Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ...

49
Tìng biãn tâp PGS.TS.KTS. Lã QuÝn Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn ChÔ tÌch Hîi ½ëng PGS.TS.KTS. Nguyçn TuÞn Anh TS.KTS. Ngé ThÌ Kim Dung PGS.TS. Lã Anh DÕng PGS.TS.KTS. PhÂm TrÑng Thuât TS.KTS. VÕ An Kh¾nh Thõñng trúc Hîi ½ëng Biãn tâp v¿ TrÌ sú TS.KTS. VÕ An Kh¾nh Trõòng Ban Biãn tâp CN. VÕ Anh TuÞn Trõòng Ban TrÌ sú TrÉnh b¿y - Chä bÀn ThS. Trßn Hõïng Tr¿ To¿ soÂn PhÎng Khoa hÑc Céng nghè Trõñng }Âi hÑc Kiän trÒc H¿ Nîi Km10, ½õñng Nguyçn TrÁi, Thanh XuÝn, H¿ Nîi }T: (84-4) 3854 2521 Fax: (84-4) 3854 1616 Email: [email protected] GiÞy phÃp sê 651/GP-BTTTT ng¿y 19.11.2015 cÔa Bî Théng tin v¿ Truyån Théng Chä bÀn tÂi: Trõñng }Âi hÑc Kiän trÒc H¿ Nîi In tÂi nh¿ in Nh¿ xuÞt bÀn XÝy dúng Nîp lõu chiæu: 03.2018

Transcript of Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ...

Page 1: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

Tìng biãn tâp PGS.TS.KTS. Lã QuÝn

Hîi ½ëng khoa hÑc

PGS.TS.KTS. Lã QuÝn ChÔ tÌch Hîi ½ëng

PGS.TS.KTS. Nguyçn TuÞn Anh TS.KTS. Ngé ThÌ Kim Dung PGS.TS. Lã Anh DÕngPGS.TS.KTS. PhÂm TrÑng Thuât

TS.KTS. VÕ An Kh¾nh Thõñng trúc Hîi ½ëng

Biãn tâp v¿ TrÌ sú TS.KTS. VÕ An Kh¾nh Trõòng Ban Biãn tâp

CN. VÕ Anh TuÞn Trõòng Ban TrÌ sú

TrÉnh b¿y - Chä bÀn ThS. Trßn Hõïng Tr¿

To¿ soÂnPhÎng Khoa hÑc Céng nghè Trõñng }Âi hÑc Kiän trÒc H¿ NîiKm10, ½õñng Nguyçn TrÁi, Thanh XuÝn, H¿ Nîi}T: (84-4) 3854 2521 Fax: (84-4) 3854 1616Email: [email protected]

GiÞy phÃp sê 651/GP-BTTTT ng¿y 19.11.2015 cÔa Bî Théng tin v¿ Truyån ThéngChä bÀn tÂi: Trõñng }Âi hÑc Kiän trÒc H¿ Nîi In tÂi nh¿ in Nh¿ xuÞt bÀn XÝy dúngNîp lõu chiæu: 03.2018

Page 2: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

2 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 3 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª ContentsNumber 29/2018 - Science Journal of Architecture & Construction

MÖc lÖcSê 29/2018 - TÂp chÈ Khoa hÑc Kiän trÒc - XÝy dúng

Khoa hÑc v¿ céng nghè

4 Thiết kế thụ động lớp vỏ công trình văn phòng cao tầng tiết kiệm năng lượng tại Hà Nội

Lê Quân

7 Tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam

Ngô Thám

10 Phân loại các điểm nhìn trong không gian kiến trúc thị trấn Sapa

Trần Thị Thu Phương

13 Ứng dụng GWAS để quản lý kiến trúc - cảnh quan các tuyến phố chính của thành phố Bắc Giang

Vũ Lê Ánh

18 Xây dựng và phát triển quan hệ với doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Ngô Thị Kim Dung

21 Xây dựng và phát triển đô thị thông minh – Xu thế tất yếu của Việt Nam

Lê Thu Giang

24 Cơ sở lý thuyết để lựa chọn chế độ làm việc thích hợp cho máy nghiền bi

Đoàn Đình Điệp

27 Khảo sát phạm vi áp dụng công thức xác định mô đun đàn hồi khi qui đổi sàn thép làm việc một phương về dầm

Nguyễn Thanh Tùng

30 Các phương pháp quan trắc chuyển vị của đất nền và tường tầng hầm nhà cao tầng

Phạm Quang Vượng, Lê Anh Dũng

35 Bàn về việc xác định đặc trưng cơ học của đất khu vực Đình Vũ, Hải Phòng theo thí nghiệm xuyên tĩnh và trong phòng

Phạm Đức Cường

38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép

Nguyễn Thanh Tùng, Mai Trọng Nghĩa

41 Dao động tự do của vòm parabol phẳngLâm Thanh Quang Khải

45 Ổn định tạm cho cột trong thi công lắp ghép nhà công nghiệp nhẹ một tầng bằng thép tiền chế

Võ Hải Nhân

47 Bê tông phun và một số điều lưu ý khi phun bê tông gia cố hầm ngầm

Trịnh Tiến Khương

49 Xác định khả năng chịu lực của sàn bê tông cốt thép bằng phương pháp đường chảy dẻo sử dụng nguyên lý công ảo

Nguyễn Tất Tâm

55 Nghiên cứu sử dụng sợi polyme trong sản xuất block bê tông khí chưng áp nhằm tăng cường chất lượng khối xây

Nguyễn Minh Ngọc

59 Xử lý triệt để nước thải sinh hoạt bằng bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa

Phạm Văn Dương

63 Nghiên cứu biện pháp an toàn phục vụ công tác lắp dựng kết cấu khung thép

Vũ Quốc Anh, Nguyễn Hải Quang

69 Giải pháp đo nghiêng trong quan trắc lún cho công trình nhà cao tầng

Trần Thượng Bình

72 Vai trò của cây xanh đô thịTrần Vân Khánh

74 Tổng quan về phương trình vi phân đại sốNguyễn Thị Thanh Hà

76 Nghiên cứu lí thuyết phản ứng của gốc propargyl và nước bằng phương pháp phiếm hàm mật độ

Trần Hữu Hưng

79 Đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Nguyễn Bá Quảng

82 Một số đề xuất huy động vốn cho bảo trì đường bộ từ việc thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ

Nguyễn Thị Tuyết Dung

85 Đổi mới phương pháp học tiếng Anh cho sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Trần Thị Mai Phương

88 Dạy kỹ năng nghe hiểu cho sinh viên không chuyên ngữ - Những khó khăn và giải pháp

Hà Diệu Linh

91 Nghiên cứu nâng cao hiệu quả phương pháp tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cho sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Phạm Đình Khuê

Tin töc v¿ sú kièn

Science and technology

4 Passive design solution for office building envelopes suitable to tropical climate and energy saving

Lê Quân

7 Green spatial design in centralized industrial parks in Vietnam

Ngô Thám

10 Viewpoint categories of architectural space of the Sapa town

Trần Thị Thu Phương

13 GWAS application to manage architecture - landscape of main streets in the Bac Giang city

Vũ Lê Ánh

18 Establishing and developing the relationship with enterprises in training and scientific research at Hanoi Architectural University

Ngô Thị Kim Dung

21 Smart urban building and development - The inevitable trend in Vietnam in the near future

Lê Thu Giang

24 Theoretical basis for selecting the proper working mode of ball mill

Đoàn Đình Điệp

27 Surveying the application scope of the determination formula of elastic modulus as converting one-directional steel slab to a beam

Nguyễn Thanh Tùng

30 Monitoring displacement of ground and basement walls of high rise buildings

Phạm Quang Vượng, Lê Anh Dũng

35 Discussion on determining the soil mechanical characteristics of Dinh Vu area, Hai Phong city in static and in-room experiments

Phạm Đức Cường

38 Surveying the approximation formula to select the span and thickness of the steel floor in designing problem

Nguyễn Thanh Tùng, Mai Trọng Nghĩa

41 Free vibration of a planar parabolic archLâm Thanh Quang Khải

45 Column temporary stabibity in the lightweight one-storey industrial building by prefabricated steel

Võ Hải Nhân

47 Shotcrete and attentions as reinforcing underground tunnel

Trịnh Tiến Khương

49 Determining strength capacity of reinforced concrete slab by yield - line method using the principle of virtual work

Nguyễn Tất Tâm

55 Research on polymer fibers in the manufacture of autoclaved aerated concrete block to improve the building quality

Nguyễn Minh Ngọc

59 Advanced wastewater treatment by filter basin with self-purification floating filter media

Phạm Văn Dương

63 Research on the safety method for erecting steel frameVũ Quốc Anh, Nguyễn Hải Quang

69 Solutions on measure inclined in monitoring settlement for high building

Trần Thượng Bình

72 The role of urban greeneryTrần Vân Khánh

74 Overview of algebraic differential equationNguyễn Thị Thanh Hà

76 Research on theoretical reaction of propargyl radical and water by density function

Trần Hữu Hưng

79 Training in information technology at Hanoi Architectural University

Nguyễn Bá Quảng

82 Some proposals for mobilizing finacial for road maintenance from the collection charges for the use of road traffic infrastructure

Nguyễn Thị Tuyết Dung

85 Improving English learning method for Hanoi Architecture University students

Trần Thị Mai Phương

88 Difficulties and solutions in English teaching of Listening comprehension for non-English major students

Hà Diệu Linh

91 Study on improving the effectiveness of the self-study method of basic principles of Marxism-Leninism for students of Hanoi Architectural University

Phạm Đình Khuê

information & events

Page 3: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

4 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 5 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Thiết kế thụ động lớp vỏ công trình văn phòng cao tầng tiết kiệm năng lượng Passive design solution for office building envelopes suitable to tropical climate and energy saving

Lê Quân

Tóm tắtThiết kế thụ động là các giải pháp thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu

của địa điểm xây dựng, nhằm đảm bảo tối đa tiện nghi trong công trình xây dựng và sự vận hành của nó, đồng thời giảm thiểu việc sử dụng năng lượng để công trình có thể vận hành bình thường. Các giải pháp thiết kế thụ động lớp vỏ bao che phù hợp

với điều kiện khí hậu nhiệt đới và tiết kiệm năng lượng bao gồm: Hình khối và hướng

tòa nhà, giải pháp cách nhiệt bằng giảm bức xạ và tăng phản xạ, cách nhiệt bằng

nhiệt trở, cách nhiệt bằng nhiệt dung hay nhiệt hàm và thiết kế che nắng cho cửa sổ.

Từ khóa: cách nhiệt, tiết kiệm năng lượng, điều kiện khí hậu

AbstractPassive design was appropriate to the natural

and climatic conditions of building site in order to maximize the human comforts in the builings

and its operation and to minimize energy use in normal operation. Passive design solution for

office building envelopes suitable to tropical climate and energy saving included building

orientation and building form, insulation solutions by reducing radiation, increasing

reflectivity, heat reswastance, specific heat value and window sunshade.

Keywords: insulation, energy saving, climate condition

PGS.TS.KTS. Lê QuânTrường Đại học Kiến trúc Hà Nội ĐT: 0913 304 881

Ngày nhận bài: 16/11/2017 Ngày sửa bài: 30/11/2017 Ngày duyệt đăng: 8/12/2017

1. Đặt vấn đềThiết kế thụ động (passive design) là một thuật ngữ dùng phổ biến trong thiết

kế kiến trúc ở các nước phương Tây. Thuật ngữ này chỉ các giải pháp thiết kế (bao gồm các giải pháp quy hoạch, kiến trúc, cấu tạo kết cấu bao che, sử dụng vật liệu xây dựng, mầu sắc phù hợp …) phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu của địa điểm xây dựng, nhằm đảm bảo tối đa tiện nghi trong công trình xây dựng và sự vận hành của nó, đồng thời giảm thiểu việc sử dụng năng lượng để công trình có thể vận hành bình thường. Các giải pháp thiết kế thụ động thường hoàn toàn dựa vào các nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên.

Hầu hết các công trình xây dựng ở nước ta đều coi vấn đề chống nóng là chủ yếu và điện năng tiêu thụ cho hệ thống điều hòa với mục đích làm mát tòa nhà thường chiếm từ 60-70% tổng điện năng tiêu thụ của tòa nhà. Vì vậy, các giải pháp thiết kế thụ động lớp vỏ bao che phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới và tiết kiệm năng lượng là rất cần thiết.

2. Các giải pháp thiết kế thụ động phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới và tiết kiệm năng lượng2.1. Hình khối và hướng tòa nhà

Hình khối và hướng tòa nhà quyết định khả năng nhận bức xạ mặt trời (BXMT) và thông gió tự nhiên. Nhà hướng Đông Nam ở miền Bắc nước ta rất thuận lợi để đón gió mát hướng Nam và Đông Nam, nhưng lại có diện tích lớn hướng Tây- Bắc, chịu nhiều BXMT vào những tháng nóng nhất mùa hè. Ưu tiên hướng nhà có lợi đón gió mát mùa nóng. Đối với miền khí hậu phía bắc, hướng nhà có lợi là nam và đông nam, tuy nhiên hướng nam có lợi hơn vì giảm được BXMT chiếu lên tường bắc (so với tường tây bắc khi chọn hướng Đông Nam). 2.2. Giải pháp cách nhiệt bằng giảm bức xạ và tăng phản xạ

Sự truyền nhiệt bằng bức xạ giữa môi trường ngoài nhà và bề mặt bên ngoài của kết cấu bao che, hay là sự truyền nhiệt bức xạ giữa mặt trong của kết cấu bao che với môi trường trong nhà, cũng là sự truyền nhiệt bức xạ qua khoảng trống hoặc không gian áp mái; sự phát xạ của bề mặt nóng và sự hấp thụ của bề mặt nhận bức xạ sẽ quyết định cường độ dòng nhiệt truyền qua kết cấu bao che bằng bức xạ.

Truyền nhiệt bằng bức xạ tỷ lệ thuận với luỹ thừa bậc bốn của nhiệt độ tuyệt đối trên các bề mặt toả và thu nhiệt, phụ thuộc vào chất lượng bề mặt, được đo bằng các trị số không thứ nguyên sau: Hệ số phản xạ (ρ), hệ số hấp thu nhiệt (α), hệ số phát xạ (ε).

Một số loại sơn có tính năng chống nóng theo quy luật phản xạ ánh sáng và cách nhiệt đồng thời, làm giảm nhiệt độ bề mặt vật liệu giúp làm tăng chênh lệch nhiệt độ trong nhà và ngoài nhà.

Một lớp nhôm mỏng bóng có cả hai tính chất phát xạ thấp và hấp thụ thấp, do đó nó có khả năng cách nhiệt bức xạ tốt. Nó sẽ có hiệu quả cách nhiệt cao khi nó được dán vào bề mặt quay về phía tầng không khí kín của kết cấu bao che. 2.3. Giải pháp cách nhiệt bằng nhiệt trở

Chúng ta đều biết, hệ số truyền nhiệt tổng (U0) hoặc trở nhiệt tổng (R0) của vỏ kết cấu bao che tòa nhà liên quan trực tiếp đến dòng nhiệt đơn vị truyền qua chúng (q) theo công thức:

q = U0. Δt , W/m2.h

Trong đó U0 – hệ số truyền nhiệt tổng của vỏ kết cấu bao che khảo sát (Overall coefficient of heat transfer, gọi tắt là U-value); Δt - chênh lệch nhiệt độ trong (tt) và ngoài kết cấu (tn); Δt = tn – tt.

Quan hệ giữa giá trị U0 và R0 của vỏ kết cấu bao che: U0 = 1/Ro, W/m2.K Nhiệt trở tổng R0 của vỏ kết cấu bao che là tổng của 3

nhiệt trở: của vật liệu kết cấu (Rkc) và của mặt trong và mặt ngoài kết cấu (Rt và Rn).

Ro = Rt + Rkc + Rn, m2.K/W; Đồng thời Rt = 1/ht và Rn = 1/hn m2.K/W Trong đó ht và hn tương ứng là hệ số trao đổi nhiệt mặt

trong và mặt ngoài của kết cấu.Không khí có thể được coi là một lớp cách nhiệt rất hiệu

quả nếu tạo khoảng cách (tầng không khí) nằm ở giữa lớp kết cấu ngoài và lớp kết cấu trong của kết cấu bao che. Nếu tạo thêm khe thông khí đối với tầng không khí nằm trong kết cấu bao che, cho gió thổi qua tản nhiệt thừa tích tụ trong kết cấu bao che thì hiệu quả cách nhiệt của kết cấu bao che còn cao hơn nữa.

Hình 1. Cửa sổ kính 5 lớp (2 lớp chân không): cấu tạo và nguyên lý hoạt động

Hình 2. a. Tận dụng bóng đổ của núi; b. Tận dụng bóng đổ của nhà; c. Tận dụng bóng đổ của cây; d. Tận dụng yếu tố mặt nước

Hình 3. a. Bóng đổ bởi khối nhô ra; b. Bóng đổ của lam che nắng

a

c

a b

b

d

Page 4: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

6 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 7 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Lớp chân không có λ=0, hoàn toàn không cho nhiệt truyền qua, như là lớp chân không trong vỏ phích nước nóng hay phích đá, cũng được sử dụng trong chế tạo cửa kính, vách kính cách nhiệt 3 lớp (2 lớp kính và 1 lớp chân không ở giữa) hoặc 5 lớp (3 lớp kính và 2 lớp chân không xen kẽ), như thể hiện ở hình 1.

Người ta thường sử dụng các vật liệu xốp làm lớp vật liệu cách nhiệt như là xốp, polystyrene hoặc polyurethane, vật liệu sợi dưới dạng tấm hoặc tấm phủ như là bông khoáng, sợi thủy tinh và cả bông tự nhiên. Sợi cellulose mềm như sợi rơm tết, sợi bông khoáng, ... 2.4. Cách nhiệt bằng nhiệt dung hay nhiệt hàm

Một lớp vật liệu có nhiệt hàm lớn không những có ảnh hưởng lớn tới biên độ dao động của dòng nhiệt mà còn cả thời gian chậm trễ dao động của nó. Cả 2 hiện tượng cách nhiệt phản xạ và nhiệt trở nói trên đều phản ứng với sự thay đổi nhiệt độ một cách tức thời (thường gọi là truyền nhiệt ổn định). Ngay khi nhiệt truyền tới một mặt bên này của kết cấu, nó sẽ nhanh chóng đi ra khỏi mặt kia của kết cấu, với một tốc độ kiểm soát được. Nhưng hiện tượng này sẽ không xảy ra với cách nhiệt bằng nhiệt hàm. Đó là vì nhiệt hàm của vật liệu có tác động gây ra sự trì hoãn của nó tới dòng truyền nhiệt.

Lợi ích của việc cách nhiệt bằng nhiệt dung hoặc hiệu ứng khối lượng sẽ là rất lớn đối với vùng khí hậu nóng khô, là những nơi có dao động nhiệt độ rất lớn. Cách nhiệt bằng nhiệt dung có hiệu quả làm giảm, ổn định, nó có thể đảm bảo tiện nghi, hoặc nếu trong nhà dùng điều hòa không khí thì tiết kiệm năng lượng.

Q = A.U. ΔTEQ; Trong đó: Q - Cường độ dòng nhiệt tức thời tính bằng W. A - Diện tích bề mặt kết cấu, m2. U - Hệ số

truyền nhiệt, W/m2.oC.Giá trị ΔTEQ=[(Tm – Ti) +μ (Tϕ - Tm)] được gọi là “chênh

lệch nhiệt độ tải lạnh” (Cooling Load Temperature Difference) phụ thuộc vào: Độ tắt dần μ và thời gian trễ ϕ; Bức xạ mặt trời và nhiệt độ không khí ngoài nhà (tính theo nhiệt độ tổng); Nhiệt độ không khí trong nhà TI. Tm - Nhiệt độ tổng ngoài nhà trung bình ngày, oC. Tϕ - Nhiệt độ tổng ngoài nhà trước ϕ giờ, oC.

Theo công thức Q = A.U. ΔTEQ ta thấy muốn trị số Q nhỏ thì cần giảm một trong ba (hoặc cả ba) trị số: A (diện tích bề mặt của kết cấu, đơn vị là m2); U (Hệ số truyền nhiệt, đơn vị là W/m2.oC) và ΔTEQ (chênh lệch nhiệt độ tải lạnh, đơn vị là oC). Như vậy muốn trị số Q nhỏ nhất thì cần giảm cả ba trị số A, U và ΔTEQ.

Trong điều kiện khí hậu của Việt Nam, giải pháp hợp lý để giảm ΔTEQ, có thể bằng các cách: chọn hướng nhà tối ưu (giảm thiểu diện tích tường quay về hướng Tây, Tây Nam); bố trí các không gian chức năng trong nhà hợp lý (tập trung các phòng phụ về phía bị nắng chiếu); tận dụng yếu tố thuận lợi có sẵn sau đây được áp dụng trong quy hoạch đô thị và xây dựng tòa nhà như: Tận dụng sườn núi cao chắn bức xạ và gió nóng; Tận dụng tòa nhà cao tầng có sẵn, xây trong phạm vi bóng râm; Tận dụng cây xanh có bóng mát; Tận dụng diện tích mặt nước ở gần như sông, hồ, biển.

Bóng đổ lên bề mặt tường bao ngoài do có các khối không gian phía trên nhô ra hoặc các kết cấu chắn nắng cũng cho hiệu quả giảm chênh lệch nhiệt độ bề mặt, song chỉ ở một mức độ và ở một số vị trí nhất định. Nếu sử dụng

Hình 4. Giải pháp tường xanh Hình 5. Kết cấu giàn cây

(Xem tiếp trang 17)

Tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam Green spatial design in centralized industrial parks in Vietnam

Ngô Thám

Tóm tắtCây xanh, mặt nước là những yếu tố quan

trọng trong việc cải thiện môi trường, đóng góp giá trị thẩm mỹ cho các khu công

nghiệp nói riêng và cho đô thị nói chung. Tuy nhiên trong nhiều khu công nghiệp

(KCN) hiện nay không gian xanh chưa được quan tâm đúng mức. Trong quy hoạch và

xây dựng các khu công nghiệp hiện nay, mật độ xây dựng thường bị đẩy lên mức

tối đa vì vậy việc sử dung quĩ đất dành cho không gian xanh còn bị han chế. Vì vậy

nghiên cứu giải pháp tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp là vô cùng

cấp thiết.

AbstractPlant and water were two essential factors

in improving the environment, contributing to aesthetic value to urban areas in general

and to industrial parks in particular. However, green spaces in many industrial parks was still

not being concerned as they should be. The construction density tend to maximize, so land

for greenery tended to reduce. Therefore, it was crucial to find a solution for greenery planning in

industrial park.

PGS.TS.KTS. Ngô Thám Khoa Kiến trúcĐT: 0912 254 284

Ngày nhận bài: 16/11/2017 Ngày sửa bài: 30/11/2017 Ngày duyệt đăng: 8/12/2017

1. Đặt vấn đềCây xanh, mặt nước là những yếu quan trọng trong việc cải thiện môi trường,

đóng góp giá trị thẫm mỹ cho các khu công nghiệp nói riêng và cho đô thị nói chung. Tuy nhiên nhiều khu công nghiệp hiện nay không gian xanh chưa được quan tâm đúng mức. Trong quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp hiện nay, mật độ xây dựng thường bị đẩy lên mức tối đa vì vậy việc sử dung quĩ đất dành cho không gian xanh còn bị han chế. Mặt khác việc chăm sóc, bão dưõng chưa được chú ý thừơng xuyên vì vây không gian xanh chưa phat huy được hết hiệu quả Do đó nghiên cứu giải pháp tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp Việt Nam nhằm cải thiên vi khí hậu, góp phần bảo vệ môi trương sinh thái, tăng cương hiệu quả thẫm mỹ, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân là vô cung cấp thiết.

2. Hiện trạng môi trường và tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp

Hiện nay toàn quốc đã có 325 KCN được thành lập với tổng diện tích đất 57.264 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy trung bình khoảng 46%. Đến năm 2015, theo quy hoạch được thủ tướng chính phủ phê duyệt, sẽ ưu tiên thành lập mới 115 KCN với tổng diện tích khoảng 26.000 ha và mở rộng diện tích 27 KCN, nâng tổng diện tích KCN lên khoảng 70.000 ha

Hiện nay, tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm khoảng 43%. Phần lớn nước thải của các KCN khi thải ra môi trường đều có thông số ô nhiễm cao hơn nhiều lần so với QCVN. Vì vậy những nơi tiếp nhận nước thải KCN bị ô nhiễm nặng nề, nhiều nơi nguồn nước không thể sử dụng được nữa. Kênh Bàu Lăng, Quảng Ngãi, do tiếp nhận nước thải của KCN Quảng Phú đã trở thành kênh nước thải, ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều đoạn sông thuộc lưu vực sông Cầu cũng bị ô nhiễm nặng, Lưu vực sông Nhuệ - Đáy cũng đã bị ô nhiễm, do nước thải từ các KCN xả thẳng ra sông không qua xử lý.

Chất lượng môi trường không khí tại các KCN, đặc biệt là các KCN cũ, tập trung các nhà máy có công nghệ lạc hậu. Ô nhiễm không khí chủ yếu do bụi, CO, SO2 và NO2 xung quanh các KCN hầu hết đều trong giới hạn cho phép, ví dụ: KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng), nồng độ CO vượt 67-100 lần QCVN, NO2 vượt 2-6 lần và nồng độ chì (Pb) vượt 40-65,5 lần QCVN.

Chất thải rắn nguy hại tại các KCN thường chiếm khoảng 20%, trong đó các chất có thể tái chế hay tái sử dụng cũng khá cao (Kim loại, hóa chất...) Lượng chất thải rắn công nghiệp ngày một gia tăng, đặc biệt là chất thải rắn nguy hại. Chất thải rắn các KCN phía Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các vùng trong toàn quốc, ước tính lên tới 3.000 tấn/ngày, lượng chất thải nguy hại nhiều gấp 3 lần chất thải nguy hại ở vùng KTTĐ Bắc Bộ và gấp 20 lần lượng chất thải nguy hại ở vùng KTTĐ miền Trung.

Tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp hiện nay, mật độ xây dựng thường bị đẩy lên mức tối đa vì vậy việc sử dung quĩ đất dành cho không gian xanh còn bị hạn chế. Mặt khác việc chăm sóc, bảo dưỡng chưa được chú ý thường xuyên vì vậy không gian xanh chưa phát huy được hết hiệu quả, chưa đóng góp tích cực cho việc cải thiện môi trường cũng như chưa đóng góp cho bộ mặt kiến trúc đô thị. Việc phân bố cây xanh, lựa chọn và trồng các loại cây xanh chưa hợp lý do đó chưa góp phần tích cực trong việc cải thiện vi khí hậu, giảm độc hại bụi bẩn và bảo vệ môi trường khu công nghiệp cũng như đô thị.

3. Tổ chức cây xanh, mặt nước.3.1. Nguyên tắc

- Tổ chức không gian trong khu công nghiệp phải tuân thủ theo quy hoạch đã được phê duyệt

Page 5: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

8 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 9 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

- Cây xanh trong khu công nghiệp phải phù hợp điều kiện tự nhiên, cảnh quan khu vực và cảnh quan đô thị

- Tổ chức không gian xanh trong khu công nghiệp cần thực hiện đồng bộ từ cây xanh cách ly, cây xanh cải thiện vi khí hậu, cây xanh tổ chức cảnh quan, trở thành một tổng thể thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ khu công nghiệp.

- Cây xanh, mặt nước là hai yếu tố then chốt tạo nên không gian xanh, vì vậy cần có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố này và phân bố chúng hợp lý trên toàn khu đất.3.2. Tổ chức cây xanh

Sử dụng cây xanh để bảo vệ môi trường là một giải pháp tích cực nhằm hạn chế các ảnh hưởng bất lợi của công nghiệp đối với môi trường. Nó cho phép cải thiện điều kiện tổ chức không gian kiến trúc, điều kiện vệ sinh môi trường sản xuất và nâng cao giá trị thẩm mỹ kiến trúc công nghiệp. Với đặc điểm khí hậu nóng ẩm của nước ta thì việc bố trí cây xanh trên lãnh thổ như: Trồng cây xanh trong dải cách ly vệ sinh, trong các khu đất trống, trong khu vực hành chính, hai bên đường…có tác dụng rất tốt nhằm cải thiện điều kiện vi khí hậu, che chắn bụi bẩn độc hại, ngăn chặn bức xạ mặt

trời, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.Trên lãnh thổ KCN cây xanh được tổ chức theo 3 nhóm

chính:- Cây xanh có chức năng bảo vệ- Cây xanh có chức năng tham gia bố cục kiến kúc- Cây xanh cải thiện điều kiện vi khí hậuBa nhóm cây xanh này có liên hệ chặt chẽ với nhau và

được bố trí đan xen nhau. Tùy vào vị trí, chức năng mà chúng ta tổ chức cho phù hợp: Cây cảnh, cây che chắn nắng, cây cách ly vệ sinh, cây bố cục kiến trúc….

Cây xanh vùng trước nhà máy có vai trò quan trọng trong tổ chức quần thể kiến trúc chung. Giải pháp bố trí hệ thống cây xanh ở đây cần đáp ứng yêu cầu thẫm mỹ cao, tạo khả năng nâng cao biểu hiện nghệ thuật kiến trúc cho nhà máy. Thường hệ thống cây xanh này được kết hợp với các tiểu cảnh tạo nên một tổng thể hài hòa, sinh động trước bộ mặt nhà máy và kết hợp tạo thành chỗ nghỉ ngơi cho công nhân. Đây trở thành chỗ hoạt động của con người trong thời gian rảnh rỗi tạo điều kiện phục hồi sức khỏe sau một quá trình

lao động mệt nhọc. Khu cây xanh này trở thành cầu nối giữa con người và thiên nhiên.

Cây xanh chạy dọc theo đường giao thông đóng vai trò quan trọng tổ chức hệ thống cây xanh trên lãnh thổ công nghiệp, nó không chỉ có chức năng ngăn ngừa bụi và tiếng ồn, tạo cảm giác tươi mát cho cảnh quan kiến trúc mà còn góp phần điều chỉnh vi khí hậu.

Cây xanh bao bọc xung quanh hệ thống công trình sản xuất, kho tàng, công trình kỹ thuật cần được lựa chọn cho phù hợp với chức năng sử dung: cây xanh che chắn bụi bẩn, tiếng ồn, chống bức xạ của mặt trời, cải thiện vi khí hậu...

Cây xanh có nhiều tác dụng trong lãnh thổ công nghiệp, vì thế chúng ta cần tích cực sử dụng nó. Nhưng để cho cây xanh phát huy hết khả năng làm việc thì việc lựa chọn loại cây, chiều cao cây, vị trí trồng, mật độ…phải được tính toán cân nhắc cẩn thận trong từng khu vực. Khi trồng cây xanh để che chắn bụi bẩn và bảo vệ môi trường chúng ta cần chú ý hai vấn đề:

- Hướng gió khu vực xây dựng.- Vị trí nguồn bụi bẩn, độc hại.

3.3. Tổ chức Hồ điều hòaCây xanh, mặt nước là hai yếu tố không thể thiếu trong

công trình kiến trúc. Mặt nước không những có chức năng tạo dựng cảnh quan, thoát nước mà còn có tác dụng cải thiện điều kiện vi khí hậu. Các kết quả nghiên cứu cho thấy mặt nước có tác dụng tích cực cải thiện môi trường 2 khía cạnh vệ sinh và mỹ quan đô thị. Tùy theo quy mô diện tích, điều kiện địa hình khu đất xây dựng, cơ cấu chức năng để tổ chức hồ điều hòa.

Sức chứa, vị trí phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể và hướng thoát nước chung của toàn khu vực. Khi quy hoạch và bố trí hồ điều hòa cần chú ý kết hợp với hệ thống cây xanh, chỗ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, thư giãn cho người lao động.3.4. Tổ chức kiến trúc cảnh quan

Tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan kiến trúc công nghiệp sinh thái là một phần không thể tách rời của nhiệm vụ quy hoạch - kiến trúc chung. Tổ chức kiến trúc cảnh quan một mặt góp phần tổ chức và hoàn thiện môi trường kiến trúc, môi trường lao động, mặt khác nó góp phần gắn kết hài hòa cảnh quan kiến trúc công nghiệp, cảnh quan kiến trúc

Tổ chức cảnh quan kiến trúc công nghiệp là bộ môn nghệ thuật tổng hợp, bao gồm 2 phần:

- Vùng cảnh quan bên ngoài bao gồm các không gian xung quanh khu công nghiệp, vùng trước khu công nghiệp và cổng chính của khu. Việc tổ chức cảnh quan khu vực này cần tổ chức hài hòa, tạo được các điểm nhấn gây ấn tượng,

cần kết hợp với cảnh quan đô thị, tạo ra sự thống nhất bố cục kiến trúc cảnh quan chung trong khu vực.

Trong tổ hợp kiến trúc cảnh quan công nghiệp các công trình phục vụ công cộng, các công trình điều hành quản lý thường nằm phía trước, gắn liền với hệ thống giao thông đô thị cho nên cần kết hợp với hệ thống vườn hoa, hệ thống tượng đài, chiếu sáng đô thị…

- Vùng cảnh quan bên trong phân chia theo các khu vực, các phân xưởng sản xuất, các công trình phụ trợ, hệ thống kho tàng, giao thông, hệ thống cây xanh, vườn hoa, thảm cỏ, thúc đẩy sự gắn kết giữa công trình kiến trúc với thiên nhiên. Việc đó có ý nghĩa xã hội vô cùng to lớn, nhất là trong các công trình sản xuất có số lượng công nhân nhiều. Góp phần cải thiện môi trường lao động, môi trường vi khí hậu và môi trường thẩm mỹ kiến trúc.

4. Kết luận - Tổ chức không gian xanh trong các khu công nghiệp là

một nhu cầu cấp thiết nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường cải thiện vi khí hậu, góp phần nâng cao thẫm mỹ đô thị.

- Tổ chức không gian xanh trong khu công nghiệp cần thực hiện đồng bộ từ cây xanh cách ly, cây xanh cải thiện vi khí hậu, cây xanh tổ chức cảnh quan, trở thành một tổng thể thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ khu công nghiệp.

- Cây xanh, mặt nước là hai yếu tố then chốt tạo nên không gian xanh, vì vậy cần có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố này và phân bố chúng hợp lý trên toàn khu đất./.

Tài liệu tham khảo1. Bộ Xây dựng – Vụ quản lý kiến trúc quy hoạch (1998), Quy

hoạch quản lý và phát triển các KCN Việt Nam, Nxb khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

2. Phạm Ngọc Đăng (1992), Ô nhiễm môi trường không khí đô thị và khu công nghiệp, Nhà xuất bản KHKT.

3. Ngô Thám (1997), Giải pháp quy hoạch kiến trúc các xí nghiệp công nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường Hà Nội, Luận án tiến sỹ, Đại học Kiến trúc Hà Nội.

4. ACAA. (2009), 2008 CCPs Production & Survey report retrieved april 2010, from ACCA Apasa. Papers, Volume on October 1994.

5. Insitute of Southeast Asian Studies (1992), The IMPACT of inesstment in Malaisia, Singapor, Thailand.

6. Towart environmental strategises of City (1995), Published for the Urban managermen program by the worldbank tropolitan Washington DC, No 18.

Hình 1. Tổ chức hồ điều hòa kết hợp với cây xanh

Hình 3. Tổ chức không gian môi trường cảnh quan kiến trúc khu công nghiệp

Hình 2. Tổ chức cây xanh kết hợp mặt nước tạo cảnh quan

Hình 4. Trồng cây ngăn bụi theo hướng gió, nguồn độc hại

Page 6: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

10 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 11 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Phân loại các điểm nhìn trong không gian kiến trúc thị trấn Sapa Viewpoint categories of architectural space of the Sapa town

Trần Thị Thu Phương

Tóm tắtQua hơn 100 năm hình thành và phát triển, Sapa đã có

những nét đặc trưng trưng riêng cả về cảnh sắc và văn hóa. Sapa là đô thị duy nhất ở Việt Nam cũng như ở Đông Nam

Á có khí hậu ôn đới. Hệ thống công trình kiến trúc mang phong cách Pháp cổ khiến Sapa có những nét phảng phất một đô thị cổ ở châu Âu. Hơn nữa, Sapa còn lưu giữ những

bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, lâu đời của dân tộc Kinh, H’mông, Dao, Tày, Dáy, Xá Phó với những di tích văn hóa bản làng, nhiều lễ hội phong tục tập quán đặc trưng

cùng nhiều truyền thuyết hấp dẫn.Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng nhưng thiếu biện

pháp quản lý đã ảnh hưởng tới cảnh quan nguyên thủy của Sapa. Sapa đứng trước nguy cơ bị mất đi các giá trị cảnh

quan thiên nhiên đặc trưng. Vì vậy cần có sự phân tích nghiên cứu đầy đủ để khai thác và bảo vệ cảnh quan thiên

nhiên, trả lại vẻ đẹp vốn có của Sapa. Để tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan thị trấn Sapa thỏa mãn nhu cầu

sử dụng và cảm thụ của người dân cũng như du khách trong ngoài nước, việc phân loại cảnh quan qua các điểm

nhìn là rất quan trọng.Từ khóa: Kiến trúc cảnh quan, điểm nhìn, thị trấn Sapa

AbstractFor more than 100 years of establwashment and development, Sapa had its own characterwastics both in scenery and culture.

Sapa was the only urban in Vietnam as well as in South East Asia had temperate climate: cold winter, sometimes snowfall. The

colonial French architecture made Sapa become subtly identical to the European city. Moreover, Sapa also preserved the unique

cultural identity of the Kinh, H’mong, Dao, Tay, Day, Xa Pho peoples with the cultural relics of village and many festivals and customs

featured with many fascinating legends... However, dealing with the rapid development without

management, Sapa faced the risk of losing its typical natural landscape values. Therefore, there was a need for full research to

exploit and protect natural scenery as the inherent beauty of Sapa. Thus in design process of landscape architecture of Sapa town in order to meet the needs of Sapa people and tourwasts, the

viewpoint categorizing of landscape played very important role.Keywords: Landscape architecture, point of view, Sapa town

ThS. Trần Thị Thu PhươngKhoa Quy hoạch Đô thị và Nông thôn Email: [email protected] ĐT: 0122 322 5688

Ngày nhận bài: 01/6/2017 Ngày sửa bài: 09/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Mở đầuSapa có lợi thế về khí hậu, về cảnh quan tự nhiên cùng các nét

đặc trưng về văn hóa. Sapa đã và đang có một sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách trong và ngoài nước. Nói đến Sapa, du khách sẽ hình dung ra ngay một đô thị nhỏ nằm giữa hệ thống đồi núi bao quanh với thung lũng Mường Hoa với các lớp ruộng bậc thang uốn lượn, với Thác Bạc, Cầu Mây, núi Hàm Rồng, đỉnh Fansipan... Qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, Sapa đã có những nét đặc trưng riêng cả về cảnh sắc và văn hóa. Sapa là đô thị duy nhất ở Việt Nam cũng như ở Đông Nam Á có khí hậu ôn đới: mùa đông lạnh, đôi khi có tuyết rơi. Hệ thống công trình kiến trúc mang phong cách Pháp cổ khiến Sapa có những nét phảng phất một đô thị cổ ở châu Âu. Hơn nữa, Sapa còn lưu giữ những bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, lâu đời của dân tộc Kinh, H’mông, Dao, Tày, Dáy, Xá Phó với những di tích văn hóa bản làng, nhiều lễ hội phong tục tập quán đặc trưng cùng nhiều truyền thuyết hấp dẫn.

Tuy nhiên do sự phát triển nhanh chóng nhưng thiếu biện pháp quản lý đã ảnh hưởng tới cảnh quan nguyên thủy của Sapa. Sapa đứng trước nguy cơ bị mất đi các giá trị cảnh quan thiên nhiên đặc trưng. Vì vậy cần có sự phân tích nghiên cứu đầy đủ để khai thác và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, trả lại vẻ đẹp vốn có của Sapa là điều hết sức cần thiết. Việc phân loại các điểm nhìn sẽ giúp cho quá trình tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan thị trấn Sapa thỏa mãn nhu cầu sử dụng và cảm thụ của người dân cũng như du khách trong ngoài nước.

2. Nội dung nghiên cứuViệc xác định, phân loại các điểm quan sát giúp du khách có thể

ngắm nhìn vẻ đẹp của Sapa một cách đầy đủ, dễ dàng và có chọn lọc. Qua đó họ nắm bắt được cái thần của cảnh quan và đô thị Sapa. Việc định hình các điểm ngắm cảnh cũng tạo nguồn cảm hứng vô tận dành cho các kiến trúc sư, các hoạ sỹ, nhiếp ảnh... thoả sức tìm tòi và phát triển ý tưởng. Các điểm nhấn thị giác là những hình ảnh gây ấn tượng cho người thụ cảm, nó có thể là tượng đài, cổng chào hay các công trình có hình thức kiến trúc đặc biệt.

Qua phân tích và tổng kết thực tế, các điểm ngắm cảnh có giá trị nên được phân bố chủ yếu dọc theo hướng địa hình đồi núi khu vực Tây Bắc - Đông Nam, vùng lân cận xung quanh đường 4D, thung lũng Mường Hoa và núi Hàm Rồng với cao độ ngắm cảnh từ 1500m đến 1800m. Ta có thể chia thành 3 loại, từ quan sát tổng thể đến quan sát chi tiết. Do đặc trưng địa hình đồi núi và yếu tố văn hóa tín ngưỡng ở Sapa, ta cần phân bố thêm hệ thống điểm nhìn lên, nhìn xuống và điểm nhìn mang yếu tố tinh thần.I. Điểm quan sát loại I

Điểm quan sát được ưu tiên số I là những điểm có thể thu nhận được hình ảnh mang tính chất bao quát và đặc trưng nhất về Sapa hoặc những hình ảnh đã quá gắn bó và gần gũi với con người Sapa hay du khách đến đây. Có thể xác định các điểm quan sát đó như sau:

1. Đỉnh Hàm Rồng: Điểm thu nhận toàn cảnh thị trấn Sapa và các vùng lân cận khác như thung lũng Mường Hoa, đỉnh Fansipan, thung lũng Tả Phìn ẩn hiện trong mây.

2. Một số điểm quan sát trên trục đường 4D về phía trung tâm thị trấn: Tại các điểm quan sát này người thụ cảm thu nhận được hình

ảnh trung tâm đô thị Sapa qua hình ảnh nhà thờ Thiên Chúa Giáo, qua hệ thống các biệt thự và một số công trình công cộng được tựa vào thế vững chãi nhưng rất nên thơ bay bổng của núi Hàm Rồng.

3. Một số điểm quan sát tại trung tâm thị trấn về phía đỉnh Fansipan và đỉnh Hàm Rồng. Đây là những điểm quan sát mang tính tâm linh, tạo cho người thụ cảm cảm thấy sự tôn kính và thiêng liêng.

4. Một số các điểm quan sát trên đường Ban Công: tại các điểm quan sát này, nếu nhìn về phía Tây ta có thể thu nhận hình ảnh Sapa qua thung lũng Mường Hoa mềm mại trải rộng và tuyến cảnh quan kết thúc tầm nhìn là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Fansipan cao ngất. Quay về phía Đông hình ảnh trung tâm thị trấn Sapa hiện ra lung linh mờ ảo trong sương.

5. Cần phải đặc biệt quan tâm và khai thác tới các điểm quan sát mang tính tinh thần như các điểm quan sát từ Hàm Rồng về đỉnh FansipanII. Điểm quan sát loại II

Điểm quan sát được ưu tiên số II là những điểm có thể thu nhận được các hình ảnh đẹp nhưng mang tính cục bộ hơn mà người thụ cảm cần phải có quá trình tổng hợp các bức tranh đó lai với nhau mới đem lại một khái niệm cụ thể về hình ảnh đô thị. Có thể xác định các điểm quan sát đó như sau:

1. Một số điểm quan sát từ các sườn núi có độ cao 1600 – 1700m của dãy Hàm Rồng nhìn xuống trung tâm thị trấn.

2. Các điểm quan sát từ hai trục đường ven hồ trung tâm về phía Nam là sườn và đỉnh núi Hàm Rồng, về phía Bắc là các khu mở rộng và các khu vui chơi giải trí sẽ được xây dựng trong tương lai

3. Các điểm quan sát tại sườn núi Hàm Rồng về phía Bắc. Tại các điểm quan sát này ta sẽ cảm nhận được hình bóng đô thị Sapa (Xiluet) dựa trên thế đồi núi thấp mềm mại của khu bảo tồn sinh thái.

4. Điểm quan sát từ ga sân bay: tại điểm nhìn này cách trung tâm thị trấn khoảng gần 2km theo đường chim bay. Tuy không quan sát được chi tiết nhưng đây là điểm quan sát khá bao quát về cảnh quan bản thân thị trấn và phạm vi bên ngoài có ảnh hưởng tới bố cục không gian đô thị. III. Điểm quan sát loại III

Điểm quan sát được ưu tiên số III là những điểm có thể thu nhận được các hình ảnh đẹp nhưng có góc nhìn, tầm nhìn hẹp nên vùng thụ cảm cũng nhỏ. Với những điểm quan sát này du khách sẽ cảm nhận về Sapa với cái nhìn tinh tế hơn, gần gũi hơn. Tuy nhiên nếu không có sự kết hợp của các điểm quan sát loại I và loại II thì du khách sẽ không thể có cái nhìn toàn diện về Sapa. Có thể xác định các điểm quan sát đó như sau:

1. Các điểm nhìn trên đường Hàm Rồng dọc theo chân núi Hàm Rồng. Từ đây ta có thể có cảm nhận sâu sắc và tinh tế hơn về không gian đô thị vùng núi với một bên là các công trình dịch vụ thương mại mang tính sôi động, còn một bên là chân núi với đá và hoa dại.

2. Các điểm quan sát dọc trục đường Thác Bạc nhìn về phía khách sạn Victoria.

3. Các điểm quan sát từ trong trung tâm thị trấn tới các trục cảnh quan trong đô thị.

4. Các điểm quan sát tại trung tâm thị trấn về phía các điểm nhấn thị giác trong đô thị.

Hình 1. Thị trấn Sapa nhìn từ đỉnh Hàm Rồng (nguồn: sưu tầm)

Hình 2. Một góc thị trấn Sapa nhìn từ độ cao 1600m (nguồn: sưu tầm)

Hình 3. Điểm quan sát loại 3 có vùng thụ cảm nhỏ nhưng tinh tế hơn, gần gũi hơn (nguồn: sưu tầm)

IV. Hệ thống các điểm nhìn xuống1. Các điểm quan sát từ sườn núi (cao độ 1600 - 1700m)Từ các sườn núi cheo leo này ta có thể ngắm nhìn được

chi tiết toàn cảnh trung tâm thị trấn Sapa, thung lũng Mường Hoa và gần hơn nữa là vẻ đẹp dưới chân núi đó với cỏ cây hoa lá đặc trưng của vùng. Vào những ngày trời quang mây tạnh, đứng tại sườn núi có thể đưa mắt ra xa về phía Tây ta có thể nhìn thấy ngọn Fansipan sừng sững nổi lên. Có thể xác định hệ thống các điểm nhìn từ sườn núi bao gồm:

- Điểm nhìn từ sườn núi Hàm Rồng xuống trung tâm thị trấn và phố Hàm Rồng.

- Điểm nhìn từ khách sạn Victoria xuống trung tâm thị trấn.

Page 7: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

12 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 13 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

- Hệ thống các điểm nhìn từ đường 4D xuống trung tâm thị trấn

2. Các điểm quan sát từ đỉnh núi (cao độ 1800m)Điểm nhìn từ đỉnh Hàm Rồng - đây là đỉnh núi duy nhất có

độ cao trên 1800m tại đây du khách có thể mặc sức thả tầm mắt ngắm nhìn toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mường Hoa, Sa Pa, Tả Phìn ẩn hiện trong sương khói.V. Hệ thống các điểm nhìn lên

Tại các điểm nhìn này du khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của các công trình kiến trúc tựa trên nền của núi đồi, cây xanh và trời mây Sapa.

1. Các điểm nhìn từ trung tâm thị trấn lên sườn núi (cao độ 1600 - 1700m) bao gồm hệ thống các điểm nhìn sau:

- Điểm nhìn từ thị trấn và phố Hàm Rồng nhìn lên các điểm tạo cảnh trên sườn núi Hàm Rồng.

- Điểm nhìn từ trung tâm thị trấn về phía Đông và phía Bắc thị trấn

2. Các điểm nhìn từ trung tâm thị trấn lên đỉnh núi- Điểm nhìn từ trung tâm thị trấn lên đỉnh núi Hàm Rồng.- Điểm nhìn từ trung tâm thị trấn lên đỉnh Fansipan

VI. Hệ thống các điểm nhìn mang yếu tố tinh thần (điểm nhìn gián tiếp)

Đây là các điểm nhìn mang tính chất tinh thần, có thể khai thác theo hướng tạo cảm xúc linh thiêng, tôn kính cho du khách khi ngắm cảnh.

1. Các điểm nhìn về phía đỉnh Fansipan- Các điểm nhìn từ các trục cảnh quan, trục giao thông

trong trung tâm về phía đỉnh Fansipan.- Các điểm nhìn từ quảng trường nhà thờ Thiên Chúa

Giáo về phía đỉnh Fansipan - đây là trục cảnh quan tinh thần đặc biệt quan trọng trong bố cục không gian đô thị.

- Điểm nhìn từ các công trình hành chính chính trị, văn hoá về phía đỉnh Fansipan như: UBND huyện và thị trấn Sapa, nhà văn hoá, nhà triển lãm...

2. Các điểm nhìn về phía đỉnh Hàm Rồng- Các điểm nhìn từ quảng trường nhà thờ Thiên Chúa

Giáo về phía đỉnh Hàm Rồng.- Điểm nhìn từ các công trình hành chính chính trị, văn

hoá về phía đỉnh Hàm Rồng như: UBND huyện và thị trấn Sapa, nhà văn hoá, nhà triển lãm…

3. Kết luậnSapa là một đô thị du lịch mang tầm cỡ quốc tế chứa đựng

nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết. Hiện nay Sapa đang đứng trước nguy cơ mất dần đi các tài nguyên thiên nhiên quý báu do sự đô thị hoá ồ ạt không kiểm soát được. Để có thể tạo dựng nên một hình ảnh Sapa còn nguyên vẹn vẻ đẹp thuần khiết, mang đậm bản sắc văn hoá địa phương nhưng vẫn đáp ứng được các yêu cầu của một đô thị du lịch hiện đại, những người làm công tác tổ chức không gian kiến trúc đô thị cần thực sự hiểu và cảm nhận được hết vẻ đẹp thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Việc xác định và phân loại hệ thống các điểm quan sát sẽ giúp cho quá trình tìm tòi giải pháp cụ thể cho không gian kiến trúc đô thị Sapa được thống nhất từ tổng thể đến chi tiết. Ta cũng có thể áp dụng được phương pháp này với các đô thị khác có điều kiện tương đồng./.

Tài liệu tham khảo1. Bộ môn Kiến trúc Cảnh quan, 2010. Bài giảng môn học

“Nguyên lý Kiến trúc Cảnh quan”.2. Fendrich Fabienne, Knop Jean-Michel, 2011. Tham luận Hội

thảo nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội “Giảng dạy cảnh quan”. (L’enseignement du paysage).

3. Hàn Tất Ngạn, 1997. Kiến trúc cảnh quan. NXB Xây dựng.4. Trường Đại học Kiến trúc quốc gia Normandie, 2007. Chương

trình đào tạo Kiến trúc sư quốc gia.5. Trường Đại học Kiến trúc và Cảnh quan Bordeaux, 2004.

Giảng dạy cảnh quan - Chương trình đào tạo kiến trúc sư cảnh quan quốc gia.

6. Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, 2008. Hồ sơ xây dựng chương trình đào tạo Pháp ngữ bậc Đại học, chuyên ngành Kiến trúc Cảnh quan.

7. Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1996. Kiến trúc phong cảnh. NXB Khoa học và Kỹ thuật.

Ứng dụng GIS để quản lý kiến trúc - cảnh quan các tuyến phố chính của thành phố Bắc Giang GWAS application to manage architecture - landscape of main streets in the Bac Giang city

Vũ Lê Ánh

Tóm tắtKiến trúc cảnh quan của một thành phố

đóng một vai trò rất quan trọng để thể hiện hình ảnh đô thị, tăng hấp dẫn đô thị và chỉ

số cạnh tranh của đô thị. Công nghệ GIS đã được nhiều nước trên thế giới ứng dụng để

quản lý các yếu tố về kiến trúc cảnh quan và đã có hiệu quả rất tốt. Trong bài báo này,

nhóm nghiên cứu ứng dụng công nghệ GIS để xây dựng cơ sở dữ liệu và phương thức

quản lý các yếu tố kiến trúc quan quan năm tuyến phố chính tại thành phố Bắc Giang. Cơ sở dữ liệu trên được tích hợp trong môi

trường GIS sẽ hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản lý cấp tỉnh trong việc quy hoạch, quản lý và phát triển thành phố theo hướng tăng

chỉ số hấp dẫn và cạnh tranh đô thị.

AbstractLandscape architecture in the city plays a

very important role in expressing the urban images, increasing urban appeal and urban

competitiveness index. GWAS technology had been used by many countries around the world to manage elements of landscape architecture

and worked effectively. In this paper, the research team applied GWAS technology to

build database and management method of architectural elements in five main streets in

the Bac Giang city. These integrated data in the GWAS would effectively support provincial

managers in city planning, management and development towards urban attractiveness and

competitiveness index.

ThS. Vũ Lê ÁnhBộ môn Trắc địa Khoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị ĐT: 0974 653 647 Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 11/5/2017 Ngày sửa bài:19/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Giới thiệuTrong quá trình phát triển đô thị, quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị luôn là nhiệm

vụ trọng tâm nhằm đảm bảo được bộ mặt đô thị và bản sắc của từng đô thị. Kiến trúc cảnh quan được thể hiện thông qua các tính chất như: Số tầng, kích thước công trình, mặt đứng kiến trúc, ngoại thất sân vườn của công trình... Quản lý kiến trúc cảnh quan trên các tuyến phố sẽ góp phần thể hiện hình ảnh đô thị và tăng hấp dẫn đô thị và chỉ số cạnh tranh của đô thị.

Thành phố Bắc Giang có diện tích 66,45km2 với dân số với hơn 150 nghìn người. Về không gian đô thị, khu nội thành đã phát triển dày đặc, các khu phố cũ mang nét đặc trưng của phố thương mại truyền thống với các hoạt động buôn bán sầm uất. Cấu trúc giao thông cũ, không gian đường phố chật chội đặc biệt là không gian vỉa hè không được quản lý tốt nên nhiều khu vực đã bị lấn chiếm, chất lượng không gian đô thị nhiều nơi còn thấp, diện mạo kiến trúc khu vực trung tâm chưa tạo nên sắc thái đặc trưng riêng, chưa có những không gian dành cho các hoạt động cộng đồng rõ nét và chưa đủ mạnh để tạo dựng nên hình ảnh ấn tượng và sự hấp dẫn cho thành phố.

Khu dân cư mới được tổ chức chủ yếu theo hình thức phân lô nền, mật độ cao, tạo nên các tuyến phố thương mại mới với kiến trúc hiện đại, cao 3-5 tầng song không gian kiến trúc chưa tạo được nét đặc trưng, thiếu nhịp điệu và tính đồng nhất trên mặt đứng các tuyến phố. Sự phát triển đơn lẻ của từng công trình (nhà ở và công cộng) cùng sự thiếu vắng các công trình giáo dục, các công trình dịch vụ đô thị thiết yếu, các khoảng xanh phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của người dân đã làm không gian đô thị trở nên lạc hậu, đơn điệu ngay khi vừa hình thành. Không gian khu ở mới đan xen với các một số trụ sở cơ quan mới (Sở thông tin truyền thông, công an, kho bạc...) thiếu không gian đệm chuyển tiếp, thiếu gắn sự kết với khu vực làng xóm cũ.

Sông Thương là một giá trị cảnh quan rất quan trọng của thành phố nhưng mối liên kết giữa đô thị với sông Thương, gần như chưa được tạo dựng và sử dụng trong hoạt động đô thị. Tuyến đường đê hai bên sông tại khu vực nội thành được hình thành song việc kết nối với giao thông đô thị gặp nhiều khó khăn. Không gian đê giống như một bức tường chia cắt không gian đô thị phía trong với mặt đê khiến cho việc tiếp cận với không gian sông gặp khó khăn.

Để quản lý kiến trúc cảnh quan đạt hiệu quả cần có một bộ cơ sở dữ liệu đầy đủ bao gồm cả thông tin về không gian cũng như thuộc tính của các công trình trên tuyến phố. Hiện nay, tại Bắc Giang dữ liệu kiến trúc cảnh quan vẫn được thu thập một cách rời rạc, chưa hệ thống và chưa có công cụ quản lý hiệu quả.

Trong bài báo này chúng tôi giới thiệu công nghệ GIS, công cụ này sẽ xây dựng bộ cơ sở dữ liệu đầy đủ các thông tin về kiến trúc cảnh quan một cách có hệ thống, hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý tại các cơ quan chức năng.

Kết quả của bài báo sẽ là cơ sở để xây dựng quy trình chung về cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý kiến trúc cảnh quan cho các đô thị tại Việt Nam và 1 bộ cơ sở dữ liệu cho năm tuyến phố nêu trên của thành phố Bắc Giang.

2. Khu vực nghiên cứuQua khảo sát, dựa trên các yếu tố để quản lý kiến trúc cảnh quan, lấy ý kiến

của chuyên gia, nhóm nghiên cứu lựa chọn năm tuyến phố chính: Hùng Vương; Nguyễn Văn Cừ; Hoàng Văn Thụ; Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn của thành phố Bắc Giang để xây dựng bộ cơ sở dữ liệu GIS làm thí điểm (Hình 1).

3. Phương pháp nghiên cứuĐể xây dựng cơ sở dữ liệu GIS cho 5 tuyến phố chính của thành phố Bắc

Giang, trong bài báo này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thu thập các bản đồ, bản vẽ, tài liệu, số liệu, liên quan tới các công trình hai bên của

Hình 4.

Hình 5.

Page 8: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

14 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 15 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Hình 1. Sơ đồ 5 tuyến đường nghiên cứu

Hình 3. Cơ sở dữ liệu sau khi được phân tách và nắn chỉnh về VN2000

Hình 2. Sơ đồ quy trình xây dựng CSDL GIS

5 tuyến phố từ các cơ quan chức năng như Sở xây dựng, Sở tài nguyên Môi trường, Trung tâm phát triển quỹ đất.

Xây dựng bộ cơ sở dữ liệu này chúng tôi tiến hành điều tra khảo sát thực địa, gửi các bảng hỏi đến các cơ quan chức năng và trực tiếp đi chụp ảnh tại 5 tuyến phố để thu thập các thông tin chính xác cập nhật. Các tiêu chí để xây dựng bộ cơ sở dữ liệu được tham khảo ý kiến của các chuyên gia liên quan đến lĩnh vực quản lý kiến trúc cảnh quan.

Sau khi thu thập được toàn bộ các tài liệu liên quan, ý kiến chuyên gia, khảo sát cập nhật thông tin về kiến trúc cảnh quan tại 5 tuyến phố, toàn bộ số liệu đó được tiến hành mô hình hóa trong môi trường GIS [2].

4. Quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu Quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu được thực

hiện theo từng bước theo hình 2.• Lựa chọn phần mềmDữ liệu kiến trúc cảnh quan đô thị là dữ liệu

đa dạng, đa ngành và được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau, vì vậy cần một phần mềm GIS đủ mạnh để thu thập, quản lý.

Hiện nay, có nhiều phần mềm GIS như: ArcGis, MapInfor, Microstion SE, SuperGIS.... Một phần mềm GIS phải đảm bảo các chức năng chính: thu thập, lưu trữ các dạng dữ liệu GIS, tra cứu, hiển thị, phân tích, chiết xuất ra các sản phẩm là bản đồ, biểu đồ, các báo cáo....

Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn phần mềm ArcGis là một phần mềm hệ thống GIS hàng đầu hiện nay, cung cấp một giải pháp toàn diện từ thu thập, nhập số liệu, biên tập, phân tích, hiển thị và phân phối thông tin trên mạng Internet với các cấp độ khác nhau[1].

• Xử lý số liệu Để mô hình hóa trong GIS, dữ liệu cần phải

được phân loại theo nguyên lý cơ sở dữ liệu GIS. Dữ liệu cần được phân thành dạng cấu trúc dữ liệu mà môi trường GIS quản lý: Cấu trúc dữ liệu không gian và Cấu trúc dữ liệu thuộc tính. Do mức độ quan trọng của dữ liệu cũng như thực trạng dữ liệu còn nhiều bất cập nên công tác này được đặc biệt chú trọng.

• Xử lý dữ liệu không gianCác dữ liệu bản đồ, bản vẽ có các hệ tọa

độ và định dạng file khác nhau đều được nắn chỉnh về Hệ tọa độ VN2000 và đưa về cùng 1 định dạng file[4]. Đây là một bước khó và đòi hỏi tính chuyên nghiệp do phải sử dụng nhiều phần mềm khác nhau như chuyển dữ liệu từ AutoCAD, Microstation sang định dạng shapefile, chọn dữ liệu chuẩn để nắn chỉnh đưa toàn bộ dữ liệu về cùng một hệ tọa độ. Xác định dữ liệu chuẩn bằng cách kiểm tra các số liệu bản đồ thu thập được và chọn dữ liệu bản đồ đã được gắn tọa độ Quốc gia VN2000 để làm cơ sở nắn chỉnh các dữ liệu còn lại [3].

Toàn bộ dữ liệu không gian của 5 tuyến phố được để dưới dạng cấu trúc Geodatabase để

quản lý thuận tiện.Sau khi dữ liệu bản đồ được cập nhật hệ tọa độ thống

nhất, chúng tôi tiến hành phân tách dữ liệu không gian. Việc thiết kế cấu trúc GIS rất quan trọng, dữ liệu không gian được phân tách thành 2 phần (Hình 3):

Dữ liệu nền: mang tính tham khảo chung cho cả hệ thống bao gồm lớp hành chính, lớp giao thông, lớp dân cư, lớp thủy hệ...

Dữ liệu chuyên ngành: lớp nhà được khảo sát, lớp các tuyến đường chính....

Sau khi dữ liệu được phân tách tiến hành biên tập dữ liệu

đặc biệt là xử lý các lỗi Topology cho dữ liệu không gian. Để phân tích được cơ sở dữ liệu trong môi trường GIS thì xác định được mối quan hệ logic giữa vị trí của các đối tượng topology là rất quan trọng [3] (Hình 4).

Các bước xử lý dữ liệu không gian có thể được thể hiện theo sơ đồ chung sau (Hình 6):

• Xử lý dữ liệu thuộc tínhDữ liệu thuộc tính thu nhận được từ các thông tin trên

bảng hỏi, phiếu điều tra và được xử lý trên phần mềm Excel (Hình 7).

Sau khi xử lý dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính, cần

Hình 4. Các lỗi topology của dữ liệu không gian (các node đỏ)

Hình 5. Dữ liệu không gian sau khi được nắn chỉnh và biên tập hoàn chỉnh

Page 9: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

17 S¬ 29 - 201816 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

KHOA H“C & C«NG NGHª

giải pháp này thì cần xác định các khu vực cần bóng đổ và độ nhô ra của khối, độ vươn xa của kết cấu chắn nắng, cũng như kiểu dáng kết cấu để đạt hiệu quả mong muốn (hình 3).

Việc sử dụng các dàn cây dây leo làm lớp vỏ xanh cho tòa nhà cũng rất hiệu quả và được ưa chuộng vì vẻ đẹp mang tính sinh thái, môi trường và nghệ thuật. Để đạt được hiệu quả chống nóng bằng tường xanh cần lựa chọn loại thực vật thích hợp, có lá dày và ít rụng, không chứa chất độc và tránh thu hút sâu bọ, côn trùng. Thiết kế cây xanh ban công và trên mặt tường. Ở vị trí cửa đi và cửa sổ cây sẽ được xén tỉa.2.5. Thiết kế che nắng cho cửa sổ

Ở Việt Nam, một yêu cầu quan trọng trong thiết kế tòa nhà xanh là phải đảm bảo có hệ thống kết cấu che nắng tối ưu. Hệ thống này phải tăng mức độ chiếu sáng tự nhiên trong khi kiểm soát năng lượng nhiệt mặt trời quá mức, làm giảm ánh sáng chói cũng như sự khó chịu cho người sử dụng, điều này đồng nghĩa với việc giảm bức xạ nhiệt chiếu vào tòa nhà và môi trường sống nói chung. Lắp đặt các thiết bị che nắng phù hợp có thể tăng hiệu suất chiếu sáng tự nhiên trong phòng, nhưng ngược lại các sai sót có thể dẫn đến nhiều bất lợi như chúng có thể cản trở tầm nhìn, gây cảm giác khó chịu.

Các dạng che nắng bao gồm: - Các chi tiết che nắng bên ngoài như tấm che nắng theo

chiều ngang (ô văng), tấm che nắng theo chiều đứng, hỗn hợp, các chớp ngang, chớp đứng cố định, hiên, mái hắt, mui bạt, ban công, lô gia...

- Kết cấu che nắng kiểu tấm chắn cố định trước mặt cửa sổ, hệ mành che nắng bằng các lam che hay tạo ra vỏ bọc tòa nhà có hai lớp “da” (double skin).

- Hệ thống che nắng di động được tối ưu hóa việc che các tia nắng của mặt trời và bảo đảm tầm nhìn nhờ vào phần mềm máy tính đặc biệt được xây dựng để kiểm soát thiết bị hướng theo đường chiếu di chuyển của chiếu nắng của Mặt trời, kết quả là che nắng tối ưu vào mọi thời điểm cần thiết.

- Các thiết bị che có bề mặt phản xạ ánh sáng - “kệ hắt sáng” (light-shelf).

- Các thiết bị kiểm soát độ chói nội thất như rèm, mành,

chớp điều chỉnh.- Các đặc trưng cảnh quan như dàn cây leo, cây xanh

trưởng thành hay hàng rào cây xanh;- Kính có hiệu suất cao như: kính low- E (giảm bức xạ mặt

trời xuyên qua vào trong tòa nhà); kính hai lớp, ba lớp (giảm bức xạ mặt trời nhờ khoảng chân không cách nhiệt giữa các tấm kính); kính có tấm dán cách nhiệt (giảm tia cực tím có hại và ngăn ngừa tia hồng ngoại-tia nhiệt năng lượng mặt trời).

3. Kết luậnCác giải pháp thiết kế thụ động vỏ bao che đã đề xuất là

cần thiết phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam và tiết kiệm năng lượng, đáp ứng quy chuẩn QCXDVN 09:2013/BXD Các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả. Các giải pháp đố bao gồm: Hình khối và hướng tòa nhà, giải pháp cách nhiệt bằng giảm bức xạ và tăng phản xạ, cách nhiệt bằng nhiệt trở, cách nhiệt bằng nhiệt dung hay nhiệt hàm và thiết kế che nắng cho cửa sổ./.

Hình 8. Bảng thuộc tính sau khi được kết nối với dữ liệu không gian

Hình 7. Nhập dữ liệu thuộc tính trong phần mềm Excel

Hình 6. Các bước xử lý dữ liệu không gian

phải kết nối hai dữ liệu này, đây chính là thế mạnh của GIS so với các hệ thống dữ liệu thông thường khác[1],[2] (Hình 8).

5. Kết luậnBài báo đã xây dựng được 1 bộ cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh

cho 5 tuyến phố chính của thành phố Bắc Giang.Bài báo sẽ là cơ sở cho quy trình chung về xây dựng bộ

cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị.

Bài báo cũng đã chứng minh được việc sử dụng GIS trong quản lý kiến trúc cảnh quan sẽ nâng cao được tính hấp dẫn của đô thị .

Việc xây dựng bộ cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ GIS để quản lý kiến trúc cảnh quan của một thành phố sẽ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản lý đưa ra các chính sách quy định phù hợp và có hiệu quả cao./.

Tài liệu tham khảo1. Công ty tư vấn GeoViet (2011)- Sổ tay sử dụng công nghệ GIS

trong quy hoạch và quản lý hạ tầng đô thị ở Việt Nam.2. Trần Trọng Đức (2011), GIS căn bản, NXB Đại học Quốc Gia

TP. Hồ Chí Minh3. Trần Trọng Đức (2011), Thực hành GIS, NXB Đại học Quốc

Gia TP. Hồ Chí Minh4. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Thong-tu-

973-2001-TT-TCDC-huong-dan-ap-dung-he-quy-chieu-va-he-toa-do-quoc-gia-VN-2000-83433.aspx

5. PTS.KTS Trần Tất Ngạn (1999), Kiến trúc cảnh quan, NXB Xây Dựng, Hà Nội

Tài liệu tham khảo1. Phạm Ngọc Đăng, Nguyễn Việt Anh, Phạm Thị Hải Hà,

Nguyễn Văn Muôn, Các giải pháp thiết kế công trình xanh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 2013;

2. Phạm Ngọc Đăng, Phạm Hải Hà, Nhiệt và khí hậu kiến trúc, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội,2002;

3. Phạm Đức Nguyên, Công trình xanh và các giải pháp kiến trúc thiết kế công trình xanh;

4. QCXDVN 09:2013/BXD Các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả;

5. Viện KHCN XD, Báo cáo tổng hợp đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cải tạo nâng cao đặc tính trở nhiêt cho vỏ kết cấu bao che của các tòa nhà hiện hữu ở đô thị nhằm sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam. Mã số: BDDKH52, 2015.

Giải pháp thiết kế thụ động lớp vỏ công trình văn phòng cao tầng...(tiếp theo trang 6)

Page 10: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

18 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 19 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Establishing and developing the relationship with enterprises in training and scientific research at Hanoi Architectural University Xây dựng và phát triển quan hệ với doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Ngô Thị Kim Dung

AbstractThe article presented the necessity, benefit,

content, form as well as some solutions to promote relationship between the university and

enterprises in training, scientific research and technology transfer.

Dr.Arch. Ngô Thị Kim Dung Hanoi Architectural UniversityMobile: 0982 181 921

Ngày nhận bài: 30/12/2017 Ngày sửa bài: 09/1/2018 Ngày duyệt đăng: 11/1/2018

1. IntroductionHumankind has experienced three great industrial revolutions. We are coming

into a new industrial revolution: the fourth industrial revolution. The industrial revolution 4.0 combines the achievements of three previous industrial revolutions and the digital world. That is a big trend all over the world. Actually, the shift from the Third Industrial Revolution to the industrial revolution 4.0 is the shift from digital revolution to innovative revolution which is based on combinations of technology. In this revolution, that technology will assist enterprises with new equipments, a new supply of services will result in increased labour productivity. At that time, human capacity will replace financial capital and become the decisive factor of the social life. This revolution will drammatically influence all aspects of the social life. To illustrate, education in general and higher education in particular are facing great challenges.

Facing the fourth industrial revolution, technological advances, artificial intelligence or changes in labour demand will put education under great pressure. Vocational educational institutions in general and universities in particular will meet with a wide range of obstacles in anticipating the contents, requirements and skills which labour markets demand in the future. Training and scientific research activities at universities are to face requirements for innovation and intense competition.

At present, our country has nearly 200 professional and vocational educational institutions in the field of construction. Labour force in our country in general and in the filed of construction in particular is abundant in terms of quantity but limited in terms of quality. Labourers with professional qualifications and technical knowledge have fairly good theoretical knowledge; however, their practical capacity and adaptability in the international competitive environment is low. Their ability to work in groups and to use foreign languages as well as their professionalism is not high.

That fact requires educational institutions to equip their learners with basic skills and knowledge, creative thinking as well as the ability to adapt to the continuously changing challenges and work demands in order to avoid being eliminated. In addition to research activities aimed at gaining new knowledge, it is urgent for universities to train highly skilled workforce who are fully equipped with the knowledge and skills that the labour market needs for the purpose of not only meeting the work demands after graduation but also adapting to the continuous changes of the employment.

Hanoi Architectural University is an educational and training institution which has a good reputation and long-term experience. In the process of building and development, the University continuously reforms its objectives, curriculums and training approach with the aim of meeting the real demands of the country and international integration. For the past 50 years, the University has trained a large number of talented and dedicated scientists, engineers, architects, bachelors so as to provide a great human resource for the field of construction in particular and for our country in general.

Facing the current reality, the University’s leaders have studied and decided to develop Hanoi Architectural University in the direction of the model of an application oriented higher education institution. Towards this orientation, the University has another important mission which brings knowledge into the social life and applies the knowledge in order to deal with current practical issues.

With this kind of model, the University is not only a place for training and research but also a center of creativity, innovation, solving practical issues as well as bringing social values.

To accomplish its mission, the University has been amending to meet the

important requirements such as:Being the higher education institution which train

human resources towards applied orientation. Scientific and technological research of the university focuses on the development of basic research findings, the application of source technology into technology solutions, the management process in addition to the design of complete equipments so as to meet various demands. Furthermore, the university has the capacity to lead research and carry out scientific research at national level, regional level as well as international level. Also, the university has the facility and technical equipments which meet the training requirements. In detail, the training environment is to be associated with direct employment.

Together with improving the quality of training, it is a good way to change objectives and training approach which changes academic training into practical training to meet demands of labour market. The collaboration between the University – managers – enterprises is a significant factor which not only creates conditions for innovation, creativity and improvement in labour productivity but also promotes the spirit of entrepreneurship of lecturers and students.

In addition, enterprises are facing a number of new challenges in many aspects in the context of the intellectual economy and the rapid development of science and technology. It is essential for enterprises to increase investment in research and development, to seek highly qualified human resources as well as enhancing capacity of available human resources.

As a consequence, in the current context, the collaboration between training institutions and enterprises is really urgent. It is a significant factor in bridging the gap between training, research and implementation.

2. The benefits of collaboration between universities and enterprises

In the current context, universities and businesses become partners of equal-status and collaborate in achieving common goals and bringing benefits to both sides and the whole society. In particular:a. For enterprises:

Collaboration with training institutions contributes to improving operational efficiency and enhancing competitive advantage in the enterprise market. The collaboration helps enterprises to build up qualified staffs who meet the job requirements. Cooperation with universities is also a good opportunity for enterprises to promote their image and to build up the prestige in the society. b. For the University:

In the current context, cooperation with enterprises help universities to improve their brand and reputation which contributes to improving the training quality and training for labour market needs. Also, it helps the university to improve the quality of scientific research, to link research products and practice as well as speeding up the knowledge and technology transfer. Cooperation with enterprises also provides cadres and lecturers with the opportunity to interact and work in the academic environment associated with practice.

As a result, the collaboration contributes to boosting the revenue, improving material resources in addition to increasing income for cadres and lectures at the university.c. For students:

Students are the greatest beneficiaries of the collaboration between the university and the world of work in general and enterprises in particular. Learning activities associated with professional practice is the shortest way to help students improve their knowledge, develop soft skills in addition to cultivating the right professional attitude. Through practical work, students are able to adapt to the working environment easily and to build up a clear career orientation. That also provides students with the chances to increase income, to build up professional relationship as well as having more job opportunities after graduation.

3. The content and form of collaboration between the university and enterprisesa. In terms of training

In terms of training, enterprises cooperates with the university in providing information and viewpoints so that the training institution understands the needs of labour market. Also, enterprises participate in establishing, developing as well as renewing objectives, curriculum and training approach. Furthermore, enterprises carry out activities at training institutions such as delivering lectures and talks in addition to organising workshops which introduce new technologies. Enterprises also provide guidance on practice, experiments, class projects and graduation projects as well as accepting internships and students visiting them. Besides, enterprises organise practical professional activities in the actual position in institutions, organisations and enterprises.

The university closely cooperates with enterprises so as to fully update and amend objectives, curriculum and training approach. Also, the university develops training programs to satisfy enterprise requirements in addition to organizing training courses to improve the professional ability of the staff in enterprises.b. In terms of research and technology transfer

In terms of research and technology transfer, the university and enterprises are able to have cooperation in a number of aspects:

- The university and enterprises take part in collaborative research projects.

- It is essential for the university to give priority to technology transfer, to provide highly qualified human resources as well as assisting enterprises in consulting and dealing with problems of enterprises.

- The university offers consultancy services and appoint cadres to consult on research for enterprises.

- Enterprises provide research topics for the university and assist the university in commercialising research results.c. In terms of management

In terms of management, representatives of the university are able to take part in enterprise management at such positions as general managers and technical managers. Meanwhile, enterprises are capable of taking managing positions in university council and faculty council at the university...d. In terms of facility and finance

The university and enterprises can cooperate and support each other so as to exploit and make the best use of their facility and finance. In detail:

Enterprises develop the program and build the plan of financial support within the scope of their possibilities so that

Page 11: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

20 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 21 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Xây dựng và phát triển đô thị thông minh – xu thế tất yếu của Việt Nam Smart urban building and development - The inevitable trend in Vietnam in the near future

Lê Thu Giang

Tóm tắtNhiều nước phát triển trên thế giới đã xây dựng thành công mô

hình đô thị, thành phố thông minh. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã đề cập đến khái niệm này và đã bước đầu triển

khai mô hình này ở một số thành phố, tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn rất nhiều vấn đề đặt ra cho việc xây dựng một đô

thị thông minh. Đô thị thông minh (Smart city) là thành phố hiện đại, có nền kinh tế, môi trường, quản trị, giao thông, năng

lượng, y tế, giáo dục thông minh, ứng dụng những giải pháp công nghệ thông tin tiên tiến nhất. Công nghệ thông tin và

truyền thông được ứng dụng hiệu quả, chính quyền cung cấp các dịch vụ, tiện ích tới người dân và doanh nghiệp, góp phần

nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Bài viết này đề cập đến một số đặc điểm cơ bản cần có để xây dựng đô thị thông minh, xem xét thực trạng xây dựng

đô thị thông minh ở một số tỉnh thành phố của Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị cho việc hình thành và xây dựng thành

phố, đô thị thông minh.Từ khóa: đô thị thông minh, thành phố thông minh, công nghệ thông

tin, nền kinh tế, xây dựng và phát triển đô thị

AbstractMany developed countries in the world had built successful smart urban

and city models. In recent years, this concept had been mentioned in Vietnam and started to building in some cities, but there were many questions to be rawased in the building process. Smart urban (smart

city) was a modern city which had smart economy, environment, governance, transport, energy, health, education with advanced information technology. Efficiently information technology and

communication helped the government provide public services and utilities to people and enterprises, contributing to improve the living

quality and economic competitiveness. This paper refered to some basic characterwastics in smart urban building and reviewed the current

status of smart urban building in some Vietnam cities and propose some recommendations.

Keywords: Urban Smart, Smart city, information technology, economy, construction and urban development

ThS. Lê Thu GiangKhoa Quản lý đô thị Email: [email protected]ĐT: 0977 686 586

Ngày nhận bài: 01/3/2017 Ngày sửa bài: 17/5/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Xây dựng đô thị thông minh - xu thế phát triển tất yếu Sự phát triển của đô thị đang đặt ra nhiều vấn đề lớn cần giải

quyết, đó là di dân và đô thị hóa tăng (dân số đô thị và số đô thị tăng); vấn đề môi trường, giao thông, dịch vụ y tế, an toàn, nhà ở…; hạ tầng lạc hậu, quá tải (như điện, nước, giao thông)... Các đô thị có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của đất nước, nên việc nghiên cứu, tìm ra mô hình quản lý và phát triển các đô thị hiện nay có tính cấp thiết cũng như có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho sự phát triển của các đô thị nói riêng, sự phát triển bền vững của đất nước nói chung. Việc xây dựng đô thị thông minh là một lựa chọn tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Đô thị thông minh là đô thị giàu thông tin, được kết nối trong một mạng lưới hạ tầng đô thị và dịch vụ đầy đủ, năng động và an toàn; là nơi mà công nghệ thông tin cũng như các giải pháp từ Internet được vận hành một cách an toàn để quản lý tài sản của thành phố như hoạt động của các bộ máy tổ chức, hệ thống thông tin, trường học, thư viện, hệ thống giao thông, bệnh viện, hệ thống cấp điện, nước, quản lý chất thải, thực thi pháp luật và các dịch vụ cộng đồng khác. Các yếu tố hình thành nên một đô thị thông minh là các chính sách quản lý đô thị thông minh, quản lý giao thông, vận chuyển thông minh, năng lượng thân thiện với môi trường…

Đô thị thông minh có các đặc điểm chính là thành phố hiện đại, có nền kinh tế thông minh, môi trường thông minh, quản trị thông minh, giao thông thông minh, năng lượng thông minh, y tế thông minh, giáo dục thông minh, lối sống thông minh, cộng đồng thông minh, ứng dụng những giải pháp công nghệ thông tin (CNTT) tiên tiến nhất. Ở đó, CNTT và truyền thông được ứng dụng một cách hiệu quả, chính quyền cung cấp các dịch vụ, tiện ích tới người dân và doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời sử dụng dữ liệu thu thập được từ chính cộng đồng để liên tục hoàn thiện các chính sách, dịch vụ công của thành phố, đáp ứng tối đa các yêu cầu của đại bộ phận người dân và doanh nghiệp.

Thành phố, đô thị thông minh còn được biết đến với tên gọi là thành phố kỹ thuật số, cộng đồng điện tử, thành phố thông tin, thành phố dựa trên nền tảng tri thức... Ở đó, công nghệ thông tin được sử dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các dịch vụ đô thị, giảm tải chi phí và tài nguyên tiêu thụ, cải thiện mối quan hệ và sự tiếp xúc giữa người dân và chính phủ.

Như vậy, thành phố thông minh không thể tách rời được tính tiện ích, sự hiện đại mà các yếu tố đó phải tồn tại song hành với sự phát triển bền vững của thành phố, đặc biệt là lĩnh vực bảo vệ môi trường, tài nguyên; tiết kiệm năng lượng, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo ít gây ô nhiễm môi trường. Với hạ tầng internet băng rộng tốc độ cao, thành phố thông minh sẽ là một thành phố kết nối với mạng wifi miễn phí phủ rộng. Những trụ đèn, hộp trụ điện có thể trở thành các trạm thông tin hoặc phát wifi phục vụ người dân, du khách tra cứu, chẳng hạn thông tin về vị trí địa lý, điểm tham quan, thời tiết, diện tích, dân số, GDP.v.v…

Theo xu thế phát triển chung, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng, phát triển các đô thị thông minh như Liên minh châu Âu, Mỹ, Canada, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Trung quốc,

the university is able to carry out the training task including the training of human resources for enterprises. Moreover, enterprises provide support for students in the following ways: awarding full scholarship, partial scholarship in accordance with the performance of academic year and semester as well as supporting research projects. Also, enterprises support living expenses for students who do practical work and work there. In addition, enterprises award bonus to the cadres who instruct students at enterprises and pay wages to students.

Enterprises and the university share the infrastructure and facility such as: the library, the laboratory, the technical line, the software, the technical documents...e. In terms of brand building, career orientation and employment

Enterprises and the university jointly organize job fairs, career orientation activities and admission consultancy. Furthermore, enterprises and the university have cooperation in recruiting graduate students and distributing information to promote their own brand and image.

4. Some solutions to promote relationship between Hanoi Architectural University and enterprises.

In order to establish and develop the relationship between the university and enterprises, the university is supposed to carry out the following activities.

- It is essential for leaders of the university to define the role, position and importance of the world of work in current training. Also, it is advisable for the university to enhance propaganda so as to increase people’s awareness of the importance and benefits of developing the relationship between the university and enterprises. That will contribute to developing strategies, plans and policies for this issue.

- Improving prestige and defining the important role of the university in the society in general and enterprises in particular.

- Establishing the professions council which consists of specialists and managers of the world of market who provide consultancy for the university.

- Setting up specialised units such as: The office of careeer orientation and consultancy, the center for business relationship which contribute to seeking for opportunities for cooperation, management and maitaining contact with the world of work.

- Building the network of current and former students to take part in cooperative activities in enterprises and entrepreneurs.

- Promoting and developing a business model at the university. Developing a number of production and technology transfer officies into the model “Spin-off” so as to commercialise intellectual property, to register copyrights, to grant a license of invention, to nourish ideas as well as developing business projects at the university.

- Surveying enterprises and selecting the typical enterprises suitable for the training fields. That will contribute

to recommending the appropriate level, content and form of cooperation.

- Establishing guidance documents and regulations in order to promote collaboration between the university and enterprises.

- Reviewing and amending training programs including the modules which require students to do an internship in enterprises, official institutions, research institutes in addition to other practical institutions.

- Building plans to appoint lecturers to study, to enhance capacity and to take part in practical activities in enterprises.

- Collaborating with other universities on recommending the establishment of science parks and technology zones for enterprises to apply science.

5. RecommendationsIt is essential for the university to be fully aware of the

importance of cooperation with the world of work which is the motivation of development.

The Ministry of Education and Training coordinates with other relevant ministries to issue legal documents which define functions, missions, rights, requirements and conditions of individuals and organisations in collaboration between vocational educational institutions and enterprises...

It is necessary for the Government to issue policies, regulations, guidance documents on enterprises’ participation in training human resources for the society. To be of great importance, the Government is supposed to take incentive policies into consideration in order to give encouragement to enterprises../

References: 1. “The final report on the project on developing higher

education in the direction of applied occupations in Vietnam at the second stage”. Project on developing higher education in the direction of applied occupations in Vietnam at the second stage, the Ministry of Education and Training, Hanoi 2017.

2. “Higher education in the direction of applied occupations in Vietnam: achievements, policies and practical experience” Project on developing higher education in the direction of applied occupations in Vietnam at the second stage. Publisher: Vietnam National University, Hanoi 2016.

3. The proceedings of the international workshop “The Revolution 4.0 và education”, the association of colleges and universities in Vietnam, Hanoi 2016.

4. Tran Hoang Phong, “Participation of the world of work in developing application oriented training programs”. Forum “Replicating models of application oriented training”, Hanoi 2015.

5. Documents of the workshop “Human resources in the field of construction in the period of international integration”. Hanoi 2016.

6. Ngo Duc The, “Spin-off Company Models”. Saigon Times , July 2014

Page 12: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

22 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 23 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Singapore, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc...các quốc gia đó đã triển khai các dự án đô thị thông minh như New York (Mỹ), Amsterdam (Hà Lan), Tokyo (Nhật Bản), News Songdo City (Hàn Quốc)…

Khu vực Đông Nam Á cũng có thành phố Putrajaya của Malaysia được đánh giá là công trình đô thị thông minh tiêu biểu với 40% diện tích dành cho cây xanh, ở mọi nơi người ta đều nhìn thấy sự tồn tại song song giữa công nghệ thông tin và những vườn cây. Mỗi cư dân thành phố này được cấp một chiếc thẻ từ (lưu trữ các thông tin cá nhân như nhóm máu, thông tin công việc, tài chính…) để sử dụng thay chìa khóa cho mọi cánh cửa ở siêu thị, rạp hát… Trẻ con học hoàn toàn trên máy vi tính. Chuyện làm bài, trả bài của học sinh, thông tin liên lạc giữa nhà trường và các phụ huynh đều qua hệ thống này… (theo báo Hà Nội mới). Tập đoàn Thiết kế kiến trúc nổi tiếng của Anh - Arup - dự toán rằng đến năm 2020 chi phí toàn cầu cho các dịch vụ đô thị thông minh là 400 tỷ USD/năm. Theo số liệu thu thập được từ VNPT, vào năm 2013, có khoảng 20 thành phố thông minh trên thế giới và con số này dự kiến sẽ tăng lên 80 vào năm 2025. Chính phủ các nước phải tiêu tốn hàng chục tỉ USD cho việc xây dựng mỗi thành phố thông minh, trong đó chủ yếu là để phát triển hạ tầng internet và các trung tâm tích hợp, xử lí dữ liệu lớn (Big Data), các loại hình dịch vụ…Đây cũng là những yếu tố nền tảng để hình thành một thành phố thông minh.

Ở Việt Nam, các đô thị đang phát triển theo hướng tiếp cận với nhiều mô hình tiên tiến, tạo ra nhiều tiền đề về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, truyền thông để phát triển đô thị thông minh và quản lý thông minh. Hiện nay, Việt Nam đang dự kiến thí điểm phát triển 3 đô thị thông minh đó là Đà Nẵng, Hạ Long, Phú Quốc, trong đó ứng dụng những giải pháp công nghệ thông tin tiên tiến nhất.

Tháng 5-2012, Đà Nẵng là địa phương đầu tiên của Việt Nam và là một trong 33 thành phố trên thế giới được Tập đoàn IBM hỗ trợ phát triển dự án ‘‘Thành phố thông minh hơn’’. Hiện tại, một số thành phố khác như TP Hồ Chí Minh hay Hà Nội cũng có những bước triển khai cụ thể về những khía cạnh của thành phố thông minh. Năm 2016, Hà Nội cũng đang trên đà hướng tới mục tiêu trở thành một đô thị thông minh, một thành phố ứng dụng công nghệ để có thể giải quyết được những bài toán “nóng” như giảm tải ùn tắc

giao thông, quản lý lưu lượng xe cộ lưu thông, hay ứng dụng công nghệ để xây dựng hạ tầng thông minh cung cấp nước sạch, điện, chiếu sáng đô thị, thu gom, xử lý rác thải…Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của Hà Nội để hướng tới đô thị thông minh chính là cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, chưa thực sự phát triển toàn diện. Khi ứng dụng công nghệ cao vào thì sẽ gặp những khó khăn nhất định. Ngoài ra, trong lĩnh vực giao thông thông minh, việc ứng dụng công nghệ vào trung tâm điều khiển giao thông, điều chỉnh đèn hiệu,… Ví dụ, khi đường bị tắc thì lái xe có thể được cung cấp thông tin để họ có thể chuyển sang đường khác, xây dựng hệ thống thu phí thông minh tại các tuyến đường… Muốn làm được điều đó thì phải có những trung tâm điều khiển là đầu mối để quản lý giao thông, phòng tránh thiên tai… Đây cũng là một phương pháp của đô thị thông minh mà các nước tiên tiến đang áp dụng. Theo kiến trúc sư Nguyễn Trần Bắc, muốn làm được điều đó cần có hệ thống camera và thiết bị cảm biến tự trừ tiền qua thẻ tín dụng. Có thể áp dụng các module có kết nối 3G với xe máy, ô tô để giúp quản lý lưu lượng xe, giải quyết trường hợp tai nạn.

Như vậy, một hệ thống cơ sở hạ tầng chất lượng và giao thông thông minh sẽ góp phần giải quyết bài toán ùn tắc giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông một cách đáng kể nhưng cũng đòi hỏi sự đầu tư theo hệ thống rất lớn về công nghệ, trang thiết bị và cải tổ lại các quy hoạch cũ. Đồng thời, việc triển khai wifi ở một số nơi, những đề xuất của việc sử dụng điện thoại di động để truyền tải tình trạng giao thông hay những ý tưởng số hóa những sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày… là rất cần thiết.

Mới đây nhất, một cuộc hội thảo toàn cảnh Công nghệ thông tin truyền thông về giao thông thông minh đã được tổ chức nhằm tìm ra các giải pháp ứng dụng trong công tác quản lý hạ tầng giao thông, tập trung vào các giải pháp giảm ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông, phát huy hiệu quả các dự án giao thông được đầu tư. Thủ đô Hà Nội cũng đã bắt đầu vận hành hệ thống dịch vụ trực tuyến tại các phường, quận; hệ thống giám sát giao thông bằng camera, trong năm tới sẽ quản lý học sinh bằng học bạ điện tử…

TP.HCM cũng khẳng định sẽ quyết tâm xây dựng thành phố thông minh, với mục tiêu xây dựng hệ thống chính quyền điện tử, quy hoạch, giao thông, y tế và dịch vụ cho con người,

Hình 1. Mô hình thành phố thông minh (Đ.Ngọc, 2016)

an ninh công cộng, nước và nước thải, xây dựng, môi trường (chất thải, không khí...; năng lượng, giáo dục đào tạo, thanh toán và tài chính, nông nghiệp, truyền thông…

Phú Quốc đang có lộ trình trở thành thành phố thông minh trên cả nước. Trong lộ trình xây dựng Phú Quốc trở thành thành phố thông minh, giai đoạn 1 và giai đoạn 2 kéo dài trong 12 tuần. Giai đoạn 1 xây dựng khung giải pháp thông minh; Giai đoạn 2 xây dựng lộ trình cụ thể cho việc triển khai trên từng ngành. Bước đầu triển khai hạ tầng mạng, công nghệ thông tin và triển khai các dịch vụ cơ bản. Sau đó, Phú Quốc sẽ tập trung xây dựng Trung tâm vận hành tập trung và triển khai thêm các dịch vụ thông minh, và cuối cùng là xây dựng thành phố ngày càng thông minh theo xu hướng trên thế giới và Việt Nam.

Các giải pháp mà Phú Quốc đưa ra để xây dựng mô hình thành phố thông minh gồm giải pháp về giao thông, y tế và dịch vụ cho con người, an ninh công cộng, nước và nước thải, xây dựng, môi trường (chất thải, không khí...), năng lượng, phát triển giáo dục.... Những lĩnh vực cần chú trọng xây dựng trước như là chính quyền điện tử, Wifi thông minh (Smart Wifi), dịch vụ Camera giám sát, du lịch và giám sát môi trường. Khi hoàn thành, Phú Quốc sẽ là thành phố thông minh đầu tiên tại Việt Nam được xây dựng và vận hành. Lộ trình xây dựng Phú Quốc sẽ là kinh nghiệm để các tỉnh/thành khác học hỏi và rút kinh nghiệm trong quá trình hiện đại hoá các đô thị tại Việt Nam.

Nhưng những yếu tố của thành phố thông minh ở Việt Nam hiện nay chưa được nhắc đến nhiều. Những nhân tố hay công nghệ mới được đưa vào cả hai kênh là Nhà nước và thị trường trên thực tế chỉ được công chúng đón nhận ở một mức độ nhất định. Để áp dụng vào Việt Nam, khái niệm và tầm nhìn tổ chức đô thị thông minh cần được nghiên cứu kỹ, có lộ trình. Như vậy, việc xây dựng và phát triển các đô thị thông minh là xu thế tất yếu trong thời gian tới để có thể giải quyết những vướng mắc của quá trình đô thị hóa đồng thời góp phần tích cực trong việc phát triển nền kinh tế, phát triển đất nước.

2. Cần phát triển các đô thị theo hướng đô thị thông minh

Đô thị thông minh là vấn đề mới, Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm. Do vậy, cần học hỏi kinh nghiệm xây dựng đô thị thông minh ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore; tìm hiểu khả năng các nước hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình phát triển các đô thị thông minh 2016 – 2030. Đồng thời, khả năng phát triển các ứng dụng CNTT và viễn thông của các tập đoàn CNTT – viễn thông lớn của Việt Nam như Viettel, VNPT và FPT đối với tương lai phát triển các đô thị thông minh ở Việt Nam là rất lớn.

Việt Nam có 802 đô thị các loại tính đến tháng 12/2016, trong đó đô thị có quy mô lớn là 2 đô thị đặc biệt: Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh (quy mô trung bình 7-8 triệu người); khoảng gần 30 đô thị tương đối lớn bao gồm: các đô thị loại I và loại II có quy mô từ 25 vạn đến 1,5 triệu người. Theo Quyết định số 445/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt điều chỉnh định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Năm 2015, nhu cầu đất xây dựng đô thị khoảng 335.000 ha, chiếm 1,06% diện tích tự nhiên cả nước.

Sự phát triển của đô thị đang đặt ra 4 vấn đề lớn hiện nay cần phải giải quyết: đô thị hóa tăng (dân số đô thị tăng, số đô thị tăng) – Vấn đề của đô thị tăng (môi trường, giao thông,

dịch vụ y tế, an toàn, nhà ở…); hạ tầng lạc hậu, quá tải (điện, nước, giao thông); cạnh tranh kinh tế giữa các đô thị, giữa các vùng tăng; đòi hỏi của người dân về chất lượng cuộc sống tăng (giáo dục, y tế, chính quyền).

Hiện nay, các đô thị ở nước ta đang phát triển theo hướng tiếp cận với nhiều mô hình tiên tiến theo xu thế hội nhập quốc tế, tạo ra nhiều tiền đề về ứng dụng và phát triển CNTT, truyền thông để phát triển đô thị thông minh và quản lý thông minh. Cụ thể, tỷ lệ người sử dụng internet/tổng dân số năm 2014 đạt 43,8%, cao hơn tỷ lệ của thế giới là 42,2% và châu Á là 34,8%. Việt Nam có gần 14.000 doanh nghiệp CNTT với 500.000 lao động và doanh thu lớn (Hoàng Thùy). Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong việc ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý nhà nước và các lĩnh vực đời sống xã hội, rõ nhất là ở các lĩnh vực quản lý ngân sách và kho bạc, quản lý thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, giáo dục, y tế, quản lý giao thông, quản lý đất đai, qui hoạch. Việc phát triển đô thị thông minh nhằm hướng tới 4 mục tiêu: hiệu quả kinh tế ở các đô thị ngày càng cao (2025: diện tích đô thị khoảng 15% diện tích cả nước, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 50% (dân số), tạo ra khoảng 75% GDP); môi trường sống ngày càng tốt hơn; người dân được phục vụ tốt hơn; người dân tham gia quản lý đô thị và giám sát chính quyền (Phan Hảo).

3. Một số đề xuất kiến nghị và giải phápTrong giai đoạn tới, Việt Nam cần phát triển các đô thị

theo hướng đô thị thông minh v ới bốn mục tiêu: hiệu quả kinh tế ở các đô thị ngày càng cao; môi trường sống ngày càng tốt; người dân được phục vụ tốt hơn; người dân tham gia quản lý đô thị và giám sát chính quyền. Theo ông Nguyễn Thiện Nhân có bốn giải pháp làm nền tảng để xây dựng phát triển thành phố thông minh như sau:

Thứ nhất, chính quyền phải dự báo phát triển, tránh ách tắc, khủng hoảng và đảm bảo phát triển bền vững (mô phỏng, quy hoạch động và được cập nhật thường xuyên).

Thứ hai, chính quyền hỗ trợ quyết định “tối ưu” của 4 chủ thể (hiệu quả kinh tế, xã hội, cá nhân), điều này dẫn đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực ngày càng cao hơn (nguồn lực con người, tài nguyên, hạ tầng, vốn…), cuộc sống ngày càng thông minh hơn, hạnh phúc hơn.

Thứ ba, phát triển và khai thác không gian mạng trong không gian sống của mỗi cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị, xã hội (giao dịch cá nhân, giao dịch kinh doanh, giao dịch với chính quyền).

Thứ tư, để có một đô thị thông minh thì người dân tham gia quản lý (cảm biến xã hội, giám sát xã hội, trí tuệ nhân dân), đó là áp lực để dẫn đến một chính quyền năng động, hiệu quả.

Trên đây là những giải pháp nền tảng, để xây dựng được một đô thị thông minh, trước hết cần phải đặt người dân vào trung tâm của các giải pháp, cần có sự tham gia đóng góp của người dân, sự tương tác giữa nhà quản lý với người dân bởi người dân là người hiểu rõ mình cần gì muốn gì và làm được gì, khi có sự tương tác thì mới hình thành được mô hình đô thị thông minh hoạt động hiệu quả phù hợp với thực tiễn. Muốn áp dụng công nghệ thông tin vào đô thị cần phải có sự hướng dẫn và phải đơn giản hoá khi tiếp cận. Về phía nhà quản lý, phải lựa chọn ứng dụng công nghệ dễ tương tác, dễ sử dụng và có sự hướng dẫn với người dân, có cổng tiếp nhận thông tin và khuyến khích người dân đóng góp ý kiến, cũng nên có các chiến dịch giáo dục, tuyên truyền để nâng cao ý thức cộng đồng của người dân. Bên cạnh đó,

(xem tiếp trang 26)

Page 13: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

24 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 25 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtMáy nghiền bi là một dạng máy nghiền

tang quay, trong tang có các bi tròn hay bi đũa (còn gọi là đạn nghiền), các bi này trực tiếp nghiền vật liệu khi tang nghiền quay.

Sự nghiền vật liệu trong máy nghiền bi xảy ra trong lòng tang nghiền và là sự kết hợp

gữa các cú va đập giữa bi với vật liệu và ma sát trượt của các bi với vật liệu cần nghiền

tức là sự kết hợp giữa ứng suất va đập và sự mài mòn. Tồn tại một vận tốc quay của tang

nghiền mà tại đó sự nghiền chấm dứt được gọi là vận tốc quay tới hạn. Vận tốc quay tới

hạn thường được tính theo công thức thực nghiệm.

Bài báo giới thiệu cơ sở lý thuyết để lựa chọn chế độ làm việc thích hợp cho máy nghiền bi như: vận tốc tới hạn, đường kính của bi

nghiền, khối lượng bi nghiền… nhằm tăng hiệu quả của máy nghiền bi nói chung.

AbstractA ball mill was a kind of rotary grinding machine which had a horizontal cylinder partly filled with

steel balls (or occasionally other shapes) that rotates on its axis, imparting a tumbling and

cascading action to the balls. Material fed through the mill was crushed by impact and ground by attrition between the balls. The grinding

media were usually made of high-chromium crom steel. There exists a speed of rotation (the

“critical speed”) at which the contents of the mill would simply ride over the roof of the mill due

to centrifugal action. Critical rotation speed was usually calculated according to the empirical

formula.This paper reviewed the theoretical basis for

selecting the suitable working mode for ball mill such as: critical velocity, diameter of ball mill,

volume of ball mill, etc. to increase the efficiency of ball mill in general.

ThS.Đoàn Đình Điệp Bộ môn Máy xây dựng, Khoa Xây dựng ĐT: 0904 137 638 Email: [email protected]

Cơ sở lý thuyết để lựa chọn chế độ làm việc thích hợp cho máy nghiền biTheoretical basis for selecting the proper working mode of ball mill

Đoàn Đình Điệp

I. Nguyên lý hoạt động và sơ đồ kết cấu máy nghiền biMáy nghiền bi là một dạng máy nghiền tang quay, trong tang có các bi tròn, bi

đũa bằng thép chịu mài mòn hoặc các bi từ vật liệu khác (còn gọi là đạn nghiền), các bi này trực tiếp nghiền vật liệu khi tang nghiền quay. Sự nghiền vật liệu trong máy nghiền bi xảy ra trong lòng tang nghiền và là sự kết hợp gữa các cú va đập giữa bi với vật liệu và ma sát trượt của các bi với vật liệu cần nghiền tức là sự kết hợp giữa ứng suất va đập và sự mài mòn. Hiệu suất nghiền của máy nghiền bi vì vậy phụ thuộc chính vào tốc độ quay của tang nghiền, kích thước và hình dạng, khối lượng cũng như trọng lượng riêng của bi nghiền trong tang hoặc ống nghiền.

Cấu tạo chung của máy nghiền tang với đạn nghiền là bi tròn làm việc liên tục, dữ liệu qua vách bên phải như hình 2 dưới đây:

II. Xác định vận tốc quay hợp lý của tang nghiềnTính chất của lực va đập lên vật liệu nghiền thay đổi phụ thuộc vào tốc độ quay

của tang nghiền. Khi vận tốc quay của tang nghiền nhỏ thì các bi cũng chuyển động chậm, vì lực ma sát giữa bi với nhau và giữa bi với thành trong của tang nghiền làm cho bi nghiền được nâng lên ở một độ cao nhất định nào đó sau đó sẽ trượt và lăn xuống, xuất hiện sự mài mòn nghiền tán vật liệu (hình 3.a). Khi tăng vận tốc của tang nghiền lên sẽ xuất hiện lực ly tâm, các bi nghiền được nâng lên ở độ cao lớn hơn, sau đó thì rơi xuống vẽ ra một quỹ đạo chuyển động cong, khi va vào vật liệu nghiền sẽ làm vỡ, kết hợp với mài để nghiền vật liệu trong tang (hình 3.b). Nếu tăng tốc độ quay của tang lên cao hơn tới một thời điểm nào đó, lực ly tâm tăng tới mức cân bằng với lực hút của trái đất, khi đó các bi nghiền sẽ hoàn toàn không rơi xuống mà quay cùng với vỏ tang nghiền, và cùng với đó là sự nghiền hoàn toàn chấm dứt (hình 3.c). Vận tốc quay của tang nghiền mà sự nghiền chấm dứt được gọi là vận tốc quay tới hạn.

Từ đó suy ra rằng, vận tốc quay của tang nghiền, cũng như vận tốc quay của động cơ dẫn động phải nằm trong phạm vi nhỏ hơn vận tốc quay tới hạn

Vận tốc quay của tang nghiền trong phạm vi nhỏ hơn vận tốc quay tới hạn thì các bi nghiền sẽ được nâng lên tới một điểm nào đó, mà được gọi là điểm rơi và từ đó bi sẽ rơi xuống theo một đường cong quỹ đạo nhất định. Vận tốc quay của tang nghiền được coi là vận tốc quay lý tưởng khi các bi nghiền được nâng lên ở độ cao lớn nhất. Ở vận tốc quay lý tưởng sự nghiền diễn ra chủ yếu do tác dụng của lực va đập giữa bi nghiền và vật liệu nghiền, trong khi đó sự mài sẽ giữ vai trò ít hơn.

Để xác định vận tốc quay lý tưởng của tang nghiền người ta thường sử dụng công thức thực nghiệm sau:

32nD

= Vòng/phút

Trong đó: D là đường kính trong của tang nghiền, m.III. Xác định trọng lượng bi nghiền và chọn đường kính bi nghiềnKhi bi nghiền rơi, nó cũng như bất kỳ vật rơi nào khác khi rơi ở độ cao nhất

định sẽ có một động năng được tính theo công thức =mv2/2 trong đó m là khối lượng của bi, v là vận tốc khi va chạm vật liệu nghiền. Từ đó suy ra rằng hiệu suất nghiền của bi tỷ lệ thuận với trọng lượng và chiều cao rơi của nó. Chiều cao rơi của bi nghiền trong một máy nghiền quay với vận tốc hợp lý là không đổi. Từ đó suy ra rằng, khả năng nghiền của bi nghiền phụ thuộc chính vào trọng lượng của nó. Như vậy, khi vật liệu nghiền có kích thước hạt lớn hoặc độ cứng cao, thì để nghiền tới kích thước hạt yêu cầu đòi hỏi các bi nghiền phải có trọng lượng lớn. Trên thực tế để đạt được mức độ nghiền cao cần phải cho vào tang nghiền bi có kích thước lớn. Nói chung, đường kính của bi nghiền được trọn phụ thuộc vào loại vật liệu cần nghiền, mức độ nghiền, độ nhỏ độ mịn của sản phẩm và thường thì có kích thước trong khoảng từ 40 – 150mm.

Để tăng hiệu quả nghiền của máy nghiền bi, người ta hiệu chỉnh sao cho trong tang nghiền không có bi nghiền nào khi rơi mà sự nghiền không đạt như yêu cầu. Vì vậy, trong quá trình vận hành máy nghiền bi phải định kỳ kiểm tra chất lượng bi nghiền, lọc những viên đã bị mòn và thay bằng những viên bi mới.

Quá trình bị mòn của bi nghiền và tấm lót tang nghiền phụ thuộc vào loại vật liệu nghiền chế độ vận hành máy nghiền và thường thì cứ nghiền được1 tấn sản phẩm thì bi sẽ mòn từ 1- 2kg và tấm lót mòn từ 0,4 – 0,5kg.

Thể tích bi trong tang nghiền nên chiếm khoảng từ 30 – 45% thể tích hình học của tang nghiền

IV. Nghiền theo chu trình nghiền kín và chu trình nghiền hở

Theo phương án dỡ và tách sản phẩm đủ mịn sau nghiền người ta chia công nghệ nghiền ra thành hai nhóm đó là chu trình nghiền kín và chu trình nghiền hở, tất cả vật liệu sau khi qua một chu trình nghiền phải có độ mịn theo yêu cầu.

Trong các máy nghiền bi loại nghiền theo chu trình hở, toàn bộ vật liệu sau nghiền được đưa vào một thiết bị phân loại đặc biệt (máy tách hoặc máy sàng). Trong trường hợp này, vật liệu sau một chu trình nghiền không nhất thiết phải nghiền tới độ mịn như yêu cầu, vì ngay sau chu trình, sản phẩm sẽ được sàng hoặc phân loại thành hai nhóm: nhóm 1 là sản phẩm đạt yêu cầu sẽ đưa vào bunke sản phẩm và nhóm hai là nhóm có kích thước lớn hơn kích thước yêu cầu sẽ được đưa quay lại buồng nghiền để nghiền lại.

Trong các máy nghiền bi loại nghiền theo chu trình nghiền kín, những vật liệu chưa đạt kích thước như yêu cầu sẽ được chuyển quay lại khoang nghiền để nghiền lại theo trình tự khoang nghiền – máy phân loại – khoang nghiền.

Với trình tự như nói ở trên sẽ xuất hiện trường hợp khối lượng vật liệu phải nghiền lại quá lớn đôi khi lớn hơn nhiều lần vật liệu mới được cấp vào. Điều này làm cho dòng vật liệu đi qua tang nghiền (bao gồm khối lượng vật liệu mới vào cùng với khối lượng vật liệu phải nghiền lại) sẽ quá lớn dẫn tới thời gian được vật liệu trong tang nghiền bị rút ngắn, và tỷ lệ không đạt yêu cầu của vật liệu sau khi đi một lần qua khoang nghiền sẽ tăng lên rất nhiều vì vậy phải hiệu chỉnh các tham số công nghệ của máy nghiền cho phù hợp.

Như vậy, khi nghiền vật liệu theo chu trình nghiền kín kết hợp với máy phân loại bố trí giữa các khoang nghiền (nghiền – phân loại - nghiền), sản phẩm nhận được có kích thước tương đối đồng đều so với các máy nghiền với chu trình hở vì tồn tại một nguyên lý không nghiền lại những phần vật liệu đã đạt yêu cầu.

Tỷ lệ vật liệu trong một chu trình nghiền, được thể hiện bằng % so với khối lượng chất liệu ban đầu, được gọi là tải trọng tuần hoàn của một máy nghiền. Giá trị của tải trọng tuần hoàn thường từ 100 – 500% so với khối lượng chất liệu vào ban đầu.

Tính toán giá trị đại lượng tải trọng tuần hoàn theo công thức sau:

100. ,c aSa b−

=−

%

Trong đó: a - tỷ lệ % của nhóm vật liệu đi qua máy phân loại mà lọt

qua sàng.b – tỷ lệ % của nhóm vật liệu nói trên bị quay trở lại;c - tỷ lệ % của nhóm vật liệu nói trên được đưa vào sản

phẩm.

Hình 1. Máy nghiền bi

Hình 2. Sơ đồ cấu tạo chung của máy nghiền tang:

1 – tang nghiền 2 – vòng bi 3 và 4 – ngõng trục rỗng 5 – bi (đạn) nghiền

Hình 2. Sơ đồ quỹ đạo chuyển động của bi trong tang nghiền

Page 14: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

26 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 27 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

V. Nghiền khô và nghiền ướtTrên thực tế có hai công nghệ nghiền đó là nghiền khô

và nghiền ướt. Công nghệ nghiền khô là công nghệ dùng để nghiền các loại vật liệu có độ ẩm từ 2 – 3%. Trong công nghệ nghiền ướt, quá trình nghiền có sự tham gia của pha chất lỏng, tỷ lệ nước trong vật liệu nghiền ướt thường 30 – 40% , trong một số trường hợp tỷ lệ này còn cao hơn khi nghiền vật liệu kết hợp với phương pháp nghiền tán xạ.

Nói chung thì nghiền ướt là công nghệ nghiền ưu việt hơn nghiền khô.

VI. Những ưu điểm chính của công nghệ nghiền ướtKhông cần công đoạn sấy vật liệu trước khi nghiền.Tăng năng suất máy nghiền.Trong trường hợp cùng một lúc nghiền các vật liệu khác

nhau sẽ đảm bảo các phần vật liệu chuyển động với mật độ cao hơn với nhau cùng với pha nước trong máy nghiền.

Công tác vận chuyển vật liệu đơn giản hơn do chúng ở dạng dung dịch; Giảm thiểu ô nhiễm môi trường do bụi./.

T¿i lièu tham khÀo1. Клушанцев Б.В., Косарев А.И., Муйземнек Ю.А. Дробилки.

Конструкция, расчет, особенности эксплуатации. - М.: Машиностроение, 1990. - 320с.

2. Бауман В.А. Механическое оборудование предприятий строительных материалов, изделий и конструкций. - М.: Машиностроение, 1981. - 324с.

3. Сапожников М.Я., Дроздов Н.Е. Справочник по оборудованию заводов строительных материалов. - М.: Изд-во литературы по строительству, 1970. - 356с.

4. Герасименко В.Б., Семикопенко И.А., Боровской А.Е. Технические основы создания машин: учебное пособие для выполнения курсовых работ. - Белгород: БелГТАСМ, 2002. - 90с.

5. Сапожников М.Я. Механическое оборудование предприятий строительных материалов, изделий и конструкций. - М.: Высшая школа, 1971.-382с.

6. Уваров В.А., Семикопенко И.А., Чемеричко Г.И. Процессы в производстве строительных материалов и изделий / Учебное пособие–Белгород: Изд-во БелГТАСМ, 2002. – 121с.

Tài liệu tham khảo1. Chu Nga, Yên Trung (2016), Đô thị thông minh - xu hướng phát

triển thế hệ mới?, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017, từ: http://reatimes.vn/do-thi-thong-minh-xu-huong-phat-trien-the-he-moi-1172.html

2. Đ. Ngọc (2016), Xây dựng đô thị văn minh và thông minh, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017, từ http://vnreview.vn/goc-nhin-vnreview/-/view_content/content/2036154/xay-dung-do-thi-van-minh-va-thong-minh

3. Hoàng Thuỳ (2015), Việt Nam dự kiến thí điểm phát triển 3 đô thị thông minh, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017, từ http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/viet-nam-du-kien-thi-diem-phat-trien-3-do-thi-thong-minh-3271065.html

4. Phan Hảo (2015), Việt Nam hướng đến xây dựng các đô thị thông minh, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017, từ http://www.qhkt.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/Lists/Posts/Post.aspx?List=f73cebc3%2D9669%2D400e%2Db5fd%2D9e63a89949f0&ID=4582,

5. Thủ tướng (2009), Quyết định số 445/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt điều chỉnh định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.

6. Xây dựng Phú Quốc trở thành thành phố thông minh, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2017, từ: http://laodong.com.vn/cong-nghe/xay-dung-phu-quoc-tro-thanh-thanh-pho-thong-minh-596909.bld

ngoài các biện pháp cụ thể trong công tác quy hoạch, quản lý của Nhà nước, thì người dân cũng cần có những kiến thức tiếp nhận một đô thị thông minh, hiện đại so với đô thị cũ. Điều quan trọng là cần phải nâng cao nhận thức cho người dân trong việc vận hành thành phố thông minh, kết hợp cùng những nhà quản lý để phát hiện cũng như giải quyết vấn đề nhanh chóng và hợp lý nhất.

Thứ hai, để vận hành một đô thị thông minh, cần phải ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực nhưng vẫn phải bảo tồn bản sắc văn hóa. Trong tương lai, nếu thực hiện thành công kế hoạch xây dựng đô thị thông minh, người dân sẽ được hưởng thụ các tiện ích như dịch vụ công trực tuyến, nền giáo dục thông minh, cơ hội việc làm, giải trí đa phương tiện, được chăm sóc sức khỏe, đảm bảo an sinh xã hội... Singapore có quy hoạch mọi lĩnh vực thông minh để người dân sống tiện ích hơn, như lắp đặt những mạng wifi rộng khắp để người dân cả nước có thể sử dụng, 98% thủ tục của người dân được giải quyết qua mạng với hơn 1.000 dịch vụ hành chính công.

Thứ ba, để xây dựng đô thị thông minh, Việt Nam cần xác định rõ khái niệm, mục tiêu. Vì việc lựa chọn khái niệm, mục tiêu này sẽ tác động đến chính sách. Tiếp đến là cần có cơ sở pháp lý, vấn đề quy hoạch và xây dựng hạ tầng thông minh, Việt Nam đang xây dựng đô thị mới, chỉ cần thêm khoảng 30% chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng nữa là xây dựng được đô thị thông minh, mang lại tiện ích cực lớn cho người dân (Jae Yong Lee). Vì cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư là những nhân tố quan trọng tiền đề để xây dựng nên thành phố thông minh. Còn các nhân tố quy hoạch đô thị, sức khỏe cộng đồng, giáo dục, giao thông – vận tải, môi trường là những nhân tố chính yếu để làm cho đô thị thông minh hơn.

Như vậy, xây dựng và phát triển đô thị thông minh là xu thế tất yếu hướng đến sự thay đổi về chất trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Chúng ta cần phải từng bước tạo dựng yếu tố nền tảng, lựa chọn những giải pháp phù hợp để xây dựng đô thị mà ở đó mọi người dân, doanh nghiệp đều được đáp ứng nhu cầu đời sống phát triển ngày càng cao của cư dân đô thị, kỳ vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn - một thành phố đáng sống./.

Cơ sở lý thuyết để lựa chọn chế độ làm việc thích hợp...(tiếp theo trang 23)

Tóm tắtBài báo trình bày cơ sở lý thuyết việc qui đổi

sàn thép về dầm với mô đun đàn hồi tương đương theo hai trường hợp: bản kê hai cạnh

và bản kê bốn cạnh. Đồng thời khảo sát sai số công thức qui đổi độ cứng tương đương

của sàn thép khi đưa về bài toán dầm trong giáo trình kết cấu thép hiện hành [2] cho các trường hợp khác nhau. Từ đó, đưa ra phạm vi

áp dụng của công thức qui đổi.

AbstractThis paper presented theoretical basis for

converting steel slab to beam by equivalent elastic modulus in two cases: two-way slab and four-way

slab. At the same time, surveying the error of equivalent formula of hardness of steel slabs as converting to the beam problem in the current

steel structure curriculum for different cases. From that the application scope of the formula would

be set out.

ThS . Nguyễn Thanh TùngBộ môn kết cấu Thép - Gỗ, Khoa Xây dựng ĐT: 0912 634 901

Ngày nhận bài: 22/5/2017 Ngày sửa bài: 03/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Khảo sát phạm vi áp dụng công thức xác định mô đun đàn hồi khi qui đổi sàn thép làm việc một phương về dầmSurveying the application scope of the determination formula of elastic modulus as converting one-directional steel slab to a beam

Nguyễn Thanh Tùng

1. Giới thiệuSàn thép là một trong các cấu kiện cơ bản thường gặp trong công trình thép.

Khi tính toán sàn thép, thường coi sàn thép làm việc theo một phương, do đó có thể cắt một dải bản ra để tính với sơ đồ như một dầm có liên kết khớp hai đầu với môđun đàn hồi qui đổi [2]:

E1=E/(1-ν2) (1)trong đó: E là mô đun đàn hồi của thép, E1 là mô đun đàn hồi qui đổi của sàn

thép.Tuy nhiên, giáo trình [2] không đưa ra phạm vi áp dụng công thức và cơ sở

của bài toán qui đổi này. Mục tiêu của bài viết là khảo sát cơ sở lý thuyết của công thức (1) và phạm vi áp dụng của công thức này phục vụ cho mục đích giảng dạy và ứng dụng thực hành.

2. Cơ sở lý thuyết bài toán chuyển vị sàn chịu uốnPhần này đề cập đến cơ sở lý thuyết tính toán tấm chịu uốn, công thức xác

định độ võng lớn nhất của sàn để áp dụng vào việc qui đổi độ cứng sàn trong phần sau.

Xét một sàn chữ nhật kích thước là axb có các cạnh là gối cố định khớp như Hình 2 và chịu tải trọng phân bố p(x,y), có chiều dày không đổi h, độ võng của sàn là w.

Do các cạnh là gối tựa khớp các điều kiện cần ban đầu là:

Tại x=0 và x=a:

=∂∂

+∂∂

=

=∂∂

+∂∂

=

0

0

0

0

2

2

2

2

2

2

2

2

xw

yw

wyw

xw

w

ν

ν

(2)

Tại y=0 và y=b

Ngoài ra, hàm độ võng w(x,y) phải thỏa mãn phương trình vi phân sàn [3]:

( )yxpyw

yxw

xwD ,2 4

4

22

4

4

4

=

∂∂

+∂∂

∂+

∂∂ (3)

Với 211

3

2hED

ν−=

Để thỏa mãn phương trình vi phân sàn và các điều kiện biên (2), có thể tìm hàm độ võng trong dạng chuỗi Fourier kép [3]:

( )1 1

, sin sinmnm n

m x n yw x y Aa bπ π∞ ∞

= ==∑∑ (4)

Trong đó: Amn là hệ số của chuỗi, (m,n=1,2,3,…,)Rõ ràng dễ nhận thấy rằng hàm độ võng (4) thỏa mãn các điều kiện biên (2).Thật vậy, ví dụ trên biên x = a:

( ) 0sinsin,

1 1

==∑∑∞

=

=m nnm b

ynmAyxw ππ

Page 15: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

28 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 29 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Ngoài ra, vì:

−=

∂∂

−=

∂∂

∑∑

∑∑∞

=

=

=

=

1 1

2

2

2

1 1

2

2

2

sinsin

sinsin

m nnm

m nnm

byn

axm

bnA

yw

byn

axm

amA

xw

πππ

πππ

nên:

( )

( )

22

21 1

22

21 1

2 2

2 2

, sin sin 0

, sin sin 0

0

mnm n

mnm n

x a

w m n ya y A mx a b

w n n ya y A my b b

w wx y

π ππ

π ππ

ν

∞ ∞

= =

∞ ∞

= =

=

∂ = − = ∂ ∂ = − = ∂

∂ ∂⇒ + = ∂ ∂

∑∑

∑∑

Đưa hàm độ võng w(x,y) dạng (4) vào phương trình vi

phân sàn pw =∇4 (3), ta có:

( )∑∑∞

=

=

=

+

1 1

2

2

2

2

24 ,sinsin

m nnm yxp

byn

axm

bn

amAD πππ

(6)

Để xác định các hệ số Amn, ta tiến hành khai triển hàm tải trọng p(x,y) theo dạng chuỗi Fourier kép theo sin, ta có:

( ) ∑∑∞

=

=

=1 1

sinsin,m n

nm byn

axmpyxp ππ (7)

Trong đó: pmn là hệ số chuỗi tải trọng,

( )∫ ∫=a b

nm dxdyb

yna

xmyxpba

p0 0

sinsin,4 ππ (8)Đưa (7) vào phương trình (6), ta nhận được:

nmnm pbn

amAD =

+

2

2

2

2

24π

Sử dụng cả (8), ta có công thức xác định Amn:

( )∫ ∫

+

=a b

nm dxdyb

yna

xmyxp

bn

ambaD

A0 02

2

2

2

24

sinsin,4 ππ

π

(9)Vậy hàm độ võng (4) với các hệ số của chuỗi được xác

định theo (9) vừa thỏa mãn phương trình vi phân sàn và cả

các điều kiện biên sàn nên là nghiệm của bài toán.Trường hợp tải trọng phân bố đều p: p(x,y)=p0=constKhi đó:

02 0 02 2

42 2

4 sin sina b

mnp m x n yA dx dy

a bm nD aba b

π π

π

=

+

∫ ∫

(10)

022 2

62 2

1,3,5,...161,3,5,...mn

mpAnm nD mn

a bπ

= = =

+

(11)

Vậy:

( ) 026 2 21 1

2 2

sin sin16,

1,3,5,...1,3,5,...

m n

m x n yp a bw x y

D m nmna b

mn

π π

π

∞ ∞

= =

=

+

= =

∑∑( ) 0

26 2 21 1

2 2

sin sin16,

1,3,5,...1,3,5,...

m n

m x n yp a bw x y

D m nmna b

mn

π π

π

∞ ∞

= =

=

+

= =

∑∑

(12)

Độ võng ở tâm sàn

==

2;

2ayax :

( )

( ) ( )

12

0max 26 2 2

2 2

12

2026 3 2 2

2 2

116

1192 1

m n

m n

m n

m n

pwD m nmn

a b

pEh m nmn

a b

π

νπ

+−∞ ∞

+−∞ ∞

−=

+

−= −

+

∑∑

∑∑ (13)

Viết lại dưới dạng sau:

( ) 3

402

max 1hEapw να −=

Với:

,...)5,3,1,(;)1(1922

2

222

12

6 =

+

−= ∑∑

∞ ∞ −+

nm

banmnm

m n

nm

πα

(14a)

H H

b y

w

x

h

a x

O

by

Hình 1. Sơ đồ tính toán của bài toán sàn khi qui đổi về dầm [2]

Hình 2. Sơ đồ tính toán sàn hình chữ nhật, có các gối cố định

Như vậy α chỉ phụ thuộc vào tỉ số giữa 2 cạnh (a/b)3. Qui đổi bài toán sàn làm việc một phương về dầm

chịu uốnNếu sàn thép làm việc theo một phương, có thể qui đổi

bài toán sàn thép từ bài toán tấm sang bài toán dầm để có thể dễ dàng giải được độ võng, nội lực của sàn. Ngoài ra, việc qui đổi sàn về dầm khiến cho có thể dễ dàng xét tới phi tuyến hình học của sàn [2]. Có hai trường hợp có thể xảy ra khi qui đổi bài toán sàn thép về bài toán dầm, đó là: (a) sàn thép chỉ liên kết hai cạnh đối diện, (b) tỉ lệ giữa hai cạnh của sàn chênh lệch tương đối lớn.

a. Qui đổi sàn thép về dầm trong trường hợp sàn thép chỉ liên kết hai cạnh đối diện

Vì bản làm việc theo một phương (bài toán biến dạng phẳng), tức là không có sự thay đổi về chuyển vị giữa 2 dải cạnh nhau (giả thiết theo phương x dải có chuyển vị là không đổi) do đó:

0=∂∂

xw (15)

Do đó, phương trình vi phân độ võng sàn theo công thức (3) trở thành:

Dyq

yw )(44 =

∂∂

; 211

3

2hED

ν−= (16)

Phương trình vi phân độ võng dầm (theo lý thuyết sức bền vật liệu):

IEyq

yw

14

)(4=

∂∂ (17)

Để qui đổi, hai phương trình (16) và (17) trên phải đồng nhất:

Dyq

IEyq

yw )()(4

14 ==

∂∂ Suy ra E1I = D dẫn đến:

211

211

3

1

3

2hEhED ××=

−=

νTừ đó ta có mô đun đàn hồi qui đổi khi chuyển từ bài toán

sàn về dầm:

21 1 ν−=

EE (18)

Như vậy trong trường hợp này công thức(18) là chính

xác, không có sai số khi qui đổi và cũng chính là công thức số (1) nêu trong các giáo trình kết cấu thép hiện hành.

b. Qui đổi sàn thép về dầm trong trường hợp sàn được liên kết ở bốn cạnh và tỉ lệ giữa hai cạnh của sàn chênh lệch tương đối lớn

Trong trường hợp này sẽ qui đổi mô đun đàn hồi với điều kiện là độ võng lớn nhất của sàn và dầm bằng nhau. Độ võng lớn nhất của dầm qui đổi là

31

40

3

1

401

max 235

21483

5hEap

hE

apw == (19)

Trong đó: p0 là tải trọng phân bố tác dụng lên sàn, E1 mô đun đàn hồi qui đổi của sàn về dầm.

Cân bằng công thức (19) và (14) ta có:

( ) 31

40

3

402

max 2351

hEap

hEapw =−= να (20)

Từ đó rút ra

αν1

1235

21 −=

EE (21)

Với α xác định theo công thức (14a)Cuối cùng viết E1 dưới dạng

21 1 νβ

−=

EE (22)trong đó:

,...)5,3,1,(;)1(032

2

222

12

6 =

+

−= ∑∑

∞ ∞ −+

nm

banmnm

m n

nm

πβ

(22a)

Nếu đặt tỉ số giữa cạnh dài chia cạnh ngắn là k (k= b/a) thì β được viết dưới dạng sau

( ),...)5,3,1,(;)1(03

2222

12

6 =+

−= ∑∑

∞ ∞ −+

nmknmnmm n

nm

πβ

(22b)

Chuỗi 22a và 22b hội tụ khá nhanh, với độ chính xác đủ dùng trong thực tế β có thể được tính bằng cách khai triển chuỗi 22b đến số hạng m = n =7 bằng phần mềm toán học Mathematica ta được:

y

xa

bp

z

O0

x

y dx

Hình 3. Sơ đồ tải trọng phân bố đều tác dụng lên sàn

Hình 4. Sơ đồ tải bài toán sàn liên kết 2 cạnh

(xem tiếp trang 37)

Page 16: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

30 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 31 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtBài báo trình bày hai phương pháp quan trắc chuyển vị của đất nền và tường tầng hầm nhà

cao tầng phổ biến hiện nay hay áp dụng tại các công trình cao tầng tại Việt Nam: phương pháp

quan trắc bằng thiết bị đo chuyển vị ngang Inclinometer và quan trắc bằng máy toàn đạc điện tử kết hợp phần mềm tự động quan trắc

biến dạng tường vây nhà cao tầng.

AbstractThis paper presented two popular monitoring

methods of dwasplacement of ground and basement walls of high rise buildings in Vietnam:

monitoring methods with horizontal dwasplacement measurement device (Inclinometers) and with

electronic total station combines automated softwwere to monitoring wall deformation in high

rise buildings.

ThS. Phạm Quang VượngBộ môn Công nghệ và tổ chức thi công Khoa Xây dựng ĐT: 0975 527 523 Email: [email protected]. TS. Lê Anh DũngBộ môn Công nghệ và tổ chức thi công Khoa Xây dựng Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 23/5/2017 Ngày sửa bài: 10/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Các phương pháp quan trắc chuyển vị của đất nền và tường tầng hầm nhà cao tầngMonitoring displacement of ground and basement walls of high rise buildings

Phạm Quang Vượng, Lê Anh Dũng

Mở đầuCùng với tốc độ đô thị hóa cao tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí

Minh thì vấn đề kèm theo đó là nhu cầu về nhà ở, nhà làm việc, trung tâm thương mại, nhà để xe... Với quỹ đất đô thị hạn hẹp, các công trình cao tầng với nhiều tầng hầm là giải pháp tối ưu để giải quyết các nhu cầu trên. Trong quá trình thi công phần ngầm nhà cao tầng, vấn đề kiểm soát chuyển vị đất nền, tường tầng hầm nhà cao tầng là vấn đề nan giải mà hầu hết các nhà thầu, chủ đầu tư . . . muốn giải quyết. Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật thì đó không còn là nhiệm vụ khó khăn nữa. Bài báo trình bày hai phương pháp quan trắc chuyển vị của đất nền và tường tầng hầm nhà cao tầng phổ biến hiện nay hay áp dụng tại các công trình ở Việt Nam.

Mục đích quan trắcTrong quá trình thi công móng và tầng hầm nhà cao tầng, khi thi công hố

đào sâu sẽ làm thay đổi trạng thái ứng suất, biến dạng trong đất nền xung quanh khu vực hố đào và có thể làm thay đổi mực nước ngầm dẫn đến nền đất bị dịch chuyển và có thể lún gây hư hỏng công trình lân cận nếu không có giải pháp thích hợp. Tường vây là giải pháp thích hợp để chống đỡ thành hố đào. Do vậy, trong quá trình thi công tầng hầm cần phải tiến hành quan trắc để xem những bức tường này có bị “lún” cũng như “chuyển vị” hay không khi đào đất ở giữa. Đây là một trong những yếu tố bắt buộc khi thi công tầng hầm nhà cao tầng bởi vì tường vây bị dịch chuyển có thể sẽ làm ảnh hưởng xấu đến công trình và các công trình lân cận.

a. Đánh giá điều kiện hiện trườngĐánh giá điều kiện hiện trường trong địa kỹ thuật liên quan đến đánh giá về

Hình 1. Cấu tạo ống vách đo dịch chuyển ngang

1. Ống vách 2. Ống nối 3. Nắp đáy

Hình 2. Ống vách

cường độ đất và tính ổn định. Thiết bị đo dịch chuyển ngang cho phép theo dõi trực tiếp. Công tác quan trắc này được sử dụng để mô tả các điều kiện hiện trường mà trong quá trình khảo sát chưa phát hiện được. Vì vậy, chúng thường được dùng để đánh giá điều kiện hiện trường.

b. Kiểm chứng các giả định thiết kế và điều chỉnh trong quá trình thi công

Quá trình thiết kế được dựa trên những giả thuyết và lý thuyết gần đúng. Vì vậy tiến hành sử dụng công nghệ quan trắc để thực hiện việc kiểm chứng lại kết quả thiết kế. Các số liệu quan trắc giai đoạn đầu công trình có thể bộc lộ nhu cầu điều chỉnh thiết kế trong giai đoạn sau. Ví dụ: một đầu đo nghiêng có thể lắp đặt phía sau một tường chắn để kiểm tra rằng độ lệch của nó không quá 7.5cm (thiết kế) khi chịu một phần tải trọng công trình. Nếu đầu đo phát hiện độ lệch quá 7.5cm tại giá trị tải trọng dự tính, người thiết kế có thể bổ sung gia cường cho tường chắn để đảm bảo tính ổn định của công trình trong các giai đoạn chịu tải tiếp theo.

c. Đảm bảo an toàn cho công trình trong quá trình thi công cũng như trong quá trình sử dụng

Các thiết bị quan trắc có thể cung cấp cảnh báo sớm các sự cố, dự báo thời gian cho phép để sơ tán an toàn khỏi khu vực có sự cố và thời gian để thực hiện sửa chữa. Các hệ thống này có thể được lắp đặt gần đường cao tốc, đường xe lửa, và các đường ống chạy qua khu vực có khả năng trượt lở.

d. Cung cấp bằng chứng kỹ thuật khi xảy ra tranh chấp pháp lý

Các số liệu quan trắc có thể cung cấp bằng chứng kỹ thuật khi xảy ra vụ việc pháp lý: giải quyết tranh chấp khi ĩử lý khiếu kiện hư hỏng công trình do xây dựng công trình lân cận.

1. Phân loại quan trắc, lựa chọn vị trí và thiết bị quan trắc

a. Phân loại quan trắc: Có các loại quan trắc sau:a.1. Quan trắc hiện trạng công trình lân cậnLà những công việc khảo sát, quan trắc, tiến hành cho

các công trình nằm bên cạnh khu vực thi công công trình, thực hiện với những mục đích sau:

- Khảo sát để làm bằng chứng kỹ thuật khi xử lý các tranh chấp xảy ra.

- Khảo sát dùng để đánh giá hiện trạng của công trình lân cận để đưa ra các giải pháp chống đỡ và lựa chọn giải pháp thi công cho công trình đang thi công nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến công trình lân cận.

a.2. Quan trắc cho công trình đang thi công Là công việc xác định giá trị các thông số, chỉ tiêu kỹ

thuật có liên quan đến công trình: đất đá, nền móng và công trình ngầm để phục vụ cho mục đích thiết kế, thi công. công tác này được áp dụng cho các công trình lân cận và bản thân công trình đang thi công.

b. Lựa chọn vị trí quan trắcLà những điểm có khả năng phát sinh những giá tri lớn

nhất về chuyển vị hay ứng suất hoặc là vị trí dễ phát sinh sự cố công trình nhất.

c. Lựa chọn thiết bị quan trắcThiết bị quan trắc phải đáp ứng được vị trí quan trắc và

có độ chính xác phù hợp để phát hiện được sự hình thành sự cố.

Hình 3. Đầu dò đo nghiêng

Hình 4. Bộ hiển thị số Inclinometer Logger GK-603

Hình 5. Độ lệch ngang

Page 17: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

32 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 33 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

2. Quan trắc bằng thiết bị đo chuyển vị ngang Inclinometer

Thiết bị đo dịch chuyển ngang Inclinometer được sử dụng để theo dõi các dịch chuyển ngang trong đất. Chúng thường được sử dụng để theo dõi độ lệch của các tường chắn và cọc khi chịu tải trọng. Thiết bị quan trắc Inclinometer gồm : Ống vách, đầu dò đo nghiêng, cáp điều khiển, bộ hiển thị số liệu Digitilt

a. Ống váchỐng vách của đầu đo nghiêng có đường kính ngoài là

80, 70 và 48 mm, trong ống có bốn rãnh tạo thành hai mặt phẳng vuông góc với nhau qua tâm. Các ống được kéo dài bằng ống nối khi chiều dài lớn hơn 3m. Ống vách được làm từ nhựa ABS hoặc kim loại. Nó thực hiện ba chức năng:

Dẫn hướng cho đầu dò của đầu đo nghiêng, cho phép nó thu các số đo sát mặt đất;

Biến dạng với mặt đất hoặc công trình xung quanh; do đó các số đo nghiêng của vách ống vách biểu thị một cách chính xác các dịch chuyển của nền.

Các rãnh tạo sẵn bên trong khống chế hướng của đầu đo nghiêng có bánh xe.

Ống vách được lắp đặt trong một hố khoan gần như thẳng đứng đã được khoan qua các khu vực nghi ngờ có dịch chuyển. Ống vách cũng có thể được đặt trong bờ đắp, bên trong bê tông hoặc được gắn vào các công trình.

Vị trí ban đầu của ống vách được thiết lập khi khảo sát cùng với đầu dò đo nghiêng. Dịch chuyển của mặt đất làm cho ống vách dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu của nó. Tốc độ, độ sâu và độ lớn của dịch chuyển này được tính toán bằng cách so sánh số liệu khảo sát ban đầu với các số liệu khảo sát sau đó.

b. Đầu dò đo nghiêngĐầu dò đo nghiêng có bánh xe chạy theo các rãnh dọc

trong ống vách. Nó bao gồm hai tốc kế đã cân bằng lực. Một tốc kế đo độ nghiêng trong mặt phẳng của các bánh xe đầu đo nghiêng. Mặt phẳng này được gọi là trục A. Tốc kế kia đo độ nghiêng trong mặt phẳng vuông góc với mặt phẳng của các bánh xe. Mặt phẳng này được gọi là trục B. Các số đọc nghiêng thường thu được ở các khoảng cách đều đặn 2m khi đầu dò được kéo từ đáy lên đỉnh của ống vách. Chỉ sử dụng một loại đầu dò cho tất cả các chu kỳ đo.

c. Cáp điều khiểnCáp điều khiển được sử dụng để kiểm tra độ sâu của đầu

dò đầu đo nghiêng. Nó cũng dẫn điện và các tín hiệu giữa đầu dò và bộ phận thu. Các dây cáp điểu khiển (theo đơn vị mét) được đánh dấu đều đặn 0,5m một.

d. Bộ hiển thị số liệu DigitiltBộ hiển thị số đo nghiêng nhận được từ đầu dò đầu đo

nghiêng. Các thiết bị thu số liệu như Digitilt Date Mate lưu giữ các số đọc trong bộ nhớ, loại trừ nhu cầu ghi các số đọc với bút chì và giấy.

e. Đo nghiêngĐầu dò, đầu đo nghiêng và cảm biến đặt tại chỗ đo độ

nghiêng của ống vách. Các số đo nghiêng thường được lấy ở các cự ly đều đặn 1/2m từ đáy lên đỉnh của ống vách. Các cảm biến đặt tại chỗ được lắp đặt tại các vị trí cố định trong ống vách tại các khoảng cách đều đặn hoặc lớn hơn. Trong cả hai trường hợp, số đọc nghiêng quan hệ với độ sâu hoặc cao độ.

Hình 6. Biểu đồ dịch chuyển và cột địa tầng

Hình 7. Các hướng quy ước trong quan trắc chuyển dịch ngang

Hình 8. Máy toàn đạc điện tử Leica viva TS15

f. Độ lệch ngangKhi các số đọc của đầu đo nghiêng được xử lý, độ

nghiêng được chuyển đổi sang một khoảng cách theo chiều ngang như hình vẽ dưới đây. Độ lệch tại mỗi khoảng cách được gọi là độ lệch khoảng cách tăng dần. Tổng các độ lệch khoảng cách được gọi là tổng độ lệch cho thấy độ nghiêng của ống vách.

Các độ lệch cho thấy vị trí của ống vách. Đồ thị của tổng độ lệch cho thấy độ nghiêng của ống vách

g. Dịch chuyển ngang Đầu dò luôn được thả theo một hướng bánh xe cố định

cho tất cả các chu kỳ đoDịch chuyển biểu thị một sự thay đổi vì trí của ống vách,

tức là một sự thay đổi độ lệch. Dịch chuyển được tính bằng cách lấy độ lệch hiện tại trừ đi độ lệch ban đầu. Độ lệch khoảng cách là sự thay đổi tại một khoảng cách. Tổng dịch chuyển là tổng của các dịch chuyển khoảng cách.

Trong đồ thị dưới đây, các dịch chuyển được tham khảo so sánh với một điểm cố định gần đáy của ống vách. Khi đáy của ống vách không ổn định trong đất, các dịch chyển được so sánh với đỉnh của ống vách đã được khảo sát.

h. Nguyên lý đoSự chuyển dịch của tường chắn làm thay đổi độ nghiêng

của ống vách, sự thay đổi này được ghi lại bởi bộ thu số liệu INCLINOMETER LOGGER thông qua các tốc kế cân bằng lực.

Giá trị chuyển dịch ngang của tường chắn được xác định trên cơ sở sự thay đổi vị trí của ống vách. Số liệu đo được của chu kỳ 1 được xem là giá trị ban đầu (dịch chuyển bằng 0). Các số liệu của các chu kỳ tiếp theo là giá trị dịch chuyển thực tế đo được.

i. Kết quả quan trắc(Hình 7)Trục A: Đánh dấu trục này, luôn bắt đầu đo với các bánh

xe phía trên đặt trong trục này, các trục “A” được sắp thẳng hàng với hướng dịch chuyển.

Trục B: là trục vuông góc với trục A. 3. Quan trắc bằng máy toàn đạc điện tử và phần mềm

tự động quan trắc biến dạng tường vây nhà cao tầngTrong quá trình quan trắc biến dạng tường vây, việc áp

dụng phương pháp trắc địa truyền thống thì nhiều khi số liệu quan trắc tại thời điểm báo cáo không đáp ứng được yêu cầu về tiến độ và đặc biệt là yêu cầu độ chính xác cao đến ±1.0mm đối với các công trình đặc biệt. Trong những năm gần đây với sự tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ, các nhà cung cấp thiết bị trắc địa đã không ngừng cải tiến và nâng cao khả năng tự động hóa, đã chế tạo thành công hệ thống quan trắc tự động ứng dụng trong trắc địa công trình. Trên thế giới các nước như Thụy Sỹ, Trung Quốc, Mỹ, Đức, Singapore,… đã sử dụng hệ thống quan trắc tự động để tiến hành quan trắc biến dạng của đập thủy điện, cầu, nhà cao tầng, tường vây nhà cao tầng... Ở Việt Nam hiện nay việc ứng dụng hệ thống tự động quan trắc biến dạng tường vây nhà cao tầng trong giai đoạn thi công móng và tầng hầm càng ngày càng được sử dụng rộng rãi.

a. Máy toàn đạc điện tử Leica viva TS15Máy toàn đạc điện tử có độ chính xác cao, bắt điểm tự

động (độ chính xác vị trí điểm ± 1mm), truyền dữ liệu về máy tính thuận lợi. Do đó máy TĐĐT này hoàn toàn có thể

Hình 9. Sơ đồ quan trắc tự động bằng máy TĐĐT Leica viva TS15 và phần mềm GOCA

Hình 10. Trạm máy TĐĐT Leica viva TS15 tại công trường

Hình 11. Mốc tham chiếu tại công trường

Page 18: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

34 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 35 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

sử dụng để quan trắc chuyển dịch tường vây công trình nhà cao tầng.

b. Phần mềm GOCAPhần mềm GOCA là phần mềm dùng để thu thập dữ liệu

cảm biến từ trạm quan trắc biến dạng tự động về máy tính và sau đó tiến hành tính toán xử lý, phân tích biến dạng và cảnh báo nguy hiểm khi biến dạng vượt quá giới hạn cho phép.

c. Phương pháp quan trắc chuyển dịch bằng máy TĐĐTLeica viva TS15 và phần mềm GOCA

Từ tính năng của máy TĐĐT Leica viva TS15 và phần mềm GOCA như đã nêu ở trên. Khi chúng ta kết hợp chúng với nhau sẽ tạo nên một hệ thống quan trắc tự động. Quá trình quan trắc tự động bằng máy TĐĐT Leica viva TS15 và phần mềm GOCA được thực hiện như sau:

- Thiết lập trạm quan trắc bằng máy TĐĐT tử Leica viva TS15;

- Thiết lập điểm tham chiếu (mốc chuẩn) vàđiểm mục tiêu (điểm quan trắc);

- Cài đặt trạm máy và tiến hành đo đạc quan trắc;- Truyền dữ liệu từ trạm TĐĐT về máy tính thông qua bộ

thu GOCA (Bộ thu GOCA nối với máy tính);- Tính toán phân tích biến dạng bằng phần mềm GOCA

cài đặt trên máy tính;- Cảnh báo khi biến dạng vượt quá giới hạn cho phép

4. Kết luậnƯng dụng công nghệ quan trắc chuyển vị nền và tường

tầng hầm trong thi công xây dựng công trình có thể dự báo và phòng ngừa sự cố cho chính công trình đang thi công cũng như các công trình lân cận; mặt khác quan trắc địa kỹ thuật còn góp phần vào điều chỉnh biện pháp kỹ thuật thi công công trình, trong một số trường hợp dẫn đến điều chỉnh hồ sơ thiết kế cho phù hợp điều kiện thực tế. Quan trắc chuyển vị nền và tường tầng hầm còn góp phần tạo cơ sở, bằng chứng kỹ thuật để giải quyết tranh chấp pháp lý xảy ra khi có khiếu kiện hư hỏng công trình do xây dựng công trình khác.

Hai phương pháp quan trắc nêu trên có độ tin cậy và chính xác cao trong quan trắc chuyển vị nền và tường tầng hầm nhà cao tầng.

5. Kiến nghịKiến nghị các đơn vị: chủ đầu tư, nhà thầu thi công... áp

dụng hai phương pháp quan trắc bằng thiết bị đo dịch chuyển ngang Inclinometer và quan trắc bằng máy toàn đạc điện tử kết hợp phần mềm tự động quan trắc biến dạng vào thực tế thi công một cách phổ biến và rộng rãi.

Kiến nghị các sở, ban, ngành, cơ quan chức năng... xây dựng tiêu chuẩn về chuyển vị cho phép của đất nền và tường tầng hầm trong thi công hố đào sâu để làm căn cứ và cơ sở xử lý và kết luận các số liệu quan trắc thu thập được một cách chính xác nhất./.

Bảng 1. Tính năng kỹ thuật của máy toàn đạc điện tử Leica viva TS15

STT Tính năng kỹ thuật1 Độ chính xác đo góc ngang và góc đứng 1”2 Độ chính xác đo cạnh có sử dụng gương: (1mm+1.5ppmD)3 Độ chính xác đo cạnh bằng máy Laser (không gương): (2mm+2ppmD)4 Tự động quay với tốc độ góc: 450/s5 Bắt mục tiêu tự động

5.1 Độ chính xác tự động bắt điểm (góc ngang, góc đứng): 1”5.2 Độ chính xác vị trí điểm: ±1mm5.3 Độ chính xác điểm tại 1000m: ±2mm6 Tỉm điểm tự động7 Độ chính xác dọi tâm bằng Laser: 1mm tại 1.5m chiều cao máy

8

Thông số kỹ thuật chung:- Hệ điều hành Windows CE 6.0;- Bộ xử lý: Freescale i.MX31 533 MHz ARM Core;- Màn hình cảm ứng;- Quản lý dữ liệu: bộ nhớ trong 1GB và bộ nhớ thẻ CompactFlash, truyền dữ liệu qua cổng RS232 hoặc Bluetooth, Wireless và USB.

T¿i lièu tham khÀo1. Wong kai sin (Nanyang Technological University), esign analysis

deep excavations , 20092. Chang –Yu Ou (2006), Deep Excavation, Theory and Practice.3. Thomas Telford (1996), Deep Excavations: a practical manual,

London.

4. Orouke T.D (1981), Ground movements caused by braced excavations.ASCEJ. Geotech Engng.

5. TCVN 9399:2012: Nhà và công trình xây dựng - Xác định chuyển dịch ngang bằng phương pháp trắc địa.

Tóm tắtBài báo trình bày kết quả nghiên cứu đặc trưng sức chống cắt và mô đun biến dạng

của đất sét pha trạng thái dẻo đến dẻo chảy (ambQ2

3tb) phân bố ở khu vực Đình Vũ, Hải Phòng theo các phương pháp khác nhau.

AbstractThe paper presents the results of research

characteristic shear strength and modulus of deformation plasticity clay to plastic flow status

(ambQ23tb) distributed in the area of Dinh Vu, Hai Phong according to different methods.

TS. Phạm Đức CườngBộ môn Địa kỹ thuật, Khoa Xây dựng, ĐT: 0936 035 025 Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 23/5/2016 Ngày sửa bài: 10/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Bàn về việc xác định đặc trưng cơ học của đất khu vực Đình Vũ, Hải Phòng theo thí nghiệm xuyên tĩnh và trong phòngDiscussion on determining the soil mechanical characterwastics of Dinh Vu area, Hai Phong city in static and in-room experiments

Phạm Đức Cường

1. Đặt vấn đềHải Phòng là thành phố nằm trên vùng đất bồi đắp của đồng bằng Bắc Bộ.

Cấu trúc nền đất vùng đồng bằng ven biển có đặc thù riêng nhưng cho đến nay vẫn chưa có tài liệu tổng kết cấu tạo mặt cắt của nó. Việc đánh giá đặc tính xây dựng của đất đặt ra vấn đề lựa chọn đặc trưng bền và biến dạng khi thiết kế nền, giúp cho việc định hướng xử lý nền và lựa chọn nền móng hợp lý cho các công trình, góp phần phát triển bền vững kinh tế khu vực.

2. Xác định các thông số độ bền và biến dạng của đấtMục tiêu nghiên cứu trong khuôn khổ bài báo này là đất bùn sét, sét pha trạng

thái dẻo đến dẻo chảy (ambQ23tb) phân bố ở khu vực Đình Vũ trong phạm vi chiều

sâu 10m so với mặt đất. Đối tượng nghiên cứu là các đặc trưng cơ học của nó: môn đun biến dạng E, góc ma sát trong φ và lực dính đơn vị c.

Các thông số góc ma sát trong φ và lực dính đơn vị c đặc trưng cho tính bền của đất. Chúng thường được xác định trong phòng thí nghiệm bằng thiết bị cắt ngang phẳng trực tiếp (ứng suất lên mẫu đất σ, sức chống cắt τ) và gián tiếp thông qua thí nghiệm nén 3 trục.

Mô đun biến dạng là khả năng thay đổi kích thước và hình dạng của vật thể, có nghĩa là biến dạng dưới tác dụng của ứng suất cơ học. Nó được xác định dựa theo định luật Hooke đối với vật thể đàn hồi trong điều kiện nén (kéo) một trục bởi giá trị biến dạng tương đối ε và ứng suất cơ học tác dụng vào σ:

1E

ε = σ (1)

Từ phương trình (1) thấy rằng mô đun biến dạng của đất là hệ số tỉ lệ trong quan hệ của biến dạng bởi ứng suất và nó có thể được tìm ra từ thí nghiệm bằng biểu thức của gia số biến dạng tuyến tính ∆ε và ứng suất ∆σ. Mô đun biến dạng không phải là đặc trưng vật lý của đất, nó có giá trị thay đổi khác nhau tùy thuộc vào mức độ gia tải và biến dạng. Có thể nói rằng mô đun biến dạng ban đầu hay mô đun đàn hồi đặc trưng cho độ cứng của đất và độ cứng càng lớn thì giá trị của nó càng cao.

Trong điều kiện nén đất không nở hông ta tìm ra các mô đun biến dạng nén có kể đến nở hông Ek và không kể đến nở hông Eoed.

01k oed

eE Ea+

= β× = β× (2)

Trong đó β - hệ số hiệu chỉnh tính đến nở hông của đất nền dưới đáy móng ; a – hệ số nén lún, phụ thuộc vào hệ số rỗng theo từng cấp tải trọng ; e0 – hệ số rỗng ban đầu của đất nền.

Nhận thấy rằng, trong thực tế khảo sát địa chất sử dụng các phương pháp trực tiếp và gián tiếp để xác định giá trị của mô đun biến dạng. Giá trị này phụ thuộc vào điều kiện gia tải (trạng thái ứng suất) được phân ra theo thí nghiệm trong phòng và hiện trường.

Các phương pháp thí nghiệm trong phòng là phương pháp phổ biến hơn cả để xác định tính chất biến dạng, độ bền của các loại đất. Thế nhưng cần phải lưu ý rằng rất nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng của việc lấy mẫu không xáo trộn (nguyên trạng) cấu trúc đối với thí nghiệm trong phòng. Các mẫu thí nghiệm trong phòng được tách ra từ khối nguyên có hệ số độ rỗng lớn hơn (độ chặt nhỏ hơn) trong điều kiện tại hiện trường xây dựng. Điều này có nghĩa là theo các kết quả nghiên cứu trong phòng các giá trị đặc trưng cơ học nhận được nhỏ hơn và như vậy tính nén lún cũng cao hơn so với thực tế [2].

Page 19: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

36 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 37 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Xuyên tĩnh là một trong nhưng phương pháp hiệu quả nghiên cứu đất trong điều kiện tự nhiên. Đây là phương pháp xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ 20 ở Hà Lan. Kết quả xuyên tĩnh được dùng để xác định chiều dài và khả năng chịu lực của cọc. Đến năm 1977 hội cơ học đất và xây dựng móng quốc tế đã thành lập hội đồng tiêu chuẩn xuyên châu Âu và đưa ra chỉ dẫn tiêu chuẩn xuyên thống nhất với các thông số cơ bản của xuyên xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Lan [3,4].

Hiện nay, nhờ khả năng nghiên cứu nhanh và kinh tế mà nó được sử dụng rộng rãi ở nước ta cũng như các nước châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Phương pháp xuyên tĩnh có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong việc xác định chiều dày, trạng thái, tính đồng nhất, đánh giá gần đúng đặc trưng của đất (mô đun biến dạng, góc ma sát trong, lực dính ..). Phương pháp này cho thấy hiệu quả khi không thể sử dụng phương pháp lấy mẫu không xáo trộn của đất yếu. Kết quả thí nghiệm xuyên tĩnh được kiến nghị sử dụng trong TCVN 9352 :2012 [1], sử dụng xen kẽ giữa các hố khoan nhằm xác định biến đổi tổng quát bề dày các lớp đất và độ cứng của nó. Thí nghiệm này được thực hiện để làm rõ tính đồng nhất của địa tầng, đặc tính biến dạng và sức chịu tải của đất nền, sức chịu tải của cọc đơn… trong các lớp đất dính và đất rời không chứa cuội sỏi ở độ sâu không lớn (không quá 25m).

Để dự đoán độ lún của đất nền cần phải xác định các thông số biến dạng E và µ trong giới hạn chiều sâu không nhỏ hơn chiều dày vùng chịu nén. Nếu công trình thiết kế với việc sử dụng lời giải theo TCVN 9362:2012 việc khảo sát địa chất không nhất thiết phải xác định đầy đủ các thông số trong cả chiều sâu khảo sát, chỉ cần sâu không quá 3 lần bề rộng móng nông (móng khối quy ước đối với móng cọc).

3. Kết quả thí nghiệm xác địnhXuất phát từ tình hình thực tế, ngày nay có thể xem xét

các vấn đề đánh giá các tính chất của đất và tính toán nền móng theo ba hướng với việc sử dụng tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn ngành và cả các khuyến nghị của nước ngoài.

Giá trị mô đun biến dạng một trục không nở hông có thể xác định được dựa vào giá trị sức kháng xuyên qc đối với đất nền theo TCVN 9352 :2012 [1], phụ lục E:

oed c cE q= α (3)Trong đó αc là hệ số không thứ nguyên.Theo M.S. Zakharov [3] giá trị mô đun biến dạng của

đất sét và sét pha (MPa) Eoed = 7qc; góc ma sát trong (độ)

ϕ 0,207c= 18,57lq ; lực dính đơn vị (kPa) c = 6qc+11.

Phạm vi bài báo nghiên cứu đất sét gầy lẫn cát, sét pha màu nâu xám, xám đen, trạng thái dẻo chảy đến chảy, chiều sâu phân bố từ 5 – 14,5m. Số liệu tính toán nhận được từ kết quả thí nghiệm trong phòng và hiện trường thực hiện bởi công ty FECON, trung tâm thí nghiệm địa kỹ thuật công trình. Chỉ tiêu cơ lý trung bình của đất được cho trong bảng 1.

Các kết quả nghiên cứu đặc trưng độ bền và biến dạng của đất nhận được từ các phương pháp khác nhau trình bày bảng 2.

Từ số liệu thu nhận được ta thấy các thông số sức kháng cắt trong thí nghiệm nén ba trục theo sơ đồ UU nhỏ hơn 29% so với thí nghiệm theo sơ đồ CU. Điều này có thể giải thích được bởi vì trong khi thí nghiệm nén ba trục UU thì mẫu đất được nén lại một phần nhưng do điều kiện thoát nước bị khống chế, mẫu đất cũng chưa đạt được độ chặt cần thiết như khi ở nền tự nhiên. Do vậy, thí nghiệm theo sơ đồ UU không phản ánh thực chất sức kháng cắt trong điều kiện tự nhiên. Để mô phỏng lại trạng thái ứng suất ban đầu và độ chặt tương ứng trong điều kiện phòng thí nghiệm, mẫu đất phải được nén lại tương ứng với điều kiện thế nằm tự nhiên. Trong trường hợp đó, xác định sức kháng cắt theo sơ đồ cố kết - không thoát nước có đo áp lực nước lỗ rỗng (CU) mang tính ưu việt. Kết quả thí nghiệm cũng cho phép dự báo sự thay đổi sức kháng cắt không thoát nước theo độ sâu hay khi đất nền đạt đến độ cố kết nào đó.

Kết quả trong bảng 2 cho ta thấy thông số sức kháng cắt hiệu quả và biến dạng của đất bằng phương pháp thí nghiệm nén 3 trục theo sơ đồ CU cho kết quả khá sát so với giá trị đề nghị bởi M.S. Zakharov. Chênh lệch từ kết quả kiến nghị của M.S. Zakharov lớn hơn từ 20 - 25% đối với thông số sức chống cắt, 4,9% đối với mô đun biến dạng.

Bảng 1. Tổng hợp chỉ tiêu cơ lý của đất

Đặc trưng của đất

Độ ẩm tự nhiên W

(%)

Khối lượng riêng

(g/cm3)

Khối lượng riêng khô

(g/cm3)

Khối lượng riêng hạt

(g/cm3)

Độ rỗng

(%)

Hệ số rỗng

Độ bão hòa

(%)

Sức chống xuyên

qc (MPa)

Giá trị trung bình 41,4 1,76 1,24 2,66 53,4 1,145 96,2 0,55

Bảng 2. Thông số độ bền và biến dạng của đất theo các phương pháp khác nhau

Chỉ tiêu tính chất của đất

Kết quả nhận được từ các phương pháp

Nén cố kết một

trục

Nén ba trục không cố kết, không thoát

nước

Nén ba trục cố kết không thoát nước Xuyên tĩnh

theo M.S. Zakharov

Thông số tổng Thông số hiệu quả

c, kPa - 6,0 8,5 11,4 14,3

ϕ, độ - 1o03’ 6o26’ 13o41’ 16o24’

Eoed, MPa 3,67 - - - 3,85

4. Kết luậnNghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của đáng kể của sự lựa

chọn phương pháp thí nghiệm đến giá trị nhận được của thông số sức chống cắt và biến dạng của đất bùn sét, sét pha dẻo đến dẻo chảy khu vực Đình Vũ, Hải Phòng. Việc xác định các giá trị sức chống cắt và mô đun biến dạng của đất thông qua kết quả xuyên tĩnh có thể áp dụng được công thức của Zakharov. Để có được cái nhìn tổng thể hơn về vấn đề này cần phải có số lượng thí nghiệm nhiều hơn kết hợp với thí nghiệm bàn nén hiện trường nhằm so sánh chính xác hơn giá trị tính toán.

Dựa vào kết quả nghiên cứu cho thấy một số kết luận sau:

1. Đất sét pha yếu tại Đình Vũ được cố kết trước có thông số sức kháng cắt tăng đáng kể chứng tỏ rằng khi sử dụng giải pháp thoát nước theo phương thẳng đứng nhằm đẩy nhanh quá trình cố kết thì sức kháng cắt của đất được tăng lên và nền ổn định.

2. Mô đun biến dạng không phải là một đặc trưng không đổi của đất. Giá trị của nó phụ thuộc vào mức độ biến dạng/ứng suất của nền nhà và công trình thiết kế cũng như phương pháp xác định nó.

3. Ưng dụng phương pháp xuyên tĩnh xác định các đặc trưng sức chống cắt và mô đun biến dạng phụ thuộc vào dạng tương quan giữa số liệu đo sức chống mũi, ma sát thành bên, áp lực lỗ rỗng với số liệu thí nghiệm trong phòng./.

6 2 2 2 2

2 2 2 2

2 2 2 2

2 2 2 2

2 2 2

2 2 2 2

192 1 1 1 11 1 1 11 3 9 5 25 7 49k k k k

1 1 1 19 9 9 93 1 9 9 15 25 21 49k k k k

1 1 1 125 25 25 255 1 15 9 25 25 35 49k k k k

β = − + −π + + + +

− + − + + + + +

+ − + − + + + +

2

2 2 2 2

2 2 2 2

1 1 1 149 49 49 497 1 21 9 35 25 49 49k k k k

− + − + + + + +

(23)

Bảng dưới đây thể hiện kết quả khảo sát sự biến đổi của hệ số β theo tỉ số k=b/aBảng 1. Quan hệ giữa k và β

k=b/a 1 2 3 4 5 ∞β 3,20524 1,28554 1,06442 1,01577 1,00385 1,0

Như vậy, công thức qui đổi mô đun đàn hồi trong trường hợp bản kê bốn cạnh là công thức (22) so với công thức bản kê hai cạnh là công thức (1) có thêm hệ số β, là hàm số theo

tỉ số giữa hai cạnh k. Khi k → ∞ thì công thức (22) sẽ trở về công thức (1). Trong thực tế khi k ≥3 thì có thể coi công thức (22) trùng với công thức (8) với sai số <6.5% là chấp nhận được. Trong trường hợp bản sàn là vuông thì sai số về mô đun đàn hồi giữa công thức (22) và (1) là 220%.

4. Kết luậnBài báo đã trình bày cơ sở lý thuyết việc qui đổi mô đun

đàn hồi sàn thép về dầm cho hai trường hợp: bản kê hai cạnh và bản kê bốn cạnh. Trong trường hợp bản kê hai cạnh, công thức (1) được nêu trong tài liệu kết cấu thép [2] là chính xác. Trong trường hợp bản kê bốn cạnh, công thức (1) có thể coi là gần đúng khi tỉ số giữa cạnh dài và cạnh ngắn ô bản k≥3 với sai số nhỏ hơn 6.5%. Trong trường hợp khác (k<3)cần nhân thêm hệ số chuyển đổi β vào công thức số (1) để được công thức (22) (có thể tính hệ số β theo công thức (23) hoặc nội suy β theo Bảng 1)./.

T¿i lièu tham khÀo1. TCVN 5575:2012, Kết cấu thép – Tiêu chuẩn thiết kế, Nhà

xuất bản Xây dựng, 2012.2. Phạm Văn Hội (chủ biên), Kết cấu thép - Cấu kiện cơ bản.

Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, 2006.3. S.P. Timoshenko, Theory of Plates and Shells, McGraw-Hill,

Inc., 1959.

T¿i lièu tham khÀo1. TCVN 9352:2012. Đất xây dựng. Phương pháp thí nghiệm

xuyên tĩnh2. Болдырев Г.Г. Методы определения механических свойств

грунтов с комментариями к ГОСТ 12248-2010 [Текст]: Монография / Г.Г. Болдырев. 2-е изд., доп, и испр. М.: «Прондо», 2014. 812 с.

3. М.С. Захаров. Статическое зондирование в инженерных изысканиях: учеб.пособие / СПб. гос. архит.-строит. ун-т. – СПб., 2007. – 72 с.

4. Ю.Г. Торфименков, Л.Н. Воробков. Полевые методы исследования строителых свойств грунтов Москва Стройиздать 1981. 213с.

5. Begernann H. General report. ESOPT, vol. 2.1, pp.29-39, Stockholm, 1974.

Khảo sát phạm vi áp dụng công thức...(tiếp theo trang 29)

Page 20: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

38 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 39 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtBài báo trình bày cơ sở lý thuyết việc thiết lập công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều

dày trong bài toán thiết kế sàn thép và khảo sát sai số của công thức trong các trường

hợp khác nhau nhằm khuyến cáo phạm vi áp dụng của công thức trong thực hành

AbstractThis paper presented the theoretical basis of

finding approximate formula in selecting span and thickness of steel floor in designing problem and

surveyed formula errors in difference cases in order to recommend the application scope in practice.

Keyword: Steel desk design, Телоян, closed form formula of l/t

ThS. Nguyễn Thanh Tùng ThS. Mai Trọng NghĩaBộ môn kết cấu Thép - Gỗ, Khoa Xây dựng ĐT: 0912 634 901 Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 31/5/2016 Ngày sửa bài: 07/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thépSurveying the approximation formula to select the span and thickness of the steel floor in designing problem

Nguyễn Thanh Tùng, Mai Trọng Nghĩa

1. Giới thiệuSàn thép là một trong các cấu kiện cơ bản thường gặp trong kết cấu thép.

Trong tính toán sàn thép, thường coi sàn thép làm việc theo 1 phương, do đó có thể cắt 1 dải bản ra để tính với sơ đồ như một dầm có liên kết khớp hai đầu với mô đun đàn hồi qui đổi, sàn thép cần phải kể đến ảnh hưởng của độ võng tới lực căng trong sàn để tiết kiệm và làm việc sát thực tế khi tính toán. Từ giả thiết này, có thể thiết lập được hệ công thức tính toán cho sàn thép như trong các giáo trình tính toán kết cấu thép hiện hành [2].

Vì sàn có chiều dày nhỏ nên thông thường trong thiết kế trạng thái giới hạn 1 (võng) xảy ra trước trạng thái giới hạn 2 (bền). Như vậy bài toán thiết kế là tìm tỉ số l/t sao cho độ võng của sàn bằng độ võng cho phép và được cho trong [1,2] (xem công thức 13). Tuy nhiên, giáo trình [2] không đưa ra cơ sở lý thuyết và phạm vi áp dụng công thức. Do đó, mục tiêu của bài viết là khảo sát cơ sở lý thuyết của công thức (13) và phạm vi áp dụng của công thức này phục vụ cho mục đích giảng dạy và ứng dụng thực hành. Bài viết sẽ trình bày cơ sở lý thuyết, các công thức chính xác và gần đúng để tìm tỉ số l/t thỏa mãn điều kiện về độ võng.

2. Thiết lập công thức tính toán tỉ số l/t dùng trong bài toán thiết kếTrong bài toán thiết kế, cần phải chọn chiều dày sàn và nhịp sàn sao cho độ

võng của sàn bằng độ võng giới hạn, từ đó ta có điều kiện sau:

[ ]0

ln

∆ = ∆ = (1)

Trong đó n0 là nghịch đảo của độ võng cho phép [2]:

0ln ∆=

(2)

Thay công thức tính độ võng theo [2]:

0

1 α∆

∆ =+

(3)

Vào (1):

0

01lnα

∆=

+ (4)

Từ đó thu được:

00 1n

lα ∆= − (5)

Theo [2] có α là nghiệm của phương trình:

( )2

2 01 3t

α α ∆ + =

(6)

Thay α từ (5) vào (6) có: 2 2

0 0 00 01 3n n

l l t∆ ∆ ∆ − =

(7)

Hay rút gọn lại là: 2

0 00 2

31 nnl l t∆ − =

(8)

Theo [1,2] Δ0 là độ võng của dầm đơn giản cho bởi:34 4

c c c0 3

1 11

q l q l q5 5 5384 384 32

12

l ltE I E tE

∆ = = =

(9)

T¿i lièu tham khÀo1. Металлические конструкции, Е.

И. беленя. Москва, 1986.2. Phạm Văn Hội (chủ biên). Kết cấu

thép - Cấu kiện cơ bản. Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật,2006

3. TCVN 338:2005, Kết cấu thép – Tiêu chuẩn thiết kế. Nhà xuất bản Xây dựng, 2005.

Trong đó qc là tải trọng tiêu chuẩn tác dụng lên sàn:Thay (9) vào (7) có23

c 00 2

1

q5 3132

nl nE t l t

− = (10)

Từ đó có phương trình để xác định tỉ số nhịp sàn / chiều dày sàn để độ võng bằng độ võng giới hạn:3 2

1 130 0

96 32 05 5c c

E El lt n q t n q

− − =

(11)

Nghiệm chính xác của phương trình ( )3 8 2 2 8 2 2 8 2

1 1 0 1 0 1 0

1 23 3

1

1233

30

1 13 8 2 2 8 2 2

c

8 2 31 1 0 1 0 1 0

E 50E 10 E (4096E 25 )

8( 1

2( 1) 4096l 1t 5n ) 2E 1

( 2048E 25E 5 E (409E 232

)

q

5

c c c

c c c

n q n q n q

E

n q n q n q

− + +

+

− − + +

− −

= +

(12)

А. Л. Телоян [1] đã tìm được nghiệm gần đúng của phương trình (12) dưới dạng đơn giản hơn, dễ áp dụng trong thực

hành: 0 140

4n 72l 1t 15 c

En q

= + (13)

Từ đó có thể lập ra được đồ thị quan hệ (l/t) đối với các trường hợp khác nhau theo [1,2] như đồ thị dưới đây3. Khảo sát độ chính xác của công thức xấp xỉCông thức xấp xỉ (13) ngắn gọn và tiện cho thực hành, tuy nhiên nó không thể áp dụng được cho mọi phạm vi của các

giá trị của tham số E1,qc,n0. Vì vậy việc khảo sát công thức đối với phạm vi các giá trị thông dụng E1,qc,n0 để đưa ra các sai số so với công thức chính xác là cần thiết để người dùng có thể nắm bắt và vận dụng trong quá trình thực hành. Từ nghiệm chính xác (12) có thể so sánh với nghiệm xấp xỉ (13) và vẽ được đồ thị sai số của công thức xấp xỉ đối với các trường hợp khác nhau của n0, khoảng khảo sát của đồ thị là phạm vi các giá trị thông dụng của tải trọng qc = [0 ÷100] kN/m2 như được vẽ ở đồ thị hình 2. Từ đó thiết lập được các đồ thị biểu diễn hàm sai số theo giá trị của tải trọng qc như ở Hình 3 đến Hình 8.

Từ đó có được các sai số lớn nhất tương ứng với các giá trị n0 được tập hợp trong Bảng 1. 4. Kết luậnKhi chọn sàn thỏa mãn công thức (13) thì sẽ có độ võng xấp xỉ độ võng tới hạn, tuy nhiên có sai số so với nghiệm chính

xác, sai số lớn nhất trong các trường hợp là khoảng 34.164% đối với trường hợp n0=200, qc=100 N/mm2 nếu muốn sử dụng công thức (13) với sai số chấp nhận được (<5%) đối với trường hợp n0=200, thì chỉ được phép áp dụng (13) với tải trọng nhỏ hơn 20 kN/m2. Các trường hợp khác sai đều có số <6% là chấp nhận được trong thực hành.

Ngoài ra, công thức (13) chỉ đúng với các giá trị thông dụng của E1,qc,n0, nếu các giá trị này khác xa so với giá trị thông dụng thì sai số càng lớn theo như đồ thị ở phần 3, do đó cần phải lưu ý điều này đối với những trường hợp không thuộc phạm vi của giá trị thông dụng như đã được khảo sát ở phần 3.

Hình 1. Sơ đồ tính toán của bài toán sàn mỏng có kể đến biến dạng

Hình 2. Đồ thị quan hệ giữa tải trọng và độ võng theo [1,2]

Page 21: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

40 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 41 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Công thức (13) chưa xét tới trọng lượng bản thân của sàn do đó cần phải kiểm tra lại độ võng theo bài toán kiểm tra.

Công thức (13) của [2] đơn giản, dễ vận dụng giúp người thiết kế nhanh chóng chọn được l và t của sàn rút ngắn quá trình thiết kế vì giảm bớt số lần thử - kiểm tra, tuy nhiên nhiều

sinh viên chưa chú ý đến công thức này trong quá trình làm đồ án môn học thiết kế sàn thép khiến cho việc thiết kế sàn chưa tối ưu (độ võng chưa sát với độ võng tới hạn), do đó cần lưu ý hơn trong quá trình thiết kế để sàn thép tiết kiệm hơn./.

Hình 3. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=80

Hình 4. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=90

Hình 5. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=100

Hình 6. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=120

Hình 7. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=150

Hình 8. Đồ thị sai số giữa nghiệm chính xác và nghiệm gần đúng với n0=200

Bảng 1. Sai số lớn nhất của công thức xấp xỉ so với công thức nghiệm chính xác tương ứng với giá trị tải trọng

n0 80 90 100 120 150 200

Sai số lớn nhất(%) 5.67815 5.67815 5.67815 5.67815 3.95769 34.164

Giá trị qc để sai số lớn nhất (kN/m2) 52,9724 33,0705 21,6975 10,4637 35,2294 100

Dao động tự do của vòm Parabol phẳngFree vibration of a planar parabolic arch

Lâm Thanh Quang Khải

Tóm tắtBài báo này trình bày cách phân tích dao động tự do của vòm parabol phẳng mang một khối lượng tập trung tại

giữa nhịp để xác định tần số dao động riêng của vòm theo phương pháp thế năng cực tiểu.

AbstractThe article described how to analyze a free vibration of a

planar parabolic arch which supported concentrated loads in the middle of the span to determine its own vibration

frequency by the minimum potential energy method.

ThS. Lâm Thanh Quang Khải Trường Đại học Cửu Long - Tỉnh Vĩnh Long Email: [email protected] ĐT: 0909 563 055

Ngày nhận bài: 03/6/2016 Ngày sửa bài: 08/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Đặt vấn đềTrước đây để đơn giản hóa quá trình tính vòm, người ta thường sử

dụng tính xấp xỉ bằng việc thay thế các đoạn vòm bằng các đoạn thẳng như phương pháp phần tử hữu hạn, sai phân hữu hạn…Tất nhiên khi chia vòm thành các đoạn và xem các đoạn cong này như các đoạn thẳng gãy khúc dẫn đến độ chính xác không cao.

Phương trình dao động tự do của hệ khi không có ngoại lực được viết như sau: 0* =XA hay cũng có thể được viết dưới dạng ( ) 0. =− XIA λ với là ma trận đơn vị, λ là hệ số. Để tồn tại dao động thì định thức hệ số phải bằng không, tức là ( ) 0.det =− XIA λ . Khi đó λ là các trị riêng của hệ khi dao động, ứng với mỗi giá trị λ ta có 1 vectơ riêng. Khi ẩn số lớn hơn 1 ta đưa ma trận hệ số về dạng đường chéo bằng các thuật toán khác nhau như: Jacobi, LR, QR…hoặc bằng phương trình tần số. Các phương pháp này không phải lúc nào cũng cho lời giải tin cậy bởi phụ thuộc vào tính chất của ma trận.

Có nhiều phương pháp giải bài toán dao động công trình như: dùng nguyên lý ĐaLămBe, nguyên lý Haminton, phương trình Lagrange…

Bài báo này tác giả trình bày cách xây dựng và giải bài toán dao động tự do của vòm parabol phẳng mang một khối lượng tập trung tại giữa nhịp để tìm tần số dao động riêng của vòm theo phương pháp thế năng cực tiểu với trục thực vòm dạng cong mà không xấp xỉ thành các đoạn thẳng gãy khúc.

2. Nội dung nghiên cứu2.1. Xác định tần số dao động riêng của vòm từ lực dọc trục [1]

Vòm parabol phẳng dạng 2

2xy = mang 1 khối

lượng tập trung m tại giữa nhịp, độ cứng dọc trục của vòm là EA (hình 1).Chiều dài vòm:

0i

n2 2

i 1 S

ds 1 ln 1B B B Bx x x x=

= + + + +∑ ∫

Với Bx : là độ dài ngang của 1/2 nhịp vòmKhi vòm mang 1 khối lượng tập trung tại giữa vòm, phương trình dao

động tổng quát của khối lượng m được viết như sau: tieVy .. ω=

T¿i lièu tham khÀo1. Phạm Văn Trung, Phương pháp mới tính toán hệ

kết cấu dây và mái treo. Luận án tiến sĩ kỹ thuật, Đại học Kiến Trúc Hà Nội, 2006.

2. Nguyễn Trâm, Phương pháp phần tử hữu hạn và dải hữu hạn. Nhà xuất bản xây dựng, Hà Nội, 2012.

3. Vũ Thanh Thủy, Nghiên cứu nội lực và chuyển vị của hệ thanh chịu uốn khi xét tới ảnh hưởng của biến dạng trượt. Luận án tiến sĩ kỹ thuật, Đại học Kiến Trúc Hà Nội, 2010.

4. Phạm Khắc Hùng, Đào Trọng Long, Lê Văn Quý, Lều Thọ Trình; (1974), ổn định và động lực học công trình. NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

5. Seung Kyu Lee, Brian Mace, Michael Brennan, In-plane free vibrations of curved beams. 15th International Congress on sound and vibration, Korea, 2008.

Hình 1. Vòm parabol mang 1 khối lượng tập trung

Page 22: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

42 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 43 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Với: ω : tần số dao động riêng của vòm, V: biên độ dao độngChiều dài các đoạn vòm trước khi dao động:

2 2

01 02

1 ln 1

2B B B Bx x x x

S S+ + + +

= =

Sau khi dao động, các đoạn vòm bị biến dạng với độ dài là:

2 2

1 11 2 0 01

1 ln 11 1

2B B B B

i

x x x xN NS S S l SEA EA

+ + + + = = − ∆ = − = −

Ta xây dựng bài toán dao động tự do của vòm theo phương pháp thế năng cực tiểu với trục vòm là đường parabol từ lực dọc trục, với phiếm hàm:

( )0

22* *0

1

1 min2

i

im m

i S

NW ds P y yEA=

= − − ⇒∑ ∫

Với:

0

2

1

12

i

ni

i S

N dsEA=

∑ ∫ : thế năng biến dạng của thanh chịu lực dọc trục

( )1

* *0

1.

n

i i ii

P y y−

=

−∑ : thế năng của ngoại lực; ( )**0 ii yy − : độ dịch chuyển của khối lượng m

iN : lực dọc trục trong đoạn vòm thứ i; EA: độ cứng của tiết diện khi chịu lực dọc trụcKhi dao động khối lượng m chịu tác dụng của lực quán tính (hay theo nguyên lý D’Alembert xem lực quán tính như lực

cản, nên lực quán tính ngược chiều chuyển động).Vậy ta có phiếm hàm khi vòm dao động:

( )2 2

2 * *1 0

1 ln 1min

2B B B B

m m m

x x x xW N f y y

EA

+ + + += + − ⇒

Với lực quán tính của khối lượng m: tim eVmymf .2 .... ωω==

Tại A, B là các gối tựa không có chuyển vị, điều kiện ràng buộc là tổng hình chiếu của 2 đoạn vòm đã biến dạng lên phương ngang x là BxL 2=

22 2

*211

1 ln 12 1 2 0

2B B B B

m B

x x x xNg y xEA

+ + + + = − − − =

Do hệ dao động tự do nên ta đưa hệ lệch khỏi vị trí ban đầu 1 giá trị cho trước là y0. Nên ta có điều kiện ràng buộc thứ 2

của hệ dao động: 002 =−= yyg j

Dùng phương pháp thừa số Lagrange để đưa bài toán cực trị phiếm hàm với các điều kiện ràng buộc về bài toán cực trị không có ràng buộc, phiếm hàm mở rộng:

min.. 2211 ⇒++= ggWL λλ (1.1)

Với 21,λλ : là thừa số Largange, cũng là ẩn của bài toán

Bài toán với các ẩn số: *1 1 2 j, , , , ymy N λ λ . Do ta xem lực quán tính fm như ngoại lực nên đến đây tần số dao động riêng

ω không phải là ẩnĐiều kiện cực trị (1.1):

0* =∂∂

myL

; 01

=∂∂NL

; 01

=∂∂λL

; 02

=∂∂λL

; 0=∂∂

jyL

(1.2)

Tác giả dùng chương trình Matlab để lấy đạo hàm và nhận được hệ phương trình đại số phi tuyến tổng quát cho hệ dao động

Ta thay tim eVmymf .2 .... ωω== và tieVy .. ω= vào phương trình (1.2) và cho 02 =λ (do tại khối lượng m không có

gối tựa), vì vậy ta xác định được tần số dao động riêng: ω

Ví dụ: Cho vòm parabol 2

2xy = , nhịp vòm 10m ( 5=Bx m) mang 1 khối lượng m=10 kN tập trung tại giữa nhịp, với

độ cứng dọc trục của vòm EA=106 kN. Tìm tần số dao động riêng ω khi t=10s và độ lệch ban đầu 10 =y mGiải:Tác giả áp dụng công thức (1.1) và sử dụng chương trình Matlab để tìm tần số dao động riêng ω của vòm parabolTần số dao động riêng vòm parabol trình bày ở bảng sau:

Độ lệch ban đầu (m)(y0)

Tần số dao động riêng (1/s)(ω )

1 0.54542.2. Xác định tần số dao động riêng của vòm từ phương trình đường đàn hồi [3]Vòm parabol mang 1 khối lượng tập trung m tại giữa nhịp (hình 1)Ta thành lập công thức tính dao động tự do của vòm theo phương pháp thế năng cực tiểu với trục thực vòm là đường

parabol. Thế năng tổng cộng của vòm:

( )0

22* *0

1

1 . min2

i

im m

i S

MW ds P y yEI=

= − − ⇒∑ ∫

( )01 02

01

2 2' '2 2* *1 202 2

0 '

min2 2

S S

m mS

EI d y EI d yW ds ds P y yds ds

⇒ = + − − ⇒

∫ ∫

Với 2

2. ii

d yM E Ids

= : mô men uốn trong đoạn vòm thứ iVới các cận:

2 2

01

1 ln 1'

2B B B Bx x x x

S+ + + +

=

2 202' 1 ln 1B B B BS x x x x= + + + +

Khi dao động khối lượng m chịu tác dụng của lực quán tính. Vậy ta có phiếm hàm khi vòm dao động:

( )01 02

01

01

2 2' '2 2*1 20 1, '2 2

0 '

min2 2

S S

m m S SS

EI d y EI d yW ds ds f y yds ds =

= + + − ⇒

∫ ∫

Dùng phương pháp thừa số Lagrange để đưa bài toán cực trị phiếm hàm với các điều kiện ràng buộc về bài toán cực trị không có ràng buộc với phiếm hàm mở rộng

( )01 02

01

01

2 2' '2 2*1 20 1, '2 2

10 '

. min2 2

S S m

m m S S j jjS

EI d y EI d yL ds ds f y y gds ds

λ==

= + + − + ⇒

∑∫ ∫

Điều kiện cần để phiếm hàm đạt cực trị là biến phân bậc nhất của L phải bằng không đối với các đại lượng lấy biến phân và thừa số Lagrange, các thành phần này nằm trong dấu [ ]

01 02

01

01

2 2' '2 2*1 20 1, '2 2

10 '

min2 2

S S m

m m S S j jjS

EI d y EI d yL ds ds f y y gds ds

λ==

= + + − + ⇒ ∑∫ ∫ (1.3)

Trong đó:gi: là biểu thức biểu diễn các điều kiện ràng buộc của hệ

jλ , ( )mj ,1=λ là thừa số Lagrange, cũng là ẩn của bài toánPhương trình đường đàn hồi yi của các đoạn vòm dưới dạng đa thức bậc 8 như sau:

2 3 4 5 6 7 81 0 1 2 3 4 5 6 7 8y a a s a s a s a s a s a s a s a s= + + + + + + + + ( )010 's S= ÷

Page 23: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

44 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 45 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

2 3 4 5 6 7 82 0 1 2 3 4 5 6 7 8y b b s b s b s b s b s b s b s b s= + + + + + + + + ( )01 02' 's S S= ÷

Các điều kiện ràng buộc về chuyển vị đứng tại 2 gối tựa của vòm là liên kết khớp:

00 00,1 ==⇒== agy S

02 022, ' 1 2, '0 0S S S Sy g y= == ⇒ = =

Điều kiện về mô men uốn tại 2 gối của vòm có liên kết khớp bằng không2

1, 01, 0 2 20 0S

S

d yM g EI

ds=

=

= ⇔ = =

02

02

22, '

2, ' 3 20 0S SS S

d yM g EI

ds=

=

= ⇔ = =

Điều kiện về tính liên tục của đường đàn hồi y và góc xoay β do mô men uốn tại vị trí có khối lượng tập trung:

01 01 01 011, ' 2, ' 4 1, ' 2, ' 0S S S S S S S Sy y g y y= = = == ⇔ = − =

01 01 01 011, ' 2, ' 5 1, ' 2, ' 0S S S S S S S Sgβ β β β= = = == ⇔ = − =

Điều kiện để vòm dao động tự do là đưa hệ lệch khỏi vị trí ban đầu 1 giá trị cho trước là y0:

01 011, ' 0 6 1, ' 00 0S S S Sy y g y y= == ≠ ⇔ = − =

Thế các điều kiện ràng buộc vào phương trình (1.3), ta được hệ phương trình với các ẩn số: , ,i i ja b λ . Do ta xem lực quán tính fm như ngoại lực nên đến đây tần số dao động riêng ω không phải là ẩn

Điều kiện cực trị (1.3): 0=∂∂

iaL

, 0=∂∂

ibL

, 0=∂∂

j

(1.4)

Từ đây ta sẽ có hệ phương trình với các biến là các thông số , ,i i ja b λ . Tác giả dùng chương trình Matlab tìm các thông số trên để xác định các phương trình đường đàn hồi iy

Ta thay 01',1

2.2 ...... SSti

m ymeVmymf ==== ωω ω vào phương trình (1.4). Để xác định các tần số dao động riêng ω

của vòm ta xác định thông qua phương trình đa thức đặc trưng 06 =λ

( )3

2 2

48

1 ln 1B B B B

E I

m x x x xω⇒ =

+ + + +

Tương tự như cách xây dựng công thức tính tần số dao động [4] 3. Kết luận- Tác giả đã xây dựng được công thức xác định tần số dao động riêng của vòm parabol phẳng mang một khối lượng tập

trung tại giữa nhịp theo phương pháp thế năng cực tiểu với trục thực vòm là đường cong mà không xấp xỉ thành các đoạn thẳng gãy khúc

- Tác giả có thể sử dụng phương pháp đề xuất này để tính tần số dao động riêng cho các loại vòm khác như: vòm tròn phẳng, vòm cycloid phẳng...mang nhiều khối lượng tập trung.

- Hạn chế của phương pháp tính này là phải tìm được trục của đường cong hay nói khác đi phải tìm được độ dài của cung vòm. /.

Tóm tắtBài báo nhằm mục đích xác định điều

kiện để cột thép tiền chế của nhà công nghiệp một tầng không cần ổn định tạm

(neo giữ) trong quá trình thi công lắp dựng.

AbstractThis paper aimed to determine the

prefabricated column conditions without temporary stability (anchoring) during

erection of one-storey industrial building.

ThS. Võ Hải NhânBộ môn Công nghệ và Tổ chức thi công Khoa Xây dựng ĐT: 0983 157 980

Ngày nhận bài: 29/5/2017 Ngày sửa bài: 11/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

I. Đặt vấn đềNhà công nghiệp “nhẹ” bằng thép tiền chế thường được ổn định nhờ liên kết trong

không gian thông qua hệ giằng được bố trí theo tính toán hoặc cấu tạo [1]. Hệ khung chịu lực chính rất dễ mất ổn định ngoài mặt phẳng.

Trong quá trình thi công lắp dựng các cấu kiện cột dễ mất ổn định, đặc biệt là theo phương ngoài mặt phẳng khung nếu chưa được cố định vĩnh viễn hoặc lắp đặt hệ giằng. Do đó, cần ổn định tạm cho cột trong quá trình lắp dựng trước khi cố định vĩnh viễn cấu kiện nhằm đảm bảo an toàn cho người, phương tiện thi công và bản thân công trình.

II. Giải quyết vấn đềMột số điều kiện cần phải ổn định tạm: + Khi chân cột liên kết với móng là liên kết khớp.+ Khi chân cột liên kết với móng là liên kết ngàm nhưng chiều cao cấu kiện cột lớn

khi có tải trọng gió tác động lên.+ Khi có tải trọng khác gây ra trong quá trình thi công lắp dựng: Tải trọng do va

chạm cấu kiện khi cẩu lắp, … (được xác định thông qua thực nghiệm tại công trường).Điều kiện để đảm bảo ổn định cấu kiện:

GL CLM K.M≤ (1)- MGL – Momen gây lật (do tải trọng gió hoặc tải trọng có thể có trong quá trình thi

Ổn định tạm cho cột trong thi công lắp ghép nhà công nghiệp nhẹ một tầng bằng thép tiền chếColumn temporary stabibity in the lightweight one-storey industrial building by prefabricated steel

Võ Hải Nhân

Một số ví dụ điển hình xác định chiều cao cột không cần ổn định tam:

TT Tiết diện Cột (mm) Vùng Gió q (KG/m) NBL

(KG)LBL (m)

H (m)

1400 200

IIA 83 61.3536 10000 0.1 6.99263092 IIB 95 70.224 10000 0.1 6.53608733 IIIB 125 92.4 10000 0.1 5.69802884

500 220IIA 83 76.692 12000 0.12 7.505279

5 IIB 95 87.78 12000 0.12 7.01526516 IIIB 125 115.5 12000 0.12 6.11576637

600 240IIA 83 92.0304 15000 0.14 8.2737924

8 IIB 95 105.336 15000 0.14 7.73360289 IIIB 125 138.6 15000 0.14 6.7419986

10700 280

IIA 83 107.3688 18000 0.18 9.514677711 IIB 95 122.892 18000 0.18 8.893471712 IIIB 125 161.7 18000 0.18 7.753148913

800 280IIA 83 122.7072 20000 0.18 9.3815988

14 IIB 95 140.448 20000 0.18 8.769081315 IIIB 125 184.8 20000 0.18 7.644707916

900 300IIA 83 138.0456 22000 0.2 9.7785775

17 IIB 95 158.004 22000 0.2 9.140141618 IIIB 125 207.9 22000 0.2 7.968190719

1000 350IIA 83 153.384 25000 0.25 11.05632

20 IIB 95 175.56 25000 0.25 10.33446121 IIIB 125 231 25000 0.25 9.009374622

1100 350IIA 83 168.7224 27000 0.25 10.955347

23 IIB 95 193.116 27000 0.25 10.24008124 IIIB 125 254.1 27000 0.25 8.9270955

T¿i lièu tham khÀo1. Đoàn Định Kiến (chủ biên),

“Thiết kế kết cấu thép Nhà công nghiệp”. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1995.

2. TCVN 2737-1995. “Tiêu chuẩn thiết kế”, Tải trọng và tác động.

Page 24: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

46 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 47 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

công cẩu lắp các cấu kiện).- MCL – Momen chống lật (Chân liên kết ngàm hoặc neo,

chống tạm)

- K = 1,5 ÷ 2 – Hệ số ổn định cho cột có kể đến sự va chạm các cấu kiện trong quá trình cẩu lắp (Theo thực nghiệm khi thi công ngoài công trường).

Xác định chiều cao tối đa để cột ổn định mà không cần neo giữ:

Momen gây ra lật do tải trọng gió tác dụng lên cột được xác định như sau:

2

GL.M 2

q H= (T.m) (2)

Trong đó: q – tải trọng do vùng gió tác dụng lên cộtH – Chiều cao cột theo mặt đón gióMomen chống lật được xác định theo lực tác dụng lên

Bu-long neo. Số Bu-long neo phụ thuộc thiết kế của kết cấu, được xác định như sau:

CL BL BLM N x L= (T.m) (3)Trong đó: NBL – Lực kéo mỗi Bulon (hoặc một bên) tổi thiểu phải

chịuLBL – Khoảng cách từ dãy Bulon neo đến vị trí gây lật

(Hình 3)Từ (1), (2), (3) ta có chiều cao tối thiểu để cột đảm bảo ổn

định tạm mà không cần chống đỡ:2

BL BLBL BL

q.H 1.5xN xL x21.5xN xL H2 q

≤ ⇒ ≤

(4)Từ công thức (4), tiến hành tính toán một số cấu kiện

điển hình theo các điều kiện địa hình xây dựng khác nhau (vùng gió khác nhau) [3].

NBL Tổng Lực kéo nhỏ nhất của Bu-long LBL Khoảng cách từ dãy Bu-long kéo đến điểm lậtH Chiều cao tối đa của cột không cần ổn định tạm

III. Kết luận và kiến nghịKết luận:- Với những cột có chân liên kết dạng khớp, hoặc có

chiều cao > 11m cần tiến hành ổn định tạm bằng cách neo (hoặc chống) cả 2 phương (4 cạnh). (Hình 4).

- Với những cột có chân liên kết dạng ngàm và có chiều cao 6 < H ≤ 11m, cần tiến hành ổn định tạm bằng cách neo (hoặc chống) cho một phương (2 cạnh) ngoài mặt phẳng khung. (Hình 5).

- Với những cột có chân liên kết ngàm, nhưng chiều cao H ≤ 6m thì không cần ổn định tạm.

Kiến nghị:- Với kết quả trên, chúng ta có thể tham khảo để làm cơ

sở trong thiết kế biện pháp kỹ thuật thi công lắp dựng các cấu kiện cột trong công trình Nhà công nghiệp “nhẹ” một tầng bằng thép tiền chế.

- Khi xác định chiều cao cột để không cần ổn định tạm trong thi công lắp dựng nên căn cứ vào “Hồ sơ thiết kế phần Kết cấu” để xác định Lực kéo Bulon chân cột tối thiểu, khoảng cách giữa các dãy Bulon để tính toán theo công thức (4)./.

Hình 3.

Hình 4.

Hình 5.

KHOA H“C & C«NG NGHª

Bê tông phun và một số điều lưu ý khi phun bê tông gia cố hầm ngầmShotcrete and attentions as reinforcing underground tunnel

Trịnh Tiến Khương

Tóm tắt Bê tông phun là một loại kết cấu chống đỡ

mới và công nghệ phun bê tông cũng là một loại công nghệ mới. Người ta sử dụng máy

phun bê tông để phun bê tông (hỗn hợp bê tông đá nhỏ, trộn thêm chất ninh kết nhanh)

vào bề mặt đối tượng cần phun, bê tông sẽ nhanh chóng cố kết thành một tầng kết cấu

chống đỡ, do đó mà phát huy tác dụng bảo vệ vốn có của mình.

Abstract Shotcrete was a new structure and shotcrete

technology was also a kind of new technology. Concrete gunned machines was used to gun

shotcrete (mix concrete of small rocks and quickening agent) on the surface of the objecta,

then shotcrete would quickly form a support structure and promote its inherent protection

effect.

ThS. Trịnh Tiến KhươngBộ môn Kết cấu bê tông - gạch đá Khoa Xây dựng ĐT: 0913 009 120

Ngày nhận bài: 27/6/2017 Ngày sửa bài: 09/7/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Ứng dụng công nghệ phun bê tôngTừ thế kỷ trước công nghệ phun bê tông là một công nghệ ít được sử dụng đã

trở thành một công nghệ được sử dụng rộng rãi và tới nay có thể coi là một công nghệ thi công bê tông truyền thống. Công nghệ phun bê tông đã được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế để giải quyết hàng loạt các bài toán đặt ra cho ngành xây dựng nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói chung.

Công nghệ phun bê tông thường được ứng dụng trong các trường hợp sau:• Dùng để sửa chữa các kết cấu bê tông và bê tông cốt thép (thay phần bê

tông đã bị hư hỏng bằng bê tông mới bằng công nghệ phụt, gia cố các kết cấu bê tông);

• Chống vách lò tạm thời trong công nghệ thi công tuyến ngầm theo phương án áo mới;

• Phun vách tuyến ngầm trong công nghệ thi công khoan - nổ mìn;• Có thể ứng dụng công nghệ này để đổ bê tông cốt thép liền khối mà không

cần đầm;• Thi công lớp bê tông chống thấm;• Thi công các lớp bê tông bảo vệ có tính chất chịu mài mòn cao;• Thi công lớp bê tông bảo vệ vách hầm khi xây dựng tuyến ngầm (bảo vệ

tường hố móng, các kho chứa, chống sạt lở, cầu đường v..v..);• Thi công các kết cấu bê tông đặc biệt.Mặc dù công nghệ phun bê tông đến nay không còn là một công nghệ mới,

tuy nhiên nó vẫn luôn được hoàn thiện và cải tiến. Việc thay đổi tỷ lệ thành phần bê tông khi phun cho phép thay đổi cường độ bê tông phun sau cố kết cho phép giải quyết hàng loạt các bài toán tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của từng công trình.

2. Ưu điểm chung của bê tông phun• Có thể phun lên bề mặt bất kỳ, ở bất cứ vị trí nào nhờ vào các tính chất bám

dính cao và khả năng chịu tải của bê tông phun;

Hình 2. Thi công hầm đường bộ

Page 25: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

48 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 49 S¬ 29 - 201848 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

KHOA H“C & C«NG NGHª

• Có thể phun lên các bề mặt phẳng và không phẳng (các kết cấu bê tông với hình dạng bất kỳ);

• Nhờ lực vẩy với vận tốc lớn dưới tác dụng của áp lực cao làm cho bê tông phun có tính chất tự làm chặt (không phải đầm) và khả năng bám dính bề mặt cao;

• Tuỳ thuộc yêu cầu của thiết kế trong từng trường hợp cụ thể ta có thể thay đổi chiều dày của lớp bê tông phun;

• Có thể sử dụng công nghệ phun bê tông trong công tác thi công bê tông có cốt (như bê tông cốt thép truyền thống, bê tông cốt sợi);

• Có thể thi công nhanh các kết cấu chịu lực với sự trợ giúp của chất phụ gia mà không cần sử dụng ván khuôn tránh phải chờ đợi bê tông ninh kết.

Với những ưu điểm kể trên, có thể kết luận rằng: Công nghệ phun bê tông (khô và ướt) là công nghệ hiện đại, công nghệ linh hoạt và là công nghệ thi công xây dựng hiệu quả có tính kinh tế cao.

a) Ưu nhược điểm của công nghệ phun khôƯu điểm: Ưu điểm của công nghệ phun khô là tính thông

dụng của nó. Công nghệ này là công nghệ truyền thống được sử dụng từ lâu và trên khắp thế giới. Công nghệ phun bê tông khô được đặc trưng bởi: Cường độ bê tông lúc đầu khá cao; Hỗn hợp bê tông khô để phun có thể được bảo quản lâu mà vẫn dùng được; Không có bê tông thừa như trong công nghệ phun ướt.

Nhược điểm: Lượng bê tông bật lại và rơi vãi là khá lớn; Độ gây bụi là rất cao; Các chi tiết máy nhanh bị mòn; Và cuối cùng là nhu cầu về không khí có áp suất cao là rất lớn.

Công nghệ này thường sử dụng để: Sửa chữa các kết cấu bê tông; Dùng để trám, trét bê tông hoặc vữa vào những lỗ có nước rò rỉ; Khi khối lượng bê tông phun không lớn lắm.

b) Ưu nhược điểm của công nghệ phun ướtƯu điểm: Công nghệ phun ướt có hàng loạt các ưu điểm

nổi bật và là phương pháp phun bê tông hiện đại, năng suất cao. Trong số những ưu điểm nổi trội đó có thể kể đến những ưu điểm chính dưới đây:

- Tăng năng suất bơm phun bê tông (trong những trường hợp đặc biệt năng suất của công nghệ này có thể đạt tới 25 m3/h);

- Giảm lượng bê tông không dính bật lại và đi cùng với nó là tăng hiệu suất phun (tới bốn lần);

- Cải thiện điều kiện làm việc của công nhân nhờ giảm lượng bụi tạo ra trong quá trình phun;

- Giảm độ mài mòn của các thiết bị phun;- Nhu cầu khí nén giảm khi sử dụng truyền động thuỷ lực

để vận chuyển bê tông;- Nâng cao chất lượng bê tông (tỷ lệ nước/xi măng + phụ

gia luôn ổn định);- Cường độ bê tông sau khi cố kết của công nghệ phun

ướt cao hơn so với bê tông của công nghệ phun khô nếu cùng một tỷ lệ cấp phối;

- Tuổi thọ của bê tông này cũng lâu hơn so với bê tông của công nghệ phun khô nếu cùng một tỷ lệ cấp phối.

Nhược điểm: Khi thi công bằng công nghệ phun ướt, công việc đầu tiên là trộn, cung cấp bê tông tươi tới máy bơm và công đoạn cuối (vệ sinh làm sạch thiết bị và ống dẫn là những công việc nặng nhọc nhất), so với công nghệ phun khô. Ngoài ra trong công nghệ phun ướt thời gian phun bê tông phải nằm trong giới hạn cho phép tránh bê tông bị cố kết dẫn tới bê tông không được sử dụng gây lãng phí.

3. Một số điều cần lưu ý trong khi phun bê tông gia cố vách hầm

Công nghệ thi công phun bề mặt để gia cố vách hầm gồm các công đoạn sau:

- Xử lý bề mặt vách tuyến ngầm; - Lắp đặt các chi tiết gia cố vách hầm (như các móc giữ,

lưới kim loại, tấm ốp v..v..); - Phun bê tông theo từng lớp; - Bảo dưỡng bê tông;- Kiểm tra chất lượng lớp bê tông.Tuỳ thuộc vào điều kiện địa chất của đất đá nơi thi công

hầm mà chọn trình tự cũng như phương pháp thi công phun bê tông gia cố. Đối với nền đất yếu cần xử lý bề mặt ngay sau khi mở hầm. Cần quan tâm đến kỹ thuật phun bê tông gồm thời gian phun, áp lực phun cho phù hợp với điều kiện địa chất. Cần khảo sát, nghiên cứu kỹ về điều kiện đất nền trước khi thi công phun. Trong mọi trường hợp cần quan tâm đến thời gian thi công, càng nhanh càng tốt.

Thông thường sau khi vách hầm được hở ra (khi đánh mìn xong) cần xử lý mặt vách, khoan lắp neo và phun ngay bê tông gia cố lần đầu.

Với đất đá có độ cứng từ trung bình trở lên (Hệ số độ kiên cố từ 2-4) cho phép gia cố nóc và vách lò từng đoạn một với chiều dài lớn hơn 50m tuỳ thuộc vào độ cứng của đá.

(a) (b) Hình 1.

a) Xử lý mặt vách là và khoan lỗ lắp neo; b) Phun bê tông

(xem tiếp trang 61)

1. Mở đầuPhân tích kết cấu sàn bê tông cốt thép hiện nay có hai nhóm phương pháp

chính sau: - Phương pháp đàn hồi (elastic method) bao gồm+ Phương pháp thiết kế trực tiếp (Direct Design Method): sử dụng lý thuyết đàn

hồi và các bảng tra lập sẵn+ Phương pháp khung tương đương (Equivalent Frame Method): áp dụng cho

hệ sàn phẳng không dầm- Phương pháp giới hạn (limit analysis method) bao gồm+ Phương pháp tiếp cận biên dưới (lower bound method): khi một tải trọng tác

dụng lên sàn thì sẽ gây ra mô men phân phối trong sàn, nếu mô men này không vượt quá giá trị mô men chảy của sàn tại bất kỳ vị trí nào và thỏa mãn các điều kiện biên thì giá trị tải trọng nói trên được coi là cận dưới so với khả năng chịu lực của sàn.

+ Phương pháp tiếp cận biên trên (upper bound method): với một chuyển vị nhỏ của bất kỳ điểm nào trên sàn, công của nội lực trong sàn (coi rằng mô men tại tất cả các khớp dẻo bằng mô men chảy dẻo của sàn và thỏa mãn các điều kiện biên) bằng công ngoài sinh ra do tải trọng tác dụng và tương ứng với chuyển vị nhỏ này. Tải trọng nói trên được coi là cận trên của khả năng chịu lực của sàn.

Nếu tải trọng tác dụng lên sàn thỏa mãn điều kiện biên dưới, sàn hoàn toàn có khả năng chịu tải trọng, thậm chí sàn có thể chịu giá trị tải trọng lớn hơn nếu xuất hiện sự phân phối lại mô men trong sàn.

Nếu tải trọng tác dụng lên sàn thỏa mãn điều kiện biên trên, khi xuất hiện tải trọng lớn hơn thì sẽ làm cơ cấu bị phá hoại. Tải trọng mặc dù chỉ lớn hơn một lượng nhỏ cũng có thể làm sàn bị phá hoại nếu cơ cấu xác định không phù hợp trong bất kỳ tình huống nào.

Khi phân tích hệ sàn theo phương pháp đường chảy dẻo, có thể lựa chọn phương pháp phân tích cận trên hoặc phương pháp phân tích cận dưới, nhưng không được lựa chọn cả hai phương pháp cùng lúc. Lưu ý rằng, giá trị tải trọng phá hoại được xác định bằng hai phương pháp này phải xấp xỉ bằng giá trị khả năng chịu tải thực của sàn.

Thiết kế sàn theo phương pháp phân tích đường chảy dẻo là phương pháp tiếp cận biên trên nên giá trị tải trọng phá hoại tính toán của sàn với hàm lượng cốt thép cho trước, có thể cao hơn giá trị phá hoại thực tế xảy ra. Điều này dẫn đến khi lựa chọn thiết kế sàn theo phương pháp cận trên có thể làm người thiết kế cảm thấy không an toàn. Tuy nhiên, nếu phân tích cơ cấu đường chảy dẻo đúng thì thiết kế vẫn đảm bảo khả năng chịu tải của sàn.

Thiết kế sàn theo phương pháp phân tích đường chảy dẻo áp dụng cho các hệ sàn không có yêu cầu đặc biệt về tính chống thấm nước (sàn khu vệ sinh) hoặc bị võng và nứt. Trong trường hợp có yêu cầu này cần sử dụng phương pháp đàn hồi.

Đường chảy dẻo xuất hiện trong cấu kiện chịu uốn được xác định từ giai đoạn IIa của ba giai đoạn từ bắt đầu đến phá hoại như sau (Hình 1).

a) Giai đoạn I: Khi tải trọng q nhỏ, quan hệ ứng suất – biến dạng gần như bậc nhất (Biểu đồ ứng suất pháp có dạng tam giác), vật liệu làm việc đàn hồi. Trạng thái ứng suất – biến dạng tương ứng là trạng thái I (Hình 1a). Khi q tăng, biến dạng dẻo trong bê tông phát triển, biểu đồ ứng suất pháp có dạng đường cong. Khi bê tông miền kéo sắp sửa nứt, ta có trạng thái Ia (cơ sở thiết kế theo phương pháp đàn hồi).

Xác định khả năng chịu lực của sàn bê tông cốt thép bằng phương pháp đường chảy dẻo sử dụng nguyên lý công ảoDetermining strength capacity of reinforced concrete slab by yield - line method using the principle of virtual work

Nguyễn Tất Tâm

Tóm tắtKết cấu sàn trong các công trình dân dụng

hầu hết là sàn Bê tông cốt thép. Hệ sàn thường nằm ngang và chịu tải trọng thẳng

đứng. Việc phân tích kết cấu sàn hiện nay có hai phương pháp chính: phương pháp

phân tích đàn hồi và phương pháp phân tích giới hạn. Trong bài báo này tác giả trình bày

phương pháp phân tích đường chảy dẻo là phương pháp phân tích cận trên của phương pháp phân tích giới hạn. Phương pháp phân

tích đường chảy dẻo để xác định tải trọng phá hoại tương ứng sức kháng mô men dẻo

cho trước. Phương pháp này thường dùng đánh giá khả năng chịu lực của kết cấu sàn

trong các công trình đã xây dựng.

AbstractThe slab structure of the civil works were mostly

reinforced concrete slab. Slabs were generally horizontal and bear the vertical load. The slab

analysis currently comprised of two main methods: elastic analysis method and limit analysis method.

This paper presented the yield - line analysis method which was the upper bound method of

limit analysis method. The yield - line analysis method aimed to determine the damaging load

equivalent to bending reswastance moment. This method was often used to assess the slab bearing

capacity of constructed buildings.

ThS. Nguyễn Tất TâmBộ môn Kết cấu bê tông cốt thép - gạch đá Khoa Xây dựng ĐT: 0989 664 268

Ngày nhận bài: 13/6/2017 Ngày sửa bài: 18/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Page 26: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

50 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 51 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C SINH VI¥N

b) Giai đoạn II: Tăng q, bê tông miền kéo bị nứt, toàn bộ lực kéo do cốt thép chịu. Ta có trạng thái II (Hình 1c). Tiếp tục tăng q, nếu lượng cốt thép hợp lý (đúng vị trí và đúng lượng) thì бs = Rs ; бb < Rb : cốt thép đạt trạng thái giới hạn. Ta có trạng thái IIa (Hình 1d).

c) Giai đoạn III (Giai đoạn phá hoại):- Phá hoại dẻo (th1 – hình 1e): Khi tiết diện đã ở TTGH,

nếu tiếp tục tăng q thì có thể xảy ra: hoặc бs > Rs hoặc бb > Rb hoặc đồng thời бs > Rs và бb >

Rb dẫn đến kết cấu bị phá hoại.- Phá hoại giòn (th2 – hình 1g): Có 2 trường hợp+ Trường hợp cốt thép quá nhiều: Khi bê tông miền kéo

nứt, nếu cốt thép quá nhiều thì q tăng sẽ xảy ra бs <<< Rs ; бb >>> Rb dẫn đến kết cấu bị phá hoại rất đột ngột từ vùng nén. Trường hợp này cần tránh vì sự phá hoại xảy ra khi biến dạng còn nhỏ, khó đề phòng; khả năng làm việc của cốt thép vùng kéo mới được khai thác rất ít (Lãng phí thép).

+ Trường hợp cốt thép quá ít: ngay sau khi bê tông vùng kéo nứt, nếu tiếp tục tăng q thì xảy ra бb<<<Rb; бs>>>Rs thì cốt thép đột ngột đứt, dầm bị phá hoại ngay tức khắc. Trường hợp này cần tránh vì sự phá hoại xảy ra rất đột ngột, khó đề phòng; Khả năng làm việc của bê tông vùng nén chưa được khai thác (Lãng phí bê tông).

2. Phân tích đường chảy dẻo của sàn phẳng bê tông cốt thép

Dưới tác dụng của tải trọng phá hoại bản, cốt thép trong vùng có mô men lớn sẽ chảy dẻo trước. Khi cốt thép chảy dẻo thì vùng này làm việc như một khớp dẻo; Khớp dẻo có khả năng chịu mô men uốn tuy không lớn. Nếu tiếp tục tăng tải trọng thì vùng khớp dẻo và các mô men do tải trọng tăng thêm gây ra được phân phối lại trên vùng lân cận và làm cho các vùng này bắt đầu chảy dẻo.

Phương pháp phân tích đường chảy dẻo sử dụng lý thuyết dẻo – cứng để xác định các tải trọng phá hoại ứng với các mô men kháng dẻo đã cho trong các phần khác nhau của bản. Theo phương pháp này, bản được chia thành các tấm cứng và nối với nhau bằng các khớp dẻo.

Các đặc điểm của lý thuyết dẻo – cứng:• Có thể áp dụng cho phân tích cấu kiện bản, dầm• Không phụ thuộc chủng loại vật liệu: bê tông cốt thép,

thép, vật liệu khác …• Không cung cấp thông tin về độ võng• Phân tích ứng xử giai đoạn tới hạn sau khi chảy dẻo• Dùng đánh giá các công trình đã xây dựng• Là phương pháp động học ước đoán cận trên của trạng

thái phá hoại.Giả thiết về ứng xử dẻo - cứng có thể mô tả như Hình 2.Các quy luật xác định kiểu đường chảy dẻo trong bản:• Các đường chảy dẻo là các đường thẳng vì chúng là

giao điểm của các tấm cứng• Các đường chảy dẻo là trục xoay của các tấm cứng• Các cạnh gối đỡ của bản cũng tạo thành trục xoay: nếu

gối đỡ là ngàm thì các đường chảy dẻo hình thành do mô men âm; nếu gối đỡ là khớp thì các tấm cứng xoay tự do mà không chịu mô men.

• Trục xoay sẽ đi qua các đầu cột đỡ sàn, giá trị góc xoay phụ thuộc vào các điều kiện khác

Hình 1. Trạng thái ứng suất – biến dạng trên tiết diện thẳng góc

2a. Dầm bê tông cốt thép đơn giản chịu tải trọng phân bố đều

2b. Sàn bê tông cốt thép chịu tải trọng phân bố đều, bốn cạnh tựa khớp

Hình 2. Ứng xử dẻo - cứng trong dầm và sàn bê tông cốt thép

• Đường chảy dẻo sẽ hình thành dưới vị trí của lực tập trung tác dụng lên sàn và có hướng ra ngoài vị trí này.

• Để các biến dạng là tương thích, một đường chảy dẻo phải đi qua giao điểm của hai trục xoay của hai tấm cứng kề nhau.

Các đường chảy dẻo hình thành trong các vùng mô men có độ lớn tối đa và phân chia bản thành một chuỗi đoạn đàn hồi. Sau khi đường chảy dẻo hình thành, dưới tác dụng của tải trọng, tất cả các biến dạng tập trung tại các đường chảy dẻo và bản uốn như một chuỗi bản cứng nối với nhau bằng các bản lề dài. Hình 3 thể hiện sơ đồ biến dạng của bản kê bốn cạnh làm việc hai phương.

Ví dụ về các kiểu đường chảy dẻo xuất hiện trong các kiểu bản chịu tải trọng phân bố đều trên Hình 4.

Với bản liên tục được kê lên hệ dầm đổ liền khối cùng bản, việc áp dụng lý thuyết phân tich đường chảy dẻo sẽ phức tạp hơn; vì nội lực của bản cần xét ảnh hưởng của ô bản bên cạnh, do đó ngoài giá trị tĩnh tải g cần xét đến các trường hợp bất lợi của tải trọng hoạt tải p chất lên sàn cách

ô cách nhịp. Hình 5 mô tả ví dụ sàn bê tông cốt thép có 4 nhịp đều nhau và 5 bước cột. Hoạt tải được xếp lên sàn như trường hợp a) và b).

Để đơn giản tính toán có thể phân tích các ô sàn trong Mặt cắt 1-1 thành hai sơ đồ: Sơ đồ c) Trường hợp 1 chất tải tải trọng q’ ngược chiều nhau và sơ đồ d) Trường hợp

chất tải trọng q’’ đều nhau cùng chiều, trong đó '2pq = và

''2pq g= +

Với sàn có các nhịp đều nhau, sơ đồ c) cho mô men các gối M = 0 và có thể coi các ô sàn làm việc như các bản đơn, kê bốn cạnh và tựa khớp. Áp dụng nguyên lý công ảo để tính khả năng chịu lực cho các ô bản đơn trường hợp này.

Tương tự với sơ đồ d) góc xoay của sàn tại gối gần như bằng không, có thể coi các gối như các liên kết ngàm; do vậy sàn được coi như bản ngàm 4 cạnh. Áp dụng nguyên lý công ảo để tính khả năng chịu lực cho các ô bản đơn trường hợp này.

Hình 3. Biến dạng của bản có các đường chảy dẻo

Hình 4. Các kiểu đường chảy dẻo trong một số loại bản

Page 27: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

52 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 53 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C SINH VI¥N

Sau khi xác định khả năng chịu lực của sàn theo hai sơ đồ trên, tiến hành cộng tác dụng để xác định khả năng chịu lực thực tế. Trường hợp các ô bản có nhịp khác nhau, có thể xác định mô men tại gối theo giá trị trung bình của hai ô kề nhau, hoặc để an toàn có thể lấy theo ô có giá trị lớn hơn.

3. Phương pháp giải sàn theo nguyên lý công ảoNguyên lý công ảo: Nếu cho một vật rắn đang ở trạng thái

cân bằng dưới tác dụng của một hệ lực, một chuyển vị ảo thì tổng công ảo gây ra bởi hệ lực sẽ bằng không.

Để phân tích hệ sàn bằng phương pháp công ảo, kiểu đường chảy dẻo đề xuất cho sàn ứng với tải trọng phá hoại như sau:

• Các phân mảng của kiểu đường chảy dẻo có thể xem như là các vật rắn do biến dạng sàn và độ võng thay đổi chỉ xảy ra tại các đường chảy dẻo

• Các phân mảng của sàn ở trạng thái cân bằng dưới tác dụng của ngoại lực và các mô men uốn, xoắn và lực cắt dọc theo các đường chảy dẻo.

• Một điểm trong sàn được gán cho một chuyển vị nhỏ δ theo hướng của lực tác dụng

• Công sinh ra do ngoại lực và nội lực tác dụng dọc theo các đường chảy dẻo

Sau khi xác định vị trí đường chảy dẻo, chọn một điểm

trên bản và thực hiện một chuyển vị ảo δ .Công ngoài thực hiện bởi các tải trọng khi được dịch

chuyển:

Cq dxdy Qδ = ∆∑ ∑∫∫Trong đó:q – tải trọng phân bố đều trên một phần tử diện tích;

δ – chuyển vị của phần tử nói trên; Q – tổng tải trọng trên một đoạn bản;

C∆ – chuyển vị của trọng tâm đoạn bản nói trên.Công trong được thực hiện bởi việc quay các đường

chảy dẻo:

( )bm lθ∑ Trong đómb – mô men uốn trên một đơn vị chiều dài của đường

chảy dẻo;l – độ dài đường chảy dẻo;

θ – sự thay đổi góc của đường chảy dẻo nói trên.Theo nguyên lý công ảo:

( )C bQ m lθ∆ =∑ ∑4. Ví dụ tính toána. Ví dụ phân tích đường chảy dẻo của bản bê tông cốt

thép một hướngXét bản bê tông cốt thép một hướng trên Hình 6 chịu tải

trọng phân bố đều q. Bản có bố trí cốt thép bề mặt trên tại hai đầu ngàm với mô men kháng uốn đơn vị mx1 và cốt thép mặt

Hình 5. Tính toán bản liên tục trong hệ sàn bê tông cốt thép toàn khối

dưới tại giữa nhịp với mô men kháng uốn đơn vị mx2. Tính độ lớn mô men kháng uốn yêu cầu để đỡ tải trọng q.

Trình tự giải bài toán:- Chọn trục và các đường chảy dẻo: các đường chảy dẻo

do mô men âm hình thành dọc theo mặt các gối đỡ và đường chảy dẻo mô men dương hình thành tại giữa nhịp.

- Cho bản một chuyển dịch ảo δ tại một điểm. Trên hình

6, đường CD chuyển dịch ảo đoạn δ- Tính công ngoài: công ngoài thực hiện trên tấm

ABCD xác định như sau: tổng tải trọng trên tấm ABCD là

2bLQ q= ⋅ ; chuyển vị của điểm hợp lực ở giữa tấm

này là: 2Cδ

∆ = .

Công ngoài thực hiện trên tấm cứng ABCD là:

.2 2C

bLQ q δ∆ = ⋅

Tổng công ngoài: 2 .2C

bLQ q δ∆ = ⋅

- Tính công trong: đường chảy dẻo mô men âm tại AB quay một góc

2.

2L Lδ δθ = =

(biến dạng nhỏ nên coi tanθ θ= )

Công thực hiện khi quay là 12.xm bLδ

Tổng công thực hiện của cả 3 đường chảy dẻo:

1 2

2 22.( . . . . )x xm b m bL Lδ δ+

- Cân bằng công ngoài và công trong ta có:

1 2. 4.( ).

2 x xbL bq m m

Lδδ⋅ = +

Rút ra: 2

1 2( )8x x

qLm m+ =

Nhận thấy: Bất kỳ sự kết hợp nào của mx1 và mx2 bằng qL2/8 cũng sẽ thỏa mãn sự cân bằng. Do đó có thể điều chỉnh số lượng cốt thép tại gối ngàm hoặc tại giữa nhịp để thay đổi mx1 hoặc mx2 nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng cho bản.

b. Ví dụ phân tích đường chảy dẻo của bản bê tông cốt thép hai hướng

Xét bản hình chữ nhật bằng bê tông cốt thép tựa khớp bốn cạnh chịu tải trọng phân bố đều q. Bản có chiều dày 140mm, bê tông cấp độ bền B20 (Rb = 11.5 MPa), cốt thép nhóm CI (Rs = 225 MPa). Bản có bố trí cốt thép theo hai phương, thép theo phương x là Φ 10a150 có mô men kháng uốn đơn vị mux = 13,8 KNm/m, theo phương y là Φ 12a150 có mô men kháng uốn đơn vị muy = 20,7 KNm/m (Hình 7). Tính tải trọng phân bố lớn nhất qmax để bản không bị phá hoại.

Hình 6. Phân tích đường chảy dẻo của bản bê tông cốt thép một hướng

Trình tự giải bài toán:- Chọn trục và các đường chảy dẻo: kiểu đường chảy

dẻo do mô men dương hình thành trong Hình 7.

- Cho bản một chuyển dịch ảo δ tại giữa nhịp- Tính công ngoài:+ Công cho tấm 1 (có hai tấm):

1 4, 2 . . .22 3CQ q x δ

∆ = ⋅∑

+ Công cho tấm 2 (có hai tấm): mỗi tấm 2 chia thành một tấm chữ nhật và hai tấm tam giác hai bên:

2 4, 2 4,2.(6 2 ). . .2 . . . .2.22 2 2 2 3C

xQ q x qδ δ∆ = − +∑

Tổng công ngoài:

4,2 1 4,2 1 4,2 1. . . . .2 (6 2 ). . .2 . . .2.22 3 2 2 2 2 3C

xQ q x xδ ∆ = + − + ∑

[ ]. . 1, 4 2,1.(6 2 ) 1,4CQ q x x xδ∆ = + − +∑

. .(12,6 1,4 )CQ q xδ∆ = −∑

- Tính công trong:1 1( ) .4, 2. .2 .6. .2

2,1b ux uym l m mx

θ = +∑

Page 28: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

55 S¬ 29 - 201854 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 55 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C SINH VI¥N

- Cân bằng công trong và công ngoài:

1 1. .(12,6 1,4 ) .4, 2. .2 .6. .22,1ux uyq x m m

xδ − = +

Thay:

ux1 , 13,8 / , 20,7 /uym KNm m m KNm mδ = = =vào ta có:

115,92.(12,6 1,4 ) 118,29q x

x− = +

115,92 118,29(12,6 1, 4 )

xqx x

+=

−Xét hàm số q(x), tìm đạo hàm của q theo biến số x và cho

bằng không ta tìm được x = 2,156 m và qmax = 17,96 KN/m2.

5. Kết luận- Thiết kế sàn theo phương pháp phân tích đường chảy

dẻo là phương pháp tiếp cận biên trên nên giá trị tải trọng

phá hoại tính toán của sàn với hàm lượng cốt thép cho trước, có thể cao hơn nhưng xấp xỉ giá trị phá hoại thực tế xảy ra.

- Phương pháp phân tích đường chảy dẻo áp dụng thiết kế sàn đảm bảo tiết kiệm vật liệu. Tuy nhiên cần phải lựa chọn và phân tích đúng cơ cấu đường chảy dẻo thì mới thiết kế sàn đảm bảo khả năng chịu lực.

- Phương pháp này thích hợp để đánh giá khả năng chịu lực của kết cấu sàn trong các công trình đã xây dựng./.

Hình 7. Tính toán bản liên tục trong hệ sàn bê tông cốt thép toàn khối

T¿i lièu tham khÀo1. Arthur H. Nilson, Design of Concrete Structure 12th editon.

The Mc Graw – Hill company, Inc.2. Hồ Hữu Chỉnh, Phân tích ứng xử và thiết kế kết cấu Bê tông

cốt thép. Bài giảng cho Học viên Cao học, 2009.3. Phan Quang Minh, Kết cấu Bê tông cốt thép Phần cấu kiện cơ

bản. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2006.4. Nguyễn Viết Trung, Thiết kế kết cấu Bê tông cốt thép hiện đại

theo Tiêu chuẩn ACI318. NXB Giao thông vận tải, 2000.5. National University of Singapore, Advanced Structural

Concrete Design. CE5510, 2004.

Tóm tắtSử dụng gạch block bê tông khí chưng áp để xây

tường là hướng đi cần thiết theo chỉ đạo của chính phủ và theo xu hướng phát triển công nghiệp xây

dựng hiện nay. Gạch block AAC là loại bê tông tổ ong có nhiều ưu điểm như khối lượng thể tích nhỏ,

khả năng cách nhiệt, cách âm tốt, cường độ nén, uốn tương đối cao, hệ số phẩm chất cao…Tuy

nhiên, trong điều kiên khí hậu nóng ẩm tại Việt Nam, gạch bê tông khí chưng áp (AAC) thường xảy

ra các nứt rạn khi có sự thay đổi nhiệt độ và độ ẩm, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng công trình. Nghiên cứu giải pháp xử lý bề mặt và sử dụng sợi

polime tham gia vào thành phần phối liệu như một phụ gia nhằm hạn chế và ngăn chặn sự rạn

nứt của block bê tông khí AAC trong công trình xây dựng là cần thiết.

AbstractUsing AAC block in wall building was necessary under

the government direction and development trend of industrial construction nowadays. AAC block was a

kind of beehive concrete with many advantages such as small mass, good insulation (heat and sound),

high compressive strength, bending strength, quality coefficient... However, in the hot and humid climate

in Vietnam, AAC block often occured rifts with high temperature and humidity variability, negatively affect to the quality of construction. Thus the research would

focus on surface treatment and polymer fiber use in materials as an additive to limit and prevent cracking of

AAC block in construction.

PGS.TS. Nguyễn Minh NgọcBộ môn Vật liệu xây dựng, khoa Xây dựng Email: [email protected] ĐT: 0966 065 589

Ngày nhận bài: 02/6/2016 Ngày sửa bài: 23/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Tổng quanTại Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010,Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020. Mới đây, ngày 16/4/2012 thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 10/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng VLXKN và hạn chế sản xuất,sử dụng gạch đất sét nung. Sử dụng gạch block bê tông khí chưng áp để xây tường là hướng đi cần thiết theo chỉ đạo của chính phủ và theo xu hướng phát triển công nghiệp xây dựng hiện nay. Gạch block AAC là loại bê tông tổ ong có nhiều ưu điểm như khối lượng thể tích nhỏ, khả năng cách nhiệt, cách âm tốt, cường độ nén, uốn tương đối cao, hệ số phẩm chất cao hơn gạch đất sét nung và một số loại gạch không nung khác. Hơn nữa, gạch block bê tông khí chưng áp (AAC) có kích thước với sai số nhỏ, dễ thi công… và được coi là “vật liệu xanh” đáp ứng cho “kiến trúc xanh” thân thiện với môi trường, rất thích hợp trong thi công tường bao che và tường ngăn trong các công trình nhà cao tầng. Sử dụng khối tường xây bằng block AAC trong công trình nhà cao tầng là xu thế phát triển tất yếu hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam.

Tuy nhiên, trong điều kiên khí hậu nóng ẩm tại Việt Nam gạch bê tông khí chưng áp (AAC) thường xảy ra các nứt rạn không mong muốn khi có sự thay đổi nhiệt độ và độ ẩm, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng công trình. Không những thế nguyên nhân này còn khiến cho việc sản xuất và lưu kho của các nhà máy sản xuất gặp rất nhiều khó khăn do lượng phế phẩm bị nứt vỡ khá nhiều ,ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế của công ty. Do đó, nghiên cứu hướng đến việc tìm hiểu những ảnh hưởng bất lợi của tro bay và cát nghiền mịn, hai nhân tố quan trọng cấu thành nên tính cơ lý của bê tông khí, dưới tác động của các điều kiện thi công thực tế. Mặt khác, thử nghiệm giải pháp sử dụng sợi polime tham gia vào thành phần phối liệu như một phụ gia nhằm hạn chế và ngăn chặn sự rạn nứt của bê tông khí trong quá trình chưng áp cũng như trong điều kiện thi công.

2. Cơ sở khoa học của công nghệ xử lý trước thi côngGạch bê tông khí có độ rỗng lớn, các lỗ rỗng hở vì vậy trước thi công ta

phải xử lý bề mặt khối nhằm mục đích ngăn chặn nước xâm nhập vào gạch qua các lỗ rỗng:

- Làm nhẵn bề mặt gạch: gia công mài làm cho bề mặt gạch nhẵn.- Lấp đầy lỗ rỗng bề mặt: nhúng viên gạch trước khi xây vào thùng chứa

hồ (xi măng, nước, phụ gia kỵ nước).2.1. Phân tích sự tăng cường độ bề mặt và giảm khả năng hút nước

khi xử lý bề mặt bê tông khíNhúng gạch vào thùng chứa hồ gồm: • Nước.• Xi măng: chiếm 15% khối lượng nước.• Phụ gia kỵ nước (axit naptenic CnH2n-1COOH): chiếm 0.05 ÷ 0.3% khối

lượng xi măng.• Phụ gia siêu dẻo SD 83 (polime gốc Natphtalen Fornahdehit Sunphomat).Sau khi nhúng gạch, lớp hồ bám lên bề mặt và lấp đầy các lỗ rỗng:• Một lượng xi măng thấm vào các lỗ rỗng bề mặt và cả vào lỗ rỗng bên

trong tạo thành các màng kín bao bọc lỗ rỗng làm tăng cường độ, ngăn chặn

Nghiên cứu sử dụng sợi polyme trong sản xuất block bê tông khí chưng áp nhằm tăng cường chất lượng khối xâyResearch on polymer fibers in the manufacture of autoclaved aerated concrete (AAC) block to improve the building quality

Nguyễn Minh Ngọc

Page 29: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

56 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 57 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

nước xâm nhập vào lỗ rỗng.• Phụ gia kỵ nước có tác dụng ngăn nước không thấm

qua bề mặt.2.2. Phân tích sự thay đổi cường độ liên kết, độ biến

dạng gạch bê tông khí+ Xử lý bằng sợi polime polypropylene (PP)Sợi pp được xử lý bằng cách làm tơi thành sợi mảnh, sau

đó cho vào hỗn hợp hồ bê tông khí khuấy với tỷ lệ tính toán và thời gian phù hợp.

Tác dụng: làm tăng liên kết màng bao bọc lỗ rỗng, tăng cường độ cho gạch bê tông khí (hình 1)

+ Xử lý vữa xâyVữa xây là mạch liên kết giữa các viên gạch bê tông khí

của khối xây. Trong quá sử dụng, lượng nước trong vữa sẽ mất dần do gạch hấp thụ, vì vậy ta cho phụ gia giữ nước Methyl hydroxy ethyl cellulose.

Phụ gia giúp vữa xây không bị khô, tăng cường độ của vữa và liên kết khối xây

2.3. Tác dụng của việc xử lý bề mặt khối xây khi thi công

• Làm nhẵn bề mặt khối xây.• Lấp kín các lỗ rỗng và vết nứt trên bề mặt.→ Dễ dàng khi thi công, tiết kiệm vữa trát, đặc biệt giảm

khả năng thấm ẩm của gạch bê tông sau khi xây.

3. Vật liệu chính dùng trong thí nghiệmTrong thí nghiệm của đề tài, sử dụng viên block AAC sản

xuất tại nhà máy Bê tông khí Viglacera Bắc Ninh và mẫu block có thêm phụ gia (kích thước 600x200x100). Block AAC này có đặc tính kỹ thuật như sau:

- Tỉ trọng khô 551 – 750 kg/m3.- Cường độ 4 – 5.7 Mpa.- Độ dẫn nhiệt: ≤ 0.2 W/mK+ Chất kết dínhĐể chế tạo vữa xây dùng xi măng pooc lăng PCB 30 Bút

Sơn, có thành phần hoá học theo bảng 1.Bảng 1. Thành phần hoá học của xi măng

Thành phần C3S C3A C4AF Na2O+K2OYêu cầu ≥ 50% 7-10% < 10% < 1%+ CátTCVN 7570: 2006 quy định các yêu cầu kỹ thuật đối với

cốt liệu nhỏ (cát tự nhiên) có cấu trúc đặc chắc dùng chế tạo bê tông và vữa xi măng thông thường

+ Phụ giaKhi canxi licnosulfonat hấp phụ nên bề mặt hạt xi măng,

sự định hướng của các phân tử nước trên hạt xi măng phần nào bị phá hoại. Một phần lượng nước đó được giải phóng. Khi đó các hạt xi măng được làm ướt tốt hơn, nhu cầu lượng nước tạo độ dẻo để thi công sẽ ít hơn. Phụ gia kị nước có ý nghĩa đặc biệt trong công tác chế tạo vữa xây bằng viên xây bloc bê tông khí chưng áp, nhiều lỗ rỗng mang đặc tính như nền xốp. Phụ gia kị nước như axit naptenic - CnH2n-1COOH, naptenat hoà tan được trong nước các axit béo tổng hợp cao nhất và các muối tan trong nước của chúng. Các mặt của hyđrocácbon đó có tính kị nước, không bị thấm ướt bởi nước và giữa chúng không hình thành liên kết bởi các cực metyl. Các mặt tạo ra bởi các cực metyl, là các mặt trượt, nếu có ngoại lực tác dụng theo hướng tiếp tuyến các mặt đó.

Hình 1. Minh họa sợi polime liên kết các lỗ rỗng Ghi chú: 1- sợi polime 2 – các lỗ rỗng

Hình 2. Sợi polymer propylene

Các lớp mỏng các phân tử định hướng có khả năng trượt lên nhau dễ dàng làm cho độ dẻo của vữa tăng. Nếu chúng ta sử dụng phụ gia siêu dẻo và phụ gia kị nước vào công đoạn sử lý bề mặt gạch AAC bằng việc nhúng chúng vào hồ nước - xi măng - phụ gia, cũng như sử dụng vữa xây thường có cho thêm phụ gia siêu dẻo và phụ gia kị nước sẽ làm giảm lượng nước bị hút vào bề mặt viên xây, tăng cường độ liên kết giữa viên xây với vữa, giảm độ co ngót bởi ứng suất gây nứt rạn, làm tăng cường độ của khối xây....Phụ gia siêu dẻo SD 83 là sản phẩm ở dạng lỏng, màu nâu đen, thành phần chủ yếu là polyme gốc Naphtalen Formaldehyt Sunphonat: Tỷ trọng: 1,15 - 1,25 kg/l; Độ pH: 7 - 10; Không chứa ion Cl- (Bảng 2), dùng để làm tăng độ dẻo, khả năng bám dính và tăng chống thấm cho vữa xi măng cát.

+ Phụ gia giữ nước, của Viện khoa học và Công nghệ - Bộ Xây Dựng

+ Sợi polypropyleneBảng 2. Thông số kĩ thuật của sợi PP

Đặc tính

Chiều dài

(mm)

Đường kính (mm)

Cường độ chịu

kéo (MPa)

Mô đun đàn hồi (GPa)

Độ dãn

dài tối đa (%)

Thông số 20 0,1 310-760 3,5-4,9 15,0

Đặc tính cơ lý của sợi PP thể hiện trong bảng 2, hình 2

4. Kết quả thí nghiệm các tính chất của AAC và khối xâyTính chất cơ lý của AAC khi có phụ gia PP thể hiện trong

bảng 3, 44.1. Khối lượng thể tích khô của AAC có phụ gia PP

và AAC thườngBảng 3. Khối lượng thể tích khô của mẫu AAC có thêm phụ gia tăng so với mẫu AAC không có phụ gia.

STTKhối lượng thể tích khô

mẫu AAC có phụ gia PP(kg/m3)

Khối lượng thể tích khô mẫu AAC không

có phụ gia(kg/m3)

1 588 5542 574 5603 590 5594.2. Cường độ nén của AAC có PP và AAC thường

Bảng 4. Cường độ nén của AAC có PP và AAC thường

Hàm lượng PP (%)

Cường độ nén (MPa)

Cường độ nén của mẫu AAC không có PP

(MPa)

Ghi chú

0.05 5.2 5.10.075 5.3 5.1

0.1 7 5.1 Chọn mẫu để nghiên cứu

0.125 5.74 5.1Ảnh hưởng của hàm lượng PP tới cường độ của AAC thể

hiện qua đồ thị hình 3Nhận xét:- Khi cho thêm phụ gia PP, cường độ của viên block AAC

tăng 37% so với mẫu AAC không có phụ gia. Hàm lượng PP là 0,1% khối lượng thể tích hồ.

- Khoảng tối ưu thể hiện sự ảnh hưởng của phụ gia PP đến cường độ viên block AAC là từ 0.08 ÷ 0.11%.

Hình 3. Đồ thị mối liên hệ giữa hàm lượng PP với cường độ AAC

Hình 4. Tiến hành xác định độ co khô của viên AAC có sợi PP và viên AAC thường

Hình 5. Biểu đồ độ co khô của viên AAC có sợi PP và viên AAC thường

Page 30: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

58 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 59 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

4.3. Độ co khô của viên AAC có PP và AAC thườngĐộ co khô của AAC khi có phụ gia PP được xác định và

kết quả qua hình 4, 5 và bảng 5.Bảng 5. Độ co khô của viên AAC có sợi PP và viên AAC thường

Mẫu có PP

Độ ẩm Số đo ε0 1.126 0

16.14 1.133 0.044303836.14 1.134 0.050632939.09 1.134 0.050632947.27 1.139 0.0822785

Mẫu không có PP

Độ ẩm Số đo ε51.49 2.044 0.132911446.64 2.031 0.050632923.51 2.027 0.025316513.34 2.025 0.0126582

0 2.023 0

5. Kết luận1. Khi cho thêm phụ gia PP, cường độ của viên block AAC

tăng 37% so với mẫu AAC không có phụ gia. Hàm lượng PP là 0,1% khối lượng thể tích hồ.

2. Khoảng tối ưu thể hiện sự ảnh hưởng của phụ gia PP đến cường độ viên block AAC là từ 0,08 ÷ 0,11%.

3. Cường độ của viên block tăng khi sử dụng PP vào thành phần phối liệu, một yếu tố quan trọng giúp gạch chống biến dạng.

4. Khi cho phụ gia PP thì độ co ngót của block AAC tăng nhỏ và khối lượng viên tăng rất ít.

5. Block AAC khi có phụ gia PP giảm độ hút nước, từ đó tăng khả năng chống thấm, hạn chế sự thay đổi độ ẩm của viên block khi độ ẩm môi trường thay đổi cũng như tiếp xúc với nước.

6. Viên block có phụ gia PP co ngót chậm khi sử dụng PP, đặc biệt trong khoảng độ ẩm 20-50% giúp cho viên gạch không biến dạng đột ngột, giảm ứng suất gây nứt vỡ./.

Với đất đá có độ cứng từ trung bình trở xuống phải thực hiện công tác gia cố vách ngay sau khi vách hầm hở ra.

Khi thi công hầm bằng phương pháp khoan nổ mìn, bề mặt vách hầm được xử lý bằng phương pháp phun bê tông khi bốc xong đất đá. Với đá phong hoá, đất sạt lở, đất đá nứt nẻ việc khoan neo và phun bê tông gia cố ngay sau khi vách hầm hở ra. Có thể phun bê tông gia cố phần vòm và một phần thành hầm ngay sau khi nổ mìn và thông gió phần còn lại bị lấp bởi đất đá sẽ được phun tiếp. Lớp bê tông phun thứ 2 được phun sau khi bốc hết đất đá.

Để gia cố lần đầu cho hầm trong nền đất sét có độ ẩm tương đối cao, phun bê tông cốt liệu sợi thuỷ tinh kết hợp với lưới thép và các thanh neo để gia cố vào nóc hầm.

Khi gia cố vách hầm nơi nền đất bão hòa nước người ta sử dụng các chất phụ gia bám và đông kết nhanh để đạt hiệu quả theo thiết kế.

Tuỳ thuộc vào áp lực và khả năng tự chịu tải của đất đá và đặc thù của công nghệ thi công mà việc phun bê tông gia cố nóc và vách hầm sẽ được tiến hành liên tục hoặc từng bước cho tới khi đủ chiều dày thiết kế.

Phun vữa bê tông vách hầm có cốt thép cần lưu ý:- Khi đường kính của thép lưới 2-4mm thì kích thước ô

lưới không được nhỏ hơn 100*100mm và khoảng cách của lưới tới mặt gương lò không nhỏ hơn 20mm. Lưới cốt thép được ép vào bề mặt gương lò bằng các thanh kẹp được liên kết vào các thanh neo bằng dây buộc hoặc hàn. Khi hầm có hình dạng không bằng phẳng phải tăng cường lưới thép vào những chỗ lồi lõm. Trong trường hợp này sử dụng các thanh neo đặc chủng có chiều dài từ 0,4-0,6m;

- Hỗn hợp bê tông phun khô được trộn theo đúng thiết kế bằng các trạm trộn trước khi đưa vào hầm. Cho phép trộn hỗn hợp bê tông phun khô trong hầm với điều kiện là khối lương trộn không lớn lắm; Thời gian lớn nhất cho phép

lưu giữ bê tông khô là không quá 2 giờ. Để thi công bằng phương pháp phun bê tông khô người ta sử dụng loại máy phun chuyên dùng mà khi phun cả xi măng, cát, sỏi được đẩy đi bởi khí nén qua một đoạn ống mềm tới vòi phun và trộn với nước tại đây trước khi bị đẩy đi tới bề mặt vách lò;

- Chiều dày của một lớp bê tông phun là 5-6cm. Khi sử dụng phụ gia thì cho phép tăng chiều dày của bê tông với điều kiện bê tông không bị rơi khỏi lớp;

- Khi thi công bằng công nghệ phun ướt thì bê tông đẩy đi là bê tông tươi.

Bê tông phun có các đặc tính về độ bền khá cao. Cường độ chịu kéo của bê tông phun lớn hơn tới 10% so với bê tông thường có cùng thành phần. Nhờ áp lực do phun làm bê tông như được đầm chặt hơn, nên nó tạo ra lớp bê tông có tỷ trọng và mật độ lớn hơn nên cường độ cao hơn và cả khả năng chống thấm nước tốt hơn.

Công nghệ thi công bê tông bằng phương pháp phun trực tiếp cho phép gia cố vách hầm lần đầu hiệu quả với lớp bê tông không quá dày. Trong một vài trường hợp khi thi công vỏ hầm vĩnh cửu (nếu cho phép) sẽ không cần ván khuôn và hoàn toàn có thể cơ giới hoá thi công, tiết kiệm nhân lực và giảm giá thành sản phẩm./.

Bê tông phun và một số điều lưu ý...(tiếp theo trang 51)

T¿i lièu tham khÀo1. TCXDVN 205-2004 Bê tông khối lớn quy phạm thi công và

nghiệm thu2. Lê Kiều, Khái niệm mới về bê tông – 20073. TCXDVN 356-2005 Tiêu chuẩn thiết kế kết cấu bê tông cốt

thép4. Elwyn H. King - Bê tông phun – 2002

Tóm tắtNghiên cứu trên mô hình xử lý bậc 3 nước thải sinh

hoạt bằng bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa. Mô hình bể lọc sử dụng vật liệu polystyrene với đường kính trung bình

là De=1,22 mm; hệ số không đồng nhất Kd (d80/d 10) = 1,38; tỷ trọng là 45 kg/m3 và độ rỗng là 40%. Chiều

dày vật liệu lọc 120cm. Nước thải sau xử lý sinh học bậc 2 được đưa vào mô hình thí nghiệm với vận tốc lọc là

5m/h. Nồng độ oxi duy trì liên tục ở mức 2,0 mg/l nhờ ejector. Tổn thất cột áp và chất lượng nước thải được nghiên cứu trong quá trình lọc. Với chu kỳ lọc 85 giờ, tổn thất cột áp trung bình mỗi giờ 1,43 cm và cường

độ rửa lọc là 10-12 l/s/m2. Hiệu quả xử lý SS, COD, BOD5, NH4+ và tổng Nitơ trung bình lần lượt là 58,1%, 65,1%,

66,9%, 73,6% và 45,5%.Từ khóa: Tổn thất, loại bỏ COD, loại bỏ BOD5, loại bỏ SS, loại bỏ

NH4+, xử lý triệt để, xử lý bậc 3, bể lọc nổi tự động thủy lực

AbstractResearch on the tertriary wasterwater treatment model self-purification floating filter media. Basin model with

Polystyrene material which had average diameter (De) of 1,22 mm, heterogeneity coefficient (Kd – d80/d10) of 1,38, density of 45 kg/m3 and porosity of 40%, thickness of 120 cm. Wastewater from secondary biological treatment were

put in the third-level model with filtration velocity of 5 m/h. Oxygen concentration was remained constantly at 2,0 mg/l by ejector. The headloss and wastewater quality were

studied during filtration. With filtration cycle of 85 hours, the headloss rate of 1,43cm/h, and backwashing magnitude

of 10-12 l/s/m2. Treatment effects of SS, COD, BOD5, NH4+ and Nitrogen were 58,1%, 65,1%, 66,9%, 73,6% and 45,5%

respectively. Keywords: Headloss, COD removal, SS removal, effectiveness,

advanced treatment, tertriary treatment

ThS. Phạm Văn DươngKhoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị Email: [email protected] ĐT: 0984 113 012

Ngày nhận bài: 08/12/2017 Ngày sửa bài: 19/12/2017 Ngày duyệt đăng: 11/01/2018

Xử lý triệt để nước thải sinh hoạt bằng bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửaAdvanced wastewater treatment by filter basin with self-purification floating filter media

Phạm Văn Dương

1. Mở đầuQuá trình xử lý sơ cấp và thứ cấp loại bỏ phần lớn các chất hữu cơ

(BOD) và chất rắn lơ lửng (SS) trong nước thải. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chỉ ra rằng mức độ xử lý này không đủ để đảm bảo xả ra nguồn tiếp nhận hoặc dùng cho tái sử dụng cho các mục đích như dịch vụ đô thị, công nghiệp và nông nghiệp. Vì vậy, các công đoạn xử lý bổ sung được thêm vào trong các nhà máy xử lý nước thải để loại bỏ các chất rắn, chất hữu cơ, chất dinh dưỡng hoặc chất độc hại [8]. Vì vậy xử lý triệt để nước thải có thể được định nghĩa là công đoạn xử lý bổ sung cần thiết để loại bỏ các chất lơ lửng cũng như hòa tan trong nước thải dưới nồng độ giới hạn sau công đoạn xử lý bậc hai. Hiện nay, xử lý nước thải triệt để có thể phân thành 3 loại chính như sau: (i) xử lý bậc 3; (ii) xử lý hóa học – cơ học và (iii) xử lý kết hợp sinh học – cơ học [8]. Một cách khác để phân loại xử lý triệt để là dựa vào mục tiêu xử lý như (i) bổ sung chất hữu cơ và loại bỏ chất rắn lơ lửng; (ii) loại bỏ chất dinh dưỡng (N, P); (iii) loại bỏ chất độc hại; (iv) làm giàu oxy và (v) khử trùng [8, 3]. Trong khái niệm này, bể lọc thí nghiệm được sử dụng như là quá trình xử lý bậc ba trong xử lý triệt để nước thải. Trong xử lý triệt để nước thải, bể lọc cát được sử dụng phổ biến cho việc loại bỏ các chất hữu cơ (BOD) và chất rắn lơ lửng (SS) [6, 9,

Hình 1. Mô hình thí nghiệm xử lý triệt để nước thải sinh hoạt bằng bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực. (1) Thùng chứa nước thải từ bể lắng 2 đến; (2) Bơm nước thải; (3) Van điều chỉnh lưu lượng; (4) Đồng hồ đo áp lực; (5) Lưu lượng kế; (6) Ejector ; (7) Ống ổn định áp lực;(8) Xi phông thủy lực; (9) Khóa thủy lực; (10) Vật liệu lọc; (11) Lưới lọc; (12) Thùng chứa nước rửa lọc; (13) Nước thải sau xử lý; (14) Bảng đo áp;

Page 31: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

60 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 61 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

11]. Tuy nhiên, nhờ sự phát triển của công nghệ vật liệu, bể lọc vật liệu nổi tự rửa vật liệu lọc polystyrene được áp dụng ngày càng phổ biến. Bể lọc nổi vật liệu polystyrene có nhiều ưu điểm hơn so với bộ lọc vật liệu cát như (i) quy trình rửa lọc đơn giản hơn bể lọc cát, không cần trang bị bơm rửa lọc; (ii) tiết kiệm năng lượng và nước; (iii) cấu tạo bể đơn giản giảm giá thành đầu tư xây dựng [3, 6, 9].

Mục tiêu của nghiên cứu này là nghiên cứu tính hiệu quả của quá trình xử lý triệt để nước thải sinh hoạt sau xử lý sinh học bậc 2 với SS, COD, BOD5, NH4+, tổng Nitơ và tốc độ gia tăng tổn thất đối với bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa [6].

2. Đối tượng và phương pháp thí nghiệmThí nghiệm được tiến hành tại nhà máy xử lý nước thải

sinh hoạt của Công ty TNHH Youngone Nam Định, KCN Hòa Xá, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Sơ đồ thí nghiệm được thể hiện trong hình 1.

Bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa được làm bằng inox 304 có đường kính D = 300mm, các kích thước chi tiết của bể lọc được thể hiện như trên hình 1, bể lọc được trang bị cửa sổ bằng thủy tinh hữu cơ theo chiều dọc bể để quan sát bên trong bể. Nước thải (1) được bơm từ sau bể lắng 2 qua ejector thu khí (6) với lưu lượng q = 0,353 m3/h, bể lọc làm việc với tốc độ lọc là 5 m/h. Nồng độ oxy trong bể lọc luôn duy trì mg/l được điều chỉnh thông qua ejector (6). Chiều dày của lớp vật liệu lọc nổi polystyrene là 120 cm. Tổn thất cột áp tăng dần trong quá trình lọc và được xác định qua bảng đo áp (14). Trong quá trình làm việc cặn và màng sinh học dần dần chiếm đầy lỗ rỗng trong lớp vật liệu lọc, làm gia tăng tổn thất qua lớp vật liệu lọc dẫn tới mực nước trong ống ổn định áp (7) dâng lên, theo nguyên lý của bình thông nhau thì mực nước bên ống xi-phông (8) cũng dâng lên đồng thời khi mực nước dâng cao hơn đỉnh xi-phông sẽ tràn vào khóa thủy lực ngăn cản mối liên hệ của phần bên trong xi-phông với môi trường ngoài đồng thời ejector sẽ hút hết lượng khí trong ống xi-phông, do không được liên hệ với không khí nên trong ống xi-phông hình thành chân không lúc này xi-phông bắt đầu làm việc khởi động quá trình rửa lọc. Quá trình rửa lọc sẽ dừng lại khi mức nước trong thùng chứa (12) xuống thấp nhất khởi động ống phá hiệu ứng xi-phông. Chất lượng nước được phân tích các chỉ tiêu SS, COD, BOD5, NH4+, tổng nitơ, PO4

3- cũng như pH và nhiệt độ (oC) của nước thải.Lưu lượng nước thải vào bể lọc được điều chỉnh bằng

van và xác định bằng phương pháp thể tích. Cường độ của quá trình rửa ngược được thiết kế khoảng 10-12 l/s.m2 thời gian rửa lọc 4-5 phút. Kết quả xác định BOD5, COD, SS, NH4+, tổng Nitơ, PO4

3- , pH và nhiệt độ được phân tích tại Trung tâm quan trắc và phân tích tài nguyên môi trôi trường

của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Nam Định, tại số192 đường Cù Chính Lan, thành phố Nam Định.

Vật liệu polystyrene sử dụng trong thí nghiệm giống như vật liệu lọc được sử dụng trong đề tài nghiên cứu của PGS. TS. Trần Thanh Sơn [6]. Vật liệu lọc có đường kính hiệu dụng là De = 1,22 mm, hệ số không đồng nhất Kd (d80/d10)=1,38, tỷ trọng là 45kg/m3 và độ giãn nở 40%. Theo kết quả Nghiên cứu [6], các hạt polystyrene đáp ứng các yêu cầu kiểm tra khác như kháng hóa chất và độ bền cơ học cho vật liệu lọc. Hơn nữa vật liệu lọc nổi đã được áp dụng cho hơn 30 nhà máy xử lý nước thông qua nghiên cứu [6]. Đặc điểm của nước thải sau bể lắng 2 được mô tả trong bảng 1.Bảng 1. Nồng độ trung bình của nước thải đầu vào bể lọc vật liệu nổi tự rửa thủy lực

TT Chỉ tiêu Đơn vị Từ bể lắng 21 COD mg/l 167,652 BOD5 mg/l 78,253 SS mg/l 39,814 NH4+ mg/l 10,125 Tổng Nitơ mg/l 26,226 PO4

3- mg/l 0,927 Độ pH - 7-7,58 To oC 22-26Điều quan trọng trong công nghệ nhà máy xử lý nước

thải sinh hoạt của Công ty TNHH Youngone Nam Định là quá trình loại bỏ chất dinh dưỡng (loại bỏ N, P). Từ bảng 1, cho thấy một số đặc điểm nước thải sau xử lý sinh học bậc 2 không đáp ứng giá trị của cột A quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT và quy chuẩn QCVN 14:2008/BTNMT. Một số yếu tố quan trọng nhất cần phải giảm đó là SS, COD, BOD5, NH4+, tổng Nitơ.

Thí nghiệm được tiến hành với tốc độ lọc 5 m/h cho 1 chu kỳ của bể lọc. Vì rửa lọc tự động thủy lực nên chu kỳ của bể lọc phụ thuộc vào vận tốc lọc và nồng độ của SS.

3. Kết quả và thảo luậnNồng độ của các thành phần trong nước thải sau xử lý triệt để

Thí nghiệm được tiến hành vào ngày 16 tháng 4 năm 2017 và kết thúc vào ngày 20 tháng 4 năm 2017. Chu kỳ lọc 85 giờ và kết thúc khi quá trình rửa lọc xảy ra. Kết quả của thí nghiệm được thể hiện trong hình 2 và hình 3.

Kết quả thí nghiệm từ đồ thị hình 2 cho thấy rằng nồng độ chất lơ lửng sau xử lý ổn định SS < 20mg/l trong khoảng thời gian 50h lọc đầu tiên. Sau 50h nồng độ chất lơ lửng SS của nước thải giao động xung quanh giá trị 30mg/l và bắt đầu tăng dần đến cuối chu kỳ 85h khi bể lọc bắt đầu rửa lọc. Có

Hình 2. Mối quan hệ giữa nồng độ SS, COD và BOD5 của nước thải sau lọc và thời gian lọc.

Hình 3. Mối quan hệ giữa nồng độ Amoni (N-NH4+), tổng Nitơ của nước thải sau xử lý và thời gian lọc.

thể quan sát được rằng trong cả chu kỳ lọc nồng độ chất lơ lửng SS luôn đáp ứng được yêu cầu quy chuẩn QCVN 40 :2011 cột A (SS 50 mg/l). Hiệu suất xử lý chất lơ lửng SS trung bình đạt giá trị 58,1% (hình 5).

Đồ thị hình 2 cho thấy nồng độ COD sau lọc trung bình 61,39 mg/l, trong 56h lọc đầu tiên COD dao động quanh giá trị từ 29- 70 mg/l, tại thời điểm t = 59h COD tăng đến 162 mg/l vượt cột A theo COD của QCVN 40:2011/BTNMT. Sau đó COD giảm dần những ở gần cận kề mức cột A là 75 mg/l. Nồng độ BOD5 sau lọc trung bình 78,25 mg/l, trong 50h lọc đầu tiên BOD5 dao động quanh giá trị từ 13- 26,5 mg/l. Các giờ lọc tiếp theo tại thời điểm t = 59h BOD5 tăng đến 74,8 mg/l vượt cột A của QCVN 40:2011/BTNMT. Sau đó BOD5 giảm dần nhưng ở gần cận kề mức cột giá trị cột A theo BOD5 là 30 mg/l.

Amoni (N-NH4+) qua đồ thị hình 3 và hình 5 có thể thấy nồng độ Amoni trong nước thải sau xử lý luôn luôn ổn định tại khoảng giá trị 1,36 mg/l đến 2,6 mg/l trong 50 giờ lọc đầu tiên. Hiệu suất xử lý trung bình amoni đạt giá trị 73,58% (hình 5). Tổng Nitơ sau xử lý ổn định trong khoảng giá trị 11,8 mg/l đến 15 mg/l trong suốt 50 giờ lọc đầu tiên. Hiệu suất xử lý trung bình tổng Nitơ đạt giá trị 45,47% (hình 5). Từ đồ thị hình 3 nhận thấy rằng trong trong 50h đầu tiên thì nồng độ Amoni và tổng Nitơ đạt cột A theo Amoni là 5 mg/l và tổng Nitơ là 20 mg/l của QCVN 40:2011/BTNMT.Sự gia tăng tổn thất áp lực

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự gia tăng cột áp tăng theo chiều dày lớp vật liệu lọc bể lọc như trong hình 4.

Các ống đo áp được xác định tương ứng với chiều dày vật liệu lọc lần lượt là 120, 102, 74, 46, 18 cm. Tổn thất áp lực ban đầu với chiều dày vật liệu lọc khác nhau không có sự chênh lệch đáng kể, khoảng 20 cm.

Sau thời gian lọc (85 giờ), tổn thất cột áp có mức tối đa là 140 cm (bằng chiều cao của đỉnh xi phông) (hình 1). Tổn thất cột áp trung bình cho cả chu kỳ lọc là 1,43 cm/giờ. Giá trị này rất quan trọng để xác định chu kỳ lọc trong thiết kế bể lọc nổi tự rửa thủy lực. Nói cách khác, giá trị này được sử dụng để thiết kế hệ thống xi phông của bể lọc.

Kết quả của sự gia tăng tổn thất trên đồ thị tăng dần theo chiều dày vật liệu lọc từ 18 cm đến 120 cm chiều dày vật liệu lọc. Đường số 5 tương ứng với chiều dày vật liệu lọc là 18 cm, mức tổn thất cột áp được duy trì như mức ban đầu. Trên thực tế, đường số 5 gần như là đường theo chiều ngang và độ dốc của nó là 0. Điều này cho thấy rằng hầu như không

có SS tích tụ trong lớp này (lớp trên cùng gần lưới). Độ dốc của đường số 1 của lớp 120 cm là lớn nhất so với các đường khác trong biểu đồ (2, 3, 4, 5). Dựa trên lý thuyết về lọc và phân tích đồ thị, theo đó có khoảng 50% chất rắn lơ lửng tích tụ trong 46cm lớp vật liệu lọc đầu tiên. Bởi vì tổn thất cột áp là một hàm của vận tốc lọc và nồng độ SS đầu vào, vận tốc lọc càng lớn độ sâu lớp lọc càng lớn thì hầu hết chất rắn lơ lửng tích tụ trong toàn bộ lớp vật liệu lọc. Như vậy, một trong những mục tiêu quan trọng nhất đối với nghiên cứu tiếp theo đó chính là tối ưu hóa các thông số kỹ thuật cho bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực.Hiệu quả của xử lý bậc 3 (xử lý triệt để)

Như mô tả ở trên chất lượng nước thải đã xử lý sau bể lắng 2 từ nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt tại nơi thí nghiệm với công trình xử lý bậc 2 là bể Aeroten không đáp ứng được giá trị quy định ở cột A của QCVN 40: 2011/BTNMT với một số chỉ tiêu như SS, COD, BOD5, Amoni, tổng Nitơ. Trong nghiên cứu, nước được xử lý ở quá trình xử lý bậc 3 với bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực. Kết quả thí nghiệm cho thấy hiệu quả của quá trình xử lý đối với SS, COD, BOD5, tương ứng là 58,10%, 65,12% , 66,89%, (hình 5). Còn Amoni là 73,58%, tổng Nitơ là 45,47% so sánh với hiệu suất xử lý Nitơ với bể lọc cát truyền thống là 8% – 50%, bể lọc cát tuần hoàn (bể Dynassan) 15%-84% [2] thì thất rằng bể lọc thí nghiệm có hiệu suất xử lý Nitơ tốt hơn bể lọc cát truyền thống và ngang bằng với về lọc Dynassan. Nước thải sau quá trình xử lý triệt để tất cả nồng độ SS, COD, BOD5, Amoni, tổng Nitơ đáp ứng giá trị cột A theo QCVN 40 :2011/BTNMT trong thời gian 50h lọc đầu tiên, còn 35h giờ sau của chu kỳ lọc có những thời điểm vượt giá trị cột A theo QCVN 40 :2011/BTNMT. Nước được xử lý ở 50h lọc đều tiên có thể được tái sử dụng cho một số mục đích như làm sạch đường phố, máy móc hay sử dụng cho nông nghiệp.

Hiệu quả loại bỏ nồng độ các chất hữu cơ đạt yêu cầu cao là do những thành phần vi sinh vật dưới dạng SS sau xử lý sinh học bậc 2 được giữ lại ở trong bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa. Hệ bùn hoạt tính này có tuổi bùn cao và tích tụ vào bể lọc theo thời gian lọc. Lúc này bể lọc vật liệu lọc nổi làm việc như một bể phản ứng sinh học. Có thể thấy khối lượng cặn lơ lửng (sinh khối, bùn hoạt tính) tích lũy theo thời gian trong bể lọc tăng dần theo tuyến tính và đạt tới hơn 0,623kg ở cuối chu kỳ lọc (85h). Hàm lượng bùn cặn trung bình theo tính toán đạt tới 7,35 kg bùn/1m3 thể tích vật liệu lọc. Xử lý toán học cho thấy tốc độ oxi hóa riêng của bùn hoạt tính tăng dần theo thời gian và quan hệ tốc độ oxi hóa riêng có xu

Hình 4. Biểu đồ tổn thất cột áp của bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa theo chiều dày lớp vật liệu lọc và thời gian lọc (với tốc độ lọc v = 5 m/h)

Hình 5. Hiệu quả của quá trình xử lý triệt để nước thải sinh hoạt với bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực (với các chỉ tiêu SS, COD, BOD5, Amoni, tổng Nitơ)

Page 32: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

62 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 63 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

hướng tuyến tính theo thời gian. Đầu chu kỳ tốc độ oxi hóa riêng là = 1,6 gBOD5/1g bùn. 1 giờ và cuối chu kỳ lọc = 2,6 gBOD5/1g bùn. 1 giờ. Việc tốc độ oxi hóa riêng gia tăng được giải thích bằng hệ vi sinh vật (bùn cặn SS) đi vào lớp vật liệu lọc đã thích ứng theo thời gian và phát triển thành hệ vi sinh vật mới phù hợp với điều kiện mới (nghèo nguồn các bon, chất dinh dưỡng và tỷ lệ COD/BOD thấp, hệ sinh làm việc ở chế độ oxi hóa nội bào).

Kết quả xử lý toán học trên cơ sở bể lọc làm việc như một bể phản ứng sinh học cho phép nhận giá trị tải trọng thể tích q= 4,85kg BOD5/1m3 thể tích VLL. ngày đêm. Giá trị này lớn hơn tải trọng thể tích của bể aeroten 0,8-1,9 kg BOD5/1m3 thể tích bể.ngày [1] và bể lọc sinh học tải trọng cao q=0,6-3,2 kg BOD/1m3 thể tích VLL. ngày đêm của bể lọc sinh học tôc độ cao [2].

Trong sơ đồ thí nghiệm thì đây là sơ đồ nirat hóa riêng vì các chất hữu cơ đã được loại bỏ trong Aeroten ở trạm xử lý nước thải khu công nghiệp. Như bên trên đánh giá hiệu quả xử lý chất hữu cơ của trạm xử lý khu công nghiệp rất tốt, nước sau xử lý có đầy đủ mọi điều kiện cho quá trình nitrat hóa riêng hoàn toàn. Để xác định cường độ của quá trình Nitrat hóa riêng dùng phương pháp thực nghiệm và đo bằng tốc độ oxi hóa riêng (lượng amoni NH4+ tính bằng gam được oxi hóa bởi 1 gam bùn hoạt tính trong một đơn vị thời gian trong 1 giờ hoặc ngày). Ngoài ra hiệu quả của quá trình nitrat hóa còn phụ thuộc vào nhiệt độ, tỷ lệ lượng chất hữu cơ tính bằng BOD/Tổng Nitơ. Theo các nghiên cứu khi điều kiện tối

ưu thì tốc độ quá trình Nitrat hóa thay đổi trong khoảng 0,05 – 0,6 gNH4+/1gam bùn cặn trong một ngày (tức là 1,2 – 14,4 mgNH4+ /1 gam bùn cặn trong một giờ). Theo tính toán tốc độ Nitrat hóa của thí nghiệm là 2,8-3,41 mgNH4+ /1 gam bùn cặn. giờ. Điều này chứng tỏ quá trình Nitrat hóa xảy ra tốt khi xử lý qua bể lọc vật liệu lọc tự rửa.

4. Kết luậnThí nghiệm cho thấy hiệu quả của xử lý nước thải với

bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực đáp ứng được các quy chuẩn quốc gia. Hiệu quả của việc loại bỏ Amoni là cao. Nước thải được xử lý có thể được tái sử dụng cho một số mục đích hữu ích.

Đặc điểm hoạt động của bể lọc nổi tự rửa thủy lực với chế độ vận tốc lọc 5m/h là: tổn thất cột áp trung bình 1,43 cm/giờ; thời gian lọc là 85 giờ; Tốc độ rửa lọc là 10 -12 l/s/m2 và thời gian rửa lọc 4-5 phút.

Thực nghiệm cho thấy rằng thời gian lọc hiệu quả của bể lọc nổi tự rửa thủy lực với vận tốc lọc 5 m/h là 59 giờ dài hơn bộ lọc cát truyền thống (12 giờ). Điều này sẽ làm giảm lượng nước rửa lọc cũng như chi phí vận hành.

Trong nghiên cứu này là bể lọc chỉ hoạt động ở chế độ lọc 5 m/h nhưng cũng đã tạo thêm cơ sở khoa học để tiến hành nghiên cứu các chế độ lọc (7,5; 10;12,5; 15 m/h) và cho việc tối ưu hóa các thông số công nghệ của bể lọc vật liệu lọc nổi tự rửa thủy lực./.

T¿i lièu tham khÀo1. Hoàng Văn Huệ, Thoát nước – Tập 2 Xử lý nước thải, Nhà Xuất bản

khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2002, Trang 129.2. Nguyễn Văn Phước, Xử lý nước thải sinh hoạt và công nghiệp bằng

phương pháp sinh học, Nhà xuất bản Xây dựng, 2015, Trang 158.3. Phạm Ngọc Thái, Báo cáo NCKH: Ứng dụng bể lọc vật liệu lọc nổi

trong các công trình cấp nước nông thôn. Đề tài 26C-02-02 Chương trình nhà nước 26C, 1990.

4. QCVN 40 :2011/BTNMT, Qui chuẩn quốc gia về nước thải công nghiệp, Bộ tài nguyên và Môi trường, 2011.

5. QCVN 14: 2008/BTBMT, Qui chuẩn quốc gia về nước thải sinh hoạt, Bộ tài nguyên và Môi trường, 2008.

6. Trần Thanh Sơn, Bể lọc vật liệu lọc nổi trong dây chuyền công nghệ xử lý nước thiên nhiên, Hà Nội, NXB Xây dựng, 2016.

7. C Visvannathan, D.R.I.B.Werellagama, and R. Ben Aim, Suface Water Pretreatment Using floating media filter, Journal of Environmental Engineering, 1996, pp 25-33.

8. F Vaezi, AH Mahvi, G Safari. Preparing secondary effluent for urban non potable application by floating media filtration. Iranian J Publ Health, Vo.32, No 4, 2003, pp19-26.

9. Melcaft& Eddy, Wastewater Engineering, Treatment Disposal Reuse, Fourth edition, Mc.Graw Hill, 2002.

10. H. Φdegaard, Y. Ulgenes, D. Brevik, and Z. Liao, Enhanced Primary Treatment in Floating Filters, Chemical water and wastewater treatment V, Proceeding of the 8 Gothenburg Symposium 1998, Prague, Czech Republic, Springer - Verlag Berlin Heidelberg, 1998.

11. Яковлев С.В, Карелин Я.В, Ласков Ю. М, Воронов Ю.В. Водоотведящие системы промышленных предприятий. Москва-строиздат, 1990.

Tóm tắtBài báo trình bày các nguyên tắc cơ bản

trong quy trình thi công kết cấu thép nhà cao tầng để đảm bảo vấn đề an toàn trong lắp dựng kết cấu. Qua nghiên cứu này cho thấy, để đảm bảo an toàn trong lắp dựng

kết cấu thì công tác khảo sát, thiết kế, lập biện pháp thi công và giám sát biện pháp thi công cần phải được thực hiện nghiêm

túc đúng tiêu chuẩn hiện hành.

AbstractThis paper presented the basic principles in

the construction process of steel structure of high rise building to ensure safety. This study showed that the survey, design, construction

methods and construction supervwasion should be strictly implemented in accordance

with current standards and to ensure safety in structural erection.

PGS. TS. Vũ Quốc Anh1 TS. Nguyễn Hải Quang2

1 Khoa Xây dựng, Đại học Kiến trúc Hà nội Emal: [email protected] Khoa Công nghệ Cơ khí, Đại học Điện lực Email: [email protected] Mobile: 090 471 5062

Ngày nhận bài: 17/4/2017 Ngày sửa bài: 19/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Nghiên cứu biện pháp an toàn phục vụ công tác lắp dựng kết cấu khung thépResearch on the safety method for erecting steel frame

Vũ Quốc Anh, Nguyễn Hải Quang

1. Đặt vấn đềHiện nay, các công trình cao tầng sử dụng kết cấu thép được phổ biến trên thế

giới bởi những ưu điểm vượt trội hơn hẳn những vật liệu truyền thống, tự nhiên như: gỗ, đá, đất... Do kết cấu thép tận dụng được các ưu điểm riêng về các đặc trưng cơ lý của vật liệu: có cường độ chịu kéo cao; khả năng cho phép biến dạng dẻo lớn; độ tin cậy cao; độ an toàn chịu lực cao. Kết cấu khung thép dùng hợp lý khi xây dựng các nhà cao tầng có chiều cao khá lớn, công trình vượt nhịp lớn hoặc các công trình đòi hỏi thời gian xây dựng nhanh và có thể chế tạo hàng loạt, công trình có hình dạng kiến trúc phức tạp và công trình đặc biệt chống chịu gió, động đất vv.

Ở Việt Nam, kết cấu thép chủ yếu được sử dụng rộng rãi trong những nhà công nghiệp, các khu chế xuất và những nhà thấp tầng có nhịp lớn. Kết cấu thép nhà cao tầng ở Việt Nam vẫn là một loại kết cấu mới và xuất hiện qua một vài công trình tiêu biểu như: Diamond Plaza; Vietinbank Tower… Nhưng với sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng, trong tương lai không xa, các công trình sử dụng kết cấu thép sẽ được sử dụng nhiều hơn. Vấn đề an toàn trong thi công lắp dựng khung thép là vấn đề cần quan tâm. Trong khi đó ở Việt Nam chưa có các tiêu chuẩn, quy chuẩn về vấn đề an toàn trong thi công lắp dựng kết cấu khung thép.

Khi phân tích sự cố công trình thì có nhiều cách phân loại. Cần phân loại các nguyên nhân theo các giai đoạn hoạt động xây dựng, các yếu tố khách quan và chủ quan như sau:

Nguyên nhân chủ quan: người làm công tác khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát không có chứng chỉ hoặc vượt cấp chứng chỉ; chất lượng khảo sát, thiết kế, giám sát không đạt yêu cầu; tính toán thiết kế sai, không phù hợp; bố trí lựa chọn, địa điểm, lựa chọn phương án quy trình công nghệ không hợp lý; nhà thầu không có hệ thống quản lý chất lượng; trình độ năng lực đạo đức nghề nghiệp của tư vấn giám sát và nhà thầu kém…

Nguyên nhân khách quan: do thiên tai, lũ lụt bất thường.Riêng đối với thi công các khung kết cấu thép nhà cao tầng thì có một số nguy

cơ khác như sau: sự mất ổn định của các cột thép khi lắp dựng không được neo giữ chắc chắn; công nhân làm việc trên cao nên nguy cơ xảy ra tai nạn cao; trong kết cấu thép cần phải hàn nhiều nên có nguy cơ tai nạn về hàn và tai nạn điện.

Vấn đề an toàn thường đối kháng với tiến độ thi công, đôi khi có người cho rằng đảm bảo an toàn triệt để thì sẽ làm giảm tiến độ thi công thế nhưng khi để xảy ra mất an toàn trong thi công thì để lại hậu quả khôn lường. Vì vậy, vấn đề an toàn phải được tất cả các bên liên quan đến việc thi công quan tâm chỉ đạo và thực hiện cho đảm bảo. An toàn trong thi công xây dựng công trình nói chung được đề cập tới ba vấn đề: an toàn cho công trình mình đang thi công; an toàn cho người, máy móc thiết bị phục vụ thi công; an toàn cho các công trình lân cận. An toàn trong lắp dựng kết cấu khung thép không ngoài ba vấn đề nêu trên nhưng cần quan tâm sâu sắc hơn các mối nguy hiểm sau:

- Tai nạn do sập đổ kết cấu thường là do có sai sót trong khảo sát, thiết kế hoặc Nhà thầu lắp dựng kết cấu không thực hiện lắp dựng đúng theo quy trình lắp dựng hoặc biện pháp lắp dựng không đúng. Đây là mối nguy hiểm rất lớn vì nếu xảy ra thì sẽ là thảm họa chứ không còn là tai nạn nhỏ. Khi xảy ra thảm họa công trình đang thi công sẽ bị phá hủy, người và máy móc đang thi công sẽ bị chết và hư hỏng hoàn toàn.

- Các tai nạn rơi, ngã do làm việc trên cao thường do việc cung cấp trang thiết bảo hộ hoặc việc huấn luyện đào tạo của Nhà thầu còn yếu hoặc do ý thức, sức khỏe của công nhân chưa tốt.

Vấn đề an toàn trong lao động nói chung và an toàn trong thi công các kết cấu thép đã được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ngành liên quan, các nhà khoa học quan

Page 33: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

64 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 65 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

tâm và đã trình bày trong nhiều tài liệu [1,..10]. Trong bài báo này muốn trình bày biện pháp an toàn khi lắp dựng kết cấu khung thép.

2. Quy trình thi công khung kết cấu thép [11]Trước khi lắp dựng kết cấu cần phải lập biện pháp lắp

dựng an toàn dựa trên thiết kế của công trình. Thiết kế biện pháp lắp dựng phải xem xét đến các vấn đề sau: Vị trí và các loại liên kết trên công trường; Trọng lượng và kích thước lớn nhất của một cấu kiện thép; Khả năng phối hợp trong quá trình lắp dựng; Sự ổn định của từng phần kết cấu lắp dựng bao gồm các yêu cầu về sử dụng hệ giằng và chống đỡ tạm thời; Các điều kiện tháo dỡ hệ giằng và chống đỡ tạm thời, hay bất kì yêu cầu nào về tạo ứng suất trước cho kết cấu; Thời điểm và biện pháp điều chỉnh các liên kết móng, bản đế và phun vữa tăng cứng bề mặt; Sử dụng thép tấm định hình để đảm bảo độ ổn định; Sử dụng thép tấm định hình để tạo ngàm theo phương ngang; Vận chuyển cấu kiện thép bao gồm các thiết bị đi kèm phục vụ các công tác nâng, xoay và kéo; Sự biến dạng của các bộ phận kết cấu; Độ lún dự kiến của hệ móng; Các vị trí và tải trọng riêng biệt của cần cẩu, cấu kiện lưu trữ…; Chi tiết về các công tác tạm và gắn với các công tác chính cùng với hướng dẫn như cách tháo dỡ.

Ngoài ra biện pháp lắp dựng của nhà thầu thi công ngoài việc xem xét các vấn đề sau: Các điểm tựa cần thiết để đảm bảo độ ổn định trước khi hàn và để kiểm soát chuyển vị của các điểm nối; Sự cần thiết phải đánh dấu khối lượng hay trọng tâm trên các cấu kiện lớn hay có hình dạng đặc biệt; Mối quan hệ giữa tải trọng nâng và bán kính hoạt động của cần trục; Xác định độ rung lắc hay lật đổ, đặc biệt gây ra do tải trọng gió trên công trường trong quá trình lắp dựng, biện pháp để duy trì hợp lý hệ chống rung lắc và chống lật; Chuẩn bị các vị trí làm việc an toàn và phương pháp tiếp cận các vị trí này; Trình tự lắp đặt tấm thép định hình cho sàn liên hợp cần được lên kế hoạch để đảm bảo các tấm này được chống đỡ bởi hệ dầm trước khi lắp đặt; Trình tự lắp đặt và biện pháp đảm bảo, hàn kín ván khuôn yêu cầu ván khuôn phải chắc chắn trước khi sử dụng để tiếp cận cho các công việc lắp dựng và chống đỡ sàn bê tông cốt thép.

Biện pháp lắp dựng phải mô tả qui trình lắp dựng an toàn cho kết cấu thép và xem xét các yêu cầu kĩ thuật liên quan đến công tác an toàn. Các qui trình cần được liên kết với các hướng dẫn cho các công việc cụ thể.

Trong quá trình lắp dựng sự ổn định của kết cấu nhà thép cao tầng bị ảnh hưởng đặc biệt bởi tải trọng gió. Hệ kết cấu sẽ tiếp nhận tải trọng ngang, thông qua hệ dầm sàn truyền tải trọng về khung và lõi rồi truyền xuống móng. Trong trường hợp sử dụng lõi bê tông cốt thép, yêu cầu lõi phải được hoàn thành số tầng cần thiết trước khi bắt đầu lắp dựng kết cấu thép. Vấn đề quan trọng sau đó là đảm bảo rằng các liên kết giữa kết cấu thép và bê tông được hoàn thành sớm đủ để chịu áp lực gió tác dụng lên phần kết cấu đã lắp dựng.

Trong trường hợp sử dụng hệ giằng đứng, hệ kết cấu có thể lắp dựng như lắp dựng kết cấu thép nói chung. Vấn đề mấu chốt ở đây là đảm bảo hệ giằng được lắp đặt càng sớm để chịu tải gió. Điều đó có nghĩa các cấu kiện thép trong khung giằng cứng nên được lắp dựng trước để tạo thành hệ cứng chịu tải trọng ngang cho quá trình lắp dựng tiếp theo. Khung cứng cần có khả năng chịu tải trọng ngang theo hai hướng cân đối, việc này sẽ khó đạt được nếu các thanh giằng đứng phân bố xung quanh chu vi nhà thay vì tập trung quanh vùng lõi. Với những trường hợp như vậy, cần phải bổ sung các thanh giằng tạm thời theo cả phương ngang lẫn phương đứng cho tới khi hoàn thành lắp dựng.

Đối với các thanh giằng ngang thông thường là các sàn được lắp ghép hoặc bán lắp ghép. Tuy nhiên, trước khi đặt những panel đúc sẵn, áp lực gió tác dụng trực tiếp lên những cột, dầm thép và những cấu kiện liên kết với khung. Do vậy, các vấn đề thường xảy ra với những cấu kiện không được liên kết theo hai hướng, ví dụ như một cột được đỡ bởi một dầm đơn.

Nếu sử dụng giằng tạm thời hay chống tạm thời, chúng phải được cố định chắc chắn cho đến khi hoàn thành các liên kết vĩnh viễn (ví dụ bê tông đạt đủ cường độ) để đảm bảo sự ổn định và biến dạng của kết cấu dưới tác dụng của tải trọng trong quá trình thi công.

Khi thi công lắp dựng theo từng giai đoạn, nhà thầu thi công cần đảm bảo sự ổn định của hệ cột dưới tác dụng của gió và khi cột bị nghiêng. Cột trong quá trình lắp dựng cần phải giằng theo hai phương, điều này có nghĩa rằng sự ổn định của cột đơn bị ảnh hưởng nhiều bởi độ thẳng đứng của cột. Vì vậy, yêu cầu phần chân cột cần được thiết kế phù hợp với kích thước bản đế để cho phép cột có thể đứng tự do cho tới khi được liên kết. Các mối nối cột được thiết kế thích hợp cho phép phần thân phía trên được dựng lên an toàn cho đến khi cột được liên kết. Vị trí mối nối cột nên được xác định theo 3 tiêu chí sau: Phụ thuộc vào sự ổn định trong quá trình lắp dựng, thích hợp khi sử dụng phần thân dài với ít mối nối. Điều đó có nghĩa cột có mối nối sau mỗi 3 cao độ sàn; Biện pháp tiếp cận dầm an toàn có thể hạn chế tới chiều dài của cột xuống 2 cao độ sàn. Điều này phụ thuộc vào cách tiếp cận từ mặt đất hoặc từ phần kết cấu lắp dựng trước đó, bởi thiết bị nâng di động hoặc thang, với thang chiều cao tiếp cận giới hạn là 9m và thiết bị nâng di động được gắn ở trên cao thường quá nhỏ để có thể vươn cao hơn 2 cao độ sàn; Để tạo điều kiện tiếp cận để gia cố mối nối trong quá trình siết bu lông, vị trí chính xác của các mối nối cột nên là 1100mm so với mặt sàn đã hoàn thiện.

Nhà thầu thi công phải đảm bảo sự ổn định được duy trì trong suốt quá trình lắp dựng bằng cách thực hiện theo qui trình sau: Việc lắp dựng phải luôn luôn bắt đầu từ một nhịp giằng (hoặc lõi kết cấu thích hợp); Một nhịp của kết cấu thép nên được lắp dựng bao gồm tất cả các cấu kiện sàn (đến cao độ mối nối đầu tiên – thường là hai hoặc ba cao độ sàn) và hệ giằng, cần đảm bảo hệ kết cấu được giằng theo cả hai phương (sử dụng giằng vĩnh viễn và giằng tạm thời nếu cần thiết); Trước khi tiếp tục lắp dựng hệ khung, nhịp đầu tiên của hệ kết cấu phải hoàn toàn được căn chỉnh độ thẳng, cao độ và siết bu lông để tạo thành một khung cứng ổn định; Các cấu kiện thép còn lại của hệ kết cấu sau đó được lắp dựng tiếp với mối nối đầu tiên. Đồng thời cũng được căn chỉnh cao độ, độ nghiêng và siết bu lông; Sau khi hoàn thành các

Hình 1. Nêm chân cột

bước trên, chân cột phải được bơm vữa trước khi tiến hành lắp dựng các bước tiếp theo; Cần đảm bảo tất cả hệ giằng tạm thời và vĩnh viễn được lắp đặt; Qui trình nối các mối nối ngang của hệ kết cấu cũng được tiến hành tương tự, hoàn thành từng vị trí cho đến mối nối cột tiếp theo.

Đối với các tòa nhà cao tầng có diện tích mặt bằng lớn và nhiều lõi, có thể tiến hành thi công trên các khu vực được chia theo chiều dọc, đặc biệt là nếu có khe co giãn ở giữa. Quá trình lắp dựng sau đó diễn ra như một dây chuyền, theo đó các công tác ván khuôn và bê tông theo vòng thứ tự.

Nâng và lắp dựng những cột đơn là giai đoạn đầu tiên để lắp dựng khung kết cấu thép. Các cột đơn phải đảm bảo trong khi lắp dựng không bị lật đổ trước khi chúng được giằng, liên kết với nhau tạo thành khung cứng, việc này đặc biệt quan trọng và được khuyến cáo đối với nhà thầu thi công kết cấu thép phải mô tả chi tiết trong biện pháp lắp dựng. Trước khi bắt đầu công việc, đảm bảo rằng tất cả các thiết bị đã chuẩn bị đầy đủ trên công trường. Việc phân chia theo từng khu vực, cột, dầm hay vì kèo được đặt gần nơi chúng được lắp dựng; Cần đảm bảo cho bu lông sạch và đai ốc dễ dàng lắp đặt. Các chêm gỗ được đặt trước khi lắp dựng cột, theo dõi số lượng đặt tại mỗi vị trí chân cột để kiểm tra khi cột được lắp dựng vào vị trí. Cách bố trí chêm phổ biến nhất là bố trí một chêm ở tâm và bốn chêm đặt xung quanh chu vi. Các chêm gỗ được đặt ở cao độ yêu cầu hoặc cao hơn 3mm để hỗ trợ việc khảo sát cao độ dầm sau đó. Cột được nâng lên trên chân cột và các chêm gỗ, sau đó được dóng vào vị trí khớp với các trục đối xứng càng chính xác càng tốt bằng cách sử dụng các điểm đánh dấu vị trí trước đó trên mặt móng bê tông. Siết một phần bu lông neo chân cột khi cột được căn chỉnh vào đúng vị trí. Kiểm tra độ thẳng đứng của cột bằng một ống ni vô. Khi cột đạt độ thẳng cần thiết, tất cả các bu lông neo được siết vào vị trí. Sau đó các bu lông được kiểm tra lại một lần nữa. Cột được tháo khỏi móc cẩu khi bu lông đã siết toàn bộ. Đối với cột thép, các lỗ trên cột cần được tạo bất cứ khi nào có thể để giúp trong quá trình lắp dựng, dựa vào những lỗ này sử dụng móc tháo tự động thay vì sử dụng dây treo buộc thích hợp trong trường hợp không đục lỗ. Việc điều chỉnh nêm và độ căng của bu lông có thể được yêu cầu để lắp dựng các cấu kiện khác gắn với cột ban đầu, việc này cần phải được kiểm soát cẩn thận. Khi cột hoàn toàn liên kết với các kết cấu thép khác, các nêm sẽ được loại bỏ để cho phép hiệu chỉnh hệ kết cấu. Cột có thể điều chỉnh trên các đệm gỗ trung tâm cho phép hiệu chỉnh hệ kết cấu để đạt dung sai cho phép.

Đối với các cột lớn (cột thép nặng cùng bản đế lớn), cần phải sử dụng 4 nêm cao độ như trong tiêu chuẩn BS 5531 [11]. Phương pháp này được tiến hành theo qui trình sau: Bốn đệm gỗ mỏng được đặt chính xác cùng cao độ và được kiểm tra cẩn thận; Các cột được hạ vào vị trí và căn chỉnh theo các đường trục. Siết một phần các bu lông neo. Cột được kiểm tra độ thẳng đứng bằng ni vô

Độ thẳng của cột chỉ có thể điều chỉnh bằng cách thêm hoặc bớt các nêm gỗ nhưng việc này đòi hỏi phải nâng cột lên, và điều này có nghĩa là các bản đế chân cột đã không được hàn vuông góc với phần thân cột. Sau khi đạt yêu cầu về độ thẳng đứng, các bu lông được siết căng hoàn toàn. Cột được tháo rời khỏi thiết bị treo buộc.

Trong quá trình lắp dựng kết cấu nhà cao tầng, việc lắp dựng phần cột ở trên thẳng đứng vào phần cột phía dưới, cần đảm bảo cột đơn phía trên không bị lật, đổ trước khi nó được liên kết để tạo thành hệ khung cứng đủ độ ổn định. Các nguyên tắc khi lắp dựng phụ thuộc vào thiết kế mối nối của

nhà thầu thi công và được chia làm 3 loại sau:Mối nối có tấm đỡ cần yêu cầu kiểm tra độ khít giữa các

đoạn cột đã được kiểm tra bằng cách lắp ráp thử nghiệm thì sẽ tạo điều kiện cho quá trình lắp dựng được an toàn và nhanh chóng. Phần đoạn cột trên phải ghép dễ dàng với đoạn cột dưới để mối nối đạt độ tiếp xúc hoàn toàn, tạo điểm tựa chắc chắn để đỡ và căn chỉnh đoạn cột trên.

Mối nối không có tấm đỡ liên kết kiểu này dựa hoàn toàn vào các bu lông liên kết và độ ổn định của đoạn cột trên phụ thuộc vào số lượng bu lông để khóa chặt và căn chỉnh. Các bản thép nối được cố định chặt với đoạn cột dưới nhưng các bu lông liên kết không được siết chặt hoàn toàn cho đến khi đoạn cột trên được lắp.

Mối nối sử dụng bản mã đầu cột, loại mối nối này dễ dàng liên kết, nhưng rất hạn chế trong việc chống lật đổ cho đoạn cột dưới tác dụng của gió hay độ nghiêng của cột. Do vậy, cần cáp, giằng tạm thời trong khi lắp dựng.

Trong thi công kết cấu thép nhà cao tầng thì kỹ thuật an toàn đối với vận hành trục tháp cần được quan tâm.

3. Kỹ thuật an toàn đối với người vận hành cần trục thápa. Công tác chuẩn bị

Trước khi vận hành cần trục tháp phải chuẩn bị đầy đủ các yếu tố sau:

Yếu tố con người. Chỉ những người thỏa mãn đầy đủ những điều kiện sau mới được vận hành cần trục tháp: Trong độ tuổi lao động do Nhà nước qui định; Có giấy chứng nhận sức khỏe đạt yêu cầu của Bộ y tế; Đã hoàn thành khóa học về an toàn lao động thiết bị nâng, được đào tạo chuyên môn, có chứng chỉ kèm theo; Được giao quyết định điều khiển cần trục bằng văn bản có chữ ký của giám đốc.

Giấy tờ pháp lý của cần trục: Cần trục tháp đã qua kiểm định và được cơ quan Nhà nước cấp giấy phép cho phép hoạt động theo đúng luật định.

Trang thiết bị cho công nhân: Công nhân làm việc trên cần trục tháp phải sử dụng đúng và đủ các phương tiện bảo vệ được cấp theo chế độ gồm: áo quần vải dày, mũ cứng, găng tay vải bạt, áo mưa, găng vải ngắn cổ.b. Công tác kiểm tra trước khi vận hành:

Trước khi vận hành người lái cần trục tháp phải kiểm tra các điều kiện sau:

Trang thiết bị cho cần trục: Cabin phải được chiếu sáng đầy đủ, cho phép người lái cần trục nhìn rõ các chỉ dẫn vận hành và điều khiển; Các cửa sổ phải sạch sẽ; Các tấm đệm cách nhiệt, chống trơn, được cố định tại chỗ để chân trên sàn; Không được để các vật khác che khuất tầm nhìn từ trong cabin; Ghế ngồi của người lái phải vững chắc, dễ dàng điều chỉnh được để đạt tới vị trí ngồi thoải mái; Kiểm tra phanh trước khi làm việc, phanh dùng để hãm mỗi chuyển động của cần trục, phanh dừng khẩn cấp phải đảm bảo giá trị gia tốc phanh tương thích với các thông số thiết kế cho chế độ cơ cấu đầy tải. Phanh của các cơ cấu di chuyển và cơ cấu quay phải có khả năng hãm chuyển động của cần trục trong điều kiện tải trọng bất lợi nhất;

Kiểm tra cáp – puli theo các tiêu chuẩn hiện hành. Nếu chúng mòn hay nứt quá mức theo quy định, cần phải báo cáo đến người quản lý và có biện pháp thay thế kịp thời.

Tình trạng kỹ thuật hoàn hảo của các chi tiết và bộ phận quan trọng của cần trục tháp, thử lần lượt từng bộ phận của nó ở trạng thái không tải xem hoạt động của chúng có bình

Page 34: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

66 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 67 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

thường không. Chú ý xem xét tình trạng chất lượng của móc, cáp, dây tiếp đất, trụ chắn khống chế hành trình, bộ phận chặn hoặc thiết bị chống lật cần, thiết bị chống tự di chuyển, thắng hãm các loại vv. Nếu có bộ phận, chi tiết nào hư hỏng phải báo cáo cho người phụ trách để tìm biện pháp khắc phục mới được vận hành.

Khi cho cần trục tháp làm việc trong vùng bảo vệ của đường dây tải điện phải có phiếu thao tác. Phiếu phải chỉ rõ các biện pháp an toàn, trình tự thực hiện các thao tác, vị trí đặt cần trục tháp. Phiếu này do thủ trưởng đơn vị sử dụng cần trục tháp ký và giao trực tiếp cho người lái.

Trước khi bắt đầu làm việc phải báo cho những người không có trách nhiệm ra khỏi khu vực nâng, chuyển và hạ tải. c. Trong khi thực hiện cẩu lắp

Khi di chuyển khi bắt buộc phải bố trí cần trục đứng làm việc dưới đường dây tải điện hạ thế phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu từ thiết bị nâng đến dây không nhỏ hơn 1 mét. Cấm thiết bị nâng làm việc dưới đường dây điện cao thế.

Trong khi làm việc ngoài trời cửa buồng phải đóng lại và có khóa (chốt). Cửa kính quan sát buồng phải được lau sạch thường xuyên.

Phải che chắn các bộ phận: Truyền động bánh răng, xích, trục vít; Khớp nối có bu lông và chốt lồi ra ngoài; Các khớp nối nằm gần chỗ người qua lại; Trống cuộn cáp đặt gần người lá hay gần lối đi lại nhưng không được làm cản trở người lái theo dõi cáp cuộn trên trống; Các trục truyền động có thể gây nguy hiểm.

Phải bao che các phần mang điện hở mà con người có thể chạm phải khi làm việc trong buồng điều khiển.

Công tắc hạn chế hành trình của cơ cấu di chuyển phải đặt sao cho việc ngắt động cơ xảy ra ở cách trụ chắn một khoảng không nhỏ hơn toàn bộ quãng đường phanh cơ cấu có ghi trong lý lịch máy.

Làm việc ban đêm phải có đèn pha chiếu sáng đủ cho khu vực làm việc, công tắc đèn phải bố trí ở chân cần trục. Ngoài ra phải có đèn chiếu sáng đầy đủ cho buồng điều khiển với mạng điện riêng để khi ngắt điện thiết bị nâng không làm tắt đèn.

Người điều khiển thiết bị di chuyển, hạ tải phải nắm vững: Cách xác định chất lượng, sự phù hợp của cáp và tiêu chuẩn loại bỏ cáp; Trọng tải được phép nâng và cách ước tính trọng lượng của tải; Cách kiểm tra hoạt động của các cơ cấu và thiết bị an toàn; Cách kiểm tra hoạt động của phanh và cách điều chỉnh phanh; Khái niệm về độ ổn định và các yếu tố có ảnh hưởng đến nó (mối quan hệ giữa sự thay đổi tải trọng và tầm với, tốc độ gió nguy hiểm vv); Cách xác định vùng nguy hiểm của thiết bị nâng; Cách xác định sự cố xảy ra.

Người móc tải phải biết: Trọng tải mà cần trục được phép nâng, trọng tải của cần trục tương ứng với tầm với; Chọn cáp, xích buộc phù hợp với trọng lượng và kích thước của tải; Xác định chất lượng cáp, xích, móc tải; Cách buộc và treo tải lên móc; Qui định tín hiệu trao đổi với người điều khiển thiết bị nâng khi phải kiêm nhiệm vai trò tín hiệu viên; Ước tính trọng lượng của tải; Vùng nguy hiểm của thiết bị nâng.

Nghiêm cấm các hành động sau: Lên xuống thiết bị nâng khi nó đang di chuyển; Nâng tải trọng trong tình trạng chưa ổn định hoặc chỉ móc lên một bên của móc kép; Nâng hạ tải, di chuyển tải khi có người đang đứng trên tải (để cân bằng hay sửa chữa lại dây buộc); Nâng tải đang bị vùi dưới đất, bị các vật khác đè lên, tải đang liên kết với các vật khác bằng bu lông hoặc liên kết với bê tông; Kéo lê tải trên mặt đất, mặt

sàn, trên đường ray (khi cáp nâng tải xiên), vừa nâng vừa quay hoặc di chuyển tải nếu hồ sơ kỹ thuật của nhà chế tạo không cho phép làm điều đó, di chuyển ngang tải khi tải nằm cao hơn chướng ngại vật nhỏ hơn 500mm; Dùng móc để gỡ cáp, xích đang bị tải đè lên; Xoay và điều chỉnh các tải dài và cồng kềnh khi nâng chuyển và hạ tải mà không có các công cụ chuyên dùng thích hợp. (Chỉ được phép điều chỉnh tải khi nó cách sàn khoảng 200mm và cách người thực hiện không ít hơn l m); Đưa tải lên xe khi người lái chưa ra khỏi ca-bin, qua lỗ cửa hoặc ban công khi không có sàn nhận tải.

Khi xem xét kiểm tra, sửa chữa và điều chỉnh các cơ cấu, thiết bị điện hoặc xem xét sửa chữa kết cấu kim loại phải ngắt cầu dao dẫn điện hoặc tắt máy (đối với các kiểu dẫn động không phải bằng điện).

Khi tạm ngừng việc không cho phép treo tải lơ lửng. Kết thúc công việc phải tắt máy và rút móc tải lên cao khỏi không gian có người và các thiết bị khác hoạt động. Thu dọn nơi làm việc gọn gàng, làm vệ sinh, ghi sổ nhật ký ca rồi ký tên trước khi giao cho người của ca sau.

4. Các nguyên tắc cơ bản về quản lý an toàn [4]Nguyên tắc cơ bản 1: An toàn là ưu tiên hàng đầu. Tất cả các bên liên quan trong dự án đều phải dành ưu

tiên hàng đầu cho công tác quản lý an toàn và nỗ lực hết sức để loại bỏ việc xảy ra tai nạn.

Nguyên tắc cơ bản 2: Loại trừ nguyên nhân. Nhà thầu phải xác định tất cả các nguy hiểm có thể xảy ra

trong từng quá trình thi công xây dựng. Kiểm tra, phân tích, đồng thời loại trừ các nguyên nhân gây ra các nguy hiểm đó và có hành động phù hợp để đảm bảo an toàn trong công tác thi công.

Nguyên tắc cơ bản 3: Phòng ngừa triệt để. Nhà thầu phải xem xét trước nguy cơ tai nạn tiềm ẩn tại

mỗi giai đoạn thi công xây dựng, rà soát các biện pháp phù hợp để ứng phó với các nguy cơ đó và chỉ triển khai công việc khi đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa thích hợp.

Nguyên tắc cơ bản 4: Tuân thủ triệt để pháp luật và các quy định liên quan.

Tất cả các bên liên quan trong dự án đều phải tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan của Việt Nam về công tác quản lý an toàn trong thi công xây dựng công trình.

Nguyên tắc cơ bản 5: Phòng ngừa triệt để tai nạn đối với cộng đồng.

Tất cả các bên liên quan trong dự án phải thực hiện các biện pháp quản lý an toàn trong đó có lưu ý thích đáng đến quyền lợi của bên thứ ba nhằm ngăn chặn tai nạn xảy ra đối với cộng đồng.

Nguyên tắc cơ bản 6: Thực hiện triệt để chu trình biện pháp an toàn cho công tác quản lý an toàn.

Nguyên tắc cơ bản 7: Chia sẻ toàn bộ thông tinTất cả các bên liên quan trong dự án phải chia sẻ tất cả

các thông tin liên quan đến an toàn mà họ có được theo các cách và vào các thời điểm phù hợp với hoàn cảnh.

Nguyên tắc cơ bản 8: Sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan trong dự án

Tất cả các bên liên quan trong dự án phải chủ động tham gia vào các hoạt động liên quan đến công tác quản lý an toàn tại công trường xây dựng mặc dù vai trò của các bên có khác nhau.

5. Thực hiện biện pháp an toàn trong thi công xây dựng [4]

Nguyên tắc cơ bản của chu trình thực hiện công tác quản lý an toàn là: “Lập kế hoạch; Thực hiện; Kiểm tra; Hành động”. Nhà thầu phải chịu trách nhiệm chính về việc xây dựng và thực hiện chu trình trong công tác quản lý an toàn.

“Lập Kế hoạch” là Nhà thầu phải tập hợp các nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn để xây dựng kế hoạch quản lý an toàn. Thuyết minh biện pháp an toàn về công tác quản lý an toàn phải được phổ biến rộng rãi tới tất cả các bên liên quan trong dự án và đảm bảo rằng các thuyết minh biện pháp an toàn đó được chủ đầu tư thông qua và các bên liên quan hiểu rõ trước khi thực hiện các công việc trên công trường.

Nhà thầu phải thực hiện công tác quản lý an toàn tại công trường xây dựng theo kế hoạch quản lý an toàn và thuyết minh biện pháp an toàn đã được lập tại giai đoạn “Lập kế hoạch”.

Ban QLDA và Tư vấn có trách nhiệm xem xét việc thực hiện của nhà thầu trong giai đoạn “Thực hiện” nhằm đảm bảo sự tuân thủ theo kế hoạch quản lý an toàn và thuyết minh biện pháp an toàn, đồng thời hướng dẫn kịp thời nếu việc thực hiện của nhà thầu không đầy đủ hoặc không chính xác.

Nhà thầu phải kiểm tra việc thực hiện của mình trong giai đoạn “Thực hiện” và tự cải thiện khi thấy chưa đầy đủ. Giám sát viên an toàn của nhà thầu phải thường xuyên theo dõi và kiểm tra việc thực hiện này.

Nhà thầu sẽ tổng hợp và công bố kết quả của giai đoạn “Kiểm tra” tới tất cả các bên liên quan trong dự án.

Dựa trên kết quả của giai đoạn “Kiểm tra”, nhà thầu phải rà soát chi tiết các phương pháp cụ thể về triển khai thực

hiện các biện pháp an toàn cụ thể hoặc các hệ thống quản lý liên quan và có hành động khắc phục kịp thời. Ngoài ra, Nhà thầu cũng cần phải rà soát lại kế hoạch quản lý an toàn và thuyết minh biện pháp an toàn của mình sau đó trình các bản sửa đổi (nếu có) lên Ban QLDA và Tư vấn.

Ban QLDA và Tư vấn phải rà soát các hồ sơ do nhà thầu nộp.

Trong trường hợp chỉnh sửa kế hoạch quản lý an toàn và thuyết minh biện pháp an toàn, Nhà thầu phải tổng hợp các sửa đổi và công bố cho các bên liên quan trong dự án biết. Đặc biệt, Nhà thầu phải giải thích rõ về các loại công việc mà kế hoạch quản lý an toàn và thuyết minh biện pháp an toàn cho chúng được chỉnh sửa và phải đảm bảo rằng, trước khi bắt đầu công việc liên quan thì người lao động tham gia vào công việc đó đều đã hiểu rõ về sự thay đổi này.

Nhà thầu phải lập một kế hoạch chi tiết để giám sát các hoạt động an toàn của người lao động và đánh giá việc thực hiện của họ. Nhà thầu phải khuyến khích các khẩu hiệu an toàn và các đề xuất cải thiện an toàn bất cứ thời điểm nào, và trao phần thưởng cho những câu khẩu hiệu lôi cuốn, những hoạt động và đề xuất xuất sắc.

Khi xảy ra tai nạn hoặc sự cố lao động, chủ đầu tư phải ngay lập tức báo cáo tai nạn/sự cố đó với các cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.

Nếu tai nạn hoặc sự cố lao động xảy ra, Chủ đầu tư/Ban QLDA, Tư vấn và Nhà thầu phải đình chỉ công tác thi công ở mức độ cần thiết trong thời gian cần thiết và điều tra nguyên nhân. Nhà thầu phải loại bỏ nguyên nhân gây tai nạn theo các nguyên tắc cơ bản về quản lý an toàn, làm rõ các biện pháp để ngăn chặn nguy cơ xảy ra tai nạn và tiếp tục công

Hình 2. Sơ đồ tổ chức công tác quản lý an toàn tại công trường

Page 35: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

68 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 69 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

việc khi có sự chấp thuận của Chủ đầu tư/Ban QLDA. Nhà thầu phải kiểm tra lại kế hoạch quản lý an toàn và

thuyết minh biện pháp an toàn dựa trên kết quả kiểm tra ban đầu, sau đó chỉnh sửa lại các tài liệu này nếu cần thiết. Ban QLDA và Tư vấn phải rà soát lại các tài liệu này trong trường hợp chúng được sửa đổi.

Nhà thầu phải đảm bảo rằng quy trình quản lý an toàn được thực hiện đầy đủ và không ngừng cải thiện nhằm duy trì an toàn tại công trường xây dựng.

Nhà thầu phải xây dựng sơ đồ tổ chức cho công tác quản lý an toàn tại công trường xây dựng của dự án nhằm quản lý an toàn và ngăn ngừa các tai nạn lao động xảy ra tại công trường phù hợp với chính sách cơ bản như thể hiện tại hình 2.

Nhà thầu phải thành lập một tổ chức mang tính chất tư vấn, phối hợp gọi là Hội đồng an toàn và sức khỏe bao gồm các thành viên sau:

- Chỉ huy trưởng công trường: Chủ tịch Hội đồng- Trưởng bộ phận an toàn: Phó chủ tịch Hội đồng- Cán bộ kỹ thuật: Giám sát viên an toàn - Các nhà thầu phụ: Các giám sát viên an toàn Các cán bộ an toàn - Các nhà thầu phụ-phụ: Các cán bộ an toàn - Tổ chức bên ngoài: Chuyên gia về an toàn và sức khỏe

(nếu cần thiết).Hội đồng an toàn và sức khỏe thực hiện chức năng tăng

cường trao đổi thông tin giữa các bên liên quan trong dự án, loại bỏ bất cứ sự hiểu nhầm hoặc thiếu sót trong phối hợp công việc, rà soát các hồ sơ về an toàn và lên kế hoạch cho tháng tiếp theo.

Mục tiêu của Hội đồng an toàn và sức khỏe là:- Tạo cơ hội giúp tăng cường trao đổi thông tin giữa

người lao động làm các công việc khác nhau, phối hợp tốt trong công việc và ngăn ngừa các tai nạn xảy ra;

- Giúp các biện pháp an toàn trở nên thiết thực hơn và có thể chấp nhận với các thành viên thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau trong Hội đồng;

- Tăng cường nhận thức về an toàn của các thành viên, những người chịu trách nhiệm đầu tiên trong việc ngăn ngừa các tai nạn;

- Góp phần làm giảm nguy cơ xảy ra tai nạn.Nhiệm vụ của Hội đồng an toàn và sức khỏe là: Trao đổi

thông tin và phối hợp giữa các công việc trên công trường

xây dựng; Chia sẻ thông tin về tiến độ công việc hàng tháng; Tổ chức, thực hiện buổi kiểm tra an toàn hàng tháng; Xây dựng các hướng dẫn cải thiện chống lại các hành vi và tình trạng, cũng như các rủi ro mất an toàn dựa trên kết quả buổi kiểm tra hàng tháng; Thông báo lịch trình công tác huấn luyện an toàn cho người lao động; Rà soát việc thực hiện của các hoạt động sau và đưa ra các khuyến nghị cải thiện; Rà soát các báo cáo công tác kiểm tra an toàn và tổng hợp báo cáo các kết luận và kiến nghị của hội đồng lên chủ đầu tư và Ban QLDA; Rà soát các số liệu về tai nạn/sự cố/bệnh nghề nghiệp để nhận diện xu hướng, giám sát công tác đảm bảo an toàn và tổng hợp báo cáo các kết luận và kiến nghị của hội đồng lên chủ đầu tư và Ban QLDA; Hỗ trợ các hoạt động đẩy mạnh công tác an toàn của Nhà thầu, như là các cuộc thi an toàn, các buổi trưng bày, các giải thưởng cho công tác đẩy mạnh an toàn và các chương trình đề xuất an toàn; và giao thiệp với các tổ chức bên ngoài đồng thời lấy các ý kiến nhận xét về an toàn ở công trường.

Chu trình làm việc an toàn được phân theo hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng và vào mỗi dịp đặc biệt.

6. Nhận xét và kết luận Khi thi công công trình xây dựng phải thiết lập một quy

trình thi công để đảm bảo an toàn cho người thi công, máy móc thiết bị thi công, công trình mình thi công, các công trình lân cận.

Để đảm bảo an toàn cho người thi công thì những người tham gia thi công phải được kiểm tra sức khỏe, có chứng chỉ đào tạo phù hợp và được tập huấn về an toàn từng công việc thì công, được cung cấp đầy đủ về mối nguy hiểm có thể xảy ra. Đối với máy móc thiết bị, trước khi công phải được kiểm tra bảo dưỡng theo quy định. Đối với việc an toàn cho công trình đang thi công cần phải thiết kể đảm bảo tiêu chuẩn và cần tính đến các tải trọng thi công.

Khi thi công kết cấu thép nhà cao tầng cần phải cần phải chú ý thêm vấn đề an toàn thi công trên cao, an toàn khi hàn các cấu kiện, an toàn lắp dựng các cấu kiện, an toàn khi hàn cấu kiện an toàn cháy nổ, an toan khi sử dụng điện, an toàn khi sử dụng các máy móc thiết bị khi cẩu lắp và các thiết bị cầm tay.

Để đảm bảo an toàn thì nhà thầu cần phải cung cấp các dụng cụ bảo hộ lao động như: mũ bảo hộ, đai/áo bảo hộ và các dụng cụ bảo hộ mặt, mắt, tai, tay và chân.

Nhà thầu cần thành lập hội đồng an toàn vệ sinh lao động để điều hành các vấn đề về an toàn, vệ sinh trong lao động xử lý các tình huống sự cố bất khả khác có yếu tố bất ngờ không lường trước được./.

T¿i lièu tham khÀo1. Bộ lao động thương binh xã hội, thông tư số: 07/2016/TT-

BLĐTBXH, quy định một số nội dung tổ chức thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động đối với sản suất kinh doanh. Hà Nội, ngày 15/5/2016

2. Bộ lao động thương binh xã hội, thông tư số: 13/2016/TT-BLĐTBXH, ban hành danh mục các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động, ngày 16/6/2016

3. Bộ xây dựng, thông tư số: 04/2017/TT-BXD Quy định về quản lý an toàn lao động trong thi công xây dựng công trình

4. Bộ xây dựng, Dự thảo kế hoạch chuẩn về quản lý an toàn (2016)5. Chính phủ, nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư

xây dựng công trình ngày 18/6/2015.6. Chính phủ, nghị định số: 44/2016/NĐ-CP nghị định quy định chi

tiết một số điều của luật an toàn, vệ sinh lao động về hoạt động

kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động và quan trắc môi trường lao động.

7. Chính phủ, nghị định số: 39/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật an toàn, vệ sinh lao động, ngày 15/5/ 2016

8. Chính phủ, nghị định số: 37/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật an toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc, ngày 15/ 5 / 2016

9. Quốc hội khóa 13, Luật xây dựng số 50/2014/QH13 ngày18/6/2014

10. Quốc hội khóa 13, Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 25/06/2015

11. BS 5531:1988 Code of practice for safety in erecting structural frames. August 1988

1. Đặt vấn đề;Trong công tác quan trắc địa kỹ thuật có nhiều dạng quan trắc nhằm thỏa mãn

các mục đích khác nhau, theo đó có các nội dung, phương pháp khác nhau phù hợp với đối tượng quan trắc. Trong địa kỹ thuật có nhều cách phân loại về công tác quan trắc theo những nguyên tắc khác nhau, nhưng liên quan đến vấn đề mốc quan trắc thì công tác quan trắc địa kỹ thuật có phân biệt giữa quan trắc biến dạng với quan trắc chuyển vị, mặc dù về phép đo cùng là chuyển vị, nhưng khác nhau ở mốc quan trắc. Trong đó, mốc cho quan trắc biến dạng có thể thay đổi giữa các lần đo, mốc cho quan trắc chuyển vị là không đổi cho tất cả các lần đo. Quan trắc lún cho nhà cao tầng là quan trắc chuyển vị, cao độ mốc phải ổn định trong suốt quá trình quan trắc. Do đó, ngoài vấn đề thời gian đo, độ chính xác của thiết bị và mạng lưới các điểm đo, thì mốc quan trắc có vai trò quyết định đến mọi yếu tố của kết quả quan trắc lún nhà cao tầng. Nhưng trong thực tế, sự ổn định về cao độ của mốc vẫn chủ quan mặc định ở điều kiện mốc được chôn sâu và sự bảo vệ của các tác động bên ngoài.

Với mục đích tiến hành quan trắc lún nhà cao tầng là xác định giá trị lún thực tế cùng với kết quả tính toán để khẳng định các vấn đề lún, bao gồm lún tuyệt đối ảnh hưởng đến công năng và lún lệch ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của nhà. Với mục đích đó, đòi hỏi kết quả các phép đo phải có độ chính xác cao và đo trong một thời gian dài, đòi rất nhiều chi phí lớn, trong khi ý nghĩa sử dụng kết quả quan trắc vẫn còn những hạn chế. Do đó, cần có giải pháp quan trắc không sử dụng mốc và đo liên tục để giảm chi phí đồng thời mở rộng khả năng sử dụng kết quả đo trong phân tích địa kỹ thuật.

2. Bản chất của biến dạng lún của công trình nhà cao tầng, và quy luật biến đổi biến dạng lún theo thời gian. 2.1. Biến dạng lún và tính toán biến dạng lún cho công trình:

Vật thể có trọng lượng xác định đặt trên nền, thì nền sẽ biến dạng và vật thể sẽ từ từ dịch chuyển theo chiều trọng lực, dịch chuyển đó là lún của vật thể. Khi một vật thể cứng tuyệt đối có hình dạng kích thước không đổi và trọng lượng xác định đặt trên nền, giá trị biến dạng của nền theo phương thẳng đứng là giá trị lún của vật thể. Nếu công trình là vật thể cứng tuyệt đối thì có thể xác định giá trị lún của công trình qua tính toán biến dạng của nền.

Nhà cao tầng sử dụng giải pháp móng sâu, nên biến dạng lún của công trình nhà cao tầng là biến dạng của cọc, nền dưới mũi cọc và biến dạng khối đất xung quanh mũi cọc.

Khi cọc bố trí thành nhóm theo các đài, coc với đất thành một hệ gọi là móng khối quy ước, biến dạng đất nền dưới mũi cọc được xem là biến dạng của móng khối quy ước và được tính toán theo biểu thức:

1

n

iS S= ∑

Độ lún S của nền dưới diện chịu tải là tổng biến dạng lún Si của các lớp đất phân tố chịu nén nằm dưới diện chịu tải được xác định:

ii

i

ii m

ES σ

β=

trong đó, Si - giá trị lún của một lớp phân tố trong vùng chịu nén mi – chiều dầy phân tố thứ i Ei – modul tổng biến dạng của phân tố thứ i nhận được từ tính toán kết

quả thí nghiệm trong phòng

Tóm tắtBài báo sẽ phân tích một số tồn tại về

mốc đối với kết quả quan trắc lún và trình bày giải pháp đo nghiêng trong

quan trắc lún nhà cao tầng.

AbstractThe article will analyze some of the issues

about landmark monitoring results and present solutions for measure inclined for

monitoring high building.

TS. Trần Thượng BìnhKhoa Xây dựng ĐT: 0912 063 472

Ngày nhận bài: 07/4/2017 Ngày sửa bài: 26/4/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Giải pháp đo nghiêng trong quan trắc lún cho công trình nhà cao tầngSolutions on measure inclined in monitoring settlement for high building

Trần Thượng Bình

Page 36: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

70 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 71 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

3. Giải pháp 3.1 Cơ sở của giải pháp:

- Mục tiêu của giải pháp Quan trăc lún là quan trắc sự chuyển vị thẳng đứng của

một vật không bị biến dạng, khi đó các điểm nằm trên vật thể sẽ cùng chuyển động theo các quỹ đạo giống nhau, sự chuyển vị được xác định thông qua các phép đo chênh cao giữa điểm trên thân công trình với một điểm chuản ổn định về cao độ ở tất cả các thời điểm và đo bằng một máy trắc địa

Quan trắc lún cho nhà cao tầng có mục đính là khẳng định kết quả tính toán dự báo lún là tin cậy đối với sự ổn định của nhà, bao gồm lún tuyệt đối để không ảnh hưởng đến công năng và lún lệch không ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của nhà, trong đó xác định độ lún lệch là quan trọng. Bởi vì, độ lún tuyệt đối thường thỏa mãn do đã thỏa mãn về điều kiện sức chịu tải của nền, hơn nữa độ lún tuyết đối luôn có quy luật tắt dần và độ lún cuối cùng với giải pháp móng sâu là không lớn, trong khi độ lún lệch sẽ làm công trình bị nghiêng. Hệ lụy của công trình bị nghiêng sẽ là thay đổi trạng thái biến dạng của kết cấu, phân bố lại tải trọng xuống các đài tiểm ẩn nguy cơ lún phát triển liên tục, ngoài ra còn vấn đề công năng của công trình. Như vậy, trực tiếp quan trắc độ nghiêng của công trình sẽ cho kết quả tin cậy hơn đo chênh cao theo các chu kỳ.

Vì vậy, mục tiêu đặt ra cho giải pháp là xác định độ nghiêng từ khi kết thúc tầng thứ nhất đến ổn định lún, đo ở các vị trí khác nhau trên bình đồ và độ cao các tầng để có thể đánh giá định lượng mối quan hệ giữa lún của móng với biến dạng của thân công trình.

- Độ nghiêng của công trình Công trình nhà cao tầng, thân công trình luôn được xem

là cứng tuyệt đối dưới tác dụng của trọng lượng bản thân, là hữu hạn với tác dụng ngang của gió. Khi công trình lún đều, mọi điểm trên thân chuyển vị tịnh tiến, ngược lại lún không đều mọi điểm chuyển vị quay. Khi chuyển vị quay các điểm càng cao tức càng xa trục quay, chuyển vị lún S càng lớn. S được xác định bởi biểu thức

S = R. tgαTrong đó: R - khoảng cách từ điểm đến trục quay, α - góc

quay của chuyển vị, là góc hợp bởi giao tuyến của mặt phẳng đi qua điểm trên thân công trình và vuông góc với trục quay với đường thẳng đứng đi qua điểm đó.

Trên mặt phẳng nằm ngang các phương hợp với trục quay các góc θ khác nhau sẽ có góc α khác nhau, trong đó phương trùng với trục quay có góc α lớn nhất. Vì vậy, αmax là giá trị đặc trưng cho độ nghiêng của công trình, nó biểu thị ở một thời điểm tồn tại một trục quay nào đó, thì thời điểm đó độ nghiêng lớn nhất của công trình là góc αmax

Như vậy, độ nghiêng của công trình được xác định không chỉ góc αmax mà phải gồm phương vị của trục quay, theo đó với phương thẳng đứng luôn xác định, phương vị của trục quay được xác định theo địa bản.

Độ nghiêng của công trình cũng có thể đánh giá theo phương ngang, tương tự cũng có góc β và βmax= 90o - αmax

Nếu lựa chọn thời điểm bắt đầu quan trắc là thẳng đứng, với góc αmax = 0o, thì đến thời điểm góc αmax >0o. là thời điểm công trình bị nghiêng một góc αmax

Nếu lựa chọn thời điểm bắt đầu quan trắc là nằm ngang với góc βmax=90o thì đến thời điểm góc βmax >90o là thời điểm công trình bị nghiêng một góc αmax, khi đó, độ lún lệch giữa

hai điểm nằm trên cùng mặt phẳng nằm ngang của móng được xác định bởi biểu thức

ΔS = L tgαmax

Trong đó ΔS - độ lún lệch giữa 2 điểm L - khoảng cách giữa 2 điểm Để xác định độ nghiêng công trình bằng góc nghiêng, cần

có thiết bị cho phép đo góc với độ chính xác như sau. Giả sử độ lún lệch giới hạn là 0.002 thì góc nghiêng giới hạn sẽ là 0.11465 độ, hay 6 phút 36 giây. hay 100 giây. Với độ chính xác 0.1 giây của phép đo góc, các máy kinh vĩ thông thường Nicon NT- 2A đều có thể đáp ứng được.

Như vậy thay vì xác định độ chênh cao để tính toán độ nghiêng của công trình, quan trắc góc nghiêng của trục công trình sẽ nhận biết luôn độ nghiêng công trình mà không cần có mốc cố định. Thiết bị đo góc nghiêng bằng các kinh vĩ thông thường vẫn có thể đáp ứng về độ chính xác của các phép đo. 3.2. Thiết bị và nguyên lý đo:

+ Thiết bị đo độ nghiêng theo trục thẳng đứng - Nguyên lý Để xác định αmax, về nguyên tắc chọn điểm đặt thiết bị

phát tia, có thể ống ngắm ở đỉnh công trình, khi đó thiết bị nhận tia tới đặt ở phía dưới, khoảng cách giữa chúng càng xa độ phân giải càng lớn, tốt nhất đăt ở đáy tầng một. Trên mặt bằng chúng phải nhìn thấy nhau và tốt nhất tâm của thiết bị nhận với phát nằm trên một đường thẳng đứng. Khi công trình bị nghiêng, thiết bị phát đặt trên đỉnh nhà sẽ di dời theo độ nghiêng công trình, thiết bị nhận sẽ cho biết độ dời của tia tới là góc αmax và hướng dời là góc phương vị θ.

Nếu đặt nhiều bộ thiết bị vào các vị trí là các đỉnh của tam giác hay tứ giác và cùng cao độ, thì kết quả thu được còn cho biết tình trạng biến dạng của thân công trình.

- Nguyên tắc cấu tạo: Nguyên tắc cấu tạo của thiết bị gồm đầu phát tia laze,

đầu nhận tia và đọc tọa độ điểm của tia chiếu trên mặt phẳng nhận của thiết bị, trong đó đầu phát được gắn cố định ở đỉnh cao nhất của công trình. Đầu nhận là một cảm biến quang sẽ được kết nối với máy tính có phần mềm để lưu những số liệu khi có sự thay đổi tia trên mặt phẳng nhận. Trong trường hợp với độ cao của của công trình hơn 30m cho nhà trên 10 tầng thì biên độ chuyển dời của tia, khi độ lún lệch đạt giới han 0.002 sẽ được phóng đại đến giá trị

T= 0.002*30m= 0.06 mTừ minh họa trên cho thấy, với độ phân giải 1/100 và lấy

sai số cho phép 0.1 thì khoảng nhận biết 6mm, mắt thường có thể nhận thấy. Trong những trường hợp như thế, nếu không tự động lưu kết quả thì không cần kết nối với máy tính.

Hạn chế của phương pháp này là phải xử lý kết quả, bởi vì giá trị đo nghiêng bao gồm cả dao động do tác dụng gió của công trình nhà cao tầng

+ Thiết bị đo độ nghiêng theo trục nằm ngang: Để xác định xác định βmax, yêu cầu phải có ít nhất 3 điểm

đặt thiết bị, các điểm đặt ở phần thấp công trình và phải liên kết cứng với vách chịu lực của kết cấu công trình để đảm bảo độ lún lệch theo một phương được phản ánh trung thực vào kết quả đo. Trong đó, đầu đo loadcell của Hàn quốc tích hợp vào trong thiết bị và được kết nối với máy tính. Khi đó, chỉ cần một góc nghiêng nhỏ của dầm hoặc vách tín hiệu điện

β - hệ số nở hông của phân tố thứ i nhận được từ bảng tra hoặc tính theo công thức

µµβ−

−=121

2

với μ là hệ số biên dạng ngang (poisson) n - số phân tố trong vùng chịu nén z. Z - chiều sâu tính từ đáy diện chịu tải đến độ sâu có

ứng suất gây lún σz nhỏ hơn 5 lần ứng suất bản thân σbt σbt =5 σz

Các biểu thức tính toán cho thấy cọc càng sâu, đế của móng khối quy ước càng rộng cùng với ứng suất gây lún càng nhỏ, nên biến dạng lún của nền dưới mũi cọc càng nhỏ và tồn tại một chiều sâu giới hạn, nếu mũi cọc sâu hơn sẽ không có vùng chịu nén tức là công trình không lún.

Khi mũi cọc tựa vào lớp như đá hoặc cuội có modul biến dạng rất lớn so với các lớp nằm trên mũi, tính toán sức chịu tải cọc của cọc thường theo sơ đồ cọc chống, và biến dạng xem như không đáng kể, nếu biến dạng của cọc là không xảy ra.

Tóm lại, móng sâu cho phép có nhiều lựa chọn để công trình thỏa mãn về điều kiện biến dạng lún. Kết quả tính toán giá trị biến dạng lún của móng sâu luôn tồn tại sai số, kết quả tính chỉ có ý nghĩa dự báo. Ngoài các yếu tố được xét trong bài toán, lún thực tế của công trình còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Do đó đánh giá chính xác về lún công trình phải thông qua kết quả quan trắc lún.

2.1.2 Quy luật lún theo thời gianDo tải trọng công trình mà xảy ra biến dạng thẳng đứng

của nền sẽ diễn ra nhiều quá trình khác nhau ở trong nền và trong công trình, vì vậy lún của công trình là một quá trình diễn ra theo thời gian.

Theo định luật nén lún biến dạng của đất theo thời gian dưới tải trọng không đổi là quy luật biến đổi theo hàm mũ (hình 1), ở đó tốc độ biến dạng V giảm dần và ở thời gian vô cùng V=0, giá trị biến dạng ở thời điểm đó là độ lún cuối cùng.

- Kết quả thí nghiệm nén tĩnh đầu cọc thường cho thấy ở một cấp tải trong không đổi chuyển vị đầu cọc với thời gian có quan hệ tương quan là hàm số mũ.

- Đối với nhà cao tầng thường sử dụng móng sâu có thể là cọc khoan nhồi, cọc bê tông ép .. thì chuyển vị của nhà phụ thuộc vào chuyển vị của các đầu cọc. Trong khi đó, các đầu cọc chuyển vị không giống nhau. Do đó, chuyển vị lún của công trình, không chỉ phụ thuôc đặc điểm đất nền và cấu tạo cọc và đài cọc mà còn là sự tương tác giữa các cọc trong đàì và giữa các đài thông qua kết cấu thân công trình. Trong

tương tác đó luôn tồn tại vấn đề tải trọng công trình truyền cho các đầu cọc là biến đổi, vì chuyển vị lún ở các đầu cọc, ở các đài khác nhau, có đài nhận tải trọng tăng lên có đài giảm đi và tiểm ẩn nguy cơ lún không đều, biểu hiện của lún không đều là độ nghiêng của công trình.

Do vậy, với công trình sử dụng móng sâu, theo thời gian độ lún lệch hay độ nghiêng biến đổi không phải là quy luật hàm mũ như kết quả nén đầu cọc với tải trong không đổi mà biến đổi từng bước, tương ứng với mỗi lần phân bố lại tài trọng lên các đài.

Khi ở một cấp gia tải, biến dạng có tốc độ biến dạng v=0, nếu tăng tải trọng thì lún sẽ xảy ra theo thời gian có quy luật hàm số mũ. Giả sử có n lần gia tải, thì có n đường cong lún theo thời gian, theo đó thời gian ở mỗi cấp gia tải biến đổi lún là khác nhau tùy thuộc vào thời điểm và giá trị gia tải ở mỗi cấp. Do đó, nếu xét từ lúc bắt đầu thi công đến khi sử dụng công trình sẽ có sự khác biệt về biến đổi lún giữa giai đoạn xây dựng với giai đoạn sử dụng công trình

- Trong giai đoạn xây dựng, lún sẽ biến đổi theo tiến độ thi công, với đặc điểm biến dạng tăng theo số tầng và sự tham gia của tải trọng các thiết bị thi công gây ra

- Trong giai đoạn sử dụng, lún phụ thuộc vào chuyển vị các đài và kết cấu công trình với tải trọng không đổi, sự thay đổi hoạt tải xem như không đáng kể so với tải trọng thường xuyên của bản thân công trình. Nhưng tác dụng ngang do gió với nhà cao tầng sẽ gây ra chuyển vị ngang và tăng theo độ cao. Do đó, với nhà cao tầng độ nghiêng của nhà tại một thời điểm bao gồm nghiêng lâu dài do lún không đều và nghiêng tức thời do dao động.

Nếu lún của công trình ở một thời điểm là kết quả của một quá trình, thì giá trị lún chỉ xác định khi quá trình đó phải được xác định từ thời điểm bắt đầu. Do đó, không có cao độ ở thời điểm trước khi chất tải, thì kết quả đo lún ở các thời điểm chỉ là các giá trị tương đối, có tác dụng mô tả sự biến đổi lún theo thời gian và chỉ có tác dụng so sánh giá trị lún giữa các điểm đo trong cùng một thời điểm mà không phải là giá trị thực.

Do đó, kết quả quan trắc sẽ có ý nghĩa hay tác dụng hơn khi tiến hành đo lún sớm hơn, theo đó việc xây dựng mốc quan trắc phải sớm hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn đang thi công, xây dựng các mốc đo lún sẽ phức tạp hơn vì lựa chọn vị trí xây phải thỏa mãn nhiều tiêu chí hơn, trong đó có vấn đề điều kiện thi công công trình và mạng lưới quan trắc tốt nhất.

Như vậy, mốc quan trắc và chế độ quan trắc đóng vai trò quyết định đến ý nghĩa của kết quả. Trong đó, sai số của kết quả do mốc quan trắc luôn tồn tại cho dù chúng là một mạng lưới tam giác đã được bình sai, hơn nữa xây dựng mốc quan trắc với yêu cầu không chuyển vị đòi hỏi mốc quan trắc phải được sâu hơn đáy mũi cọc, đồng thời phải có số điểm đủ nhiều để để bình sai và phải có vị trí nằm ngoài vùng ảnh hưởng. Đó là những yêu cầu cần kinh phí và trong nhiều trường hợp không đáp ứng được.

Tóm lại, quan trắc lún cho công trình nhà cao tầng dựa trên nguyên tắc đo chênh cao giữa các điểm cố định trên thân công trình với mốc đo và đo theo các chu kỳ có các hạn chế như sau:

- Phải xây dựng mốc đo, hệ lụy là chi phí khoan đến độ sâu đá gốc, kết cấu ống chống và đổ bề tông suốt chiều dài lỗ khoan và mặt bằng xây dựng và bảo vệ mốc

- Đo theo chu kỳ, phát sinh sai số khác nhau giữa các lần đo, chi phí tăng thêm cho công tác chuẩn bị.

- Bình sai kết quả; kết quả không còn là giá trị thực mà chỉ còn là giá trị kỳ vọng

Hình 1.

(xem tiếp trang 90)

Page 37: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

72 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 73 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtCây xanh đô thị được nói đến nhiều

nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu đầy đủ. Tổ chức dải cây xanh cho các

tuyến phố và cho các không gian xanh đô thị như công viên cây xanh, vườn hoa, dải cây xanh cách ly… sẽ khai thác được

tối đa vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên đô thị ngày nay.

AbstractUrban Tree talked but no documents

adequately studied. Organization tree lines for streets and urban green spaces such as green parks, gardens, tree lines and isolated ... will

catch up to the beauty of urban landscapes today.

ThS.KTS. Trần Vân KhánhBộ môn Kiến trúc Cảnh quan Khoa Quy hoạch Đô thị và Nông thôn ĐT: 0986 220 029 Email: [email protected]

Vai trò của cây xanh đô thịThe role of urban greenery

Trần Vân Khánh

1. Đặt vấn đềNgày nay cây xanh có vai trò đặc biệt quan trọng với đô thị trong tạo lập môi

trường sinh thái, trong tổ chức môi trường sống của con người, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải hiệu ứng nhà kính, làm hạ tầng xanh và tạo lập cảnh quan đô thị.

2. Vai trò của cây xanh đô thịCây xanh là thành phần quan trọng của đô thị, cùng với việc giảm thiểu nguồn ô

nhiễm thì cây xanh đang là giải pháp hiệu quả trong bảo vệ môi trường đô thị. Cây xanh đô thị đã trở thành chủ đề nóng được nhiều nhà khoa học quan tâm.

Khi nghiên cứu cây xanh đô thị, các nhà nghiên cứu đi theo những hướng khác nhau:

- Các chuyên gia lâm nghiệp đã đưa ra những thuật ngữ, khái niệm như: lâm nghiệp đô thị, nghiệp vành đai xanh, lâm nghiệp tiện ích,... trong đó nổi bật là lâm nghiệp đô thị.

- Các chuyên gia kiến trúc cảnh quan nghiên cứu theo hướng cảnh quan xanh.- Các chuyên gia quy hoạch đô thị nghiên cứu theo hướng quy hoạch không gian

cây xanh.- Các chuyên gia quản lý đô thị thì đi theo hướng quản lý cây xanh đô thị.- Các chuyên gia môi trường thì đi theo hướng cây xanh với chống ô nhiễm và bảo

vệ môi trường, cây xanh trong hệ sinh thái đô thị, …Theo quy định của QCVN 01:2008/BXD, cây xanh đô thị được chia thành 3 nhóm

chính:Cây xanh sử dụng công cộng (quảng trường, công viên, vườn hoa, vườn dạo,…

bao gồm cả diện tích mặt nước nằm trong trong khuôn viên các công trình này và diện tích cây xanh cảnh quan ven sông được quy hoạch xây dựng thuận lợi cho người dân đô thị tiếp cận và sử dụng cho các mục đích luyện tập TDTT, nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn,…

Cây xanh đường phố (cây xanh, thảm cỏ trồng trong phạm vi chỉ giới đường đỏ)Cây xanh chuyên dụng (cách ly, phòng hộ, vườn ươm, nghiên cứu thực vật học,…)Quy chuẩn đề cập đến:- Yêu cầu đối với quy hoạch hệ thống cây xanh trong đô thị,- Quy định diện tích đất cây xanh sử dụng công cộng trong đô thị.Dù nghiên cứu theo hướng nào, đều đánh giá cao vai trò của hệ thống cây xanh

trong đô thị như:- Điều hoà khí hậu, bảo vệ môi trường và kiến trúc cảnh quan.Trồng cây xanh trong đô thị hay xung quanh khu dân cư, khu công nghiệp để che

nắng, giảm bức xạ mặt trời, giảm tiếng ồn và bụi phát tán ra bên ngoài nhà máy, đồng thời tạo thẩm mỹ, cảnh quan trong khuôn viên nhà máy, khu công nghiệp và màu sắc êm dịu cho môi trường khu vực.

- Cải thiện sức khỏe dân cư đô thị sau giờ làm việc, nghiên cứu gần đây còn cho thấy bệnh nhân điều trị trong khu vực có nhiều cây xanh có khuynh hướng phục hồi nhanh.

- Cây xanh có tác dụng diệt một số vi khuẩn độc hại, hấp thụ khí độc và đảm bảo vệ sinh môi trường.

- Giảm thiểu úng ngập và ô nhiễm môi trường đất, nướcCây xanh lưu giữ một phần nước mưa trên cây, giữ cho mặt đất xốp, với hệ rễ

ăn sâu xuống đất cây giúp cho nước mưa thẩm thấu nhanh, làm giảm tình trạng úng ngập trong đô thị. Cũng nhờ tính năng này mà ở vùng trung du và miền núi, rừng cây xanh có tác dụng điều hòa nước mưa, giảm xói lở đất, giảm lũ tràn, lũ ống, lũ quét.

Cây xanh có khả năng hấp thụ hóa chất độc hại trong môi trường nước và trong môi trường đất, đặc biệt hấp thu, giữ chứa lâu dài các chất kim loại nặng như chì,

T¿i lièu tham khÀo1. Cây xanh với môi trường đô

thị - Sự kiện tôn vinh Cây di sản, GS.TS.Trần Hiếu Nhuệ, Tạp chí Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 27.10.2011

2. QCVN 01:2008/BXD3. Lựa chọn và phối kết cây xanh

trong khu đô thị mới ở Hà Nội, Tạp chí Quy hoạch, số 53/2011

asen, thủy ngân... trong mô bì của lá cây, thân cây, cành cây và rễ cây.

- Các lợi ích khác:Tăng giá trị kinh tế: khảo sát cho thấy, những tuyến phố

nhiều cây xanh do thuê mặt bằng với giá thành cao hơn các khu vực khác, hàng quán cũng tấp nập hơn những nơi ít bóng cây.

Cây xanh được dùng bảo vệ, làm vành đai hạn chế sức gió và lốc xoáy trong mùa mưa bão.

Làm nơi trú ngụ cho các sinh vật, chim muông, côn trùng.Cây xanh đô thị không chỉ mang tính chất phủ xanh mà

cần chú trọng thẩm mỹ, tạo hình hài hòa với cảnh quan kiến trúc, tự nhiên và phần nào tạo nên tính độc đáo, điểm nhấn cho công trình.

• Cây xanh đô thị giúp giảm phát thải nhà kínhSự nóng lên của khí hậu Trái đất là nguyên nhân gia tăng

nhanh chóng nồng độ khí nhà kính, bao gồm khí cácbonníc (CO2), mêtan (CH4) và khí nitơôxít (N2O). Theo cơ quan khí tượng học thế giới lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính năm 2020 dự kiến cao hơn từ 8-12 tỉ lần so với mức cần thiết để duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C vào năm 2020. Và một trong những biện pháp giảm thiểu đáng kể phát thải nhà kính trong đô thị là tăng độ che phủ xanh, trồng nhiều cây xanh (đặc biệt là những loại cây hấp thụ nhiều CO2 trong quá trình quang hợp) nhằm làm giảm lượng khí CO2 trong bầu khí quyển. Theo thống kê ở Việt Nam, đối với các khu vực đô thị, mật độ cây xanh chưa đạt tiêu chuẩn về độ che phủ. Cụ thể, tại thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh diện tích này mới đạt <4m2/người, thấp hơn so với yêu cầu của tiêu chuẩn (10-15 m2/người) nên chưa đáp ứng vai trò làm lá phổi xanh của đô thị.

• Vai trò của cây xanh trong hạ tầng xanh của đô thị hiện đại

Thiết kế cơ sở hạ tầng với sự kết hợp của thiên nhiên không phải là mới, tuy nhiên những năm gần đây ý tưởng này mới được phát triển rộng rãi. Việc khai thác thiên nhiên trong xây dựng bảo vệ cộng đồng trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như lũ lụt, nhiệt độ tăng cao, cải thiện chất lượng nước, lọc không khí, tạo nên một môi trường sống lý tưởng cho sức khỏe con người. Khi thiên nhiên được khai thác và sử dụng như một hệ thống cơ sở hạ tầng nó được gọi là cơ sở hạ tầng xanh. Sử dụng cơ sở hạ tầng xanh trong thi công các hệ thống giao thông vận tải như trồng cây xanh ven đường, bãi đậu xe, trồng cây trên mái, tường cây… đem lại những lợi ích trong việc cải thiện chất lượng môi trường sống.

• Tiêu chí lựa chọn chủng loại cây xanh trong đô thị1. Cây có tán lá đẹp, hoa lá trái có màu sắc xinh tươi.2. Dây leo có tán lá đẹp, hoa lá có màu sắc sinh tươi.3. Hoa, lá, trái, mùi, nhựa không gây độc hại.4. Không có hệ thống rễ ăn ngang, lồi lõm làm hư hại mặt

đường nhà cửa công trình, dễ đổ ngã.5. Thân cành nhánh không thuộc loại dòn dễ gãy, trái

không to, dễ gây nguy hiểm cho người đi đường, không thu hút ruồi muỗi.

6. Lá thường xanh, không thuộc chủng loại rụng lá toàn phần, kích thước không nên quá nhỏ (sẽ gây khó khăn cho việc vệ sinh đô thị).

7. Cây (hoặc dây leo) có khả năng thích nghi, có thể thích nghi và phát triển tốt trong môi trường bị ô nhiễm, đất đai nghèo dưỡng chất, chu trình nước rối loạn ở đô thị.

8. Tăng trưởng không quá nhanh cũng không quá chậm.Trên thực tế rất ít chủng loại cây thỏa mãn được tất cả

các yếu tố trên do đó việc chọn chủng loại cây trồng đường phố chỉ có tính tương đối.

Đối với khu chung cư, khu phố, khuôn viên công sở thì tùy theo hiện trạng có thể sử dụng các loài cây bóng mát, kiểng, hoa, dây leo,... tùy theo yêu cầu.

3. Kết luậnCần tăng cường sự giám sát của xã hội đối với bảo vệ

và chăm sóc cây xanh; đào tạo nhân lực có kiến thức khoa học và kinh nghiệm trong lĩnh vực quy hoạch và phát triển cây xanh khu đô thị, xây dựng công trình gắn với bảo vệ cây xanh hiện hữu; quản lý chặt chẽ đất dành cho cây xanh; xây dựng và cụ thể hóa các tiêu chí “xanh” trong đánh giá, xếp loại đô thị; quy định rõ loại cây nào khuyến khích trồng và loại cây cấm trồng ở đô thị. Ngoài ra, cần kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư các dự án phát triển cây xanh đô thị để bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Có cơ chế hỗ trợ tài chính cho bảo vệ và phát triển cây xanh như giá cả nguyên vật liệu, cây trồng. Chính sách hỗ trợ phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở bảo vệ cây xanh. Bên cạnh đó, khuyến khích và huy động nguồn lực toàn xã hội tham gia vào phát triển, bảo vệ hệ thống cây xanh. Loài cây được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng và môi trường đặc thù của đô thị. Có cơ chế khuyến khích các cá nhân, tập thể tham gia trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh đô thị./.

Hình 1. Cây xanh cải thiện môi trường đô thị Hình 2. Cây xanh đô thị có tán lá đẹp, hoa trái có màu sắc tươi sáng

Page 38: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

74 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 75 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtĐịnh nghĩa phương trình vi phân đại số (PTVPĐS). Một số ví dụ về PTVPĐS

gặp trong thực tế như: mô phỏng mạch điện, chuyển động của con lắc đơn. Tầm

quan trọng của PTVPĐS. Lời giải số của PTVPĐS.

AbstractDefinition of algebraic differential equation.

Some example of algebraic differential equation encountered in practice as: circuit

simulation, motion of single pendulum... Why algebraic differential equation was

important? Numerical solution.

ThS. Nguyễn Thị Thanh HàBộ môn Toán, Khoa Tại chức ĐT: 0985 313 775

Ngày nhận bài: 27/5/2016 Ngày sửa bài: 04/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Mở đầuCũng như các môn khoa học khác, phương trình vi phân (PTVP) nói chung và

PTVPĐS nói riêng xuất hiện trên cơ sở phát triển của khoa học, kỹ thuật và những yêu cầu đòi hỏi của thực tế.

Ta xét PTVP dạng tổng quátF(t,x,x’ )=0 (1)với điều kiện ban đầu x(t0 )=x0 (2)Trên khoảng I=[t0,tf) và FϵC0 (I×Dx×Dx’) là hàm đủ trơn và Dx,Dx’ là các tập

mở chứa trong Rn. Nếu ∂F⁄∂x’ không suy biến, theo định lý hàm ẩn từ (1) ta có thể giải được x’ qua x và t để được một PTVP thường. Nếu ∂F⁄∂x suy biến, ta có một PTVPĐS. Về mặt lý thuyết mọi PTVPĐS cấp cao đều có thể đưa về hệ PTVPĐS cấp một. Một PTVPĐS có thể là bài toán giá trị ban đầu nếu biết giá trị của x tại thời điểm ban đầu, x(t0)=x0 hoặc là bài toán biên nếu có thêm điều kiện biên g(x(t0),x(tf))=0. Những PTVPĐS như vậy xuất hiện nhiều trong lý thuyết về hệ động lực, trong việc mô phỏng các mạch điện, hoặc trong các công trình nghiên cứu về phản ứng hoá học và còn trong nhiều ứng dụng khác.

2. Một số trường hợp xuất hiện phương trình vi phân đại số trong thực tếKhi ta thiết kế một mạch điện có sự hỗ trợ của máy tính, việc mô phỏng mạch điện

có thể dẫn đến một hệ PTVPĐS cỡ lớn. Thật vậy xét một mạch điện có một số thành phần như: điện trở, điôt, tụ điện và nguồn. Với mỗi bộ phận luôn có mối liên hệ về hiệu điện thế vào ra qua mỗi bộ phận đó. Ví dụ đối với điện trở có điện trở suất R ta có

U=RI Trong đó U là hiệu điện thế, I=Q’ là cường độ dòng điện (Q là điện tích). Với

cuộn dây L ta cóU=LI’Với tụ điện có điện dung C ta cóI=CU’Sơ đồ một mạch điện bao gồm những nút và nhánh. Ta có thể mô tả một mạch

điện bằng một ma trận A được xác định như sau. Phần tử (i,j) của ma trận A bằng 1 nếu có dòng điện chạy từ nút i sang nhánh j, bằng -1 nếu có dòng điện chạy từ nhánh j về nút i và bằng 0 nếu nút i và nhánh j không kề nhau. Khi đó A sẽ là một ma trận kích thước lớn và thưa.

Giả sử UN là hàm vectơ có các thành phần là hiệu điện thế tại các điểm nút, UB là hiệu điện thế trên mỗi nhánh và iB là cường độ dòng điện trên mỗi nhánh. Theo định luật Kirchoff về cường độ dòng điện ta có:

AiB=0 cũng theo định luật Kirchoff về hiệu điện thế ta cóUB=AT uNLấy vi phân hai vế phương trình trên và viết gộp lại ta đượcφ(iB,uB,iB’,uB’)=0 (3)Đây sẽ là một PTVPĐS kích thước lớn và thưa. Có thể sẽ tiến hành giải trực tiếp

phương trình này, nhưng trong thực tế người ta thường không làm như vậy bởi vì nó dẫn đến quá nhiều ẩn số. Thay vào đó, người ta tìm cách khử uB và đưa về PTVPĐS vẫn có kích thước lớn và thưa nhưng nhỏ hơn có dạng sau

M(y)y’+f(y)=q(t) (4)trong đó ma trận M vẫn khá lớn, thưa và có thể suy biến và q là nguồn. Chỉ số

của phương trình (4) này phụ thuộc vào mạch điện được xem xét. Trong thực tế nó thường bằng 0 hoặc bằng 1, nhưng cũng có thể cao hơn. Phương trình này có chỉ số thấp hơn phương trình (3), bởi vì một vài ràng buộc đã bị khử. Trong trường hợp M không suy biến có thể đưa (4) về dạng PTVP thường nhưng quá trình phân rã ma trận có thể làm mất tính thưa của ma trận M.

Tổng quan về phương trình vi phân đại sốOverview of algebraic differential equation

Nguyễn Thị Thanh Hà

T¿i lièu tham khÀo1. Uri M. Ascher and Linda

R. Pezold (1997), Computer Methods for Ordinary Differential Equations and Differential – Algebraic Equations, SIAM Publications, Philadelphia. Society for Industrial and Applied Mathematics.

2. Ernst Haier, Christian Lubich and Michel Roche (1990), Lecture Notes in Mathemmatics. The Numerical Solution of Differential – Algebraic Systems by Runge – Kutta Methods, Springer.

3. Peter Kunkel and Volker Mehrmann (2006), Differential – Algebraic Equations. Analysis and Numerical Solutions, EMS Publishing House, Zurich, Switzerland

Ta có thể gặp PTVPĐS ngay trong chuyển động của con lắc đơn. Xét một con lắc đơn gồm một hòn bi treo vào một sợi dây. Hòn bi có khối lượng m và kích thước rất nhỏ so với chiều dài của sợi dây. Sợi dây không dãn (chiều dài không đổi trong quá trình dao động) và có khối lượng rất nhỏ so với m. Có thể coi là chất điểm m treo vào sợi dây không có khối lượng. Mô tả chuyển động của con lắc đơn trong hệ toạ độ Đềcác (q1,q2). Với λ(t) là hệ số nhân Lagrange, theo định luật II Niutơn ta có phương trình chuyển động như sau

q1’’=-λq1q2’’=-λq2-gGiả sử độ dài của sợi dây là 1 ta có thêm ràng buộcq1

2+q22=1

Viết lại hai PTVP thường cấp (2) này về dạng 4 PTVP thường cấp 1 ta thu được một hệ PTVPĐS như sau

q1’=v1 (5)q2’=v2 (6)v1’=-λq1 (7)v2’=-λq2-g (8)0=q1

2+q22-1 (9)

Lấy vi phân phương trình cuối ta đượcq1q1’+q2q2’=0 Kết hợp với (5),(6) suy raqTv=q1v1+q2v2=0Tiếp tục lấy vi phân ràng buộc này và sử dụng (5),(6) ta

đượcq1v1’+q2v2’+v1

2+v22=0

Thay vào (6),(7) ta thu được một PTVP thường đối với q và v. Tuy nhiên phải lấy vi phân thêm một lần nữa để được PTVP thường đối với λ. Như vậy để được PTVP thường ta cần lấy vi phân đến 3 lần, nên chỉ số của hệ ban đầu là 3.

3. Tầm quan trọng của phương trình vi phân đại sốTại sao việc nghiên cứu về PTVPĐS là quan trọng? Bởi

vì trong khi PTVP thường đã được nghiên cứu từ rất lâu, những phương pháp như phương pháp Euler, phương pháp hình thang đã xuất hiện từ thế kỷ mười chín và lý thuyết về PTVP thường đã gần như hoàn thiện từ những năm sáu mươi, thì PTVPĐS mới chỉ được nghiên cứu trong những năm bảy mươi trở lại đây. Các PTVPĐS trong thực tế thường phức tạp không có hi vọng giải đúng. Vì vậy lớp các PTVPĐS đòi hỏi những tính toán lý thuyết và lời giải số riêng bổ sung cho nó. Để thấy tại sao phải nghiên cứu riêng PTVPĐS mà không thể áp dụng những kiến thức PTVP thường cho nó, ta xét ví dụ đơn giản sau

'

0 ( )y zy q t

=

= −Với q là hàm đủ trơn cho trước. Rõ ràng nghiệm duy nhất

của phương trình là y=q(t),z=q’ (t), và không cần thiết phải có giá trị ban đầu hay điều kiện biên. Có nghĩa là nếu áp đặt tuỳ ý một điều kiện ban đầu nó có thể không tương thích với PTVPĐS. Hơn thế nữa, dù điều kiện ban đầu có phù hợp thì cũng không hi vọng về sự tồn tại và duy nhất nghiệm. Trong khi đó với PTVP thường nếu hàm vế phải f liên tục Lipschitz thì với mọi điều kiện ban đầu bài toán giá trị ban đầu luôn có nghiệm duy nhất.

4. Lời giải sốNói chung những phương pháp giải đúng chỉ áp dụng

được cho một lớp rất hẹp các PTVPĐS. Vì đa số các PTVPĐS mô tả các hệ cơ học, vật lý, hoá học, sinh học phức tạp không có hi vọng giải đúng. Nên người ta quan tâm đến việc giải gần đúng (lời giải số) các PTVPĐS. Lời giải số cho PTVPĐS được chia làm hai lớp: Rời rạc trực tiếp rồi biến đổi và biến đổi trước rồi rời rạc sau. Ta có thể kể ra đây một số phương pháp:

+) Phương pháp EulerÝ tưởng của phương pháp này rất đơn giản là xấp xỉ x’

bởi 1nn x

n

xh

−− nên ta có phương trình 1, , 0nn xn n

n

xF t x

h−−

=

Ở đây tn là thời điểm mà đang cần tính toán gần đúng, xnlà xấp xỉ của x(tn) và hn=tn-tn-1 là bước thời gian hoặc kích cỡ bước đi. Phương pháp này áp dụng tốt cho PTVPĐS chỉ số 1 và đặc biệt thích hợp cho những PTVP thường cũng như PTVPĐS có tính chất cương. Có nhiều cách khác nhau để đi đến công thức này, ví dụ giữ lại hai số hạng đầu trong công thức khai triển Taylor.

21

1 1 1"( )

( ) ( ) '( )( )2

−− − −

−= + − + n n

n n n n nx t t

x t x t x t t t

+) Phương pháp Runge – KuttaTrong phương pháp Runge – Kutta, xn+1 được xác định

như sau

1

'1

s

n n i nii

x x h b X=

+ = + ∑

( )' , 0ni niF X X =

1

's

ni n ij nj

jX x h a X=

= + ∑+) Phương pháp đa bướcTrong các phương pháp một bước như phương pháp

Euler hay Runge – Kutta, giá trị xn được tính nhờ tn-1,xn-1 và bước hn(=h). Có thể tính xn với độ chính xác cao hơn bằng cách huy động các giá trị xn, xn -1,…), tức là sử dụng các phương pháp đa bước. Các phương pháp loại này có độ chính xác cao, tiết kiệm được bộ nhớ và thời gian máy. Tuy nhiên các thuật toán của phương pháp đa bước khá phức tạp và có độ ổn định kém hơn so với phương pháp một bước. Một phương pháp đa bước BDF dạng tổng quát áp dụng cho PTVPĐS (1) có dạng

0 0

1, , 0k

jn n j n jF t x x

β =−

=

Trong đó β0 và αj,j=0,1,…,k, là các hệ số của phương pháp BDF. Một phương pháp BDF k bước với bước lưới không đổi h có cấp chính xác là k, nếu tất cả các giá trị ban đầu chính xác đến cấp k và dùng phép lặp Newton để giải phương trình phi tuyến trong mỗi bước thì phương pháp sẽ có cấp chính xác là k+1. Để biết thêm chi tiết, xem thêm trong cuốn sách của Brenan xuất bản năm 1996.

5. Kết luậnBài báo đã trình bày một cách tổng quan về PTVPĐS, bắt

đầu từ khái niệm PTVPĐS là gì, những ví dụ trong thực tế xuất hiện PTVPĐS, tầm quan trọng của PTVPĐS. Tiếp đó chỉ ra một số phương pháp giải gần đúng PTVPĐS như phương pháp Euler, phương pháp Runge – Kutta, phương pháp đa bước và ưu nhược điểm của từng phương pháp./.

Page 39: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

76 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 77 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtCơ chế phản ứng của gốc propargyl (C3H3) và nước đã được nghiên cứu

bằng phương pháp phiếm hàm mật độ ở mức B3LYP/6-311++G(3df,2p).

Bề mặt thế năng, thông số nhiệt động của hệ phản ứng C3H3 và H2O

cũng đã được thiết lập. Các tính toán chứng tỏ rằng sản phẩm của phản ứng có thể là: (HOCH2CCH +

H), (CH2=CH-CHO + H), (C2H4 + HCO), (C2H5 + CO), (CH2=C=CH2 + OH). Tuy nhiên sản phẩm (CH2=C=CH2 + OH)

là dễ được tạo thành nhất về mặt năng lượng.

AbstractThe mechanism of reaction of propargyl

radical (C3H3) and water were studied by density function at B3LYP/6-

311++G(3df,2p). The surface potential, thermodynamic parameters of the

reaction system C3H3 and H2O had also been establwashed. Calculations showed that the product of the reaction could be:

(HOCH2CCH + H), (CH2 = CH-CHO + H), (C2H4 + HCO), (C2H5 + CO), (CH2 = C =

CH2 + OH). However, the product (CH2 = C = CH2 + OH) was most easily formed in

terms of energy.

ThS. Trần Hữu HưngBộ môn Hoá, Khoa Tại chức Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 26/5/2016 Ngày sửa bài: 03/6/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Mở đầuTrong hệ đốt cháy hiđrocacbon cũng như nhiên liệu hóa thạch đã hình thành các

hiđrocacbon thơm đa vòng và gốc propargyl (C3H3) được cho là có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành các hiđrocacbon thơm đó [1]. Hiện nay có một số công trình nghiên cứu thực nghiệm phản ứng của C3H3 với C3H3, O, NO2 [1-3]. và một số công trình nghiên cứu lý thuyết cơ chế phản ứng của gốc C3H3 đã được công bố [4,5]. Các kết quả đều chỉ ra rằng gốc C3H3 có khả năng phản ứng cao và đa dạng. Nước là hợp chất phổ biến trong khí quyển và được hình thành trong hầu hết của quá trình đốt cháy các chất hữu cơ. Đã có nhiều nghiên cứu của nước với các gốc tự do như: CCl2, CH, C2H, CCl, C2F..[6-9] nhưng chưa thấy công trình nào công bố kết quả nghiên cứu lí thuyết cũng như thực nghiệm phản ứng của gốc C3H3 với H2O. Do vậy việc nghiên cứu lý thuyết cơ chế phản ứng của C3H3 với H2O không những mở rộng hiểu biết về khả năng phản ứng gốc (C3H3) mà còn giải thích được sự hình thành các sản phẩm trong quá trình chuyển hóa từ C3H3.

2. Phương pháp tínhCấu trúc hình học của các chất phản ứng, các chất trung gian, trạng thái chuyển tiếp

và các sản phẩm đều được tối ưu theo phương pháp phiếm hàm mật độ ở mức B3LYP/6-311++G(3df,2p) [10]. Trong đó trạng thái chuyển tiếp đúng được xác thực bằng việc phân tích tần số dao động, tọa độ thực (IRC) của phản ứng. Ngoài ra độ nhiễm spin (s2) cũng được xem xét. Năng lượng điểm đơn cũng được tính với bộ hàm cơ sở B3LYP/6-311++G(3df,2p). Từ các kết quả nhận được sẽ xác định cấu trúc, năng lượng, tính các thông số nhiệt động ở 298K, áp suất 1 atm và thiết lập bề mặt thế năng của hệ [11]. Các tính toán được thực hiện trên phần mềm Gaussian 03 [12].

3. Kết quả và thảo luận3.1. Dự đoán khả năng phản ứngĐể sơ bộ dự đoán hướng phản ứng ưu tiên trong hệ C3H3 và H2O, chúng tôi đã tính và

phân tích năng lượng của các obitan phân tử (MO), một số kết quả được đưa ra ở bảng 1.Áp dụng lí thuyết obitan phân tử biên FMO (frontier molecular orbital) và kết quả tính ở

bảng cho thấy, giá trị ΔE nhỏ nhất ứng với mức năng lượng LUMOα của H2O và HOMOα của gốc C3H3. Do đó, khi phản ứng xảy ra thì mật độ electron sẽ dịch chuyển từ gốc C3H3 sang phân tử H2O. Hình ảnh các obitan biên được biểu diễn ở hình 1.

3.2. Cấu trúc hình học Cấu trúc hình học đã tối ưu hóa của hệ chất phản ứng, hợp chất trung gian (IS) và

trạng thái chuyển tiếp (TS) được biểu diễn ở hình 2.

Nghiên cứu lí thuyết phản ứng của gốc propargyl và nước bằng phương pháp phiếm hàm mật độResearch on theoretical reaction of propargyl radical and water by density function

Trần Hữu Hưng

Bảng 1. Giá trị năng lượng của HOMO và LUMO ở B3LYP/6-311++G(3df,2p)

E (HOMO) (hatree) E (LUMO) (hatree) ΔE(LUMO-HOMO) (hatree)C3H3 -0.22261 (HOMO α) -0.00742 (LUMO α) C3H3(α) – H2O(α) 0,31670

-0.28553 (HOMO β) -0.10445 (LUMO β) C3H3(β) – H2O(α) 0,21967H2O -0,32412 (HOMO α) -0,02506(LUMO α) H2O(α) - C3H3(α) 0,19755

H2O(α) - C3H3(β) 0,26047Bảng 2. Giá trị năng lượng các thông số nhiệt động học của hệ C3H3 với H2O ở 298K, 1atm

Đường phản ứng ΔGo(kcal/mol) ΔHo(kcal/mol) ΔHo(kcal/mol)(Thực nghiệm)[13]

P1(CH2=CHCHO + H) 16,08 12,15P2(C2H4 + HCO) -6,82 6,77P3 (C2H5 + CO) -25,78 -24,22 -22,5± 2P4 (HC≡CCH2OH+H) 42,5 39,08P5(CH2=C=CH2 + OH) 23,18 22,05 +21,4± 3

C3H3 H2OHOMO HOMOLUMO LUMO

Hình 1. Hình ảnh các HOMO và LUMO của C3H3 và H2O

TS0/1 IS1

TS1/2 IS2

TS2/P1 P1

TS2/4

TS4/P2

IS4

P2 = C2H4 + HCO

TS2/5 IS5

TS5/P3 P3 = C2H5 + CO

TS0/P5 TS4/P1

TS0/P4 P4

C3H3 H2O

Hình 2. Cấu trúc chất trung gian, trạng thái chuyển tiếp và sản phẩm của hệ phản ứng C3H3 + H2O

[Độ dài liên kết (Å), góc liên kết (0), dấu chấm thay cho dấu phẩy chỉ phần thập phân]

Page 40: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

78 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 79 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

3.3. Bề mặt thế năng và các thông số nhiệt độngTrên bề mặt thế năng của hệ C3H3 và H2O (Hình 3), hệ

chất tham gia phản ứng ban đầu được kí hiệu là RA, các sản phẩm kí hiệu là Pi, các hợp chất trung gian được kí hiệu là ISj, các trạng thái chuyển tiếp được kí hiệu là i/j. Từ kết quả tính năng lượng dao động điểm không và năng lượng điểm đơn xác định được các mức năng lượng tương quan của các cấu trúc so với năng lượng của hệ chất ban đầu tham gia phản ứng C3H3 + H2O (RA) được quy ước bằng 0.

Từ bề mặt thế năng ta nhận thấy: theo cơ chế tách TS0/P5 được hình thành do gốc C3H3 tách lấy hidro của phân tử nước hình thành sản phẩm P5(CH2=C=CH2 + OH) có năng lượng tương đối là 21,2 kcal/mol là năng lượng tương đối thấp nhất nên sản phẩm P5 là thuận lợi nhất về mặt năng lượng.

Sản phẩm P4(HOCH2CCH + H) được hình thành do gốc

C3H3 lấy OH của phân tử nước qua TS0/P4 có hàng rào năng lượng tương đối là +56,8 kcal/mol là năng lượng cao nhất nên sản phẩm P4 là khó được hình thành nhất về mặt năng lượng.

Cơ chế cộng H-OH vào vào cacbon C2 và C3 của gốc C3H3 qua các TS0/1 (+52,4 kcal/mol) tạo thành hợp chất trung gian IS1 (+0,05 kcal/mol), rồi qua các TS1/2, hợp chất trung gian IS2. Từ IS2 lại qua TS2/P1, TS2/4, TS2/5 thì con đường qua TS2/5 có năng lượng tương đối thấp nhất nên về mặt động học thì thứ tự sản phẩm ưu tiên là P3 >P2> P1.

Các thông số nhiệt động học của các đường phản ứng được tính bằng phương pháp phiếm hàm mật độ và giá trị của chúng được trình bày ở bảng 2.

Kết quả tính ở bảng 2 cho thấy về mặt nhiệt động học thì các phản ứng hình thành sản phẩm theo thứ

tự ưu tiên: P3> P2> P1> P5> P4. Qua so sánh chúng tôi thấy kết quả tính toán ΔHo

298 của 2 đường phản ứng P3 và P5 khá sát thực nghiệm. Từ đó có thể kết luận những kết quả tính toán theo lý thuyết sử dụng phương pháp B3LYP với bộ hàm 6-311++G(3df,2p) là đáng tin cậy.

4. Kết luậnChúng tôi đã tối ưu hóa được các các cấu trúc hình học

của chất phản ứng, hợp chất trung gian, trạng thái chuyển tiếp và các chất sản phẩm của hệ phản ứng C3H3 với H2O bằng phương pháp phiếm hàm mật độ B3LYP với bộ hàm 6-311++G(3df,2p). Đã thiết lập được bề mặt thế năng, giải thích cơ chế phản ứng của hệ và tính toán được các thông số nhiệt động của 5 sản phẩm. Từ đó cho thấy 5 sản phẩm đều có thể được tạo thành trong đó sản phẩm P5 (CH2=C=CH2 + OH) là dễ được tạo thành nhất về mặt năng lượng./.

Hình 3. Bề mặt thế năng của hệ phản ứng giữa C3H3 với H2O

T¿i lièu tham khÀo1. Eugene V. Shafir, Irene R. Slagle and Vadim D.Knyarev. Kinetics

and products of the self-reaction of propargyl radicals, J. Phys. Chem. A., Volume 107(42) 8893-8903, (2003).

2. Wolf D. Geppert, Arkke J. Eskola, Raimo S. Timonen, and Lauri Halonen. Kinetics of the reactions of vinyl (C2H3) and propargyl (C3H3) radicals with NO2 in the Temperature Range 220−340 K, J. Phys. Chem. A., 108(19), pages 4232–4238, (2004).

3. Irene R. Slagle, Grzegorz W. Gmurczyk, Leslie Batt, David Gutman. Kinetics of reaction between oxygen atoms and propargyl radicals, Symposium (International) on combustion., Volume 23, Issue 1, Pages 115–121; (1990).

4. Nguyễn Thị Minh Huệ, Đặng Thị Hồng Minh, Phạm Văn Tiến, Trương Thị Cẩm Mai. Nghiên cứu lý thuyết cơ chế phản ứng giữa gốc propargyl với phân tử oxi bằng phương pháp phiếm hàm mật độ, Tạp chí Hoá học., T.51(2C), 851-856, (2013).

5. Andrea Maranzana, Antonius Indarto, Giovanni Ghigo, Glauco Tonachini. First carbon ring closures started by the combustive radical addition of propargyl to butadiyne, Combustion and Flame., Volume 160, Issue 11, Pages 2333–2342, ( 2013).

6. Yunzhen Liu, Zhiqiang Zhang, Linsen Pei, Yang Chen, Congxiang Chen. Reaction kinetic studies of CCl2 ( ~ X(0,0,0)) with C2H2 and H2O molecules, Chemical Physics., Volume 303, Issue 3, Pages 255–263, (2004).

7. Z.-X Wang, M.-B Huang. Insertion reactions of CCl with NH3, H2O, and CH4: a theoretical comparative study on reactivity of CCl and CH, Journal of molecular structure., Volume 491, Issues 1–3, Pages 223–229, (1999).

8. Wang J1, Ding YH, Wu GB, Sun CC. Gaseous reaction mechanism of C2F radical with water, Journal of computational of chemistry., Volume 27(3), pages 363-367, (2005).

9. Shaun A. Carl, Hue Minh Thi Nguyen, Rehab Ibrahim M. Elsamra, Minh Tho Nguyen, and Jozef Peeters. Pulsed laser photolysis and quantum chemical-statistical rate study of the reaction of the ethynyl radical with water vapor, Journal of Chemical Physics., 122, 114307 (2005).

10. Frank Jensen; Introduction to Computational Chemistry; Second edition; John Wiley & Sons, Ltd (2007).

11. Joseph W.Ochterski; Thermochemistry in Gaussian, Inc, (2003).12. M. J. Frisch, G. W. Trucks, H. B. Schlegel, J. A. Pople; Gaussian,

Inc, Pittsburgh PA, (2003).13. P. J. Linstrom, and W. G. Mallard, Eds., NIST Chemistry

WebBook, NISTStandard Reference Database Number 69, March 2003, National Institute of Standards and Technology, Gaithersburg MD, 20899 (http://webbook.nist.gov).

Tóm tắtCông nghệ thông tin (CNTT) là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Ứng dụng và phát

triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, nguồn nhân lực về CNTT ở Việt

Nam hiện nay chưa thực sự mạnh, còn thiếu cả về chất lượng và số lượng. Do vậy, cần có giải pháp, kế hoạch và lộ

trình hợp lý để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT cho đất nước.

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội là cơ sở có bề dày truyền thống đào tạo gần 50 năm. Thực hiện Nghị quyết của

Đảng ủy, Nhà trường đã và đang nghiên cứu mở thêm một số mã ngành nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế; Trong đó ngành Công nghệ thông tin được Nhà trường ưu tiên

số 1.Bài báo này tập trung vào việc phân tích nhu cầu nhân

lực ngành CNTT và thực trạng đào tạo ngành CNTT tại Việt Nam, từ đó đưa ra đề xuất thành lập Khoa Công nghệ

thông tin phát triển từ Trung tâm Tin học ứng dụng tại Đại học Kiến trúc Hà Nội.

AbstractInformation Technology (IT) was one of the most important

factor of the national development. IT application and development contributed to liberate the physical strength the

intelligence of the whole nation, and promote the innovation of the country. However, IT human resource in Vietnam nowadays was lack of quality and quantity. Therefore, it was necessary to

had solutions, plans and reasonable route to train and cultivate the IT human resource for the country.

Hanoi Architectural University had a long tradition of training for nearly 50 years. Implementing the resolutions of the Party

Committee, the University had been researching to open some new majors to respond the actual demand; and the Information

Technology discipline was given the number one priority.This paper focuses on the analysis of IT human resource needs

and the situation of IT training in Vietnam, which proposes the establwashment of the Faculty of Information Technology

from the Applied Information Technology Center at Hanoi Architectural University.

ThS. Nguyễn Bá QuảngKhoa Công nghệ thông tin ĐT: 0932 243 589 Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 01/9/2016 Ngày sửa bài: 17/9/2016

Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

Đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin tại Trường Đại học Kiến trúc Hà NộiTraining in information technology at Hanoi Architectural University

Nguyễn Bá Quảng

1. Đặt vấn đềNguồn nhân lực cho ngành Công nghệ Thông tin ngày càng đối

mặt với nhiều thách thức khi nhu cầu và nhân lực của toàn xã hội tăng nhanh, doanh nghiệp gặp sức ép mạnh trước yêu cầu ngày càng tăng cao của khách hàng và sự cạnh tranh lẫn nhau, trong khi mô hình đào tạo lại chuyển mình quá chậm.

Nhu cầu về nguồn nhân sự công nghệ thông tin trên thị trường hiện nay đang tăng nhanh do nhiều yếu tố: sự tăng trưởng trong ứng dụng Công nghệ Thông tin của Chính phủ và doanh nghiệp; sau giai đoạn phát triển, Việt Nam bắt đầu hình thành thị trường có nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin; Hoạt động đầu tư của các tập đoàn Công nghệ Thông tin đa quốc gia vào Việt Nam ngày càng nhiều; Các ứng dụng với sự tăng trưởng của hạ tầng viễn thông và Internet.

Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Ưng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt, đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tác động của công nghệ thông tin đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người.

Công nghệ thông tin là chìa khóa để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là phương tiện quan trọng để quảng bá và nhân rộng nhanh vốn tri thức, động lực của sự phát triển, phát triển năng lực của con người.

Với tầm quan trọng như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực nhằm phục vụ việc xây dựng và bảo vệ đất nước là cần thiết và cấp bách.

Tuy nhiên, nguồn nhân lực về công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự mạnh, còn thiếu cả về chất lượng và số lượng. Do vậy, cần có giải pháp, kế hoạch và lộ trình hợp lý để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ công tin cho đất nước.

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội là cơ sở có bề dày truyền thống đào tạo gần 50 năm. Hiện tại, Trường có đội ngũ cán bộ giảng dạy đông đảo có trình độ cao, cơ sở vật chất của Nhà trường ngày càng được bổ sung hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đào tạo.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, Nhà trường đã và đang nghiên cứu mở thêm một số mã ngành nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế, trong đó ngành Công nghệ thông tin được Nhà trường ưu tiên số 1. Việc nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Khoa Công nghệ Thông tin trên cơ sở phát triển từ Trung tâm Tin học ứng dụng là việc làm cần thiết, cấp bách.

Mục tiêu của việc thành lập Khoa Công nghệ thông tin tại Đại học Kiến trúc Hà Nội là:

- Đa dạng hóa ngành nghề đào tạo.- Nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của Nhà trường.

Page 41: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

80 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 81 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

- Cung cấp nhân lực ngành Công nghệ Thông tin, đáp ứng yêu cầu xã hội. Đặc biệt là đào tạo, chuyên sâu về Công nghệ Thông tin phục vụ các lĩnh vực của ngành Xây dựng.

- Phát huy tiềm năng của đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất của Nhà trường, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Xây dựng và đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Kết hợp đào tạo với nghiên cứu để giải quyết những vấn đề khoa học do thực tiễn xã hội đặt ra trong quá trình đô thị hóa.

- Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên và tăng thu nhập cho giảng viên, cán bộ công nhân viên của trường.

2. Nguồn nhân lực CNTT và thực trạng đào tạo CNTT tại Việt Nam2.1. Thông tin chung về nhân lực ngành CNTT

Theo “Sách trắng về Công nghệ thông tin – Truyền thông Việt nam 2013” do Bộ Thông tin – Truyền thông công bố năm 2013:

- Số lượng trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về Công nghệ thông tin - Truyền thông (CNTT-TT): hiện nay đã có gần 300 trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước có đào tạo về CNTT-TT (Hình 1).

- Chỉ tiêu tuyển sinh Đại học, Cao đẳng ngành CNTT-TT: Chỉ tiêu tuyển sinh tăng dần theo từng năm (Hình 2).

Hình 1. Biểu đồ số lượng trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về Công nghệ thông tin - Truyền thông

Hình 2. Biểu đồ chỉ tiêu tuyển sinh Đại học, Cao đẳng ngành CNTT-TT

Hình 3. Biểu đồ tỷ lệ tuyển sinh Đại học, cao đẳng ngành Công nghệ thông tin - Truyền thông

- Tỷ lệ tuyển sinh Đại học, cao đẳng ngành Công nghệ thông tin - Truyền thông (Hình 3).

- Số lượng sinh viên ngành CNTT-TT đang theo học: (Chỉ xét loại hình đào tạo Cao đẳng, Đại học hệ chính quy) (Bảng 1)

- Số lượng lao động ngành CNTT-TT của Việt Nam (Bảng 2).

Từ những số liệu trên ta có thể nhận thấy nhu cầu về nguồn nhân lực trong ngành CNTT-TT liên tục tăng qua các năm, cụ thể số lao động trong lĩnh vực công nghiệp CNTT năm 2012 đã tăng gần 80% so với năm 2008 (qua 4 năm). Nắm bắt được nhu cầu về nhân lực CNTT-TT nên hiện đã có gần 300 trường đại học và Cao đẳng trong cả nước có đào tạo về lĩnh vực CNTT-TT.2.2. Đào tạo CNTT tại một số trường Đại học khối kỹ thuật ngành xây dựng

a. Khoa Công nghệ thông tin Đại học Giao thông Vận tải

Trường Đại học Giao thông Vận tải là một trường đào tạo chuyên ngành Giao thông vận tải. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực, từ năm 2000 trường đã bắt đầu chuyển sang đào tạo đa ngành, trong đó có ngành Công nghệ thông tin.

Khoa CNTT Đại học Giao thông Vận tải được thành lập trên cơ sở Bộ môn Tin học vào tháng 10 năm 2003. Cho đến nay trường Đại học Giao thông Vận tải đã đào tạo được hơn 10 khóa kỹ sư Công nghệ thông tin.

Từ năm học 2013-2014 Khoa đào tạo theo ngành Công nghệ thông tin tại trường và tại cơ sở 2 ở bậc đại học và cao học.

Một số thông tin vể tuyển sinh tại khoa CNTT Đại học Giao thông Vận tải:

(Nguồn: Một số kinh nghiệm đào tạo ngành CNTT tại trường Đại học Giao thông vận tải - TS. Phạm Thanh Hà - Trưởng khoa CNTT – ĐH GTVT; Kỷ yếu Hội thảo Nâng cao chất lượng đào tạo CNTT tại Đại học Kiến trúc Hà Nội 9/2014)

Kết quả tuyển sinh khóa 54: có 1200 thí sinh đăng ký thi ngành Công nghệ thông tin và Nhà trường đã tuyển được 261 thí sinh với điểm chuẩn 16, xấp xỉ điểm chuẩn của trường.

Kết quả tuyển sinh khóa 55: có 1650 thí sinh đăng ký thi ngành CNTT và số thí sinh đạt điểm 16.5 trở lên là 520 và Nhà trường đã tuyển được 299 thí sinh với điểm chuẩn 18.5, hơn điểm sàn của Trường 1.5 điểm.

Về đào tạo sau đại học: Năm 2013-2014 khoa CNTT đã tuyển sinh được 02 khóa cao học 21.1 và 21.2 với 70 học viên ở Hà Nội và TPHCM, khóa 22.1 đã tuyển sinh được 15 học viên tại Hà Nội và 11 học viên tại TPHCM.

Cơ cấu tổ chức:Khoa CNTT được tổ chức thành 3 bộ môn: Bộ môn

Mạng và các hệ thống thông tin; Bộ môn Công nghệ phần mềm; Bộ môn Khoa học máy tính.

b. Khoa Công nghệ thông tin Đại học Xây dựngKhoa Công nghệ thông tin Đại học Xây dựng được

thành lập vào năm 2001. Tiền thân của Khoa là Bộ môn Máy tính, được thành lập năm 1970. Khoa đào tạo Tin học Xây dựng từ năm 1991, đào tạo Tin học từ năm 2001 và đào tạo Cao học Toán ứng dụng từ 1991.

Hai ngành đào tạo chính của Khoa là:

- Ngành Kỹ sư Tin học: Cấp bằng Kỹ sư Công nghệ thông tin.

- Ngành Kỹ sư Tin học Xây dựng: Cấp bằng Kỹ sư Xây dựng, chuyên ngành Tin học Xây dựng.

Cơ cấu tổ chức Khoa CNTT ĐH Xây dựng được tổ chức thành 6 bộ môn:

Bộ môn Toán học; Bộ môn Toán học ứng dụng; Bộ môn Kỹ thuật hệ thống và Mạng máy tính; Bộ môn Công nghệ phần mềm; Bộ môn Tin học Xây dựng; Bộ môn Kỹ thuật máy tính.

c. Khoa Công nghệ thông tin Đại học Thủy lợiKhoa CNTT- Trường Đại học Thủy Lợi được thành lập từ

ngày 19/11/2001.Từ lúc ban đầu, với sự hợp nhất của Bộ môn Toán và

Trung tâm tin học, với một lực lượng giáo viên, cán bộ công nhân viên chỉ khoảng 30 người; ngày nay, số cán bộ giáo viên trong Khoa và Trung tâm tin học đã lên tới 60 người. Là một trong những khoa non trẻ trong nhà trường song ngay từ năm 2007, hàng năm khoa tuyển sinh 2 lớp với khoảng từ 120- 140 sinh viên. Số lượng kỹ sư ra trường nhận được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao, trong đó có nhiều bạn được đánh giá tốt về năng lực chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp.

Cơ cấu tổ chức:Khoa CNTT được tổ chức thành 4 bộ môn: Bộ môn Công

nghệ phần mềm; Bộ môn Khoa học máy tính; Bộ môn Kỹ thuật máy tính và mạng; Bộ môn Toán học.

3. Thực trạng đào tạo CNTT tại Đại học Kiến trúc Hà NộiTrường Đại học Kiến trúc Hà Nội đang có một Trung tâm

Tin học ứng dụng.* Chức năng:Là một đơn vị đào tạo của Trường, có chức năng tổ chức

giảng dạy các môn tin học cho các đối tượng sinh viên, học viên của Trường; tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, các hoạt động hợp tác trong nước và Quốc tế trong các lĩnh vực liên quan.

* Nhiệm vụ:+ Tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch giảng dạy,

học tập và chủ trì tổ chức giảng dạy các môn tin học; tham gia các hoạt động giáo dục khác theo chương trình, kế hoạch giảng dạy chung của Nhà trường;

+ Tổ chức triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ, chủ động khai thác các dự án hợp tác Quốc tế; phối hợp với các tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội;

+ Quản lý giảng viên, cán bộ, nhân viên thuộc Trung tâm theo phân cấp của Hiệu trưởng; Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị vật tư do Nhà trường giao để thực hiện nhiệm vụ được giao;

+ Quản lý chất lượng, nội dung, phương pháp đào tạo và nghiên cứu khoa học;

+ Tổ chức biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy, đề cương các môn học do Hiệu trưởng giao; tổ chức nghiên cứu cải tiến phương pháp giảng dạy, học tập; đề xuất xây dựng kế hoạch bổ sung, bảo trì thiết bị dạy học, thực hành, thực tập và thực nghiệm khoa học;

+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ giáo viên, viên chức, tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên và viên chức thuộc Trung tâm;

+ Chủ trì, phối hợp hoặc tham gia với các đơn vị khác có liên quan để thực hiện những nhiệm vụ khác theo sự phân công của Hiệu trưởng.

* Đội ngũ cán bộ giảng dạyĐội ngũ CBGD của Trung tâm có: 12 người (cộng thêm

02 thỉnh giảng). Trong đó: Bộ môn Tin học ứng dụng: 07 người; Bộ môn Tin học đại cương: 05 người. Trình độ: Tiến sĩ: 01 người; Thạc sĩ: 09 người; Kỹ sư: 02 người.

* Về công tác giảng dạy các môn tin họcTrung tâm Tin học ứng dụng bao gồm 2 bộ môn: Tin học

đại cương và Tin học ứng dụng.- Bộ môn Tin học đại cương phụ trách giảng dạy môn

học Tin học đại cương cho tất cả sinh viên và học viên trong Trường. Môn học Tin học đại cương có thời lượng 02 tín chỉ. Môn học cung cấp các kiến thức và kỹ năng cơ bản về công nghệ thông tin phục vụ cho việc học tập các môn Tin học ứng dụng và các môn chuyên ngành của trường.

- Bộ môn Tin học ứng dụng phụ trách công tác giảng dạy các môn học Tin học ứng dụng phù hợp với các chuyên ngành cho sinh viên và học viên trong trường. Môn Tin học

Bảng 1. Số lượng sinh viên ngành CNTT-TT đang theo học (Chỉ xét loại hình đào tạo Cao đẳng, Đại học hệ chính quy)

2010 2011 20122.1.4.1 Số lượng sinh viên đại học, cao đẳng CNTT-TT thực tế được tuyển 56.338 55.197 57.9172.1.4.2 Số lượng sinh viên đại học, cao đẳng CNTT-TT đang học 169.156 173.107 169.3022.1.4.3 Số lượng sinh viên đại học, cao đẳng CNTT-TT đã tốt nghiệp 34.498 41.908 40.233

Bảng 2. Số lượng lao động ngành CNTT-TT của Việt Nam

STT Số lao động 2008 2009 2010 2011 20123.1 Lĩnh vực công nghiệp CNTT 200.000 226.300 250.290 306.754 352.7423.1.1 Công nghiệp phần cứng 110.000 121.300 127.548 167.660 208.6803.1.2 Công nghiệp phần mềm 57.000 64.000 71.814 78.894 80.8203.1.3 Công nghiệp nội dung số 33.000 41.000 50.928 60.200 63.2423.2 Lĩnh vực viễn thông - - - 79.799 78.8193.3 Lĩnh vực bưu chính 54.834 54.685 48.964 49.295 47.6733.4 Lĩnh vực phát thanh truyền hình - - - 18.054 10.854*

Ghi chú: “-” Không có số liệu “*” Chưa bao gồm lao động của doanh nghiệp

(xem tiếp trang 87)

Page 42: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

82 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 83 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tóm tắtNhững năm gần đây, cùng với việc quỹ bảo trì

đường bộ đi vào hoạt động và thực hiện đấu thầu bảo trì đường bộ, nhờ đó mà chất lượng đường bộ đã được cải thiện rõ rệt từng bước thỏa mãn

theo tiêu chí 16 chữ: “Cầu đường êm thuận - Biển báo rõ ràng - Tai nạn giảm sâu - Chất lượng bền

vững”. Tuy nhiên, do hệ thống đường bộ cả nước qua nhiều năm khai thác, cộng với tốc độ gia tăng

mạnh phương tiện vận tải, nên mức độ hư hỏng cần sửa chữa là rất lớn, làm cho nhu cầu vốn cần

cho bảo trì đường bộ là rất lớn. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp huy động đáp ứng nhu cầu vốn cho bảo trì đường bộ được đặt ra là cần thiết và cấp

bách. Bài báo đề xuất việc thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của các tổ chức, cá

nhân sử dụng các công trình nằm trong hệ thống hạ tầng đường bộ nhằm mục đích kinh doanh,

kiếm lợi nhuận. Từ khóa: bảo trì, quỹ bảo trì đường bộ, vốn

cho bảo trì

AbstractIn recent years, Road Maintenance Funds have come into operation and tenders for road maintenance, so

that road quality has improved markedly, fulfilling the 16-letter criterion: "Smooth roads - Clear signs -

Accidents reduction - Quality sustainable". However, the road system throughout the country has been exploited

for many years, combined with a sharp increase in the number of means of transport, so the extent of

damage needed to be repaired is enormous, resulting in the need for capital for road maintenance is very big.

Therefore, it is necessary and urgent to find a solution to mobilize finacial for road maintenance. The paper

proposes the collection of charges for the use of road traffic infrastructure by organizations and individuals

using works located in the road infrastructure system for business purposes and for making profits.

Key word: Maintenance, Road Maintenance Funds, finacial for road maintenance

ThS. Nguyễn Thị Tuyết DungBộ môn Kinh tế nghiệp vụ, Khoa Quản lý đô thị Email: [email protected] ĐT: 0988740596

Ngày nhận bài: 14/8/2017 Ngày sửa bài: 01/9/2017 Ngày duyệt đăng: 11/1/2018

1. Đặt vấn đềNhiều năm trở lại đây, mặc dù tư duy về đầu tư cho quản lý bảo trì đường

bộ của ngành GTVT hiện đã có nhiều thay đổi, trong khi vốn cho đầu tư xây dựng mới hạn hẹp, thì chủ trương bố trí đủ vốn cho việc quản lý bảo trì, giúp giữ gìn đường sá và hạn chế đầu tư xây dựng mới, nhưng quỹ bảo trì đường bộ hàng năm mới chỉ đáp ứng khoảng trên 50% nhu cầu vốn cho bảo trì mạng lưới đường bộ. Từ đó cho thấy, bằng các nguồn hiện tại chưa đáp ứng nhu cầu vốn ngày một tăng cho bảo trì mạng lưới đường bộ từ quỹ bảo trì đường bộ.

Như vậy, vấn đề đặt ra là để đáp ứng nhu cầu vốn thiếu hụt ngày một tăng cho bảo trì đường bộ thì lấy ở đâu? Của ai? Và bằng cách nào?

2. Một số chủ trương, chính sách về việc huy động nguồn vốn cho công tác bảo trì đường bộ

Trong các quyết định số 355/QĐ-TTg về phê duyệt điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và quyết định số 356/QĐ-TTg về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng chính phủ đều nêu rõ quan điểm: coi trọng công tác quản lý, bảo trì; huy động tối đa mọi nguồn lực, coi trọng nguồn lực trong nước để đầu tư phát triển; người sử dụng có trách nhiệm đóng góp phí sử dụng để bảo trì và tái đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Năm 2012, thực hiện Luật Giao thông đường bộ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 về Quỹ Bảo trì đường bộ với mục đích thu phí sử dụng đường bộ trên đầu phương tiện ô tô, thay thế cho hình thức thu phí qua các trạm thu phí nộp ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo trì đường bộ là Quỹ của Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước. Quỹ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Như vậy, ngành đường bộ có một quỹ ổn định cho công tác quản lý, bảo trì, chất lượng của công tác bảo trì được cải thiện rõ rệt.

Quỹ bảo trì đường bộ được hình thành từ các nguồn sau: phí sử dụng đường bộ thu hàng năm trên đầu phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; ngân sách nhà nước cấp bổ sung hàng năm cho Quỹ; các nguồn thu liên quan đến sử dụng đường bộ và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Nhờ đó, nguồn vốn dành cho công tác bảo trì KCHT GTĐB đã tăng đáng kể.

Bảng 1 cho thấy nguồn vốn cho Quỹ bảo trì đường bộ ngày một tăng, trung bình đạt trên 10%/năm. Nhưng mức tăng này chỉ đủ bù tỷ lệ lạm phát. Nếu chỉ tính nguồn thu từ phí sử dụng đường bộ trên đầu phương tiện ô tô thì mới đáp ứng chưa đến 50% nhu cầu. Hàng năm, ngân sách Nhà nước vẫn phải cấp bổ sung thêm, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu bảo trì. Điều này đòi hỏi chính phủ cần có nhiều biện pháp quyết liệt hơn, tạo thêm nguồn thu hợp pháp cho Quỹ Bảo trì đường bộ để đảm bảo có một nguồn vốn đầy đủ, ổn định và bền vững dành cho công tác này.

Theo quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008, trong phạm vi đất dành cho đường bộ, chỉ được bố trí một số công trình thiết yếu, phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép, gồm công trình phục vụ quốc phòng, an ninh, công trình phục vụ quản lý, khai thác đường bộ, công trình viễn thông, điện lực, đường ống cấp, thoát nước, xăng, dầu, khí. Nhằm huy động thêm nhiều nguồn lực để bảo trì và phát triển hệ thống giao thông đường bộ, chính phủ đã ban hành nghị định 10/2013/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, nhằm tạo nguồn vốn phục vụ bảo trì và phát triển tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Một số đề xuất huy động vốn cho bảo trì đường bộ từ việc thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộSome proposals for mobilizing finacial for road maintenance from the collection charges for the use of road traffic infrastructure

Nguyễn Thị Tuyết Dung

Nghị định đề cập đến ba hình thức khai thác tài sản hạ tầng đường bộ để tạo vốn cho phát triển đường bộ, đó là: Bán quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ; cho thuê quyền khai thác tài sản hạ tầng đường bộ; chuyển nhượng có thời hạn tài sản hạ tầng đường bộ.

Bán quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ: là việc Nhà nước chuyển giao quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ cho tổ chức, cá nhân thực hiện trong một thời hạn nhất định theo Hợp đồng để nhận một khoản tiền tương ứng. Việc bán quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ được thực hiện theo hình thức đấu giá và chỉ áp dụng đối với đường bộ đã được xây dựng.

Cho thuê quyền khai thác tài sản hạ tầng đường bộ: Là việc Nhà nước chuyển giao quyền khai thác tài sản hạ tầng đường bộ cho tổ chức, cá nhân thực hiện trong một thời hạn nhất định theo Hợp đồng để nhận một khoản tiền tương ứng. Việc cho thuê quyền khai thác tài sản hạ tầng đường bộ được thực hiện theo hình thức đấu thầu, được áp dụng đối với tài sản hạ tầng đường bộ đã được xây dựng, bao gồm:

+ Bến xe, bãi đỗ xe, nhà hạt quản lý đường bộ, trạm dừng nghỉ;

+ Các công trình hạ tầng kỹ thuật là đường dây, cáp (điện lực, chiếu sáng, thông tin liên lạc), đường ống (cấp nước, thoát nước, cấp nhiên liệu) và các công trình khác lắp đặt vào đường bộ và hành lang an toàn đường bộ theo quy định của pháp luật.

Chuyển nhượng có thời hạn tài sản hạ tầng đường bộ: Là việc Nhà nước chuyển giao quyền đầu tư nâng cấp, mở rộng và quyền khai thác tài sản hạ tầng đường bộ trong một thời hạn nhất định theo Hợp đồng để nhận một khoản tiền tương ứng. Việc chuyển nhượng có thời hạn tài sản hạ tầng đường bộ được thực hiện thông qua hình thức đấu giá, được áp dụng đối với tài sản hạ tầng đường bộ hiện có đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng, bao gồm: Công trình đường bộ; bến xe, bãi đỗ xe, nhà hạt quản lý đường bộ, trạm dừng nghỉ.

Số tiền thu được từ bán quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ, cho thuê tài sản hạ tầng đường bộ, chuyển nhượng có thời hạn tài sản hạ tầng đường bộ sau khi trừ các chi phí có liên quan được sử dụng để đầu tư phát triển và bảo trì tài sản hạ tầng đường bộ theo quy định của pháp luật

về ngân sách nhà nước.Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về việc

thu khoản tiền này về ngân sách Nhà nước hoặc nộp về Quỹ Bảo trì đường bộ để tăng nguồn dành cho công tác bảo trì hệ thống hạ tầng đường bộ.

3. Đề xuất huy động vốn cho bảo trì đường bộTrong khi trên suốt chiều dài hệ thống đường bộ nước ta

hiện nay khoảng trên 295.046Km, có rất nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật là đường dây, cáp (điện lực, chiếu sáng, thông tin liên lạc), đường ống (cấp nước, thoát nước, cấp nhiên liệu) và các công trình khác lắp đặt trong phạm vi kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ do các cá nhân và tổ chức thực hiện. Các tổ chức và cá nhân sử dụng các công trình nằm trong hệ thống kết cấu đường bộ đều nhằm mục đích kinh doanh kiếm lợi nhuận, nhưng chưa phải trả tiền thuê sử dụng hệ thống kết cấu đường bộ. Do đó, việc các tổ chức và cá nhân này phải bỏ ra một phần lợi nhuận để chi trả cho việc sử dụng kết cấu hạ tầng đường bộ nhằm mục đích kinh doanh là điều tất yếu và là thực tế khách quan, thực hiện đúng chủ trương người sử dụng có trách nhiệm đóng góp phí sử dụng để bảo trì và tái đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Nguồn thu này nếu được thực hiện thu đúng, thu đủ sẽ góp phần không nhỏ làm tăng nguồn lực của Quỹ. Qua khảo sát thực tế một số tổ chức có hệ thống lắp đặt trong phạm vi hệ thống kết cấu giao thông đường quốc lộ, có thể lấy một ví dụ như bảng sau đây:

Qua số liệu sơ bộ nêu trên, có thể thấy nếu chỉ thu 1% trên doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông này đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu bảo trì đường bộ hiện đang thiếu hụt, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.

Do việc huy động thêm nguồn lực xã hội từ việc thu tiền thuê của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc khai thác và sử dụng hệ thống kết cấu đường bộ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: Viễn thông, nhiên liệu, điện năng, quảng cáo... việc thu khoản tiền này chắc chắn làm tăng giá các giá các dịch vụ như: giá điện, giá cước viễn thông, giá nhiên liệu... Trên phạm vi toàn xã hội sẽ làm tăng chi phí xã hội mặc dù khoản tăng này không nhiều (như đề xuất chỉ tương đương 1% doanh thu của các tổ chức tham gia khai thác hệ thống kết cấu đường bộ).

Bảng 1. Nguồn vốn và nhu cầu vốn của Quỹ bảo trì đường bộ giai đoạn 2013-2016Đơn vị: tỷ đồng

TT Nguồn thu Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

I Tổng kinh phí của Quỹ 6.906,267 8.059,896 9.507,922 10.420,542 Trong đó:1 - Thu phí sử dụng đường bộ (từ

Cục ĐKVN và xe ô tô của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng)

5.434,54 4.928,396 5.702,997 6.375,145

2 - Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung 1.471,730 2.447,876 3.100 3.500

3 - Các đơn vị nộp lại Quỹ 22,759 24,490 58,1134 - Kinh phí năm trước chuyển

sang sau quyết toán 660,865 680,435 487,283

II Nhu cầu vốn cho công tác bảo trì hàng năm 11.063 12.995 13.797 15.427,48

Nguồn:[3] [6]

Page 43: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

84 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 85 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Tuy nhiên, việc tăng thêm nguồn lực cho bảo trì hệ thống kết cấu đường bộ sẽ làm chất lượng đường bộ được nâng lên, nhiều tuyến đường quan trọng sẽ được nâng cấp mở rộng, mặt đường êm thuận tạo điều kiện cho giao thông được thông suốt, an toàn và rút ngắn thời gian di chuyển; mặt khác lưu lượng hàng hóa được vận chuyển qua hệ thống giao thông đường bộ nước ta chiếm tỷ trọng cao, do vậy khi lưu thông tốt sẽ dẫn đến giảm chi phí nhiên liệu, số vòng quay sử dụng phương tiện vận tải tăng lên làm lưu lượng hàng hóa cũng tăng và cuối cũng sẽ làm giảm giá cước vận tải giảm xuống, dẫn đến chi phí xã hội cũng giảm xuống và sự giảm này còn lớn hơn so với sự tăng giá như đã nêu trên.

Trên cơ sở đó, việc thu tiền thuê sử dụng kết cấu giao thông đường bộ nếu xét trên phạm vi một doanh nghiệp hoặc một ngành cụ thể ban đầu có thể tạo ra sự chưa đồng thuận đối với tổ chức đó, tuy nhiên nếu xét trên bình diện toàn xã hội thì sẽ thấy việc nâng cao chất lượng hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ từ việc cung cấp đủ vốn cho công tác bảo trì không những giúp làm giảm chi phí cho toàn xã hội mà còn giảm chi phí cho chính bản thân tổ chức đó.

4. Giải pháp thực hiện đề xuấtĐể thực hiện được việc huy động vốn từ việc sử dụng,

khai thác tài sản KCHT GTĐB, cần xây dựng cơ chế, chính sách đầy đủ, tạo lập hành lang pháp lý đủ mạnh để Nhà nước điều tiết nguồn lực này theo hướng coi đây là một nguồn tài chính to lớn, quan trọng cho công tác bảo trì đường bộ. Cụ thể, Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn chi tiết về hình thức cho thuê quyền khai thác tài sản là kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo đúng tinh thần của Luật Giao thông đường bộ, Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 về Quỹ Bảo trì đường bộ, Nghị định số 10/2013/NĐ-CP ngày 11/3/2013 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Khi thực hiện thu tiền thuê tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ ban đầu sẽ tạo tâm lý chưa đồng thuận trong xã hội vì e ngại làm tăng chi phí xã hội. Cần phối hợp với các cơ quan báo chí, đài truyền hình, đài tiếng nói Việt Nam (VOV)... để kịp thời hướng dẫn và truyền tải thông tin về Quỹ bảo trì

đường bộ, về việc thu tiền thuê sử dụng hệ thống kết cấu đường bộ tạo thêm nguồn thu cho Quỹ, giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo trì đường bộ. Bởi vì xét trên góc độ kinh tế, việc xem nhẹ vai trò của công tác bảo dưỡng, sửa chữa đường bộ sẽ sớm muộn phải trả giá bằng những chi phí lớn hơn rất nhiều vì phải sửa chữa lớn hoặc xây dựng lại. Những khiếm khuyết của công tác bảo trì có những tác hại nghiêm trọng hơn những khiếm khuyết của các lĩnh vực khác. Thứ nhất, nếu không được bảo trì kịp thời, đúng quy trình, đường sá sẽ nhanh chóng xuống cấp, dẫn đến ngoài những tổn thất mà ngành đường bộ phải gánh chịu, thì người sử dụng đường trên những con đường xuống cấp phải chịu những tổn thất lớn hơn rất nhiều. Sau nữa, giá thành vận tải tăng cao, hạn chế sự liên kết các thị trường kinh tế và làm giảm bớt sinh lực của các hoạt động phụ thuộc vào vận tải đường bộ. Thứ hai, khi sự suy giảm của chất lượng đường bộ tăng tốc theo thời gian, hiện tượng này làm cho người ta chưa kịp nhận thức được sự cần thiết của một đợt bảo dưỡng, sửa chữa thì tình trạng chất lượng đã suy giảm rõ rệt, tới mức đòi hỏi phải khôi phục lại hoặc làm lại với phí tổn lớn hơn nhiều. Do đó, cần phải ý thức rằng, việc chi trả khoản tiền thuê sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông này chính là quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức có liên quan./.

Bảng 2. Doanh thu từ dịch vụ viễn thôngĐơn vị tính: tỷ đồng

TT Diễn giảiDoanh thu từ dịch vụ viễn

thông Doanh thu bình quân năm

Dự kiến thu tiền thuê sử dụng

KCHT đường bộNăm 2014 Năm 2015I Thu từ việc lắp đặt hệ thống viễn

thông

1 VNPT 2.600 3.280 2.940 292 Mobiphone 7.300 7.300 7.300 733 Viettel 40.532 45.800 43.166 432II Thu từ một số hệ thống khác1 Đường ống dẫn nhiên liệu

Petro Việt Nam (PVN) 700.000 560.000 630.000 6.3002 Đường cáp ngầm dẫn điện

EVN 189.831 224.000 206.915 2.069……Tổng cộng: 940.263 840.380 890.321 8.903

Nguồn: ICTnews, Fica.vn, cafef.vn, [6]

T¿i lièu tham khÀo1. Chính phủ, Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 về

Quỹ bảo trì đường bộ. Nghị định số 56/2014/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 18/2012/NĐ-CP. Nghị định số 28/2016/NĐ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2016 sửa đổi một số điều của Nghị định số 56/2014/NĐ-CP và Nghị định số 18/2012/NĐ-CP.

2. Chính phủ, Nghị định số 10/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 về việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

3. Bộ Giao thông vận tải, Báo cáo tổng kết năm 2013, 2014, 2015, 2016, triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm tiếp theo.

4. Bộ GTVT, Sử dụng hiệu quả Quỹ bảo trì đường bộ, 20/09/2013.5. Quốc hội, Luật Giao thông đường bộ, 2008.6. Tạ Quang Hưng, Đề tài tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị:

Đề án huy động nguồn vốn và phát huy hiệu quả sử dụng trong công tác bảo trì đường bộ, 2016.

Đổi mới phương pháp học tiếng Anh cho sinh viên trường Đại học Kiến trúc Hà NộiImproving English learning method for Hanoi Architecture University students

Trần Thị Mai Phương

Tóm tắtTrong những năm qua,chất lượng đào

tạo tiếng Anh ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, trình độ tiếng Anh của sinh viên

nói chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về đội

ngũ trí thức mới- năng động, giỏi chuyên môn và giỏi ngoại ngữ. Bài viết này xin nêu lên một vài yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả họctập tiếng

Anh của sinh viên trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và đề xuất một số giải pháp

giúp các em có phương pháp học tập môn tiếng Anh tốt hơn.

AbstractIn the last few years, the quality of English

training in Hanoi Architecture University (HAU) had been gradually improved. However,

the English capacity of HAU students in general do not meet the social needs of the new intellectuals who were active,

professional and good at foreign languages. This paper mentions some main factors

that affect the English training quality and learning results of HAU students and proposes

some solutions of learning methods.

ThS. Trần Thị Mai PhươngTrung tâm Ngoại ngữĐT: 0982603566

1. Đặt vấn đề Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tiếng Anh luôn được xem là một

ngôn ngữ quốc tế, là phương tiện giao tiếp quốc tế.Việt Nam là một đất nước đang phát triển, nó cũng không nằm ngoài sự phát triển của thế giới. Vì vậy, tiếng Anh là một công cụ đắc lực, hỗ trợ cho chúng ta hội nhập, hợp tác để phát triển. Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO thì tiếng Anh lại càng trở nên cần thiết hơn.Việc giảng dạy và học tập tiếng Anh ở Việt Nam nói chung và ở trường Đại học Kiến Trúc nói riêng trong thời kì hội nhập cần có những đổi mới mạnh mẽ về cả nội dung lẫn phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Những năm gần đây, trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội đã đầu tư xây dựng thêm các phòng học mới để đáp ứng qui mô đào tạo ngày càng tăng, trang bị thêm nhiều trang thiết bị hiện đại để đáp ứng yêu cầu giảng dạy như: máy vi tính, máy in, máy quét, máy chiếu,… Giáo viên tiếng Anh đã không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra, đánh giá, thay đổi giáo trình, sử dụng thiết bị hiện đại trong giảng dạy. Chất lượng đào tạo tiếng Anh ở trường đã từng bước được cải thiện và nâng cao.Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà kết quả học tập của các em vẫn còn thấp, trình độ tiếng Anh của sinh viên sau khi ra trường phần nào vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng và của xã hội. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo như: nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, cơ sở vật chất, tài chính, thời lượng môn học, môi trường giáo dục, chất lượng đầu vào của sinh viên... Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả xin nêu lên một vài yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả học tập tiếng Anh của sinh viên và đề xuất một số giải pháp về phương pháp học tập môn tiếng Anh cho sinh viên Đại học Kiến Trúc Hà Nội. Trong đó bao gồm: việc đổi mới về nhận thức, đổi mới về phương pháp học tập trên lớp và phương pháp tự học ngoài giờ lên lớp của sinh viên.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả học tập tiếng Anh của sinh viên Đại học Kiến trúc Hà Nội

Qua kết quả điều tra, khảo sát mới đây về kết quả học tập môn tiếng Anh theo học chế tín chỉ cho thấy tỉ lệ sinh viên phải học lại, thi lại môn tiếng Anh khá cao (gần 30%). Ở nhiều lớp, con số này còn lớn hơn rất nhiều.Đây là một thực tế đáng lo ngại mà một phần trách nhiệm không nhỏ thuộc về phía người học.Trong đó, thái độ hay động cơ học tập, phương pháp học tập của sinh viên là những yếu tố chính ảnh hưởng tới chất lượng của môn học này. Với lượng đào tạo hiện nay ( 90 tiết trên lớp) thì giáo viên không đủ thời gian để truyền tải hay giảng giải toàn bộ nội dung bài học, rèn luyện cho các em cả bốn kĩ năng tiếng Anh một cách đầy đủ, hiệu quả. Tâm lý chung của sinh viên là xem môn học này như một môn điều kiện, một môn phụ nên ít đầu tư, quan tâm thực sự cho học tập. Một thực trạng phổ biến nữa là việc sinh viên không tích cực đến lớp, sinh viên học tiếng Anh trong trường để đối phó với các kì thi, lấy điểm điều kiện để hoàn thành chương trình học. Chính điều này đã ảnh hưởng nhiều tới kết quả học tập của các em dẫn đến tình trạng số lượng sinh viên thi lại, học lại môn tiếng Anh ở trường là rất lớn.

Mặc dù sinh viên đã trải qua hệ tiếng Anh 7 năm trước khi vào đại học, nhưng phương pháp học tiếng Anh ở phổ thông khác với phương pháp học đại học, do đó sinh viên gặp nhiều khó khăn trong việc học tập và tiếp cận phương pháp giảng dạy mới, trong môi trường mới. Giáo dục ngoại ngữ ở trung học phổ thông Việt Nam chủ yếu vẫn đang áp dụng phương pháp giảng dạy truyền thống trong đó “người thầy được coi là người toàn trí, người có quyền lực tối cao trong mọi hoạt động dạy học” và môi trường học tập chủ yếu vẫn là môi trường lấy người dạy làm trung tâm. Phương pháp này đã phát huy tác dụng trong việc học lý thuyết, giải thích hiện tượng ngữ pháp… Song phương pháp này không động viên người học chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Tình trạng thầy giảng, trò ghi dẫn đến sinh viên gặp rất nhiều khó khăn khi thực hành tiếng, hiệu quả thu được không cao. Sau khi ra trường, nhiều sinh viên không thể sử dụng và dùng tiếng Anh làm “công cụ” để thuyết phục các nhà

Page 44: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

86 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 87 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

tuyển dụng. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy ý thức học tập và

phương pháp học tiếng Anh của sinh viêntrường Đại học Kiến Trúc nói chung chưa phù hợp, dẫn đến việc sinh viên học tiếng Anh nhưng không thể sử dụng được là một thực tế đáng lo ngại.

Để nâng cao chất lượng đào tạo môn tiếng Anh, tác giả xin đề xuất một vài giải pháp nhằm giúp sinh viên phần nào cải thiện được chất lượng học tập môn tiếng Anh.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập tiếng Anh của sinh viên trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Từ năm học 2008 – 2009 trường Đại học Kiến trúc bắt đầu đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Trong hình thức đào tạo theo tín chỉ, giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người hỗ trợ sinh viên, hướng dẫn họ chọn và xử lý thông tin. Ngoài ra giáo viên đóng vai trò cố vấn và là nguồn tham khảo có giá trị cho người học, giúp người học tháo gỡ những khó khăn trong quá trình học tập và nghiên cứu.Còn với người học thì sao? Vai trò của họ được phát huy tối đa: người học phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập dựa trên sự hướng dẫn, trợ giúp của giáo viên và ảnh hưởng của môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, trước kia thời lượng môn tiếng Anh theo hệ niên chế là 360 tiết, trong đó có 300 tiết tiếng Anh cơ bản còn lại 60 tiết là tiếng Anh chuyên ngành. Từ năm học 2008 – 2009, nhà trường bắt đào tạo theo hệ tín chỉ. Thời lượng môn tiếng Anh là 180 tiết, trong đó 90 tiết tiếng Anh cơ bản học trên lớp và 60 tiết tự học; 30 tiết tiếng Anh chuyên ngành. Trong hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ, vai trò của người học cần phải được phát huy tối đa. Vậy làm thế nào để người học phát huy được tối đa vai trò của mình trong quá trình học tập? Trước hết họ phải đổi mới về nhận thức, đổi mới cả phương pháp học trên lớp và phương pháp tự học, tự lập kế hoạch học tập, nghiên cứu.

3.1. Đổi mới về nhận thứcTrong hoàn cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, người sinh

viên phải đổi mới mục tiêu học tập để được đào tạo thành người có năng lực thu thập thông tin, xử lí thông tin, năng lực ứng dụng và giải quyết vấn đề, năng lực nhận thức độc lập và tư duy sang tạo, năng lực làm việc đồng đội, năng lực thích ứng cao với môi trường làm việc thay đổi không ngừng. Muốn học ngoại ngữ có hiệu quả, người học trước tiên phải có động cơ, mục tiêu học tập.Hai nhà ngôn ngữ học nổi tiếng là Gardner và Lambert đã chỉ ra rằng: “những người học có động cơ tốt, có thái độ tích cực đối với ngôn ngữ họ theo học hay những người muốn hòa nhập với nền văn hóa của cộng đồng ngôn ngữ định học học sẽ hiệu quả hơn so với những người học không có mục đích và động cơ rõ ràng”. Như vậy, động cơ và thái độ học tập tích cực đóng vai trò quan trọng, giúp người học chủ động trong việc lĩnh hội ngôn ngữ.

3.2. Đổi mới về phương pháp học trên lớpNhững năm trước đây, phương pháp được sử dụng

phổ biến nhất trong dạy tiếng Anh là phương pháp truyền thống, thiên về dạy ngữ pháp, từ vựng và đọc - dịch. Áp dụng phương pháp này, sinh viên lên lớp ngồi lắng nghe thầy cô giáo giảng giải, phân tích ngữ pháp và tìm kiếm những cách diễn đạt tương đương trong tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, phương pháp giảng dạy hiện đại là lấy người học làm trung tâm “Learners-centres Approach”, trong phương pháp này người học cần chủ động, sáng tạo, tích cực trong học tập, còn giáo viên chỉ đóng vai trò cố vấn.

Trong cách học của sinh viên, các em cần chú trọng đến

phương pháp tự học. Có hình thành được phương pháp tự học, sinh viên mới có thể thích ứng nhanh với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ và trong bối cảnh khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ. Trên lớp sinh viên có thể học theo những cách thức khác nhau: giáo viên nêu các hiện tượng ngữ pháp, sinh viên có thể phân tích các bằng chứng ngôn ngữ để tự rút ra các quy tắc ngữ pháp cho mình. Bên cạnh tự học, sinh viên cần chú ý đến cùng học. Cùng học theo nhóm, tổ, lớp mới rèn luyện cho sinh viên khả năng hợp tác, khả năng thuyết phục và khả năng quản lí. Các em có thể làm việc theo từng nhóm để cùng nghiên cứu một bài học hay từ vựng. Làm việc theo nhóm có thể là “đóng vai” (trong đó người học được đóng các vai giao tiếp khác nhau) càng giống thực tế càng tốt, ví dụ vai nhà tư vấn du học với khách hàng, nhà thiết kế/xây dựng với khách hàng v.v… cũng có thể là “mô tả và vẽ” (trong đó một sinh viên mô tả một bức tranh để sinh viên khác vẽ lại mà không được nhìn vào bản chính) v.v…

Để giờ học trên lớp thật sự hiệu quả sinh viên cần:- Sẵn sàng nghe giảng: Sinh viên không chỉ chú ý lắng

nghe mà còn tập trung toàn bộ trí tuệ cũng như hứng thú vào bài giảng để nắm bắt được vấn đề chính của bài học.

- Sẵn sàng thử nghiệm: Sinh viên nên mạnh dạn và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động học tập.

- Sẵn sàng đặt câu hỏi: Khi gặp một vấn đề mà sinh viên chưa nắm bắt được, sinh viên nên mạnh dạn trao đổi, tranh luận với bạn hoặc giáo viên để hiểu rõ vấn đề đó. Nhu cầu muốn tìm hiểu vấn đề là một yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của việc học.

- Sẵn sàng tìm phương pháp học tốt nhất cho mình: Có nhiều phương pháp học tập khác nhau, nhưng chỉ khi sinh viên tìm được phương pháp học phù hợp với điều kiện và sở thích của mình thì việc học tập của sinh viên mới có hiệu quả.

- Sẵn sàng đón nhận việc người khác chữa lỗi cho mình: Trong quá trình học tập, sinh viên nên sẵn sàng tiếp thu những ý kiến đóng góp về những lỗi mà mình mắc phải, qua đó sinh viên có thể rút kinh nghiệm để không lặp lại lỗi sai đó và giúp mình học tập tốt hơn.

- Hạn chế sử dụng tiếng mẹ đẻ trên lớp: Sinh viên cố gắng tự tạo ra một môi trường sử dụng ngôn ngữ đang học để giao tiếp và hạn chế sử dụng tiếng mẹ đẻ. Trong môi trường này, sinh viên được thực hành ngôn ngữ hiệu quả hơn.

3.3. Đổi mới về phương pháp tự học sau giờ lên lớpSau giờ lên lớp việc tự học, ôn lại những kiến thức, làm

bài tập là một việc làm rất quan trọng và không thể thiếu được trong toàn bộ quá trình học tập. Học ngoại ngữ là học giao tiếp. Vì vậy, sinh viên hãy tìm bạn để cùng học tập, cùng trao đổi vì khi giao tiếp với các bạn khác mình có thể học tập được nhiều điều từ bạn và không phải chịu nhiều áp lực như khi phải nói trước lớp. Có rèn luyện như vậy, lên lớp sinh viên sẽ tự tin hơn và học tập có hiệu quả hơn. Ngoài ra, sinh viên có thể tự học theo nhiều cách khác như: tham gia các câu lạc bộ nói tiếng Anh do lớp, khoa hoặc trường tổ chức, các chương trình học tiếng bằng âm thanh và hình ảnh qua CD, DVD, TV, radio, các chương trình học tiếng Anh trên mạng internet, kim từ điển học tiếng Anh. Nguồn tài liệu và giáo trình học tập trong và ngoài trường rất phong phú, đa dạng giúp sinh viên có nhiều điều kiện tiếp cận với tiếng Anh nhiều hơn.

3. Kết luậnNâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh là nhiệm vụ quan

trọng, cấp bách không chỉ của nhà trường, giáo viên mà nó đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực của các em sinh viên. Với động cơ, thái độ và phương pháp học tập chủ động, tích cực, sinh viên sẽ cảm thấy hứng thú hơn trong việc học tiếng Anh. Qua đó, trình độ và kết quả học tập tiếng Anh của sinh viên được nâng cao, có thể đáp ứng phần nào nhu cầu bức thiết của toàn xã hội: cần có những cán bộ giỏi về chuyên môn và thông thạo về một hoặc nhiều ngoại ngữ. Hy vọng những kinh nghiệm cá nhân nêu trên có thể giúp cho sinh viên thay đổi phần nào về nhận thức, phương pháp học tập tiếng Anh trên lớp cũng như việc tự học tiếng Anh ngoài giờ. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía đồng nghiệp và các em sinh viên./.

T¿i lièu tham khÀo1. Jeremy Harmer.(1997).Dạy tiếng Anh như thế nào?NXB Văn

hóa Sài Gòn.2. Nguyễn Quốc Hùng. (1999). Tư tưởng giáo học pháp nhận

biết và sáng tạo. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh3. Gardner, R. C., & Lambert, W. E. (1972). Attitudes and

motivation in second language learning. Rowley, MA: Newbury House.

ứng dụng được biên soạn theo 12 đề cương khác nhau, phục vụ cho 13 chuyên ngành đào tạo (Kiến trúc, Thiết kế đồ họa, Thiết kế nội thất, Quy hoạch vùng và đô thị, Kiến trúc cảnh quan, Xây dựng dân dụng và công nghiệp, Xây dựng công trình ngầm, Công nghệ kỹ thuật Vật liệu xây dựng, Cấp thoát nước, Kỹ thuật Hạ tầng đô thị, Kỹ thuật Môi trường đô thị, Quản lý xây dựng, Kinh tế Xây dựng). Khối lượng các môn Tin học ứng dụng hiện tại đang thực hiện là 03 hoặc 05 tín chỉ (ngành Quy hoạch và Quản lý xây dựng là 05 tín chỉ: 03 tín chỉ tin học ứng dụng + 02 tín chỉ GIS). Sinh viên và học viên được học, trang bị và ứng dụng trên nhiều phần mềm: ACAD, Photoshop, 3D Max, Corel draw, Quark Xpress, Excel, SAP, ETABS, Plaxis, MATLAB, Epanet, Nova, MapInfo, Access, Hệ quản trị cơ sở dữ liệu Visual FOX, Arc GIS,...

Ngoài ra trung tâm đã thực hiện nhiều khóa đào tạo tin học văn phòng, tin học ứng dụng cho nhiều cá nhân và nhiều đơn vị trong ngành xây dựng.

* Về công tác nghiên cứu khoa học, biên soạn sách, giáo trình và tài liệu giảng dạy:

- Số đề tài nghiên cứu khoa học đã thực hiện từ 2001 đến nay: Cấp Nhà nước: 01 (tham gia). Cấp Bộ: 02. Cấp trường: 10.

- Bài giảng, giáo trình, tài liệu giảng dạy đã thực hiện từ năm 2001 đến nay: Bài giảng: 17. Giáo trình, Tài liệu tham khảo: 6 (dưới dạng sách, 3 đã xuất bản).

* Về lao động sản xuất chuyển giao công nghệ:- Tham gia các hoạt động tư vấn và chuyển giao công

nghệ và lao động sản xuất. - Viết phần mềm Quản lý và tính điểm cho Sinh viên hệ

niên chế cho các khoa trong trường từ năm 1991 đạt kết quả và hiệu quả tốt. Đào tạo ngắn hạn theo yêu cầu của cá nhân, đơn vị và xã hội.

* Công tác tổ chức và bồi dưỡng đội tuyển Oplympic Tin học sinh viên

Từ năm 1996 đến nay Trung tâm đã liên tục tổ chức bồi dưỡng đội tuyển sinh viên tham gia các kì thi Olympic Tin học sinh viên toàn quốc. Kết quả liên tục đạt các giải thưởng cao đồng đội và cá nhân trong các kì thi này.

Giải đồng đội: Giải Nhất: 2. Giải Nhì: 2. Giải Ba: 1. Giải Khuyến khích: 3.

Năm học 2006 - 2007 đội tuyển Olympic Tin học sinh viên của Trường đã đạt: “Đội tuyển Việt Nam xuất sắc nhất khối không chuyên tin học, kì thi lập trình sinh viên quốc tế ACM/

ICPC khu vực Châu Á năm 2007” và đã được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và Bộ trưởng Bộ TTTT tặng Bằng khen.

Giải cá nhân: Giải Nhất: 5. Giải Nhì: 8. Giải Ba: 11. Giải Khuyến khích: 8.

Đặc biệt năm 2013, trong kỳ thi Olympic Tin học sinh viên toàn quốc; là các sinh viên không chuyên tin học, nhưng Đội tuyển của Trường đã đạt nhiều giải cao, về cá nhân có 02 sinh viên đạt: 01 Nhất (Vô địch) khối Chuyên tin và 01 Nhất (Vô địch) khối Không chuyên tin, về đồng đội: đạt giải Khuyến khích kỳ thi lập trình sinh viên quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương ACM / ICPC.

4. Thành lập Khoa Công nghệ Thông tin trên cơ sở Trung tâm tin học ứng dụng hiện có

Với những thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực ngành CNTT, thực trạng đào tạo CNTT tại các trường Đại học, Cao đẳng cũng như thực trạng đào tạo CNTT tại Đại học Kiến trúc Hà Nội, việc thành lập Khoa CNTT trên cơ sở phát triển từ Trung tâm Tin học ứng dụng hiện có là chủ trương đúng đắn của Đảng bộ, Ban Giám hiệu nhà Trường, phù hợp với xu hướng phát triển đa dạng hóa ngành nghề đào tạo cũng như đào tạo đại học bám sát nhu cầu thực tế hiên nay.

Khi Khoa CNTT được thành lập, song song chương trình đào tạo các kỹ sư chuyên ngành CNTT, nhiệm vụ tiếp theo sẽ là nghiên cứu để có thể đào tạo CNTT gắn với các chuyên ngành trong trường theo kinh nghiệm của trường bạn và yêu của thực tiễn./.

T¿i lièu tham khÀo1. Sách trắng về Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam

2013 – Bộ Thông tin truyền thông phát hành năm 2013.2. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo

công nghệ thông tin tại Đại học Kiến trúc Hà Nội” tháng 10/2014.

3. Quyết định số 698/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực Công nghệ Thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.

4. Chương trình đào tạo đại học các ngành tại Đại học Kiến trúc Hà Nội.

5. Chương trình đào tạo đại học ngành Công nghệ thông tin Đại học Xây dựng.

6. Chương trình đào tạo đại học ngành Công nghệ thông tin Đại học Giao thông vận tải.

7. Chương trình đào tạo đại học ngành Công nghệ thông tin Đại học Thủy lợi.

Đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin...(tiếp theo trang 81)

Page 45: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

88 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 89 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Dạy kỹ năng nghe hiểu cho sinh viên không chuyên ngữ- Những khó khăn và giải phápDifficulties and solutions in English teaching of Listening comprehension for non-English major students

Hà Diệu Linh

Tóm tắtNghe hiểu được xem là kỹ năng khó rèn

luyện nhất trong bốn kỹ năng ngôn ngữ. Bài viếtnày hướng đến việc khảo sát, tìm hiểu

quá trình dạy và học kỹ năng nghe hiểu cho đối tượng sinh viên không chuyên ngữ ở

trường đại học Kiến trúc Hà Nội.Trên cơ sở tìm hiểu bản chất, yêu cầu của môn học, và

phân tích những khó khăn chủ quan và khách quan mà các em sinh viên gặp phải, ngưòi

viết mong muốn đề đạt một số giải pháp để cải thiện tình hình.

AbstractListening comprehension had been considered the

most difficult of the four language skills. This paper aimed to investigate the teaching and learning of

Listening comprehension in the non-English major classes at Hanoi Architectural University. On the

basis of examining the nature, the requirements of the subject and analyzing of the subjective and

objective difficulties that students encountered, the author wished to propose some solutions to

improve the situation.

CN. Hà Diệu LinhTrung tâm Ngoại ngữ ĐT: 01653 353 799

Ngày nhận bài: 27/5/2017 Ngày sửa bài: 11/6/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Đặt vấn đềTrong những năm qua giảng dạy ngôn ngữ theo đường hướng giao tiếp là

phương pháp chủ đạo được áp dụng rộng rãi cho nhiều lớp học ngoại ngữ. Việc rèn luyện cho người học kỹ năng giao tiếp được xem là mục tiêu cơ bản trong tiến trình dạy học ngôn ngữ trong đó cả bốn kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết đều được đặc biệt chú trọng.Nghe hiểu không còn là kỹ năng ngôn ngữ thụ động đòi hỏi kỹ năng tiếp nhận (receptive skill) như một số giáo viên quan niệm trước đây. Nghe hiểu trở thành kỹ năng chủ động trong đó người học đóng vai trò tích cực của người tham dự vào thông tin được nghe, xử lý thông tin, hiểu và giải mã được thông tin để cuối cùng phản hồi lại với thông tin đó, đúng như tiến trình gồm bốn thao tác: cảm nhận - hiểu - đánh giá - phản hồi do Steil, Barker & Wakson (1983) đề xuất. Chỉ khi nào người nghe có thể phản hồi được thì tiến trình nghe mới hoàn tất, quá trình giao tiếp mới đạt được kết quả mong muốn.Kỹ năng nghe tồi có thể làm hỏng tiến trình giao tiếp. Nghe hiểu, vì vậy, được xem là yếu tố cơ bản của quá trình giao tiếp. Người học muốn tăng cường giao tiếp không còn cách nào khác phải trau dồi kỹ năng nghe hiểu này.2. Yêu cầu của người dạy và người học trong quá trình giảng dạy và học tập kỹ năng nghe hiểu

Trước đây từng có quan điểm từ một số giáo viên ngoại ngữ cho rằng không thể dạy được kỹ năng nghe vì không thể biết thật sự điều gì đang diễn ra trong tư duy của người học suốt quá trình nghe. Tuy nhiên nghe hiểu là kỹ năng có thể dạy, trong đó người dạy cần có khả năng đặt sinh viên vào những tình huống khác nhau gắn liền với các chủ điểm ngôn ngữ khác nhau; khả năng biến quá trình nghe trở thành có mục đích bằng cách đưa ra các tình huống nghe có tính thực tiễn cao, từ đó dần dần giúp người học tự tin vào khả năng nghe của mình. Cũng theo quan điểm của Mary Underwood, để rèn luyện kỹ năng nghe hiệu quả, người học cần trước hết áp dụng các phương pháp nghe vốn được sử dụng một cách tự nhiên trong quá trình nghe hiểu tiếng mẹ đẻ, không bám vào từng câu chữ của thông tin được nghe. Người học cần tăng cường học hỏi để mở mang thêm vốn kiến thức văn hoá xã hội liên quan đến chủ điểm được nghe, đồng thời chấp nhận hiểu một phần thông tin, không đặt ra yêu cầu nắm bắt toàn bộ thông tin đang được trình bày. Trong tiến trình đó, vốn từ vựng của người học, khả năng nhận diện các từ chuyển mạch, cách dùng trọng âm, ngữ điệu của người nói,... để đoán được những gì sắp xảy đến trong đàm thoại, khả năng hiểu được ý nghĩa thật sự ẩn dưới câu chữ, khả năng phân biệt giữa dữ kiện trình bày và quan điểm của người nói,... là những kỹ năng nghe cần thiết người học cần đuợc rèn luyện trong quá trình rèn luyện kỹ năng nghe hiểu.3. Thực trạng việc dạy và học kỹ năng nghe hiểu cho đối tượng sinh viên không chuyên ngữ còn tồn tại và nhiều khó khăn

3.1. Thực trạng việc dạy và học kỹ năng nghe hiểu cho đối tượng sinh viên không chuyên ngữ

Trên cơ sở đánh giá chủ quan của người viết qua kinh nghiêm giảng dạy nhiều năm và các cuộc phỏng vấn không chính thức với các đồng nghiệp và các em sinh viên, có thể nhận thấy thực trạng về quá trình dạy và học nghe hiểu cho đối tượng sinh viên không chuyên ngữ như sau:

Về phía người học, phải thừa nhận thực tế là mặc dù đã qua 7 năm (khoảng 80%), hoặc ít nhất 3 năm (khoảng 20%) học tiếng Anh ở chương trình phổ thông, đối với đa số sinh viên (70%), nghe hiểu là môn học khá mới mẻ và hầu hết cho rằng nghe hiểu là môn học khó nhất. Trong khi đó, với 06 tiết học tiếng Anh mỗi tuần trong 8 tuần mỗi học kỳ, thời lượng giành cho học nghe ở lớp quá ít ỏi. Thời gian tự học của sinh viên càng ít ỏi hơn, có rất ít sinh viên thừa nhận có luyện

nghe thêm ở nhà từ 1 - 2 giờ / tuần. Điều này lý giải phần nào thực trạng một số sinh viên đọc phần ghi lại lời băng nghe (Tapescript) trước khi đến lớp, thói quen xấu biến quá trình nghe trở thành vô nghĩa và lãng phí thời gian.Thói quen dịch sang tiếng Việt để hiểu từng câu chữ, mong muốn nghe và nhớ được 100% thông tin cũng làm không ít sinh viên không phân biệt được đâu là nội dung cốt lõi cần nắm bắt, đâu là thông tin thứ yếu có thể bỏ qua trong quá trình nghe. Nhận thức lệch lạc về yêu cầu của môn học kiểu này làm người học mệt mỏi và có khuynh hướng ngán ngại, hoang mang trong các giờ học nghe tại lớp.

Về phía người dạy, việc áp dụng phương pháp truyền thống trong giảng dạy ngôn ngữ kể cả dạy nghe hiểu ở một số giáo viên càng làm tình trạng này trở nên tồi tệ hơn.Vẫn còn quan niệm cho rằng nghe là rèn luyện kỹ năng tiếp nhận ngôn ngữ (receptive skill). Người học được yêu cầu tiếp nhận thông tin mà không hề được gợi ý trước về tình huống sắp nghe hay không hề được đặt ra yêu cầu phản hồi sau khi nghe một cách rõ ràng. Một số giáo viên cũng ý thức được sự cần thiết phải thay đổi phương pháp dạy nhưng do thời lượng eo hẹp ở lớp, họ không thể áp dụng được nhiều biện pháp hữu hiệu để thay đổi tình hình. Sự thiếu đầu tư trang thiết bị giảng dạy của trường sở(phòng lab, băng, đĩa,... ), cộng với tình trạng lớp đông vẫn còn phổ biến càng làm hạn chế tính hiệu quả của quá trình dạy - học nghe. Thực trạng không mấy khả quan này làm cho việc nghe hiểu đã khó càng trở nên khó hơn.

3.2. Những khó khăn trong quá trình dạy - học kỹ năng nghe hiểu

Có bốn yếu tố có thể gây khó khăn cho tiến trình nghe hiểu: ngưòi nói, người nghe, nội dung thông tin và các trang thiết bị bỗ trợ. Thực tế thì trong quá trình dạy kĩ năng nghe hiểu cho sinh viên, người dạy ý thức được người học thường gặp phải một số khó khăn sau:

Trở ngại trước tiên phải kể đến là sự thiếu kiến thức ngôn ngữ. Vốn từ hạn chế là trở ngại lớn nhất đối với quá trình nghe hiểu của người học. Hạn chế này khiến người học do phải dừng lại suy nghĩ khi gặp từ mới, đã để vuột mất thông tin cần nắm tiếp theo. Đó là chưa kể đến yếu tố tâm lý căng thẳng khi nghe có thể biến những từ quen thuộc trở thành từ mới không nhận ra nổi trong quá trình nghe. Cách phát âm từ vựng còn làm tăng độ khó của môn nghe lên nhiều lần. Những biến đổi âm trong lời nói nhanh và liên tục so với cách phát âm rõ ràng từng âm tiết của giáo viên ở lớp cũng là trở ngại đáng kể. Chẳng hạn các hiện tượng nuốt âm (elision), đồng hoá âm (assimilation), đồng âm khác nghĩa (homophone), luôn là những thách thức không nhỏ đối với người học không chuyên ngữ. Đó là chưa kể đến những giọng phát âm khác nhau (accents) vốn gây sốc và khủng hoảng tâm lý cho người học.

Một vấn đề nổi cộm khác làm ảnh hưởng không nhỏ kết quả quá trình dạy - học nghe là sự hổng kiến thức văn hoá. Wardhaugh (1986) khẳng định ngôn ngữ và văn hoá có mối liên hệ không thể tách rời (inextricably), không thể hiểu và đánh giá ngôn ngữ ngoài yếu tố văn hoá. Vì vậy, nếu người học đem áp đặt mã văn hoá, phong tục tập quán của ngôn ngữ mẹ đẻ vào ngôn ngữ đang học sẽ không hiểu đúng, từ đó không suy đoán được, thậm chí hiểu sai ý tưởng người nói cần chuyển tải.

Vấn đề tâm lý cũng là một khó khăn khác đối với người học trong tiếp nhận và phản hồi thông tin. Một trong những yếu tố tâm lý dẫn đến tình trạng không nắm bắt được thông tin được nhiều sinh viên chia sẻ là người nghe không thể

quyết định nhịp độ hay chia nhỏ thông tin thành từng mảng dễ kiểm soát như khi đọc, viết hoặc nói. Người học chỉ có thể điều chỉnh cho kịp với nhịp độ đang diễn ra. Nếu không có tâm lý vững người nghe không thể làm được điều này.Khó hơn nữa là lời nói lập tức biến mất ngay sau khi thốt ra. Người nghe nếu không nắm bắt được sợi chỉ xuyên suốt, mải lo chú ý đến tiểu tiết hoặc quá sa đà vào việc diễn nghĩa những gì nghe được, sẽ bỏ mất thông tin kế tiếp, dẫn đến hoảng sợ bỏ luôn thông tin tiếp theo.

Các yếu tố khách quan về cơ sở vật chất và tài liệu giảng dạy cũng như môi trường ngôn ngữ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả dạy và học môn nghe. Trong lớp học cả thầy và trò đều không phải là người bản xứ, nguời học ít có điều kiện nghe đúng thứ tiếng Anh của người bản địa, hay sử dụng ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp thực. Sinh viên vì thế có khuynh hướng phản ứng chậm, thậm chí không giao tiếp được khi được đặt vào các tình huống giao tiếp cụ thể. Tình trạng lớp đông và trình độ không đồng đều cũng gây nhiều khó khăn cho người dạy trong việc xử lý các tình huống ở lớp. Thái độ học thụ động trong giờ học nghe cho thấy người học dường như chưa quan tâm đúng mức đến việc tự nâng mình lên trong quá trình học nghe.4. Các giải pháp khắc phục

Trước hết người dạy và người học cần hiểu rõ bản chất của quá trình nghe hiểu. Theo Anderson & Lynch (1988) và David Nunan (1991), người nghe đóng vai trò là một chủ thể tích cực (active model builder), xây dựng cho mình kỹ năng nắm bắt thông tin, phân đoạn lời nói thành từng đơn vị từ nhỏ đến lớn dần để hiểu, dùng kiến thức nền sẵn có của mình để nắm bắt được vấn đề.

Mặt khác, cũng theo quan điểm của Anderson & Lynch (1988), có mối liên hệ mật thiết giữa kỹ năng nghe và kỹ năng nói, giữa nghe hiểu và đọc hiểu, trong đó nói là kết quả của việc theo dõi và hiểu những gì nghe được và phát triển kỹ năng nghe không những giúp cải thiện khả năng nghe mà còn phát triển được khả năng nói và đọc hiểu.

Từ đó người viết xin đề xuất một số kiến nghị sau:Về phía người dạy, cần nâng cao ý thức học hỏi đồng

nghiệp để không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy kỹ năng nghe hiểu, kỹ năng được xem là khó nhất. Người dạy cần có sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp để tìm ra phương pháp dạy tối ưu áp dụng vào bài giảng môn nghe. Ngoài sự đa dạng về phương pháp, giáo viên cần sử dụng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, với nhiều yêu cầu có độ khó khác nhau để không làm sinh viên khá cảm thấy chán, đồng thời không làm sinh viên yếu nản vì cảm giác bị bỏ rơi.

Mặt khác, nhằm khắc phục tình trạng lớp đông sinh viên, giáo viên cũng cần khuyến khích sự hợp tác, giúp đỡ lần nhau giữa các đối tượng người học, và khuyến khích sinh viên ý thức được họat động tự học ở nhà. Người dạy cần từng bước hướng dẫn, rèn luyện cho người học khả năng suy đoán, suy diễn dựa trên hình ảnh gợi ý ban đầu, hoặc các yếu tố báo hiệu chuyển ý như các liên từ, từ nối câu… để đoán được thông tin tiếp theo. Kỹ năng phát âm của sinh viên, đặc biệt những trường hợp biến âm như hiện tượng nuốt âm, đồng âm, đồng hoá,... cũng nên được tăng cường trong việc hướng dẫn các hoạt động nghe hiểu tại lớp.

Về phía người học, cần nhận thức đúng bản chất và yêu cầu của môn nghe hiểu để có kế hoạch điều chỉnh, rèn luyện phương pháp nghe hiểu hiệu quả. Sinh viên cần tuyệt đối tránh thói quen thụ động, không động não suy nghĩ trước lúc nghe, cũng như cần khắc phục hiện tượng chú ý giả tạo,

Page 46: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

90 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 91 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

hoặc thói quen xem trước Tapescript, mong muốn nắm bắt 100% thông tin,... Người học cũng cần tận dụng mọi cơ hội để có thể luyện nghe, cả trong lẫn ngoài lớp học, nâng cao ý thức tự học ở nhà, kể cả luyện phát âm thật chuẩn những từ đã học. Do có sự liên thông giữa nghe hiểu với một số kỹ năng khác, quá trình luyện nghe nên được thực hiện trên cơ sở kết hợp trau dồi các kỹ năng nói, đọc hiểu. Ngoài ra, người học cũng cần đọc thêm nhiều tài liệu sách báo liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau để mở rộng vốn kiến thức nền về các vấn đề kinh tế xã hội của mình.

Ngoài các tài liệu giảng dạy bắt buộc trên lớp người dạy và người học có thể chuẩn bị một số băng đĩa nghe không nằm trong chương trình như bài hát, những mẩu chuyện sinh động, hoặc một số tài liệu ghi âm từ các cuộc phỏng vấn, trò chuyện truyền hình, hay môt đoạn thoại trong một bộ phim đang ăn khách,... để làm thay đổi khẩu vị và làm đa dạng hoá các hoạt động nghe hiểu tại lớp.

Các lớp học cần được bố trí trang thiết bị thuận lợi cho việc dạy và học kỹ năng nghe, và tốt hơn hết là ở khu vực tách biệt để khỏi ảnh hưởng đến giờ dạy của các giáo viên khác.

5. Kết luậnThành công trong dạy học ngôn ngữ nói chung, trong

dạy và học kỹ năng nghe hiểu nói riêng phải là kết quả của

những nỗ lực toàn diện không chỉ từ phía người dạy, người học, mà còn từ những yếu tố liên quan như tài liệu giảng dạy, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá,... Xuất phát từ bản chất của môn học, người viết mong muốn lý giải những khó khăn đối với người dạy và người học ở các lớp không chuyên ngữ gặp phải trong quá trình giảng dạy và học tập kỹ năng nghe để từ đó đề xuất một sồ ý kiến nhằm để cải thiện tình hình./.

T¿i lièu tham khÀo1. Anderson, A. & Lynch, T. (1998). Listening. OUP2. Brown, G, & Yule, G. (1983). Teaching Spoken English.CUP.3. Nunan, D. (1991).Language Teaching Methodology.Prentice

Hall International (UK) Ltd.4. Steil, L. et al.(1983). Effective Listening. Mc. Graw Hill, Inc.5. Underwood, M. (1989). Teaching Listening.Longman.

sẽ chuyển về bộ xử lý và hiển thị trên bảng điện tử số hoặc kết nối với máy tín để lưu giữ và hiển thị dưới dạng đồ thị.

Bằng các thiết bị trên chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm lắp đặt cho một vài công trình bước đầu nhận thấy:

- Các thiết bị cho biết tín hiệu có độ phân giải rất cao, theo đó phân biệt được các góc nghiêng rất nhỏ,

- Việc theo dõi đơn giản chỉ cần bật công tắc để đọc số liệu nếu như thực hiện quan trắc theo chu kỳ

- Nếu kết nối với máy tính đo liên tục theo thời gian ở nhiều điểm thì sử dụng kết quả có thể phân tích tình trạng chuyển vị kết câu, dao động của thân và các chuyển xoắn, dao động của công trình

- Chi phí cho quan trắc bằng giải pháp này nếu không kể tới thiết bị thì thấp hơn so với việc đo chênh cao

- Hạn chế thiết bị phải được bảo vệ và phải được thiết kế lắp đặt trong lúc xây dựng công trình

Kết luận Giải pháp quan trắc lún không sử dụng mốc được kế

thừa từ công việc đo tự động chuyển vị tường tầng hầm. Trong giải pháp đo nghiêng cho quan trắc lún, các thiết bị điện tử được nhập khẩu từ các thương hiệu có uy tín trên thế giới và phần mềm chuyên dụng, hệ thống hoạt động có tính

ổn định cao. Bằng việc chế tạo thử thiết bị và lặp đặt kiểm tra, đã cho thấy việc lắp đặt hệ thống cho nhà cao tầng là hoàn toàn khả thi với chi phí thấp hơn và kết quả quan trăc có độ tin cậy hơn, có nhiều thông tin hơn so với quan trắc bằng đo chênh cao./.

T¿i lièu tham khÀo1. Tiêu chuẩn TCVN9630:20122. Trần Thương Bình (2008).” Nghiên cứu chế tạo mô hình thí

nghiệm ba trục động chu kỳ xác định các đặc trưng động học của đất” Tập chí khoa học kỹ thuật Mỏ- Địa chất

3. Trần thương Bình (2014)“Nghiên cứu phương pháp xác định các đặc trưng biến dạng của đất theo mô hình ba trục”, đệ tài nghiên cứu khoa học cấp trường

4. E.D Sukina (1985), “Cơ lý hóa hệ phân tán tự nhiên”, NXB Matxcova, <Tiếng Nga>

5. N.A Xưtovich.(1983), “Cơ học đất”, bản dịch tiếng Nga Nhà xuất bản Nông nghiệp

6. Shamsher Prakash - Hary D. Sharma (1999), "Móng cọc trong thực tế xây dựng", NXB XD – HN

7. R. Whitlow (1997), “Cơ học đất”, NXB Giáo dục. 8. K.Széchy, L. Varga (1978), “ Foundation engineering”,

Akadémiai Kiadó Budapest, <Tiếng Anh>

Giải pháp đo nghiêng trong quan trắc lún...(tiếp theo trang 71)

Tóm tắtViệc học môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác-Lênin (phần II)” với nhiều nguyên lý, quy luật, phạm trù mang tính chất trừu tượng

hoá cao là điều không hề dễ dàng đối với nhiều sinh viên. Nhất là với những sinh viên thuộc

chuyên ngành khối kỹ thuật như ĐH Kiến trúc Hà Nội. Tuy nhiên nếu học tốt môn khoa học này,

sinh viên có thể hình thành thế giới quan phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh

chính trị, đạo đức cách mạng. Đây là điều không thể thiếu trong việc đào tạo đối với một Kỹ sư,

Kiến trúc sư. Để học tốt môn học này, việc tự học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tổ chức hoạt

động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của sự

nghiệp giáo dục và đào tạo của Nhà trường mà còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân từng người

học.

AbstractStudying “Basic Principles of Marxism-Leninism”

(section II) with many principles, rules, categories bearing high abstract feature is not easy for many

students, especially for students of technical study field such as Hanoi Architecture university’students.

However, if studying well this science subject, students can form dialectical materialism methodology world

outlook, train politics bravery, revolution ethics. It is very vital in educating an engineer, an architect.

To study this subject well, self-study takes an important role. Holding self-study activity suitably,

scientifically and effectively is not only the university education’responsibility but also great responsibility of

each individual student.

TS. Phạm Đình KhuêKhoa Lý luận chính trị ĐT: 0916 555 004

Ngày nhận bài: 09/9/2016 Ngày sửa bài: 27/9/2016 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017

1. Đặt vấn đềTự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học

tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của các trường đại học mà đây còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân từng người học. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.

Với đặc thù là sinh viên chuyên nghành khối kỹ thuật thuộc Trường đại học Kiến trúc Hà Nội, việc học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với nhiều những nguyên lý, quy luật, phạm trù mang tính chất trừu tượng hoá cao là điều vô cùng khó khăn. Tuy nhiên nếu học tốt môn khoa học này giúp cho sinh viên hình thành thế giới quan phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, đây là điều không thể thiếu trong việc đào tạo đối với một Kỹ sư, Kiến trúc sư.

2. Thực trạng tự học học môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin hiện nay

Ý thức chính trị của sinh viên được hình thành không phải từ bên ngoài, mà phải trải qua quá trình giáo dục, đào tạo, tự học tập và rèn luyện tu dưỡng của bản thân sinh viên, ý thức chính trị của sinh viên cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ việc tiếp thu những tri thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở đó niềm tin khoa học tạo nên nấc thang đầu tiên hình thành thế giới quan khoa học trong họ. Bởi vậy có thể khẳng định, việc sinh viên tự học, tự thẩm thấu những tri thức do các môn khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, đem lại là một yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành tư tưởng chính trị của mình.

Có thể khẳng định hiện nay phần lớn sinh viên của trường đều thấm nhuần lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có tư tưởng đạo đức trong sáng, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định, quyết tâm học tập để ngày mai lập nghiệp.

Kết quả này có được là nhờ một phần quan trọng của công tác học tập và giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin cho sinh viên trong thời gian vừa qua, tri thức môn khoa học này đều được sinh viên tiếp thu một cách tự nguyện, thẩm thấu thành niềm tin và lý tưởng trong hoạt động thực tiễn của bản thân. Có thể khẳng định điều này đối với bất cứ một môn khoa học nào, vấn đề tự học của sinh viên là khâu quyết định biến các tri thức trong sách vở, bài giảng của thầy cô thành tri thức của bản thân mình.

Nghiên cứu nâng cao hiệu quả phương pháp tự học môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cho sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Hà NộiStudy on improving the effectiveness of the self-study method of basic principles of Marxism-Leninism for students of Hanoi Architectural University

Phạm Đình Khuê

Page 47: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

92 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 93 S¬ 29 - 2018

KHOA H“C & C«NG NGHª

Xuất phát từ nội dung môn học, chúng tôi đã tiến hành khảo sát về thái độ học tập đối với môn học và thu được kết quả như sau:Bảng 1. Thái độ học tập đối với với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II)

STTThái độ học tập đối với môn Những NLCB của CN Mác-

Lênin (phần II)

Ý kiếnđánh giá

SL TL(%)1 Học thường xuyên 36 17

2 Học theo hứng thú 70 33

3 Học theo mùa thi 98 46.3

4 Không dành thời gian để tự học 8 3.7Kết quả cho thấy: có 36 sinh viên (chiếm 17%) học

thường xuyên môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần II); có 70 sinh viên (chiếm 33%) học theo hứng thú; 46,3% phần lớn sinh viên chỉ học vào mùa thi; có 8 sinh viên không dành một chút thời gian nào cho môn học này chiếm 3,7%.

Qua số liệu thăm dò đã cho thấy thái độ tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần II) chưa tốt, chưa tự giác, chưa tích cực. Đa số những sinh viên nào có ý thức và thái độ học tập tốt mới tự học thường xuyên, liên tục và thích xem thêm sách báo có liên qua đến môn học. Còn lại hầu hết sinh viên chỉ học khi đến mùa thi. Một số sinh viên còn có thái độ ỷ lại, đối phó. Vì vậy, có sinh viên thi đi, thi lại vẫn không đạt kết quả như mong muốn.

Qua bảng thống kê thì tỷ lệ sinh viên đạt điểm trung bình, yếu, kém đối với các môn khoa học này khá cao, còn tỷ lệ giỏi là rất thấp. Thực trạng trên là một điều đáng phải quan tâm trong công tác giảng dạy môn khoa học Mác- Lênin vốn là môn học trực tiếp hình thành ý thức chính trị cho sinh viên của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.

3. Một số giải pháp và kinh nghiệm cơ bản để tự học tốt môn Những NLCB của CN Mác-Lênin (phần II) cho sinh viên trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về việc tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần II cho sinh viên Trường đại học Kiến trúc Hà Nội: đây là giải pháp quan trọng cả trong lý luận và thực tiễn của người học. Thông qua việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin sinh viên sẽ được trau dồi những kiến thức cơ bản về vấn đề dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, về đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết quốc tế, về xây dựng Nhà nước của dân do dân và vì dân, về đạo đức, nhân văn và văn hoá vv….từ đó, sinh viên sẽ tự trang bị cho mình một phương pháp tư duy logic, có niềm tin vững chắc vào con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, phát huy vai trò của các giảng viên, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, hệ thống thư viện cho sinh viên trong việc nâng cao chất lượng tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần II:

Phát huy vai trò của các giảng viên trong việc nâng cao chất lượng tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần II của sinh viên. Để phát huy tinh thần tự học của sinh viên, giảng viên cũng cần đổi mới phương pháp dạy theo hướng phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của sinh viên vì đào tạo đại học phải giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. Nghĩa là thực hiện phương pháp lấy người học làm trung tâm.

Bảo đảm tốt cơ sở vật chất, thư viện, tài liệu phục vụ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên để nâng cao chất lượng tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần II. Hiện nay, cơ sở vật chất kĩ thuật của Nhà trường còn hạn chế, chưa có phòng cho sinh viên tự học và nghiên cứu. Trong khi đó cơ sở vật chất lại là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập nói chung và chất lượng tự học của sinh viên nói riêng.

Thứ ba, Phát huy vai trò tích cực của cá nhân sinh viên trong việc nâng cao chất lượng tự học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin phần II.

Nhận thức về vai trò tích cực của cá nhân sinh viên. Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người, trong hoạt động nhận thức người học có vai trò là chủ thể lĩnh hội kiến thức. Kết quả nhận thức môn học phụ thuộc rất lớn vào tính tích cực chủ động của mỗi người. Bởi vậy, trong quá trình học tập môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin muốn có kết quả cao, cùng với việc phát huy vai trò của người dạy, người học phải phát huy vai trò chủ thể, tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập.

Nâng cao ý thức trách nhiệm của người học trong giáo dục- đào tạo. Trong quá trình học tập, người học phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ GD – ĐT, có động cơ học tập đúng đắn; trên cơ sở đó xây dựng cho mình ý thức trách nhiệm và thái độ học tập nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, thực hiện tốt mục đích của GD – ĐT, điều đó chỉ

0102030405060708090

100

TL(%)

Học thường xuyên

Học theo hứng thú

Học theo mùa thi

Không dành một chút thời gian nào để tự học

Hình 1. Biểu đồ 1.2: Thái độ học tập đối với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần II)

trở thành hiện thực khi bản thân sinh viên tham gia một cách chủ động, tích cực vào mọi khâu của quá trình GD – ĐT. Tự học không phải là biện pháp đối phó của mỗi lần thi, kiểm tra, thảo luận hoặc tập bài ở lớp mà người học xác định tự học là nhu cầu cấp thiết, là một biện pháp tích cực trong học tập nhằm tiếp thu kiến thức, hiểu sâu, nắm vững bản chất vấn đề, liên hệ và giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra để có kỹ năng, kỹ xảo của bản thân người học. Ý thức trách nhiệm, động cơ học tập đúng đắn còn thể hiện việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trách nhiệm của cá nhân với tập thể lớp; giữa học tập tại trường và công tác sau này, từ đó có sự nỗ lực vươn lên vượt mọi khó khăn tìm ra con đường, biện pháp tự học, tự nghiên cứu để nắm vững và làm chủ tri thức khoa học.

Thứ tư, trước khi lên lớp nghe giảng, sinh viên cần ôn luyện củng cố kiến thức bài học cũ, đọc nội dung bài học mới.

Việc này giúp cho sinh viên tổng hợp, nắm chắc, hiểu sâu kiến thức thức bài học, môn học. Để ôn tập có hiệu quả, sinh viên cần khái quát, hệ thống toàn bộ kiến thức đã học, tìm hiểu chúng trong mối liên hệ biện chứng với nhau, sau đó xây dựng đề cương chi tiết hoặc các sơ đồ biểu diễn nội dung. Đọc tài liệu trước khi lên lớp giúp cho sinh viên hình dung được trình tự, nội dung bài giảng, tạo tâm thế chủ động, thoải mái khi nghe và tiếp thu nội dung bài mới có hiệu quả.

Thứ năm, phải tập cho mình cách ghi nhớ.Ghi chép một cách thông minh và khoa học sẽ giúp người

học nâng cao được chất lượng tự học của mình. Sinh viên cần lưu ý cách ghi bài chọn lọc, nhanh chóng, sử dụng kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của chính mình. Sau khi dự buổi thuyết trình, mỗi người nên dành

thời gian để xem lại và nếu cần, thẩm tra lại những điều đã ghi chép.

Thứ sáu, tăng cường trao đổi, thảo luận về nội dung bài học và những vấn đề lý luận hoặc thực tiễn liên quan.

Có nhiều hình thức trao đổi, thảo luận nhưng thông thường các hình thức diễn ra sôi nổi và tự nhiên hơn là trao đổi tổ hai người, đôi bạn học tập, trao đổi trong nhóm theo phòng ở tập thể. Việc trao đổi, thảo luận sẽ giúp sinh viên hiểu đúng, hiểu đầy đủ kiến thức đã học, kịp thời bổ sung hoàn thiện nội dung bài học và kỹ năng trình bày quan điểm của mình.

Thứ bảy, phải đọc thêm sách và tài liệu tham khảo

Khi đọc tài liệu, sinh viên nên gạch dưới những ý chính, những vấn đề không hiểu phải mạnh dạn hỏi giáo viên. Sinh viên khái quát hoá tài liệu bằng cách xây dựng dàn ý tổng quát, viết đề cương tóm tắt… Hình thức này giúp sinh viên nắm được tổng quát tài liệu, vấn đề nghiên cứu.

Thứ tám, phải học tập theo nhómTrong xu thế dạy học hiện đại, hầu hết các trường đại

học, cao đẳng trong và ngoài nước đặc biệt chú trọng hình thức thảo luận nhóm. Sinh viên cần phải chủ động bàn bạc thành lập nhóm, phân công giao nhận nhiệm vụ cho từng các nhân, tổ chức phối hợp hoạt động trong nhóm. Các thành viên trong nhóm cần tự giác chuẩn bị tốt nội dung thảo luận, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu liên quan, tích cực trao đổi thông tin, tranh luận trước tập thể lớp và nhận xét đánh giá kết quả của các nhóm.

Thứ chín, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học.Nghiên cứu khoa học, đặc biệt là về môn học có tính

chính trị, xã hội như môn những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin phần II giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, kỹ năng viết, khái quát, tổng hợp… Đây là những kỹ năng cần thiết trong học tập các môn chuyên ngành, cũng như sau này làm việc thực tế.

4. Kết luậnChất lượng tự học môn học “Những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần II)” của sinh viên Trường đại học Kiến trúc Hà Nội phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố; mỗi yếu tố có vị trí, vai trò khác nhau, song có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp và kinh nghiệm nói trên, đặc biệt là nhóm giải pháp đối với người học sẽ góp phần phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo trong việc tự học, nêu cao tính độc lập trong nghiên cứu của sinh viên nhằm góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo môn học này trong giai đoạn hiện nay./.

Bảng 2. Kết quả điểm thi môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (phần II) ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội năm học 2012-2013(Nguồn Phòng Thanh tra Khảo thí và Đảm bảo chất lượng)

Lớp Tổng SV

Giỏi (%)

Khá (%)

Trung bình (%)

Yếu (%)

Kém (%)

Tổng (%)

12X 370 9 35 20 11 25 100

12MT 86 4 9 31 11 45 100

12QL 148 15 30 15 6 34 100

12Q 179 10 30 18 12 30 100

12K 350 6 29 23 5 37 10012D 100 5 40 19 3 33 10012M 46 6 15 27 13 39 10012

XN,VL120 10 20 14 9 47 100

Tổng 1.399 8 31 20 7 34 100

Page 48: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

94 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG 95 S¬ 29 - 2018

TIN T¸C & S¼ KIªN

Hội thảo Liên ngành Đại học Kiến trúc Hà Nội - Nâng cao sự hợp tác quốc tế

Trong 04 ngày từ 13 đến 16/11/2017, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp (IRD) tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề: “Những hình thức gia tăng mật độ đô thị mới ở châu Á dưới góc nhìn liên ngành và những vấn đề khi tiếp cận nguồn lực (dịch vụ, nhà ở, việc làm và đất đai)”. Hội thảo thu hút sự tham gia của rất nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao sự hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực giữa Nhà trường với các tổ chức quốc tế.

Hội thảo được Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và Viện IRD phối hợp tổ chức với mục đích nghiên cứu và phân tích những hình thức mới nổi của sự gia tăng mật độ dân cư khu vực đô thị, hỗ trợ các quốc gia đông dân cư châu Á bằng những chính sách phát triển khu vực, đưa ra lý do tại sao phải tìm ra điểm nhìn chung giữa các quốc gia châu Á đông dân cư về vấn đề gia tăng dân số này, đồng thời các chuyên gia cùng thảo luận một số câu hỏi liên quan.

Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS.KTS. Lê Quân - Hiệu trưởng Nhà trường cho biết: “Qua hội thảo này, chúng tôi mong muốn nhận được những chia sẻ kinh nghiệm từ các chuyên gia để cùng đưa ra những giải pháp hữu ích cho các nhà hoạch định và thực thi chính sách, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho các giảng viên, kiến trúc sư, các nhà quy hoạch và nhà xây dựng.”

Buổi hội thảo tập hợp hơn 100 chuyên gia trong đó có hơn 40 chuyên gia đến từ Pháp, Ấn Độ, Hong Kong đóng góp 30 tham luận về các vấn đề liên quan. Các bài tham luận tập trung vào những vấn đề hiện đang thu hút được sự quan tâm của các chuyên gia trong và ngoài nước.

Trong ngày đầu tiên diễn ra hội thảo, bài tham luận của các chuyên gia chủ yếu tập trung vào vấn đề: Bàn về mật độ đô thị và biến đổi lãnh thổ: sự cần thiết phải phân tích những vấn đề và các loại hình phân tích từ dưới lên trên; Đô thị hoá, mật độ dân số và việc cung cấp các dịch vụ và nguồn lực; Hiện đại hoá ngành phế thải và thực tiễn tái chế tại Delhi (Ấn Độ) và Hà Nội (Việt Nam); Gia tăng sự phân chia quản lý các bùng phát tùy theo loại hình đô thị và các tác nhân ở Ấn Độ và Việt Nam; Mối liên hệ nào giữa mật độ dân số đô thị và hội nhập xã hội? Trường hợp ở Ấn Độ và Việt Nam.

Tiếp đó, các chuyên gia thảo luận tại phiên thứ 2 với các chủ đề, các báo cáo về các vấn đề: Chính sách quản lý lãnh thổ và đất đai ở các làng đô thị và các khu vực ven đô thị: nghiên cứu so sánh Ấn Độ và Trung Quốc; Tái cơ cấu hệ thống giao thông công cộng vùng ven thành phố mới nổi ở châu Á: quan điểm giao thoa của Jakarta và thành phố Hồ Chí Minh; Nông nghiệp ở vùng ven đô thị: nông nghiệp và phi nông nghiệp ở các làng đô thị và ven đô thị ở Hà Nội và Thượng Hải; Sự sát nhập các khu đô thị mới và khu kinh tế đặc biệt vào đô thị; Sự hòa nhập của các khu ở khép kín với các làng đô thị thông qua việc sử dụng chung các dịch vụ cơ bản và thị trường địa phương ở ngoại ô Calcutta và Hà Nội.

Tại buổi hội thảo ngày thứ 2, các chuyên gia thuyết trình về một số vấn đề như: Các đô thị nhỏ không được công nhận bởi chính phủ và những ngôi làng lớn, Nghiên cứu so sánh các dự án cải tạo khu nhà ổ chuột; Cải tạo khu phố cổ: vấn đề đất đai và nhà ở ở Dhaka và Hà Nội; Làng đô thị, nhà ở và vấn đề cung cấp dịch vụ; Nghiên cứu so sánh các làng đô thị ở Hà Nội và Seoul: sự xuất hiện của các hình thức ở, thực tiễn đô thị và quy hoạch mới.

Ở ngày tiếp theo, các bài tham luận tập trung vào chủ đề:

So sánh quá trình đô thị hoá ở Châu Á và Châu Âu trong các bối cảnh văn hoá xã hội khác nhau; Phương pháp tiếp cận đa ngành của mạng lưới nghiên cứu quốc tế về các thành phố khuếch tán; Phương pháp eGeopolis nghiên cứu quá trình đô thị hóa các thị trấn trên 10.000 dân.

Cũng trong ngày thứ 3 của hội thảo đã diễn hoạt động triển lãm các hình ảnh và hình vẽ của cuộc thi sáng tác logo Dự án và vẽ ký họa về hoạt động thu gom và tái chế rác ở Hà Nội do Dự án JEAI Recycurbs Viet phối hợp với Viện Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Đại học Kiến trúc Hà Nội tổ chức. Đồng thời, các chuyên gia đã có một chuyến tham quan triển lãm Quy hoạch đô thị Hà Nội tại Trung tâm Quy hoạch quốc gia.

Kết thúc chuỗi sự kiện hội thảo là hai chuyến dã ngoại vô cùng ý nghĩa và bổ ích tại Long Biên (Hà Nội) và Hà Đông. Các chuyên gia và giảng viên đã cùng nhau lập kế hoạch, tìm hiểu về những nghề truyền thống, cách sinh hoạt, làm việc thường ngày của người dân, để từ đó, thông qua những trải nghiệm thực tế có cái nhìn chân thực hơn về các đề tài của mình.

Hội thảo không chỉ mang lại những thông tin hữu ích, thiết thực mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế với các tổ chức khoa học công nghệ nước ngoài của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, hướng tới một tương lai xa hơn, xây dựng nước nhà “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” và tiến kịp các nước trên thế giới như phát biểu của PGS.TS Lê Quân: “Tôi hy vọng rằng qua các bài tham luận và qua quá trình thảo luận, với những góc nhìn so sánh, kinh nghiệm và bài học rút ra, chúng ta sẽ nhận diện những tồn tại và tìm ra được những giải pháp khắc phục vì một châu Á ngày càng phát triển và thịnh vượng.” ./.

Nghiên cứu sinh Lê Trần Phong bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý đô thị và công trình

Sáng 26/12/2017, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội tổ chức đánh giá Luận án Tiến sĩ cấp trường cho nghiên cứu sinh Lê Trần Phong với đề tài: “Quản lý xây dựng hạ ngầm các đường dây, cáp đi nổi tại trung tâm thành phố Hà Nội”, chuyên ngành Quản lý đô thị và Công trình, mã số 62.58.01.06. Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hồng Tiến.

Dự buổi bảo vệ về phía đơn vị đào tạo có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng; PGS.TS.KTS. Phạm Trọng Thuật - Chủ tịch Hội đồng trường, Trưởng Phòng Đào tạo; các nhà khoa học, các giảng viên đang làm công tác giảng dạy trong, ngoài trường, đồng nghiệp cùng gia đình và bạn bè của Nghiên cứu sinh.

NCS. Lê Trần Phong trình bày những nội dung chính của Luận án và trả lời câu hỏi của các thành viên trong hội đồng. Hội đồng đánh giá đây là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập, nghiêm túc, bám sát và đáp ứng được những yêu cầu của luận án tiến sĩ. Nghiên cứu sinh đã vận dụng lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề nghiên cứu. Kết quả phân tích và một số nhận định có chất lượng khoa học. Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Với những kết quả đạt được của luận án, nghiên cứu sinh Lê Trần Phong đã hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận án có những đóng góp thiết thực vào việc xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp quản lý xây dựng hạ ngầm đường dây, cáp đi nổi tại đô thị trung tâm

Thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao mỹ quan, cảnh quan kiến trúc đô thị, giảm thiểu tình trạng đào lên, lấp xuống và an toàn cho người dân đô thị.

Với kết quả 07/07 phiếu tán thành, Hội đồng đã thông qua Nghị quyết và đề nghị Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cấp văn bằng học vị Tiến sĩ cho Nghiên cứu sinh Lê Trần Phong./.

Hội nghị Khoa học “Vật liệu, Kết cấu và Công nghệ Xây dựng 2017” chào mừng kỷ niệm 45 năm truyền thống đào tạo Khoa Xây dựng

Trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng Lễ kỷ niệm 45 năm truyền thống đào tạo Khoa Xây dựng; ngày 10/11/2017, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội phối hợp với Cục giám định nhà nước về chất lượng công trình chủ trì tổ chức Hội nghị khoa học quốc tế với chủ đề “Vật liệu, Kết cấu và Công nghệ xây dựng 2017 (Conference on Materials, Structures and Construction Technology - MSC 2017). Đến dự Hội nghị có ông Lê Quang Hùng - Ủy viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, nguyên Cục trưởng Cục giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng.

Dự Hội nghị còn có PGS.TS. Phạm Minh Hà - Cục trưởng Cục giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng; đại diện các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng Bộ; các nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực xây dựng, các chuyên gia trong nước và quốc tế; đại diện các Trường Đại học kỹ thuật, các Viện nghiên cứu...

Về phía Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Nhà trường; PGS.TS. Lê Anh Dũng - Thường vụ Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng Nhà trường; lãnh đạo các Khoa, Phòng ban chức năng trong trường cùng các giảng viên, các nhà khoa học và các em sinh viên.

Hội nghị “Vật liệu, Kết cấu và Công nghệ Xây dựng” lần này bao gồm các chủ đề như: Cơ học; Vật liệu xây dựng; Nền và móng; Kết cấu công trình; Công nghệ xây dựng; Ưng dụng tin học trong xây dựng; Kiểm định và quan trắc công trình…

Phát biểu khai mạc Hội nghị, PGS.TS.KTS. Lê Quân đánh giá cao những đóng góp nhiệt thành của các nhà khoa học, các tác giả đến từ các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước như trường Đại học Xây dựng, Đại học Thủy lợi, Đại học Khoa học tự nhiên, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Xây dựng Miền Tây, Đại học Imperial (Vương quốc Anh), Colorado Denver (Hoa Kỳ), Rostov (Cộng hòa Liên bang Nga), Đại học Nam Bretagne (Cộng hòa Pháp), Viện Kiến trúc nhiệt đới, Viện Khoa học công nghệ xây dựng, Viện khoa học ứng dụng Quốc gia INSA (Cộng hòa Pháp); các Công ty xây dựng Freyssinet, Posco, HSD, Khang Minh, Phan Vũ... Hội thảo là cơ hội để các nhà khoa học, các giảng viên, học viên sau đại học, sinh viên thuộc nhóm ngành Xây dựng; các Viện nghiên cứu, các doanh nghiệp và các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng, kết cấu… cùng gặp gỡ, trao đổi học thuật; tăng cường hợp tác và đẩy mạnh hoạt động NCKH, chuyển giao công nghệ, nhất là giới thiệu công nghệ, giải pháp thiết kế và xây dựng tiên tiến góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển bền vững của đất nước. Hội nghị cũng góp phần thúc đẩy, mở rộng thêm mối quan hệ hợp tác giữa Nhà trường với các Trường đại học, các Cục, Vụ, Viện nghiên cứu và các doanh

nghiệp chuyên ngành...Thay mặt lãnh đạo Bộ, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê

Quang Hùng ghi nhận những kết quả, những thành tựu nghiên cứu khoa học mà các nhà khoa học trong và ngoài Trường đã dày công xây dựng và nghiên cứu, đóng góp to lớn vào phục vụ xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Thứ trưởng cũng mong rằng Nhà trường sẽ tiếp tục phối hợp tốt với các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng Bộ, chính quyền địa phương, các nhà khoa học…để mở rộng quy mô, phát triển bền vững.

Hội nghị Khoa học “Vật liệu, Kết cấu và Công nghệ Xây dựng 2017” là một trong những hoạt động chào mừng kỷ niệm 45 năm thành lập Khoa Xây dựng - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, một trong những ngành mạnh, giữ vai trò chủ lực trong nhiều hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường.

Sau khai mạc, Hội nghị chia thành các tiểu ban thảo luận./.

Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hạnh bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý đô thị và công trình

Chiều 27/11/2017, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội tổ chức đánh giá Luận án Tiến sĩ cấp Trường cho nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hạnh với tên đề tài: “Quản lý không gian xanh thành phố Huế”, chuyên ngành Quản lý đô thị và Công trình, mã số 62.58.01.06. Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Vũ Thị Vinh, TS.KTS. Ngô Thị Kim Dung.

Tham dự buổi bảo vệ có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Nhà trường; PGS.TS.KTS. Phạm Trọng Thuật - Chủ tịch Hội đồng Trường; các nhà khoa học, các giảng viên đang làm công tác giảng dạy trong và ngoài trường; đại diện cơ quan công tác cùng gia đình, bạn bè và đồng nghiệp của Nghiên cứu sinh.

Với những kết quả đạt được trong luận án, nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hạnh đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận án có những đóng góp thiết thực vào việc nghiên cứu quản lý không gian xanh Thành phố Huế nhằm tìm ra các giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.

Sau khi NCS. Nguyễn Thị Hạnh trình bày những nội dung chính của Luận án và hoàn thành phần trả lời câu hỏi của các thành viên trong hội đồng; Hội đồng đánh giá đây là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập, nghiêm túc, bám sát và đáp ứng được những yêu cầu của luận án Tiến sĩ. Nghiên cứu sinh đã vận dụng lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề nghiên cứu. Kết quả phân tích và một số nhận định có chất lượng khoa học. Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Với kết quả 06/06 phiếu tán thành, Hội đồng đã thông qua Nghị quyết và đề nghị Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cấp văn bằng học vị Tiến sĩ cho Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hạnh./.

Page 49: Tìng biãn tâp Hîi ½ëng khoa hÑc PGS.TS.KTS. Lã QuÝn38 Khảo sát công thức xấp xỉ để chọn nhịp và chiều dày trong bài toán thiết kế sàn thép Nguyễn

96 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

TIN T¸C & S¼ KIªN

THỂ LỆ VIẾT VÀ GỬI BÀI CHO TẠP CHÍ KHOA HỌC KIẾN TRÚC – XÂY DỰNG1. Bài gửi đăng tạp chí phải là công trình nghiên cứu

của tác giả, chưa đăng và chưa gửi đăng ở bất kỳ tạp chí nào khác.

2. Bài gửi đăng bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, được đánh máy tính, in trên 1 mặt giấy khổ A4 thành 2 bản (phông chữ Arial (Unicode), cỡ chữ 11; lề trên và lề dưới 3cm; lề phải và lề trái 3cm).

3. Các hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác. Nếu bài có ảnh thì phải gửi kèm ảnh gốc độ phân giải 200dpi. Hình vẽ và ảnh phải được chú thích đầy đủ.

4. Các công thức và các thông số có liên quan phải được chế bản bằng phần mềm Mathtype (kể cả công thức hoặc các thành phần của công thức có trên các dòng văn bản).

5. Tài liệu tham khảo, trích dẫn phải có đủ các thông tin theo trình tự sau: Họ tên tác giả (hoặc chủ biên), tên sách (tên bài báo/tạp chí, tên báo cáo khoa học), nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang trích dẫn.

6. Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị, nơi làm việc, số điện thoại, e-mail của tác giả kèm theo một file chứa nội dung bài báo.

7. Bài viết phải có tên bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các từ khóa tìm kiếm. Mỗi bài cần kèm theo phần tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh (cỡ chữ 10, tối đa là 150 từ) cung cấp những nội dung chính của bài viết.

8. Cấu trúc bài báo gồm các phần: dẫn nhập, nội dung khoa học và kết luận (viết thành mục riêng). Bài báo phải đưa ra được các kết quả nghiên cứu mới hoặc các ứng dụng mới hay phải nêu được hiện trạng, những hướng phát triển cơ bản của vấn đề được đề cập, khả năng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tại Việt Nam. Bài giới thiệu tổng quan không quá 10 trang; công trình nghiên cứu và triển khai ứng dụng không quá 8 trang.

9. Với bài thông tin khoa học, tin ngắn: Là các bài dịch tổng thuật, tổng quan về các vấn đề khoa học công nghệ xây dựng kiến trúc có tính thời sự.

10. Không trả lại bản thảo cho những bài không đăng./.

96 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG

Hội thảo Chuyên đề Ứng xử kiến trúc và Phương pháp tiếp cận môi trường trong quy hoạch đô thị cho các thành phố trên thế giới

Chiều 06/10/2017, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội phối hợp cùng Viện nghiên cứu Tokyo và Viện nghiên cứu Nikken Sekkei tổ chức Hội thảo chuyên đề với sự tham gia của 2 diễn giả nổi tiếng người Nhật: TS.KTS.Yoshiharu Tsukamoto (nhà sáng lập Atelier Bow wow) và TS.KTS. Shigehisa Matsumura (Nikken Sekkei). Hội thảo thu hút đông đảo các nhà khoa học đầu ngành, giảng viên, sinh viên trong nước và quốc tế.

Tham dự Hội thảo có PGS.TS.KTS. Lê Quân - Hiệu trưởng Nhà trường; TS.KTS. Lê Chiến Thắng - Viện trưởng Viện Đào tạo và Hợp tác quốc tế; ThS.KTS. Vương Đạo Hoàng - Giám đốc Công ty Kiến Việt, Cơ quan truyền thông của Hội Kiến trúc sư Việt Nam; Nhà thiết kế Công ty Võ Trọng Nghĩa, A+G…; đại diện Viện Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Phòng Khoa học công nghệ cùng các chuyên gia, giảng viên, sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Hội thảo diễn ra với 2 chủ đề chính: “Architecture behaviorology: Creating better accessibility to the local resources” - TS.KTS.Yoshiharu Tsukamoto và “New approaches of Urban Planning for cities in the world” - TS.KTS. Shigehisa Matsumura.

TS.KTS. Yoshiharu Tsukamoto là đồng sáng lập Atelier Bow-Wow và là Giáo sư của Tokyo Institute of Technology (Viện Công nghệ Tokyo). Ông vừa là Giáo sư đại học, vừa là kiến trúc sư hành nghề. Ông đã giảng dạy tại nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới như Harvard GSD, UCLA, Royal Danish Academy of Fine Arts, Cornell University, Rice University, TU Delft, Columbia University GSAPP, ETH. Các công trình tiêu biểu của ông có thể kể tới BMW Guggenheim

Lab. House and Atelier Bow-Wow, Koisuru- Buta laboratory, Canal Swimmer’s Club in Bruges, Logement Sociaux Rue Rebiere và nhiều công trình khác.

TS.KTS. Matsumura có hơn 30 năm kinh nghiệm trong thiết kế quy hoạch và quản lý dự án ở cả Nhật Bản và nước ngoài. Ông đã thực hiện nhiều dự án quy hoạch ở các nước như Ấn Độ, Philipin, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nam Phi... Ở Việt Nam, ông đã thiết kế quy hoạch tổng thể và thiết kế đô thị trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng đề xuất nhiều phương pháp tiếp cận trong quy hoạch, đặc biệt là tại các nước đang phát triển như Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS.KTS. Lê Quân - Hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cho rằng ứng xử trong kiến trúc, quy hoạch đô thị là một vấn đề phức tạp, liên quan nhiều đến các yếu tố xã hội, chính sách, môi trường cũng như những công cụ, kỹ thuật triển khai. Do đó cần phải tăng cường hợp tác nghiên cứu, trao đổi chuyên môn cụ thể, sâu sắc mới có thể giải quyết tốt các vấn đề thực tế.

Theo PGS.TS.KTS. Lê Quân, hội thảo “Architecture behaviorology - Creating better accessibility to the local resources” (Ưng xử Kiến trúc - Tạo khả năng tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực địa phương) và “New approaches of Urban Planning for cities in the world” (Các phương pháp tiếp cận môi trường trong quy hoạch đô thị cho các thành phố trên thế giới) là cơ hội quý báu để các nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên của trường có cơ hội bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, chia sẻ những ý tưởng mới trong kiến trúc và quy hoạch tiếp thu được từ các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới.

Sau khai mạc là tham luận của hai diễn giả TS.KTS.Yoshiharu Tsukamoto và TS.KTS. Shigehisa Matsumura./.