Tonghop(tcbmnn)

56
BÀI TIỂU LUẬN MÔN: TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ĐỀ TÀI: CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ A. LỜI MỞ ĐẦU Theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy nhà nước ở nước ta đã không ngừng được củng cố và ngày càng hoàn thiện nhằm tăng cường quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Sau 37 năm thống nhất đất nước và 26 năm đổi mới, cùng với đà tăng trưởng kinh tế - xã hội, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tạo ra sự khác biệt về kinh tế - văn hóa – xã hội, nếp sống đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, do đối ngoại và theo quy định của pháp luật hiện hành thì chúng ta vẫn áp dụng một loại chính quyền chung cho tất cả các địa phương trong cả nước, đều tổ chức 3 cấp chính quyền và vẫn dựa trên cách thức quản lý của chính quyền nông thôn. Theo đó, chính quyền ở địa bàn đô thị chưa được quy định cụ thể mà vẫn phải “mặc chung áo” với các quy định về tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trong cả nước, đồng thời có thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý trên địa bàn đô thị, dẫn đến nhiều vấn đề cấp thiết của đô thị không được giải quyết kịp thời và cũng chưa phù hợp với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và

Transcript of Tonghop(tcbmnn)

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

ĐỀ TÀI: CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ

A. LỜI MỞ ĐẦU

Theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bộ máy nhà

nước ở nước ta đã không ngừng được củng cố và ngày càng hoàn thiện nhằm tăng cường

quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Sau 37

năm thống nhất đất nước và 26 năm đổi mới, cùng với đà tăng trưởng kinh tế - xã hội,

quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tạo ra sự khác biệt về kinh tế - văn hóa – xã hội,

nếp sống đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, do đối ngoại và theo quy định của pháp luật

hiện hành thì chúng ta vẫn áp dụng một loại chính quyền chung cho tất cả các địa phương

trong cả nước, đều tổ chức 3 cấp chính quyền và vẫn dựa trên cách thức quản lý của

chính quyền nông thôn. Theo đó, chính quyền ở địa bàn đô thị chưa được quy định cụ thể

mà vẫn phải “mặc chung áo” với các quy định về tổ chức và hoạt động của các cấp chính

quyền địa phương trong cả nước, đồng thời có thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý

trên địa bàn đô thị, dẫn đến nhiều vấn đề cấp thiết của đô thị không được giải quyết kịp

thời và cũng chưa phù hợp với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo

lãnh thổ. Bên cạnh đó, kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho chúng ta thấy rõ để thay “chiếc

áo quá chật” cần phải tìm ra “chiếc áo phù hợp” hơn là “mặc vội vàng một chiếc áo

mới”rồi chỉnh sửa, thêm bớt cho vừa vặn. Sự thành công không chỉ nằm ở việc có được

một “mẫu” chính quyền đô thị hoàn hảo mà còn ở cách vận hành bộ máy.

Từ thực trạng đã nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được vấn đề quan trọng và

cấp thiết hiện nay là xây dựng cơ sở khoa học cho mô hình chính quyền đô thị, lựa chọn

mô hình tổ chức chính quyền đô thị phù hợp với Việt Nam. Và đó cũng chính là lý do để

nhóm chúng em chọn đề tài: “tổ chức chính quyền đô thị ”.

B. NỘI DUNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ

1. Khái niệm

* Đô thị:

Có nhiều quan điểm khác nhau về đô thị:

- Theo từ điển bách khoa Việt Nam, đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng

người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.

- Theo giáo trình quy hoạch đô thị, ĐH Kiến Trúc, đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ

yếu là lao động phi nông nghiệp sống và làm việc theo kiểu thành thị.

- Luật quy hoạch đô thị 2009 của nước ta quy định đô thị là khu vực tập trung dân cư

sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là

trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy

sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao

gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.

Như vậy đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông

nghiệp, có hạ tầng kỹ thuật cơ sở thích hợp; là trung tâm chuyên ngành hay tổng hợp, có

vai trò thúc đẩy sự phát triển KTXH của một nước hoặc một vùng miền hoặc một tỉnh,

huyện, hoặc một vùng trong huyện.

* Chinh quyên đô thị:

Theo TS.Võ Trí Hảo (Khoa Luật kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM) thì chính quyền

đô thị là thuật ngữ để chỉ một mô hình chính quyền địa phương thành lập ở các đô thị,

dùng để phân biệt với mô hình chính quyền nông thôn.

Mô hình chính quyền đô thị là mô hình tập trung quản lý ở cấp thành phố.

2. Đặc điểm

Thứ nhất, được tổ chức rút gọn một số cấp chính quyền, nhưng vẫn bảo đảm khoảng

cách "nhân dân - chính quyền” không quá xa về mặt không gian.

Thứ hai, người đứng đầu chính quyền đô thị do dân bầu trực tiếp, hay nói cách khác

bộ máy chính quyền được tổ chức theo mô hình thị trưởng, đòi hỏi người đứng đầu chính

quyền chịu trách nhiệm trước dân cao hơn, cũng có thể bị phế truất trực tiếp bởi lá phiếu

của người dân.

Thứ ba, một trong những mục tiêu mà chính quyền đô thị hướng tới là bộ máy hành

chính được tinh giản đến mức tối đa. Người thủ trưởng đô thị sẽ có quyền quyết định

nhanh và tức thì nhiều vấn đề quan trọng với đô thị. 

Thứ tư, vai trò của người dân cũng được đề cập trong việc xây dựng chính quyền đô

thị hiện đại. Nhiều ý kiến cho rằng chính quyền đô hiện đại là "nhà nước thu nhỏ lại, tư

nhân phình ra", nhà nước chỉ làm chức năng quản lý, đề ra chính sách hợp lý, còn huy

động người dân tham gia phát triển TP; xây dựng trong người dân thói quen ứng xử đô

thị, tuân thủ luật pháp triệt để...

II. NỘI DUNG

1. Đánh giá hiện trạng tổ chức chinh quyên địa phương ở các đô thị nước ta

1.1. Việc thành lập , địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ quyên hạn, cơ cấu tổ

chức và phương thức hoạt động của HĐND và UBND

a) Đối với HĐND

- Mặt được:

+ HĐND quyết định những vấn đề quan trọng,tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành

kinh tế - xã hội ở địa phương. Các nghị quyết của HĐND được ban hành đẻ triển khai

thực hiện nhiệm vụ do cấp trên giao hoặc để cụ thể hóa các nghịu quyết của cấp ủy Đảng

cùng cấp chi phù hợp với thực tiễn, bảo đảm sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở

địa phương.

+ Hoạt động giám sát của HĐND đã có nhiều đổi mới cả về nội dung va hình thức,

góp phần thực hiện tốt hơn các chính sách, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của

HĐND trên địa bàn.

- Hạn chế, bất cập:

+ HĐND ban nghị quyết để thế chế hóa về mặt nhà nước các nghị quyết của cấp ủy

Đảng cùng cấp,, đồng thời HĐND với vai trò là cơ quan đại diện cho nhân dân địa

phương thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa

phương. Vì vậy, vai trò của +HĐND là rất quan trọng trong tổ chức chính quyền địa

phương, tuy nhiên trong thực tế ở huyện ở quận, phường( khu vực nội thành, nội thị) thì

vai trò cuả HĐND chỉ mang tính hình thức.

+ Vị trí pháp lý cuả HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương chưa rõ và

còn nhiều ý kiến khác nhau. Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở đia

phương còn nhiều hạn chế. +HĐND thường chỉ quyết nghị những vấn đề có tính thủ tục

hành chính để tguwcj hiện mà cấp trên hoặc cấp ủy cùng cấp đã quyết định. Hiệu lực,

hiệu quả của các hoạt động giám sát và đôn đốc, kiểm tra thực hiện các kiến nghị sau

giám sát chưa tốt(thiếu chế tào nếu các kiến nghị không được thực hiện).

+ Chất lượng đại biểu HĐND còn nhiều hạn chế cả về trình độ năng lực và kỹ năng

thực hiện nhiệm vụ. Việc bầu cử HĐND nặng về cơ cấu, chưa có các quy định phù hợp

để nhân dân tham gia ngay từ khâu lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND.

b) Đối với UBND:

- Mặt được:

+ UBND do HĐND cùng cấp bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành

chính nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà

nước cấp trên. Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính đã có nhiều đổi mới về tổ

chức, lề lối làm việc và phương thức quản lý, điều hành; chất lượng đội ngũ cán bộ công

chức và hiệu quả hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực từng bước được nâng cao.

+ UBND đã thể hiện được vai trò là cơ quan thực thi pháp luật ở địa phương, đề suất

để HĐND cùng cấp quyết định các chủ trương, chính sách phát triển địa phương; thực

hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và chỉ đạo điều hành các mặt kinh tế

xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Do đó hiệu lực, hiệu quả trên các lĩnh vực đã

được nâng cao.

+ UBND đã từng bước thực hiện có hiệu quả việc đẩy mạnh phân cấp các cấp chính

quyền địa phương, đặc biệt là các lĩnh vực đầu tư xây dựng, tài chính, ngân sách, quản lý

đô thị, tổ chức cán bộ, giáo dục, y tế.

- Hạn chế và bất cập:

+ Trong hoạt động của UBND chưa làm rõ những vấn đề phải do tập thể UBND thảo

luận, quyết định và những vấn đề do chủ tịch UBND quyết định nên đã hạn chế vai trò,

trách nhiệm của người đứng đầu, đặc biệt là ở đô thị đòi hỏi phải quyết định nhanh

chóng, kịp thời các vấn đề phát sinh trên địa bàn. Mặt khác, những vấn đề quan trọng ở

địa phương đã được tập thể cấp ủy và HĐND cùng cấp quyết định nên trong vai trò thực

tế của UBND chỉ là ban các biện pháp thực thi của nghị quyết của cấp ủy và của

HĐND, nếu quá đề cao vai trò của tập thể của UBND thì sẽ hạn chế hiệu lực, hiệu quả

trong việc thực thi pháp luật ở địa phương.

+ Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền và phương thức hoạt động của UBND các

cấp được lập quy định chung cho cả 3 cấp ( cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) đã hạn chế sự

chủ động của cấp dưới và hạn chế sự chủ đạo, quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên;

chưa phân biệt rõ sự khca nhau trong quản lý nhà nước giữa địa bàn đô thị và địa bàn

nông thôn.

+ Còn sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chuyên môn về một

số lĩnh vực nên khó xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan. Công tác phân cấp của bộ,

cơ quan trung ương đối với địa phương thiếu đồng bộ nên đã ảnh hưởng đến quản lý tập

trung, thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở.

1.2. Kết quả thực hiện thi điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo

nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội.

- Mặt được:

+ Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường đã đạt được mục

tiêu, yêu cầu của nghị quyết trung ương 5 khóa X; việc thí điểm là bước đi thích hợp

trong cải cách hành chính, đổi mới và hoan thiện chính quyền địa phương các cấp;quyền

dân chủ đại diện của người dân vẫn được đảm bảo thông qua hoạt động của đại biểu quốc

hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh,thành phố thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn.

+ Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ cấp tỉnh đến cơ

sở bảo đảm được tính thống nhất, thông suốt, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự phối

hợp đồng bộ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền; việc thực hiện nhiệm

vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội ở các địa phương

thực hiện thí điểm được đảm bảo.

+ Các địa phương thực hiện thí điểm và nhiều địa phương đã đề nghị sửa đổi Hiến

pháp 1992 để thực hiện trong cả nước việc không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.

- Hạn chế, bất cập:

+ Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường mới dừng lại ở việc

điểu chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND huyện, quận, phường. Ở nơi không tổ chức

HĐND vẫn duy trì mô hình tổ chức UBND, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ

thông qua các kỳ họp của UBND và quyết định theo đa số đã hạn chế vai trò của người

đứng đàu cơ quan hành chính trong việc xử lý, giải quyết của chính quyền trước các tình

huống và các vấn đề bức xúc trong quản lý đô thị.

+ Việc tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị của nhân dân trên địa bàn huyện, quận,

phường trước đây thông qua đại biểu HĐND cùng cấp, khi thực hiện thí điểm chưa có

quy định thống nhất giao cụ thể cho cơ quan, tổ chức nào làm đầu mối tiếp nhận; nội

dung giám sát của HĐND cấp tỉnh và cơ chế góp ý, tiếp thu, thực hiện sau giám sát còn

thiếu cụ thể.

2. Tổ chức chinh quyên đô thị

a) Quan điểm

Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương trên sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau giữa chính quyền ở địa

bàn đô thị và chính quyền ở địa bàn nông thôn, nhưng phải đảm bảo tính thống nhất,

thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ

sở.

Chính quyền địa phương là bộ máy do nhân dân lập ra, của nhân dân, phục vụ nhân

dân, chịu sự giám sát của nhân dân; tổ chức,hoạt động của chính quyền địa phương phải

đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp, đồng

thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan nha nước cấp trên và của Trung ương.

Tổ chức và hoạt động của chính quyển đô thị phải phù hợp với đội tượng quản lý,

yêu cầu và tính chất quản lý ở địa bàn đô thị, phù hợp với quá trình hình thành và phát

triển đô thị ở Việt Nam, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đô thị trong quà

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và chính quyền

đô thị nói riêng là vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ, có

quyết tâm chính trị và phải gắn vời quá trình cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

b) Mục tiêu, yêu cầu

Xây dựng bộ máy chính quyền đô thị tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,

phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cơ quan trong chính quyền đô thị, giữa

tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính.

Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nội dung của Đề án phải được chuẩn bị kỹ

lưỡng và có bước đi phù hợp để không ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ

thường xuyên của chính quyền địa phương các cấp.

Căn cứ trên kết quả của Đề án, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên

quan đển chính quyền địa phương nhằm tổ chức hợp lý chính quyền ở địa bàn đô thị phù

hợp với quy mô, tính chất của từng loại hình đô thị, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của hệ thống hành chính nhà nước

c) Nguyên tắc

Quán triệt nguyên tắc đổi mới trong cải cách hành chính nói chung, tổ chức và hoạt

động của chính quyền địa phương nói riêng, trước hết là đổi mới chính quyền đô thị bảo

đảm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong nhà nước đơn

nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất.

Đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với nhà nước nói chung, chính

quyền đô thị các cấp nói riêng; đổi mới đồng bộ tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ

chức đoàn thể và cơ quan tư pháp ở đô thị phù hợp với đổi mới tổ chức chính quyền địa

phương các cấp; đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cấp

chính quyền địa phương.

Cải cách toàn diện các lĩnh vực nhưng ưu tiên trong giai đoạn này là đẩy mạnh phân

cấp, ủy quyền và tăng cường tự quản cho địa phương và các đô thị trực thuộc tỉnh, tạo

động lực phát triển cho mỗi địa phương, mỗi vùng, miền và cả nước.

d) Một số phương án mô hình tổ chức chinh quyên đô thị hiện nay

Căn cứ đánh giá tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính quyền ở các đô thị

nói riêng ,kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện , quận, phường và các

yếu tố phân biệt sự khác nhau giữa chính quyền đô thị và nông thôn nêu trên có thể đưa

ra 3 phương án tổ chức chính quyền đô thị như sau:

* PHƯƠNG ÁN 1:

Thực hiện không tổ chức HĐND huyện, quận, phường trong cả nước; đồng thời để

khắc phục những hạn chế trong việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường

hiện nay, có thể đưa ra đề xuất mới là ở huyện, quận, phường cũng không tổ chức UBND

mà chỉ đặt cơ quan đại diện hành chính của cơ quan hành chính cấp trên tại địa bàn

huyện, quận, phường.

Theo phương án này thì ở khu vực nội thành, nội thị chỉ có một cấp chính quyền ( có

HĐND và UBND), không tổ chức cấp chính quyền ở các đơn vị hành chính trực thuộc

(quận, phường); khu vực ngoại thành, ngoại thị chỉ tổ chức cấp chính quyền ở xã ,thị trấn,

không tổ chức cấp chính quyền ở huyện. Ở các đơn vị hành chính quận, huyện, phường

không tổ chức cấp chính quyền ( không có HĐND và UBND) thì tổ chức cơ quan đại

diện hành chính của thành phố trên địa bàn quận, huyện và cơ quan đại diện hành chính

quận tại địa bàn phường. Cụ thể mô hình tổ chức chính quyền ở từng loại hình đô thị như

sau:

1. Đối với thành phố trực thuộc Trung ương

a) Chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương có HĐND và UBHC thành phố:

- Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND và cơ quan hành chính thành phố (UBHC)

+ Đối với HĐND

Vị trí, tính chất của HĐND thành phố: Là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp, chịu sự

chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Chính phủ trong bộ máy hành chính nhà nước thống nhất;

Là cơ quan đại diện cho nhân dân thành phố (không xác định HĐND là cơ quan quyền

lực nhà nước ở địa phương).

Chức năng của HĐND thành phố: Quyết nghị những chủ trương, chính sách, pháp

luật trên địa bàn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,…theo thẩm

quyền được phân cấp. Đại diện cho ý chí, nguyện vọng, và quyền làm chủ của nhân dân

thành phố; Quyết định những vấn đề riêng của đô thị, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của

người dân đô thị; Giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND, hoạt động của cơ quan

hành chính thành phố.

+ Đối với cơ quan hành chính thành phố (UBHC)

Vị trí, tính chất của UBHC thành phố: Là cơ quan chấp hành của HĐND thành phố;

Là cơ quan hành chính của thành phố, chịu sự chỉ đạo trực tiếp và toàn diện của Cính phủ

và sự giám sát của HĐND thành phố.

Chức năng của UBHC thành phố: Quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội trên địa bàn thành phố theo quy định của pháp luật; Tổ chức ung ứng các

dịch vụ công đáp ứng nhu cầu, lợi ích của nhân dân trên địa bàn thuộc thẩm quyền, trách

nhiệm theo quy định của pháp luật.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBHC thành phố:

+ Đối với HĐND thành phố: Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND

thành phố trên các lĩnh vực, nhất là trong quản lý và phát triển đô thị, làm rõ những đặc

thù khác với HĐND tỉnh. HĐND quyết nghi những vấn đề trên địa bàn toàn thành phố

theo phân cấp và ủy quyền, tập trung vào các vấn đề: Quy hoạch, ngân sách, tổ chức biên

chế, đầu tư trên địa bàn thành phố.

+ Đối với UBHC thành phố: Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo quy

định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật, nghị quyết của HĐND thành phố và các

nhiệm vụ, quyền hạn khác theo phân cấp, ủy quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ. Các nhiệm vụ, quyền hạn của UBHC thành phố có sự phân định rõ, khác với nhiệm

vụ, quyền hạn của UBHC tỉnh về những vấn đề liên quan đến quản lý và phát triển đô thị.

Phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của Chủ tịch UBHC thành phố với tập thể UBHC

thành phố theo hướng đề cao trách hiệm người đứng đầu là Chủ tịch UBHC thành phố.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBHC thành phố trực thuộc Trung

ương do Luật tổ chức chính quyền địa phương và các Luật chuyên nghành quy định.

- Cơ cấu tổ chức của HĐND và UBHC thành phố:

+ HĐND thành phố có Chủ tịch và 02 Phó Chủ tịch và 04 ban là Ban Kinh tế_ngân

sách, Ban Văn hóa_xã hội, Ban Pháp chế, Ban Đô thị (thành lập thêm). Tăng số lượng đại

biểu HDND thành phố cho phù hợp với cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và số đơn vị

hành chính trực thuộc không tổ chức HĐND (quận, huyện, phường); tăng đại biểu hoạt

động chuyên trách lên 1/3 tổng số đai biểu HĐND thành phố, tổ chức lại các Tổ đại biểu

HĐND thành phố ở các đơn vị trực thuộc nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ khi

không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.

+ UBHC thành phố đứng đầu là Chủ tịch UBHC do HĐND bầu (kết quả bầu cử do

Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn). UBHC thành phố có một số Phó Chủ tịch do HĐND

thành phố bầu và Chủ tịch UBHC thành phố đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn

hoặc do Chủ tịch UBHC thành phố bổ nhiệm (theo tinh thần Nghi quyết Trung ương 4

khóa XI). Cơ cấu thành viên UBHC thành phố có thể lựa chọn một trong mô hình: Mô

hình 1: UBHC gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và uỷ viên thư ký, không có các ủy viên

khác. Mô hình 2: UBHC gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Chánh văn phòng và người

đứng đầu các cơ quan chuyên môn của UBND.

+ Tổ chức lại các cơ quan chuyên môn và bộ máy giúp việc của UBHC thành phố

theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chuyên môn,

đặc biệt là các cơ quan mang tính đặc thù của đô thị và phân cấp cho HĐND thành phố tự

quyết định các cơ quan đặc thù này.

- Phương thức hoạt động của HĐND và UBND thành phố

+ Đối với HĐND thành phố

HĐND thành phố tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, hoạt động

theo chế độ tập thể, thảo luận, quyết định theo đa số tại kỳ họp của HĐND. Nâng cao

chất lượng các kỳ họp, cải tiến chất lượng chất vấn, trả lời chất vấn; Nâng cao chất lượng

tổng hợp ý kiến, chất lượng soạn thảo các nghị quyết, chất lượng các báo cáo thẩm tra

theo quy định. Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, các ban của HĐND,

đại biểu HĐND và quy định chế tài giải quyết các kiến nghị sau giám sát của HĐND

thành phố.

+ Đối với UBHC thành phố:

Trên cơ sở làm rõ các vấn đề bắt buộc phải đưa ra bàn và quyết định tập thể của

UBHC thành phố; các vấn đề do Chủ tịch UBHC thành phố được quyền quyết định để

quy định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của UBHC và của Chủ

tịch UBHC thành phố cho phù hợp ; đồng thời quy định các cơ quan chuyên môn tham

mưu, giúp việc cho Chủ tịch UBHC thành phố ( không quy định là cơ quan tham mưu,

giúp việc UBHC) nhằm đảm bảo hiệu quả điều hành, quản lý của Chủ tịch UBHC thành

phố theo cơ chế đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.

b) Đối với các đơn vị hành chính trong khu vực nội thành của thành phố trực thuộc

Trung ương ( quận, phường):

Các quận, phường ở nội thành không tổ chức HĐND, đồng thời cũng không tổ chức

UBHC mà chỉ đặt cơ quan đại diện hành chính quận, phường. Tên gọi của cơ quan hành

chính quận, phường có thể theo một trong hai phương án: 1.Ban đại diện hành chính

(quận, phường) 2.Vẫn giữ tên gọi UBHC nhưng tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ

trưởng hành chính.

- Vị trí, tính chất, chức năng của Ban đại diện hành chính: Không phải là một cấp

hành chính mà là cơ quan tản quyền ( đại diện UBHC thành phố đặt tại quận, phường) để

thực hiện các nhiệm vụ hành chính theo phân cấp và ủy quyền của UBHC thành phố. Ban

đại diện hành chính không phải là một cấp quy hoạch và cấp ngân sách; không có đội ngũ

công chức riêng mà là các công chức của UBHC thành phố cử xuống làm việc tại Ban đại

diện hành chính.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban đại diện hành chính quận, phường: Do Chủ tịch

UBHC thành phố quyết định trên cơ sở quy định của pháp luật và theo phân cấp, ủy

quyền của UBHC thành phố đối với quận và đối với phường. Ban đại diện hành chính và

người dứng đầu không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ được

ban hành một số loại văn bản cá biệt theo ủy quyền của cơ quan hành chính cấp trên.

- Cơ cấu tổ chức:

+ Ban đại diện hành chính quận là cơ quan đại diện ( thuộc cơ cấu) của cơ quan

hành chính thành phố, có con dấu, tài khoản riêng. Ban đại diện hành chính quận có

Trưởng ban do Chủ tịch UBHC thành phố bổ nhiệm ( theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương 4 khóa XI). Ban đại diện hành chính quận có các bộ phận tham mưu, giúp việc

Trưởng ban do Chủ tịch UBHC thành phố quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và biên chế công chức trên cơ sở đề nghị của Trưởng ban đại diện hành chính quận

( không tổ chức phòng chuyên môn ở quận như hiện nay mà thực hiện theo mô hình trong

cơ cấu của cơ quan hành chính quận có bộ phận hoặc công chức chuyên môn theo từng

lĩnh vực).

+ Ban đại diện hành chính phường là cơ quan đại diện ( thuộc cơ cấu) của Ban đại

diện hành chính quận ( Phương án 1) hoặc của UBHC thành phố ( Phương án 2) , có con

dấu, tài khoản riêng. Ban đại diện hành chính phường có Trưởng ban do Trưởng ban đại

diện hành chính quận bổ nhiệm ( Phương án 1) hoặc của UBHC thành phố (phương án

2), có 02 Phó Trưởng ban và các chức danh chuyên môn theo từng nhóm lĩnh vực công

tác do quận bổ nhiệm. Các công chức của phường thuộc cơ cấu công chức của quận

( theo phương án 1) hoặc của thành phố ( theo phương án 2)

c) Đối với thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương:

Phần nội thị của thị xã nâng cấp thành quận, ngoại thị thì sáp nhập với huyện khác.

d) Đối với huyện ngoại thành thuộc thành phố trực thuộc Trung ương:

Mô hình tổ chức thực hiện tương tự như quận ( không tổ chức HĐND và UBHC mà

chỉ đặt các Ban đại diện hành chính của thành phố tại huyện) để thực hiện các nhiệm vụ.

quyền hạn của UBHC thành phố được phân cấp, ủy quyền trên địa bàn huyện. Đối với xã,

thị trấn thuộc huyện vẫn tổ chức HĐND và UBHC như hiện nay ( chỉ đổi tên UBND xã ,

trị trấn thành UBHC xã, thị trấn).

2. Đối với thủ đô Hà Nội và TP.Hố Chí Minh:

Do tính chất đặc biệt về vị trí và quy mô của 2 Thành phố này nên có thể cân nhắc để

tổ chức theo một trong hai phương án sau:

- Phương án 1a: Nếu vẫn tổ chức đơn vị hành chính trực thuộc như hiện nay (quận,

huyện trực thuộc) thì áp dụng chung chung cho Thành phố trực thuộc Trung ương nêu

trên.

- Phương án 1b: Do tính đặc thù riêng quy mô quá lớn của 2 Thành phố này và để

đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai, cần nghiên cứu đề xuất theo hướng mỗi thành

phố không phải là một đô thị riêng lẻ mà là mô hình chum đô thị, trong đó có đô thị lõi và

các đô thị trực thuộc( thành phố nhỏ trong thành phố lớn).

Trên cơ sở đó nghiên cứu áp dụng mô hình chính quyền hai cấp, gồm cấp thành phố

và cấp thành phố trực thuộc. Trong đó, chính quyền các thành phố trực thuộc là cấp chính

quyền cấp cơ sở. Ban hành tiêu chuẩn thành lập thành phố lõi và thành phố vệ tinh trực

thuộc . Ở các quận nội thành đáp ứng ddue tiêu chuẩn của thành phố lõi thì tổ chức lại để

thành lập thành phố lõi ,tổ chức các Ban đại diện như các thành phố khác. Ở các quận

chưa đủ tiêu chuẩn của thành phố lõi và các huyện đang trong quá trình đô thị hóa từng

bước thành lập thành phố vệ tinh trực thuộc cho phù hợp.

3. Đối với thành phố thuộc tỉnh và thị xã thuộc tỉnh

Chính quyền thành phố, thị xã thuộc tỉnh có HĐND và UBHC. Các phường thuộc

khu vực nội thành, nội thị không tổ chức HĐND và UBHC mà chỉ đặt Ban đại diện hành

chính của UBHC thành phố, thị xã tại địa bàn phường. Các xã thuộc khu vực ngoại

thành, ngoại thị là cấp chính quyền (có HĐND và UBHC).

- Vị trí, tính chất, chức năng của HĐND và UBHC thành phố, thị xã thuộc tỉnh, xã

trực thuộc và vị trí, tính chất của Ban đại diện hành chính phường thực hiện tương tự như

tổ chức tương ứng ở thành phố trực thuộc Trung ương nêu trên ( cấp độ quản lý có hẹp

hơn so với thành phố trực thuộc Trung ương).

- Nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBHC thành phố, thị xã thuộc tỉnh về cơ

bản thực hiện như đối với HĐND và UBHC thành phố trực thuộc Trung ương nhưng

phạm vi, cấp độ quản lý hẹp hơn và do Luật tổ chức chính quyền địa phương, các luật

chuyên nghành quy định ( được xây dựng mới sau khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi được

ban hành).

- Cơ cấu tổ chức

+ HĐND thành phố, thị xã có Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 3 ban là Ban Kinh tế -

xã hôị, Ban Pháp chế, Ban Đô thị ( thành lập thêm). Tăng số lượng đại biểu HĐND thành

phố, thị xã cho phù hợp với cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và số đơn vị hành chính

trực thuộc không tổ chức HĐND phường ; tăng đại biểu hoạt động chuyên trách lên

khoảng 1/3 tổng số đại biểu HĐND; tổ chức lại các Tổ đại biểu HĐND thành phố, thị xã

ở các đơn vị trực thuộc nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, khi không tổ chức

HĐND phường.

+ UBHC thành phố, thị xã đứng đầu là Chủ tịch UBHC do HĐND bầu kết quả bầu

cử do Chủ tịch UBHC tỉnh phê chuẩn). UBHC có một số Phó Chủ tịch do HĐND thành

phố, thị xã bầu và Chu tịch UBHC thành phố, thị xã đề nghị Chủ tịch UBHC tỉnh phê

chuẩn hoặc do Chủ tịch UBHC thị xã bổ nhiệm ( theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4

khóa XI). Cơ c ấu thành viên UBHC thành phố, thị xã có thể lựa chọn một trong mô

hình : Mô hình 1 gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và ủy viên thư ký, không có các ủy viên

khác. Mô hình 2: UBHC gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch, chánh văn phòng và người

đứng đầu các cơ quan chuyên môn của UBND.

+ Tổ chức lại các cơ quan chuyên môn và bộ máy giúp việc của UBHC thành phố,

thị xã theo hứng xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chuyên môn, đặc biệt

là các cơ quan mang tính đặc thù của đô thị và phân cấp cho HĐND thành phố, thị xã tự

quyết định các cơ quan đặc thù này.

+ Đối với xã thuộc thành phố, thị xã thuộc tỉnh:

Vẫn tổ chức UBND và HĐND như hiện nay ( chỉ đổi tên UBND xã thành UBHC xã).

- Phương thức hoạt động của HĐND và UBHC thành phố , thị xã thuộc tỉnh được

thực hiện cơ bản như đối với thành phố trực thuộc Trung ương( cấp độ có hẹp hơn so với

thành phố trực thuộc Trung ương).

4. Ưu điểm,hạn chế của phương án

- Ưu điểm:

Kế thừa được những kết quả tích cực và khắc phục được những hạn chế, bất cập của

việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Bộ máy tổ chức. chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của chính quyền tinh gọn, thống nhất, thông suốt trên

địa bàn toàn đô thị. Xây dựng mô hình cơ quan đại diện hành chính tại huyện, quận,

phường là “ cánh tay nối dài” của cơ quan hành chính cấp trên và thực hiện chế độ bổ

nhiệm trong bộ máy hành chính sẽ nâng cao được trách nhiệm của người đứng đầu cơ

quan hành chính, tạo điều kiện để giải quyết nhanh chóng,kịp thời các vấn đề bức xúc

phát sinh trên địa bàn đô thị.

- Hạn chế:

Có nhiều thay đổi trong thực hiện chức năng giám sát của cơ quan dân cử trên địa

bàn toàn đô thị, đặc biệt ở huyện, quận, phường vừa không tổ chức HĐND vừa không tổ

chức UBHC mà chỉ đặt cơ quan đại diện hành chính của cơ quan hành chính cấp trên trên

địa bàn.

5. Điều kiện thực hiện phương án 1

Phải củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan dân cử để thực

hiện tốt chức năng của cơ quan dân cử trên địa bàn toàn đô thị. Thực hiện ác giải pháp

xây dựng, kiện toàn đồng bộ hệ thống chính trị ở địa phương ( tổ chức Đảng, đoàn thể,

cơ quan tư pháp) phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền đô thị.

* PHƯƠNG ÁN 2

Thực hiện không tổ chức HĐND ở tất cả các đơn vị hành chính thuộc đô thị

Theo phương án 2 tổ chức mô hình đô thị như sau:

1. Mỗi đô thị chỉ tổ chức một cấp chính quyền (HĐND và UBHC) , không tổ chức

chính quyền ở tất cả các đơn vị hành chính trực thuộc kể cả nội thành, nội thị và ngoại

thị, ngoại thành.

Theo đó chỉ tổ chức chính quyền (có HĐND và UBHC) ở các thành phố trực thuộc

Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã thuộc tỉnh. Ở các đơn vị hành chính quận huyện

xã phường, thị trấn trong thành phố trực thuộc Trung ương và xã phường thuộc thành

phố, thị xã thuộc tỉnh không tổ chức cấp chính quyền (không có HĐND và UBHC) , chỉ

có Ban đại diện hành chính thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp ủy quyền

của cơ quan hành chính cấp trên tại địa bàn.

2. Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn,mô hình tổ chức và phương thức

hoạt động của HĐND và UBHC, cơ quan đại diện hành chính theo mô hình 2 (Ban đại

diện hành chính hoặc UBHC) ở các đơn vị hành chính trực thuộc đô thị thực hiện như

phương án 1.

*Phương an tô chưc chinh quyên đô thi TP trưc thuôc trung ương theo phương an:

Mô hình 1:Co Ban đại diện tại cơ quan không tổ chức HĐND

Chú thích: Bầu ra

Bổ nhiệm

HĐND THANH PHÔ TRƯC THUÔC TRUNG ƯƠNG

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH

QUÂN

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH

HUYÊN

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH

PHƯƠNG

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH XA,

THI TRÂN

UBHC TP TRƯC THUÔC

TW

Môhình 2: Co UBHC tại nơi không tổ chức HĐND, song hoạt động theo cơ chế thủ

trưởng hành chinh

HĐND TP TRƯC

THUÔC TW

UBHC QUÂN UBHC HUYÊN

UBHC PHƯƠNG

UBHC XA,THI TRÂN

UBHC TRƯC THUÔC TW

*** Phương an tô chưc cơ quan chuyên môn thuôc chinh quyên đô thi TP trưc thuôc

trung ương theo phương an 2

Chú thích: chỉ đạo, điều hành trực tiếp

Hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ theo ngành

Môhình 1: Co Ban đại diện hành chinh nơi không tổ chức HĐND

UBHC THANH PHÔ

KHÔI CƠ QUAN TÔNG HƠP: THI

CHINH, THANH TRA, KÊ HOACH , NÔI VU,

TƯ PHAP

KHÔI CƠ QUAN QUAN LY CHUYÊN NGANH: QUAN LY ĐÔ THI (GTVT, TN&MT,XD).GIAO DUC- ĐAO TAO,Y TÊ,LAO ĐÔNG THƯƠNG BINH VA XA HÔI,VH-TT VA DL,TTTT, KHCN,NNPTNT

VĂN PHONG

UBHC TP

CAC PHONG CHUYÊN MÔN

VĂN PHONG

BAN ĐAI DIÊN HC QUÂN,

HUYÊN

CAC CÔNG CHƯC

CHUYÊN MÔN

BÔ PHÂN DICH VU HANH CHINH CÔNG:

CÔNG CHƯC CHUYÊN MÔN NGHIÊP VU QUAN LY CHUYÊN NGANH

CÔNG CHƯC GIUP VIÊC, PHUC VU KHAC

CƠ QUAN ĐAI DIÊN XA , PHƯƠNG THI

TRÂN

Môhình 2: Co UBHC tại nơi không tổ chức HĐND, song hoạt động theo cơ

chế thủ trưởng

UBHC THANH PHÔ

KHÔI CƠ QUAN TÔNG HƠP: THI CHINH, THANH TRA, KÊ HOACH , NÔI VU, TƯ PHAP

VĂN PHONG UBHC TP

KHÔI CƠ QUAN QUAN LY CHUYÊN NGANH: QUAN LY

ĐÔ THI (GTVT, TN&MT,XD).GIAOD

UC- ĐAO TAO,Y TÊ,LAO ĐONG

THƯƠNG BINH VA XA HÔI,VH-TT VA

DL,TTTT, KHCN,NNPTNT

UBHC QUÂN ,HUYÊN

VĂN PHONG CAC CÔNG CHƯC

CHUYÊN MÔN

• BÔ PHÂN DICH VU HANH CHINH CÔNG:

• CÔNG CHƯC CHUYÊN MÔN NGHIÊP VU QUAN LY CHUYÊN NGANH

• CÔNG CHƯC GIUP VIÊC, PHUC VU KHAC

UBHC XA, PHƯƠNG , THI TRÂN

CAC PHONG CHUYÊN MÔN

***Phương an tô chưc chinh quyên đô thi thanh phô, thi xa thuôc tinh theo phương

an 2

Chú thích: Bầura

Bổ nhiệm

Chỉ đạo,hướngdẫnhoạtđộng

Môhình 1: Co Ban đạị diệnhànhchinhnơikhôngtổ chức HĐND

HĐND TINH UBHC TINH

HĐND THANH PHÔ THI XA THUÔC

TINH

UBHC THANH PHÔ THI XA THUÔC TINH

BAN ĐAI DIÊN HC PHƯƠNG

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH XA

Môhình 2:

*** Sơ đô cơ quan chuyên môn giup việc cho thủ trưởng

* PHƯƠNG ÁN 3

Phương án 3: tổ chức chính quyền đô thị theo mô hình thị trưởng

Thiết lập cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố trực thuộc Trung ương và thành phố, thị xã thuộc tỉnh là tòa Thị chính và đứng đầu là Thị trưởng ( có các cơ quan chuyên môn giúp việc thuộc Thị trưởng)

THI TRƯỞNG

VĂN PHONG THI

TRƯỞNG

CƠ QUAN CHUYÊN MÔN:THANH TRA,SỞ NOI VU, SỞ TƯ PHAP, SỞ XÂY DƯNG , SỞ GT –CC, SỞ CÔN THƯƠNG, SỞ NÔNG NGHIÊP, SỞ TAI NGUYÊN MÔI TRƯƠNG, SỞ KHCB –BCVT, SỞ KH-ĐT, SỞ TAI

CHINH,SỞ GD-ĐT, SỞ TBLĐ VA XH, SỞ Y TÊ, SỞ VHTT, SỞ NGOAI VU

HĐND THANH PHÔ THI XA THUÔC

TINH

UBHC THANH PHÔ THI XA THUÔC TINH

UBHC PHƯƠNG UB HANH CHINH XA

HĐND TINH UBHC TINH

1. Đối với thành phố trực thuộc Trung ương thì co HĐND, Toàn Thị chinh và Thị trưởng

a. Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND, Tòa Thị chính và Thị trưởng- HĐND: giống phương án 1- Tòa Thị chính: là cơ quan hành chính của thành phố thuộc Trung ương, thuộc hệ thống

hành pháp, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, thủ tướng chính phủ.- Thị trưởng: là người đứng đầu tòa thị chính, thực hiện chế độ thị trưởng tức là chuyển từ

chế độ lãnh đạo tập thể của UBND hiện nay sang chế độ lãnh đạo và chịu trách nhiệm cá nhân của Thị trưởng( chế độ thủ trưởng hành chính). Thị trưởng có thể do cử tri thành phố trực tiếp bầu ra hoặc do HĐND thành phố bầu, chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước HĐND và nhân dân thành phố về mọi hoạt động của bộ máy hành chính thành phố .

b. Cơ cấu tổ chức của chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương: Sơ đồ chính quyền thành phố trực thuộc tw

THI TRƯỞNG

VĂN PHONG THI TRƯỞNG

Cơ quan chuyên môn trực thuộc Thị trưởng

1. Thanh tra thành phố2. Sở Tư pháp3. Sở Nội vụ4. Sở Xây dựng5. Sở GT – CC6. Sở Công thương7. Sở Tài nguyên MT8. Sở KHCN – BCVT9. Sở Kế hoạch và Đầu tư10. Sở Tài chính11. Sở GD-ĐT12. Sở LĐTB và XH13. Sở y tế14. Sở văn hóa -thể thao15. Sở Ngoại vụ16. Sở Nông nghiệp.

- HĐND thành phố do cử tri thành phố trực tiếp bầu ra; cơ cấu tổ chức HĐND như phương án 1.

- Tòa thị chính do Thị trưởng đứng đầu, cơ cấu tổ chức theo 2 mô hình: Mô hình 1: thị trưởng do HĐND bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Kết quả bầu, miễn

nhiệm và bãi nhiệm do Thủ Tướng Chính phủ phê chuẩn. Trong mô hình này Tòa Thị chính như UBHC, là cơ quan chấp hành của HĐND nhưng có khác là Thị trưởng thực hiện theo chế độ thủ trưởng hành chính (không phải chế độ tập thể như UBHC), Thị trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Tòa thị chính trước HĐND.

Mô hình 2: Thị trưởng do cử tri thành phố trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân thành phố ( không do HĐND cùng cấp bầu và cũng không phải phê chuẩn kết quả bầu cử như hiện nay). Thị trưởng thực hiện các cam kết khi tranh cử phù hợp với Nghị quyết của HĐND thành phố . trường hợp Thị trưởng thực hiện các nhiệm vụ không phù hợp với Nghị quyết HĐND thành phố thì HĐND thành phố bỏ phiếu bất tín nhiệm như nêu ở trên, nếu số phiếu không quá bán thì Thị trưởng có quyền giải tán HĐND để cử tri thành phố bầu HĐND mới ( cơ chế kiểm soat va cân bằng quyên lưc giữa HĐND va Thi trưởng )

- Trong cả hai mô hình, tùy theo số dân và diện tích, Tòa Thị chính có từ 3 đến 4 Phó Thị trưởng do thị trưởng bổ nhiệm. Phó thị trưởng được Thị trưởng ủy quyền quản lý một số nhóm lĩnh vực.

HĐND THANH PHÔ TRƯC THUÔC TW

TOA THI CHINH THANH PHÔ

QUÂN TRƯỞNG

TRƯỞNG PHƯƠNG

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH

QUÂN

BAN ĐAI DIÊN HANH CHINH

PHƯƠNG

HUYÊN TRƯỞNG

BAN ĐAI DIÊN HC HUYÊN

HĐND XA, THI

TRÂN

CQ HC XA, THI TRÂN

TRƯỞNG THI

TRÂN

- Tổ chức lại hệ thống cơ quan chuyên môn trực thuộc thị trưởng phù hợp với chức năng đô thị và cơ chế thủ trưởng hành chính( theo nhóm ngành).

c. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, Tòa thị chính và Thị trưởng- Nhiệm vịu, quyền hạn của HĐND thành phố về cơ bản như phương án 1. Riêng đối với

Thị trưởng thực hiện theo mô hình 2 (cử tri thành phố trực tiếp bầu Thị trưởng) thì HĐND có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thị trưởng (nếu số phiếu quá bán thì Thị trưởng phải từ chức để cử tri thành phố bầu Thị trưởng mới).

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa Thị chính và Thị trưởng: chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND thành phố và những nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp hoặc ủy quyển của Chính Phủ,Thủ tướng Chính Phủ. Riêng đối với nhiệm vụ, quyền hạn của Thị trưởng theo mô hình 2 (cử tri thành phố trực tiếp bầu Thị trưởng) thì Thị trưởng còn có quyển giải tán HĐND (HĐND bị giải tán và cử tri thành phố bầu trực tiếp HĐND mới).

- Nhiệm vụ,quyền hạn cụ thể của HĐND, Tòa Thị chính và Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương do Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định (được xây dựng mới sau khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi được ban hành ) nếu phương án này được thông qua.

d. Phương thức hoạt động:- Đối với HĐND thành phố: như Phương án 1.- Đối với Tòa Thị chính và Thị trưởng: hoạt động theo chế độ thủ trưởng hành chính. Thị

trưởng hoạt động theo nguyên tắc cá nhân về các quyết định của Tòa Thị chính và của cá nhân Thị trưởng. Trường hợp thực hiện theo mô hình 1 (Thị trưởng do HĐND bầu ra) thì Thị trưởng còn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa Thị chính và Thị trưởng trước HĐND thành phố.

2. Đối với các đơn vị hành chinh thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.

a) Đối với thị xã thực hiện phương án 1 (không tổ chức hành chính là thị xã trong thành phố trực thuộc Trung ương).

b) Đối với quận, phường thực hiện tương tự Phương án 1, trong đó người đứng đầu cơ quan đại diện hành chính được gọi là Quân trưởng; người Quận trưởng do Thị trưởng thành phố bổ nhiệm và chỉ đạo trực tuyến. Trưởng phường do Quận trưởng bổ nhiệm và chỉ đạo trực tuyến.

c) Đối với huyện ngoại thành: thực hiện tương tự Phương án 1, trong đó người đứng đầu cơ quan đại diện hành chính được gọi là Huyện trưởng do Thị trưởng thành phố bổ nhiệm và chỉ đạo trực tuyến.

d) Đối với xã, thị trấn thuộc huyện ngoại thành: vẫn có tổ chức HĐND và cơ quan hành chính xã, thị trấn (hoạt động theo chế độ thủ trưởng hành chính). Theo đó người đứng đầu cơ quan hành chính xã gọi là Xã trưởng, người đứng đầu cơ quan hành chính Thị trấn gọi là Trưởng Thị trấn. Hai chức danh này do HĐND bầu hoặc do nhân dân bầu trực tiếp. Cơ chế kiểm soát quyền lực tương tự như đối với cấp thành phố trực thuộc Trung ương.

3. Đối với thành phố thuộc tỉnh và thị xã thuộc tỉnh.

Sơ đồ chính quyền thành phố thuộc tỉnh và thị xã thuộc tỉnh

a) Thành phố, thị xã thuộc tỉnh: tổ chức mô hình HĐND, Tòa Thị chính và Thị trưởng tương tự như thành phố trực thuộc Trung ương nêu trên (phạm vi hẹp hơn và cơ cấu tổ chức tỉnh thu gọn hơn so với thành phố trực thuộc Trung ương).

b) Đối với các đơn vị trực thuộc thành phố, thị xã:

- Đối với phường: tổ chức cơ quan đại diện hành chính của Tòa Thị chính thành phố, thị xã thuộc tỉnh tương tự như phường thuộc quận trong thành phố trực thuộc Trung ương nêu trên của phương án này.

- Đối với xã: vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động như xã thuộc huyên trong thành phố trực thuộc Trung ương nêu trên.

4. Ưu điểm hạn chế của phương án 3 .a) Ưu điểm: thay đổi cơ bản mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của chính quyền

địa phương trên cơ sơ phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn theo mô hình chính quyền đô thị hiện đại của nhiều nước trên thế giới. Ap dụng hình thức tổ chức mới (Thị trưởng, Tòa Thị chính) gắn với đổi mới cơ bản và đồng bộ về phương thức tổ chức, hoạt động của chính quyển đô thị. Nâng cao được hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, rõ chế độ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, phù hợp với hoạt động quản lý, điều hành.

b) Hạn chế: dễ dẫn đến tình trạng độc đoán chuyên quyền, quan liêu của người đứng đầu (Thị trưởng) nếu không có cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu. Thiết lập định chế mới trong chính quyền đô thị (Tòa Thị chính, Thị trưởng, Quận trưởng,Huyện trưởng, Trưởng phường, Xã trưởng, Trưởng thị trấn) là vấn đề mới mẻ trong tổ chức chính quyền địa phương, chưa có tiền lệ trong lịch sử tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, vì vậy khó tạo sự đồng thuận về phương án tổ chức.

5. Điêu kiện thực hiện phương án 3 : phải thay đổi đồng bộ và toàn diện phương thức hoạt động của hệ thống chính trị ở địa Phuong, nhất là cơ chế lựa chọn, bổ nhiệm và bầu cử(cử tri bầu trực tiếp HĐND và bầu trực tiếp Thị trưởng) trong bộ máy chính quyền địa phương.

3. Phân biệt

Vê cơ cấu tổ chức

Thành phố sẽ là cấp chính quyền hoàn chỉnh, các thành phố trực thuộc và thị xã có

Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính (hay Thị trưởng). Ở các quận-huyện, phường

không tổ chức Hội đồng nhân dân, chỉ có Ủy ban hành chính thực hiện một số chức năng

nhiệm vụ có tính chất đại diện của cơ quan hành chính thành phố, đóng vai trò trung gian,

đảm bảo hiệu quả quản lý.

Đối với khu vực nông thôn trong đô thị thì ở cấp huyện chỉ tổ chức cơ quan quản lý

hành chính. Ở các xã, thị trấn sẽ có cấp chính quyền hoàn chỉnh hoặc chỉ có Ủy ban hành

chính. Chức năng, nhiệm vụ sẽ được xác định phù hợp với đặc điểm và quy mô của địa

bàn.

Chức năng, nhiệm vụ và quyên hạn của các sở - ngành được điều chỉnh từ chủ

yếu là cơ quan tham mưu thành cơ quan quản lý nhà nước theo luật định đối với lĩnh vực

được phân công. Giám đốc sở có quyền ra quyết định quản lý, chỉ đạo điều hành thực

hiện quy hoạch, kế hoạch ngành của thành phố và được giao trực tiếp quản lý, sử dụng

đội ngũ công chức theo ngành dọc từ thành phố đến cơ sở, khắc phục tình trạng đùn đẩy

công việc có tính chất sự vụ lên Ủy ban thành phố.

Đô thị có đặc trưng cơ bản khác với nông thôn bởi mật độ dân số cao, kết cấu dân cư

phức hợp, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội có tính liên thông, đồng bộ,

không chỉ phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quận, mỗi phường...

Việc quản lý đô thị không chỉ đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và liên thông mà còn đáp

ứng các nguyên tắc quản trị đô thị với hàng loạt mối quan tâm cụ thể nhằm vận hành

quản lý các công việc của đô thị theo thẩm quyền, chế độ trách nhiệm, sự minh bạch và

sự tham gia của nhân dân.

Đô thị như một thực thể sống và vận động trong khuôn khổ của hệ thống kinh tế, xã

hội, môi trường; không chỉ có thể chế nhà nước mà còn có yếu tố thị trường và cộng

đồng; không chỉ có không gian địa phương mà còn là không gian mở đối với cả nước và

toàn cầu. Đô thị còn là trung tâm của các chuyển biến về kinh tế - xã hội, là điểm kết nối

và lan tỏa về giao thông, truyền thông và tri thức.

Việc thiết kế chinh quyên đô thị tuân theo nguyên tắc chủ thể quản lý phải phù hợp

với khách thể (đối tượng quản lý) nhằm đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước, phù hợp với điều kiện vận hành của cơ chế thị trường và xu hướng hội

nhập quốc tế. Chính quyền đô thị sẽ nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, huy động

mọi nguồn lực cho sự phát triển bền vững theo hướng văn minh, hiện đại.

Để phát huy vai trò đầu tàu và tiềm lực của đô thị trong vùng kinh tế trọng điểm,

chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa phân cấp theo hướng tăng thẩm quyền về quy hoạch, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức bộ máy quản lý (chủ động trong tổ chức các cơ

quan chuyên môn trực thuộc, biên chế, sắp xếp nhân sự và chế độ trả lương cho cán bộ

công chức viên, viên chức trong bộ máy hành chính), ngân sách nhà nước và quyền lập

quy phù hợp với yêu cầu phát triển và quản lý đô thị để thành phố có thể chủ động hơn

đồng thời chịu sự giám sát của chính phủ và nhân dân thành phố.

Môt sô căn cư để thiết kế chinh quyên đô thi khac biệt với chinh quyên nông thôn

- Vai trò:

Chính quyền đô thị với tư cách là các đầu tàu, động lực, các cực tăng trưởng kinh tế,

thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước đều vươn lên về năng suất lao động, thu

nhập của người dân, đóng góp cho ngân sách trung ương, bảo đảm an sinh xã hộithực

hiện nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của chính quyền

địa phương như chủ trương của Đảng sẽ có điều kiện thực tế để triển khai.

Còn ở các đô thị nông thôn do hạn chế về nhiều mặt nên không đáp ứng được vai trò

này, vi dụ: các tỉnh ở tây nguyên: giao thông không thuận lợi, không giao lưu với các

nước 1 cách thuận lợi nên không thể là nơi phát triển kinh tế, thúc đẩy đất nước. bên cạnh

đó, dân trí thấp, không để đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, của nhà nước đi vào

thực tế.

-Vê hạ tầng:

Chính quyền Đô thị là nơi cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội phát triển có tính liên

thông, đồng bộ. Chính cơ sở hạ tầng liên thông, đồng bộ này góp phần làm cho mỗi đô thị

trở thành một cơ thể sống có tính thống nhất, không thể chia cắt một cách giản đơn. Sự

“chia ranh giới” để quản lý theo quận, phường phải tôn trọng tính đồng bộ, liên thông

này. Ngoài ra, đô thị cũng thường có lợi thế về “giao thông, về bộ máy quản lý cùng đội

ngũ cán bộ công chức vận hành một cách chuyên nghiệp, bài bản. Còn chính quyền địa

phương có nhiều bất cập, hạn chế hơn.

- Mật đô dân sô:

Ở đô thị thường rất cao. Số lượng người dân tập trung sinh sống ở các đô thị thường

rất lớn. Điều này tất yếu phát sinh nhiều vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật

tự, cơ sở hạ tầng cần phải giải quyết.

4. Các mô hình thi điểm chinh quyên đô thị ở Việt Nam

Điểm cần nhấn mạnh ở đây là mô hình tổ chức chính quyền áp dụng thống nhất cho

toànbộ Việt Nam, không có bất kỳ sự điều chỉnh nào cho những điểm đặc thù do sự khác

biệt về vị trí hay cộng đồng dân cư hoặc năng lực của các chủ thể quản lý ở mỗi cấp. Mô

hình tổ chức chính quyền địa phương được áp dụng cho TP. HCM chẳng hạn, không

khác gì mô hình tổ chức chính quyền cho nông thôn Sơn La, mặc dù Sơn La có diện tích

là 14.200 km2, so với diện tích của TP. HCM 2.100 km2. Dân số Sơn La ít hơn 1,1 triệu

người, mật độ dân cư là 76 người/km2. Ngược lại TP. HCM có dân số gần 8 triệu, mật độ

dân số là trên 3.500 người/km2. Mặc dù có đặc điểm trái ngược như vậy nhưng mô hình

tổ chức chính quyền của hai địa phương này là hoàn toàn như nhau. Điều rõ ràng, đặc

biệt đối với đô thị tập trung đông dân, các chức năng và trách nhiệm của các tổ chức, bộ

phận khác nhau trong chính quyền địa phương ba cấp - chưa kể cấp chính quyền trung

ương - có khuynh hướng trùng lặp (theo chiều dọc và/hoặc theo chiều ngang), với các

quyết định chính yếu thường yêu cầu có sự đồng ý ở mỗi cấp chính quyền tương ứng là

tỉnh/thành phố, huyện/quận, xã/phường. Điều phức tạp này sau đó có thể gây ra các khó

khăn và rắc rối cho người dân với tư cách là những “người tiêu dùng” các dịch vụ và các

thủ tục hành chính của chính quyền địa phương cũng như làm chậm trễ và tăng thêm chi

phí cho các tổ chức của chính quyền địa phương với tư cách là “người cung cấp dịch vụ”.

* Cac đê an vê thi điểm mô hình chinh quyên đô thi

Năm 2006 - 2007, TP. HCM đã đầu tư nghiên cứu đề án thí điểm chính quyền đô

thị trình Trung ương, nhưng cho đến nay đề án thí điểm vẫn chưa được Quốc hội, Chính

phủ thông qua. Cùng với TP. HCM, năm 2009, Đà Nẵng cũng tiến hành nghiên cứu đề án

thí điểm mô hình chính quyền đô thị cho Đà Nẵng và đến nay đề án này cũng chưa được

Quốc hội, Chính phủ chấp nhận. Mô hình đề xuất năm 2012 của TP. HCM chuyển một số

quận và phường nội thành vào cấp hành chính trung gian, giảm một số cấp quản lý địa

phương dưới cấp thành phố. Các quận ngoại thành có hai cấp quản lý. Mô hình đề xuất

được minh hoạ như trong sơ đồ 2.1 dưới đây.

Sơ đồ 2.1. Tổ chức Chính quyền đô thị theo mô hình đề xuất

Mỗi cấp chính quyền đầy đủ có: i) cơ quan dân cử (HĐND) và cơ quan hành chính

(UBND); ii) có tư cách pháp nhân, có ngân sách riêng; iii) cơ cấu tổ chức bộ máy và nhân

sự để triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cấp hành chính trung gian không có HĐND, không

có tư cách pháp nhân, chỉ có cơ quan hành chính nhằm thực hiện các chức năng do chính

quyền cấp trên giao. Theo mô hình đề xuất, TP. HCM có cấp thành phố, khu (thị xã), xã

có HĐND và UBND, các cấp còn lại chỉ là cấp hành chính trung gian. Trong đề án, quy

định có 13 quận nội thành (quận 1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp,

Tân Bình, Tân Phú) là cấp hành chính trung gian. Địa bàn đang đô thị hóa: gồm 06 quận

(quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Bình Tân) và 02 huyện (Hóc Môn và Nhà Bè). Địa bàn nông

thôn: bao gồm 3 huyện (Cần Giờ, Củ Chi, Bình Chánh).

Đối với 13 quận nội thành cũ, Chính quyền đô thị TP. HCM được tổ chức thành 02

cấp chính quyền hoàn chỉnh: cấp TP. HCM và cấp đô thị trực thuộc TP. HCM, không có

HĐND và do chính quyền đô thị cấp TP. HCM trực tiếp quản lý. Dưới cấp hành chính

quận sẽ tổ chức UBND cấp phường. Công chức phường là công chức của quận được

phân bổ trên địa bàn phường.

Đối với địa bàn đang đô thị hóa, đây là địa bàn đô thị mới và đang đô thị hóa thuộc

06 quận và 02 huyện được tổ chức thành các khu đô thị với một cấp chính quyền đô thị

hoàn chỉnh trực thuộc chính quyền đô thị cấp TP. HCM. Trên địa bàn này dự kiến tổ

chức thành 4 khu đô thị: khu đô thị Đông, Nam, Tây, Bắc. Mỗi khu đô thị là một cấp

chính quyền đô thị, trực thuộc chính quyền đô thị TP. HCM. Những khu vực này có cơ

cấu giống như năm đô thị trực thuộc trung ương. Dưới cấp này là UBND cấp phường/xã.

Cấp chính quyền đô thị này ngang bằng cấp quận, nhưng họ có một cấp chính quyền nữa

ở dưới.

Đà Nẵng đề xuất hai mô hình chính quyền đô thị. Tuy nhiên, mục đích của cả hai mô

hình là để phát triển kinh tế - xã hội và phát triển không gian đô thị Đà Nẵng. Theo đó, đề

án đề xuất mỗi cấp chính quyền hoàn chỉnh có những đặc điểm chính sau đây: có cơ quan

dân cử và cơ quan hành chính hoàn chỉnh; có tư cách pháp nhân; có ngân sách riêng; cơ

cấu tổ chức bộ máy và nhân sự để triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cấp hành chính trung

gian không có cơ quan dân cử, không có tư cách pháp nhân, chỉ có cơ quan hành chính

nhằm tổ chức thực hiện một số chức năng quản lý được chính quyền cấp trên giao cho.

Bộ Nội vụ quản lý nội dung này và kết hợp với Văn phòng Chính phủ để tập hợp các

bộ ngành phát triển một phương hướng cụ thể. Sau rất nhiều hội thảo để lấy ý kiến

chuyêngia và lãnh đạo các bộ ngành, Bộ Nội vụ đã hoàn thành báo cáo về mô hình tổ

chức chính quyền đô thị và trình bày báo cáo tại hội nghị ngày 24 - 25 tháng 12 năm

2012.

Sơ đồ 2.2. Đề xuất mô hình tổ chức chính quyền đô thị cho Đà Nẵng năm 2012

(Không có HĐND quận, huyện, phường, xã)

5. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRÊN THẾ

GIỚI VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ CỦA MỘT SỐ QUỐC

GIA

*** CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI

Trên thế giới hiện nay đang tồn tại nhiều mô hình tổ chức chính quyền địa phương khác

nhau, nhưng có thể phân thành 4 loại chủ yếu sau:

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc phân quyền. Đây chính là

mô hình chính quyền tự quản địa phương. Điển hình cho mô hình này là Anh, Mỹ và các

nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, nơi thực hiện nguyên tắc phân quyền theo lãnh

thổ triệt để nhất. Theo Hiến pháp Liên bang và Hiến pháp hơn 40 bang ở Mỹ, tổ chức và

hoạt đông của các tổ chức tự quản địa phương do các địa phương tự quy định nên rất tự

do, đặc biệt đối với các đô thị, cách thức tổ chức và thảm quyền của chúng rất đa dạng,

không theo một khuôn mẫu nào. Trong mô hình này ở chính quyền tự quản địa phương

không có đại diện chính quyền Trung ương hay chính quyền bang. Chức năng quản lí các

chính quyền địa phương nói chung, chính quyền tự quản địa phương nói riêng thường

giao cho một bộ chuyên trách ở Trung ương, có nơi là Bộ Nội vụ, có nơi là Bộ về chính

quyền địa phương.

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc tập quyền. Hiện còn rất ít

quốc gia theo mô hình này, như ArapXeut, Brunay, Cô-oet, Kenya,… Mô hình này có

đặc điểm là chính quyền địa phương do Trung ương đặt ra, trực tiếp bổ nhiệm nhân sự

hoặc có phân cấp và nằm trong hệ thống hành chính nhà nước thông suốt thống nhất từ

trung ương đến cơ sở. Bên cạnh việc thực hiện chức năng quản lí của nhà nước Trung

ương, các cơ quan chính quyền địa phương còn thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở

địa phương. Mô hình kiểu quân quản này thường tồn tại trong các nước đang có chiến

tranh hay thời kí hậu chiến. Hiện nay mô hình này có lúc có nơi còn tồn tại ở một vài

nước đang phát triển. cùng với xu hướng dân chủ hóa, mô hình này đang thu hẹp phạm vi

áp dụng.

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc kết hợp tản quyền và phân

quyền: Đặc trưng của mô hình này là trong một địa phương đồng thời tồn tại hai bộ máy

chính quyền: i) Cơ quan đại diện của chính quyền trung ương ở địa phương với bộ máy

rất gọn có nhiệm vụ chính là giám sát chính quyền tự quản địa phương, đảm bảo sự thống

nhất của chính sách quốc gia. ii) bộ máy chính quyền tự quản địa phương, gồm cơ quan

Hội đồng địa phương có chức năng quyết định những vấn đề riêng có của địa phương, do

người dân địa phương yêu cầu và cơ quan hành chính địa phương, trực thuộc Hội đồng

địa phương để thực hiện những nhiệm vụ do Hội đồng địa phương đề ra. Điển hình của

mô hình này là Pháp, Italia, Ai Cập…CHLB Đức tuy là theo chế độ tự quản địa phương

nhưng cũng có yếu tố tản quyền ở cấp hành chính cao nhất.

Trong cả ba loại mô hình trên, về tổ chức bộ máy hành chính (hành pháp) đều áp

dụng thiết chế thủ trưởng hành chính (tỉnh trưởng, thị trưởng, xã trưởng…); trong đó

người đứng đầu hành chính có thể do dân bầu trực tiếp hay do Hội đồng địa phương bầu

ra hoặc cũng có thể do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, tùy theo đặc điểm, truyền thống

của từng quốc gia.

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình ở các

nước xã hội chủ nghĩa cũ và Trung Quốc, Việt Nam hiện nay. Có thể gọi nó là mô hình

Xô Viết. Ở mỗi cấp hành chính lãnh thổ, cả ở thành thị lẫn nông thôn đều thành lập các

Xô viết, là cơ quan chính quyền địa phương, vừa đại diện cho địa phương, vừa đại diện

cho nhà nước trung ương, tạo thành hệ thống thứ bậc trực thuộc trên dưới. Xô viết tối cao

là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước (như Quốc hội), các Xô viết địa phương là cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương (như hội đồng nhân dân). Mỗi Xô viết đều bầu ra

Ủy ban chấp hành của mình là cơ quan tập thể. Ở Trung ương là Hội đồng bộ trưởng

(chính phủ), ở địa phương là các Ủy ban chấp hành (như UBND). Các Ủy ban chấp hành

có các cơ quan trực thuộc mình và đều hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc.

Trong cơ cấu của các nước cộng hòa tự trị, vùng, khu tự trị nhưng tất cả đều tổ chức theo

một khuôn mẫu như vậy. Có người gọi đây là mô hình tổng hòa, có dấu hiệu của tất cả

các mô hình khác và có them đặc trưng riêng.

Theo mô hình Xô viết, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được tổ chức và

hoạt động theo thiết chế ủy ban (Ủy ban chấp hành, Ủy ban hành chính, Ủy ban nhân

dân), điều hành công việc hành chính theo chế độ tập thể, những vấn đề quan trọng đều

được quyết định theo đa số (biểu quyết tập thể ủy ban); thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân

người đứng đầu rất hạn hẹp.

*** MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA

1. Mô hình tổ chức chinh quyên đô thị ở Nhật Bản.

Tổ chức chính quyền địa phương ở Nhật Bản: Theo Luật tự trị địa phương, chính

quyền địa phương ở Nhật Bản được chia thành hai loại: loại thông thường và loại đặc

biệt. Chính quyền thông thường gồm hai cấp là cấp tỉnh và cấp hạt. chính quyền đặc biệt

bao gồm chính quyền các đặc khu, chính quyền hợp tác giữa các hạt, chính quyền khu sở

hữu tài sản và chính quyền hiệp hội phát triển địa phương.s

Chính quyền đô thị ở Nhật Bản có hai nhánh cơ bản: lập pháp và hành pháp.

Thứ nhất, nhánh lập pháp ban hành các quy định của thành phố, quyết định ngân

sách. Hội đồng thành phố thuộc nhánh này.

Thứ hai, nhánh hành pháp thực thi các chính sách do nhánh lập pháp quyết định.

Thị trưởng thành hố và các Ủy ban hành chính thuộc nhánh hành pháp. Thị trưởng do

nhân dân trực tiếp bầu ra và có nhiệm kỳ 4 năm. Thị trưởng chịu trách nhiệm đối với toàn

bộ hoạt động của chính quyền đô thị và có quyền đại diện chính quyền đô thị trong quan

hệ với bên ngoài. Ngoài ra, Thị trưởng còn có một số quyền quan trọng khác như quyền

ban hánh các quy định, dự thảo ngân sách, đề xuất các dự án và luật bổ nhiệm hay miễn

nhiệm các nhan viên dưới quyền.

Ngoài ra, Hội đồng đô thị cúng do nhân dân trực tiếp bầu ra với các thành viên có

nhiệm kỳ 4 năm. Đây là bộ hoạch định chính sách cho chính quyền đô thị, có quyền bỏ

phiếu đối với các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình.

Bên cạnh đó, Hội đồng còn có một số quyền khác như quyền bầu cử, quyền thanh

tra và quyền điều tra. Các Ủy ban hành chính được lập ra để hỗ trợ Thị trưởng trong việc

thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt tùy thuộc vào chức năng, quyền hạn của từng ủy ban.

Về cơ chế hoạt động:

Chính quyền địa phương nói chung và chính quyền đô thị của Nhật Bản nói riêng

áp dụng " hệ thống tổng thống" để đảm bảo sự tách biệt về quyền lực giữ các bên. Các

điểm chính của cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực như sau:

Bỏ phiếu bất tín nhiệm Thị trưởng và việc giải tán Hội đồng đô thị: Trong trường

hợp xảy ra mâu thuẫn khồn thể giải quyết giữa Thị trưởng và Hội đông đô thị thì Hội

đồng có quyền tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thị trưởng. Bất kỳ cuộc bỏ phiếu

nào như vậy để được thông qua thì số đại biểu cần thiết theo ưuy định phải từ hai phần ba

số thành viên Hội đồng trở lên và bản liến nghị phải được sự đồng ý của ít nhất ba phần

tư số thành viên Hội đồng. Nếu bản kiến nghị bất tín nhiệm được chấp thuận thì đến lượt

thị trưởng có quyền giải tán Hội đồng.

Đây là cơ chế nhờ đó sự bế tắc giữa Thị trưởng và Hội đồng cuối cùng có thể được

giải quyết, thông qua yêu cầu đánh giá công bằng của cử tri.

Nếu Hội đồng đồng thông qua bản kiến nghị bất tín nhiệm đối với Thị trưởng và

Thị trưởng không giải tán Hội đồng trong vòng 10 ngày thì Thị trưởng đương nhiên bị

mất chức. Tương tự, nếu Hội đồng một lần nữa thông qua bản kiến nghị bất tín nhiệm Thị

trưởng trong cuộc họp đầu tiên được nhóm họp sau khi giải tán thì Thị trưởng không còn

quyền giải tán và sẽ bị mất chức vào ngày thông báo thừa nhận của cuộc bỏ phiếu bất tín

nhiệm lần hai.

2. Chinh quyên đô thị trong hệ thống chinh quyên địa phương ở Trung Quốc.

Hiến pháp 1982 của Trung Quốc quy định nước này chia thành tỉnh, khu tự trị và

thành phố trực thuộc Trung ương. các tỉnh và khu tự trị được chia thành các địa khu tự

trị, huyện, huyện tự trị và thành phố cấp huyện. Các huyện và huyện tự trị được chia

thành các hương, hương dân tộc và trấn. Các thành phố trực thuộc trung ương và các

thành phố lớn bao gồm các đơn vị hành chính quận và huyện. Các địa khu tự trị được

chia thành huyện, huyện tự trị và thành phố. Các khu tự trị, địa khu tự trị và huyện tự trị

là nơi tự trị của người dân tộc. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, thành phố

cấp huyện, hương, hương dân tộc và trấn thiết lập cơ quan đại đại hội, đại biểu nhân

dân(HĐND) và chính quyền địa phương(UBND), là các cơ quan chính quyền địa

phương. Thành phố là quy chế địa vị hành chính được chính quyền trung ương giao cho

chính quyền địa phương.

Trong cơ cấu hành chính của Trung Quốc,có 4 cấp chính quyền địa phương: chính

quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp địa khu, chính quyền cấp huyện và chính quyền cấp

hương. Ở thành phố trực thuộc trung ương áp dụng mô hình" lưỡng cấp chính quyền, tam

cấp quản lý"; theo đó có hai cấp chính quyền là cấp thành phố và cấp khu phố; ba cấp

quản lý là thành phố, khu phố và đường phố.

Trên phương diện pháp luật, Trung Quốc chưa có quy định tách biệt mô hình chính

quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Trung Quốc chỉ có Luật Tổ chức chính quyền địa

phương và Luật tổ chức đại hội đại biểu nhân dân địa phương. Tuy nhiên, các đạo luật

này không tách biệt về mặt mô hình tổ chức của chính quyền đô thị và chính quyền nông

thôn. Tuy vậy, trên thực tế, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền đô thị có sự khác biệt

so với chính quyền nông thôn.

Kinh nghiệm rút ra qua hai mô hình chinh quyên đô thi của hai nước:

Trung Quôc va Nhật Bản:

Thứ nhất, đô thị là nơi tiêu biểu cho sự phát triển, thịnh vượng và văn minh của một

quốc gia, một khu vực hoặc một vùng lãnh thổ; là động lực thúc đẩy các vùng xung

quanh phát triển.

Thứ hai,hệ thống cấu trúc thứ bậc chính quyền đô thị gồm chính quyền đô thị thành

phố và chính quyền cơ sở(quận); có thể có chính quyền trung gian(huyện).

Thứ ba, Ở các nước có quá trình công nghiêp hóa và đô thị hóa diễn ra từ lâu và ở

trình độ cao, hầu hết các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố là quận.

Thứ tư,tùy thuộc thể chế chính trị mỗi quốc gia, cơ quan đại diện nhân dân của chính

quyền đô thị quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phê chuẩn

ngân sách, có thể quyết định về tổ chức, nhân sự của bộ máy cơ quan hành chính.

III. KẾT LUẬN

Đô thị ngày càng có vai trò to lớn trong sự phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa- xã

hội, không có một quốc gia nào gọi là phát triển nếu như không có đô thị có tính quốc tế.

Với những chức năng, đặc trưng riêng có của đô thị đòi hỏi phải có cách tổ chức

chính quyền đô thị với những chức năng, quyền hạn, tính tự quản khác với chính quyền ở

nông thôn.

Từ thực tiễn đó cho thấy nhu cầu đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính

quyền địa phương thời gian qua ở Việt Nam có căn nguyên trực tiếp từ quá trình phát

triển kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, đẩymạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn tới

đô thị hóa, đưa các đô thị thành những động lực phát triển mạnh mẽ của đất nước và yêu

cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những đề

xuất của các thành phố có sự phát triển năng động và mong muốn đổi mới như TP.HCM,

Đà Nẵng đều mang logic này. Vì vậy việc thiết lập tổ chức chính quyền đô thị là rất cần

thiết.

Nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền đô thị và áp dụng mô hình này trong thực

tế là một quá trình lâu dài, phức tạp động chạm tới nhiều vấn đề mang tính chính trị, kinh

tế, văn hóa- xã hội đòi hỏi quyết tâm của các nhà chính trị, các nhà lập pháp, nó vượt ra

khỏi những quan niệm khoa học thông thường về tổ chức chính quyền địa phương.

Mô hình tổ chức chính quyền đô thị phải đảm bảo được sự ổn định về mặt chính trị,

kinh tế xã hội, không làm đảo lộn đời sống của các cán bộ, công chức làm việc trong bộ

máy chính quyền địa phương. Thiết lập mô hình tổ chức chính quyền đô thị phải xuất

phát từ đòi hỏi khách quan của đời sống đô thị, bảo đảm sao cho việc quản lý đô thị được

thống nhất, thông suốt, không bị chia cắt, cản trở các cấp quản lý đô thị như hiện nay.

Trong khi chưa có những căn cứ pháp lý mới cho việc tổ chức chính quyền đô thị,

các thành phố lớn như TP.HCM, Đà Nẵng đã có những cuộc thí điểm chuyển từ chính

quyền 3 cấp thành chính quyền 2 cấp và dần tiến tới 1 cấp chính quyền thành phố hoàn

chỉnh gồm HĐND và UBND, trên địa bàn các quận, phường chỉ có các cơ quan đại diện

của thành phố, thay mặt thành phố thực hiện các nhiệm vụ được ủy quyền và thực hiện

các dịch vụ hành chính.

Để áp dụng mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị cần phải có những bước thí

điểm thích hợp, tránh tình trạng duy ý chí chủ quan, hay chỉ là cảm nhận. Thực tiễn đã

chỉ ra rằng khi nhìn thấy bộ máy hoạt động kém hiệu quả là người ta thường nghĩ đến cơ

cấu của bộ máy đó chưa hợp lý, mà ít đi tìm nguyên nhân khác nằm ngoài bộ máy. Để mô

hình này áp dụng trong thực tế ta phải đổi mới cả phương thức thiết lập các cơ quan quản

lý tại các đô thị chuyển từ chế độ bầu và phê chuẩn sang chế độ bổ nhiệm, thành phần ủy

ban chỉ có chủ tịch và phó chủ tịch. Bên cạnh việc đổi mới cơ cấu chính quyền đô thị cần

phải đổi mới các cơ quan “chuyên môn” thuộc UBND, phân biệt 2 loại cơ quan “nội

thuộc” và cơ quan “ngoai thuộc”. Để thực hiện điều này cần phải áp dụng nguyên tắc tản

quyền và phân quyền theo chiều dọc nhằm bảo đảm tập trung trong quản lý, đồng thời

tăng tính tự quản, tự quyết của chính quyền địa phương. Ngoài ra, chúng ta cần phải tiếp

thu những kinh nghiệm của nước ngoài trong việc tổ chức chính quyền đô thị để hoàn

thiện hơn cơn cấu tổ chức của mô hình này.