Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

92
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BỘ MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Lớp KI 03, 04 – K35 Tiểu luận: THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Transcript of Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Page 1: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHBỘ MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Lớp KI 03, 04 – K35

Tiểu luận:

THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI

VIỆT NAM:THỰC TRẠNG VÀ

GIẢI PHÁP

Page 2: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN CỦA NHÓM:

1. Nguyễn Thị Hiểu – KI04Thực hiện: Phần mở đầu và chương 1

2. Phạm Thị Minh Trang – KI04Thực hiện: chương 2

3. Nại Thị Ngọc Diễm – KI04Thực hiện: chương 3

4. Nguyễn Ngọc Tường Vi – KI03Thực hiện: chương 4

5. Nguyễn Quang Minh Trân – KI04Thực hiện: chương 5 và phần kết luận

2

Page 3: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................4

CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ THUẾ.....................................6

CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN.................10

CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM

18

CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM...............27

CHƯƠNG V: KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỀ RA.................45

KẾT LUẬN................................................................................................57

3

Page 4: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

PHẦN MỞ ĐẦU

Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế

thế giới. Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng

phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng

quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong

khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một quy luật

của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải

liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường

bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các

quốc gia chú trọng.

Đối với Việt Nam trong thời gian tới sau khi Việt Nam được gia nhập

WTO thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là một

điều không thể tránh khỏi. Thuế là một vấn đề nhạy cảm ở khắp mọi nơi trên

thế giới không riêng gì Việt Nam, thế nhưng tính trên dân số 82 triệu đa số

người dân chỉ quen trả thuế gián thu qua tiêu sài mua hàng hoá, ít người phải

đóng thuế lợi tức.

Thuế là một trong những khoản thu ngân sách quan trọng nhất của nhà

nước. Nộp thuế là trách nhiệm và nghĩa vụ của mội người dân và các tổ chức

xã hội khác. Hiện nam, các Nhà nước thong qua việc thuế điều tiết một phần

thu nhập của người giàu, nhằm góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo đang

ngày một nới rộng. Thuế là khoản thu không hoàn trả trực tiếp của Ngân

sách nhà nước. Hệ thống thuế hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau,

lập nên nguồn thu cho Ngân sách nhà nước.

Việt nam là một đất nước đang trên đà phát triển, trước bối cảnh mở

cửa nền kinh tế hiện nay khoảng cách về thu nhập của người dân ngày càng

rộng ra, Vì thế, thuế thu nhập cá nhân là điều đáng quan tâm không chỉ đối

với Nhà nước mà còn đối với mỗi người dân. Việt nam mới ban hành Luật

thuế thu nhập cá nhân năm 2007, và nó vẫn đang là một vấn đề nóng được

toàn xã hội quan tâm.

4

Page 5: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan

trọng. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát

triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng

hành với sự phát triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò,

chức năng là một nguồn thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công

cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc

nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, đồng thời sớm

xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một việc làm cần thiết từ bây

giờ.

Bởi vậy, mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về thuế, đặc

biệt là về thuế thu nhập các nhân, nhóm em đã chọn đề tài: “ Thuế thu nhập

cá nhân và thực trạng ở Việt Nam ”.

5

Page 6: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG I:

TÌM HIỂU CHUNG VỀ HỆ THỐNG THUẾ CỦA VIỆT NAM

1. Khái niệm chung về thuế:

Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế, vì thế chúng ta vẫn

chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Một khái niệm về thuế được coi

là hoàn hảo nhất được nêu trong cuốn “ economics” của hai nhà kinh tế học

của Mỹ ( Makkollhell và Brury) như sau: “ thuế là một khoản chuyển giao

bắt buộc bằng tiền hoặc chuyển bằng hàng hóa, dịch vụ của công ty và các

hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không được nhận trực

tiếp hàng hóa, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là khoản tiền phạt

mà tòa án phạt do hành vi vi phạm pháp luật.

Các định nghĩa về thuế có thể khác nhau về cách hiểu nhưng nhìn

chung trong các cách hiểu đấy thuế là nguồn thu và ngân sách nhà nước

mang tính bắt buộc, gắn với quyền lực của nhà nước và người nộp thuế đóng

góp bắt buộc theo luật thuế mà không được hoàn trả trực tiếp nhằm đáp ứng

nhu chi tiêu của nhà nước.

2. Hệ thống thuế của nước ta:

Hệ thống thuế của nước ta bao gồm nhiều sắc thuế mà nhà nước swe

dụng để tạo lập nguồn thu ngân sách nhà nước và thực hiện các mục tiêu

nhất định trong quản lý nề kinh tế.

Hệ thống thuế nước ta qua nhiều lần cải cách bằng nhiều văn bản luật

thuế, pháp lệnh về áp dụng chung cho mọi thành viên trong cả nước. hệ

thống của Việt Nam bao gồm:

Thuế giá trị gia tăng

Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế tiêu thụ đặc biệt

6

Page 7: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Thuế xuất khẩu, nhập khẩu

Thuế nhà đất

Thuế tài nguyên

Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao

Thuế môn bài

Ngoài ra, còn có một số loại thuế khác có tính chất như thuê: lệ

phí trước bạ, lệ phí chứng thư, lệ phí hải quan, phí giao thong,

phí cầu phà, phí đường, phí bay qua bầu trơi…

3. Phân loại thuế:

Có hai cách phân biệt để phân loại thuế như sau

a. Phân loại theo tính chất chuyển giao của thuế:

- Thuế trực thu: là loại thuế huy động trực tiếp một phần thu nhập của

người làm nghĩa vụ, người nộp thuế là người chịu thuế, không có sự chuyển

giao gánh nặng cho người khác chịu. ở nước ta, thuế trực thu là các loại thuế

như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất

nông nghiệp.

- Thuế gián thu: là loại thuế mà người nộp thuế gián tiếp nộp cho người

tiêu dung, họ không phải là người chịu thuế. Ở đây có sự chuyển giao gánh

nặng thuế từ người nộp thuế sang người tiêu dung thông qua cơ chế giá cả.

Ở nước ta, đó là các loại thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế

nhập khẩu, thuế xuất khẩu…

b. Phân loại theo đối tượng đánh thuế:

Thuế thu nhập như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh

nghiệp…

Thuế tài sản như: thuế sử dụng tài sản nhà nước( thuế sử dụng đất nông

nghiệp, thuế tài nguyên...) thuế chuyển nhượng tài sản( thuế chuyển giao

quyền sử dụng đất, thuế mua, bán các tài sản như nhà, xe cộ…)

Thuế tiêu dung đánh vào hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường

trong nước và xuất khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế

nhập khẩu, thuế xuất khẩu…

7

Page 8: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

4. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế bao gồm:

Tên gọi của thuế: bất kì một loại thuế nào cũng có tên gọi; tên gọi của

thuế xác định nội dung kinh tế của thuế. Thông thường người ta dựa vào đối

tượng đánh thuế để đặt tên cho một sắc thuế. Ví dụ: thuế thu nhập doanh

nghiệp, thuế giá trị gia tăng… Tên gọi của thuế cần ngắn gonk dễ hiểu, phản

ánh được mục tiêu của thuế, từ dung mang tính phổ thông.

Đối tượng nộp thuế: người nộp thuế được qui định rõ rang trong luật

thuế.

Đối tượng chịu thuế: là người phải gánh chịu khoản thuế, là người gánh

chịu sau cùng khoản thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước.

Đối tượng đánh thuế: là các khách thể của luật thuế, là những thu nhập,

tài sản, hàng hóa mà một luật thuế nhất định tác động vào. Đối tượng đánh

thuế là mục tiêu tác động của thuế.

Căn cứ tính thuế: là những yếu tố mà người thu thuế dựa để tính số tiền

thuế phải nộp. các loại thuế khác nhau thì có cách tính khác nhau. Khi càn

xem xét căn cứ tính thuế thì cần xem xét các yếu tố sau đây:

+ Thuế suất: là phần thuế phải nộp trên mỗi đơn vị của đói tượng đánh

thuế.

+ Đợn vị tính thuế: là đơn vị được sử dụng làm phương tiện tính toán

của đối tượng đánh thuế.

+ Giá tính thuế: là giá trị của đối tượng đánh thuế.

+ Miễn giảm thuế: qui định cho phép người nộp thuế không phải thực

hiện nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền thuế mà người đó phải nộp cho nhà

nươc( miễn thuế) hoặc chỉ nộp một phần số tiền thuế đó( giảm thuế). Miến

giảm thuế chỉ là yếu tố ngoại lệ được qui định trong một số sắc thuế.

+ Thưởng phạt: thưởn là hình thức nhà nươc khuyến khích người có

thành tích trong thực hiện các luật thuế. Phạt là hình thức kỉ luật đối với

người vi phạm luật thuế.

8

Page 9: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

+ Thủ tục thuế: đó là những qui định về giấy tờ và trình tự thu nộp

mang tính chất hành chính để thi hành luật thuế( như thủ tục kê khai, tính

thuế và nộp thuế).

+ Ngoài những yếu tố trên, trong luật thuế cũng bao giờ qui định rõ

quyền hạn trách nhiệm của chính phủ, UBND các cấp, của bộ tài chính, cơ

quan thuế ở tung ương và các địa phương, nghĩa vụ của người nộp thuế.

5. Các tiêu thức xây dưng hệ thống thuế hiện đại:

Tính công bằng( theo chiều dọc và chiều ngang)

Tính hiệu quả( đối với công tác thuế và với nền kinh tế)

Tính trung lập

Tính rõ rang, minh bạch.

Tính thân thiện.

Tính ổn định.

9

Page 10: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG II:

ĐỊNH NGHĨA VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1. Định nghĩa:

Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển,

đối tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có

thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã

hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta

chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không

thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799

thuế thu nhập cá nhân được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm

thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được

chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển khác

cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, pháp

1916 và Liên Xô năm 1922.

2. Đặc điểm:

Thuế thu nhập cá nhân là lại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính

đáng của từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất

giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh

tế. Người chịu thuế thu nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh

nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.

Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:

một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá

nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát

sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế

TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của

nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không

thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ

quy định của pháp luật thuế TNCN.

10

Page 11: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu

nhập doanh nghiệp ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của

mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế,

xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu

khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước

khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần

thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính

nhân đạo xã hội

Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh

thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoành cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ

thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng

xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn

một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp

thuế

3. Vai trò đối với thị trường Việt Nam:

a. Lịch sử hình thành thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam:

Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng

thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm

1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972.

Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế

thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income

earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp

với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất

nước, từ đó đến nay đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập

đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai

vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày

30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi hành từ ngày

1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-

11

Page 12: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

UBTVQH11 ban hàng năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 đến nay).

Hiện nay việc thực hiện các quy định của pháp lệnh số 14 này được hướng

dẫn bởi thông tư 81/2004/TT-BTC và thông tư số 12/2005/TT-BTC.

Để nâng cao hơn nữa tính chất quan trọng và phải có các biện pháp chế

tài đủ mạnh để việc thực hiện thu thuế TNCN được đi vào ổn định, có hiệu

quả, công bằng, tại kỳ họp Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật số

04/2007/QH12  - Luật thuế thu nhập cá nhân. Luật này sẽ có hiệu lực thi

hành chính thức từ ngày 01/01/2009. Tại thời điểm người viết bài này thì

chính phủ đang trình dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế

thu nhập cá nhân. Sau khi có Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành

thì sẽ có thể có các Thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn chi tiết hơn. Các

thông tư số 81 và 12 sẽ đồng thời hết hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/01/2009.

Do tại thời điểm viết bài này Luật thuế TNCN chưa có hiệu lực thi

hành nên người viết chủ yếu dẫn chứng các quy định tại Pháp lệnh số 14,

thông tư 81 và thông tư 12, các thay đổi được điều chỉnh từ ngày

01/01/2009.

b. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân trong xã hội:

- Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước:

Sự giảm dần các loại thuế xuất nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương

mại nên thuế thu nhập cá nhân ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng

cho ngân sách Nhà nước. Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập

bình quân đầu người của cá nhân ngày càng tăng từ đó thuế thu nhập cá

nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước.

Thực tế tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều

quốc gia đã phản án,h tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các

nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như

Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính sách thu và còn phân tán ở

nhiều sắc thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu khá lớn trong

những năm gần đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập đối với

người có thu nhập cao là 62 tỷ, thì đến năm 2000 thu được 1.832 tỷ và đến

12

Page 13: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

năm 2005 số thu đã đạt 8.300 tỷ. Tuy vậy tỷ trọng thu cũng mới chỉ đạt

khoảng 5% tổng thu ngân sách.

- Góp phần thực hiện công bằng xã hội:

Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn

mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có

thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào

đó khi thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Ở nhiếu

nước còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá nhân mang gánh nặng

xã hội.

Ở nước ta hiện nay, thu nhập của các tầng lớp nhân dân có sự chênh

lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá

nhân có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân

người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mặc dù thuế thu nhập cá nhân

chưa mang lại số thu lớn cho ngân sách Nhà nước, song xét trên phương

diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước

thì thuế thu nhập cá nhân có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết

thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo

thực hiện chính sách công bằng xã hội.

4. Cách tính thuế:

Theo luật thuế thu nhập cá nhân ban hành ngày 21 tháng 11 năm

2007. Căn cứ chương 2, chương 3 của luật này.

a. Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân:

Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân là thu nhập chịu thuế và thuế suất

được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và khả

năng thu nhập, yêu cầu điều tiết trong từng điều kiện cụ thể.

Thu nhập chịu thuế.

+ Thu nhập thường xuyên.

Thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng cá nhân

bình quân tháng trong năm nằm trong giới hạn phải nộp thuế do biểu thuế

thu nhập đối với người có thu nhập cao quy định (đối với công dân Việt

13

Page 14: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam thu nhập bình quân tháng trong

năm là trên 5.000.000 đồng; trên 8.000.000 đối với người nước ngoài cư trú

tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài).

Riêng đối với ca sỹ như diễn viên thanh nhạc biểu diễn các loại hình

nghệ thuật ca-nhạc kịch, cải lương, tuồng, chèo, dân ca; nghệ sỹ xiếc, múa;

cầu thủ bóng đá; vận động viên chuyên nghiệp có xác nhận của cơ quan

quản lý Nhà nước chuyên ngành, được trừ 25% thu nhập khi xác định thu

nhập chịu thuế

Thu nhập thường xuyên chịu thuế được tính như sau:

Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước

ngoài, cá nhân khác định cư tại Việt Nam: lấy tổng thu nhập nhận được

trong năm kể cả thu nhập phát sinh ở nước ngoài chia 12 tháng (theo năm

dương lịch).

Người nước ngoài được coi là cư trú tại Việt Nam nếu ở tại Việt Nam

từ 183 ngày trở lên: lấy tổng thu nhập nhận được trong năm bao gồm thu

nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam chia cho

12 tháng.

Người nước ngoài ở tại Việt Nam dưới 183 ngày thì được coi là không

cứ trú ở Việt Nam, trong trường hợp này thu nhập thường xuyên chịu thuế là

tổng thu nhập phát sinh tại Việt Nam trong thời gian đó.

Thu nhập không thường xuyên.

      Thu nhập không thường chịu thuế là số thu nhập của từng cá nhân

trong từng lần phát sinh thu nhập nằm trong mức giới hạn phải nộp thuế thu

nhập do biểu thuế quy định.

b. Thuế suất.

Ðối với thu nhập thường xuyên.

Thuế thu nhập đối với thu nhập thường xuyên được áp dụng biểu thuế

suất lũy tiến từng phần có phân biệt giữa người Việt Nam và người nước

ngoài. Biểu thuế chia thành các nhóm sau:

Ðối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam,

thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến từng phần như sau:

14

Page 15: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ðối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam,

thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến từng phần như sau:

Bậ

c thuế

Phần thu nhập tính

thuế/năm

(triệu đồng)

Phần thu nhập

tính thuế/tháng

(triệu đồng)

Thuế

suất (%)

1 Đến 60 Đến 5 5

2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10

3 Trên 120 đến 216  Trên 10 đến 18 15

4 Trên 216 đến 384  Trên 18 đến 32 20

5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25

6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30

7 Trên 960 Trên 80 35

Ðối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt

Nam lao động, công tác ở nước ngoài, thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến

từng phần như sau:

 Thu nhập tính thuế Thuế suất

(%)

a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5

b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5

c) Thu nhập từ trúng thưởng 10

d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10

đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại

khoản 1 Điều 13 của Luật này

20

 

Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định

tại khoản 2 Điều 13 của Luật này

0,1

e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định

tại khoản 1 Điều 14 của Luật này

25

15

Page 16: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định

tại khoản 2 Điều 14 của Luật này2

Riêng đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam dưới 183 ngày

trong năm tính thuế thì áp dụng thuế suất thống nhất là 25 % trên tổng số thu

nhập.

Trường hợp công dân Việt Nam trong năm vừa có thời gian làm

việc ở trong nước, vừa có thời gian làm việc ở nước ngoài thì thu nhập chịu

thuế bình quân tháng được xác định bằng tổng thu nhập phát sinh ở trong

nước và ở nước ngoài chia cho 12 tháng, hoặc xác định theo thu nhập chịu

thuế bình quân tháng tính cho thời gian ở trong nước, thời gian ở nước ngoài

Ðối với thu nhập không thường xuyên.

i.) Đối với thu nhập về chuyển giao công nghệ là khoản thu nhập có giá

trị trên 15 triệu đồng tính cho từng hợp đồng, không phân biệt số lần chi trả;

ii.) Đối với thu nhập về trúng thưởng xổ số dưới các hình thức, kể cả

trúng thưởng khuyến mại là khoản thu nhập có giá trị trên 15 triệu đồng tính

cho từng lần trúng thưởng và nhận giải thưởng.

c. Thuế thu nhập cá nhân và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.

       Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Chính phủ Việt Nam ký với

Chính phủ một số nước có tác dụng đối với việc nộp thuế thu nhập cá nhân

tại Việt Nam của người nước ngoài như sau:

 Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam ký với các nước có tác

dụng tránh đánh thuế trùng thuế thu nhập cá nhân của người nước ngoài có

thu nhập tại Việt Nam. Trường hợp người nước ngoài đã nộp thuế thu nhập

tại Việt Nam thì họ sẽ được cấp chứng từ để làm căn cứ miễn thuế hoặc

giảm thuế ở nước họ.

Trường hợp cá nhân Việt Nam trong năm vừa làm việc trong nước vừa

làm việc ở nước ngoài thì thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập được tính như

sau:

Trong trường hợp này, cá nhân phải thực hiện quyết toán thuế tại Việt

Nam. Cá nhân phải tổng hợp thu nhập phát sinh tại Việt Nam và ngoài Việt

16

Page 17: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Nam để tính thu nhập bình quân tháng, trên cơ sở tổng thu nhập cả năm chia

cho 12 tháng và xác định số thuế phải nộp theo biểu thức tương ứng, cụ thể

là: thời gian ở Việt Nam tính theo biểu thuế quy định đối với công dân Việt

Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam; thời gian ở nước ngoài thì tính

theo biểu thuế quy định đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và

công dân Việt Nam lao động công tác ở nước ngoài.

Trường hợp cá nhân đã nộp thuế cá nhân ở nước ngoài và có chứng

từ nộp thuế thu nhập cá nhân tại nước đó thì được trừ số thuế đã nộp ở nước

ngoài, nhưng không vượt qúa số thuế phải nộp tính trên số thu nhập chịu

thuế từ nước ngoài theo biểu thuế của Việt Nam. Nếu cá nhân có thu nhập ở

các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế trùng với Chính phủ Việt Nam thì

thực hiện theo nội dung của Hiệp định.

d. Các trường hợp miễn thuế, giảm thuế .

Cá nhân nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, địch họa, tai nạn ...làm

thiệt hại về tài sản, thu nhập, ảnh hưởng đến đời sống bản thân thì cá nhân

nộp thuế được xét miễn, giảm thuế trong năm tùy theo mức độ thiệt hại. Số

thuế được xét miễn, giảm bằng tỷ lệ giữa số thiệt hại so với thu nhập chịu

thuế trong năm, nhưng không vượt qúa số tiền thuế phải nộp cả năm.

Với một số trường hợp đặc biệt, liên quan đến lợi ích kinh tế, chính trị,

xã hội quốc gia thì được xem xét miễn, giảm thuế.

Trong trường hợp chờ quyết định miễn, giảm thuế, cá nhân nộp thuế

vẫn phải nộp đủ số thuế theo quy định. Khi có quyết định miễn, giảm thuế sẽ

được thoái trả số thuế được miễn, giảm bằng cách trừ vào số thuế phải nộp

kỳ sau hoặc được cơ quan ủy nhiệm thu trả lại tiền thuế đã khấu trừ theo

quyết định của cơ quan thuế.

17

Page 18: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG III:

HỆ THỐNG QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT

NAM

1. Khái niệm công tác quản lý thuế TNCN :

Quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của cơ quan chức năng

trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế TNCN để thay đổi

quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu

nhà nước đặt ra.

Công tác quản lý thuế TNCN nhằm đạt được các mục tiêu sau:

Tăng cường tập trung, huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho ngân

sách nhà nước trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn

thu.Thuế TNCN chiếm tỉ trọng chủ yếu trong số thu ngân sách nhà nước ở

hầu hết các quốc gia trên thế giới.Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế thu

nhập nói chung và TNCN nói riêng sẽ có tác dụng lớn trong việc tập trung,

huy động đầy đủ và kịp thời số thu cho ngân sách nhà nước.

Góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh

tế và dân cư.

Phát huy tốt nhất vai trò của thuế TNCN trong nề kinh tế

2. Nội dung công tác quản lý thuế TNCN

Công tác quản lý là 1 phần quan trọng của quản lý tài chính nhà nước,

công tác này cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao gồm toàn bộ các

công việc thuộc các lĩnh vực lập pháp , hành pháp , tư pháp về thu.

a. Ban hành chính sách thuế TNCN

Đây là công việc thuộc lĩnh vực lập pháp.Việc ban hành chính sách

thuế TNCN sẽ tạo ra những quy định pháp luật làm cơ sở để tính và thu

thuế.Đồng thời, ban hành chính sách cũng đưa ra những căn cứ để kiểm tra,

thanh tra, và áp dụng các chế tài đối với quá trình tính và thu này

Để mỗi công dân đều sống và làm việc theo pháp luật thì chính sách

thuế TNCN cần được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

18

Page 19: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Việc xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách thuế cần đảm bảo

tính đơn giản, rõ rang, chặt chẽ.Vì loại thuế này khá phức tạp nên nguyên tắc

này cần được đảm bảo để hạn chế hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp

thuế.

Quy định trong chính sách thuế này cần đảm bảo được yêu cầu đặt ra

trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách , đồng thời phù hợp với điều

kiện kinh tế-xã hội và đảm bảo tính công bằng đối với cả người nộp thuế và

xã hội.

Thuế TNCN đóng vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội , giảm bớt

sự cách biệt quá lớn về mức sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng

cần động viên sự phấn đấu làm việc của người lao động. Các quy định phải

đảm bảo cho thu nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế

tương xứng với công sức lao động và sự đóng góp của họ.

Để đảm bảo chính sách thuế TNCN phát huy hiệu quả cần chuẩn bị các

điều kiện cần thiết cho quá trình triển khai thực hiện , bao gồm: Phát triển

mạnh hệ thống thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt bằng các

phương pháp bắt buộc và khuyến khích tự nguyện, cải tiến và hoàn thiện chế

độ kế toán, thống kê, thông tin,báo cáo để tạo điều kiện thuận lợi cho công

tác quản lý thuế TNCN, đặc biệt đối với cá nhân , hộ gia đình tự doanh; phát

triển hệ thống dịch vụ kế toán, tư vấn , kê khai thuế chuyên nghiệp; Tăng

cường phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ

chức cá nhân có liên quan.Nâng cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế

trong việc kiểm tra, kiểm soát, thanh tra thuế, cưỡng chế thuế; Tăng cường

tuyên truyền, vận động sâu rộng về chính sách thuế TNCN, xây dựng cơ chế

tiếp thu ý kiến thông tin phản hồi từ người nộp thuế .

b. Những nội dung cơ bản của chính sách thuế TNCN:

Đối tượng nộp thuế:

Thuế TNCN thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng đồng

thời là đối tượng nộp thuế.Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những

nội dung quan trọng của thuế TNCN, từ đó mới có thể vận dụng cách tính

19

Page 20: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

thuế cho phù hợp. Khi tiến hành xác định đối tượng nộp thuế , người ta

thường dựa vào hai tiêu thức là “nơi cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.

Đối tượng tính thuế:

Việc xác định đối tượng tính thuế là 1trong những vấn đề quan trọng

hàng đầu được đề cập đến trong chính sách thuế TNCN của các nước. Căn

cứ vào đó, người ta có thể thấy rằng loại thuế TNCN mà từng nước cụ thể áp

dụng có công bằng không, thuế này tạo được nguồn thu như thế nào cho

ngân sách nước đó. Đối tượng tính thuế ở đây là một số khoản thu nhập nằm

trong trong diện tích thuế TNCN theo quy định trong chính sách thuế TNCN

của từng quốc gia. Để tính được thuế TNCN cá nhân phải nộp trước tiên

phải xác định những khoản thu nhập nào là đối tượng tính thuế và tính toán

thu nhập đó như thế nào. Sau đó , căn cứ vào 1 số quy định khác trong chính

sách thuế như các khoản miễn giảm, khấu trừ…cơ quan thuế xác định được

thu nhập tính thuế, từ thu nhập tính thuế và thuế suất sẽ xác định thuế phải

nộp.

Các phương pháp tính thuế TNCN:

Thông thường, thuế TNCN được chia làm 2 loại riêng biệt : thuế

TNCN theo khoản và thuế TNCN tổng hợp.

+ Thuế thu nhập cá nhân theo khoản: là thuế được xác định theo từng

nguồn thu nhập. Ứng với mỗi nguồn thu nhập khác nhau. Do đó, tổng số

thuế phải nộp chính là tổng số thuế thu nhập mà họ phải nộp theo từng

nguồn. Thuế TNCN theo khoản này tồn tại với 2 nguyên tắc: tính thuế độc

lập và có phân biệt thuế suất với các loại thu nhập khác nhau. Từ đó, nó cho

phép điều chỉnh tăng giảm mức đóng góp về thuế tùy theo nguồn gốc thu

nhập , có sự phù hợp giữa kỹ thuật tính thuế với đặc điểm của mỗi loại thu

nhập.

+ Thuế thu nhập cá nhân tổng hợp: là loại thuế được tính trên tổng thu

nhập tương ứng với tổng số các khoản thu nhập cộng lại. Thông thường,

theo cách tính này, người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có

thu nhập thấp.

Đơn vị tính thuế:

20

Page 21: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Cá nhân có thu nhập hoặc là hộ gia đình thường là đơn vị tính thuế.Vì

thuế TNCN ảnh hưởng đến hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế nên cần

phân biệt cá nhân có gia đình với cá nhân độc thân khi tính thuế. Với cá

nhân độc thân, nhiều người cho rằng cần phải tính thuế cao hơn cá nhân có

gia đình vì họ chỉ phải chi phí cho bản thân họ.Nhưng có người lại cho rằng

nên tính thuế thấp hơn đối với những người này vì họ đã chịu thiệt thòi do

không được hưởng hạnh phúc gia đình. Nói tóm lại, mỗi đơn vị tính thuế

đều có những ưu nhược điểm khác nhau.

Tính thuế TNCN trên thu nhập thực tế của từng cá nhân có ưu điểm là

đơn giản, dễ làm, thu kịp thời cho ngân sách nhưng lại có nhược điểm là

chưa đảm bảo được yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế, chưa

đáp ứng được tính công bằng xã hội.

Thời gian tính thuế:

Thời điểm tính thuế phải là thời điểm thuận lợi cho công tác quản lý

thu cũng như việc kê khai và nộp thuế của người dân và phải chịu đảm bảo

giá trị của đồng tiền nộp thuế trước tình trạng lạm phát, đảm bảo việc chi

tiêu theo kế hoạch của nhà nước, tránh được việc chiếm đoạt tiền thuế.

Thông thường, các nước xác định mức thuế phải nộp từng năm. Ưu

điểm của việc sử dụng khoảng thời gian năm là đảm bảo nguồn thu nhập

thường xuyên của chính phủ để trang trải các chi phí vì các kế hoạch kinh tế-

xã hội của chính phủ được đặt ra hàng năm. Đây là khoảng thời gian hợp lý

cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên cơ sở hệ thống kế toán ở các doanh

nghiệp đơn vị kinh tế hạch toán, quyết toán.

Về miễn, giảm thuế TNCN

Các nước cũng có quuy định về vấn đề này tùy theo trình độ phát triển

kinh tế-xã hội của từng quốc gia.

Ví dụ như Mỹ quy định “suất miễn giảm thu nhập” cho người nộp thuế

trong trường hợp này phải chứng minh được rằng mình phải cung cấp quá

nửa sự hỗ trợ cho cá nhân ăn theo thì sẽ được miễn thu 3250 USD/năm. Mức

này được xác định theo tỷ lệ lạm phát từng năm có dự điều chỉnh.

c. Công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế TNCN

21

Page 22: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Sau khi đã được phê chuẩn và ban hành, chính sách thuế TNCN được

tổ chức thực hiện. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất quyết định của

việc sử dụng công cụ thuế. Nhờ việc tổ chức thực hiện chính sách thuế và

quá trình tính, thu thuế mới diễn ra trong thực tế, đồng thời các quy định về

quá trình này mới đến được với mọi người dân thông qua tuyên truyền, phổ

biến chính sách thuế. Nội dung tổ chức thực hiện chính sách thu nhập cá

nhân bao gồm:

Tuyên truyên, phổ biến chính sách thuế

Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay

không thì sự thành công việc thực hiện các chính sách thuế còn phụ thuộc rất

lớn vào sự hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán bộ thuế

cũng như người nộp thuế. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi

người dân trong xã hội,cơ quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên

truyền, phổ biến về chính sách thuế. Công tác này cần phải được thực hiện

trước hết từ cán bộ thuệ, sau đó tới mọi người dân.

Tiến hành tổ chức quản lý thu thuế

Muốn thực hiện tốt công tác quản lý thuế TNCN , cần phải xây dựng

một đội ngũ cán bộ thuế chuyên trách được đào tạo chuyên sâu trong công

tác quản lý thu thuế TNCN. Đội ngũ này cần phải được tổ chức 1 cách thống

nhất, đồng bộ và có khoa học. Nếu làm được điều này, chúng ta sẽ vừa tiết

kiệm được chí phí cho công tác quản lý thu thuế đồng thời vẫn đảm bảo thực

hiện tốt công tác này. Những nội dung của công tác quản lý thu thuế TNCN

bao gồm:

Quản lý đối tượng nộp thuế

d. Thanh tra thuế TNCN

Thanh tra thuế được thực hiện bởi cơ quan thanh tra chuyên ngành

thuế. Đối tượng thanh tra thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có nghĩa vụ

nộp thuế cho Nhà nước và bao gồm cả các đơn vị thuộc ngành thuế.

Mục tiêu của thanh tra thuế là phát hiện và xử lý các trường hợp sai trái

nhằm giảm bớt những tổn thất cho Nhà nước và đảm bảo tính nghiêm minh

của pháp luật.Đồng thời cũng qua quá trình thanh tra, cơ quan thuế có thể

22

Page 23: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

phát hiện những thiếu sót, bất cập trong văn bản pháp luật thuế và quá trình

tổ chức thực hiện, từ đó tìm ra những giải quyết nhằm hoàn thiện công tác

quản lý thuế TNCN.

e. Tổ chức bộ máy quản lý thuế TNCN

Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thuế để quản lý thuế TNCN cũng

như các sắc thuế khác. Nhìn tổng thể trong phạm vi nền kinh tế quốc dân ,

cơ quan thuế ở các nước trên thế giới đều được tổ chức thành một hệ thống

bao gồm nhiều cấp. Tại nhiều nước, hệ thống đó không hoàn toàn phù hợp

với hệ thống chính quyền Nhà nước và bao gồm : cơ quan thuế trung ương,

cơ quan cấp tỉnh , thành phố và cơ quan thuế cấp quận , huyện như Việt

Nam, Trung Quốc

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý thuế TNCN

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi

nhân tố đều có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo

tính chất và trạng thái của nhân tố đó. Nhiệm vụ của các cơ quan chức năng

trong bộ máy nhà nước là phải tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực

cũng như phát huy những ảnh hưởng tích cực nhằm hoàn thiện công tác

quản lý thuế TNCN.

Các nhân tố chủ yếu đó là:

a. Quan điểm của tầng lớp lãnh đạo nhà nước .

Quan điểm của tầng lớp lãnh đạo có ảnh hưởng trước hết tới các chính

sách thuế TNCN, sau đó là tới quá trình thực hiện và các công việc khác

thuộc phạm vi quản lí sắc thuế này.

Pháp luật thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị.Luật thuế nói chung

và thuế thu nhập nói riêng cũng không ngoại lệ.Một ví dụ cho điều này là sự

đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả kinh tế. Nhìn chung, trong quá trình

thực hiện công bằng, xã hội phải chịu sự giảm sút của những hoạt động

đang đạt hiệu quả kinh tế. Trong khi cố gắng chuyển một phần thu thu thập

của cá nhân X có thu nhập cao sang cho cá nhân Y có thu nhập thấp hơn,

hiệu quả kinh tế sẽ giảm sút do những lý do sau:

23

Page 24: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Cá nhân X đang tiến hành những hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế

còn cá nhân Y thì không. Khi cá nhân X phải nộp thuế thu nhập với thuế

suất lũy tiến, anh ta sẽ lựa chọn giữa đi làm và nghỉ ngơi để tối đa hóa lợi

ích của mình. Thuế suất lũy tiến đối với thuế thu nhập đã làm cho lợi ích do

một giờ đi làm mang lại ngày càng nhỏ hơn đi còn lợi ích của một giờ ngỉ

ngơi vẫn không đổi. Vô hình chung, anh ta sẽ được giảm giờ làm, tăng nghỉ

ngơi để tối đa hóa lợi ích của mình.

Bên cạnh đó, với thu nhập nhận được tăng thêm từ cá nhân X, cá nhân

Y sẽ không thực hiện được những hoạt động mang lại hiệu quả cao như vậy.

Một nhà nước chú trọng công bằng hơn hiệu quả kinh tế sẽ có chính

sách điều tiết mạnh vào người có thu nhập cao, mức thuế suất sẽ tăng rất

nhanh theo lượng thu nhập tăng thêm. Điều này thông thường sẽ làm giảm

nỗ lực làm việc của cá nhân có thu nhập cao. Nhìn chung , hiệu quả kinh tế

sẽ giảm.

b. Cơ sở vật chất của ngành thuế .

Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế THCN.

Những quy định trong chính sách về diện thu thuế (rộng hay hẹp) , phương

thức kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế…phụ thuộc rất nhiều vào khả năng

đáp ứng của ngành thuế. Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật

chất của ngành thuế. Cũng như vậy, một hệ thống thu thuế được kết nối

bằng mạng nội bộ sẽ là một nhân tố rất hữu ích cho cơ quan thuế trong việc

quản lý thu thuế hiệu quả, chính xác, kịp thời và tiết kiệm chi phí. Việc xây

dựng mạng thông tin nội bộ để quản lý cơ sở dữ liệu sẽ đòi hỏi những chi

phí bước đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn thì điều này sẽ tiết kiệm

chi phí hơn rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.

c. Trình độ và phẩm chất đạo đức cảu đội ngũ lãnh đạo cán

bộ thuế.

Trình độ đội ngũ cán bộ thuế vai trò rất quan trọng trong công tác quản

lý thuế, đặc biết là thuế TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các nội dung

của công tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện

chính sách tới thanh tra thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế.

24

Page 25: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

d. Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư.

Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư ảnh hưởng lớn tới khâu

quản lý thu thuế và thanh tra thuế. Quản lý thuế THCN khó khăn và phức

tạp chủ yếu ở khâu quản lý thu nhập của các đối tượng. Nếu như các khoản

thu nhập được thanh toán qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản

séc cá nhân thì sẽ rất thuận tiện cho cơ quan thuế trong việc giám sát. Bên

cạnh đó, nếu phương thức thanh toán trong dân cư chủ yếu thông qua ngân

hàng thì nhà nước có thể áp dụng phương pháp thu thuế TNCN thông qua

ngân hàng. Điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi phí cho cơ quan

thuế, vừa kiểm soát chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì

vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm với việc phát triển hình

thức thanh toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện

tốt công tác quản lý thuế TNCN.

e. Tính nghiêm minh của luật pháp.

Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, thực hiện nghiêm minh sẽ đảm

bảo việc vi phạm luật giảm đi. Các đối tượng nộp thuế cũng như cơ quan thu

thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ

biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị phát

hiện. Như vậy, công tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt hiệu quả hơn.

f. Tình hình kinh tế và mức sống của người dân.

Hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào

mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế

trên một khu vực, số đối tượng nộp thuế TNCN sẽ giảm bớt chi phí trên 1

đồng thuế thu được, và ngược lại. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự

phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho quản lý nói chung và công tác quản

lý thuế TNCN nói riêng. Khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế

cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả.

g. Ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế.

Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ

thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp

hành luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế. Hanh vi trốn thuế sẽ

25

Page 26: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

ít xảy ra. Chính vì vậy, công tác quản lý thu thuế và thanh tra thuế sẽ gặp

nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn. Tóm lại ý thức chấp hành luật thuế

của đối tượng nộp thuế cũng ãnh hưởng một phần tới công tác quản lý thuế

TNCN.

26

Page 27: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

PHẦN IV:

THỰC TRẠNG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

Trong thời gian qua các chính sách thuế đối với thu nhập cá nhân ở

nước ta nhìn chung phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội đất nước, đã góp

phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, kiểm soát thu

nhập của cá nhân, phân phối lại thu nhập, thực hiện công bằng xã hội cũng

như bước đầu tạo thói quen và góp phần nâng cao nhận thức của các đối

tượng nộp thuế về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN.

Nghị quyết đại hội đảng IX và X đã xác định áp dụng thuế TNCN thống

nhất và thuận tiện cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng và tạo

động lực phát triển. Cụ thể hoá nghị quyết của Đại hội Đảng, Bộ Chính trị

đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010 và ban hành các quyết

định triển khai thực hiện cải cách, trong đó thuế TNCN được xác định ban

hành vào năm 2007. Bản dự thảo mới nhất về Luật thuế TNCN đã được

trình quốc hội cho ý kiến trong kỳ họp vào trung tuần tháng 10. So với bản

dự thảo trước đây, bản dự thảo này đã có nhiều điểm mới dựa trên cơ sở tiếp

thu những ý kiến đóng góp của nhân dân và các cơ quan liên quan. Ngày

06/12 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định về việc phê duyệt

chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát của

chương trình là xây dưngj hệ thống chính sách thuế đồng bộ , có cơ cấu hợp

lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. Những nội dung cơ bản trong pháp lệnh thuế TNCN của Việt

Nam:

I. Vai trò, mục tiêu của Luật thuế thu nhập cá nhân

Luật Thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế quan trọng nhằm

tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối

với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách

nhà nước, củng cố an ninh - quốcphòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết

27

Page 28: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

cấu hạ tầng, phát triển kinh tế...Luật thuế thu nhập cá nhân có những vai trò và

mục tiêu sau

- Thứ nhất, đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư để

khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu

nhập làm giàu chính đáng.

Thuế thu nhập cá nhân động viên phù hợp với khả năng thu nhập của

mỗi người: Không thu thuế đối với những người có thu nhập thấp; chỉ điều

tiết một phần thu nhập của cá nhân có thu nhập trên mức trung bình của xã

hội, phần thu nhập còn lại đảm bảo nâng cao đời sống, khuyến khích làm

giàu chính đáng, tăng tích lũy, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh để giải

phóng mọi nguồn lực của đất nước.

- Thứ hai, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp

dân cư, tạo điều kiện cho người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ đối

với đất nước, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp

dân cư trong xã hội.

Quan điểm này thể hiện Thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo công

bằng, về nghĩa vụ thuế giữa các cá nhân có thu nhập; người có thu nhập cao

hơn thì nộp thuế nhiều hơn; người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn

cảnh khác nhau thì nộp thuế khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá

nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.

- Thứ ba, việc ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân có tính đến

những bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có

chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành.

Để phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế

quốc tế trong những năm tới, việc xây dựng, ban hành và áp dụng thuế thu

nhập cá nhân cần phải có lộ trình, bước đi thích hợp phù hợp với thực tiễn

của Việt Nam, thông lệ quốc tế và kế thừa có chọn lọc những quy định trong

chính sách thuế hiện hành.

- Thứ tư, đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn

các vấn đề xã hội.

28

Page 29: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm, hiệu

quả ngân sách, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tăng cường

chống thất thu thuế, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân góp phần huy động

thêm nguồn lực, đảm bảo ổn định, tăng trưởng nguồn thu ngân sách để giải

quyết tốt hơn các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.

LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

1.Về đối tượng nộp thuế:

Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu

thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong và ngoài

lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại

Điều 3 của Luật thuế thu nhập cá nhân phátsinh trong lãnh thổ Việt Nam.

- Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

+ Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch

hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;

+ Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường

trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.

- Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện cư trú quy định

trên.

2. Về thu nhập thuộc diện chịu thuế:

Về cơ bản Luật quy định thu nhập chịu thuế được phân thành 6 loại

gồm:

- Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh.

- Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công, tiền thù lao, bao gồm cả

các khoản thu nhập từ giảng dạy, tư vấn, nghiên cứu khoa học, tiền nhuận

bút...

(Đối với hai khoản thu nhập trên được trừ các khoản đóng góp BHXH, BHYT và

giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế).

- Thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn gồm: lãi cho vay, lãi tiền gửi tiết

kiệm, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, lãi trái phiếu, tín phiếu, lợi tức cổ

phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn kinh doanh.

33.Các khoản thu nhập được miễn thuế, giảm thuế:

29

Page 30: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

- Thu nhập được miễn thuế:

- Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn.

- Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản.

- Thu nhập chịu thuế khác: phần thu nhập vượt trên 10 triệu đồng/lần

phát sinh từ trúng thưởng xổ số, trúng thưởng trong các hình thức khuyến

mại, trò chơi có thưởng, thu nhập từ tiền bản quyền, từ thừa kế, quà tặng.

- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ,

mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với

con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại,

bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.

- Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn

liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở

duy nhất.

- Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao

đất.

- Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản.

- Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến thành các

sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường.

- Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân

được Nhà nước giao để sản xuất.

- Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo

hiểm nhân thọ.

- Thu nhập từ kiều hối.

- Tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền

lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật.

-Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả.

- Thu nhập từ học bổng, bao gồm:

+ Học bổng nhận được từ ngân sách Nhà nước;

+ Học bổng nhận được từ tổ chức trong nước và ngoài nước theo

chương trình hỗ trợ khuyến học của tổ chức đó.

30

Page 31: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

- Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện,

nhân đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận.

- Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện,

nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền phê duyệt.

- Ðối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh

hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương

ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.

Giảm thuế :

Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh

hiểm nghèo ảnhhưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương

ứng với mức độ thiệt hại nhưngkhông vượt quá số thuế phải nộp

4. Về giảm trừ gia cảnh:

Khoản giảm trừ gia cảnh là một trong những nội dung quan trọng của

Luật Thuế thu nhập cá nhân, quy định cá nhân có thu nhập từ tiền lương,

tiền công và thu nhập từ kinh doanh sẽ được trừ vào thu nhập trước khi tính

thuế khoản giảm trừ gia cảnh cho bản thân và cho những người phụ thuộc

phải nuôi dưỡng. Cụ thể như sau: Mức giảm trừ cho đối tượng nộp thuế là

bốn triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu

đồng/tháng.

Cũng theo quy định về giảm trừ gia cảnh, người được xác định là người

phụ thuộc của đối tượng nộp thuế là: Con chưa thành niên, con bị tàn tật

hoặc không có khả năng lao động.

Các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt

quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng,

trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng

lao động; bố mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động;

những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp

nuôi dưỡng.

31

Page 32: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Việc kê khai mức giảm trừ gia cảnh cho những người phụ thuộc (con,

bố, mẹ...), người nộp thuế căn cứ vào thu nhập của bản thân và những người

nộp thuế khác trong gia đình để lựa chọn hình thức kê khai mức giảm trừ

cho người phụ thuộc nhưng đảm bảo nguyên tắc những người nộp thuế trong

một gia đình không kê khai trùng người phụ thuộc của gia đình đó. Để kiểm

soát được vấn đề này thì không chỉ người nộp thuế mà cả những người phụ

thuộc cũng cần có mã số thuế riêng.

5. Biểu thuế

Luật thuế thu nhập cá nhân quy định hai biểu thuế: Biểu thuế lũy tiến

từng phần và Biểu thuế suất toàn phần.

Biểu thuế lũy tiến từng phần:

Đơn vị tính: Triệu đồng

Bậc

thuế

Phần thu nhập tính

thuế/năm

(triệu đồng)

Phần thu nhập tính

thuế/tháng

(triệu đồng)

Thuế suất

(%)

1 Đến 60 Đến 5 5

2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10

3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15

4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20

5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25

6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30

7 Trên 960 Trên 80 35

b. Biểu thuế suất toàn phần:

2. Biểu thuế toàn phần được quy định như sau:

Thu nhập tính thuếThuế suất

(%)

a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5

b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5

c) Thu nhập từ trúng thưởng 10

d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10

32

Page 33: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn

Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán

20

 

0,1

6. Về kê khai, thu nộp:

Trong 6 khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế thì chỉ có 2 khoản thu

nhập từ kinh doanh và thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất là cá nhân tự

kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, kiểm

soát. Đối với tất cả các khoản thu nhập còn lại áp dụng phương pháp thu

thuế khấu trừ tại nguồn. Theo phương pháp này, khi chi trả thu nhập cho

người nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập thực hiện khấu trừ và nộp tiền thuế

vào ngân sách; cuối năm cá nhân tổng hợp các khoản thu nhập thực hiện

quyết toán nếu có số thuế nộp thừa thì được thoái trả tiền thuế

Nguồn:Tổng

cục thuế

NHỮNG MẶT TÍCH CỰC CỦA LUẬT

Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói,

đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh

khá đầy đủ ý chí, nguyệnvọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh

thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh

tế-xã hội nước ta hiện nay.

1.Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế.

Điểm mới là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN.

Việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực

hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảmbảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư,

quy định này đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết cácnước đều đưa cá

nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN.- Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư

trú, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở

đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê

có thời hạn".

33

Page 34: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

2.Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ

thuế.

Luật thuế TNCN phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh

thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu

nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từđầu tư vốn; thu nhập từ chuyển

nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu

nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng,

thu nhậptừ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế

phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế

suất được quy định theo hai hướng: đối với thunhập từ kinh doanh và tiền

lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các

khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.

3.Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số

khoản thu nhập chịu thuế.

Một số khoản thu nhập được quy định trong Luật thuế TNCN gồm:

thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là

chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài

sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng, thu nhập từ casino, thu nhập từ

trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.-

Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng,

thừa kế, quàtặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với

con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể;

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội,cháu ngoại; anh chị em

ruột với nhau.

- Tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng

vốn bao gồm cảchuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ

lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

được miễn thuế TNCN. Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết

công bằng thu nhập của các tầng lớpdân cư theo hướng mọi cá nhân có thu

nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trườnghợp đặc biêt) đều

phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới

34

Page 35: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

này,Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một

cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.

4. Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế.

Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song

cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý

kiến nhân dân. Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi

điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế thì chuyển sang áp dụng

giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp

thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp

thuế được công bằng hơn. Mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là

4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có

nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng. Mức giảm trừ gia cảnh như

trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm

tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Chỉ

những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế, khi

thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung

bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở

lên đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong

điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư

5.Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.

Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi

tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu

nhập từ kinh doanh; không áp dụng đốivới cá khoản thu nhập khác. Với quy

định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt

động từ thiện, nhân đạo.

6. Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp

nhất, và tăng bậcthuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam

và người nước ngoài.

Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều

điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với

quá trình hội nhập kinh tế của đất nước vàphù hợp với trình độ phát triển

35

Page 36: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan

trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ

thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại

hơn.

NGHỊCH LÍ VÀ NHỮNG ĐIỂM BẤT HỢP LÍ VÈ THUẾ THU

NHẬP CÁ NHÂN

Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân cũng còn tồn tại một số hạn

chế, bất cập mà thời gian qua, dư luận tranh luận rất nhiều, các tranh luận

xoay quanh các vấn đề sau:

1.Luật chỉ đánh thuế đối với những người làm công ăn lương

Trong điều kiện cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta còn thấp,

các chính sách an sinh xã hội, quy định pháp lý về thanh toán, kiểm soát

nguồn thu chưa đồng bộ, người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong sinh

hoạt thì tính khả thi của Luật thuế TNCN đến đâu? Hiện có một bộ phận rất

lớn người dân hoạt động sản xuất kinh doanh tự do, không thực hiện luân

chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng, cơ quan thuế không thể kiểm soát được

thu nhập của họ là bao nhiêu để đánh thuế. Luật thuế TNCN do đó chỉ đánh

thuế đối với những người làm công ăn lương, cán bộ công chức. Điều đó dẫn

đến những bất bình đẳng trong việc đóng thuế, đi ngược lại mục đích của

luật là phân phối thu nhập, giảm khoảng cách giàu nghèo.

2.Bất cập về mức khởi điểm và mức giảm trừ gia cảnh

Tỷ lệ thống nhất mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá

nhân là 4 triệuđồng/tháng cho người nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người

phụ thuộc 1,6 triệu đồng/. Ngay tại thời điểm xây dựng Luật Thuế TNCN,

đã có quá nhiều ý kiến chuyên gia phản biện rằng mức khởi điểm chịu thuế

quá thấp. Đặc biệt, các mức thuế suất, giảm trừ gia cảnh...không tính đến

yếu tố trượt giá. Tất cả các mức giảm trừ gia cảnh, khởi điểm chịu thuế...

đều cho thấy sự bất cập giữa thu nhập chịu thuế và chi tiêu thực tế trong cơn

bão giá. Luật chỉ khả thi và huy động được khả năng đóng góp của nhân dân

36

Page 37: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

khi mức thu nhập phải đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt phí và tích luỹ

tối thiểu. .

3.Bất cập về mức thuế lũy tiến

So sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất

cao. Cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng

khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. Sẽ

thật bất công nếu như người ta càng vắt óc,vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại

càng bị đánh thuế cao.- Các mức thuế luỹ tiến 5,6,7 trong bậc luỹ tiến (tương

đương với mức 25%, 30% và 35%)đã đánh vào đối tượng là người có tài, người có

khả năng làm giàu. Điều đó sẽ phản tác dụng vì sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa

và thực chất là sự tước đoạt của người này để chia cho người khác. Mức sống của

dân ta hiện rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, không nên áp

dụng ngay một lúc mức mức lũy tiến lên đến 35% được.

Với những nội dung như đã trình bày ở trên thì luật thuế thu nhập cá

nhân vẫn còn những rào cản phúc tạp

4.Chưa bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ thuế:

Cùng là thu nhập của cá nhân, nhưng thu nhập từ kinh doanh không

được trừ khởi điểm mà nộp thuế theo mức 28%; thu nhập từ tiền công, tiền

lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng mỗi tháng mới nộp thuế và áp dụng

thuế suất lũy tiến từng phần từ 10% đến 40%;

- Áp dụng khởi điểm chịu thuế, biểu thuế khác nhau giữa người Việt

Nam và người nước ngoài.

- Chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

*Bên cạnh những rào cản phức tạp như ở trên đã trình bày thì thuế

thu nhập cá nhân vẫn tồn tại những nghịch lí cụ thể như sau:

+ Vấn đề thứ nhất đáng quan tâm ở đây là thu nhập hơn 1 triệu

đồng/tháng vẫn phải tính thuế thu nhập như người thu nhập cao, bị khấu trừ

10%, quy định tạm nộp 10% thuế với các khoản thu nhập trên 500.000 đồng

vô tình tạo ra nghịch lý này.

Đối với cơ quan thuế thì dù chưa rõ người dân có thu nhập đến mức

chịu thuế hay không, nhưng để tránh thất thu thuế, Bộ Tài chính đã quy định

việc khấu trừ tạm này. Đến hết năm, nếu thấy chưa đến ngưỡng phải nộp

37

Page 38: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

thuế, tức là có thu nhập dưới 48 triệu đồng/năm với người độc thân, họ sẽ

phải đến cơ quan thuế để đề nghị xin hoàn thuế đã nộp và lấy lại số tiền thuế

đã tạm nộp. Nhưng mà cùng với đó, những rắc rối trong việc hoàn thuế đã

khiến không ít người nản lòng với ý định lấy lại tiền thuế đã tạm nộp.

Vì sao lại có chuyện này. Thật vậy, đến cuối năm quyết toán, không ít

người thuộc diện được hoàn lại toàn bộ tiền thuế đã nộp. Đành rằng, số thuế

này theo quy định chỉ là tạm thu và nó sẽ được hoàn lại nếu người nộp thuế

chứng minh được mình thu nhập dưới mức chịu thuế. Nhưng liệu họ có đủ

"kiên nhẫn" để lấy lại số tiền thuế đã tạm nộp hay không thì lại là chuyện

khác.Muốn lấy lại tiền bạn phải đủ “kiên nhẫn” vì con đường lấy lại tiền từ

kho bạc Nhà nước không hề đơn giản. Để lấy được tiền hoàn thuế, người

nộp thuế sẽ phải trải qua một “ma trận” thủ tục, giấy tờ mà nếu kê khai ra

đây sẽ có thể khiến không ít người "chóng mặt" mà bỏ cuộc. Mỗi khi phát

sinh khoản khấu trừ thuế, thì người bị khấu trừ cần đề nghị cơ quan chi trả

thu nhập, xuất hồ sơ chứng từ khấu trừ thuế.

Như vậy là để có thể lấy lại số tiền vốn là của mình (do không thuộc

đối tượng nộp thuế thu nhập nhưng vẫn bị khấu trừ), người dân phải hoàn tất

hàng chục loại giấy tờ rắc rối phức tạp

Rồi sau đó họ lại phải gửi hồ sơ đến cơ quan thuế, nếu sai sót còn phải bổ

sung, sau đó chờ quyết định hoàn thuế rồi mới đi kho bạc rút tiền. Người

không rành thủ tục có thể phải thuê người tư vấn, ngoài ra còn chi phí đi lại,

cước bưu điện...

Quả là quá nhiêu khê, rắc rối và tốn kém, đến mức hầu như không ai làm,

chỉ trừ trường hợp số tiền hoàn thuế tương đối lớn

Thực ra để đơn giản hoá thủ tục, tránh phiền hà cho việc khấu trừ

rồi lại hoàn thuế, Bộ Tài chính có quy định, nếu cá nhân ước lượng thu nhập

trong năm chưa đến mức phải nộp thuế thì chỉ cần làm giấy cam kết, hàng

tháng khi trả thu nhập, cơ quan chi trả không khấu trừ thuế. Tuy nhiên, thực

tế các đơn vị chi trả thường sợ người lao động khai man thu nhập, khi cơ

quan thuế phát hiện truy thu, nên các đơn vị thường làm cách "chắc ăn" là

tạm khấu trừ thuế cho tất cả khoản thu nhập trên 500.000 đồng của người lao

38

Page 39: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

động. Như vậy, thực tế cơ quan thuế không bao giờ chịu thiệt, vì họ đã sớm

nắm "đằng chuôi". Còn người nộp thuế, nếu không biết hoặc không đủ "chịu

khó" đi làm thủ tục hoàn thuế thì họ sẽ phải vui vẻ chấp nhận khoản tiền đã

tạm khấu trừ nhưng bị mất thật.

+ Vấn đề thứ hai cần nói tới ở đây là theo Thông tư số 84/2008/TT-

BTC nêu rõ: “Việc hoàn thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng đối với những cá

nhân đã đăng ký thuế và có mã số thuế”. Nghĩa là những người chưa đăng kí

thuế và chưa có mã số thuế không được nhận lại số tiền thuế đã bị khấu trừ,

mặc dù đúng ra họ không thuộc diện phải nộp thuế thu nhập. Đây là một quy

định vô lý, gây thiệt thòi cho người dân.

+ Vấn đề thứ ba là liệu chúng ta có nên khấu trừ thuế 10% từ một khoản

thu nhập phụ chỉ có 500 nghìn đồng lấy ví dụ đó là số tiền nhuận bút khá là

ít ỏi của nhiều bài báo hay không. Điều đó cho thấy giá “chất xám” ở nước

ta vốn rẻ mạt. Vậy mà, chế độ thuế hiện hành còn đánh thuế vào số tiền trả

nhuận bút vốn rất rẻ mạt ấy thì đúng là một chuyện đáng buồn và không nên.

Thủ tục khấu trừ thì rất đơn giản: chỉ cần xem hồ sơ thấy số tiền thù lao,

nhuận bút...từ 500.000 đồng trở lên là cơ quan thuế khấu trừ ngay từ 10-

20%, thế nhưng thủ tục để nhận lại tiền hoàn thuế thì quả là “thiên nan vạn

nan”.

Mặt khác, chỉ với số tiền nhuận bút ít ỏi hơn 500.000 đồng/tháng cũng

bị khấu trừ thuế, liệu có công bằng hay không? Hiện nay, cơ quan thuế chỉ

thu được tiền từ các cơ quan, công sở, doanh nghiệp có hồ sơ, giấy tờ đầy đủ

(đối tượng “có tóc”), còn những giao dịch dân sự thiên hình vạn trạng,

không có hồ sơ, giấy tờ (đối tượng “trọc đầu”) thì hoàn toàn “ngoài vùng

phủ sóng” của cơ quan thuế. Nghĩa là thuế thu nhập cá nhân chỉ mới thu chủ

yếu vào đối tượng là đại bộ phận người làm công ăn lương và chi trả qua

ngân hàng. Rất nhiều người đóng thuế chân chính, tuân thủ các quy định của

pháp luật song cũng không ít đối tượng có thu nhập bên ngoài khá cao

nhưng không quản lý được những khoản tiền này để tính thuế. Đây là một

trong những vấn đề tồn tại, cách thức quản lý của chúng ta chưa tốt và cần

phải hoàn thiện trong thời gian tới.

39

Page 40: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Một nghịch lý nữa là những người lao động có thu nhập từ 500.000 trở

lên đã bị khấu trừ thuế, trong khi đó đối tượng được nhận kiều hối thì được

miễn thuế thu nhập, dù số tiền có lớn đến mức nào.

Từ đó, thiết nghĩ Nhà nước cần xem xét lại những quy định về khấu trừ

thuế, xem xét nâng mức trần thu nhập phải khấu trừ, đơn giản hoá thủ tục

hoàn thuế để tạo sự công bằng, thuận lợi cho người dân. Không nên thực

hiện chính sách kiểu “nắm thằng có tóc”, “thà khấu trừ nhầm còn hơn bỏ

sót”, đẩy cái khó và sự thiệt thòi về phía người dân.

Và bây giờ là lúc chúng ta hãy cùng nhau nhìn và điểm lại một trong số

những sự kiện lớn liên quan đến thuế thu nhập cá nhân. Để tìm ra câu trả lời

rằng liệu chính sách thuế thu nhập cá nhân hiện nay đã công bằng cho tất cả

mọi người hay chưa.?

Năm 2006, Cục Thuế TPHCM đã chốt danh sách 10 người đóng

thuế thu nhập cao nhất trong năm 2006 với tổng mức thuế đã đóng của “top

ten” này là 5,2 tỉ đồng. Đây được cho là sự kiện “bùng nổ” trong ngành thuế,

bởi so với hàng trăm ngàn đối tượng nộp thuế TNCN là người VN, mức

này... cao chót vót.

Thiếu công bằng...!

Giải thích sự đột biến nói trên là nhờ tinh thần tự giác thực hiện

nghĩa vụ thuế của những người có thu nhập cao đang làm việc cho các đơn

vị nước ngoài. Đồng thời, với sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương

mại Thế giới (WTO) trong năm qua cũng có tác động gián tiếp. Cụ thể, các

hãng, công ty “mẹ” thường luôn yêu cầu các công ty “con” hoặc Văn Phòng

Đại Diện thực hiện chặt chẽ việc kê khai thu nhập và nộp thuế của nhân viên

theo quy định của nước sở tại. Nay Việt Nam đã là thành viên chính thức

của WTO, thông lệ quốc tế đòi hỏi các thành viên “chung sân” phải thực

hiện chính sách thuế chặt chẽ hơn.

Ngành thuế cũng đã nhìn nhận một thực trạng rằng việc kiểm soát

và hành thu thuế Thu nhập cá nhân đối với các lao động đang làm việc cho

các Văn Phòng Đại Diện nước ngoài trong vài năm gần đây chưa đúng mức.

Trong số các Văn Phòng Đại Diện có người đóng thuế thu nhập cao, còn rất

40

Page 41: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

nhiều “đại gia” trong các ngành “đỉnh” như dược, bảo hiểm, thực phẩm...

vắng bóng! Hiện có khoảng 2.500 Văn Phòng Đại Diện đang hoạt động tại

TPHCM. Trong số này, do quy định (tại Nghị định 45/2000/NĐ-CP) về

trách nhiệm nộp thuế Thu nhập cá nhân của lao động tại Văn Phòng Đại

Diện còn lỏng lẻo nên dẫn tới tình trạng Văn Phòng Đại Diện muốn khai bao

nhiêu thì khai.

Sự kiện trên làm lộ diện một thực tế trái khoáy khác, đó là những

người có thu nhập cao, chính đáng, ý thức chấp hành quy định thuế tốt, phải

đóng thuế cao. Trong khi đó, những người có thu nhập cao khác, như các

nhà đầu tư chứng khoán chẳng hạn, lại được miễn trừ theo quy định tại Pháp

lệnh Thuế Thu nhập hiện hành. Dù Luật Thuế TNCN tương lai nhắm đến

những người chơi chứng khoán (ví dụ, mức thuế đánh vào lợi nhuận chuyển

nhượng chứng khoán là 25%) nhưng đến năm 2009 mới có hiệu lực. Như

vậy, phải mất ít nhất 2 năm nữa mới tìm được sự công bằng giữa các đối

tượng nộp thuế.

Tham khảo thuế thu nhập cá nhân của một số nước:

Các nước đều áp dụng tỷ lệ thu thuế cao đối với người có thu nhập cao

nhằm rút bớt khoảng cách giàu nghèo. Ngược lại, các nước cũng chú trọng đến

tình trạng kinh tế và gia đình củangười nộp để được miễn giảm.

- Mỹ: Chủ yếu từ người giàu

Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu chủ yếu và quan trọng bảo đảm nguồn

tài chính củanước Mỹ. Từ tổng thống cho đến người bình thường đều phải đóng

thuế. Để điều chỉnh mứcthu nhập tăng trưởng quá nhanh của tầng lớp giàu có, Mỹ

tăng tỷ lệ thu thuế người giàu và giảmthu thuế người nghèo. Nguyên tắc cơ bản để

thu thuế là thu nhập càng cao đóng thuế càngnhiều

- Pháp: Thu nhập cao, đóng thuế nhiều

Luật quy định công dân Pháp và những người tạm trú từ sáu tháng trở lên tại

nước này (bất luận quốc tịch nào) có chức nghiệp và lợi ích kinh tế tại Pháp đều

phải kê khai và đóng thuế.Thu nhập càng cao, tỷ lệ nộp thuế sẽ càng nhiều.

- Singapore: nước có tỷ lệ nộp thuế thấp nhất 

41

Page 42: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Singapore có hệ thống thuế thu nhập cá nhân tương đối hoàn thiện. Mọi công

dân trong diệnnộp thuế đều phải kê khai thu nhập với cơ quan thuế trước ngày 15-

4 hàng năm như ở Mỹ.Tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân của Singapore từ 0% đến 22%,

- Trung Quốc: Sửa luật thuế cân bằng giàu nghèo

Ngày 01/9/2005, luật thuế sửa đổi sẽ chính thức có hiệu lực. Từ nay về sau,

người có thu nhập trên 1.500 nhân dân tệ (ba triệu đồng Việt Nam) mới phải đóng

thuế thu nhập cá nhân, tăng lên so với mức thu nhập phải đóng thuế trước kia là

800 nhân dân tệ (1,6 triệu đồng ViệtNam). Tỷ lệ đóng thuế cũng sẽ được nâng lên

đối với người có mức thu nhập cao, những người giàu ở Trung Quốc đóng thuế

thu nhập cá nhân nhẹ nhất thế giới. Việc sửa đổi luật thuế có tác dụng cân bằng

khoảng cách giàu nghèo của công dân nước này

(Theo Pháp luật

TP.HCM)

http://www.vietnamnet.vn/kinhte/thegioi/2005/09/495271

  

MỘT SỐ NHẬN ĐINH VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG THUẾ THU NHẬP

CÁ NHÂN

1. Đánh giá chung:

Luật thuế TNCN ra đời đánh dấu một nỗ lực rất lớn của Nhà nước ta, đã

luật hóa được pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ấp ủ

hơn 17 năm qua. Luật thuế TNCN được chuẩn bị, xây dựng rất kỹ lưỡng, lấy ý

kiến của nhân dân từ hơn 3 năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là sắc luật gây nhiều

tranh cãi nhất từ trước đến nay. Luật thuế TNCN là một sắc thuế quan trọng nhằm

tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối

với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách

nhà nước, củng cố an ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết

cấu hạ tầng, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Luật thuế TNCN cũng còn có những rào

cản và sự phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Các

nhà soạn luật cần tính toán và điều chỉnh lại cho phù hợp, nhằm tăng tính khả thi

của luật, thu hút sự đồng tình ủng hộ của mọi thành phần trongxã hội để họ tự

nguyện kê khai và nộp thuế, đảm bảo sự công bằng xã hội, an sinh xã hội.

Và nếu bạn là một người làm công ăn lương và cũng là người phụ nữ

đảm nhận công việc gia đình, tôi hiểu và chia sẻ những khó khăn chung của

42

Page 43: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

bạn khi mà mỗi lần đi chợ thấy giá cả nhiều mặt hàng tăng cao. Gia đình nào

cũng bị ảnh hưởng, giá điện tăng, tiền chi hàng tháng phải trả cao hơn, giá

xăng tăng, đi lại cũng bị đắt đỏ hơn. Mặc dù, chính sách thuế thu nhập cá

nhân vẫn còn nhiều điểm bất hợp lí nhưng dù thế nào đi nữa nếu đứng trên

bình diện khách quan mà nói thì chúng ta cần phải xét dưới nhiều góc độ

ngân sách Nhà nước cần phải chi nhiều cho phúc lợi xã hội, hỗ trợ người

nghèo, mỗi người cần chung tay góp sức. Những đối tượng gặp khó khăn đã

được chúng ta miễn thuế rồi. Các đối tượng còn lại là những người có thu

nhập cao nên chúng ta cần kêu gọi họ đóng thuế để chung tay cùng với

Chính phủ tăng thu ngân sách. Thuế là nghĩa vụ của mọi công dân, mỗi

người đóng góp một ít sẽ góp phần nào đó để chung tay xây dựng đất nước.

Cần phải đặt ngân sách Nhà nước với người dân, tất cả các khoản chi tiêu

hiện nay đều đặt gánh nặng lên ngân sách Nhà nước. Càng lạm phát thì càng

cần phải xử lý các vấn đề đối với bà con vùng sâu, vùng xa, những vùng gặp

khó khăn... Những khoản chi lấy từ đâu, lấy từ ngân sách mà Thuế là một

trong số nguồn đó. Nói chung là người dân ai cũng muốn được miễn giảm

gia cảnh, bớt phải đóng thuế tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung thì

ngân sách Nhà nước cũng rất cần được chia sẻ.

Bên cạnh đó để Luật Thuế TNCN nhanh chóng đi vào cuộc sống một

cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục

pháp luật về thuế TNCN phải đặt lên hàng đầu.để luật thuế đi vào cuộc sống

một cách nhanh chóng, tạo sự đồng thuận của nhân dân và phát huy hiệu quả

cao. Đây là công việc mà ngành thuế không thể tự thân vận động, cần phải

có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, để tạo tiếng nói chung, đặc biệt là

vai trò tiên phong của các cơ quan thông tin đại chúng là rất quan trọng; các

cấp chính quyền và các tổ chức đoàn thể phải hưởng ứng tích cực trong việc

vận động nhân dân và thành viên của tổ chức mình. Với ngành thuế, ngoài

việc tổ chức các lớp tập huấn cho các cơ quan chi trả thu nhập, người kinh

doanh, Cục Thuế đã in 4.500 tập tài liệu hướng dẫn về luật thuế này để cung

cấp cho các  cơ quan, đơn vị trên toàn tỉnh và sẽ cung cấp các tờ rơi tuyên

truyền vận động thực hiện luật thuế này.

43

Page 44: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ngành thuế cũng đã, đang và sẽ tiếp tục phối hợp tốt với Ban Tuyên

giáo Tỉnh ủy để đưa nội dung của luật đến tận cấp ủy cơ sở đảng. Các

chuyên mục “Tìm hiểu về thuế TNCN” phải nâng cao hơn hình thức và chất

lượng tuyên truyền; cập nhật các văn bản, tài liệu có liên quan đến lĩnh vực

thuế TNCN đăng tải kịp thời trên website của UBND tỉnh; chỉ đạo các chi

cục thuế phối hợp các đài truyền thanh phát lại truyền hình các huyện, thành

phố tuyên truyền sâu rộng về luật thuế này. Đồng thời, phát huy vai trò trách

nhiệm của Hội đồng Tư vấn thuế xã, phường, thị trấn trong công tác tuyên

truyền vận động nhân dân. Tiếp tục phối hợp với các sở, ban ngành các đơn

vị liên quan tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN trong cán bộ công

nhân viên chức người lao động và học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh.

Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta tiên tiến, phù hợp

với chuẩnquốc tế. Xây dựng cơ sở pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu

đồng bộ, hiện đại hóa hệthống ngân hàng, ràng buộc mọi người, mọi tổ chức thanh

toán, chuyển tiền qua hệ thống ngânhàng nhằm kiểm soát được thu nhập của cá

nhân, tổ chức, từ đó mới có cơ sở để đánh thuếTNCN, đảm bảo tính công bằng

trong việc thu nộp thuế.- Nâng mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá

nhân lên 7 triệu đồng/tháng chongười nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ

thuộc 2,8 triệu đồng/tháng nhằm đảm bảocho người dân có cơ hội tích lũy, có

thêm thu nhập để chi phí học tập thêm, tham gia các nhucầu giải trí, du lịch và đặc

biệt là trang trải các khoản chi phí lớn hàng chục triệu đồng cũng nhưcơ hội tích

luỹ để mua nhà.

Cần xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội tiên tiến, xây dựng cơ sở pháp lý

phù hợp, xâydựng đề án hạn chế dùng tiền mặt của người dân.... Tuyên truyền

người dân hạn chế sử dụngtiền mặt trong sinh hoạt.- Khi nền kinh tế ổn định, mức

sống của người dân cao, trình độ dân trí, ý thức trách nhiệm,nghĩa vụ của người

dân về thuế được nâng cao, khi đó sẽ áp dụng các mức thu thuế lũy tiến cao.

44

Page 45: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

PHẦN V:

KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỀ RA CHO HỆ THỐNG

THUỂ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA VIỆT NAM

1. Kết quả về kinh tế:

Hiện nay hơn 180 nước đã áp dụng thuế TNCN. Theo xu hướng phát

triển của thế giới thì thuế thu nhập chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng

số thu ngân sách. Đặc biẹt là các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh,

Pháp…có tỉ trọng thuế thu nhập chiếm khoảng 30-40% tổng thu ngân sách,

số còn lại từ thuế giá trị gia tăng. Một số nươc trong khối ASEAN như Thái

lan, Malaysia, Philippin thuế TNCN chiếm khoảng 13-14% tổng thu ngân

sách Nhà nước. Họ không trông chờ vào thuế nhập khẩu và thuế thu nhập

doanh nghiệp như ở nước ta. Nhờ đó họ dễ áp dụng những chính sách ưu đãi

khác nhau cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ ăn nên làm ra. Khi ấy

họ sẽ tăng lương cho người lao động, người sau sẽ đóng thuế nhiều hơn. Các

chính phủ ấy có phương tiện tác động làm cho nền kinh tế quốc dân phát

triển. Trong khi đó ở VN số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập

cao chỉ chiếm khoảng 4% tổng thu ngân sách. Mặc dù tỉ lệ thuế thu nhập cá

nhân trên ngân sách nhà nước qua các năm có tăng, nhưng nhìn chung, tốc

độ tăng còn chậm và vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng thu ngân

sách nhà nước ( từ năm 2005 đến 2010, tỉ lệ thuế TNCN trên tổng thu ngân

sách chỉ tăng 2.5% )

Ta có thể thấy được điều đó khi nhìn vào bảng số liệu sau:

Bảng : Thu thuế TNCN ở VN từ 2005-2010

Đơn vị:Tỉ VNĐ

2005 2006 2007 2008 2009 2010

Tổng thu ngân sách 228287 279472 315915 416783 442340 528100

Thuế TNCN 4234 5179 7422 12940 14392 23361

% thuế TNCN tên

tổng thu ngân sách

1.85 1.85 2.35 3.1 3.25 4.42

45

Page 46: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

2. Kết quả về xã hội:

Sắc thuế đã góp phần phân phối lại thu nhập từ những người có thu

nhập quá cao trong xã hội, chuyển vào ngân sách nhà nước rồi thông qua đó

sử dụng vào các chương trình kinh tế nhằm mục tiêu phát triển chung, đồng

thời cũng nhằm thực hiện các chương trình hỗ trợ người nghèo. Tiền thuế

của dân nộp vào ngân sách nhà nước, sẽ được Nhà nước dùng vào những

việc như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội, giáo dục, y tế, an

ninh trật tự, quốc phòng và đó là những lợi ích mà người dân được hưởng

nói chung.Đây là một mức đóng góp không nhỏ, rõ ràng nhờ sắc thuế này

mà sự phân phối của cải trong xã hội sẽ được thực hiện một cách hiệu quả và

chính xác hơn, đem lại tổng lợi ích lớn nhất cho xã hội. Nếu như không có

sắc thuế này thì chắc chắn 1 khoản tiển lớn sẽ không được dùng hoàn toàn

cho mục tiêu phát triển chung của xã hội, mà thay vào đó có thể là các hoạt

động tiêu dùng cho một nhóm cá nhân trong xã hội.. Bên cạnh đó ta có thể

thấy rằng việc ra đời sắc thuế này cũng giúp cho người dân phần nào hiểu

hơn và làm quen dần với thuế TNCN. Điều đó có thể minh chứng cho số

đơn vị chi trả thu nhập tăng lên không ngừng, đồng thời số đối tượng nộp

thuế cũng tăng lên đáng kể. Bằng chứng là hiện nay, trên 7 triệu người thuộc

diện phải nộp thuế TNCN. Với việc sắc thuế này càng ngày càng mang tính

xã hội hơn, ta có thể khắng định một điều dù ít hay nhiều thì sắc thuế này

cũng góp phần vào việc phân phối lại của cải và công bằng trong xã hội,

giúp giảm bớt phần nào sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.

Kết quả đạt được trong 20 năm thực hiện thuế TNCN đối với người có

thu nhập cao thực sự đã đạt được những kết quả khả quan.

3. Những bất cập, thiếu sót trong Luật thuế thu nhập cá nhân của

Việt Nam:

Tuy có được rất nhiều những bước tiến bộ trong thời gian qua nhưng

thuế TNCN ở VN ta vẫn còn bộc lộ những thiếu sót đáng băn khoăn và lo

ngại.

a. Về biểu thuế và cách tính thuế:

46

Page 47: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Với nội dung quy định trong Pháp lệnh và Thông tư như trên ta có thể

thấy một số điểm như sau:

- Thứ nhất, việc động viên thuế thu nhập cá nhân được thực hiện thông

qua 3 sắc thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân kinh

doanh, thuế thu nhập đối với người co thu nhập cao từ tiền lương, tiền công;

thuế chuyển quỳên sử dụng đất đối với người có thu nhập từ chuyển quỳên

sử dụng đất. Việc áp dụng này đem đến bất cập là chưa bình đẳng về nghĩa

vụ nộp thuế. Vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh

không được trừ khởi điểm mà nộp theo mức 28% trong khi thu nhập từ tiền

lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng mỗi tháng mới phải nộp tuế và chịu

thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%.

- Thứ hai, việc phân chia thu nhập chịu thuế thành 2 loại thu nhập

thường xuyên và thu nhập không thường xuyên không chỉ dẫn đến sự mất

công bằng mà còn tạo điều kiện cho các đối tượng dựa vào đó mà trốn thuế

hay biến tấu hình thức thu nhập. Xét trên quan điểm đánh thuế thu nhập thì

chúng ta nên xem xét mọi đồng tiền chịu thuế đều là như nhau, những ưu đãi

đối với từng hoạt động tạo thu nhập nên được thực hiện tách rời với hoạt

động tính thuế thu nhập.

- Thứ ba, đối với thuế thu nhập thường xuyên chỉ có một biểu suất thuế

chung cho tất cả các đối tượng. Không phân biệt hoàn cảnh gia đình và bản

thân cá nhân đó. Khi xây dựng biểu thuế người ta phải quan tâm đến tính

công bằng của biểu thuế, nó ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN thì

còn phải quan tâm đến sau khi thu thuế thì người đó và gia đình sống ra sao.

- Thứ tư, việc phân chia ra làm biểu thuế áp dụng đối với người nước

ngoài và với người Việt Nam còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều bài báo đã

viết về vấn đề này, đa số là muốn duy trì một biểu thuế. Tuy nhiên, do thu

nhập ở nước ta còn thấp hơn so với thu nhập ở nước ngoài nên không thể lấy

thu nhập của người Việt Nam hay thu nhập của người nước ngoài làm chuẩn

mực để xây dựng một biểu thuế. Do đó việc xây dựng một biểu thuế thống

nhất tại thời điểm hiện tại là chưa có tính khả thi.

47

Page 48: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

- Thứ năm, là về mức thuế suất của nước ta hiện nay. Khoảng cách giữa

các bậc thuế suất đều bằng 10% do đó mức điều tiết đối với những người có

thu nhập càng cao thì càng lớn. Việc này chỉ làm cho người nộp thuế tìm đủ

cách để trốn thuế. Đồng thời nếu chúng ta để mức thu nhập khởi điểm tính

thuế và mức thu nhập chịu thuế cao nhất cao như hiện nay thì thuế suất thực

sẽ khác xa rất nhiều so với thuế suất cao nên phạm vi đánh thuế sẽ bị thu hẹp

lại. Như vậy chính sách thuế thu nhập ở nước ta vẫn chưa mang tính chất

chung của xã hội mà mới chỉ là gói gọn trong một nhóm người đặc biệt

không đảm bảo được tính công bằng xã hội.

- Thứ sáu, việc đánh thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập

trên 15triệu đồng sau khi đã nộp thuế là quá gò ép đối với những người có

thu nhập cao. Nó gây cho họ tâm lý là Nhà nước không muốn cho họ giàu và

tìm cách giới hạn một mức thu nhập mà họ có thể nhận được. Đây cũng là

một vấn đề mà các nhà làm luật cần xem xét tỉ mỉ luật thuế thu nhập cá nhân

trong thời gian tới.

- Thứ bảy, với một mức đánh thuế khởi điểm cố định không hề được

thay đổi qua nhiều năm dù cho nền kinh tế có nhiều biến động, lạm phát

tăng cao làm cho giá cả leo thang. Ngoài ra, trong tình trạng giá cả leo thang

và lạm phát như hiện nay, thì dường như mức áp dụng thuể thu nhập cá

nhân vẫn còn nhiểu chỗ chưa hợp lý. Mức thu nhập khởi điểm chịu thuế cố

định khiến cho nó không còn phù hợp với tình hình biến động nhanh chóng

của thị trường, cũng như mức giảm trừ cho người phụ thuộc cứng nhắc và

thiếu thực tế trở nên quá ít so với mức tiêu dùng thực sự. Chính vì thế, mặc

dù thuế thu nhập cá nhân không tăng nhưng lại khiến cho đời sống người

dân ngày càng khó khăn trong tình hình “ mọi thứ đều tăng giá” như hiện

nay. Cộng thêm việc chưa nắm được tầm quan trọng của sắc thuế và thiểu ý

thức quốc gia cộng đồng khiến cho nhiều người vẫn còn suy nghĩ muốn trốn

thuế.

- Cuối cùng là vấn đề về diện bao quát của cơ sơ thuế. Các khoản thu

nhập từ kinh doanh cá thể hay của doanh nghiệp tư nhân, các khoản thu nhập

từ lãi cho vay, lãi đầu tư và một loạt các khoản thu nhập khác hiện nay chưa

48

Page 49: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

được đưa vào thu nhập chịu thuế. Ngoài ra các khoản thu nhập từ lãi vay,

đầu tư chứng khoán, trái phiếu… chưa được đưa vào thu nhập chịu thuế.

Đây là một vấn đề còn chưa được hợp lý trong luật.

b. Về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế:

Mặc dù số thuế thu nhập cá nhân đã được tăng đáng kể trong thời gian

qua nhưng nó chưa thực sự phản ánh được khả năng đóng góp của toàn bộ

xã hội. Nguyên nhân dẫn đến điều này là:

Nếu xét về vai trò của thuế thu nhập cá nhân. Ngoài chức năng là huy

động nguồn thu cho NSNN thì nó chưa thể hiện rõ nét các chức năng khác.

Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong mấy năm qua luôn ở mức cao, nhưng do

xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, GDP/người của nước ta

còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới vì vậy

mức độ đóng góp vào NSNN vẫn còn rất thấp. Chúng ta mới chỉ tăng về giá

trị tuyệt đối, còn khi đem so sánh tương đối thì sự gia tăng vẫn là không

đáng kể. Vai trò làm công cụ trong chính sách tài khoá của chính phủ, làm

tăng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia và tạo công bằng xã hội của thuế thu nhập cá

nhân chưa đạt được hiệu quả cao.

Nếu xét về việc thực hiện thuế thu nhập cá nhân. Do người có thu nhập

cao chưa thực hiện nghiêm chỉnh, nên mặt quản lý thu nhập của các đối

tượng nộp thuế thu nhập cá nhân vấp phải nhiều khó khăn. Rất nhiều khoản

thu nhập của dân cư mà Nhà nước chưa xác định được và cũng chưa đề ra

được biện pháp quản lý thích hợp.

Xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên mà công

tác quản lý thu thuế hiện nay đang nảy sinh nhiều bất cập như sau:

→ Thu nhập của rất nhiều ngành nghề như giảng dạy, ca hát, luật sư,

môi giới chưa được cơ quan thuế quản lý. Hiện nay Nhà nước và các cơ

quan thuế chưa thực hiện giám sát các hoạt động một cách chặt chẽ do đó

các đối tượng đều hầu hết không kê khai các khoản thu nhập này khi tính

thuế. Cơ quan thuế thường uỷ nhiệm cho các Sở Thương mại, Văn hoá

thông tin, Lao động… và ban ngành có trách nhiệm quản lý các đối tượng

49

Page 50: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

này làm nhiệm vụ khấu trừ thuế. Nhưng do không chuyên sâu trong lĩnh vực

quản lý thuế đồng thời các hình thức chi trả cho hoạt động uỷ nhiệm này

cũng không có sức hấp dẫn để các cơ quan làm nhiệm vụ uỷ nhiệm thu nhiệt

tình trong công tác quản lý thu nhập của người lao động do ngành mình

quản lý. Về phía các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cũng chưa nhận thức đầy

đủ nghĩa vụ kê khai và nộp thuế thu nhập. Các khoản thu nhập đóng góp

phần chủ yếu vào thu nhập không phải là từ tiền lương mà lại là từ tiền

thưởng và bổng lộc khác không mang tính đều đặn càng gây khó khăn cho

cơ quan thuế trong việc giám sát kiểm tra. Từ đó có thể thấy rằng con số

thuế thu nhập cá nhân theo tính toán vẫn chưa phản ánh đúng khả năng đóng

góp của thuế thu nhập cá nhân đối với NSNN.

→ Các đối tượng là người nước ngoài và người lao động Việt Nam

làm trong các doanh nghiệp nước ngoài hay các văn phòng đại diện cũng

chưa được quản lý một cách đầy đủ. Nguyên nhân của vấn đề này là hiện

nay các văn bản pháp luật để quản lý về cư trú và những khai báo về thu

nhập cũng như người lao động ở các văn phòng đại diện, các chi nhánh nước

ngoài còn hết sức sơ sài và thiếu chặt chẽ. Vì vậy, cơ quan thuế rất khó khăn

trong việc quản lý số đối tượng này, và tất yếu là một số lượng đáng kể các

cá nhân đã trốn không phải nộp thuế. Đối với các cá nhân làm việc trong cơ

quan sản xuất kinh doanh có đăng ký kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân cho

lao động của cơ sở mình thì cơ quan thuế cũng chưa kiểm tra được mà chủ

yếu vẫn dựa vào tờ khai báo của các đơn vị uỷ nhiệm thu. Đối với các đơn vị

chi trả thu nhập mà không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay VAT

thì việc uỷ nhiệm thu gần như không được thực hiện, các đối tuợng thì

không tự giác trực tiếp đến cơ quan thuế để kê khai nộp thuế.

→ Quá nhiều giấy tờ, thủ tục

Bộ máy thu thuế TNCN được tổ chức còn thiểu chặt chẽ mà lại quá

rườm ra, thủ tục giấy tờ quá nhiều, lại có quá nhiều công đoạn khiến cho bộ

máy thu thuế trở nên nặng nề mà lại hoạt động kém hiệu quả, gây thất thoát

và hao phí NSNN. Chỉ riêng giảm trừ gia cảnh, những quy định cũng đã làm

"ù tai, hoa mắt" bởi có quá nhiều loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ mà người nộp

50

Page 51: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

thuế cần phải thực hiện và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Ví dụ

trường hợp người nộp thuế có con theo học và là người phụ thuộc thì đã cần:

Giấy khai sinh, giấy xác nhận của trường hoặc bản chứng thực thẻ sinh viên,

biên lai thu học phí hoặc chứng từ nộp khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt

phí có niên độ phù hợp với năm tính thuế. Ví dụ, người nộp thuế có con tàn

tật thì ngoài giấy khai sinh, người nộp thuế còn phải "đưa con lên trung tâm

giám định y khoa tận tỉnh, thành phố" để khám, xác nhận về mức độ tàn tật

không có khả năng lao động.

Nếu theo hướng dẫn, một người nộp thuế có 2 con đang học, cháu tàn

tật không nơi nương tựa, bố mẹ già, vợ thu nhập thấp thì cần 30 loại giấy

tờ...

Song có lẽ sẽ là "rủi ro" nếu như người nộp thuế được hoàn thuế. Đến

đây, lại một núi công việc, giấy tờ gồm: Đơn xin hoàn thuế, bản photocopy

giấy chứng minh nhân dân, tờ khai quyết toán thuế, các chứng từ khấu trừ

thuế, biên lai thu thuế, chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm

việc, quyết định thôi việc, bản thanh lý hợp đồng lao động... Luật gia Hữu

Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên

thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế".

→ Chưa có một bộ phận thuế chuyên trách trong lĩnh vực thu thuế thu

nhập cá nhân. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thì họ kê khai đồng

thời với các loại thuế khác. Việc thu thuế thông qua cơ quan uỷ nhiệm thu

thì chưa được thực hiện nghiêm túc do bản thân cơ quan uỷ nhiệm thu chưa

nhận thức được hết trách nhiệm của mình, đồng thời cơ quan thuế cũng chưa

có những biện pháp khuyến khích hữu hiệu để cơ quan uỷ nhiệm thu nhiệt

tình trong công tác này.

→ Quá trình thanh toán ở Việt Nam vẫn chủ yếu là thanh toán trực tiếp

bằng tiền mặt. Chính vì đặc điểm này mà việc kiểm soát thu nhập càng trở

nên khó khăn đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho việc trốn thuế dễ dàng

hơn.

→ Ý thức của người dân về nghĩa vụ nộp thuế kém. Điều này xuất phát

từ hai phía, phía cơ quan Nhà nước và phía cá nhân nộp thuế. Cơ quan Nhà

51

Page 52: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

nước chưa có những biện pháp tuyên truyền giáo dục đối với người dân về ý

thức trách nhiệm nộp thuế. Cả những cơ quan chi trả nhièu khi cũng cố tình

làm lờ đi và không thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế tại nguồn. Còn về phía

người có nghĩa vụ nộp thuế, do luật pháp chưa có những chế tài nghiêm

khắc, đồng thời do trình độ dân trí còn thấp nên họ không hề có ý thức trong

việc kê khai và nộp thuế.

Do tất cả những yếu tố này nên số thu từ thuế thu nhập cá nhân

được báo cáo hàng năm vẫn chưa phản ánh đúng thực chất về khả năng nộp

thuế thu nhập của nước ta. Con số đó có thể lớn hơn nhiều nếu như công tác

kê khai và thu nộp thuế được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ.

4. Một số biện pháp khắc phục:

a. Khắc phục về phân chia các loại thu nhập phải chịu thuế

Tất cả thu nhập từ các hoạt động đầu tư vốn, gửi lãi tiết kiệm, các

hoạt động kinh doanh cá thể và một số hoạt động khác đều phải được bổ

sung vào phạm vi điều tiết của thuế thu nhập cá nhân. Việc bổ sung này góp

phần đảm bảo tính công bằng cũng như tăng thu cho NSNN. Chúng ta nên

chia thu nhập theo tính chất nguồn hình thành thu nhập.

- Tiền lương, tiền công lao động, tiền thưởng, tiền trợ cấp.

- Thu nhập từ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.

- Thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.

- Thu nhập từ các hoạt động cho thuê nhà đất.

- Thu nhập từ các hoạt động phi thương mại, hành nghề tự do.

- Thu nhập từ chuyển dịch bất động sản, cổ phần, cổ phiếu.

- Thu nhập khác từ lãi tiết kiệm, lãi cổ phần, cổ phiếu, trúng số…

Bên cạnh đó, chúng ta nên tính gộp thành toàn bộ tổng thu nhập thay

vì phân biệt và tách riêng ra thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không

thường xuyên. Điều này sẽ làm đơn giản việc tính thuế hơn, người nộp thuế

sẽ chỉ phải kê khai các khoản thu nhập mình nhận được trong năm rồi tính

thuế theo một biểu thuế chung duy nhất, đối với cơ quan thuế cũng sẽ bớt

52

Page 53: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

một công đoạn phân loại và kiểm tra việc kê khai thuế thu nhập là thu nhập

thường xuyên hay không thường xuyên.

b. Khắc phục về biểu thuế và cách tính thuế

Trước tiên, chúng ta nên xem xét việc xây dựng biểu thuế thu nhập cá

nhân với một mức thuế suất, mức thu nhập chịu thuế thu nhập khởi điểm là

không. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai có thu nhập đều phải có nghĩa vụ nộp

thuế theo một tỷ lệ cố định trên tổng thu nhập. Nó dựa vào quan điểm xây

dựng một biểu thuế công bằng theo chiều ngang chứ không phải công bằng

theo chiều dọc như biểu thuế luỹ tiến. Nó không chỉ tạo tính đơn giản trong

chính sách thuế thu nhập cá nhân, không phải theo biểu thuế luỹ tiến phức

tạp mà còn giúp chúng ta sử dụng hiệu quả phương pháp khấu trừ thuế tại

nguồn. Sự đơn giản trong xây dựng luật thuế cũng là xu hướng chung của

thế giới.

Thứ hai, nếu chúng ta vẫn áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến như hiện tại

thì nên hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống đồng thời hạ thấp mức thuế

suất khởi điểm xuống. Cơ sở cho ý kién này là việc hạ thấp mức khởi điểm

chịu thuế xuống sẽ tăng khả năng bao quát thu nhập của toàn bộ dân cư đồng

thời với mức khởi điểm mới sẽ có ảnh hưởng không đáng kể đén thu nhập

sau thuế của người lao động. Tuy nhiên, các khoản giảm trừ gia cảnh cần đi

sát với thực tế và cần được thay đổi theo tình hình lạm phát của xã hội, giúp

cho cuộc sống của người dân không mấy ảnh hưởng sau khi nộp thuế TNCN

trong tình trạng hiện nay. Việc này sẽ giúp giảm bớt nhưng trái ngang như

thu nhập “ được tính là cao” nhưng lại không đủ để nuôi gia đình.

Thứ ba, chúng ta nên xác định khoảng cách thuế suất biên giữa các bậc

thuế cho hợp lý, chúng ta nên mở rộng khoảng cách thuế ở các bậc đầu và

thu hẹp ở các bậc cao. Giải thích cho quan điểm này là những người có mức

thu nhâp thật cao thi fmột sự gia tăng nhỏ của thuế suất biên cungx tạo ra

một sự gia tăng lớn về tiền thuế phải nộp. Nếu luỹ tiến quá cao ngưòi lao

dộng sẽ so sánh giữa số thuế họ phải đóng ở bạc trước với số thuế họ phải

đóng ở bậc sau, khoảng cách này càng xa thì sẽ khiến họ thấy lao động để

tạo thu nhập them của họ đem lại hiệu quả không cao, vì vậy động lực lao

53

Page 54: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

động sẽ giảm sút. Đó là điều mà các nhà xây dựng thuế TNCN không muốn.

Cụ thể các bậc thuế suất biên là bao nhiêu thì cần có sự nghiên cứu một cách

khoa học.

Thứ tư, việc phân biêt biểu thuế suất giữa người Việt Nam và người

nước ngoài tại thời điểm hiện tại chúng ta vẫn nên duy trì. Tuy nhiên, chúng

ta sẽ cố gắng thu hẹp dần khoảng cách giữa mức khởi điểm chịu thuế và

thống nhất một biẻu thuế suất chung, nhưng điều đó còn phụ thuộc vào mức

độ phát triẻn của nước ta, phụ thuộc vào thu nhạp trung bình của ngưòi lao

động.

c. Khắc phục về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế và thực hiện luật

thuế TNCN:

Công tác kê khai, thu nộp thuế: Là một phần vô cùng quan trọng quyết

định đến hiệu quả thực hiện của pháp lệnh thuế thu nhập hiện nay nhưng lại

tồn tại rất nhiều các bất cập do chưa có biện pháp tổ chức kê khai thực sự

khoa học và có hiệu quả. Ngoài phương pháp khấu trừ tại nguồn là cần thiét

và quan trọng thì khi tính thuế chúng ta nên đưa về cho các đội thuế ở địa

phương cùng đảm nhiệm. Việc kiểm tra tại địa phương sẽ dễ dàng được thực

hiện thông qua viẹc căn cứ vào mức sống và mức chi tiêu của các hộ gia

đình. Đồng thời, với cách quản lý này cơ quan thuế sẽ xác định chính xác

hơn về khả năng thu nhập của các cá nhân thông qua mức sống của gia đình

họ. Tính khả thi và hiệu quả của phương pháp này có thể kiểm tra thông qua

việc thực hiện thí điểm ở một số khu vực dân cư. Nếu như tỏ ra hiệu quả

chúng ta nên áp dụng sớm và rộng rãi.

Quản lý chặt chẽ thu nhập cá nhân của người dân, làm tốt khâu chỉ đạo

công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao

động và tiền lương, tiền công thực tế

Chúng ta cần phải hoàn thiện lại hệ thống thu thuế thu nhập đối với người

có thu nhập cao. Chúng ta cần phải xây dựng phòng chuyên trách trong nhiệm

vụ quản lý kê khai các doanh nghiệp và các cá nhân thuộc diện nộp thuế thu

nhập. Với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu và chỉ có nhiệm vụ quản lý

54

Page 55: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

trong lĩnh vực này sẽ giúp cho việc quản lý được chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu

quả hơn.

Chúng ta phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Mỗi

cá nhân phải được phân công những công việc cụ thể, chi tiết và sau đó mọi

vấn đề liên quan họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế. Muốn làm

được điều này chúng ta cần phải cải cách hành chính bộ máy thuế của nước

ta nói riêng và toàn bộ bộ máy hành chính của nước ta hiện nay nói chung.

Chúng ta cần phải thực hiện công tác đăng ký thuế và cấp mã số thuế

cho các đối tượng để thuận tiện cho công tác quản lý thu. Sự biến động thu

nhập là một điều tương đối phổ biến trong nền kinh tế thị trường, vì vậy nên

áp dụng đăng ký cấp mã số thuế căn cứ vào ngành nghề. Trong đó các cán

bộ cơ quan nhà nước đều phải có nghĩa vụ kê khai thu nhập hàng năm, các

cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm giúp cơ quan thuế trong việc khấu trừ

phần thuế thu nhập của cán bộ cơ quan mình.

Quản lý thuế thu nhập cá nhân muốn có hiệu quả thì cần phải thực hiện

đồng thời với sự giám sát của cấp cơ sở, các tổ chức quản lý xã hội ở địa

phương. Quản lý theo cách này đặc biệt hữu ích trong việc quản lý các cá

nhân hành nghề tự do, không có nơi làm ổn định.

Sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ thuế với các cơ quan chức năng khác,

với các sở, ban ngành cũng không thể được xem nhẹ. Các cơ quan, sở, ban

ngành cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối kết hợp với cơ

quan thuế để thực hiện việc quản lý các đối tượng nộp thuế thu nhập.

Chúng ta cần thường xuyên phổ biến, tuyên truyền, vận động và giáo

dục về thuế thu nhập cá nhân để mọi đối tượng nộp thuế am hiểu về pháp

luật và tự giác thực hiện luật thuế.

Chúng ta cần ban hành những chế tài và quy định về việc xử phạt đối

với các trường hợp vi phạm luật thuế. Hiện nay nước ta chưa có Luật tố tụng

thuế vụ khiến cho nhiều tổ chức cá nhân coi thường và không thực hiện các

quy định trong luật thuế.

Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như các biện pháp của Ngân

hàng và Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là nhân tố hết

55

Page 56: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

sức quan trọng đối với hiệu quả của việc quản lý thu thuế thu nhập của cơ

quan thuế. Giảm thanh toán bằng tiền mặt, sử dụng rộng rãi thanh toán qua

tài khoản không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lý thu nhập của dân cư

trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập và còn tiết kiệm rất nhiều chi phí

cho xã hội.

Việc vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ như tin học, công

nghệ mạng vào công tác quản lý thu thuế sẽ tạo sự chính xác, nhanh gọn,

đơn giản trong việc thu nộp thuế từ đó tạo điều kiện tốt để luật thuế thu nhập

cá nhân được thực hiện có hiệu quả.

Chính phủ cần có những chính sách để phát triển mạnh mẽ kinh tế và

đời sống của người dân, để thuế thu nhập cá nhân sớm trở thành một nguồn

thu quan trọng của Nhà nước.

56

Page 57: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

KẾT LUẬN

Như vậy, qua bài tiểu luận, chúng ta đã đề cập đến một số vấn đề

cơ bản về thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế thu nhập cá nhân ở Việt

Nam nói riêng.

Trước hết, chúng ta có thể chắc chắn rằng thuế thu nhập cá nhân

là một sắc thuế hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia. Hầu hết các nước đều

phải dựa vào thuế thu nhập, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, đây là nguồn

thu lớn nhất. Hiện nay đã có 180 nước thực hiện thuế thu nhập cá nhân, có

nước nguồn thu từ thuế này chiếm tới 45% NSNN.

Ở nước ta, nguồn thu này còn thấp nhưng dần dần cũng phải hướng tới

những mục tiêu lớn hơn. Các văn bản quy định về thuế thu nhập đối với

người có thu nhập cao được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện cho

phù hợp với hoàn cảnh thực tế của kinh tế, xã hội.

Tuy nhiên Luật thuế thu nhập cá nhân ở nước ta vẫn chưa phát huy hết

vai trò và chức năng của nó. Nguyên nhân là do đời sồng dân cư còn thấp,

khả năng huy động nguồn thu từ thu nhập của dân cư không cao, thêm vào

đó Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân còn khá mới nên việc áp dụng trong dân

cư chưa được rộng rãi. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện nay về thuế

thu nhập cá nhân còn một số vấn đề chưa thực sự hợp lý và gây nhiều tranh

cãi. Ý thức kê khai, nộp thuế và quá trình thu thuế chưa thực sự hiệu quả,

nguyên nhân chủ yếu do các cơ quan chi trả thu nhập chưa thực hiện nghiêm

túc nhiệm vụ khấu trừ phần thuế thu nhập từ thu nhập của người lao động

trong đơn vị họ quản lý. Một số ngành nghề như ca sĩ, giáo viên, thiết kế…

thu nhập của họ chưa được cơ quan thuế giám sát quản lý. Số người tự giác

kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân không nhiều.

57

Page 58: Tiểu luận Thuế thu nhập tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Để khắc phục những bất cập và thiếu sót trong pháp lệnh thuế thu nhập

đối với người có thu nhập cao chúng ta cần có những sửa đổi một cách đồng

bộ trên cả phương diện văn bản pháp luật đặc biệt là trong công tác tổ chức

thu nộp thuế thu nhập cá nhân. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất đó

là tăng cường hoạt động thanh toán bằng séc và thanh toán thông qua chuyển

khoản, hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong dân cư.

Trong những năm tới, trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ của các thị

trường và các thành phần kinh tế, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày

càng sâu rộng, thu nhập của cá nhân sẽ ngày càng đa dạng, việc ban hành

Luật thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở thống nhất ba sắc thuế: thuế thu nhập

doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân kinh doanh;thuế thu nhập đối với

người có thu nhập cao áp dụng cho người có thu nhập từ tiền lương, tiền

công; thuế chuyển quyền sử dụng đất áp dụng đối với người có thu nhập từ

chuyển quyền sử dụng đất sẽ góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân

phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tê xã hội hoàn thiện hệ thống chính

sách thuế để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế

quốc tế trong thời gian tới, góp phần đảm bảo tính ổn định và nguồn lực cho

NSNN.

Với đề tài “Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam” em

mong muốn thuế thu nhập cá nhân sẽ sớm trở thành một sắc thuế quan trọng

trong hệ thống thuế Việt Nam và phát huy hết vai trò và chức năng của nó

đối với nền kinh tế và sự công bằng xã hội.

58