Thư Quốc Gia Việt Nam
-
Upload
dai-viet-dan-quoc -
Category
News & Politics
-
view
2.226 -
download
2
description
Transcript of Thư Quốc Gia Việt Nam
VIỆT NAM QUỐC GIA CHỦ NGHĨA LUẬN BÚT
NỀN TẢNG LÝ LUẬN ỦNG HỘ HIẾN PHÁP 7-2009
NĂM HÙNG VƯƠNG 48882009 TÂY LỊCH
Việt Nam Quốc gia Chủ nghĩa Luận bútMục lục
Thư Quốc gia số 1: Lời Giới Thiệu
Tầm quan trọng của Hiến pháp 7 (2-15)Thư Quốc gia số 2: Tổng quát, tổng quan, về hiện trạng quốc gia
Thư Quốc gia số 3: Xem xét và tranh luận về nền Kinh tế Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 4: Ích lợi của HP7 trong việc phát triển Việt Nam thành một cường quốc
Kinh tế tại Đông Nam Á trong một phần tư thế kỷ, và tại châu Á trong nửa thế kỷ
tới
Thư Quốc gia số 5: Xem xét và tranh luận về nền Giáo dục Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 6: Ích lợi của HP7 trong việc phát triển khoa học kỹ thuật cao và chế tạo
hàng có giá trị tăng cao để xuất khẩu
Thư Quốc gia số 7: Xem xét và tranh luận về nền Quốc phòng Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 8: Ích lợi của HP7 trong việc tăng cường sức mạnh Quốc phòng Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ
Thư Quốc gia số 9: Xem xét và tranh luận về nền văn hóa và xã hội Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 10: Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy
Việt Nam trong tân thiên niên kỷ
Thư Quốc gia số 11: Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy
Việt Nam trong tân thiên niên kỷ (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 12: Xem xét và tranh luận về các vấn đề khác, chưa được bàn đến trên
đây, tại Việt Nam hiện nay
Thư Quốc gia số 13: Ích lợi của HP7 trong việc giải quyết các vấn đề khác, chưa được
bàn đến trên đây, để kiến dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh trong tân thiên
niên kỷ
Thư Quốc gia số 14: Trả lời các lời phản đối HP7
II
Thư Quốc gia số 15: Dân chủ là Đạo đức, một Hiến pháp Dân chủ là một Hiến pháp Đạo
đức
Các lời tranh luận về cách tổ chức chính phủ được bao gồm trong Hiến
pháp 7 (16-33)Thư Quốc gia số 16: Ý muốn của nhân dân là điều luật Tối thượng của quốc gia, đại diện
bởi HP7
Thư Quốc gia số 17: Không hình sự hóa mọi khác biệt quan điểm chính trị, đảng cầm
quyền không được sử dụng quyền lực trấn áp các tư tưởng khác biệt
Thư Quốc gia số 18: Bất bạo động và bất sử dụng bạo lực thể xác hoặc đe dọa tinh thần
trong mọi sinh hoạt bao gồm chính trị, tôn giáo, giáo dục, ngay cả đối với tù nhân
Thư Quốc gia số 19: Về Quốc ca và Quốc kỳ
Thư Quốc gia số 20: Ba tôn chỉ của Việt Nam: Tự do, Bình đẳng, Sự thật
Thư Quốc gia số 21: Tất cả Tam quyền trong chính phủ đều phải tuân thủ HP7
Thư Quốc gia số 22: Chỉ một đa số trong các vị Thượng Thẩm phán tại Tối cao Pháp viện
mới có thể phán định rằng một điều luật nào đó là không hợp hiến
Thư Quốc gia số 23: Các đảng chính trị được tự do thành lập miễn được tổ chức theo các
quy định của HP7
Thư Quốc gia số 24: Quyền lực chính trị phải do đa số nhân dân nắm giữ
Thư Quốc gia số 25: Về việc tổ chức các cuộc bầu cử địa phương, Tuyển cử và Tổng
Tuyển cử toàn quốc
Thư Quốc gia số 26: Về việc nhân dân tự do bầu cử, ứng cử
Thư Quốc gia số 27: Về việc chia sẻ quyền lực chính trị và thành lập đảng phái chính trị
Thư Quốc gia số 28: Về việc tuân thủ Thỏa ước Nhân quyền của Liên hiệp quốc, và công
nhận quyền lực của các Tòa án quốc tế
Thư Quốc gia số 29: Về việc bất khả lạm pháp của nhân viên chính phủ đang thi hành
nhiệm vụ được giao phó
Thư Quốc gia số 30: Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự các nhân viên được bầu lên,
đang khi còn nhiệm kỳ phục vụ
III
Thư Quốc gia số 31: Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự, hình sự, và quốc sự tất cả
nhân viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
Thư Quốc gia số 32: Về việc không chỉ trích cấp chính phủ trong 20 năm về mọi việc làm
của tất cả nhân viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
Hình thái Tam quyền Phân lập của Chính phủ (33-48)Thư Quốc gia số 33: Nguồn gốc của hệ thống Tam quyền phân lập, cùng các lợi ích và
điều thiệt hại
Thư Quốc gia số 34: Khác với tại nhiều nước khác, Tam Quyền tại Việt Nam đều do
nhân dân bầu trực tiếp
Thư Quốc gia số 35: Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ
Thư Quốc gia số 36: Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 37: Hiến pháp 7 điều phối Tam quyền Phân lập
Thư Quốc gia số 38: Tam quyền Phân lập cấp Thánh phố
Thư Quốc gia số 39: Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền
Thư Quốc gia số 40: Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 41: Sự tương quan của Tam quyền đối với phương cách hành xử của
người dân Việt Nam
Thư Quốc gia số 42: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của Tam quyền quốc gia
đối với các chính quyền Thành phố
Thư Quốc gia số 43: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của một Tam quyền
Thành phố đối với các chính quyền Thành phố khác
Thư Quốc gia số 44: Nguy cơ Tam quyền bị bất cân xứng
Thư Quốc gia số 45: So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành
phố
Thư Quốc gia số 46: So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành
phố (tiếp theo)
IV
Thư Quốc gia số 47: Trả lời các ý kiến phản đối Tam quyền Phân lập
Thư Quốc gia số 48: Các hạn chế của Tam quyền Phân lập
Về Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam (49-60)Thư Quốc gia số 49: Tự do ngôn luận
Thư Quốc gia số 50: Bảo vệ Nhân phẩm
Thư Quốc gia số 51: Quyền tự do phát triển cá tánh và tự do bầu cử
Thư Quốc gia số 52: Mọi người bình đẳng trước pháp luật
Thư Quốc gia số 53: Tự do tín ngưỡng, lương tâm, và tôn giáo
Thư Quốc gia số 54: Tự do học hỏi
Thư Quốc gia số 55: Tự do hội họp
Thư Quốc gia số 56: Tự do di chuyển
Thư Quốc gia số 57: Tự do thành lập hội đoàn
Thư Quốc gia số 58: Tài sản và bất động sản cá nhân đều bất khả xâm phạm
Thư Quốc gia số 59: Quyền được kiện tụng luật pháp và nhân viên chính phủ
Thư Quốc gia số 60: Hạn định của nhân quyền
Các Thành phố (61-70)Thư Quốc gia số 61: Việc tái phân định ranh giới và sát nhập các Thành phố
Thư Quốc gia số 62: Quyền lực tại Việt Nam sẽ được phân bố khắp địa phương
Thư Quốc gia số 63: Về việc thành lập và bầu chọn chính quyền Thành phố
Thư Quốc gia số 64: Các Thành phố có quyền tự trị nhưng phải tuân thủ các điều luật
chung cho toàn quốc
Thư Quốc gia số 65: Về việc các Thành phố gởi đại diện lên Quốc hội
Thư Quốc gia số 66: Về việc quản trị lãnh thổ và liên minh dân sự giữa các Thành phố
trong nước, và với các đối tác bên ngoài
Thư Quốc gia số 67: Về việc quản trị tài chánh tại các Thành phố
Thư Quốc gia số 68: Về việc lập các sắc thuế có liên quan đến cư dân từ các Thành phố
khác
V
Thư Quốc gia số 69: Về việc các Thành phố không được lập liên minh quân sự, quốc sự,
với bất cứ nơi nào ngoài lãnh thổ Việt Nam
Thư Quốc gia số 70: Về việc chi phí hành chánh tại các Thành phố
Ngành Tư Pháp (71-80)Thư Quốc gia số 71: Cấu trúc của Ngành Tư pháp
Thư Quốc gia số 72: Phương cách tổ chức Tối cao Pháp viện và bầu chọn các Thượng
Thẩm phán
Thư Quốc gia số 73: Tối cao Pháp viện xem xét tất cả hoạt động của Văn phòng Tổng
thống,Thượng viện, Hội đồng Quốc gia, và các chính quyền địa phương
Thư Quốc gia số 74: Tối cao Pháp viện có quyền lực giải thích mọi vấn đề xảy ra trước
và sau khi có HP7, về các bộ luật, và hiệp ước của Việt Nam
Thư Quốc gia số 75: Hệ thống Tư pháp Dân sự, Hình sự, và Quốc sự
Thư Quốc gia số 76: Các vị Thẩm phán Quốc gia và Thẩm phán Thành phố
Thư Quốc gia số 77: Khi các vị Thẩm phán quốc gia và Thẩm phán Thành phố có sự
khác biệt quan điểm
Thư Quốc gia số 78: Ngành Tư pháp, liên quan đến các phiên tòa được quyết định bởi
Bồi thẩm đoàn
Thư Quốc gia số 79: Khi các bộ luật Thành phố và Quốc gia có sự khác biệt
Thư Quốc gia số 80: Hạn định quyền lực của Ngành Tư pháp
Ngành Lập pháp (81-90)Thư Quốc gia số 81: Cấu trúc Ngành Lập pháp
Thư Quốc gia số 82: Hội đồng Quốc gia
Thư Quốc gia số 83: Hội đồng Quốc gia (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 84: Nghị viện
Thư Quốc gia số 85: Nghị viện (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 86: Về việc truất nhiệm Tổng thống
VI
Thư Quốc gia số 87: Về việc Lưỡng viện bác quyền phủ quyết của Tổng thống
Thư Quốc gia số 88: Về việc Lưỡng viện tổ chức Trưng cầu Dân ý
Thư Quốc gia số 89: Về việc Lưỡng viện đồng ý hoặc không đồng ý phát động chiến
tranh với ngoại bang
Thư Quốc gia số 90: Hạn định quyền lực của Lưỡng viện
Ngành Hành pháp (91-99)Thư Quốc gia số 91: Cấu trúc Ngành Hành pháp
Thư Quốc gia số 92: Tại sao cần có Thủ tướng
Thư Quốc gia số 93: Về Quyền hạn của Tổng thống
Thư Quốc gia số 94: Về Quyền hạn của Tổng thống (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 95: Về Quyền hạn của Thủ tướng
Thư Quốc gia số 96: Về Quyền hạn của Thủ tướng (tiếp theo)
Thư Quốc gia số 97: Về Quyền Phủ quyết của Tổng thống
Thư Quốc gia số 98: Về việc Tổng thống tổ chức Trưng cầu Dân ý
Thư Quốc gia số 99: Hạn định quyền lực của Tổng thống
Thư Quốc gia số 100: Kết luận và vài điều khác
VII
Thư Quốc gia số 1
Lời Mở Đầu
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Chúng tôi viết các lá thư này để kêu gọi quốc dân, đồng bào hãy đoàn kết lại vì một số
mục đích chung cho quốc gia mà có lẽ tuyệt đại đa số quốc dân đồng bào đang cùng chia
sẻ.
Quý đồng bào được mời gọi để suy nghĩ về một bản Hiến pháp mới cho đất nước chúng
ta, nước Việt Nam Dân quốc trong tân thiên niên kỷ. Đề tài này nói lên tầm mức quan
trọng của sự việc, vì lẽ bản Hiến pháp là văn bản căn bản nhất trong mọi văn bản luật
pháp, trên nền tảng đó tất cả các bộ luật sẽ được soạn thảo ra sau này. Quốc gia Việt Nam
trong 20 và 200 năm sau có ra sao là tùy thuộc vào những điều chúng ta suy luận, quyết
định, và soạn thảo hôm nay.
Kể từ khi Vua Hùng Vương thứ Nhất dựng nước Văn Lang đến nay đã qua nhiều ngàn
năm, hàng trăm triều đại, nhưng chưa có một triều đại, một chính phủ nào từ nhân dân,
của nhân dân, và vì nhân dân. Trong suốt chiều dài lịch sử trên 4000 năm trong thời
phong kiến, chỉ có "cha truyền con nối". Vào thời văn hóa, văn minh còn sơ khai, điều
này có thể thích hợp hoặc rất thích hợp vì chỉ một số rất ít dân chúng có điều kiện học hỏi
cách quản trị bộ lạc, nhóm người, quốc gia. Do đó nếu quyền hành được truyền nối cho ai
khác ngoài con vua, thì đã xảy ra nhiều cảnh tranh giành quyền lực, nội chiến xảy ra liên
miên. Nhưng "cha truyền con nối" cũng không phải là phương cách tốt nhất, vì lẽ lãnh
đạo chỉ trong số các con vua, cho dù có được giáo dục đến thế nào thì sau này cũng chỉ vì
quyền lợi ích kỷ của chính nhà vua và / hoặc của hoàng gia mà hoạt động, chứ không hẳn
là vì lợi ích quốc dân, đồng bào.
VIII
Cho đến khoảng 100 năm trở lại đây, do hoàn cảnh lịch sử, thời phong kiến chấm dứt, tạo
điều kiện cho các chính phủ theo đảng phái lên nắm quyền. Hết rồi cảnh "cha truyền con
nối", nhưng thay vào đó là một hình thức phong kiến khác, do các nhóm nhỏ người tự
cho mình có quyền quyết định vận mạng cả dân tộc. Thực tế họ không khác các nhà vua
thời phong kiến ở chỗ họ không từ nhân dân mà ra, không là gì của nhân dân, và nhất là
không vì nhân dân mà phục vụ. Họ hình thành các nhóm nhỏ có đặc quyền đặc lợi, từ bé
các con cháu trong nhà quan chức cao cấp đã được dạy dỗ rằng họ rất đặc biệt, khác với
dân thường, phạm tội sẽ không bị xét xử như dân thường, và sau khi học xong, hoặc du
học về, họ sẽ tiếp tục làm lãnh đạo thế hệ kế tiếp. Các thành phần này, do đó, cho dù có
học thức cao siêu đến thế nào, có lòng từ nhân đến cách mấy, khi làm lãnh đạo cũng sẽ
phải phục vụ cho phe nhóm họ chứ không thể và không hề vì lợi ích quốc dân, đồng bào.
Quốc gia Việt Nam chúng ta còn tiếp tục theo đuổi các phương cách quản trị quốc gia,
phục vụ cho các lãnh đạo quốc gia, như hiện nay cho đến bao giờ?
Bản Hiến pháp hiện nay không cho phép bất cứ sự chỉ trích chính phủ nào, còn kể gì đến
việc thay đổi chính phủ, tìm ra các lãnh đạo khác từ nhân dân, của nhân dân, vì nhân dân?
Có phải đây sẽ là một tội phạm thiên thu cho những ai chẳng qua chỉ muốn tìm ra các
lãnh đạo thực sự phục vụ cho nhân dân, do nhân dân tự do bầu chọn? Tại sao chọn lãnh
đạo lại là một tội phạm hình sự, nhẹ thì ở tù, nặng thì tử hình, toàn gia tộc bị cả hệ thống
chính trị, tuyên truyền khổng lồ trù dập đến chết mới thôi?
Kính thưa quốc dân, đồng bào Việt Nam yêu quý,
Quốc dân, đồng bào sẽ phải trả lời cho chính mình, và cho con cháu mình, các câu hỏi
đơn giản nhưng sâu sắc kể trên. Cho dù vì lý do nào đó, đồng bào cố gắng chịu đựng,
nhẫn nhịn chính phủ hiện nay, Bản Hiến pháp hiện nay, các chính sách hiện nay đặt trên
Bản Hiến pháp đó, nhưng còn thế hệ con, cháu, chắt của đồng bào, các thế hệ trẻ hiện nay
IX
thì sao? Có phải đồng bào muốn chúng và con cháu chúng vĩnh viễn làm nô lệ trên ngay
quê hương mình, không có tiếng nói trên chính mảnh đất mà cha ông đồng bào và có thể
chính đồng bào đã bỏ xương máu ra khai phá, gìn giữ, qua bao trận chiến chống ngoại
xâm?
Cha ông chúng ta đã hy sinh, cống hiến nhiều ngàn năm cho dân tộc ta để làm gì, để dân
tộc ta ngày nay quá ư tệ rạc về kinh tế, quá thấp về dân trí, quá ốm yếu về sức khỏe,
nhưng quan trọng hơn hết là quá bất nhân, nghĩa, trí, dũng trong chính quyền?
Đâu rồi tiếng trống trận từ thành Cổ loa, Hoa lư, Thăng long chống các điều bất nhân, bất
nghĩa trong giới cầm quyền; đâu rồi tiếng kêu gọi hiền tài ra giúp sức trong các trận chiến
kinh hồn trên Bạch đằng giang; đâu rồi các anh hùng dân tộc thường hay xuất hiện mỗi
khi dân tộc ta bị nguy khốn, khi các trận chiến chống ngoại xâm làm máu dân ta đổ thắm
lòng đất mẹ, chảy đỏ sông Hồng, xương cốt ngăn dòng nước, chỉ để dân tộc ta mãi mãi
trường tồn?
Triều đại nào rồi cũng qua đi, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, rồi cũng đi vào quá
khứ. Một số anh hùng được ghi vào sử sách, cũng có một số người bị chế giễu ngàn thu.
Hai mươi năm và hai trăm năm sau, lịch sử sẽ viết về thời đại chúng ta như thế nào,
chống ngoại xâm hay cõng rắn cắn gà nhà, xây dựng nền tự do dân chủ xã hội hay chấp
nhận bạo quyền lãnh đạo quốc gia, làm quốc gia phú cường hay ngày càng thua sút các
quốc gia quanh vùng?
Lịch sử đang xảy ra ngay trước mắt chúng ta hiện nay. Giặc ngoại xâm nay hùng mạnh
hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử, giặc nội xâm nay tinh vi, tàn ác hơn bất cứ khi nào trong
lịch sử - và không phải chỉ trong chính quyền. Nay văn hóa dân tộc ta ngày càng thoái
hóa, giao thông gây chết người và khó tránh hơn khi còn chiến tranh, nền kinh tế lụn bại,
y tế hủ bại - các điều tệ hại này hẳn quốc dân, đồng bào đều chứng kiến rõ hàng ngày.
X
Quốc dân, đồng bào đang được kêu gọi trả lời các câu hỏi trên, và được mời gọi đóng góp
ý kiến cho việc lập nên một Bản Hiến pháp từ sự suy nghĩ và lựa chọn, để thay thế cho
Bản Hiến pháp hiện hành được viết ra chỉ để phục vụ cho một phe phái cầm quyền, phục
vụ cho sự vĩnh viễn hóa phe nhóm này trong các chức vụ cao cấp nhất cùng các quyền lợi
khổng lồ từ các chức vụ này mang lại.
Nếu sự suy nghĩ, lựa chọn và quyết định của đồng bào là đúng, thì rất nhiều vấn đề tệ hại
sẽ được cấp bách giải quyết. Nếu không, hậu quả lâu dài sẽ khó thể tưởng tượng.
Sẽ rất may mắn cho dân tộc ta nếu sự suy nghĩ và chọn lựa này được mọi thành phần dân
chúng đóng góp ý kiến, và được dẫn dắt bởi các sự lượng định khôn ngoan hơn là các
thành kiến thị phi, sự nhân nghĩa hơn là các lời tuyên bố bạo lực, sự chính đáng hơn là
các lời tuyên truyền giả dối, lòng bác ái vị nhân hơn lòng ích kỷ phe phái.
Hơn hết, sự suy nghĩ và lựa chọn phải đặt quyền lợi của quốc gia lên trên mọi thành phần,
đảng phái; phải nhằm xây dựng hơn là phá hoại; nhằm bao dung hơn là trách móc; nhằm
tha thứ hơn là trả thù.
Nhưng, đồng bào Việt Nam yêu quý của tôi ơi, đây là một việc dễ mong ước, đặt kế
hoạch, hơn là thực hiện. Vì lẽ kế hoạch này sẽ làm thiệt hại quá nhiều quyền lợi của quá
nhiều người đang và sẽ có quá nhiều quyền hành tại Việt Nam. Nhiều quan điểm, cảm
xúc mạnh, và thành kiến sẽ tạo ra nhiều bất lợi cho cuộc cách mạng dân chủ xã hội này.
Trở ngại lớn nhất mà Tân Hiến pháp sẽ gặp là sự cản trở kinh hoàng của toàn hệ thống
chính trị tại Việt Nam. Hệ thống này đang đem lại quá nhiều, quá lớn, quyền lợi cho giới
cầm quyền nên họ sẽ không dễ dàng chấp nhận việc Tân Hiến pháp đem lại quyền lợi
đồng đều cho quốc dân, đồng bào.
Trở ngại kế tiếp là các thành phần cực đoan tại hải ngoại, một cách rất đáng tiếc, vì họ
XI
vẫn muốn có trả thù, có bạo lực, có lòng ích kỷ phe phái. Một số muốn tiếp tục tình trạng
hiện tại vì họ đang giữ vững quyền lợi, chức vụ họ trong hoàn cảnh bất an của quốc gia,
để họ tiếp tục các chương trình chống đối chính phủ hiện tại hơn là chấm dứt để theo đuổi
một phương cách hòa bình, hòa hoãn, bất bạo động, không hận thù, không trả thù, thậm
chí không trách móc như tinh thần Hiến pháp 7 đề cao.
Tuy nhiên, chúng tôi không muốn đề cập đến các vấn đề này quá nhiều, vì biết rằng
không thể giải quyết tất cả mọi sự phản đối, phản bác. Chúng tôi hiểu rằng hoàn cảnh lịch
sử, chiến tranh, xã hội, mất mát cá nhân và gia đình đã đẩy họ vào các quan điểm đó. Một
số trong hai nhóm trên thật ra đã có các ý tưởng trên do một lương tâm chính trực. Một số
rất đáng trân trọng và kính nể, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp đối thoại với họ, và hy vọng
rằng sau khi họ đọc một số trong số 100 bài Thư Quốc gia thì họ sẽ thay đổi ý kiến và
không còn chống Bản Hiến pháp 7.
Công việc sắp tới sẽ không dễ dàng, vì sẽ bao gồm nhiều bài tổng luận về nhiều đề tài rất
bao quát, đòi hỏi rất nhiều thời gian thu thập tài liệu trong nhiều lãnh vực khác nhau, tổng
hợp và viết ra theo hướng ủng hộ hoặc phê bình Bản Hiến pháp 7.
Chúng tôi kêu gọi quốc dân, đồng bào khắp nơi trên thế giới ủng hộ cho công việc chung
này, cụ thể là viết một loạt bài theo những đề tài sau đây:
* Tầm quan trọng và ích lợi của Hiến pháp 7
* Cách tổ chức chính phủ mới
* Tuyên ngôn nhân quyền cho Việt Nam
* Cách tổ chức các Thành phố như là các đơn vị tự trị
* Ngành Tư pháp
* Ngành Lập pháp
* Ngành Hành pháp
XII
Chúng tôi sẽ chọn lựa và đăng các bài phù hợp, có thể viết thêm cho thỏa đáng tất cả mọi
tranh luận hoặc phản đối về các đề tài trên. Chúng tôi cũng sẽ tự viết ra một số bài theo
tinh thần Bản Hiến pháp 7, và sẽ từ từ đăng lên các diễn đàn để mọi người cùng tranh
luận.
- Nhân dân Việt Nam -
XIII
Thư Quốc gia số 2
Tổng quát, tổng quan, về hiện trạng quốc gia
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Chưa bao giờ trong lịch sử 4888 năm, dân tộc ta lại phải đối diện với nhiều thử thách sâu
rộng và nghiêm trọng như hiện nay. Các kẻ thù trong quá khứ cho dù muốn xâm lăng và
đồng hóa dân tộc ta, nhưng họ thực hiện một cách không đồng nhất, không bài bản, chỉ
có ý nghĩa cục bộ và trong từng thời đại vua quan của họ, chứ không tạo thành một chính
sách quốc gia chính thức và kéo dài nhiều thập kỷ, thậm chí thiên niên kỷ như hiện nay.
Ngoài giặc ngoại xâm, ngay cả giặc nội xâm của dân tộc ta cũng không kém phần nguy
hại. Và không chỉ trong chính trị, ngay cả trong luật pháp, kinh tế, xã hội cũng có biết
bao mối nguy hại mà nếu không lập tức loại trừ và tái tạo dựng cho hoàn thiện hơn, thì
chỉ trong vài thập niên nữa mạch sống, dân tộc tính của chúng ta có thể bị diệt trừ và
tuyệt chủng.
Không gì đáng thương cho bằng một dân tộc bị mất quốc tính tốt đẹp, sa đọa vào vòng
hổn loạn vô đạo đức, vô pháp luật, vô trật tự, mà chính mọi thành phần trong dân tộc đó
còn không biết họ sai để sửa chữa
Trong bài này, hiện trạng Việt Nam sẽ được khảo sát một cách tổng quan, tổng quát. Thư
Quốc gia số 3 đến số 15 sẽ xem xét các vấn đề nội bộ Việt Nam một cách chi tiết hơn, và
đưa ra các lý luận về Ích lợi của Hiến pháp 7 trong việc tái tạo Quốc hồn Quốc túy Việt
Nam, và nâng cao giá trị quốc gia cùng nhân phẩm nhân dân Việt Nam lên một tầm cao
mới trong tân Thiên niên kỷ này.
XIV
1. Tóm lược Lịch sử Việt Nam cận đại
Năm 1858, Pháp quốc dưới nền Đệ Nhị Quân chủ Lập hiến do Hoàng đế Napoléon Đệ
Tam thành lập năm 1852 quyết định đem quân xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Theo Hiến pháp Quốc gia Pháp được thành lập năm 1852, Hoàng đế có toàn quyền Hành
pháp, ngoài ra còn có toàn quyền xếp đặt toàn bộ các nhân vật trong Hội đồng Quốc gia
với nhiệm vụ soạn luật, và toàn bộ nhân vật trong Thượng viện thông qua các bộ luật
dưới sự chi phối của Hoàng đế.
Như vậy, cuộc xâm lăng và chiếm đóng Việt Nam hoàn toàn không do ý muốn của nhân
dân Pháp quốc, mà do tham vọng của giới cầm quyền không hề được dân bầu lên. Chính
nhân dân Pháp cũng chịu vô vàn đau khổ dưới các chính phủ thay phiên nhau đàn áp dân
lành trong suốt thời gian nhân dân Việt Nam cùng chịu chung số phận.
Nền Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp mãi đến năm 1958 mới được thành lập, có Hiến pháp mới,
và sau đó các vị Tổng thống được nhân dân Pháp bầu lên đều tiến hành việc trao trả độc
lập cho tất cả các thuộc địa, vì nhân dân Pháp từng chịu quá nhiều đau khổ trong các chế
độ bất dân chủ và kháng dân chủ trước đó, nay không hề muốn bất cứ nhân dân nào trên
thế giới cùng chịu như vậy, nhất là lại dưới sự đô hộ của quốc gia họ.
Từ năm 1858, cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam đến 26 năm sau mới kết thúc với
việc Pháp chiếm toàn bộ Việt Nam, và Việt nam trở thành một trong ba quốc gia, cùng
với Lào và Cambodia, trong Đông dương Thuộc Pháp (French Indochina) năm 1887.
Ngoại trừ cuộc chiếm đóng của quân đội Nhật Hoàng năm 1941 đến 1945, Việt Nam là
một thuộc địa của Pháp cho đến năm 1954. Ông Hồ Chí Minh lãnh đạo quân đội Việt
Nam thuộc nhiều phe phái chính trị khác nhau cùng đoàn kết đánh Pháp và giành độc lập
cho Việt Nam, tuy nhiên do quân đội còn yếu, quân đội Việt Nam phải rút về phía Bắc Vĩ
XV
tuyến 17 như được các phe phái tham chiến và quốc tế đồng ý trong Hiệp định Geneva ký
năm 1954.
Hoa kỳ rất tận tình giúp đỡ thành lập Việt Nam Cộng hòa, thuộc phía Nam vĩ tuyến 17,
thành lập nền Đệ Nhất Cộng hòa năm 1956, và Đệ Nhị Cộng hòa năm 1967. Việt Nam
Cộng hòa được thành lập dưới tiêu chỉ Dân chủ Lập hiến, theo Chủ nghĩa Tư bản, tôn
trọng Tư do Ngôn luận, Dân chủ Xã hội. Do khó khăn kinh tế vì nhiều lý do vào đầu
thập niên 1970, Hoa kỳ rút bớt và cuối cùng cắt toàn bộ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa
từ cuối năm 1974, đưa đến cuộc sụp đổ kinh tế và quân sự vào tháng 4, 1975.
Trong khi đó, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thuộc phía Bắc vĩ tuyến 17, được
hơn 15 quốc gia trong khối Cộng sản Quốc tế, nổi bật nhất là Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa, tận tình giúp đỡ không suy chuyển trong suốt thời gian cuộc chiến 10 ngàn ngày tại
Việt Nam. Do đó, đang khi Việt Nam Cộng hòa bị đồng minh Hoa kỳ bỏ rơi và gặp khó
khăn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dễ dàng xua quân xâm lăng và xâm chiếm, với số
thương vong rất tối thiếu.
Sau đó, cho dù có "hòa bình", Việt Nam thực tế vẫn là một quốc gia bị Cộng sản Quốc tế
chiếm đóng. Các chính sách kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, đều được nhập vào từ bên
ngoài lúc đầu chủ yếu là từ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, và sau đó là từ Liên bang Xô
viết. Các chính sách này đa số không phù hợp với dân tộc tính và tình hình Việt Nam, do
đó đa số đều thất bại thảm hại.
Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội triền miên sau 1975. Mãi cho đến khi
khối Cộng sản Quốc tế sụp đổ vào cuối thập niên 1980, chính phủ Việt Nam buộc lòng
phải có một số thay đổi về chính sách kinh tế, xã hội, quan trọng nhất là vấn đề "ra đi có
trật tự" cho người Việt Nam được thân nhân từ nước ngoài bảo lãnh đoàn tụ, sau đó gởi
ngoại tệ về Việt Nam trong suốt 20 năm qua. Kể từ khi có cuộc "đổi mới" này, nền kinh
tế Việt Nam tránh khỏi bị sụp đổ do ba yếu tố quan trọng nhất: (1) Kiều hối, (2) bán dầu
XVI
thô, (3) viện trợ và mượn nợ khối Tư bản Chủ nghĩa.
Hiện nay, về chính trị và lý luận chính trị, Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa, và mô hình phát triển của quốc gia này đang là mẫu mực cho nhiều
kinh tế gia, chính trị gia Việt Nam noi theo.
2. Các tư tưởng chính trị Việt Nam trong và ngoài nước
2.1. Hệ tư tưởng Cộng sản Quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam (gọi tắt là "Đảng" - do chỉ có một nên không lẫn lộn) là đảng
duy nhất được chính thức hoạt động tại Việt Nam. Đảng có 15 người đứng đầu, tạo thành
Bộ Chính trị, là cơ quan quyền lực cao nhất tại Việt Nam.
Đảng có khoảng 3 triệu đảng viên, là một tổ chức kín đáo, bí mật, tuyển chọn đảng viên
theo tiêu chuẩn riêng và không ai có quyền tham gia trừ khi được các cấp Đảng ủy cho
phép và cho gia nhập.
Các đảng viên được quyền đặc miễn bắt giữ và đặc miễn truy tố, trừ khi được các cấp
đảng ủy trực tiếp ra lệnh theo cách khác thông lệ. Các phiên tòa xử đảng viên, cho dù
xảy ra, đều được dàn xếp trước để khỏi mất uy tín Đảng.
Đảng chỉ huy hệ thống luật pháp, chỉ định các lãnh đạo nhà nước, và bổ nhiệm các nhân
vật trong Quốc hội. Đảng kiểm soát mọi hoạt động và tư tưởng tại Việt Nam.
Luật pháp Việt Nam được soạn theo lý thuyết luật pháp Cộng sản, trong đó không ai
được phép chỉ trích bất cứ hành động nào của bất cứ ban ngành nào thuộc chính phủ Việt
Nam, và mọi lãnh đạo đều không do dân bầu lên mà do Đảng chỉ định.
XVII
Mọi phiên tòa đều được dàn xếp trước, trong đó các bị can bị định tội trước khi phiên tòa
bắt đầu, do đó Việt Nam không có hệ thống pháp lý công bằng, không có công lý, không
có luật pháp, và cũng không có bình đẳng trước pháp luật.
Sau khi khối Cộng sản Quốc tế sụp đổ một phần lớn tại Liên bang Xô viết và Đông Âu,
trong vài năm, Đảng vấp phải nhiều khủng hoảng nội bộ trong lý luận về sự tồn tại và ích
lợi của Đảng trong việc tiếp tục cai trị quốc gia.
Tuy nhiên, sau đó Đảng nối lại liên lạc với Đảng Cộng sản Trung quốc và nay hoàn toàn
bị chi phối, điều khiển, và quản trị bởi Đảng Cộng sản Trung quốc và quốc gia Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa về mọi mặt kinh tế, tài chánh, quân sự, tình báo, lãnh thổ, nhân lực
lãnh đạo, và quan trọng nhất là lý luận Cộng sản Quốc tế.
Sự chi phối toàn diện bởi Đảng Cộng sản Trung quốc hầu như chắc chắn sẽ tiếp tục trong
nhiều năm, thậm chí nhiều thập niên tới đây, ngày nào mà Đảng còn cai trị Việt Nam.
Nói khác đi, Đảng Cộng sản Trung quốc đang và sẽ tiếp tục cai trị Việt Nam thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa
Do hoàn cảnh lịch sử kể từ sau Hiệp định Geneva năm 1954, lãnh thổ Việt Nam phía
Nam vĩ tuyến 17 thuộc Thế giới Tự do, về mặt chính trị không khác với Nam Triều tiên
và Tây Đức, đều là tiền đồn đối nghịch với Bắc Việt Nam, Bắc Triều tiên, Đông Đức
thuộc khối Cộng sản Quốc tế.
Do phe Thế giới Tự do bị khủng hoảng kinh tế vào đầu thập niên 1970, nổi bật nhất là
XVIII
cuộc khủng hoảng dầu hỏa tại Trung đông đẩy giá xăng dầu lên cao trên 300% trong
vòng vài năm, nạn khan hiếm xăng dầu gây thất nghiệp và lãi suất ngân hàng cao chưa
từng thấy, đời sống nhân dân các quốc gia thuộc Thế giới Tự do gặp khó khăn không
lường trước và không thể giải quyết.
Để giữ các tiền đồn quan trọng tại Tây Đức và Nam Triều tiên, buộc lòng Thế giới Tự do
trong đó quan trọng nhất là Hoa kỳ phải buông rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Việt Nam Cộng Hòa bị mất tên, tuy nhiên, lý tưởng tự do, dân chủ, công lý, công bằng xã
hội, bình đẳng trước pháp luật, vẫn còn tồn tại trong số đông người dân từng sống qua
thời kỳ 1954-1975 tại phía Nam vĩ tuyến 17, và nay truyền lại cho con cháu họ.
Một số còn sống tại Việt Nam phải làm ngơ và tránh đưa ra ý kiến chính trị, ý kiến tôn
trọng các lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa, vì sợ bị Đảng khép tội và bỏ tù nhiều năm.
Một số ra hải ngoại tuy phải tìm kế sinh nhai nhưng vẫn còn tư tưởng tôn trọng các lý
tưởng này, nhưng không có dịp bày tỏ, chỉ ngoại trừ việc giảng dạy lại cho con cháu.
Do Đảng độc quyền cai trị Việt Nam, độc quyền tư tưởng, độc quyền lý tưởng, các tư
tưởng và lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa nay đang tạm thời bị che khuất, không được
bày tỏ tại Việt Nam. Một số người lên tiếng vì lương tâm quốc gia đều bị bắt, xử tù
nhiều năm, thậm chí đã bị tử hình cho dù họ chỉ kêu gọi một cách bất bạo động và chính
họ không có một tấc sắt trong tay.
Hiện trạng này có lẽ còn kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, vì Đảng Cộng sản
Trung quốc rất quan ngại việc Việt Nam có thể có tự do, dân chủ như Nam Triều tiên,
Tây Đức.
Chính vì lý do quan ngại đó mà Đảng Cộng sản Trung quốc đã tận tình giúp đỡ Việt Nam
XIX
Dân chủ Cộng hòa trong 30 năm chiến tranh trước đây, và nay chính sách này không thay
đổi trong việc tiếp tục giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục cai trị Việt Nam theo lý
luận Cộng sản Quốc tế.
Đứng trước sự xâm lăng của kẻ thù quá hùng mạnh là Cộng hòa Nhân dân Trung hoa,
Đảng Cộng sản Trung quốc, hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa đang bị yếu thế, và rất khó
chống trả việc bị đè bẹp tại Việt Nam.
Việc đem lại các tư tưởng, lý tưởng của Việt Nam Cộng Hòa, tương tự như của Tây Đức
và Nam Triều tiên - nay còn gọi là Hàn quốc - trở lại Việt Nam, do đó, vào thời điểm
hiện nay chỉ có một tia hy vọng rất mong manh.
2.3. Hệ tư tưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Một số đảng viên kỳ cựu trước đây của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn hoài cổ và hy
vọng trở lại thời hậu Cách mạng Tháng Tám, khi Hiến pháp 1946 của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chấp nhận một số đảng nhỏ trong Quốc hội.
Số người này, có thể nói rất có tinh thần quốc gia và theo Quốc gia Chủ nghĩa hơn là
Cộng sản Chủ nghĩa, muốn có quốc gia phú cường, độc lập khỏi Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa và Đảng Cộng sản Trung quốc.
Tuy nhiên, cũng như hệ tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa, họ cũng đang bị vùi dập, tuy với
mức độ ít tàn bạo hơn, vì dù sao họ từng có tên tuổi, và nhiều năm theo Đảng.
Đa phần trong số họ nay chỉ bị thất sủng, hoặc an trì tại một nơi nào đó, có nơi ở và
lương thực tạm đủ.
XX
Mọi vây cánh bị siết chặt, họ không còn có thể nói hoặc làm gì một cách công khai các tư
tưởng vì quốc gia, dân tộc mà họ tham gia vào Đảng từ lúc ban đầu chẳng qua vì muốn
chống giặc ngoại xâm, chứ không hề muốn đem lại một cuộc xâm lăng khác từ Cộng hòa
Nhân dân Trung hoa còn lâu dài và nguy hiểm hơn.
Hệ tư tưởng này tồn tại rất yếu, vì không có lý luận vững chắc về cấu trúc kinh tế, xã hội,
chính trị. Một tư tưởng 'vì quốc gia" mông lung nào đó sẽ không đủ để xây dựng quốc
gia, và quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thật ra vẫn phụ thuộc rất sâu đậm vào Cộng
hòa Nhân dân Trung hoa và Đảng Cộng sản Trung quốc, cùng hơn 15 quốc gia khác
trong khối Cộng sản Quốc tế.
Như vậy, cho dù Hiến pháp 1946 được tái tạo dựng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
tái thành lập, thì sẽ vẫn không có chỗ dựa và lý luận chính tri, cấu trúc kinh tế, xã hội,
nhân văn, để tồn tại một cách vững mạnh. Có khi lại tạo dựng ra một thế chế độc tài, độc
quyền, độc đoán không khác hiện nay mà họ muốn thay đổi.
2.4. Hệ tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội
Một số bạn trẻ tại Việt Nam gần đây do du học hoặc qua tiếp xúc với các nền văn minh
Âu Mỹ muốn đem lại công bằng xã hội, dân chủ, phổ thông đầu phiếu, cho Việt Nam.
Số người này nói chung rất năng động, rất có nhiệt huyết và hăng hái trong các phong
trào chống Trung quốc xâm lăng, chống tham nhũng. Họ cũng rất can đảm, nói chung
còn can đảm hơn số người có tư tưởng Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trên đây.
Họ thành lập các diễn đàn, các nhóm thảo luận trên mạng internet, ra nhiều tờ báo thường
ký chống các sai trái trong xã hội, chống việc các ngư dân Việt Nam bị sát hại trên biển,
XXI
chống các Hiệp định biên giới bị Chính phủ Việt Nam lén lút ký kết và không hề công bố
ngay cả sau khi đã ký kết nhiều năm.
Tuy nhiên, gần đây do Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ra lệnh bắt bớ, họ bị đàn
áp rất mạnh bạo tại Việt Nam, một số bị bắt, bị cô lập trong nhiều tháng không được gặp
thân nhân. Một số có thể bị đem ra xét xử và bị bỏ tù nhiều năm.
Cũng như hai nguồn tư tưởng trên đây, có lẽ hệ tư tưởng này cũng dần dần bị ép vào
thinh lặng. Nhiều phần tử từng tham gia tuy vẫn sẽ giữ nguyên ý kiến, lý tưởng của họ,
nhưng tại Việt Nam thì không dám lên tiếng, còn tại hải ngoại thì chỉ giảng dạy lại cho
con cháu.
2.5 Hệ tư tưởng Hiến pháp 7
Đây là hệ tư tưởng hoàn toàn mới và gần đây nhất, do một số người thuộc "thế hệ 1,5" đề
xướng. Đây là thế hệ khoảng từ 30-45 tuổi, từng có giáo dục ít nhất thuộc cấp trung học
tại Việt Nam, nhưng sau đó thụ huấn nền giáo dục đại học và / hoặc sau đại học tại các
quốc gia có người Việt Nam định cư.
Thế hệ này hiểu rất rõ Việt Nam, nhưng đồng lúc cũng có cái nhìn của người ngoại quốc
có học thức nhìn vào và đánh giá hiện trạng Việt Nam, và đưa ra phương hướng giải
quyết.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu rõ các nổi suy tư thầm kín và công khai của các người
thuộc các Hệ tư tưởng trên đây. Thư Quốc gia số 1 đã nêu rõ, "Một số trong hai nhóm
trên [hệ thống chính trị Việt Nam và cực đoan hải ngoại] thật ra đã có các ý tưởng trên do
một lương tâm chính trực. Một số rất đáng trân trọng và kính nể..."
XXII
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu rõ sự hy sinh cống hiến cho nền độc lập dân tộc của Hệ tư
tưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là sự hy sinh cống hiến vô giá, vô bờ bến, đáng
được trân trọng và ghi vào trang vàng lịch sử dân tộc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ thật ra không cần thiết vì như trên đây đã ghi, chỉ cần 4 năm
sau đó, năm 1958 khi nhân dân Pháp thông qua và phê chuẩn Hiến pháp nền Đệ Ngũ
Cộng hòa, thì Pháp cũng đã trả lại độc lập cho Việt Nam không cần phải qua chiến tranh,
như Pháp trả lại độc lập cho hàng chục thuộc địa và vùng lãnh thổ khác. Việt Nam đã
không là một ngoại lệ.
Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1940, các anh hùng chiến đấu vì nền độc lập Việt Nam
không thể đoán trước việc Pháp sẽ thông qua Hiến pháp mới, rồi sau đó trao trả độc lập.
Hiến pháp 1946 khi thông qua cũng là một bản Hiến pháp hay, tuy sau đó không được
thực hiện đúng đắn.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 cũng hiểu rõ và vô cùng trân trọng Hệ tư tưởng dân chủ, công
bằng xã hội, nhất là về tính can đảm, trung trực, của một số thành viên nay đang lâm vào
cảnh lao tù - và có thể nhiều năm.
Ngày nào đó, dân tộc Việt Nam sẽ cảm ơn và ghi tên họ vào trang sử vàng dân tộc, như
đang và sẽ ghi tên một số người đã hy sinh trong cuộc chiến chống Pháp vì nền độc lập
dân tộc. Họ cũng đang chống giặc ngoại xâm, và kẻ thù này càng thâm độc và nguy hiểm
hơn Pháp gấp nhiều lần.
Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 hiểu và thông cảm với một số đông thuộc Hệ tư tưởng Cộng sản
Việt Nam. Một số đông Đảng viên gia nhập Đảng vì hoàn cảnh gia đình, xã hội. Một số
xem đó là cách sinh nhai, một sinh lộ, một thoát lộ, cho cuộc sống đang quá khó khăn.
Một khi gia nhập Đoàn, họ khó thể rút ra vì sẽ bị một số điều thiệt hại nặng nề trong việc
làm, sự nghiệp. Sau đó, dần dần họ càng bị dấn sâu vào vòng chính trị, họ buộc phải gia
XXIII
nhập Đảng để có thêm quyền hành, thêm cơ hội thăng tiến xã hội và chính quyền. Ngoài
ra lại còn có gia đình cần họ gia nhập Đảng cho "cả họ được nhờ". Một khi vào rồi thì
buộc phải "trả ơn" cho quá nhiều đảng viên khác, do đó sinh ra nạn bao che, bè phái,
tham nhũng, hối lộ.
Hiến pháp 7 hiểu rõ, do đó tạo thoát lộ an toàn cho tất cả Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Sẽ không có trả thù, không có thanh trừng, cũng không có trách móc hoặc tịch thu tài sản
bất cứ một Đảng viên nào cho dù còn sống hay đã qua đời, một khi Hiến pháp 7 được
nhân dân Việt Nam thông qua, và cho phép tha thứ TẤT CẢ mọi lỗi lầm cho dù cố ý hay
vô tình của TẤT CẢ mọi Đảng viên còn sống hay đã qua đời trước đây.
Ông Hồ Chí Minh vẫn sẽ được tự do tôn sùng, thờ phụng, chỉ là sẽ không dùng tiền ngân
khố quốc gia làm việc đó, mà chỉ từ tiền đóng góp tự nguyện cá nhân.
Hiến pháp 7 công nhận sự tồn tại và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, và Đảng
này toàn quyền tự do ứng cử, đưa Đảng viên vào Quốc hội, thậm chí làm Tổng thống,
Thủ tướng, nếu được nhân dân bầu chọn.
Như vậy, Hệ tư tưởng Hiến pháp 7 dung hòa và bao gồm mọi Hệ tư tưởng trên đây, đồng
lúc mở ra vô vàn cơ hội cho toàn thể nhân dân Việt Nam tham gia vào các quyết định
chung cho toàn quốc, toàn dân tộc. Mỗi người dân đều có một lá phiếu bình đẳng trong
việc chọn lựa ra lãnh đạo tương lai của quốc gia, dân tộc.
Hiến pháp 7 lấy tự do, dân chủ, công lý, công bằng xã hội, bình đẳng trước pháp luật làm
các cột mốc lập quốc, trên nền tảng chữ NHÂN làm đầu. Đó là Nhân đạo, Nhân ái, Nhân
quyền, Nhân phẩm, Nhân dân.
XXIV
Một quốc gia đặt nền tảng trên các điều này sẽ vĩnh viễn phú cường và toàn vẹn lãnh thổ,
mọi người dân sẽ được tự do, hạnh phúc, trong một quốc gia do chính họ thật sự làm chủ,
được quản trị bởi các chính phủ do dân, vì dân, và từ nhân dân chọn lọc ra.
3. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam
3.1. Địa lý và các Tỉnh thành
Việt Nam nằm tại Đông Nam châu Á, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào và
Cambodia, phía Bắc giáp Trung Quốc. Việt Nam có diện tích 331.210 km vuông, đứng
hàng thứ 65 trên thế giới về diện tích, trong đó có 310.070 km vuông đất đai và 21.140
km vuông sông ngòi, kênh rạch. Về đất đai, Việt Nam có 4639 km đường biên giới trong
đó 1228 km với Cambodia, 1281 km với Trung quốc, 2130 km với Lào. Việt Nam có
3444 km dọc theo bờ biển, chưa tính các hải đảo.
Việt Nam hiện có 64 tỉnh thành: An giang, Bắc giang, Bắc Kạn, Bạc liêu, Bắc ninh, Bà
rịa - Vũng tàu, Bến tre, Bình định, Bình dương, Bình phước, Bình thuận, Cần thơ, Cà
mau, Cao bằng, Đà nẵng, Dac Lak, Đắc nông, Điện biên, Đồng nai, Đồng tháp, Gia lai,
Hà giang, Hà nam, Hà nội, Hà tỉnh, Hải dương, Hải phòng, Hậu giang, Hòa binh, Hồ Chí
Minh, Hưng yên, Khánh hòa, Kiên giang, Kon tum, Lai châu, Lâm đồng, Lạng sơn, Lào
cai, Long an, Nam định, Nghệ an, Ninh bình, Ninh thuận, Phú thọ, Phú yên, Quảng bình,
Quảng nam, Quảng ngãi, Quảng ninh, Quảng trị, Sóc trăng, Sơn la, Tây ninh, Thái bình,
Thái nguyên, Thanh hóa, Thừa thiên - Huế, Tiền giang, Trà vinh, Tuyên quang, Vĩnh
long, Vĩnh phúc, Yên bái.
Về khí hậu, Việt Nam có khí hậu nhiệt đới tại miền Nam, và gió mùa tại miền Trung và
Bắc. Nhìn chung, Việt Nam không có bốn mùa xuân hạ thu đông, mà chỉ có mùa mưa và
nóng vào tháng 5 đến tháng 9, mùa khô và bớt nóng vào tháng 10 đến tháng 4.
XXV
Về địa hình, Việt Nam có đồng bằng thấp trũng tại miền Nam và miền Bắc, nhiều đồi núi
và cao nguyên tại miền Trung, Tây, và Tây Bắc.
Ngọn núi Fan Si Pan cao nhất Việt Nam, khoảng 3144 m so với mặt nước biển.
Tuy có chiều dài 1650 theo đường thẳng từ Bắc xuống Nam, tại vùng hẹp nhất theo bề
ngang chỉ có 50 km.
Đất trồng trọt tại Việt Nam bao gồm 20,14% diện tích đất đai, bao gồm 6,93% dùng làm
nông nghiệp quanh năm. Khoảng 72,93 đất còn lại là các thành thị và vùng đồi núi
không dùng cho nông nghiệp.
Vùng sông ngòi Việt Nam có 891,2 km khối nước ngọt có thể dùng để trồng trọt và dùng
làm nước uống, nước sinh hoạt, trong đó Việt Nam sử dụng hàng năm khoảng 71,39 km
khối nước ngọt hàng năm, với 5,71 km khối cho sinh hoạt trong gia đình, 17,13 km khối
cho công nghiệp, và 48,55 km khối cho nông nghiệp. Mỗi nhân khẩu, như vậy, sử dụng
khoảng 820 m khối nước hàng năm.
Về thiên tai, Việt Nam thường có bão lụt tại miền Trung vào khoáng từ tháng 5 đến tháng
1, theo sau đó là lụt lội. Tại vùng trũng Đồng bằng sông Cửu long cũng thường hay có
mùa nước lớn có thể gây lũ lụt vào các tháng này, do mưa lớn gây ra.
Trong các năm gần đây môi trường thiên nhiên tại Việt Nam bị hủy hoại rất nhiều, do nạn
đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng lấy gỗ và làm củi đốt. Hiện trạng này chẳng những
làm diện tích rừng cây ngày càng bị thu hẹp, mà còn làm đất đai bị xói mòn, nguồn nước
bị ô nhiễm, mà còn gây lụt lội cho hạ nguồn vì dòng nước chảy không còn được rừng làm
chậm lại và điều tiết.
XXVI
Nạn thành thị hóa cũng gây hại cho đời sống thiên nhiên nhiều loại côn trùng có lợi,
nhiều loại động vật sông ngòi bị tận diệt hoặc thoái hóa do chất độc thải ra từ các khu
công nghiệp. Các chất thải độc hại này cũng phá hại nguồn nước trước kia có thể sử
dụng, nay phải cho chảy ra biển và không thể tái tạo.
Do môi trường nông ngư nghiệp ngày càng khắt nghiệt, lại thêm nhiều vùng bị lụt lội liên
tục do nạn phá rừng, nông ngư dân nhập cư ào ạt vào các thành phố lớn gây ô nhiễm
không khí, tắc nghẽn giao thông ngày càng trầm trọng.
Các dịch vụ công cộng, an sinh xã hội như bệnh viện, nhà trẻ, trường học tại các thành
phố lớn hiện đang bị quá tải nặng nề cũng vì các vấn đề hủy hoại môi trường thiên nhiên
kể trên. Một số trẻ thuộc tuổi đi học do cha mẹ nhập cư nên không được cho vào học,
gây tình trạng thất học, thiểu học rất cao trong các năm gần đây.
3.2. Nhân sinh xã hội
Theo thống kê mới nhất vào tháng 7. 2009, Việt Nam hiện có 86.967.524 người, đông
hàng thứ 13 trên thế giới. Trong đó, 0-14 tuổi khoảng 24,9%, từ 15-64 tuổi khoảng
69,4%, trên 64 tuổi khoảng 5,7%, 1/2 dân số Việt Nam dưới 27,4 tuổi. Hàng năm, Việt
Nam tăng dân số khoảng 0,977% (khoảng 850.000 người một năm), thuộc hàng 128 về
tăng dân số trên thế giới.
Tỉ lệ di dân ra nước ngoài của Việt Nam hiện nay vào khoảng 33 ngàn người một năm.
Tỉ lệ nhập cư vào các thành phố hiện vào khoảng 3,1% hàng năm, tức khoảng 2,7 triệu
dân hàng năm, trong khi toàn quốc hiện chỉ có khoảng 28% dân sống trong các thành phố
(24,25 triệu). Theo tỉ lệ, như vậy tại các thành phố hiện có nạn tăng dân số khoảng 11%
hàng năm.
XXVII
Tuổi thọ trung bình hiện nay là 71,58 tuổi, vào hàng 127 trên thế giới về sống thọ, trong
đó phụ nữ sống 74,57 tuổi, nam giới sống 68,78 tuổi.
Mỗi phụ nữ Việt Nam sinh trung bình 1,83 trẻ em, đứng hàng 154 trên thế giới về tỉ lệ
này.
Về bệnh tật, các loại bệnh có tỉ lệ bệnh cao nhất là:
- Do thực phẩm gây ra: tiêu chảy do vi trùng, viêm gan do siêu vi A, sốt thương hàn
- Do truyền nhiễm: sốt xuất huyết, sốt rét, sưng màng óc Nhật bản, dịch hạch, viêm gan
siêu vi B và C
Dân tộc Việt Nam có 54 sắc dân, trong đó người Kinh chiếm 86,2%, Tày 1,9%, Thái
1,7%, Mường 1,5%, Khmer 1,4%, Hoa 1,1%, Nùng 1,1%, Hmông 1%, và các nhóm
người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán Dìu, v.v... Ngoại trừ người Kinh, đa số các sắc dân
khác sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông
Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người.
Về tôn giáo, Việt Nam có các tôn giáo chính: đạo Phật với 9,3% dân số, theo sau là đạo
Thiên chúa 6,7%, Hòa hảo 1,5%, Cao đài 1,1%, Tin lành 0,5%, Hồi giáo 0,1%, không có
tôn giáo 80,8%.
Về ngôn ngữ, tiếng Việt hiện là ngôn ngữ chính, theo sau là tiếng Anh, Pháp, Quảng
đông, Phổ thông, Khmer, tiếng miền núi (Mon-Khmer và Malayo-Polynesian).
Về trình độ học vấn, 90,3% dân chúng trên 14 tuổi biết đọc biết viết, trong đó có 93,9%
nam giới và 86,9% nữ giới.
Việt Nam chi tiêu 1,8% Tổng sản lượng quốc gia cho giáo dục, đứng hàng 171 trên thế
giới theo tỉ lệ.
XXVIII
3.3. Nội trạng nền kinh tế, phương hướng phát triển kinh tế hiện tại
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đông dân, trong một phần ba thế kỷ qua đã
phải trải qua cuộc hồi phục kinh tế sau chiến tranh, mất sự ủng hộ kinh tế của khối Cộng
sản Quốc tế, và sự cứng nhắc của một nền kinh tế tập quyền. Kể từ 2001, chính phủ Việt
Nam đã nhiều lần tuyên bố sẽ tiếp tục con đường tự do hóa nền kinh tế và hội nhập quốc
tế. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về cấu trúc nền kinh tế để từng bước
hiện đại hóa nền kinh tế và sản xuất nhiều hàng hóa để xuất khẩu, thu hút ngoại tệ.
Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Tự do Mậu dịch khối ASEAN (ASEAN Free Trade
Area, AFTA) và Hiệp ước Mậu dịch Song phương với Hoa kỳ (Vietnam-US Bilateral
Trade Agreement) vào tháng 12, 2001 càng làm thay đổi và tiến bộ về kinh tế và thương
mại cho Việt Nam.
Giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa kỳ tăng 900% từ 2001 đến 2007. Việt Nam
tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1, 2007 sau hơn 10 năm
thương thuyết. Tư cách thành viên WTO giúp Việt Nam có chỗ dựa vững chắc để tham
gia vào thị trường thế giới và củng cố quá trình cải cách kinh tế nội địa. Ngoài các lợi ích
khác, tham gia vào WTO cũng giúp Việt Nam không còn chịu xuất khẩu theo hạn mức
từng được quy định trong Hiệp ước về Vải sợi và Hàng may mặc (Agreement on Textiles
and Clothing).
Sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia bị giảm sút từ 25% năm 2000
xuống còn 20% năm 2008. Theo các con số được công bố, tỉ lệ nghèo đói đã giảm rất
mạnh, rất mau, và nay tỉ lệ này thấp hơn tại Trung quốc, Ấn độ, và Phi Luật Tân. Tuy
nhiên, có nhiều điểm đáng nghi ngại trong tỉ lệ được công bố này, nhất là khi cùng lúc
nhiều thông báo về hàng trăm ngàn nhân khẩu bị mất hết nhà cửa, phương tiện sinh sống
XXIX
qua các cuộc bão lụt trong các năm qua.
Việt Nam đang cố gắng hoạt động để tạo việc làm cho lực lượng lao động đang tăng thêm
khoảng 1 triệu 500 ngàn người hàng năm.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay chắc hẳn sẽ giới hạn khả năng tạo việc làm
và giảm bớt tỉ lệ nghèo khó. Trong khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu bị sụt giảm trong
năm 2009, Việt Nam với nền kinh tế thiên về xuất khẩu - chiếm 68% tổng sản lượng quốc
gia năm 2007 - sẽ phải bị giảm xuất khẩu, tăng tỉ lệ thất nghiệp và phá sản trong giới
doanh thương và sản xuất, cùng lúc giảm đầu tư ngoại quốc.
Tổng sản lượng quốc gia năm 2008: 242,3 tỉ USD theo tỉ giá sức mua (purchasing power
parity), đứng hàng thứ 46 trên thế giới; và 89,83 tỉ USD theo tỉ giá ngoại tệ chính thức.
Tăng trưởng kinh tế năm 2008: 6,2% theo con số chính thức, hạng 54 trên thế giới.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2008: 2,800 USD theo tỉ giá sức mua, đứng hàng 168
trên thế giới; và 1.038 USD theo tỉ giá ngoại tệ chính thức.
Về nội lực kinh tế, 22% tổng sản lượng quốc gia từ nông nghiệp, 39,9% từ công nghiệp,
và 38,1% từ các ngành dịch vụ .
Việt Nam có lực lượng lao động gồm 47,41 triệu người, đứng hàng thứ 12 trên thế giới.
Trong đó, 55,6% làm nông nghiệp, 18,9% công nghiệp, và 25,5% dịch vụ.
Tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong năm 2008 - theo con số chính thức rất không đáng tin
cậy, là 4,7% - hàng 59 trên thế giới.
Tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ là 14,8%.
XXX
Số 10% nghèo nhất chỉ chiếm 3,1% thu nhập toàn quốc, số 10% giàu nhất chiếm 29,8%.
Chỉ số Gini về phân bố thu nhập gia đình là 37, theo con số công bố năm 2004.
Năm 2008, Việt Nam có đầu tư tương đương 41,9% tổng sản lượng quốc gia, đứng hàng
Nhất toàn thế giới theo tỉ lệ.
Thu nhập Ngân sách quốc gia năm 2008 đạt 24,27 tỉ USD, chi 28,85 tỉ USD, thâm hụt
chính thức 15,87%.
Nợ quốc gia năm 2008 cao bằng 48,8% tổng sản lượng quốc gia, cao hàng 39 trên thế
giới.
Lạm phát năm 2008 cao đến 23,1%, trên thế giới có 208 quốc gia có lạm phát thấp hơn
Việt Nam.
Lãi suất cơ bản, do ngân hàng quốc gia cho các ngân hàng thương mại vay ngắn hạn,
trong năm 2008 vào khoảng 10,25%, và lãi suất chinh thức các ngân hàng thương mại
cho khách hàng tốt nhất vay lại là 15,78% vào tháng 12/2008.
Sản phẩm nông nghiệp chính: gạo, cà phê, cao su, bông gòn, trà, tiêu, đậu nành, hạt điều,
mía, đậu phộng, chuối, gà vịt, cá, hải sản.
Về công nghiệp, chủ yếu là thực phẩm chế biến, quần áo, vải sợi, giày dép, hầm mỏ, than,
sắt thép, xi măng, phân bón hóa học, kiếng, bánh xe, dầu hỏa, giấy.
Công nghiệp phát triển 6,3% năm 2009, đạt tỉ lệ tăng trưởng cao hàng thứ 36 trên thế
giới.
Việt Nam sản xuất 66,81 tỉ kWh năm 2007, đạt hàng cao thứ 39 trên thế giới. Tiêu thụ
khoảng 59,3 tỉ kWh, đạt hàng cao thứ 40 trên thế giới.
XXXI
Việt nam sản xuất 313,600 thùng dầu mỗi ngày (114.464.000 thùng/ năm) trong năm
2008, đạt hàng 36 trên thế giới. Tiêu thụ 288,000 thùng dầu mỗi ngày, đạt hàng 44 trên
thế giới. Trong năm 2008, Việt Nam xuất khẩu toàn bộ số dầu sản xuất, và nhập toàn bộ
số dầu tiêu thụ.
Thềm lục địa Việt Nam còn khoảng 600 triệu thùng dầu tính vào ngày 1/1/2009. Theo số
lượng năm 2008 thì Việt Nam có thể xuất khẩu thêm 5 năm nữa (đến tháng 2/2013 sẽ cạn
sạch dầu).
Cho dù ngưng không xuất khẩu kể từ ngày 1/1/2009 thì Việt Nam chỉ có đủ dầu sử dụng
trong nước, theo số lượng năm 2008, cho đến tháng 8/2014. Sau đó Việt Nam sẽ buộc
phải nhập khẩu 100% dầu hỏa sử dụng, trừ khi tìm ra các mỏ dầu mới.
Việt Nam sản xuất 6,6 mét khối khí gas năm 2008, toàn bộ được tiêu thụ trong nước. Với
tổng lượng dự trữ thềm lục địa 192,5 tỉ mét khối, nếu tiếp tục sử dụng khối lượng cùng
năm 2008, Việt Nam đủ khí gas đến năm 2038.
Thâm hụt cán cân ngoại tệ trong năm 2008 lên tới 10,71 USD, chiếm 11,92% tổng sản
lượng quốc gia, và 37,12% ngân sách quốc gia.
Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu tổng cộng 62,69 tỉ USD, trong đó quan trọng nhất là thị
trường Hoa kỳ 18,9%, Nhật 13,6%, Trung quốc 7,2%, Úc 6,7%, Singapore 4,2%. Các
sản phẩm xuất khấu quan trọng nhất là dầu thô, thủy hải sản, gạo, cà phê, cao su, trà,
quần áo, giày dép.
Cùng lúc, Việt Nam nhập khẩu 75,47 tỉ USD, trong đó quan trọng nhất từ Trung quốc
19,4%, Singapore 11,6%, Hàn quốc 8,8%, Thái lan 6,1%. Các mặt hàng nhập khẩu quan
trọng nhất là máy móc và phụ tùng, sản phẩm dầu hỏa, phân bón, sản phẩm sắt thép, bông
gòn, xi măng, xe gắn máy.
XXXII
Như vậy, Việt Nam bị thâm hụt mậu dịch, theo con số chính thức, khoảng 12,78 tỉ USD
trong năm 2008, chiếm 16,93% tỉ lệ nhập khẩu và 20,38% tỉ lệ xuất khẩu.
Tính đến cuối năm 2008, Việt Nam có dự trữ ngoại tệ trị giá 24,18 tỉ USD, đủ cho nhập
khẩu khoảng 16 tuần.
Theo con số chính thức, nợ nước ngoài của Việt Nam chỉ khoảng 25,89 tỉ USD tính đến
cuối năm 2008. Tuy nhiên, con số này quá thấp và sự chính xác đáng nghi ngờ.
Cũng tính đến cuối năm 2008, lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chiếm 40,34 tỉ USD.
Về viễn thông, Việt Nam có 29,51 triệu số điện thoại cố định, và 70 triệu số điện thoại di
động. Việt Nam có 67 đài TV, 170,689 máy chủ internet, và 20,834 triệu người sử dụng
internet.
3.4. Giao thông vận tải
Việt Nam hiện có 44 phi trường, trong đó 37 phi trường có phi đạo gia cố tráng xi măng,
9 phi trường có phi đạo dài trên 3047 m, 5 có phi đạo từ 2438 m đến 3047 m, 14 có phi
đạo từ 1524 m đến 2437 m, và 9 có phi đạo từ 914 đến 1523 m.
Có 42 km đường ống dẫn khí, 66 km dẫn gas, và 206 km ống dẫn các sản phẩm đã được
lọc.
Đường hỏa xa kéo dài tổng cộng 2347 km trong đó chỉ có 178 km với bề ngang 1,435 m,
và 2169 km với bề ngang 1 m.
XXXIII
Có tổng cộng 222.179 km đường xá, trong đó chỉ có 42.167 km được trải nhựa, và
180.012 km không được trải nhựa.
Về đường thủy, có 17.702 km đường thủy, tuy nhiên đa số chỉ cho các phương tiện thô
sơ.
Các hải cảng chính là: Hải phòng, Đà nẵng, SàiGòn.
4. Hiện trạng văn hóa, xã hội Việt Nam
5. Kết luận
- Nhân dân Việt Nam -
(còn tiếp)
XXXIV
Thư Quốc gia số 3
Xem xét và tranh luận về nền Kinh tế Việt Nam hiện nay
XXXV
Thư Quốc gia số 4
Ích lợi của HP7 trong việc phát triển Việt Nam thành một cường quốc
Kinh tế tại Đông Nam Á trong một phần tư thế kỷ, và tại châu Á
trong nửa thế kỷ tới
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Theo dự tính, nếu thực hiện đúng, Việt Nam Dân Quốc sẽ có thể đạt Tổng sản lượng
quốc gia (TSLQG) vào mức 80 tỉ USD từ năm 2015, và trong trường hợp thuận lợi nhất
TSLQG sẽ tăng trưởng gấp đôi mỗi 7 năm, để năm 2035 đạt 640 tỉ USD, và năm 2050
đạt 2560 tỉ USD.
Từ thu nhập khoảng giữa, người giàu / nghèo thứ 45 triệu trên tổng số 90 triệu người Việt
Nam, hiện nay vào khoảng 250 USD hàng năm, vào năm 2035 con số này sẽ đạt khoảng
7100 USD, và khoảng 28.000 USD vào năm 2050.
Hơn thế nữa, kể từ năm 2035, mọi người Việt Nam đều sẽ có thể thuê một căn hộ thuộc
chính phủ với giá không quá 100 USD/ căn theo thời giá hiện nay.
TSLQG hiện nay của Việt Nam vào khoảng 45 tỉ USD.
Thư Quốc gia này sẽ liệt kê và phân tích lý do vì sao và bằng phương cách nào mà Việt
Nam Dân Quốc có thể đạt những thành tích trên.
Quản lý kinh tế, tài chánh
XXXVI
Về quản lý kinh tế, Chính sách Tài khóa sẽ do Lập pháp kiểm soát, và Chính sách Tiền tệ
do Hành pháp quyết định.
Năm tài chánh bắt đầu từ ngày 1 tháng 10, và kết thúc vào ngày 30 tháng 9.
Trước cuối mỗi tháng 3, Tổng thống và các Thị trưởng phải kết thúc việc đề ra ngân sách
quốc gia và thành phố cho năm sau, rồi gởi qua Quốc hội và Hội đồng Thành phố.
Quốc hội sẽ thông qua ngân sách hàng năm cho chính phủ cấp Quốc gia, trong khi Hội
đồng Thành phố thông qua ngân sách hàng năm cho chính quyền cấp Thành phố.
Do các Thành phố không được quyền tự mượn nợ, mọi chi phí quá mức thu nhập phải
vay mượn từ Ngân hàng Quốc gia.
Tại mọi thành phố, thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt quá 5% tổng sản
lượng của thành phố, và tổng số nợ không được vượt quá 50% tổng sản lượng. Trường
hợp khẩn cấp do thiên tai, chiến tranh, v.v... các Thành phố có thể vay mượn Ngân hàng
Quốc gia khỏi các hạn định này, nhưng phải được Tổng thống cho phép.
Thâm hụt ngân sách quốc gia phải không vượt quá 5% tổng sản lượng quốc gia hàng
năm. Trong trường hợp khẩn cấp, Quốc hội có thể thông qua một điều luật tạm thời cho
phép vượt quá hạn định này.
Trừ trường hợp khẩn cấp, nợ quốc gia bao gồm chính phủ quốc gia và tất cả mọi thành
phố sẽ không được vượt quá 100% tổng sản lượng quốc gia, trong đó nợ của tất cả mọi
thành phố không được vượt quá 50% tổng sản lượng quốc gia, và nợ từ chính phủ quốc
gia sẽ không được vượt quá 50% tổng sản lượng quốc gia.
XXXVII
Tổng thống có quyền thôi chức và đề cử Thống đốc Ngân hàng Trung ương. Việc thôi
chức không cần thông qua Quốc hội, nhưng việc đề cử sau đó phải được đa số tại Hội
đồng Quốc gia thông qua thì việc bổ nhiệm vị Thống đốc này mới có hiệu lực.
Chính phủ Quốc gia và chính quyền Thành phố chỉ có thể chi tiêu theo hạn định được
Quốc hội và Hội đồng Thành phố thông qua, theo tỉ lệ được ghi ra trong phần dưới đây
về Hạn định các Chi tiêu Chính phủ.
Hạn định các Chi tiêu Chính phủ
Sau khi tham khảo nhiều hạn mục chi tiêu của nhiều quốc gia giàu mạnh, Hiến pháp 7
buộc các hạn định chi tiêu chính phủ phải tuân thủ theo tỉ lệ phần trăm sau đây:
A. 20% vào An sinh xã hội.
B. 20% vào Giáo dục.
C. 20% vào Y tế.
D. 10% vào Giao thông và Bất động sản.
E. 10% vào An ninh và Quốc phòng.
F. 10% vào nợ quốc gia và chi phí đột xuất.
G. 10% vào lương bổng và chi tiêu hành chánh chính phủ.
A. Các chương trình An sinh Xã hội bao gồm:
- Chương trình hưu bổng cho người chưa từng đóng tiền vào Quỹ hưu bổng, hoặc có
đóng nhưng do quá ít nên số tiền lãnh hàng tháng không đủ mức tối thiểu.
- Chương trình giúp người nghèo, người tàn tật, người thiểu năng.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Chương trình giúp trẻ em cần giúp đỡ và người già không nơi nương tựa.
XXXVIII
Chính phủ quốc gia và tất cả mọi chính quyền địa phương bị buộc phải chi tiêu ít nhất
20% ngân sách vào ASXH. Đây thuộc vấn đề Hiến pháp, do đó không tới phiên các
chính phủ, chính quyền, hoặc Quốc hội hay Hội đồng Thành phố sửa đổi tỉ lệ dành cho
ASXH.
B. Giáo dục.
(còn tiếp)
XXXIX
Thư Quốc gia số 5
Xem xét và tranh luận về nền Giáo dục Việt Nam hiện nay
XL
Thư Quốc gia số 6
Ích lợi của HP7 trong việc phát triển khoa học kỹ thuật cao và chế tạo
hàng có giá trị tăng cao để xuất khẩu
XLI
Thư Quốc gia số 7
Xem xét và tranh luận về nền Quốc phòng Việt Nam hiện nay
XLII
Thư Quốc gia số 8
Ích lợi của HP7 trong việc tăng cường sức mạnh Quốc phòng Việt Nam
trong tân thiên niên kỷ
XLIII
Thư Quốc gia số 9
Xem xét và tranh luận về nền văn hóa và xã hội Việt Nam hiện nay
XLIV
Thư Quốc gia số 10
Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Thư Quốc gia số 15 sẽ bàn đến việc quốc gia Việt Nam chúng ta ngày nay vẫn còn trong
thời phong kiến trong các mối liên hệ giữa chính quyền và nhân dân, do đó thua các quốc
gia Dân chủ khoảng 370 năm về phát triển tư duy lãnh đạo, các mối liên hệ chính quyền -
nhân dân.
Về văn hoá, xã hội, triết học, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật, dân trí, sự thua kém này còn
xa vời hơn nữa.
Thư Quốc gia số 10 này sẽ khảo sát các Thời đại văn minh Âu châu từ thời Huyền sử đến
ngày nay, với trọng tâm vào các Thời Phục hưng, Cải cách, và Khai sáng trải qua suốt
khoảng bốn trăm năm, từ thế kỷ thứ 15 đến hết thế kỷ 18.
Sau đó Thư Quốc gia số 11 sẽ đưa ra lời đề nghị Việt Nam phát động một phong trào
toàn quốc theo mô hình các Thời đại văn minh này, để có thể tiếp bước vào Thời Hiện đại
và các Thời đại khác cho kịp với đà phát triển văn minh thế giới trong tân thế kỷ và tân
thiên niên kỷ hiện nay.
Khảo sát tổng quát các Thời đại văn minh Âu châu
XLV
Lịch sử Âu châu được chia làm nhiều thời đại, trong đó nhiều sử gia, và theo chúng tôi,
chia ra làm các thời đại sau đây. Về thời gian có thể có nhiều bất đồng giữa các sử gia, vì
các thời đại thường hoà lẫn vào nhau chứ không phân biệt từng năm, thậm chí thế kỷ, một
cách rõ ràng. Đại khái, lịch sử phát triển Âu châu được liệt kê ra như sau:
1. Thời Huyền sử, trước thế kỷ 8 trước Công nguyên.
2. Thời Cổ đại, từ thế kỷ 8 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên.
3. Thời Trung cổ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15.
4. Thời Phục hưng từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 16.
5. Thời Cải cách từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 17.
6. Thời Khai sáng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18.
7. Thời Cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
8. Thời Hiện đại từ đầu thế kỷ 20 đến hiện nay.
9. Thời Nano từ khoảng năm 2025 trở đi.
10. Thời Singularity từ năm 2045 trở đi.
Tại Âu châu, sau khi Đế chế La mã lụi tàn vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, văn minh
bị trì trệ nhiều thế kỷ vì nhiều sách vở và văn hóa, văn minh La mã bị mai một đi. Châu
Âu không tiến bộ được gì đáng kể về khoa học kỹ thuật cũng như nghệ thuật và xã hội
trong suốt một ngàn năm.
Lý do là vì sau khi Đế chế La mã sụp đổ, một thời kỳ vô chính phủ, vô luật lệ bao trùm
toàn Âu châu. Một số người giàu có trở thành các lãnh chúa, địa chủ, và truyền thống
cha truyền con nối làm người giàu thêm giàu, người nghèo càng nghèo. Chinh chiến liên
miên giữa các địa chủ, lãnh chúa, chức sắc tôn giáo, càng làm kiệt quệ Âu châu. Để phục
vụ cho mỗi lãnh chúa giàu có là hàng chục ngàn nông dân nghèo khổ cùng cực. Các lãnh
chúa vừa tranh chấp đất đai, nhưng cũng vừa bắt tay nhau để bóc lột giới nông dân không
đất đai trồng trọt.
XLVI
Cuộc sống quá nghèo khổ bấp bênh, nên người dân phải dựa vào và đóng góp cho các địa
chủ, lãnh chúa, để được bảo vệ an ninh, do đó góp phần kéo dài thời đại này lên đến
mười thế kỷ. So với thời sống dưới Đế chế La mã, thời này người dân Âu châu sống
nghèo khổ hơn nhiều. Âu châu cuối thời kỳ này không tiến bộ gì bao nhiêu so với cách
đó một ngàn năm.
Thời kỳ này tệ hại đến mức Francesco Petrarca (ông sống từ 1304 đến 1374), một trong
các sáng tạo gia của Chủ nghĩa Nhân văn (humanism) hồi thế kỷ 14 mô tả đó là “Thời
đại Đen tối” (Dark Ages) của văn minh Âu châu.
Mãi cho đến khoảng đầu thế kỷ 15, từ Florence bên Ý, do sự góp sức trải qua trên gần
hai trăm năm của một số nhà nhân văn học như Saint Thomas Aquinas, Giotto di
Bondone, Francesco Petrarca, Leonardo Bruni, Manuel Chrysoloras, Desiderius Erasmus,
Filippo Brunelleschi, Lorenzo Valla, Poggio Bracciolini, một số nghệ thuật gia mới tạo
thành phong trào bi quan ca thán cho hiện tại vào lúc đó, và hồi tưởng lại dĩ vãng oai
hùng của nước Ý cách đó gần một ngàn năm, và văn minh Hy lạp cách đó hơn một ngàn
năm trăm năm. Họ tự hỏi, đâu rồi thời Đế chế La mã thống trị Âu châu, đâu rồi các tư
tưởng vĩ đại của các bậc đại hiền triết Hy lạp?
Thế là vô tình và không thể đoán trước, họ tạo thành phong trào Phục hưng kéo dài 200
năm từ thế kỷ 15 sang thế kỷ 16, với sự chỗi dậy mạnh mẻ, bừng tỉnh, của các phong
trào nhân văn, xã hội, nghệ thuật, khoa học, triết học, chẳng những tại quốc gia họ mà
còn lan ra toàn Âu châu, kết thúc Thời Trung cổ và bắt đầu Thời Cận đại, kéo dài cho đến
đầu thế kỷ 20 khi Thời Hiện đại là bước kế tiếp cho đến ngày nay.
Nhân dân Âu châu sau thời gian ngủ yên một ngàn năm trong Thời Trung cổ bổng trở
mình, phát triển mạnh mẻ trong nhiều lãnh vực như kiến trúc, văn học, âm nhạc, hội họa,
triết học, khoa học, kỹ thuật, vũ khí.
XLVII
Đây là thời kỳ cực thịnh tại Âu châu về rất nhiều mặt, dọn đường cho Thời đại Khai sáng
sau này nhấn mạnh hơn vào việc bức phá đi với quá khứ và tưởng tượng ra một thế giới
nơi quyền lực cai trị vào tay những ai có khả năng nhất, bao gồm các triết gia hoặc học
trò họ, hơn là chỉ vào giới địa chủ, lãnh chúa, chức sắc tôn giáo, như Thời Phục hưng trở
về trước (xin xem Thư Quốc gia số 15). Đây cũng là thời đại các quốc gia hùng mạnh
được hình thành như Pháp, Anh, Ý, Đức, Tây Ban Nha ngày nay.
Điều gì đã thúc đẩy sự khai sinh ra Phong trào / Thời đại Phục hưng này? Có lẽ điều kiện
cần và đủ là phải có một (1) sự bi quan ca thán lan rộng về hiện tại và (2) hoài niệm một
quá khứ đẹp đẽ đáng ghi nhớ nào đó, và tại châu Âu vào lúc đó thì không một quốc gia
nào có quá khứ oai hùng như nước Ý với nền văn minh của Đế chế La mã kéo dài nhiều
thế kỷ, và lãnh thổ Đế chế này trải rộng khắp Âu châu, qua đến vùng Trung Cận Đông.
Thời Cải cách chen giữa Thời Phục hưng và Khai sáng, chủ yếu tranh đấu cho điều các
người chủ xướng cho là bình đẳng trong tôn giáo.
Việt Nam ta có thể học hỏi gì từ lịch sử văn hóa, văn minh, triết học, khoa học kỹ thuật.
phát triển xã hội, chính trị Âu châu?
Mời Quốc dân, Đồng bào theo dõi Thư Quốc gia số 11 kế tiếp sẽ bàn về câu hỏi này, và
đề nghị các câu trả lời thích đáng.
- Nhân dân Việt Nam -
XLVIII
Thư Quốc gia số 11
Ích lợi của HP7 trong việc tái lập và phát triển quốc hồn quốc túy Việt
Nam trong tân thiên niên kỷ (tiếp theo)
Phong trào / Thời đại Phục hưng cho Việt Nam
Tại Việt Nam chúng ta, rất tiếc, do hoàn cảnh lịch sử luôn bị xâm lăng suốt gần 5000 năm
nay. Cho đến ngày nay nước ta vẫn đang bị ngoại bang xâm lăng trên đủ phương diện
không chỉ riêng về quân sự và lấn chiếm đất đai. Kẻ thù đang cố gắng đồng hóa dân tộc
ta về đủ mọi mặt từ chính trị đến văn hóa, từ xã hội đến ngay cả thực phẩm, phân bón,
thuốc trừ sâu.
Chưa bao giờ nước ta bị xâm lăng, đồng hóa toàn diện như hiện nay. Sơn hà đang nguy
biến, quốc gia đang thập tử nhất sinh, và phen này nếu không khéo lèo lái con thuyền
quốc gia ra khỏi nguy hiểm, chúng ta có thể bị xóa tên vĩnh viễn ra khỏi bản đồ thế giới.
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử 4888 năm kể từ khi Vua Hùng dựng nước, chúng
ta không hề được ngơi nghỉ một phút nào để suy nghĩ về đường lối phát triển quốc gia,
dân tộc, theo hướng riêng của chúng ta qua suy nghĩ và thảo luận hơn là các sự thúc ép,
mua chuộc, đe dọa từ ngoại bang.
Chúng ta cũng không thể như vùng Florence bên Ý, vì chúng ta không có được một quá
khứ quá oai hùng nào để hồi tưởng và tiếc nuối.
Lịch sử của chúng ta tràn đầy các cuộc chiến chống ngoại xâm. “Anh hùng” trong tâm
khảm dân tộc ta là các anh hùng chống ngoại xâm chứ chẳng phải các nhà hiền triết cao
minh, các nghệ thuật gia tài giỏi có các danh họa và tác phẩm để đời, các kiến trúc sư vẽ
XLIX
nên những công trình xuyên thế kỷ, hay thiên tài khoa học đạt trình độ đủ cao để cả thế
giới biết đến.
Như vậy, không lẽ chúng ta lại tạo ra thêm các anh hùng quân đội, tạo ra các cuộc chiến
để tìm lại vài kỷ niệm đáng ghi nhớ?
Như vậy, dường như chúng ta chỉ còn sự bi quan, ca thán lan rộng về tình trạng quốc gia
hiện tại và trong tương lai, và thứ yếu là một hoài niệm quá khứ nào đó, cho dù khá
gượng ép, để thử tạo thành một phong trào, một luồng cổ vũ, cho các cố gắng chúng ta sẽ
ráng thực hiện để thúc đẩy một Thời đại Phục Hưng (Phục lại và Hưng thịnh hóa) của
dân tộc ta xem sao.
Những điều chúng ta có thể làm
Đó là Phục hưng lại Quốc hồn Quốc túy Việt Nam. Đó là Cải cách toàn diện. Đó là
Khai sáng cho nhân dân ta về các tư tưởng lập quốc và phát triển xã hội, chính trị Âu
châu. Chúng ta không có 400 năm như Âu châu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 để mày mò
qua ba Thời đại để tìm ra phương hướng tốt nhất để thay đổi chính trị, xã hội theo cách
độc đáo riêng của Việt Nam.
Chúng ta cũng không có 200 năm như Âu châu trong thế kỷ 19, 20 để mày mò tìm đọc đủ
loại chủ nghĩa chính trị để áp dụng thử nghiệm vào Việt Nam.
Thư Quốc gia số 41 sẽ chứng minh triết học trị quốc Âu châu vượt trội hơn hẳn triết học
Đông phương do 7 đại triết gia Trung quốc tạo ra.
Như vậy, chúng ta còn chần chờ gì mà không học theo, ứng dụng, các kinh nghiệm lập
quốc, vệ quốc, và phát triển chính trị, xã hội theo Âu châu, để chúng ta đánh bại kẻ thù
L
xâm lăng đang ôm khư khư các chủ thuyết do các đại triết gia của họ viết ra từ 2500 năm
trước?
Trong thời điểm hiện tại, năm 2009, chính trị tại Việt Nam không cho phép bất cứ điều
cải cách, học hỏi nào như trên xảy ra. Vì vậy, tiếp tục nền chính trị tại Việt Nam hiện tại
sẽ đồng nghĩa với việc Việt Nam bị xâm lăng, đồng hoá, và bị xóa tên khỏi bản đồ thế
giới. Ngay vào lúc này, nhiều hòn đảo, quần đảo của Việt Nam tại biển Đông đã bị mất
tên, bị ghi vào sách địa lý của quốc gia xâm lăng rằng đó là của họ.
Như vậy, nói khác đi nhưng cùng một ý tưởng, muốn tránh khỏi việc bị xâm lăng và mất
tên trên bản đồ thế giới, người Việt Nam không còn cách nào khác ngoài việc phải thay
đổi chính trị Việt Nam một cách toàn diện, tận nền tảng lập quốc, và Hiến pháp 7 được
viết ra cũng vì lý do này.
Nếu Hiến pháp 7 được áp dụng, người dân Việt Nam có thể sử dụng một số điều khoản
trong đó để Thoát Á, thoát phụ thuộc văn hóa, văn minh Trung quốc, để rút ngắn thời
gian học tập Âu châu, rút ngắn sáu trăm năm kinh nghiệm lịch sử của họ từ thế kỷ 15 đến
thế kỷ 20 xuống còn vài mươi năm, để Việt Nam thoát ra khỏi thời Trung cổ, và bước
vào thời Phục hưng, Cải cách, Khai sáng, và sau đó là Cách mạng công nghệ, Hiện đại,
và thời Nano trong vòng khoảng nửa thế kỷ tới đây.
Sau đây là các đề nghị thực hiện tại Việt Nam Dân Quốc một khi Hiến pháp 7 được nhân
dân Việt Nam phê chuẩn. Không thể ghi ra tất cả, sau đây chỉ là tóm lược vài điều trong
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam, thuộc Chương I, và là chương quan trọng
nhất, của HP7.
Ích lợi của HP7 trong việc Tái lập và Phát triển Quốc hồn Quốc túy Việt Nam trong
Tân Thiên niên kỷ
LI
1. Chương 1, Điều 1, cho phép Tự do Ngôn luận trong kiểm soát tại Việt Nam. Không
hạn chế các tư tưởng chính trị, triết học chính thức. Người Âu châu mất ba trăm năm
trong thời Phục hưng do Leonardo da Vinci khởi đầu vào thế kỷ 15, sang qua Cải cách do
Martin Luther và John Calvin, cho đến thế kỷ 17 mới chỉ bắt đầu vào thời Khai sáng do
René Descartes chủ xướng, có được sự tự do ngôn luận về phương pháp quản trị quốc
gia, giành quyền hành ra khỏi tay các địa chủ, lãnh chúa, quân vương.
Sau đó người Âu châu lại mất thêm ba trăm năm mới đạt được tự do ngôn luận như ngày
nay. HP7 sẽ rút ngắn thời gian này xuống còn vài năm. Dự tính sẽ mất khoảng 5 năm để
soạn thảo các bộ luật về Tự do Ngôn luận trong kiểm soát và chừng mực sau khi HP7
được thực thi tại Việt Nam.
2. Chương 1, Điều 2, Phần 3, 4 bảo đảm 20% ngân sách quốc gia phải được chi dụng vào
an sinh xã hội và y tế. Dân tộc ta vốn có tính lương thiện, “tứ hải giai huynh đệ”, “một
con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, chúng ta thà bớt đi thức ăn trên bàn để chia sớt cho
người nghèo, già nua, bệnh tật. chứ không muốn ăn no trong khi đồng bào xung quanh
đang đói khát.
Hiến pháp 7 đặt nền tảng trên chữ NHÂN, và Việt Nam Dân Quốc cũng vậy.
Người Âu châu mất 600 năm sau Thời Trung cổ mới có được an sinh xã hội, người Việt
Nam ta chỉ vài năm sau khi phê duyệt HP7 sẽ có được việc này. Thư Quốc gia số 91 có
ghi, sẽ có Bộ An sinh Xã hội; và Thư Quốc gia số 93 có ghi, sẽ có Cơ quan Chuyên trách
về An sinh Xã hội trực thuộc Văn phòng Tổng thống. Nhiệm vụ chính của các nơi này là
làm sao sử dụng 20% ngân sách quốc gia, thành phố, một cách tối ưu nhất cho lợi ích dân
nghèo, người già, người bệnh.
LII
3. Chương 1, Điều 3, bảo đảm nhân dân được quyền tự do đi bầu, và Điều 4 cho phép
mọi người bình đẳng trước Pháp luật. Tổng thống Việt Nam Dân Quốc nếu phạm luật sẽ
bị đồng tội với bất cứ người dân nào, và quyền truy tố Tổng thống không nằm trong tay
Hành pháp quyết định, do đó cho dù muốn, Tổng thống không thể tự bao che cho chính
mình, thì làm sao có nạn một đảng phái nào đó một tay che mặt trời công lý như tại Việt
Nam hiện nay?
Chính trị Việt Nam hiện nay còn đang trong thời Trung cổ, quyền hành không vào tay số
người tài giỏi nhất như thời Khai sáng đề xướng cách đây 370 năm, lại càng không về tay
nhân dân như hiện nay tại Âu châu. Phải mất sáu trăm năm tranh đấu kịch liệt, nhiều trận
chiến cục bộ và thế giới kinh hồn, người Âu châu mới có được tự do bầu cử, mọi người
mới có được quyền bình đẳng trước pháp luật.
Nhân dân Việt Nam về nguyên tắc sẽ có ngay các quyền này một ngày sau khi HP7 được
ít nhất 2/3 nhân dân Việt Nam phê chuẩn, tuy về chi tiết sẽ mất vài năm soạn luật.
4. Chương 1, Điều 6, bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi đồng bào từ mẫu giáo đến hết
lớp 9. Điều này sẽ giúp một số đông, có thể lên đến vài mươi triệu đồng bào, có được
một sự hiểu biết cần thiết để họ có thể tìm việc làm và hoàn thành nhiệm vụ với xã hội,
quốc gia, gia đình một cách hoàn chỉnh hơn.
Phần 5 trong Điều 6, Chương 1 có ghi, ít nhất 20% ngân sách quốc gia và thành phố phải
được chi dụng vào giáo dục. Ngoài việc cung cấp cho các trường phổ thông và đại học,
có được thêm hổ trợ tài chánh từ chính quyền các cấp, nhiều phong trào học thuật sẽ được
tổ chức, ví dụ như phong trào viết văn bằng Việt, Anh, Pháp, Đức ngữ, viết lý luận triết
học, xã hội học, chính trị học.
Xã hội Việt Nam sẽ được đa dạng hóa mau chóng từ các phong trào, cuộc tranh luận, thi
tài, học thuật kể trên. Dễ dàng nhận thấy Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc chỉ trong một,
LIII
hai thế hệ, và nhất là sẽ rất đồng bộ vì tất cả nhân dân, chỉ trừ một số ít bị bệnh thiểu trí
năng, đều sẽ có dịp học hành với tất cả khả năng và không gì cản trở bất cứ người dân
nào học cho đến cấp cao nhất trừ chính khả năng của riêng họ mà thôi.
Dân tộc ta vốn tính chăm chỉ, hiếu học, nhưng nhiều thiên niên kỷ qua chúng ta đã học
sai và bị dạy sai. Chúng ta học triết từ các triết gia Trung quốc, nay càng ngày càng
nghiệm ra họ sai lầm rất nhiều. Như Thư Quốc gia 41 chứng minh, quốc gia nào lập
quốc trên nền tảng Khổng Mạnh thì chắc chắn đi vào ngõ cụt, nhân dân nghèo đói.
Nếu không nhờ văn minh Âu Mỹ, các triết gia, giáo dục gia Âu Mỹ, thì nay phần còn lại
của thế giới còn sống trong tăm tối theo cả nghĩa đen vì không có điện, tuổi thọ trung
bình không quá 40 vì không có vắc-xin, còn đi xe ngựa, uống nước giếng.
Nhân dân Việt Nam, qua việc chọn Hiến pháp 7, sẽ đồng lúc chọn Thoát Á, chọn Tây Du
Học, để phát triển quốc gia.
Thư Quốc gia số 4, 6, 8, 13 bàn về các lợi ích khác mà Hiến pháp 7 sẽ đem lại cho nhân
dân và quốc gia Việt Nam trong việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, quốc phòng,
và nhiều điều khác.
- Nhân dân Việt Nam -
LIV
Thư Quốc gia số 12
Xem xét và tranh luận về các vấn đề khác, chưa được bàn đến trên đây,
tại Việt Nam hiện nay
LV
Thư Quốc gia số 13
Ích lợi của HP7 trong việc giải quyết các vấn đề khác, chưa được bàn
đến trên đây, để kiến dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh trong tân
thiên niên kỷ
LVI
Thư Quốc gia số 14
Trả lời các lời phản đối HP7
LVII
Thư Quốc gia số 15
Dân chủ là Đạo đức; một Hiến pháp Dân chủ là một Hiến pháp Đạo
đức
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tổ quốc Việt Nam chúng ta phải tiến hóa lên một tầm cao mới, phải có Dân chủ, vì Dân
chủ LÀ Đạo đức, là hợp lòng người, là tiến hóa xã hội và phản ảnh văn minh nhân loại
hiện đại.
Việt Nam không thể mãi sống trong thời Phong kiến nơi võ lực quyết định quyền hành
chính trị, quản trị quốc gia. Phong kiến Đảng chủ hiện nay tại Việt Nam đi ngược lại lịch
sử, văn minh nhân loại, ngược lại Triết học (Philosophy), Luận lý (Logic), Đạo đức
(Ethics), và Nhận thức (Epistemology).
Đôi giòng lịch sử, nước Pháp cùng với Anh, Đức có ảnh hưởng lớn nhất trong việc thành
lập trật tự thế giới hiện nay, và Bộ Ba này có thể được gọi là Đệ Tam Đế Chế đã có ảnh
hưởng lớn trong việc thành lập Hoa kỳ, để cùng với Hoa kỳ lập thành khối Thế giới Tự
do ngày nay, và trong 20 năm qua đã có sự gia nhập của 15 quốc gia trước kia thuộc ý
thức hệ Cộng sản vào khối này.
Nói về thời kỳ tách rời khỏi Phong kiến, thì phải nhắc đến Thời đại Khai sáng (Age of
Enlightenment) với các bậc trí giả lập nên nền Dân Chủ Cộng Hòa toàn thế giới, tuy lúc
đầu họ không dự định như vậy, trong đó khởi đầu là do công lao của René Descartes khi
ông xuất bản quyển Discours de la Méthode năm 1637, và kết thúc bằng sự qua đời của
Voltaire năm 1778.
Lịch sử thế giới chẳng qua xoay quanh hai chữ “QUYỀN, LỰC”. Sau đây là vài phân
tích ngắn về Ba thời kỳ mà quyền lực được chia sẻ trong lịch sử nhân loại. Thư Quốc gia
LVIII
này sau đó sẽ nêu ra vì sao Dân chủ và Đạo đức luôn đi đôi với nhau, và vì sao Hiến pháp
7 được đặt trên cả hai nền tảng vững chắc này.-------------------
1. Thời Phong kiến, Quyền Lực nằm trong tay vua, lãnh địa, hoàng đế, sứ quân, v.v…
hoàn toàn chỉ do võ lực làm nên chứ không hề do Lý Lẽ, Lý Luận. Nhìn một cách trừu
tượng hơn thì bất cứ chế độ nào mà Quyền Lực chỉ do Võ Lực tạo nên đều phải gọi là
Chế độ Phong kiến.
Do đó, trên thế giới hiện nay còn vài Chế độ Phong kiến, trong đó có Trung quốc, Bắc
hàn, Việt Nam, Cuba.
2. Kế đến là Thời đại Khai sáng mà Triết gia Immanuel Kant gọi tắt chỉ trong một câu, đó
là thời người ta bắt đầu "được tự do sử dụng trí thông minh của riêng họ” (freedom to use
one’s own intelligence).
Thời kỳ này, Quyền Lực được chuyển sang các thành phần tư sản, quý tộc, nói chung là
các thành phần khoa bảng, có học thức, hoặc các vì vua có học dưới sự cố vấn và giám
sát của các nhà triết học như René Descartes.
Thời kỳ này kéo dài khoảng 150 năm tại châu Âu, bắt đầu khoảng năm 1637 và kết thúc
năm 1778. Khắp thế giới nổi lên phong trào chống chế độ Phong kiến. Tại Hoa kỳ có
cách mạng chống vua Anh quốc, bắt đầu từ Boston Tea Party và thành công với Bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776.
Khởi đầu, tại Hoa kỳ, quyền lực chuyển qua từ vua Anh quốc sang các nhà tư sản, quý
tộc Hoa kỳ, chứ chưa đến tay nhân dân, phụ nữ, người da màu. Mãi đến gần 200 sau, thời
Martin Luther King Jr., thì Hoa kỳ mới có Dân chủ hiện đại như ngày nay.
Tại Pháp cũng có cuộc Cách mạng thành lập Đệ Nhất Cộng hòa năm 1792, tuy nhiên Nền
LIX
Cộng hòa này sa vào nhiều vấn đề nghiêm trọng về triết học trị quốc, về chia sẻ quyền
hành giữa các phe nhóm tư sản, quý tộc nên thoái hóa mau chóng và tạo điều kiện cho
Napoléon lật đổ năm 1804, kết thúc 12 năm nền Đệ Nhất Cộng hòa.
Nhân dân Pháp khi đó đã chán ghét nền Cộng hòa nên ủng hộ Napoléon rất mạnh. Sau đó
còn giằng co qua thêm 150 năm tiền Dân chủ, mãi cho đến 1958, tức hơn 300 năm sau
Descartes, nước Pháp mới có nền Dân chủ thật sự:
Đệ Nhất Cộng Hòa: 1792-1804
Đệ Nhị Cộng Hòa: 1848-1852
Đệ Tam Cộng Hòa: 1870-1940
Đệ Tứ Cộng Hòa: 1946-1958
Đệ Ngũ Cộng Hòa: 1958- hiện nay
3. Hiện nay, khắp thế giới đa số các quốc gia đều có Dân chủ, nơi Lý Trí, Lý Lẽ, Lý
Luận, từ NHÂN DÂN mà ra làm nền tảng, nguồn gốc, và tính chính đáng của mọi Quyền
Lực kể cả quyền lãnh đạo quốc gia.
Điều này khác với Thời đại Khai sáng tuy cũng đề cao Lý Trí, Lý Lẽ, Lý Luận, nhưng chỉ
từ các bậc khoa bảng, giàu có, giai cấp tư sản, quý tộc mà ra, vì khi đó Nhân dân còn quá
thất học, đến mức chính Voltaire còn chống lại việc quyền lực vào tay Nhân dân vì theo
ông như vậy sẽ “spreading the idiocy of the masses” (trải rộng ra sự đần độn của dân
chúng).
Nói tóm, (a) thời Phong kiến, quyền lực trong tay ai có võ lực cao nhất, mạnh nắm đấm
nhất; (b) Thời đại Khai sáng, quyền lực trong tay ai có lý, có học nhất, có ngôn từ cao
siêu nhất; (c) thời Dân chủ, quyền lực nằm trong tay Nhân dân bất kể họ có học hay
không.
-------------------
LX
Các quốc gia Đông Nam Á tuy chậm trễ sau Anh, Pháp, Đức, Hoa kỳ vài mươi năm
nhưng cũng có được Dân chủ, tuy nhiều khi còn bị Phong kiến cản trở như tại Thái lan
nơi nhà Vua còn can dự rất sâu vào, và đôi khi quyết định, việc lật đổ các chế độ Dân chủ
cho dân bầu ra.
Tại Việt Nam thì còn dậm chân tại chỗ ở thời Phong kiến, do đó thua các quốc gia Dân
chủ khoảng 370 năm về phát triển tư duy lãnh đạo, các mối liên hệ chính quyền - nhân
dân.
Quyền Lực tại Việt Nam là do bạo lực, võ lực mà ra, chứ không do Lý Lẽ, Lý Luận như
Thời đại Khai sáng 1637-1778 tại Pháp, và lại càng không từ Nhân dân mà ra như hiện
nay tại đa số các quốc gia có Dân chủ.
Tại Việt Nam hiện nay, trong chính trị, người ta chưa được như Immanuel Kant miêu tả,
còn chưa "được tự do sử dụng trí thông minh của riêng họ”. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam
hiện nay ghi rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Trong khi đó, Chính quyền Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam
1992 tất cả đều chưa từng có được MỘT phiếu bầu tự do từ Nhân dân.
Thua xa nhân dân Anh, Đức, Pháp từ 372 năm trước, cho đến ngày nay mọi người Việt
Nam đều không được phép "sử dụng trí thông minh của riêng họ" để nói lên rằng "Đảng
Cộng sản Việt Nam KHÔNG thể là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam", vì
nếu làm như vậy họ chắc chắc bị ở tù, mọi thân nhân, người trong gia đình đều sẽ bị toàn
bộ hệ thống chính trị, truyền thông đại chúng triệt hại, chế giễu, cho đến chết mới thôi.
Chính quyền Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam 1992, do đó, là
LXI
các thực thể de facto, hiện thực, chứ không chính thực, không bona fide - nghĩa là Hiện
hữu chứ không Chính đáng.
"Luật pháp" không do Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra là "Luật pháp" vô giá trị,
hoặc chỉ có giá trị đối với người viết ra mà thôi.
Chính quyền Việt Nam hiện nay có mức độ Chính đáng cùng lắm chỉ như các chính
quyền thời Phong kiến tại Việt Nam trong 4500 năm trước và kết thúc thời vua Bảo đại,
nếu đem so sánh với Pháp thì chỉ như chính quyền Napoléon tuy có khác rất xa là cả ba
đời vua Napoléon Đệ Nhất, Nhị, Tam đều mở mang bờ cõi nước Pháp, trong khi chính
quyền Việt Nam thu nhỏ bờ cõi Việt Nam, nhượng vùng biển, tài nguyên đất đai, bầu
trời, lãnh thổ (SEAL, sea, earth, air, land) cho Trung quốc là một chính quyền Phong kiến
khác hiện bảo hộ cho Chính quyền Việt Nam.
-------------------
Tuy nhiên, cho dù Dân chủ là văn minh, là khuynh hướng phát triển tất yếu của mọi
chính phủ, quốc gia giàu mạnh khắp năm châu, nhưng Dân chủ có phải là một ước vọng
có tính Đạo đức xã hội hay không? Dưới đây, xin được chứng minh điều này.
Dân chủ tự bản thể bao gồm nhiều ngành học và cần đến kết quả từ chính trị học, xã hội
học, kinh tế học, để đưa ra được các sự chỉ dẫn thực thể này.
Dân chủ liên quan đại thể đến một phương pháp trong đó một nhóm người nào đó cùng
quyết định, với đặc điểm là có sự bình đẳng trong các người tham gia vào giai đoạn ban
đầu trong quyết định tập thể cuối cùng.
Phương pháp "Dân chủ Lập pháp" tốt hơn các phương pháp bất Dân chủ trong ba cách:
chiến lược, trí thức, và qua tăng tiến phẩm giá của các công dân Dân chủ.
LXII
Về CHIẾN LƯỢC, Dân chủ có lợi thế vì thúc đẩy các người lập quyết định phải tính đến
lợi ích, quyền lực, và ý kiến của đa số quần chúng trong xã hội. Vì Dân chủ cung cấp
quyền lực chính trị cho mọi người, nhiều người được kể đến và có ảnh hưởng hơn là dưới
các chế độ quý tộc, quân chủ, và Đảng chủ.
Về TRÍ TUỆ, Dân chủ là phương pháp lập quyết định tối ưu nhất, trên căn bản rằng đó là
một điều nói chung rất đáng tin cậy nếu các thành viên được giúp tận tình để họ khám
phá ra các quyết định đúng.
Bởi vì Dân chủ đem tuyệt đại đa số quần chúng vào tiến trình lập quyết định, Dân chủ có
thể sử dụng nhiều nguồn thông tin và thẩm định có tính chỉ trích về luật pháp và chính
sách.
Việc lập quyết định một cách Dân chủ thường được đặt trên nhiều tin tức có được về lợi
ích và sự thiệt hại cho quần chúng, do đó nhiều thể chế và cơ cấu chính trị, xã hội sẽ được
phát triển để tăng tiến các lợi ích đó và giảm thiểu thiệt hại, ví dụ như xây cất một nhà
máy phải đi cùng lúc với việc xây bãi chứa chất thải và lập quy trình phân hủy các chất
thải đó. Cùng lúc phải phát triển cơ quan quản lý chất thải, do nhân dân giám sát.
Hơn nữa, việc thảo luận rộng khắp, tiêu biểu cho Dân chủ, sẽ nâng cao các thẩm định có
tính chỉ trích có nguồn gốc từ nhiều tư tưởng Đạo đức khác nhau gộp lại để hướng dẫn
các người lập quyết định phải dung hòa và quan tâm đến các ý kiến khác biệt.
Về NHÂN CÁCH, Dân chủ có khuynh hướng làm quần chúng đứng lên đấu tranh cho
chính họ hơn là các phương cách quản trị khác bởi vì Dân chủ làm cho các quyết định tập
thể tùy thuộc vào quần chúng hơn là các chính phủ thuộc giới quý tộc, quân sự, hay Đảng
chủ.
Vì vậy, trong các xã hội Dân chủ, các cá nhân được khuyến khích nên tự chủ nhiều hơn.
LXIII
Thêm vào đó, Dân chủ có khuynh hướng làm quần chúng suy nghĩ cẩn thận và có lý trí
hơn vì nếu họ làm như vậy thì có thể đem lại các sự thay đổi trong các sự việc họ quan
tâm đến.
-------------------
Do đó, Dân chủ có khuynh hướng tăng trưởng phẩm giá Đạo đức của công dân. Khi các
công dân tham gia vào tiến trình lập quyết định, họ phải lắng nghe người khác, họ phải
giải thích các ý tưởng của họ cho người khác và họ bị buộc phải suy nghĩ phần nào trong
địa vị và với quyền lợi của người khác.
Khi các công dân ở vào hoàn cảnh đó, họ thật tình suy nghĩ cho lợi ích và công lý cho
mọi người. Từ đó, các tiến trình Dân chủ có khuynh hướng tăng cường tự chủ, lý trí, và
Đạo đức của các tham dự viên.
Bởi vì các hiệu quả tốt đẹp này được cho là đáng tôn trọng và ao ước, Dân chủ cũng được
cho là đáng tôn trọng và ao ước hơn là các phương cách quản trị khác.
Từ các điều trên, rõ ràng là Dân chủ đem lại Đạo đức cho nhân dân, và cùng lúc nhân dân
nào có Đạo đức mới có thể tham gia vào tiến trình Dân chủ một cách tốt đẹp, dứt khoát.
Một chế độ chính trị vô Dân chủ là một chế độ vô Đạo đức. Cùng lý luận này, một chế độ
chính trị vô Đạo đức chỉ có thể tạo nên một chế độ vô Dân chủ.
Dân chủ và Đạo đức luôn đi cùng lúc, luôn tăng tiến cho nhau, tạo ra một vòng xoáy cộng
hưởng để cả hai cùng phát triển vô cùng tận.
-------------------
LXIV
Hiến pháp 7 được đặt trên nền tảng cộng hưởng của cả Dân chủ lẫn Đạo đức, với 12 Điều
trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt nam. Đa số các quyền này hiện nay người
dân Việt Nam không hề được hưởng, hoặc thậm chí nghe thấy.
Hiến pháp 7 không thể bảo đảm mọi điều Đạo đức, Dân chủ đều sẽ được phát triển theo
sự mong đợi của mọi người. Sẽ có người thất vọng vì Đạo đức và Dân chủ không đủ cao,
cũng sẽ có người thất vọng vì quyền lợi vô Đạo đức, vô Dân chủ của họ bị hạn chế hoặc
tiêu trừ bởi Hiến pháp 7.
Điều Hiến pháp 7 có thể bảo đảm là, người dân Việt Nam sẽ có cơ hội tăng tiến nhân
phẩm của họ, có thêm nhân quyền, Dân chủ, và Đạo đức theo cách, mức độ mà đại đa số
nhân dân Việt Nam sẽ bầu chọn.
Vì lẽ, Hiến pháp 7 là một Hiến pháp có, được đặt nền tảng trên, và bao gồm, Đạo đức và
Dân chủ.
Quá trình xây dựng, quảng bá, gìn giữ Hiến pháp 7 là quá trình Đạo đức Lập Hiến, Dân
chủ Lập Hiến. Hy vọng toàn thể quốc dân, đồng bào sẽ tham gia vào tiến trình này.
- Nhân dân Việt Nam -
LXV
Thư Quốc gia số 16
Ý muốn của nhân dân là điều luật Tối thượng của quốc gia, đại diện bởi
HP7
LXVI
Thư Quốc gia số 17
Không hình sự hóa mọi khác biệt quan điểm chính trị, đảng cầm quyền
không được sử dụng quyền lực trấn áp các tư tưởng khác biệt
LXVII
Thư Quốc gia số 18
Bất bạo động và bất sử dụng bạo lực thể xác hoặc đe dọa tinh thần
trong mọi sinh hoạt bao gồm chính trị, tôn giáo, giáo dục, ngay cả đối
với tù nhân
LXVIII
Thư Quốc gia số 19
Về Quốc ca và Quốc kỳ
LXIX
Thư Quốc gia số 20
Ba tôn chỉ của Việt Nam Dân Quốc: Tự do, Bình đẳng, Sự thật
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Mỗi quốc gia, thể chế, định chế đều bao gồm một số giá trị căn bản nào đó tượng trưng
cho thực thế đó. Ba Tôn chỉ đại diện cho các giá trị căn bản của Việt Nam Dân Quốc sẽ
là Tự do, Bình đẳng, và Sự thật. Thư Quốc gia số 20 sẽ bàn về mỗi sự lựa chọn này,
cùng các điều lợi ích, thiệt hại, các sự lựa chọn này sẽ đem lại cho Quốc dân, Đồng bào
trong tân thiên niên kỷ.
VỀ TỰ DO
Có nhiều cách định nghĩa Tự do, trong khuôn khổ bài viết này, Tự do xác định một tình
trạng trong đó một cá nhân có quyền hành động theo ý muốn riêng của người đó, đồng
nghĩa với quyền không hành động theo ý muốn người khác khi người đó không cùng chia
sẻ ý tưởng. Tự do cũng liên quan đến một tình trạng được cung cấp cho tất cả các sự
chọn lựa có thể có, về mặt tinh thần và vật chất, và không bị cung cấp các điều về tinh
thần và vật chất có thể có hại.
Do đó, Tự do có nhiều cấp bậc khác nhau, người hiểu biết cao, người có tài sản lớn, sẽ có
Tự do cao hơn người có tầm hiểu biết thấp và người có tài sản hạn chế. Ví dụ, người đọc
được nhiều ngoại ngữ sẽ có sự Tự do chọn lựa đọc sách bằng nhiều ngoại ngữ, trong khi
người chỉ biết Việt ngữ chỉ có thể có Tự do chọn lựa các sách vở, tài liệu bằng Việt ngữ.
Tương tự như vậy về tài sản trong việc chọn lựa các phương tiện vật chất và tinh thần.
Đó là các mặt Tự do Thực định (positive liberty), có nghĩa người thụ hưởng được quyền
chọn lựa theo ý riêng mình.
LXX
Theo định nghĩa này, tất cả chúng ta đều có nhiều việc Tự do Thực định đang bị hạn chế,
hạn hẹp, nhưng không nhận thức ra được vì chúng ta đã quen nhận định rằng các việc
"ngoài tầm tay với" không thuộc quyền Tự do lựa chọn của chúng ta. Hiến pháp 7 sẽ cố
gắng cung cấp một số điều Tự do Thực định cho mọi người dân Việt Nam mà chính
nhiều người dân Việt Nam hiện nay không biết đến để đòi hỏi quyền lợi công dân chính
đáng của họ, như sẽ bàn tiếp trong phần sau đây.
Về mặt Tự do Phản định (negative liberty), có nghĩa người thụ hưởng không bị cung cấp
cho các điều xấu xa và do đó khỏi cần phải quan tâm và bị ảnh hướng xấu vì các việc
này, Hiến pháp 7 bảo đảm rằng nhân dân Việt Nam sẽ không bị cung cấp các điều về tinh
thần và vật chất có hại, ví dụ như những tà giáo gây nguy hại, những loại thuốc độc hại,
những điều trái thuần phong mỹ tục, những điều sai lịch sử hiện đang lưu hành trong sách
giáo khoa, nạn ép buộc phải hối lộ cho quan chức, các tư tưởng chính trị và kinh tế sai
lầm hiện đang bị lên án khắp nơi trên thế giới, nạn ô nhiễm môi trường quá đáng, cùng
nhiều điều khác không thể kể ra hết nơi đây.
Hiến pháp 7 sẽ cung cấp cho Quốc dân Đồng bào rất nhiều điều thuộc Tự do Thực định
và Tự do Phản định.
Về Tự do Thực định, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam thuộc Chương I trong
Hiến pháp 7 có ghi ra 11 điều Tự do mà Quốc dân, Đồng bào sẽ được hưởng, cùng một
điều mô tả một số hạn định của các Nhân quyền này. Các điều Tự do Thực định được mô
tả trong Bản Tuyên ngôn này bao gồm Tự do ngôn luận, Tự do bầu cử và ứng cử, Tự do
tin ngưỡng, lương tâm, và tôn giáo, Tự do học hỏi, Tự do hội họp, Tự do di chuyển và
chọn nơi cư trú, Tự do thành lập hội đoàn, Tự do kháng nghị các điều luật và viên chức
chính phủ.
Trong học đường, học sinh sinh viên sẽ được cung cấp nhiều Tự do Phản định, họ sẽ Tự
do khỏi sự sợ hãi thầy cô, khỏi các bài học triết ngoại lai có tính chất ép buộc tư tưởng,
LXXI
khỏi việc sợ không có tiền đóng học phí, khỏi việc sợ bị nhồi nhét quá nhiều bài học lỗi
thời, vô ích, không thực tế.
Trong xã hội, nhân dân Việt Nam sẽ được cung cấp nhiều điều luật nhằm nâng cao mức
độ Tự do Phản định, đó là Tự do khỏi bị quan chức nhũng nhiễu, áp bức, khỏi bị môi
trường gây hại, khỏi bị ép buộc phải theo một tư tưởng chính trị nào đó, khỏi bị các tà
giáo, các điều trái thuần phong mỹ tục làm bại hoại xã hội. Các chi tiết còn rất nhiều,
khó thể kể ra hết tại đây.
VỀ BÌNH ĐẲNG
Bình đẳng trong phạm trù xã hội, chính trị bao gồm - nhưng không chỉ hạn hẹp trong
khuôn khổ - bình đẳng trước pháp luật; bình đẳng về cơ hội trong giáo dục, việc làm, y tế;
bình đẳng về giới tính, bình đẳng về sắc tộc, bình đẳng về tôn giáo.
Bình đẳng trước luật pháp là một nguyên tắc trong đó mọi cá nhân đều được hưởng mọi
điều luật như nhau, và không cá nhân hoặc phe nhóm nào có quyền lợi luật pháp đặc biệt.
Hiện nay, tại Việt Nam vẫn còn một điều luật tuy luôn luôn áp dụng nhưng không ghi ra
rõ ràng - cũng như tất cả mọi điều luật thành văn hoặc bất thành văn khác đều không do
nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu chọn - ghi rằng các Đảng viên Đảng Cộng sản đều
không thể bị Công an điều tra các hành vi tội phạm trừ khi được Đảng Ủy cho phép.
Quyền bình đẳng trước pháp luật mà Hiến pháp 7 đề nghị sẽ không cho phép bất cứ một
đoàn thể, đảng phái, phe nhóm, nào có quyền đặc miễn như vậy kể cả các nhân vật cao
cấp nhất thuộc chính phủ quốc gia, và nói chung không cho phép bất cứ quyền đặc miễn
nào khác, trừ các quyền được ghi trong Hiến pháp trong đó các truy tố Dân sự (civil
proceedings) sẽ được dời lại - chứ không bãi bỏ - cho đến khi một vị dân cử không còn
giữ nhiệm vụ. Lý do chỉ là để tránh các đối thủ chính trị gây rối bằng các vụ kiện tụng
Dân sự nhỏ nhặt, làm ảnh hưởng đến các việc công phục vụ cho số đông nhân dân.
LXXII
Như vậy, các Thượng Thẩm phán sẽ được hoãn các truy tố Dân sự tối đa 12 năm, còn
Tổng thống và các nhân vật trong Quốc hội sẽ được hoãn truy tố Dân sự tối đa 8 năm.
Các truy tố Hình sự như tham nhũng, phản quốc, v.v... vẫn được tiến hành bởi Tư pháp
mà không có sự can thiệp của Hành pháp, Lập pháp.
Các vị dân cử ngoài ra còn có thể bị điều tra khắc khe hơn dân thường do nhiều ủy ban,
phân ban, trong Quốc hội hoặc Tình báo Quân đội, Cảnh sát Đặc nhiệm chuyên việc điều
tra, theo dõi các vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia. Trong mọi trường hợp, sẽ
không có án tử hình, không có tra tấn, và bị can có toàn quyền tự bào chữa hoặc mời luật
sư bào chữa. Ngoại trừ trường hợp có liên quan đến bí mật an ninh quốc phòng, các
phiên tòa này sẽ được xử công khai và trình chiếu trên các hệ thống truyền thông đại
chúng.
Bình đẳng trước pháp luật không có nghĩa rằng sẽ có bình đẳng tài sản, mà thật ra phải là
điều ngược lại, bình đẳng trước pháp luật chắc chắn sẽ gây ra bất bình đẳng về tài sản của
mọi công dân.
Lý do là vì trí thông minh, tính chăm chỉ, tài sản thừa kế, sự may mắn, và nói chung
nhiều điều kiện để thành công trong xã hội tự bản chất sẽ không được phân bố đồng đều
cho tất cả mọi công dân, do đó nếu muốn mọi công dân cùng hưởng một thành quả đồng
đều thì chỉ có cách chia sẻ không công bằng các thành quả do các cá nhân đem lại, sẽ có
tình trạng người làm việc nhiều, thông minh, đóng góp cao, lại hưởng bằng các người
biếng nhác, kém thông minh.
Một xã hội không có người giàu, người nghèo, như Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Cộng
sản cổ xúy do đó là các xã hội tự bản chất không công bằng, không khuyến khích người
dân đóng góp cho xã hội và cho riêng họ, do đó các chủ nghĩa này đã bị diệt vong tại hầu
hết mọi quốc gia trên địa cầu, nay chỉ còn tồn tại ở vài quốc gia nhưng đang trên đà diệt
vong và tuyệt chủng mau chóng.
LXXIII
BÌnh đẳng trong cơ hội có nghĩa mọi người đều có cơ hội đồng đều trong mọi hoạt động
của xã hội, như trong giáo dục, việc làm, y tế công cộng ngoại trừ một số trường hợp rất
đặc biệt như một số việc làm cần người phải có sức khỏe đặc biệt, ví dụ như phi công
phải có nhãn quan tốt, cảnh sát phải có sức khoẻ trên trung bình, v.v... Trong các trường
hợp này, các tiêu chuẩn loại bỏ các ứng viên phải đồng đều cho mọi người, chứ không chỉ
riêng một nhóm người nào thuộc sắc tộc, tôn giáo, hoặc các điều có tính cá nhân nào.
Ngoài ra, mọi công dân Việt Nam Dân Quốc còn được bảo đảm quyền bình đẳng sắc tộc,
giới tính, và tôn giáo. Các cơ quan công quyền và tư nhân sẽ bị tuyệt đối nghiêm cấm
việc tra hỏi và nhất là kỳ thị nhân viên vì lý do sắc tộc, giới tính, và tôn giáo; chỉ trong
một vài trường hợp rất đặc biệt, ví dụ như trong các trại hè dành cho trẻ vị thành niên, có
thể cần một số nhân viên đồng giới tính với trẻ em tham dự trại hè.
Quốc hội sẽ bàn thảo và thông qua các điều luật cho phép một số điều đặc miễn về các
quyền bình đẳng trên đây.
VỀ SỰ THẬT
Từ "Sự thật" có nhiều nghĩa, bao gồm thành thật, lòng tin tưởng, chân thật, tính minh
bạch, ghi chú các việc đã xảy ra theo đúng như vậy, và thực tế hiện tại. Trong thực tế,
nhiều khi không có một Sự thật tuyệt đối, nhưng trong công quyền mọi Sự thật càng gần
tuyệt đối càng tốt sẽ phải được công bố cho nhân dân biết. Các sai lầm không cố ý, ví dụ
như tính sai hiệu quả một chính sách kinh tế, là hoàn toàn có thể tha thứ nếu việc sai lầm
là do các yếu tố không thể đoán trước, chứ không phải do kết quả của một âm mưu nhằm
lừa gạt nhân dân.
Theo định nghĩa và tiêu chuẩn trên đây, ít có nơi nào trên thế giới lại có ít Sự thật như tại
Việt Nam hiện nay. Trong chính trị, chính phủ Việt Nam hiện tại luôn công bố con số
gần 100% nhân dân ủng hộ chính phủ, nhưng lại không bao giờ có bất cứ cuộc bỏ phiếu
LXXIV
tự do nào, cũng không có cuộc thống kê có tính khoa học nào về việc này, như vậy con số
trên từ đâu ra, nếu không là một âm mưu cố tình lừa gạt nhân dân? Các thống kê kinh tế
lại luôn luôn mâu thuẫn với rất nhiều điều quan sát được, và do không có các tổ chức độc
lập tái kiểm kê, có nhiều bằng chứng riêng lẻ cho thấy các Sự thật kinh tế, thống kê,
chính trị tại Việt Nam là điều rất hiếm.
Tại Việt Nam hiện nay, chính phủ muốn cho nhân dân biết hết sức tối thiểu các điều
chính phủ làm, và quá trình đạt đến các quyết định, ban bố các bộ luật, ký hiệp định biên
giới với ngoại bang cùng chi tiết các bản hiệp định này, v.v... Nhiều điều nhân dân thắc
mắc mà nếu tại một quốc gia nào khác đều là tin tức công cộng, nhưng tại Việt Nam đó
lại là các tin tức bí mật một cách không chính đáng, ví dụ như lý lịch lãnh tụ, số tiền chi
phí cho quân sự, công an, số quân lính và công an, số thâm hụt ngân sách, số nợ quốc gia,
cùng rất nhiều việc khác.
Tại Việt Nam Dân Quốc, các vấn đề có liên quan đến Sự thật sẽ được bày tỏ công khai,
và mọi công dân được khuyến khích tìm hiểu, kiểm tra, bất đồng ý với bất cứ sự việc, Sự
thật nào đó được chính phủ công bố. Các vấn đề nay bị cho là bí mật như nêu trên sẽ
được công bố, và nhân dân tự do tìm hiểu, chất vấn chính phủ nếu có điều gì thắc mắc
hoặc muốn được giải thích rõ ràng.
“Sự thật” tại Việt Nam Dân Quốc không chỉ bao gồm các điều được công bố, mà còn bao
gồm việc đào sâu tìm kiếm các Sự thật tiềm ẩn để công bố ra cho nhân dân toàn quốc. Sẽ
không có điều gì quá lớn hoặc quá nhỏ để Sự thật của điều đó không nên, không được
công bố, ngoài các việc có liên quan đến an ninh quốc phòng. Cho dù như vậy, mọi Sự
thật về an ninh quốc phòng vẫn phải được thông báo cho Tổng thống, Tối thượng Thẩm
phán, Chủ tịch các Ủy ban tại Thượng viện và Hội đồng Quốc gia nếu được yêu cầu.
Tất cả quá trình mọi dự luật từ khi được đề nghị cho đến khi Quốc hội bỏ phiếu đều sẽ
được công bố công khai, và nhân dân được quyền tham gia tích cực vào quá trình này qua
LXXV
việc vận động các đại diện của họ tại Quốc hội, tranh luận trên các hệ thống truyền thông
đại chúng, viết báo ủng hộ hoặc không ủng hộ một dự luật nào đó.
Nếu cần, nhân dân có thể vận động Trưng cầu Dân ý bất thường kỳ, hoặc thường kỳ, để
bác bỏ một dự luật nào đó đã được Quốc hội thông qua, hoặc ủng hộ một dự luật nào đó
đã bị Quốc hội bãi bỏ. Cho dù Tổng thống đã ký thành luật, hoặc không ký một dự luật
nào đó thì nhân dân vẫn có quyền quyết định sau cùng nếu có được trên 2/3 số phiếu bầu
ủng hộ hoặc không ủng hộ. Chi tiết về việc tổ chức các cuộc Trưng cầu Dân ý sẽ do
Quốc hội thông qua, sau khi Hiến pháp 7 trở thành bộ Luật tối thượng của Quốc gia.
Tại Việt Nam Dân Quốc, các vị dân cử phải tuyệt đối tôn trọng Sự thật trong mọi vấn đề
cá nhân và công quyền. Nếu một vị nào bị phát hiện cố tình gian dối để đạt mục đích
riêng, đó sẽ là nguyên cớ quan trọng để nhân dân Thành phố bầu họ lên, hoặc Viện họ
đang phục vụ, bầu quyết định việc sa thải họ ra khỏi chức vụ. Trong trường hợp nặng,
Tư pháp có thể truy tố tội hình sự bất cứ nhân vật dân cử nào bị phát hiện cố tình gian dối
trong công vụ, cho dù việc này chưa gây hậu quả xấu cho quốc gia.
- Nhân dân Việt Nam -
LXXVI
Thư Quốc gia số 21
Tất cả Tam quyền trong chính phủ đều phải tuân thủ HP7
LXXVII
Thư Quốc gia số 22
Chỉ một đa số trong các vị Thượng Thẩm phán tại Tối cao Pháp viện
mới có thể phán định rằng một điều luật nào đó là không hợp hiến
LXXVIII
Thư Quốc gia số 23
Các đảng chính trị được tự do thành lập miễn được tổ chức theo các
quy định của HP7
LXXIX
Thư Quốc gia số 24
Quyền lực chính trị phải do đa số nhân dân nắm giữ
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Do hoàn cảnh lịch sử, từ khoảng 100 năm nay tại Việt Nam, chúng ta thường nghe cụm
từ "quyền lực chính trị", "độc quyền chính trị", nhưng ít khi nghe "trách nhiệm chính trị".
Hàng chục đảng chính trị đã ra đời tại Việt Nam trong một thế kỷ qua, nhưng có đảng nào
là do dân bầu chọn, đảng nào dám cho nhân dân tự do chỉ trích các chính sách do đảng đó
ép buộc nhân dân phải tuân theo, bằng không phải chịu tù đày, trừng phạt cả gia đình,
giòng tộc?
Có đảng tự cho họ quyền cai trị Việt Nam vĩnh viễn, do đó họ đặt ra các điều luật, ghi cả
trong Hiến pháp họ tự ban hành và không có đến MỘT phiếu bầu, rằng họ sẽ vĩnh viễn
cai trị Việt Nam, bất cứ ai chống lại điều này là "vi phạm luật pháp Việt Nam" do đó phảI
bị trừng phạt nặng nếu "được xử công bằng", hơn nữa bất cứ ai cho dù phân tích các sai
lầm của đảng này cũng đều bị hại như vậy.
Không nói đến vô số các sai trái về việc họ dùng vũ khí giành "quyền lực chính trị", "độc
quyền chính trị", tại đây chúng tôi chỉ đặt câu hỏi, "Đảng này có dám nhận TRÁCH
NHIỆM chính trị cho các việc làm của họ hay không?"
Vì lẽ, độc quyền chính trị không hẳn là điều tự bản chất là xấu, nếu người hoặc đảng độc
quyền đó sáng suốt vạch ra các chính sách tốt đẹp, biết hy sinh quyền lợi cá nhân, cục bộ,
vì lợi ích cho đại đa số quần chúng.
LXXX
Một số vua nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn từng độc quyền cai trị chống quân Mông, quân
Minh, mở rộng bờ cõi, do đó không ai chê trách họ từng độc quyền cai trị, giành hết
quyền, lực, để hoàn thành các sự mệnh, TRÁCH NHIỆM lịch sử cao cả như vậy một
cách xuất sắc.
-------------------
HIện nay, nếu đảng cầm quyền Việt Nam dám chịu TRÁCH NHIỆM chính trị trước nhân
dân, chịu mọi sự đả phá và mất quyền cai trị khi sai lầm, khen tặng và được tiếp tục cai
trị khi thành công, thì chúng tôi thiết nghĩ cho dù họ có độc quyền chính trị, giành hết các
quyền lực chính trị trong một khoảng thời gian nào đó, cũng không hề gì.
Chỉ là, họ đã, đang, và theo chiều hướng hiện nay có lẽ sẽ trốn tránh TRÁCH NHIỆM,
tiếp tục che giấu các điều sai trái, thất bại, quan chức tham nhũng, vơ vét của công, cuộc
sống nhân dân ngày càng khổ sở, nợ quốc gia ngày càng cao, hạ tầng cơ sở ngày càng suy
đồi, tài nguyên quốc gia ngày càng cạn kiệt.
Việc chính phủ hiện nay đang trốn tránh TRÁCH NHỆM mới là vấn đề nghiêm trọng
nhất, do đó chúng tôi kêu gọi quốc dân đồng bào suy nghĩ về việc ai, đảng nào, hoặc chỉ
có nhân dân, mới có đủ điều kiện để nắm giữ quyền lực và chịu mọi TRÁCH NHIỆM
chính trị tại Việt Nam trong tân thiên niên kỷ.
Chúng tôi thiết nghĩ, trong thế giới phức tạp ngày nay, chỉ có nhân dân mới đủ điều kiện
nắm giữ QUYỀN LỰC và TRÁCH NHIỆM chính trị. "Quyền lực" thì ai có súng đạn
mạnh nhất đều có thể nắm giữ, nhưng "Trách nhiệm" đòi hỏi một sự cộng tác tích cực
trong toàn thể nhân dân để các chỉ tiêu, các chính sách, có thể được hoạch định và theo
đuổi theo chiều hướng tốt đẹp, thuận lợi nhất cho số đông nhân dân nhất.
LXXXI
Các chính sách như vậy chỉ có thể có được trong một xã hội Dân chủ, nhân dân tự do
chọn lãnh đạo nói lên nguyện vọng của đa số người dân, từ đó đa số này mới nhiệt tình
ủng hộ, chính sách mới thành công, và TRÁCH NHIỆM chính trị mới được hoàn thành.
Trong một xã hội có ĐỘC QUYỀN chính trị như tại Việt Nam hiện nay, chính phủ có thể
có "Quyền lực" do dùng vũ lực đoạt về và giữ chặt, nhưng không thể và không dám chịu
TRÁCH NHIỆM cho các hành động của họ.
Lý do là vì các chinh sách do đảng, chính phủ này đưa ra không thể đại diện cho ước
vọng của đa số nhân dân, mà chỉ theo ước vọng của đa số giới cầm quyền. Do hai nguồn
ước vọng này khác nhau, hầu như luôn luôn các chính sách đưa ra không được đa số nhân
dân ủng hộ, thậm chí luôn bị chê bai dè bỉu, do đó thường bị thất bại.
Do trốn tránh TRÁCH NHIỆM chính trị, đảng cầm quyền hiện nay luôn luôn phải dùng
nhiều lời tuyên bố dối trá che đậy các thất bại, dùng truyền thông đại chúng trải rộng các
lời tuyên bố này, và hơn hết dùng hệ thống an ninh, truyền thông, luật pháp, đè bẹp các
người chẳng qua chỉ muốn đảng cầm quyền chịu TRÁCH NHIỆM cho quyền lực và độc
quyền cai trị của đảng này mà thôi.
-------------------
Chỉ khi nào một hình thức Dân chủ nào đó được triển khai tại Việt Nam thì nhân dân Việt
Nam mới có cơ hội làm chủ lấy mình, từ đó mới hăng say hoạt động phục vụ và phát
triển hình thức Dân chủ đó, hình thái chính trị đó, và cùng chịu TRÁCH NHIỆM cho kết
quả do nền Dân chủ đó đem lại.
Muốn nâng cao TRÁCH NHIỆM chính trị, các kết quả do nền chính trị đó đem lại, thì
không còn cách nào khác ngoài việc tổ chức một hình thức Dân chủ phù hợp cho hoàn
cảnh quốc gia, dân tộc Việt Nam.
LXXXII
Trong 100 lá Thư Quốc gia này, chúng tôi đề ra cách thức tổ chức một hình thức Dân chủ
qua việc lập một Nền Dân chủ Cộng hòa trong đó các chính phủ được nhân dân tự do bầu
chọn qua Phổ thông Đầu phiếu, tóm tắt mọi việc bằng Bản Hiến Pháp thứ 7 cho Việt
Nam.
Tất cả các cá nhân, chính phủ được bầu lên dưới Hiến pháp 7 đều phải chịu TRÁCH
NHIỆM cho việc làm của họ. Do có tự do ngôn luận, nhân dân tự do suy xét, cố vấn,
phân tích, hoặc bài bác tất cả các chính sách quốc gia và địa phương.
Chính trị gia, đảng phái nào đem lại kết quả tốt sẽ được nhân dân khen thưởng, ai hoặc
đảng nào làm sai sẽ bị chê bai, trong trường hợp tham nhũng sẽ bị trừng phạt nặng, không
thể tránh khỏi do hệ thống Tư pháp hoạt động mạnh mẽ, không thuộc sự kiểm soát của
các chính trị gia.
-------------------
"Phổ thông Đầu phiếu", ngay qua rất hay, nhưng điều này cũng hàm nghĩa các cá nhân cử
tri, do có quyền tự quyết định chính trị cho toàn quốc và địa phương nơi họ sinh sống,
cũng có quyền tham gia vào tiến trình Dân chủ một cách sai lầm.
Sai lầm tại đây có thể chỉ do vô tình, do thiếu học thức, do tin lời chính trị gia bất chính,
hoặc do chính các cá nhân đó cố tình làm sai để đạt mục đích cá nhân, bỏ mặc lợi ích tốt
nhất cho tổng thể.
Dân chủ, do đó, tại mọi nơi đều bao gồm vô số các sai lầm cá nhân cộng lại, vấn đề là,
làm thế nào để lập quyết định tốt nhất cho tổng thể, mặc cho vô số các sai lầm cá nhân
trong tổng thể đó?
LXXXIII
Đại đa số các chính phủ Dân chủ trên thế giới không thể giải quyết bài toán kể trên. Làm
sao cho đáp số đúng trong khi hầu như mọi ẩn số đều sai (mỗi cá nhân có thể hiểu trừu
tượng như là một ẩn số cho toàn bài toán xã hội), do tự bản thể mọi cá nhân đều sai hoặc
có thể sai?
Chúng tôi xin trả lời: không bao giờ có đáp số đúng, mà chỉ có đáp số gần đúng, càng gần
đúng càng tốt. Không nơi nào mà chủ nghĩa tối hảo (perfectionism) không nên được
trông đợi như trong các chinh phủ Dân chủ, tại các quyết định họ đưa ra.
Mọi người trong các thể chế Dân chủ phải chấp nhận điều này, đó là các quyết định chính
trị SẼ có thể sai lầm, vì quyết định đó do nhiều cá nhân sai lầm trong nền Dân chủ đó bầu
chọn ra. Nhưng các sai lầm này có thể được sửa chữa mau chóng trong các quyết định
sau đó, nếu các cá nhân sai lầm trong nền Dân chủ nhận ra cái sai và sửa đổi.
Hiến pháp 7 đã suy nghĩ đến điều này, sẽ hạn chế tối đa các "yếu huyệt" của một nền Dân
chủ non trẻ qua các phương cách (1) tự do ngôn luận, (2) chính phủ không được thiên vị
hoặc làm chủ bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào, (3) các cuộc bầu cử xảy ra
thường xuyên và thường kỳ.
Do đó, Hiến pháp 7 sẵn sàng chịu TRÁCH NHIỆM trước quốc dân, đồng bào nếu trong
một khoảng thời gian ngắn nào đó các chính sách được đề ra và / hoặc thực thi không
được tối ưu, không phục vụ cho ước vọng của đa số nhân dân. Hiến pháp 7 có cơ chế tự
sửa đổi, qua việc cho quyền nhân dân sửa đổi bằng Trưng cầu Dân ý để Tu chính Hiến
pháp.
Tất cả các chính trị gia, chính phủ, được bầu chọn dưới Hiến pháp 7 đều có và phải chịu
TRÁCH NHIỆM trước quốc dân, đồng bào theo cùng các phương cách như vậy. Nhân
dân Việt Nam có toàn quyền bầu chọn hoặc bác bỏ Hiến pháp 7 cùng tất cả các chính trị
LXXXIV
gia, các chính phủ về sau, do đó nhân dân Việt Nam nắm toàn quyền quyết định QUYỀN,
LỰC, TRÁCH NHIỆM chính trị một khi nhân dân Việt Nam bầu chọn Hiến pháp 7.
-------------------
Tóm lại, Hiến pháp 7 tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân đóng góp một cách tích
cực và trực tiếp vào quá trình suy nghĩ và chọn lựa các chính sách tối ưu nhất cho quốc
gia và nhân dân, nếu sai có thể sửa lại trong thời gian ngắn nhất.
Chỉ khi nào nhân dân có QUYỀN, LỰC, chính trị và nhân dân chịu TRÁCH NHIỆM cho
sự chọn lựa của mình - chứ không phải một đảng nào dùng vũ khí giành quyền lực nhưng
trốn tránh trách nhiệm - thì khi đó nhân dân mới nhiệt tình đóng góp vào việc xây dựng
một quốc gia Việt Nam trở thành một cường quốc, ngõ hầu đóng góp vào văn hóa, khoa
học kỹ thuật trong vùng và trên thế giới trong vài mươi năm sau.
- Nhân dân Việt Nam -
LXXXV
Thư Quốc gia số 25
Về việc tổ chức các cuộc bầu cử địa phương, Tuyển cử và Tổng Tuyển
cử toàn quốc
LXXXVI
Thư Quốc gia số 26
Về việc nhân dân tự do bầu cử, ứng cử
LXXXVII
Thư Quốc gia số 27
Về việc chia sẻ quyền lực chính trị và thành lập đảng phái chính trị
LXXXVIII
Thư Quốc gia số 28
Về việc tuân thủ Thỏa ước Nhân quyền của Liên hiệp quốc, và công
nhận quyền lực của các Tòa án quốc tế
LXXXIX
Thư Quốc gia số 29
Về việc bất khả lạm pháp của nhân viên chính phủ đang thi hành nhiệm
vụ được giao phó
XC
Thư Quốc gia số 30
Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự các nhân viên được bầu lên,
đang khi còn nhiệm kỳ phục vụ
XCI
Thư Quốc gia số 31
Về việc bất khả truy tố tại tòa án dân sự, hình sự, và quốc sự tất cả nhân
viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
XCII
Thư Quốc gia số 32
Về việc không chỉ trích cấp chính phủ trong 20 năm về mọi việc làm của
tất cả nhân viên chính phủ trước khi HP7 được phê chuẩn
XCIII
Thư Quốc gia số 33
Nguồn gốc của hệ thống Tam quyền phân lập, cùng các lợi ích và điều
thiệt hại
XCIV
Thư Quốc gia số 34
Khác với tại nhiều nước khác, Tam Quyền tại Việt Nam đều do nhân
dân bầu trực tiếp
XCV
Thư Quốc gia số 35
Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ
XCVI
Thư Quốc gia số 36
Cấu trúc chính phủ trong HP7 sẽ bao gồm kiểm soát và cân bằng lẫn
nhau giữa ba Ngành trong chính phủ (tiếp theo)
XCVII
Thư Quốc gia số 37
Hiến pháp 7 điều phối Tam quyền Phân lập
XCVIII
Thư Quốc gia số 38
Tam quyền Phân lập cấp Thánh phố
XCIX
Thư Quốc gia số 39
Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền
C
Thư Quốc gia số 40
Khi có khác biệt quan điểm giữa Tam quyền (tiếp theo)
CI
Thư Quốc gia số 41
Sự tương quan của Tam quyền đối với phương cách hành xử của người
dân
Việt Nam
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Bài này sẽ khảo sát tổng quát về ba nền văn minh, chính trị hiện đại này và đưa ra đề nghị
về việc tổ chức chính trị, xã hội, cùng đem lại văn hóa, văn minh theo lối nào thích hợp
và tối ưu hóa nhất cho dân tộc ta trong tân thiên niên kỷ.
Việt Nam là một nước nhỏ, hiện nay diện tích chỉ bằng 1/30 Trung quốc, với số dân chỉ
bằng 1/15. Trong khoảng 3847 năm đầu tiên từ khi vua Hùng vương thứ Nhất lập Triều
đại Hồng bàng, từ năm 2879 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên, dân tộc
ta bị lệ thuộc hoàn toàn vào văn hóa, văn minh Trung quốc, do phần lớn thời gian này
nước ta bị người Trung hoa đô hộ, thời kỳ gần nhất kéo dài 1117 năm, từ năm 179 trước
Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên.
Mãi cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán năm 938, dân ta mới được độc
lập về chính trị khỏi Trung quốc, tuy về văn hóa, văn minh vẫn còn lệ thuộc nhiều.
Do đó, cách hành xử, tổ chức chính quyền, xã hội ta kể từ khi dựng nước đến nay gần
như luôn luôn theo khuôn mẫu Trung quốc.
Mãi cho đến ngày nay, khi gần ba triệu dân Việt Nam ra nước ngoài định cư, học tập
chuyên sâu, và làm việc trong các ngành tổ chức chính phủ tại nhiều quốc gia hiện đại
CII
nhất thế giới, một số người trong nhóm này mới có dịp khảo sát, nhìn lại quá trình dựng
và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời có tính độc lập suy xét, suy nghĩ và so sánh các
phương cách tổ chức chính quyền, xã hội, cùng văn hóa và văn minh giữa ba nền văn
minh hiện đại: Trung quốc, Âu châu, và Bắc Mỹ.
Bài này sẽ khảo sát tổng quát về ba nền văn minh, chính trị hiện đại này và đưa ra đề nghị
về việc tổ chức chính trị, xã hội, cùng đem lại văn hóa, văn minh theo lối nào thích hợp
và tối ưu hóa nhất cho dân tộc ta trong tân thiên niên kỷ.
VỀ VĂN HÓA, VĂN MINH, VÀ CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC
Nói về văn hóa, văn minh, và chính trị Trung quốc thì không thể không nói đến Bảy Triết
gia Trung quốc, các người đã dựng nền tảng lý luận cho phong kiến Trung quốc trong
suốt hơn 2500 năm qua. Đó là Khổng tử, Lão tử, Mạnh tử, Mạc tử, Tuân tử, Hàn phi tử,
và Trang tử. Trong đó, nổi bật nhất là Khổng tử.
Khổng tử, cũng như Đức Phật Thích ca Mâu ni, cảm nhận nổi đau khổ của nhân dân và
xã hội xung quanh, nhưng thay vì sáng tạo ra bất cứ hình thức giải thoát siêu việt nào về
triết học, ông chỉ thúc giục mọi người tham gia vào một hình thái xã hội phong kiến do
ông giúp kiến tạo.
Triết lý do Khổng tử đưa ra phần lớn tập trung vào một lối hành xử đạo đức và được chấp
nhận bởi xã hội khép kín, và đó, theo ông, mới đem lại một cộng đồng, quốc gia hài hòa,
hòa thuận, hòa bình. Khổng từ thường dùng chữ "hài hòa" trong âm nhạc để so sánh với
một loại hình hạnh phúc cho cá nhân và xã hội. Một vị vua anh minh sẽ điều khiển xã
hội. Nhưng sự hòa hợp trong xã hội tùy thuộc vào đạo đức các cá nhân. Triết học Khổng
tử, theo đó, phần lớn chỉ là đề cao các loại định nghĩa đạo đức.
CIII
Nhưng các loại "định nghĩa đạo đức" do Khổng tử khởi xướng và quảng bá chỉ dùng để
vĩnh viễn hóa một trật tự xã hội nhiều giai cấp, và các thành phần trong từng giai cấp bị
buộc phải vĩnh viễn hóa trật tự đó cùng các điều luật lệ dùng vào việc này. Ai làm khác
đi sẽ bị chính các người trong cùng giai cấp đó khinh chê ruồng bỏ, do đó một xã hội theo
Khổng tử là một xã hội bất biến, bất di bất dịch. Điều này giải thích vì sao các xã hội,
chế độ, triều đại trong đó Khổng tử có ảnh hưởng lớn thường rất bền vững và kéo dài rất
lâu, qua nhiều trăm năm hoặc ngàn năm không thay đổi.
Theo Khổng tử, khả năng lãnh đạo là đức hạnh quan trọng nhất trong mọi xã hội. Khả
năng lãnh đạo đòi hỏi một sự phát triển cá nhân của người đứng đầu, từ đó sẽ đem lại
khuôn mẫu tuân theo cho các người kế thừa sau này.
Khổng tử không ĐỀ NGHỊ các lề lối hành xử, mà chỉ ĐỀ LUẬT, các cá nhân và ngay cả
phong trào, hội đoàn, đều không thể ra ngoài các quy luật cứng nhắc này. Không có chỗ
cho bất cứ một sự thảo luận nào, và lại càng không ai có thể phản luận, phản kháng.
Về vấn đề hành xử của các "lãnh đạo" do Khổng tử đặt ra, thì đó không phải là một hình
thức nâng cao giá trị cá nhân qua việc học hỏi, rèn luyện, để đi đến chỗ hoàn thiện cá
nhân. Mà đó là, các "lãnh đạo" phải tuân theo nề nếp xã hội, phục vụ cho xã hội, và luôn
bị nhấn mạnh, thúc ép, vào việc tạo ra các quan hệ xã hội theo khuôn mẫu định sẵn trong
gia đình, liên hệ với chính quyền, và giữa các cấp chính quyền.
Xã hội và Quốc gia, theo Khổng tử, chẳng qua chỉ là một gia đình rộng lớn trong đó mọi
thành phần đều có chỗ đứng, địa vị được xếp đặt, ai ra ngoài địa vị này đều vi phạm rất
nhiều khế ước xã hội, quốc gia và do đó phải bị trừng phạt nặng.
Các "lãnh đạo", theo Khổng tử, có rất nhiều. Họ là lãnh đạo gia đình thuộc lối gia
trưởng, là lãnh đạo khu xóm, thôn, làng, quận, huyện, hội đoàn, chùa chiền, nhóm các
chùa chiền, trường học và nhóm các trường học, quan huyện, tri phủ, v.v... Hầu như mọi
CIV
người ai ai cũng là "lãnh đạo" theo một lối nào đó, ai thấp bé nhất vẫn là lãnh đạo gia
đình họ - với điều kiện tất cả lãnh đạo đều là Nam giới.
Vì vậy, "đạo đức" và "hoàn thiện cá nhân" theo lối Khổng tử phải luôn luôn được hiểu
trên phương diện giá trị của một xã hội hài hòa, chứ không trên căn bản giá trị thành tựu
cá nhân. Nói khác đi, theo Khổng tử, trong một xã hội hài hòa, một quốc gia yên vui tốt
đẹp, các cá nhân không được quyền có cá tánh, có thành tựu cá nhân, mà tất cả mọi thành
viên, mọi công dân, đều phải làm việc cho một tập thể nào đó mà người đó được sắp đặt
vào ngay từ khi sinh ra. Các thành viên được thưởng hay bị phạt đa số vì hành động của
tập thể mà người đó làm "lãnh đạo" hoặc phụ thuộc vào, chứ không vì hành động cá nhân
của chính họ.
Để so sánh, theo Do thái giáo, Thiên Chúa giáo, và Hồi giáo, trong khi rất quan tâm đến
việc thi hành lề luật Thượng đế, thường hay nhấn mạnh chủ nghĩa cá nhân và sự thành
đạt của từng linh hồn cá nhân (mọi người chỉ chịu trách nhiệm cho hành động cá nhân
mình trước Thượng đế).
Nói tóm lại, theo Khổng tử, các công dân trong một quốc gia đều không có tâm hồn,
nguyện vọng cá nhân như bên Tây phương, bởi vì các cá nhân đều không thể được tách
rời ra khỏi vai trò và quan hệ xã hội của họ.
VỀ VĂN HÓA, VĂN MINH, VÀ CHÍNH TRỊ ÂU CHÂU VÀ HOA KỲ
Văn hóa, văn minh, và chính trị tại châu Âu và Bắc Mỹ đa dạng hơn tại Đông Á (bài này
không xét về văn minh Trung Đông) rất nhiều, và do nhiều ngàn triết gia, xã hội gia,
chính trị gia, kinh tế gia, khoa học gia, v.v... qua nhiều thời đại đóng góp chứ không đơn
điệu như tại Đông Á chỉ do một số nhỏ người đứng đầu, sau đó tất cả nhóm còn lại chỉ
CV
làm việc phục vụ cho các tư tưởng đứng đầu, đa số do Bảy Triết gia Trung quốc lập nên
từ hơn 2000 năm trước.
Về chính trị, phát xuất từ Plato đã có tinh thần Cộng hòa, một hình thức Dân chủ sơ khai
được viết ra vào khoảng năm 380 trước Công nguyên. Trong quyển " Nền Cộng hòa"
(the Republic), tựa đề ban đầu là "Politeia" tức "sự quản trị của Thành phố và Tiểu bang"
("city-state governance"), Plato viết về các lời đối thoại tranh luận về ý nghĩa của Công lý
và đào sâu suy nghĩ về việc một người chính trực có hạnh phúc hơn một người bất chính
hay không, trong một xã hội được quản trị bởi một nhà vua và cũng là nhà triết học.
Trải qua một ngàn năm, và nhiều nền chính trị tại Hy lạp và La mã, kết thúc bằng việc Đế
chế La mã bị diệt vong năm 476, hệ thống chính trị do một số đại diện nhân dân quyết
định chính sách dần dần được hình thành. Từ "Senate" (Thượng viện) là do chữ "senex"
mà ra, có nghĩa "old man" (người đàn ông lớn tuổi). Trong thể chế này, một số người
đàn ông có uy tín trong xã hội được cho vào tham gia việc hoạch định chính sách, tuy
quyết định cuối cùng vẫn do vị vua quyết định.
Tuy nhiên, sau khi Đế chế La mã bị diệt vong, Âu châu không còn hình thức Thượng
viện, mãi cho đến năm 1748, Montesquieu mới xuất bản quyển Tinh thần Luật pháp
(L'esprit des lois) trong đó ông đưa ra hình thức Tam quyền Phân lập, thể chế Thượng
viện mới lại được làm cho sống lại.
Bước tiến vĩ đại mà Charles de Secondat, Baron de Montesquieu đem lại cho chính trị
Tây phương - từ đó đem lại văn hóa, văn minh Tây phương - trong hơn 250 năm qua đó
là việc loại bỏ thành phần cai trị độc quyền, độc tôn, và thay vào đó là một lối quản trị
đầy Tinh thần Luật pháp.
Để viết quyển sách này, Montesquieu bỏ ra gần 20 năm nghiên cứu chính trị học, luật
pháp học, xã hội học, nhân chủng học, với trên 3000 đoạn trích dẫn. Montesquieu đề cao
CVI
một xã hội trong tương lai nơi Hiến pháp làm điều luật cao nhất, có Tam quyền Phân lập,
bãi bỏ chế độ nô lệ, phát triển và gìn giữ tự do dân sự và luật pháp, cùng ý tưởng rằng các
định chế chính trị và luật pháp đều phải phản ảnh đặc tính xã hội và địa lý của từng vùng
nơi dân chúng tại đó bị ảnh hưởng bởi các điều trên đây.
Tam quyền Phân lập chỉ là một phần của công trình Tinh thần Luật pháp. Theo thể chế
này, chính phủ phải được chia ra làm ba ngành Hành pháp, Lập pháp, và Tư pháp. Cả ba
ngành phải riêng biệt và phụ thuộc vào nhau như một cổ máy có ba bộ phận riêng biệt
nhưng cả ba phải cùng hoạt động thì bộ máy mới hoạt động được. Không một bộ phận
nào quan trọng hơn bộ phận nào, hoặc có thể mạnh hơn một hoặc cả hai bộ phận kia cộng
lại, ngược lại bất cứ hai bộ phận nào cộng lại cũng không thể mạnh hơn và từ đó triệt tiêu
bộ phận thứ ba.
Đây là một tư tưởng rất mới vào thời đó, có tính trừu tượng rất cao. Tuy được rất nhiều
người và quốc gia đón nhận với lòng nhiệt thành, nhưng cũng phải mất đến 41 năm sau,
năm 1789, lần đầu tiên trên thế giới một chính phủ Tam quyền Phân lập mới ra đời tại
Hiệp chủng Quốc Hoa kỳ, với việc phê chuẩn Hiến pháp đầu tiên và duy nhất của quốc
gia này vào năm 1788, và cuộc bầu Tổng thống đầu tiên kéo dài từ ngày 15 tháng 12 năm
1788 đến ngày 10 tháng 1 năm 1789.
Tinh thần Luật pháp đã vượt Đại Tây dương, qua Lục địa mới, Tổng thống George
Washington là người cầm ngọn cờ Hành pháp đầu tiên trong lịch sử nhân loại trong tinh
thần Tam quyền Phân lập.
Theo Tinh thần Luật pháp, trong một nền Cộng hòa Dân chủ, nhân dân nắm quyền cao
nhất. Nhân dân quản trị quốc gia bằng việc bầu ra các Bộ trưởng và Thượng nghị sĩ.
Nguyên tắc cốt yếu của nền Cộng hòa Dân chủ là đạo đức chính trị, điều này có nghĩa
mọi người phải "yêu luật pháp và yêu quốc gia họ", bao gồm Hiến pháp do chính họ lập
ra. Hình thái chính phủ trong nền Cộng hòa Dân chủ, do đó, phải bao gồm việc ứng cử
CVII
và bầu cử tự do, và phải lấy đó làm căn bản để tạo lập và gìn giữ Dân chủ. Dân chủ và
Bầu cử đi song song, hổ trợ cho nhau.
Điều cần phải làm để bảo vệ nguyên tắc cốt yếu trên đây vượt quá nhiều hạn định thông
thường, và đòi hỏi các điều rất cao xa, cao cả. Theo quan điểm của Montesquieu, đạo
đức chính trị bị đòi hỏi bởi một nền Cộng hòa Dân chủ đích thực không đến một cách tự
nhiên, mà cần phải có một sự ưu tiên cho lợi ích quần chúng trên lợi ích cá nhân. Đạo
đức này hạn chế sự tham vọng thành đạt cá nhân, hạnh phúc cá nhân, để phục vụ cách tốt
nhất cho quốc gia và quần chúng nhân dân.
Để thực hiện điều hạn chế - chứ không hoàn toàn chối bỏ - các tham vọng cá nhân, việc
giáo dục nhân văn cho toàn dân là điều cần thiết. Nền Cộng hòa Dân chủ phải giáo dục
công dân rằng họ phải đặt lợi ích họ cùng chung với lợi ích quốc gia, chỉ khi đó người
dân mới hoạt động trước hết vì lợi ích quốc gia, qua đó cùng đem lại lợi ích cho riêng cá
nhân họ.
Nền Giáo dục này cũng cần dạy dỗ cho công dân phải nên ngăn chận việc tăng cường lợi
ích cá nhân họ khi các lợi ích này làm thiệt hại lợi ích công cộng.
Một tinh thần thượng tôn luật pháp bao trùm các quốc gia có nền Cộng hòa Dân chủ được
thiết lập theo hình thái Tam quyền Phân lập. Một khi điều gì đã thành LUẬT, nhân dân
phải triệt để tuân theo, vì lẽ nhân dân đã góp phần tích cực, trực tiếp và gián tiếp, vào quá
trình làm luật qua việc bầu ra Lập pháp.
Hành pháp chẳng qua chỉ thực thi pháp luật, cho dù theo hình thức của Montesquieu nơi
nhân dân bầu chọn các vị Bộ trưởng, hay theo hình thức bên Nhật bản nơi nhân dân bầu
Thủ tướng và Thủ tướng chọn Bộ trưởng, hoặc theo cách bên Hoa kỳ nơi nhân dân chọn
Tổng thống và Tổng thống chọn Bộ trưởng.
CVIII
Tư pháp, đứng đầu bởi Tối cao Pháp viện, độc lập nhưng cùng hợp tác và giám sát Lập
pháp và Hành pháp, để cả Tam Quyền cùng hoạt động nhịp nhàng trong bộ máy chính
phủ.
TAM QUYỀN PHÂN LẬP TẠI VIỆT NAM DÂN QUỐC
Do hoàn cảnh lịch sử và địa lý nằm kế cạnh Trung quốc, nhân dân ta trong suốt 4888 năm
qua chưa có dịp ngồi lại để suy nghĩ về một hình thức chính phủ quốc gia ngoài tầm nhìn
hạn chế chỉ trong nội địa Trung quốc. Lá cờ quốc gia Việt Nam hiện nay là một phần
nhỏ cờ Trung quốc. Ba Tôn chỉ "độc lập, tự do, hạnh phúc" là hoàn toàn từ câu "Dân tộc
độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc" thuộc chính sách Tam Dân của Bác sĩ
Tôn Dật Tiên bên Trung quốc. Chế độ Cộng sản tại Việt Nam hiện nay rập khuôn theo
chế độ Cộng sản Trung quốc.
Dân tộc Lạc Hồng chúng ta còn bám đuôi người Trung hoa cho đến bao giờ?
Thực tế đã cho thấy, quốc gia nào theo tư tưởng Khổng tử và sáu Đại Triết gia khác của
Trung quốc đều là các quốc gia kém văn minh, kém nhân quyền, thu nhập bình quân đầu
người thuộc hàng chót nhất thế giới. Lý do chính là vì như trên đã liệt kê, tư tưởng
Khổng tử hạn chế tự do cá nhân một cách triệt để, không cho phép nhân dân quyền vượt
quá giai cấp họ sinh ra, từ đó hạn chế sáng kiến cá nhân, hạn chế các đột phá kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học.
Nếu không có văn minh Tây phương, ngày nay người dân Trung quốc và Việt Nam còn
đi xe ngựa, thắp đèn dầu, mang giày rơm, uống nước giếng. Tuổi thọ trung bình chỉ 40
tuổi như hồi đầu thế kỷ 20, khi chưa có vắc xin chống dịch bệnh, và mọi loại bệnh đều
được chữa bằng thuốc Nam, thuốc Bắc hoàn toàn không có căn cứ và chứng minh khoa
học.
CIX
Trong khi đó, nền văn minh châu Âu và Bắc Mỹ, đặt nền tảng triệt để trên tự do cá nhân
trong khung cảnh thượng tôn luật pháp, nơi nhân dân tham gia vào việc làm luật, hành xử
luật, và kiểm tra các việc hành xử này, người ta sống trước hết là hạnh phúc hơn, có nhân
quyền cao hơn, và thu nhập cao hơn hẳn các quốc gia còn nặng tư tưởng Khổng tử.
Hiến pháp 7, sau khi đã xem xét và nghiên cứu kỷ lưỡng nhiều nền văn hóa, văn minh,
chính trị thế giới, nay đề nghị nhân dân Việt Nam suy nghĩ và bầu chọn một đường lối
chính trị và quản trị quốc gia mới cho Tổ quốc ta trong tân thiên niên kỷ.
Trong khi chúng ta chưa thể tự lập một hình thái chính trị cho riêng mình, nay bước đầu
chúng ta phải học hỏi từ nước ngoài, với sự suy xét và thảo luận chứ không mù quáng và
rập khuôn, rồi từ từ trong vài chục, vài trăm năm sắp tới sẽ "Việt Nam hóa" hệ thống
chính trị cho phù hợp hơn với tâm linh và hoàn cảnh kinh tế, xã hội nước ta.
Hiến pháp 7 học hỏi và áp dụng các tư tưởng triết học chính trị, triết học xã hội siêu việt
nhất trong gần 2500 năm nay kể từ khi Socrates bên Hy lạp bắt đầu suy nghĩ về đạo đức
(ethics), đức tính (virtue), hạnh phúc, và nói chung là về ý nghĩa cuộc sống con người
trong xã hội. Sau đó học về Nền Cộng hòa theo Plato, tư tưởng "lợi ích quần chúng là
điều luật cao nhất của quốc gia" (Salus populi suprema lex esto) của Cicero, các tư tưởng
thuộc Thời đại Khai sáng của Descartes, Mostesquieu, Franklin, Goethe, Haydn, Hobbes,
Hooke, Hume, Jefferson, Kant, Madison, Rousseau, Smith (Adam), Voltaire, và sau này
là John Stuart Mill.
Thư Quốc gia số 41 này đặc biệt nhấn mạnh các khái niệm về Tam Quyền Phân lập của
Montesquieu, trong đó nhiều vấn đề cần bàn thảo liên quan đến thiết lập một chính phủ
theo thể chế này sẽ là đề tài cho các Thư Quốc gia số 33-48.
CX
Chúng ta sẽ "đốt giai đoạn" rất nhiều, một bước từ Phong kiến Đảng chủ lên Cộng hòa
Dân chủ, trong khi các quốc gia tiên phong đã phải tốn rất nhiều thời gian, ngay tại Hoa
kỳ chỉ một câu "mỗi người một lá phiếu" là đã bao gồm biết bao công khó, tranh đấu, hơn
175 năm kể từ cuộc bầu cử đầu tiên năm 1788 đến Martin Luther King Jr. hậu bán thế kỷ
20 mới xong.
Trong bước đường học hỏi, HP7 cũng có một vài sáng kiến nho nhỏ, sẽ được giải thích
sau, trong các bài Thư Quốc gia kế tiếp.
Một trong các sáng kiến đó là các vị Thượng Thẩm phán trong Tối cao Pháp viện cũng do
dân bầu ra tại Việt Nam Dân quốc. Điều này Dân chủ hơn tại Hoa kỳ và nhiều quốc gia
khác nơi các Thượng Thẩm phán do một hội đồng nào đó chỉ định, hoặc Tổng thống đề
cử và Quốc hội bỏ phiếu.
Do đó, Việt Nam Dân quốc dưới Hiến pháp 7 sẽ hoàn toàn có Tam Quyền Phân lập, nơi
Ba Ngành trong chính phủ hoàn toàn độc lập lẫn nhau, trong khi cùng giữ chung các
nguyên tắc khác trong việc hợp tác và giám sát lẫn nhau để cùng hoạt động nhịp nhàng
trong bộ máy chính phủ quốc gia và địa phương sau này.
- Nhân dân Việt Nam -
CXI
Thư Quốc gia số 42
Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của Tam quyền quốc gia đối
với các chính quyền Thành phố
CXII
Thư Quốc gia số 43
Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của một Tam quyền Thành
phố đối với các chính quyền Thành phố khác
CXIII
Thư Quốc gia số 44
Nguy cơ Tam quyền bị bất cân xứng
CXIV
Thư Quốc gia số 45
So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành phố
CXV
Thư Quốc gia số 46
So sánh ảnh hưởng của Tam Quyền quốc gia và Tam Quyền Thành phố
(tiếp theo)
CXVI
Thư Quốc gia số 47
Trả lời các ý kiến phản đối Tam quyền Phân lập
CXVII
Thư Quốc gia số 48
Các hạn chế của Tam quyền Phân lập
CXVIII
Thư Quốc gia số 49
Tự do ngôn luận
CXIX
Thư Quốc gia số 50
Bảo vệ Nhân phẩm
CXX
Thư Quốc gia số 51
Quyền tự do phát triển cá tánh và tự do bầu cử
CXXI
Thư Quốc gia số 52
Mọi người bình đẳng trước pháp luật
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tại Việt Nam Dân Quốc, Luật pháp đến từ nhân dân, và nhân dân Việt Nam luôn có lòng
bác ái, chính trực, công lý, yêu chuộng hòa bình. Do đó, các bộ Luật được soạn ra tại
Việt Nam Dân Quốc cũng sẽ như vậy.
"Luật" theo định nghĩa rộng là "một nhóm tiêu chuẩn theo đó một thực thể nào đó có thể
hoạt động hoặc bị ngăn cản hoạt động". Lối định nghĩa này bao gồm tất cả mọi động vật,
thực vật, và vật chất không có sức sống.
Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy tất cả vật chất đều hoạt động tự nhiên theo một lối bất
biến và xác định nào đó. Vì vậy các nhà khoa học tự nhiên chỉ việc tìm ra các Luật đã
được thiên nhiên xác định một cách bất biến. Tất cả mọi vật thể xung quanh ta như lửa,
ánh sáng, nhiệt độ, v.v... đều có Luật riêng của chúng. Các công thức khoa học không có
ảnh hưởng nào đến vật thể, mà chỉ mô tả sự việc đã đang và sẽ xảy ra [kể từ sau khi có
Big Bang] cho dù có hay không có các công thức đó.
Theo định nghĩa hạn hẹp và chính xác hơn dành cho các loài động vật trong đó có loài
người, "Luật" tuy có cùng định nghĩa rộng như vật chất nhưng không bất biến và không
xác định. Luật sinh tồn, Luật thiên nhiên dành cho động vật luôn thay đổi tùy theo các
kinh nghiệm các loài động vật học hỏi được, và cũng không xác định vì cùng một Luật có
thể có nhiều kết quả khác nhau.
Trong xã hội loài người, Luật trong nghệ thuật, thơ phú, văn phạm, và ngay cả thời trang
CXXII
và lối hành xử đều khác nhau tại mọi nơi trên thế giới. Tại đa số quốc gia, Luật được hạn
định bởi Lương tâm, do đa số quần chúng đồng ý, để tạo dựng một quần thể xã hội, cộng
đồng nào đó có thể là một vùng đất hay quốc gia, để cùng chung sống trong hòa bình và
phát triển.
Luật pháp trước tiên là một sự điều phối, điều hành, nhằm tạo lập trật tự trong cộng
đồng. Do loài người là động vật biến động nhất, bất xác định nhất trong tất cả mọi vật
thể và động vật, Luật pháp cho loài người cũng phải biến động và bất xác định, nếu do đa
số thành viên trong một quần thể nào đó tạo dựng nên.
Điều này tự căn bản đã rất khó cho Luật pháp được viết ra và thực thi, vì Luật pháp phải
cân bằng giữa nhiều sự biến động và bất xác định từ trong mỗi người, mỗi nhóm người,
và toàn xã hội; phải làm sao cho xã hội biến động theo hướng đem lại lợi ích chung cho
toàn xã hội và trong Lương tâm của đa số người dân trong xã hội đó; phải làm sao cho xã
hội bất xác định theo hướng tốt đẹp chung cho toàn xã hội chứ không đi vào hổn loạn.
----------------------------
Qua nhiều ngàn năm trong lịch sử nhân loại, nhiều bộ Luật được viết ra để tránh mọi loại
biến động và buộc xã hội phải xác định rõ ràng. Muốn có điều này, các bộ Luật đó chỉ có
cách buộc mọi thành phần trong xã hội đó phải không được biến động và phải luôn xác
định; có nghĩa, người dân không được hoạt động chính trị, kinh doanh quá một mức nào
đó (không biến động), không được thay đổi vị trí trong xã hội quá một giới hạn nào đó
(phải xác định).
Để thực hiện các điều trên đây, các bộ Luật đó buộc phải giới hạn quyền tự do cá nhân,
quyền thành lập hội đoàn, quyền hoạt động chính trị, kinh doanh. Nếu các bộ Luật đó
được thực thi một cách triệt để thì quả là xã hội mà các bộ Luật đó phục vụ sẽ có thể bất
biến và ở cùng vị trí trong một thời gian dài.
CXXIII
Đa số thành viên, thuộc hạng phụ thuộc và không có quyền hành, trong các xã hội đó bị
hạ thấp nhân phẩm xuống bằng các vật thể, các nguyên tố chỉ biết theo Luật thiên nhiên,
hoặc một loài thú vật không có Lương tâm, không có trí và khả năng suy nghĩ, không học
được gì từ kinh nghiệm đã trải qua mà chỉ có thể sống qua ngày đoạn tháng như các con
sút vật bất biến, có vị trí xác định không thay đổi trong nhiều thế hệ.
Nếu vị trí khởi đầu khá tốt, dân chúng ăn ngon mặc đẹp, thì sự bất biến thật ra không gây
nhiều thiệt hại cho dân chúng; nhưng nếu xã hội đó đang ở vào vị trí quá thấp kém, dân
chúng quá nghèo đói, lại không được cho quyền biến động để tiến lên một vị trí cao hơn,
thì xã hội đó và dân chúng tại đó sẽ xác định ở vào vị trí rất thấp, rất nghèo đói trong thời
gian rất lâu dài, do không có biến động thúc đẩy xã hội tiến lên một tầm cao mới.
Các bộ Luật nhằm giữ chặt nhân dân trong xã hội nghèo đói trên đây vĩnh viễn ở vào vị
trí quá kém cõi, lại không cho biến động lành mạnh để phát triển, hầu như luôn luôn được
viết ra bởi các nhà độc tài muốn mọi việc không thay đổi hoặc chỉ thay đổi thật chậm để
họ dễ cai trị, và có thể quay ngược lại vị trí trước đó nếu các nhà độc tài nhận thấy xã hội
đang thay đổi vị trí, đang có thay đổi quá mau theo hướng có hại cho họ.
----------------------------
Hiến pháp 7 tạo điều kiện cho các Bộ luật được viết ra bởi đa số quần chúng nhân dân, vì
nhân dân trực tiếp bầu chọn cả Tam Quyền trong đó có Lập pháp chuyên soạn luật và
phải được lưỡng viện Quốc hội thông qua, trước khi đưa qua cho Tư pháp xem xét có vi
Hiến hay không, và Tổng thống thuộc Hành pháp ký thành Luật.
Bất cứ một dự Luật nào được Lập pháp thông qua cũng đều phải tuân thủ một vài nguyên
tắc cơ bản, trong đó Nguyên tắc Thứ Nhất là mọi người dân trong nước đều Bình đẳng
trong việc tuân thủ bộ Luật đó, và Hành pháp phải công bằng trong việc thực thi bộ Luật.
CXXIV
Nếu Nguyên tắc này không được thỏa ứng thì dự Luật đó đã vi Hiến, và Tối cao Pháp
viện có trách nhiệm khuyến cáo Lập pháp phải sửa đổi các điều vi Hiến, nếu không Tối
cao Pháp viện có quyền ra Pháp định bác bỏ bộ Luật đó, và Tổng thống không có quyền
ký thành Luật.
Nếu có sự bất đồng sâu sắc giữa Tam Quyền, như Thư Quốc gia số 39 và 40 sẽ bàn đến,
một cuộc Trưng cầu Dân ý toàn quốc sẽ được triệu tập trong vòng một tháng, và một đa
số phiếu từ 2/3 trở lên sẽ quyết định tối hậu.
Trong trường hợp trên đây, nếu Quốc hội không đồng ý với Pháp định của Tối cao Pháp
viện rằng dự Luật đang đệ trình là vi Hiến, thì Quốc hội có thể triệu tập Trưng cầu Dân ý,
chứ Quốc hội không có quyền tiếp tục đệ trình dự Luật lên Tổng thống, và Tổng thống
không có quyền ký thành Luật.
Một trong những điều căn bản lập nên Tam Quyền Phân lập là, không một sự liên kết
giữa Lưỡng Quyền nào có thể mạnh hơn một Đơn Quyền nào cả. Cả Tam Quyền phải
cùng phối hợp hành động chứ không thể có sự liên kết tay đôi để loại thành phần thứ Ba
ra khỏi quyền lực quốc gia.
Phần tiếp sau đây sẽ bàn luận vì sao tất cả các bộ Luật đều phải tôn trọng Nguyên tắc Thứ
nhất này.
----------------------------
Việt Nam là một quốc gia phức tạp, với 54 sắc tộc và người Việt gốc các sắc tộc ngoại
quốc như Hoa, Cambodia, Lào; trên dưới 10 tôn giáo khác nhau, thu nhập dân chúng tại
nhiều vùng rất khác nhau, với nhiều tư tưởng chính trị khác nhau.
CXXV
Trong quá khứ, nhiều biến động chính trị, xã hội không có tính xây dựng từng có nguồn
gốc sắc tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội. Ngay trong từng sắc tộc, ví dụ sắc tộc Kinh, cũng
chia ra thành từng vùng Bắc, Trung, Nam. Nhiều khi các cá nhân khác vùng tuy cùng
một sắc tộc vẫn không hòa thuận nhau chỉ vì họ đến từ các vùng khác nhau.
Do đó, mâu thuẫn tiềm tàng trong nội bộ Việt Nam rất lớn nếu mọi người không có Bình
đẳng về Luật pháp để tránh việc một phe nhóm chính trị, sắc tộc, tôn giáo nào đó tạo ra
và thực thi các bộ Luật có lợi nhất chỉ cho phe nhóm họ mà thôi.
Vài điều căn bản để giúp thực hiện Bình đẳng về Luật pháp là việc cho phép Tự do Ứng
cử, Bầu cử, và lập đảng phái chính trị (xem Thư quốc gia số 26, 27, và 51).
Trong thời gian vài mươi năm qua, một nhóm người dùng vũ lực chiếm chính quyền tại
Việt Nam và tự cho quyền họ lãnh đạo Việt Nam. Do cũng biết họ không được dân
chúng ủng hộ, họ không cho tổ chức bất cứ cuộc bầu cử, ứng cử tự do nào, và cũng
không cho thành lập đảng phái chính trị.
Ngoài ra, nhóm người này còn chủ trương bắt bớ mọi thành phần có tư tưởng chính trị
khác họ, và việc bắt bớ này lan rộng toàn quốc, đến ngay cả thân nhân số người có tư
tưởng kể trên.
Nói khác đi, trong vài mươi năm qua, người dân Việt Nam không hề có Bình đẳng về
Luật pháp, từ đó không có Bình đẳng về chính trị, xã hội, thu nhập và ngay cả quyền làm
người - do tất cả mọi bộ Luật đều chỉ do một nhóm người soạn ra, thi hành, nhằm vào
việc đem lại lợi ích cao nhất cho nhóm họ mà không có sự đồng thuận của tuyệt đại đa số
nhân dân Việt Nam.
TạI Việt Nam Dân Quốc, Hiến Pháp 7 bảo đảm rằng Quyền Bình đẳng trước Pháp Luật là
điều Hiến định, không một phe nhóm nào có thể vi phạm cho dù được nhân dân bầu lên.
CXXVI
Mục tiêu cao cả nhất của Hiến Pháp 7, như được ghi rõ trong Lời Giới thiệu, đó là "cung
cấp các điều kiện sống tốt nhất có thể được cho số đông nhất trong dân chúng Việt Nam
thông qua việc chia sẻ quyền hành và trách nhiệm một cách công bằng nhất".
Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc Bình đẳng trước Pháp Luật phải được thi hành, vì lẽ
không thể có công bằng trong việc chia sẻ quyền hành và trách nhiệm nếu không có công
bằng trong Luật pháp. Thư Quốc gia số 26, 27, và 51 sẽ ghi rõ bằng cách nào mà Quyền
Bình đẳng trước Pháp Luật được thi hành tại Việt Nam Dân Quốc.
- Nhân dân Việt Nam -
CXXVII
Thư Quốc gia số 53
Tự do Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tự do tôn giáo là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do cá nhân và cộng đoàn, trong chốn
tư nhân và nơi công cộng, để hành sự tôn giáo và bày tỏ tín ngưỡng trong việc giảng dạy,
thực hành, thờ phụng, và tôn kính. Khái niệm này cũng được mở rộng đến việc chấp
nhận việc tự do thay đổi tôn giáo và không phải theo bất cứ tôn giáo nào.
Tuy là một quốc gia không có quốc giáo, Việt Nam Dân quốc cho phép tự do tín ngưỡng,
lương tâm, và tôn giáo. Chính phủ cho phép mọi tôn giáo được quyền tự do hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật, và các điều luật định sẽ được Quốc hội thông qua và Tổng
thống phê duyệt sẽ có hiệu lực cho đồng đều mọi tôn giáo, không có bất cứ một hạn chế
riêng biệt cho bất cứ một tôn giáo nào.
1. Định nghĩa tôn giáo và tín ngưỡng
Chữ “religion” từ gốc tiếng La tin “religare” nghĩa là “dính chặt” Năm 1993, Uỷ ban
Nhân quyền Liên hiệp quốc mô tả tôn giáo và tin ngưỡng là “những sự tin tưởng về
Thượng đế, phi Thượng đế, và kháng Thượng đế, cũng như quyền không tin tưởng vào
bất cứ tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào”.
Các sự tin tưởng mô tả trên đây đem lại hy vọng và sự an ủi cho hàng tỉ người trên trái
đất, và giữ vai trò tiềm ẩn trong việc gìn giữ hòa bình và hòa giải. Nhưng các sự tin
tưởng đó cũng là nguồn cội nhiều sự căng thẳng và xung đột. Các điều phức tạp này,
cùng sự khó khăn của việc định nghĩa “tôn giáo”, “tín ngưỡng”, “tà giáo”, hiện vẫn là
CXXVIII
mối khúc mắc của nhiều vấn đề có tính quốc tế và quốc gia tại nhiều vùng trên thế giới
trong đó có quốc gia Việt Nam chúng ta.
2. Một vấn đề phức tạp và hay gây tranh cãi
Các cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo đã được thực hiện qua nhiều thế kỷ, và đã dẫn đến
rất nhiều cuộc xung đột bi thảm tại nhiều quốc gia và châu lục. Từ sau Thế chiến 2 đến
nay, thế giới dường như đã và đang tìm ra một sự đồng thuận có tính quốc tế về việc tôn
trọng các khác biệt về tôn giáo, tuy nhiên nhiều cuộc xung đột tôn giáo vẫn ngấm ngầm
xảy ra.
Cá biệt tại vùng Trung Cận đông, tôn giáo nhiều khi không và không thể tách rời khỏi
chính trị, do đó nhiều cuộc xung đột chính trị và tôn giáo bị cuốn vào làm một, từ đó rất
khó giải quyết vì không có sự minh bạch và tách rời cần thiết cho hai vấn đề này. Nhiều
cố gắng có tính quốc tế đang được thực hiện để giải quyết, nhưng hiện nay vẫn chưa
thành công.
3. Các Quyền về Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng tại Việt Nam Dân Quốc
Trong khi chờ đợi Quốc hội Việt Nam Dân Quốc thông qua các điều luật thật chi tiết về
việc tôn trọng và thực thi các quyền luật về tôn giáo, lương tâm, và tín ngưỡng, tạm thời
Hiến pháp 7 đề nghị Việt Nam Dân Quốc tuân thủ mọi điều khoản về vấn đề này như đã
được Liên Hiệp Quốc thông qua trong các bản Tuyên ngôn và Hiệp ước có liên hệ.
Liên Hiệp Quốc công nhận tầm quan trọng của tự do tôn giáo và tín ngưỡng qua việc
thông qua Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền năm 1948, trong đó Điều 18 ghi rõ "Mọi
người đều có quyền tự do trong suy nghĩ, lương tâm, và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự
do chọn lựa tôn giáo và các tín ngưỡng theo ý riêng của mọi người".
CXXIX
Sau đó, năm 1966, Liên Hiệp Quốc thông qua Hiệp ước Quốc tế về Quyền Dân sự và
Chính trị, phát triển thêm phần nói về tôn giáo và tín ngưỡng trong Tuyên ngôn năm
1948 kể trên. Điều 18 trong Hiệp ước này bao gồm bốn đoạn văn về vấn đề này như sau:
1. Mọi người có quyền tự do trong suy nghĩ, lương tâm, và tôn giáo. Quyền này bao
gồm tự do có hoặc chọn tôn giáo và tín ngưỡng theo ý riêng mọi người, được tự do bày tỏ
tôn giáo, tín ngưỡng, qua việc thờ phụng, tôn kính, thực hành và giảng dạy theo cá nhân
hoặc trong cộng đoàn với người khác trong chốn riêng tư hoặc nơi công cộng.
2. Không ai có thể bị làm đối tượng cho một sự ép buộc phải gây tổn hại hoặc suy giảm
niềm tin tôn giáo người đó đã chọn.
3. Quyền tự do hành sự tôn giáo và bày tỏ tín ngưỡng có thể là đối tượng của một số hạn
định như trên chỉ có thể được thực hiện bởi các điều luật và khi cần thiết phải bảo vệ an
toàn công cộng, trật tự, sức khỏe, đạo đức, hoặc quyền và tự do căn bản của người khác.
4. Các quốc gia thành viên hiện tại của Hiệp ước này phải dùng mọi biện pháp để tôn
trọng quyền tự do của phụ huynh và, khi cần, người giám hộ hợp pháp, được bảo đảm
rằng việc giáo dục tôn giáo và đạo đức của con em họ là phù hợp với điều họ tin tưởng.
Năm 1981, Liên Hiệp Quốc thông qua Tuyên ngôn Loại bỏ Mọi Hình thức Bất Khoan
nhượng và Kỳ thị về Tôn giáo và Tín ngưỡng. Trong đó thêm vào nhiều điều khoản, một
số quan trọng được ghi ra dưới đây:
Điều 2: Các nhóm Kỳ thị.
Điều khoản này nhận dạng các nhóm có thể gây ra sự kỳ thị, cùng lúc điều khoản cũng
xác quyết quyền không là đối tượng của các sự kỳ thị dựa trên tôn giáo và tín ngưỡng
bởi:
CXXX
- Chính phủ và chính quyền (quốc gia, thành phố, quận huyện);
- Cơ quan (công quyền hoặc tư nhân, tôn giáo hoặc phi tôn giáo);
- Nhóm người;
- Cá nhân nào đó.
Điều 3: Liên hệ đến các quyền khác.
Điều khoản này liên kết Tuyên ngôn 1981 của Liên Hiệp Quốc với các hồ sơ quốc tế
khác. Điều 3 tuyên bố rằng kỳ thị dựa trên tôn giáo và tín ngưỡng là một sự khinh bạc
đến phẩm giá con người và là một sự bất tuân các nguyên tắc căn bản nhất của Hiến
chương Liên Hiệp Quốc, và phải bị kết án như là một sự vi phạm nhân quyền và các
quyền tự do căn bản đã được công bố trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, và được
liệt kê chi tiết trong:
- Hiệp ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị;
- Hiệp ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội, và Văn hóa.
Điều 4: Các cách giải quyết.
Điều 4 tuyên bố rằng mọi Chính phủ và Chính quyền (bao gồm mọi thành phần trong một
xã hội văn minh) đều nên có các cách giải quyết hiệu quả để ngăn chận và giải tỏa các sự
kỳ thị dựa trên tôn giáo và tín ngưỡng:
- Các hành động trong mọi lãnh vực đời sống dân sự, kinh tế, chính trị, xã hội, và văn
hóa;
- Thông qua hoặc bãi bỏ nếu cần thiết các điều luật để nghiêm cấm các hành vi kỳ thị như
vậy;
- Làm mọi cách để đấu tranh chống bất khoan nhượng trong tôn giáo và tín ngưỡng.
Điều 5: Phụ huynh, người giám hộ, và trẻ em.
CXXXI
Các quyền sau đây sẽ có liên quan và chịu ảnh hưởng một khi điều khoản này được thực
thi:
- Quyền của phụ huynh hoặc người giám hộ hợp pháp trong việc dạy dỗ tôn giáo và tín
ngưỡng của họ cho trẻ em;
- Quyền của trẻ em được giáo dục tôn giáo và tín ngưỡng theo ý phụ huynh và người
giám hộ hợp pháp, và quyền được không tuân theo nếu trẻ em không muốn chấp nhận sự
giáo dục đó;
- Quyền trẻ em được bảo vệ khỏi kỳ thị và được giáo dục sự khoan nhượng và chấp nhận
các ý kiến khác biệt trong tôn giáo và tín ngưỡng;
- Quyền ước muốn của trẻ em khi không dưới dự chăm sóc của phụ huynh hoặc người
giám hộ;
- Quyền của Chính phủ và Chính quyền các cấp trong việc hạn chế các hành sự tôn giáo
nào có thể gây nguy hại đến việc phát triển hoặc sức khỏe của trẻ em.
Điều 6: Việc hành sự tôn giáo và tin ngưỡng.
Các quyền sau đây sẽ có liên quan và chịu ảnh hưởng một khi điều khoản này được thực
thi:
- Quyền được thờ phụng và quy tụ, xây dựng và giữ gìn nơi thờ phụng;
- Quyền thành lập và phát triển các cơ quan từ thiện và nhân đạo;
- Quyền sản xuất, thu nhận và sử dụng các nguyên vật liệu cho việc lễ nghi và thờ phụng;
- Quyền sáng tác, in ấn, và phát hành các tác phẩm tôn giáo và tín ngưỡng;
- Quyền giảng dạy tôn giáo và tín ngưỡng tại các nơi thích hợp cho các việc này;
- Quyền khuyến khích và thu nhận các sự đóng góp tài chánh tự nguyện;
- Quyền huấn luyện, bổ nhiệm, bầu chọn, hoặc chỉ định lãnh đạo tôn giáo;
- Quyền chọn ngày nghỉ và tổ chức ăn mừng các ngày lễ và nghi lễ tôn giáo và tín
ngưỡng;
- Quyền thành lập và giữ gìn sự thông tin liên lạc giữa các cá nhân, đoàn thể tôn giáo và
tín ngưỡng trong quốc gia cũng như ở mức độ quốc tế.
CXXXII
Điều 7: Các điều luật quốc gia.
Điều khoản này tuyên bố rằng mọi quyền luật được nêu ra trong Tuyên ngôn năm 1981
của Liên Hiệp Quốc cần thiết phải được lập thành các điều luật quốc gia trong tinh thần
mọi người dân đều được hưởng các quyền luật và tự do này trong thực tế.
Điều 8: Các sự bảo vệ đang được thực thi.
Điều khoản này chứng thực rằng Tuyên ngôn năm 1981 của Liên Hiệp Quốc không có ý
nghĩa bắt buộc tại mọi quốc gia, nhằm không cần phải xóa bỏ các sự bảo vệ về luật pháp
hiện đã có tại các quốc gia thành viên trong tự do tôn giáo và tín ngưỡng. Điều 8 ghi
rằng không có điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này nên được giải thích rằng đã đi
ngược lại Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, và Hiệp ước Quốc tế về Nhân quyền.
4. Các cơ quan bảo vệ và phát triển tôn giáo, lương tâm, và tín ngưỡng
Cơ quan Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng sẽ được thành lập, trực thuộc Văn phòng
Tổng thống (xin xem Sơ đồ Cấu trúc ngành Hành pháp). Cơ quan này chuyên việc
nghiên cứu các chính sách dài hạn.
Một Ủy ban Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng sẽ được thành lập, trực thuộc Văn
phòng Tổng thống, chuyên việc giải quyết các vấn đề thường nhật có liên quan. Giám
đốc Ủy ban này có trách nhiệm báo cáo lên Tổng thống.
Thủ tướng có nhiệm vụ lắng nghe các ý kiến của Tổng thống đưa ra về các vấn đề này, và
theo đó thực hiện.
CXXXIII
Trực thuộc Văn phòng Thủ tướng là 64 Thống đốc các Thành phố, tất cả đều thuộc Hành
pháp, đều phải tuân thủ sự chỉ huy của Thủ tướng trong vấn đề rất quan trọng và nhạy
cảm này.
Chính quyền các Thành phố cũng có các Ủy ban tương tự để thực thi các điều luật trong
vấn đề này, trước đó đã được Hội đồng Thành phố và Quốc hội thông qua.
Như vậy, việc thực thi Quyền Tự do Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng tại Việt Nam
Dân Quốc sẽ hết sức quy mô và chặt chẽ. Không một cá nhân hoặc ngay cả cơ quan,
chính phủ, chính quyền nào có thể lạm dụng quyền hành, hoặc dùng ảnh hưởng cá nhân,
cục bộ áp đặt lên Quyền Tự do này.
5. Tôn giáo và Tin ngưỡng là các Công cụ để giữ vững lương tâm, quốc tính, từ đó
hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc Việt Nam, giữa Việt Nam Dân Quốc và các
quốc gia khác trên thế giới
5.1. Vài hàng tóm lược các tranh chấp tôn giáo trong lịch sử Việt Nam.
Do hoàn cảnh lịch sử phức tạp, rất đáng tiếc là Việt Nam bị trải qua nhiều cuộc tranh
chấp đất đai, ảnh hưởng, chính trị, có tính chất tôn giáo trong vài ngàn năm qua.
Do ảnh hưởng Phật giáo từ Trung quốc và Ấn độ do các nhà sư sang vùng đất nay thuộc
Bắc và Trung Việt Nam truyền giáo từ vài ngàn năm trước, Việt Nam chịu ảnh hưởng
Phật giáo rất sâu đậm, và điều này đi vào lịch sử, văn học, tinh thần dân tộc. Thời nhà Lý
cách đây một ngàn năm, Phật giáo từng là quốc giáo, và như vậy Phật giáo gắn liền với
triều đình nhà Lý.
Sang qua đời Trần, sau khi lật đổ nhà Lý, rất đáng tiếc là một cuộc tảo thanh toàn quốc
dòng tộc nhà Lý trở thành một cuộc thanh trừng Phật giáo, gây nhiều cảnh tang thương
đổ máu, có sách sử cho rằng từng có việc róc mía trên đầu các nhà sư trong thời kỳ này.
CXXXIV
Cách đây vài trăm năm, theo các thương thuyền từ Âu châu là các nhà truyền giáo thuộc
Công giáo. Lần nữa, tôn giáo lại bị gắn liền với chính trị, và khi chống việc xâm lăng từ
các quốc gia Âu châu, triều đình nhiều nhà vua Việt Nam lại chống luôn cả các nhà
truyền giáo, và Công giáo. Việc bắt đạo xảy ra rất khủng khiếp trong vài trăm năm,
nhiều trăm ngàn giáo hữu Công giáo bị thảm sát, dẫn đến việc truy tặng và phong thánh
cho 117 vị Thánh Công giáo tử vì đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Rome, do Đức Giáo
Hoàng John Paul Đệ Nhị chủ tọa.
Sang đến lịch sử Việt Nam thời hiện đại cũng có nhiều việc đáng tiếc xảy ra, và hiện nay
đại đa số nhân dân Việt Nam cho rằng Việt Nam vẫn không có tự do tôn giáo một cách
có thể chấp nhận được, và một cách toàn diện như trong các Tuyên ngôn, Hiệp ước, được
Liên Hiệp Quốc công bố.
5.2. Việt Nam Dân Quốc nên tránh khỏi các sai lầm trong lịch sử trong vấn đề tôn giáo,
lương tâm, và tín ngưỡng.
Vấn đề tôn giáo trong lòng dân tộc là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Do hiện nay đang có
rất nhiều tôn giáo trên thế giới, một số có liên quan mật thiết với chính trị và quân sự,
mọi người dân trong Việt Nam Dân Quốc phải hết sức quan tâm đến vấn đề ổn định tôn
giáo để có được ổn định quốc gia.
Các điều luật được viết ra sau này, và lối hành xử của Hành pháp, sẽ phải hết sức cẩn
thận để cùng lúc thực thi Quyền Tự do Tôn giáo, Lương tâm, và Tín ngưỡng, đồng lúc
phải tránh một số người hoặc đoàn thể lợi dụng tôn giáo cho các mục đích ích kỷ cho
riêng họ, nhóm họ, trong khi làm thiệt hại đến quyền lợi của số đông nhân dân và toàn
quốc gia.
Trước hết, tôn giáo phải hoàn toàn tách rời khỏi chính trị và luật pháp. Điều này có
CXXXV
nghĩa, không được viện dẫn tôn giáo hoặc các tư tưởng tôn giáo trong các cuộc tranh luận
chính trị và luật pháp, ngoại trừ các cuộc tranh luận về đề tài tôn giáo trong chính trị và
luật pháp, hoặc trong các vụ thưa kiện có tinh chất tôn giáo.
Các chức sắc tôn giáo cao cấp không được tham gia vào chính trị và luật pháp, không
được tham gia ứng cử vào các chức vụ dân cử, không được làm thẩm phán.
Các trường do tôn giáo thiết lập không được kỳ thị học sinh không thuộc tôn giáo của
trường, cũng không được thiên vị học sinh có cùng tôn giáo. Không được ép buộc học
tôn giáo của trường, mà chỉ có thể buộc phải học về tôn giáo nói chung. Các khóa học về
tôn giáo của trường phải đều là tự chọn, không được tính vào điểm số chung, điểm ra
trường, và không được dùng tiền chính phủ trợ cấp cho trường để dạy các lớp này.
Các cuộc hành lễ tôn giáo và tín ngưỡng phải được thực hiện trong các nơi riêng tư hoặc
định trước, chứ không được tổ chức nơi công cộng trừ khi có xin phép và được chính
quyền cấp thích hợp đồng ý.
Các cuộc biểu tình có tính chất tôn giáo đều không được thực hiện. Nếu có bất đồng ý
kiến giữa tôn giáo và chính phủ, chính quyền, thì có thể giải quyết qua các cuộc tranh
luận chính thức trong ôn hòa, hoặc nếu vẫn không thể giải quyết thì có thể đem ra tòa án.
Mọi hình thức thiên vị hoặc kỳ thị đều bị nghiêm cấm. Mọi người dân đều bình đẳng
trước pháp luật, bất kể họ thuộc tôn giáo nào, hoặc phi tôn giáo, hoặc kháng tôn giáo
trong thâm tâm (miễn là không bày tỏ ra nơi công cộng).
Để bảo vệ quyền lợi cho số đông dân chúng, Hội đồng Quốc gia với ít nhất 2/3 số phiếu
thuận có thể đặt một tôn giáo nào đó ra ngoài vòng pháp luật trong vòng 5 năm, với lý do
đó là một tà đạo hoặc tôn giáo đó có nhiều nghi lễ không phù hợp với thuần phong mỹ
tục Việt Nam, hoặc gây hại về tâm linh hay thể xác cho các giáo hữu tuân theo tôn giáo
CXXXVI
đó.
Tôn giáo nào bị ít nhất 2/3 Nghị viên trong Hội đồng Quốc gia Việt Nam nghiêm cấm
hành đạo tại Việt Nam trong 5 năm sẽ có cơ hội kêu gọi Trưng cầu Dân ý. Kết quả cuộc
Trưng cầu Dân ý với ít nhất 2/3 số phiếu sẽ là kết quả cuối cùng.
Các tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện, dạy giáo lý, giáo dục các cấp, đều được khuyến
khích thành lập. Các tổ chức tôn giáo quốc tể cũng được mời gọi mở văn phòng đại diện
tại Việt Nam, để có thêm hiểu biết, cảm thông giữa dân tộc Việt Nam và các dân tộc,
quốc gia khác trên thế giới.
Cho dù sẽ có nhiều luật chi tiết nhằm bảo vệ và phát triển các tôn giáo, tín ngưỡng tại
Việt Nam, một vài sự bất đồng có tính chất tôn giáo sẽ khó tránh khỏi. Hiến pháp 7 thiết
tha kêu gọi đồng bào Việt Nam trong các thế hệ sau này nên nhường nhịn và đặt lợi ích
quốc gia lên hàng đầu trong các cuộc thương thuyết giải quyết các bất đồng tôn giáo,
lương tâm, và tín ngưỡng.
Lợi ích của một tôn giáo nào đó không nên bị xem là sự thiệt hại của một tôn giáo khác
hoặc cho những người phi tôn giáo hoặc kháng tôn giáo. Có như vậy thì Việt Nam Dân
Quốc mới có thể phát triển đều hòa và mau chóng, nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho số
đông nhất trong dân chúng - đúng như tinh thần căn bản trên đó Bản Hiến pháp này được
thành lập.
- Nhân dân Việt Nam -
CXXXVII
Thư Quốc gia số 54
Tự do học hỏi
CXXXVIII
Thư Quốc gia số 55
Tự do hội họp
CXXXIX
Thư Quốc gia số 56
Tự do di chuyển
CXL
Thư Quốc gia số 57
Tự do thành lập hội đoàn
CXLI
Thư Quốc gia số 58
Tài sản và bất động sản cá nhân đều bất khả xâm phạm
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tại Việt Nam Dân Quốc, quyền sở hữu có thể tuyệt đối hoặc tương đối. "Quyền sở hữu
tuyệt đối" bao gồm các điều thiêng liêng, không nhìn thấy được như quyền sở hữu tính
mạng, đức tin tôn giáo, tình yêu Tổ quốc, tình yêu tha nhân, ông bà, cha mẹ, họ hàng, và
con cháu. Không ai, kể cả Chính phủ, có thể vi phạm hoặc hạn chế các Quyền sở hữu
tuyệt đối của bất cứ công dân nào. Không một Tòa án nào có thể ra lệnh cho một công
dân phải bãi bỏ hoặc giảm nhẹ đức tin, tình yêu của người đó cho bất cứ Thượng đế nào
người đó tin vào, hoặc người nào mà người đó tin yêu, tin tưởng - miễn người đó không
có bất cứ hành động nào trái pháp luật.
"Quyền sở hữu tương đối" bao gồm quyền sở hữu tài sản trực tiếp và gián tiếp. Các tài
sản trực tiếp là các tài sản có thể nhìn thấy được ngay trong hiện tại, ví dụ căn nhà, cơ
xưởng. Các tài sản gián tiếp là các tài sản chưa được hiện thực hóa, ví dụ thu nhập trong
tương lai, mùa lúa chưa gặt. Trong một vài trường hợp, các Quyền sở hữu tương đối này
có thể bị thu hồi bởi một quyết định của Tòa án, ví dụ như một người làm ăn thua lỗ có
thể bị tịch biên công xưởng để trả lại cho chủ nợ.
Thư Quốc gia số 58 này chỉ bàn đến Quyền sở hữu tương đối.
Tại Việt Nam Dân Quốc, Quyền sở hữu tương đối là một trong các chủ đề căn bản nhất
về Luật pháp trong các quan hệ xã hội. Quyền này định ranh giới giữa Luật pháp với
Lòng nhân đạo, Lòng biết ơn, Lòng yêu nước, và các đức hạnh khác nơi chủ đề có liên
quan đến việc chia sẻ tài sản với người khác.
CXLII
Có thể nói Quyền sở hữu tương đối là một quyền tựu trung vào cá nhân hoặc tập thể có
quyền sở hữu tài sản, bất động sản, thay vì tựu trung vào tha nhân như lòng nhân đạo,
biết ơn, yêu nước, v.v.. Nếu không có sự tựu trung này, một sự hổn loạn về định nghĩa
ranh giới quyền sở hữu sẽ xảy ra.
Chủ nghĩa Cộng sản chủ trương không công dân nào có bất cứ Quyền sở hữu tuyệt đối và
tương đối nào cả, vì tất cả mọi tài sản là của chung, và mọi người tuy phải cống hiến hết
mình cho xã hội nhưng chỉ được thụ hưởng các thành quả làm việc theo nhu cầu của
người đó. Do đó chủ nghĩa này tự bản chất tạo ra vô số bất công xã hội, vì sự cống hiến
hoàn toàn không có liên quan đến việc thụ hưởng các thành quả của chính sự cống hiến
này.
Chủ nghĩa Xã hội ít cực đoan hơn Chủ nghĩa Cộng sản, nhưng cũng cho rằng tài sản công
dân là của xã hội. Tuy Chủ nghĩa này công nhận một sự liên quan yếu ớt giữa sự cống
hiến và việc thụ hưởng thành quả, nhưng các thành quả sẽ do Chính phủ định đoạt và
Chính phủ có thể tùy ý tịch thu và hạn chế các thành quả này, ví dụ Chính phủ
CHXHCNVN từng tùy ý tịch thu tài sản, bất động sản, của rất nhiều công dân tại Miền
Bắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất và tại Miền Nam trong cuộc "đánh tư sản" sau khi họ
dùng vũ lực xâm lăng Miền Nam.
Các việc trên đây không được phép xảy ra tại Việt Nam Dân Quốc, nơi tất cả tài sản tuyệt
đối và tương đối đều bất khả xâm phạm, ngoại trừ khi có Tòa án thuộc Tư pháp tuyên bố
một số tài sản tương đối nào đó phải được tịch biên để đền bù cho chủ nợ, cho người bị
hại, hoặc để phục vụ cho lợi ích quốc gia và trong trường hợp sau cùng này người chủ tài
sản tương đối phải được Chính phủ đền bù một cách thỏa đáng.
Tại Việt Nam Dân Quốc, Luật pháp trải rộng ra trong mọi tình huống và quan hệ xã hội.
Luật pháp bao gồm nhiều khế ước xã hội mà mọi công dân phải tuân theo, vì lẽ mọi công
dân đều có quyền tham gia vào việc thay đổi Luật pháp, và Luật pháp vào bất cứ thời
CXLIII
điểm nào đều do đa số nhân dân Việt Nam lập ra trước đó. Ai vi phạm Luật pháp tức là
vi phạm các khế ước xã hội do đa số nhân dân Việt Nam lập ra, tức là vi phạm đến quyền
lợi của toàn dân và toàn quốc.
Luật pháp đòi hỏi tất cả mọi người đều có Quyền sở hữu tương đối các tài sản thuộc về
họ, do đó một người có lòng công chính sẽ trả lại cho xã hội, cho quốc gia, các điều và tài
sản thuộc về xã hội và quốc gia, ví dụ như tiền thuế, vì đó là tài sản quốc gia chứ không
phải của cá nhân người đó. Ngược lại, nhiệm vụ của các nhân vật thuộc Chính phủ là
phải bảo đảm cho toàn dân các Quyền sở hữu tương đối này, vì mục đích tốt đẹp cho toàn
xã hội.
Nếu đa số nhân dân và nhân viên Chính phủ đều làm như trên đây thì Việt Nam Dân
Quốc sẽ là một quốc gia hài hòa, mọi người tôn trọng tài sản của nhau, bảo đảm cho nhau
các tài sản riêng tư bất khả xâm phạm, toàn xã hội sẽ tốt đẹp, giàu có, thịnh vượng.
Chính phủ Việt Nam Dân Quốc có thể đặt ra các sắc thuế và đặt ra một vài nghĩa vụ, có
khi nặng nề, lên nhân dân, miễn là các điều này phục vụ cho sự cần thiết và lợi ích công
cộng, chứ không hơn như vậy. Điều "không hơn như vậy" bao gồm việc phục vụ cho bất
cứ cá nhân hoặc đảng phái nào.
Trong việc phục vụ cho lợi ích công cộng, Chính phủ Việt Nam Dân Quốc sẽ có quyền
bắt buộc các công dân phải tham gia vào việc quốc phòng, đóng góp một phần bất động
sản nào đó khi cần phải cất đường xá công cộng, miễn là các sự đóng góp và tham gia
này phải được đền bù thỏa đáng.
Ngõ hầu để tôn trọng và thi hành Luật pháp, Quyền sở hữu tương đối phải được tôn trọng
và nêu cao. Luật pháp, do đó, còn phải phụ thuộc vào Quyền sở hữu tương đối, và bao
gồm, như Aristotle từng viết, Quyền bình đẳng trong đó yêu sách của ít nhất một người
khác phải được thỏa ứng một cách công bằng và dứt khoát. Ví dụ tôi mượn một chiếc xe
đạp của một người láng giềng, tôi sẽ phải trả lại chiếc xe đạp đó, hoặc nếu vì lý do nào đó
CXLIV
tôi gây hư hại hoặc làm mất thì sẽ phải đền bù thỏa đáng, với cùng giá trị như nếu người
đó mượn chiếc xe đạp đó của tôi.
Nói khác đi, nếu mọi người không có Quyền bình đẳng trước Luật pháp, xã hội không
công nhận Quyền sở hữu tương đối, thì cũng không có Luật pháp - và ngược lại. Các
điều này bổ túc cho nhau, và cùng tồn tại.
Do đó, Luật pháp đầy đủ và thỏa đáng đòi hỏi phải có một sự phân biệt rõ ràng giữa
người chủ nợ và người mang nợ. Luật pháp không thể chỉ phục vụ cho một nhóm nào đó
chứ không cho toàn bộ xã hội, và Quyền sở hữu tương đối cũng vậy. Luật và Quyền này
phải được phân bố đồng đều trong mọi thành phần dân chúng.
Mọi của cải vật chất, thú vật, đều có thể thuộc Quyền sở hữu tương đối của công dân Việt
Nam Dân quốc. Quyền thu thập tài sản là một trong các Quyền cơ bản nằm trong Bản
Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam, và do đó không thể bị rút đi bởi bất cứ Chính
phủ nào được bầu lên dưới Hiến pháp 7.
Lập pháp chỉ có thể lập các điều luật nhằm điều hành và định nghĩa các Quyền sở hữu
tương đối, ví dụ bản quyền một quyển sách, một bài hát, chỉ có hiệu lực trong 20 năm sau
khi xuất bản lần thứ nhất, nhưng không thể bãi bỏ bất cứ Quyền sở hữu tương đối nào
miễn là tài sản này được tạo ra hoặc thu thập một cách hợp pháp. Chính phủ phải bảo vệ
và duy trì Quyền sở hữu tương đối, chứ không thể rút bỏ đi.
Không chỉ các cá nhân mà các hội đoàn, xã đoàn, công ty, cũng có Quyền sở hữu tuyệt
đối và tương đối. Cá nhân các công dân không thể một mình làm mọi việc cần thiết cho
nhu cầu an toàn, an ninh, và phẩm giá cho sự tồn tại của chính họ. Các cá nhân trong xã
hội cần phải thành lập, gia nhập các nhóm hội đoàn họ cảm thấy thích ứng. Các hội
đoàn, xã đoàn, công ty này một khi thành lập sẽ tự có thêm các Quyền sở hữu của nhóm
họ, trong đó sẽ có tài sản, bất động sản thu thập một cách chính đáng.
CXLV
Chính phủ có thể lập và thông qua một số điều luật nhằm điều hành và ngay cả hạn chế
một số Quyền này, ví dụ các cơ sở tôn giáo có thể không được có bất động sản quá gần
các trường học công cộng vì như vậy sẽ không công bằng cho các tôn giáo khác, nhưng
Chính phủ sẽ không thể rút bỏ bất cứ Quyền nào như vậy, ví dụ như không thể rút bỏ
Quyền sở hữu bất động sản của bất cứ tôn giáo nào nếu họ tuân theo các luật cho mọi tôn
giáo, như có bất động sản cách xa trường công cộng ít nhất 1 km.
Tài sản và bất động sản là các cộng sự vật quan trọng cho đời sống và giá trị công dân.
Tôn trọng tài sản và bất động sản công dân và hội đoàn là tôn trọng đời sống và giá trị
các công dân và hội đoàn trong một quốc gia. Do đó các công dân và hội đoàn tại Việt
Nam Dân Quốc sẽ có quyền Hiến định rằng tài sản và bất động sản của họ sẽ được bất
khả xâm phạm bởi bất cứ cá nhân và Chính phủ nào được bầu lên dưới Hiến pháp 7.
Luật pháp tại Việt Nam Dân Quốc là nhằm để bảo vệ trật tự, hòa bình, và tiến bộ. Cộng
thêm Quyền Bình đẳng dưới Pháp luật (xin xem Thư Quốc gia số 52), Luật pháp tại Việt
Nam Dân Quốc sẽ cung cấp cho Chính phủ nhiều quyền hành để đem lại công bằng, bình
đẳng cho mọi người, trong khi ngăn cản một cách hữu hiệu các con đường mòn xưa cũ
từng dẫn đến độc quyền, tha hóa, và bạo lực.
- Nhân dân Việt Nam -
CXLVI
Thư Quốc gia số 59
Quyền được kiện tụng luật pháp và nhân viên chính phủ
CXLVII
Thư Quốc gia số 60
Hạn định của nhân quyền
CXLVIII
Thư Quốc gia số 61
Việc tái phân định ranh giới và sát nhập các Thành phố
CXLIX
Thư Quốc gia số 62
Quyền lực tại Việt Nam sẽ được phân bố khắp địa phương
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Trong Manifest der kommunistischen Partei (Cộng sản Luận), Karl Marx viết: "Die
politische Gewalt im eigentlichen Sinne ist die organisierte Gewalt einer Klasse zur
Unterdrückung einer andern" (Quyền lực chính trị, gọi đúng nghĩa, chẳng qua chỉ là
quyền lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp một giai cấp khác).
Karl Marx tố cáo rằng xã hội tư bản thế kỷ 19 không cho phép mọi người bình đẳng trước
pháp luật, và mọi quyền lực chính trị, kinh tế, xã hội bị tập trung tại các chính phủ trung
ương do giai cấp Tư sản tạo ra và vĩnh viễn hóa. Các chính quyền địa phưong chỉ thực
thi các điều lệnh ban xuống từ trung ương, còn người dân vô sản hoàn toàn không có
quyền hành gì.
Karl Marx cho rằng giai cấp tư sản tạo ra một xã hội trong đó giai cấp tư sản (bourgeois)
bóc lột và đàn áp giai cấp vô sản (proletariat). Từ đó ông đưa ra chủ thuyết phải tạo một
xã hội toàn cầu trong đó không còn giai cấp, vì ngày nào còn giai cấp là sẽ còn đấu tranh
giai cấp triền miên, giai cấp thắng sẽ đàn áp giai cấp thua, người giàu hiếp đáp người
nghèo.
Tại Việt Nam, ông Hồ Chí Minh đưa ra mô hình "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ", vô tình hay hữu ý đã tạo ra giai cấp Đảng viên và giai cấp Không
Đảng viên; giai cấp trước đàn áp, hiếp đáp giai cấp sau và xã hội luôn có đấu tranh một
cách không lành mạnh giữa các thành phần trong hai giai cấp này như mọi người đều
thấy hiện nay.
CL
Giai cấp Đảng viên Việt Nam luôn giàu có, tự do tham nhũng, chiếm của công làm của
riêng, trở thành giai cấp Tư sản còn tệ hại hơn giai cấp Tư sản mà Karl Marx từng chỉ
trích nặng nề và muốn lật đổ; trong khi giai cấp Không Đảng viên trở thành giai cấp Vô
sản.
Họ vô sản không chỉ vì nghèo khó, bị đàn áp, bị bóc lột bởi giai cấp Đảng viên và các bạn
mà giai cấp này chọn lọc mời vào từ các quốc gia tư bản - chỉ những ai đồng ý đàn áp,
bóc lột giai cấp Không Đảng viên mới được mời gọi mà thôi, và phải chia chác lợi nhuận
cho giai cấp Đảng viên - mà còn vô quyền lợi xã hội, vô quyền lực chính trị và pháp luật.
Xã hội Việt Nam hiện nay với hai giai cấp này thực tế còn tệ hại hơn xã hội tư bản thế kỷ
19 mà Karl Marx hoạt động để loại trừ.
Như vậy, Karl Marx đã đúng khi muốn loại bỏ các bất công xã hội, nhưng ông bị sai chỗ
nào mà cả thế giới nay lên án Chủ nghĩa Cộng sản do ông đề xướng, cho rằng Chủ nghĩa
này tệ hại tương đương hoặc còn tệ hại hơn Đức quốc xã, vì thực tế Chủ nghĩa này giết
người nhiều hơn Đức quốc xã, Joseph Stalin và Mao Trạch Đông giết chính dân họ nhiều
hơn toàn bộ số người chết toàn thế giới trong chiến tranh thế giới thứ 2?
Karl Marx sai ở chỗ ông bị lẫn lộn giữa Bất Bình đẳng (inequality), Bất Công lý (unjust),
và Bất Công bằng (unfair).
Tư tưởng "Đảng lãnh đạo" của Hồ Chí Minh lại càng quá sai, sai từ căn bản, sai khi áp
dụng, gây Bất Bình đẳng, Bất Công lý, Bất Công bằng, hoàn toàn trái với tinh thần Cộng
sản Luận và mọi hình thức chính trị khác trong thế giới văn minh ngày nay do đó không
đáng bàn đến, tìm chỗ sai để sửa, mà phải hoàn toàn bị loại bỏ ra khỏi nền văn minh nhân
loại. "Tư tưởng Hồ Chí Minh" là điều đáng hổ thẹn cho Dân trí Việt Nam.
Marx rất đúng khi chống Bất Công lý và Bất Công bằng, nhưng ông sai ở chỗ chống luôn
Bất Bình đẳng trong việc chia sẻ tài sản xã hội. Ông cho rằng tài sản xã hội phải được
CLI
chia đều cho mọi người, theo NHU CẦU, chứ không theo ĐÓNG GÓP. Nói khác đi, ông
"cào bằng" mọi giai cấp, mọi thu nhập, và cho rằng mọi người trong quốc gia Cộng sản
phải được chia tài sản theo trung bình toàn quốc, và không có chỗ đứng cho những ai
muốn được chia tài sản cao hơn số nhu cầu họ cần thiết.
Do đó, Chủ nghĩa Cộng sản và biến thể là Chủ nghĩa Xã hội luôn bị rối loạn từ bên trong
- từ đó phải có đàn áp để tồn tại - vì luôn luôn có một số người nào đó muốn được chia tài
sản cao hơn số trung bình toàn quốc. Do luật lệ nghiêm cấm việc này, số người muốn
hưởng "hơn nhu cầu" này làm mọi cách để hiện thực hóa ham muốn của họ, nhưng chỉ
giai cấp Đảng viên mới có quyền, có thế lực thực hiện; trong khi đó giai cấp Không Đảng
viên chán nản vì họ làm nhiều nhưng không hưởng theo Nhu cầu, lại chẳng theo Đóng
góp, mà thông thường bị giảm thiểu do giai cấp Đảng viên thu đa số. Từ đó hai giai cấp
này tạo ra mâu thuẫn giai cấp không thể giải quyết trong gần 100 năm qua tại mọi quốc
gia theo một trong hai Chủ nghĩa này.
Có lợi thế từ ngoài quan sát, Hiến pháp 7 của Việt Nam Dân Quốc đồng ý với Karl Marx
ở chỗ phải loại bỏ Bất Công lý, Bất Công bằng, nhưng không đồng ý loại bỏ Bất Bình
đẳng khi việc này phản ảnh đúng khả năng và thực tế đóng góp của người dân (xin xem
Thư Quốc gia số 20). Cũng không đồng ý việc tập trung quyền hành vào một "Trung
ương cục" nào đó, mà phải phân bổ quyền hành quản trị xã hội xuống địa phương và tối
hậu nhất là vào tất cả cá nhân trong quốc gia, trong chừng mực luật pháp được mọi người
cùng chung sức sáng tạo ra.
(còn tiếp)
- Nhân dân Việt Nam -
CLII
Thư Quốc gia số 63
Về việc thành lập và bầu chọn chính quyền Thành phố
CLIII
Thư Quốc gia số 64
Các Thành phố có quyền tự trị nhưng phải tuân thủ các điều luật chung
cho toàn quốc
CLIV
Thư Quốc gia số 65
Về việc các Thành phố gởi đại diện lên Quốc hội
CLV
Thư Quốc gia số 66
Về việc quản trị lãnh thổ và liên minh dân sự giữa các Thành phố trong
nước, và với các đối tác bên ngoài
CLVI
Thư Quốc gia số 67
Về việc quản trị tài chánh tại các Thành phố
CLVII
Thư Quốc gia số 68
Về việc lập các sắc thuế có liên quan đến cư dân từ các Thành phố khác
CLVIII
Thư Quốc gia số 69
Về việc các Thành phố không được lập liên minh quân sự, quốc sự, với
bất cứ nơi nào ngoài lãnh thổ Việt Nam
CLIX
Thư Quốc gia số 70
Về việc chi phí hành chánh tại các Thành phố
CLX
Thư Quốc gia số 71
Cấu trúc Ngành Tư pháp1. Introduction
2. Lịch sử
3. Cấu trúc Ngành Tư pháp
4. Tòa án Địa phương
4.1. Thẩm phán Địa phương
5. Tòa án Thành phố
5.1. Thẩm phán Thành phố
6. Tòa án Quốc gia
6.1. Thẩm phán Quốc gia
7. Tối cao Pháp viện
7.1 Thượng Thẩm phán và Tối Thượng Thẩm phán
CLXI
Thư Quốc gia số 72
Phương cách tổ chức Tối cao Pháp viện và bầu chọn các Thượng Thẩm
phán
1. Giới thiệu
2. Lịch sử
3. Thành phần Tổ chức
4. Các Thươ/ng Thẩm phán
5. Vị Tối Thượng Thẩm phán
6. Quyền hành, Quyền hạn
7. Phương cách một Vấn đề được xem xét tại Tối cao Pháp viện
8. Các lời chỉ trích Tối cao Pháp viện
CLXII
Thư Quốc gia số 73
Tối cao Pháp viện xem xét tất cả hoạt động của Văn phòng Tổng thống,
Thượng viện, Hội đồng Quốc gia, và các chính quyền địa phương
1. Giới thiệu
2. Tối cao Pháp viện xem xét tất cả các hoạt động của Hành pháp
2.1. Các hoạt động của các Quận Huyện trưởng và chính quyền địa phương
2.2. Các hoạt động của các Thống đốc và chính quyền Thành phố
2.3. Các hoạt động của Thủ tướng và Văn phòng Thủ tướng
2.3. Các hoạt động của Tổng thống và Văn phòng Tổng thống
3. Tối cao Pháp viện xem xét tất cả các hoạt động của Lập pháp
3.1. Các hoạt động của các Nghị viên và Hội đồng Thành phố
3.2. Các hoạt động của các Nghị viên và Hội đồng Quốc gia
3.3. Các hoạt động của các Nghị sĩ và Nghị viện
4. Tối cao Pháp viện xem xét tất cả các hoạt động của các Tòa Quốc gia, Thành phố, và
Địa phương
4.1. Các hoạt động của các Thẩm phán và Tòa án Địa phương
4.2. Các hoạt động của các Thẩm phán và Toà án Thành phố
4.3. Các hoạt động của các Thẩm phán và Toà án Quốc gia
CLXIII
Thư Quốc gia số 74
Tối cao Pháp viện có quyền lực giải thích mọi vấn đề xảy ra trước và
sau khi có HP7, về các bộ luật, và hiệp ước của Việt Nam
1. Giới thiệu
2. Theo Điều . Hiến pháp .
3. Các bộ Luật
4. Các Hiệp ước không thuộc lãnh thổ Quốc gia
5. Các Hiệp ước có liên quan đến lãnh thổ Quốc gia
CLXIV
Thư Quốc gia số 75
Hệ thống Tư pháp Dân sự, Hình sự, và Quốc sự
CLXV
Thư Quốc gia số 76
Các vị Thẩm phán Quốc gia và Thẩm phán Thành phố
CLXVI
Thư Quốc gia số 77
Khi các vị Thẩm phán quốc gia và Thẩm phán Thành phố có sự khác
biệt quan điểm
CLXVII
Thư Quốc gia số 78
Ngành Tư pháp, liên quan đến các phiên tòa được quyết định bởi Bồi
thẩm đoàn
CLXVIII
Thư Quốc gia số 79
Khi các bộ luật Thành phố và Quốc gia có sự khác biệt
CLXIX
Thư Quốc gia số 80
Hạn định quyền lực của Ngành Tư pháp
CLXX
Thư Quốc gia số 81
Cấu trúc Ngành Lập pháp
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Ngành Lập pháp là một trong Tam Quyền tại Việt Nam Dân Quốc. Ngành Lập pháp bao
gồm Quốc hội và 64 Hội đồng Thành phố.
Quốc hội là cơ quan đứng đầu ngành Lập pháp. Quốc hội bao gồm hai viện: Nghị viện
và Hội đồng Quốc gia.
Quốc hội có lưỡng viện ngõ hầu để cân bằng quyền lực giữa các Thành phố. Mỗi Thành
phố được gởi hai Nghị sĩ vào Nghị viện, và mỗi 250 ngàn dân được gởi một Nghị viên
vào Hội đồng Quốc gia.
Như vậy, khởi đầu sẽ có 128 Nghị sĩ và 360 Nghị viên Quốc gia. Sau này nếu có sát
nhập các Thành phố, hay dân số gia tăng, số thành viên Quốc hội sẽ khác.
Nghị viện và Hội đồng Quốc gia có quyền lực ngang nhau Nghị viện chuyên soạn thảo
các Dự Luật có tính đối ngoại, trong khi Hội đồng Quốc gia thiên về đối nội. Tuy nhiên,
các Dự luật đều phải do lưỡng viện thông qua mới được gởi qua Tổng thống duyệt xét.
Một số Dự luật có tính kết hợp giữa đối ngoại và đối nội có thể được Uỷ ban Liên viện tại
cả hai viện đồng hợp tác soạn thảo.
Mỗi thành phố có Hội đồng Thành phố riêng, chuyên việc soạn các Bộ Luật Thành phố.
Các bộ luật này chỉ có hiệu lực trong Thành phố họ phục vụ mà thôi. Một số Dự luật có
CLXXI
tính kết hợp giữa các Thành phố có thể được Uỷ ban Liên pháp tại các Thành phố đồng
hợp tác soạn thảo.
Mỗi Hội đồng Thành phố bao gồm 100 Nghị viên Thành phố. Mỗi Khu dân cư được
chọn ra hai Nghị viên Thành phố. Như vậy toàn quốc sẽ được chia ra làm 3200 khu dân
cư, để tiện lợi cho việc gởi và nhận thư từ, bưu chính. Mỗi khu dân cư chọn ra một Nghị
viên Thành phố hàng năm trong cuộc bầu cử vào thứ ba đầu tiên của mỗi tháng 11.
1. Lịch sử
Quốc hội Khoá 1, cùng 64 Hội đồng Thành phố, 64 Thống đốc Thành phố, các Thẩm
phán Tòa Thượng thẩm Thành phố, các Thẩm phán Quốc gia của Việt Nam Dân quốc sẽ
được bầu cùng lúc với Tổng thống và 9 vị trong Tối cao Pháp viện.
Ban Biên tập Hiến pháp 7 rất hy vọng cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc Việt Nam sẽ diễn
ra vào tháng 11 năm 2012. Nếu được như vậy thì Quốc hội khoá 1 sẽ bắt đầu hoạt động
vào tháng 1 năm 2013.
2. Cấu trúc Tổng quát của Ngành Lập pháp
Tại mỗi lập pháp viện thuộc Thành phố và Quốc gia, nhiều Uỷ ban và Phân ban sẽ được
thành lập, mỗi đơn vị sẽ chuyên trách một số vấn đề đặc biệt của riêng đơn vị đó để tránh
trùng lập.
Một số Uỷ ban và Phân ban được liệt kê ra như sau:
Uỷ ban Thường vụ: chuyên về các việc thường nhật như soạn luật và lập lịch trình tranh
luận, biểu quyết.
CLXXII
Uỷ ban Chuyên pháp: chuyên nghiên cứu các vấn đề luật pháp có tính chuyên sâu, có liên
quan đến các bộ luật đang hoặc sắp được soạn ra.
Uỷ ban Nghiên cứu: chuyên nghiên cứu các vấn đề luật pháp, chính sách, có tính lâu dài
để nếu cần sẽ đệ trình Uỷ ban Chuyên pháp nghiên cứu soạn hoặc sửa các bộ luật có liên
quan.
Một số Phân ban thuộc Uỷ ban Chuyên pháp và Uỷ ban Nghiên cứu sẽ bao gồm:
Phân ban Ngân hàng, Tài chánh, và Bảo hiểm
Phân ban Ngân sách
Phân ban Phát triển Kinh doanh và Kinh tế
Phân ban Giáo dục
Phân ban Môi trường, Điện lực, và Nguồn nước
Phân ban Thực phẩm và Nông nghiệp
Phân ban Y tế
Phân ban An sinh Xã hội
Phân ban Pháp luật
Phân ban Lao động và Quan hệ Lao động
Phân ban Công chức và Người Hưu trí
Phân ban Gia đình, Trẻ em, Phụ nữ và Người Tàn tật
Phân ban Thuế vụ
Phân ban Giao thông
Phân ban Cựu chiến binh
Ngoài ra, mỗi viện trong Quốc hội còn có Uỷ ban Liên viện là cầu nối giữa Nghị viện,
Hội đồng Quốc gia, và Hội đồng Thành phố, chuyên trách các vấn đề có liên quan đến
các lập pháp viện Quốc gia và Thành phố.
CLXXIII
Tại các Hội đồng Thành phố còn có thêm Uỷ ban Liên pháp là cầu nối giữa các Nghị viện
Thành phố với nhau và với Quốc hội.
3. Cấu trúc Hội đồng Thành phố
Sau mỗi kỳ bầu cử hàng năm, Chủ tịch Hội đồng Thành phố sẽ là một Nghị viên Thành
phố do đảng có đa số ghế tại Hội đồng Thành phố chọn ra. Nếu có ít nhất hai đảng có
cùng số ghế đa số so với các đảng khác, Thống đốc Thành phố sẽ chỉ định vị này từ một
trong các Nghị viên Thành phố do các đảng có đa số ghế đề nghị.
Chủ tịch Hội đồng Thành phố sẽ chỉ định các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban thuộc Hội
đồng Thành phố.
Các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban này sẽ chọn lọc thành viên trong Uỷ ban và Phân ban
họ coi sóc, trong đó số Nghị viên Thành phố thuộc đảng họ chỉ có thể có tối đa 1/2 số
ghế. Khi có bình chọn một quyết định nào đó, các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban chỉ bỏ lá
phiếu quyết định nếu có số phiếu thuận và chống bằng nhau.
4. Cấu trúc Hội đồng Quốc gia
Sau mỗi kỳ bầu cử mỗi hai năm một lần, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia sẽ là một Nghị viên
Quốc gia do đảng có đa số ghế tại Hội đồng Quốc gia chọn ra. Nếu có ít nhất hai đảng có
cùng số ghế đa số so với các đảng khác, Thủ tướng sẽ chỉ định vị này từ một trong các
Nghị viên Quốc gia do các đảng có đa số ghế đề nghị.
Chủ tịch Hội đồng Quốc gia sẽ chỉ định các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban thuộc Hội đồng
Quốc gia.
CLXXIV
Các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban này sẽ chọn lọc thành viên trong Uỷ ban và Phân ban
họ coi sóc, trong đó số Nghị viên Quốc gia thuộc đảng họ chỉ có thể có tối đa 1/2 số ghế.
Khi có bình chọn một quyết định nào đó, các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban chỉ bỏ lá
phiếu quyết định nếu có số phiếu thuận và chống bằng nhau.
5. Cấu trúc Nghị viện
Sau mỗi kỳ bầu cử mỗi hai năm một lần, Chủ tịch Nghị viện sẽ là một Nghị sĩ do đảng có
đa số ghế tại Nghị viện chọn ra. Nếu có ít nhất hai đảng có cùng số ghế đa số so với các
đảng khác, Phó Tổng thống sẽ chỉ định vị này từ một trong các Nghị sĩ do các đảng có đa
số ghế đề nghị.
Chủ tịch Nghị viện sẽ chỉ định các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban thuộc Nghị viện.
Các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban này sẽ chọn lọc thành viên trong Uỷ ban và Phân ban
họ coi sóc, trong đó số Nghị sĩ thuộc đảng họ chỉ có thể có tối đa 1/2 số ghế. Khi có bình
chọn một quyết định nào đó, các Chủ tịch Uỷ ban và Phân ban chỉ bỏ lá phiếu quyết định
nếu có số phiếu thuận và chống bằng nhau.
4. Kiểm soát và cân bằng
Một tình trạng tốt đẹp nhất cho quốc gia là khi Tam Quyền cân bằng quyền lực, và cùng
hợp tác tìm tiếng nói chung, mỗi bên nhượng một chút, vì quyền lợi tối thượng của quốc
gia và nhân dân. Không có chỗ cho các tị hiềm cá nhân, chủ nghĩa bè phái, và nhất là trả
thù vụn vặt rất đáng xấu hổ và bị nghiêm cấm bởi Hiến pháp.
CLXXV
Trong nội bộ Lập pháp, một tình trạng cân bằng quyền lực cũng nên được ổn định. Khác
với nhiều lập pháp viện tại nhiều quốc gia khác, các lập pháp viện tại Việt Nam có tính
tương đồng, bình đẳng, không được chia thành Thượng viện hoặc Hạ viện. Mỗi viện đều
có nhiệm vụ riêng, trong đó nhiệm vụ cao cả nhất là Lập pháp theo ý nhân dân, thông qua
Hiến pháp và các điều luật định.
Nghị viện, Hội đồng Quốc gia, Hội đồng Thành phố tất cả đều bình đẳng, đều là công cụ
của nhân dân, do nhân dân lập nên, bầu chọn, kiểm soát, và nếu cần sẽ sa thải các thành
viên trong các lập pháp viện này.
5. Minh bạch trong Lập pháp
Các cuộc tranh luận và biểu quyết tại các lập pháp viện Quốc gia và Thành phố đều được
ghi âm, ghi hình, và mở rộng cho nhân dân vào tham gia như là các khán thính giả.
(còn tiếp)
CLXXVI
Thư Quốc gia số 82
Hội đồng Quốc gia
6. Quy trình biểu quyết
4.1. Nhiệm kỳ
4.3. Dự luật và Quyết định
4.4. Bỏ phiếu
5. Uỷ ban
6. Dịch vụ cho các người dân
7. Quyền lợi đặc biệt
CLXXVII
Thư Quốc gia số 83
Hội đồng Quốc gia (tiếp theo)
4. Nhân viên
4.1. Chủ tọa Thượng viện
4.2. Lãnh đạo các đảng phái
4.3. Các nhân viên tại Thượng viện
5. Trình tự
5.1. Các cuộc họp hàng ngày
5.2. Lịch hoạt động
5.3. Uỷ ban
6 Nhiệm vụ của Thượng viện
6.1. Nhiệm vụ soạn luật
6.2. Nhiệm vụ kiểm soát Hành pháp và Tư pháp
CLXXVIII
Thư Quốc gia số 84
Nghị viện
1. Lịch sử
Thượng viện của Việt Nam Dân Quốc là một trong Lưỡng viện thuộc Quốc hội, và Quốc hội là cơ quan Lập pháp cao nhất. Thượng viện chuyên soạn luật về đối ngoại, trong khi Hội đồng Quốc gia chuyên soạn luật về đối nội, tuy mọi Dự Luật đều phải được Lưỡng viện thông qua mới có thể gởi lên Tổng thống để xem xét ký thành Luật quốc gia.
Mỗi Thành phố được gởi hai Thượng Nghị sĩ lên Thưọng viện. Mỗi Thượng Nghị sĩ được phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ bốn năm. Hai nhiệm kỳ phải kế tiếp nhau, như vậy mỗi Thượng Nghị sĩ chỉ được tái tranh cử một lần duy nhất.
Thượng viện cùng với Hạ viện có thể tham gia vào một số hoạt động ngoài việc soạn và thông qua các Dự luật. Nếu có đủ ít nhất 2/3 số phiếu tại Lưỡng viện, mỗi nhân vật Quốc hội được bầu một phiếu, Lưỡng viện có quyền tổ chức Trưng cầu Dân ý, Truất nhiệm Tổng thống.
2. Thành viên 2.1. Tiêu chuẩn 2.2. Bầu cử và nhiệm kỳ 2.2.1. Nhiệm kỳ2.2.2. Bầu cử
2.3. Lời tuyên thệ 2.4. Lương bổng và phúc lợi 2.5. Truất nhiệm và các hình thức kỷ luật khác 2.6. Ghế trống 3. Đảng đa số và thiểu số
CLXXIX
Quốc hội có quyền lực trong các vấn đề tài chánh và ngân sách, bằng cách đặt ra các sắc
thuế quốc gia, sắc thuế tối đa các Thành phố có thể đặt ra cho riêng họ, chính sách thu
thuế, mượn và trả nợ.
Quốc hội quyết định ngân sách hàng năm, và Hành pháp phải chi tiêu trong hạn định này.
Đây là một phương cách để Quốc hội kiểm soát và cân bằng quyền lực với Hành pháp.
Quốc hội có quyền mượn nợ trên tín dụng của Việt Nam Dân Quốc, điều phối thương
mại với ngoại quốc và các Thành phố với nhau, cùng việc in tiền. Như vậy, Hành pháp
cai quản chính sách ngân khố, còn Quốc hội cai quản chính sách tiền tệ. Như vậy, Hiến
pháp buộc Nhị Quyền này phải hợp tác với nhau và không Đơn Quyền nào nắm quá
nhiều quyền hành trong việc điều hành kinh tế quốc gia.
Quốc hội với ít nhất 2/3 số phiếu thuận có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh với
ngoại bang, nhưng trong vòng ba ngày phải được Tổng thống cùng đồng ý. Tương tự,
Tổng thống cũng có quyền tuyên bố chiến tranh nhưng trong vòng ba ngày cũng phải có
ít nhất 2/3 phiếu Quốc hội ủng hộ.
Nếu Quốc hội và Tổng thống không đồng ý trong vòng ba ngày sau khi tuyên bố chiến
tranh thì trong vòng bảy ngày phải tìm sự đồng thuận và công bố một bản tuyên bố
chung. Nếu vẫn không đồng thuận sau bảy ngày thì trong vòng 14 ngày sau đó phải cho
tổ chức Trưng cầu Dân ý xem có nên tiếp tục chiến tranh hay không. Ý muốn của đa số
dân chúng sẽ là quyết định cuối cùng, cả Quốc hội và Tổng thống phải theo lệnh nhân
dân, không được chậm trễ.
Quốc hội có quyền soạn luật cho các binh chủng quân đội, các ngành cảnh sát và tình
báo.
CLXXX
Quốc hội với ít nhất 2/3 số phiếu thuận có quyền truất nhiệm Tổng thống, khi đó Tổng
thống có bảy ngày để quyết định sẽ từ nhiệm hoặc tổ chức Trưng cầu Dân ý về việc này.
Nếu Tổng thống quyết định triệu tập Trưng cầu Dân ý, tổ chức trong vòng 30 ngày, ý
muốn của đa số nhân dân sẽ là quyết định cuối cùng cho vấn đề truất nhiệm.
CLXXXI
Thư Quốc gia số 85
Nghị viện (tiếp theo)
CLXXXII
Thư Quốc gia số 86
Về việc truất nhiệm Tổng thống
CLXXXIII
Thư Quốc gia số 87
Về việc Lưỡng viện bác quyền phủ quyết của Tổng thống
CLXXXIV
Thư Quốc gia số 88
Về việc Lưỡng viện tổ chức Trưng cầu Dân ý
CLXXXV
Thư Quốc gia số 89
Về việc Lưỡng viện đồng ý hoặc không đồng ý phát động chiến tranh
với
ngoại bang
CLXXXVI
Thư Quốc gia số 90
Hạn định quyền lực của Lưỡng viện
CLXXXVII
Thư Quốc gia số 91
Cấu trúc Ngành Hành pháp
Kính thưa Quốc dân, Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Tổng thống Việt Nam Dân Quốc đứng đầu quốc gia và là vị Tổng Tư lệnh của tất cả mọi
binh chủng quân đội và cảnh sát. Tổng thống có nhiệm vụ thi hành các bộ Luật đã được
phê duyệt. Để làm việc này, Tổng thống bổ nhiệm (1) Giám đốc Văn phòng Tổng thống,
(2) Giám đốc các Hội đồng Cố vấn Quốc gia, (3) Giám đốc các Cơ quan và Ủy ban Hành
chính Quốc gia, (4) Thủ tướng và (5) Hội đồng Nội các trong đó có các Bộ trưởng, Thứ
trưởng. Tổng thống có đặc quyền thôi chức bất cứ ai trong Hành pháp mà không cần cho
biết lý do.
Phó Tổng thống chỉ giữ nhiệm vụ thay thế Tổng thống khi cần thiết, chứ không tham gia
vào việc điều hành Hành pháp trừ khi được Tổng thống yêu cầu.
A. Văn phòng Tổng thống
Mỗi ngày, Tổng thống phải trực diện với rất nhiều quyết định, mỗi điều như vậy đều có
ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống nhân dân và vận mạng quốc gia. Để giúp Tổng thống
lập quyết định sáng suốt nhất có thể được, Văn phòng Tổng thống với nhiều phân ban sẽ
giúp thu thập tài liệu, lập kế hoạch và trình lên Tổng thống các lời đề nghị khác nhau để
Tổng thống lập quyết định cuối cùng.
Văn phòng Tổng thống quản lý các Hội đồng Cố vấn Quốc gia, các Cơ quan và Ủy ban
Hành chính Quốc gia như sau.
3. Văn phòng Hội đồng Cố vấn Quốc gia
CLXXXVIII
Một số Hội đồng Cố vấn trực thuộc Văn phòng Tổng thống bao gồm: Kinh tế, An ninh
Quốc gia, Khoa học Kỹ thuật, Thương mại, Tình báo, Giáo dục.
Giám đốc các Hội đồng Cố vấn Quốc gia có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng thống trong các
quyết định chính sách quốc gia, tuy tất cả vẫn theo các điều do Hiến định và các điều
Luật.
Ví dụ, tuy vẫn phải sử dụng tối đa 20% ngân sách quốc gia cho giáo dục, Tổng thống có
quyền sắp xếp trong việc chi phí các ngân khoản, ví dụ một số phần trăm nào đó cho giáo
dục đại học, trung học, dạy nghề, xây cất trường lớp, v.v...
Giám đốc Hội đồng Cố vấn Giáo dục có nhiệm vụ phân tích các điều lợi hại trong các
ngân khoản chi tiêu cho từng nhóm và đệ trình lên Tổng thống. Tổng thống sẽ quyết
định và ra lệnh cho Thủ tướng thi hành.
Thủ tướng sẽ tùy ý sắp xếp và phối hợp nhiều Bộ trưởng để thi hành, ví dụ việc xây nhiều
trường mới phải có sự tham gia của Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Giao thông Vận tải, Khoa
học Kỹ thuật, Bất động sản và Phát triển Cộng đồng.
C. Văn phòng Cơ quan và Ủy ban Hành chính Quốc gia
Khoảng 100 Cơ quan và Ủy ban Hành chính Quốc gia hoạt động độc lập khỏi Hành pháp,
tuy Giám đốc các nơi này đều do Tổng thống bổ nhiệm. Các Cơ quan và Ủy ban này
thực hiện các nhiệm vụ trong các ngành: an sinh xã hội, quản lý thị trường, môi trường,
năng lượng, nông nghiệp, nhà đất, dược phẩm, thực phẩm, văn hóa, nghệ thuật, việc làm,
giáo dục, tiền tệ, thuế vụ, khoa học, kỹ thuật, du lịch, giải trí, tổ chức bầu cử, v.v...
Các Cơ quan và Ủy ban này độc lập khỏi Hành pháp để giữ tính liên tục các chính sách
CLXXXIX
quốc gia có tính chuyên môn cao. Điển hình nhất có lẽ là Cơ quan Quản lý An toàn
Dược và Thực phẩm.
Các chính sách, lời chỉ dẫn, của Cơ quan này không có tính chính trị, mà chỉ vì lý do
khoa học, do đó không cần thuộc Hành pháp. Cơ quan Bảo đảm An sinh Xã hội cũng có
chính sách, lời chỉ dẫn riêng cho các vấn đề hưu bổng, y tế miễn phí hoặc giảm giá kéo
dài nhiều năm, do đó hoàn toàn phi chính trị và không thuộc Hành pháp. Các Cơ quan và
Ủy ban này thiên về lập các lời chỉ dẫn có tính chính sách, trong khi các Bộ tuy cùng tên
nhưng thiên về thực thi các chính sách do các Cơ quan và Ủy ban này đề ra.
Việc này nhằm tránh việc các chính trị gia xen vào và chính trị hóa các vấn đề khoa học,
an sinh xã hội vốn càng tách rời xa chính trị càng tốt.
4. Văn phòng Nội các
Nội các chính phủ bao gồm 15 Bộ trưởng, 15 Thứ trưởng. Các Bộ bao gồm: Bộ Nông
Nghiệp, Bộ Kinh tế, Tài chánh, và Thương mại, Bộ Y tế, Bộ Năng lượng, Bộ Khoa học
Kỹ thuật, Bộ Giáo dục, Bộ Cựu Chiến binh, Bộ Bất động sản và Phát triển Cộng đồng,
Bộ An sinh Xã hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Thể thao, Bộ Lao động,
Bộ Công tố Quốc gia, Bộ An ninh Quốc gia. Bộ An ninh Quốc gia bao gồm Quân đội,
Cảnh sát, và Tình báo.
Việt Nam Dân quốc là một quốc gia Dân chủ Lập Hiến, do đó chính phủ dân sự kiểm
soát quân đội và cảnh sát. Tổng thống là Tổng Tư Lệnh Tối cao, do đó có quyền sa thải
bất cứ quân nhân hoặc cảnh sát nào mà không cần nêu lý do. Đây là đặc quyền Hiến
định.
(còn tiếp)
- Nhân dân Việt Nam -
CXC
CXCI
Thư Quốc gia số 92
Tại sao cần có Thủ tướng
CXCII
Thư Quốc gia số 93
Về chức vụ, quyền hạn, và nhiệm vụ của Tổng thống
Kính thưa Quốc dân và Đồng bào Việt Nam yêu quý,
Thư Quốc gia số 91 ghi rõ cấu trúc tổ chức Ngành Hành pháp. Bài này sẽ bàn về chức
vụ, quyền hạn, và nhiệm vụ của Tổng thống.
1. Lịch sử
Hiến pháp 7 (HP7) được viết ra lần đầu và công bố vào ngày 14 tháng 2, 2009, tại
Washington DC, Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ. Cho đến khi Ban Biên tập HP7 viết các
hàng chữ này vào tháng 10, 2009, HP7 vẫn chưa được biết đến nhiều tại hải ngoại và tại
Việt Nam.
Ban Biên tập HP7 hy vọng một cuộc Trưng cầu Dân ý trong và ngoài nước Việt Nam về
HP7 sẽ được thực hiện vào một lúc nào đó trong tương lai gần.
Nếu Nhân dân Việt Nam phê duyệt với tỉ lệ phiếu thuận ít nhất 2/3 tổng số phiếu bầu,
HP7 sẽ có hiệu lực lập tức. Một cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc sẽ xảy ra mau chóng sau
đó, chiếu theo Chương 8, và Ngành Hành pháp sẽ được thành lập chiếu theo Chương 5
của Hiến pháp 7.
2. Nhiệm vụ và Quyền hạn của Tổng thống
2.1. Quyền tham gia vào Lập pháp
HP7 cho phép Tổng thống quyền tham gia vào giai đoạn đầu và chót của tiến trình Lập
pháp, đò là quyền đề nghị Quốc hội soạn thảo Dự Luật, và quyền Phê duyệt hoặc Phủ
quyết các Dự Luật do Quốc hội thông qua. Tổng thống có quyền đưa ý kiến để Quốc hội
soạn Dự Luật. Một khi nhận được một Dự Luật đã được Quốc hội thông qua, Tổng thống
CXCIII
có ba sự lựa chọn:
2.1.1. Ký tên Phê chuẩn để Dự Luật trở thành Luật.
2.1.2. Phủ quyết Dự Luật. Tổng thống không thể thay đổi bất cứ điểm nào trong Dự
Luật, nhưng có thể Phủ quyết toàn bộ. Trong trường hợp Tổng thống Phủ quyết, nếu có
số phiếu thuận ít nhất 2/3 tổng số phiếu, Quốc hội có thể bác bỏ quyền Phủ quyết của
Tổng thống. Nếu bị bác bỏ quyền Phủ quyết trong Dự Luật đang tranh cãi, Tổng thống
phải ký tên phê chuẩn Dự Luật để trở thành Luật, và phải ban hành, thực thi điều Luật
này không được chậm trễ.
2.1.3. Trong vòng 14 ngày lịch, kể cả các ngày cuối tuần và nghỉ lễ, Tổng thống có
quyền tham vấn bằng văn bản với Tối cao Pháp viện và Quốc hội, xem một điều khoản
nào đó có Hợp Hiến hay không, hoặc yêu cầu Quốc hội giải thích hoặc sửa đổi. Tối cao
Pháp viện và Quốc hội phải có văn bản trả lời trong vòng 14 ngày lịch sau khi nhận được
lời yêu cầu, và Tổng thống có 14 ngày lịch sau đó để quyết định. Tổng thống chỉ có thể
tham vấn hoặc yêu cầu giải thích một lần, không giới hạn số điều khoản, cho mỗi Dự
Luật.
2.2. Quyền tham gia vào tiến trình Tư pháp
2.3.1. Tổng thống được quyền ân xá hoặc giảm án cho bất cứ công dân Việt Nam và
ngoại quốc nào đã bị Tư pháp xử tội, mà không cần giải thích.
2.3.2. Quyền Đặc miễn Hành pháp cho phép Tổng thống có quyền giữ bí mật trong 30
năm mọi vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia, không cần phải giải thích cho công
chúng, Lập pháp và Tư pháp.
2.3. Quyền Hành pháp
Nhiệm vụ chính của Tổng thống như là vị lãnh đạo tối cao của Việt Nam Dân Quốc sẽ là
CXCIV
đứng đầu ngành Hành pháp qua việc thực thi các điều luật do Quốc hội thông qua. Trong
tiến trình này, Tổng thống phải bảo đảm tất cả mọi điều luật, và lệnh hành pháp ông đưa
ra, phải tuân theo Hiến pháp.
2.3.1. Đối nội
Vào bất kỳ thời điểm nào, Tổng thống hoặc một đa số 2/3 trở lên tại Quốc hội đều có thể
quyết định tổ chức một cuộc Trưng cầu Dân ý xảy ra 30 ngày sau quyết định đó. Một đa
số 2/3 trở lên của cuộc Trưng cầu Dân ý sẽ là kết quả cuối cùng của mọi vấn đề quốc gia.
Chỉ Tổng thống mới có quyền thay thế Thủ tướng. Trong vòng 30 ngày sau khi được bầu
lên, Tổng thống vừa được bầu phải chỉ định xong tất cả mọi Bộ trưởng trong chính phủ.
Trước Ngày Đăng Danh tức là ngày thứ Ba lần hai trong tháng Giêng của năm sau cuộc
bầu cử, tất cả các Bộ trưởng sẽ phải hoàn tất việc nhận nhiệm sở của họ.
Là vị đứng đầu Hành pháp, Tổng thống có Đặc quyền Hành pháp sa thải bất cứ nhân viên
nào thuộc Hành pháp, bao gồm cảc vị được bầu lên như các Thống đốc Thành phố, hoặc
không được bầu lên như các vị Tướng trong Bộ An ninh Quốc gia mà không cần giải
thích lý do.
2.3.1.a. Văn phòng Hành pháp cuả Tổng thống
Mỗi ngày, Tổng thống phải đối mặt với hàng trăm vấn đề quốc gia và quốc tế, trong đó
có nhiều vấn đề có tính lâu dài nhưng cũng có các vấn đề cấp bách phải giải quyết ngay
lập tức. Để phụ giúp Tổng thống có được đầy đủ các thông tin trong nước và trên thế
giới, cùng với các lời đề nghị của các chuyên gia trong nhiều ngành quan trọng, Văn
phòng Hành pháp của Tổng thống được thành lập và bao gồm các văn phòng cố vấn sau
đây. Số văn phòng có thể được thêm bớt tùy tình hình quốc gia và quốc tế.
- Văn phòng cố vấn kinh tế.
- Văn phòng cố vấn môi trường.
- Văn phòng cố vấn các chính sách nội địa.
- Văn phòng cố vấn các chính sách đối ngoại.
CXCV
- Văn phòng cố vấn an ninh quốc gia.
- Văn phòng cố vấn ngân sách.
- Văn phòng cố vấn phòng trữ tội phạm và ma tuý.
- Văn phòng cố vấn các chính sách khoa học và kỹ thuật.
Giám đốc các văn phòng kể trên có nhiệm vụ soạn thảo bản báo cáo tóm lược hàng ngày
cho Tổng thống xem xét. Nếu cần, vào bất cứ lúc nào, Tổng thống có quyền gọi các vị
Giám đốc tư vấn các vấn đề văn phòng các vị Giám đốc đó chịu trách nhiệm, để Tổng
thống có thể có được các quyết định sáng suốt nhất có thể.
Khi một vị Tổng thống còn đang tại nhiệm, Giám đốc và toàn thể nhân viên các văn
phòng cố vấn không được công khai hoá các vấn đề đang được bàn thảo và bình luận về
các quyết định được Tổng thống thông qua.
Sau khi một vị Tổng thống thôi chức vụ, các vấn đề trong Văn phòng Hành pháp đều có
thể công khai hóa trừ khi có liên quan đến an ninh quốc gia; trong trường hợp đó, Văn
phòng Hành pháp của vị Tổng thống kế tiếp có thể ngăn chận nhưng việc này nên giảm
thiểu tối đa trong tinh thần minh bạch hóa chính quyền tại Việt Nam Dân Quốc.
2.3.1.b. Hội đồng Cố vấn Quốc gia
Hội đồng Cố vấn Quốc gia bao gồm nhiều nhân sĩ, chí sĩ, học giả Việt Nam và ngoại
quốc đang sống tại Việt Nam và nước ngoài. Tổng thống đích thân chọn lựa và thôi chọn
lựa các vị này. Văn phòng Hành pháp sẽ liên lạc và giải quyết các vấn đề lương bổng,
trao đổi ý kiến bằng văn bản hoặc dàn xếp cho Tổng thống liên lạc trực tiếp với các vị
này.
2.3.1.c. Cơ quan và Ủy ban Hành chánh Quốc gia
Ngoài ra, Tổng thống còn đứng đầu hàng trăm Cơ quan và Uỷ ban Hành chánh quốc gia,
với nhiệm vụ chính là đề ra các chính sách quốc gia, trong khuôn khổ các điều Luật được
phê duyệt trước đó.
Các Cơ quan và Uỷ ban này có quyền lực trên các cơ quan và ủy ban hành chánh địa
phưong tại các thành phố. Tổng thống có quyền thay thế các vị Giám đốc các cơ quan và
CXCVI
ủy ban này. Các Bộ trong Nội các lo về hoạt động và hiện thực hoá các chính sách do
các Cơ quan và Uỷ ban này đưa ra.
Một số Cơ quan và Uỷ ban Hành chánh Quốc gia bao gồm:
- Cơ quan chuyên trách trẻ em và gia đình.
- Cơ quan chuyên trách thuốc men và thực phẩm.
- Cơ quan chuyên trách về quản lý thị trường.
- Cơ quan chuyên trách về an sinh xã hội.
- Cơ quan chuyên trách về giáo dục.
- Cơ quan chuyên trách về giao thông.
- Cơ quan chuyên trách về môi trường.
- Cơ quan chuyên trách về bất động sản.
2.3.2. Chiến tranh và Đối ngoại
Tổng thống phải đứng ra bảo đảm cho nền độc lập quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, và thực thi
các bản hiệp ước.
Tổng thống phải điều đình các hiệp ước quốc tế, bằng cách chủ tọa các ủy ban đặc biệt.
Các ủy ban này có trách nhiệm trông coi các vấn đề thường ngày.
Tổng thống phải tham khảo thường xuyên với các ủy ban thích hợp tại Thượng viện, ngõ
hầu sau khi được thỏa thuận các hiệp ước này sẽ được thông qua mau chóng tại Thượng
viện.
Tổng thống có quyền hành, bởi và với sự tư vấn và đồng ý của Thượng viện, lập các bản
hiệp ước quốc tế, với điều kiện được Thượng viện thông qua với số phiếu thuận đạt ít
nhất 2/3 tổng số phiếu. Ngoài ra Tổng thống cũng, bởi và với sự tư vấn và đồng ý của
Thượng viện, chỉ định đại sứ và lãnh sự đại diện cho Việt Nam trên khắp thế giới.
CXCVII
Tổng thống là Tổng Tư Lệnh của quân đội. Tổng thống chủ trì các ủy ban và hội đồng
quốc phòng tối cao. Tổng thống có quyền Phủ quyết trong việc tăng chức, thay thế, hoặc
truất nhiệm các tướng lãnh quân đội theo sự đề nghị của Thủ tướng.
Tổng thống có quyền khởi động can thiệp quân sự chống lại một quốc gia khác. Khi đó,
Tổng thống phải thông báo cho Quốc hội về quyết định quân sự trong vòng 3 ngày sau
khi việc đó xảy ra. Trong vòng 7 ngày, một đa số 2/3 trở lên tại cuộc họp khoáng đại
Lưỡng viện Quốc hội sẽ công bố ủng hộ hoặc không ủng hộ quyết định dùng quân sự của
Tổng thống.
Nếu một quyết định không ủng hộ được Quốc hội công bố, Tổng thống sẽ có 7 ngày để
làm việc với Quốc hội về các khác biệt quan điểm. Nếu sau 7 ngày vẫn không có được sự
đồng thuận, một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc sẽ được tổ chức trong vòng 14 ngày xem
có nên tiếp tục chiến tranh hay không. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý sẽ là quyết định cuối
cùng, cả Quốc hội và Tổng thống phải tuân lệnh nhân dân, không được chậm trễ.
- Nhân dân Việt Nam -
CXCVIII
Thư Quốc gia số 94
Về chức vụ, quyền hạn, và nhiệm vụ của Tổng thống (tiếp theo)
3. Tiến trình chọn lựa Tổng thống
3.1. Điều kiện để ra tranh cử
Ứng cử viên Tổng thống:
- Phải là công dân Việt Nam từ lúc sinh ra, và phải sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam.
- Ít nhất phải 35 tuổi.
- Phải sống trên lãnh thổ Việt Nam trong ít nhất 20 năm.
- Chỉ có thể nhận tối đa hai nhiệm kỳ trong suốt cuộc đời.
- Phải tuyên thệ tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp Việt Nam hiện hành.
3.2. Tranh cử và đề cử
3.2.1. Các ứng viên Tổng thống không bị giới hạn số lần ra tranh cử, nhưng phải được ít
nhất 10% tổng số cử tri đề cử.
3.2.2. Các ứng viên có thể tự đề cử hoặc được một tổ chức, đảng phái nào đó đề cử. Các
cử tri chỉ có thể đề cử cho một ứng viên Tổng thống cho mỗi lần bầu cử.
3.2.3. Việc đề cử có thể xảy ra bằng giấy hoặc qua máy vi tính.
3.3. Bầu cử và tuyên thệ
3.3.1. Theo điều 3.2.1 trên đây, trong các kỳ Tiền Tổng Tuyển cử, sẽ không có quá 10
ứng viên tranh cử Tổng thống. Trong số này, bốn vị có số phiếu cao nhất sẽ được vào
tranh cử trong cuộc Tổng Tuyển cử, và một vị có số phiếu cao nhất sẽ được làm Tổng
thống trong nhiệm kỳ bốn năm.
3.3.2. Trước khi nhậm chức, Tổng thống phải tuyên thệ trung thành với quốc gia, nhân
dân, và tuân thủ Bản Hiến pháp hiện hành vào lúc đó.
CXCIX
3.4. Nhiệm kỳ và tổng số nhiệm kỳ
3.4.1. Tổng thống nhận nhiệm kỳ bốn năm, và chỉ có thể nhận tối đa hai nhiệm kỳ trong
suốt cuộc đời, và hai nhiệm kỳ này phải liên tiếp. Nếu không tái đắc cử ngay sau nhiệm
kỳ đầu tiên, vị Tổng thống sẽ không được tái tranh cử Tổng thống lần nào nữa.
3.5. Lương bỗng và Phúc lợi
3.5.1. Trong thời gian nhiệm chức, Tổng thống không được có bất cứ chức vụ dân sự hoặc công quyền nào khác, hoặc nhận bất cứ lương bổng nào ngay cả cho các sự phục vụ dân sự hoặc công quyền trước khi được bầu vào chức vụ. Các lương bổng này phải được bỏ vào một quỹ phó thác, và được giao lại cho Tổng thống mười năm sau khi rời chức vụ. Nếu Tổng thống rời chức vụ do bị truất nhiệm, số lương bổng này sẽ được sử dụng cho lợi ích công cộng.
3.6 Từ nhiệm, Truất nhiệm, và Thương tật
3.6.1. Trong trường hợp Tổng thống rời khỏi chức vụ do bị truất nhiệm, qua đời, hoặc từ chức, Phó Tổng thống sẽ trở thành Tổng thống.
3.6.2. Bất cứ khi nào Tổng thống viết cho Phát Ngôn viên Thượng viện và Hội đồng Quốc gia về việc ông không đủ khả năng tiếp tục đảm đương các trọng trách, Phó Tổng thống sẽ tiếp nhận chức Tổng thống Tạm nhiệm, cho đến khi Lưỡng viện Quốc hội bầu chấp thuận hoặc từ chối việc Tổng thống từ chức. Một đa số 2/3 trở lên sẽ cần thiết cho một trong hai quyết định này.
3.6.3. Sự truyền nối của chức vụ Tổng thống như sau: Phó Tổng thống, Phát Ngôn viên Thượng viện, Phát Ngôn viên Hội đồng Quốc gia, Tối Thượng Thẩm phán, và tám vị Thượng Thẩm phán theo phần trăm từ cao xuống thấp của số phiếu bầu nhận được khi được bầu vào chức vị.
3.6.4. Liên quan đến điều 3.6.3 trên đây, Tổng thống mới sẽ chỉ định Phó Tổng thống mới trong cùng một đảng chính trị của Tổng thống được nhân dân bầu lên, và vị Phó Tổng thống này sẽ phải được đa số phiếu thuận tại Lưỡng viện Quốc hội thông qua mới có thể nhiệm chức.
4. Sau nhiệm kỳ Tổng thống
4.1. Lương bỗng và Phúc lợi
CC
4.1.1. Sau khi thôi nhiệm, Tổng thống không được giữ bất cứ chức vụ nào trong cả Tam
Quyền trong suốt cuộc đời còn lại.
4.1.2. Sau khi thôi nhiệm, Tổng thống không được nhận bất cứ chức vụ hoặc bất cứ
lương bổng nào trong lãnh vực dân sự. Trong thời gian mười năm này, Tổng thống sẽ
nhận 65% lương bổng theo trị giá lương nhận được lần cuối trong thời gian nhiệm chức.
4.1.3. Sau khi thôi nhiệm, Tổng thống không được nhận bất cứ món quà, lương bổng,
chức vụ, danh hiệu, từ bất cứ cá nhân hoặc bất cứ quốc gia nào. Một vài ngoại lệ đặc biệt
có thể được cho phép trong từng trường hợp, và phải do phiếu bầu đa số tại Hội đồng
Quốc gia cho phép.
4.2. Thư viện Tổng thống
Mỗi Tổng thống sau khi rời nhiệm sở sẽ được cho xây dựng một thư viện, từ ngân khố
quốc gia, để lưu trữ các tài liệu, hồ sơ, băng thu âm, ghi hình, các tùy bút, các bài viết, bài
diễn văn, v.v... trong khi vị Tổng thống còn tại nhiệm, cũng như các việc nghiên cứu
giảng dạy sau khi rời nhiệm sở.
5. Lời kết về Chức vụ, Quyền hạn, và Trách nhiệm của Tổng thống Việt Nam Dân
Quốc
Là một quốc gia non trẻ, Việt Nam Dân Quốc sẽ còn phải học hỏi, thay đổi nhiều và sâu rộng trên
rất nhiều lãnh vực để có thể tạm gọi là một quốc gia vững mạnh trong vùng Đông Nam Á.
Trên bước đường dựng và giữ nước trong thời đại mới, sẽ có nhiều khiếm khuyết, sai lầm; nhiều
nhân sĩ, chí sĩ, học giả, yêu nước sẽ phải chịu nhiều oan ức, uy tín bị xúc phạm, tên tuổi bị chôn
vùi thậm chí bị ô danh trong thời gian rất dài trước khi được minh oan.
Nhằm hạn chế bớt các “nạn nhân của lịch sử” kể trên, Hiến pháp 7 kêu gọi sự thông cảm, đồng
cảm cho các chính trị gia trong buổi giao thời, trong đó có các nhân vật tầm cỡ quốc gia và các vị
CCI
Tổng thống.
Trong ít ra là năm nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Dân Quốc, ranh giới giữa đúng
hay sai, thiện hay ác, thiên thần hay ác quỷ trong chính trường, kinh tế, tài chánh, xã hội sẽ rất
khó phân biệt.
Trong thời gian đầu của tiến trình này, các bộ luật chưa hoàn thiện, việc thực thi luật pháp chưa
đi vào quy củ, “trên bảo dưới không nghe”, “phép vua thua lệ làng”, luật thành phố trái luật quốc
gia, luật các thành phố quá khác nhau hoặc dị biệt lẫn nhau, xích mích giữa dân cư các thành phố,
v.v... . Tất cả sẽ tạo thành một tình trạng khó phân biệt đúng sai, trong hành động cũng như
trong nhân cách.
Với sự sáng suốt của nhân dân Việt Nam chúng ta và một phần may mắn, chúng ta sẽ chọn được
các minh quân nhận chức vụ Tổng thống một cách xứng đáng.
Các vị này sẽ bỏ qua các tị hiềm cá nhân, phe phái, hy sinh các chủ ý cá nhân vì mục đích chung
cao cả hơn, nâng cao ngọn cờ chính nghĩa, công lý, công bằng, bình đẳng cho mọi ngưòi dân, dùng
tư cách và sự hiểu biết, chịu đựng uyên thâm để làm gương cho nhiều thế hệ và dần dắt dân tộc
Việt Nam đến các tầm cao mới trong nhân cách, sự hiểu biết, và hoạt động vì một quốc gia Việt
Nam phú cường trong vùng và trên thế giới.
Đối với các vị này, xin cho phép chúng tôi cúi đầu chào và chúc các vị may mắn. Tổ quốc sẽ ghi
công các vị, và cho dù kết quả có ra sao, chúng tôi cảm ơn quý vị vì những cố gắng và cống hiến
của quý vị trong khoảng năm nhiệm kỳ đầu tiên đầy khó khăn. Mong Thượng đế sẽ trả ơn cho
quý vị và nhân dân Việt Nam sẽ ghi danh quý vị vào thiên sử quốc gia và dân tộc.
CCII
- Nhân dân Việt Nam -
CCIII
Thư Quốc gia số 95
Về Quyền hạn của Thủ tướng
CCIV
Thư Quốc gia số 96
Về Quyền hạn của Thủ tướng (tiếp theo)
CCV
Thư Quốc gia số 97
Về Quyền Phủ quyết của Tổng thống
CCVI
Thư Quốc gia số 98
Về việc Tổng thống tổ chức Trưng cầu Dân ý
CCVII
Thư Quốc gia số 99
Hạn định quyền lực của Tổng thống
CCVIII
Thư Quốc gia số 100
Kết luận và vài điều khác
CCIX