tuân Tử cùng quan điểm cho rằng bản tích con người có thể giáo hóa

được, dù một bên cho rằng xuất phát bản tính con người là thiện còn 1 bên cho rằng xuất

phát bản tính con người là ác.

Từ thời xa xưa, Khổng tử đã coi trọng khái niệm người “quân tử” và phân biệt với

kẻ “tiểu nhân”. Theo đó, 5 đức hạnh “nhân lễ nghĩa trí tín” được gắn cho người quân tử.

Đây còn được gọi là ngũ thường. Khổng tử cũng chia con người làm 3 hạng: thánh nhân

– bậc hiền giả hay hiền triết, quân tử - người cao nhã và tiểu nhân – kẻ hèn mọn. Do đó,

người cầm quyền cần hiểu mẫu người quân tử của Khổng tử, là người lý tưởng về phẩm

Nhóm 2 Page 12

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

chất đạo đức XH và hiểu được thời mệnh, kính trên nhường dưới và sống thân ái, hòa

đồng với mọi người.

Ngày nay trong xã hội đương đại, nho giáo tạo được cơ chế tuyển dụng chọn lọc

người tài thông qua thi tuyển và xét tuyển. Các cá nhân nếu học giỏi và đỗ đạt, có thể có

việc làm tốt giúp nước bất kể xuất thân sang hèn. Nho giáo coi trọng giáo dục đạo làm

người. Chính nhờ nho giáo, lực lượng tri thức ngày nay được tạo ra kế thừa và phát huy

các giá trị tốt đẹp của xã hội tiến bộ.

+ Nho giáo ảnh hưởng đến tập thể

Cũng theo thuyết nho giáo của Khổng tử, con người trong xã hội phải coi trọng

tam cương, ngũ luân. Tam cương đó là 3 mối quan hệ cơ bản trong xã hội: vua – tôi, cha

– con, chồng – vợ. Ngũ luân bao gồm 5 mối quan hệ: Anh – em, bạn bè và 3 mối quan hệ

kể trên. Tục ngữ Trung Hoa có câu “nhân chi sơ tính bổn thiện”, tuy nhiên trong quá trình

phát triển con người có thể hình thành tính ác, tức là nhiễm phải thói hư tính xấu trong xã

hội. Do vậy, nho giáo coi trọng giáo dục và rèn luyện đạo đức. Nho giáo coi trọng giáo

dục kẻ sĩ và đặt cho họ trách nhiệm đối với xã hội.

Trong phạm vi gia đình, nhà đông người thường sinh ra nhiều mối bất hòa phức

tạp. để làm cho gia đình hòa hợp, Nho giáo chủ trương dùng lễ nghi để thể chế hóa làm

cho mọi thành viên theo đó mà cư xử phù hợp, tự kiềm chế khống chế để tránh xảy ra

các xích mích và phải cần đến người gia trưởng để phân xử. Lễ nghĩa cũng nhằm đưa lại

cái hòa, cái đẹp trong các mối quan hệ gia đình. Nho giáo cũng có vai trò quan trọng

trong việc xây dựng truyền thống văn hóa lễ nghĩa trong gia đình, giữ gìn gia đạo chính là

thể hiện nét đẹp văn hóa nho giáo, ngoài ra Nho giáo cũng góp phần xây dựng cái tốt, chữ

hiếu cho thiếu nhi trong gia đình.

+ Nho giáo ảnh hưởng đến xã hội

Xã hội càng văn minh, tiến bộ thì đạo đức xã hội càng có nguy cơ bị ảnh hưởng

tiêu cực. Con người xã hội thường sống khép kín và ít quan tâm đến nhau. Con người

thường quan niệm học nhiều, tri thức nhiều là có đạo đức, song nhiều trường hợp có tri

Nhóm 2 Page 13

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

thức nhiều chưa chắc có đạo đức tốt. Nhất là khi nền kinh tế càng phát triển, đời sống vật

chất ngày càng sung túc, đạo đức con người có nguy cơ xấu đi, làm cho mọ người mất

niềm tin với nhau.

+ Nho giáo trong trường học

Nho giáo đã và đang khẳng định vị trí quan trọng trong nhà trường. Từ khi còn là

học sinh tiểu học, tư tưởng “tiên học lễ, hậu học văn” đã được thấm nhuần bởi các học

sinh. Chữ “Lễ” luôn nhắc các học sinh cư xử lễ độ với bố mẹ, thầy cô, ứng xử có tôn ti

trật tự, đề cao lễ giáo và sự lễ phép là truyền thống văn hóa tốt đẹp phương Đông. Chữ

“Văn” luôn nhắc nhở các thế hệ học sinh phải dùi mài kinh sử để ghi nhớ bao công lao

dựng và giữ nước của cha ông ta. Chính tư tưởng Hồ Chí Minh khi dặn dò bao thế hệ học

sinh trong việc đưa tổ quốc Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu một phần

là nhờ công lao học tập của các cháu” đã thể hiện chữ “Văn” của nho giáo. Tư tưởng này

đã phổ biến trong khắp các trường học trong cả nước, và là 1 công cụ hữu ích trong phát

triển xã hội Việt Nam ngày nay.

Nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc đào tạo ra những con người có đức, có

tài cho đội ngũ trị nước. Mặt khác, nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc chú trọng

giáo dục các tầng lớp khác.

Nho giáo quan niệm ai cũng cần giáo dục và giáo dục là cần thiết. Muốn cho giáo

dục có hiệu quả thì cần có sự kết hợp giữa thầy và trò, áp dụng phương pháp dạy khác

nhau đối với từng loại học trò. Nho giáo cũng đưa ra nhiều phương pháp giáo dục hiệu

quả như dạy từ xa đến gần, kết hợp giữa học và hành.

+ Nho giáo có tính quốc gia

Trong thời xưa và cho đến ngày nay, chữ “trung” trong nho giáo có ý nghĩa trung

với vua, trung với nước. Chữ “nghĩa” đi theo hàm ý con người sống trong 1 quốc gia phải

có trung có nghĩa. Có nghĩa vụ với quốc gia, bao thế hệ thanh niên Việt Nam đã lên

đường nhập ngũ trong các cuộc chiến tranh và làm nghĩa vụ quân sự trong thời bình. Ở

Nhóm 2 Page 14

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

nước ta, chữ trung gắn với chữ nghĩa nhằm đề cao nghĩa vụ của cộng dân, trách nhiệm

của người dân đối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm.

Hoc thuyết “đức trị” của Khổng Tử thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Ở

Trung quốc và Việt Nam, nho giáo do lịch sử hình thành từ xa xưa, ngàn năm trước, nên

nho giáo đã ảnh hưởng vào văn hóa.

Được du nhập vào Việt Nam, các tư tưởng nho giáo được người Việt tiếp thu có

chọn lọc và sáng tạo, thể hiện không chỉ qua các giá trị về đạo đức cá nhân, mối quan hệ

cộng đồng làng xã, về nhân lễ nghĩa trí tín, mà cả về việc xây dựng đất nước và giữ nước.

+ Nho giáo có tính quốc tế

Thứ nhất, từ thời xa xưa đến ngày nay, Nho giáo hình thành và phát triển tại nhiều

quốc gia Đông phương bao gồm Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều

Tiên.

Thứ hai, văn hóa giáo dục, tính giáo dục của nho giáo thể hiện trong việc dạy học

tại nhiều quốc gia.

Nhóm 2 Page 15

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Phần 2. Ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn hoá Việt Nam

2.1. Quá trình du nhập của Nho học vào Việt Nam

Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và đã có vai

trò đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải biến cho

phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của đất nước và đã trở thành

nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở

Việt Nam không thể tách rời nó với truyền thống Việt Nam. Quá trình du nhập của Nho

giáo vào Việt Nam như sau:

Khi Việt Nam bị nội thuộc Trung Quốc vào năm 192 - Trước Công nguyên (vào

lúc Nho giáo ở Trung Quốc được suy tôn làm quốc giáo), các thế lực phong kiến phương

Bắc luôn kiên trì đeo đuổi ý định đồng hóa nhân dân Việt Nam, cũng như cố đồng hóa

nhiều dân tộc khác nhằm mục đích truyền bá văn hóa, truyền bá Nho giáo. Trái lại, nhân

dân Việt Nam, ngoài phương pháp đấu tranh vũ trang giành lại tự chủ, còn phải tiến hành

một loạt phương pháp khác nhằm bảo tồn giống nòi, phong tục tập quán và những di sản

quý giá của mình; đồng thời sẵn sàng tiếp thu ảnh hưởng văn hóa nước ngoài cao hơn văn

hóa vốn có của dân tộc ta, biến cái của người thành cái của mình.

Đến thời Tây Hán, đầu Công nguyên, thái thú Tích Quang và Nhâm Diên “dựng

học hiệu dạy lễ nghĩa” tại quận Giao Chỉ và Cửu Chân nhằm truyền bá Nho giáo và ép

nhân dân ta theo phong tục Hán. Thời Vương Mãn, đông đảo kẻ sĩ Trung Quốc lánh nạn,

di cư sang Giai Chỉ - và họ cũng góp phần truyền bá đạo Nho bằng cách mở trường để

kiếm sống.

Sang thời Đông Hán, số trường học nhiều hơn trước, chẳng những con em bọn

thống trị ngoại quốc đi học, mà có cả con em người bản địa giàu có hoặc cộng tác với

quân đô hộ… Trên cơ sở đó, Sĩ Nhiếp mở mang việc học ở Việt Nam.

Đến đời Đường, khi Trung Quốc trở lại thống nhất, chính sách đồng hóa của

phong kiến phương Bắc lại tiếp tục trên một trình độ mới, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Nhóm 2 Page 16

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Song có nhiều nhà nho học giỏi, đỗ cao, nhưng không phải là người bản xứ của Châu

Giao, không phải là giống Hán nên không được bổ làm quan ở cấp xứng đáng với tài

năng mà chỉ được trông nom cổng thành (như Tinh Thiều….).

Trong thời kỳ đầu lập quốc, Nho giáo chưa thịnh hành. Các nhà Ngô, Đinh, Lê

trong buổi đầu của việc xây dựng nhà nước phong kiến, cùng với việc bận rộn việc đánh

đuổi giặc ngoài, bình giặc trong, nên việc võ cấp thiết hơn việc văn, nên nhà vua ít lưu

tâm đến việc học (việc học lúc này do nhà chùa đảm nhận). Giai đoạn này diễn ra cuộc

đấu tranh âm ĩ giữa Nho và Phật, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau,

mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam, đã dẫn đến đặc

trưng riêng có ở Việt Nam là “Tam giáo đồng nguyên”, đó là:

- Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội;

- Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng và ước mơ nhân đạo;

- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế bằng

phương thuật bí ẩn.

Thực tế, nhà nước sử dụng nhân tài từ Phật giáo- Đạo giáo và Nho giáo (mà trước

hết là Phật, Đạo, rồi mới đến Nho). Tập tục triều đình con xa lạ với Nho giáo.

Đến khi nhà Lý thành lập, tình hình chính trị trong nước được ổn định lâu dài, mới

có điều kiện mở mang học vấn. Sự học đã trở thành một nhu cầu cấp thiết để củng cố

chính quyền, để tuyển lựa một số quan chức. Nho giáo đã theosự phát triển của việc học

mà vươn lên dần dần (theo Giáo sư Trần Văn Giàu, thời Lý sơ, việc học nước ta phỏng

theo lối của nhà Đường). Đến năm 1070, với sự kiện nhà Lý cho lập Văn Miếu thờ Chu

Công, Khổng Tử thì có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức tại Việt Nam.

Chính vì vậy, Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (nhà Lý tương ứng với nhà

Tống ở Trung Hoa), chứ không phải là Hán Nho, Đường Nho, Thanh Nho... Trong khi

đó, quần chúng nhân dân vẫn theo Phật giáo, Đạo giáo. Song Phật giáo dù được tôn sùng

đến đâu, dù cố gắng nhập thế đến mức nào, bản thân Phật giáo cũng không phải là một

đạo trị nước. Đạo giáo cũng vậy.

Nhóm 2 Page 17

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Sang thời Trần, Nho giáo phát triển hơn, chính quyền đã dùng Nho làm trị đạo.

Nhu cầu thiết thực của việc trị nước, nhu cầu tiến hóa của bản thân trí tuệ, ảnh hưởng

ngày thêm tăng về mặt văn hóa của nước láng giềng khổng lồ, những lưu tệ của Phật giáo

trong xã hội đương thời, đã khiến cho Nho giáo lần chiếm thế mạnh để cuối cùng thì

chiếm ưu thế ở triều đình và trong hàng trí thức so với Phật giáo. Giai đoạn này, các khoa

thi được mở đều đặn hơn. Năm 1236, Trần Thái Tông lập Quốc Tử viên dạy Ngũ kinh,

Tứ thư cho con em các nhà quý tộc. Năm 1253, Quốc học viên được thành lập, không

phải để cho thiếu niên mà để cho các nho sĩ đã có trình độ tới lui học tập. Ngoài 2 viên

trên, xã hội còn có trường tư nổi tiếng (như trường của Chu Văn An, trường của Chiêu

Quốc Vương….) đã chứng tỏ sự phát triển khá rực rỡ của Nho học.

Như thế, Phật giáo lui dần, ít ra trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, còn Nho giáo thì

tiến mãi và cung cấp ngày càng đông sĩ tử cho nhà nước phong kiến. Song đến cuối đời

Trần, Nho giáo vẫn chưa được người dân Việt chấp nhận (Nhà nho Lê Quát - học

trò Chu Văn An rất tức giận vì thấy toàn dân theo Phật giáo mà đã viết trên một tấm bia

có ý nói học nhiều mà chưa được dân tin bằng Phật giáo...).

Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng thi hành một chính sách cực kỳ tàn

bạo, thâm độc, nhằm thủ tiêu văn hóa Việt Nam. Năm 1407, vua Minh ra lệnh cho

Trương Phụ, Trần Húc thiêu hủy tất cả sách vở do người Việt Nam viết, thiêu hủy cả bản

gỗ, dập nát các bia đá… rồi tiến thêm tịch thu tất cả sách vở về lịch sử, văn học, pháp

luật, quân sự của người Việt Nam còn sót lại. Trong kháng chiến 10 năm chống quân

Minh (1418 - 1458), các nhà Nho Việt Nam đứng đầu là Nguyễn Trãi tập hợp, t iếp thu

một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luậnhướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc

mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời đại, của các dân

tộc.

Từ thời Lê trở đi, Nho giáo trở thành quốc giáo ở Việt Nam. Nho giáo đã góp phần

đắc lực trong cuộc chiến đấu chống Minh, giải phóng dân tộc. Tuy rằng đa số nhân dân,

tướng sĩ Lam Sơn về mặt tín ngưỡng vẫn theo Phật giáo hay Đạo giáo. Năm 1428, Lê Lợi

lập Quốc tử giám ở kinh thành và nhiều trường học ở các đạo. Năm 1483, Lê Thánh Tôn

Nhóm 2 Page 18

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

xây dựng lại Văn Miếu và lập nhà Thái học (sau Văn Miếu) vừa là giảng đường, vừa là

thư viện và nơi bảo quản các bản in gỗ quan trọng. Tiếp đến năm 1480, Lê Thánh Tôn

định lệ dựng bia đá ở Văn Miếu, ghi lý lịch các vị Tiến sĩ từ khóa 1442 trở đi…

Sang thời Tây Sơn, Nho giáo tiếp tục được tôn trọng. Bản thân Quang Trung hạ

chiếu yêu cầu Nguyễn Thiếp phải hướng việc học tập thi cử theo phép của Chu Tử; đồng

thời có kế hoạch táo bạo biên soạn chữ Nôm…

Như vậy, suốt các thời Ngô, Đinh, Lê (sơ), Lý, Trần, Lê (hậu), ở Việt Nam tâm

giáo đều lưu hành, có lúc suy, lúc thịnh, có đấu tranh nhưng chưa hề có chiến tranh tôn

giáo như đã thấy xảy ra ở các nước châu Âu hay châu Á khác. Trái lại, các tôn giáo này

đã đoàn kết với nhau để chống ngoại xâm.

Nho giáo tự bản thân nó không phải là một tôn giáo như Hồi giáo, Công giáo, Nho

giáo chỉ lo cho đời sống mà ít lo việc sau khi chết, Nho giáo không có tín ngưỡng vào

đáng cứu thế, vào Thượng đế sáng tạo vũ trụ…., cho nên sự mê tín tuy có nhưng không

đến nỗi nặng nề có thể đưa đến chiến tranh tôn giáo. Khi giành được nền tự chủ dân tộc,

Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người

đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong

3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó, cha

ông ta đã chọn lấy Nho giáo bởi nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra. Song

nét độc đáo của văn hóa Việt Nam là khi tiếp thu một hệ tư tưởng ngoại lai, không tiếp

nhận nguyên cả hệ thống mà tiếp nhận các yếu tố riêng lẻ để rồi cấu tạo theo cách riêng

của mình tạo thành một hệ thống mới với những nét khác biệt. Nho giáo Việt Nam là một

hệ thống như thế, đã làm được như thế.

2.2. Đặc điểm Nho giáo ở Việt Nam

Có khá nhiều yếu tố Nho giáo vào Việt Nam đã bị truyền thống văn hoá dân tộc

đồng hoá, đưa vào đó những nét đặc thù của mình, làm cho yếu tố Nho giáo bị biến

đổi cho phù hợp, cụ thể:

Nhóm 2 Page 19

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

1. Yếu tố đáng chú ý nhất của Nho giáo bị biến đổi là xu hướng ưa ổn định. Xã hội

quốc gia cổ đại vùng Trung Hoa với cái gốc du mục luôn đầy biến động. Bởi vậy, mục

đích của Nho giáo là tạo ra một xã hội ổn định. Ở Trung Hoa, các triều đại phong kiến chỉ

dùng Nho giáo để giữ yên ngai vàng, còn với bên ngoài thì luôn chủ trương bành trướng,

xâm lăng (phát triển trong đối ngoại). Đối với văn hoá Việt Nam nông nghiệp, ước mong

về một cuộc sống ổn định, không xáo trộn là một truyền thống lâu dời. Nhu cầu duy trì sự

ổn định không chỉ có ở dân mà ở cả triều đình, không chỉ trong đối nội mà cả trong đối

ngoại. Các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ,

với Trung Hoa cũng thế và với người Chiêm Thành cũng thế.

Để duy trì sự ổn định, làng xã Việt Nam tạo nên sự phân biệt dân chính cư-dân

ngụ cư, cộng đồng hoá lĩnh vực hôn nhân, sử dụng hữu hiệu bộ máy dư luận - tất nhằm

sự lệ thuộc cá nhân vào cộng đồng. Tương tự, muốn duy trì sự ổn định quốc, cần tạo ra sự

phụ thuộc bộ máy quan lại vào triều đình, Nho giáo đã dùng 2 biện pháp:

- Biện pháp kinh tế là nhẹ lương nặng bổng, quan lại không phải sống bằng lương

mà bằng bổng lộc.

- Biện pháp tinh thần là trọng đức khinh tài.

2. Yếu tố quan trọng thứ là trọng tình người. Vì trọng tình vốn là truyền thống văn

hoá lâu đời của Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận Nho giáo, dù là Nho giáo đã đựơc cải

biến nhiều lần, người Việt Nam đã tâm đắc với chữ Nhân hơn cả. Nhân - đó là lòng

thương người.

Việc trọng tình người trong Nho giáo Việt Nam được bổ sung bằng truyền thống

dân chủ của văn hoá nông nghiệp mà Nho giáo nguyên thuỷ có tiếp thu. Nhờ đó mà khi

các yếu tố mang tính du mục của Nho giáo Trung Hoa thâm nhập vào Việt Nam đã được

làm mềm đi, không đến mức  quá hà khắc (chẳng hạn như trong lĩnh vực pháp luật,

truyền thống coi trọng vai trò của người phụ nữ đã làm cho luật Hồng Đức, luật Gia Long

trở nên mềm dẻo hơn). Như truyền thống dân chủ ấy mà ở Việt Nam, dù Nho giáo sau

này có giữ địa vị độc tôn và trở thành công cụ thống trị xã hội nhưng cũng không dám

loại trừ Phật giáo và huỷ bỏ cái gốc văn hoá Việt Nam là đạo Mẫu. Tiếp thu chữ hiếu của

Nhóm 2 Page 20

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Nho giáo, người Việt Nam không gắn nó với tư tưởng “nam tôn nữ ti” nặng nề của Trung

Hoa mà đặt chữ hiếu trong mối quan hệ bình đẳng với cả cha và mẹ.

3. Yếu tố thứ ba là xu hướng trọng văn. Trọng văn là truyền thống của văn hoá

nông nghiệp. Chính vì chịu ảnh hưởng của văn hoá nông nghiệp phương Nam nên Nho

giáo nguyên thuỷ rất coi trọng văn, trọng văn hoá, trọng kẻ sĩ, trong khi đó thì “võ”,

“dũng” lại ít được nhắc đến. Chữ, người Việt so sánh với vàng: Một kho vàng không

bằng một nan chữ; việc học chữ người Việt so sánh với việc nhà nông: Chẳng cấy lấy đâu

có chữ, chẳng học lấy đâu biết chữ. Việt Nam trọng văn hơn trọng võ. Tuy luôn phải đối

mặt với chiến tranh liên miên, nhưng người Việt Nam ít quan tâm đến các kỳ thi võ mà

chỉ ham học chữ, thi văn. Người cầm quyền nhìn thấy ở Nho giáo một công cụ cai trị, còn

người bình dân nhìn thấy ở Nho giáo một công cụ văn hoá, một con đường làm nên sự

nghiệp.

4. Tư tưởng trung quân ở Nho giáo Trung Hoa đóng vai trò quan trọng, còn tư

tưởng yêu nước thì không được đề cập đến. Trong khi đó ở Việt Nam tinh thần yêu nước

và tinh thần dân tộc lại là một truyền thống rất mạnh.

5. Tâm lý khinh rẻ nghề buôn. Tư tưởng xem nhẹ nghề buôn ở Nho giáo là sản

phẩm của quan điểm coi trọng “đạo” và “đạo đức”. Người quân tử lo không đạt đạo chứ

không lo nghèo. Không phải ngẫu nhiên mà Trung Hoa đã sản sinh ra một tầng lớp

thương nhân giỏi buôn bán tới mức cả thế giới đều biết tiếng. Trong khi đó, tâm lý khinh

rẻ nghề buôn ở Việt Nam là sản phẩm của truyền thống văn hoá nông nghiệp, của tính

cộng đồng và tính tự trị. Nó đã bám rễ vào suy nghĩ và tình cảm mỗi người, khiến cho

nghề buôn trong lịch sử Việt Nam không phát triển được, nó còn khái quát hoá thành

quan điểm: Dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt và đường lối trọng nông ức thương.

Tóm lại, sở dĩ Nho giáo Trung Hoa đã đựơc người Việt Nam dỡ ra, cải biến cho

phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống văn hoá của mình, rồi cấu trúc lại một cách tài

tình như thế là vì giữa Nho giáo Trung Hoa và văn hoá Việt Nam có những nét tương

đồng. Đó không phải là những cái gì khác mà là tinh hoa của văn hoá nông nghiệp

phương Nam mà Nho giáo nguyên thuỷ đã tiếp thu, nên khi vào ViệtNam, Nho giáo luôn

Nhóm 2 Page 21

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

phảng phất cái vừa lạ vừa quen rất đặc biệt. Như vậy, với tất cả những đặc điểm trên,

Nho giáo Việt Nam là một thứ Nho giáo mang bản sắc riêng khá độc đáo.

2.3. Ảnh hưởng của Nho giáo đối nền văn hóa - xã hội Việt Nam

2.3.1. Những ảnh hưởng tích cực:

Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội như

trên đã nói, cho nên trong buổi thịnh tự nhất, Nho giáo không khỏi có một số tác dụng

tích cực:

Trước hết là cương vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy thế góp

phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc

chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một quy mô hoàn chỉnh có

đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các xu thế phát triển đó đã và đang

giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trên các bình diện sản xuất và củng

cố quốc phòng.

Quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát triển nền kinh

tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà nước và của

một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Cho nên khi chiếm được vị trí chủ

đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự

phát triển này, làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn

trước.

Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của

xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết làm cho nền giáo dục phát triển hết sức

mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã

đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến

Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển.

Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần

thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập

thể, Nho giáo cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã

Nhóm 2 Page 22

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận

của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo,

nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.

2.3.2. Những ảnh hưởng tiêu cực:

Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn

liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của

giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định

nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào

ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những

người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến

Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực

ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng

và chứa đựng khả năng suy yếu sau này, cụ thể:

Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều

và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa

học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng

thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu

Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong

kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn

sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử

học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó

là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để

tiến vào con đường cử nghiệp. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và

yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực, không giải đáp

được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng. Hơn nữa, một

khi chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của Nho giáo đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt

đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong

Nhóm 2 Page 23

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì

nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.

Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức

đi sâu vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo

đã làm cho những người gia nhập tầng lớp nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực

sản xuất xã hội, chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các

tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thông.

2.4. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay

Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.

Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có

mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng

đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay

ảnh hưởng của nó vẫn còn. Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự

đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt

chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn

phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc

duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan

niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải

có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính

dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách

nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.

Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc

biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ

Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong

bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức

là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền

có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người

cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi

Nhóm 2 Page 24

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo

đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các

vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan

phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai

trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày

nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải

có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm

quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc

cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối

đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”. Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho

giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là: Một số người do quá “trọng đức”, “duy

tình” trong khi xử lý các công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ

cương phép nước và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối

hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của

phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều

người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ

quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi

hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ.

Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa

phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm

của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa

mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách

và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư

tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của

người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền

là biểu hiện của thói gia trưởng. Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một

cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa

vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và

hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội

Nhóm 2 Page 25

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là

gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông

chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia

đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia

trưởng”. Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề

trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà

nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu

con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là

quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè

phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động

được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất

cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người đã

đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến

cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc

cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia

đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng

trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ

nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà

không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình

đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội

phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi

càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một

người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan,

tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là

“học để làm quan”. Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng

nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động.

Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức

mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay. Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng,

Nhóm 2 Page 26

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

tư tưởng đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng

này ở hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định. Để xây dựng đạo đức

mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc

phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc

này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.

Nhóm 2 Page 27

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Kết luận

Học nhiều tri thức không có nghĩa là có đạo đức. Tri thức rất cần cho phát triển

nhân loại nhưng thiếu đạo đức thì xã hội sẽ rối loạn, nhân loại sẽ suy đồi. Khoa học kỹ

thuật tiến bộ rất nhanh trong thế kỷ 20, nên đời sống vật chất cải thiện rất nhiều. Nhưng

đời sống vật chất càng tiến bộ, thì mặt trái của xã hội tiêu dùng càng bộc lộ rõ, nền đạo

đức và quan hệ giữa người với người càng xấu đi, nhất là làm cho mọi người mất niềm

tin với nhau. Nho giáo từ hơn 2.500 năm trước đã thấy rõ được điều này. Cổ nhân từ xưa

đã có câu "Ôn có tri tân" (Nhắc lại việc cũ để ngẫm về chuyện thời nay), việc ôn lại các

giá trị, lời dạy của Nho giáo vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.

Tại Việt Nam, Nho giáo đã bản địa hoá, cung cấp các giá trị làm nền tảng cho nền văn

hoá Việt Nam để tạo nên một truyền thống tốt đẹp về tư tưởng, đạo đức và nếp sống. Đó

là ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm đạo đức của mỗi người đối với cộng đồng; là

sự hiếu học, coi trọng nhân tài, coi trọng người có học vấn và tôn sư trọng đạo; là sự tích

cực nhập thế, tích cực dấn thân vào các hoạt động xã hội; là việc coi trọng gia đình, trọng

tình nghĩa. Câu châm ngôn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" phổ biến ở các trường học tại

Việt Nam hiện nay chính là quan niệm giáo dục của Nho giáo.

Nhóm 2 Page 28

Tiểu luận môn Triết học GVHD: TS. Nguyễn Trung Dũng

Tài liệu tham khảo

1. Giáo sư Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ 19 đến

cách mạng tháng Tám, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996, Tập

1.

2. Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản thành phố Hồ

Chí Minh, năm 1997.

3.  Nguyễn Thanh Xuân - Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà

Nội năm 2005.

Nhóm 2 Page 29