Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

27
1 QUY HOCH TNG THTHULI ĐỒNG BNG SÔNG CU LONG TRONG ĐIU KIN BIN ĐỔI KHÍ HU-NƯỚC BIN DÂNG Đơn vthc hin: Vin Quy hoch Thuli min Nam Chnhim: Nguyn Ngc Anh Thi gian thc hin: 18 tháng (9/2009-3/2011) Đồng bng sông Cu Long (ĐBSCL) thuc lãnh thVit Nam và nm trong lưu vc sông Mekong. Sông Mekong dài 4.200 km, chy qua 6 nước là Trung Quc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Vit Nam, có din tích lưu vc 795.000 km 2 , trong đó vùng Châu th49.367 km 2 . ĐBSCL là phn cui cùng ca Châu thsông Mekong, bao gm 13 tnh/thành là Long An, Tin Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bc Liêu, Cà Mau và T.P Cn Thơ, vi tng din tích tnhiên khong 3,96 triu ha, chiếm 79% din tích toàn Châu thbng 5% din tích toàn lưu vc sông Mekong. ĐBSCL có vtrí rt quan trng trong phát trin kinh tế-xã hi ca cnước. Vi tim năng nông nghip to ln, trong nhng năm qua, ĐBSCL luôn đóng góp trên 50% tng sn lượng lương thc, quyết định thc hin thành công chiến lược an ninh lương thc Quc gia và chiếm chđạo trong xut khu go (hơn 90%), t2005 đến nay mi năm trung bình 4,5-6,0 triu tn. Đồng thi, ĐBSCL cũng cung cp khong 70% lượng trái cây, trên 40% sn lượng thusn đánh bt và trên 74,6% sn lượng thusn nuôi trng ca cnước. Ni bt lên nht trong kết qutăng trưởng ca vùng phi kđến sn lượng lúa t2005 đến nay luôn đạt trên 18,0 triu tn. Trong 20 năm trli đây, ctrung bình 5 năm ĐBSCL li tăng thêm khong 2,5 triu tn hay trung bình mi năm tăng thêm 500 ngàn tn. Năm 2010 ước đạt trên 21 triu tn. Tng sn lượng hi sn năm 2008 đạt trên 2 triu tn, trong đó sn lượng nuôi trng đạt trên 1,42 triu tn, đặc bit sn lượng cá da trơn tăng nhanh trong my năm va qua. Kim ngch xut khu toàn vùng năm 2008 đạt 4,176 tUSD, trong đó thy sn chiếm 65% sn lượng và 90% sn lượng xut khu cnước. Giá trcông nghip năm 2007 trên địa bàn đạt trên 85.820 tđồng. Công, nông nghip, xut khu phát trin đã đưa cơ cu kinh tế chuyn dch theo hướng tích cc, gim nông nghip, tăng công nghip và dch v, vi tlnăm 2008 vi nông-lâm-ngư nghip là 45,9%; công nghip-xây dng 21,3%; thương mi-dch v32,8%. Đặc bit khi nhìn li kết quchsnăng lc cnh tranh cp tnh (PCI) các năm gn đây, vùng ĐBSCL được đánh giá khá lc quan. Tm quan trng ca ĐBSCL đối vi cnước được thhin nh hưởng to ln ca vùng trong cán cân phát trin chung, trong đó, sn lượng lương thc không chluôn chiếm hơn 50% sn lượng toàn quc, mà còn nhvào sn định nên có ttrng an ninh lương thc cao hơn hn so vi 2 vùng Đồng bng sông Hng và Duyên hi min Trung. Tuy nm hlưu châu thsông Mekong, tha hưởng nhiu thun li tvtrí địa lý, ngun nước phong phú và được điu tiết tnhiên bi Bin H, bbin và vùng bin rng ln vi nhiu tài nguyên, đất đai bng phng, màu mđược phù sa bi đắp hàng năm, thy sn di dào vi nhiu ging loài..., song ĐBSCL cũng phi luôn đối

Transcript of Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

Page 1: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

1

QUY HOẠCH TỔNG THỂ THUỶ LỢI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU-NƯỚC BIỂN DÂNG

Đơn vị thực hiện: Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam Chủ nhiệm: Nguyễn Ngọc Anh Thời gian thực hiện: 18 tháng (9/2009-3/2011)

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc lãnh thổ Việt Nam và nằm trong lưu vực

sông Mekong. Sông Mekong dài 4.200 km, chảy qua 6 nước là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, có diện tích lưu vực 795.000 km2, trong đó vùng Châu thổ 49.367 km2. ĐBSCL là phần cuối cùng của Châu thổ sông Mekong, bao gồm 13 tỉnh/thành là Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và T.P Cần Thơ, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm 79% diện tích toàn Châu thổ và bằng 5% diện tích toàn lưu vực sông Mekong.

ĐBSCL có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Với tiềm năng nông nghiệp to lớn, trong những năm qua, ĐBSCL luôn đóng góp trên 50% tổng sản lượng lương thực, quyết định thực hiện thành công chiến lược an ninh lương thực Quốc gia và chiếm chủ đạo trong xuất khẩu gạo (hơn 90%), từ 2005 đến nay mỗi năm trung bình 4,5-6,0 triệu tấn. Đồng thời, ĐBSCL cũng cung cấp khoảng 70% lượng trái cây, trên 40% sản lượng thuỷ sản đánh bắt và trên 74,6% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của cả nước.

Nổi bật lên nhất trong kết quả tăng trưởng của vùng phải kể đến sản lượng lúa từ 2005 đến nay luôn đạt trên 18,0 triệu tấn. Trong 20 năm trở lại đây, cứ trung bình 5 năm ĐBSCL lại tăng thêm khoảng 2,5 triệu tấn hay trung bình mỗi năm tăng thêm 500 ngàn tấn. Năm 2010 ước đạt trên 21 triệu tấn. Tổng sản lượng hải sản năm 2008 đạt trên 2 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt trên 1,42 triệu tấn, đặc biệt sản lượng cá da trơn tăng nhanh trong mấy năm vừa qua.

Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng năm 2008 đạt 4,176 tỷ USD, trong đó thủy sản chiếm 65% sản lượng và 90% sản lượng xuất khẩu cả nước. Giá trị công nghiệp năm 2007 trên địa bàn đạt trên 85.820 tỷ đồng.

Công, nông nghiệp, xuất khẩu phát triển đã đưa cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm nông nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ, với tỷ lệ năm 2008 với nông-lâm-ngư nghiệp là 45,9%; công nghiệp-xây dựng 21,3%; thương mại-dịch vụ 32,8%. Đặc biệt khi nhìn lại kết quả chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) các năm gần đây, vùng ĐBSCL được đánh giá khá lạc quan.

Tầm quan trọng của ĐBSCL đối với cả nước được thể hiện ở ảnh hưởng to lớn của vùng trong cán cân phát triển chung, trong đó, sản lượng lương thực không chỉ luôn chiếm hơn 50% sản lượng toàn quốc, mà còn nhờ vào sự ổn định nên có tỷ trọng an ninh lương thực cao hơn hẳn so với 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung.

Tuy nằm ở hạ lưu châu thổ sông Mekong, thừa hưởng nhiều thuận lợi từ vị trí địa lý, nguồn nước phong phú và được điều tiết tự nhiên bởi Biển Hồ, bờ biển và vùng biển rộng lớn với nhiều tài nguyên, đất đai bằng phẳng, màu mỡ và được phù sa bồi đắp hàng năm, thủy sản dồi dào với nhiều giống loài..., song ĐBSCL cũng phải luôn đối

Page 2: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

2

mặt với không ít khó khăn và hạn chế trong điều kiện tự nhiên, với những tác động không nhỏ và khôn lường từ các hoạt động ở thượng lưu, và hơn cả là với các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ngay chính đồng bằng này.

Trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội ở ĐBSCL, những hạn chế về điều kiện tự nhiên là rào cản không nhỏ, nếu không muốn nói là cực kỳ to lớn, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân. Những hạn chế chính của điều kiện tự nhiên là (a) ảnh hưởng của lũ trên diện tích 1,9 triệu ha ở vùng đầu nguồn; (b) mặn xâm nhập trên diện tích khoảng 1,2-1,6 triệu ha ở vùng ven biển, ứng với độ mặn 4g/l; (c) đất phèn và sự lan truyền nước chua trên diện tích khoảng 1,2 triệu ha ở những vùng thấp trũng; (d) thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt trên diện tích khoảng 2,1 triệu ha ở những vùng xa sông, gần biển; và (e) xói lở bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi và ngày càng nghiêm trọng, cộng với nạn cháy rừng thường xảy ra, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng…

Để đáp ứng với nhu cầu phát triển của ĐBSCL, trong hơn 30 năm qua, nhiều công trình thủy lợi đã được đề xuất và xây dựng, đến nay diện tích ảnh hưởng mặn chỉ còn khoảng dưới 500.000 ha và diện tích ảnh hưởng chua phèn giảm đến mức tối thiểu chỉ còn dưới 100.000 ha. Đặc biệt, từ 1996, sau khi có Quyết định 99-TTg về phát triển thủy lợi kết hợp với giao thông và dân cư, phê duyệt quy hoạch kiểm soát và sử dụng nước lũ của Thủ tướng Chính phủ năm 1998, cộng với Quyết định 84/TTg về danh mục đầu tư thuỷ lợi trong giai đoạn 2005-2015, mở đầu cho hàng loạt công trình thuỷ lợi ra đời, là động lực và đòn bẩy quan trọng cho vùng ĐBSCL có cơ hội và điều kiện phát triển nhanh chóng hơn. Chính nhờ sự phát triển thủy lợi mang tính chiến lược ấy, cùng với ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật và động lực phát triển khác, ĐBSCL đã đưa sản lượng lúa từ 4,5 triệu tấn năm 1976 lên 18,3 triệu tấn năm 2004, 19,2 triệu tấn năm 2007 và 21,3 triệu tấn năm 2010, tạo những bước nhảy vọt mang tầm vóc lịch sử.

Song, với những biến động thiên nhiên và thị trường trong những năm qua, cùng với việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất với quy mô lớn và rộng khắp từ năm 2001 đến nay, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho công tác phát triển thủy lợi. Những vấn đề đó không chỉ là những bài toán đặt riêng ngành thủy lợi, như kiểm soát lũ, cấp nước, tiêu nước, kiểm soát mặn, phòng chống xói lở bờ... mà còn là sự phối hợp để giải bài toán đa mục tiêu với thủy lợi phục vụ cho phát triển nông nghiệp, dân cư, giao thông, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp... và đặc biệt là phục vụ phát triển thủy sản (mặn, lợ).

Thêm vào đó, trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu ngày càng thể hiện rõ nét và diễn biến phức tạp, đặc biệt là trên 2 yếu tố dòng chảy từ thượng lưu và nước biển dâng. Nếu như tác động của BĐKH lên giá trị trung bình xảy ra từ từ, phải mất hàng chục năm, thì tác động lên các giá trị cực trị xảy ra nhanh và ngày càng khốc liệt hơn. Trong 10 năm qua, ĐBSCL đã xuất hiện 3 năm lũ lớn liên tiếp là 2000, 2001 và 2002 (trong đó lũ năm 2000 được xem là lũ lịch sử); 8 năm liền có lũ dưới trung bình và nhỏ (trong đó có lũ năm 2008 và 2010 là 2 năm lũ nhỏ lịch sử); 8 năm liền dòng chảy kiệt dưới trung bình (trong đó năm 2004, 2008 và 2010 là những năm thấp hơn cả, gây hạn hán nghiêm trọng và xâm nhập mặn sâu); bão lớn đổ bộ vào 2 năm 1997 (Linda) và 2006 (Durian); xói lở bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi với số lần tăng hơn (trên sông Tiền các năm 2001, 2002, 2004, 2005, sông Hậu các năm 2009, 2010 và ven biển Cà Mau 2 năm gần đây); cháy rừng xảy ra vào năm 2002 ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng; tố lốc xuất hiện ngày càng nhiều và nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm.

Page 3: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

3

Do vậy, để đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn 2010-2020/2030 và tầm nhìn đến 2050, đặc biệt là ứng phó chủ động và hiệu quả với các tác động từ BĐKH, nước biển dâng và phát triển của các nước thượng lưu, trong đó có phát triển thuỷ điện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam thực hiện Dự án “Quy hoạch thuỷ lợi tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng”, được thực hiện trong 22 tháng, từ tháng 9/2009 đến tháng 6/2011.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một trong các Bộ đã sớm xây dựng chương trình thích ứng với BĐKH-nước biển dâng lên nguồn nước, ngập lụt, hạn hán, sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực và hiện đang tích cực thực hiện các quy hoạch thuỷ lợi thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho 3 vùng ĐBSCL, Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung.

Quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH, NBD là một dự án lớn và phức tạp, cả về quy mô phối hợp (đa ngành), trải rộng theo không gian (toàn ĐBSCL) và nhìn về tương lai (dự báo đến 2020/2030 và tầm nhìn đến 2050), trong khi các ngành khác hoặc chưa quy hoạch đến 2020, hoặc chưa quy hoạch ứng phó với BĐKH, NBD và lại phải thực hiện trong thời gian ngắn. Vì thế, trong quá trình thực hiện, Viện đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo với 13 tỉnh/thành ĐBSCL và tất cả các ngành liên quan, cũng như mời các chuyên gia trong và ngoài ngành tham dự để lấy ý kiến đóng góp cho quy hoạch này.

I. PHẠM VI QUY HOẠCH Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố là Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, dân số khoảng 18 triệu người. II. QUAN ĐIỂM - Xuất phát từ thực tế ở Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi ngày càng bất lợi của thời tiết, khí hậu, thuỷ văn; phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp (cây trồng, vật nuôi) của nhân dân các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; nâng cao giá trị sản xuất hàng hoá trên một đơn vị diện tích. - Điều chỉnh bổ sung quy hoạch thuỷ lợi trên cơ sở kế thừa, cập nhật, bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt theo Quyết định số 84/2006/QĐ-TTg ngày 19/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ; phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. - Điều chỉnh quy hoạch thuỷ lợi góp phần bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, tài nguyên đất vùng ĐBSCL; kết hợp hài hoà giải pháp công trình và phi công trình, nhất là các giải pháp về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; tận dụng hiệu quả các lợi ích do thiên nhiên mang lại (lũ mang phù sa, nguồn lợi thuỷ sản, vệ sinh đồng ruộng, sinh thái mặn và nuôi trồng thuỷ sản...); hạn chế tác hại do nước gây ra, nhất là hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, các tác hại do biến đổi khí hậu, nước biển dâng; bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững.

Page 4: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

4

- Ưu tiên điều chỉnh, bổ sung danh mục công trình nhằm khép kín, hoàn thiện các hệ thống thủy lợi lớn trong vùng đã được đề xuất trong Quyết định 84/2006/QĐ-TTg nhằm phát huy hiệu quả của các công trình; các công trình phát huy hiệu ích tổng hợp, phục vụ đa mục tiêu; các công trình, hệ thống có đủ năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đảm bảo các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và môi trường. - Các phương án quy hoạch phát triển thuỷ lợi tuy đã được lựa chọn nhưng vẫn là những phương án “mở” để có thể điều chỉnh, thay đổi khi cần thiết. Mỗi công trình, hệ thống công trình đề xuất cũng đều đáp ứng các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và môi trường. - Huy động mọi nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, các nguồn vốn hợp pháp khác trong nước và ngoài nước, đóng góp của người dân vùng hưởng lợi để đầu tư xây dựng công trình theo Quy hoạch.    III. MỤC TIÊU QUY HOẠCH 3.1 Mục tiêu chung - Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp trong tình hình mới, chủ động thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững; - Căn cứ nội Quy hoạch này, các ngành, các cấp xây dựng, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với định hướng phát triển chung của ĐBSCL nói riêng và lưu vực sông Mê Công nói chung; - Điều chỉnh, bổ sung các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi và kế hoạch thực hiện hàng năm giai đoạn 2010-2020; sau năm 2020 và định hướng đến năm 2050; - Đề xuất, kiến nghị các vấn đề còn tồn tại, tiếp tục nghiên cứu bổ sung quy hoạch nhất là trong điều kiện sử dụng nước thượng lưu sông Mê Công, tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai. 3.2 Mục tiêu cụ thể - Phát triển thuỷ lợi góp phần đảm bảo an toàn dân sinh, sản xuất, cơ sở hạ tầng cho khoảng 32 triệu dân ĐBSCL (ước tính đến năm 2050), trong đó khoảng 20 triệu dân vùng ngập lũ và 12 triệu dân vùng ven biển; - Hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi góp phần đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia; chủ động cấp nước, tiêu thoát nước, kiểm soát lũ, kiểm soát mặn ổn định cho 1,781 triệu ha đất lúa vùng ĐBSCL; chủ động nguồn nước đảm bảo lịch thời vụ và quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi (tập trung vào vụ 3 trong năm); đề xuất giải pháp cung cấp nước ngọt, nước mặn ổn định và bền vững cho khoảng 0,7 triệu ha diện tích nuôi trông thuỷ sản nước lợ và nước ngọt; - Hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê bao ngăn mặn ven biển và dọc sông, cùng với hệ thống cống điều tiết nhằm ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích, khai thác tốt nhất ba thế mạnh: Sản xuất lúa; Nuôi trồng thuỷ sản; Trồng và chế biến các loại rau, quả và thực phẩm đem lại hiệu quả cao;

Page 5: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

5

- Góp phần phục vụ ổn định xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của người dân nhằm ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng-an ninh trong vùng; - Chủ động các giải pháp ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, dòng chảy kiệt thượng lưu; - Đề xuất giải pháp phòng chống xói lở, bồi lắng và bảo vệ nguồn nước, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái; - Kết hợp hài hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình, đồng thời với việc tăng cường và thực hiện tốt công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu-nước biển dâng. IV. NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA QUY HOẠCH - Phối hợp với các ngành, các địa phương cập nhật, bổ sung quy hoạch phát triển trên cơ sở tiếp tục triển khai các công trình theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg. - Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thuỷ lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH-NBD phù hợp với Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. - Trên cơ sở định hướng Chiến lược phát triển thủy lợi, Chiến lược phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, triển khai hoàn thiện, khép kín hệ thống thuỷ lợi đã đề xuất trong Quy hoạch để phát huy nhiệm vụ thiết kế. Điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ của các công trình đã đề xuất đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Xây dựng mới các công trình phục vụ đa mục tiêu ứng phó với BĐKH-NBD. V. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THUỶ LỢI Ở ĐBSCL 5.1 Tình hình đầu tư thuỷ lợi ĐBSCL Ngày 09/02/1996, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 99/QĐ-TTg về “Định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng nông thôn vùng ĐBSCL”. Theo quyết định này, ngay từ 1996, nhiều công trình thủy lợi kết hợp với giao thông, đặc biệt là giao thông nông thôn và bố trí dân cư đã được triển khai, nâng cao hiệu quả của các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở cho vùng ĐBSCL. Ngày 21/6/1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 144/QĐ-TTg về phê duyệt “Quy hoạch về kiểm soát và sử dụng nước lũ vùng ĐBSCL giai đoạn từ nay đến 2010”. Với Quyết định này, sự đầu tư cho vùng lũ được đẩy mạnh, mà tập trung trước hết là vùng Tứ giác Long Xuyên. Chỉ trong 4 năm, 1996-1999, nhiều công trình trong hệ thống kiểm soát lũ vùng TGLX ra đời và đến nay, hệ thống kiểm soát lũ này đã khá hoàn chỉnh, bao gồm các tuyến thoát lũ ra biển Tây, các đập tràn kiểm soát lũ đầu vụ tuyến Vĩnh Tế, các cửa thoát lũ qua QL80 và ra biển… Tiếp đến, ngày 19/4/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 84/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt“Điều chỉnh bổ sung Quy hoạch thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020”, kèm theo Quyết định phê duyệt là danh mục đầu tư các công trình thủy lợi từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho các giai đoạn đến năm 2010 và 2020, trong đó giai đoạn 2006-2010 ưu tiên tập trung đầu tư cho 79 công trình, chủ yếu giải quyết những vấn đề cấp bách nhất về thủy lợi tại các địa phương ở ĐBSCL về các mặt như kiểm soát lũ, cấp nước tưới, tiêu, ngăn mặn, phòng chống sạt lở, nuôi trồng thuỷ sản…

Page 6: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

6

Theo vùng thủy lợi, các công trình được phân ra ĐTM 27 công trình, TGLX 16 công trình, BĐCM 27 công trình và vùng giữa ST-SH 9 công trình. Theo cấp quản lý, có 14 công trình/hệ thống công trình do Bộ NN&PTNT quản lý và 65 công trình/hệ thống công trình được giao cho địa phương quản lý. Theo đơn vị quản lý nguồn vốn, vốn do Trung ương quản lý chiếm khoảng 33% và vốn do các tỉnh quản lý 67%. Các công trình trong QĐ 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ được chia theo cấp quản lý gồm hai nhóm: (i) Nhóm do Bộ NN&PTNT quản lý gồm các công trình liên vùng, liên tỉnh với 14/79 công trình; (ii) Nhóm phân cấp cho địa phương quản lý nằm trong phạm vi từng tỉnh gồm 55/79 công trình. 5.2 Thành tựu phát triển thuỷ lợi ĐBSCL a. Những thành tựu đạt được: Cùng với các công trình thuỷ lợi được hình thành qua hàng trăm năm, trong hơn 30 năm đầu tư, xây dựng gần đây, với số vốn đầu tư lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, huy động cả từ Trung ương, địa phương và người dân, ĐBSCL đã hình thành một hệ thống công trình thủy lợi khá hoàn chỉnh, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của toàn đồng bằng. - Về tưới, khoảng trên 1,4 triệu ha (trên 90% diện tích vụ Đông-Xuân và Hè-Thu) đã được chủ động tưới bằng hệ thống kênh, cống các cấp, kể cả những vùng có khó khăn về nguồn nước như Tứ giác Hà Tiên, Nam Măng Thít, Quản Lộ-Phụng Hiệp, ven biển Đông, biển Tây, vùng phèn nặng ở trung tâm ĐTM, TGLX… Một số nơi do chưa chủ động được nguồn cấp ngọt từ sông chính nhưng cũng đã hình thành hệ thống bờ bao, cống bọng, thậm chí cống có quy mô khá lớn để trữ, giữ nước mưa, tạo điều kiện kéo dài thời gian có ngọt từ 6-7 tháng trước đây lên 9-10 tháng, thậm chí hơn 11 tháng trong năm. - Về kiểm soát lũ, ngay từ những năm đầu Thập niên 90 của Thế kỷ 20, đứng trước yêu cầu tăng vụ, đảm bảo sản xuất vụ Hè-Thu, người dân vùng ngập lụt ĐBSCL đã triển khai dạng bờ bao kiểm soát lũ đầu vụ (tháng Tám), mang lại hiệu quả thiết thực cho vùng ngập lũ. Đến nay, tuy việc phát triển hệ thống bờ bao kiểm soát lũ đầu vụ, kể cả nhiều nơi chuyển sang hình thức kiểm soát lũ cả năm ngay trong vùng ngập trung bình (từ 1,5-2,5 m) là tự phát, không theo quy hoạch, song, cùng với hệ thống kiểm soát lũ do Nhà nước đầu tư, trong đó có đê bảo vệ các khu dân cư tập trung, thì phải thấy rằng, kiểm soát lũ ĐBSCL là hướng đi đúng đắn, đã đạt những thành quả đáng kể, giúp ổn định và phát triển kinh tế-xã hội nói chung và sản suất nông nghiệp nói riêng trong vùng ngập lụt. Cùng với hệ thống các cụm dân cư được xây dựng theo chương trình dân cư vùng ngập lũ, hệ thống giao thông kết hợp thủy lợi đã kết nối các khu dân cư với hệ thống giao thông liên huyện, liên tỉnh và quốc gia, tạo thành địa bàn sinh sống vững chắc, an toàn và chủ động trong vùng ngập lũ. - Về tiêu nước, do còn nhiều vùng trũng thấp, vùng ảnh hưởng lũ lớn, nên hiện hệ thống tiêu thoát nước chỉ có thể phục vụ tốt cho khoảng 80% diện tích sản xuất nông nghiệp với mục tiêu sản xuất ổn định 2 vụ lúa Đông-Xuân và Hè-Thu. Những năm mưa lớn, lũ rút muộn thường gây khó khăn cho sản xuất ở ĐBSCL về thời vụ do chưa đáp ứng tốt khả năng tiêu thoát nước mưa, nước lũ. - Về hệ thống đê biển, đê cửa sông, vùng ven biển và cửa sông ĐBSCL đã từng bước hình thành hệ thống đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao và đang nâng dần lên khả năng chống chọi với nước dâng do bão. Nhiều tuyến đê đã phát huy tốt hiệu quả

Page 7: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

7

trong kiểm soát mặn và phòng tránh thiên tai, như các tuyến đê biển Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang… Các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, tuy hệ thống đê biển chưa khép kín nhưng từng đoạn tuyến cũng đã phát huy tác dụng tích cực trong bảo vệ sản xuất nông nghiệp. - Về cải tạo và phát triển vùng đất phèn, nhờ hệ thống thủy lợi, mặc dù có lúc, có nơi, do phát triển kênh và cống vùng phèn gây nên những tác động tiêu cực lên chất lượng nước trong vùng và lân cận, song, sau nhiều năm phát triển, đến nay, cơ bản chung ta đã hiểu và làm chủ được vùng đất phèn, biến những vùng đất phèn rộng lớn ở ĐTM, TGLX và BĐCM thành những vùng sản xuất lúa ổn định 2-3 vụ. Hiện chỉ còn một ít đất phèn nặng ở vùng rốn phèn ĐTM (Bắc Đông-Bo Bo), BĐCM (Hồng Dân, Phước Long)… nhưng cũng được sử dụng trồng tràm và cây công nghiệp. - Về kết hợp giao thông-thủy lợi-dân cư, nhờ thực hiện Quyết định 99/QĐ-TTg, hầu hết công trình thủy lợi xây dựng trong thời gian sau này ở tất cả các vùng đều có sự kết hợp khá tốt giữa nạo vét, nâng cấp kênh, xây dựng bờ bao với giao thông nông thôn, giao thông liên huyện, bố trí địa bàn dân cư…, đặc biệt ở vùng ngập lụt. - Về chống xói lở bờ biển, xói lở, bồi lắng sông, kênh, trong những năm qua đã có nhiều công trình kè được xây dựng, việc nạo vét cửa sông, dọc kênh cũng được thực hiện, mang lại hiệu quả nhất định trong bảo vệ các khu dân cư, các công trình ven biển, ven sông, đảm bảo khả năng cấp nước, thoát lũ của toàn hệ thống… - Về phòng chống cháy rừng, nhờ hệ thống đê bao, cống điều tiết nước và hệ thống trạm bơm, các Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Tràm Chim, U Minh Hạ, các khu Bảo tồn thiên nhiên Xẻo Quýt, Lung Ngọc Hoàng, Trà Sư… đã được bảo vệ khá tốt qua những năm gần đây. b. Những tồn tại trong quản lý quy hoạch và phát triển thuỷ lợi ĐBSCL: - Trong vùng ngập lũ trung bình, theo quy hoạch lũ chỉ sản xuất 2 vụ lúa (Đông-Xuân, Hè-Thu), lên bờ bao bảo vệ vụ Hè-Thu khi gặp lũ sớm (lũ tháng 8). Song trong những năm qua, diện tích bao đê kiểm soát lũ cả năm để sản xuất 3 vụ phát triển nhanh (thêm vụ Thu-Đông), đặc biệt ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp, tác động đến nhiều mặt về dòng chảy lũ, nước ngầm và môi trường. - Ở vùng ven biển, ở những nơi trước đây chỉ làm một vụ Mùa, nay nhờ có nước ngọt (trữ trong đồng hay chuyển từ sông vào) đã tăng lên 2 vụ khá ổn định (Đông-Xuân và Hè-Thu) trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, nhiều chân ruộng được người dân sản xuất 3 vụ (thêm vụ Xuân-Hè), khiến việc cấp nước cho vùng ven biển gặp rất nhiều khó khăn, kém ổn định. - Nhiều hạng mục công trình được thay đổi quy mô, chức năng và nhiệm vụ trong quá trình chuẩn bị đầu tư. - Các hệ thống công trình và nhiều công trình chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ. - Một số hệ thống công trình được xây dựng khá hoàn chỉnh nhưng việc quản lý vận hành hệ thống chưa được chú trọng. - Nhiều công trình, hệ thống công trình chưa thích ứng với điều kiện BĐKH, NBD trong 20-30 năm tới và xa hơn, đến năm 2050.

VI. KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU-NƯỚC BIỂN DÂNG 6.1 Diễn biến khí tượng-thuỷ văn ĐBSCL những năm gần đây

Page 8: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

8

Trong các thập niên gần đây, ĐBSCL đã và đang gánh chịu những tác động khá mạnh mẽ do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây nên, trong đó lũ có những biến động ngày càng lớn giữa năm lũ lớn và lũ nhỏ, bão nhiều và mạnh hơn, hạn hán nghiêm trọng hơn, cháy rừng, sạt lở bờ sông, tố lốc, triều cường... xuất hiện ngày càng nguy hiểm hơn. Chỉ tính trong 10 năm qua, ĐBSCL đã có: - 3 năm liên tiếp từ 2000-2002 có lũ lớn, trong đó năm 2000 là lũ lớn lịch sử. Trong dãy tài liệu mực nước nhiều năm tại Tân Châu và Châu Đốc từ 1924 đến nay, 3 năm lũ lớn liên tiếp, trong đó có lũ năm 2000 là điều khá đặc biệt, do trước đó cũng có những nhóm năm lũ lớn như vậy nhưng không lớn bằng. Tại Tân Châu, đỉnh lũ năm 2000 (5,06 m) chỉ đứng thứ 2 sau lũ 1961 (5,12 m), trong khi tổng lượng đạt đến 430 tỷ m3, lớn hơn lũ 1961 chừng 15 tỷ m3. - 7 năm liên tiếp, từ 2003 đến 2009, ĐBSCL có lũ dưới trung bình, trong đó tại Tân Châu năm 2006 có mực nước 4,00 m và năm 2008 chỉ đạt 3,65 m, thuộc năm cực nhỏ trong 70 gần đây. Lũ dòng chính nhỏ, tổng lượng nhìn chung chỉ đạt 80-90% tổng lượng trung bình, kéo theo mực nước lũ trong nội đồng cũng rất thấp, một vài năm hầu như nội đồng đói lũ (các năm 2003, 2008 và 2009, tổng lượng lũ chỉ đạt dưới 70% tổng lượng lũ trung bình). - 2 lần có bão lớn đổ bộ và ảnh hưởng đến ĐBSCL là bão Linda năm 1997 và bão Durian năm 2006. Theo thống kê, trong hơn 100 năm qua, ĐBSCL hứng chịu 3 trận bão đổ bộ trực tiếp, trong đó có trận bão năm 1904, cách bão Linda 93 năm, trong khi bão Durian chỉ cách bão Linda 9 năm. - 8 năm liền ĐBSCL gặp hạn, đặc biệt hạn kết hợp dòng chảy kiệt trên sông Mekong và xâm nhập mặn sâu vào năm 2004 và 2008. Diễn biến hạn-mặn đầu năm 2010 cũng cho thấy có xu thế gần với năm 2004. - Tố lốc xuất hiện nhiều và gây hậu quả nghiêm trọng. - Cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt đợt cháy rừng Vườn Quốc gia U Minh Thượng vào năm 2002 mà ảnh hưởng của nó đến nay vẫn chưa được khắc phục. - Sạt lở bờ biển, bờ sông xảy ra với số lần, số vị trí và cường độ cao, như sạt lở ven biển Tiền Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và gần đây là biển phía Tây của tỉnh Cà Mau. Sạt lở bờ sông, kênh cũng xẩy ra với cường suất cao, ảnh hưởng nhất định đến ổn định kinh tế-xã hội của nhiều địa phương, như sạt lở bờ sông Tiền tại Tân Châu, Hồng Ngự, Sa Đéc, Vĩnh Long… sạt lở trên Hậu tại Châu Đốc và trên QL91 thời gian gần đây… - Nước biển có xu thế ngày càng dâng cao, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại Vũng Tàu (biển Đông), mực nước biển trung bình 50 năm qua đã tăng khoảng 12 cm. Triều cường trên nền nước biển dâng ngày càng uy hiếp nghiêm trọng các vùng đất thấp, kể cả các thành phố ven biển ảnh hưởng triều như Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long… 6.2 Kịch bản biến đổi dòng chảy thượng lưu Tổng hợp các nghiên cứu, đánh giá của các tổ chức quốc tế, cân nhắc các kết quả chính thức của Ban Thư ký MRC được công bố gần đây nhất (tháng 9/2009 và tháng 4/2010), cân bằng các tác động do biến đổi khí hậu, phát triển hồ chứa và gia tăng cấp nước ở tất cả các nước thượng lưu, kịch bản chung cho dòng chảy đến Kratie cho các giai đoạn như Bảng 01.

Page 9: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

9

Bảng 01: Kịch bản biến đổi dòng chảy đến Kratie theo các nguồn khác nhau (%) Giai đoạn 2020 2030 2050 Dòng chảy mùa lũ (%) +5 +10 +15 Dòng chảy mùa kiệt* (%) -5 -10 -15/-20

(*) Để so sánh, tính toán thêm kịch bản kiệt năm 2050 giảm -30%.

6.3 Kịch bản nước biển dâng Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tháng 6/2009, với kịch bản phát thải trung bình B2, mực nước biển vùng ĐBSCL sẽ có sự gia tăng theo từng giai đoạn trong Bảng 02. Bảng 02: Kịch bản mực nước biển dâng trung bình và mực nước đỉnh triều tương ứng Giai đoạn Năm 2020 Năm 2030 Năm 2050

Trung bình Đỉnh triều Trung bình Đỉnh triều Trung bình Đỉnh triều Mực nước đỉnh triều biển Đông (cm)

12 14-18 17 22-25 30 38-42

Mực nước đỉnh triều biển Tây (cm)

12 12-15 17 17-22 30 30-26

Hình 01: Những vấn đề của ĐBSCL hiện nay

6.4 Hình ảnh ĐBSCL đến năm 2050 dưới tác động của BĐKH-NBD

6.4.1 Tác động đến xâm nhập mặn Kết quả tính toán xâm nhập mặn hiện trạng và năm 2050 cho thấy:

Page 10: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

10

Bảng 03: Tổng hợp diện tích xâm nhập mặn Max các tháng 2, 3, 4 theo độ mặn

Smax (g/l) Hiện trạng (ha) Năm 2050 (ha)

II III IV II III IV 0 – 1 1.599.641 1.650.377 1.478.580 1.452.789 1.425.452 1.311.993 1 – 4 575.280 576.725 527.594 553.611 509.859 489.184 4 – 8 452.614 418.415 431.741 543.078 532.545 502.178 8 – 12 230.722 219.322 227.672 305.688 256.475 341.097

12 – 16 209.850 149.480 203.106 175.545 186.587 197.840 16 – 20 199.253 153.172 187.692 160.931 198.951 153.369 20 – 24 86.380 92.803 137.759 170.323 197.270 154.479 24 – 28 334.924 96.014 97.138 371.134 178.815 238.200 28 – 32 126.199 455.825 483.922 86.152 333.625 414.435

> 32 5.138 7.867 44.796 750 420 17.224 Tổng DT 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000

Hình 01: Xâm nhập mặn ở ĐBSCL Bảng 04: Tổng hợp diện tích xâm nhập mặn Max các tháng 2-4 với độ mặn 1 và 4 g/l

Smax (g/l) Hiện trạng Năm 2050

Tháng II Tháng III Tháng IV Tháng II Tháng III Tháng IV

Tổng DT (ha) 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000 3.820.000

DT >1g/l (ha) 2.220.360 2.169.623 2.341.420 2.367.212 2.394.547 2.508.006

So với tổng DT (%) 58,12 56,80 61,29 61,97 62,68 65,65

DT >4g/l (ha) 1.645.080 1.592.898 1.813.826 1.813.601 1.884.688 2.018.822

So với tổng DT (%) 43,06 41,70 47,48 47,48 49,34 52,85

Hiện trạng xâm nhập mặn ĐBSCL Xâm nhập mặn ĐBSCL năm 2050

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

BIEÅN ÑOÂNG

> 2424201210

Thang ñoä maën (g/l)

4 82

BIEÅN

TAÂY

Cμ Mau

B¹c Liªu

Sãc Tr¨ng

R¹ch GI¸ CÇn Th¬

Trμ Vinh

BÕn Tre

Mü Tho

VÜnh Long

Cao L·nhT©n An

VÞ Thanh

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

ooooooooo

BIEÅN ÑOÂNG

> 2424201210

Thang ñoä maën (g/l)

4 82

BIEÅN

TAÂY

Cμ Mau

B¹c Liªu

Sãc Tr¨ng

R¹ch GI¸ CÇn Th¬

Trμ Vinh

BÕn Tre

Mü Tho

VÜnh Long

Cao L·nhT©n An

VÞ Thanh

Page 11: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

11

Bảng 05: Khoảng cách xâm nhập mặn (>4g/l) gia tăng giữa các kịch bản giảm dòng chảy kiệt so với hiện trạng khi nước biển dâng 30 cm (đơn vị: km)

Sông Giảm lưu lượng thượng lưu tại Kratie

-15% -20% -30% Tiền 19,9 25,7 29,9 Hậu 14,4 16,8 21,6

Bảng 06: Thay đổi diện tích xâm nhập mặn >4 g/l giữa các kịch bản giảm dỏng chảy kiệt so với Hiện trạng khi nước biển dâng 30 cm (đơn vị: 1.000 ha)

Diện tích Hiện trạng

Giảm lưu lượng thượng lưu tại Kratie -15% -20% -30%

Tổng Tăng Tổng Tăng Tổng Tăng > 4g/l 1.691 1.987 +296 2.072 +381 2.146 +455

Tổng DT 3.820 3.820 7,7% 3.820 10,0% 3.820 11,9%

Hình 02: Ranh giới xâm nhập mặn đến 2050 với các kịch bản giảm dòng chảy kiệt thượng lưu khác nhau  

- Ứng với kịch bản dòng chảy kiệt thượng lưu giảm 15%:

Page 12: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

12

- Đối với ranh mặn cao nhất: + Độ mặn 1 g/l: Trên sông Tiền qua TP. Vĩnh Long 11 km (cao hơn hiện nay 27 km) và trên sông Hậu qua TP. Cần Thơ 5 km (cao hơn hiện nay 20 km). + Độ mặn 4 g/l: Trên sông Tiền qua TP. Mỹ Tho 17 km (cao hơn hiện nay 20 km) và trên sông Hậu ngang TP. Cần Thơ (cao hơn hiện nay 15 km). - Đối với diện tích ảnh hưởng mặn lớn nhất: + Độ mặn >1 g/l: Diện tích ảnh hưởng mặn chiếm 66,6% (tăng 386.600 ha so với hiện nay, tương ứng 10,1% diện tích). + Độ mặn >4 g/l: Diện tích ảnh hưởng mặn chiếm 52,4% (tăng 311.652 ha so với hiện nay, tương ứng 8,2% diện tích). - Đối với sản xuất nông nghiệp: Khoảng 4/5 diện tích vùng BĐCM (trừ Tây sông Hậu), toàn bộ các Dự án Gò Công, Bảo Định, Bắc Bến Tre, Mỏ Cày, Nam Măng Thít, Tiếp Nhật,... bị mặn trên 4 g/l bao bọc và xâm nhập. - Đối với cấp nước dân sinh: Ngoài các đô thị Bến Lức, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, thêm Mỹ Tho, Vĩnh Long và Cần Thơ bị mặn.

6.4.2 Tác động đến ngập lụt Ứng với lũ thượng lưu tăng 15% đến năm 2050, kết quả mô phỏng thuỷ lực cho

thấy, do lũ tăng 15%, mực nước lũ tuỳ từng vùng có thể tăng 30-40 cm. Do mực nước biển dâng, mực nước trong đồng bằng có thể tăng 12-17 cm. Tổng hợp tác động bởi 2 yếu tố trên, mực nước ngập lụt ở ĐBSCL đến năm 2050 có thể gia tăng từ 50-60 cm. Điều này dẫn đến: - Đối với diện tích ngập lụt: + Độ ngập >0,5 m: Diện tích ngập lên đến 3.197.473 ha (chiếm 83,7% diện tích toàn đồng bằng), tăng 407.827 ha so với hiện trạng (tương ứng 10,6% diện tích). + Độ ngập >1,0 m: Diện tích ngập lên đến 2.463.555 ha (chiếm 64,5% diện tích toàn đồng bằng), tăng 660.636 ha so với hiện trạng (tương ứng 17,3% diện tích). - Đối với mức độ ngập lụt: + Sản xuất nông nghiệp: Các vùng ảnh hưởng lũ mạnh như ĐTM, TGLX và GSTSH mức độ ngập lũ sẽ nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng đến SXNN sẽ lớn hơn. + Đô thị: Ngoài các độ thị như Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh thường xuyên ảnh hưởng bởi ngập lũ, sẽ có thêm Sa Đéc, Vĩnh Long, Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vị Thanh, Sóc Trăng, Rạh Giá và Hà Tiên bị ngập trên 1,0 m, trong đó nghiêm trọng nhất là 2 thành phố Cần Thơ và Vĩnh Long. + Thoát nước: Trong mùa lũ, việc thoát nước của các độ thi đã rất khó khăn, nay do BĐKH-NBD, việc thoát nước càng khó khăn hơn. Các đô thị gồm Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau việc tiêu thoát nước sẽ vô cùng khó khăn và chắc chắn phải nhờ đến sự hỗ trợ của tiêu động lực. - Đối với thời gian ngập (xét với mức ngập >0,5 m): + Đầu lũ (tháng VIII): Diện tích ngập đã lên đến 2.861.633 ha (chiếm 74,9% diện tích toàn đồng bằng), tăng 863.148 ha so với hiện nay (tương ứng 22,6% diện tích). + Cuối lũ (tháng XI): Diện tích ngập vẫn còn 2.711.685 ha (chiếm 71,0% diệ tích toàn đồng bằng), tăng 678.180 ha so với hiện nay (tương ứng 17,8% diện tích). - Đối với diễn biến lũ: + Lũ xuất hiện sớm hơn từ 0,5-1,0 tháng.

Page 13: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

13

+ Lũ rút sẽ chậm hơn hơn từ 0,7-1,2 tháng. + Như vậy, thời gian ngập lũ hiện nay kéo dài từ 2-5 tháng sẽ tăng lên từ 5-7 tháng.

Hình 03: Ngập lụt ĐBSCL  

6.5 Những tác động khác từ BĐKH và phát triển thượng lưu đến 2050 - Một khi hệ thống hồ chứa thượng lưu ĐBSCL được hoàn thành, tác động của chúng đến ĐBSCL là cực kỳ to lớn, cả những tác động tích cực và tác động tiêu cực. Những tác động tích cực như điều hoà dòng chảy lũ-kiệt đối với năm trung bình làm giảm lũ và tăng kiệt xuống hạ lưu có thể được ghi nhận, song còn nhiều vấn đề cũng cần được đánh giá kỹ hơn. Song, những tác động tiêu cực thì hình như là khá rõ ràng và có thể nhận biết ngay, đó là: - Biến lũ vào ĐBSCL từ lũ trung bình thành lũ nhỏ, lũ nhỏ thành không lũ. ĐBSCL là đồng bằng tồn tại và phát triển nhờ lũ. Nếu không có lũ, nhịp sống của ĐBSCL này bị đảo lộn và sẽ nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường và dòng chảy mùa kiệt. Trong khi đó, với những trận lũ lớn (như lũ 1961, 1978, 2000…) thì hầu như hệ thống hồ chứa không cắt được lũ mà còn làm cho lũ lớn hơn. Điều này dẫn đến lũ hàng năm ở ĐBSCL ngày càng có sự chênh lệch nhiều hơn, lũ lớn càng lớn hơn và lũ nhỏ càng nhỏ hơn. Hậu quả là ĐBSCL phải đối mặt với các mùa lũ rất khác xa nhau, chênh lệch mực nước hàng năm ngày càng lớn hơn, khiến gia tăng xói lở và mất ổn định lòng sông. - Giảm phù sa: Theo đánh giá của MRC, lượng phù sa, đặc biệt là phù sa đáy (chủ yếu là cát xây dựng) xuống ĐBSCL sẽ giảm dần và đạt mức giảm lớn nhất là khoảng 40% so với hiện nay do hệ thống hồ chứa thượng lưu, ít nhất là trong khoảng 50 năm đến, sau đó có thể ổn định và tăng trở lại. Giảm phù sa kéo theo giảm chất lượng bồi bổ đồng ruộng và gia tăng xói lở lòng sông, bờ biển, đặc biệt là làm giảm mức độ tiến ra biển của mũi Cà Mau như hiện nay.

Hiện trạng ngập lụt ĐBSCL (lũ 2000) Ngập lụt ĐBSCL năm 2050

Page 14: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

14

- Giảm lũ đầu vụ (tháng VIII): Lũ đầu vụ (tháng VIII) nếu lớn sẽ ảnh hưởng đến thu hoạch vụ Hè-Thu, song nếu nhỏ hoặc biến mất thì vô cùng nguy hại, đặc biệt đến hàm lượng phù sa (vì 60-70% lượng phù sa trong năm tập trung vào 3 tháng đầu mùa lũ), chất hữu cơ cho đồng ruộng, thức ăn cho thuỷ sản, nguồn giống và sự trưởng thành thuỷ sản tự nhiên.Ngoài ra, nước lũ về sau tháng VIII sẽ là nước lũ trong hơn nên khả năng đào xói cũng mạnh hơn. - Suy giảm chất lượng nước: Theo đánh giá của MRC, chất lượng nước của hạ lưu Mekong, đặc biệt vùng châu thổ sẽ có xu thế giảm, rõ rệt nhất là từ sau năm 2030. - Suy giảm diện tích đất ngập nước: ĐBSCL tuy diện tích đất ngập nước tự nhiên hiện không còn nhiều, ngoài rừng ngập mặn ven biển còn một số Vườn Quốc gia như U Minh Thượng, U Minh Hạ, Tràm Chim và Khu Bảo tồn tự nhiên như Lung Ngọc Hoàng, Láng Sen, Trà Sư…, song đều có ía trị cao về mặt bảo tồn đa dạng sinh học. Hệ thống hồ chứa thượng lưu sẽ tác động nhất định đến diện tích (làm giảm 640 ha) và chất lượng các vùng đất ngập nước ở ĐBSCL. - Gia tăng những vấn đề nóng về môi trường: Do sự tác động đến dòng chảy và chất lượng nước theo xu thế gia tăng cực trị, sự vận hành của hệ thống hồ chứa thượng lưu cũng sẽ gây nên và làm tăng thêm những vấn đề nóng về môi trường, đặc biệt vấn đề xuyên biên giới. - Suy giảm những loài di cư: Các đập trên dòng chính, cho dù được xử lý có đường cho cá đi, cũng sẽ gây những tác động tiêu cực lên các loài di cư, đặc biệt các loài di cư từ thượng xuống hạ lưu và ngược lại trong năm, trong đó, những loài cá có kích thước lớn (như cá vược, cá hô...). - Giao thông thủy: Giao thông thuỷ có lẽ là ngành bị ảnh hưởng lớn nhất bởi sự xây dựng và vận hành của hệ thống hồ chứa thượng lưu. Mặc dù có thể bố trí âu thuyền, nhưng sự lưu thông của tàu thuyền có những ảnh hưởng không nhỏ. Ngoài ra, còn là tác động của vận hành hồ chứa, trong đó có sự đóng, mở đột ngột các turbine phát điện và tràn xả lũ.

6.6 Các tác động tiêu cực lên vùng ĐBSCL do BĐKH-NBD đến 2050 - Hàng nghìn năm qua, ĐBSCL có được nhờ dòng nước của sông Mekong và bồi đắp dần từ phù sa sông, bởi vậy mà hàng năm đều lấn ra biển ít nhiều. Đất liền ngày càng mở rộng (xu thế bồi nhiều hơn xu thế xói, diện tích bồi nhiều hơn diện tích xói), dòng sông ngày càng tiến ra biển. Tuy nhiên, do áp lực giảm dòng chảy lũ và dòng chảy trung bình hàng năm (là dòng chảy tạo lòng), lượng phù sa tự thượng lưu và nước biển dâng, khiến xu thế này bị chặn lại và có nguy cơ diễn biến theo chiều ngược lại. Những thay đổi về mực nước biển, về xói lở gia tăng, về mặn xâm nhập sâu hơn… trong thời gian gần đây cho thấy đất liền và biển ở ĐBSCL đang trong xu thế tranh chấp gay gắt, đang trong một cân bằng động mà có thể bị phá vỡ bất kỳ lúc nào, nếu có sự thắng thế của bên kia. - Do NBD làm gia tăng biên độ triều (từ 3,5-4,0 m hiện nay lên 4,0-4,5 m trong tương lai), khiến tăng nguy cơ xói lở bờ sông, bờ biển. - Hệ thống đê biển hiện nay có cao trình còn thấp so với yêu cầu (3,5-3,8 m ven biển Đông và 2,2-2,4 m ven biển Tây) nên đều có thể bị ngập do NBD. Vì thế phải được xem xét nâng lên thêm từ 0,6-1,2 m ở biển Đông và 0,4-0,6 m ở biển Tây từ nay đến 2050. - ĐBSCL hiện nay có khoảng 6,5 triệu người sống ở vùng ven biển. Đến năm 2050,

Page 15: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

15

theo dự báo, con số này sẽ là khoảng 11,5 triệu người. Khi NBD cộng với BĐKH và phát triển thượng lưu sẽ dẫn đến nguy cơ người dân vùng ven biển không có nước sinh hoạt. - Theo quy hoạch phát triển công nghiệp, vùng ven biển sẽ hình thành nhiều khu và cụm công nghiệp mà hầu hết là công nghiệp dùng nhiều nước. BĐKH và NBD sẽ làm cho vùng ven biển không đủ khả năng cấp nước từ nguồn nước mặt cho các khu công nghiệp này. - Hiện vùng ven biển có nhiều dự án kiểm soát mặn phục vụ sản xuất, như Gò Công, Bảo Định, Bắc Bến Tre, Nam Măng Thít, Ba Rinh-Tàm Liêm, Tiếp Nhật, QLPH…. Các dự án ngăn mặn này sẽ không thể đủ nước để sản xuất 2 vụ nếu mặn xâm nhập sâu hơn do thiếu nước ngọt từ thượng lưu và NBD. - Một số đô thị gần biển hiện nay như Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên… sẽ bị ảnh hưởng mặn cần phải di chuyển vị trí nguồn cấp lên thượng lưu. Việc cấp nước cho các thị trấn, khu dân cư ven biển sẽ ngày càng khó khăn và tốn kém hơn. - Do BĐKH ở ĐBSCL, hạn trên 7 ngày, 10 ngày ngay trong mùa mưa, đặc biệt hạn Bà Chằng sẽ gia tăng khoảng 1,5 lần do mùa mưa đến muộn và tổng số ngày mưa trong năm giảm. - Do lũ những năm lũ lớn có xu thế lớn hơn và mùa lũ kéo dài hơn, dẫn đến các vùng ngập sâu hiện nay (khoảng 900.000 ha) có nguy cơ không đủ thời gian gieo trồng hai vụ. - Nhiều tuyến giao thông, đặc biệt các tuyến giao thông vùng ngập trung bình và sâu ở vùng ngập lũ sẽ có nguy cơ bị ngập từ 0,2-0,5 m (ngập ở đây cần hiểu theo nghĩa rộng hơn là phải nâng mực nước thiết kế hiện nay lên). - Cũng do lũ lớn tăng, các nền và tuyến dân cư được xây dựng theo quyết định của Chính phủ trong Chương trình cụm tuyến dân cư vùng lũ cũng sẽ có nguy cơ bị ngập. - Thêm nhiều thị trấn, thị xã và thành phố 13 tỉnh ĐBSCL bị ngập nước. - Nền các khu công nghiệp vùng ngập lũ cũng có nguy cơ bị ngập từ 0,2-0,5 m. - Nước biển dâng sẽ khiến khả năng thoát lũ từ nội đồng ra sông chính, từ ĐTM sang Vàm Cỏ Tây và đặc biệt từ vùng TGLX ra biển Tây giảm do chân triều tăng cao hơn.

6.7 Tác động tích cực có thể có lên vùng ĐBSCL do BĐKH-NBD đến 2050 BĐKH, đặc biệt là NBD, ngoài những tác động tiêu cực như đã phân tích trên đây, còn có những tác động mang tính tích cực và trong quy hoạch này cần nhận biết để lợi dụng triệt để chúng. Những mặt tích cực được nhận biết gồm: - Nhờ NBD sẽ làm nâng cao đầu nước trên hệ thống sông kênh, tăng khả năng tưới tự chảy ở vùng ven sông và cửa sông (như ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long...). - Do tác động của NBD sẽ ảnh hưởng mạnh hơn trên dòng chính (rộng nên khả năng truyền triều mạnh hơn), vì thế, nguồn nước ngọt có xu thế chuyển nhiều hơn sang hai phía Bắc và Nam của ĐBSCL, bao gồm các hệ thống sông Cái Lớn-Cái Bé và sông Vàm Cỏ. - Cũng nhờ tăng đầu nước nên nếu có nguồn ngọt ổn định và dồi dào, khả năng chuyển nước vào nội đồng sẽ được gia tăng đáng kể. - Do mực nước biển trung bình gia tăng nên có thể kéo theo tác động làm gia tăng mực nước ngầm.

Page 16: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

16

- Tăng khả năng tương tác sông-biển, tạo điều kiện tốt hơn cho đa dạng sinh học vùng cửa sông. - Thuận lợi hơn trong tiếp nhận nước mặn-lợ từ biển. - Giao thông thủy thuận tiện hơn..

Hình 04: Sơ đồ quy hoạch tổng thể thuỷ lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH-NBD VII. CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH THỦY LỢI 7.1 Những tiền đề chính cho quy hoạch thuỷ lợi 7.1.1 Xu thế phát triển nông nghiệp ở ĐBSCL - Nông nghiệp vẫn sẽ là ngành quan trọng đối với sự ổn định và phát triển ĐBSCL trong tương lai; lúa vẫn sẽ là cây trồng chính và chủ đạo trong nhiều năm đến. - Thủy sản là một trong hai ngành chính có lợi thế cạnh tranh và giá trị xuất khẩu cao ở ĐBSCL. - Phát triển cây ăn trái, cây công nghiệp, rau màu… theo hướng đa dạng hóa nông nghiệp. - Ổn định diện tích lúa khoảng 1,781 triệu ha, sản lượng 21-22 triệu tấn, xuất khẩu đạt 4,5-5,0 triệu tấn. - Chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất lúa chuyên canh, hướng đến xuất khẩu, phát huy lợi thế sản xuất lúa vụ 3, thủy sản nước ngọt, nước mặn theo hướng chuyên canh và sinh thái, chuyên cây ăn trái, cây công nghiệp và phát triển đa dạng.

Page 17: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

17

7.1.2 Xu thế phát triển kinh tế-xã hội - Quan điểm phát triển kinh tế-xã hội ĐBSCL là đặt sự phát triển của vùng trong bối cảnh phát triển tương lai quốc tế, quốc gia; Phát triển bền vững và hài hòa về kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường; Phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác tài nguyên đặc trưng cho phát triển từng tiểu vùng; Phát triển có trọng điểm, trọng tâm, xây dựng kết cấu hạ tầng khung đồng bộ, phát triển mạnh về kinh tế và ổn định chính trị; Động lực chính phát triển vùng là kinh tế nông-lâm-thủy sản và kinh tế cửa khẩu. - Về phát triển kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,1%/ năm giai đoạn 2011-2015 và 8,2%/năm giai đoạn 2016-2020. Đến 2020, tỷ trọng nông-lâm-ngư nghiệp trong GDP của vùng còn khoảng 30,9%, công nghiệp, xây dựng tăng lên 35,1% và khu vực dịch vụ là 34%. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 55,6 triệu đồng tương đương với 2.700-2.800 USD. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đến năm 2020 đạt khoảng 1.200 USD. Góp phần quan trọng vào đảm bảo an ninh quốc gia và giữ vững mức xuất khẩu vào khoảng 4-5 triệu tấn gạo/năm. - Về phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, tỷ lệ tăng dân số bình quân thời kỳ 2011-2015 tăng khoảng 0,8%/năm, thời kỳ 2016-2020 tăng khoảng 0,85%/năm. Đến năm 2020, dân số của vùng đạt mức 18,8 triệu người (năm 2050 ước tính 31-32 triệu người). Tỷ lệ đô thị hóa của vùng tăng lên nhanh hơn, đạt khoảng 34,2% vào năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020 đưa giáo dục, đào tạo và dạy nghề bằng và vượt các chỉ số phát triển của các ngành học, bậc học bình quân chung của cả nước. Đến năm 2020, giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động ở khu vực thành thị còn khoảng 3,5-4%, đồng thời tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 88-90% tổ ng lực lượng lao động trong các ngành kinh tế. Phấn đấu đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo của đến năm 2020 khoảng 60% (trong đó đào tạo nghề là 55%). Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 2-2,5%/năm. Nâng nhanh tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh; chú ý đến vùng khó khăn về nước. Đến năm 2020 về cơ bản 100% dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh. Thu gom và xử lý chất thải được chú trọng. - Về quốc phòng-an ninh, đầu tư hoàn chỉnh hệ thống giao thông ra biên giới, hệ thống đồn trạm biên phòng và các khu vực phòng thủ, các khu dân cư và hạ tầng kinh tế-xã hội gắn với quốc phòng bảo vệ biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc Khơmer. Đẩy mạnh công tác giáo dục vận động quần chúng chấp hành luật pháp, hạn chế tai nạn giao thông, giáo dục nếp sống văn hoá mới, chống mê tín dị đoan. 7.1.3 Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long - Phát triển nông nghiệp, thủy sản ở ĐBSCL trên cơ sở dòng chảy kiệt sông Mê Công và xâm nhập mặn. Xâm nhập mặn là hiện tượng phức tạp ở vùng sông ảnh hưởng triều. Bài toán xâm nhập mặn trước đây luôn gắn với khai thác và sử dụng dòng chảy kiệt cả ở thượng lưu Mekong và ĐBSCL, nay lại thêm tác động của nước biển dâng nên càng phức tạp. Quản lý dòng chảy kiệt được xem là chiến lược quan trọng nhất. “Đảm bảo an ninh dòng chảy kiệt” là yếu tố sống còn đối với sự phát triển ổn định và bền vững của ĐBSCL trong tương lai. - Để phát triển và phát triển bền vững, kiểm soát lũ được xem là hướng đi tất yếu ở vùng ngập lụt ĐBSCL. Tuy nhiên, cần lưu ý những vấn đề về chuyển đổi sản xuất linh hoạt ở vùng không kiểm soát lũ để lợi dụng tối đa nguồn lợi từ lũ; Tác động tương hỗ của kiểm soát lũ đến dòng chảy kiệt và xâm nhập mặn; Hiệu quả và hệ quả của bảo vệ

Page 18: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

18

sản xuất lúa 3 vụ trong vùng ngập lũ; Tác động của kiểm soát lũ ở mức độ cao đến các hệ sinh thái vùng lũ; Tác động của kiểm soát lũ đến ổn định lòng sông, kênh, cửa sông và bờ biển; Tận dụng nguồn nước lũ để phát triển nông nghiệp/thủy sản, vệ sinh đồng ruộng, không làm giảm lợi ích từ các trận lũ trung bình và lũ nhỏ; Tác động giảm lũ từ hệ thống hồ chứa thượng lưu đến lũ và dòng chảy kiệt. 7.2 Định hướng tổng thể phát triển thuỷ lợi ĐBSCL ứng phó BĐKH-NBD đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2050 Để ứng phó chủ động và hiệu quả với BĐKH-NBD cũng như các tác động ở thượng lưu Mê Công, phát triển thuỷ lợi ĐBSCL sẽ theo định hướng tổng thể như sau: - Hoàn chỉnh và từng bước nâng cao hệ thống đê biển-đê cửa sông để đạt cao trình chống mực nước dâng do bão và triều cường ứng với BĐKH-NBD: + Từ nay đến 2020/2030: Hoàn chỉnh tuyến và nâng cấp toàn tuyến để đạt cao trình ứng với NBD 12 cm (năm 2020) và 17 cm (năm 2030). + Từ 2030-2050: Nâng cấp đến cao trình tương ứng với NBD 30 cm đến năm 2050. + Xem xét kết hợp với đường giao thông ven biển. - Hoàn chỉnh và từng bước nâng cao hệ thống đê sông Tiền-sông Hậu với hệ thống cống kiểm soát mặn ở vùng cửa sông và kiểm soát lũ, lấy nước tưới mùa kiệt ở vùng ngập lũ. - Từng bước xây dựng và hình thành hệ thống công trình tại một số cửa sông lớn có hiệu quả trong việc ngăn mặn, trữ ngọt và đảm bảo thoát lũ, bao gồm: + Các cống Cái Lớn, Cái Bé đã rõ về kinh tế và hiệu quả đầu tư. + Xem xét theo thứ tự ưu tiên các cống Vàm Cỏ, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. 7.3 Giải pháp phát triển thuỷ lợi ĐBSCL ứng phó với BĐKH-NBD đến năm 2020 và tầm nhìn 2050 7.3.1 Giải pháp tổng thể - Tiếp tục xây dựng và nâng cấp các cụm tuyến dân cư và bảo vệ các thị trấn, thị xã, thành phố trong vùng ngập do lũ và NBD. - Thực hiện Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang (trong đó có các tỉnh ĐBSCL); kết hợp tuyến đê biển vùng ĐBSCL với đường giao thông ven biển. - Kết hợp chặt chẽ các công trình thủy lợi, giao thông, dân cư trong tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng chung nhằm đạt được hiệu quả cao trong đầu tư. - Xem xét các tuyến giao thông nông thôn khi xây dựng mô hình nông thôn mới trong vùng ngập theo cao trình mới, đồng thời đảm bảo khả năng thoát lũ. - Nâng cấp và xây dựng mới đê sông (khoảng 742 km) theo cao trình thích hợp. - Hạn chế lũ tràn từ biên giới vào ĐBSCL bằng hướng thoát lũ ra biển Tây (vùng Tứ giác Long Xuyên), sang sông Vàm Cỏ và qua sông Tiền (vùng Đồng Tháp Mười). Tận dụng khả năng trữ lũ, chậm lũ bằng các hệ thống kênh trục cắt ngang vùng lũ tạo nên, nhất là cho vùng Đồng Tháp Mười trong điều kiện lũ nhỏ và trung bình.

Page 19: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

19

- Nâng cấp và làm mới các trục thoát lũ, dẫn nước, tiêu nước cho các vùng Tứ giác Long Xuyên, Tả sông Tiền, giữa sông Tiền-sông Hậu, Bán đảo Cà Mau, nhất là các vùng ven biển. - Xem xét khả năng trữ nước trên các sông lớn và trên hệ thống kênh rạch đảm bảo nguồn nước ngọt cấp cho toàn vùng ổn định và bền vững. - Nâng cao các giải pháp phi công trình ứng phó với BĐKH như chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, tưới tiết kiệm nước, lai tạo giống lúa chịu mặn, chịu hạn, chịu ngập…, thực hiện tốt công tác dự báo, cảnh báo khí tượng, thuỷ văn… 7.3.2 Giải pháp cho vùng Tả sông Tiền (Đồng Tháp Mười và Đông Vàm Cỏ Đông) a. Cấp nước và kiểm soát mặn: - Tăng khả năng cấp nước từ sông Tiền sang sông Vàm Cỏ Tây bằng việc nạo vét, mở rộng (theo giai đoạn) các kênh trục tiếp nước qua Đồng Tháp Mười như Sở Hạ-Cái Cỏ, Tân Thành-Lò Gạch, Hồng Ngự, An Phong-Mỹ Hòa-Bắc Đông, Đồng Tiến-Lagrange, Nguyễn Văn Tiếp. Tận dụng tối đa nguồn nước ngọt cung cấp từ hồ Dầu Tiếng qua sông Vàm Cỏ Đông. Chủ động trữ nước, kiểm soát mặn trên Vàm Cỏ bằng công trình. - Làm cống ngăn mặn trên các cửa kênh dọc sông Tiền khi mặn lên cao (trong trường hợp không có công trình đảm bảo giữ ngọt trên sông chính), kết hợp chuyển nước ngọt từ cống Vàm Cỏ bằng xiphông qua các trục giao thông thủy để cấp nước cho các dự án Bảo Định và Gò Công, song song với đê ngăn lũ, triều cường dọc sông. b. Kiểm soát lũ, triều do nước biển dâng: - Phối hợp công trình trữ ngọt và ngăn mặn trên sông Vàm Cỏ để giải quyết ngập lũ, triều bằng cách tăng khả năng thoát lũ qua cống và ngăn đỉnh triều cường. - Đối với trung tâm Đồng Tháp Mười, các phương án trữ lũ, chậm lũ theo bậc thang kết hợp với các tuyến và hành lang thoát lũ được thực hiện trong giai đoạn trước mắt và sẽ được nghiên cứu, bổ sung công trình khi có điều kiện. Khi có cống trên sông Vàm Cỏ sẽ tăng khả năng trữ ngọt, hạn chế xâm nhập mặn và tăng khả năng thoát lũ. - Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống đê ven biển khép kín từ cửa Tiểu đến công trình trên sông Vàm Cỏ. - Do diễn biến lũ khá phức tạp trong thời gian gần đây, hệ thống cống kiểm soát lũ trên kênh Tân Thành-Lò Gạch được đề xuất trong quy hoạch lũ ĐBSCL và trong Quyết định 84/2006/QĐ-TTg tạm thời chưa xem xét. c. Hệ thống công trình: - Cụm công trình thoát lũ ven biên giới: Thực hiện theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trừ 11 cống trên kênh Tân Thành-Lò Gạch và 3 cống ven sông Tiền. - Cụm kênh thoát lũ ra sông Tiền: + 5 kênh thoát lũ trực tiếp từ tuyến kiểm soát lũ kênh Tân Thành-Lò Gạch là kênh 2/9, Kháng Chiến, Bình Thành, Thống Nhất-Đốc Vàng Thượng, Phú Hiệp-Đốc Vàm Hạ. + 21 kênh thoát lũ vùng Nam kênh Nguyễn Văn Tiếp. - Cụm kênh thoát lũ, dẫn nước từ sông Tiền sang sông Vàm Cỏ Tây:

Page 20: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

20

+ Thực hiện theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (các kênh Đồng Tiến-Lagrange, An Phong-Mỹ Hòa- Bắc Đông, Nguyễn Văn Tiếp). + Kênh tiếp nước Bình Phan- Gò Công. + Xiphông tiếp nước qua kênh Chợ Gạo. - Chú trọng các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. - Cống trên sông Vàm Cỏ. 7.3.3 Giải pháp cho vùng giữa sông Tiền, sông Hậu a. Cấp nước và kiểm soát mặn: - Đây là vùng thuận lợi về cấp nước với nguồn nước ngọt từ sông Tiền - sông Hậu, trừ một số vùng còn khó khăn thuộc 2 tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và cần có giải pháp công trình với quy mô lớn. - Giải pháp cơ bản ứng phó với BĐKH-NBD cho vùng này và ĐBSCL là tác động lên 3 cửa Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu bằng các cống cửa sông. - Tại vùng này đang thực hiện Dự án Bắc Bến Tre. Quan điểm chung là tiếp tục thực hiện các hạng mục của Dự án theo phân kỳ đầu tư, triển khai trước các hạng mục đã rõ về kỹ thuật đảm bảo không mâu thuẫn với lâu dài. Xem xét đầu tư sớm một số cống, đê ven sông Tiền (do mặn trên sông Tiền xâm nhập sâu trong những năm vừa qua). b. Về kiểm soát lũ, triều cường: - Kết hợp lên đê dọc sông Tiền, sông Hậu, đảm bảo tần suất thiết kế đối với mực nước lũ kết hợp nước biển dâng. - Sớm nạo vét, mở rộng các kênh nối sông Tiền - sông Hậu để tăng khả năng chuyển tải nước từ sông Tiền sang sông Hậu, đồng thời tiêu nước chua phèn, tiêu thoát cho các khu vực bị ngập úng lâu ngày. - Xem xét quy mô các công trình trên các cửa Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu đảm bảo thoát lũ (kể cả lũ tăng do BĐKH đến 2050, thậm chí 2100). - Dải ven biển tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê sông nhằm khép kín và kết nối từ cửa Đại đến cửa Định An. c. Hệ thống công trình: - Cụm công trình trên kênh Vĩnh An: Đầu tư nâng cấp bờ bao, cống bọng phục vụ sản xuất theo hướng thích nghi. - Cụm công trình Bắc Cái Tàu Thượng (gồm Bắc Vàm Nao và Nam Vàm Nao): Tiến hành lên đê kiểm soát lũ cả năm theo hình thức bao nhỏ, với kích thước ô bao từ 500 - 2.000 ha. - Cụm công trình thoát lũ, cấp nước, tiêu nước sông Tiền-sông Hậu gồm một số kênh chính: Kênh Mương Khai, Kênh Cần Thơ-Huyện Hàm, Kênh Nha Mân-Tư Tải, Kênh Xẻo Mát-Cái Vồn, Kênh Xã Tàu-Sóc Tro… - Cụm công trình Nam Măng Thít: + Cống Trà Ôn, Tích Quới (Rạch Bông Lớn), Mỹ Văn, Rùm Sóc (ven sông Hậu). + Kênh tiếp nước Long Hồ-Vũng Liêm-Thống Nhất-Kênh 3/2, Xã Tàu-Trà Ngoa-La Ban.

Page 21: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

21

+ Kênh Mây Phốp-Ngã Hậu. - Cụm công trình Ba Lai (Bắc Bến Tre), bao gồm một số công trình chính: + Cống An Hóa. + Các cống ven sông Cửa Đại từ cống An Hóa ra biển (3 cống: Vĩnh Thái, Giồng Rừng, Cái Ngang). + Các cống ven hạ lưu cống Hàm Luông ra biển (5 cống: Phú Mỹ, Hưng An, Hưng Nhơn, Sơn Đốc 2, An Thới). + 8 cống Bắc kênh Bến Tre-An Hóa. + Kênh tiếp nước thượng Ba Lai, Giồng Trôm. - Cụm Hương Mỹ (Nam Bến Tre): + Kênh tiếp nước Giồng Ông Keo-Hương Mỹ. + Cống ven sông Cổ Chiên (Gò Cốc). + 8 cống ven sông Hàm Luông (Lâm Đồng, Tân Thuận, Tân Phú, Phước Khánh, Phú Đông, Tân Phú Đông, Phú Khánh, Vĩnh Điền). - Các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. - Cống trên sông Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. 7.3.4 Giải pháp cho vùng Tứ giác Long Xuyên a. Cấp nước và kiểm soát mặn: - Cũng như vùng kẹp giữa sông Tiền-sông Hậu, vùng này cơ bản đã được đầu tư tương đối hoàn chỉnh về thuỷ lợi; Mặn ảnh hưởng không lớn; Cấp nước không quá khó khăn do thế nước khá thuận lợi từ sông Hậu ra biển Tây. - Đầu tư xây dựng 8 cống dọc sông Hậu và mở rộng một số kênh trục để tăng khả năng chuyển nước vào nội đồng và tăng nguồn nước ngọt cho nuôi trồng thuỷ sản dải ven biển. - Xây dựng 5 cống Tà Xăng, Tam Bản, Tà Lúa, Cầu số 1, Rạch Giá. b. Về kiểm soát lũ, triều cường: - Kết hợp đê và cống dọc sông Hậu cùng 2 cống Trà Sư, Tha La hiện nay tạo hệ thống kiểm soát lũ cho toàn vùng. - Ven biển Tây, hiện có hệ thống đê và cống kiểm soát mặn và triều cường kết hợp thoát lũ. Xem xét việc mở rộng các cống ven biển và khẩu diện các cầu qua QL80 từ Rạch Giá đi Hà Tiên đảm bảo khả năng thoát lũ, kể cả lũ gia tăng do BĐKH. Nâng cấp đê ven biển đủ cao trình ứng với nước biển dâng. c. Hệ thống công trình: - Cụm công trình kiểm soát lũ ven biên giới: + Hoàn thành tuyến đê kiểm soát lũ từ Tịnh Biên đến Hà Giang. + Hoàn thành 8 cống kiểm soát lũ đầu các kênh từ T6 đến Hà Giang. + Cống Đầm Chích. - Cụm công trình kiểm soát mặn ven biển: + Xây dựng 5 cống Tà Xăng, Tam Bản, Tà Lúa, Cầu số 1, Rạch Giá. + Nâng cấp 74 km tuyến đê biển Tây.

Page 22: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

22

- Cụm công trình thoát lũ ra biển Tây: Hoàn chỉnh các kênh trục thoát lũ ra biển Tây. - Cụm công trình kiểm soát lũ ven sông Hậu: Hoàn chỉnh 8 cống ven sông Hậu theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. - Các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. 7.3.5 Giải pháp cho vùng Bán đảo Cà Mau a. Cấp nước và kiểm soát mặn: - Đây là vùng khó khăn về nguồn nước, nhất là vùng ven biển và trung tâm Quản Lộ - Phụng Hiệp (ngoại trừ vùng Tây sông Hậu). - Giải pháp cấp nước ngọt cơ bản cho vùng này là mở rộng, nạo vét các kênh trục nối từ sông Hậu vào sâu trong nội đồng. - Xây dựng 2 cống Cái Lớn-Cái Bé nhằm ngăn mặn từ biển Tây, tăng khả năng chuyển nước cho vùng Nam Bán đảo Cà Mau, đặc biệt 3 vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ và Nam Quản Lộ-Phụng Hiệp là những vùng hiện rất khó khăn về nguồn nước, chỉ sản xuất được 2 vụ bấp bênh do chỉ đảm bảo nước ngọt từ 9 - 10 tháng. - Đối với xâm nhập mặn và nước biển dâng từ cửa sông Hậu, do khi xây dựng các cống Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu, nước ngọt sang sông Hậu khá ổn định, kể cả trong trường hợp nước biển dâng 30 cm và dòng chảy kiệt thượng lưu giảm, do vậy, về cơ bản không tác động gì thêm trên sông này. - Trong vùng hiện đang thực hiện dự án phân ranh mặn ngọt. Tuy nhiên việc nuôi trồng thuỷ sản trong vùng xa bờ biển trên 20 km là không thực sự bền vững, do vậy, để vừa cấp ngọt cho vùng ven biển và lấy mặn vào nội đồng, cần nghiên cứu giải pháp chuyển nước bằng xiphông qua các trục kênh lớn nếu cần thiết. b. Về kiểm soát lũ, triều cường: - Kết hợp lên đê và làm cống dọc sông Hậu, đặc biệt đê vùng cửa sông. - Dọc tuyến lộ Cái Sắn, tiếp tục để ngỏ không kiểm soát lũ do lũ vùng Tứ giác Long Xuyên sẽ được kiểm soát khá tốt sau khi có thêm 8 cống ven sông Hậu. - Tiếp tục nâng cấp và hoàn chỉnh hệ thống đê biển. - Các cửa Mỹ Thanh, Gành Hào, Bảy Háp, Ông Đốc... còn để ngỏ, cần xây dựng các tuyến đê sông đủ cao trình ngăn đỉnh triều khi có NBD và mực nước dâng do bão. c. Hệ thống công trình: - Cụm công trình Cái Lớn-Cái Bé: + Cống Cái Lớn, Cái Bé; cống, âu thuyền Xẻo Rô. + 2 cống thượng lưu Cái Lớn (Xẻo Rô 1, Xẻo Rô 2). + 9 kênh tiếp nước KH1, KH3, Thốt Nốt, KH5, KH6, KH7, Ô Môn-Xà No, kênh Giữa. - Cụm công trình ven biển Tây: Thực hiện theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. - Cụm công trình vùng Quản Lộ-Phụng Hiệp: + Hệ thống cống Nam kênh Chắc Băng. + Hệ thống phân ranh mặn, ngọt vùng Quản Lộ-Phụng Hiệp.

Page 23: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

23

- Cụm công trình tiếp nước vùng Bán đảo Cà Mau: Kênh Nàng Mau; kênh Cần Thơ - Phụng Hiệp-Sóc Trăng; kênh Sóc Trăng-Bạc Liêu và kênh Lai Hiếu. - Cụm công trình cống ven sông Hậu: + 7 cống kết hợp đê kiểm soát mặn xâm nhập từ cửa Trần Đề (Rạch Saintard, Rạch Mọp, Mỹ Hội, Rạch Vọp, Cái Trâm, Cái Cau, Cái Côn). + Đê kiểm soát mặn từ cửa Trần Đề đến Phú Thạnh. - Công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. Hình 05: Quy hoạch tổng thể thuỷ lợi ĐBSCL trong điều kiện BĐKH-NBD Phương án chọn VIII QUY TRÌNH VẬN HÀNH HỆ THỐNG THỦY LỢI TRONG ĐIỀU KIỆN BĐKH-NBD 8.1 Vận hành hệ thống trong mùa khô

Page 24: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

24

Vào mùa khô (từ đầu tháng 12 năm trước đến cuối tháng 4 năm sau) các cụm công trình vận hành theo nguyên tắc sau: - Các cống ven biển các vùng ĐTM, TGLX, BĐCM và GSTSH đóng để ngăn mặn và trữ ngọt. Các cống chỉ mở khi có yêu cầu tiêu nước ô nhiễm trong nội đồng. - Khi chưa có cống ngăn cửa sông lớn, các cống dọc ven sông Vàm Cỏ, sông Tiền và sông Hậu vận hành theo tình hình thực tế xâm nhập mặn, ranh mặn 4 g/l lên đến đâu thì đóng cống đến đó. - Các cống ven biển vùng QLPH thuộc tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau vận hành chủ động lấy nước mặn NTTS. - Sau khi có các cống cửa sông Vàm Cỏ, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu thì các cống đóng trong mùa khô để trữ ngọt, các cống chỉ mở khi có yêu cầu xả ô nhiễm trong khu vực. Tuy nhiên, ngay cả trong mùa khô thì: + Tất cả các cống đều được thiết kế bằng hoặc gần bằng độ rộng hiện tại của sông nhưng đảm bảo khẩu diện thoát lũ thiết kế và tăng do BĐKH. + Hàng năm, hệ thống cống được vận hành dựa vào dự báo diễn biến mùa lũ và mùa kiệt: o Khoảng tháng VI/VII, cống sẽ được mở để thoát lũ và vệ sinh môi trường. Bình thường đóng lại vào tháng XII/I. o Mùa khô, nếu dự báo hạn dài cho thấy: • Dòng chảy kiệt lớn (tần suất P <30%): Cống mở hoàn toàn. • Dòng chảy kiệt trung bình (tần suất 60%>P%>30%): Cống đóng 1-3 tháng. • Dòng chảy kiệt thấp (tần suất 90%>P>60%): Cống đóng 3-5 tháng. • Dòng chảy kiệt cực thấp (tần suất P>90%): Cống đóng 5-7 tháng. Nếu vận hành như trên thì hầu như cống rất ít ảnh hưởng đến môi trường. + Các cửa Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu không nằm trong tuyến giao thông thủy của MRC và không phải là tuyến chính của ĐBSCL nên vận hành cống không ảnh hưởng nhiều đến giao thông thuỷ. - Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi của các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang tổ chức theo dõi diễn biến mặn thường xuyên dọc các sông chính để đóng cống khi độ mặn lên đến 4%o.

8.2 Vận hành hệ thống trong mùa mưa a. Vào mùa mưa (từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 11) đối với những năm lũ trung bình và lũ lớn, các cống dọc sông Tiền và sông Vàm Cỏ, các cống dọc sông Hậu và đập cao su Trà Sư-Tha La) đóng đến ngày 15/8 để ngăn lũ bảo vệ lúa Hè-Thu, mở từ ngày 15/8-15/11 để thoát lũ, từ sau ngày 15/11 tiếp tục đóng để ngăn lũ tiêu vợi phục vụ gieo xạ lúa Đông-Xuân. b. Các cống vùng Bắc Vàm Nao mở khi mực nước lũ tại Tân Châu thấp hơn cao trình 3,5 m để chủ động lấy nước vào khu dự án. Các cống đóng gần hoàn toàn khi mực nước tại Tân Châu cao hơn cao trình 3,5 m nhằm chống úng ngập trong khu dự án, chỉ để mở một phần nhỏ nhằm duy trì dòng chảy qua khu dự án.

Page 25: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

25

c. Các cống cửa sông lớn mở hoàn toàn để thoát lũ. IX. KINH PHÍ THỰC HIỆN QUY HOẠCH 9.1 Phân theo hạng mục công trình Đơn vị: Tỷ đồng

TT Hạng mục công trình Ước tính kinh phí thực hiện

Dự toán xây lắp

Chi phí khác

Đền bù GPMB

Dự phòng

Tổng vốn đầu tư

1 Thủy lợi 158.797 47.639 79.398 15.881 301.735 1.1 Theo 84/TTg và bổ sung 22.435 6.731 11.218 2.245 42.648 1.2 Đê biển 16.852 5.056 8.426 1.685 32.019 1.3 Đê sông 6.966 2.090 3.483 697 13.235 1.4 Kênh tiếp nước, hồ chứa 2.733 820 1.367 273 5.193 1.5 Công trình kiểm soát lũ 10.966 3.290 5.483 1.097 20.836 1.6 Các cống lớn 35.078 10.523 17.539 3.508 66.6471.7 Thuỷ nông nội đồng 63.767 19.130 31.883 6.377 121.1572 Giao thông kết hợp thuỷ lợi 88.859 26.658 44.429 8.886 168.8313 Chống ngập đô thị, khu dân cư 26.528 7.958 13.264 2.653 50.403 TỔNG CỘNG 274.183 82.255 137.092 27.419 520.969

9.2 Phân theo vùng và cụm công trình Đơn vị: Tỷ đồng

TT HẠNG MỤC VỒN ĐẦU TƯ TỔNG VỐN ĐẦU TƯ 520.969 I Vùng Tứ giác Long Xuyên 12.653 II Vùng Bán đảo Cà Mau 51.283 III Vùng Giữa sông Tiền-sông Hậu 85.397 IV Vùng Tả sông Tiền 30.022 V Vùng hải đảo 1.224 VI Các công trình khác 340.391

9.3 Phân kỳ đầu tư - Phân theo vùng (công trình thuỷ lợi, trừ phần nội đồng): Đơn vị: Tỷ đồng

TT Vùng 2011 2015

2016 2020

2021 2030

2031 2050 Tổng

1 Tả sông Tiền 13.712 14.933 1.267 110 30.0222 Giữa sông Tiền, sông Hậu 10.234 11.001 33.759 30.402 85.3973 Tứ giác Long Xuyên 3.533 4.218 3.111 1.791 12.6534 Bán đảo Cà Mau 12.635 8.260 12.691 17.698 51.2835 Hải đảo 844 380 0 0 1.224 Tổng 40.958 38.792 50.828 50.000 180.578

+ Thủy nông nội đồng: 121.157 tỷ đồng, do nhân dân và địa phương cùng làm. + Chống ngập đô thị và khu dân cư: 50.403 tỷ đồng, do Bộ Xây dựng chủ trì. + Giao thông kết hợp đê biển, nâng nền giao thông: 168.831 tỷ đồng, do Bộ Giao thông vận tải chủ trì. - Phân theo hạng mục công trình: Đơn vị: Tỷ đồng

Page 26: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

26

TT Hạng mục 2011 2015

2016 2020

2021 2030

2031 2050 Tổng

1 Thủy lợi 50.307 67.121 77.467 106.842 301.735 1.1 Theo 84/TTg và bổ sung 20.933 13.984 6.007 1.724 42.6481.2 Đê biển 7.700 3.300 8.565 12.454 32.019 1.3 Đê sông 3.770 3.928 4.728 810 13.235 1.4 Kênh tiếp nước, hồ chứa 2.112 1.392 1.074 615 5.193 1.5 Kiểm soát lũ 8.720 7.855 2.087 2.174 20.8361.6 Cống lớn cửa sông 1.000 14.775 23.940 26.933 66.647

1.7 Thuỷ nông nội đồng 6.072 21.887 31.066 62.132 121.1573 Giao thông kết hợp 0 71.729 83.715 13.387 168.8314 Chống ngập, dân cư 25.642 18.411 6.350 0 50.403 Tổng cộng 75.949 146.259 171.531 124.340 520.969

X. TRÌNH TỰ THỰC HIỆN QUY HOẠCH VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ 10.1 Trình tự thực hiện Quy hoạch Căn cứ nội dung quy hoạch và khả năng ngân sách, cân đối ngân sách Nhà nước hàng năm theo quy định của luật ngân sách Nhà nước sắp xếp thứ tự ưu tiên, bảo đảm đầu tư đồng bộ và có hiệu quả, cụ thể theo trình tự ưu tiên sau: - Các công trình dở dang theo Quyết định 84/2006/QĐ-TTg đảm bảo đồng bộ, khép kín hệ thống để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng phát triển hiệu quả, tập trung các hệ thống thủy lợi lớn trong vùng (Ô Môn-Xà No, Quản Lộ-Phụng Hiệp, Nam Măng Thít...). Thực hiện chương trình đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang theo Quyết định số 667QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong đó có các tỉnh ĐBSCL. - Các công trình phục vụ đa mục tiêu, có khả năng ứng phó với BĐKH-NBD; các công trình cấp bách và các công trình có hiệu quả cao nhằm phục vụ các chương trình trọng điểm về phát triển kinh tế -xã hội của vùng. - Các công trình bảo vệ dân cư vùng ngập lũ, các công trình đường giao thông huyết mạch kết hợp giữa giao thông và thủy lợi. - Các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản và bảo vệ vùng cây ăn trái, công trình phân ranh mặn - ngọt. - Các công trình kiểm soát lũ tràn biên giới, nhất là vùng ĐTM và TGLX. - Các kênh trục tưới, tiêu, cải tạo đất… và hoàn thiện phần nội đồng. - Các công trình thuỷ lợi lớn trên dòng chính. 10.2 Nguồn vốn đầu tư - Tổng vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch giai đoạn 2011-2015 khoảng 76.000 tỷ đồng, trong đó các hạng mục thuỷ lợi khoảng 50.000 tỷ đồng (giá quý IV năm 2010). - Tổng vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch giai đoạn 2016-2020 khoảng 146.000 tỷ đồng, trong đó các hạng mục thuỷ lợi khoảng 67.000 tỷ đồng. - Tổng vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch giai đoạn sau năm 2020 khoảng 296.000 tỷ đồng, trong đó các hạng mục thuỷ lợi khoảng 184.000 tỷ đồng.

Page 27: Thiet Ke Quy Hoach-DBSCL

27

- Vốn thực hiện hoạch được cân đối từ vốn ngân sách nhà nước hàng năm (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA), đóng góp của người dân vùng hưởng lợi và các nguồn vốn hợp pháp khác.