TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT...
Transcript of TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT...
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ THỊ THÚY HẰNG
NGUYÊN LÍ ĐỐI THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
2. PGS. TS BÙI THANH TRUYỀN
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước
họp tại
Vào hồi giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN
ĐÃ CÔNG BỐ
I. Bài báo
1. Lê Thị Thúy Hằng (2013), “Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết SBC là săn bắt
chuột của Hồ Anh Thái nhìn từ lí thuyết đối thoại”, Kỉ yếu Hội thảo
khoa học Yếu tố kì ảo và huyền thoại trong văn học, Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế.
2. Lê Thị Thúy Hằng (2014), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 – nhìn từ lí
thuyết đối thoại” (Khảo sát qua tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà), Tạp chí
Khoa học và công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, (số 2),
tr.26-36.
3. Lê Thị Thúy Hằng (2015), “Tính đối thoại nhìn từ bình diện nhân vật
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986”, Tạp chí Khoa học & Giáo dục,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, (số 1), tr.54-63.
4. Lê Thị Thúy Hằng (2015), “Đối thoại trên tinh thần nhận thức lại giá trị
hoàn kết trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986”, Hội thảo khoa học Ngữ
văn 2015 Văn học Việt Nam: Bản sắc và hội nhập, Viện Văn học, Hà
Nội.
5. Lê Thị Thúy Hằng (2016), “Đối thoại trong đời sống thể loại tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, (số 1), tr.41-51.
6. Lê Thị Thúy Hằng (2016), “Tính đối thoại trong giọng điệu tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986”, Hội thảo khoa học quốc gia, in trong Thế hệ nhà
văn sau 1975 – diện mạo và thành tựu, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Lê Thị Thúy Hằng (2016), “Diễn ngôn đối thoại trong tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư
phạm, Đại học Đà Nẵng, (số 1), tr.28-36.
II. Đề tài nghiên cứu khoa học
8. Lê Thị Thúy Hằng (2012), Tư duy đối thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà, Đề tài khoa học cấp Trường, năm 2012 – 2013.
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Nguyên lí đối thoại manh nha từ rất lâu trong đời sống cũng như
nghệ thuật. Mặc dù mức độ không nhiều nhưng chúng ta bắt gặp trong
đối thoại Socrate, những phản ứng lại trào lưu, chủ nghĩa nghệ thuật
phương Tây… Song, với tư cách là một lí thuyết văn học, phải đến
Mikhail Bakhtin, tinh thần đối thoại mới trở nên tự giác, riết róng.
2. Căn nguyên làm nên ma lực của M. Bakhtin nằm ở hệ hình tư duy
dựa trên nền tảng triết học nhân bản liên chủ thể. Triết học liên chủ thể
của ông xem đối thoại là phạm trù nền. Đối thoại là bản chất của ý thức,
bản chất của tư duy con người. Phát triển tinh thần này, khi nghiên cứu
khoa học văn học, nhà nghiên cứu đặc biệt chú tâm đến tính đối thoại ở
thể loại tiểu thuyết. Cuộc “vượt biên” lí thuyết đối thoại Bakhtin xuất
hiện trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986.
3. Không khí dân chủ của Đại hội VI (1986) giúp cho văn học Việt
Nam phát triển trên tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật.
Tiểu thuyết được dịp tỏ rõ chức năng hàng đầu, sứ mệnh của mình là xét
lại, nhận thức lại, đánh giá lại tất cả. Tinh thần nhận thức lại tạo tiền đề
cho tiếng nói đa thanh, đa âm sắc, đa giọng điệu. Những nhà văn tiêu
biểu luôn thể hiện ý thức nhận thức lại thông qua đối thoại: Phạm Thị
Hoài, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Thuận,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Việt Hà, Đỗ
Phấn… Mỗi tác phẩm là cuộc đối thoại của tác giả với tư tưởng thời đại
và tạo điều kiện cho những tư tưởng này đối thoại với nhau.
4. Vận dụng lí thuyết đối thoại của M. Bakhtin, đề tài Nguyên lí đối
thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của luận án hướng
đến soi chiếu, khám phá những giá trị cách tân tiểu thuyết Việt Nam thời
kì đổi mới trên tinh thần nhận thức lại. Ý thức rời xa khỏi lối mòn là dấu
hiệu khởi động cho cuộc hành trình đưa tiểu thuyết Việt Nam thoát khỏi
2
mô thức truyền thống để bước vào quỹ đạo chung của văn chương thế
giới. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn và thực hiện đề tài này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án vận dụng lí thuyết đối thoại (chủ yếu của M. Bakhtin) nhằm
khám phá nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên
bình diện ý thức nghệ thuật và cách thức tổ chức trần thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tiểu thuyết Việt Nam tiêu biểu từ
1986 đến 2010. Trong đó, chúng tôi tập trung vào những tác phẩm được
dư luận, giới nghiên cứu, phê bình đánh giá cao về đối thoại so với các
sáng tác ở giai đoạn trước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của luận án là nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
1986 đến 2010 tập trung trên hai bình diện chính: đối thoại trên bình diện
ý thức nghệ thuật và cách thức tổ chức trần thuật.
4. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí thuyết
Luận án vận dụng lí thuyết đối thoại (người khởi nguồn là M.
Bakhtin) vào trường hợp tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống
- Phương pháp so sánh đồng đại - lịch đại.
5. Đóng góp của luận án
Thứ nhất, luận án là sự nỗ lực hệ thống lại những tri thức về lí thuyết
đối thoại ở các cấp độ khác nhau. Lí thuyết chủ yếu của M. Bakhtin - nhà
lập thuyết đầu tiên có công cải tạo mối quan hệ giữa người - người bằng
đối thoại. Các cấp độ đối thoại trong tư tưởng triết học - mỹ học, tư duy
văn hóa, tư duy nghệ thuật đóng vai trò bổ trợ quan trọng của cơ sở lí
3
thuyết và là những gợi ý hữu ích cho việc phân tích đặc trưng nguyên lí
đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986.
Thứ hai, luận án tìm hiểu những đặc trưng lí thuyết đối thoại trong
trường hợp cụ thể của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Trên cơ sở đó,
người viết khảo sát các bình diện đối thoại có tính lặp lại thường xuyên,
trở thành nguyên lí trong tiểu thuyết. Việc ứng dụng lí thuyết đối thoại sẽ
gợi ra những góc nhìn gợi mở, tương tác đa chiều đối với thể loại văn
chương chưa hoàn kết này.
Thứ ba, luận án nghiên cứu nguyên lí đối thoại trên bình diện ý thức
nghệ thuật và tổ chức trần thuật nhằm khẳng định sự đổi mới và đóng
góp của thể loại tiểu thuyết đối với nền văn học Việt Nam.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung
của luận án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Lí thuyết đối thoại và sự xuất hiện nguyên lí đối thoại
trong văn học Việt Nam từ 1986 đến 2010
Chương 3. Đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
trên bình diện ý thức nghệ thuật
Chương 4. Đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
trên bình diện tổ chức trần thuật
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết đối thoại
1.1.1. Khái lược diễn trình nghiên cứu lí thuyết đối thoại trên thế giới
Trên thế giới, luận về đối thoại, khởi nguyên của nó bắt nguồn từ
Socrate (khoảng 470 - 399 trước Công nguyên). Song, thời cổ đại, đối
thoại Socrate là một thể loại văn học được ghi chép lại bởi Plato (khoảng
428 - 348 trước Công nguyên). Thời hiện đại, những năm 20 của thế kỷ
XX, M. Bakhtin trở lại với vấn đề đối thoại không phải trên phương diện
4
thể loại mà là đặc trưng của thi pháp thể loại. Ông đã nêu bật tính đa
thanh, phức điệu, nguyên tắc phức điệu trong tiểu thuyết. Đa thanh, phức
điệu cũng chính là tính đối thoại trong nội tại lời nói của con người.
Giới thiệu và diễn giải thành công nhất trên cơ sở nắm bắt sâu sắc lí
thuyết đối thoại là J. Kristeva với tính liên văn bản. Todorov cũng phát
triển mạch tư duy của Bakhtin và ứng dụng vào lí luận, phê bình văn học.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến người sáng tạo ra văn bản. Sau quan
niệm cái chết của tác giả (R. Barthes), nhà giải cấu trúc Derrida nhận ra
tác phẩm văn học không phải hình thức ngôn ngữ đặc trưng mà là hình
thức đọc đặc trưng.
Như vậy, lí thuyết đối thoại được gắn với tên tuổi của M. Bakhtin
những năm đầu thế kỷ XX. Đến cuối thế kỷ XX, và đầu thế kỷ XXI, nó
đã phát triển, tiếp biến theo những hướng đi khác nhau: từ đặc điểm thi
pháp thể loại chuyển sang lí thuyết tiếp nhận.
1.1.2. Tình hình tiếp nhận và nghiên cứu lí thuyết đối thoại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong khả năng tư liệu, chúng tôi xem người đặt vấn đề lí
thuyết đối thoại đầu tiên trên tinh thần của Bakhtin là Trần Đình Sử với
bài viết “M. Bakhtin và thi pháp của Dostoievski”, in trên Tạp chí Văn
nghệ quân đội năm 1985. Tuy nhiên, người đầu tiên tiếp xúc và có công
trình dịch thuật, giới thiệu dài hơi, sâu sắc quan niệm Bakhtin là Phạm
Vĩnh Cư qua Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (1992). Tiếp đó, Những vấn
đề thi pháp Dostoievski (1993) do Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương
Trí Nhàn dịch chứng tỏ tư duy khoa học văn học của Bakhtin về một đại
diện được cho là phức tạp của văn học Nga. Đối thoại là biểu hiện xuyên
suốt thể hiện những cách tân trong tư duy tiểu thuyết Dostoievski. Tiếp
đến, công trình Nghệ thuật tiểu thuyết (M. Kundera), Mikhail Bakhtin -
Nguyên lí đối thoại (Todorov), Đi tìm sự thật biết cười (Umberto Eco)…
cũng đề cập đến tính đối thoại, đa thanh, phức điệu trong tiểu thuyết.
Bên cạnh mảng dịch thuật, những bài viết, công trình tập trung nghiên
cứu về lí thuyết đối thoại của Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu,
Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Nguyễn Đăng Điệp… đem lại nhiều
5
nhận định có giá trị. Ngoài ra, việc quan tâm, dịch thuật bài viết của các
nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc chứng tỏ tầm quan trọng của lí
thuyết đối với lí luận phê bình văn học Việt Nam và thế giới.
1.2. Tình hình vận dụng lí thuyết đối thoại vào nghiên cứu văn học
và tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
1.2.1. Tình hình vận dụng lí thuyết đối thoại vào nghiên cứu văn học
Việt Nam
Tình hình vận dụng lí thuyết đối thoại vào nghiên cứu trong văn học
Việt Nam chưa được quan tâm một cách đúng mực. Song, chúng ta vẫn
tìm thấy những bài viết để lại dấu ấn.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử ứng dụng vào hai hiện tượng văn học
tiêu biểu: “Lí thuyết đối thoại và mấy nét nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Chí Phèo của Nam Cao” (in trong Tạp chí Văn học số 12 - 1998) và
“Lí thuyết giọng điệu nghệ thuật của Bakhtin và chủ nghĩa cảm thương
của Truyện Kiều” (Tạp chí Văn học số 12 - 1999). Cùng viết về Vũ
Trọng Phụng, Đỗ Đức Hiểu và Nguyễn Thành phát hiện tính đa thanh, đa
âm ở nhà văn so với những tác giả cùng thời. Nguyễn Đăng Điệp để
mình “Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp” và nhận ra chất triết lí
trong truyện của nhà văn. Châu Minh Hùng quan tâm đến tính đa thanh
qua bài viết “Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện
đại qua cấu trúc truyện của Nguyễn Huy Thiệp”. Nguyễn Văn Thuấn
khảo cứu truyện ngắn của tác giả này trực tiếp từ lập trường đối thoại
trong Luận án Tiến sĩ… Công trình của Nguyễn Thị Bình Văn xuôi Việt
Nam 1975 - 1995 những đổi mới cơ bản (2007) và bài viết của Phùng
Phương Nga triển khai trên hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết…
Tuy nhiên, những công trình dài hơi, chuyên sâu qua từng giai đoạn,
thể loại của tính đối thoại vẫn còn thiếu. Đây là khoảng trống để chúng
tôi thực hiện luận án.
1.2.2. Tình hình vận dụng lí thuyết đối thoại vào nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
6
Tinh thần lí thuyết đối thoại được vận dụng vào tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986.
Bài viết của Nguyễn Thị Bình (“Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết”)
(in trong Tạp chí Văn học, số 7, 1998); Đỗ Đức Hiểu (“Đọc Phạm Thị
Hoài”, “Thân phận tình yêu của Bảo Ninh”) (2000); Phạm Xuân Thạch
(“Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến – từ chủ nghĩa
anh hùng tới nhu cầu đổi mới bút pháp”) (2004); Nguyễn Đăng Điệp
(“Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh một diễn ngôn về lịch sử văn hóa”)
(2012); Thái Phan Vàng Anh (“Tính đối thoại trong tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh”) (2012)… đã khảo sát ở những tác giả, tác phẩm cụ thể.
Những công trình khảo sát giai đoạn sau 1975, (ví dụ được nêu chủ yếu
lại tập trung ở tiểu thuyết sau 1986), tính đối thoại nhận diện trong ngôn
ngữ: Nguyễn Bích Thu “Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975” và công trình của Mai Hải Oanh về Những cách tân nghệ thuật
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Một số luận văn Thạc sĩ áp dụng trực
diện quan niệm đối thoại của Bakhtin vẫn để ngỏ lí thuyết và phương
diện quan trọng khác góp phần tạo nên nguyên lí đối thoại.
Trên tinh thần kế thừa và mở rộng, chúng tôi sẽ nhận diện tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986 từ lí thuyết đối thoại, đồng thời đối sánh để thấy sự
ảnh hưởng từ quan niệm đến cách thức mô tả so với giai đoạn trước.
Tiểu kết: Nhìn chung, về lí thuyết: các công trình giới thiệu, dịch
thuật chuyển tải được cốt lõi vấn đề lí thuyết đối thoại ở khía cạnh tiêu
biểu của thi pháp thể loại. Về vận dụng lí thuyết, các bài viết đều tập
trung ở một số trường hợp truyện ngắn và tiểu thuyết. Tuy nhiên, tính
bao quát của lí thuyết vận dụng cho thể loại tiểu thuyết Việt Nam vẫn là
khoảng trống lớn để đề tài có thể khai thác.
Chương 2
LÍ THUYẾT ĐỐI THOẠI VÀ SỰ XUẤT HIỆN NGUYÊN LÍ ĐỐI
THOẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010
7
2.1. Các quan niệm về lí thuyết đối thoại
2.1.1. Quan niệm của Bakhtin
Trước hết, lý thuyết đối thoại của Bakhtin nêu lên bản chất đối thoại của
ý thức và ngôn ngữ, đặt nền móng cho việc phân tích ngôn ngữ theo bình
diện mới.
Việc tìm ra và chứng minh cho tính đúng đắn của luận đề bản chất
đối thoại của ý thức và ngôn ngữ với nguyên lí lời nói con người luôn
mang tính đối thoại được Bakhtin triển khai trong thể loại tiểu thuyết nói
chung, sáng tác Dostoievski, Rabelais nói riêng. Ông xem, tính tiểu
thuyết là tính đối thoại. Ở tiểu thuyết Dostoievski - nhà nghiên cứu nhận
ra mẫu mực của đối thoại với tính đa thanh/phức điệu. Đa thanh thể hiện
nhiều giọng nói hay diễn ngôn hai giọng và các tiếng nói bình đẳng với
nhau. Vì vậy, nhà lí luận khởi xướng ngành khoa học mới - siêu ngôn
ngữ học. Siêu ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ trong dạng thức cụ thể
là lời nói. Đặc điểm khu biệt đối tượng siêu ngôn ngữ học là quan hệ đối
thoại, kể cả quan hệ đối thoại giữa người nói với lời nói của chính mình.
Bên cạnh quan niệm đối thoại trong nội tại lời nói, những vấn đề
trọng tâm khác như: tính độc lập tương đối giữa nhân vật với tác giả, đặc
điểm về thể loại, kết cấu, cốt truyện thông qua khảo sát tiểu thuyết
Dostoievski và tinh thần giễu nhại, hài hước trong Rabelais. Đây là diện
mạo quan niệm lí thuyết đối thoại.
Tóm lại, trong quan niệm về đối thoại, ngôn ngữ luôn được đặt trong
tính chỉnh thể, sống động, cụ thể, có tư tưởng, đời sống xã hội riêng. Bản
chất ngôn ngữ Bakhtin mang tính đối thoại bởi nó là nơi hội tụ, tranh
biện của những quan niệm, tư tưởng khác nhau về thế giới, con người.
2.1.2. Các quan niệm khác
Người giới thiệu, diễn giải thành công nhất tính đối thoại chính là
Julia Kristeva (1941 - ). Bà phân tích tư tưởng của Bakhtin và đề xuất
tính liên văn bản để thay thế khái niệm tính đối thoại/tính liên chủ thể.
Với Bakhtin, ngữ cảnh là hoàn cảnh xã hội. Ở Kristeva, ngữ cảnh là văn
bản xung quanh nó.
8
Hai năm sau tiểu luận của Kristeva, R. Barthes trong bài viết Cái chết
của tác giả quan niệm, mọi văn bản đều là liên văn bản đối với một văn
bản khác. Nó được hiểu như là thuộc tính bản thể của mọi văn bản.
Ý nghĩa đích thực về thuật ngữ liên văn bản của Kristeva khi giới
thiệu về Bakhtin trở nên sáng rõ hơn trong lí thuyết kí hiệu của J.
Derrida. Ông xem, không có cái bên ngoài văn bản. Nhà nghiên cứu quan
niệm, đọc hết văn bản cũng tạo nghĩa như việc viết ra nó, thậm chí tất cả
sự viết thực ra cũng là đọc văn bản.
Nửa sau những năm 80 thế kỷ XX, M. Foucault quan tâm những quy
tắc chi phối việc diễn ngôn ra đời và vận hành trong đời sống. Nhà
nghiên cứu gặp gỡ Bakhtin khi chú trọng đến bản chất ngữ cảnh phát
ngôn nghĩa là hoàn cảnh xã hội. Tuy nhiên, M. Foucault trượt ra khỏi
diễn ngôn về mặt ngữ học, tiệm cận triết học và tư tưởng hệ.
Sự tiếp nhận, tiếp biến, liên quan lí thuyết Bakhtin qua các nhà cấu
trúc, hậu cấu trúc khá rõ nét. Hiện tại, khái niệm liên văn bản của
Kristeva khi giới thiệu, diễn giải Bakhtin trở thành một trong những lí
thuyết trung tâm của chủ nghĩa hậu hiện đại.
2.2. Các cấp độ của đối thoại
2.2.1. Đối thoại trong tư tưởng triết học - mỹ học
Đối thoại trên bình diện tư tưởng triết học - mỹ học của Bakhtin có
nguồn gốc sâu xa từ trong thể loại đối thoại kiểu Socrate. Tiểu thuyết đa
thanh của Dostoievski xây dựng trên cơ sở những truyền thống thể loại
khác nhau trong sự phát triển văn xuôi nghệ thuật châu Âu, trong đó có
Socrate. Đối thoại chính là triết học nhân bản của Bakhtin với những
tổng kết: đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của tư duy; nhận thức
bắt đầu ở đâu, ở đó có đối thoại. Mục đích cải tạo mối quan hệ giữa con
người với con người bằng đối thoại là triết học nhân sinh sâu sắc Bakhtin
luôn hướng tới.
Từ bản chất đối thoại của ý thức và ngôn từ, ý niệm triết học - thẩm
mỹ của Bakhtin bao quát trong mối quan hệ giữa nhà văn và nhân vật -
kẻ luôn mang trong mình nhiều tiếng nói độc lập, bình quyền. Khi nhân
9
vật tồn tại, hoạt động trong một cấu trúc nghệ thuật, chúng phát triển theo
một quy luật riêng và trở thành những thực thể độc lập. Tính độc lập tạo
cho mối quan hệ này khả năng giao lưu, đối thoại.
Đối thoại trong tư tưởng triết học - mỹ học của Bakhtin mang tính nhân
bản. Bởi lẽ, Bakhtin luôn chống sự phán xét con người từ sau lưng và mãi
mãi con người vẫn chưa nói lời tận quyết về mình.
2.2.2. Đối thoại trong tư duy văn hóa
Trong khi tìm ra bản chất đối thoại của thể loại tiểu thuyết, M.
Bakhtin tiệm cận với tư duy văn hóa Rabelais qua công trình chuyên
khảo Sáng tác của Fransois Rabelais và văn hóa dân gian trung đại và
phục hưng (1965). Nhan đề công trình gợi dẫn hai vấn đề chính được tác
giả giải quyết: lột tả đặc trưng thẩm mỹ của tiếng cười Rabelais và làm
sáng tỏ quan hệ giữa tiếng cười ấy với văn hóa dân gian. Tư duy văn hóa
của Bakhtin gắn với tiếng cười hay văn hóa cười của hội cải trang
(carnaval).
Đối thoại trong tư duy văn hóa của Bakhtin đến thời hiện tại đã vượt
khỏi khung lễ hội cải trang dân gian. Tiếp thu những phát hiện của
Bakhtin và thành tựu của nhân loại học văn hóa, Todorov chủ trương và
khuyến khích sự giao lưu giữa các nền văn học, văn hóa trên thế giới.
Sự chuyển hóa “thân xác” văn hóa trong văn học của Bakhtin là đối
thoại giải thiêng, hạ bệ đối với truyền thống nhằm tạo tiếng cười. Từ gợi
mở tư duy đối thoại trên bình diện văn học tới văn hóa, các nhà nghiên
cứu mở hướng nghiên cứu đối thoại liên văn hóa giữa các quốc gia, xóa
bỏ tính tự trị của một nền văn hóa độc tôn, tạo tư duy bình đẳng, tự do
trên thế giới.
2.2.3. Đối thoại trong tư duy nghệ thuật
Văn học là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Đặc trưng văn học có
mối tương quan với các loại hình nghệ thuật khác. Ngược lại, các loại
hình nghệ thuật cũng góp phần nâng cao giá trị của văn học. Đây cũng là
đối thoại liên văn bản theo quan điểm của Kristeva.
10
Đối thoại trong tư duy nghệ thuật còn thể hiện trên bình diện sáng tác,
tiếp nhận, phê bình. Điều này có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời
sống văn học, nghệ thuật. Mỗi bình diện đều được triển nở trên tinh thần
tự do. Chính vì vậy, đời sống nghệ thuật luôn cởi mở bởi những vấn đề
thuộc về con người được diễn giải theo cách thức đối thoại mở ngỏ.
2.3. Sự xuất hiện nguyên lí đối thoại trong văn học Việt Nam từ 1986
đến 2010
2.3.1. Cơ sở xuất hiện nguyên lí đối thoại trong văn học Việt Nam sau 1986
Cuối năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI tiến hành đánh dấu sự đổi
mới, dân chủ trong tư duy, nhận thức. Thay đổi định hướng văn học từ
chính trị chuyển sang văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới sự hình thành và vận hành của diễn ngôn văn học sau 1986.
Lịch sử, văn hóa sang trang giúp cho đời sống kinh tế, xã hội có
những bước tiến quan trọng. Đó là sự chuyển dịch từ cơ chế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hóa. Các phương tiện thông
tin đại chúng, công nghệ thông tin, văn hóa mạng, văn học dịch ảnh
hưởng lớn đến đời sống văn học nghệ thuật.
Sự thay đổi trong đời sống lịch sử, văn hóa, xã hội là tiền đề xuất hiện
nguyên lí đối thoại trong đời sống văn học Việt Nam nói chung, tiểu
thuyết nói riêng trên tinh thần nhận thức lại.
2.3.2. Biểu hiện của nguyên lí đối thoại trong văn học Việt Nam từ
1986 đến 2010
Ngoài quy luật khách quan, bản thân sự vận động tự thân của văn học
luôn có ý thức vượt qua các quy phạm, vượt qua tính đơn thanh để hướng
tới đa thanh. Vì vậy, nguyên lí đối thoại gắn liền với cảm thức nhận thức
lại trong văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt sau 1986 là tất yếu.
Trong các thể loại văn học sau đổi mới, nguyên lí đối thoại thể hiện rõ
rệt và mạnh mẽ nhất ở tiểu thuyết. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn, đối thoại
xuất hiện với mức độ đậm nhạt khác nhau. Từ Tố Tâm, văn xuôi Tự lực
11
văn đoàn, đến sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao (hai cây bút xuất
sắc của dòng văn học hiện thực phê phán), tinh thần đối thoại đã xuất
hiện và ngày càng đậm nét trong văn học Việt Nam.
Thời kì đầu thế kỷ XX, gián cách 30 năm văn học cách mạng và
kháng chiến (1945 - 1975), đối thoại chưa tạo thành nguyên lí chi phối
nền văn học. Sau 1975, đặc biệt 1986, nguyên lí đối thoại trở thành hiện
tượng phổ quát, vượt thoát dấu hiệu của mầm mống ban đầu. Biểu hiện
của nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại hết sức
phong phú. Tác phẩm Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Xuân Khánh,
Hồ Anh Thái, Cao Duy Sơn, Thuận, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Việt Hà... thẳng thắn đặt ra và đối thoại với rất nhiều quan điểm,
học thuyết... - các văn bản vĩ mô của truyền thống. Thông qua đối thoại
dân chủ, tiểu thuyết Việt Nam đang dần tiến sát và hoà nhập với tính chất
hiện đại của tiểu thuyết thế giới.
Tiểu kết: Ở chương hai, chúng tôi đã sơ lược giới thiệu lí thuyết đối
thoại, sự tiếp biến lí thuyết; các cấp độ đối thoại; và khẳng định sự xuất
hiện của nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. Trên
cơ sở lựa chọn, kết hợp những luận giải về đối thoại của các nhà nghiên
cứu (tiêu biểu là Bakhtin), chúng tôi đưa ra luận điểm làm điểm tựa lí
thuyết cho việc triển khai trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
như sau: đối thoại là bản chất của ý thức, tư duy của con người bằng
ngôn ngữ. Nó là cấu trúc liên chủ thể, liên văn bản thể hiện rõ lập trường
tư tưởng, văn hóa của thời đại. Gắn lí thuyết với đề tài, chúng tôi chỉ
dừng lại những đặc điểm đối thoại mang tính tiếp biến đặc thù ở tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 trên bình diện ý thức nghệ thuật và tổ
chức trần thuật.
Chương 3
ĐỐI THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN 2010 TRÊN BÌNH DIỆN Ý THỨC NGHỆ THUẬT
12
3.1. Đối thoại trong ý hướng nhận thức lại các giá trị hoàn kết
3.1.1. Các giá trị đạo đức, xã hội
Các nhà tiểu thuyết Việt Nam cảm nhận sự vênh lệch giữa thực tại và giá
trị đạo đức truyền thống. Những nhố nhăng của thời cuộc, đổ vỡ, bất tín
nhận thức, đạo đức xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Chu
Lai, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Khắc Trường, Võ Thị Hảo,... Các vấn đề/phạm trù
tiêu biểu được đem ra bàn định lại: thiện - ác, đạo đức gia đình, tiết
hạnh/trinh tiết, truyền thống (trật tự) - hiện tại (hỗn độn). Đây cũng là chức
năng của tiểu thuyết theo cách gọi của Bakhtin là luôn nhận thức lại, kiến
giải lại, đánh giá lại.
Ý thức luận đề lộ từ nhan đề (Giã biệt bóng tối, Cõi người rung
chuông tận thế) hay khoác cho nhân vật lớp áo rộng hơn chính nó như
trường hợp nhân vật bào thai, đứa trẻ luận bàn về đạo đức, thiện - ác,…
là giới hạn của tinh thần nhận thức lại các giá trị đạo đức, xã hội.
Tuy nhiên, qua đối thoại, các tác giả khẳng định giá trị tư tưởng nhân
sinh tốt đẹp con người cần phải lưu giữ và sử dụng cho mọi thời. Vượt qua
quy chuẩn, trước thực tại, những giá trị tưởng như đã đông cứng nhưng vẫn
chưa thể hoàn kết. Vẫn còn nhiều góc khuất để con người cần xét lại và thấu
thị với nhau.
3.1.2. Các giá trị lịch sử, văn hóa
Từ sau năm 1986, viết như một nhu cầu nhận thức lại lịch sử, văn hóa
trở thành xu hướng thời thượng của tiểu thuyết Việt Nam. Với nhiều cách
lựa chọn, viết tiếp, viết lại hay mượn lịch sử như là cái cớ để nhà văn thi
triển và công khai tư tưởng cá nhân đã tạo nên sự sôi động trên văn đàn.
Qua những nhìn nhận lịch sử, văn hóa cũng từ đó mà hiển lộ. Nhận thức
lại các giá trị lịch sử, văn hóa, nổi bật lên các vấn đề: nhận thức lại chiến
tranh từ góc độ nhân bản, cá nhân; nhận thức và nhu cầu thụ hưởng, diễn
giải lại lịch sử (khơi mở những bí mật, khuất lấp; phân tích những góc
khuất của đời tư, số phận; giả định/giải lịch sử); truy tìm, luận giải thành
13
tố kết tinh văn hóa và bản sắc dân tộc trong tâm thế hậu hiện đại, không
gian phẳng…
Ngoài tinh thần nhận thức lại, nhà văn dự báo cho người đọc về
chuyển động quá ngưỡng của lịch sử, văn hóa. Trong đó, chúng ta nhận
ra những giá trị cần phải trân trọng, gìn giữ, phát huy, những điều phải
nhìn nhận lại và cả hiểm họa mà chúng ta đang là nạn nhân, đồng thời
cũng là tội nhân là cách nhìn mang đậm giá trị nhân sinh.
3.1.3. Các giá trị văn học, nghệ thuật
Với mạch chung của nguyên lí đối thoại trên tinh thần nhận thức lại
giá trị hoàn kết, nhận thức lại giá trị văn học, nghệ thuật cũng là một
trong những vấn đề thường trực, trở đi trở lại trong tiểu thuyết sau 1986.
Biểu hiện của nguyên lí đối thoại về giá trị văn học, nghệ thuật là việc
nhà văn trực diện bày tỏ quan niệm văn chương, nghệ thuật. Sáng tạo ra
kiểu nhân vật nhà văn, lí giải mối quan hệ nhà văn và tác phẩm, bày tỏ
quan niệm sáng tác của người viết, ý nghĩa của hành động viết, đọc văn
bản; đề cao vai trò của người nghệ sĩ chân chính trong hành trình sáng
tạo; người kể chuyện, nhà văn đối thoại với người đọc trực diện trên văn
bản; đối thoại với các tác giả, tác phẩm kinh điển nhằm đưa văn chương,
nghệ thuật đến gần người đọc, thậm chí giải thiêng văn học, giải thiêng
bản thân việc viết văn… là những đặc điểm nổi bật.
Bằng tiếng nói tương tác, đối nghịch, phản bác, vấn đề văn chương,
nghệ thuật của tiểu thuyết sau 1986 tạo nên sự ngẫm suy với người đọc.
Những quan niệm văn chương, nghệ thuật trước đây hay thực trạng của
văn học, nghệ thuật hôm nay được đem ra nhìn nhận, xét lại bằng sự
khách quan của người cầm bút thông qua thế giới nhân vật.
3.2. Đối thoại từ bình diện nhân vật
3.2.1. Quan niệm về nhân vật
Sau 1986, cách phân chia loại hình nhân vật truyền thống đã bị các
nhà tiểu thuyết khước từ. Nhân vật được soi chiếu, khám phá, thể hiện ở
nhiều bình diện, nhiều giác độ: ý thức, vô thức, tâm linh, bản năng, khát
vọng, cá thể, nhân loại… Quan niệm nhân vật vượt thoát cái nhìn một
14
chiều, đơn phiến, cứng nhắc để vươn tới nhận thức và quan niệm đa
chiều, toàn diện, sâu sắc.
Bên cạnh việc từ chối phân tuyến, các nhà tiểu thuyết Việt Nam sau
1986 luôn đặt nhân vật vào quá trình tự ý thức, đang ý thức và chưa hoàn
kết. Tạo ra nhiều tiếng nói của nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau
trong môi trường xã hội nhất định là sự thể hiện nguyên lí đối thoại trên
tinh thần tự ý thức.
Nguyên lí đối thoại trong quan niệm về nhân vật của tiểu thuyết sau
1986 tạo sự khác biệt lớn với văn học sử thi trước đó. Điều này đồng
nghĩa, chúng ta ghi nhận những nỗ lực cách tân của các nhà tiểu thuyết
Việt Nam đương đại trên bình diện nhân vật.
3.2.2. Cách thức xây dựng nhân vật
Đi liền với sự khác biệt trong quan niệm là nguyên lí đối thoại trong
cách thức xây dựng nhân vật của các nhà tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Trước hết, đối thoại trong cách thức xây dựng nhân vật từ chối tính điển
hình. Nhân vật không biết trước về chính nó và tồn tại của nhân vật được
lắp ghép từ mảnh vỡ của kí ức với những ám ảnh vô thức. Mối quan hệ
bình đẳng giữa nhân vật và lập trường tác giả cũng là sự thể hiện nguyên
lí đối thoại trong cách xây dựng nhân vật .
Nhận diện nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 có những
khác biệt nhất định so với văn học trước đây, thậm chí nhà văn còn muốn
tương tác, kiểm chứng lại cả những quan niệm của thời hiện tại. Dù còn
những hạn định, người đọc vẫn ghi nhận đóng góp của các nhà tiểu
thuyết trong tư duy đổi mới văn học qua sự đối thoại bằng văn chương
trên bình diện nhân vật.
3.3. Đối thoại trong đời sống thể loại
3.3.1. Về ngoại biên - trung tâm
Đối thoại trong đời sống thể loại ở vấn đề ngoại biên - trung tâm được
triển khai từ sự mở rộng phạm vi đề tài, chủ đề. Văn hóa giải thiêng trên
tinh thần carnaval là yếu tố bổ trợ.
15
Văn học đổi mới nói chung, tiểu thuyết nói riêng công nhiên thể hiện
những cấm kị mà giai đoạn 1945 - 1975 không có dịp phản ánh. Sáng tác
của Bảo Ninh, Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn
Khắc Trường, Hoàng Minh Tường, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… thể
hiện nhu cầu vượt thoát khuôn thước văn học truyền thống mạnh mẽ trên
phương diện thể loại. Tác phẩm của các nhà tiểu thuyết sau 1986 mở
rộng đề tài chiến tranh, cải cách ruộng đất, đề tài lịch sử, đề tài tình yêu,
tình dục, đồng tính… Khung văn học cách mạng không còn phù hợp với
sự phát triển của đời sống hôm nay.
Trong đối thoại, thay đổi của mỗi thời kì là sự lấn lướt của diễn ngôn trung
tâm và yếu thế của ngoại biên. Tuy nhiên, thực tế chứng minh sự tồn tại song
hành của trung tâm và ngoại biên trong đời sống văn học. Ngoại biên hóa
trong văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng cho ra đời những tác phẩm có
giá trị. Đời sống tiểu thuyết sau đổi mới thay đổi diện mạo và trở nên đa sắc
hơn so với bản thân thể loại giai đoạn 1945 - 1975.
3.3.2. Về hiện đại - hậu hiện đại
Đối thoại về đời sống thể loại từ hệ hình hiện đại - hậu hiện đại trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 triển khai trên tinh thần là sản phẩm của lối
viết: sự pha trộn thể loại; sự giễu nhại, trích dẫn, tương tác, xếp chồng, kết
nối giữa các văn bản với nhau (truyền thống - hiện đại, chính thống - phi
chính thống, các loại hình nghệ thuật, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo…).
Trong khi thể hiện liên văn bản/tương tác thể loại, tiểu thuyết sau 1986
đụng chạm đến nhiều khái niệm/hình thức khác của chủ nghĩa hậu hiện đại
như tính huyền ảo, mảnh vỡ.
Tiểu thuyết sau 1986 chứng kiến sự tương tác, pha trộn thể loại giữa
kí, kịch, thơ ca, truyện ngắn, huyền thoại trong tiểu thuyết (mối tương tác
ngoài hệ thống, chủ yếu ở yếu tố kỳ ảo hư tưởng vào cấu trúc tiểu
thuyết)… trong sáng tác Nguyễn Khải, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hoàng Minh Tường, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Xuân Khánh…
16
Sự xóa mờ ranh giới, pha trộn thể loại tiểu thuyết luôn luôn trộn lẫn
giữa cũ mới một cách rõ nét, quyết liệt hơn so với chính nó trước đây.
Sức hút mạnh mẽ và sự thâm nhập của các thể loại với nhiều cách biểu
đạt con người khác nhau tạo cho đời sống tiểu thuyết trở lại đúng với bản
chất chưa hoàn kết của mình.
Tiểu kết: Như vậy, đối thoại trên bình diện ý thức nghệ thuật triển
khai từ tinh thần nhận thức lại giá trị hoàn kết, đối thoại từ quan niệm và
nguyên tắc xây dựng nhân vật, đời sống thể loại đã bao quát những vấn
đề cơ bản nhất của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Các giá trị cũ được
tái sinh bởi điều tưởng như lỗi thời được đem ra bàn định lại. Giá trị mới
phát sinh và bắt đầu hành trình thử nghiệm chính mình. Quan niệm và
nguyên tắc xây dựng nhân vật thay đổi chủ yếu được xét trong mối tương
quan với tiểu thuyết giai đoạn 1945 - 1975. Xét một cách công tâm, tiểu
thuyết thời đại sử thi vẫn có tư duy đối thoại. Tuy nhiên, con người cộng
đồng, tập thể (1945 - 1975) và con người cá nhân, phức hợp, đa bình diện
(sau 1986) tự nó đòi hỏi một sự thể hiện mới hơn. Sự phản biện về quan
niệm và nguyên tắc xây dựng nhân vật giữa các giai đoạn là hoàn toàn có
cơ sở. Đời sống thể loại tiểu thuyết mang gương mặt khác khi dung nạp
vào bản thân nó mã diễn ngôn thời đại. Ngoại biên - trung tâm, hiện đại -
hậu hiện đại với những biểu hiện cụ thể của việc mở rộng phạm vi phản
ánh đề tài, chủ đề, tự do hút vào từ trường tiểu thuyết các thể loại khác…
đã hình thành diễn ngôn mới. Tâm thế đối thoại đem lại đặc trưng riêng,
thể nghiệm và làm mới thể loại so với chính nó.
Chương 4
ĐỐI THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN 2010 TRÊN BÌNH DIỆN TỔ CHỨC TRẦN THUẬT
4.1. Tổ chức người kể chuyện và điểm nhìn tự sự
4.1.1. Đa chủ thể tự sự
17
Với Bakhtin, đa thanh là việc tổ chức đồng thời những tiếng nói khác
nhau. Đa chủ thể tự sự hay cách thức lựa chọn nhiều cách kể và ngôi kể
cũng là yếu tố cốt tử làm nên tiếng nói đa thanh trong tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986. Chúng ta bắt gặp nhiều trong sáng tác Bảo Ninh, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Đoàn Minh
Phượng, Trần Dần, Nguyễn Danh Lam, Đỗ Phấn… Mỗi nhân vật được
quyền phán xét, kết luận người khác ngay sau đó, nhưng tuyệt nhiên, không có
chân lí, phán xét cuối cùng. Đó vẫn là những mời gọi đối thoại.
Đa chủ thể tự sự góp phần giúp cho tiểu thuyết sau đổi mới phá vỡ
tính độc đoán, toàn tri của người kể chuyện nhằm tạo nên đối thoại cũng
như sự tương hỗ giữa người kể chuyện và nhân vật. Khắc phục lối kể
chuyện độc tôn, một phía, phương thức này tạo ra tính chất đa giọng
điệu, đa điểm nhìn cho tác phẩm.
4.1.2. Gia tăng, gấp bội điểm nhìn
Thời kỳ sau đổi mới, người kể chuyện bị phá vỡ vai trò toàn tri và
được gia tăng, gấp bội điểm nhìn. Trong sự gia tăng, gấp bội trường nhìn,
điểm nhìn với cách thức tổ chức khác nhau (đan xen, di chuyển, tương
phản, bổ sung, loại trừ, phản biện…) gắn với chủ thể nhìn, góc nhìn,
quan điểm nhìn, trạng huống nhìn bộc lộ sự đối thoại ẩn ngầm hoặc công
khai. Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng),
Nguyễn Trí Huân (Chim én bay), Ma Văn Kháng (Đám cưới không có
giấy giá thú), Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội
gạo lên chùa), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu), Nguyễn Việt Hà (Cơ hội của
Chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người)… là những tiểu thuyết
trong đó có sự kết hợp linh hoạt, uyển chuyển, luân phiên giữa điểm nhìn
bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Sự gia tăng, gấp bội điểm nhìn trên
nguyên tắc đối thoại giúp cho tiểu thuyết đem lại những khám phá thú vị,
nhìn nhận cuộc sống, con người ở chiều sâu và bề sau.
Gia tăng, gấp bội điểm nhìn là bằng chứng dân chủ hóa, đổi mới
không nhỏ của thể loại so với văn học giai đoạn 1945 - 1975. Nhân vật
được soi chiếu từ nhiều góc cạnh, cách đánh giá tạo nên tính đa bội điểm
18
nhìn. Từ bỏ tính đơn nhất trong phương thức tự sự là nỗ lực cách tân của
mỗi nhà văn và tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 theo hướng đối thoại luận.
4.2. Kiến tạo diễn ngôn đối thoại
4.2.1. Ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật
Sau 1975, đổi mới tư duy thể loại đã tạo nên những cuộc đối thoại
thực sự. Mỗi nhân vật khi phát ngôn là một ý thức độc lập, và cuộc đối
thoại trở thành sự tương tác, va chạm giữa các luồng ý thức, các tiếng nói
khác nhau trên cùng mặt bằng văn bản. Ở đó, sự gặp gỡ, va chạm giữa
các luồng ý thức nhân vật không phải do tác giả mớm lời. Đối thoại
không còn là phương tiện. Nó là mục đích tự thân theo cách gọi của
Bakhtin. Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Hồ
Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh), Cơ
hội của chúa (Nguyễn Việt Hà)… có những mẫu mực đối thoại giữa các
nhân vật. Trong đó, hai tiếng nói bị chẻ đôi, xâm nhập vào nhau.
Không riêng Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình
Phương… trên tinh thần đổi mới, tự do, dân chủ, tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986 đều xây dựng những tiếng nói khác, tiếng nói lạ so với bản thân
thể loại từ nguyên lí đối thoại. Tính cách, số phận nhân vật tái hiện đều
được bộc bạch bằng những cuộc thoại trao đáp thông thường, song, bên
trong lại chất chứa tư tưởng, quan điểm của con người thời đại. Bên cạnh
đối thoại của nhân vật, tác giả gửi gắm sự nhìn nhận, chiêm nghiệm, soi
xét về cuộc đời.
4.2.2. Đối thoại trong độc thoại nội tâm
Sau đổi mới, ý thức cá nhân nở rộ cũng là lúc con người có quyền tự
do hướng tới chính mình. Đối thoại trong độc thoại nội tâm trở thành đối
tượng phản tư của nhân vật. Tập trung hướng tới bản thân, độc thoại nội
tâm gắn liền với cái tôi vô thức. Nhiều nhà văn tên tuổi để lại dấu ấn sâu
đậm trong hành trình thể hiện vô thức nhân vật bằng những đối thoại nội
tâm. Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Dương Hướng (Bến không
chồng), Đoàn Minh Phượng (Và khi tro bụi), Mạc Can (Tấm ván phóng
dao), Dạ Ngân (Gia đình bé mọn), Nguyễn Khải (Thượng đế thì cười),
19
Trần Dần (Những ngã tư và những cột đèn)… chứa nhiều cuộc thoại nội
tâm day dứt.
Tiểu thuyết sau 1986 xây dựng những đối thoại hay đối thoại trong
độc thoại nội tâm căng thẳng. Có thể là ngụy biện, tự trấn an; có lúc tự
thương mình; lúc tra vấn; khi lại tự phân thân để mổ xẻ bản ngã… mỗi
nhân vật một tiếng nói va đập nhau cho thấy sự không trùng khít trong
cách nhìn nhận của nhân vật với mình và các nhân vật khác về những vấn
đề nhân sinh.
4.2.3. Sự phản biện giữa các ý thức ngôn ngữ
Sự phản biện giữa các ý thức ngôn ngữ là mối tương tác, phản biện
giữa ý thức độc thoại và ý thức đối thoại trong tương quan so sánh giữa
giai đoạn văn học 1945 - 1975 và sau 1975, đặc biệt sau 1986.
Bằng sự cách tân thể loại, cụ thể trong lời văn, tiểu thuyết Việt Nam
đương đại sáng tạo lời nói có khuynh hướng hai chiều khiêu khích đối
thoại. Nhà văn nỗ lực đổi mới Trần Dần (Những ngã tư và những cột
đèn), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Nguyễn Xuân Khánh (Mẫu
Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa)… có những mẫu mực lời văn hai giọng
của ý thức đối thoại.
Bên cạnh việc thiết lập diễn ngôn hai giọng, các nhà tiểu thuyết tạo
nên những đối lập của ngôn ngữ quan phương và phi quan phương. Đó là
ý thức đời hóa ngôn ngữ khi nhà văn phá vỡ tính chuẩn mực để sử dụng
lớp ngôn từ đời thường, thông tục, thậm chí tục hóa. Tiểu thuyết của lớp
nhà văn trẻ đương đại còn dung nạp lớp từ của ngôn ngữ mạng, điện
thoại: blog, comment, entry, chat, internet… Kênh ngôn ngữ này trước
đây chưa từng xuất hiện. Điều này chứng tỏ, sự khai phóng của tinh thần
tự do dân chủ, cởi mở giao lưu văn hóa đã ảnh hưởng rất lớn đến sáng tác
của các nhà văn.
Tiểu thuyết truyền thống (tiểu thuyết sử thi - độc thoại) thể hiện tính
chỉ xuất hiện một tiếng nói quyền uy chi phối của người kể chuyện toàn
tri và hoàn toàn bị khuôn mình vào khuôn thước của thời đại. Tiểu thuyết
20
đa thanh, ngược lại muốn phá vỡ tính thuần nhất giản đơn của lời nói để
phản ánh sắc nét sự va chạm, mất thế cân bằng của các luồng tư tưởng.
Tuy nhiên, không vì thế mà tư duy đối thoại thủ tiêu các hình thức độc
thoại như là hình thức cũ kĩ. Bên cạnh sự bổ trợ và khắc phục tính thuần
nhất của hình thức cũ, giữa các ý thức ngôn ngữ này có sự phê phán,
phản biện lẫn nhau, góp phần tạo nên tính đa thanh của tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986.
4.3. Dân chủ hóa giọng điệu trần thuật
4.3.1. Các sắc thái giọng điệu
Trong giới hạn luận án, chúng tôi chỉ dừng lại ở những sắc thái giọng
điệu tiêu biểu. Tính tương tác, đối thoại của giọng điệu hiện lộ rõ nét, bao
trùm lên tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 là: giọng hoài nghi, tra vấn và
giễu nhại, hài hước.
Điểm gặp gỡ nhau trên tinh thần đối thoại của giọng điệu hoài nghi,
tra vấn ở tiểu thuyết sau 1986 là việc nhà văn không chấp nhận sự thuần
nhất trong suy nghĩ của nhân vật đối với bất kì vấn đề nào. Tính chất
không thuần nhất thể hiện sự bóc tách bản thân một cách trần trụi của
những con người luôn luôn tự ý thức. Ma Văn Kháng (Đám cưới không
có giấy giá thú), Mạc Can (Tấm ván phóng dao), Nguyễn Xuân Khánh
(Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa) tiêu biểu cho sắc thái
giọng điệu này.
Cùng với hoài nghi, tra vấn, giễu nhại, hài hước là giọng điệu chiếm
ưu thế trong tiểu thuyết nói riêng, văn xuôi Việt Nam những năm 90 nói
chung. Người khơi nguồn và thể hiện thành công giọng điệu giễu nhại
tạo nên nguyên lí đối thoại rõ nét phải kể đến Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Việt Hà, Thuận… Công thức chung làm nên kiểu giọng điệu
giễu nhại là sự đối nghịch của hai vế câu, hai ý giữa một bên là nghiêm
túc - một bên là bỡn cợt; một bên là kể, đánh giá khách quan - một bên
giải thích với cái nhìn chủ quan của người kể. Chúng ta có thể nhận ra
một thực tế, các sắc thái giọng điệu trên đều là sự đối nghịch với quan
21
điểm giọng điệu truyền thống. Con người đương đại chấp nhận thách
thức những đối âm của truyền thống.
4.3.2. Sự đan xen, va quệt giọng điệu
Sự đan xen, va quệt giọng điệu diễn ra ở hai cấp độ vi mô và vĩ
mô. Ở cấp độ vi mô: đan xen, va quệt giọng điệu biểu hiện trong lời nói
hướng tới đối tượng của mỗi nhân vật hay giữa các nhân vật; cấp độ vĩ
mô: trong tương quan tác phẩm của tác giả tiểu thuyết để thấy được sự
phong phú, đa dạng của các bè, khái quát để khu biệt với tiểu thuyết giai
đoạn 1945 - 1975. Đây cũng được xem là yếu tố chủ đạo làm nên nguyên
lí đối thoại trong tiểu thuyết sau 1986.
Hình thức của đan xen, va quệt giọng điệu ở cấp độ vi mô và vĩ
mô đều là sự kết hợp có chủ đích hay ngẫu hứng của nhiều sắc thái giọng
điệu khác nhau. Có như vậy, thể loại mới đủ sức chống lại sự đơn điệu để
làm nên tính đa thanh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Tiểu kết: So với tiểu thuyết thời đại sử thi, tiểu thuyết Việt Nam
sau đổi mới đã có những bước tiến đáng trân trọng. Qua đối thoại, cách
thức tổ chức trần thuật bộc lộ rõ ý thức cách tân ở người nghệ sĩ góp
phần làm nên sự phong phú, đa dạng của thể loại. Đa chủ thể tự sự cùng
với sự gia tăng, gấp bội, dịch chuyển điểm nhìn giúp cho người đọc
đánh giá nhân vật từ nhiều hướng, nhiều chiều. Kiến tạo diễn ngôn đối
thoại là sự khám phá sâu sắc đời sống nội tâm nhân vật. Từ đó, người
đọc có cái nhìn soi chiếu, đối sánh đặc thù diễn ngôn của tiểu thuyết sử
thi (1945 - 1975) và tiểu thuyết sau 1986. Đối thoại trên bình diện tổ
chức trần thuật chứng kiến sự phong phú của các bè, các giọng cũng
như sự tương tác, đan xen giọng điệu. Không quá đề cao tính ưu trội
của đối thoại nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tính phổ quát
của nó trong văn học nói chung, tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nói
riêng. Nguyên lí đối thoại trên bình diện ý thức nghệ thuật và tổ chức
trần thuật một lần nữa khẳng định tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
2010 đang hội nhập tự nhiên vào quỹ đạo văn chương thế giới.
22
KẾT LUẬN
1. Đối thoại luận của Bakhtin khởi xướng hệ hình tư duy mới đối lập
với lập trường độc thoại. Tuy nhiên, đối lập không phải triệt tiêu mà hô
ứng để tìm sự khác biệt, sự vận động tiệm tiến, hữu lí. Khởi đi từ luận đề
bản chất đối thoại của ý thức và ngôn ngữ, Bakhtin tiến vào lĩnh vực văn
chương để khám phá hiện tượng đa thanh của tiểu thuyết. Sự thâm nhập
này khơi mở các tầng giá trị của tác phẩm mà hướng tiếp cận theo lập
trường độc thoại vẫn còn để ngỏ. Lập trường đối thoại buộc chúng ta từ
bỏ thói quen nhìn nhận giản đơn để nhập thân vào một phạm vi thẩm mỹ
mới, định hướng sự nhìn nhận thế giới, con người theo một mô hình phức
tạp của chuỗi đối thoại bất tận. Bên cạnh đó, bản thân lí thuyết đối thoại
cũng hút vào nó nhiều sự dẫn giải thú vị. J. Kristeva là người giới thiệu,
tiếp nhận thành công đối thoại liên chủ thể của M. Bakhtin khi khai sinh
ra khái niệm liên văn bản. Cho đến nay, liên văn bản trở thành một trong
những đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa hậu hiện đại.
2. Trong diễn trình phát triển chung của khoa học văn học, lí thuyết
đối thoại Bakhtin đã chứng minh được tính phổ quát của mình. Vì vậy,
sức ảnh hưởng của lí thuyết đối với tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới là
hiển nhiên. Điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của nước ta sau 1975, đặc
biệt sau 1986 là môi sinh tích cực thúc đẩy tinh thần tự do, dân chủ. Đặc
quyền dân chủ tạo nên nguyên lí đối thoại trên tinh thần nhận thức lại.
Tinh thần này khích lệ người nghệ sĩ mặc sức sáng tạo, cách tân trong
sân chơi câu chữ. Mỗi thế hệ nhà văn vẫn đang cần mẫn trên hành trình
tìm ý nghĩa cuộc sống, con người thông qua đối thoại, qua nhìn nhận,
đánh giá đa diện những hiện tượng trong đời sống. Điều này cho thấy,
tiểu thuyết Việt Nam vẫn đang tiếp tục thời hậu hiện đại trên tinh thần
đối thoại lại, nhận thức lại sôi nổi.
3. Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010
triển khai trên hai bình diện cơ bản: ý thức nghệ thuật và tổ chức trần
thuật. Đối thoại trên bình diện ý thức nghệ thuật là khám phá sâu xa nhất
23
những vấn đề được đem ra nhận thức lại, vấn đề nhân vật và đời sống thể
loại. Nhận thức lại, lật lại những vấn đề cũ trong tư duy nhận thức mới,
nhà văn hiện đại còn muốn tạo nên đối trọng, phản biện với lối viết giản
đơn của văn học trước đó. Đạo đức, xã hội; lịch sử, văn hóa và văn học,
nghệ thuật được quy chiếu ở kinh nghiệm cá nhân, vừa chân thực, vừa
phức tạp, gợi sự suy ngẫm về cuộc sống đa âm sắc chứ không quy giản
như sự nhìn nhận bình yên qua lăng kính cộng đồng. Con người không
chỉ khám phá bề ngoài, sau lưng mà được nhìn nhận, khám phá ở bề sâu,
con người trong con người. Đối thoại về quan niệm và cách thức xây
dựng nhân vật đã lược bỏ tính nhất phiến, đơn trị trong miêu tả nhân vật.
Nhiều kiểu dạng nhân vật xuất hiện, mở rộng biên độ đối thoại giữa nhân
vật với nhân vật, nhân vật với người kể chuyện, tác giả và với người đọc
là những đóng góp quan trọng tạo tên nguyên lí đối thoại trong tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986. Đối thoại trong đời sống thể loại gắn với sự
va đập các loại hình diễn ngôn nhờ những thay đổi của khung tri thức,
văn hóa mới. Những đề tài, chủ đề cấm kị của văn học sử thi dần chuyển
vào trung tâm đời sống tiểu thuyết đương đại, và ngược lại. Khuynh
hướng phi sử thi, cảm hứng đời tư, thế sự, nhu cầu thể hiện nỗi buồn, bi
kịch thân phận… trở thành tư tưởng chủ đạo, đối lập với tiểu thuyết giai
đoạn 1945 - 1975. Sự tương tác liên văn bản của lối viết hậu hiện đại làm
nên ý thức đối thoại sôi động trong đời sống thể loại tiểu thuyết Việt
Nam sau đổi mới. Đối thoại trên bình diện tổ chức trần thuật ở người kể
chuyện, điểm nhìn; diễn ngôn đối thoại; giọng điệu đa thanh là sự bổ trợ
đắc lực, làm sáng rõ tư duy đổi mới của các nhà tiểu thuyết. Người kể
chuyện và điểm nhìn không còn độc tôn, một người kể, một người đánh
giá mà luôn luân phiên, trao quyền nhận xét, phản biện lẫn nhau trong
môi trường đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại, đối thoại trong độc thoại hay
phản biện, phê phán giữa các ý thức ngôn ngữ khẳng định tính đa chiều
trong ý thức, tư duy của nhân vật. Cuối cùng, sắc thái giọng điệu phong
phú, đa dạng cùng với sự hòa âm, xen kẽ giữa các giọng tạo nên tính đa
thanh của tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới.
24
4. So với các lí thuyết khác, tính ưu trội của lí thuyết đối thoại nằm ở
việc cải tạo mối quan hệ giữa người - người qua đối thoại, cắt nghĩa con
người ở bề sâu, bề xa một cách công khai, tránh mọi hành vi phán quyết
sau lưng. Tuy nhiên, hạn chế của đối thoại là nếu quá đề cao tính phức
điệu sẽ dẫn đến làm giảm giá trị của độc thoại. Mặt khác, nếu không nắm
được vấn đề cốt lõi của lí thuyết đối thoại Bakhtin là sự bình đẳng cùng
tồn tại của các quan niệm, giá trị đa nguyên, các tư tưởng độc lập thì sẽ
xa rời nội hàm khái niệm, hoặc đối thoại tràn lan, đối thoại nửa vời trong
trường hợp tiểu thuyết Việt Nam. Những ưu điểm, hạn chế và những
vênh lệch, trật khớp này là tất yếu khi vận dụng lí thuyết phương Tây vào
văn học Việt Nam. Dù còn những hạn định, song vai trò lí thuyết đối
thoại Bakhtin đối với việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam là không thể
phủ nhận. Bằng cấu trúc đối thoại, chúng ta thấy được sức sống đích thực
của tác phẩm khi tiếp cận hiện thực, con người trong cự li gần gũi để
nhận ra tính đa diện, nhiều chiều, chưa hoàn tất nhưng sống động của
tiểu thuyết nước nhà từ 1986 đến 2010.
5. Lí thuyết đối thoại là một lí thuyết hay và khó. Bên cạnh phạm vi
áp dụng trong ngôn ngữ và văn chương, nó còn mở ra khả năng ở các
lĩnh vực khác như văn hóa, kinh tế, triết học, tâm lí học… Tính chất liên
ngành của đối thoại là một tập hợp mở gợi dẫn nhiều nhà nghiên cứu tiếp
tục đào sâu trong trạng thái đang tiếp diễn. Trong khi đó ở Việt Nam, các
công trình dịch thuật về lí thuyết đối thoại tương đối ít và chưa thực sự
thành hệ thống, chưa đánh giá hết giá trị tự thân, thậm chí có luồng ý
kiến phủ nhận người khai sinh ra bản thân lí thuyết. Phạm vi áp dụng cho
các trường hợp của văn học Việt Nam nói chung vẫn còn nhiều không
gian để trống. Vì vậy, nghiên cứu lí thuyết đối thoại còn phải dụng công:
ở các lĩnh vực liên ngành, hoặc cụ thể cho một đặc trưng thể loại qua các
thời kì khác nhau trong văn học Việt Nam… Điều này để thấy, phía trước
luận án còn nhiều khoảng trống và đòi hỏi tâm huyết của nhiều nhà khoa
học thực sự chuyên tâm.
HUE UNIVERSITY
COLLEGE OF SCIENCES
LÊ THỊ THÚY HẰNG
DIALOGIC PRINCIPLE IN VIETNAMESE
FICTION FROM 1986 TO 2010
Program: VIETNAMESE LITERATURE
Code: 62 22 01 21
DISSERTATION SUMMARY
VIETNAMESE LITERATURE
HUE - 2016
This study is completed at College of Sciences, Hue University
Supervisor: 1. Assoc. Prof. Nguyễn Đăng Điệp
2. Assoc. Prof. Bùi Thanh Truyền
Reviewer 1: .........................................................................................
........................................................................................
Reviewer 2: .........................................................................................
........................................................................................
Reviewer 3: .........................................................................................
........................................................................................
The dissertation is defensed at Hue University level Graduate
Council at: ..........................................................................................
At….time….date….month…..year…
The dissertation is archived at the library of….
1
INTRODUCTION
1. Topic choice reason
1. Dialogic theory came to life long ago both in real life and in arts. In
low volume, there were reactivities against western arts and trend,
etc...However, as for literary theory, only in Mikhail Bakhtin age,
dialogic spirit became vital and self-developed.
2. The magnetic power of M. Bakhtin emerged on the ground of
intersubjective philosophy of humanism. The intersubjective philosophy
regarded dialogue as the underpinning category. Dialogue is the nature
of mind, the nature of human thought. Further on this issue, in the study
of literary theory, the researcher laid emphasis on the dialogism in novel
genre. The “overarching” dialogic theory by Bakhtincame to existence in
Vietnamese fiction after 1986.
3. The 6th National Congress in 1986 supported Vietnamese literature
in its thought renewal and to look straight into the truth. Novel bear the
chance to reveal its leading function and mission which is to review, to
reaware and reevaluate all. The reawareness set a precedent for the voice
of polyphony, heteroglossia. Typical writers show the reawareness
through dialogue: Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo,
Tạ Duy Anh, Thuận, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Xuân Khánh,
Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn… Each work is a dialogue between the writer
and contemporary thought, creating favorable conditions for the
interactivity among these thought.
4. Adopting M. Bakhtin’s dialogic theory, the dissertation’s topic of
Dialogic principle in Vietnamese fiction from 1986 to 2010 is inclined
to reflect, explore renewed values of Vietnamese fiction in Doi Moi
period on the ground of reawareness. The notion to deviate from the old
path is the start up signal of liberating Vietnamese fiction out of
traditional modes to enter common orbit of international literature. This
is why we select and conduct this study.
2
2. Research objective
The dissertation adopts dialogic theory (mostly by M. Bakhtin)to
exploit dialogic principle in post 1986 Vietnamese fiction on facets of
artistic awareness and narrative organization.
3. Research target and scope
3.1. Research target
The disseration’s research target is typical Vietnamese fiction from
1986 to 2010, among which we focus on works highly valued by
researchers and critics on their dialogic principle compared with previous
period’s works.
3.2. Research scope
The dissertation’s scope is to study Vietnamese fiction from 1986 to
2010 on two main facets: dialogue on artistic awareness and narrative
organization.
4. Theoretical foundation and research methodology
4.1. Theoretical foundation
The dissertation adopts dialogic theory (originated by M. Bakhtin)in
1986-2010 Vietnamese fiction.
4.2. Research methodologies
- Interdisciplinary methodology
- Typological methodology
- Structural-Systematical methodology
- Sychronic and diachronic methodology
5. The dissertation’s contribution
Firstly, the dissertation is an attempt to resystemize knowledge of
dialogic theory at various levels. Crucial theory by M. Bakhtin –the first
theory founder who took credit for improving human iteractivity through
dialogue. Dialogic levels in philosophy-aesthetics, cultural and artistic
thought play an importantly supporting role in theoretical foundation and
conducive hints to analyze characteristics of dialogic principle in post
1986 Vietnamese fiction.
3
Secondly, the dissertation studies features of dialogic theory in the
specific case of post 1986 Vietnamese fiction. On that ground, the author
surveys dialogic iterative facets, forming a principle in fiction. The
adoption of dialogic theory entails opening and multidimensional
viewpoints in this unfinished literary genre.
Thirdly, the dissertation studies dialogic principle on the facets of
artistic awareness and narrative organization to assert renovation and
contribution made by the fiction genre to Vietnamese literature.
6. The dissertation’s structure
Apart from Introduction, Conclusions, References, and Appendix, the
dissertation is elaborated in 4 chapters:
Chapter 1. Research overview
Chapter 2. Dialogic theory and the appearance of dialogic principle in
1986 - 2010 Vietnamese literature
Chapter 3. Dialogism in 1986 - 2010 Vietnamese fiction in artistic
awareness
Chapter 4. Dialogism in 1986 - 2010 Vietnamese fiction in terms of
narrative organization
Chapter 1
RESEARCH OVERVIEW
1.1. Research fact of dialogic theory
1.1.1. Overview of international research fact of dialogic theory
Internationally, in regard to dialogue, it was originated from Socrate
(around 470 - 399 BC). However, in the old age, Socrate dialogue was a
literary genre noted by Plato (around 428 - 348 BC). In the modern age,
in 1920s of the 20th century, M. Bakhtinreturned to dialogic issue not as
a genre but as a characteristic of poetic genre. He prevailed the
heteroglossia, polyphony, and polyphony principle in fiction.
4
Heteroglossia and polyphony are the dialogic features in human spoken
words.
The most successful person in introducing and addressing dialogic
theory was J. Kristeva with intertextuality. Todorov also critically
developed Bakhtin thought and adopted in literary criticism and review.
The author especially laid emphasis on the person who created the text.
After the notion of the author’s death (R. Barthes), the deconstructor
Derrida realized that literary work was not a typical linguistic form but a
typical reading form.
Therefore, dialogic theory was attached toM. Bakhtin’s reputation
early 20th century. Late 20th century and early 21st century, it developed
and changed into various directions: from characteristics of poetic genre
to adoptive theory.
1.1.2. The fact of adopting and studying dialogic theory in Vietnam
In Vietnam, in literature review, we consider the starter of dialogic
theory by Bakhtin to be Trần Đình Sử with the writing “M. Bakhtin and
poetry of Dostoievski”, published on Journal of Military Arts in 1985.
However, the first author who approached and came out with translation
work of Bakhtin’s definition was Phạm Vĩnh Cư through Theory and
fictional poetry(1992). Accordingly, Dostoievski’s poetic issues(1993)
translated by Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn proved
literary mindset of Bakhtin about a representative figure considered to be
the complexity of Russian literature. Dialogue is the encircling
demonstation which reveals renewals in Dostoievski’s novel. Then,
Fiction arts (M. Kundera), Mikhail Bakhtin - Dialogic theory (Todorov),
Looking for smiling truth (Umberto Eco), etc...also mention the
dialogical characteristic, polyphony and heteroglossia in novel.
Beside the translation, writings and works focus the study on dialogic
theory of Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu, Đặng Anh Đào,
Trương Đăng Dung, Nguyễn Đăng Điệp, etc...which brought about
sophisticated remarks. Besides, the interest in translating Chinese literary
5
research proved the theory’s importance as for Vietnamese and
international literary review.
1.2. The adoption of dialogic theory in Vietnamese literary and
fictional reseach from 1986 to 2010
1.2.1. The adoption of dialogic theory into Vietnamese literary research
The adoption of dialogic theory into Vietnamese research has not
been appropriately interested. However, some remarkable writings can be
found.
Researcher Trần Đình Sử applied it into 2 typical literary works,
which are: “Dialogic theory and narrative arts in Chí Phèo short story by
Nam Cao” (published in Literature Journal No. 12 - 1998) and “The
theory of art tone by Bakhtin and sympathy in Truyện Kiều” (published
in Literature Journal No. 12 – 1999). Writing about Vũ Trọng Phụng, Đỗ
Đức Hiểu and Nguyễn Thành found the polyphony and heteroglossia
made by the writer compared with contemporary authors. Nguyễn Đăng
Điệp let oneself be “Gone with Nguyễn Huy Thiệp’s trend” and realizes
the philosophy in related stories. Châu Minh Hùng concerns the
heteroglossia through the writing of “The search for new form of
heteroglossia of modern prose through Nguyễn Huy Thiệp short stories’
structure”. Nguyễn Văn Thuấn studies short stories written by this author
directly under dialogic viewpoint in doctoral dissertation, etc... Nguyễn
Thị Bình’s work of 1975 - 1995 Vietnamese prose: basic changes (2007)
and Phùng Phương Nga’s writing depicted on short story and novel, etc...
However, there is still a shortage of specified and comprehensive
work of dialogic theory in variour period and genre. This is the gap we
try to fill in when we study this topic.
1.2.2. The adoption of dialogic theory into Vietnamese novel research
from 1986 to 2010
Dialogic theory has been applied in Vietnamese novel since 1986.
Nguyễn Thị Bình’s writing (“Nguyễn Khải and fictional thought”)
(published in Literature Journal No. 7 – 1998); Đỗ Đức Hiểu (“Reading
6
Phạm Thị Hoài”, “Love destiny by Bảo Ninh”) (2000); Phạm Xuân
Thạch (“War pain on post-war-from heroism to the need of writing style
change”) (2004); Nguyễn Đăng Điệp (“Nguyễn Xuân Khánh’s novel:
cultural and historical discourse”) (2012); Thái Phan Vàng Anh
(“Dialogic feature in Nguyễn Xuân Khánh’s novel”) (2012)… survey
specific authors and works after 1975, (typical examples noted in post-
1986 novels 1986), the identified dialogue in language: Nguyễn Bích
Thu “The notion of renewal in post-1975 Vietnamese fiction” and Mai
Hải Oanh’s work of Artistic renewals of contemporary Vietnamese
ficiton. Besides, some master theses which applied directly dialogic
viewpoint by Bakhtin still paved the way for other important aspects and
theories to establish dialogic principle.
Inheriting and broadening the theory, we identify post 1986
Vietnamese fiction under the viewpoint of dialogic theoryy,
benchmarking to clarify the impact on the definition and descriptive
method compared to those in previous phase.
Sub-Conclusion: In general, the theory: the presentation, translation
convey the core problems in the theory of dialogue typical aspects of
genre poetics. About applying theory, the article focuses on some cases
of short stories and novels. However, the extensiveness of applying
theory to fiction genre Vietnam is still a large gap to the subject can be
exploited.
Chapter 2
DIALOGIC THEORY AND THE APPEARANCE OF DIALOGIC
PRINCIPLE IN 1986-2010 VIETNAMESE LITERATURE
2.1. Viewpoints of dialogic theory
2.1.1. Bakhtin’s viewpoint
First and foremost, Bakhtin’s dialogic theory prevails that dialogic nature
of mind and language, setting the tone for analyzing language on new facets.
7
The search and proof for the justification of the treatise of dialogic nature of
mind and language with the principle of human spoken words always
contain dialogism are deployed by Bakhtin in general, and Dostoievski,
Rabelais’s works in particular. He considers fictionality as dialogism. As
for Dostoievski’s novel – the researcher recognizes dialogue’s standards
with polyphony/heteroglossia. Heteroglossia demonstrates various voices
or two-voice discourse and voices which are equal to one another.
Therefore, the researcher initiated a new science – metalanguage which
studies language in the form of spoken words. The localized subjectivity
of metalanguage is dialogic relationship, even the dialogic relationship
between the speaker and his/her own words.
Beside the dialogic definition in the spoken words themselves, other
crucial issues such as: the relative independence between character and
author, characteristics of genre, structure and plot through the survey of
Dostoievski’s novel and sarcastic, humorous spirit in Rabelais. This is
the look of dialogic theory.
Finally, in dialogic viewpoint, language is always set in the thorough,
vital, concise form with the certain social life. The nature of Bakhtin’s
language is dialogic because it is the venue and controversy of different
viewpoints of human being and the world.
2.1.2. Other viewpoints
The most successful author in introducing and addressing dialogism is
Julia Kristeva (1941 - ). She analyzes Bakhtin’s thought and addresses
intertextuality to replace dialogism/intersubjectivity. As for Bakhtin,
linguistic context is social context. As for Kristeva, linguistic context is
the surrounding texts.
Two years after Kristeva’s essay, R. Barthes in the writing of The
author’s death defines that, every text is intertext to another text. It is
regarded as characterized feature of every text.
The true significance of the intertextuality by Kristeva upon
introduction of Bakhtin is more clarified in signal theory by J. Derrida.
8
He addresses that there is no superficial layer of text, that reading the text
is equal to writing the text in the task of creating the text’s meaning, or
even the writing means the reading.
In the latter half of 80s in the 20th century, M. Foucault was interested
in dominating discourse principles which came to life. The researcher
met with Bakhtin when placing the importance on social context to be
verbalized context. However, M. Foucault was derailed of the discourse
in terms of linguistics, asymptotic philosophy and thought school.
The adoption, reception and involvement of Bakhtin’s theory through
constructors and post constructors are clearly demonstrated. At present,
the definition of intertextuality by Kristeva upon introduction of Bakhtin
becomes one of the crucial theories of post modernism.
2.2. Levels of dialogism
2.2.1. Dialogism in philosophy-aesthetics
Dialogism on facets of philosophy-aesthetics by Bakhtin was
originated from the genre of Socrate-typed dialogism. Dostoievski’s
heteroglossia novel is built on the ground of different genre traditions in
the development of European prose, including Socrate. Dialogism is the
humanism philosophy by Bakhtin with remarks: dialogism is the nature
of mind, of reasoning; wherever awareness begins, there is dialogism.
The aim to renovate the relationship between human and human by
dialogism is the sophisticated humanism philosophy which Bakhtin has
been inclined to.
As for dialogic nature of mind and words, Bakhtin’s philosophy-
aeesthetics notion covers the relationship between the author and the
character-who always bears independent and equal voices. When the
character acts in an artistic structure, it develops in a separate rule,
becoming independent entities. The independence enables the
relationship to be communicative and dialogic.
9
Dialogism in Bakhtin’s philosophy-aesthetics is humanistic. Because
Bakhtin always objects to human criticism behind the back, and human
being never criticize him/herself.
2.2.2. Dialogism in cultural thought
While looking for dialogic nature of fictional genre, M. Bakhtin
approaches Rabelais’s cultural thought through the work of Fransois
Rabelais’s works and folk culture in the Middle Age and the Renaissance
(1965). The work’s title implies two solved issues: to reveal artistic
features of Rabelais laughter and to clarify the relationship between that
laughter and folk culture. Bakhtin’s cultural thought is attached with
laughter or the laughter culture of carnival.
Dialogism in cultural thought by Bakhtin so far has outreached fold
carnival frame. Applying Bakhtin’s discoveries and achievements of
cultural humanism, Todorov advocates and encourages the
communication among culture and literature throughout the world.
The transformation of cultural “body” in Bakhtin’s literature is the
desacralization dialogue towards tradition to create laughter. From
opening dialogic thought on literary facet to cultural one, researchers
open up intercultural dialogism research among nations, wiping out the
autonomy of a monolatrism culture, bringing about equality and freedom
internationally.
2.2.3. Dialogism in artistic thought
Literature is a holistic form of arts. Literary feature connects with
other artistic forms. On the contrary, artistic forms contribute to elevating
literary values. This is also intertextual dialogism according to Kristeva.
Dialogism in artistic thought is demonstrated on facets of writing,
adopting and criticizing. This plays an important role in artistic and
literary life. Each facet is improved on the spirit of freedom. Therefore,
artistic life is broadening because human issues are interpreted in open
up and dialogic method.
10
2.3. The emergence of dialogic principle in Vietnamese literature
from 1986 to 2010
2.3.1. Emerging ground of dialogic principle in Vietnamese literature after
1986
Late 1986, the 6th Communist Party Congress marked the renovation
and democracy in the thought and awareness. The fact that literary trend
changes from politics to culture are one of the important factors which
impact the establishment and implementation of literary discourse after
1986.
Page-turning history and culture helps socio-economic life with
crucial steps of development. It is the transition from subsidized
mechanism to market economy under globalization trend. Mass media,
information technology, internet culture and translation literature also
remarkably impact artistic and literary life.
Changes in historical, cultural and social life are precedent for
dialogic principle to exist in Vietnamese literary life in general and novel
in particular under the re-awareness.
2.3.2. Demonstrations of dialogic principle in 1986-2010 Vietnamese
literature
Apart from the objective rule, the self-movement of literature
outreaches regulations and monoglossia to come to heteroglossia.
Therefore, dialogic principle attached with complex of re-awareness in
post 1975 Vietnamese literature, especially after 1986 was indispensable.
In post-renovation literary genres, dialogic principle is clearly
demonstrated most notably in novel. However, in each phase, dialogism
appeared with different degrees. From Tố Tâm, Tự lực văn đoàn prose,to
the works by Vũ Trọng Phụng, Nam Cao (two distinguished authors of
critical reality literature), dialogic spirit appeared and showed its
sharpness in Vietnamese literature.
11
Early 20th century, in 30 years of revolutionary literature (1945 -
1975), dialogism has not become the dominating principle in Vietnamese
literature. After 1975, especially1986, dialogic principle became
widespread phenomenon, outgrowing its primitive form. Demonstrations
of dialogic principle in Vietnamese contemporary fiction are really
diverse. Works of Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Xuân Khánh, Hồ
Anh Thái, Cao Duy Sơn, Thuận, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Việt Hà... straightforward sets the issue and makes the dialogue
with various viewpoints and theories, etc…traditional macro texts.
Through democratic dialogism, Vietnamese fiction is approaching and
getting aligned with the modern feature of international novel.
Sub-Conclusion: In chapter 2, we brief on dialogic theory,
theory adoption, levels of dialogism, and to assert the appearance of
dialogic principle in literature in general, and in post 1986 Vietnamese
novel in particular. On selecting and combining explications of dialogic
theory by researchers (most notably Bakhtin), we set the viewpoint as the
theoretic ground to deploy as for Vietnamese novel from 1986 to 2010 as
follows: dialogism is the nature of mind and thought of human being
through language. It is the intersubjective and intertextual structure
which clearly illustrates contemporary cultural and thought. By
connecting the theory with our topic, we study dialogic characteristics
with typical adoptive features in Vietnamese novel from 1986 to 2010 on
the facets of artistic awareness and narrative organization.
Chapter 3
DIALOGISM IN 1986-2010 VIETNAMESE FICTION IN
ARTISTIC AWARENESS
3.1. Dialogism in terms of completed values’re-awareness
3.1.1. Ethical and social values
12
Vietnamese novelists sense the difference between reality and traditional
ethical values. Contemporary upheavals, break ups, mistrust and ethic appear
a great deal in fiction: Ma Văn Kháng, Chu Lai, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Khắc
Trường, Võ Thị Hảo,... Typical issues/categories are discussed: good deed-
evil, family ethics, virgin, tradition (order) – presence (chaos). This is also a
fictional function, as described by Bakhtin to always re-aware, re-explicate,
and re-evaluate.
The awareness of content is seen from the title (Goodbye darkness,
Human world calls apocalypse), or to put on another larger shirt than
itself as in the case of foetus character, the baby talking about ethics,
good deed-evil, etc…are limits of re-awareness spirit of moral and social
values.
However, through dialogism, authors assert noble humanistic value to
be pertained and used for all ages. Overcoming standards, in reality,
values are thought to be frozen but cannot be completed. There are
hidden corners for people to revise and sympathize.
3.1.2. Historic and cultural values
After1986, writing is considered to be the need to be re-aware of
history and culture, which is an optimal trend of Vietnamese fiction.
Among various choices, to continue writing, re write or to borrow history
as an excuse for authors to develop and publicize individual thought,
invigorating literary environment. Through historic reviews, culture is
also revealed. Through the re-awareness of historic and cultural values,
there are prevalent issues: to be re aware of war from humanistic and
individual viewpoint; indulgence need and perception, historical re-
explication (disclose secrets, undercover; analyze hidden corners of
individual life, destiny; historical assumptions); search for, explicate
forming components of culture and national identity in postmodern
sense, flat space, etc…
13
Apart from the re awareness, the author forecasts audience of
overwhelming movement of history and culture. In which, we recognize
values to be pertained, developed, things to be revised, risks to which we
are subjected to, at the same time, we are the criminal. This is a look of
rich humanistic value.
3.1.3. Literary and artistic values
As for dialogic theory, with the re-awareness spirit of completed
values, the re-awareness of literary and artistic values is also one of
permanent and iterative issues in post 1986 novel. The demonstration of
dialogic principle in terms of literary and artistic value is the fact that the
writer directly shows his/her artistic/literary viewpoint. Creating writer-
typed character, explicating the relationship between the writer and the
work, clarifying the creativity viewpoint of the writer, the significance of
the writing act, reading the text; elevating the true artist’s role in the
journey of creativity ; the narrator, writer make dialogue with audience
right on the text; dialogue with classis author and work to bring literature
and art to approach the audience, even to desacralize literature, to
desacralize the writing act itself...are distinguished characters.
By the interactive, contrary voice, literary and artistic issue of post
1986 novel are contemplated by the audience. Previous viewpoints of
literature and arts or the literary and artistic status at present are
considered, reviewed by the objectivity of the author through character
world.
3.2. Dialogism in terms of character
3.2.1. Viewpoints of character
After 1986, the traditional division of character form was rejected by
novelists. Characters who are reflected and explored are illustrated in
various facets : conscious, unconscious, spirit, instinct, aspiration,
individual, human kind, etc…The viewpoint of character outgrows the
one-way, rigid view to reach multidimensional, comprehensive and
sophisticated view.
14
Apart from refusing to delineate, post 1986 Vietnamese novelists
always place characters in the process of self-awareness, to be in the
middle of being aware and unfinished. Creating various voices of a
number of viewpoints and thoughts in certain social environment is
definitely the demonstration of dialogic principle in terms of self-
awareness.
Dialogic principle in terms of character in post 1986 novels made big
difference compared to previous epic literature. This means that we
acknowledge attempts of renewals by contemporary Vietnamese
novelists in terms of character.
3.2.2. Character building method
Attached with the viewpoint difference is dialogic principle in
character building method of post 1986 Vietnamese novelists. First of all,
dialogism in character building method refuses typicality. The character
does not know about itself in advance, its existence is put together from
memories’ fractures with unconscious obsession. Equal relationship
between characters and author’s ground is also the demonstration of
dialogic principle in building character.
Identifying post 1986 Vietnamese novel’s character has certain
differences compared to previous literature, even the writer would like to
interact, verify present viewpoints. In spite of limitations, the audience
appreciate contributions made by novelists in renewing literature through
literary dialogue in terms of character.
3.3. Dialogism in genre’s life
3.3.1. In terms of peripheral-central issue
Dialogic principle in genre life in terms of peripheral-central issue is
exploited by broadening topic scope. The culture of desacralization on
the spirit of carnival is the complementing factor.
Renovated literature in general, fiction in particular publicly illustrate
taboos which were not reflected in the period of 1945 – 1975. Bảo Ninh,
Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường,
15
Hoàng Minh Tường, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà’s… works reveal the
need to outreach traditional literary frame in terms of genre. Post 1986
novelists’ works reach out to topics of war, land reform, historic topic,
love, sex, homosexual, etc…Revolutionary literary frame is no longer
appropriate with contemporary development. In dialogism, changes of
each period is the overwhelming feature of central discourse and the
peripheral weakness. However, it has been proved that there is the paralel
existence of center and periphery in literary life. Periphery in literature in
general and fiction in particular give birth to valuable works. Post-
renovation novel life changes to be more colourful compared to itself in
the period of 1945 - 1975.
3.3.2. In terms of modern-postmodern issues
Dialogism of genre life of modern-postmodern form in post 1986
Vietnamese novel, which is exploited on the ground of the product of
writing style : genre mixture, sarcasm, quotation, interactivity, connectivity
among texts (traditional-modern, orthodox-unorthodox, artistic, culture,
religious forms, etc…). While illustrating intertextuality/genre
interactivity, post 1986 novels involve other definition/forms of
postmodernism such as vague feature, fracture.
Post 1986 novels witness the genre interactivity and mixture among
play, narration, poetry, short story, legend in novel (the interactivity
outside the system, most notably in the vague feature in novel’s plot) in the
works of Nguyễn Khải, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà, Hoàng Minh Tường, Ma Văn Kháng, Nguyễn
Xuân Khánh…
The blurring and mixture of novel genre always blend in among the
new and the old more clearly and determinantly compared to itself in
previous age. The strong attraction and integration of genres with various
huamn demonstrations enable novel life to be back to its unfinished
nature.
16
Sub Conclusion: Hence, dialogism in terms of artistic awareness
exploited on the spirit of re-awareness of finished and dialogic value
under viewpoint and principle of building character, genre life covers the
most crucial issues of contemporary Vietnamese ficiton. Old values are
reborn because seemingly outdated issues are brought on the table. New
values are born, and start up with the journey to test themselves. Changes
of viewpoint and principle of building character are reviewed in
accordance with 1945 – 1975 novel. Reviewing this wholeheartedly, epic
novels still bear dialogic thought. However, collective person (1945 -
1975) and individual, multifaceted, complex person (after 1986) ask for
themselves a newer demonstration. The review of principle and
definition of building character between periods is completely
reasonable. Novel genre life is put on another mask when integrating in
itself the contemporary discourse code. Periphery-center, modern-
postmodern with specific demonstration of broadening topic scope,
subject, freely be attracted to novel part of other genres, which creates
new discourse. Dialogic sense is typically characterized which create
experience and genre renewal compared to itself.
Chapter 4
DIALOGISM IN 1986-2010 VIETNAMESE FICTION IN TERMS
OF NARRATIVE ORGANIZATION
4.1. Narrator organization and narrative point of view
4.1.1. Multiple narratives
As for Bakhtin, heteroglossia is the simultaneous organization of
various voices. Accordingly, multiple narrative or the choice of narrative
method or narrative perspectives is one of determinant factors to build
heteroglossia voice in post 1986 Vietnamese novel. This can be found in
the works of Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình
Phương, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Trần Dần, Nguyễn Danh Lam, Đỗ
Phấn… Each character is entitled to judge and conclude about other right
17
after that; however, there is no final judgement. It is still calling for
dialogue.
Multiple narratives contribute to help post-renovation novel to break
the arbitrary of the narrator to create dialogue as well as the interactivity
between the narrator and the character. Overcoming the arbitrary, one-
way narrating style, this method brings the heteroglossia and multiple
viewpoints for the work.
4.1.2. Improving narrative perspectives
After renovation, the narrator loses the overall role and improves,
double narrative perspectives. By improving narrative perspectives,
viewpoints with different narrative organization (blending, movement,
contrast, complement, excluding, reviewing, etc...) are attached with
narrative perspective, point of view, and viewing context, which reveals
hidden or publicized dialogism. Bảo Ninh (War pain), Chu Lai (Begging
from the past), Nguyễn Trí Huân (Flying swallow), Ma Văn Kháng
(Wedding without married paper), Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly,
Mẫu Thượng Ngàn, Bring rice to pagoda), Võ Thị Hảo (Bale-fire),
Nguyễn Việt Hà (God’s chance, Late Revelation, Three human
pepspectives, etc...) are novels flexibly and interchangeably combining
inner narrative perspective and outer narrative perspective. The
improvement and doubling narrative point of view brings interesting
discoveries to review life and human being in-depth.
Improving and doubling narrative perspective is the evidence of
democracy and renovation of genre compared to 1945 – 1975 literature.
Characters are reflected under various corners, the evaluation method
creates multiple narratives. To give up the univocality in narrative
method is an attempt of renewal by each writer and novelist in post 1986
Vietnamese fiction towards dialogism.
4.2. Constructing dialogic discourse
4.2.1. Dialogic language among characters
18
After 1975, changes of genre thought created real dialogues. Each
character upon utterance is an independent mind, and the dialogue
becomes the interactivity among mindsets and various voices on the
same text. At related venue, the meeting and collision of character mind
is not set by the author. Dialogue is no longer the means. It is self-
determined purpose as called by Bakhtin. Old age (Lê Lựu), War pain
(Bảo Ninh), Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Bring rice to pagoda
(Nguyễn Xuân Khánh), God’s chance (Nguyễn Việt Hà)… have dialogic
standards among characters. Accordingly, two voices are split, and
integrated into one another.
Not only Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình
Phương… on the spirit of renovation, freedom, democracy, post-1986
Vietnamese fiction builds different and strange voice compared to the
genre itself from dialogic principle. Character personality and destiny are
revealed by common conversation, however, there is modern thought
inside. Apart from character conversation, the author conveys the review,
reminiscent and reflection in life.
4.2.2. Dialogism in inner monologue
After renovation, personal awareness develops, as people are free to
align to themselves. Dialogue in inner monologue becomes diamagnetic
subject of character. Focusing on itself, inner monologue is attached with
unconscious ego. Prominent writers leave remarkable milestone in the
demonstrative process of unconscious character through inner dialogue.
Bảo Ninh (War pain), Dương Hướng (Husband-less dock), Đoàn Minh
Phượng (And in the ashes), Mạc Can (Knife-throwing board), Dạ Ngân
(Small family), Nguyễn Khải (God smiles), Trần Dần (Roundabout and
lampposts)… have a lot of contemplating inner conversation.
Post 1986 novels build intense dialogue or dialogue in inner
monologue. Maybe it is sophism, self-assurance, self-pity, to question or
to split to analyze one’s ego, etc…each character with each colliding
19
voice show the unidentical feature in the reviewing way by the character
to itself and to other character in human livelihood.
4.2.3. Criticism among linguistic awareness
Criticism among linguistic awareness is the interactivity and criticism
between monologue and dialogue awareness under the comparison
between 1945 - 1975 literature and post 1975, especially post 1986
literature.
By genre renewal, especially in the written word, contemporary
Vietnamese novels create utterance which is inclined to be two-way
provocative dialogue. Updated writers who are Trần Dần (Roundabouts
and Lamp posts), Bảo Ninh (War pain), Nguyễn Xuân Khánh (Mẫu
Thượng Ngàn, Bring rice to pagoda), etc…have standards of two-voiced
utterance of dialogic awareness.
Apart from establishing double-voiced discourse, novelists create
contrast of principled and unprincipled language. It is the awareness to
convert to real life language when writer break the standard to use real-
life words, which are exploited in a casual way. Novels by contemporary
young authors involve word layers of internet, telephone language: blog,
comment, entry, chat, internet, etc...This linguistic channel has not
showed up previously. This proves that the liberation of democracy and
freedom, free cultural integration impact a lot to authors’ works.
Traditional fiction (epic-monologue) shows the appearance of
univocal determinacy by the overall narrator who is framed into
contemporary frame. Heteroglossia novel, by contrast breaks the
simplicity and univocality of the utterance to reflect the collision and
imbalance of various thoughts. However, this does not lead to the fact
that dialogic thought gets rid of monologic forms which are old-
fashioned. By complementing and restoring univocality of old-fashioned
form, among these linguistic awareness, there is always criticism, review
which contribute to heteroglossia of post 1986 Vietnamese fiction.
4.3. Democratize narrative tone
20
4.3.1. Narrative tones
In this study, we focus on typical narrative tones. The interactivity
and dialogue of tone are revealed clearly, which is a comprehensive
feature in post 1986 Vietnamese fiction: sceptical, questioning and
sarcastic, humorous.
The venue on the spirit of dialogue of sceptical and questioning tone
in post 1986 fiction is the fact that the author does not accept the
homogeneity in character’s thinking as for any issue. The heterogeneity
reveals the self-strip of self-aware human being. Ma Văn Kháng
(Wedding without married paper), Mạc Can (Knife-throwing board),
Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Bring rice to
pagoda) are typical for this narrative tone.
Together with scepticism, question, sarcasm, humour is predominant
tone in fiction in particulare, and in 1990s Vietnamese prose in general.
The start-up and successful authors to make sharp dialogic principle are
Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Thuận… Common
formulation for the sarcasm is the contrast of two phrases, when one is
serious and the other is sarcastic; one is to tell, to evaluate objectively,
while the other explicates with subjective view of narrator. We can
recognize one reality; those tones are contrary to traditional tone.
Contemporary human being accepts the challenge of traditional
counterpoint.
4.3.2. The integration of tone
The integration of tone occurs in macro and micro levels. At
micro level: tone integration is shown in the utterance which is inclined
to the target of each character or among characters; at macro level: in the
interactivity of works by authors, there is diversity and abundance to
localize against fiction in the period of 1945 - 1975. This is considered to
be prominent factor of dialogic principle in post 1986 fiction.
The integration of tone at macro and micro levels are
spontaneous or intentional combination of various tones. The genre is
21
able to fight against the monotonous feature to create heteroglossia in
contemporary Vietnamese fiction.
Sub Conclusion: Compared to epic fiction, post-renovation
Vietnamese fiction has seen remarkable advancement. Through
dialogue, narrative organization reveals clearly renewed awareness by
artists to bring about the diversity of the genre. Multiple narrative
together with improving and doubling, moving narrative points of view
help audience evaluate character from various perspectives.
Constructing dialogic discourse is the sophisticated discovery of
character’s inner life. Hence, the audience is provided with the view of
reflection, benchmarking discourse features of epic fiction (1945 -
1975) and post 1986 fiction. Dialogism in terms of narrative
organization witness the diversity of musical parts, voices and
interactivity, integration of tone. Although we do not overwhelmingly
highlight the predominant feature of dialogue but we cannot deny its
general feature in literature in general, post 1986 Vietnamese fiction in
particular. Dialogic principle in terms of artistic awareness and
narrative organization once again asserts that 1986-2010 Vietnamese
fiction is integrating naturally in the literary orbit of the world.
CONCLUSIONS
1. Dialogism by Bakhtin initiates the new thought contrary to
monologic standpoint. However, the contrast does not the deletion; it is
the supporting to find out differences, the reasonable movement. Starting
up with dialogic nature of mind and language, Bakhtin studies literary
area to discover heteroglossia of fiction. This integration opens up values
of works which are unknown when they are approached by monologic
standpoint. Dialogic standpoint enables us to give up the simple habit of
viewing to get involved in a new artistic scope, to navigate the view upon
the world, upon human being into a complex model. Besides, dialogic
22
theory itself attracts various interesting explication. J. Kristeva is
successful in introducing and receiving intersubjective dialogue by M.
Bakhtin when giving birth to the definition of intertextuality. So far,
intertextuality becomes one of the most important characteristic of
postmodernism.
2. In the development process of literary science, dialogic theory by
Bakhtin proves its general feature. Therefore, the impact of theory on
post-renovation Vietnamese fiction is obvious. Historic, cultural and
social conditions of our country after 1975, especially after 1986 are
encouraging factors for the spirit of freedom and democracy. Democracy
create dialogic principole on the spirit of re-awareness. This spirit
encourages artist to create and renew in the world of utterance/word.
Each writer generation is hard working to find the significance of life, of
human being through dialogue, review, and multifaceted evaluation on
phenomena in life. This shows that Vietnamese fiction is undergoing the
postmodernism on the spirit of vital re dialogue, and re-awareness.
3. Dialogic principle in Vietnamese fiction from 1986 to 2010 is
exploited under two facets: artistic awareness and narrative organization.
Dialogism in terms of artistic awareness is to explore in-depth issues to
be re-aware of, character issue and genre life. Re-awareness, reviewing
old-fashioned issues in new model of thought, modern writer would like
to create the counterbalance and criticism with simple writing style of
previous literary form. Issues of ethic, history, culture and literature, arts
are reflected as individual experience which is genuine, complicated,
implying thinking of heteroglossia life, which is not as simple as viewed
under community perspective. Human being is not only exploited on the
outside or behind but in-depth, person in person. Dialogism in terms of
viewpoint and method of building character delete the univocality and
homogeneity in describing characters. Various character types appear,
broadening dialogic scope between characters with character, character
with narrator, author with audience, which are important contribution for
23
the establishment of dialogic principle in post 1986 Vietnamese fiction.
Dialogism in genre life is attached with integration of discourse form
thanks to changes of new intellectual and cultural frame. Taboo topic and
subject of epic literature move to the centre of contemporary fiction life
and vice versa. Besides, dialogism in terms of narrative organization,
narrative point of view, dialogic discourse, and heteroglossia are useful
complementing factors to clarify renewed thought of novelists. Narrator
and narrative perspective are no longer in autonomy, one tells, one
evaluates. They interchangeably criticize and evaluate in dialogic
environment. Dialogic language, dialogue in monologue or criticism
among linguistic awareness asserts the multidimension in the awareness
and thought of the character. Finally, diverse tone combined with other
integration creates heteroglossia of post-renovation Vietnamese fiction.
4. Compared to other theories, the dominance of dialogic theory is
placed in the reform of human relationship through dialogue, to define
human being in-depth publicly, avoiding criticism behind the back.
However, dialogue’s drawback is the fact that if we elevate
overwhelmingly the polyphony, the value of monologue is degraded. On
the other hand, if we cannot fully understand Bakhtin’s dialogic theory
which is the equal existence of viewpoints, values of pluralism, of
independent thought, we would be away from definition’s significance,
or overwhelming dialogue, or half-way dialogue as in the case of
Vietnamese fiction. Strong points, drawbacks and differences are obvious
when applying western theory into Vietnamese literature. In spite of
limitations, the role of Bakhtin’s dialogic theory on Vietnamese fiction
research is undeniable. By dialogic structure, we find the true life of
works when approaching reality, human in close-up space to explore the
multifaceted, multidimensional, and unfinished but vital of Vietnamese
fiction from 1986 to 2010.
5. Dialogic theory is an interesting but difficult theory. Apart from the
application in literature and language, it opens up other possibilities in
24
other areas such as culture, economics, philosophy, psychology,
etc...Interdisciplinary feature of dialogism is an open collection to incite
various researchers to exploit more deeply in continuing status.
Meanwhile, in Vietnam, translation works of dialogic theory are limited
and not systemized. They do not really assess the self-esteem. There is
even ideas which reject the author who initiated the theory. Application
scope for cases of Vietnamese literature is still enlarged. Therefore, study
of dialogic theory must involve interdisciplinary areas, or specifically for
one genre characteristic at various periods in Vietnamese literature,
etc...This shows that, there are still a lot of undiscovered areas apart from
this dissertation which demands intensive endeavour from dedicated
researchers.