THIEN DAO TRUYEN PHAP CHINH - OFFICIAL CELESTIAL WAY
description
Transcript of THIEN DAO TRUYEN PHAP CHINH - OFFICIAL CELESTIAL WAY
1
THIÊN ĐẠO
2
TAM LÝ PHÁP THIÊN ĐẠO:
Đạo Pháp-Chính Pháp-Huyền Pháp
1-Nhất- THIÊN TÂM ĐẠO PHÁP-Đạo Pháp-trong Thiên Kinh.
-Học biết Trời. Nguyên lý Vũ trụ-Qui luật Tự nhiên-Tức là Chân Lý (Đạo Trời-
THIÊN). Gọi là Đạo.
-Thống nhất khoa học-Thiên văn-Địa lý-Tâm linh-Triết học tự nhiên. THỐNG
NHẤT VŨ TRỤ.
2-Nhị- ĐỊA TÂM CHÍNH PHÁP-Chính Pháp-trong các bộ Kinh: Đạo Kinh,
Giáo Kinh, Luật Kinh, Lễ kinh, Nhân Kinh, Trí Kinh và Tín Kinh. ( Các biện
pháp xây dựng cải tạo con ngƣời, xã hội và tự nhiên, tiến hóa nhân loại…gọi là
Chính Pháp ).
-Học biết con ngƣời và xã hội nơi Hạ giới (ĐỊA CẦU và các hành tinh khác)
Dạy cách tổ chức con ngƣời và xã hội hợp với Vũ trụ-một cách tốt nhất-con
ngƣời hành Đạo tức là sống hợp Đạo Trời. Gọi là Đạo.
-Thống nhất các hình thái Đạo đức-Tôn giáo-Triết học xã hội-Khoa học tâm linh
với Khoa học xã hội. THỐNG NHẤT XÃ HỘI LOÀI NGƢỜI.
3-Tam -NHÂN TÂM HUYỀN PHÁP-là Huyền Pháp-trong Huấn Kinh-tức là
Thiên Đạo Đại Pháp Tâm công ( Thiên Pháp).
-Học để biết mình là ai, trở về Cội nguồn, hiểu mình, hiểu Tiểu Vũ trụ-Vũ trụ.
Tất cả xuất phát từ NHÂN- TÂM-Gọi là Đạo.
-Thống nhất huyền môn huyền thuật và các pháp tu luyện-tôn giáo-khoa học
nhân thể-y học. THỐNG NHẤT CON NGƢỜI VỚI THƢỢNG ĐẾ.
* TAM LÝ PHÁP HỢP NHẤT-BỔ TRỢ-HÕA NHẬP LÀ NHAU TRONG
ĐẠO TRỜI-THIÊN ĐẠO-ĐẠI ĐẠO-LẦN ĐẦU TIÊN NHÂN LOẠI CÓ
NHẬN THỨC MỚI-CÓ ĐẠI ĐẠO. NHÂN LOẠI TIẾN LÊN HÀNG ĐẠI
ĐẠO.
*ĐẮC THIÊN ĐẠO LÀ CÁI ĐẮC CỰC KHÓ-VÌ ĐẮC THIÊN ĐẠO, HÀNH GIẢ
VÀ CON NGƢỜI TRONG TOÀN CÕI VŨ TRỤ TIẾN LÊN, ĐƢỢC THƢỢNG
ĐẾ CHO TẠO LẬP VŨ TRỤ MỚI. XÃ HỘI THÀNH THIÊN ĐƢỜNG CỰC LẠC
MUÔN NĂM.
ĐỢI TA-TA ĐÃ ĐẾN!
3
MỤC LỤC: Huyền Pháp
1 - Thiên Đạo Đại pháp Tâm Công Sơ cấp ……………… tr 8
Thực hành học Thiên Pháp ……………………………… tr 25
Phần Bổ trợ Cấp 1 ………………………………………tr 77
2 - Thiên Đạo Đại pháp Tâm Công Trung cấp …………… tr 96
Đạo Pháp
3 - Thiên Kinh …………………………………………tr 136
Chính Pháp
4 - Đạo Kinh …………………………………………tr 172
Con Đƣờng Thoát Luân Hồi ………………………….. tr 215
5 - Luật Thánh Đức và Chƣơng trình Bình giảng .……… tr 237
6 - Lễ Kinh …………………………………………. tr 299
7 - Nhân Kinh …………………………………………. tr 342
8 - Trí Kinh: Kinh Thần học Thiên Đình …………….. tr 375
Thuyết Đại Thống Nhất Tối Cao Thiên Đạo ……….... tr 386
Kinh Di Lặc Vƣơng Phật – Lập Đại Đồng Cứu Khổ ……… tr 395
Web: http://www.thiendao.co.vu/
http://www.thanhduc.co.vu/
http://greatholiness.org/
http://www.greatunity.org/
FB: http://facebook.com/thienphapdao -
https://www.facebook.com/CelestialDiscipline/
THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP TÂM CÔNG
HUYỀN PHÁP THIÊN ĐẠO
TRUYỀN PHỔ THÔNG HAI CẤP-THẦY CÓ GIẢNG THÊM NHIỀU
CHỖ ĐỂ CÁC HỌC TRÕ HỌC TẬP DỄ HƠN VÀ HIỂU THÊM CÁC BÍ
PHÁP CỦA THIÊN ĐẠO.
TẤT CẢ CÁC TÀI LIỆU CÓ TRƢỚC VỀ THIÊN PHÁP CẦN THEO TÀI
LIỆU NÀY, CŨ XÓA BỎ NGAY. BỔ SUNG ĐỂ HỌC KỸ HƠN.
4
THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP TÂM CÔNG
5
LỜI PHÁP CHỦ
1- Thiên Đạo Đại pháp Tâm Công: Còn gọi là Thiên Pháp.
Là môn học và phƣơng pháp tu tập kết hợp thiền, với luyện khí công và tâm linh
pháp, y học dƣỡng sinh của pháp môn, do bản tôn đƣợc các vị Thƣợng linh, Cha
dạy, và tìm hiểu thêm qua tinh hoa kiến thức của các pháp môn khác.
2- Là phƣơng hành pháp tu tập chính thức của pháp môn
3- Kế thừa tinh hoa văn hoá, khí công truyền thống, y học của nhân loại, kết hợp
với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tâm linh cao cấp
mới của pháp môn
4- Kết quả: tu tập tốt sẽ: Nâng cao sức khoẻ, tinh-khí–thần; cả tƣ tƣởng, tâm hồn
và thể xác, đạt ngộ-phúc-đạo, chân-thiện-mỹ; hƣớng về nhận thức khoa học mới,
về Thƣợng đế, tuổi thọ tăng. Đến đẳng cao cấp, sẽ biết các phƣơng thuật, thông
linh...khi rời trần giới đã tự siêu thoát thành các bậc chính giác cao cấp.
Ngày 9 tháng 9 năm 2008
TRUNG PHƢƠNG THIÊN TÔN
9 ĐIỀU KHÔNG CỦA NGƢỜI HỌC THIÊN PHÁP
1-Không bỏ: Tôn-thờ Vua Cha Thƣợng đế
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới.
CHƢƠNG TRÌNH HỌC THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP TÂM CÔNG
SƠ CẤP( cấp 1)
1-Giới thiệu về Pháp môn.
2-Tìm hiểu về kinh mạch lạc huyệt quan trọng.
3-Thuyết âm dƣơng ngũ hành y học; khí, năng lƣợng sinh học.
4-Các bài hƣớng dẫn thiền-thở-maxa, thể dục trƣớc khi luyện khí
5-Khai các đại huyệt-sao.
6-Thu và xả khí qua các sao, chân, tay.
6
7-Hai vòng Tiểu năng và Đại năng.
8-Khí âm dƣơng. Cân bằng âm dƣơng khí.
9-Tự vệ tâm linh đơn giản.
10-Giới thiệu Thiên Long Tam công Pháp.
11-Luyện bài Thiên Long Địa công Pháp.
CHƢƠNG TRÌNH TRUNG CẤP( cấp 2)
1-Hệ thống thần kinh và tủy.
2-Tẩy lọc thể Vía. Tẩy khí qua sao.
3-Cấu tạo cơ thể. Tạng phủ công.
4-Các bài chữa bệnh không dùng thuốc đơn giản.
5-Luyện hòa khí âm dƣơng và tăng lực nội khí.
6-Luyện bài Thiên Long Nhân công Pháp.
Truyền phổ biến chỉ đƣợc phép dạy 2 cấp này, các cấp 3-4 có hƣớng dẫn và dạy
cẩn thận; các cấp 5-6-7 Mật Pháp Tối Thƣợng Thiên Pháp đã đƣợc chỉnh đốn
thêm, không dạy cho ngƣời thƣờng, mà dạy mật truyền, có Đạo sƣ trực tiếp dạy
và hƣớng dẫn các bí pháp, vì các cấp học sau rất nguy hiểm cho ngƣời chƣa
đƣợc thử thách hoặc tu luyện thân tâm còn kém.
PHƢƠNG PHÁP TU LUYỆN THIÊN PHÁP
1-HỌC LÝ THUYẾT VỀ KHOA HỌC TÂM LINH, KHOA HỌC TÂM THỂ, KINH MẠCH
LẠC HUYỆT, TRANG BỊ KIẾN THỨC KHOA HỌC, CHỐNG MÊ TÍN NHẢM NHÍ.
2-KHAI CÁC HUYỆT-SAO TRƢỚC, THÔNG KINH MẠCH, TẨY XẢ TRỌC KHÍ, RỒI
MỚI DẪN KHÍ.
KẾT HỢP THIỀN VỚI CÔNG ĐỂ XẢ TRỌC, TĂNG NỘI KHÍ, SỨC KHỎE, BẰNG CÁCH
TẬP HAI ĐƢỜNG ĐẠI, TIỂU KHÍ, THÔNG CÁC SAO TRUNG TÂM NĂNG LƢỢNG
(LUÂN XA), CHO CƠ THỂ HOẠT HÓA VÀ NÂNG CẤP NĂNG LƢỢNG. CÂN BẰNG
NĂNG LƢỢNG CƠ THỂ.
3-QUÁN TƢỞNG THIÊN PHÙ-THƢỢNG ĐẾ-VỚI CÁC TRUNG TÂM THẦN LỰC-
NĂNG LƢỢNGVŨ TRỤ-CHÍNH LÀ THẤT TINH BẮC ĐẨU ĐỂ NHẬP THU NĂNG
LƢỢNG. THIỀN VÀ THÔNG LINH KHI TẬP. ĐẠT HÕA HỢP THIÊN-ĐỊA-NHÂN, HÒA
NHẬP VỚI VŨ TRỤ. ĐÂY CŨNG LÀ CÁCH TỰ ĐIỂM ĐẠO TÂM LINH, THÔNG QUA
VIỆC NHẬP NIỆM THIÊN PHÙ VÀ CÁC PHÉP PHÁP NHÃN. THIÊN PHÙ LÀ MỘT
TẤM LINH PHÙ LINH THIÊNG, KHI NHẬP LINH XUỐNG THÂN MÌNH, TỰ MÌNH
KHAI NGỘ ĐIỂM ĐẠO VÀ HÕA NHẬP VÀO ĐẠO-VŨ TRỤ-ĐỊNH LUẬT VŨ TRỤ-
HÕA NHẬP VỚI THƢỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG-ĐẠI NGUYÊN NĂNG. LÀ CÁCH HỢP
NHẤT TIỂU NĂNG VỚI ĐẠI NĂNG, TIỂU VŨ TRỤ VỚI ĐẠI VŨ TRỤ, TIỂU THƢỢNG
7
ĐẾ VỚI THƢỢNG ĐẾ. NGOÀI RA, CÕN HỢP NHẤT THIÊN THẦN TRỀN CAO VÀ
THIÊN THẦN ĐANG SẮP TU THÀNH.
XƢA CHỈ PHÁP SƢ MỚI DÁM THỜ THƢỢNG ĐẾ, THỜ VÀ LUYỆN KHẤN BẮC ĐẨU
THẤT TINH. NAY TÔN THỜ CHA HỢP NHẤT, CŨNG LÀ THỜ BẢN MỆNH MÌNH,
CHỐNG MA ÁC, MA NẠN. TÂM THÂN SẠCH, ĐẸP, HOÀN THIỆN. TÔN TRỌNG
MÌNH LÀ TÔN TRỌNG THƢỢNG ĐẾ. THƢỢNG ĐẾ LÀ ĐẠO ĐỨC, TÔN THỜ, TU
LUYỆN ĐỂ HỢP NHẤT VỚI VUA CHA LÀ TU LUYỆN TÂM-THÂN ĐẠT GIÁC NGỘ
CHÂN LÝ VÀ SIÊU THOÁT NGAY TẠI THẾ-NHƢNG KHÔNG XA RỜI CUỘC SỐNG
BÌNH THƢỜNG-ẤY LÀ ĐỜI ĐẠO SONG TU, KHÔNG LÀ TÔN GIÁO, MÀ THEO ĐẠO
TRỜI-THIÊN ĐẠO-ĐỊNH LUẬT VŨ TRỤ MUÔN THỦA, MUÔN NĂM. ẤY LÀ PHÉP
TÔN THỜ BẢO NHIỆM TÂM LINH TUYỆT VỜI NHẤT CỦA THIÊN ĐẠO.
4-ĂN CHAY BÁN PHẦN, ĐỂ THÂN XÁC, VÍA SẠCH, TIẾP NHẬN NĂNG LƢỢNG VŨ
TRỤ TỐT HƠN. CẢI TẠO KHÍ VÍA TÂM THÂN. TU ĐẠO ĐỨC-TƢ TƢỞNG ĐỂ THỂ
VÍA TRONG SẠCH.
5-NẠP-NÉN KHÍ TẠI ĐAN ĐIỀN ĐỂ TĂNG NỘI KHÍ, RỒI DẪN KHÍ ĐI KHẮP CHÂU
THÂN, KÉO KHÍ LÊN. ĐÁNH THÔNG TRỤC LONG HỎA (HỎA XÀ) KHAI TRIỂN
CÁC NĂNG LỰC TIỀM TÀNG CỦA CON NGƢỜI.
-LUYỆN TẠNG PHỦ CÔNG, HUYỀN CÔNG, CHỮA BỆNH KHÔNG DÙNG THUỐC.
-THIỀN QUÁN TƢỞNG HOA SEN, TƢỢNG PHÁP TẠI ĐAN ĐIỀN, TẠI CÁC SAO,
THEO CÁC CẤP TU-THIỀN KHÁC NHAU.
6-KHAI LONG HỎA, KHAI HUỆ NHÃN, KHAI NGỘ, THÔNG LINH.
7-ĐẠT TRẠNG THÁI SIÊU THOÁT TẠI THẾ, GIÁC NGỘ CHÂN LÝ TỐI THƢỢNG.
TƢƠNG LAI NHÂN LOẠI THẦN THÔNG QUẢNG ĐẠI, XÂY THIÊN ĐƢỜNG TẠI
THẾ. THẦN TIÊN TẠI THẾ LÀ NHƢ VẬY.
8-THỰC HIỆN CHÍNH PHÁP XÂY ĐỜI, CỨU ĐỘ, ĐÁNH TRỊ-SIÊU THOÁT CHO TÀ
MA, CẢI TẠO TÂM THỂ, PHONG THỦY, XÃ HỘI.
9-HỌC CÁC PHÉP THUẬT-NGHI LỄ-TÂM LINH ĐỂ HÀNH ĐẠO TRỜI. ĐỜI ĐẠO
SONG TU. ĐĨNH NGỘ NHẬP THẾ XÂY ĐỜI AN LẠC. KHI MÃN, TẤT SIÊU THOÁT,
ĐẮC ĐẠO, ĐẮC PHÁP, ĐẠT NGÔI VỊ CHÍNH GIÁC CAO CẤP TRÊN TRUNG-
THƢỢNG GIỚI, BỰC THẦN THÁNH TIÊN PHẬT.
Ghi chú: Ảnh tập minh họa có hình, không phải là ảnh Thầy.
CÁC BƢỚC TIẾN HÀNH TRONG MỘT BUỔI TẬP LUYỆN
THIÊN PHÁP
Sau khi đã học và tập thông thuần thục các bài rồi, thì về sau, trong một buổi tập,
thƣờng có thể tiến hành các nội dung:
1-Tập thể dục, hoặc không cần. Mát-xa khởi động thân và làm nóng các huyệt
quan trọng.
2-Luyện thở và tống khí trọc khỏi phổi, luyện thở-dẫn khí xuống Đan điền vài
chục lần.
3-Ngồi, nằm, hoặc đứng vào tƣ thế-để chuẩn bị tập bất cứ bài Công pháp nào.
4-Bái niệm, sau đó niệm Thiên pháp giáng thân.
5-Thiền nhẹ-xả tâm, về tịnh tâm.
8
6-Tẩy-xả trọc khí, thông các sao (gọi là xả trọc khí qua sao-để tẩy lọc khí cơ thể-
hoạt hóa cơ thể, rồi mới luyện công-đa số các pháp môn khác không có động tác
này, nên khí nạp không sạch, dễ tẩu hỏa).
-Khi thấy ngƣời nhẹ, thì mới luyện khí. (Thực ra xả trọc khí cũng là luyện khí
rồi, nhƣng không nạp khí, mà xả khí trọc khỏi cơ thể).
7-Bắt đầu luyện khí, tùy điều kiện và ý định: Có thể chọn vài nội dung, hoặc tập
tất cả các nội dung sau:
-Hai đƣờng Đại-Tiểu khí.
-Xả, nạp các sao. Thông-lọc lại các đƣờng kinh, hay là thông lọc lại các huyệt-
sao. Thông trục Long hỏa, kiểm tra các sao có bị đóng lại hay không, sự cân
bằng của thể vía tại từng sao (mức năng lƣợng có bị rối loạn không, chiều đƣờng
sức từ có bị méo không…).
-Hay luyện tạng phủ công, nạp năng lƣợng cho các phủ tạng, hệ thống thần kinh-
tủy, tự chữa những chỗ bị bệnh, đau.
-Kiểm tra mức năng lƣợng (nếu đã có mắt huệ)- cân bằng năng lƣợng âm dƣơng-
, xả, nạp, cân bằng.
-Xoáy- thông các huyệt nhỏ.
-Thiền sâu-nạp khí Đan điền, dẫn khí lên các trung tâm, các nơi khác trên cơ thể.
-Luyện nhãn. ( từ Hv cấp cao trở lên).
-Thực hiện các huyền thuật cứu độ khác…
-Thiền sâu, để chứng ngộ tâm linh.
-Luyện Cửu Long Huyền công, Cao Minh công (Vũ trụ công).
-Về 3 bài Tam Công pháp: Có thể tập 3 bài Công pháp sau cùng, hoặc dùng một
trong 3 bài công, để luyện nội dung tác dụng tƣơng ứng trong các bài, vì tác
dụng từng bài khác nhau, dùng để luyện sâu và dƣỡng sinh nhanh đều đƣợc. Nếu
đã thuần thục, sau bƣớc 6 thì chỉ cần luyện cẩn thận thật chậm 3 bài công là đủ,
cơ thể và mức năng lƣợng đã đƣợc hoạt hóa và cân bằng rồi.
PHẦN LÝ THUYẾT
BÀI 1-GIỚI THIỆU VỀ THIÊN PHÁP
Thiên Đạo Đại Pháp Tâm Công (Thiên Pháp) là chƣơng trình tu luyện khí
công-huyền công kết hợp tâm linh, do Vua Cha Thƣợng đế-đấng Đại Toàn năng
dạy, Pháp chủ tuân theo nhiệm vụ của Thiên đình, cứu độ chúng sinh bằng Pháp-
với lý tƣởng Đại đồng Nhân loại. Thiên Pháp là Huyền Pháp của Thiên Đạo.
Thiên Đạo-là Đạo Trời-là Định luật vũ trụ muôn năm, muôn thủa-không là tôn
giáo. Tôn giáo chỉ là phƣơng tiện giúp con ngƣời thành Đạo, giác ngộ. Có muôn
vàn các Pháp môn và con đƣờng nhận thức Chân Lý.
9
Đại Pháp (Đạo lớn) có Ba Pháp: Đạo Pháp, Chính Pháp và Huyền Pháp.
Đạo Pháp thuộc về Đạo Trời-tức là Định luật Vũ trụ, tự nhiên. Thuộc về Thiên
Kinh.
Chính Pháp thuộc Đạo-Giáo-Luật-Lễ-Nhân-Trí-Tín Kinh (Địa-hạ giới-con
ngƣời nhận thức, tuân theo Trời-định luật tự nhiên mà sống, tu luyện).
Huyền Pháp (Tức là Bộ Thiên Pháp này) thuộc bộ Huấn Kinh (phƣơng pháp tu
luyện để đắc chính-giác ngộ-hợp nhất với Đạo Trời-tự nhiên; là phƣơng pháp để
Thiên-Địa-Nhân hợp nhất, con ngƣời hợp nhất với Thƣợng Đế).
Ba Pháp hợp nhất thì Đạo hợp nhất, Thiên-Địa-Nhân hợp nhất.
Khi còn chƣa giác ngộ và làm theo Chân Lý ấy, thì mọi tƣợng còn đốn mạt, suy
đồi, hoặc đa sự loanh quanh, lộn xộn, muôn kiếp muôn đời không biết mình là ai,
từ đâu đến. Trong muôn đời, Đạo Trời không đổi, chỉ Chính Pháp, Huyền Pháp
ở Hạ thế đổi, khác nhau, làm cho xã hội con ngƣời, trái đất đổi thay.
Nay Pháp môn chủ nƣơng theo Đạo Trời, mà phổ Pháp mới do Cha ban, dạy.
Đại Pháp là Pháp lớn, tùng theo Đạo Trời và thể hiện Đạo Trời.
Tâm Công là luyện lấy nguyên công vũ trụ bằng ý chí và đạo đức, lấy tâm năng
(lƣơng tâm-căn bản ý thức linh hồn sống tại thế) làm nội khí-nội lực nền tảng,
trên cơ sở tu đạo đức, rồi dùng tâm ấy mà luyện công, để đắc đạo, đắc thần
thông. Tâm Công không đơn giản là khí công, mà nó là cái ý của Trời và tuân
theo ý Trời mà tu luyện để thành Chính giác. Vì chúng ta là tiểu linh hồn-tiểu vũ
trụ, trong Đại linh hồn (Cha)-Vũ trụ.
Nếu có Đại Pháp, nhƣng không có Tâm Công, không luyện thành đắc quả; nếu
có công thôi, thì chỉ là một môn khí công bình thƣờng, học để đƣợc tốt cho sức
khỏe thôi.
Lại nữa, đâu phải theo pháp môn, tôn giáo nào cũng đắc chính, hoặc là rút ngắn
đƣờng tiến hóa đâu. Pháp chúng ta do Ông Trời dạy, tùng lệnh Vua Cha Thƣợng
Đế lập Chính Pháp mới. Ấy mới là điều đáng nói.
CỬU LONG ĐIỂM PHÁP
Gọi là 9 con rồng (Thiên Long) chở Pháp, hay còn gọi là 9 điểm nhìn của Pháp
môn.
1-Tam Pháp: Đạo Pháp, Chính Pháp và Huyền Pháp-là ba phần Pháp chính của
Đại Pháp.
2-Tam Tòa: Tôn-Thờ Ba tòa Thiên linh là:
-Đệ Nhất tòa Cao Minh Thƣợng đế.
-Đệ Nhị Tòa Thánh Tiên thiên.
-Đệ Tam Tòa Thánh Hậu thiên.
3-Tam Giới: Là Thƣợng-Trung-Hạ giới; còn gọi là Ba cấu hình giới Vật chất
của Vũ trụ.
10
4-Tam Đẳng: Thƣợng đế-Thần Thánh Tiên Phật-Con ngƣời. Là Ba cấp đẳng
chính trong tiến hóa linh hồn.
5-Tam Đức: Chân-Thiện-Mỹ: là Ba đức lớn của muôn sự, muôn vật, thiếu một
trong ba thứ ấy, Vũ trụ, con ngƣời, xã hội không hoàn thiện.
6-Tam Công: Ba bài huyền công siêu đẳng. Không luyện không đắc đạo, luyện
cả dƣới Hạ và Trung giới.
7-Tam Minh: Cao Minh-Thần Minh-Tâm Minh.
Là Ba cái sáng của Vũ trụ, muôn vật. Cao Minh là ánh sáng trên cao, thuộc về
Cha, Thần Minh là ánh sáng trên Trung giới, còn là cái sáng của huệ nhãn, thần
nhãn, thiên nhãn. Tâm Minh là cái sáng trong lòng con ngƣời. Ba sự sáng ấy thì
Đạo Trời sáng, muôn sự sáng. Muốn có Tam Minh, thì tinh-khí-thần phải Minh.
8-Tam Tài: Thiên-Địa-Nhân: Hợp thành vũ trụ có linh giác, hợp nhất trong tạo
hóa.
9-Tam Linh: Vua Cha-Vƣơng Mẫu-Thầy: Là Ba ngôi tôn thờ chính trên Tam
tòa Thiên linh.
Pháp lý của Pháp chia thành 9 bộ sách lớn cho dễ sử dụng theo chủ đề, đó là:
Thiên-Đạo-Giáo-Huấn-Luật-Lễ-Nhân-Trí-Tín.
Là 9 đại sự công việc, lý luận của Pháp.
Con ngƣời muốn đắc đạo, về đƣợc Thiên đƣờng trên Thƣợng giới, phải luân qua
các kiếp sống, tu luyện hàng trăm, ngàn kiếp…
Thời mới, thực hiện Thiên đƣờng Hạ giới, không luyện Huyền công thì cũng
khó đắc chính quả. Pháp chúng ta lấy đạo đời hợp nhất, tu tại gia; xây đời xã hội
hoàn mỹ, con ngƣời hoàn thiện, hợp qui luật tiến hóa của tự nhiên-hay là định
luật vũ trụ-hay là Đạo Trời.
Pháp môn mới nhất trên đời
Xƣa nay chƣa có bởi Trời chƣa ban
Tu thành trăm nghiệp đều tan
Trăm bệnh phải chạy, ma tàn phải lui
Thần thông Pháp đắc chính rồi
Nhân loại vũ trụ hòa vui một nhà
Do đó, phải gọi Thiên Pháp là Huyền công, Huyền Pháp chứ không phải khí
công là nghĩa ấy.
Đọc xong Đạo Pháp, Chính Pháp, mà nhất trí tán đồng, thì tâm công đạt ¼ rồi,
ma kiếp, ma nạn, vô minh ác phải sợ, tu luyện Huyền Pháp đạt thêm một nửa và
công quả phổ độ đạt ¼ nữa.
Tại sao nhƣ thế? Các vị tu luyện lên rồi sẽ hiểu.
YÊU CẦU KHI HỌC THIÊN PHÁP
11
1-Tự làm lễ nhập môn nghiêm túc, để Thƣợng đế và các Thánh thần chứng cho.
Tôn Cha, mới tôn đƣợc mình lên. Tự mình làm lễ chay đơn giản, thắp hƣơng
khấn: “Con kính Vua Cha Cao Minh Thƣợng đế, cho con đƣợc học Thiên Pháp”.
Yêu cầu về phép lễ:
Trƣớc khi tập thiền, công, hay dƣỡng sinh...dù tƣ thế ngồi, hoặc đứng, đều phải
làm phép: Quay về hƣớng sao Bắc Đẩu-nơi Cha ngự. Bái: Tay phải đặt trên trán,
ngón tay cái chạm vào trán chỗ ấn đƣờng (giữa hai lông mày). Tay trái đặt ngang
ngực chỗ tim, mũi bàn tay xoay vào trong, đến giữa ngực.
Niệm: “Xin Cha cho con tu tập Thiên Pháp đạt kết quả tốt”.
Ý nghĩa cũng là cách chống tẩu hỏa nhập ma, đƣợc Cha bảo vệ khi tập
2-Không dùng Pháp làm việc ác, nếu không Pháp sẽ phản thân.
Theo 9 điều Không phạm. Không dùng Pháp kiếm danh lợi bất chính, dùng
huyền thuật hại ngƣời, cúng bái bói toán kiếm ăn, phản thầy, chữa bệnh lấy tiền,
chống lý tƣởng Đại Đồng.
3-Không hoạt động chính trị chống Nhà nƣớc Việt Nam và các thể chế nhà nƣớc
khác hiện nay. Không tranh dành danh lợi với các pháp môn khác.
Nên đọc thông Đạo Pháp, Chính Pháp( ở phần lý thuyết Pháp môn). Môn Pháp
không là tôn giáo nên không giảng Pháp. Đọc đã thông, không có gì bí hiểm bí
nhiệm cả. Tri thức của Pháp là khoa học nghiêm túc.
BÀI 2
TÌM HIỂU VỀ KINH MẠCH LẠC HUYỆT
(Tài liệu bổ trợ)
BÀI 3
THUYẾT ÂM DƢƠNG NGŨ HÀNH-TẨU HỎA NHẬP MA-KHÍ HÓA
THUYẾT ÂM DƢƠNG NGŨ HÀNH
Vũ trụ vật chất đƣợc tạo thành bởi thành tố Âm-Dƣơng (Thái cực). Trong tính
chất của mọi vật có hai phần vật chất âm-dƣơng. Các chất này lại phân thành các
tính chất của vật chất là ngũ hành chất-thực chất đây là màu sắc của vật chất do
thể từ-điện trƣờng của chúng tạo nên khí, mà chúng ta gọi là thể vía. Có 5 loại
khí-chất cơ bản, ứng với 5 loại màu sắc tƣơng ứng, mà cổ nhân xƣa gọi là Kim-
12
Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ: Trắng-Xanh- Đen-Đỏ-Vàng. Các chất này khi biến hóa,
gặp nhau, loại suy tƣơng hỗ thành 9 loại chất: Trắng-xanh da trời-đỏ-vàng-xanh
lục lam-chàm nâu-xanh lá cây-tím.
Vô Cực sinh Thái Cực. Thái Cực sinh Lƣỡng Nghi. Lƣỡng Nghi sinh Tứ Tƣợng.
Tứ Tƣợng sinh Bát Quái. Bát Quái sinh 64 Quái.
Âm dƣơng- Thái cực Từ trƣờng trái đất
Thái cực sinh ra 2 nghi: một âm và một dƣơng. Mỗi nghi sinh ra 2 tƣợng: một
âm và một dƣơng. Mỗi tƣợng sinh ra 2 quái: một âm và một dƣơng, 1-sinh 2-
sinh 4-sinh 8….
Điều này chứng minh chính xác của khoa học vật lý lƣợng tử-y-sinh-hóa hiện
đại:
Mọi sự vật hiện tƣợng, tế bào, cơ thể con ngƣời…đều phát sinh phát triển bằng
nguyên lý trên.
LUẬN VỀ ÂM DƢƠNG KHÍ HOÁ
“Vũ trụ là sự điều hợp của hai khí âm và dƣơng. Âm là nặng, đục chìm xuống là
đất. Dƣơng là nhẹ, sáng trong nổi ở trên. Qua một chuyển biến về khí hóa, vũ trụ
lần lần đƣợc trật tự lại.
Tất cả các vật thể trong vũ trụ đều do sự biến chuyển của khí hóa mà thay đổi. Ví
dụ: hơi của nƣớc xông lên để chuyển thành mƣa. Gió thổi có thể di chuyển đổi
dời một hòn núi đất. Thời gian và không gian cũng đƣợc chia ra theo nguyên tắc
khí hoá. Đông phƣơng lấy sự biến hóa của khí trong không gian làm tiêu chuẩn
để phân chia thời tiết, tháng ngày. Lấy mực độ cao nhất của âm dƣơng tức là độ
thuần âm và độ thuần dƣơng. Thí dụ: khí thuần âm lên đến thuần dƣơng là 180
ngày có dƣ và thuần dƣơng tới thuần âm 180 ngày có dƣ. Do đó mới định từ khi
khí lên cho đến lúc khí xuống nguyên độ cũ là một năm hay hơn 300 ngày, 24
khí, 28 tiết, cùng là 4 mùa. Do chuyển biến khí hoá của vũ trụ nên đã định ra ƣớc
lệ về thời gian…
Khí trời (dƣơng) chi phối khí của đất (âm) là thuận và ngƣợc lại là nghịch. Khí
thuận thì muôn vật sinh hoá dễ dàng, nghịch lại thì muôn vật tiêu hao rồi tàn tạ.
13
Con ngƣời theo luận thuyết đông y là một trong muôn vật, gặp khí tiết của trời
đất thạnh thì khoẻ mạnh nở nang, khí tiết của trời đất nghịch thì tiêu hao bịnh tật.
Trị bịnh cho con ngƣời theo phƣơng pháp của đông ý là điều hòa khí hóa trong
cơ thểcho kịp chiều hƣớng bất thƣờng của Trời đất”
(Sách Nguyên lý ngũ hành trong châm cứu ).
NGŨ HÀNH SINH KHẮC
“Khí hóa của đất có 6 loại: Mộc khí, Quân hỏa, Tƣớng hỏa, Thổ khí, Kim khí,
Thủy khí.
Khí của trời có 6 loại, ngƣời xƣa đặt những tên tƣợng trƣng: Dƣơng minh, Thái
dƣơng, Thiếu dƣơng, Khuyết âm, Thái âm và Thiếu âm. Cả hai khí của Trời Đất
phải giao hiệp nhau để thành phong, hàn thử, thấp, táo, hỏa. Sái nghịch là vạn vật
tiêu hao khổ bệnh. Khí của Trời thuận, chi phối đƣợc khí của đất thì sự sinh hóa
thuận chiều Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh thổ, Thổ
sanh Kim. Phong Mộc ở mùa Xuân sinh luân Hỏa. Luân Hỏa ở đầu mùa Hạ sinh
ra tƣớng Hỏa ở cuối Hạ. Thử Hỏa ở chính Hạ sinh ra thấp Thổ. Thấp Thổ ở đầu
Thu sinh ra táo Kim. Táo Kim ở cuối Thu sinh ra hàn Thủy. Hàn Thủy ở mùa
Đông rồi sự sinh hóa đi vòng trở lại, cứ thế mà sinh hoá liên tiếp. Theo Đông y
luận: nhân thân là tiểu vũ trụ. Cơ thể con ngƣời định thuộc vào khí trời, khí đất,
tạng phủ kinh lạc trong cơ thể con ngƣời cũng phối hợp chuyển hoá với nhau
theo sự chuyển hóa của khí và sự vận hành của trời đất.
Khí trời đất chuyển hóa bất thƣờng thì vũ trụ bệnh và làm cho vạn vật đều bệnh.
Sự chuyển hóa của khí, sinh ra bệnh nội thƣơng. Sự chuyển hoá bất thƣờng của
trời đất làm ra bệnh ngoại cảm.
Lập luận rõ ràng nguyên tắc khí hóa giữa Trời Đất và con ngƣời để theo đó mà
luận bệnh gọi là khoa Khí Hoá Y lý học (altération des humeurs).
Những gì thuộc chất thể (đối lại khí thể) trong vũ trụ, đông y liệt về loại ngũ
hành (kim mộc, thủy, hỏa, thổ). Những gì thuộc về khí thể (đối lại chất thể) đều
liệt về loại lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa). Theo đông y hình thể con
ngƣời có hình trạng, song sự yếu mạnh của những hình tƣợng đó không thể chỉ
nhìn vào mà luận đƣợc. Ví dụ: tim yếu, thiếu máu, Tây y cho sang máu và làm
yên tim. Đông y cho đó chỉ là trị ngọn. Cách trị của Đông y là luận rõ căn
nguyên của bịnh rồi làm cho tim hoạt phát trở lại tự nó làm cho đầy máu. Nhƣ
vậy đông y làm cho phần khí của tim điều hòa ăn nhịp với các phần khí của các
tạng phủ khác.
(Sách Nguyên lý ngũ hành trong châm cứu)
NỘI LỰC VÀ TÂM NĂNG TU LUYỆN
14
Các thầy đồng bóng, hoặc thầy phù thủy dùng tha lực của âm binh, hoặc thần
thánh. Khi thánh giáng dạy bói, thì họ nói nhƣ thánh, thực ra là thánh nói, có khi
đến xem bói, không bỏ tiền cúng, thánh bóng ấy không giáng, đồng gieo quẻ,
gieo đài không đƣợc, nếu bỏ tiền ra thì thánh dạy. Ấy là tha lực vậy.
Bí mật về bùa bả, yểm đảo, là dùng tha lực của âm binh và nạp năng lƣợng tâm
linh vào, không có gì đáng sợ bí hiểm nữa, học viên dùng phép Thiên Đạo Đại
Pháp này, phá đƣợc.
Chúng ta không dùng tha lực mà chính luyện nội lực. Chúng ta tu luyện thì
chúng ta đƣợc cho chính ta-có sức khỏe, tuổ thọ, âm đức, lại đƣợc lợi cho sự tiến
hóa của kiếp này-tức là giác ngộ Chân Lý và có tiến hóa tâm linh, sau chết thì
đƣợc tự mình đã siêu thoát, lên các cảnh cao trên Trung Giới, Thƣợng Giới. Tu
luyện đến đâu, thì nội lực và tâm linh đƣợc đến đó. Và cứ theo trình độ ấy, mà
Thiên đình điểm đạo, nâng cấp công quả-tiến hóa cho chúng ta đến đó. Trên
Thiên giới, có điểm đạo; dƣới Hạ giới, chúng ta cũng đƣợc điểm đạo nhƣ vậy.
Có khi chúng ta không biết bề trên chấm, có khi các ngài giáng linh dạy, chấm
nhƣ chấm cho tôi. Vậy tôi nói thế, các vị mới biết việc tu luyện quan trọng đến
chừng nào.
Nếu cứ vô minh, tranh dành bon chen, coi đời này là hết, thậm chí chả biết có
Thiên giới-Thƣợng đế hay không; hay giờ còn mơ hồ, là không biết có linh hồn
hay không; sống thì dẫm đạp lên nhau, rƣợu thịt tỳ tỳ, hoặc có đi lễ lắm, nhƣng
ham hố đủ thứ, hoặc tu hình tƣớng, nhƣng không biết thƣơng dân, không biết
cứu độ, háo danh háo tiền, ma nhiễm đạo sự…thì có cả vạn năm nữa, cả ngàn
kiếp nữa vẫn thế và khổ đau-khi bỏ xác trần không siêu thoát đƣợc.
Sau các vị hiểu đƣợc điều tôi nói, thì mới là Ngộ ra chân lý.
Đến bài Tam Công, học chƣơng trình cấp cao rồi, thì học viên đuổi đƣợc tà ma,
nếu nó đánh lại thì dùng Tƣợng Pháp xuất vía mà đánh, bóng kiếm cầm tay, roi
cầm tay, chém lại. Hoặc chƣa biết xuất vía thì dùng Linh Pháp ốp vào nơi nó ngụ
trên ngƣời mà đánh, thúc nó ra.
Tất nhiên phải có thiên nhãn, thần nhãn mới soi, nhìn thấy nó trong cơ thể; nó có
chạy đến Thiên hà cũng đuổi theo bắt đƣợc, vậy chúng ta phải luyện nhãn thần
theo học phép mới giỏi đƣợc.
Bị bệnh tà ma, thần kinh giả, bùa yểm…giải đƣợc hết, không cần đi thuê thầy
cúng, tốn công tốn tiền, có khi tiền mất tật mang.
Vì tu luyện Thiên Pháp, chính là luyện thần thông, một khoa học cao cấp nhất về
huyền thuật-ngoại cảm, xƣa thì bí hiểm, nay không có gì bí hiểm nữa, nên chúng
ta chớ khúm lúm lạy ông đồng cốt, lạy mợ múa may, lạy thày bói toán…có gì
mà lạy! Có khi chúng ta lạy ma cũng nên, vì ma giáng cũng có thể phán nhƣ thần
vậy, vì họ là linh hồn, mà linh hồn, nhƣ ta đã viết rồi: Họ có đủ thiên nhãn thông,
thần túc thông( tức biết quá khứ vị lai)…
15
Bây giờ chúng ta luyện Thiên Pháp, sau cũng giỏi nhƣ linh hồn vậy, nhƣng
chúng ta còn siêu hơn, vì ta có năng lƣợng hợp chất xác thể, cũng là một linh
hồn, vậy phải hơn kẻ chỉ còn cái vía chứ! Không tin sau các vị cứ làm xem, tà
ma nó phải chạy. Khi chúng ta tu luyện đến cao cấp, thì sức mạnh của chúng ta
ngang bực thần thánh về nội lực, tại sao? Vì công năng cao cấp, tâm năng đạt vi
diệu, đạo đức bực thần tiên, ấy chính là thần tiên tại thế vậy. Và khi từ giã Hạ
thế, thì chúng ta nhanh chóng lên cao, đúng với quả vị đã tu luyện đƣợc, tức là
linh hồn về ngự trên Linh Pháp của chính chúng ta đã lập trên Kim Tự Tháp.
-Phải xác định 3 mục đích:
+ Nâng cao sức khỏe, tuổi thọ.
+ Tu luyện để đạt phúc và nhanh tiến hóa cho hiện kiếp, cho hồn mình-
điều này là quan trọng nhất!
+ Giác ngộ Pháp thì phải phổ giáo. Cứu độ là giúp ngƣời khác giác ngộ và
giúp họ cùng với chúng ta xây đời, làm đúng luật mới của Vua Cha.
Nếu thấy Đức mình cao hơn ngƣời, thì mới chữa bệnh cho họ. Khí mạnh mới
chữa, nếu không sẽ mang họa. Cấm chữa bệnh lấy tiền, khoe tài…Khi nào giỏi
hơn thầy, lúc ấy mới đáng mặt anh tài.
KHÍ, TRƢỜNG SINH HỌC VÀ NĂNG LƢỢNG SINH HỌC
1-Khí:
Là một dạng vật chất, là điện trƣờng và từ trƣờng do các nguyên-phân tử cấu tạo
nên, do đó khí là vật chất và có năng lƣợng.
Linh hồn là vật chất, là tổ hợp nguyên tử không còn phân rã, nên bất tử-theo
nguyên lý vật lý lượng tử. Linh hồn cũng mang năng lượng. (đọc thêm về lý
luận Linh hồn-trong Nhân kinh).
2-Trƣờng sinh học:
Nguyên tử tạo ra điện trƣờng, từ trƣờng. Cơ thể con ngƣời đƣợc cấu tạo bằng các
nguyên tử, vậy sẽ tạo ra xung quanh mình một lớp điện-từ trƣờng-chính là
Trƣờng sinh học-hay còn gọi là thể vía. Thể vía và màu của nó có cấu tạo phụ
thuộc vào chất tạo nên nó-tức thân thể chúng ta, gồm cả linh hồn và thể xác-
Trong đó có cả tƣ tƣởng. Tƣ tƣởng càng cao đẹp, ăn uống càng thanh tịnh, thì thể
vía-hay trƣờng sinh học càng trong, sáng, và ngƣợc lại. Các Đạo sƣ, các nhà tu
hành bực cao, có hào quang trên đầu. Dùng mắt huệ có thể nhìn thấy điều này,
có thể đánh giá đƣợc mức độ tu luyện và tiến hóa của con ngƣời.
Do tất cả là vật chất, nên ở đâu có vật chất, ở đó có năng lƣợng. Nghiên cứu
Khoa học về Trƣờng sinh học và sử dụng nó-tức sử dụng năng lƣợng sinh học,
đó chính là Khoa học của chúng ta. Khoa học về sử dụng năng lƣợng trƣờng sinh
học-Không có gì bí hiểm, mê tín.
Thân ngƣời là một thanh nam châm, chiều đƣờng sức cực Nam là huyệt Bách
hội, cực Bắc là huyệt Hội âm.
16
Luyện khí công: chính là luyện cách dùng khí-nguồn năng lƣợng trong Vũ trụ và
trong bản thân con ngƣời để là thúc đẩy việc bảo tồn cơ thể, để chữa bệnh, thay
đổi thể vía-tức là trƣờng sinh học của bản thân để sống khoẻ hơn, minh triết và
thông tuệ, đạt huệ năng Vũ trụ và khai mở linh năng. Do trƣờng sinh học cấu tạo
bằng các phân tử thể vía, trực tiếp do cơ thể và tƣ tƣởng tạo nên-tƣ tƣởng xấu tạo
ra thể vía xấu-tạo ra bệnh tật, bị ma quỉ đồng khí tƣơng cầu ám vào gây
bệnh....Nên tập khí công, chữa bệnh-đồng thời phải tu luyện đạo đức, tƣ tƣởng.
Thiền là cách đƣa trạng thái cơ thể và tƣ tƣởng về tĩnh, tĩnh tâm, tĩnh trí, thải bỏ
tạp niệm và tƣ tƣởng xấu, biến động, hƣớng lên nguồn ánh sáng cao đẹp để luyện
tâm-đạo đức, để thay đổi trạng thái thể vía, từ đó tiếp nhận tốt hơn nguyên khí-
năng lƣợng Vũ trụ, để luyện công và chữa bệnh, đạt huệ năng tâm-khí và thông
linh tốt hơn. Luyện Thiên Pháp, phải tu đức làm đầu là nhƣ vậy.
Tu luyện Thiên Pháp phải hiểu cả Tam lý Pháp (Đạo Pháp, Chính Pháp, Huyền
Pháp), giỏi cả Tam Công Pháp.
Chúng ta phải hiểu thấu đƣợc lý thuyết này, mới có thể giải thích đƣợc toàn bộ
các hiện tƣợng và nội dung liên quan đến chƣơng trình học của chúng ta: Đó là
dùng khí-năng lƣợng chữa bệnh, tâm năng chữa bệnh, chỉnh trị siêu thoát cho ma
quỉ, thu nạp năng lƣợng Vũ trụ, chữa bệnh từ xa, khai mở huệ nhãn, thiên
nhãn....Thông linh, tiếp xúc với cõi vô hình...
LÝ LUẬN CỦA PHÁP MÔN VỀ CÁC ĐƢỜNG KHÍ-NĂNG LƢỢNG CƠ
THỂ
Qui định:
Nam: Bên phải là âm Long, bên trái là dƣơng Long
Nữ: Bên phải là dƣơng Long, bên trái là âm Long.
Phía trƣớc ngƣời: Nam là âm khí, nữ là dƣơng khí
Phía sau lƣng: Nam là dƣơng khí, nữ là âm khí.
Khí vận: Khí giáng xuống từ Vũ trụ-đi từ:
-Nam-Từ trên cao Bách Hội (đỉnh đầu) xuống đằng phía trƣớc-theo nguyên
lý dƣơng giáng xuống theo các kinh âm-đƣờng âm.
-Nữ ngƣợc lại-Khí từ Bách Hội đi xuống đƣờng lƣng-theo nguyên lý khí
dƣơng giáng theo đƣờng kinh âm-đƣờng âm.
Khí thăng:
-Nam khí thăng qua lƣng, lên Bách Hội. Nữ khí thăng qua bụng mà đi lên
trên Bách Hội.
-Sao 5-Thiên đột trƣớc tổng quản các đƣờng kinh phía trƣớc. Đại trùy-tổng
quản các đƣờng kinh phía sau.
-Năng lƣợng cơ thể nằm tại các trung tâm sao-nhƣng chủ yếu tại sao 2-4-6.
-Sao 6 Tổng quản và là trung tâm thần kinh-linh hồn; nhƣng linh hồn ngự
tại xác thể trú ngự và nƣơng tựa trên toàn bộ trục Long hỏa và 2 đƣờng hộ vệ
17
Long-mà Ta gọi là 2 Long hộ vệ (Địa Long)-xoắn bện lấy nhau, tƣơng hỗ nhau-
nhƣ hình ADN; ngoài ra, dọc trục xƣơng sống, có đƣờng Đốc kinh, trƣớc ngƣời
có Nhâm kinh-là hai đƣờng khí âm dƣơng chính, tách biệt nhau.
Nhƣ vậy, chúng ta hình dung, toàn bộ hệ thống năng lƣợng-tâm linh của cơ thể
giống y nhƣ hình AND: Xoắn bện theo hình xoáy trôn ốc, số 8 xoắn. Giữa là trục
Long hỏa, dọc hai cạnh bên ngoài là trục âm dƣơng Nhâm-Đốc. Tại các điểm
thắt, nút, chính là các đầu mối thần kinh, cũng là trung tâm năng lƣợng lớn nhất.
Các đƣờng sức ngang, chính là các luân xa-sao nhỏ. Có hai sao nhỏ-nhƣng quan
trọng nữa-chính là hai huyệt Dũng tuyền tại gan bàn chân. Vậy nói cho đúng,
chúng ta có 9 sao tất cả: 7 chính, 2 phụ. Trên Vũ trụ thì có 7 sao Bắc Đẩu và 2
sao phụ là Nam tào-Bắc đẩu (hay còn gọi là Tả Phù, Hữu Bật).
-Vũ trụ cấu tạo cũng xoắn nhƣ hình trôn ốc nhƣ trên, có 9 cấp-cảnh giới-cấu
hình-mức năng lƣợng vật chất (Đọc thêm trong Thiên Kinh-Nhân Kinh về các
nội dung trên-sang các cấp 2 có lý luận kỹ hơn về các đƣờng Long).
-Toàn bộ trƣờng sinh học cơ thể giống nhƣ hệ Đƣờng sức, cơ thể nhƣ một nam
châm, ra Bắc (sao 7)-vào Nam (sao 1)-trục đƣờng sức là trục Long. Đƣờng
Nhâm-Đốc là đƣờng tuần hoàn âm dƣơng. Hai sao 8-9 là Dũng tuyền thì tiếp
năng lƣợng với đất.
-Khi nằm tập hoặc nằm ngủ: Đầu quay phía Bắc cho phù hợp với từ trƣờng trái
đất. Khi bái niệm, thì quay về phƣơng Bắc Đẩu để hòa nhập và lấy năng lƣợng
Vũ trụ.
18
19
20
7 luân xa-đại huyệt (sao)--thể vía-sợi dây bản mệnh nối với Đại nguyên năng
(Thƣợng đế-Cha) trên Thiên đình-Thƣợng giới-Trung tâm vũ trụ tại sao Bắc
Đẩu.
THIÊN PHÙ-BIỂU TƢỢNG KÍNH-THỜ VUA CHA THƢỢNG ĐẾ
21
22
7 sao bản mệnh cơ thể con ngƣời và Vũ trụ-7 trung tâm năng lƣợng, thần lực
Vũ trụ-Vòng Đạo-Thƣợng đế-là 7 ngôi Bắc Đẩu. Con ngƣời là tiểu Vũ trụ trong
Vũ trụ, là Tiểu Nguyên năng trong Đại Nguyên Năng. Thiên-Địa-Nhân hợp nhất.
Quán tƣởng Thiên Phù khi tập Thiên Pháp, nhìn vào Thiên Phù để lấy năng
lƣợng cộng hƣởng của Vũ trụ-Thƣợng đế.
7 sao và tên Đại huyệt-trung tâm năng lƣợng cơ thể-nơi nƣơng tựa của linh hồn
tại thể xác. (tất cả tên các huyệt này phải thuộc).
TẨU HỎA NHẬP MA
“Tẩu hoả, nhập ma là các tai biến xảy ra ở mọi trình độ luyện công và xảy ra
nhiều ở trình độ sơ đẳng do kém hiểu biết về cánh luyện, thiếu trình độ để phát
giác hầu kịp thời ứng phó.
23
Cũng cần phân biệt rõ tẩu hoả và nhập ma là 2 tai biến hoàn toàn khác biệt về cả
tính chất lẫn nguyên do. Dù ở mức độ trầm trọng cả 2 tai biến đều đẩy ngƣời rèn
luyện vào trạng thái mất trí, điên cuồng, nhƣng ngay tính chất này cũng khác
nhau. Ngƣời bị tẩu hoả trở nên điên cuồng do nội khí loạn chuyển, còn ngƣời bị
nhập ma trở nên điên cuồng do các ảo ảnh huyễn hoặc chi phối.
Nói một cách khác, tẩu hoả là do tình trạng khí lực chuyển động bất chấp quy
luật và vƣợt khỏi ý hƣớng điều phối của ngƣời luyện công. Còn nhập ma là trạng
thái mê loạn của ngƣời luyện công do ảo ảnh huyễn hoặc không còn khả năng
nhận chân nổi thực tế, tin tƣởng tuyệt đối vào những điều không hề có hoặc chỉ
có trong sự vọng tƣởng mà thôi.
Bị tẩu hoả ở mức độ nhẹ sẽ cảm thấy ngực, bụng trƣớng thống, đầu nặng mắt
hoa do khí lực chuyển nhiều tới các bộ phận này. Trong tình trạng nặng hơn, do
khí loạn chuyển khắp toàn thân, ngƣời luyện không chỉ chịu cảm giác đau đớn
mà còn mất hẳn quyền chủ động với thân thể của mình. Khi đó, mọi hành vi, mọi
cử động ngoài hẳn ý muốn đều có thể xảy ra và bƣớc cuối cùng là điên cuồng
thực sự.
Bị nhập ma không có các hiện tƣợng nhƣ trên. Do bị luôi cuốn bởi các ảo ảnh,
ngƣời luyện sẽ dần dần từng bƣớc lấy giả làm thật, và cứ thế tiến dần vào trạng
thái gần nhƣ hôn mê, tinh thần thất tán và cuối cùng cũng đi tới sự điên cuồng.
Quá trình luyện công luôn bao gồm nhiều bƣớc quan trọng mà quan trọng đáng
kể là giai đoạn “nhập tĩnh”. Chính trong bƣớc nhập tĩnh, ngƣời luyện công sẽ
khởi sự thâu hoạch các thành quả để nâng cao dần trình độ công phu của mình.
Nhƣng để bƣớc vào nhập tĩnh ngƣời luyện công phải đạt đƣợc ít nhất 2 điều kiện
là “Điều phối ý khí“ và “bài trừ tạp niệm”. Điều phối ý khí là dùng ý dẫn khí đi
khắp các bộ phận thân thể theo các quy luật nhất định mà mỗi công pháp đã vạch
rõ. Bài trừ tạp niệm là đạt tới sự tập trung ý tƣởng ở mức hoàn hảo .
Tai biến xảy ra khi ngƣời luyện coi nhẹ các điều kiện trên hoặc quá nôn nóng
muốn gấp rút thu hoạch các thành quả. Một trong các nguyên tắc lớn của luyện
công là: “dụng ý bất dụng lực”. Các dụng ý cũng đƣợc chỉ dẫn rõ là: “hữu ý, vô
hữu xƣng công phu”. Tức là cần tránh sự chấp ý để đạt tới trạng thái hoàn toàn
tự nhiên. Ý đến và đi phải nhẹ nhàng, thanh thoát nhƣ một là gió thoảng không
bị thúc đẩy bởi các mong muốn hay mƣu tính. Do sở cầu bản thân, cố dồn ép
nhịp điều phối Ý – Khí để thu ngắn quá trình rèn luyện là đã “dụng lực”, tức đã
vi phạm nguyên tắc căn bản nêu trên. Đây là nguyên do chủ yếu đƣa đến tai hoạ
Tẩu hoả. Ngƣời luyện muốn mau bƣớc vào giai đoạn nhập tĩnh dã đặt bản thân
mình vào thế rèn luyện quá cuồng nhiệt, dùng lực để cƣỡng bức nhịp thở, gấp
gáp vận khí luân chuyển trong khi quên bẵng đòi hỏi quan trọng là phải đạt tới
trạng thái hoàn toàn tự nhiên.
So với điều phối ý khí, việc bài trừ tạp niệm còn có vẻ khó hơn. Do dó nhiều
phép luyện bài trừ tạp niệm đã đƣợc đề ra nhƣ: sổ tức pháp, ngoại quan pháp, kế
24
số pháp, mục thị tị chuẩn pháp… Nhƣng ngƣời luyện công thƣờng không lƣu
tâm tới các phép luyện này và tự đánh giá chủ quan về thành tựu bản thân để
mau chóng bƣớc qua giai đoạn nhập tĩnh. Trên thực tế, các tạp niệm chƣa thực
sự tiêu trừ đã dần dần hồi sinh ngay trong quá trình nhập tĩnh hoá thành các loại
ảo ảnh. Thông thƣờng ảo ảnh từ các điều mà ngƣời luyện sẽ nhìn thấy, tƣởng
nghĩ tới hoặc ấp ủ mơ ƣớc. (Tài liệu Internet).
Để tránh tẩu hỏa:
Yêu cầu trong lúc luyện, cần lƣu ý các đặc điểm:
-Mát-xa, xoa nóng ngƣời, sau đó thiền, rồi mới công khí.
-Buông thả toàn thân. Bài trừ tạp niệm. Tâm thần an định. Dẫn khí nhẹ nhàng.
-Khi đang dẫn khí mà còn nghĩ ngợi việc khác, thì dừng lại ngay.
-Sau này, khi đã thông đƣợc các sao, mạnh thƣờng thông, hoặc đã có huệ nhãn,
tập rất nhàn, vì có thể nhìn thấy khí hoặc cảm nhận rõ đƣợc luồng khí; lúc đó có
thể nén khí nhiều tại Đan điền để tăng nội lực.
-Phải tập thở tốt.
-Tập tránh gió lùa; không tập khi ốm nặng, rối loạn tinh thần, uống rƣợu, ăn
hành hẹ tỏi ớt (tán khí).
-Thông 2 vòng đại tiểu khí thƣờng xuyên và thông 7 sao, xong mới đƣợc nén
khí-nếu không rất đau đầu, rối khí, khí nóng, tạp khí (do dồn khí).
-Khi ngƣời mệt, yếu quá, chỉ nên tập 3 bài công pháp, nhƣng không dẫn Long.
-Không thiền quá sâu, buồn ngủ rồi mới tập công.
-Không ham vội nén khí ngay, hàng ngày trƣớc khi nén khí, phải xả khí trọc,
thanh lọc cơ thể qua các sao trước đã, đến khi người thấy nhẹ, hoặc soi thấy
các trung tâm sao và các kinh đã thông mới tập công nén.
-Chỉ đến cấp 3 mới khai nhãn, vì khai sớm, trình độ thấp, ắt sẽ bị nhập ma, đau
đầu.
-Niệm các phép quán pháp khi tập để đƣợc bảo vệ tâm linh.
-Cấm tập trƣớc các bài Tam công pháp của cấp sau; cấm tập bài 2 khai long
hỏa, khi không có sự hƣớng dẫn của ngƣời có kinh nghiệm học trƣớc, hoặc thầy
trực tiếp hƣớng dẫn. ( Khi tập bài Khai Long hỏa, nên gọi cho thầy, hoặc bạn tập
trƣớc hỗ trợ. Nếu căn cơ khí lực tốt, tự tin mạnh dạn khai. Hiện nay có đa số
ngƣời tự khai tốt-không cần hỗ trợ. Tuy nhiên cần đƣợc tƣ vấn thêm. Cách khai
của chúng ta khác các pháp môn khác, nên an toàn hơn).
Chú ý:-Khi dẫn khí, đến chỗ nào thấy tức, nóng quá, đau, là do chỗ đó có huyệt
bị tắc, sao chỗ đó chƣa thông; nên thông lại, sau đó tập tiếp.
Cách xử lý khi bị tẩu hỏa-nhập ma:
-Dừng tập ngay, thu khí về Đan điền, thả lỏng ngƣời.
-Xoa nóng các sao, mát-xa nhƣ lúc đầu.
25
Nếu bị nặng: hoa mắt, nhức đầu nặng, hoặc nôn mửa, mê sảng, thấy ớn lạnh và
rùng mình, thấy nháy nháy trong đầu, có mùi tanh-là có vong lạ nhập.
Lập tức trùm chăn, uống nƣớc gừng, gọi điện nhờ thầy, hoặc nhờ bạn giỏi truyền
khí, bấm các huyệt: Nhân trung-Nội quan-Thiên đột-Đại trùy-Ấn đƣờng-Dũng
tuyền-Hợp cốc; nếu bị nhập ma, sử dụng các biện pháp tự vệ tâm linh cần thiết,
nhƣ: Lăn trứng vào gáy, các sao, dùng đá thạch anh trấn vào, hoặc niệm phép
cho xin Thiên Pháp giáng…. tạo vòng khí bảo vệ.
-Bị nặng, mang đến nơi y tế, hoặc thầy đông y biết bấm huyệt, hoặc gọi thầy
cứu. Các học viên cấp 1 phải biết cách tự xử lý.
THỰC HÀNH HỌC THIÊN PHÁP
BÀI 4
THỂ DỤC, DƢỠNG SINH MÁT-XA, TẬP THỞ TRƢỚC KHI THIỀN,
LUYỆN KHÍ
Bài Thể dục sáng, chiều, hoặc trƣớc khi luyện khí
1-Lắc cổ, vặn vai: Tập hàng ngày, trƣớc và sau khi thức dậy, trƣớc và sau khi tập
khí công.
Tƣ thế: Ngồi hoặc đứng. Nếu ngồi thì xếp bằng, đứng thì 2 chân bằng vai. Tay
chống hông. Lắc xoay cổ theo 2 chiều. Hình dung khí theo mũi vào cổ, xƣơng
cổ.
Tác dụng: Tập bài này: chống các bệnh liên quan đến khớp, xƣơng cổ.
2-Lắc vặn xoay lƣng: Tay chống hông. Xoay vặn lƣng theo 2 chiều. Thở tụ khí
vào đan điền, thở ra nhẹ nhàng, sau đó thở thận.
Tác dụng: Làm khoẻ thận, vùng lƣng, trị các bệnh vùng bụng.
3-Lắc vặn xoay hông: Tay chống hông. Xoay vặn hông theo 2 chiều. Thở tụ khí
vào đan điền, thở ra nhẹ nhàng, sau đó cho khí xuống hai bên hông, chạy xuống
2 gan bàn chân.
Tác dụng:- Làm khoẻ thận, vùng lƣng, trị các bệnh vùng bụng, chân.
4-Chà nóng hai gan bàn chân: Dùng tay xoa theo chiều kim đồng hồ ở lòng hai
bàn chân, cho nóng ran lên chỗ huyệt Dũng tuyền.
Tác dụng: Trị bệnh cao huyết áp, đƣờng ruột. Chú ý xoa từ gót chân lên đến gan
bàn chân. Xoa gan bàn chân hầu nhƣ là chữa đƣợc các bệnh, đặc biệt là thận.
Xoa đầu ngón chân cái trị bệnh đau đầu, cổ.
Bài tập mát-xa trƣớc khi thiền, luyện khí
Trƣớc và sau khi thiền, luyện khí: phải làm các động tác mát-xa, dƣỡng sinh để
cơ thể thuần thục, thông khí huyết, tránh tẩu hoả nhập ma.
26
Gồm 9 bƣớc:
1- Thả lỏng toàn thân. Buông thõng hai chân, tay và thân ngƣời.
2- Xoay, vặn ngƣời qua lại nhiều lần, xoay quay hông, cổ.
3- Dùng 2 đầu ngón tay cái đặt vào thái dƣơng, rồi đặt 2 ngón giữa của 2 bàn tay
vào ấn đƣờng, day nhẹ ấn đƣờng và thái dƣơng. Sau đó: để nguyên 2 ngón tay
cái nhƣ thế, vuốt hai ngón tay dọc phía trên lông mày; di chuyển ngón giữa xoa
vòng từ giữa trán xuống 2 bên trán. Sau đó: để nguyên 2 ngón tay cái nhƣ thế,
xoa lên huyệt Bách hội trên đỉnh đầu; quay bàn tay ra sau gáy, vẫn dùng 2 ngón
giữa xoa nắn gáy, 2 mang tai; vuốt vành tai cho nóng lên.
4-Dùng hai tay vuốt nhẹ từ Sơn căn (dƣới Ấn đƣờng), xuống hai bên sống mũi,
xuống 2 bên khoé miệng, xuống cằm. Xoa huyệt Nhân trung
5- Xoa lòng bàn tay nóng, rồi áp vào mắt, mặt. Xoa nóng ngực, rốn, Đan điền.
6-Xoa dọc hai chân, xuống bàn chân. Xoa ấm hai lòng bàn chân, day huyệt Dũng
tuyền.
7-Trƣớc khi tập: Thở tống khí 9 lần. Rồi tập vài lƣợt thở bụng quán dồn khí về
Đan điền. Sau khi tập:-Trở lại thở điều hoà khí nhẹ bình thƣờng.
8- Trƣớc khi tập: Xả trọc: Tƣởng tƣợng khi ám trong cơ thể và xung quanh bị tan
bay ra, tạo một vòng sáng xung quanh thân mình.
9- Trƣớc khi tập: Xả tâm: Tâm tịnh, tập trung tƣ tƣởng vào tập, loại bỏ tạp niệm,
đƣa ý nghĩ về trống không. Mặc quần áo rộng, thoáng.
Sau khi tập:
-Xoa nóng ngƣời.
- Đi chân đất, xả khí qua gan bàn chân.
- Bình thân trở lại.
CÁCH LUYỆN THỞ KHOA HỌC
Tác dụng: -Phƣơng pháp thở bụng nhằm tụ khí tại Đan Điền.
-Thở bụng nhằm tăng cƣờng khí lực, tạo nội khí vào bể chứa năng lƣợng của cơ
thể, giúp tăng khí lực, chống các bệnh về hô hấp, suy khí, để cân bằng giao cảm
âm dƣơng.
-Tạo thói quen thở bụng trong mọi lúc, thay thở ngực bằng thở bụng. Trƣớc khi
luyện thiền-công, phải tập luyện thở; sau đó, trƣớc khi mỗi lần thiền-công phải
thở điều hòa vài lần.
Cách tập: Ngồi thẳng lƣng. Hít khí vào, dọc theo đƣờng giữa cơ thể, xuống Đan
điền, không cần nén khí. Thở ra theo đƣờng ngƣợc lại. Thở đều nhịp, hơi thở
nhẹ, không vội, khoan-thai.
Chú ý: Không cố nén khí vào phổi, mà cho khi đi dọc bụng xuống Đan điền.
Sau đã quen, sẽ thành cách thở tự nhiên, thành phản xạ. Bụng tích khí. Tinh thần
minh mẫn.
27
-Trƣớc khi luyện khí, phải thở tống khí 9 lần, sau đó tập thở vài chục hơi theo
cách này, sau đó mới tập dẫn khí.
PHÁP NHÃN
Pháp nhãn là con mắt của Pháp ta. Là cách nhìn của Pháp với thế giới, cuộc đời,
thiên giới. Pháp nhãn không tự nhiên mà có, có thể nó đƣợc Cha lập cho chúng
ta, có thể do tu luyện mà thành. Pháp nhƣ tên gọi.
BAO GỒM TẤT CẢ CÁC HÌNH THỨC NIỆM PHÁP NHƢ SAU:
THIÊN PHÁP
Là Thiên phù đặt trên tòa Sen vàng, tỏa ánh sáng trắng.
Cách niệm Pháp, nhập Pháp khi tập xem cụ thể trong các bài tập.
Cách quán niệm Thiên Pháp:
Niệm Thiên Pháp làm nhƣ sau: Nhắm mắt lại và niệm pháp: Thiên Pháp Giáng
trần! Sẽ hình dung thấy Thiên Pháp xuất hiện từ trên cao, xuống phía trƣớc mặt, rồi
nhập vào ngƣời. Khi Pháp trùm lên ngƣời, thì vòng tròn Đại Nguyên năng sẽ
nằm phía trên đỉnh đầu, hai vòng Nguyên năng nhỏ ở hai bên. 7 sao áp vào trên
thân trƣớc, nhƣ sau: Sao 1 ở giữa đáy chậu, nơi huyệt Hội âm, sao 2 tại huyệt
Quan nguyên dƣới rốn 3 cm, sao 3 tại huyệt Trung quản, nơi giữa hõm ngực. Sao
4 trên giữa ngực, ngang 2 vú kéo sang (huyệt Đản trung), sao 5 tại hõm cổ (huyệt
Thiên đột), sao 6 trên giữa hai lông mày (Ấn đƣờng), sao 7 trên da đỉnh đầu,
một nửa trong đỉnh (Bách hội và Nê Hoàn có 4 huyệt Tứ thần thông).
Một sợi dây màu trắng nối trên trời xuống, chạy dọc nối Thiên Pháp với 7 sao và
Đài sen. Hình dung mình ngồi trên đài sen vàng.
28
THIÊN PHÁP: THIÊN PHÙ TRÊN TÒA SEN VÀNG
Chú ý: Ban đầu thấy màu đỏ của Thiên Pháp, nhƣng tập một lúc sẽ thấy tất cả
chỉ còn màu sáng.
Sau khi Thiên Pháp đã rõ, thì niệm: Thiên Long giáng thế!
29
Quán-Niệm Thiên Pháp vào ngƣời: Ốp hình Thiên Phù vào ngƣời, trùm khớp 7
sao trên cơ thể
Thấy-hình dung có 2 con rồng vàng, bay từ trên trời xuống, chạy qua đỉnh đầu,
mỗi con một bên chạy từ đầu xuống dọc thân ngƣời, xuống hai chân rồi quay lên
chầu đầu vào 2 bên Đại Nguyên năng, còn thân và đuôi của nó nằm dọc xuống,
uốn theo trục dọc của trục sao.
Các pháp tu khác thấy rắn, gọi là hỏa xà, Pháp ta do đặc biệt, nên gọi là hình
Rồng chầu nhƣ vậy.
BẮT ẤN ĐẠI ĐỒNG
Sau khi quán niệm Thiên Pháp thì bắt ấn Đại Đồng và Niệm Pháp Chân
Ngôn Di Lặc Vƣơng Phật.
Thủ Ấn của Phật Tổ Di Lặc-Chƣởng quản Long Hoa Tháp
( Trong Thánh Đức Hội, đây là Ấn Đại Đồng )
Chắp hai tay lại giữa rỗng, hai ngón trỏ cùng hợp móng ngón, hai ngón cái đè
mặt ngón bên cạnh hai ngón trỏ
30
Niệm Chân Ngôn:
31
Trung Thiên Vƣơng Di Lặc Thiên Tôn Long Hoa Giáo Chủ điển phép Chuyển
Luân Thiên Pháp Vƣơng Đại Đồng.
( Hành giả tu luyện Thiên Pháp, phát nguyện về Trung Giới-đến Kim Tự Tháp
Long Hoa của Phật Tổ Di Lặc, sau khi mãn trần sẽ đƣợc thử thách lòng trung tín,
nghiêm cẩn, khiêm nhƣờng và nhẫn nhục, kính tín tôn vì Vua Cha, Mẫu Vƣơng,
các thần thánh Thiên đình, sẽ đắc thoát Luân hồi. Về đến đây chƣa khấn nguyện
gặp Vua Cha ngay, mà phải học hỏi kỹ lƣỡng, đƣợc giáo hóa kỹ về Nguyên Lý
Vũ trụ, Luật Pháp Vũ trụ, rồi mới đƣợc các đẳng Thiên Thần cao cấp tiếp đón.
Nên các con phải niệm Hồng danh Vua Cha Ngọc Hoàng Thƣợng đế và Đức
Phật Di Lặc chứng minh cho các con trong quá trình tu luyện).
NHẬP TƢỢNG PHÁP
Là bông sen vàng ở dƣới, nhƣng nó chiết ra bông nhỏ, nối lên nằm trong Đan
điền, xoay không ngừng, theo chiều kim đồng hồ nhìn từ trên xuống.
Xin nhớ cho: Khi bình thƣờng, các sao phía trƣớc quay cùng chiều kim, khi đẩy
xả khí trọc, thì xoay ngƣợc kim; các sao ở lƣng thì lại xoay ngƣợc kim.
Sau này, khi chúng ta khai huệ nhãn, thấy bóng tƣợng pháp này trên Kim tự
tháp, thƣợng vía mình ngồi tu trên đó. Đại diện cho chúng ta trên Trung giới.
Khi ta thể hiện điều gì trên Trung giới, thì thông qua vị thƣợng vía trên đó mà
làm, ví nhƣ ta muốn nói chuyện với vong, gặp linh nhân, ta múa thì hình tƣợng
của ta múa, ta nói thì cũng thấy nó nói, nghĩa là thực là cái bóng linh của ta trên
đó. Thực ra nó là cái bóng linh hồn của ta, Cha chiết ra, cái bóng này Phật giáo
nói là thể thƣợng trí, còn chủ thần ở dƣới họ gọi là hạ trí. Ta gọi là Tƣợng pháp.
Bóng đó còn hóa hiện muôn hình vạn trạng theo thể ý của ta, chớp mắt, ta muốn
nó ở đâu nó sẽ ở đó. Tại sao? Vì linh giác khai mở, huệ nhãn khai thông, hồn
xuất hóa hiện muôn hình, tốc độ di chuyển của vật chất siêu đẳng nhanh hơn tốc
độ ánh sáng. Vậy khi chúng ta “chết ” đi, chúng ta thoát xác bay lên Trung giới
ngồi đúng chỗ đó.
32
Tƣợng pháp: là hình mình ngồi trên bông sen, dƣới Thiên phù, hình tròn-nằm
trong Đan điền và sau này khi biết xuất hồn hoặc mãn trần, thì lên Kim Tự Tháp
trên Trung Giới.
-Tu luyện Thiên Pháp là làm cho Tiểu Vũ trụ hòa nhập vào Vũ trụ. Thiên Địa
Nhân hợp nhất, con ngƣời hợp nhất với Đấng Đại toàn năng. Thiên Pháp biểu
hiện là linh thể của chính mình, trong linh thể Thƣợng Đế.
Tƣợng pháp có hình nhƣ sau:
Bóng các vị (mỗi ngƣời có một bóng tƣợng) ngồi trên tòa sen, dƣới chân Thiên
Pháp, ánh hào quang sáng xung quanh. Không ai phá nổi tƣợng này của các vị
trừ Cha! Ta cũng không đủ phép phá, các vị có phá nó, hôm sau nó lại y nhƣ cũ,
vì sao? Vì nó là Linh khí do Cha lập, nó là cái bóng của các vị. Các vị có mất cái
bóng của mình không? Không thể. Nó chính là cái hồn của các vị, chiết lên trên,
vì hồn linh hóa hiện muôn hình.
Cái chỗ của chúng ta là trên kia, chứ không phải ở đây. Khi các vị đƣợc nhìn
thấy Tƣợng pháp trên kia của mình rồi, thì thấy thế này: Ở dƣới này các vị xấu,
ám, phạm lỗi…thì thấy nó đen đi, xấu đi, méo mó, thậm chí thấy các bóng bên
cạnh chửi rủa, phê phán, thậm chí bị hạ xuống thấp hơn! Xấu hổ lắm! Khi các vị
làm việc tốt, tu luyện tốt thì nó sáng lại! Khi các vị thấy nó tối, muốn dùng ý cho
33
nó sáng lại, có thể nó sáng đôi chút, nhƣng tu tập kém, nó lại tối. Tại sao? Vì nó
chính là hồn-vía các vị chiết thăng lên vậy.
Các vị đã hiểu đƣợc lý Trời rồi.
Thầy giảng thêm: Bản chất Tƣợng Pháp chính là hóa thân của linh hồn các con
mà thôi, đó là ảnh ảo trên cao của các con khi tại trần, nhƣng là các hình bóng
hóa thân lên cao vào Trung giới-khi các con thân tâm thiền tịnh trụ tại Đan điền,
thì có một thân Kim Cƣơng-nhƣ Mật Tông hiểu-đó chính là linh hồn các con tụ
về Trung cung-hay là Ngũ Khí triều Ngƣơn vậy. Sau mỗi lần tập nhƣ thế, các
hóa thân nó rất tinh sạch và thu về trên Trung Giới. Tại đó, các hóa thân này nối
với bản thể các con làm các con vững mạnh và khỏe hơn, làm sáng láng bản thể
các con hơn, đồng thời bảo vệ các con từ cõi cao. Đây là phép Bí nhiệm của
Thiên Pháp.
CÁCH QUÁN NHẬP TƢỢNG PHÁP:
Sau khi nhập Thiên Phù và bắt Ấn Di Lạc Vƣơng Phật xong-thì phải Quán nhập
Tƣợng Pháp vào Đan điền-hình dung trong Đan điền của mình có Tƣợng Pháp
nổi lên nhƣ hình trên-nhẩm câu: Tượng Pháp nhập Đan Điền! Xin Vua Cha
Ngọc Hoàng Thượng đế và Đức Di Lặc Vương Phật chứng minh cho con
trên Kim Tự Tháp Trung Giới.
QUÁN NIỆM ĐỒ BÀN CÀN KHÔN THIÊN ĐẠO
Sau khi nhập Tƣợng Pháp vào Đan điền, lại tiếp tục quán niệm Đồ Bàn Càn
Khôn vào Luân xa 6 ( sao 6).
-Cách niệm Đồ Bàn Càn Khôn: Khi Thiền, sau khi đã hình dung ra Tƣợng Pháp
của mình, thì hãy đƣa nó vào đan điền, hoặc thiền tịnh rồi thì hình dung Tƣợng
Pháp trong Đan Điền. Sau đó niệm Đồ Bàn Càn Khôn nhƣ sau:
-Niệm hồng danh: Xin Vua Cha chứng nhập Đồ Bàn Càn Khôn.
Và hình dung ra hình tƣợng Đồ Bàn Càn Khôn, nhập vào Sao 6 của mình.
Cách này là cách Thiên đình hỗ trợ các con trong quá trình tu luyện cho đúng
bản nguyên của Vũ trụ hợp nhất. Ngoài ra, các con thƣờng xuyên chiêm bái,
ngƣỡng vọng về hình Đồ Bàn Càn Khôn Thiên Đạo thƣờng xuyên, vào lúc
cúng tế và lúc thiền định, thậm chí treo dán trên bàn thờ phía bên tay Phải, phía
34
dƣới Thiên Phù để hợp nhất Chân Lý của Đạo Pháp Thiên Đạo.
Đồ Bàn Càn Khôn-Chính là Thiên Kỳ của Thiên Đạo ghi trong Luật Thiên
Đạo.
* Điều 28: Thiên kỳ:
Thiên kỳ là cờ của Thiên Đạo-Đạo Trời, là cờ duy nhất của Thiên Đạo, là biểu
tƣợng của Đạo.
-Thiên kỳ màu xanh lá cây đậm, hình vuông; có hai vòng tròn đồng tâm, màu đỏ.
-Màu xanh tƣợng trƣng cho sự sống, cho Hạ giới, sự trƣờng sinh của linh hồn,
Thƣợng đế.
-Hình vuông tƣợng trƣng cho trái đất, cho Đạo thành nhân loại.
35
-Hai vòng đồng tâm tƣợng trƣng cho khối Đại nguyên năng ( vũ trụ-cũng là
Thƣợng đế); vòng ngoài tƣợng trƣng cho Đạo; đồng thời còn là biểu tƣợng thống
nhất, duy nhất, Một, đại đồng, đoàn kết, đồng lòng, thành một khối của nhân
loại. Đó là hình ảnh toàn vẹn nhất, đẹp đẽ nhất, hoàn mỹ nhất của vũ trụ và mọi
sự vật hiện tƣợng.
-Dùng làm Đồ Bàn Càn Khôn duy nhất-để các hành giả tu luyện Thiên Pháp
quán niệm Thƣợng đế trong khi tu luyện.
-Thiên kỳ đƣợc treo tại bàn thờ, các giáo đƣờng và các nơi thờ tự của Thiên Đạo,
có thể để trên bàn làm việc, dựng trong các lễ hội.
-Cấm dùng in trên quần áo, mũ nón. Có thể in lên các vật phẩm trang trọng.
-Kẻ nào xúc phạm Thiên kỳ là xúc phạm Đạo và Thƣợng đế.
NHẬP LINH PHÙ BẢO VỆ
* Sau Khi niệm Đồ Bàn Càn Khôn, thì niệm tiếp: Xin Chƣ Thần Thánh Bảo
vệ con trong tu luyện.
Và tiếp theo quán niệm Linh Phù Bảo Vệ vào Sao 2:
36
Đây là các thủ tục Quán Pháp khi luyện Thiên Pháp, bắt buộc phải có, nếu không
sẽ khó chứng và đó chính là các Phép hộ trì các con trên cao.
Hộ niệm cho các Quán Pháp này, có 25.920 thần thánh trên cao chứng ngộ; có
144 HỘ PHÁP BẢO VỆ Hộ trì, ngoài ra có hàng vạn Chƣ tiên thiên Bản Lai
của Tổng hồn các con trên cao chứng nhận, bảo vệ. Ngoài ra, các con thƣờng
xuyên quán tƣởng Đồ Bàn Càn Khôn lúc thƣờng và khi thiền, đồng thời Khấn:
HỘ PHÁP BẢO VỆ HỘ TRÌ thân tâm con thƣờng an lạc....
( niệm 36 biến-72 biến), thì các Hộ Pháp sẽ bảo vệ và hộ trì các con trƣớc ma
quỷ, sàng lọc và làm diệt tan vía nghiệp quả xấu của các con, gia trì cho các con
tu luyện thành công.
BÀI 5-THIỀN HOA SEN THIÊN TÔN
(Bài Thiền sơ cấp)
Nguyên lý:
37
Thiền để tĩnh tâm trong mọi việc, lúc nào đau đầu lo lắng…thì thiền cho tâm
lắng lại, đầu nhẹ nhõm. Trƣớc khi tập công cần thiết phải thiền. Nhƣng có thể
không thiền cũng không sao. Có thể thiền một chút, nhƣng không thiền sâu.
Ngƣời mới tập khí công không nên thiền sâu, tránh tẩu hỏa-nhập ma.
Nên hình thành thói quen, khi mệt mỏi, đau đầu, lo lắng, streest thì thiền, công
cho khỏe, đạt an tĩnh, tự tại. Đắc Pháp thì đạt an nhiên, tự tại mọi lúc.
Mục đích của thiền là xả bỏ tâm trọc, hoặc tâm loạn, đƣa trạng thái tinh thần về
tĩnh, tƣ tƣởng về tịnh, sạch, thải bỏ tạp niệm và làm cho sóng điện não hạ xuống
thấp nhất để tiếp nhận nguyên khí Vũ trụ. Thu sóng thể vía-từ trƣờng sinh học cô
lại, không nhiễu loạn. Ngoài ra, thiền để sóng hạ âm của não có thể tiếp xúc với
sóng hạ âm và thể tinh túy của vật chất siêu đẳng-đó chính là thế giới vô hình,
cõi nguyên khí vô thanh vô hình tâm linh.
Cách tập:
2-Tƣ thế ngồi xếp bằng tự nhiên, hoặc nằm nhƣ tập thở. Ngồi thẳng lƣng, không
ƣỡn, không vẹo, không cố cứng ngƣời, xƣơng sống dù nằm hay ngồi phải thẳng.
5 ngón tay chụm lại nhƣ bông một bông hoa sen khép cánh, chĩa lên trên, đặt
trên đầu gối.
Xả trọc, bỏ tạp niệm, tập trung ý để tập.
3-Quán tƣởng:
-Hình dung mình ngồi trong một vòng sáng-nhƣ hình vía-quả trứng, từ 1-3-7 lớp.
-Có thể niệm Thiên Pháp giáng xuống thân, hoặc không.
-Thu ý thức vào một điểm-đó là hình dung có một bông hoa sen nằm chìm
trong da, tại Đan điền, cánh nở, tròn, nhuỵ vàng, hoặc da cam, cuống xoay vào
trong. Hoa xoay nhẹ, theo chiều kim đồng hồ, nhìn từ trên xuống.
(Các bài Thiền cao cấp ở chƣơng trình sau sẽ có các cách thiền khác để có tác
dụng khác).
38
4-Thở thật chậm, hơi mỏng nhẹ-nhƣ không thở; khí chuyển xuống Đan điền từ
từ, nhẹ mỏng, sâu, lâu, đều. Không chú ý nhiều đến đƣờng xuống của hơi thở,
chỉ chú ý đến bông hoa sen.
Đây là Thiền tĩnh.
Thiền công nhƣ sau:
-Sau này khi đã quen, thì xoay nhẹ sao cũng đƣợc, hơi có ý cho khí co lại, tụ lại
ở Đan điền. Khi thở ra, thì một là quên không để ý đến đƣờng khí lên, hoặc là
cho khí đi xuyên ra phía Mệnh môn-là một cách hoạt hóa năng lƣợng cho Thận
khí và sao 2. Tập nhiều sẽ quen, bụng dƣới sẽ tích khí, tập lâu thấy cứng lại, nội
khí dầy lên, nhuỵ hoa sẽ phát sáng. Nhịp tim sẽ dần chậm lại, huyết áp giảm-nếu
bệnh huyết áp cao, hoặc ngƣợc lại, huyết áp sẽ tăng, nếu có bệnh huyết áp thấp.
Ứng dụng:-Từ bài Thiền công, có thể chuyển sang tập nén nội khí, tẩy lọc các
sao; hoặc Thiền sâu thủ ý tại các nơi bị bệnh.
BÀI 6
KHAI CÁC ĐẠI HUYỆT-SAO
1-Thầy khai giúp.
2-Hoặc tự khai; có thể khai theo bài Thiên long Nhân công Pháp.
- Quán tƣởng: Niệm Thiên Pháp giáng thân.
7 sao Thiên phù áp vào trên thân trƣớc, nhƣ sau: Sao 1 ở giữa đáy chậu, nơi
huyệt Hội âm, sao 2 tại huyệt Quan nguyên dƣới rốn 3 cm, Sao 3 tại huyệt Trung
quản, nơi giữa hõm ngực. Sao 4 trên giữa ngực, ngang 2 vú kéo sang (huyệt Đản
trung), sao 5 tại hõm cổ (huyệt Thiên đột), sao 6 trên giữa hai lông mày (Ấn
đƣờng), sao 7 trên da đỉnh đầu, một nửa trong đỉnh (Bách hội và Nê Hoàn có 4
39
huyệt Tứ thần thông). Không khai sao 1 và 6. Sang cấp 2 mới khai, tránh nguy
hiểm.
Các sao và chiều đƣờng xoáy năng lƣợng-cùng chiều kim đồng hồ là vào,
ngƣợc chiều kim đồng hồ là ra
40
Khai vòng xoáy khí nhƣ hình vẽ-phía trƣớc cùng chiều kim đồng hồ, phía sau
ngƣợc chiều kim đồng hồ. Hút vào, thông ra phía sau; sau quen thì thông ra
trƣớc và sau đều đƣợc. Trong các bài tập về sau, thì xoáy sao là để xả khí trọc
ra khỏi cơ thể, trƣớc khi luyện công.
BÀI 7-THU-XẢ KHÍ QUA CÁC SAO, CHÂN TAY
Sau khi đã khai sao, luyện cách lấy khí qua các sao: Khí dƣơng qua các sao lƣng,
khí âm qua các sao bụng.
Chú ý: Không tham nén khí tại các sao-trừ sao 3. Cấp này cấm dùng sao 6-
nguy hiểm-Xả khí qua các sao, thông khí các trung tâm-tẩy khí độc ra ngoài-Xả
khí-Thu khí qua Dũng tuyền và Lao cung.
BÀI 8-HAI VÕNG TIỂU KHÍ VÀ ĐẠI KHÍ
Tập thu Tiểu khí vòng 1 và vòng 2
1-Ngồi theo hƣớng: Nếu tập vào giờ:
Tý-11-1h đêm......... mặt quay hƣớng Bắc.
Ngọ-11-1h chiều:.........Nam.
Mão-5-7h sáng:...........Đông.
41
Dậu-5-7h tối:...............Tây.
-Nếu nằm cũng đƣợc: Đầu kê cao vừa phải, hai tay đặt trên ngực, xỏ vào nhau,
hai đầu ngón cái chạm nhau, hai chân song song, duỗi thẳn
Tƣ thế ngồi xếp bằng tự nhiên, hoặc nằm nhƣ tập thở, thiền. Ngồi thẳng lƣng,
không ƣỡn, không vẹo, không cố cứng ngƣời, xƣơng sống dù nằm hay ngồi phải
thẳng. Đầu lƣỡi chạm vòm nƣớu răng trên, hai mắt nhắm.
2-Bái niệm.
3-Chụm đầu cả 5 ngón tay lại, nhƣ một bông hoa sen khép cánh, hoặc hai ngón
nào cũng đƣợc, chĩa lên trên, đặt trên đầu gối. Xả trọc, bỏ tạp niệm, tập trung ý
để tập. Thở mà không nhƣ thở. Mắt nhắm.
-Tạo các vòng bảo vệ xung quanh nhƣ bài Thiền.
4-Dẫn khí:
-Hít vào: Hình dung có một dòng khí sáng từ Tƣợng Pháp trên cao chạy
xuống.
Hình dung Ánh sáng trắng nhƣ tuyết, từ từ chuyển xuống thân mình, vào qua
mũi, đi dƣới da, mảnh và dài nhƣ cây đũa, chạy dƣới da khoảng 1 cm, chạy từ lỗ
mũi, qua Nhân trung, xuống dọc giữa ngực, xuống bụng, xuống tụ tại Đan điền,
xoay tròn hình bông hoa sen trắng, theo chiều kim đồng hồ, đếm từ 1 đến 9, vừa
đếm vừa nén dồn khí lại, bông hoa sen co lại, thu tụ vào, hình nhuỵ da cam hoặc
vàng.
42
-Thở ra: Khí trắng từ Đan điền theo chiều ngƣợc lại, trở lên mũi. Khí từ từ qua lỗ
mũi, mỏng nhẹ nhƣ làn khói, đẩy theo khí ám, bệnh ra ngoài, đi xuống dƣới bên
phải hoặc bên trái.
Tập 9 lần/ một lƣợt tập.
-Ứng dụng: Có thể hình dung khí đi từ Bách Hội xuống cũng đƣợc.
-Khi đạt cao cấp thì có thể thiền-công ở bất cứ lúc nào, ở đâu; không nhất thiết
phải chuẩn bị, đều có thể thu phát khí đƣợc.
Thu tiểu khí vòng II
Bƣớc 1: Tập đến bƣớc 2 của vòng I. Không cho khí đi trở lại.
43
Bƣớc 2:-Sau khi đếm đến 9, cho khí đi xuống bụng dƣới, qua Hội âm, rồi qua
hậu môn, nhíu lại một chút để nối Nhâm và Đốc mạch, sau đó khí đi qua xƣơng
cụt, lên dọc xƣơng sống, qua cổ, lên đỉnh đầu, rồi xuống trán, xuống mũi, thở ra,
nhƣ vòng I. (Vòng này nối mạch Nhâm và mạch Đốc. Nhâm Đốc thông thì các
kinh mạch khác cũng thông và tạng phủ sẽ không bị bệnh).
Tập 9 lƣợt.
-Ứng dụng: Có thể tập kéo khí ngƣợc lại, từ Bách Hội, xuống Đốc, rồi lên
Nhâm, ra mũi cũng đƣợc.
-Khi tập xả khí trọc, thì xả xuống từ Bách Hội xuống đến Hội âm, theo hai
đƣờng Nhâm, Đốc đều đƣợc. Sau khi xả trọc khí, thì tập dẫn khí nhƣ trên. Sau
này tập đã quen, thì nhất thiết trước khi tập dẫn công khí, phải xả trọc theo các
sao và theo hai đường Nhâm Đốc, trước khi thu-nén khí, hay dẫn khí, chữa
bệnh.
44
Chú ý:
-Trong khi tập, có khi khó hình dung đƣợc khí trắng, có khi là đỏ, vàng, đen-là
do tâm thể bị bệnh, hoặc thể vía xấu, kiên trì tập sẽ thành trắng.
-Khi tập, có khi khí tán loạn, không theo dòng mảnh nhƣ cái đũa, mà tán ra, phải
cố gắng dồn ý cho đúng; nếu không hình dung đƣợc, khí cứ tán ra thì ngừng tập,
tĩnh trí lại, bỏ ngay suy nghĩ và tạp niệm. Trƣờng hợp không hình dung đƣợc
dòng khí chuyển thì ngƣng tập. Trƣờng hợp khí bị tắc, ở chỗ nào là chỗ đó bị
bệnh.
45
-Khi tập, bất ngờ bị rúng động, ớn lạnh nhƣ trúng gió, tâm bấn loạn, hoặc thấy có
luồng khí nhƣ điện chạy vào ngƣời...đó là tẩu hoả nhập ma: Khí tà, vong lạ vào
các luân xa, huyệt do huyệt bị mở ra quá. Lập tức phải gồng ngƣời, dồn khí về
Đan điền, co bụng lại, rồi hình dung: đóng nắp các luân xa: 3-ở Đan điền, 4-ở
giữa ngực, 5-ở cổ họng, 6- Ấn đƣờng và 7-đỉnh đầu. Xoa nóng các nơi này và
hai lòng bàn tay, chân ngay. Nếu thấy đau, phải dồn khí vào nơi đó. Hình dung
có vòng sáng bảo vệ xung quanh thân mình.
THU ĐẠI KHÍ VÕNG I VÀ II
1-Thu Đại khí vòng I:
1-Cho khí đi từ mũi, đi thẳng xuống Đan điền, tụ lại, đếm đến 9 thì cho đi xuyên
ra sau qua huyệt Trƣờng cƣờng ( gần xƣơng cụt), rồi xuống mông phải, đi dọc
phía sau chân phải, xuống qua gót chân, vào huyệt Côn lôn ở hõm gót chân, đi
vào dƣới Dũng tuyền, từ Dũng tuyền, đi qua má bàn chân phía trong, đi xuyên
lên qua huyệt Tam Âm giao, rồi đi dọc theo cạnh chân phía trƣớc, đi lên ở phía
ngƣời trƣớc, đến Đan điền, đi xuyên vào Đan điền ra sau lƣng, đến Mệnh môn
thì kéo dọc lên theo mạch Đốc, dọc lƣng, lên đỉnh đầu, xuống mũi, thở ra.
Tóm tắt: Từ Đốc-Đan điền-Xuyên ra Trƣờng cƣờng-sau chân phải, trƣớc chân
phải, Đan điền, sau lƣng, lên đầu, ra mũi.
2-Làm chân trái tƣơng tự nhƣ chân phải, nhƣng ngƣợc lại:
Từ Đốc-Đan điền-Xuyên ra Trƣờng cƣờng-sau chân trái, trƣớc chân trái, Đan
điền, sau lƣng, lên đầu, ra mũi.
Làm 9 lần/1 lần tập.
Mục đích của bài này là thông hai đƣờng Nhâm Đốc và các đƣờng khí của chân-
đặc biệt là kinh Bàng quang, Thận, Can, Tỳ, Vị để hoạt hóa khí-năng lƣợng các
tạng phủ đó. Đồng thời tập cho quen để dẫn đƣờng Đại khí vòng 2 phức tạp hơn.
PHẦN GIẢNG BÀI CỦA THẦY-BỐ SUNG
Thầy giảng thêm cho rõ, trƣớc chƣa giảng kỹ:
Khí đi từ mũi-qua Nhân Trung thuộc Đốc mạch mà đi xuống Nhâm mạch
là nối thông âm dƣơng chính khí-đi xuống vào đến Đan điền là vào trung
tâm năng lƣợng cơ thể Mệnh môn-thần bản mệnh và là nơi ngũ khí triều
ngƣơn tụ về trung cung bản thể, hợp vào nguyên khí Tiên Thiên-thông khí
và lấy khí ở đây rồi sau đó dẫn khí thông xuyên ra huyệt Trƣờng cƣờng
thuộc Mạch Đốc-nhƣng lại là huyệt thông với lạc của kinh Thận-nối Lạc
với Mạch Nhâm-đồng thời lại là đƣờng nối Biệt với Kinh Bàng quang; nó
còn nối với vòng số 8 của Luân xa 1-rất quan trọng; sau đó đi xuống
mông-đi xuống phía dƣới bụng chân thuộc kinh Bàng quang, là thông kinh
46
Bàng quang-thông cả kinh Biệt của Thận và Bàng quang-là hợp nhất 2
đƣờng kinh quan trọng nhất cơ thể là Bàng quang-Thận,
Dẫn khí đến huyệt Côn Lôn có một đƣờng nhánh mà đông y không biết
nối chéo với Dũng Tuyền và nó thông lên đến tận Tâm bào lạc của luân xa
4 và hai vai.
Dẫn khí xuống Dũng Tuyền, Dũng Tuyền thuộc kinh Thận-nhƣng Thầy
trong quá trình quan sát thì nó vẫn có vẻ thuộc về kinh Bàng quang nối lên
đến tận huyệt Trúc Tân nối với Tâm Bào kinh lạc xuống đến đó. Từ Trúc
Tân kinh mạch đi xuống kinh Bàng quang chứ không đi lên theo kinh
Thận.
Dũng tuyền là luân xa 8-9 của con ngƣời, Dũng Tuyền có một đƣờng nối
ra mé chân út nối với kinh chính Bàng Quang là dƣơng kinh; từ kinh Bàng
Quang đi lên mặt chân ngoài, nhƣng kinh Biệt của nó lại đi phía trong nối
với kinh thận. Khi đi đến Dũng tuyền, chúng ta dẫn khí đi lên huyệt Tam
Âm giao là huyệt Hội của ba kinh Âm là Can-Tỳ và Thận. Từ Dũng tuyền,
đi qua má bàn chân phía trong, đi xuyên lên qua huyệt Tam Âm giao, rồi
đi dọc theo cạnh chân phía trƣớc, đi lên ở phía ngƣời trƣớc-tức là dẫn khí
theo kinh Thận vào đến Đan điền, nhìn hình vẽ thì chúng ta thấy có đƣờng
đen đi vào Mệnh Môn hỏa hay Đan điền rồi nó xuyên vào Tam Tiêu đi lên
cổ và vai. Nhƣ thế là thông với cả Tam Tiêu. Đến đây Đạo trời âm dƣơng
hợp nhất trọn vẹn. Cân bằng Âm-Dƣơng.
Từ Đan điền chúng ta dẫn khí đi xuyên ra sau lƣng, ra Mệnh môn-coi nhƣ
thông Luân xa 2-rồi thì kéo dọc lên theo mạch Đốc, dọc lƣng, lên đỉnh
đầu, xuống mũi, thở ra. Nhƣ thế là thông Đốc mạch.
Toàn bộ đƣờng đi của bài này thông tất cả các kinh âm thuộc Chân cũng là
Chân Khí chính vị quan trọng nhất của cơ thể, dẫn thông khí triều ngƣơn
đã đành mà còn dẫn khí từ trung cung đi xuyên thông và nối với các kinh
dƣơng hội ở Đốc của cơ thể.
Nếu luyện tốt bài này, cơ thể sẽ họat hóa năng lƣợng tối đa, tẩy lọc cơ thể;
chữa các bệnh tật về tim mạch, huyết áp, đau lƣng, đau thận, đa xƣơng
sống, thoát vị đĩa đệm, hoặc đau thần kinh tọa sẽ thuyên giảm. Đồng thời
kết nối và thông với nguyên khí Vũ trụ tốt hơn, làm thân tâm hài hòa và
hòa nhập với Vũ trụ tốt hơn.
ẢNH LỘ TRÌNH CHỨNG MINH ĐƢỜNG ĐI CỦA BÀI NÀY:
47
48
49
50
51
2
52
Thu Đại khí vòng II
Có ba cách dẫn cơ bản:
Cách 1: Cho khí đi từ mũi, đi ngƣợc lên Đốc, đến Bách hội, xuống Đại chùy, thì
chui sang Thiên đột.
-Từ Thiên đột đi dọc theo Nhâm, đến ngực thì ngƣng hít; xuống Đan điền, tụ khí
nhẹ tại Đan điền, rồi đi xuyên ra sau lƣng, đi dọc Đốc dƣới, qua Trƣờng cƣờng,
qua sang mông phải, đi dọc theo mé trong-sau chân phải, xuống Dũng tuyền, đi
xuyên bàn chân, đi lên dọc phía trƣớc chân phải, đến bụng trƣớc, đi vòng sang
phía trƣớc chân trái, rồi qua Dũng tuyền chân trái, vòng ra phía sau chân trái, đi
lên lƣng, đến Mệnh môn sau lƣng, đi dọc theo Đốc lên đến Đại chùy, chui sang
53
Thiên đột ở cổ họng, đi vòng phía mặt trƣớc tay trái, đến huyệt Trung Xung ở
ngón tay giữa trái, đi vòng lên theo đƣờng ngoài tay trái, đến vai trái, chạy vòng
sang vai phải, đi qua mặt ngoài tay phải, qua Quan xung tay phải, đi vào mặt
trong tay phải, đi lên vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
(Mục đích của đƣờng này là thông Nhâm-Đốc-Luân xa 1-2-5-các kinh âm dƣơng
của tay chân; đồng thời không cho khí bẩn đi vào não; cân bằng âm dƣơng khí
ngay tại 2 trung tâm là Đại chùy, Thiên đột).
Cách 2:-Gần giống nhƣ cách 1-chỉ khác là không cho khí xuống qua Nhâm, mà
qua kinh Can, Đởm của 2 bên, nhằm hoạt hóa năng lƣợng của 2 kinh rất qua
trọng này, nhằm sơ can tiết khí). ( Theo kinh nghiệm, thì ở vòng Tiểu năng,
chúng ta đã thông Nhâm Đốc rồi, vòng này không cần thông Nhâm, Đốc, mà
thông các đƣờng kinh khác. Thầy thƣờng tập cách này)
Cách 3: Ứng dụng cả 2 cách trên: Cho qua Nhâm-Đốc và cả kinh Can-Đởm.
( Hình minh họa cách 3)
54
Chú ý: Đây là bài tập khó, vì nín hơi, quán khí lâu, ngƣời yếu hoặc ngƣời chƣa
học tốt các bài trƣớc chƣa đƣợc tập, nếu không sẽ dễ bị loạn khí, tẩu hoả. Phải có
bạn hƣớng dẫn, hoặc tập thử và hình dung nhiều lần cho quen, mới dẫn khí.
Thầy giảng kỹ về Cách 1:
55
Cách 1: Cho khí đi từ mũi, đi ngƣợc lên Đốc, đến Bách hội, xuống Đại chùy.
Chúng ta cần ghi nhớ tất cả các huyệt đạo cực kỳ quan trọng của đƣờng đi từ mũi
ngƣợc lên Đốc rồi đến Đại trùy nhƣ sau:
Nhân trung (
Đc.26)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với kinh thủ Dƣơng
minh ( Đại trƣờng ) và túc Dƣơng minh ( Vị).
Ngân giao (
Đc.28)
huyệt Hội của mạch Đốc với mạch Nhâm và kinh
túc (Dƣơng minh ( Vị).
Thần đình (
Đc.24)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với kinh túc Thái
dƣơng (Bàng quang ).
Bách hội
(Đc.20)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với 6 kinh Dƣơng.
Não Hộ ( Đc.17)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với kinh túc Thái
dƣơng ( Bàng quang)
Phong phủ
( Đc.16)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với mạch Dƣơng Duy
và kinh túc Thái dƣơng ( Bàng quang).
Á môn
( Đc.15)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với mạch Dƣơng
Duy.
Đại chùy
( Đc.14)
Huyệt Lạc Hội của mạch Đốc với 6 đƣờng kinh
dƣơng .
Đàn ông thì khí nghịch từ Trƣờng cƣờng lên, còn Đàn bà thì khí đi ngƣợc
lại từ Bách Hội đi xuống, lên bài tập này rất tốt cho đàn bà, mà đàn ông
cũng tốt vì dẫn khí trực tiếp thông đầu Đốc mà không phải dẫn qua Nhâm,
tránh làm bẩn dòng khí quan trọng này.
Nhƣ vậy, khi thông đến Đại trùy, thì coi nhƣ thông nối với tất cả các
đƣờng kinh chính quan trọng.
56
Đến Đại trùy chui sang Thiên đột. Thiên đột là Hội của 6 đƣờng Kinh Âm
nối thông với mạch Âm duy-nhìn hình:
MẠCH ÂM DUY:
- Khởi lên ở chỗ giao nhau của các kinh âm.
- Duy trì và liên lạc các kinh Âm.
- Giao hội với: Túc Thái Âm Tỳ ở huyệt Phủ Xá (Tỳ 13), Đại Hoành (Tỳ 15),
Phúc Ai (Tỳ 16). Túc Quyết Âm Can ở huyệt Kỳ Môn (C 14).
- Nối Mạch Nhâm ở huyệt Thiên Đột, Liêm Tuyền.
Nhƣ vậy thì nối sang Thiên đột đã thông với 6 kinh âm ngay tức khắc, đồng thời
nối thông luân xa 5. Luân xa 5 chủ quản cả vùng ngực và thông với Tâm bào-
Tiểu trƣờng, Tam tiêu-Tâm, Đại trƣờng- Phế. Đây cũng là bí quyết luyện khí dẫn
thông kinh mạch của chúng ta. Chúng ta cũng biết từ Trúc Tân nó nối với kinh
Thận và Bàng quang. Bàng quang lại nối với Đan điền và Thận lại nối với Đan
điền và Tam tiêu ở phần dƣới.
57
Từ Thiên đột đi dọc theo Nhâm, đến ngực thì ngƣng hít. Tại sao lại hít thở
đến đây, là vì khí qua mũi, nhƣng dẫn nguyên khí khác khí thở-hít thở thì
khí trời vào phổi, mà dẫn nguyên khí thì đi đến ngực cũng dừng, là hợp
nhất khí Ôxy với nguyên khí ở đây, hình thành Tiên thiên nguyên khí hợp
với Hậu thiên khí-Luân xa 5 thông đến đây là Luân xa 5 Dƣơng hợp Luân
xa 4 Âm. Đến đây Đạo trời âm dƣơng hợp nhất cân bằng.
Bắt đầu ngƣng thở-dẫn khí xuống Nhâm-thực ra mà nói thì Nhâm bắt đầu
từ Thiên đột mới đúng, vì có đƣờng kín đi lên Ngân Giao nối Đốc, còn
đƣờng chính phải tính từ Thiên Đột. Dẫn nín khí là tiếp tục dẫn nguyên
khí xuống Đan điền để ngũ khí triều ngƣơn.
Xuống Đan điền, tụ khí nhẹ tại Đan điền, rồi đi xuyên ra sau lƣng, đi dọc
Đốc dƣới, qua Trƣờng cƣờng, qua sang mông phải, đi dọc theo mé trong-
sau chân phải, xuống Dũng tuyền, đi xuyên bàn chân-đi lên dọc phía trƣớc
chân phải -Cách này là thông kinh Thận nối sang kinh Bàng quang-đi vào
bụng trƣớc-Tức là đi đến háng nối với Luân xa 1-thông Nhâm-cuối Đốc.
Đi vào bụng trƣớc-chúng ta thống nhất đến huyệt Trung cực-của Nhâm.
Huyệt Trung cực:
Huyệt ở giữa (trung) rốn và xƣơng mu, đƣợc coi nhƣ là 2 cực, vì vậy gọi là
Trung Cực.
+ Huyệt thứ 3 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân.
+ Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Bàng quang.
+ Là nơi tiếp thu khí của 1 nhánh Bàng quang.
+ Huyệt hội của các kinh cân - cơ của Tỳ, Thận và Can.
Sau đó tiếp tục:
Đi vòng sang phía trƣớc chân trái, rồi qua Dũng tuyền chân trái, vòng ra
phía sau chân trái, đi lên lƣng, là thông kinh Thận trái và Bàng quang trái.
Đi lên lƣng-tức là không vào Đan điền nữa-không lặp lại vào Đan điền mà
xuyên ra Trƣờng cƣờng để nối thông mạch Đốc luôn.
58
Đến Mệnh môn sau lƣng-hợp nhất của Luân xa 2-là thông suốt một vòng
hành khí Âm Dƣơng hợp nhất từ Đan điền ra-Đạo Trời thông suốt trong
bản thể.
Tiếp tục:
Đi dọc theo Đốc lên đến Đại chùy, chui sang Thiên đột ở cổ họng, đi vòng
phía mặt trƣớc tay trái, đến huyệt Quan xung ở ngón tay trái, đi vòng lên
theo đƣờng ngoài tay trái, đến vai trái, chạy vòng sang vai phải, đi qua mặt
ngoài tay phải, qua Quan xung tay phải, đi vào mặt trong tay phải, đi lên
vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
Đây là vòng khó hình dung, phải tập nhiều lần mới nhớ:
Đốc lên Đại trùy là thông các đƣờng kinh dƣơng-chui sang Thiên Đột là lại
thông các kinh âm một lần nữa-đi từ cổ họng đi vòng sang phía mặt trƣớc tay
trái cũng là đi thông huyệt Khuyết Bồn là tổng huyệt nối kinh Thận-Can-Tâm
rồi-chúng ta hình dung dẫn khí theo kinh Tâm ra đến đầu ngón tay giữa là
huyệt Trung Xung. (Không phải Quan Xung).
Tiếp tục:
Đi vòng lên theo đƣờng ngoài tay trái, đến vai trái...
Đi vòng theo đƣờng ngoài tay trái tức là tiếp nối phía ngoài của huyệt Trung
xung đi theo đƣờng kinh lạc của Tâm bào nối với Tam Tiêu, đồng thời coi
nhƣ nối dẫn theo kinh Tam Tiêu:
Nhìn hình:
59
60
Tiếp tục: Đến huyệt Thiên Liêu-bản chất của huyệt này là một huyệt rất quan
trọng, là huyệt vị lớn thứ 18 trong Tổng huyệt cơ thể. Thông Thiên Liêu là thông
toàn bộ nguyên khí vùng vai, lƣng trên và họat hóa năng lƣợng của toàn bộ luân
xa tim-đây là một huyệt quan trọng chữa bệnh tim mà đông y chƣa đề cập đến.
Thông huyệt này, ngực tim sẽ nhẹ đi rất nhiều. Vì huyệt này thông với cả Khuyết
bồn-Trung Phủ và Cực Tuyền-Thiên tỉnh.
Tiếp tục:
Chạy vòng sang vai phải, đi qua mặt ngoài tay phải, qua Quan xung tay
phải, đi vào mặt trong tay phải, đi lên vai, vào cổ, lên mũi, thở ra.
Tức là dẫn khí đi hết kinh Tam Tiêu bên phải, rồi đi vào huyệt Trung xung
của kinh Tâm bào phải rồi dẫn khí theo kinh này lên cổ, lên mũi.
Nhƣ vậy vòng này hoàn tất một vòng Âm-Dƣơng nữa phần phía trên cơ thể,
thông Thƣợng Tiêu với Trung Tiêu và các đƣờng kinh Dƣơng-Nối Đốc-Đại Trùy
61
với Kinh Âm-Thiên đột. Đạo Trời lại hợp nhất lần nữa trong cơ thể bản mệnh
của chúng ta.
Tuy nhiên, các con chƣa có huệ nhãn, nên dẫn khí khá lâu, nên chia ra tập cũng
đƣợc. Nếu có huệ nhãn, dẫn quán ý rồi kéo nhanh-nhằng một cái là thông luôn,
khỏi cần tập dẫn khí. Mà tắc ở huyệt nào cũng biết ngay.
Đạo Trời hợp nhất trong cơ thể bản mệnh của chúng ta-tức là kết nối âm dƣơng
tốt đẹp hài hòa và cân bằng đƣợc âm dƣơng bản khí hay Chân mệnh của mình.
Cái cốt lõi của Thiên Pháp suy cho cùng về luyện khí là nhƣ thế, rồi mới đến học
các thứ khác. Nên cấp này là cấp phổ thông-tất cả các cấp cao cấp, bí truyền, bí
nhiệm, vì còn quá nhiều việc để dạy và hƣớng dẫn, rất công phu và có phần mệt
mỏi, ngƣời học nhanh và không dẫn nhập tập tành nghiêm túc công phu, sẽ rất
nguy hiểm, nên Thầy không công truyền nữa. Ngay cả thông Long Hỏa, sẽ làm
dãn vi tế và nếu không ở trong môi trƣờng thanh sạch, thân tâm hài hòa, tu luyện
thƣờng xuyên và sống an nhiên, tĩnh lặng, thì chỉ có thu trƣờng vía bẩn nhƣ rác
của xung quanh vào bản mệnh, thấm vào trục này...nên cấp học thông Long hỏa,
Thầy đã cắt,chỉ dạy học trò đƣợc thử thách và có cách sống hợp lý. Trong điều
kiện ngày nay, trần gian nhiễm trọc tham ác khắp nơi, khí vía rác khắp nơi, nhất
là các thành phố, môi trƣờng thì ô nhiễm, nên Ta khuyên các học viên ngừng
khai Long hỏa. Sau này vào thời kỳ Thánh Đức, thì Luyện Đạo thế này, mới
có xã hội Tiên Phật tại thế gian, còn nay thì nên dừng... Các con cũng phải biết là luyện khí công luôn liên quan đến tâm linh, mặc dù các
pháp môn khí công có thể bỏ qua phần tâm linh mà hợp lệ với đời thƣờng; nhƣng
Ta nhắc các con không đơn giản nhƣ thế. Tại sao ngày xƣa gọi là phép Đạo dẫn,
hay luyện Đạo-rồi Mật Tông Tối Thƣợng Du già (Du già -Yoga)-đều là những
pháp môn Thƣợng thặng để tu luyện đến Giải thoát và Giác ngộ Chân Lý...Bởi
lẽ, luyện Yoga chính là làm cho cơ thể mình thống nhất và vận hành hợp lý hơn
với Đạo Trời-tức Nguyên lý Vũ trụ và thông qua đó thì biết đƣợc cái Chân Lý
hằng tồn hằng hữu bất biến của tự nhiên, để giác ngộ là hiểu biết đƣợc cái Gốc
của mình và bản thể mình nó hợp nhất với Nguyên lý Vũ trụ nhƣ thế nào, tìm về
cái Cội Gốc xƣa-tức là cái tính chất bản thể nguyên thủy của linh hồn mình trƣớc
khi đầu thai muôn kiếp làm ngƣời, để trở về Nguyên Bản của mình-đó là về Niết
bàn-hay Thiên đƣờng cũ. Về quê Xƣa. Thế thôi. Nên, không thể xem thƣờng bất
cứ môn Yoga nào, dù đơn giản. Dẫn khí cũng không đơn giản, dẫn sai, làm loạn
khí thể bản thân, làm rối loạn thần bản mệnh, đảo lộn số phận nhƣ chơi. Nên, từ
xƣa, luyện khí công, luôn là môn học Công Phu quan trọng của mọi hành giả
chân chính. Những phép đơn giản mà quan trọng nhất là Thiền. Thiền đến độ
quên thực tại, để sống tĩnh tại an nhiên, hiền hậu...đã là một lối sống hiếm
cao quý ở bất cứ thời cuộc nào, đó là thân tâm thƣờng an lạc cho dù số phận có
đói nghèo đến đâu. Cực lạc và Thiên đƣờng chính trong tâm mình thôi. Niết bàn
là trạng thái tâm-tƣởng đến độ thoát tục, tràn ngập niềm khoái lạc vì an tĩnh và
62
ánh sáng ấm áp của cõi cao trong chính bản thể linh hồn mình-khi tâm trụ tại tâm
và linh hồn trụ chính trong cõi của mình-chứ không hề có Niết bàn ngoài tâm-dù
có làm Vua sao mà hỗn háo, thì nơi cõi đó đâu có là Niết bàn-Thiên đƣờng đƣợc
nữa...
Trên cao các cõi cao quý, các tiên phật trên Cõi Tịnh-họ có các cung cõi của
riêng mình, lặng sống và chiêm nghiệm, cho dù họ có là thần tinh đi nữa, thì vẫn
lặng tĩnh nhƣ Không, vẫn sinh họat tình dục, nhƣng tĩnh lặng là do cái Nguyên lý
Trung tâm Lõi của các Sao và hành tinh-Ở giữa thì Không Động, nếu Động thì
khó ở giữa, tịnh cực ở Lõi giống nhƣ giữa cái cánh quạt, ở giữa đâu thấy nó
quay; thì Thƣợng đế cũng thế mà các Tiên Phật cũng thế. Nên, tu thiền đến Cõi
Tịnh thì đắc thoát luân hồi thƣờng chuyển và Thƣợng đế thì chấm các Đẳng Tiên
Phật Thánh Alahán, rồi Bồ tát sống, chết thì về làm Thiên Vƣơng-Vua các Sao,
mở rộng Vũ trụ là nhƣ thế.
Và ngƣợc lại, bọn thần tinh thần sao nào sƣớng đến độ mất chất, tranh dành đấu
đá, háo danh háo quyền, thì Thƣợng đế bóp chết, ném xuống trần gian nhƣ ném
rác xuống để học lại, sao nào, loài ngƣời nào mà sống làm hỗn loạn vũ trụ, thì
Thƣợng đế và các Đại Cổ Thiên Thần sẵn sàng cho nổ tung chúng nó làm chúng
biến mất để làm an ổn Vũ trụ-rồi đây, các con lƣu ý, ngay trong Thế kỷ này, loài
ngƣời sẽ phải chuẩn bị tình huống xấu nhất...Long Hoa Đại Hội vẫn chƣa khai
diễn ở trần gian đâu vì Phật Vƣơng Di Lặc và Vua Cha thƣơng xót, tha cho,
dãn thêm cho, nhƣng không có nghĩa là không bằng mọi cách xây Thánh Đức
nhƣ đã hứa với Nhân loại...Thời đại Bảo Bình mới sang có mấy năm thôi, nó có
hàng vạn năm sắp tới cơ.
Các con cứ chờ xem...God Cha vĩ đại xuống điển cho bản tôn ta, rồi Cổ Phật Di
Lặc giáng thân ta dạy ĐẠO< cũng loát trần bấy lâu đó thôi< nay các Ngài cũng
về Trời rồi. Ta qui ẩn cho Lành. Ta cũng chỉ là Kim Thân của Cha nhƣ Bà Kim
trong Thƣợng đế Giảng Chân Lý thôi. Ta cũng sẽ còn cố gắng hỗ trợ thêm cho
loài ngƣời tiến hóa, đến đâu thì còn tùy sức nhân loại và các tôn giáo có hiểu về
ĐƢỜNG CHÍNH PHÁP THÁNH ĐỨC không.
Nay theo lệnh Thiên đình bổ sung Thiên Pháp và sửa các phần cao-cấm truyền-
các phần đã trao-không còn giá trị đƣợc chứng, là Mật Pháp Thƣợng Thừa
Thiên Đạo có bổ sung nhiều nguyên lý cao cấp...Phần trƣớc đã gửi, Thầy chƣa
dạy cho ai cả, nên học viên nào đã nhận thì xóa đi, không đƣợc sử dụng...
Ta cứ nói thẳng là kẻ nào tu đến trình độ tâm tĩnh, lòng lành thiện, vô chấp, và
thiện lành đến mức thƣơng xót chúng sinh đau khổ...chỉ cần tu thiền, chay mặn
tùy tâm, thì sau về với đến Cha ngay...còn ngƣợc lại, có tu hình tƣớng, có ăn
chay mà tâm nhũng nhiễu, gian tà, bạc ác, quên công ơn Cha Mẹ Trời...thì cũng
vô ích mà thôi...
( Đôi điều giảng thêm)
63
BÀI 9-CÂN BẰNG KHÍ ÂM DƢƠNG
-Cân bằng âm dƣơng khí qua Nhâm-Đốc, cân bằng tại từng sao và trung tâm
năng lƣợng cụ thể nơi đó, thấy nhẹ ngƣời thì thôi:
Lấy khí cả trƣớc và sau, đƣa vào trung tâm, giữa trục Long hỏa để cân bằng khí.
Bệnh suy âm, lấy khí trƣớc ngƣời (nam)-sau ngƣời ( nữ) và ngƣợc lại, suy dƣơng
thì lấy sau lƣng (nam)-phía trƣớc(nữ) vào thân mình nhiều hơn, thấy êm êm, ấm,
và nhẹ thì đƣợc.
-Tại Đan điền, lấy khí qua Quan Nguyên-Mệnh Môn, đƣa vào Đan điền, sau đó
có ý cân bằng âm dƣơng 50/50 tại Đan điền, làm nhiều lần.
-Cân bằng khí tại từng trung tâm năng lƣợng, bằng cách lấy khí nhƣ trên.
Giảng rõ hơn:
Cân bằng khí tại Đan điền không gì bằng Thiền tĩnh tại đó, thiền sâu, quán ý thật
nhẹ nhàng, chứ không cần nén nữa, vì học đến trình độ có khí cảm là tốt rồi.
Hình dung nó là quả cầu nhỏ-hoặc cánh hao sen vàng, hay trắng cũng đƣợc, bé
bằng cái tóp chanh hoặc bé hơn, cứ để nó tự xoay và hình dung nó cân bằng đối
ngẫu.
64
Một cách nữa là dẫn khí nhƣ các bài đã giảng cũng là một cách rất tốt để cân
bằng năng lƣợng âm dƣơng trong cơ thể.
BÀI 10
TẨY RỬA NĂNG LƢỢNG CƠ THỂ-TỰ VỆ TÂM LINH
65
TẨY RỬA NĂNG LƢỢNG
-Hình dung dòng khí dội xuống đầu khi mệt mỏi, khi tắm, sau khi tiếp xúc tà
khí...
-Dùng trứng gà tƣơi, lăn vào những nơi đau, gáy, đan điền-khi bị ốm hoặc nghi
tà ma ám. (Vì tà ma linh hồn là nguyên tử-sóng mang năng lƣợng-dùng năng
lƣợng trị năng lƣợng và tẩy năng lƣợng độc ra khỏi ngƣời). Xong vứt trứng đi.
-Khi ngƣời mệt, lo lắng, mỏi mắt, bị ám thị... Dùng trứng gà lăn vào gáy, ngực,
ấn đƣờng, mắt...xong vứt đi.
-Nơi ở vừa chuyển đến, hay làm mới: phải nghiên cứu phong thuỷ, lịch sử ngƣời
ở trƣớc. Nếu làm nhà, phải cúng thổ công trƣớc và sau khi làm xong. Đến nơi ở
mới cũng thế. Chú ý nếu có hiện tƣợng ma làm, thì phải nhờ thầy xem giúp. Nên
đốt vía, xua tà khí để phá khí thể của các ngƣời cũ và ám khí tại nơi ở mới. Cải
tạo lại môi trƣờng, hƣớng vị theo ý mình.
-Nhà cửa phải thông thoáng về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Bố trí cửa, đồ vật
phải theo phong thuỷ (có sách bổ trợ và hƣớng dẫn thêm).
-Trong nhà có ngƣời ốm, ngƣời buồn, cáu giận...phải tẩy rửa năng lƣợng ngay.
TỰ VỆ TÂM LINH
-Quán tƣởng thiên phù ốp vào ngƣời, niệm danh Cha xin cứu độ, hoặc các thầy
của Pháp môn.-Khi nghi bị ma làm, bị quấy nhiễu khi ngủ:-dùng trứng gà, hoặc
lọ muối, hoặc chậu nƣớc để ngang đầu mình nằm-sẽ hút năng lƣợng của tà ma.
Nó sợ sẽ bỏ đi.
Cách nhận biết bị bệnh do tà ma-vong lạ xâm nhập, đến:
-Khi bất chợt bị đau đầu, thấy nháy nháy trong đầu, hoặc thấy nặng đầu.
-Thấy đồ vật nhỏ bị di chuyển, hoặc bị mất một cách bí ẩn, thấy gió tanh, lạ,
không khí thay đổi đột ngột lạnh lẽo...(Nếu là thần thánh thì:-có ánh sáng đẹp đẽ
rực rỡ, cố thể có mùi hƣơng thơm lạ...).
-Thấy có tiếng gõ cửa, xô dịch bàn ghế bí ẩn, chim, gà tự nhiên lăn quay trƣớc
mặt-là điềm báo tâm linh, sau đó bị ốm, nạn, phải nghĩ là do tâm linh gây lên.
-Ngƣời ốm mệt, nằm mơ thấy ma, hoặc có tiếng nói trong đầu. Khi đồng cốt
hoặc thầy, nhà ngoại cảm có khả năng nhìn thấy vong, cho biết là nhìn thấy tà
theo, nhập vào ám bệnh bản thân.
-Thấy bóng ngƣời, hình ma quỉ dị hình.. trong mắt, trƣớc mắt đi lại trong nhà, có
tiếng nói thầm, rùng mình ớn lạnh nổi da gà, nặng ngực, nặng đầu u u, ngủ dậy
có vết bầm lạ trên cơ thể...
Cách tự vệ tâm linh đơn giản: dùng vòng khí bảo vệ: -Hình dung xung quanh
mình có một–nhiều vòng khí trắng bao bọc, càng dày càng tốt.
-Luyện khí thiền công, niệm Cha, Đức thầy cứu độ. Hình dung khí từ trên đỉnh
đầu hoặc nén khí từ mũi xuống hất tung tà ma khí ám ra khỏi ngƣời.
-Có thể yêu cầu ma tà ra khỏi ngƣời.
66
Xin Thiên đình cho các loại Linh Phù mới nhƣ sau:
LỆNH BÀI HỘ VỆ THIÊN ĐẠO:
Lệnh bài có 144 vị Hộ Pháp và Tiên Thánh bảo vệ, Tƣợng Pháp của các con có
hàng vạn tinh binh và thần thánh thƣờng tại bản mệnh bảo vệ và có Tổng hồn
của các con trên cao hộ trì. Khi chết, tu học tốt, về ngay Trung Giới vào Long
Hoa Tháp do Vƣơng Phật tiếp đón.
Một số Linh Phù của Thiên Pháp-Thiên Đạo
In ra mang theo ngƣời
LÖnh bµi
THIÊN ĐẠO-THÁNH ĐỨC
67
BÀI 11-BA BÀI ĐỘNG CÔNG
THIÊN LONG TAM CÔNG PHÁP
1-Thiên Long Địa công pháp
2-Thiên Long Nhân công pháp
3-Thiên Long Địa công pháp
Cấp 1 chỉ luyện bài Thiên Long Địa công pháp.
TINH HOA CỦA PHÁP MÔN
Tác dụng chung:
Trăm bệnh đều lui,
Âm dương hợp nhất,
Xuất khiếu thần thông,
Tam Công siêu tất.
Cả 3 bài Công Pháp chƣa từng có trong lịch sử loài ngƣời. Ta thuận theo Trời mà
sáng tạo ra.
Cấm tập Thiên Long Tam công pháp khi chƣa luyện thiền, hiểu về kinh mạch,
thông lý thuyết, chƣa học thở, chƣa học các bài thể dục.
Tại sao: Vì tập ba bài này sẽ khai thông thần khiếu, các mạch mở rộng, nhƣ cái
nhà mở tung cửa, nếu không luyện kỹ các bài đơn giản trƣớc dễ bị tẩu hỏa. Đặc
biệt tập nhiều sẽ khai nhãn huệ, nếu không đủ đức, tò mò, tâm năng còn kém,
tinh chất chƣa lọc sẽ không hay, hồn vía sẽ tán loạn! Cái gì cũng có giá của nó.
Cho nên không đƣợc học tắt, vội.
Thế Thiên Pháp: Hai tay ốp vào nhau, đƣa lên cao trên đầu. Mắt nhắm, hƣớng
theo tay.
Thế Nhân Pháp: Hai tay ốp vào nhau, đặt trƣớc trán, hai ngón cái đặt vào trƣớc
ấn đƣờng.
Thế Địa Pháp: Hai tay ốp vào nhau, đặt trƣớc ngực nơi sao 5.
Yêu cầu:
-Cả 3 bài: Hình dung đang đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm trên quả đất. Mặt, đầu
quay Bắc. Mình là ngƣời khổng lồ, trái đất chỉ nhƣ cái phản, cái giƣờng. Nhắm
mắt khi tập.
-Thở bình thƣờng, điều hòa hơi thở êm, nhẹ. Khi tập, không chú ý đến hơi thở,
mà cần chú ý đến dẫn Long.
-Khi mới tập, hoặc khi tập dƣỡng sinh bình thƣờng, không cần dẫn Long, chỉ nên
tập bình thƣờng nhƣ tập thể dục. Đến khi tập một thời gian sau, động tác đã
thành thục, thấy ngƣời nhẹ nhõm, thần khí thanh tịnh, sức khỏe nhẹ ngƣời, thì
mới bắt đầu tập quán ý dẫn Long. Tại sao? Vì các bài này thuộc siêu cấp, không
cần nén khí, nếu vội tập sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng. Không tập nơi gió lùa.
Nếu không dẫn Long thì có thể tập ở mọi chỗ đều đƣợc.
68
-Đến khi thành thục, hoặc khi nhãn đã mở thì tập rất nhàn, chỉ cần ngồi đâu, đi
đâu, thậm chí vừa đi xe, vừa luyện cũng đƣợc! Mà công khí vẫn rất mạnh.
Vậy mỗi bài có các cấp tập khác nhau, hết sức kiên trì. Phải nhớ cho là: các pháp
môn khác, có ngƣời tu, luyện cả đời mới đắc pháp thần thông hoặc khai nhãn,
huống chi chúng ta mới tập.
Cách khởi động các sao: Nhƣ Bài 6.
Sau khi quán niệm Thiên Pháp, thì quán niệm để mở các sao-trung tâm năng
lƣợng trên cơ thể:
-Sau đó, hình dung xoay vòng Đại Nguyên năng, thấy ánh sáng, rồi lần lƣợt xoay
sao 2 đến 7 xoay khởi động từng sao theo chiều kim đồng hồ (nhìn từ trên
xuống), xoay chậm, sau này khi đã thành thục, thì xoáy nhanh, ánh sáng bừng
lên, rồi tất cả 7 sao cùng 3 khối Nguyên năng lóe sáng. Lúc này toàn thể các sao
và trụ nối các sao, ba khối Nguyên năng bắt đầu phát sáng. (Khi mới tập, thì tập
khai sao trƣớc theo bài Địa công, khi quen rồi mới tập đƣợc cách hình dung
xoáy sao bằng ý nhƣ thế này).
Khi mới tập, chỉ dùng sao 2 ở dƣới rốn. Khi xoay sao này, thấy hiện lên một
bông sen vàng nhỏ-hình dung rõ thì đƣợc.
Chú ý: Khi xoay sao thì không rõ hình sao nữa, mà chỉ thấy một vòng xoáy. Sau
này tập nhiều thì cho nó to ra, thu lại, cứ thế.
Đó là lúc đầu mới tập lần đầu, các lần sau sẽ thấy Thiên pháp ngự trên ngƣời rồi,
nhắm mắt là thấy tất cả là màu sáng, tất cả đều quay. Nếu không thấy nó quay thì
dùng tay xoa tròn cho nó quay.
Nó tự động nạp năng lƣợng cho mình, còn mở to hay nhỏ, xoáy nhanh hay chậm
là do ta điều phối.
Sau đó bắt đầu các bài tập.
BÀI THIÊN LONG ĐỊA CÔNG PHÁP
Tác dụng:-Khai thông 2 kinh Nhâm-Đốc và toàn bộ các đƣờng kinh khí âm
dƣơng do 2 kinh này quản; cân bằng âm dƣơng khí, bổ sung nội khí âm, rất tốt
cho những ngƣời suy âm; thải độc tà khí, khai mở các trung tâm năng lƣợng,
sạch khí tạng phủ, góp phần khai huệ. Tinh thần sẽ minh mẫn, các bệnh đều lui,
đặc biệt là bệnh thận âm.
Bài này nằm tập, trên giƣờng hoặc trên đất rất tốt, nhất là về mùa hè. Đầu quay
về hƣớng Bắc cùng chiều đƣờng sức trái đất. Nếu bị suy âm nặng, thì khi ngủ
nên nằm đầu quay Bắc, nghiêng sang phải.
Nhớ là: Khi động tác đến đâu, đi lên hay xuống, thì Thiên Long (con rồng) bên
đó xoay đầu theo và chầm chậm đi lên hay xuống trong da thịt theo động tác tập,
toàn thân con rồng phát sáng.
69
Ví dụ: Tay kéo ra trƣớc, thì rồng theo tay ra bàn tay, khi vuốt tay dọc thân ngƣời,
thì rồng đi theo đƣờng vuốt, chứ không theo tay, tức là theo hƣớng cử động,
ngƣời tập phải hƣớng ý- ánh sáng cho Thiên Long theo động tác đó.
-Sau này khai mắt huệ, thì sẽ thấy nhiều điều kỳ lạ hơn, có thể nhìn thấy Cha,
các vị thƣợng linh giáng, dạy thật sự, nhìn thấy vong nhân, siêu nữa thì soi chiếu
đƣợc cả trung giới, trời nƣớc, đất…
- Tất cả các động tác, tập thật chậm, tay chân, ngƣời dẻo, thả lỏng, nhƣ vờn múa.
CÁCH TẬP:
Ngồi thế thiền.
Khấn phép: Tay phải đặt trán, tay trái đặt ngực trái.
Khấn: Con xin Trời (Thƣợng đế) cho con luyện tập Thiên Pháp tốt.
Bái:
Sau đó niệm: Thiên Pháp giáng nhập!
Thiên Pháp: là Thiên phù đặt trên tòa Sen vàng, tỏa ánh sáng trắng.
Khi thấy Thiên Pháp, ốp 7 sao trùng lên 7 sao trên cơ thể mình, và Thiên Long
đi từ Bách hội xuống, mỗi con một bên, nằm theo cạnh dọc nhƣ rìa Thiên phù ốp
trong hai bên sƣờn mình trở xuống, đầu Thiên Long xoay lại, chui lên, chầu hai
bên sao 7.
70
Chú ý: Thiên Pháp chỉ nhập niệm 1 lần, các lần sau nó đã ngự trên ngƣời rồi, tập
trung ý nghĩ cho nó lên trên ngƣời rồi tập, nếu thấy nó không hiện, thì niệm nó
nhập lại, hình dung nó nhập lại-là hình ý mà thôi.
Phải thấy rõ nhƣ sau: Toàn bộ các sao, trục nối sao và 3 khối nguyên năng
(Thƣợng ở đầu, trung ở ngực, hạ Đan điền ở rốn), bờ cạnh 2 bên của Thiên Pháp.
Sau này tập nhiều, nó sẽ là màu sáng hết chứ không đỏ nhƣ hình vẽ.
9 cử động:
1-Thiên Long trái nhập địa:
Ngồi xổm, đƣa chân phải lên phía trƣớc.
Tay phải chống xuống phía sau ngang lƣng. Ngƣời nhổm lên phía trƣớc, nhƣng
không chạm gối phải xuống đất.
Từ từ vuốt Long từ trên đỉnh đầu đi xuống dọc bên má trái, xuống vai, xuống
ngực mé ngực trái, rồi cho Long chạy dọc xuống dọc thân ngƣời, tay chỉ xuống
chân trái, long trái nhập địa qua huyệt Dũng tuyền.
Tác dụng: Thông khí các kinh can, bàng quang, thận; chữa bệnh liên quan đến
các kinh này.
71
2-Thiên Long phải nhập địa:
Ngƣợc lại với thế 1:
3-Thiên Long nhập sao:
Về ngồi thế thiền, hai tay tam chỉ dẫn 2 Long từ hai bàn chân đi dọc theo 2 chân
lên.
72
Tay trái về thế thiền tại đầu gối.
Tay phải tam chỉ cho Long vào xoáy tròn và cuộn sáng ở sao 2 ( Đan điền), nó
thông đƣợc ra sau lƣng thì thôi.
Lần lƣợt nhƣ thế, tay phải dẫn Long lên dọc ngƣời vào các sao còn lại, cứ xoáy
cuộn nhƣ thế.
Đến sao 7, 2 Long cuộn xong thì từ từ cho nó chui lên đỉnh đầu; Long thăng lên
trên đầu, lên cách đầu một đoạn, phát sáng, cuộn vờn với nhau tròn lại.
Dùng tam chỉ dẫn chúng chui xuống giữa cổ, mỗi con nằm một bên vai. Bàn tay
chụm lại, đặt lên vai.
Tác dụng: Khai các trung tâm năng lƣợng. Thông khí các huyệt quan trọng
Nhâm-Đốc, chữa các bệnh liên quan đến khu vực sao đó. Xả và nạp khí qua sao.
4-Thiên Long ra tay:
Nằm ngửa ngƣời, đặt úp hai tay bên ngực, rồi từ từ duỗi hai cánh tay thẳng ra,
hai bàn tay ngửa ra.
Bàn tay úp xuống đất, Long từ từ chạy ra hai bên, đến bàn tay, nó chui ra khỏi
giữa bàn tay, chui xuống đất qua huyệt Lao cung.
Lại cho Long từ từ chui lên qua lòng bàn tay. Khi thấy nó chui vào rồi, thì từ từ
xoay ngửa bàn tay lên, co cong các ngón tay vào, rồi kéo cánh tay, đƣa bàn tay
về đặt lên 2 bên ngực.
Tác dụng: Thông khí các kinh tâm, tâm bào, tiểu trƣờng, chữa bệnh liên quan
đến các kinh này, bệnh ở tay.
5-Thiên Long giao tay trái:
Vẫn nằm nhƣ cũ. Chân phải co lên, bàn chân áp đất.
73
Nghiêng ngƣời sang bên trái, tay trái duỗi ra, bàn tay duỗi, đƣa long trái ra bàn
tay trái.
Tay phải tƣ từ quơ lên một đƣờng vòng, rồi úp vào tay trái.
Hai Long giao nhau, cuộn lại trong hai lòng bàn tay.
Ngƣời xoay trở lại nhƣ cũ.
Đƣa hai bàn tay về úp trên ngực nhƣ cử động 3. Chân phải duỗi thẳng xuống.
Tác dụng: Thông khí các kinh tâm, tâm bào, tiểu trƣờng, chữa bệnh liên quan
đến các kinh này, bệnh ở tay.
6-Thiên Long giao tay phải:
Cử động này ngƣợc lại với cử động 5.
74
7- Thiên Long nhập hải.
Vẫn nằm nhƣ cũ. Hình dung lúc này nằm trên mặt biển xanh.
Tam chỉ cả hai tay, dẫn long đi hai bên dọc xuống mé ngực sƣờn, xuống đến
ngang rốn, tay chọc vào bụng, cho long chui vào Đan điền, xuyên xuống sau
lƣng, xuống biển.
Đƣa hai tay xuống dọc thân ngƣời.
Lúc này hình dung đang nằm bồng bềnh trên mặt biển xanh, thấy cả nƣớc biển
xanh.
Rồi hai Long nhấn ấn nén ngƣời mình xuống nƣớc, cả ngƣời nhƣ bị chìm xuống
biển, lại bị đẩy nổi lên trên, rồi ánh sáng phía trên lại nén mình xuống biển, cứ
thế tập 3 lần. Cẩn thận bị choáng ngợp. Ngƣời hình dung uốn lƣợn mềm mại
theo cơn sóng.
Đẩu ngẩng lên, cổ cong, cằm gập vào ngực. Chân phải duỗi cứng, mũi bàn chân
cứng thẳng, nâng chân lên cao hơn thân ngƣời; đổi chân
75
Cho Long đi vào xoáy vùng đốt sống cổ, rồi cho long đi xuyên dọc sống lƣng,
xuống đốt sống cụt, rồi chui xuống biển.
Hai tay dùng tam chỉ chọc vào ngƣời, vuốt dọc theo hai cạnh sƣờn, xuống đến
hai bên rốn.
Tác dụng: Tẩy trọc khí, cân bằng khí âm dƣơng qua các sao. Đặc biệt động tác
xoáy khí vào vùng cổ khi cong cổ lên rất quan trọng, chữa các bệnh khí quản,
xƣơng sống cổ. Động tác tam chỉ dẫn long-đau bệnh chỗ nào thì dẫn vào chỗ đó
xoáy khí, chữa.
8- Thiên Long xuyên tứ hải:
Đặt chân xuống, cứng ngƣời, xoay ngƣời nằm úp, chống hai tay thẳng cứng
ngƣời, hai chân mũi chạm đất, đẩy ngƣời lên, đầu ngẩng lên trên.
Hai Long đi xuyên qua 2 lòng bàn tay rồi lên hai vai, chạy dọc mé lƣng, xuống
hai chân.
Nó cứ đi nhƣ thế 4 vòng tròn chui lên lòng bàn tay, lại chạy xuống biển qua
lƣng, xuyên 4 biển lớn.
Tác dụng: Thông khí các kinh lƣng và tay, chân chữa bệnh liên quan đến các
kinh này, bệnh ở tay, lƣng; cân bằng âm dƣơng khí, tăng nội lực tại cơ-đan điền.
Động tác này rất tốt cho ngƣời bệnh đau lƣng, vai.
76
9-Thiên long về tƣợng pháp:
Co hai chân lên, ngồi lên về thế thiền Hoa sen.
Long lúc này ở giữa tòa sen.
Dùng hai tay xoay tròn xung quanh đài sen, từ phải sang. Đài sen quay tít. Ánh
sáng của đài sen bốc lên qua đầu, phủ trùm đầu, nhìn thấy cả ngƣời sáng. Cho
vòng sáng bao quanh ngƣời, sáng lên thì thôi.
Lúc này, Long ở giữa đài sen. Sau đó cho Long nó đi qua xƣơng cụt, lên dọc
xƣơng sống, đi lên đến Mệnh môn, ngang rốn, thì đi xuyên vào Tƣợng pháp ở
Đan điền, cả hai xoay tròn theo chiều thuận, rồi co lại, nằm gọn vào trong bông
sen nhỏ.
Xoa 2 tay. Mát xa mặt, xoa bụng dƣới cho ấm, thả lỏng toàn thân.
Bái Cha rồi thu công.
Tác dụng: Thu khí vào Đan điền, tăng nội khí, tránh tẩu hỏa.
Bài này Thiên Long đắc khí luyện đất: Vì Đất sinh ra xác ngƣời, muốn xác
thân đẹp thì phải luyện khí đất. Các vị thử hình dung khi tập mà đang nằm trên
cái mảnh đất bị ô nhiễm thì sợ lắm! Vậy phải làm cho khí đất sạch. Luyện tốt,
thể xác mát lành, nhẹ nhõm.
77
BÀI 12: LUYỆN TẬP-PHƢƠNG PHÁP LUYỆN TẬP
-Ôn lại chƣơng trình sơ cấp.
-Ôn bài Địa công pháp, cách chữa bệnh của bài này.
-Tẩy khí.
-Cân bằng âm dƣơng khí.
-Luyện cách lấy khí và luyện sao thƣờng xuyên.
* Hƣớng dẫn day, bấm huyệt chữa bệnh.
-Ấn day các sao-14 huyệt quan trọng, tại từng khu vực bị bệnh và kết hợp thông
khí các kinh; kết hợp thong-xả khí và nạp khí qua 7 sao.
-Bấm các huyệt của 14 đƣờng kinh. (Có sách kinh huyệt bổ trợ thêm)
PHẦN BỔ TRỢ CẤP I VỀ KINH MẠCH, HUYỆT QUAN TRỌNG-LIÊN QUAN TRỰC TIẾP
CÁC SAO-LUÂN XA CHÍNH (Sƣu tầm)
MẠCH NHÂM
Quản lý các kinh Âm.
Giao hội với:
+ Kinh Thái Âm Tỳ ở huyệt Trung Quản (Nh 12).
+ Kinh Quyết Âm Can ở huyệt Ngọc Đƣờng (Nh 18).
+ Kinh Thiếu Âm Thận ở huyệt Liêm Tuyền (Nh 23).
- Nhâm Mạch nhận khí của:
•Can ở huyệt Khúc Cốt (Nh 2).
• 3 kinh Âm ở chân (Can, Tỳ, Thận) ở huyệt Trung Cực (Nh 3) và Quan Nguyên
(Nh 4).
• Thận và mạch Xung ở huyệt Âm Giao (Nh 7).
• Tỳ ở huyệt Hạ Quản (Nh 10).
• Tất cả các lạc mạch ở huyệt Chiên Trung (Nh 17).
•Mạch Âm Duy ở huyệt Thiên Đột (Nh 22) và Liêm Tuyền (Nh 23).
- Nhâm Mạch nối với:
+ Phía trên: Vùng mặt với mạch Đốc ở huyệt Ngân Giao (Đc 28), ở mắt, qua
trung gian của kinh Vị (Dƣơng Minh) ở h. Thừa Khấp (Vi 1).
• + Phía dƣới: Vùng hội âm với Mạch Đốc ở huyệt Trƣờng Cƣờng (Đc.1).
ĐƢỜNG VẬN HÀNH:
Khởi đầu từ hố chậu, nhô ra tại Hội âm, đi lên, qua lông mu theo đƣờng giữa
bụng lên ngực, họng, đến cằm ở h. Thừa Tƣơng (Nh 24).
Từ h. Thừa Tƣơng mạch chạy quanh vùng miệng môi, hợp với mạch Đốc ở h.
Ngân Giao (MĐ 28).
78
Chia làm 2 nhánh (phải và trái), lên mặt ở h. Thừa Khấp (Vi.1) và nhập vào mắt.
Đƣờng mạch ở bụng xuất phát ở huyệt Cƣu Vĩ (Nh 15) và đi vào trong bụng.
Các huyệt quan trọng của Nhâm mạch:
1 - HỘI ÂM ( Luân xa 1)
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 1 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của 3 mạch Nhâm, Xung và Đốc.
+ Huyệt Hội của các kinh Âm.
Vị Trí:
Giữa tiền âm và hậu âm (Giáp Ất) hoặc ở giữa bìu dái và hậu môn (đàn ông)
hoặc ở đƣờng sau của âm thần và hậu môn (phụ nữ), huyệt ở giữa nút đáy chậu
(chỗ tụ hội của các nếp da chạy từ hậu môn, phần sinh dục ngoài và 2 bên háng
tới).
Chủ Trị:
Trị các bệnh của hệ sinh dục ngoài, bệnh của hậu môn, niệu đạo (niệu đạo viêm,
tiền liệt tuyến viêm), kinh nguyệt không đều, di tinh, điên cuồng, chết đuối,
thƣợng mã phong.
2-QUAN NGUYÊN ( Luân xa 2 )
Tên Huyệt:
Huyệt đƣợc coi là cửa (quan) của nguyên khí (nguyên) vì vậy gọi là Quan
Nguyên (Trung Y Cƣơng Mục).
Tên Khác: Đan Điền.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 4 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân.
+ Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Tiểu trƣờng.
+ Huyệt Hội của các kinh cân - cơ của Tỳ, Thận và Can.
+ Nơi phân chia (tách ra) của mạch Xung và Nhâm (TVấn.34).
+ 1 trong nhóm 4 Huyệt Hội của khí Âm Dƣơng gồm: Quan Nguyên (Nh.4) +
Trung Quản (Nh.12) + Thiên Đột (Nh.22) và Chí Dƣơng (Đc.9) (Thiên „Kinh
Mạch Biệt Luận‟ - TVấn.21).
Vị Trí:
Thẳng dƣới rốn 3 thốn, trên bờ xƣơng mu 2 thốn.
Tác Dụng:
Bồi Thận, cố bản , bổ khí, hồi dƣơng, ôn điều huyết thất, tinh cung, khử hàn
thấp, âm lãnh, phân thanh biệt trọc, điều nguyên tán tà, tăng sức, phòng bệnh.
79
Chủ Trị:
Trị bệnh về kinh nguyệt, đới hạ, vô sinh, di mộng tinh, liệt dƣơng, bụng dƣới
đau, tiêu chảy, kiết l, tiểu gắt, buốt, tiểu bí, choáng, ngất, nâng cao sức đề kháng,
bồi bổ cơ thể, bổ các chứng hƣ tổn, suy nhƣợc toàn thân.
3-TRUNG QUẢN ( Luân xa 3 )
Tên Huyệt:
Ngƣời xƣa cho rằng từ ức (chấn thuỷ) đến lỗ rốn là ống (Quản ) dạ dầy, huyệt ở
giữa (trung) đƣờng nối này, vì vậy gọi là Trung Quản .
Đặc Tính:
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với các kinh Tiểu trƣờng, Tam tiêu
và Vị.
+ Huyệt Hội của Phủ.
+ Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Vị.
+ Huyệt tập trung khí của Tỳ.
+ 1 trong nhóm 9 huyệt Hồi Dƣơng Cứu Nghịch.
+ 1 trong 4 huyệt Hội Khí của Âm Dƣơng (Quan Nguyên (Nh.4), Trung Quản
(Nh.12), Thiên Đột (Nh.22) và Chí Dƣơng (Đc.9) - theo thiên „Kinh Mạch Biệt
Luận‟ (TVấn.21).
Vị Trí:
Lỗ rốn thẳng lên 4 thốn hoặc lấy ở điểm giữa của đoạn thẳng nối rốn - và đƣờng
gặp nhau của 2 bờ sƣờn.
Tác Dụng:
Hòa Vị khí, hóa thấp trệ, lý trung tiêu, điều thăng giáng.
Chủ Trị:
Trị dạ dầy đau, ợ chua, nôn mửa, ăn không tiêu, đầy hơi, bụng trƣớng, kiết l, tiêu
chảy, huyết áp cao, thần kinh suy nhƣợc.
4-ĐẢN TRUNG ( Luân xa 4 )
Tên Huyệt:
Đản = chất trắng đục, ở đây ví nhƣ màng bảo vệ tim. Trung =
giữa.
Huyệt ở giữa 2 vú, gần vùng tim, vì vậy, gọi là Đản Trung
(Trung Y Cƣơng Mục).
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 17 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với các kinh Tiểu Trƣờng, Tam Tiêu, Tỳ và Thận.
+ Huyệt Hội của Khí.
+ Huyệt Mộ của Tâm Bào.
Vị Trí:
Ở điểm gặp nhau của đƣờng dọc giữa xƣơng ức với đƣờng ngang qua 2 đầu núm
vú (đàn ông) hoặc ngang qua bờ trên 2 khớp xƣơng ức thứ 5 (đàn bà).
80
Tác Dụng:
Điều khí, giáng nghịch, thanh Phế, hóa đàm, thông ngực, lợi cách (mô).
Chủ Trị: Trị ngực đau, hen suyễn, thở kém, nấc, sữa ít, màng ngực viêm, thần
kinh liên sƣờn đau.
5-THIÊN ĐỘT ( Luân xa 5 )
Tên Huyệt:
Thiên = vùng bên trên; Đột = ống khói. Huyệt có tác dụng làm
thông phế khí (qua ống khói), vì vậy gọi là Thiên Đột (Trung Y
Cƣơng Mục).
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 22 của mạch Nhâm.
+ Hội của mạch Nhâm và Âm Duy.
+ 1 trong 4 huyệt Hội của Khí Âm và Dƣơng (Quan Nguyên (Nh.4), Trung Quản
(Nh.12), Thiên Đột (Nh.22) và Chí Dƣơng (Đc.9).
Vị Trí:
Giữa chỗ lõm trên bờ trên xƣơng ức.
Tác Dụng:
Tuyên Phế, hóa đờm, lợi yết (hầu), khai âm (thanh), điều khí.
Chủ Trị:
Trị họng đau, mất tiếng đột ngột, ợ, nấc, ho suyễn.
6-ẤN ĐƢỜNG: ( Luân xa 6 )
Ấn đƣờng là huyệt vị quan trọng trên cơ thể con ngƣời Vị trí: (Không thuộc
Nhâm). Huyệt ấn đƣờng là điểm nằm chính giữa hai đầu lông mày, nằm trên
sống mũi.
Tác dụng: chữa các chứng đau đầu, có thể bấm ấn đƣờng để chữa các triệu
chứng của cảm cúm. Ít thấy tài liệu ghi về châm cứu ấn đƣờng.
Trong khí công dƣỡng sinh, ấn đƣờng đƣợc xem nhƣ là vùng thƣợng Đan điền.
Là 1 trong 36 đại huyệt vô cùng quan trọng của cơ thể.
VÙNG ĐAN ĐIỀN:-Pháp ta qui định: là vùng nội khí dƣới bụng, tính từ huyệt
Thần khuyết (lỗ rốn)-đến huyệt Quan nguyên-thuộc trị quản của Sao 2. Đây là
khu vực 1 nạp-xoay-nén khí.
Khu vực 2 nén khí là sao 4; khu vực 3 nén khí là sao 6 (học phần cao cấp)
MẠCH ĐỐC
1- ĐẶC TÍNH
+ Thống suất các đƣờng kinh dƣơng (theo cách đặt tên: Đốc).
+ Bắt nguồn từ Thận.
+ Nối kết các kinh Dƣơng chính, nhất là ở huyệt Phong Phủ (Đốc.16) là nơi mà
Phong khí và Hàn khí xâm nhập vào mạch Đốc.
81
+ Nhận khí của các kinh Dƣơng ở các huyệt sau:
- Khí của Thái dƣơng ở Đào Đạo (Đc.13), Thần Đình (Đc.24), Não Hộ (Đc.17).
- Khí của các Kinh Dƣơng ở Đại Chùy (Đc. 14), Bá Hội (Đc.20).
- Khí của Thái Dƣơng và Dƣơng Duy ở huyệt Phong Phủ (Đc.16).
- Khí của Dƣơng Duy tại Á Môn (Đc.15).
- Khí của Dƣơng Minh tại Nhân Trung (Đc 26), Ngân Giao (Đc.28).
- Biệt của Mạch Đốc nối với:
· Ở trên, nơi cằm, với mạch Nhâm ở huyệt Thừa Tƣơng (Nh. 24).
· Ở dƣới, vùng tiền âm, với mạch Nhâm ở huyệt Hội Âm (Nh. 1).
· Ở lƣng, với đƣờng kinh Bàng Quang ở huyệt Phong Môn (Bq.12).
ĐƢỜNG VẬN HÀNH
- Khởi đầu từ chót xƣơng cụt (tầng sinh môn).
- Nhô ra ở chỗ hội âm.
- Xuyên lên Trƣờng Cƣờng.
- Chạy dài lên theo chính giữa cột sống.
- Liên lạc với Thận ở vùng thắt lƣng.
- Thẳng lên đến huyệt Phong Phủ (Đc.16).
- Đi vào trong não.
- Lại đi lên đỉnh đầu (huyệt Bá Hội - Đc.20).
- Theo trán đi xuống mũi, môi trên (huyệt Ngân Giao - Đc.28) và hợp với kinh
Cân của kinh Vị và mạch Nhâm.
- Từ huyệt Phong Phủ (Đc.16) có một nhánh chạy xuống vai và bả vai để nối với
kinh cân của Bàng quang, xuống mông, kết ở vùng sinh dục- tiết niệu.- Nhánh
phía trong, ở vùng sinh dục, tách ra ở giữa vùng trên của hội âm, ở huyệt Trung
Cực (Nh 3) (theo thiên „Cốt Không Luận‟ TVấn.60), từ đây tách ra 2 nhánh:
+ Một nhánh thẳng (nhánh bụng) đi theo kinh cân của Tỳ và nhập vào rốn, đi dọc
theo vách trong của bụng, qua tim, vòng ở ngực để nối với mạch trƣớc của kinh
cân Bàng quang, vào họng và mặt, nhập vào giữa mắt và kết thúc ở huyệt Tinh
Minh (Bq.1).
+ Nhánh lƣng đi theo bộ phận sinh dục, qua trực trƣờng, quay lại mông và nối
với kinh cân của Bàng quang để lên đầu, tới góc trong mắt ở huyệt Tinh Minh
(Bq.1), nhập vào não. Từ huyệt Tinh Minh, đi dọc theo kinh chính Bàng quang
để xuống gáy, xuống vùng Thận ở huyệt Thận Du (Bq.23) nhập vào trong Thận.
82
Các huyệt quan trọng của Đốc mạch:
1- TRƢỜNG CƢỜNG ( Vùng Luân xa 1)
Tên Huyệt:
Huyệt là Lạc của mạch Đốc, ở giáp cột sống, đi lên đầu, tản ra ở vùng đầu,
đƣờng phân bố vừa dài (trƣờng) vừa cƣờng, vì vậy gọi là Trƣờng Cƣờng (Trung
Y Cƣơng Mục).
Tên Khác:
Cùng cốt, Hà Xa Lộ, Khí Chi Âm Khích, Mao Cốt Hạ Không, Mao Lƣ, Mao
Thúy Cốt, Quy Mao, Quyết Cốt, Tam Phân Lƣ, Tào Khê Lộ, Thƣợng Thiên Thê,
Triêu Thiên Sầm, Vĩ Lƣ.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 1 của mạch Đốc.
+ Huyệt Lạc nối với mạch Nhâm (qua huyệt Hội Âm).
+ Hội của mạch Đốc với kinh Thận và Đởm .
+ Là 1 trong nhóm huyệt „Tuỷ Không‟ (Phong Phủ -
Đc.16), Ngân Giao (Đc. 28), Á Môn (Đc.15), Não Hộ
(Đc. 17) và Trƣờng Cƣờng (Đc. 1) là những huyệt của
tuỷ xƣơng (thiên „Cốt Không Luận‟, (TVấn.60).
Vị Trí:
Ở chỗ lõm sau hậu môn và trƣớc đầu xƣơng cụt 0, 3 thốn.
Tác Dụng:
Thông mạch Nhâm, Đốc, điều trƣờng phủ.
Chủ Trị:Trị trực tràng sa, trĩ, tiêu ra máu, cột sống đau, tiểu đục, tiểu khó, điên
cuồng.
(“Trẻ nhỏ bị kinh giản, co giật, xƣơng sống cứng: Trƣờng Cƣờng chủ trị” (Giáp
Ất Kinh).
(“Trị trẻ nhỏ thoát giang cấp: cứu huyệt Vĩ Thúy 3 tráng khỏi ngay” (Ngoại Đài
Bí Yếu).
(“Phƣơng pháp cứu trĩ: Bệnh trĩ nếu còn chƣa nặng, cứu 1 huyệt dƣới xƣơng cụt
gần hậu môn 7 tráng, xứng đáng là huyệt kinh nghiệm” (Châm Cứu Tƣ Sinh
Kinh).
(“Chín loại rò tổn thƣơng ngƣời, ắt châm Thừa Sơn (Bq.57) hiệu nhƣ thần. Còn
có 1 huyệt là Trƣờng Cƣờng, chữa rên rỉ cùng đớn đau” (Ngọc Long Ca).
(“Trƣờng Cƣờng chủ trị các chứng cổ trĩ” (Thập Tứ Kinh Yếu Huyệt Chủ Trị
Ca).
83
2- MỆNH MÔN ( Luân xa 2 phía sau )
Tên Huyệt:
Thận khí là gốc của cơ thể. Huyệt nằm giữa 2 huyệt Thận Du,
là cửa trọng yếu của sinh mệnh, vì vậy gọi là Mệnh Môn
(Trung Y Cƣơng Mục).
Đặc Tính: Huyệt thứ 4 của mạch Đốc.
Vị Trí:
Ở chỗ lõm dƣới đầu mỏm gai đốt sống thắt lƣng 2.
Tác Dụng:
Bồi nguyên, bổ Thận, cố tinh, chỉ trệ, thƣ cân, hòa huyết, sơ kinh, điều khí, thông
lợi vùng lƣng và cột sống.
Chủ Trị:Trị vùng thắt lƣng đau, yếu, cứng, đầu đau, lƣng đau, lạnh từ ống chân
trở xuống (chân dƣơng (hoả ) hƣ), di mộng tinh, liệt dƣơng, đái hạ, sốt không ra
mồ hôi, đái đục, trẻ nhỏ lên cơn co giật, phong đòn gánh.
3- TÍCH TRUNG ( Luân xa 3 phía sau )
Tên Huyệt:
Từ đốt sống ngực đến đốt sống thắt lƣng có 21 đốt sống, huyệt ở
giữa, vì vậy gọi là Tích Trung (Trung Y Cƣơng Mục).
Tên Khác:
Thần Tông, Tích Du, Tích Trụ.
Đặc Tính:
Huyệt thứ 6 của mạch Đốc.
Vị Trí:
Tại chỗ lõm ngay dƣới đầu mỏm gai đốt sống lƣng 11.
Chủ Trị:
Trị cột sống lƣng đau, nấc, nôn ra máu, cơn đau dạ dầy, da vàng, tiêu chảy, lòi
dom, động kinh.
4- THẦN ĐẠO: ( Luân xa 4 phía sau )
Thần = tâm thần. Huyệt ở 2 bên huyệt Tâm Du, đƣợc coi nhƣ cửa (đƣờng dẫn
vào = đạo) của Tâm, vì vậy gọi là Tâm Du (Trung Y Cƣơng
Mục).
Đặc Tính:+ Huyệt thứ 11 của mạch Đốc.+ Nơi tiếp nhận khí
của kinh cân-cơ
của Tỳ (bằng đƣờng nối phía trong).
Vị Trí: Chỗ lõm dƣới đầu mỏm gai đốt sống lƣng 5.
84
Chủ Trị: Trị lƣng đau cứng, sợ hãi, hồi hộp, hay quên, ho, trẻ hay co giật, sốt
kèm sợ lạnh
5-ĐẠI CHÙY ( Luân xa 5 phía sau )
Tên Huyệt:
Huyệt ở dƣới xƣơng to (đại) ở cổ, có hình dáng giống quả chùy
(chùy) vì vậy gọi là Đại Chùy.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 14 của Mạch Đốc.
+ Hội của mạch Đốc với 6 kinh Dƣơng.
Tác Dụng:
Giải biểu, thông dƣơng, thanh não, định thần, sơ biểu tà ở 3 đƣờng kinh dƣơng,
thông dƣơng khí toàn thân, thanh Tâm, định thần, giáng Phế, điều khí, nâng cao
sức đề kháng cơ thể.
Chủ Trị:
Trị cổ gáy đau cứng, mệt mỏi, sốt rét, cảm cúm, ho, sƣờn đau, ngực tức, ngực
đau, đờm dãi nhiều, phế quản tiết ứ dịch.
6- ĐẠI CHẨM: ( Luân xa 6 phía sau )
Huyệt ở giữa đƣờng nối đỉnh đầu và chẩm, đƣợc coi nhƣ gian, chỗ có
xƣơng ngạnh cứng. Huyệt lại có tác dụng trị đỉnh đầu đau mạnh
(cƣờng), vì vậy gọi là Cƣờng Gian (Trung Y Cƣơng Mục).
Tên Khác:Đại Vũ. Cƣờng gian
Đặc tính: Huyệt thứ 18 của mạch Đốc.
Vị Trí:
Giữa đoạn nối huyệt Phong Phủ (dƣới chẩm) và huyệt Bá Hội
(đỉnh giữa đầu).
7- BÁCH HỘI ( Luân xa 7 )
Tên Huyệt:
Huyệt là nơi các (nhiều = bách) các đƣờng kinh Dƣơng họp lại
(hội) vì vậy gọi là Bách Hội.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 20 của mạch Đốc.
+ Huyệt Hội của mạch Đốc với 6 kinh Dƣơng.
Tác Dụng:
Khai khiếu, định thần, bình Can, tức phong, thăng dƣơng, hồi dƣơng cố thoát, cử
dƣơng khí bị hạ hãm, tiềm Can dƣơng, thanh thần chí, tiết nhiệt nung nấu ở các
kinh dƣơng.
Chủ Trị:Trị đỉnh đầu nhức, trực tràng sa, mũi nghẹt, đầu nặng, hay quên, điên
cuồng, hôn mê, lạnh ngƣời, tai ù, mắt hoa, hồi hộp, mất ngủ.
85
Các huyệt quan trọng của các kinh khác:
DŨNG TUYỀN: ( Luân xa 8 )
+ Một trong „Tam Tài Huyệt‟: (Bá Hội (Thiên), Chiên Trung (Nhân), Dũng
Tuyền (Địa). "Dũng" có nghĩa là vọt ra, tràn lên, còn "tuyền" là suối, là nguồn.
Dũng tuyền ý muốn nói huyệt nằm dƣới lòng bàn chân nhƣ một dòng suối, đồng
thời lại là nơi tàng chứa chân dƣơng ở phía dƣới của tạng thận. Thận chủ
thủy nên nơi đây tựa nhƣ một "nguồn nƣớc chảy vọt ra, tràn đầy sức
sống".
Đặc Tính:+ Huyệt thứ 1 của kinh Thận.+ Huyệt Tỉnh, thuộc hành Mộc.
+ Huyệt Tả của kinh Thận. + Một trong nhóm „Hồi Dƣơng Cửu Châm‟,
có tác
dụng nâng cao và phục hồi chính khí.+ Một trong „Tam Tài Huyệt‟:
(Bá Hội (Thiên), Chiên Trung (Nhân), Dũng Tuyền (Địa).
Vị Trí: Dƣới lòng bàn chân, huyệt ở điểm nối 2/5 trƣớc với 3/5 sau của đoạn
đầu ngón chân thứ 2 và giữa bờ sau gót chân, lỗ hõm dƣới bàn chân.Giải Phẫu:
Dƣới da là cơ gấp ngắn các ngón chân, gân cơ gấp dài các ngón chân, cơ giun,
cơ gian cốt gan chân, cơ gian cốt mu chân, khoảng gian đốt bàn chân 2-3.
Tác Dụng: Giáng Âm hoả, thanh Thận nhiệt, định thần chí.
Chủ Trị: Trị gan bàn chân đau hoặc nóng lạnh, kích ngất, động kinh, mất ngủ,
đỉnh đầu đau, họng đau, nôn mửa, Hysteria.Dũng tuyền cũng là rất quan trong
trong dƣỡng sinh, Cùng với hội âm nhiều khi dũng tuyền sẽ đƣợc lấy làm của
ngõ của cơ thể với sinh khí của mặt đất. Nhiều khi ngồi thiền, nó là cửa ngõ của
cơ thể con ngƣời với trời. Chữa chóng mặt, suy nhƣợc thần kinh, khai khiếu,
giáng nghịch chỉ ẩu, thanh tâm tả nhiệt, hồi dƣơng cứu nghịch, thƣờng đƣợc cổ
nhân dùng để chữa các chứng bệnh nhƣ: đau nhức, nóng hay lạnh gan bàn chân,
chuột rút bàn chân (chữa tại chỗ); đau mặt trong đùi, đau đỉnh đầu, thoát vị, đau
sƣng họng, đẻ xong không tiểu đƣợc, chảy máu mũi, tim đập nhanh... (thần
kinh); và chữa toàn thân nhƣ hoa mắt chóng mặt, hôn mê, chết đuối, trúng nắng,
trúng gió, động kinh, mất ngủ, tiêu khát.
LAO CUNG ( Luân xa 9 )
Tay làm việc không biết mệt (lao). Huyệt lại nằm giữa lòng bàn tay
(giống nhƣ nhà lớn = cung) vì vậy gọi là Lao Cung (Trung Y Cƣơng
Mục).
Đặc Tính:+ Huyệt thứ 8 của kinh Tâm bào.+ Huyệt Vinh, thuộc hành
Hoả .
+ Một trong „Thập Tam Quỷ Huyệt‟ (Quỷ Quật) dùng trị bệnh tâm
thần.
Vị Trí: Huyệt ở trên đƣờng văn tim của gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và
ngón vô danh (ngón 4) chạm vào đƣờng văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng
86
bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đƣờng nếp gấp giữa lòng bàn tay (đƣờng
tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt.
Tác Dụng:
Thanh Tâm Hoả, an thần, trừ thấp nhiệt. Trị mồ hôi tay, eczema ở vùng bàn tay,
vùng tim đau, động kinh, nấc, xoang miệng viêm.
Thƣờng phối huyệt Lao Cung với huyệt Túc Tam Lý (Vi.36) vì Lao Cung thuộc
về Tâm Bào Lạc, tính nó mát mà hay đi xuống, vì thế nó có tác dụng điều lý
đƣợc chứng khí trệ do lao động nặng nhọc gây ra. Lao Cung cũng có tác dụng
làm thƣ đƣợc những nỗi uất kết do thất tình, nội thƣờng gây nên và nhất là thanh
đƣợc nhiệt ở vùng ngực và hoành cách mô, mở đƣờng cho Tâm hỏa đi
xuống.dùng chung với huyệt Túc Tam Lý có tác dụng tả đƣợc hỏa của Tâm lẫn
Vị, trấn đƣợc nhiệt khí từ dƣới xung lên. Các chứng nhƣ bứt rứt, phiền muộn,
hay nôn mửa, nôn khan, ợ hơi, ợ chua, nóng mặt, chỉ thích nằm... mà dùng cách
phối 2 huyệt này thì đều có công hiệu” (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).
NHÂN TRUNG:
Theo các sách xƣa, môi trên đƣợc gọi là Nhân trung (Giáp Ất Kinh), Huyệt nằm
ở vùng rãnh mũi - môi nên gọi là Nhân Trung hoặc Thuỷ Câu.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 26 của mạch Đốc.
+ Hội của mạch Đốc với các kinh Dƣơng Minh (Vị và Đại
trƣờng)
+ Nơi nhận khí của kinh Đại Trƣờng và Vị.
+ Nơi giao chéo của 2 đƣờng kinh Đại Trƣờng.
+ 1 trong „Thập Tam Quỷ Huyệt‟ với tên gọi là Quy? Cung.
Vị Trí:
Tại điểm nối 1/3 trên và 2/3 dƣới của rãnh Nhân trung, giữa đáy rãnh.
Tác Dụng:
Khai khiếu, thanh nhiệt, thanh định thần chí, khu phong tà, tiêu
nội nhiệt, lợi vùng lƣng và cột sống, điều hòa nghịch khí của
Âm Dƣơng.
TAM ÂM GIAO:
Huyệt là nơi hội tụ của 3 kinh âm ở chân (Can, Tỳ, Thận) vì vậy
gọi là Tam Âm Giao.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 6 của kinh Tỳ.
+ Huyệt giao hội của 3 kinh chính Can - Thận - Tỳ.
+ Một trong „Lục Tổng Huyệt‟ Chủ trị vùng bụng dƣới.
87
+ Một trong nhóm „Hồi Dƣơng Cửu Châm‟, có tác dụng nâng cao và phục
hồi Dƣơng khí.
+ Nơi Âm khí hội tụ, do đó, không bao giờ châm khi phụ nữ có thai.
Vị Trí:
Ở sát bờ sau - trong xƣơng chày, bờ trƣớc cơ gấp dài các ngón chân và cơ cẳng
chân sau, từ đỉnh cao của mắt cá chân trong đo lên 3 thốn.
Tác Dụng:
Bổ Âm, kiện Tỳ, thông khí trệ, hóa thấp, khu phong, điều huyết, sơ Can, ích
Thận.
TÁC DỤNG DƢỠNG ÂM: Vì là huyệt hội của ba đƣờng kinh âm, đặc biệt là
đƣờng kinh Thận nên tác dụng dƣỡng âm. Tác dụng rõ nhất của huyệt là bổ Thận
âm. Trên thực tế, khi day ấn liên tục từ 7-10 phút trên huyệt, một số ngƣời có khí
cảm tốt sẽ cảm nhận đƣợc một luồng khí lan tỏa theo 2 chiều, hoặc từ lòng bàn
chân và ngón chân cái chạy dọc theo 3 đƣờng kinh đến thận, gan và lách; Hoặc
ngƣợc lại từ những cơ quan này theo đƣờng kinh thoát ra khỏi cơ thể thông qua
lòng bàn chân và các đầu ngón chân. Đây chính là quá trình xả trƣợc khí và thu
thanh khí thông qua các tỉnh huyệt ở chân. Nếu sự tác động đủ mạnh và kéo dài
sẽ có sự lan tỏa khí sang các tổ chức và các kinh lạc khác của cơ thể - mà gần
nhất sẽ là các phủ có liên hệ biểu lý với 3 tạng Tỳ, Can, Thận, tức dạ dày, túi mật
và bàng quang...
Tác dụng điều hòa thần kinh: Sơ tiết Can khí làm thƣ giải khí uất của Tam âm
giao sẽ giúp hóa giải trạng thái tâm lý : “Mọi chứng bệnh đều kèm chứng uất,
vậy chữa bệnh phải kèm chữa uất”; chữa “âm hƣ hỏa vƣợng.
Tác dụng thanh lọc và chuyển hóa cơ bản: Can Thận chủ hạ tiêu, Tỳ chủ trung
tiêu. Do đó, khi tác động vào huyệt Tam âm giao có thể điều tiết toàn bộ quá
trình chuyển hóa, thanh lọc và bài tiết ở khu vực này: “Thận chủ bế tàng”, “Can
chủ sơ tiết”, “Tỳ chủ vận hóa” nên Tam âm giao là một trong số rất ít huyệt vị
châm cứu có đặc tính tự điều chỉnh rất cao giữa âm và dƣơng, giữa bất cập và
thái quá, giữa hƣng phấn và ức chế đối với các lĩnh vực bệnh lý có liên quan; có
thể điều chỉnh những rối loạn có vẻ nhƣ hoàn toàn đối nghịch nhau nhƣ bế kinh,
rong kinh, đau bụng kinh, băng huyết.
Trị cẳng chân và gót chân sƣng đau, thần kinh suy nhƣợc, liệt nửa ngƣời, tiểu bí,
tiểu vặt, tinh hoàn viêm, di mộng tinh, liệt dƣơng, kinh nguyệt rối loạn, bụng
trƣớng, da viêm do thần kinh, mề đay phong ngứa.
HỢP CỐC:
Huyệt ở vùng hổ khẩu, có hình dạng giống nhƣ chỗ gặp nhau (hợp)
của miệng
hang (cốc), vì vậy gọi là Hợp Cốc, Hổ Khẩu.
88
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 4 của kinh Đại Trƣờng.
+ Nguyên huyệt, huyệt hấp thu, châm trong rối loạn mạch Lạc Đại Trƣờng, rối
loạn Kinh Cân Đại Trƣờng (khi đau và co thắt).
+ 1 trong Lục Tổng Huyệt trị vùng mắt, đầu, miệng.
* Vị Trí:
(a) Ở bờ ngoài, giữa xƣơng bàn ngón 2.
(b) Khép ngón trỏ và ngón cái sát nhau, huyệt ở điểm cao nhất của cơ bắp ngón
trỏ ngón cái.
(c) Ngón tay cái và ngón tay trỏ xòe rộng, lấy nếp gấp giữa đốt 1 và đốt 2 của
ngón tay cái bên kia để vào chỗ da nối ngón trỏ và ngón cái (hổ khẩu tay này, đặt
áp đầu ngón cái lên mu bàn tay giữa 2 xƣơng bàn 1 và 2), đầu ngón tay ở đâu,
nơi đó là huyệt, ấn vào có cảm giác ê tức.
Tác Dụng:
Trấn thống, thanh tiết Phế khí, thông giáng Trƣờng Vị, phát biểu, giải nhiệt, khu
phong.
Chủ Trị:
Trị ngón tay đau, ngón tay tê, bàn tay liệt, cánh tay liệt, đầu đau, răng đau, liệt
mặt, amygdale viêm, khớp hàm dƣới viêm, mắt đau, cảm cúm, sốt, bƣớu giáp
đơn thuần, làm co bóp tử cung, say tàu xe.
NỘI QUAN:
Huyệt có tác dụng trị bệnh ở ngực, Tâm, Vị...lại nằm ở khe mạch ở tay, vì vậy
gọi là Nội Quan (Trung Y Cƣơng Mục).
Vị Trí:
Trên cổ tay 2 thốn, dƣới huyệt Gian Sử 1 thốn, giữa khe gân cơ
gan tay lớn và bé Xuất Xứ:
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 6 của kinh Tâm bào.
+ Huyệt Lạc.
+ Huyệt giao hội với Âm Duy Mạch.
+ Một trong Lục Tổng huyệt trị vùng ngực.
Tác Dụng: Định Tâm, an thần, lý khí, trấn thống, thanh Tâm Bào, sơ tam tiêu,
định tâm an thần, thƣ trung, hòa vị, lý khí, trấn thống. Thƣờng đƣợc chỉ định
chữa các bệnh tại chỗ nhƣ đau cẳng tay, cổ tay và các bệnh toàn thân nhƣ tim
mạch, nôn mửa, mất ngủ, buồn phiền, viêm loét dạ dày tá tràng... Ứng dụng theo
kinh thƣờng đƣợc dùng để chữa các bệnh đau vùng tim, đau ngực, nóng ruột,
bồn chồn... Là yếu huyệt của vùng tâm ngực, có tác dụng làm khoan khoái lồng
ngực, hoành cách mô (cơ hoành), hành khí, tán uất kết..., nên thƣờng đƣợc dùng
để chữa các bệnh ở tim và ngực. Trị hồi hộp, vùng trƣớc tim đau, vùng ngực và
89
hông sƣờn đau, dạ dày đau, nôn, nấc, mất ngủ, động kinh, hysteria, xuất tinh
sớm, huyết áp cao, thấp, mạch cao, thấp
Theo cổ nhân, nếu kết hợp với Tam âm giao thì có tác dụng tƣ âm dƣỡng huyết,
kiện tỳ, ích vị, giao tế đƣợc thủy hỏa, quân bình đƣợc âm dƣơng... Có thể dùng
để chữa các bệnh đau nhức trong xƣơng, đau lƣng, ho, ra mồ hôi trộm (đạo hãn),
thiếu máu, bế kinh... Quan điểm của các y gia cho thấy Nội quan có tác dụng
thanh ở phần trên, Tam âm giao có tác dụng ôn bổ phần dƣới..., trƣớc là để
hòa dƣơng, sau là cố âm, âm dƣơng hòa thì mới có thể tƣ sinh hóa dục...
ỦY TRUNG:
Huyệt nằm ở giữa (trung) nếp gấp nhƣợng chân (uỷ ) vì vậy gọi là Uỷ
Trung.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 40 của kinh Bàng Quang.
+ Huyệt Hợp của kinh Bàng Quang, thuộc hành Thổ.
+ Huyệt xuất phát kinh Biệt Bàng Quang và Thận.
+ Theo thiên „Tứ Thời Khí‟ (LKhu.19): Uỷ Trung thuộc nhóm huyệt dùng để tả
nhiệt khí ở tứ chi (Vân Môn [P.2], Kiên Ngung [Đtr.15], Uỷ Trung [Bq.40],
Hoành Cốt [Th.11]). Đau lƣng.
Vị Trí: Ngay giữa lằn chỉ ngang nếp nhƣợng chân.
Tác dụng: Tổng huyệt chữa bệnh vùng lƣng.
LIỆT KHUYẾT:
Liệt = tách ra. Khuyết = chỗ lõm. Huyệt ở trên cổ tay, nơi có chỗ lõm.
Huyệt là
Lạc huyệt của kinh Phế, từ chỗ này có 1 nhánh tách ra để nối với kinh
Đại Trƣờng, vì vậy, gọi là Liệt Khuyết (Trung Y Cƣơng Mục) .
Đặc Tính: + Huyệt thứ 7 của kinh Phế.
+ Huyệt Lạc, nơi phát xuất Lạc dọc, Lạc ngang.
+ Huyệt Giao hội với Nhâm Mạch.<!--[if !vml]--><!--[endif]-->
+ 1 trong Lục Tổng Huyệt trị đau vùng đầu, gáy (Càn Khôn Sinh Ý).
Vị Trí: Dƣới đầu xƣơng quay nối với thân xƣơng, cách lằn chỉ ngang cổ tay 1, 5
thốn. Hoặc chéo 2 ngón tay tro? và ngón tay cái cu?a 2 bàn tay với nhau, huyệt
ở chỗ lõm ngay dƣới đầu ngón tay tro?.
Tác Dụng: Tuyên Phế, khu phong, thông điều Nhâm Mạch.
Chủ Trị: Trị cổ tay đau sƣng, đầu đau, cổ gáy cứng, ho, suyễn, liệt mặt.
Tham Khảo:
(“Trẻ nhỏ bị kinh phong, mắt trợn ngƣợc: Liệt Khuyết chủ trị, đồng thời
chọn huyệt Lạc của kinh Dƣơng minh” (Giáp Ất Kinh).
(“ Kinh Dƣơng Minh Đại Trƣờng chạy dọc theo lỗ mũi, mặt đau, răng
đau, má sƣng, mắt vàng, miệng khô, mũi chảy nƣớc, muic chảy máu, họng sƣng
90
đau, phía trƣớc vai đau chịu không nổi. Châm huyệt Hợp Cốc + Liệt Khuyết”
(Thập Nhị Kinh Trị Chứng Chủ Khách Nguyên Lạc Quyết).
(“Liệt Khuyết phối hợp Hợp Cốc là theo phƣơng pháp „Phối Hợp
Nguyên - Lạc‟, „Phối Hợp Chủ - Khách‟, lấy phối hợp theo Tạng Phủ, Kinh
Lạc. Dùng phép tả 2 huyệt này, thƣờng để trị ngoại cảm biểu chứng
[phong hàn, phong nhiệt nhập Phế hoặc bệnh ở Phế vệ] (Thƣờng Dụng
Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).
TÚC TAM LÝ:
Một số nhà chú giải lại cho rằng Túc Tam Lý là nơi hội của 3 phủ Đại
Trƣờng (ở trên), Vị (ở giữa) và Tiểu Trƣờng (ở dƣới) vì vậy mới gọi là
Tam Lý
-Huyệt ở dƣới lõm khớp gối 3 thốn, lại chữa 3 vùng trên, giữa và dƣới
của dạ dầy (Vị),
vì vậy gọi là Túc Tam Lý (Trung Y Cƣơng Mục).
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 36 của kinh Vị.
+ Huyệt Hợp, thuộc hành Thổ.
+ Huyệt quan trọng có thể dùng một mình hay phối hợp điều trị các bệnh thuộc
Vị và tất ca? các trƣờng hợp trƣớng đau ở bụng, tiêu hóa rối loạn, các bệnh về
mắt, hệ thần kinh, bệnh áp huyết cao. Đây là huyệt có tác dụng toàn thân.
+ Huyệt đƣa khí xuống phần dƣới cơ thể.
+ Một trong „Lục Tổng Huyệt‟ Chủ trị vùng bụng đau.
+ Một trong nhóm „Hồi Dƣơng Cửu Châm‟ có tác dụng nâng cao và phục hồi
Dƣơng khí.
+ Một trong „14 Yếu Huyệt‟ của „Châm Cứu Chân Tu?y‟ (Nhật Ba?n) để nâng
cao chính khí, trị bệnh dạ dày (nhƣng dạ dày dƣ chất chua thì không dùng huyệt
này).
Vị Trí:
Dƣới mắt gối ngoài 3 thốn, phía ngoài xƣơng mác khoảng 1 khoát ngón tay, nơi
cơ cẳng chân trƣớc, khe giữa xƣơng chầøy và xƣơng mác.
Hoặc úp lòng bàn tay vào giữa đầu gối, đầu ngón tay giữa chạm vào xƣơng ống
chân (xƣơng chầy), từ đó hơi xịch ra phía ngoài 1 ít là huyệt.
Dƣới lõm ngoài xƣơng bánh chè (Độc Tỵ) 3 thốn.
Tác Dụng:
Lý Tỳ Vị, điều trung khí, thông kinh lạc - khí huyết, phù chính bồi nguyên, bổ
hƣ nhƣợc, khu phong hóa thấp, điều hòa huyết áp.
Chủ Trị:
Trị dạ dày đau, nôn mửa, tiêu hóa kém, táo bón, ruột viêm, chi dƣới yếu liệt,
bệnh thuộc hệ tiêu hóa, kích ngất, cơ thể suy nhƣợc, thần kinh suy nhƣợc. Huyệt
91
Túc tam lý thƣờng đƣợc dùng trong chữa các bệnh về đƣờng tiêu hóa và một số
bệnh toàn thân nhƣ liệt nửa ngƣời, thấp khớp, viêm đa khớp dạng thấp, đái tháo
đƣờng, suy nhƣợc, thiếu máu, huyết áp cao, dị ứng, vàng da, động kinh, bệnh
sinh dục tiết niệu, thần kinh suy nhƣợc...
Túc Tam Lý đựơc xem là huyệt trƣờng sinh với nhiều ý nghĩa. Năng kích
hoạt Túc Tam lý giúp điều lý Tỳ Vị, tăng cƣờng sự lƣu thông khí huyết, gia tăng
chức năng miễn dịch và kéo dài tuổi thọ. TTL không chỉ là 1 trong số những
huyệt vị có tần suất sử dụng hàng đầu trong châm cứu mà còn là huyệt có nhiều
tác dụng, từ chữa các bệnh về hệ thống tiêu hoá, tim mạch đến ý nghĩa bồi bổ
nguyên khí, tăng cƣờng sức miễn dịch và kéo dài tuổi thọ, gia tăng sức đề kháng
để chống lại sự tác hại của các loai vi trùng vi khuẩn gây bệnh, có lẻ năng vận
động thân thể và thƣờng kích hoạt huyệt TTL là biện pháp tự nhiên
và đơn giản nhất.
NGỌC CHẨM:
Tên Huyệt:
Xƣơng chẩm có tên là Ngọc Chẩm. Huyệt ở ngang với xƣơng chẩm
vì vậy gọi là Ngọc Chẩm (Trung Y Cƣơng Mục).
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 9 của kinh Bàng Quang.
+ 1 trong nhóm huyệt „Đầu Thƣợng Ngũ Hàng‟.
Vị Trí:
Ngay sau huyệt Lạc Khƣớc 1, 5 thốn, ngang huyệt Não Hộ (Đc.17) cách 1, 3
thốn, ngang với ụ chẩm 1, 5 thốn.
Tác Dụng:Trấn thống, khu phong.
Chủ Trị: Trị đầu đau, chóng mặt, mắt đau.
(Theo thiên „Tạp Bệnh‟ (LKhu.26), Ngọc Chẩm là một trong nhóm 5 huyệt ở
trên đầu (Đầu Thƣợng Ngũ Hàng) trị thiên đầu thống do rối loạn vận hành khí
(các huyệt khác là Ngũ Xứ (Bq.5) + Thừa Quang (Bq.6) + Lạc Khƣớc (Bq.7) +
Thông Thiên - Bq.8).
(Thiên „Hàn Nhiệt Bệnh‟ ghi: “Kinh Túc Thái Dƣơng có đƣờng thông với cổ gáy
nhập vào não, đây chính là gốc của mắt (mục Bản ), gọi là nhãn hệ. Khi đầu hay
mắt bị đau, thủ huyệt nằm ở giữa 2 đƣờng gân giữa cổ nhập vào não (huyệt Ngọc
Chẩm), là nơi tƣơng biệt với mạch Âm Kiều và Dƣơng Kiều...”(LKhu 21, 26).
HUYỆT LÀ NƠI VẬN HÀNH SINH KHÍ
Thiên “Sinh Khí Thông Thiên Luận” ghi: " Ôi từ xƣa đến nay, mạng sống con
ngƣời đều thông với 'thiên', gốc của mạng sống lấy gốc ở âm dƣơng. Trong
khoảng trời đất, trong khoảng lục hợp, dù là cửu châu, cửu khiếu, ngũ tạng, thập
nhị tiết trong con ngƣời, tất cả khí đó đều thông với thiên khí" (TVấn 3, 1, 2). Và
92
theo ý của thiên 'Kinh Biệt' thì cơ thể con ngƣời là 'tiểu vũ trụ' ứng với thiên khí,
và thiên khí đó thông chuyển vào cơ thể qua các kinh huyệt. Đặc biệt, theo ngƣời
xƣa, huyệt là các lỗ hổng (khổng), để đón nhận sự biến đổi khí hoá của trời đất.
Dimitru (Rumani) cho biết: " Nghiên cứu điện trở các huyệt Bá Hội (Đc.20),
Phong Trì (Đ.20), Thần Môn (Tm.7), Thiên Trụ (Bq.10) trong những ngày mặt
trời yên tĩnh (bức xạ thấp) và nhữnh ngày có các vụ nổ của mặt trời (bức xạ cao)
nhận thấy: Vào các ngày có những vụ nổ của mặt trời, điện trở của các huyệt trên
cao lên và vào những ngày yên tĩnh thì điện trở của các huyệt đó xuống thấp".
12 ĐƢỜNG KINH CHÍNH PHẢI HỌC THUỘC
Cặp kinh phế - kinh đại trƣờng:
Kinh phế Kinh đại trƣờng
Cặp kinh Tâm bào - Tam tiêu
93
Cặp kinh Tâm-Tiểu trƣờng
94
Cặp kinh Can-kinh Đởm:
Cặp kinh Bàng quang - kinh Thận:
95
Cặp kinh Vị-kinh Tỳ:
96
THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP TÂM CÔNG TRUNG CẤP
NỘI DUNG
1-Hệ thống thần kinh tủy. Cấu tạo cơ thể.
2-Dạy về kỹ thuật thiền cao cấp.
3-Dạy về khai Long Hỏa. Tìm hiểu thêm về Luân xa-sao.
4-Tạng phủ công.
5-Chữa bệnh không dùng thuốc đơn giản.
6-Luyện hòa khí âm dƣơng, tăng nội khí. Tẩy khí qua sao.
7-Luyện bài Thiên Long Nhân công pháp.
HỆ THỐNG THẦN KINH-TỦY. CẤU TẠO CƠ THỂ
I-NÃO BỘ, THẦN KINH, ĐẦU MẶT, XƢƠNG SỌ, MẮT,TAI, RĂNG
NÃO BỘ, TAI MẮT
XƢƠNG SỌ-RĂNG
97
II-HỆ TUẦN HOÀN
98
99
100
III- TIÊU HÓA, GAN, MẬT
GAN
101
HỆ BÀI TIẾT-HÔ HẤP-SINH DỤC
102
103
IV- HỆ XƢƠNG KHỚP
104
V-HỆ THẦN KINH VÀ TỦY-NÃO
Học hệ thống cơ thể này để dẫn khí đến đó chữa bệnh và thông lọc khí vía bẩn
mỗi khi tập luyện.
105
THIỀN CẤP CAO CỦA THIÊN ĐẠO
Ở Cấp 1: Thiền tập trung ý thủ tại Đan điền, nhằm tích năng lƣợng tại Đan điền,
Mệnh môn, nâng cao nội khí.
-Sang cấp này trở đi: Sau khi đã khai thông Sao 7 tại Bách Hội và các Sao
khác, thì muốn chữa bệnh ở đâu, thì thiền ở đó, muốn mở hoặc tích năng
lượng ở đâu thì quán ý ở đó.
Ví dụ: Muốn tăng nội khí tại vùng tim, quán ý tại sao 4….
-Trƣớc khi thiền, phải thải trọc khí qua các sao, qua Nhâm Đốc, qua Long Hỏa
xong, thông sạch khí trọc bẩn, rồi thiền lặng.
Mục đích của thiền cao cấp, không phải để chữa đau đầu, khó ở… đó chỉ là tác
dụng nhỏ, mà cốt để tịnh tâm, chứng ngộ tâm linh-đi sâu vào bản thể mình-tu
luyện công, hay chữa bệnh.
Chú ý:
1-Trƣớc và sau các bài Tam Công, đều có thiền; tức là mỗi cử động, đều có thể
tập nhanh, rồi có thể tập chậm, có khi cả tiếng đồng hồ ở một tƣ thế, mỗi tƣ thế
có một tác dụng và đặc tính sinh động của năng lƣợng; vào bài nào cũng thiền,
cuối bài cũng thiền, tập cẩn trọng từng động tác, thì mới thấy hết thâm diệu của
Tam Công.
2-Khi quán ý thiền:
Khi quán ý thiền tại Sao 6-7: Niệm: Cha Thiên Linh Đại Linh Linh, rồi thiền
sâu.
Khi quán ý thiền tại Sao 4-5: Niệm: Mẹ Thiên Linh Đại Linh Linh, rồi thiền
sâu.
Khi quán ý thiền tại Sao 3-2: Niệm: Thầy Thiên Linh Đại Linh Linh, rồi thiền
sâu.
Đọc xong thì thiền, thôi không đọc nữa.
3-Phải Thiền, mới tịnh hóa đƣợc tâm ý và tâm thể. Càng tĩnh tâm, về tịnh bao
nhiêu, thì càng tịnh lọc thể vía và giải nghiệp bấy nhiêu.
4-Thiền mọi lúc có thể. Nằm, ngồi, đứng đều thiền đƣợc, có nghĩa là tịnh tâm và
tĩnh sâu-hạn chế hơi thở tối đa.
TÌM HIỂU THÊM VỀ LUÂN XA-SAO
Các luân xa-sao: Thực ra là khu vực tập trung năng lƣợng rất cao của cơ thể.
Toàn bộ các năng lƣợng này đƣợc cấu tạo bằng khí thể ngũ hành-là các chất
trong vũ trụ. 7 sao, ứng với 7 chất khí khác nhau và đƣợc tạo bởi trung tâm năng
lƣợng vũ trụ ban đầu-đƣợc qui định và chế hóa bởi 7 sao Bắc Đẩu-tức 7 đại
Thiên Tinh-Thƣợng cổ thiên thần trên Thiên đình. Hay nói một cách khác: Cha
106
sinh ra các thần thánh, có các đặc tính ngũ hành để sinh ra muôn vật. Do đó nói 7
sao Bắc Đẩu tƣợng trƣng quản sinh mệnh-tạo ra sinh mệnh muôn vật là nhƣ vậy.
Từ nhiều ngàn năm trƣớc và nhiều nơi trên thế giới, con ngƣời đã khám phá các
luân xa trên bản thể. Lạt Ma Tây Tạng Govinda trong quyển Foundation of
Tibean Mysticism có cho rằng luân xa là điểm giao tiếp giữa năng lƣợng tâm
linh và năng lƣợng thể xác (physical energy). Luân xa là những đại huyệt trọng
yếu trên cơ thể và ngƣời Trung Hoa đã biết áp dụng để châm cứu chữa bịnh và
gây mê trong khi giải phẩu.
Có 7 Luân xa ( sao ) chính trên cơ thể:
Luân xa 7 ( sao 7): Khu vực đỉnh đầu, hay Nê hoàn cung. Luân xa 7 khai mở
tiếp nhận Vũ trụ tuyến hay linh quang. Khi thiền định dùng luân xa này cầu
nguyện Thƣợng Ðế.
Luân xa 6 ( sao 6): Khu vực Ấn đƣờng. Luân xa này liên hệ với tuyến pituitary
(tuyến Yên) và tuyến Tùng trong não bộ. Tuyến Yên có nhiệm vụ tạo kích thích
tố để kiểm soát các tuyến khác trên cơ thể và ảnh hƣởng đến sự tăng trƣởng của
xƣơng, tình dục và nội tiết. Khi thiền định dùng luân xa này cầu nguyện Thƣợng
Ðế.
Luân xa 5 ( sao 5): Khu vực huyệt Thiên đột, tác dụng giúp các chứng về bộ hô
hấp và tuần hoàn. Khi thiền, hay dùng luân xa này cầu nguyện Mẫu Vƣơng Tiên
( Mẹ).
Luân xa 4 ( sao 4): Khu vực huyệt Đản trung còn có tên là Giáp tích quan, hay
Hiệp tích. Luân xa 4 khai mở phát triển tâm linh, lòng từ bi, sự bao dung, thiên
tính, phật tính, giúp trị các chứng tim mạch.
Khi thiền hay dùng luân xa này cầu nguyện Mẫu Vƣơng Tiên ( Mẹ ).
Luân xa 3 ( sao 3): Khu vực huyệt Trung quản.
Tác dụng đến các cơ phận dạ dày, ruột, gan, lá lách, thận; điều hòa nhiệt lƣợng
cơ thể và tiết chất kích thích tố cortisone.
Khi thiền hay dùng luân xa này cầu nguyện các Thầy.
Luân xa 2 ( sao 2): Khu vực huyệt Quan nguyên-trong là Đan điền- trên huyệt
Trƣờng cƣờng. Quản lý nguồn năng lƣợng chân khí dƣơng, nếu tình dục, rƣợu
chè quá độ, năng lƣợng này sẽ bị tiêu mòn, mệt mỏi; bổ sung bằng cách thông và
xả trọc, lấy khí qua Dũng tuyền lên… Địa Long bắt đầu từ Trƣờng cƣờng đến
sao này.
Khi thiền hay dùng luân xa này cầu nguyện các Thầy.
Luân xa 1 ( sao 1) Khu vực huyệt Hội âm, nằm giữa bộ sinh dục và hậu môn,
nơi cƣ ngụ của hỏa xà (Kundalini)-Pháp ta gọi là Long Hỏa-Nó không phải nằm
tại Hội âm-vì Hội âm là huyệt hội của 6 đƣờng kinh âm trƣớc ngƣời, còn Long
hỏa-là nơi hội của năng lƣợng âm dƣơng cả trục, bắt đầu từ trục Long, xuất phát
từ Dũng tuyền. Nó là đỉnh đối cân bằng với Nê hoàn cung-khu vực sao 7.
Khi thiền ở đây cầu nguyện Tổng hồn của mình trên cao hộ trì.
107
Thánh thai ( huyệt thần đình) là một luân xa đặc biệt mà Thiền Trung Hoa của
Lục tổ Huệ Năng gọi là Thiên cốc cung, nằm ở chân mí tóc trƣớc trán. Luân xa
này khi đƣợc khai mở sẽ giúp tự chữa bịnh rất hữu hiệu. Nó giúp thiền giả sống
trƣờng thọ, ngăn ngừa hay tự trị đƣợc nhiều căn bịnh. Thiền Ấn Ðộ không nói
đến luân xa này. Có lẽ vì cách khai mở luân xa này rất đặc biệt.
Tự khai mở luân xa: Theo các động tác thuộc cử động 3-Thiên Long nhập sao
của bài 2.
-Nếu nhờ các thầy trƣớc khai cho, chỉ khai lần đầu, sau đó mỗi lần tập, hay chữa
bệnh, xả trọc, thì tự khai thông-xả trọc-đây là bài bắt buộc hàng ngày, để thanh
khí cơ thể và thể vía, sau đó mới đƣợc làm các động tác và việc khác.
Thí dụ: Khi uống rƣợu, ngƣời hôi, tẩy khí rƣợu độc qua sao, qua kinh mạch, qua
trục Long Hỏa….
KHAI LONG HỎA (Thiên Long )
QUYỀN LỰC TÂM LINH CỦA LONG HỎA
Ở Cấp 1, Ta đã dạy về lý luận đƣờng khí: Trục dọc cơ thể-hay đó chính là đƣờng
Long Hỏa-là con đƣờng hợp nhất của toàn bộ năng lƣợng cơ thể-hợp nhất kinh
mạch-nó là đƣờng từ sức của khối nam châm là cơ thể con ngƣời.
Linh hồn chúng ta-khi còn ngự đƣợc tại xác thể-là nƣơng tựa và bám vào hệ
thống Long Hỏa này. Khi hệ thống này bị hỗn loạn, kinh mạch tan vỡ, tán loạn,
bế khí…thì cơ thể bị bệnh; nếu bị đột ngột phá vỡ: nhƣ bị đả thƣơng, bị tai nạn,
bị bắn…thì lập tức trung khu năng lƣợng tán xạ, đóng bế đƣờng năng lƣợng lên
não, linh hồn bị ảnh hƣởng, toàn bộ linh giác ảnh hƣởng và làm não bế lại.
Vậy nói cho gọn: Long Hỏa là đƣờng từ sức của cơ thể-nơi trú ngụ của linh
hồn.
Vì chúng ta biết: Linh hồn chúng ta là tổ hợp nguyên tử, nó phải dựa vào các tổ
hợp khí để tồn tại, chứ không phải tổ hợp vật chất sơ đẳng-não chỉ là một ngôi
nhà để cho chúng ta ngự thôi; là một cái cầu nối.
Đã có những đứa trẻ sinh ra không có não ( rỗng não), nhưng vẫn thở, vẫn
sống đó!-Nhƣng nếu đánh tan đầu, hoặc chọc thủng ngực, hoặc đánh vào một
sao quan trọng, thì nó sẽ chết.
Tự nhiên, khi con ngƣời sinh ra, các trung tâm năng lƣợng này bình hòa, đã có
sẵn, các huyệt đạo, kinh mạch rất hoàn hảo, cân bằng theo nguyên lý âm dƣơng.
Các trung tâm năng lƣợng các sao luôn luôn mở, đã khai sẵn, chứ không phải bế
lại. Chỗ nào bị bế, chỗ nào huyệt bị tắc hoặc trung tâm năng lƣợng bị rối loạn, tất
nơi đó bị bệnh.
108
Nguyên nhân làm rối loạn, là do sự tiếp nhận năng lƣợng có vấn đề. Tại sao tiếp
nhận năng lƣợng có vấn đề: Do ăn uống, hút hít, sinh hoạt phản qui luật tự nhiên,
do khí môi trƣờng biến dị ( xấu)…tất cả làm rối loạn quân bình các nguyên tử
cấu tạo tế bào, và mức cân bằng của năng lƣợng nơi đó-ví dụ nhƣ khí trọc-tà khí
đi qua huyệt vào nội tạng, vệ khí-là lính canh cổng ngoài kém, nên khi vệ khí
suy, tất đau mình mẩy, xƣơng khớp, nhất là khi thời tiết thay đổi, rồi lâu ngày
khí độc bệnh sẽ vào nội tạng. Dân ta có câu: Khớp đớp tim…Khi khu vực bị
bệnh-cơ thể bị bệnh: làm ảnh hƣởng đến năng lƣợng của khu vực đó và ảnh
hƣởng đến mức tiếp nhận năng lƣợng của chính nó và xung quanh. Khi nhìn vào
trung tâm sao nơi bị bệnh, bao giờ cũng thấy méo, dồn, nặng khí âm hoặc dƣơng,
thể vía tại đó rất xấu, không còn nguyên màu sắc ban đầu.
Tôi thƣờng chữa bệnh bằng cách thông dọc trục và thông các kinh, để tẩy trọc
khí, rồi xung khí cân bằng âm dƣơng, bằng cách thông xả xong, thì lấy cả
đƣờng trƣớc và sau vào một trục ngang của sao, có ý cân bằng khí nóng-( Dƣơng
khí) ở phía sau ngƣời Nam-phía trƣớc ngƣời Nữ, và khí lạnh-âm khí, ở phía
trƣớc ngƣời Nam và ở phía sau ngƣời Nữ; rồi sau mới xung khí vào cơ quan bị
bệnh. Khi xung khí-phát khí vào, thƣờng quán thông qua Bách hội, các sao. Khi
xung khí vào, thì dẫn khí trọc ra theo kinh quản riêng của nó hoặc huyệt đạo gần
nhất.
Việc bắt tà ma trong ngƣời bệnh nhân sẽ bàn vào cấp khác. Nhƣng cũng nói luôn
là: linh hồn ngoại lai-vị khách của chúng ta, dù đó là ai, khi giáng-nhập vào
chúng ta, cũng nƣơng vào toàn bộ Long hỏa là chính, nếu cụ nào bám sâu vào
toàn bộ các huyệt, gỡ cụ rất khó, phải dùng biện pháp đặc biệt.
Còn Bề trên dạy Ta, có thể giáng hẳn vào (Điển xác)-hoặc truyền tâm từ trên
cao, quán từ trên cao phát xuống. Việc này tu lên cấp cao, chúng ta cũng làm với
nhau đƣợc-chính là truyền tâm nhập mật-thần giao cách cảm. Không có gì bí
hiểm nữa.
Tại sao phải khai Long hỏa:
Nhiều pháp môn khí công, Yôga, Mật tông Tây Tạng… khai Long hỏa-gọi là
hỏa xà-Kudulini…
Khai mở rộng ra: Tức là khởi động và hoạt hóa cơ thể, nâng mức năng lƣợng lên
một bình diện năng lƣợng mới, ứng với nó là sự tiến bộ và tiến hóa về mặt tâm
linh mới, gắn với sự tiến hóa linh hồn-sẽ đƣợc hòa nhập ngay với bản thể và
quyền năng vũ trụ-hay nói chính xác: khai Long hỏa để hợp nhất toàn bộ tâm
thức, linh hồn với vũ trụ.
Cho nên Pháp ta nói: không tu luyện-tất không đạt siêu thoát và giác ngộ cao
cấp.
Quyền năng tâm linh của Long Hỏa
109
-Là nơi ngự của linh hồn.
-Trung tâm cân bằng, và điều phối toàn bộ năng lƣợng tiên thiên và hậu thiên.
Năng lƣợng tiên thiên là lấy qua Bách hội thông qua dây bạc nối với Tổng hồn,
còn khí hậu thiên là do ta ăn uống nạp năng lƣợng một cách bình thƣờng.
-Long hỏa không bị bế, nó chỉ khai mở nhỏ. Các sao trong 7 sao và hai sao ở
Dũng tuyền luôn luôn đƣợc khai mở một cách vừa phải, giống nhƣ cái cái cửa sổ
tự nhiên của cơ thể, khép nhẹ, vì đó là nơi cơ thể hoạt hóa năng lƣợng và trao đổi
năng lƣợng với vũ trụ-là nơi chúng ta hòa hợp thành một chỉnh thể thống nhất
tuyệt đối với vũ trụ.
110
-Khai Long hỏa là một yêu cầu và một đặc tính cực kỳ quan trọng để phát triển
tâm linh, đốt tan trọc khí và khí loạn, giúp học viên tiếp nhận đƣợc thanh khí
trong sạch trên cao.
-Có khả năng thần thông và công năng đặc dị-quyền phép tâm linh và sức
mạnh kỳ diệu, hòa nhập vào Vũ trụ-Đại Ngã-chứng ngộ Tâm linh cao cấp. Xuất
hồn và tu luyện trên cao. (Nhìn thấu quá khứ vị lai, xuyên thời gian, không gian,
mọi vật cản, phá bão hay mƣa, mây, chữa bệnh từ xa hay tại chỗ mà không cần
đụng vào ngƣời, không cần gặp mặt, nhìn thấy thế giới vô hình và bình diện vật
chất vi tế, nhƣ sóng ánh sáng, sóng từ trƣờng thể vía con ngƣời và huyệt ngƣời,
huyệt đất, vong linh, hồn cây cối, thú vật…).( Nhƣng Ta cấm việc thích thi triển,
thể hiện thần thông một cách tùy tiện, chống lại các qui luật của thiên nhiên....
-Khai Long hỏa xong, có thể nhãn huệ tự khai, ( có thể không khai Long hỏa đã
có thể khai nhãn đƣợc-nhƣng chỉ là cách làm bình thƣờng)-Thậm chí, chƣa khai
Long hỏa, vẫn xuất hồn, vía đƣợc, nhƣng sức mạnh nội ngoại công không lớn...
-Lên Cấp 2 ( Trung cấp) này, khai mở các luân xa, đánh thông thuần thục các
kinh mạch, rồi mới khai đƣợc Long hỏa, để thông suốt các đƣờng khí, xả trọc và
tu luyện thể vía-tâm thể trong sạch. Quan trọng nhất phải khai đƣợc sao 7, mở
rộng. Sau đó, mới cho khai Long hỏa.
-Khi chƣa khai các luân huyệt, mà đã khai Long hỏa-dẫn khí lên, tất bị sặc khí,
nén chỗ nọ, nó phình chỗ kia, đau, nhức chỗ khác, nhức đầu chóng mặt, ngộp
thở, thấy khí chạy loạn; và nguy hiểm nhất là khí nóng của Long hỏa sẽ đốt tan
các huyệt mạch, gây rối loạn mức năng lƣợng, gây tẩu hỏa ngay, rất nguy hiểm.
Khi đã khai đƣợc rồi, mỗi ngày tập luyện cũng cần xả trọc cho kỹ, rồi mới dẫn-vì
tẩu hỏa có thể xảy ra cho mọi trình độ tu luyện, càng luyện cao thâm, thì càng
phải xả trọc và khởi động cẩn thận hơn, nhất là khi thời tiết thay đổi, các ngƣời
già….cấm dẫn Long hỏa khi mới ốm dậy, ngƣời vừa uống rƣợu, sinh hoạt tình
dục. Cấm ngƣời nghiện thuốc lá, rƣợu, ma túy học cấp 2 trở lên. Kể cả ngƣời ăn
thịt tạp nhiều, khi có khai rồi, mà cứ nhiễm lậu, tất nó đóng lại, dù luồng khí này
sẽ đánh tan mọi trọc khí, nhƣng về lâu dài, nếu không chay tịnh, tất cơ thể rất
mệt…dẫn đến rỗng khí.
PHƢƠNG PHÁP KHAI LONG HỎA:
-Cơ thể thanh nhẹ thì càng tốt, nên ăn chay trong một số ngày trong tháng và
kiêng, hay hạn chế dùng thịt ngay ở Cấp 1, để hoạt hóa thể vía, năng lƣợng cơ
thể.
-Khai toàn bộ các huyệt, sao…biết xả trọc và khai sao thuần thục một thời gian
lâu, trƣớc khi khai Long hỏa. Không đƣợc tò mò, vội vàng.
-Khai Địa Long trƣớc. Rồi khai Nhân Long, rồi khai Thiên Long (Long
hỏa).
111
-Địa long: là luồng Hỏa hầu-nhƣ tên gọi các pháp môn khác, nằm dọc phía trong
cột sống, từ huyệt Trƣờng cƣờng, lên đến huyệt Bách Hội-dọc mạch Đốc. Khi
khai đƣợc Địa Long-toàn bộ các huyệt thuộc Đốc và Đốc mạch đƣợc thông. Các
trọc khí bị tán.
(Nên nhớ: Khi xả trọc, thì nên dẫn khí từ Bách hội xả xuống, tránh dẫn khí trọc
lên não. Các bộ phận và đƣờng khác cũng thế. Xả các sao, thì xả từ trƣớc ra
sau).
-Nhân Long: Là hai Long hộ vệ âm-dƣơng xoắn lại, bện lấy Thiên Long-tại
sao lại có hai luồng chân khí này? Đây chính là bí ẩn của tự nhiên, xuất phát từ
nguyên lý âm dƣơng, của đấng Tạo Hóa, trong âm có dƣơng, trong dƣơng có âm,
hai luồng này đi từ Dũng Tuyền lên, xoắn bện cân bằng, tạo ra không gian hộ trì
cho các luồng khí năng lƣợng thuộc hệ thống âm dƣơng huyệt-sao trƣớc và sau
cơ thể.
Ta gọi là luồng Nhân Long hộ vệ, cực kỳ quan trọng. Nhiều pháp khí công
không biết đến khai đƣờng này, hoặc rất nhiều môn phái lẫn lộn hỏa hầu với hỏa
xà, hoặc lẫn đƣờng hộ vệ này với hỏa xà…
112
-Pháp ta khai Thiên Long (Long Hỏa) từ trên xuống trƣớc ( khác các cách khác-
để an toàn)-sau đó khai thông, mở rộng Hội âm ra xung quanh, thông Sao 2 một
cách tuyệt đối với Trƣờng cƣờng, tạo cân bằng âm dƣơng vùng đệm, rồi mới
khai Long Hỏa.
CÁC BƢỚC TIẾN HÀNH KHAI LONG HỎA
1-Xả sao, thiền, công lực đã lên cao, thấy khí nóng chạy trong Đan điền, dọc trục
Nhâm-Đốc.
113
2-Đạt trình độ này, thì học sang Cấp 2: Khai các sao, xả trọc qua sao, thấy khí
thanh nhẹ, đã tự chữa đƣợc các bệnh đau đầu, đau ngực, bụng…
-Khai Nhân Long: Dẫn khí từ Bách Hội xuống dọc trục Long, đến sao 5, thì chia
làm 2 đƣờng dẫn xuống Dũng tuyền. Làm từng bên một. Sau khi thuần thục rồi
thì dẫn ngƣợc từ Dũng tuyền lên đến sao 5, rồi dẫn lên sao 7.
Thực ra, nếu ai nhanh ý, khi tập thuần thục hai đƣờng Đại khí, thì nên chủ động
tập khai đƣờng Nhân Long này trƣớc, thì mức năng lƣợng đã cao dần.
3-Khi đã đánh thông các sao nhiều lần, bắt đầu tập khai Long Hỏa.
-Nhất thiết, khi khai lần đầu phải có thầy, hoặc bạn tập bên cạnh, bảo vệ,
hướng dẫn. Có thể hướng dẫn từ xa cũng được. Nằm, ngồi, đều được.
-Tạo thể quả cầu vía bảo vệ xung quanh mình, thành nhiều vòng sáng dày nhau.
-Niệm các phép cho nghiêm-Nhìn vào Thiên Phù để nạp ý và tăng năng lƣợng.
-Thiền nhẹ, không đƣợc thiền sâu (sợ thất thần-nguy hiểm).
-Xoáy rộng Sao 7.
-Xoáy rộng sao 1.
-Kéo thật nhẹ khí từ sao 7, xuống từ từ dọc trục Long Hỏa, đến khu vực trƣớc
sao 1 và sao 1, xoáy nhẹ, hút khí xuống, xả ra ngoài, làm nhiều lần đến thuần
thục.
-Khi cảm giác sao 1 đã thông, nhẹ, hết nóng, hết tức, hết mùi hôi, thì dẫn lại
Long từ sao 7 xuống, thông hẳn nhƣ một dòng nƣớc rót từ từ xuống.
-Sau vài ngày tập thuần thục, thì thông hai cạnh của Long Hỏa là hai Long hộ vệ,
rồi kéo ngƣợc khí từ sao 1 lên sao 7; khi thuần thục, thì nối khí âm từ Dũng
Tuyền lên, theo hình có cả Hộ vệ âm dƣơng và Long Hỏa.
-Lúc này cơ thể thanh mát, nhẹ nhõm; nếu còn thấy khí nóng, hay màu khí còn
đỏ, hay tức chỗ nào đó, tức là huyệt nơi Long đi qua chƣa thông, khí trọc chƣa ra
hết, phải làm lại để tránh tẩu hỏa; huệ nhãn có thể tự khai, hoặc lúc này khai rất
dễ.
-Lúc này đã luyện quen rồi, ta có thể tùy nghi mà dẫn xuống hay dẫn lên một
cách tùy việc.
-Hàng ngày, tu luyện, thì việc thƣờng xuyên khai thông lại, là cách để giữ nhãn
sáng và tẩy lọc cơ thể. Khi khai thông Long hỏa một cách thƣờng xuyên, thì hầu
nhƣ các bệnh thuộc xƣơng sống, đầu, thần kinh tọa…sẽ hết một cách tự nhiên.
Chúng ta nên biết rằng, các thánh nhân, các phật sống của đạo Giáo, đạo Phật,
nhƣ: Mục Kiền Liên, hay Lục tổ Huệ Năng, Đạt-ma sƣ tổ, Lão tử…có ngƣời thọ
hơn trăm đến vài trăm tuổi; các hành giả đạo Giáo xƣa, thọ 100 tuổi vẫn còn bị
coi là thƣờng!
-Khi khai Long xong, nhu cầu ăn thịt, tạp chất, rƣợu bia… sẽ hạn chế một cách
tự nhiên: Do cơ thể đã đƣợc nâng lên một mức năng lƣợng cao hơn rồi, tất cả các
tế bào đƣợc nâng mức năng lƣợng và thử thách đến một ngƣỡng mới của các
nguyên tử thanh nhẹ hơn, cần khí và thể thanh nhẹ, chứ không thể nạp đƣợc các
114
thứ cặn, trọc và tinh thể vật chất thô trọc nhƣ thịt, nhất là thịt đỏ…mùi vị sẽ tanh,
hôi, vì chúng ta thƣờng phải tẩy khí; đến khi thanh, nếu ăn thịt, rất khó chịu và
thấy nặng mình mẩy, nặng khí; nếu ăn lâu, lại đóng bế Long Hỏa lại ngay!- đó là
lý do các hành giả, các vị tu thiền, hay tu tiên…xa xƣa đến nay phải ăn chay,
mới thành đạo-tức là đạt trạng thái thăng hóa và tiến hóa tâm linh; chứ không
phải ăn mặn thì bị phạt, bị cắt phép. Tu lên cao, sẽ hiểu lời Ta nói.
Tất nhiên, chúng ta sẽ ăn ít đi, thậm chí lúc không ăn, cũng không thấy đói, thân
thể cứng cáp khỏe mạnh, râu tóc đen dài, khí lực viên mãn, da, môi đỏ hồng hào,
ăn ngon ngủ sâu, không buồn phiền bi lụy, không lo lắng hốt hoảng, tâm bình,
mọi việc hiểu sâu, nhƣng lại hành động hồn nhiên, đơn giản đi rất nhiều...
*Khi khai Nhãn, nhìn thể vía của một ngƣời, có thể biết đƣợc tâm thể và
trình độ tiến hóa và tu luyện của ngƣời ấy, mà không cần giải thích hay
kiểm nghiệm: -Thấy khí, vía còn đen: Ngƣời bị bệnh, ám, nơi bị bệnh, khí đỏ hoặc đen.
-Ngƣời có tham vọng xấu, tính xấu, bẳn tính, tính cố chấp, tham lam, hay vô
minh….vía đỏ, nâu, đen.
-Tà nhân, hay nghiện rƣợu, ma túy…thƣờng có tà ác quỉ ma đi theo, hay đọa
hẳn vào trong ngƣời.
-Nổi ý ác, tâm ác, tâm tham…thì ma quỉ cũng đi theo, theo qui luật Đồng thanh
tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu.
-Tu luyện càng cao, trình độ càng cao, thì tâm thể càng sạch, khí vía sáng trong,
có thể có hào quang sáng phát mạnh trên đầu.
-Hàng ngày: Tập bài 2-Thiên Long Nhân công Pháp-có động tác khai Long
hỏa.
-Các động tác Thiên long hóa khí trong cơ thể-nén khí Đan điền, nóng, sáng,
kéo lên sao 4, nạp thêm, kéo lên sao 6, nạp thêm, đến sao 7 phát sáng, kéo xuống
vào trung tâm sao 4-phát sáng, tỏa ra toàn thân, toàn thân phát sáng; hoặc cho
xuống Đan điền chạy ra toàn bộ cơ thể toàn thân phát sáng, vòng tròn phát sáng-
đây gọi là cải tạo thể vía từ nội, ngoại thân.
THOÁT LUÂN HỒI, CÂN BẰNG NGHIỆP THEO TRỤC LONG HỎA
Theo nguyên tắc vật lý, khi khai Long hỏa, đốt cháy các trọc khí, trong và ngoài
vía-phách của mình, còn đồng nghĩa với việc tiêu diệt, đốt cháy các vía xấu, đen,
hình tƣ tƣởng…của mình-trong đó có Nghiệp quả. Khi xuất hồn lên cao, có Cao
Minh công, thì có thể tiêu diệt các Nghiệp, có cách cân bằng Nghiệp, xóa
Nghiệp. Xóa Nghiệp, và cân bằng Nghiệp bằng cách xây đời, lập công quả, cứu
độ nhân gian, rồi lại cân bằng tịnh Không (Thiền tĩnh lặng ) tại Trung
Phƣơng cung-tức là Đan điền-rồi Toàn Trục Long hỏa-đó gọi là Ngũ Khí
115
Triều Ngƣơn ( Cha dạy Đạo Cao Đài), và về Trung Phƣơng-( KHÔNG-TẠI
TRỤC LONG HỎA, NĂNG LƢỢNG CÂN BẰNG=KHÔNG) tức là hòa
nhập Thƣợng đế vậy! Tất nhiên là có thể hết Luân hồi!
Hết Luân hồi là đốt tan hết Nghiệp và cân bằng đƣợc Nghiệp về Trung Phƣơng
cung-hay Thƣợng đế tự thân-Ở đâu? Ngay trục Long hỏa vậy!
BÀI ĐỌC THÊM:
LUYỆN NHỊ XÁC THÂN (LINH HỒN HAY NGƢƠN THẦN)
(Bài đọc thêm của cấp 2- 3 Thiên Pháp-Tài liệu Cha dạy Đạo Cao Đài)
“Phƣơng pháp tu luyện: Cấu đi lên hay NGHỊCH CHUYỂN =>theo SANH LỘ
xuyên qua 9 khiếu => Tinh hoá KHÍ =>tạo Thánh Thai =>nuôi dƣỡng =>tạo
Kim Thân = Phật tử (trên Bàn thờ Hậu Thiên= phía dƣói), trong mình (ức) =>
lên Nê hƣờn Cung =>ra Thiên môn về Niết Bàn.
Chúng tôi trình bày mục Nhị Xác Thân qua các lời dạy của Thầy nơi Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển và Đại Thừa Chơn Giáo.
Nơi trang 26, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy :
" Ngọc Đầu Sƣ khả tu truyền pháp, thuyết Đạo.
Kẻ nào trai giới đặng mƣời ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.
Chƣ Môn Đệ phải trai giới. Vì tại sao ?
Chẳng phải Thầy còn buộc theo cựu luật, song luật ấy rất nên qúy báu không giữ
chẳng hề thành Tiên Phật đặng.
Thầy cắt nghĩa : Mỗi kẻ phàm dƣới thế nầy đều có hai xác thân. Một phàm gọi là corporel. Còn
một thiêng liêng gọi là spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên
gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh Khí Thần mà luyện
thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh
của xác phàm nhƣ khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh Khí, không có
Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng.
Còn có Thần mà không có Tinh Khí thì khó hƣờn đặng Nhị Xác Thân.
Vậy ba món báu phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất, tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì
hằng có điển quang. Cái Chơn Thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ hơn
không khí ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật
đặng.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết.
Nếu nhƣ các con còn ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán
cho đặng?
Nhƣ rủi bị hƣờn, thì đến khi đắc đạo, cái trƣợc khí ấy vẫn còn, mà trƣợc khí thì
116
lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d‟électricité) thì chƣa ra khỏi lằn không
khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn nhƣ biết khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bậc
“Nhân Tiên” thì kiếp đọa trần cũng còn chƣa mãn.
Vì vậy Thầy buộc các con phải trƣờng trai mới đặng luyện đạo."
Với Thánh giáo này, ngay từ buổi mới Khai Đạo, Thầy cũng đã dạy truyền pháp
cho kẻ nào trai giới đặng 10 ngày trở lên và muốn luyện đạo phải trƣờng trai mới
đặng. Luyện đạo là luyện tam bửu Tinh Khí Thần để tạo một Nhị xác thân. Xác
thân thứ hai thiêng liêng vô hình (périsprit) ngoài xác thân nhục thể hữu hình của
chúng ta. Hơn nữa Tân luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chƣơng Tịnh Thất có
định nghĩa là nhà thanh tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện và ghi 8 điều lệ
nghiêm chỉnh để tịnh viên phải tuân theo kỷ luật tịnh trƣờng.
Ngƣời môn sanh Cao Đài cần tu luyện là mong giải thoát kiếp luân hồi đọa lạc
trần ai khổ lụy này, mà đó chính là mục đích tối yếu của việc tu hành. Đức
Thƣợng Đế mở Đạo Kỳ Ba để độ rỗi các bực nguyên căn còn sa đọa và Thầy hứa
tái lập đời Thƣợng nguơn Thánh đức cho nhơn loại đƣợc hƣởng sau Hội Long
Hoa lọc thánh phân phàm.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, trang 173, Thầy dạy về Giới tửu (18.1.1927)
Bính Dần, Thầy cũng nhắc lại về Nhị Xác Thân, nhƣ sau :
" Thầy nói cái Chơn Thần là Nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme), nó
bao bọc thân thể các con nhƣ khuôn bọc vậy, nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa
xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là Vi Hộ ; nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng
mà gìn giữ chơn linh các con. Khi luyện thành đạo, đặng hiệp một với khí, rồi
mới đƣa thấu đến Chơn Thần, hiệp một mà siêu phàm nhập thánh".
Nhƣ vậy, ngƣời tín đồ Cao Đài dầu ở chi phái nào siêng tu luyện là không sái
chơn truyền của Thầy từ buổi sơ khai, miễn phải đƣợc bực Minh Sƣ truyền pháp,
đƣợc Ơn Trên hƣớng dẫn. Nếu vào Đạo chỉ biết cúng kiến, tụng kinh mà không
lo tu tâm dƣỡng tánh, lập đức bồi công và luyện đạo để giải thoát linh hồn thì có
ích gì . Miễn hành giả đừng dục vọng mong thành Tiên Phật, ham luyện đạo mà
khinh thƣờng việc làm công quả, trợ nghèo giúp khổ cho đồng bào, không lo tu
tâm luyện tánh thì việc đắc đạo khó thành. Hành giả phải hành đủ tam công tức
là công quả, công trình, công phu thì kết quả mới viên mãn. Ơn Trên thƣờng
bảo không có vị Tiên Phật nào thành đƣợc mà thiếu một trong Tam công.
Đại Thừa Chơn Giáo ở trang 178, Thầy có dạy về Nhị Xác thân :
" Ngoài cái giả thân này, còn một cái chơn-thân khác nữa. Chơn-thân ấy là chi?
Là nhị xác thân vậy. Cái xác thân ấy mới vững bền muôn kiếp, sống mãi bằng
Trời, không tử, không sanh, không thêm, không bớt. Luyện đặng cái chơn thân
này thì trƣờng sanh bất tử, khỏi chịu quả báo luân hồi, đời đời kiếp kiếp an
hƣởng vui chơi nơi Bồng-lai Tiên-cảnh. Ấy là Chơn Nhơn vậy
Thầy thấy ngƣời đời hằng lầm tƣởng cái giả thân ( Nhơn thân) nầy tu luyện đặng
cầu bất tử, trƣờng sanh. Khờ lắm thay! Dại lắm thay! Bởi câu-chấp mà sa mãi tội
117
tình, trầm luân muôn kiếp. Cái xác thân nặng nề, nhơ bẩn thúi tha này còn ham
hố làm chi? Cái điểm linh hồn bị mang xác thịt này chẳng khác nhƣ bị núi Thái
Sơn dằn chận. Cái điểm linh hồn ngày nào bỏ đặng xác thân này thì chẳng khác
chi để ghánh Thái Sơn xuống vậy.
Linh hồn ra khỏi xác thân này thì mừng vui khôn xiết, khoái lạc vô cùng. Những
linh hồn còn nặng nghiệp quả tiền khiên phải chịu vâng theo Tạo Công sai khiến,
mƣợn xác thịt lập công, trả rồi nghiệp quả. Những Phật Tiên ngày trƣớc cũng
dùng điểm linh quang giáng thế, mƣợn xác thịt mà luyện đạo. Lấy ngƣơn khí
nguơn tinh hiệp cùng nguơn thần tạo nên Tiên Phật. Có nhị xác thân thì từ đó
sấp sau mới là có thứ ngôi địa vị, chớ điểm linh quang là một cái yếng sáng mà
thôi, nhƣng cũng biết linh thông biến hóa."
Ở trang 149, Thầy cắt nghĩa hai chữ Tu Luyện nhƣ sau :
"Chữ TU là gì ?
Tu là bồi bổ tinh khí thần cho đầy đủ, đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tầm
đƣờng Thiên Lý thuận mạng, giữ thanh tịnh ôn hòa, chỗ nào sứt mẻ hƣ hao thì tô
bồi cho đầy đủ. Chữ LUYỆN là gì ?
Luyện là trau giồi cho sáng suốt hoàn toàn, giũa mài, rèn đúc cho trơn tru khéo
léo.
Tu mà không luyện chẳng khác chi một cục sắt không rèn làm sao thành một
món khí giới ? Luyện là RÈN, thì chẳng khác nào một cục sắt đó còn đƣơng vô
dụng. Luyện nó phải nƣớng cho nó cháy, rồi đập giũa, cạo, gọt, rèn, đúc mới
thành cái khí giới. Ngƣời tu cũng thế.
Muốn cho huệ mạng tròn đầy sáng suốt thì cần phải phanh luyện, mài giũa
ngày đêm cho thành Kim Thân, Phật Tử. Ấy là phƣơng pháp tu luyện.
Các con khá biết rằng Thầy hằng nói: Thầy là các con, các con tức là Thầy. Có
Thầy mới có các con, mà có các con rồi mới có chƣ Tiên, Phật, Thánh, Thần; thì
ngƣời là "tiểu thiên địa". Điểm linh quang nào muốn tạo Phật tác Tiên cũng
phải đầu thai vào thế giới hữu hình Vật Chất: Dầu cho một vị Đại La Thiên
Đế giáng trần đây không tu luyện cũng khó mong trở lại.
Điểm LINH QUANG là gì ?
Là một cái yếng sáng mà thôi. Thái Cực là một "Khối Đại Linh Quang" chia ra,
ban cho mỗi ngƣời một "điểm tiểu linh quang", khi đầu thai làm ngƣời. Đến chết
điểm linh quang ấy quay về hiệp nhứt với "Đại Linh Quang".
Các con có rõ hai chữ THIÊNG LIÊNG chăng ?
Thiêng Liêng là nối tiếp theo. Hễ kẻ nào tu đắc đạo cũng phải chịu dƣới luật
riêng cơ pháp. Trời ban cho mỗi ngƣời một điểm linh quang ( nguơn thần). Điểm
linh quang ấy phải đầu thai xuống thế giái hữu hình vật chất nầy, mƣợn xác
phàm tu luyện mới thành Tiên đắc Phật. Nhờ có cái xác phàm nầy mới thành
Đạo, mà tạo Phật tác Tiên, tiêu diêu cảnh lạc. Tại sao vậy ?
Tại tuy có ngƣơn thần mà không có ngƣơn tinh, ngƣơn khí thì làm sao tạo thành
118
Nhị xác thân? Ngƣơn thần là Dƣơng, ngƣơn khí là Âm. Đạo phải có âm dƣơng
mới sản xuất Anh Nhi tạo thành Xá Lợi.
Mƣợn cái xác phàm này mà lấy ngƣơn tinh: khí, huyết, rồi luyện ngƣơn tinh cho
thành ngƣơn khí thì tinh Hậu Thiên trở lại Tiên Thiên.
Luyện ngƣơn khí là nuôi lấy ngƣơn thần cho sáng suốt. Dầu cho vị Phật Tiên nào
cũng vậy, phải chịu đầu thai vào thế giới vật chất luyện cho thành Thánh Thai
Phật Tử mới về ở thế giái hƣ linh, chớ đừng nói trong hàng Phật, Tiên đắc đạo
mà không tu luyện theo pháp này, thì làm sao thành chánh quả!!!
Phép luyện đơn chẳng chi lạ. Hễ muốn tạo thành Thánh thai phải dụng công phu
nghịch chuyển pháp luân thì thành Thánh”.
( Sƣu tầm-Xin Vua Cha cho vào Pháp môn để giáo hóa thêm).
Nói thêm: Nhƣ vậy, theo Vua Cha dạy Đạo Cao Đài, luyện Đạo chính là luyện Huyền công,
trong đó có luyện Nhị Xác Nhân-tức là Linh hồn. Linh hồn chúng ta tại xác trần
bị bao bọc bởi thể xác, và tinh thần, tạo ra thể vía của thể vía của linh hồn. Muốn
xuất thần-hồn, thì phải luyện thân tâm, khai mở các huyệt đạo, làm cho thể vía
của linh hồn tinh sạch bằng thân-tâm sạch, muốn thân tâm sạch, phải luyện Tinh-
Khí-Thần, rồi đƣa Thần-hay hồn mình xuất khiếu ra khỏi xác thể, hợp với chất
khí Tiên Thiên là Thành Đạo, Đắc Đạo; đi học trên Vũ trụ, xuất hồn đi các
cảnh…, do tu luyện thân tâm tốt, thể trọc vía càng ít, thì linh hồn mình càng xuất
đƣợc lên cao, đắc Thần tiên tại thế, sau này mãn thì cũng đắc chính cái tầng cảnh
giới-tầng khí cao mình đã bay lên đƣợc. Muốn thoát đƣợc sinh tử luân hồi, thì
phải bỏ đƣợc hệ thống các hình tƣ tƣởng và thể vía trọc bám vào hồn mình, theo
qui luật đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu, do hết vía xấu, chỉ còn linh
quang gốc, tức linh hồn chân chất nhất-lõi của tổ hợp hồn vía-hay nói gọn là vía
không còn, chỉ còn hồn, thì sẽ thoát luân hồi, về thẳng Thƣợng giới, đắc ngôi vị
Tiên Phật.
Mọi lý luận của Pháp môn chúng ta do Thầy đƣợc Vua Cha truyền dạy chính
thức và tu học tinh luyện thêm, Thầy tuyệt nhiên không học ai ở trần gian, chỉ
học Vua Cha, các thầy vô hình và tự học mà thôi…
Học viên Thiên Pháp đến trình độ xuất hồn, đạt từ 3-7 thông-lên đến Kim Tự
Tháp Long Hoa-hiền nhân nhập thế xây đời là Đắc đạo-tức là Thần Thánh Tiên
Phật tại thế. Chỉ khác là chúng ta nói bằng ngôn ngữ khoa học và khoa học tâm
linh hiện đại cho dễ hiểu hơn mà thôi.
Thiên Pháp luyện 4 cấp, theo các pháp khác là có cả Tinh-Khí-Thần-Thần hoàn
hƣ; có cả Nội công-Ngoại Khí, Âm dƣơng công, Thần công, Thần thông ngoại
cảm-khai Nhãn và luyện Thất thông: Thiên Nhãn thông, Tha Tâm thông, Thần
cảnh thông, Túc Mạng thông, Thiên Nhĩ thông, Lậu Tận thông-nhƣng chúng ta
khác Phật giáo còn có An Lạc Thông-tức Đĩnh ngộ Nhập thế xây dựng Thiên
Đƣờng-Niết bàn Tại thế.
119
Nhƣ thế là chúng ta tự hào là có đủ tinh hoa của Khí công, Luyện Đạo của các
pháp môn, tôn giáo trƣớc kia, không để mất tinh hoa Nhân loại.
TẠNG PHỦ CÔNG-CHỮA BỆNH KHÔNG DÙNG THUỐC ĐƠN
GIẢN:
1-Đọc sách, xem hình để biết cấu tạo cac cơ quan, bộ phận cơ thể, vị trí của
chúng.
2-Khi đã khai Long hỏa, khai các sao, thì chỉ cần dẫn khí từ đỉnh đầu đến nơi bị
bệnh, và xoáy khí vào đó, đẩy khí qua kinh mạch tƣơng ứng của nó, hoặc ra
huyệt gần nhất; sau đó, nạp khí sạch vào cho nó.
3-Thƣờng xuyên tẩy khí các bộ phận cơ thể, nạp khí sạch cho nó, gọi là tạng phủ
công.
4-Chữa bệnh tại bộ phận đó, dẫn khí vào đó để lọc độc, tẩy bệnh…gọi là tự chữa
bệnh không dùng thuốc.
5-Tẩy tủy-thần kinh: Cho khí đi từ đỉnh đầu, đi xuyên vào não, tẩy khí não ra
Ngọc chẩm, gáy… sau đó thỉnh thoảng cho khí đi xuyên vào dọc xƣơng sống, để
tẩy tủy ( Pháp khác gọi là tẩy tủy kinh); ta có khác một chút: cho khí đi xuyên
xuống trƣờng cƣờng, tẩy ra, rồi lại kéo khí âm cân bằng lên đến não, cứ nhƣ thế,
cho đến khi thấy nhẹ xƣơng sống, lƣng thì thôi.
LUYỆN HÕA KHÍ ÂM DƢƠNG, TĂNG NỘI KHÍ. TẨY KHÍ QUA SAO.
TẨY VÍA.
-Luyện hòa khí âm dƣơng: Khai các sao xong, tẩy khí xong, thì nối khí trƣớc
và sau một sao vào giữa, để hòa khí âm dƣơng tại từng sao, cho đến khi thấy
thanh nhẹ thì thôi.
-Nối khí từ Dũng tuyền lên Đan điền, kéo khí từ Bách hội xuống Đan điền, để
cân bằng âm dƣơng tại Đan điền.
-Sau này, khi đã khai Long hỏa, thì nối khí từ Hội âm lên, kéo khí từ Bách hội
xuống, kéo khí trƣớc và sau sao 2 vào, để tăng nội khí cho Đan điền-rất tốt, rất
cần thiết.
-Dùng Cửu Long Huyền công để tập bài này rất tốt. Đây có thể gọi là Ngũ Khí
Triều Ngƣơn.
Xoáy, nén nhẹ, cho đến khi thấy nặng nặng, cƣng cứng, âm ấm bụng rốn. Tập
đƣợc bài này, tất công lực tăng mạnh, khí lực tăng, các bệnh về lƣng sẽ hết
hẳn…
-Tẩy khí qua các sao tƣơng tự nhƣ hƣớng dẫn: Thổi khí từ trƣớc ra sau, từ sau ra
trƣớc các sao, qua Dũng tuyền, cho đến khi sạch khí trọc thì thôi.
-Tẩy vía: Tƣ tƣởng phải tốt, thiền tĩnh, tất vía sáng; và ăn uống chống ăn tạp
chất khí, hạn chế thịt; và khi nén khí xong, thì kéo khí đên từng sao, thông xong,
cho khí cầu vào giữa sao, phát sáng, tại sao nào cũng đƣợc, nhƣng tốt nhất là
120
Đan điền. Rồi phóng khí ra xung quanh mình thành vòng sáng nhiều vòng, vừa
có tác dụng tẩy vía, vừa có tác dụng bảo vệ mình.
Đây là kỹ thuật thƣờng xuyên, sau mọi bài thiền công cao cấp về sau, từ cấp 2
trở lên.
LUYỆN BÀI THIÊN LONG NHÂN CÔNG PHÁP
Bài này cốt để tập cho chƣơng trình Cấp 2. Hàng ngày luyện từng cử động một
là hết cả chƣơng trình Cấp 2-Trung cấp.
Tác dụng: Âm dƣơng khí giao hòa, luyện tinh khí thần, tạng phủ thanh khí, Tam
giới hòa hợp. Khai long xà. Các mạnh đều thông, thần minh khí thanh.
Ngƣời yếu, nghiện rƣợu, ma túy, suy nhƣợc vừa ốm dậy, tâm tính nóng nảy cấm
tập dẫn Long, vì sao: không cẩn thận đốt cháy kinh mạch, tẩu hỏa.
7 cử động:
Ngồi thế thiền hoa sen trên trái đất. Mặt quay Bắc. Mắt nhắm. Niệm nhập Pháp.
1-Thiên Long xuyên địa:
Ngƣời ngồi thẳng. Niệm Pháp xong, hai bàn tay duỗi đặt úp xuống đất trƣớc mặt,
song song, không chạm nhau. Rồi cúi đầu sát đất bái lạy 9 lần, chỉ đầu cử động.
Về Thế Thiên Pháp.
Tay trái duỗi thẳng, đặt dọc vào giữa bụng, cạnh bàn tay ngoài và ngón út áp vào
bụng, mũi bàn tay chúc xuống dƣới. Tay phải tam chỉ chọc xuống đỉnh đầu, long
đi xuyên xuống từ đỉnh đầu, dọc theo trục sao ở giữa ngƣời, nối các sao với
nhau, trục sao phát sáng. Long đi xuyên xuống đến tận Đài sen. Đến Hội âm nơi
sao 1, Long xoáy xuống từ từ, theo chiều thuận, thật kiên trì-Đây là động tác
khai hỏa xà của các pháp môn khác, sao 1 sáng dần rồi cho long đi xuống.
Long đi xuống đến đài sen, hai long cuộn tròn, xoay xung quanh đài sen, rồi nó
đi xuyên xuống đất.
2-Thiên Long xuyên sơn.
Đảo tay trái xoay ngƣợc lại, ngón tay lên trên, ép ngón út vào bụng.
Tay phải đặt lên trán về thế bái.
Hình dung thân ngƣời mình nhƣ một trái núi, cho Long đi xuyên từ từ lên giữa
núi, đến sao 1, nó có thể khó khăn, cuộn xoắn vào nhau để đi thông lên, cho phát
sáng toàn bộ trục sao, kéo Long lên thật chậm, chắc chắn. Nếu thấy ngƣời ớn
lạnh, mùi tanh lợm nhƣ mùi bùn (có vong lạ định nhập làm hại), lập tức dừng và
xoa bụng, rốn. Niệm Cha và các thánh cứu.
Tập lâu, sẽ thấy khí không nóng nhƣ lúc mới khai long hỏa; sẽ thấy nhẹ nhõm,
mát lành, cmả giác tê tê dìu dịu là đƣợc, khai long- hỏa xà thành công.
Tập bài này sẽ đốt hết trọc khí trong cơ thể, các bệnh xƣơng sống sẽ khỏi, các
huyệt trên Đốc mạch sẽ khai hết.
3-Thiên Long xuyên lƣng:
121
Tay trái chuyển ra sau lƣng, cạnh ngón cái ốp vào lƣng, mũi tay chúi xuống. Tay
phải vẫn để nhƣ thế trên.
Tại Bách hội-sao 1, hai Long chụm lại và đi xuống dọc đƣờng trong xƣơng sống.
Đến xƣơng cụt, nó xoáy tròn, mở rộng thành một vòng sáng, rồi đi xuống; đây
chính là khai hỏa hầu.
Sau đó cho Long đi ngƣợc lại, theo xƣơng sống, đi lên đỉnh đầu.
4-Thiên Long xuyên Tƣợng.
Đƣa tay trái úp ngang vào lƣng, chỗ Mệnh môn.
Tay phải úp, đặt ngang dƣới rốn.
Long đi xuống dọc cổ, chạy qua vai trái, xuống tay trái vào tƣợng, xuyên qua
tƣợng, ra xuyên qua lòng bàn tay phải, đi lên tay phải, lên vai phải, lên cổ, chạy
qua vai, cứ thế đi vòng xuống 3 vòng.
Long về cuộn lại ở Đan điền.
5- Thiên Long vờn nƣớc.
Hai tay vờn nhƣ múa, nhƣ bắt nhịp khi hát vậy. Nhƣng tay vung tròn qua đầu,
chạm vào nhau, tay dẻo. Đến khi xuống, hai đầu bàn tay cũng chạm nhau chúi
xuống. Đầu cúi lên và cúi xuống theo nhịp tay múa. Làm 7 lần. Thật chậm.
Cảm giác nhƣ ngồi trong một cái bể nƣớc, Long giáng lên giáng xuống bồng
bềnh trùm ánh sáng lên cả ngƣời, thành một vòng sáng khắp châu thân.
6- Thiên long nạp khí.
Hai tay về Thế Thiên pháp.
Long bay vút lên cao, xoáy tròn nạp khí sáng rực, rồi nó giáng xuống đến đỉnh
đầu, đồng thời về Thế Nhân pháp, Long xuống, kéo sáng theo, tay lại kéo xuống
thành Thế Địa pháp.
Lúc này ngƣời bắt đầu phát sáng.
7- Thiên long hóa ngọc.
Về thế thiền Hoa sen.
Long về tƣợng pháp, xoáy tròn và phát sáng.
Toàn bộ đài sen, cả cơ thể lúc này hóa sáng rực rỡ, toàn thân nhƣ một khối ngọc
sáng và phát sáng nhƣ châu sa! Hào quang quanh đầu sáng lóe lấp lánh.
Thu khí sáng dồn vào Đan điền.
Thu công.
Xoa mặt và ngƣời.
Bài này Thiên Long đắc khí luyện ngƣời: Vì nó ƣa ai thì nó luyện cho, chứ
không phải ngƣời luyện nó. Nó là bản mệnh mình, mà bản mệnh thì do Trời giữ,
chứ ta sao giữ đƣợc mệnh, muốn giữ thì phải lụy nó, theo nó. Nó là ai? Nó là
linh khí của Trời. Vậy muốn sở đắc đƣợc nó, làm chủ nó, thì phải làm chủ mình.
Muốn làm chủ đƣợc mình thì phải tu rồi luyện thôi. Tu là tu đức, luyện là luyện
tinh khí thần. Muôn đời đều thế.
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
HÌNH ẢNH BỔ TRỢ THIÊN PHÁP CẤP CAO
LONG HỎA
NHÂN HỎA
134
ĐỊA HỎA
135
Trục Long Hỏa xoắn bện nhƣ ADN
136
ĐẠO PHÁP THIÊN ĐẠO
THIÊN KINH
BẢN THỂ VẬT CHẤT CẤU THÀNH VŨ TRỤ-THỐNG
NHẤT ĐỊNH LUẬT VŨ TRỤ-(ĐẠO TRỜI)
I-ĐẠI VŨ TRỤ VÀ VŨ TRỤ
*1-ĐẠI VŨ TRỤ:
Là toàn thể vật chất của Tạo hoá, cấu tạo theo một chỉnh thể hợp lý, tuân theo
một qui luật nhất định. Vật chất là duy nhất cấu tạo nên Đại vũ trụ.
*Vật chất:
-Là tất cả những gì có đƣợc, do Đấng Đại Toàn năng tạo ra. Đó là một khối vật
chất vô cùng vĩ đại, vô cùng vô tận, không thể đo đếm đƣợc; bao gồm không
gian thời gian, vật chất hữu hình ( con ngƣời nhìn thấy đƣợc) và vật chất vô hình
( con ngƣời không thấy đƣợc).
Khái niệm: Vật chất là một phạm trù triết học của Thiên Đạo-phản ánh tổng thể
vi lƣợng tử trong cấu thành hệ thống mô hình vũ trụ hiện đại, bao gồm hệ siêu
hình và hệ hữu hình, có cùng tính chất mang năng lƣợng; tồn tại đồng thời ở hai
mặt ý thức vô hình và vật thể hữu hình, đó là linh hồn và thể xác của mọi sự vật
hiện tƣợng. Vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, chuyển hóa
và tiến hóa từ loại dạng thể trạng thái này, sang loại dạng thể trạng thái khác, tồn
tại theo định luật vũ trụ; có thể phản ánh hoặc không phản ánh trong tri giác con
ngƣời, với tƣ cách là sự biểu hiện của tự ý thức đồng thời.
Phân tích khái niệm:
-Vật chất là phạm trù triết học của Thiên Đạo: đây là khái niệm mới, trong hệ
thống học thuyết TP.
- Phản ánh tổng thể vi lƣợng tử trong cấu thành hệ thống mô hình vũ trụ hiện
đại:-Vật chất là tổng thể tự nhiên tạo nên và sự tạo nên mọi sự vật hiện tƣợng,
trong đó có linh hồn sự vật hiện tƣợng ( sự ý thức, tri giác ) và thể xác hữu thể
của nó. Khả năng tri giác và tính ý thức của vật chất tồn tại song hành với sự
biểu hiện của mọi trạng thái vật chất.
-Tất cả cấu tạo bằng vi lƣợng tử (nguyên tử) để tạo ra phân tử, theo một nguyên
lý sinh trụ dị diệt thống nhất.
137
-Cấu thành lên mô hình vũ trụ hiện đại: mô hình vũ trụ hiện nay có thể biến đổi,
thay đổi và đang thay đổi không ngừng, chúng ta chỉ biết đang ở trong mô hình
vũ trụ hiện nay đang có, và còn thay đổi.
-Bao gồm hệ siêu hình: Những thứ con ngƣời không nhìn thấy bằng mắt thƣờng
đƣợc, nhƣ linh hồn, sóng năng lƣợng, sóng âm thanh, hơi khuếch tán, điện từ
trƣờng, sóng ánh sáng, thể vía ngƣời, các tầng cảnh giới vật chất khác, chất vi
lƣợng. ( siêu hình ở đây không phải là không có hình, mà là thể vật chất siêu
đẳng-hình thể đặc biệt trong thế giới vô hình-những thứ con ngƣời không nhìn
thấy đƣợc).
-Hệ hữu hình: Những thứ mà con ngƣời nhìn thấy đƣợc bằng mắt thƣờng.
-Có cùng tính chất mang năng lƣợng:- Ở đâu có vật chất, ở đó có năng lƣợng, vật
chất luôn luôn có năng lƣợng, mang năng lƣợng.
-Tồn tại đồng thời ở hai mặt linh hồn và thể xác: Vật chất có tính lƣu giữ và xử
lý thông tin; là linh hồn của thể xác và là thể xác của linh hồn. Hai cái đó tồn tại
đồng thời trong vật chất, của mọi sự vật hiện tƣợng, theo trình độ tổ chức và tiến
hóa khác nhau.
-Tồn tại theo qui luật Vũ trụ: Vật chất tồn tại theo 3 qui luật lớn-định luật.
-Phản ánh ở trong tri giác của con ngƣời: Con ngƣời nhận thức đƣợc sự tồn tại
của vật chất thông qua tri giác cá thể, ở ngay trong bản thân linh hồn.
-Với tƣ cách là biểu hiện của sự tự ý thức đồng thời: Ý thức của linh hồn ngƣời,
tự ý thức đƣợc chính mình và thể xác mình trong tổng hòa vật chất. Ý thức là vật
chất, đồng thời nó ý thức đƣợc sự tồn tại của nó, nó tự biết nó.
Các linh hồn đẳng cấp vật chất khác cũng thế.
-Vật chất là tổng thể tự nhiên, bao trùm mọi thứ, là mọi thứ có đƣợc, đƣợc tồn
tại.
-Tạo nên và sự tạo nên mọi sự vật hiện tƣợng: Tạo nên: Vật chất tạo nên mọi sự
vật hiện tƣợng vật thể. Vật thể cụ thể là biểu hiện cụ thể của vật chất, do vật chất
tạo nên, nó làm bằng vật chất, là vật thể của vật chất.
Sự tạo nên: Mọi sự tạo nên đều xuất phát từ năng lƣợng và kết thúc bằng năng
lƣợng, thông qua ý chí của vật chất (linh hồn), mà ý chí lại là vật chất. Sự tạo
nên tác động hay con ngƣời tác động bằng năng lƣợng trong quá trình làm biến
đổi vật thể, đều thông qua ý chí nào đó-hay nói chính xác, thông qua định luật
chung. ( năng lƣợng do vật chất tạo nên, năng lƣợng-lực là vật thể cụ thể của vật
chất, mang tính chất của vật chất).
-Ý thức của vật chất tồn tại song hành tƣơng ứng với sự biểu hiện tƣơng ứng của
các trạng thái vật chất.
-Ý thức của vật chất do linh hồn điều khiển, là vật thể của vật chất, của vật chất,
tồn tại song hành tƣơng ứng với sự biểu hiện tƣơng ứng của các trạng thái vật
chất. Có nghĩa, linh hồn tồn tại tƣơng ứng với mọi trình độ tổ chức trạng thái
(thể trạng) của vật chất ở mọi bình diện cấu thành nên vật chất cụ thể ( ví dụ nhƣ
138
thể xác hay không khí, vì không khí lại là thể vía của trái đất, trái đất lại là một
phần thể xác của vũ trụ; vía cũng là vật chất, đất, đá …cũng có hồn phách…)
-Con ngƣời tri giác đƣợc, có nghĩa là hiểu biết về nó (vật chất), trong đó có cảm
giác (nhìn, ngửi, không nhìn thấy-ví dụ khoảng không là vật chất không đặc) và
hiểu về nó ( ví dụ nhƣ hiểu đƣợc trạng thái của linh hồn, của chính mình.
-Vật chất nó không tồn tại khách quan với ý thức của con ngƣời, vì sao? Vì ý
thức của con ngƣời do linh hồn tạo ra, là vật chất, nó tồn tại song song với chính
linh hồn của nó, tức tồn tại song song với vật chất bản thể của nó, đồng hành, là
nó; nó tự nhận thức đƣợc nó, nó tự hiểu đƣợc nó là vật chất, nên nó là “sự biểu
hiện nhận thức đồng thời” chính nó. Do đó, nó không là khách quan mà là chủ
quan của chủ thể, ý thức là chủ thể của vật chất nhận thức chủ quan về vật chất.
Ý thức không quyết định vật chất và ngƣợc lại; xét theo nghĩa chung, vì nó là nó.
Vậy, tất cả là vật chất và chỉ có vật chất mới quyết định đƣợc vật chất, thông qua
tinh thần, linh hồn.
* * *
Toàn thể Đại Vũ trụ là một khối vật chất thống nhất, là một lƣợng vật chất vô
biên, vô tận, khối vật chất ấy luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, không
ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Đại Vũ trụ ngày càng nở ra, nở ra, cho đến một lúc nào đó tan rã hoàn toàn, và
trở về hƣ vô. Sau hƣ vô lại đƣợc sinh ra. Cứ nhƣ thế, Vũ trụ, Đại Vũ trụ cũng
sinh di diệt. Qui luật ấy là qui luật không ngừng.
Đại vũ trụ là một khối vật chất vững chắc. Khối vật chất ấy chia thành nhiều thể
dạng và loại tồn tại của vật chất: dạng lỏng, đặc, trung hoà (chuyển tiếp): Nửa
hơi, nửa khí, nửa đặc, nửa lỏng. Các dạng này tạo ra vô số loại thể vật và vật thể
vật chất, hình sắc khác nhau. Các thể vật và vật thể vật chất này tồn tại trong các
thế giới-tức là các môi trƣờng khác nhau. Bao gồm 3000 thế giới. Thế giới của
loài ngƣời và sinh vật đang tồn tại ở trái đất này là thế giới trần gian, nằm trong
3000 thế giới đó.
Đại Vũ trụ gồm có linh hồn và thể xác của Đại Vũ trụ. Linh hồn là vật chất
Siêu đẳng, thể xác là phần vật chất Sơ đẳng. Cả linh hồn và thể xác đều là vật
chất, nhƣng tồn tại ở hai thể dạng khác nhau, tạo nên Đại Vũ trụ; chúng gắn bó
thống nhất với nhau, không tách rời nhau trong một bản thể sống là Đại Vũ trụ;
quan hệ chặt chẽ, không bài trừ nhau, không có cái này thì không có cái kia. Tức
là: Trong Đại Vũ trụ có hai cái đó mới hình thành Đại Vũ trụ. Trong tính toàn
thể thì không có cái nào sinh ra cái nào.
Đại Vũ trụ là một bản thể sống
Linh hồn của Đại Vũ trụ là Đấng Đại Toàn năng, hay là Đại Thƣợng đế. Ngƣời
ngự trị trong cõi vô biên, làm chủ tất cả những gì thuộc về Đại Vũ trụ. Tuy Đại
Thƣợng đế không tự sinh ra mình, nhƣng có thể làm biến đổi
139
mình ( cả linh hồn và thể xác)-xét một cách hẹp, thì Đại Thƣợng đế có thể qui
định mọi trật tự trong Đại Vũ trụ. Và nhƣ thế gọi Ngài là Đấng Đại Toàn năng.
Ta hãy hình dung: Ngài nhƣ một con ngƣời vậy, ta không tự sinh ra ta, nhƣng có
thể làm biến đổi ta ( cả xác và hồn), nhƣ vậy là ta tự cải tạo đƣợc ta.
Trong Đại Vũ trụ, có vô số các Vũ trụ trong đó. Mỗi Vũ trụ là một Đại Vũ trụ
thu nhỏ, tức là cũng có linh hồn và thể xác. Hay nói một cách khác, Đại Vũ trụ
đƣợc cấu tạo bằng các Vũ trụ.
Các Vũ trụ này gắn kết với nhau chặt chẽ bằng cách hội tia- (đây là khái niệm
Cha bổ sung sửa thêm vào ngày 28-4-2008, khi giáng linh tại nhà Ta duyệt
Thiên kinh này lần đầu-qua ghế thiên đình Hoàng Thị Hƣờng-khái niệm này đến
nay Ta cũng hiểu-các tia và lỗ đen trong vũ trụ chính là các đƣờng kinh mạch vũ
trụ ).
Trung tâm của Đại Vũ trụ là nơi Đại Thƣợng đế ngự trị, đó là nơi tạo ra ánh
sáng, tức là nơi tạo ra năng lƣợng cho toàn Đại Vũ trụ. Khối Nguyên năng
lƣợng này là hạt nhân, và các vũ trụ là các điện tử quay xung quanh hạt nhân đó.
(Bổ sung: Trung tâm Đại Vũ trụ là một Trục Trung Phương, bao gồm trục Long
hoả Vũ trụ có hai đầu là một Đại Mặt Trời trung tâm, một đầu là Lỗ đen Trung
tâm-vĩ đại nhất, to lớn nhất, xoáy chuyển, vận hành toàn bộ Đại Vũ trụ).
Khi Đại Vũ trụ tan rã, khối Nguyên năng lƣợng này co lại, và biến vào hƣ vô, tan
vào hƣ vô ( Trung Phƣơng Nguyên năng-hay là Điểm Kỳ dị Trung Phương-nơi
có Nguyên Hạt Trung Phương-Loại hạt nhỏ nhất, sinh ra tất cả mọi loại hạt
khác, là hạt nhỏ nhất, nặng nhất, không có Spin); lúc đó linh hồn Đại Vũ trụ thu
lại, có thể tan ra.
Đại Vũ trụ mới chỉ đƣợc tạo ra, nếu có một cơ duyên đặc biệt. Khi Đại Vũ trụ
mới đƣợc tạo ra, từ trạng thái co cụm của các linh hồn vũ trụ cũ-gần hƣ vô (sửa
lại, các tinh tuý từ ngoài hƣ vô co lại, do nguồn năng lƣợng ngoài hƣ vô
(Nguyên năng tự nhiên-hay Trung Phƣơng Nguyên năng)-nguyên năng này tạo
ra linh hồn và thể xác. Và từ một phần cực nhỏ ấy, lớn dần, tạo ra Đại Vũ trụ.
Không ai tạo ra hƣ vô. Không ai tạo ra nguyên năng lƣợng, mà do tạo hoá vi
diệu-Tạo hoá này là một khái niệm chung.
Trong Đại Vũ trụ có những Vũ trụ lớn, nhỏ, ở gần hoặc ở xa Nguyên năng
lƣợng.
Vũ trụ già dần nằm xa Nguyên năng, Vũ trụ nhỏ và non thì nằm gần Nguyên
năng. Luôn luôn có Vũ trụ già hoặc vì lý do nào đó Vũ trụ nhỏ và non mất đi, Vũ
trụ mới khác sinh ra. Quá trình đó chính là quá trình vận động và biến đối không
ngừng, vô cùng vô tận của Đại Vũ trụ. Tất nhiên, tuổi của một Vũ trụ bình
thƣờng là lớn vô cùng, không đo đếm đƣợc, có thể đến hàng tỷ tỷ năm! Nhƣng
thời gian ấy chỉ là giọt thời gian nhỏ trong sự tồn tại của Đại Vũ trụ mà thôi!
Vậy có thể nói một cách chung: Vũ trụ, Đại Vũ trụ tồn tại vô cùng vô tận.
140
Trong Đại Vũ trụ, đôi khi các Vũ trụ va chạm nhau, có sự cố với nhau. Sự cố ấy
( giống nhƣ chập cháy) tạo ra các Vũ trụ nhỏ hơn, hoặc làm mất đi một Vũ trụ.
VŨ TRỤ
Một Vũ trụ cụ thể, là một phần của Đại Vũ trụ. Nó là một bản thể sống, nó là
một khối vật chất thống nhất. Trong khối vật chất đó, có vật chất siêu đẳng và
vật chất sơ đẳng. Đó là linh hồn và thể xác.
Linh hồn của Vũ trụ này chính là Thƣợng đế Chí Tôn của chúng ta.
Vậy thì có bao nhiêu Vũ trụ thì có bấy nhiêu linh hồn, có bấy nhiêu Thƣợng đế.
Các ngài là các phần của Đại Thƣợng đế, tạo nên Đại Thƣợng đế.
Vũ trụ của chúng ta có Thƣợng đế Chí Tôn ngự trị, tất cả chúng ta là của Ngài.
Loài ngƣời và linh hồn của loài ngƣời chỉ là một phần của Thƣợng đế, bởi Ngài
còn bao gồm linh hồn của các loài và các thế giới khác. Thân thể ( xác phàm)
của chúng ta thuộc về phần vật chất của Vũ trụ, không thuộc phần linh hồn.
Nhƣ đã nói, ta có thể cải tạo đƣợc ta, thì Thƣợng đế cũng vậy, Ngài có thể biến
đỏi đƣợc các qui luật và những gì thuộc về Ngài. Tức là: Ngài có thể tác động
đến mọi vật thuốc Vũ trụ, trong đó có con ngƣời-một phần li ti của Vũ trụ. Điều
đó có nghĩa, xét một cách sâu sắc, Ngài có thể tạo ra con ngƣời, mọi vậtlàm thay
đổi, làm mất đi, cho sinh ra, cho thành trụ dị diệt, thành trụ hoại không-giống
nhƣ khi ta cắt tóc, làm cho ta béo, gầy, hoặc con ngƣời có thể tạo ra các bộ phận
thân thể của mình bằng cách nhân tạo vậy, hoặc cho chúng chết đi.
Việc tác động đó của Thƣợng đế với Vũ trụ chỉ có tính chất tƣơng đối, không
tuyệt đối. Sự sáng tạo tuyệt đối thuộc về Đấng Đại Toàn năng trong Đại Vũ trụ.
Thiên Hà
Trong Vũ trụ có vô vàn các Thiên hà (Hằng hà, Ngân hà). Các thiên hà tạo
thành Vũ trụ. Có thiên hà nhỏ, có thiên hà to. Đại Vũ trụ, Vũ trụ là một khối
tròn, thiên hà cũng là một khối tròn. Tại sao lại tròn? Vì vận động quay tròn là
vận động tuyệt đối, các loại vận động khác đều là tƣơng đối, nằm trong vận
động quay tròn.
Khi quay tròn, vật chất bảo toàn đƣợc khối lƣợng, năng lƣợng, tạo ra không
gian và thời gian. Nếu ngừng vận động, tất cả ngƣng rồi dần tan rã. Có thể thay
đổi đƣợc sự vận động ấy, tức là có thể thay đổi đƣợc không gian và thời gian.
Điều này Thƣợng đế làm đƣợc.
Thiên hà bao gồm: Tất cả “hằng hà đa số” và vô số các hệ sao. Trong đó có các
Hệ mặt trời và các hệ khí. Các Hệ mặt trời này bị sức hút, sức tác động của
Nguyên năng không đồng đều, cho nên có thiên hà dày, thiên hà mỏng-có chỗ
141
loãng, có chỗ loãng, có chỗ đặc các hệ sao. Các hệ khí là các đám tin vân lộn
xộn, các chất “bã, cặn” của các Hệ mặt trời va chạm, hoặc bị bắn ra ( Có thể gọi
là các đĩa khí phía ngoài các cụm thiên hà, hay cụm hành tinh; đối với cấp
hành tinh, có thể đó là đĩa lƣới năng lƣợng bao bọc phía ngoài tinh thể).
Nhƣng các Hệ khí này, thậm chí có ở dạng vô hình, chính là thể phách, tạo ra
chất “keo dính” gắn kết các hệ mặt trời, các phần của thiên hà. Khi thiên hà
biến đổi (lớn lên, nhỏ đi, sinh ra, chết đi), thì thể phách khí này biến đổi trƣớc
hết.
Thiên hà có nhiều Hệ mặt trời và có sự tồn tại sự sống sinh vật ở trong Thiên
hà. Tức là luôn có sự kết hợp giữa vật chất siêu đẳng (linh hồn) và vật chất sơ
đẳng (thể xác) để tạo thành sinh vật sống. Tuy nhiên, không phải Hệ mặt trời
nào cũng có sự sống con ngƣời.
II-THƢỢNG ĐẾ LÀ LINH HỒN HỒI NĂNG CỦA VŨ TRỤ
Vũ trụ là một cá thể sống, có linh hồn và thể xác. Linh hồn đó chính là Thƣợng
đế vĩ đại-Đức Đại Từ phụ, Đại Linh quang của chúng ta.
Thƣợng đế là linh hồn duy nhất (mang tính bao trùm) trong Vũ trụ.
Vũ trụ có bao nhiêu thế giới vật chất, ở các dạng vật chất khác nhau, thì ở đó có
linh hồn hồn ngự trị, tức Thƣợng đế ngự trị. Nhƣ vậy, Ngƣời có mặt khắp nơi, và
ở mọi nơi có sinh linh. Nhƣ đã nói, tổng thể vật chất bao gồm các vật chất tạo
nên, tổng thể bao gồm các cá thể. Thƣợng đế cũng vậy, là tổng thể của các cá thể
gộp lại. Có nghĩa Ngƣời bao gồm tất cả chúng ta và các sinh linh khác.
Chúng ta “tạo thành” và là một phần của Ngƣời. Ngƣời là chúng ta, chúng ta là
Ngƣời. Giống nhƣ cơ thể vậy, đầu, chân, tay tạo thành thể xác, là phần thể xác.
Nhƣng phải hiểu rõ: Có sự tồn tại mang tính tƣơng đối ở đây. Đó là: Thƣợng đế
là trung tâm linh quang của Vũ trụ, là linh hồn vĩ đại, chỉ đạo toàn Vũ trụ. Linh
hồn chúng ta là những phần tử vật chất nằm trong khối linh quang đó, chứ cá thể
ta không phải là một khối (tức Thƣợng đế). Cách nói “Thƣợng đế là ta, ta là
Thƣợng đế” là cách nói trừu tƣợng mà thôi. Có nghĩa, chúng ta là một bộ phận
không thể thiếu của Thƣợng đế.
Thƣợng đế là một khối linh quang vĩ đại-linh hồn vĩ đại. Về mặt tổ chức: Đó là
tổng hợp một khối vật chất siêu đẳng, gồm toàn thể các chuỗi hạt và sóng có
các cấp chứa thông tin trí tuệ vô biên của Tạo hoá.
Về mặt hình dạng: Hình ảnh Thƣợng đế với sự bất tử là hoàn mỹ, đẹp đẽ, sáng
láng và hoàn thiện tuyệt vời; là hình ảnh của con ngƣời khi đã phát triển hoàn
thiện hoàn toàn vào thời kỳ cuối phổ giáo và tiến hoá cuối cùng toàn nhân loại.
Với ngƣời trần gian, thì Ngƣời là vô hình vô ảnh. Ngƣời bao bọc và ngự ở trung
tâm Vũ trụ, là một vầng sáng hiền hoà nhất, tạo ra sáng láng cho con ngƣời-vầng
142
sáng đó có ở mỗi chúng ta, tiếp năng lƣợng sống cho chúng ta, đó là trí tuệ của
linh hồn sinh hoá luân hồi.
Thƣợng đế là một khối trí tuệ-một khối tƣ tƣởng lớn. Khối tƣ tƣởng này ở cảnh
gipí cao nhất, có sự huyền diệu linh thiêng và đẹp đẽ hoàn mỹ nhất. Nên Ngƣời
là chúa tể của mọi sự sáng tạo tốt đẹp. Tức là Ngƣời tạo ra các khối hình tƣ
tƣởng, muốn gì có đó; do đó Ngƣời tạo ra cõi Trời (Thƣợng Thiên) một thế giới
tuyệt đẹp, hoàn mỹ nhất. Ở đó là thế giới đại đồng, đại thiện, đại trí tuệ, minh
triết-là Thiên đƣờng vĩ đại, đẹp đẽ vô biên hƣ không vô tận. Đây chính là tƣ
tƣởng mà Thƣợng đế truyền dạy cho các sinh linh, con ngƣời. Ngƣời vạch ra con
đƣờng tiến hoá duy nhất để con ngƣời tiến hoá, để phát triển nấc thang cao nhất
về mặt xã hội vật chất, thể xác và linh hồn, là: Xây dựng một thế giới đại đồng
trên quả đất, con ngƣời tự hoàn thiện để trở về với Thƣợng đế-đó là hình ảnh
thực của Thƣợng đế.
Thƣợng đế từ tâm, đại lƣợng vô cùng. Ngƣời giáo hoá nhân linh (con ngƣời)
bằng các đạo giáo để con ngƣời hoàn thiện. Tuỳ từng giai đoạn phát triển của
con ngƣời trong lịch sử loài ngƣời, trong đó có tiến hoá về mặt trí tuệ, tƣ tƣởng,
xã hội, vật chất, mà Ngƣời giáo hoá bằng các đạo giáo khác nhau, tiến bộ theo
Chân Lý của Ngƣời.
Bằng cách này hay cách khác, Ngƣời dạy con ngƣời về điều đó: Cho các thiên
thần (Thiên sứ) xuống đầu thai, hoặc trực tiếp chỉ bảo loài ngƣời. Con ngƣời đấu
tranh để tìm ra chân lý. Bản mặt sáng tối của tƣ tƣởng con ngƣời chƣa tiến hoá
hết, tạo ra thiện ác, tạo ra các tƣ tƣởng khác nhau, chính điều này làm cho thế
giới
Loài ngƣời hỗn độn vô cùng. Nhƣng theo thời gian lâu dài, con ngƣời càng tiến
hoá, nhận thức khoa học càng phát triển, trí tuệ thăng tiến, xã hội hoàn thiện, thì
Chân Lý ấy càng sáng rõ. Và theo qui luật tất yếu: Con ngƣời sẽ đoàn kết thành
một khối, và đến lúc hoàn mỹ thì trở về với Thƣợng đế, cũng là xây dựng xong
lý tƣởng, Chân Lý thành hiện thực.
Thƣợng đế không hoàn toàn sáng tạo ra thế giới vật chất (ở khái niệm toàn thể).
Vì bản thân vật chất là cơ thể của Thƣợng đế, làm sao mà Thƣợng đế tự tạo ra
toàn bộ cơ thể mình? Về mặt sáng tạo tuyệt đối, Thƣợng đế không tạo ra đƣợc
chính mình, bởi vì Đại Vũ trụ từ hƣ vô mà thành, và Ngƣời là một phần của Đại
Vũ trụ. Nhƣng về mặt sáng tạo tƣơng đối, Thƣợng đế có thể tự cải tạo mình-và
cải tạo là một phần quan trọng của sự sáng tạo. Thƣợng đế cải tạo bản thân nhƣ
chúng ta cải tạo bản thân vậy: Nhƣ tự nâng cao trí tuệ, rèn luyện thể lực; thậm
chí có thể làm mất đi một phần thân thể và một phần linh hồn của mình.
Chúng ta là một phần nhỏ bé của Ngƣời, Ngƣời có thể cải tạo đƣợc chúng ta.
Ngƣời gia ân, phạt ác, giáo hoá con ngƣời (linh hồn và thể xác) để con ngƣời
hoàn thiện. Ngƣời còn cải tạo đƣợc thế giới tự nhiên hữu hình vật chất thông qua
tƣ tƣởng và hành động của con ngƣời. Ở mức thƣợng thừa, Ngƣời tạo ra các
143
năng lực trong tự nhiên ( dồn mây, đuổi gió, tạo ra các tai dị, hoặc làm biến ảo tự
nhiên). Do đó: Chúng ta có thể gọi ngƣời là Đấng Sáng tạo trong Vũ trụ của
chúng ta; giống nhƣ con ngƣời: Có thể xây, trồng, cấy, lạincó thể đập phá đi, tàn
sát, lại có thể tạo ra mƣa, gió nhân tạo; tạo ra các con giống, giống cây trồng
mới.
Vậy con ngƣời có tham gia sáng tạo thế giới không? Có. Vậy con ngƣời là ai? Là
một phần của Thƣợng đế. Vậy Thƣợng đế thông qua con ngƣời cải tạo thế giới
đấy thôi.
Phải nói rõ điều này: Thƣợng đế tạo ra con ngƣời đƣợc. Con ngƣời thuộc về
Thƣợng đế, cho nên Ngƣời có thể cải tạo và định đƣợc số phận của con ngƣời,
thông qua qui luật đặc biệt, huyền nhiệm của Ngƣời.
Ngƣời dùng sự siêu linh để điều chỉnh các vấn đề tồn tại và phát triển của con
ngƣời cho đúng với qui luật của tự nhiên, cũng chính là đúng qui luật của đấng
siêu minh Đại Thƣợng đế. Đó là: Cái tốt, cái đẹp, cái thiện sẽ phát triển lên cao (
tính chung, tất yếu). Ngƣời có thể tạo ra, điều chỉnh một số phận, một đời sống
cụ thể của một sinh linh, cho sinh linh đó tồn tại bao lâu, thì linh hồn trở về; gia
ân, phạt ác, xây dựng tác thành hay huỷ bỏ, phá hoại, tác động hoàn toàn đến
vòng quay luân hồi của các kiếp sinh linh trong quá trình tiến hoá trở về với
Thƣợng đế.
Vậy theo nghĩa hẹp này, Thƣợng đế tạo ra con ngƣời (Theo nghĩa tạo ra quá
trình luân chuyển của con ngƣời trong Vũ trụ, bằng sống, chết, đầu thai, lên các
cảnh giới khác nhau, tồn tại ở trần gian, cho đi các thế giới khác, cho đầu thai ở
các loài khác nhau). Gắn với quá trình ấy, con ngƣời có các hình dạng, tố chất,
tính dạng cấu tạo khác nhau, phù hợp với qui luật tự nhiên của Đấng Sáng tạo và
theo ý chí của Thƣợng đế. Nhƣ vậy, ở nghĩa này, Thƣợng đế tạo ra con ngƣời và
các sinh linh các loài khác.
Còn ở phần vật chất sơ đẳng nhƣ: Đất đá, kim loại, các chất vô cơ…ở thể dạng
vô tri so với con ngƣời, linh hồn của chúng tồn tại ở dạng sơ khai, cấp độ phân
tử-“ghi nhớ và suy nghĩ‟ ở cấp phân tử, nguyên tử. Có thể nói ở thể dạng vô tri
là không có linh hồn? Nếu coi đó là dạng trí tuệ sơ khai.
Thƣợng đế có tác động thông qua sự sinh, sự diệt, sự vận động của chúng; chúng
là một phần cơ thể của Vũ trụ.
144
Là Đấng siêu linh, nên Thƣợng đế nhận thức đƣợc toàn bộ những qui luật tự
nhiên ( của cơ thể, linh hồn mình-giống nhƣ con ngƣời nhận thức về bản thân
vậy). Ngƣời không có tính dự đoán nhƣ con ngƣời, mà Ngƣời nắm đƣợc toàn bộ
những sự biến hoá, luân chuyển của quá khứ, hiện tại, tƣơng lai Vũ trụ. Với
Ngƣời, tƣơng lai là quá khứ, quá khứ là tƣơng lai; hiện tại là tƣơng lai hoặc quá
khứ, vì không-thời gian tròn, chồng lấn lên nhau, Vũ trụ vận động xoay tròn,
Thƣợng đế bất tử trong toàn bộ không thời gian vô cùng vô tận.
Cho nên các qui luật đó đảo lộn hỗn hợp biến hoá khôn cùng. Cả không-thời
gian thuộc về Ngƣời. Các khái niệm hiện tại, tƣơng lai, quá khứ chỉ là thứ nhận
thức của con ngƣời mà thôi. Tạo hoá vẫn vũ biến ảo, vô giới hạn.
Thế giới hiện tại của loài ngƣời hôm nay, là hiện thực của Thƣợng đế tạo ra, trải
qua ngàn đời từ lâu lắm rồi. Trái đất này đã trải qua nhiều kiếp, không phải bây
giờ chúng ta mới phấn đấu xây dựng Đại Đồng, mà ở Vũ trụ này, đã hình thành
các thế giới đó từ lâu lắm rồi. Tức là Thƣợng đế đã hoàn thiện từ lâu lắm rồi về
mặt xã hội loài ngƣời. Trái đất của chúng ta là một trong vô số các quả đất có
trong Vũ trụ này. Họ có thể đi trƣớc hoặc đi sau chúng ta. Nhƣng Thƣợng đế
không có thời gian, vì các thể của thời gian, Thƣợng đế cùng tồn tại đồng thời và
biến hoá vô lƣờng vô biên. Nhƣ vậy, ngay tại thời điểm mà chúng ta sẽ xây dựng
thế giới đại đồng-lúc này, với Thƣợng đế thì Ngƣời đã có rồi! Và toàn bộ quá
trình lịch sử của con ngƣời trên trái đất này, Ngƣời biết rõ, hãy hiểu là Ngƣời tạo
ra. Và đó là điều bí ẩn của con ngƣời. Chỉ có các sứ giả của Ngƣời, hoặc ngƣời
đƣợc khai mở linh năng mới nhìn thấu đƣợc cả quá khứ, tƣơng lai, hiện tại. Đó là
những ngƣời có khả năng ngoại cảm, tu hành đắc đạo, tu thiền đắc cách.
Điều này còn có nghĩa: Với một con ngƣời và quá trình tiến hoá của anh ta từ
các kiếp khác nhau, Thƣợng đế đều biết rõ, và sắp đặt anh ta đi đúng qui luật của
Ngƣời. Ngƣời đang sở hữu chúng ta, đang nhìn thấy chúng ta ở mọi thời điểm và
ở lúc thế giới đại đồng.
Loài ngƣời có thể đặt câu hỏi: Thƣợng đế có trƣớc, hay con ngƣời có trƣớc. Nhƣ
đã nói, con ngƣời có hai phần: linh hồn và xác phàm-đều là vật chất. Thƣợng đế
“chia” chính mình ra, trong đó có linh hồn con ngƣời. Vậy ở đây phải hiểu,
chúng ta-tức con ngƣời (linh hồn cụ thể hoặc theo nghĩa chung) cùng tồn tại và
bất tử cùng Thƣợng đế ở mọi thời gian. Có nghĩa, các thiên thần được tồn tại
cùng linh hồn gốc ngay từ đầu, trong tổ hợp Nguyên năng gốc. Linh hồn con
ngƣời phân hoá từ đó ra. Nếu nói đƣợc tái-tạo ra từ nguyên gốc là đúng. Ở nghĩa
hiểu này thì linh hồn con ngƣời đƣợc tạo ra theo các chiều kích không thời gian
khác nhau trong tiến hoá vận hành Vũ trụ. Nhƣng nhấn mạnh điều này: Thƣợng
đế tạo ra linh hồn, thì Thƣợng đế có thể diệt vĩnh viễn linh hồn.
Ở đây có một câu hỏi nữa: Vậy, khi Ngƣời thấy một con ngƣời trong toàn bộ quá
trình tiến hoá của linh hồn và thể xác nhƣ vậy, thì con ngƣời đó là một hay nhiều
ngƣời khác nhau? Xin nói ngay, đó chỉ là một con ngƣời duy nhất, gắn với qoàn
145
bộ quá trình tiến hoá. Ở các thời kiếp khác nhau, anh ta mang xác thân, tƣ tƣởng,
trí tuệ, giới tính khác nhau, nhƣng vẫn linh hồn “cũ” ấy. Linh hồn tiến hoá giống
nhƣ một đứa trẻ lớn dần lên; ở mỗi thời điểm, nó suy nghĩ, trí tuệ, hình dáng, bộ
mặt, hành động khác nhau, nhƣng nó vẫn chỉ là linh hồn ấy. Có thể hiểu anh A
kiếp trƣớc là nhà giáo, kiếp này là một nông dân, hoặc tiến hoá thay đổi các nghề
nghiệp khác…hoặc vào thời đại đồng, anh ta là một nhà tƣ tƣởng, hay giáo sƣ; (
Hoặc sau này mãi mãi, anh ta tiến hoá trở lại thành các hành tinh, hệ mặt trời,
cao hơn là các Thiên hà, hay Vũ trụ mới…Đó là hoàn tất quá trình tiến hoá của
vật chất. Linh hồn đại thể tan rã nhỏ ra, cho đến cấp vi mô, siêu vi mô, dƣới cấp
lƣợng tử hiện nay mà khoa học đã biết, cho đến cấp dƣới hạt quak, graviton,
Nguyên hạt Trung Phƣơng, rồi từ Nguyên hạt này tạo ra tất cả, biến hoá thành
tất cả; tiến hoá thành bé đến lớn, thành lớn đến bé, thành Vũ trụ). ( Mới ).
Thƣợng đế đã nắm rõ về số phận này.
Vậy số phận có phải là định sẵn không? Với một quá trình dài dằng dặc hàng
vạn năm ấy, là định sẵn. Với Thƣợng đế là định sẵn, còn với con ngƣời là không
định sẵn. Tại sao: Vì trong kiếp nghiệp cụ thể, anh ta phải phấn đấu theo qui luật
có sẵn ấy, và do tính chất tƣơng đối của quan hệ vật chất siêu đẳng với vật chất
sơ đẳng, thì anh ta có thể làm biến đổi một phần qui luật ấy, do tính biến đổi của
quá trình nhân quả, tức là quá trình biến hoá phát sinh phát triển và xâu chuỗi
của các nguyên nhân, sự kiện, làm hình thành các hệ biến quả của qui luật đồng
thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu-mà thực chất là sự sắp đặt có tính chất tự
do của vật chất trong quá trình chúng liên tục biến đổi, biến dị. Anh ta hoặc làm
nhanh, hoặc làm chậm lại quá trình tiến hoá của chính mình bằng các nghiệp quả
do anh ta tạo ra. Vậy anh ta có thể chủ động thay đổi con đƣờng lịch sử ấy, giống
nhƣ chọn đƣờng đi về đích vậy.
Thƣợng đế khuyến khích phù âm tiếp sức cho điều đó theo hƣớng tiến bộ. Con
đƣờng duy nhất là phấn đấu theo Chân Lý của Thƣợng đế, theo các đạo chân
chính của Thƣợng đế. (Ở đây, hiểu đạo-nhƣ một sự lựa chọn, một con đƣờng,
hay một phƣơng pháp để tiến hoá linh hồn, tuân theo định luật Vũ trụ nhất định-
tức Chân Lý và hƣớng tiến triển của con đƣờng tiến lên ánh sáng cao, cảnh giới
cao, hoặc thế giới cao hơn).
Nên nhớ: Qui luật nhân quả với phép gia ân phạt ác của Thƣợng đế không bỏ
xót bất cứ sinh linh nào trong cõi trần này. Mục đích là làm cho con ngƣời luân
chuyển tiến hoá.
III-BA QUI LUẬT LỚN CỦA VŨ TRỤ
1-Qui luật Vũ trụ thống nhất ( Vũ trụ là Một).
2-Qui luật Vận động và Phát triển không ngừng.
146
3-Qui luật Nhân quả.
Ba qui luật hợp nhất, thành Đạo Trời (Luật Trời- Định luật vũ trụ chung ).
( Đây là phát hiện đặc sắc nhất của Trung Phương Thiên Tôn-chấm dứt sự
huyền bí, sự bí hiểm của khái niệm“ Đạo Trời”, mà các vị giáo chủ trước
thường nói mập mờ khó hiểu, hoặc giải thích không đầy đủ).
* Qui luật là gì?
Là sự hợp hoá và vận hành tất yếu theo một thể thức chặt chẽ không thể đảo
ngƣợc, không có loại suy, không có thay thế, trong đó các mặt nội dung của nó
thống nhất về bản chất, hiện tƣợng. Tính chất tồn tại là lặp đi lặp lại các bản
chất, hiện tƣợng trong sự vận động xoáy trôn ốc.
Trong vũ trụ, có rất nhiều các qui luật khác nhau, mang các nội dung khác
nhau, có tính phổ biến. Qui luật lớn là qui luật phổ biến và bao trùm.
Ba qui luật lớn, vĩ đại này, bao trùm toàn bộ sự vận động, phát triển, diệt vong
của Vũ trụ; nó qui định ở mọi mặt trong mọi sự vật hiện tƣợng của Vũ trụ, biểu
hiện ở mọi nội dung, hình thức, không gian, thời gian, hiện tại, quá khứ, tƣơng
lai, các mặt bản chất, hiện tƣợng.
*Đạo Trời: Tức là ba qui luật này, vốn khi sinh ra Vũ trụ, nó đã có rồi. Nó là
thứ bản nguyên của Vũ trụ, là thuộc tính tất yếu của tự nhiên, tức là không ai
sinh ra nó, mà nó là nguyên nhân, cũng là kết quả. Mọi sự vật hiện tƣợng nằm
trong phạm vi qui định của nó chỉ tuân theo nó, không thể khác. Thƣợng đế
không sinh ra các qui luật ấy, nhƣng ở tính toàn thể, Ngƣời đại diện cho qui luật
ấy, và Ngƣời thực thi qui luật ấy.
Qui luật 1 ( Vũ trụ thống nhất ): Qui định nội dung và hình thức.
Qui luật 2 ( Vận động và phát triển không ngừng ): Qui định động lực tồn
tại.
Qui luật 3 ( Nhân quả): Qui định sự chuyển hoá.
Thiếu một trong ba qui luật này, không thành, không tồn tại vũ trụ và bất cứ
thuộc tính, sự vật hiện tƣợng nào!
Đây là phát hiện, có tính sáng tạo mới nhất về nguyên lý của Vũ trụ. Ba qui luật
này sẽ xuyên suốt toàn bộ hành động của loài ngƣời, coi đó là phƣơng pháp
luận mới trong tƣ duy, hành động.
QUI LUẬT THỨ NHẤT: VŨ TRỤ THỐNG NHẤT
( Sự thống nhất của Vũ trụ )
Nhƣ chúng ta đã biết, Vũ trụ sinh ra từ một bản nguyên duy nhất, bản nguyên
này: Là linh hồn phân cấp từ Đại Vũ trụ, sau đó đƣợc biến hoá thành một đại
147
khối Nguyên năng, phân tính rõ ràng, có đầy đủ ý thức và co lại trong một
chuỗi các hệ không phân chia về Nguyên hạt đồng nhất Trung Phƣơng. Đại
khối này trƣớc đó đã co lại trong lòng Đại Thƣợng đế, với khối lƣợng tới hạn
và cực nặng; sau khi đƣợc phân cấp, nâng cấp và nhận lệnh biến hoá thành lập
Vũ trụ, linh hồn này đƣợc phát phóng ra từ Trung tâm Thần lực Đại Vũ trụ, đạt
độ cƣỡng bức vật lý và giao hoà Nguyên Lý cân bằng bên ngoài thể vía của Đại
Vũ trụ, thì bắt đầu phân chia-có thể bùng nổ vật lý hạt, hoặc không bùng nổ
(tức là có hoặc không có bất cứ vụ nổ lớn nào)-Nhƣng quá trình ban đầu khi
Tâm Trƣờng thay đổi, các Nguyên hạt Trung Phƣơng bắt đầu phân rã mạnh, thì
Vũ trụ sinh ra trong một phản ứng vật lý-hoá-sinh của nguyên tử, và tạo ra
chuỗi dây chuyền phân hoá liên tiếp, tạo ra muôn vật, vận động và tiến hoá
không ngừng cho đến ngày nay.
Do đó, dù to, dù nhỏ, đơn giản hay phức tạp, thì Vũ trụ vẫn chỉ là MỘT! Và
duy nhất Vũ trụ-với tƣ cách là một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, tuyệt đối,
không chia rẽ.
* Là một chỉnh thể hoàn chỉnh: Tức là một chỉnh thể toàn vẹn, độc lập, bao
gồm cấu tạo của các bộ phận tạo nên nó và đúng là nó, với sự thống nhất tuyệt
đối của các mặt đối lập; các bộ phận cấu thành quan hệ chặt chẽ, khăng khít,
liên hệ tuyệt đối, dựa vào nhau và tƣơng hỗ cho nhau để cùng tồn tại.
Mọi bộ phận của chỉnh thể ấy đều có đƣợc, sinh ra và tồn tại theo một cơ duyên
chặt chẽ, không thừa, không vô lý.
Mọi bộ phận liên hệ chặt chẽ với nhau và cùng chung một thiên tố để tồn tại,
đó là: Sự cấu tạo về mặt cấu trúc. Cấu trúc chung cho mọi sự vật hiện tƣợng
của Vũ trụ.
* Là một chỉnh thể thống nhất: Giống nhau về sự tồn tại của hình tố: Mức
tồn tại cấu trúc, hệ số giống nhau, vận động theo qui luật giống nhau.
Thống nhất các mặt đối lập: Sau khi linh hồn Thƣợng đế (Nguyên Thủy)bắt đầu
quyết định phân chia, sau khi hình thành Đạo trƣờng từ Tâm trƣờng, các
Nguyên hạt biến đổi từ lực đẩy của Đại khối Nguyên năng, bắt đầu phóng phát
các dây Trung Phƣơng ra xung quanh…Các cấu trúc lƣợng tử liên tiếp phân
hoá. Đạo trƣờng biến đổi, làm cho phóng ra các linh hồn gốc là các Đại thiên
hà. Bảy trung tâm thần lực đại cổ Tổng thiên thần Đại thiên hà hình thành thể
dạng ban đầu…Ta bắt đầu ban thần lực của Ta thành các con…
Chuỗi các đại thiên hà (sơ khai) hình thành theo nhịp thở (dịch chuyển)Vũ
trụ…Một khi chuỗi đó hình thành theo tình yêu vô bờ bến, sự hoan hỉ an lạc
đến vô cùng, từng nhịp điệu của Ta ban rải thần huệ, hình thành các chuỗi
Thiên hà ban đầu trong ánh sáng của sự kỳ diệu sắp xếp theo trật tự của
Nguyên Lý Trung Phƣơng, nơi mà các chỉ số AND Vũ trụ của Ta đƣợc phân
chia cân bằng, đối lập, mang hơi thở và trí tuệ Vũ trụ; nhịp điệu phân hoá sau
148
cùng và cũng là đầu tiên. Nơi mà các linh hồn đƣợc sinh ra trong Bảy Nhịp
muôn đời của Vũ trụ…
Thân thể Vũ trụ sau đó hình thành từ hai mặt chính của bản nguyên có cấu tạo
từ e-( electron) và n+( nơtron). Từ hai mặt này, khi Vũ trụ phát triển, thì nó qui
định ở cấu tạo của mọi sự vật hiện tƣợng một cách tuyệt đối, mọi sự vật hiện
tƣợng đều có hai mặt âm-dƣơng ( Ta gọi là hai mặt đối lập), nhƣng quan hệ
chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có cái này thì không có cái kia,
không có cái này thì cái kia không còn phát triển, không còn tiến hoá, mà nó
chuyển sang một hình thức khác, tên gọi khác, không mang bản chất cũ nữa.
Ví dụ: Sự sống-chết của thể xác, thiện-ác, tiến bộ- lạc hậu, âm- dƣơng, sáng -
tối, trẻ-già, giàu–nghèo, tƣơng lai-quá khứ, vị tha-cố chấp, to-nhỏ, lớn-bé…Ở
giới Thiên linh là: Cha (Thƣợng đế) là Vũ trụ: Gồm thể xác đơn giản và vật
chất siêu đẳng (linh hồn). Thƣợng đế về mặt vật chất siêu đẳng gồm: Thần,
thánh, tiên , phật, các vong nhân thiện, và quỉ ma, tà ác…Ngƣời là chúa tể của
tất cả các giới trong thiên linh, sinh ra giới thiên linh. Thiên linh bao gồm vạn
giới linh hồn, các cấp bực từ cây cỏ đến con ngƣời…Vậy trong Thƣợng đế tất
yếu có hai mặt của Vũ trụ: Ngƣời bao gồm cả thiện-ác, sáng tối, thần tiên-ma
quỉ…Nhƣng vì Ngƣời chủ tạo lập tiến hoá, nên là chủ Thiện, chứ không chủ
ác. Tính ác chỉ là một phần của Ngƣời do bọn quỉ vƣơng nắm giữ. Từ bi không
ai bằng Trời( ở tính Phật), nhƣng trừng phạt, tiêu diệt thì cũng không ai bằng
Trời! Ta hiểu rộng hơn là qui luật (luật Trời) vậy. Bọn ma quỉ các loại cũng là
con của Ngƣời. Có thần phật thì cũng có ma quỉ, trƣớc khi thành phật, thì phải
đã là ma quỉ, có khi thần tiên cũng hoá ma quỉ chứ không sai! Nhƣng ma quỉ bị
Ngƣời chi phối.
Trong một con ngƣời cũng luôn luôn có hai phần thiện-ác, ma quỉ-thần tiên,
tính phật-tính ma, các phần tƣ tƣởng luôn luôn có mặt đối lập, mọi thành tố tạo
thành vật chất sơ đẳng( thể xác) và vật chất siêu đẳng (linh hồn) luôn luôn tồn
tại các mặt đối lập.
(Học thuyết âm-dƣơng của phƣơng Đông đƣa ra nhận thức hai mặt đối lập
hoàn toàn chính xác; nhƣng cần bổ sung bằng nguyên lý khoa học lƣợng tử
hiện đại ở trên để hoàn chỉnh về cấu trúc nguyên-phân tử. Phần sau sẽ nói: tƣ
tƣởng con ngƣời cũng cấu tạo bằng vật chất).
Chỉnh thể này về mặt số học, thì thống nhất bởi các số. Từng bộ phận hợp nhau
thì giống nhau về số: Ví dụ thời gian-không gian-con ngƣời thống nhất ở số học
là 365, 12, 7, 9, 18, 36, 72, 81, 108. Trái đất xoay tròn quay xung quanh mặt
trời một vòng là 365 lần xoay ( 365 ngày), thì con ngƣời có 365 đốt xƣơng, 365
lạc huyệt, 108 huyệt quan trọng, 36 huyệt tối quan trọng, trong đó có 7 huyệt (
7 luân xa ) thông thiên, 7 lỗ trên cơ thể, 7 sao trong chòm Bắc cực. 1 năm có
12 tháng, cơ thể ngƣời có 12 đƣờng kinh chính, trái đất có 12 cung hoàng đạo.
149
Số 9 là số cực: 9 cảnh giới, 9 phƣơng trời, 9 tháng mang thai, 9 hành tinh trong
hệ mặt trời (Kim-mộc-thuỷ-hoả -thổ-trái đất-hải vƣơng-thiên vƣơng-diêm
vƣơng tinh)….
Trong bản nguyên gốc của tế bào phân tử mọi vật, đều cấu tạo từ các nguyên
tử, điện tử. Mọi vật đều có cấu tạo từ các nguyên tử mà thành. Các nguyên tử
thống nhất ở qui luật vận động và tồn tại với tƣ cách là một chỉnh thể của hai
mặt đối lập.
Thống nhất về sự vận động: Trong không gian và thời gian, các sự vật hiện
tƣợng Vũ trụ thống nhất: Vận động ngƣợc chiều kim đồng hồ. Đây là chiều vận
động để tồn tại của mọi vật chất. Tuy nhiên: Theo qui luật dƣơng giáng, âm
thăng; vậy khi đi lên thì theo chiều ngƣợc, khi đi xuống thì theo chiều thuận
kim đồng hồ.
Tất cả đều ở dạng vận động xoay tròn, có cấu tạo dạng tròn-là tuyệt đối; còn
các thể dạng khác là tƣơng đối.
Thời gian-không gian là xoay tròn, nên có thể nhận thức, tìm lại, gặp lại mọi
thời điểm của không thời gian.
Chu trình tiến hoá, vận động, chuyển hoá theo qui luật xoáy trôn ốc, bƣớc sau
cao hơn bƣớc trƣớc. Theo qui luật chung là mọi sự vật hiện tƣợng đều có sinh
trụ dị diệt, mọi sự vật hiện tƣợng đều tiến hoá, phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chƣa hoàn thiện đến hoàn thiện, theo qui luật và các
yếu tố trong chính bản thân nó.
Các bộ phận của Vũ trụ có mối quan hệ tuyệt đối với nguồn gốc của nó, gốc
chính là nguồn nguyên năng Vũ trụ-tức là Thƣợng đế. Tại sao? Vì nguyên năng
gốc cung cấp năng lƣợng tồn tại và chuyển hoá cho mọi sự vật hiện tƣợng,
trong sự thống nhất tuyệt đối đó. Ví dụ: Con ngƣời khi sinh ra, nhận năng
lƣợng của Vũ trụ thông qua các luân xa, các luân xa này tập trung thống nhất lại
thành một đƣờng, chạy từ dƣới lên trên, qua huyệt Bách hội tại đỉnh đầu để liên
hệ vào Vũ trụ, trông đƣờng này nhƣ một sợi dây bạc, kéo lên không trung. Khi
con ngƣời chết, tức là sợi dây này bị đứt, hồn tách khỏi xác, bay lên, thể xác
chấm dứt đƣợc tiếp năng lƣợng Vũ trụ, nên tan rã.
Các bộ phận của Vũ trụ có mối quan hệ tƣơng đối với nhau, trong chỉnh thể
chung; tức là: chúng không sinh ra nhau, mà quan hệ biện chứng với nhau, có
thể làm chuyển hoá nhau. Vì không sinh ra nhau, nên không quyết định đƣợc sự
sinh của nhau, giống nhƣ anh em trong một gia đình, hay chân với tay vậy. Các
thần thánh, tiên, phật, quỉ ma, con ngƣời đang sống cũng thế; lại có thể tiêu diệt
lẫn nhau, làm chuyển hoá nhau, thông qua cuộc đấu tranh giữa các thành tố có
tính cách đối lập.
Vì Vũ trụ luôn có hai mặt thuộc tính âm-dƣơng ( Ta gọi là hai mặt đối lập
chính) bản nguyên, tạo ra các mặt đối lập của mọi sự vật hiện tƣợng khác. Sự
tồn tại của mặt đối lập kia, đối với mặt đối lập này là tất yếu, xong chúng có thể
150
chuyển hoá, tác động, đấu tranh, dị trừ và tiêu diệt nhau, đó chính là qui luật
“thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” mà C.Mác đã chỉ ra rất đúng-là
động lực của sự phát triển. Đây là một qui luật nhỏ, bị qui định và nằm trong
trong qui luật Vũ trụ thống nhất.
( Ghi chú: Nguyên Lý Trung Phƣơng về phần hình thành Vũ trụ, phân hoá Vũ
trụ và thống nhất vật lý lƣợng tử-đọc trong Trí Kinh)
QUI LUẬT THỨ HAI: VŨ TRỤ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN KHÔNG
NGỪNG
* Vũ trụ luôn luôn vận động phát triển theo phƣơng thức: vận động liên tục,
vận động để tồn tại, vận động để chuyển hoá và tiếp nhận năng lƣợng, vận động
theo chiều xoay tròn, ngƣợc chiều kim đồng hồ. Đây là sự vận động tuyệt đối,
mọi chiều khác đều tƣơng đối. Đứng im chỉ nhất thời, tƣơng đối-thƣờng khi vừa
ở chế độ xác lập mới, ổn định bản chất mới, sau đó chuyển hoá tiếp (vận động
tiếp).
Vận động của mọi sự vật hiện tƣợng trong Vũ trụ diễn ra đồng thời trên bề
mặt của vô số chiều không-thời gian của chính chúng và Vũ trụ.
Khi vận động, mọi sự vật hiện tƣợng tiếp nhận năng lƣợng từ Đại vũ trụ,
trong Vũ trụ, chuyển hoá năng lƣợng ( từ dạng này sang dạng khác), đồng thời
cũng làm tiêu tốn năng lƣợng cho sự vận động, phát triển. Sự tiêu tốn này làm
Vũ trụ, sự vật hiện tƣợng già đi, cho đến tan rã, chia tách. Nhƣng chia tách chỉ
mang tính cá thể, tƣơng đối, hợp nhất là tuyệt đối.
Riêng với con ngƣời: Sự vận động và chuyển hoá của các kiếp của linh hồn
cũng thế, nhƣng là giới linh cao nhất (mang xác, đổi xác) của Cha, nên con
ngƣời đã tự cải tạo Vũ trụ, và đến lúc này, khi có con ngƣời, Vũ trụ mới tự cải
tạo đƣợc. Hay nói một cách khác: Xã hội con ngƣời là đỉnh cao của sự tiến hoá
trong vũ trụ. (Lƣu ý: Con ngƣời tồn tại trong cả các hệ tinh thể cao cấp-còn
mang xác, nhƣng có thân thần thánh trong các cõi cao hơn, thì vẫn gọi là con
ngƣời-không tính đến khi linh hồn đầu thai thành các hành tinh).
* Phát triển: Vũ trụ phát triển từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, theo
qui luật chuyển hoá: Đạt cực đại thì chuyển thành dạng hoặc hình thức, nội dung,
bản chất khác; giai đoạn sau đƣợc tạo lập và bị chi phối bởi giai đoạn trƣớc, và
có mối liên hệ xuyên suốt giữa các giai đoạn trong không-thời gian ( đây
chính là qui luật nhân quả). Mọi giá trị, nội dung của các giai đoạn tồn tại đồng
thời trong không-thời gian. Nói nhƣ thế, các nhà khoa học thô mộc hiện không
thể hiểu đƣợc! Do đó, mọi sự vật hiện tƣợng phải tuân theo qui luật nhân quả. Ta
hiểu đó là qui luật chuyển hoá. Qui luật lƣợng chất chỉ biểu hiện một phần nhỏ
151
của qui luật này. Tại sao? Vì không đề cập đƣợc các giá trị còn tồn tại vĩnh viễn
của quá khứ trong không-thời gian bốn chiều-đến nhiều chiều! Không phải thành
cái mới rồi thì cái cũ mất đi! Mà “cái áo cũ” còn nguyên vẹn và đƣợc Vũ trụ lƣu
giữ!
Giữa các mặt lƣợng-chất, chuyển hoá thành nhau, đều là thuộc tính của qui luật
lớn là vận động và phát triển không ngừng.
Phát triển là tuyệt đối, đồng nghĩa với nó là sự tiến hoá, tiến bộ, đi lên. Nhƣng
phát triển trên nền tảng của sợi chỉ đỏ ( hay trục dọc xuyên suốt) là Chân-Thiện
-Mỹ. ( đọc phần Chân- Thiện -Mỹ -đạo Hằng của Thƣợng đế). Nền tảng này
quan trọng, không đảo ngƣợc, chi phối đến toàn bộ sự tồn tại của Vũ trụ. Cái gì
phù hợp với tiến hoá thì tồn tại và ngƣợc lại. Tại sao Chân-Thiện-Mỹ ( gọi
chung là đạo đức) lại quan trọng đến nhƣ vậy? Vì mọi sự vật hiện tƣợng đều
phát triển từ thấp đến cao, từ chƣa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chân-Thiện-Mỹ
là sự hoàn thiện của Vũ trụ-mà trong tổng thể của nó, đã thành, đã và đang chi
phối, thúc đẩy các phần khác trong Vũ trụ tiến hóa lên-tổng thể ấy chính là
Thƣợng đế vĩ đại của chúng ta!
Nên nhớ: Cái xã hội con ngƣời ở trái đất này, chỉ là một phần cực kỳ nhỏ bé
của –trong Vũ trụ; có nhiều các xã hội có con ngƣời khác trong Vũ trụ tiến hoá
hơn chúng ta gấp triệu lần rồi!
Chân-Thiện-Mỹ là sự hoàn thiện của Vũ trụ-trong mọi sự vật; đó cũng là mục
tiêu của mọi sự vận động. Nó là thể nhẹ-cao-thanh-dƣơng, ngƣợc với nó là
nặng- thấp-trọc-đen xấu-âm. Cái ngƣợc ấy bao giờ cũng kéo cái tốt kia, nhƣng
theo qui luật-cái hoàn thiện-cái siêu-nhẹ tinh vi, gần và có nhiều năng lƣợng
luôn luôn chi phối và chiến thắng cái thấp, xấu-yếu về năng lƣợng hơn! Đó là
nguyên nhân làm cho cái thiện-cái tốt luôn luôn và cuối cùng chiến thắng cái
xấu, tất thảy mọi cái xấu đều là trái qui luật tiến hoá-tất yếu sẽ bị qui luật tự
nhiên tiêu diệt!
Hai thể thức-hình thức đối lập này luôn luôn đấu tranh, chuyển hoá cho nhau.
Nhƣng để tiến hoá thì phải đi lên phía trên, thuộc thể dƣơng, mặt sáng; nơi đó
có nguồn Đại nguyên năng của Vũ trụ-là Thƣợng đế; cho nên, không có cách
nào khác là mọi sự vật hiện tƣợng của Vũ trụ đều cần luôn luôn vận động theo
hƣớng dƣơng đó.
Đỉnh cao của sự phát triển của mọi sự vật hiện tƣợng là trở về với Thƣợng đế
(theo nghĩa lớn); nghĩa nhỏ: hoàn thiện rồi thì chuyển hoá thành cái khác, thứ
khác, không là cái cũ nữa, rồi đi đến lụi tàn. Vũ trụ sẽ lụi tàn và bị huỷ diệt vào
một thời điểm nào đó và sẽ luân hồi trở lại vào một thể trạng khác! Sự luân hồi
ấy lại là một sự phát triển vậy. Sinh cũng là phát triển, chết cũng là phát triển!
Vì mọi thứ chỉ thành cái khác mà thôi.
152
*Chân-Thiện-Mỹ: đạo Hằng của Thƣợng đế-động lực của sự phát triển,
tiến hoá, tiến bộ.
Chân-là chân chính, trong sáng, chính trực, công bình; là sự tu tập để có đạo
hạnh thánh thiện trong tâm hồn. Trong sự vật, thì nó phải biểu hiện ở thuộc tính
của nguyên nhân tồn tại của nó-ấy là cái chính bền-trong sáng của bản thể của
nó.
Có Chân, mới có Thiện; có Thiện mới có Mỹ. Chân là giá trị của bậc thƣợng
lƣơng. Chân nhƣ ánh sáng soi rọi và làm sáng tâm hồn con ngƣời. Khi có nó rồi
thì không sợ tà ma ác quỉ nữa! Vì ác quỉ trong ta, ác quỉ ngoài ta đều khiếp sợ,
kính phục cái Chân ấy.
Thiện là thiện tính và lƣơng thiện ( phân tích trong bài “thiện và ác”), ở đây
nói thêm: Thiện là sự vƣơn tới lên ngang tầm con ngƣời của mỗi con ngƣời. Rõ
ràng, để có Thiện, trƣớc hết phải có Chân. Rồi đến lúc cả ba bổ trợ cho nhau,
quan hệ tƣơng đồng với nhau, là nhau, tạo nên đẳng cấp nhân cách cao quí của
con ngƣời.
Mỹ là cái đẹp, sự hƣớng đến cái đẹp và phấn đấu để làm ra cái đẹp, vì cái đẹp,
tiến lên cái đẹp. Cái đẹp này không đơn giản là mỹ quan đẹp mắt, mà chính là
cái đẹp của sự hoàn thiện tuyệt vời trong tâm hồn, tƣ tƣởng, thể xác, xã hội, thế
giới. Mỹ là cái đẹp thánh thiện, chân chính, hài hoà với cái Chân và Thiện.
Thƣợng đế Chí Tôn vĩ đại của chúng ta là bậc toàn năng về Chân-Thiện-Mỹ.
Ngƣời là tinh hoa cao nhất của Chân-Thiện-Mỹ; và Ngƣời tạo ra Chân-Thiện -
Mỹ. Ngƣời là thành tố có tính qui luật tạo ra sự phát triển, tiến hoá của
vạn vật. Qui luật ấy chính là sự hoàn thiện của vạn vật, trên tiêu chí Chân-
Thiện-Mỹ. Cái đẹp tự nhiên hay cái đẹp cá nhân đều phải trải qua vô vàn nhịp
điệu tiến hoá mới có. Ngƣời là động lực, là nguyên năng, là cái đích, là bậc chủ
trì sự vận động ấy! Về mặt linh hồn, Ngƣời cho chúng ta một tiểu nguyên năng,
với một lƣơng tâm. Trong lƣơng tâm có sẵn ấy, đã có sẵn Chân-Thiện-Mỹ.
Không có lƣơng tâm ấy thì loài ngƣời sẽ bị huỷ diệt, con ngƣời không phát
triển, thế giới lụi tàn! Bởi vì sao? Vì không phát triển đƣợc nữa! Phát triển tiến
bộ có nghĩa là Chân-Thiện-Mỹ còn sống, còn tồn tại và ngƣợc lại!
Cho nên mới nói: Chân-Thiện-Mỹ là đạo Hằng của Thƣợng đế! Đạo Hằng là
hằng số, không đổi, là thứ bất biến, tồn tại muôn năm! Thƣợng đế còn thì Chân-
Thiện-Mỹ còn! Ngƣời không đại diện cho nó, mà sáng tạo, chủ trì và duy trì nó,
nó thuộc về Ngƣời-với tƣ cách là đấng Toàn năng.
Để loài ngƣời tồn tại, đi lên đích cuối, thì không thể không có Chân-Thiện-Mỹ-
cũng có nghĩa là phải có Cha bên chúng ta! Đại Đồng là xã hội có Chân-Thiện-
Mỹ cao nhất, vì con ngƣời ở đó đạt Chân-Thiện-Mỹ cao nhất. Họ lúc đó thành
tiên phật thần thánh ở trần giới. Và tất nhiên, ngay cả bây giờ, ai cũng có thể tu
tập để hoàn thiện nhƣ vậy!
153
Chúng ta phải hiểu thêm, con ngƣời còn phải đạt đƣợc một trí tuệ huệ năng lớn
lao, đạt đƣợc trí tuệ uyên bác đại trí. Đó cũng là giá trị của Mỹ-sự hoàn thiện
của trí tuệ-tƣ tƣởng-tâm hồn.
Chân-Thiện-Mỹ là tổ hợp nguyên năng trong chúng ta, tồn tại ở ba trung tâm
luân xa, nơi đấng Cao Minh, đức Mẹ và các đức Thầy ngự. Các ngài ngự trong
ta, là ta mà không phải là ta; là linh hồn ta; ta là một phần nguyên năng của
Cha-Mẹ-Thầy. Tam Toà hun đúc sức mạnh, ánh sáng, trí tuệ cho chúng ta, để
chúng ta tiến bộ, đạt Chân-Thiện-Mỹ; kẻ ác, xấu là những kẻ đánh mất nguồn
nguyên năng ấy, đỉnh điểm nhân quả của họ có thể bị Trời tiêu diệt-theo qui
luật tự nhiên; thậm chí bị diệt linh hồn-đây là sự trừng phạt khủng khiếp nhất
đối với một cá thể-vì chấm dứt sự tồn tại thực sự của một ngƣời-nhân linh; còn
cái chết thể xác ở hạ giới chỉ là một sự chuyển hoá tất yếu mà thôi.
Ai muốn có Chân-Thiện-Mỹ thì chỉ cần khơi động nó trong chính mình, không
phải tìm kiếm hoặc học ở đâu cả! Ngay cả khát vọng về một cuộc sống, về sự
tồn tại chân chính, với sức sống của sinh thể đã là một thuộc tính của Chân-
Thiện-Mỹ. Đó là tình yêu trai gái, tình yêu con ngƣời với con ngƣời, con ngƣời
với thiên nhiên, khát vọng về hạnh phúc và sự an lạc chân chính. Đặc biệt Ta
không khuyến khích sự diệt dục! Vì nhân loại còn tồn tại hàng tỷ năm, sự sinh
làm trọng. Cha là chúa tể của sự sinh.
“ Ấy là Ta giáng mấy lời
Chúc cho Đại Đạo đẹp tƣơi vẹn toàn
Phổ giáo Chân-Thiện loan hoàn
Mỹ kia đẹp đẽ Ta ban cho đời
Đạo thƣờng đã đẹp, đẹp ngƣời
Nhân loại đẹp đẽ, Trời, ngƣời đẹp chung
Bao giờ tới đỉnh ngàn trùng
Thiên Đình nơi ấy là cung Bạch Toà
Đạo Ta ánh sáng chan hoà
Ba điểm hội lại thành hoa muôn đời.
( Bài “Đạo Hằng” này viết theo ý Cha ngày 16-3-2008)
QUI LUẬT THỨ BA: LUẬT NHÂN QUẢ
Nhân: là nguyên nhân, nguyên cớ, nguyên thể-nhân tố hình thành, xuất phát
điểm, trạng thái hình thành và khơi động của mọi sự vật hiện tƣợng.
Quả: là hệ quả, thành tựu đạt đƣợc, cái đƣợc xác lập tất yếu do“ nhân” gây ra,
tạo ra. Quả bao gồm tất cả các giá trị trong diễn tiến hình thành ra nó và tạo
thành nó, đƣợc xác lập.
154
Nhƣ vậy: Một nhân có khi có một quả, nhƣng có khi lại có cả chuỗi quả khác
nhau, thành một chuỗi liên quan, liên hệ với nhau, phản ứng và ảnh hƣởng lẫn
nhau.
Trong mọi sự vật hiện tƣợng, khi “sinh-trụ-dị-diệt”, hay “thành-trụ-hoại-
không” đều có nhân quả. Không một sự vật hiện tƣợng nào sinh ra mà không có
sự chuyển hoá nhân quả.
Có Ba qui luật nhỏ ảnh hƣởng đến qui luật này là:
1-Qui luật Lƣợng-Chất: Qui luật này xác định khi có một sự tác động, thì
sinh ra một sự chuyển hoá; đạt đến một trình độ nào đó của vận động, thì nó
chuyển thành cái khác. (Đọc Nguyên Lý Trung Phƣơng về chuyển hoá cung
trƣờng và mật độ, chuyển pha lƣợng tử).
2-Qui luật Phản hồi: Khi tác động vào một yếu tố nào đó, thì sau đó sẽ phản
hồi ngƣợc lại, theo thuộc tính tƣơng ứng: Đây là lý do tại sao bất cứ một quả
nào đều phản ánh cái nhân của nó và chi phối ảnh hƣởng hƣởng trở lại nhân.
“Nhân nào quả ấy”-nhân tốt-quả tốt, và ngƣợc lại. Sự phản hồi này có thể xảy
ra ngay tức khắc, sau đó một thời gian, hoặc sau một thời gian dài, do sự “lƣu
chứa thông tin năng lƣợng” tác động trở lại nhanh hay chậm. Sự lƣu chứa này
phụ thuộc lực tác động ( tức là khởi lực của nhân).
Phản hồi bao hàm trong nó cả phản lực, tính chất thuộc tính của thông tin ( ví
dụ: Hành vi tốt hay xấu, cao hay thấp…). Lực tác động này ví nhƣ khi ta chặt
cây: Chặt thật mạnh thì tay ta bị rung động ngƣợc lại mạnh, đó là phản lực.
Hoặc hành động giết ngƣời vì hành vi bất lƣơng-đây là lực lớn, thì ngay lập tức
có thể bị phát hiện, hoặc bị trả giá ghê gớm! Kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa
thƣờng ngay lập tức bị lụn bại! Đây gọi là gieo gió ắt phải gặt bão. Chƣa bao
giờ trái điều này. Hoặc làm một điều tốt, chắc chắn trong tƣơng lai, trong kiếp
này hoặc kiếp sau, anh ta sẽ đƣợc đền bù lại. Đây là qui luật quan trọng nhất
của qui luật nhân quả. Phản hồi dựa trên sự tƣơng hỗ của qui luật “đồng thanh
tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”. Cái tốt, hay cái xấu sẽ đến với anh, nếu anh
“sở hữu” nó! Tức là thể vía của anh lƣu giữ thông tin nào thì anh sẽ gặp nghiệp-
duyên-quả tƣơng ứng.
3-Qui luật Phản phục: Vì Vũ trụ còn một lƣợng vật chất “ngƣợc” nữa, đó là
“phản vật chất”, là thuộc tính âm-đối kháng trong Vũ trụ, cũng còn là thuộc
tính đối lập trong mọi sự vật hiện tƣợng cấu tạo từ vật chất. Vậy khi cái này
tăng, ắt cái kia phải giảm, vì khởi nguyên hai mặt âm-dƣơng bằng nhau, và
tổng năng lƣợng giữa chúng bằng Không ( 0 ). Khi một cái động thì cái kia
phải động; cái kia tiến thì cái này phải lùi. Ví dụ: Nóng-lạnh, sáng-tối…Trong
không-thời gian của các mùa: dƣơng sinh thì âm lụi, cực âm sẽ sinh dƣơng, và
ngƣợc lại. Trong một năm ở trần gian, có hai thời điểm là cực dƣơng là Hạ Chí,
cực âm là Đông Chí, còn hai thời điểm dƣơng âm bằng nhau là Xuân Phân và
Thu Phân. Bốn điểm này tạo thành bốn cực cân đối chia ra bốn phần bằng nhau
155
trong một năm. Đây là trục cân bằng, nhƣng là khởi điểm của sự phản phục của
mọi vật trên trái đất. Cho nên Ta gọi đó là khởi thuỷ, chọn bốn ngày này để tế
lễ Trời. Qui luật Phản phục gây ra một sự tác động trái chiều, không tƣơng hỗ mà là
phản tƣơng hỗ! ( Bản chất nó ngƣợc với qui luật Phản hồi), nhƣng tƣơng ứng
về lực ( có tính chất tƣơng ứng); mặt này vận động, sẽ chống lại mặt kia. Vậy:
Cái thiện sinh ra, sẽ bị cái ác chống lại; trong ngay bản thân ta, và trong xã hội,
gia đình, cơ quan...Cái sáng sinh ra, ắt sẽ bị cái tối chống lại…Thiên thần sinh
ra, sẽ bị quỉ ác chống lại; cái mới, tiến bộ sinh ra, ắt bị cái cũ, lạc hậu, thậm chí
phản động chống lại. Cha có dạy câu này: “Đạo sinh thì tà khởi; khi khai đạo,
loạn trong loạn ra, khi đạo thành, thuận ngoài thuận vào”, là nhƣ vậy! Sự
chống lại nhau là tất yếu, thậm chí mặt trái kia có thể thắng tạm thời, nhƣng do
qui luật lớn thứ hai-sự tất yếu của vận động và phát triển trong Vũ trụ-là qui
luật chi phối, tác động mạnh mẽ và toàn diện, nên cuối cùng, bao giờ cái tốt, cái
sáng, cái tiến bộ cũng thắng cái xấu, cái ác, cái phản động, lạc hậu. Không thế
thì Vũ trụ, nhân loại không phát triển!
Một vấn đề nữa là: Chúng ta hết sức cảnh giác: Sự chênh lệch về năng lƣợng-
lực lƣợng, có thể quyết định sự thắng bại của hai mặt này. Do lực tiến (tiến bộ)
lớn ( xét theo tổng số, tổng thể), nên lực xấu sẽ thua. Nhƣng trong một bộ phận,
hay một yếu tố, trong thời điểm nào đó, có thể lực lùi, lực xấu lại hơn lực tiến,
lực tốt; nhƣng cuối cùng thì lực tốt lại thắng, do có sự tác động thêm của các
nhân tố tốt, có sẵn, vốn là thành phần nổi trội và ƣu việt trong Vũ trụ. Điều đó
giải thích: Có khi sự vật hiện tƣợng tốt, tạm thời thụt lùi, không phát triển; có
khi ngƣời tốt trong một lúc, một nơi bị bọn xấu làm hại, có khi ngƣời hiền đức
bị quỉ ma làm hại ( đau ốm, chết yểu, bị tai ách), quỉ ma ở đời là bọn ngƣời xấu
mang tính quỉ ma. Ta phải chú ý đến yếu tố tổng thể thì ta sẽ thắng: Sử dụng
sức mạnh của toàn thể cái tốt, cái đẹp, huy động nó. Ví dụ: Ta có cầu cúng các
bậc bề trên, thì tất yếu đƣợc gia trì thêm sức mạnh toàn năng. Hoặc: Khi bị
bệnh, sức yếu không chống lại đƣợc bệnh, thì phải tăng lực bằng thuốc. Khi cái
xấu, cái ác cũng gia tăng lực lƣợng, thì ta cũng huy động lực lƣợng, tất yếu ta
sẽ thắng! Đây là bài học cho tất cả chúng ta để chống lại cái xấu, cái ác trên
đời. Ngay trong bản thân chúng ta, khi đấu tranh với cái xấu của chính mình,
cũng phải huy động cái tốt của bản thân để chiến thắng. Đến thời đại Thánh
Đức, các nhân tố xấu sẽ bị loại dần hết, để có một cộng đồng Đại Đồng, Đại
Thiện.
Ba qui luật lớn này có quan hệ biện chứng với nhau trong Vũ trụ, tác động,
liên hệ, chi phối nhau; không phân tách ranh giới trong mọi sự vật hiện tƣợng và
tồn tại tƣơng đối với nhau.
156
Ngoài Ba qui luật lớn này của Vũ trụ, còn có nhiều qui luật nhỏ phổ biến,
nhƣng không bao trùm, không bao hàm đƣợc, hoặc nó thực chất phản ánh, là
thuộc tính của qui luật lớn.
Qui luật nhân quả: Dùng qui luật này, không giải thích các sự vật hiện tƣợng
nhân quả một cách cơ học, thô thiển, mà đây là một qui luật lớn của Vũ trụ, nó
giải thích đƣợc cả sự chuyển hoá và ảnh hƣởng trong các kiếp, sự luân hồi của
con ngƣời. Đó là sự gieo quả và hái quả của nghiệp. Khoa học thông thƣờng
không bao giờ giải thích chính xác đƣợc các hiện tƣợng đó, vì liên quan đến
tâm linh.
Nghiên cứu các vấn đề của tâm linh thuộc về khoa học vi diệu, tinh tuý nhất,
đỉnh cao của văn minh nhân loại. Đó là khoa học của Vũ trụ.
Chúng ta mong có đóng góp những giá trị mới, mở đƣờng cho khoa học tâm
linh công khai thành hệ thống nghiêm chỉnh, tạo thành nền tảng cho mọi khoa
học trong tƣơng lai của loài ngƣời, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn,
trong các chiến lƣợc giáo dục của nhân loại trong tƣơng lai; là hệ thống khoa
học cao cấp và hoàn bị nhất, đỉnh cao của trí tuệ của loài ngƣời hiện nay; ngoài
ra, các kiến thức có tính chất khái quát cao độ về khoa học tâm linh sẽ có giá trị
vĩnh hằng, đúng đắn vĩnh viễn!
Phải hiểu và vận dụng các qui luật trên trong tu tập và trong mọi mặt của cuộc
sống. Đó chính là ánh sáng của Thƣợng đế soi sáng cho chúng ta trên con
đƣờng thực hiện Chân lý cuối cùng.
IV-TẬN THẾ
Hoặc trái đất bị huỷ diệt hoàn toàn, hay lại đƣợc tái sinh. Nhƣng bất luận thế
nào, chúng ta vẫn bất tử, vì chúng ta theo Thƣợng đế. Thƣợng đế sẽ gieo lại sự
sống trên trái đất. Hoặc vì trái đất quá già nua, bị xa dần khối Nguyên năng của
Vũ trụ, nó sẽ bị huỷ diệt. Lúc đó Thƣợng đế chỉ mất đi một hạt cát trong Vũ trụ
mà thôi. (Tuy nhiên Nguyên Lý Trung Phƣơng xác định, trái đất đang trên
đƣờng tiến hoá thành Hệ mặt trời, rồi thành Thiên hà trong tƣơng lai xa…).
Chúng ta có thể đƣợc Thƣợng đế gieo xuống miền đất khác, hoặc cho luân hồi
hoặc chấm dứt hoàn toàn việc tái sinh của “bộ phận linh hồn trên trái đất này”-
Tức là loài ngƣời, để ở lại cõi Thƣợng Thiên vĩnh viễn. Lúc đó chúng ta thành
thánh, phật cả rồi! Việc này còn quá xa xôi, và lịch sử trái đất còn khoảng
10.000 đến 15.000 tỷ năm nữa. Có nghĩa sẽ còn vô vàn các cuộc tái sinh và huỷ
diệt, tận thế và thiên đƣờng trên hạ giới!
Có hai dạng tận thế: Tận thế tƣơng đối: Có thể trái đất bị va chạm, hoặc bị trục
trặc cơ học, khiến loài ngƣời bị tiêu diệt-hoặc phần lớn bị tiêu diệt; nhƣng loài
ngƣời chƣa xây dựng xong thiên đƣờng hạ giới, nên các tầng cảnh giới còn đầy
157
rẫy các linh hồn phải luân hồi hoàn thiện, thì Thƣợng đế sẽ cho chúng ta đầu
thai trở lại (Ví dụ nhƣ cho nảy mầm sự sống, tạo ra lịch sử mới của trái đất. Vì
lịch sử đó đến khi con ngƣời tiến hoá trở lại, dù có đến hàng trăm triệu năm,
nhƣng có đáng là bao so với tuổi của Thƣợng đế, hay tuổi của trái đất. Hoặc
Thƣợng đế cho thiên nhân xuống, hoặc lấy ngƣời trái đất khác xuống, gieo
mầm rồi đi).
Tận thế tuyệt đối: Nhƣ đã nói, là khi trái đất bị huỷ diệt hoàn toàn và tan rã,
phần vật chất sơ đẳng trôi về đám rác tinh vân và bụi trong Thiên hà, còn chúng
ta về với Thƣợng đế.
Vào thời gian gấp của sự mạt thế hiện nay, đại tận cũng có nghĩa là đại sàng lọc
sẽ diễn ra với mức độ kinh khủng trong lịch sử nhân loại. Lịch sử của loài
ngƣời còn dài, nhƣng lịch sử của nền văn minh hiện nay chỉ còn tính bằng năm,
để tiến hoá lên một nền văn minh cao hơn, đó là thời đại Thánh Đức huy hoàng.
V-CÁC CẢNH GIỚI
BA ĐẠI GIỚI
Con ngƣời chúng ta đƣợc Thƣợng đế cho ở Ba Đại giới, có ba tầng, đó là: Hạ
giới, Trung giới, Thƣợng giới.
Hạ giới: Là thế giới chúng ta đang sống, là trƣờng học lớn và trƣờng học cuối
cùng của con ngƣời, để trở về Thƣợng giới. Chỉ ở đây chúng ta mới tiến hóa
hoàn thiện. Khi chƣa hoàn thiện, con ngƣời còn phải luân qua các kiếp, đi và
trở lại Hạ giới. Cứ nhƣ thế, cho đến khu thành đại mỹ, đại thiện, đại minh, trở
về với Thƣợng đế.
Trung giới: Là cõi trung gian giữa Hạ giới và Thƣợng giới, gồm các cảnh giới
từ một đến bảy; đây là cõi của linh hồn trú ngụ. Sau khi chết ở Hạ giới, chúng
ta trở về các cảnh giới này, tiếp tục tiến hóa, học hỏi, để trở về Hạ giới đầu thai,
để tiến hóa quyết định, đƣa thế giới loài ngƣời lên Thiên đƣờng Hạ giới, kết
thúc quá trình tiến hóa.
Nhƣ vậy: Trung giới chỉ là “trạm trung chuyển” mà thôi. Linh hồn ở Trung giới
còn phải luân hồi qua các kiếp, có khi đƣờng đi của một linh hồn-con ngƣời tới
hàng vạn vạn năm, qua hàng trăm ngàn kiếp khác nhau!
Thƣợng giới: Thuộc cảnh giới thứ Tám, Chín. Nơi đây là Thiên đƣờng. Thƣợng
đế-Cha kính yêu của chúng ta ngự ở cảnh giới thứ Chín-Trung tâm của Vũ trụ-
nơi khu vực sao Bắc Cực.
CHÍN CẢNH GIỚI THIÊN LINH
CẢNH GIỚI THỨ NHẤT:
158
Đây là cảnh giới thấp nhất-Vị trí trên địa tầng Hạ giới, có môi trƣờng điện-từ
trƣờng thấp, sóng từ trƣờng nặng nề, chậm chạp. Ở đây thuộc môi trƣờng rất
hồn độn, lộn xộn, ánh sáng hạn chế. Nơi đây chỉ có thể chứa đựng các linhn
hồn có bƣớc sóng chậm, thể vía nặng nề. Bao gồm: Các bọn ngƣời vô cùng tàn
ác, tham, hận; bọn tội phạm, bọn phản Thƣợng đế, phản đạo, bọn tù tội, nghiện
ngập các loại; bọn tham vọng và khát vọng chống sự tiến bộ của loài ngƣời,
chống lại Chân lý của Thƣợng đế.
Bọn này khi còn sống, có quá nhiều nghiệp quả nặng nề, những lạc thú tầm
thƣờng, những tội ác và tham vọng bất chính với các hành động tƣơng ứng, đã
làm cho thể vía của chúng dày, đen, nặng nề, với các thông tin ô trọc, xấu xa.
Theo qui luật tất yếu của tự nhiên, chúng bị đẩy xuống tầng nguyên khí thấp
nhất và còn bị hành hạ. Bọn chúng còn đầy những tham vọng và các suy nghĩ
nhƣ còn sống, vì thể vía nặng nên sự trì độn lớn, chúng sợ ánh sáng, sợ các loại
tác động sóng bậc cao, sóng ánh sáng, chỉ ru rú và di chuyển vào ban đêm, sợ
ban ngày.
Vì còn quá nhiều tham vọng nhục dục do thể vía hành hạ, nên chúng khát khao
và có những đòi hỏi bản năng nhƣ con ngƣời ở trần thế. Nhƣng vì thể xác đã
tan rã, không còn cơ sở vật chất hạ đẳng để hấp thụ vật chất thông thƣờng ( ăn,
sinh lý, tiêu hóa, xúc giác, vị giác), nên chúng không thể ăn uống sinh họat
đƣợc nhƣ ngƣời còn sống. Do vậy, đó là một sự tra tấn khủng khiếp nhất đối
với họ. Họ chỉ suy nghĩ trong tƣ tƣởng, không đƣợc hƣởng thụ nên vô cùng đau
khổ, họ phải đấu tranh với bản năng dữ dội. Mặt khác, thể vía nặng, bị sức tác
động của nguồn nguyên năng trên cao, của Thƣợng đế, nên các linh hồn bị “tấn
công”, bị tan rã rất đau đớn. Đây thực sự là địa ngục đau khổ và hối hận lƣơng
tâm (Chứ địa ngục thật sự thì Thƣợng đế đã bỏ rồi). Đồng thời, đây là điều
khủng khiếp nhất: Do tƣ tƣởng, bản năng xấu xa chi phối, nên hình tƣƣởng của
bọn họ tạo ra các thân hình tƣơng ứng rất kinh khiếp: Những hình nửa thú nửa
ngƣời, những tội phạm thù hận với bộ mặt khủng khiếp, những hình dáng xấu
xa không lành lặn. Dù có đƣợc ngƣời thân cầu cúng những thức ăn vật chất thì
họ đâu có ăn đƣợc! Mà chỉ hít ngửi qua phần hơi cho đỡ thèm khát mà thôi! Họ
phải tự hƣởng thụ bằng cách dẫn nhập và bắt sóng với tình cảm, tƣ tƣởng của
ngƣời sống đang hƣởng thụ để thấy lại cảm giác đƣợc hƣởng thụ. Đây là điều
rất khổ sở và lƣơng tâm vò xé ân hận! Với tất cả các hƣởng thụ, các nhu cầu về
bản năng, tham vọng khác cũng thế: Sinh họat tình dục, quyền lực, tội ác, giết
chóc, thù hận. Muốn thỏa mãn, có hai cách: Bọn chúng tìm cách xuất nhập vào
ngƣời sống, để sai khiến họ làm điều bậy bạ, để thỏa mãn thú tính. Điều này rất
dễ, nếu bọn chúng tìm đƣợc ngƣời có cùng bản tính nhƣ thế, theo qui luật tƣơng
ứng. Đặc biệt, khi ngƣời bị say rƣợu, say nghiện bị chúng sai khiến dễ nhất, dễ
gây tội ác.
159
Cách hai: Bọn chúng tự giải quyết nhu cầu bản năng, bằng cách nhập vào ngƣời
có đặc tính hành động nhƣ thế, để “hƣởng thụ” cảm giác nhu cầu; thậm chí
chúng nhập cả vào các loài thú vật. Và theo qui luật, thể vía của loại này sẽ
tƣơng ứng với thú vật, nên khi Thƣợng đế và đức Mẫu Vƣơng soi xét, thì chúng
sẽ đƣợc đầu thai trở lại thế giới loài vật! Bọn chúng khi đói cái gì, thì tìm cách
đi tìm cái đó để thỏa mãn. Nên những nơi có việc xảy ra phù hợp là có mặt
chúng: Nơi ăn uống, tai nạn đổ máu, các vụ ẩu đả, các nơi cụp lạc, nơi có quyền
lực tranh dành và thù hận, nơi có sự đố kỵ vô nhân, những thứ tƣ tƣởng cặn bã
tanh hôi đi ngƣợc lại tiến hóa của loài ngƣời là chúng có mặt. Nguy hiểm nhất
là chúng tìm cách trả thù ngƣời tốt, bằng cách xui ngƣời xấu làm hại ngƣời tốt,
làm ngƣời tốt mang họa ( đây là lý do giải thích các hiện tƣợng: Tại sao ngƣời
tốt lại thƣờng bất hạnh khổ đau! Còn bọn ác nhân đôi khi lại rất thành đạt,
mang tính bầy đàn!). ( Chỉ có theo Đạo, đƣợc Thƣợng đế và các phép của Thiên
Linh và các đạo chân chính mới có thể tránh đƣợc làm hại. Bọn tà ma tạo ra
cũng chính là Mặt tối của tƣ tƣởng con ngƣời ( cả cõi Thiên Linh và cõi Hạ
giới). Ta gọi chung các mặt tối ấy là Nƣớc Quỉ. Và cảnh giới Thứ Nhất chính là
một địa ngục-quê hƣơng của Nƣớc Quỉ này. Bọn tà ma quỉ ác ở đây không ai
tạo ra chúng, mà do nghiệp quả tƣơng ứng, mà khi chết đi chúng bị rơi vào
cảnh giới thấp này.
Ngày xƣa, Thƣợng đế dùng Diêm Vƣơng lập ra địa ngục để tra xét, cho vào địa
ngục bọn ác tội này, nhƣng vì làm thế, chúng không tiến bộ là bao, nên mở cửa
địa ngục cho chúng phải “vật lộn với địa ngục tự nhiên” của chính cảnh giới
thấp này, để chúng dần tan rã thể vía xấu xa, dần thăng lên cảnh cao hơn. Con
đƣờng tiến hóa của bọn này rất chậm. Có khi chúng phải lƣu lại ở cảnh giới này
hàng trăm năm mới siêu thoát lên trên; và phải mất nhiều năm nữa mới thoát
hóa lên đến các cảnh giới cao hơn để đầu thai trở lại Hạ giới, có khi làm loài
vật.
Chúng luôn tìm cách đầu thai trở lại Hạ giới, nhƣng không lọt đƣợc quyền phép
của Thƣợng đế.
Bọn xấu xa ở cảnh này luôn bị các thần linh canh, xét; dù không bị nhốt vào tù
ngục, nhƣng những tên tội phạm xấu xa, tàn ác, có thể bị các thần linh trói lại,
bị các nhân linh phỉ nhổ, chửi bới, bị bỏ đói, bị hạ nhục, cho đến khi sáng mắt
ra, phải sám hối. Có lúc bọn họ ân hận, tìm cách tác động, báo hiện ngƣời thân
cầu niệm để giải thoát cho chúng. Đây là bài học rất đắt, rất quí, rất cần thiết
mà Đức Cha Chí Tôn vĩ đại và Mẫu Vƣơng vĩ đại mở lòng phát tâm lành, dạy
bảo bọn này. Trƣờng Giáo Linh cũng sẽ trực tiếp giáo hóa bọn này, theo ý chí
và quyền phép của Thƣợng đế, để chúng tiến bộ. Chỉ khi tiến bộ, đƣợc đạo
pháp soi sáng, chúng mới đƣợc thăng lên các cảnh giới cao hơn, rút ngắn thời
gian lƣu lại các cảnh thấp này. Điều này rất quan trọng, nhanh siêu thoát-nhất là
tránh đƣợc nỗi khổ đau vô cùng vô tận của một linh hồn tiến hóa thấp.
160
Thế giới ngƣời âm còn ở ngang ngay bên chúng ta, họ sống bên cạch và ở trên
cao hơn Hạ giới. Thế giới vô hình-hay thế giới Thiên Linh là cách gọi chính
xác nhất.
Trong các hang động đen tối, trong các hộc cây, bụi tối, trong các đình đền
chùa miếu cũ, hoặc nơi các thờ tự loại này mà con ngƣời chen lấn cúng dƣờng,
đầy rẫy tham vọng cầu xin, đầy của ăn, lộc cúng…là nơi trú ngụ của các linh
hồn đói khát này. Trong cõi âm ty dƣới đất, cũng có loại này, họ đi xuyên xuống
dƣới, đến cảnh mật độ của họ có thể chịu đƣợc, vì mặt trời trung tâm trái đất
chính là nơi Linh hồn Mẫu Địa ngự là khối Nguyên năng thuộc cảnh giới Tám,
Chín, rất đặc, cứng, rung động nhanh…không phù hợp với chúng. Ta nên nhớ,
ngay trong trái đất cũng đủ 9 tầng thứ cảnh giới mật độ khác nhau-nhƣng với lý
luận của chúng ta, thì cảnh Chín của Thiên đƣờng phải là đồng nghĩa với Trung
tâm Vũ trụ.
CẢNH GIỚI THỨ HAI:
Đây là cảnh giới cao hơn tất cảnh giới thứ nhất, ở phía trên, gần ánh sáng, cũng
là bên cạnh chúng ta.
Ở đây vẫn còn chập chờn sáng tối, nhƣng không tối tăm và không có bọn hình
nhân quỉ sứ. Các nhân linh ở đây mang hình vóc giống con ngƣời ở trần gian.
Họ ở ngay xung quanh chúng ta. Các nhân linh này ở đây vẫn còn đầy dục
vọng, tƣ tƣởng nặng nề, cố chấp, khát vọng, tiếc nuối cuộc sống trần gian, còn
thù hận, nhƣng họ đã có một phần siêu thoát, thấu hiểu đƣợc giá trị bản thân, ý
thức đƣợc cái chết thể xác; thể vía còn nặng, các phân tử còn nặng, tần số rung
động chậm chạp, ánh sáng Nguyên năng rọi tới và họ có cuộc đấu tranh lớn
trong tƣ tƣởng giữa thiện, ác, lý trí thúc đẩy họ hƣớng tới điều tốt đẹp hơn.
Nhân linh ở đây đôi lúc nhập với trần thế, cơ bản họ còn đạo đức tầm thƣờng,
tƣ tƣởng đơn giản, lý trí, tri thức sơ đẳng. Đôi khi họ thích xui khiến con ngƣời
ở trần gian, thích nhập vào đồng cốt. Còn nhiều tham vọng, nhƣng ý thức đƣợc
sự hƣ vô của các tham vọng-nhƣng họ có lúc vẫn thấy thích đƣợc thể hiện, bằng
cách giống nhƣ cảnh giới Một, tức là nhập vào các “tham vọng ở trần gian”, để
hƣởng thụ các huyễn ngã nhƣ: Vinh quang, quyền lực, lạc thú, nhƣng họ không
say mê một cách mù quáng nhƣ cảnh giới Một.
Cảnh giới này, các nhân linh cũng tìm cách đầu thai trở lại Hạ giới, nhƣng chƣa
đƣợc phép. Trừ một số trƣờng hợp đặc biệt, mà trƣớc đó họ chết oan uổng,
chƣa hết nghiệp cũ, thì Thƣợng đế cho trở lại nhanh. Phần lớn những ngƣời
này, khi đầu thai trở lại thì có ý niệm nhớ lại kiếp trƣớc của mình; chỉ là sự
sống tiếp của kiếp chƣa hết mà thôi, chƣa phải trả quả luân hồi.
CẢNH GIỚI THỨ BA:
Cao hơn cảnh Hai. Tại cảnh này, các linh hồn đã ý thức đƣợc qui luật sống
chết. Phần nhiều hiểu đƣợc sự hiện diện của Thƣợng đế. Họ không còn sợ ánh
sáng. Ánh sáng ở đây còn yếu, nhƣng đã sáng dịu, xen lẫn những bóng tối nhỏ.
161
Các linh hồn ở đây có sự chiêm nghiệm về lẽ sống, thiện ác. Các vòng này
không còn tham vọng nhục dục nhiều; họ hƣớng tới sự hiểu biết, thông cảm, trân
trọng, thiện tính, là bản năng tốt, tuy tính các có lúc vẫn còn, nhƣng tuyệt nhiên
họ không xui khiến con ngƣời làm việc ác. Họ đƣợc siêu thoát hơn. Đây là nơi
của các bậc trí sỹ bậc thƣờng, những ngƣời tốt tính, những vị hay đùa, thích
tranh luận, những ngƣời có bản lĩnh, có kinh nghiệm sống, các bậc thức giả chân
thiện, nhƣng còn tham vọng tƣ tƣởng, một số kẻ đạo đức giả nhƣng không hại ai,
còn cố chấp nhƣng không ân oán thù hằn. Họ đã hiểu biết về Thƣợng đế, tuy
nhiên số hiểu đƣợc các tƣ tƣởng cao siêu, chính xác Chân Lý không nhiều. Ở đây
cũng là chỗ cho đám ngƣời vốn nhƣ nhƣợc, ngại phấn đấu, dĩ hòa vi quý, không
dám làm ác mà cũng chả giám phấn đấu vì thiện. Những ngƣời không tham
nhƣng cũng chả ác, nhƣng tính thiện vừa đủ để họ là ngƣời tốt, không hại ai. Có
cái hay là ở đây không có sự ngu si trì độn, hoặc cực đoan khủng khiếp trong các
tính cách. Tất cả đều vừa phải, dù chƣa chuẩn mực. Họ cố gắng duy trì và khẳng
định bản ngã bằng tƣ tƣởng, lý trí. Phần nhiều chƣa có khả năng phù trì. Ở đây
cũng là cảnh của những kẻ bảo thủ, những kẻ vốn không nhận thức đƣợc, không
nhận thức sai về tâm linh, không công nhận Thƣợng đế, duy vật nhƣng tốt tính.
Có thể đó là những nhà duy vật bình thƣờng, những kẻ mộ đạo chân chính,
nhƣng không tu tập. Điều cơ bản ở cảnh này là thiện tính nổi trội, tƣ tƣởng lộn
xộn nhƣng thiện tính, hòa bình.
CẢNH GIỚI THỨ TƢ:
Ở đây đã tràn đầy ánh sáng dịu dàng, nhƣng ánh sáng chƣa lấp lánh chan hòa.
Các linh hồn đã có bƣớc sóng nhanh hơn, sự rung động tần số nhanh hơn cảnh
giới Ba. Họ nhẹ nhõm, thanh thoát hơn. Về tính cách: Họ là những ngƣời có trí
thức và hiểu biết về lẽ sống, các giá trị cuộc sống. Họ tốt tính, thiện tính, nhƣng
còn dục vọng, còn huyễn ngà, còn đấu tranh tƣ tƣởng thiện ác ở trong bản thân.
Phần nhiều là những ngƣời có đóng góp cho nhân loại khi ở trần gian. Nếu ở
cảnh giới Một lên đến đây, thì đã phải trải qua sự bứt phá hàng chục, thậm chí
hàng trăm năm! Bọn ấy bây giờ đây đã thấu lý lẽ của chân lý cái thiện. Thể vía
(bóng tối) tan rã gần hết. Các linh hồn siêu thoát bậc cao. Tại đây, họ đoàn kết
thƣơng yêu, hình thành các khối kết hợp tƣ tƣởng phân lập, theo nhóm, có sự
liên kết với nhau và học hỏi lẫn nhau để tiến bộ. Họ biết cách tích lũy các giá trị
tiến bộ từ nhân loại và tu tập để chuẩn bị đƣợc phép đầu thai. Có khi họ cùng xin
Thƣợng đế, cho đầu thai ở một chỗ để thực hiện lý tƣởng của mình. Họ là ngƣời
có bản lĩnh, chính kiến, tham vọng thiện tính. Đây là cảnh giới của những ngƣời
hiền lƣơng, trung thực, bộc trực, hay giúp đỡ ngƣời khác; khi họ sống không
tham ác, mà vị tha, cao thƣợng độ lƣợng, nhân ái, từ bị, nhƣng chƣa thấu Chân
Lý lớn mà theo Đạo, tu tập, hoặc theo Đạo tu luyện nhân cách nhƣng trí tuệ và
cách sống bình thƣờng. Đa phần các con chiên, giáo hữu, các giáo sỹ, các nhà tƣ
tƣởng, trí sỹ bậc trung trở về cảnh này. Có thể nói, đây là cảnh của những ngƣời
162
tiến hóa bậc cao, nhƣng chƣa cao đẹp hoàn toàn, còn nhiều nghiệp quả phải trả.
Khi đầu thai, họ sẽ vào các kiếp sống tốt đẹp nhƣ: No ấm, quan chức lành thiện,
các nhà trí sỹ tƣ tƣởng, họat động xã hội, văn nghệ sỹ thiện tính, các nhà từ
thiện, hoặc trở lại con đƣờng tu đạo cho thành đạo. Một số sẽ trở về làm các nhà
lãnh đạo ƣu tú, những bậc khai sáng cho sự nghiệp của Thƣợng đế, các nhà tƣ
tƣởng bậc trung, các trí thức điển hình nhƣ giáo sƣ, dân biểu, nghị sỹ, quan chức
cao cấp, cha cố, thƣợng tọa, tăng ni. Họ là những ngƣời thúc đẩy tiến bộ trong
tƣơng lai.
CẢNH GIỚI THỨ NĂM:
Ánh sáng chan hòa, đã có lấp lánh thánh thiện. Cảnh này ở giữa trần gian và
trung tâm Nguyên năng. Các linh hồn siêu thoát hoàn toàn, nhẹ nhàng; đã có khả
năng phù trì to lớn cho Hạ giới khi cần.
Họ đã tạo ra các hình khối tƣ tƣởng cao đẹp, nhƣng còn mang tính cá nhân rõ
nét. Họ là các tính cách hoàn thiện về tính thiện. Đó là các bậc trí thức tài năng,
những nguyên thủ và các nhà lãnh đạo lớn, có trí tuệ xuất sắc, cao đẹp về lý
tƣởng đạo đức. Các vị an dân hộ quốc, tƣớng lĩnh có tài tâm thiện, những vị có
công khai sáng cho nhân sinh. Một số thần linh: Thần núi, sông, nguyên thần,
các tƣớng binh của Thƣợng đế. Đặc biệt ở đây có trẻ con nhiều-tức là các linh
hồn rất thánh thiện. Các nhà tu hành bậc cao, nhƣng trí tuệ đơn giản chƣa xuất
sắc.
Nếu tính thời gian, tiến hóa từ cảnh Một lên đến cảnh này phải mất hàng ngàn
năm! Tức là: Nếu chờ thăng cảnh thì mất hàng trăm năm, còn luân hồi qua các
kiếp thì mất hàng ngàn năm. Thế mới biết, Trời sinh đƣợc một ngƣời tốt, tài, thật
khó biết bao! Ở cảnh này, Thƣợng đế cho phép họ lựa chọn sự đầu thai. Có khi
Thƣợng đế chỉ định họ đầu thai vào những chỗ cần chấn hƣng xã hội loài ngƣời.
Các thiên binh có khi đánh dẹp hoặc hộ quốc an dân, trừ gian diệt ác, bắt tội kẻ
tà đạo, bọn ác nhân. Tuyệt nhiên không còn tham vọng thô mộc cá nhân. Những
ngƣời “duy vật bình thƣờng”, nhƣng có đạo đức cao đẹp, có đóng góp xuất sắc
cho loài ngƣời, cũng đƣợc lên cảnh này. Ở đây, họ thấu triệt ý chí và Chân lý của
Thƣợng đế để đầu thai, thực hiện sứ mệnh mới, theo Chân lý lớn. Tuy nhiên, cần
nói: Những ngƣời duy vật “đạo đức chân chính” (theo cách hiểu của họ) có đóng
góp cho xã hội, nhƣng lại có những hành động chống lại Thƣợng đế, bài xích,
phỉ báng Trời-Thiên Chúa-Phật, đập phá, hãm hại các giá trị tâm linh cao đẹp, thì
lại bị ở cảnh giới thấp nhất! Tại đây, họ bị sống chung với bọn ngƣời lốt quỉ, để
nhận thức đƣợc sự cao đẹp của ánh sáng. Họ phải tự cởi bỏ mọi định kiến cực
đoan độc ác sai lầm. Kiếp sau họ phải trả quả rất nặng nề, cực hình cho cả con
cháu vì tội phạm thƣợng. Ngoài ra, các ngƣời khi đang sống, có những hành
động cƣỡng hại Đạo, phải bị Thƣợng đế cho chiết giảm tuổi thọ ngay tại kiếp
này, bị gánh hậu quả cuối đời, khi chết tùy mức độ tội lỗi mà bị giáo hóa, cho
vào cảnh giới tƣơng ứng.
163
Ngày nay là thời kỳ phổ giáo mới, Thƣợng đế sẽ kiên quyết phù thịnh diệt ác để
Chân lý của Ngƣời đƣợc tƣới khắp chúng sinh, vì thế giới đang lộn lẫn các giá
trị, cần thiết phải có sự nhận thức kiên quyết về Chân lý lớn. Sứ mệnh của chúng
ta là giúp Trời hành đạo.
CẢNH GIỚI THỨ SÁU:
Ở đây, ánh sáng chan hòa, ngập tràn các hình khối tƣ tƣởng cao đẹp, thánh thiện.
Cảnh này chỉ nhỉnh hơn cảnh Năm một chút. Các vong linh ở đây có sức di
chuyển rất nhanh, thanh thoát nhẹ nhàng, không còn thể vía nặng, mà siêu thoát
hoàn toàn. Đây có các nhà tƣ tƣởng lớn, những nhà lãnh đạo kiệt xuất, tài năng
đƣợc nhân dân phong thần thánh. Các vị này, tuy đắc đạo, đắc đức, nhƣng
nghiệp quả vẫn còn, còn phải luân hồi. Cảnh Sáu, Bảy còn phải luân hồi. Các
linh hồn tiến hóa bậc cao. Mọi sự ở đây đều cao đẹp, nhất thiết tƣ tƣởng đã đồng
điệu. Ở đây là cảnh của các vị tu thiền, lột bỏ hoàn toàn dục vọng, có trí tuệ, tài
năng, các vị chân tu đắc đạo, nhƣng chƣa hoàn toàn, còn phải trở lại Hạ giới
hoàn thiện thêm. Các nhà tƣ tƣởng của các đại đạo, nhƣng chƣa lột hết các ham
muốn thể xác (quyền lực, dục vọng). Khả năng phù trì của họ to lớn, họ có thể
theo lệnh Thƣợng đế để tái sinh, có thể tác động để bảo vệ an dân hộ quốc, làm
các thiên binh thiên tƣớng khi cần. Đây là nơi Thƣợng đế phong các chức quan
của Thiên đình cho các con của Ngƣời. Ở đây cũng có nhiều thần linh.
CẢNH GIỚI THỨ BẢY:
Đây là trƣờng học lớn của Trung giới-là cảnh cuối cùng của Trung giới. Ở đây
có các vị nhân linh cao quý hoàn thiện các giá trị bản thân để trở lại đầu thai,
chấn hƣng nhân loại. Đó là các bậc Thƣợng linh, bậc đại trí, đại tài, những thần
đồng xuất thế, những vị thánh tăng hoàn đạo. Còn có những giáo hữu đạt đạo.
Có thể có các vị khai đạo, các vị thánh tăng xuất chúng. Nhƣng họ còn phải
luân hồi, do nghiệp quả còn lƣu, họ còn phải thực hiện sứ mệnh của mình ở trần
gian, chủ yếu là giáo hóa nhân loại. Các giáo hữu của Pháp môn, tu Thiên Pháp
có thể lên đến cấp này, và cấp cao hơn là đến cảnh 9-vào trung cung Vũ trụ.
Cần nói rõ: Quan niệm cũ, cứ tu đạo chết là lên Thiên đƣờng ngay, việc này là
không đúng, vì phải có quá trình tiến hóa tuần tự, khoa học, cần thiết và rất rõ
ràng của linh hồn-con ngƣời nói chung. Mặt khác, thế giới loài ngƣời đã và
hiện nay có lắm tƣ tƣởng cực đoan trái chiều, phƣơng pháp tu đạo cũng rất khác
nhau, còn đầy rẫy nghiệp quả tạo ra, phải trả. Xã hội loài ngƣời, trong đó có tƣ
tƣởng còn đang ở mức tiến hóa sơ đẳng cấp thấp.
Loài ngƣời còn phải tự học, tự hoàn thiện, phải trải qua nhiều năm nữa mới xây
dựng đƣợc Thiên đƣờng Hạ giới, phải thông linh, trực thông với giới Thiên
linh, phải khai mở đƣợc các khả năng năng linh để trực tiếp học hỏi Thƣợng đế
vào cuối thời kỳ phổ giáo; phải liên hệ học tập các hành tinh và ngƣời ngoài trái
đất khác, và phải làm chủ Vũ trụ hiện nay (hiểu biết, tác động, liên hệ, cảm
ứng).
164
Do đó, thời gian của chúng ta là còn vô cùng to lớn, mới có thể lên hết Thƣợng
giới đƣợc.
THIÊN ĐƢỜNG: CẢNH GIỚI THỨ TÁM VÀ THỨ CHÍN:
Đây là cảnh giới của Thƣợng đế vĩ đại, của Đức Mẫu Vƣơng vĩ đại, của các chƣ
Thánh, Tiên, Phật, các nhân linh đã hết luân hồi, các thiên binh, thiên tƣớng, các
vị la hán, bồ tát, các vị thánh của các đạo đã hết tu luyện, thành đạo, hết nghiệp
quả. Các vị thánh của Thƣợng đế, sau khi cho đầu thai hoàn thành nhiệm vụ đã
trở về. Ở đây, đa phần các linh hồn đã hết luân hồi, tiến hóa hoàn toàn.
Đặc biệt: Có thể các sứ giả của Thƣợng đế, các vị khai đạo, chân tu đắc đạo
thƣợng thừa, các vị thánh khai mở các giáo lý, hoàn thiện nhân cách, có công
lao đặc biệt xuất sắc, cũng có thể đƣợc Thƣợng đế mà đức Mẫu đại từ bi xét
thƣởng, cho lên Thiên đƣờng khai tâm tiếp phúc.
Các linh hồn có tƣ tƣởng cao siêu, đƣợc thƣởng ân huệ vô biên của Thƣợng đế.
Ở đây là nơi ngự của Đấng Đại Phụ vĩ đại. Cha ngự ở tòa Bạch Ngọc Thiên
Đài, Ngƣời đã tạo ra ở đây một Thiên đƣờng vĩ đại, những tòa điện ngọc,
những vƣờn hoa thiên trái đẹp tƣơi, những hình khối-hình thể-vật cảnh tuyệt
diệu, đẹp đẽ khôn cùng. Tất nhiên: Các linh hồn ở đây lại hoàn toàn không còn
tham vọng vật dục, nhƣng lại đƣợc hƣởng sung sƣớng vô cùng; đó là cái giá vĩ
đại của mơ ƣớc mà sự phấn đấu của con ngƣời. Đây là nơi cực lạc của Phật
Tiên.
Từ cảnh Tám, các linh hồn mới đƣợc phép nhìn thấy Thƣợng đế. Tức là đƣợc
quần tụ bên Ngƣời.
Ở đây, có chia ra các tòa, các cõi Trời, để các chƣ linh trụ trì. Các quan, các
chức vị do Cha phân bổ để quản lý Trung-Hạ giới và các thế giới.
Ở đây, phép luật của Thƣợng đế đƣợc thực hiện và ban xuống khắp các thế
gian, đến tất cả các cõi, các thế giới, các cảnh giới, các số phận kiếp nghiệp.
Vì đây là trung tâm Nguyên năng của Vũ trụ, nên cách xa trái đất. Tuy nhiên,
các vị này lại linh diệu vô cùng, đi về các thế giới rất đơn giản, do khả năng
siêu phàm biến hóa của sóng bậc cao (linh hồn thể nhẹ) có sức mạnh vô cùng.
Một số thần thánh có các phép giáo hóa, biến hóa lớn, có thể tập trung năng
lƣợng của tự nhiên-nguồn năng lƣợng Nguyên năng dồi dào ở gần để thực hiện
các ý chí của mình. Ví dụ: Tác động xuống trần thế mạnh mẽ.
Ta hãy hình dung thế này: Một nhà ngoại cảm đƣợc khai mở linh năng; một nhà
luyện Yoga ƣu việt, có thể dùng ý chí bẻ cong đƣợc đồ vật, làm cháy đồ vật,
hoặc chữa bệnh từ xa; tất cả những việc đó không tự nhiên mà có, mà do họ đã
biết cách sử dụng Nguyên năng của Thƣợng đế (tự nhiên) thông qua sự điều
khiển của linh hồn họ. Vậy một vị thấn thánh cao cấp, sẽ có sức mạnh gấp họ
hàng triệu lần: Tạo ra các nguyên cớ để làm thay đổi đƣợc tự nhiên và số phận
con ngƣời, các loài. Đặc biệt Đức Vƣơng Mẫu đƣợc Cha giao cho quản lý việc
đầu thai và luân chuyển luân hồi kiếp nghiệp, tạo ra sự chính xác và phù trì vô
165
biên cho các kiếp số con ngƣời. Cho nên gọi Đức Vƣơng Mẫu-Phật Mẫu là mẹ
chung tạo ra chúng ta có từ ý nghĩa ấy.
Đây là quê hƣơng của chúng ta. Chúng ta từ đây đi về Hạ giới, và từ Hạ giới về
đây, theo luật tái sinh, luân hồi.
Các linh hồn về đây tụ hội trong ánh sáng vô biên, dịu hiền, thánh thiện của
Thƣợng đế và Đức Mẹ vĩ đại; đƣợc trân trọng yêu thƣơng. Chúng ta không mất
đi mà chúng ta bất tử, dù bất luận hoàn cảnh nào. Đó là thế giới an vui an lành,
đƣợc hƣởng các lạc thú thánh thiện. Đó cũng là các hình ảnh của Thiên đƣờng
Hạ giới-cái mà chúng ta nguyện phấn đấu và hoàn mỹ sau này.
NÓI THÊM VỀ MẬT ĐỘ CẢNH GIỚI:
-Mỗi cảnh giới có hàng tỷ tỷ thành phần-chia thành nhiều cụm, nhóm, lớp,
trƣờng lƣợng khác nhau.
-Cảnh giới, phụ thuộc mật độ vật chất nơi đó.
-Mật độ cấu tạo linh hồn và vía, quyết định tính tồn tại của linh hồn lên cảnh
giới đó.
-Đối với các hệ thống loài ngƣời có thân thể vật lý ánh sáng cao, ở các mật độ
cao, mà con ngƣời đó vẫn có xã hội, gia đình-nhƣng ở các cảnh giới cao cấp
trên các hành tinh mật độ sáng, đậm, cao hơn trái đất, thì vẫn có thể gọi họ là
giống loài ngƣời. Nhƣng nếu họ tồn tại ở dạng tinh thể ánh sáng mà con ngƣời
chúng ta không nhìn thấy bằng mắt thƣờng đƣợc, chỉ nhìn bằng mắt huệ, thì Ta
cho đó là các thiên thần và các xã hội thiên thần rồi, dù họ còn đi đĩa bay. Đối
với họ, ở các cảnh cao nơi Thiên đƣờng ánh sáng, thuộc cõi 7-8-9. Lúc đó,
chúng ta không gọi họ là loài ngƣời nhƣ chúng ta nữa, mà là các thánh thần rồi.
Trong qui định các cảnh giới này, chỉ nói đến các tồn tại cõi vô hình cấp vong
hồn-linh hồn-không đề cập đến các thể hành tinh loài ngƣời cao cấp đó.
Với các linh hồn có xác phàm nhƣ chúng ta trong Vũ trụ-tức là ngƣời ngoài
hành tinh, trong các thể vật lý có xác nhƣ chúng ta, hoặc cao hơn ở mật độ cao,
nhƣng còn xã hội loài ngƣời, thì chúng ta coi họ nhƣ Hạ giới chúng ta mà thôi.
Đối với các linh hồn có xác ở thể tinh thể có thể vô hình với chúng ta, nhƣng
vẫn là loài ngƣời mật độ cao hơn-thì chúng ta coi họ là những thiên thần rồi-
cách chúng ta cả tỷ năm tiến hóa rồi-họ thuộc về tƣơng lai của chúng ta. Nhƣng
xét trong các cảnh giới này, họ cũng thuộc về Hạ giới-nếu còn đầu thai, nhân
quả, chỉ mỗi tuổi thọ tiến hóa cao hơn chúng ta. Nếu đã đến trình độ bay đƣợc,
thành thể tinh thanh, có hình biến hóa-thì Ta mới coi là các Thiên Thần từ Cõi
Thƣợng giới, coi nhƣ họ là xã hội có hình tƣ tƣởng tự do và tạo lập xã hội ở các
sao Netron, sao quak, sao Trung Phƣơng-tức là Mặt Trời Trung tâm và cũng là
cảnh giới cấp 8-9…Xã hội đó thuộc về các hạt mật độ cao, thanh, cứng, dày
166
chắc, không đậm đặc nhƣ kiểu trái đất này. Vậy, Hạ giới mà chúng ta đang xét
với loài ngƣời hiện tại riêng chúng ta ở trái đất này, là thể đặc, mật độ thấp, là
Hạ giới so với các loài tiến hóa vô hình rồi!
Nhƣ vậy, khái niệm các cảnh giới này rõ hơn về bản chất tiến hóa của linh hồn.
Còn về độ sáng của cảnh giới, chỉ là hình thức biểu hiện mà linh hồn cảm nhận
đƣợc từ ánh sáng Vũ trụ, trong các hình bóng không gian bất tận. Cảnh giới
phân ra nhƣ thế này là rất hình thức. Trong thực tế nó đã không cứng nhắc nhƣ
thế, vì một linh hồn có thể du hành xuyên qua các thiên hà là bình thƣờng.
Nhƣng chúng ta chú ý, dù có đi xuyên qua đƣợc các thiên hà, thì cảnh giới về
mật độ vật chất mà các linh hồn đạt đƣợc là hết sức khác nhau. Ví dụ cảnh Năm
ở giữa Trung giới cao cấp với cảnh Chín Thƣợng giới, thế thì nó phải ở trên rất
cao, gần lõi Vũ trụ-về năng lƣợng là trên cao, còn về không gian là đi vào giữa.
Nhƣng để đi đến đó là rất rất xa trái đất này. Vậy, một linh hồn cấp thấp có thể
tung mình bay xuyên qua khỏi lên khỏi trái đất để tham dự vào các mật độ cảnh
giới thấp của nó, chứ không phải mỗi cảnh xấu thấp trong địa cầu! Nhƣng có
đến đâu, thì chúng nó cũng cứ cụm vào chỗ tối, tìm chỗ tối mà ở. Nên, chúng ta
đã từng đầu thai ở các loại thiên hà, hành tinh khác nhau, nhƣng con đƣờng tiến
hóa luân hồi thì giống nhau thôi. Nên, chúng ta phải lƣu ý tính không chính xác
tuyệt đối về hình tƣợng cảnh giới, mà coi cảnh giới Ta viết ở đây chính là một
nguyên lý thuộc về sự tồn tại của các mật độ linh hồn trong cõi vô hình với loài
ngƣời này. Trong Nguyên lý Trung Phƣơng sau này, Ta có nghiên cứu Vũ trụ
có 7 Hệ mật độ lớn, nằm trong 9 loại vòng vận hành của Vũ trụ. Cảnh mật độ
cơ bản-thành tất cả có 72 loại cung mật độ nhỏ hơn-với không thời gian khác
nhau, rồi trong 7 hệ mật độ lớn, tạo ra 12 mặt phẳng rõ nét. Lại có 9 Cung
trƣờng lớn xoay quanh mỗi Hệ của 7 Hệ mật độ lớn. Vì đó là Nguyên lý Vũ trụ
vậy.
Với 9 cấp cảnh giới này, Ta coi tính từ ngoài vào trong, trong một Hệ mật độ
cơ bản, thế thì trong mỗi cảnh giới này tồn tại vô số cảnh giới mật độ nhỏ hơn.
Mà Ta thấy, mức độ chuyển pha lƣợng tử của mỗi loại linh hồn không thể bứt
lên loại mật độ cơ bản cao hơn nữa, thì phân ra gọi đó là cảnh giới.
Ngay cả cơ thể chúng ta đã tồn tại 7 trung tâm Hệ mật độ lớn, gồm các loại hạt
cơ bản khác nhau, rồi mức đậm đặc khác nhau, rung động khác nhau. Trong cơ
thể tồn tại vô số cảnh giới của các loại linh hồn nhỏ hơn-đến cấp hạt, hạ hạt. Và
trong cơ thể tồn tại 72 xoáy-cung trƣờng mật độ cơ bản theo Nguyên lý Trung
Phƣơng. Linh hồn chúng ta thấm đẫm cả 72 cung này, các cung này tạo ra các
điểm nút, hình thành nên các đƣờng kinh chính. Về cảnh giới, thì mỗi linh hồn
chúng ta đã là một cảnh giới riêng mình, trong cơ thể chúng ta cũng đủ cả 9 loại
cảnh giới cơ bản, mà sau khi bỏ xác, linh hồn thích ứng với cảnh giới mật độ
nào, thì đã bị thu hút, co tụ về cõi mà có rung động liên đới-thông cung trƣờng
và dây Trung Phƣơng tƣơng ứng với nó. Nên, điều này soi sáng rằng: Tƣ tƣởng
167
của chúng ta quyết định cảnh giới, tƣ tƣởng vô cùng quan trọng trong việc
quyết định sự nặng hay thanh của linh hồn. Một linh hồn dễ chịu, chỉ cần nói
nhẹ nhàng với họ, lập tức họ đã buông bỏ mọi cố tật và nhanh chóng siêu thoát
thăng lên và ngƣợc lại. Lại có những linh hồn ma quái, tạm nghe để khỏi bị bắt-
nhƣng sau đó thói nào tật ấy, lại hành hạ ngƣời khác; có loại biến hình, thổ hình
ra các loại tƣớng tinh khác nhau để lừa mình. Có một điểm chung là các linh
hồn cao cấp trên cao, bao giờ cũng lớn-cao-sáng-hào quang rực rỡ hơn các linh
hồn cấp thấp. Đây là điểm quan trọng để các hành giả dùng hụê nhãn phân biệt
một linh hồn cao cấp với một linh hồn bình thƣờng. Tất nhiên, tốc độ di
chuyển, mức năng lƣợng và thần thông của linh hồn cao cấp gấp nhiều lần linh
hồn thƣờng.
V-LUÂN HỒI
Trƣớc tiên phải khẳng định:Thuyết nhân hồi hay luân hồi không phải là
mộtkhái niệm của đạo Phật, mà đã có từ lâu cách đây hàng trăm ngàn năm, rồi
đến các tôn giáo có trƣớc đạo Phật trình bày, nhƣ Ấn Giáo, Giai-na Giáo, San-
kít…
Nay chúng ta chấp nhận quan điểm này. Đó là qui luật. Và chúng ta bổ sung,
làm mới, rõ hơn qui luật này.
Tại sao có luân hồi?
Đại Vũ trụ, Vũ trụ, Đại Thƣợng đế, Thƣợng đế cũng chịu qui luật luân hồi, thì
đƣờng nhiên con ngƣời cũng phải chịu qui luật này.
Việc tạo hoá có qui luật: Vật chất Thƣợng đẳng phải luôn kết hợp với vật chất
sơ đẳng. Khi hai vật chất này tách khỏi nhau, tức là rời nhau, là điều không bình
thƣờng; và qui luật tạo hoá luôn có những chế định làm cho chúng kết hợp, hay
kết hợp trở lại với nhau. Đặc biệt, vật chất Thƣợng đẳng không tự nhiên sinh ra,
nó là thứ bất tử, không có chuyện óc “đẻ” ra linh hồn-hoặc không có linh hồn.
Mà bộ óc chỉ là bộ máy vô cùng tinh vi, là điều kiện cơ học để cho linh hồn vào
trú ngụ. Chúng có quan hệ biện chứng cực kỳ chặt chẽ với nhau.
Con ngƣời bao gồm: Linh quang-trí tuệ-ý thức-thể vía-thể xác. Khi ngƣời chết
đi, thể xác tan rã, còn trí tuệ và ý thức co lại hợp vào linh quang, kéo theo thể
vía-thành linh hồn, rời thể xác, đi vào thế giới thiên linh.
Linh hồn về các cảnh giới khác nhau.
Về mặt vật lý: Các linh hồn từ các cảnh thấp-ví dụ cảnh Bảy trở xuống, thể vía
vẫn còn nặng, trật tự thông tin chƣa hoàn thiện, rung động nguyên tử còn chậm-
thấp. Nguồn Nguyên năng do Thƣợng đế cung cấp chƣa ở mức cực đại, và bọn
họ chƣa tiếp thu đƣợc cực đại năng lƣợng, vì phải nuôi thể vía ( khác bậc siêu
cao đã siêu thoát ở các cảnh cao hơn). Sức hút của cõi thấp-hay là sức hút của
168
nguyên tử lực đối của các hành tinh (trái đất ) có rung động thấp-cũng nhƣ loài
ngƣời, đối với các “tổ hợp nguyên tử” này còn lớn, sẽ làm chúng bị hút xuống.
Đây là nguyên lý của linh hồn cấp thấp, có rung động thấp buộc phải đầu thai
trở lại, theo qui luật đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu; của trƣờng
năng lƣợng và mật độ nguyên tử tƣơng ứng. (Nguyên Lý Trung Phƣơng gọi là
Cung trƣờng Lƣợng tử).
“ Sức hấp dẫn” hay là những từ lực do xã hội loài ngƣời ở trần gian rất mạnh. “
Sức hấp dẫn” này là tổng hoà các tƣ tƣởng thiện ác, những ý nghĩ vô cùng lộn
xộn, rối rắm, nó tồn tại ở dạng sóng, vƣớt qua cả vỏ não, lan ra trong không
trung; nhất là khi con ngƣời ngủ, linh hồn đôi khi thoát ra và đi lang thang. Mặt
khác, các vong hồn này chƣa tiến hoá xong (hay chƣa hút hẳn về khối Đại Linh
quang), cho nên họ còn bị chi phổi bởi sự lộn xộn vô cùng “hấp dẫn” của xã hội
loài ngƣời.
Mặt khác, thể vía-cấu tạo chủ yếu bằng các lớp thông tin ô trọc: Những khát
khao, dục vọng, tham vọng, nợ duyên…nên ảnh hƣởng của nó khiến cho linh
hồn luôn luôn muốn đầu thai trở lại! (Đây cũng theo qui luật nhân quả, nghiệp
còn phải trả, đồng thanh tƣơng ứng). Đặc biệt, các linh hồn hạ đẳng lại muốn
xuống đầu thai nhiều nhất, vì họ còn quá nhiều duyên nợ, khát vọng trần tục.
Mặt khác nữa: Theo qui luật tiến hoá, thì con ngƣời chƣa hoàn thiện,( ở một cá
thể đơn lẻ) phải đƣợc “học” ở “trƣờng trần gian”, cho đến khi nào hoàn thiện
thì thôi; tức là phải tiếp tục tồn tại qua các kiếp, cho đến khi nào linh hồn
“thanh nhẹ” con ngƣời đạt đại trí đại thiện đến độ về với Thiên đƣờng Thƣợng
giới. Đây vừa là qui luật tiến hoá, và cũng là ý chí của Thƣợng đế theo Chân lý
cuối cùng. vµ còng lµ ý chÝ cña Thîng §Õ theo Ch©n lý cuèi cïng
Luân hồi theo kiếp-nghiệp-quả:
Toàn bộ quá trình tồn tại của con ngƣời phải trải qua các kiếp khác nhau. Một
kiếp bằng một lần đầu thai, bằng một cuộc đời ở Hạ giới cụ thể. Kiếp, tức là
kiếp ngƣời. Đây là quan điểm của Phật giáo, Giai-na giáo khai sáng. Ta thừa
nhận vì tính chính xác. Con ngƣời phải trải qua vô số kiếp trong quá trình tiến
hoá lên Thƣợng giới. Có thể kiếp này là đàn ông, kiếp sau là đàn bà. Linh hồn
bất tử, nó thu nhận thông tin từ các kiếp để tiến hoá-tức trải nghiệm để học hỏi
về Định luật Vũ trụ. Con ngƣời sẽ phải trực tiếp giải quyết các hậu quả, hoặc
hƣởng các kết quả tốt từ các kiếp trƣớc. Tạo ra nghiệp gì, thì phải nhận quả ấy.
Nghiệp là các hệ quả tạo ra từ kiếp. Quả là kết quả “gặt hái” từ nghiệp. Nghiệp
là nguyên nhân, là gốc là duyên cớ để tạo quả ở kiếp sau; đặc biệt hiện nay, để
tăng cƣờng thúc đẩy nhân loại tiến hoá, Thƣợng đế cho con ngƣời phải trả quả
ngay tại kiếp này: Tạo nghiệp tốt, đƣợc quả tốt và ngƣợc lại. Nguyên lý này còn
xuất phát từ cơ chế vận động của trái đất lên mật độ cao, tốc độ lƣợng tử nhanh
169
hơn, làm cho các chuỗi thông tin đa chiều biến hiện, tác động nhanh hơn, làm
thúc đẩy quá trình chuyển hoá vật chất.
Theo luật “đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”, chính là một thuộc tính
của “Qui luật Phản hồi” trong Luật lớn Nhân quả, giữa hiện tƣợng và bản
chất…Khi các thể vía-những mặt tối của tƣ tƣởng, đƣợc tích tụ trong quá trình
sống, đã tạo ra “mặt tối” của linh hồn. Những linh hồn sẽ chịu một “sức hút”
của Hạ gipí theo hệ quả tƣơng ứng. Do đó linh hồn đầu thai trở lại theo qui tắc
“tƣơng cầu”.
Ở đâu, chỗ nào, kiếp nào, chuẩn bị cần và có các kiếp tƣơng ứng thì linh hồn sẽ
“sa” vào chỗ đó. Đó là qui luật tự nhiên. Các nguyên tử đen (thể vía) sẽ tìm tới
các môi trƣờng phù hợp để ở kiếp tiếp theo.
Nguyên tắc “ngƣợc lại” của phép nhân quả: Khi có một giá trị nào đó đƣợc xác
định ở kiếp trƣớc, thì kiếp này lãnh ngƣợc lại. Ví dụ: Kiếp trƣớc giết ngƣời-
kiếp này bị giết; kiếp trƣớc khinh ngƣời nghèo, kiếp này nghèo; kiếp trƣớc
không làm phúc, kiếp này không ai giúp đỡ; kiếp trƣớc lo giúp ngƣời nghèo,
kiếp này giàu đƣợc ngƣời giúp; kiếp trƣớc làm quan thanh liêm, kiếp này làm
quan phán xử…
(Điều này dễ hiểu vì tƣơng lai của các kiếp tiếp theo, phụ thuộc vào tƣ tƣởng,
trƣờng lƣu chứa thông tin và phát nguyện tinh thần, tƣ tƣởng của linh hồn đó,
đồng thời là ảo ngƣợc đảo lại của các dính mắc lƣợng tử với các đối tƣợng linh
hồn khác mà ta gọi là các duyên nợ…).
Nguyên tắc này khẳng định: Trƣớc tiên, đây là một nguyên lý vật lý, một định
lý của tự nhiên; và có sự giáo hoá của Thƣợng đế và Vƣơng Mẫu.
Phải làm cho con ngƣời rõ việc này. Kiếp này ta có việc gì, thì “soi lại” sẽ biết
kiếp trƣớc ta đã làm gì! ( Trừ trƣờng hợp các bậc tiên thiên thực thi nhiệm vụ,
phải chịu thử thách, thậm chí bầm dập để đạt chính quả).
Nguyên tắc “đƣợc đền bù” của Luật Nhân quả: Làm điều tốt, đƣợc đền bù gấp
nhiều lần.Ví dụ: Lo cứu ngƣời, kiếp sau đƣợc ngƣời giúp, cứu, thành đạt. Cúng,
làm công quả cho Trời, Phật nhiều, kiếp này đƣợc gia ân giàu sang.
Vậy: Ta thấy một ngƣời giàu sang, thiện tính, phải hiểu kiếp trƣớc anh ta là
ngƣời tốt.
Nguyên tắc “nhân lên” của Luật Nhân quả: Làm điều gì thì quả của nó đƣợc
nhân lên nhiều hoặc rất nhiều lần. Lo cứu giúp ngƣời nghèo, sẽ đƣợc thành
giàu; làm việc ác đạo, phải ghánh hậu quả nghiệp chƣớng nặng hơn cái quả của
mình gây ra.
Ba nguyên tắc này dựa và qui luật “phản phục”, “phản hồi” trong Luật Nhân
quả. đƣợc Thƣợng đế và Mẫu Vƣơng chi phối hoàn toàn.
CON ĐƢỜNG LUÂN HỒI:
Khi linh hồn đƣợc Thƣợng đế và Mẫu Vƣơng cho đầu thai trở lại Hạ giới, phải
có duyên.
170
Duyên này đƣợc qui định bởi số phận đƣợc định đoạt của anh ta trong kiếp tới,
số phận này phải đƣợc qui định theo luật luân hồi nhân quả.
Linh hồn phải chờ cho đến khi gặp đƣợc hoàn cảnh, số phận tƣơng ứng mới
đƣợc đầu thai. Ví dụ: Số anh ta kiếp này đƣợc giàu sang, phú quí, là bậc quí
nhân, có gia tộc danh giá. Anh ta phải đợi “cha mẹ” của mình xuất hiện trên
đời; khi có duyên, ngay lập tức anh ta sẽ đƣợc đầu thai vào gia đình ấy. Các số
phận khác tƣơng tự.
Đôi khi, những ngƣời thân kiếp trƣớc của nhau, đƣợc Thƣợng đế ban phúc, đã
cùng nhau đầu thai trong cùng hoàn cảnh số phận. Ví dụ: Kiếp trƣớc là duyên
lỡ, nợ nhau, kiếp này đầu thai cùng quê, để gặp nhau lên vợ lên chồng; kiếp
trƣớc là cha mẹ anh em, bạn bè, thậm chí là kẻ thù của nhau, kiếp này sống gần
nhau để trả quả. Anh em có thể kiếp này thành bạn; cô, chú, dì, mẹ có thể thành
chị…
Sự tƣơng ứng kỳ ngộ: Do qui định của duyên nghiệp, đồng thời do ảnh hƣởng
của qui luật “đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”, nên các số phận
khớp và hợp lý với nhau một cách kỳ lạ-ấy chính là số phận. Một con ngƣời,
vào một lúc nào đó, để trở thành ai, hoặc làm gì đó, nhất thiết phải gặp hoàn
cảnh. Những điều này luôn đƣợc qui định trƣớc, nhƣng có một khế ƣớc cho con
ngƣời cải hoá số phận ở sự canh cải, cải tạo số phận, khi anh ta chọn lựa bƣớc
đi để gặt hái các quả chuỗi xử lý đời sống tiếp theo. Nên, xét cho cùng, tƣơng
lai phụ thuộc vào hành động hôm nay của con ngƣời.
Khi có thần thông, có thể nhìn thấu đƣợc tƣơng lai, quá khứ của thế giới, dân
tộc, con ngƣời, sự vật hiện tƣợng…Nhƣng đó là có thể truy cập vào các khung
thời gian với những cung trƣờng khác nhau-giống nhƣ kịch bản khác nhau, cho
nên tiên tri luôn luôn là không chính xác 100%, thậm chí biết một kết quả,
nhƣng chúng ta có thể thay đổi đƣợc kịch bản này trong tƣ tƣởng và hành động
kịp thời. Đó gọi là đức năng thắng số, hay nói cho đúng là sự lựa chọn tiến hoá
của mỗi con ngƣời.
VI-KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
Không gian và thời gian đều là một dạng của vật chất.
Không gian và thời gian không phải là thuộc tính của vật chất. Ở đâu có vật
chất vận động là ở đó có không gian và thời gian. Cả không gian và thời gian
đều có nhiều chiều. Không gian là môi trƣờng vật chất đặc biệt, tồn tại
trong vũ trụ. Thời gian là mật độ khoảng cách giữa các điểm trong không
gian. Do là vật chất, nên có thể thay đổi đƣợc không gian, thời gian. Không
gian hay đổi, sẽ làm thời gian thay đổi. Không gian co giãn, thậm chí bẻ gãy
đƣợc và thời gian cũng thế! Có nghĩa là có thể thay đổi cả hai, khi tác động vào
171
chúng một nguyên năng đặc biệt. Cả không gian và thời gian đều đƣợc Thƣợng
đế chi phối. Không có sự chuyển hoá không gian thành thời gian và ngƣợc lại;
tuy nhiên chúng đều là thuộc tính của nhau. Trên các tầng không gian khác
nhau, có các hàm lƣợng khí chất của vật chất khác nhau, và có thời gian tƣơng
ứng. Mọi vận động của vật chất ở các tầng không gian đó sẽ khác nhau. Càng
lên cao, gần nguồn nguyên năng của Vũ trụ ( Thƣợng đế), thì không gian càng
lỏng, lƣợng vật chất càng giãn và thời gian không đậm đặc! Nguyên lý này giải
thích sự thay đổi và tiến hoá của linh hồn qua các cảnh giới, sự khác nhau về
thời gian ở trái đất với vũ trụ. Do thời gian là mật độ khoảng cách giữa các
điểm trong không gian, cho nên có thể “đọc” đƣợc toàn bộ thời gian, qui chiếu
nó, xoay chiều hay “ lộn ngƣợc ‟nó.
Với Thƣợng đế và các vong linh, thì thời gian là đồng hiện ở cả quá khứ, hiện
tại, tƣơng lai. Vì đó là sự đồng hiện giữa các điểm trong không gian. Mà
thuộc về vật chất thì không có gì không nhận thức đƣợc! “ cái gì sẽ có thì sẽ
đến, cái gì đã đến thì sẽ có!”. Khối lƣợng vật chất trong môi trƣờng không gian
là vô tận. Chúng không kết tinh, mà kết “màng”-một dạng của vật chất. Khi
chập một mảng không gian lại, ta sẽ chập đƣợc thời gian, có nghĩa là quá khứ
và hiện tại cùng đồng hiện!
Bằng các phƣơng pháp đặc biệt, sau này con ngƣời đi đến các hành tinh xa xôi
chỉ mất vài ngày! Bằng biện pháp gì? Biến đổi không gian theo chiều ngang.
Phƣơng pháp này chỉ khoa học tƣơng lai mới biết. Chúng ta nên nhớ: Linh hồn
và Thƣợng đế có thể cùng lúc có mặt ở khắp mọi nơi, mọi thời điểm nếu muốn.
Một bí ẩn khác là: Sau này, loài ngƣời sẽ biết cách khai thác các vật chất trong
không gian, trong đó có năng lƣợng vô tận từ Nguyên năng để “ sản xuất” đồ
nuôi sống chúng ta.
172
GIỚI THIỆU CHÍNH PHÁP THIÊN ĐẠO
ĐẠO KINH ( Trích) ĐẠO ĐỨC VÀ CON ĐƢỜNG CỦA TIẾN HÓA ĐẠO ĐỨC, TÔN GIÁO.
ĐẠO ĐỜI HỢP NHẤT
9 ĐIỀU KHÔNG
1-Không bỏ: Kính-thờ Thƣợng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới
SỰ MẠT PHÁP CỦA CÁC TÔN GIÁO CÓ TRƢỚC
THIÊN ĐẠO
I-Tính chất chung
1-Về giải thích thế giới, và thế giới tâm linh: Không một đạo giáo nào giải
thích chính xác về thế giới, về khoa học tâm linh và các hiện tƣợng tâm linh, thế
giới vô hình, linh hồn chính xác, trên cơ sở khoa học vật lý lƣợng tử hiện đại.
Một số đạo dùng bí hiểm tâm linh để dẫn dụ tín chủ; lại có pháp môn phức tạp,
kinh tự rắc rối. Bất lực trƣớc một số hiện tƣợng tâm linh, nhƣ hiện vong, nhập
vong, xem bói, tiên tri, xác thân bất hoại, thần giao cách cảm, tâm năng điều
khiển, linh tính, giấc mơ, xuất vía…Không giáo chủ tôn giáo nào đƣợc và đã
đƣợc Thƣợng đế cho thấy Ngƣời bằng mắt huệ, để Ngƣời giáo dạy trực tiếp! Nên
có khi hiểu sai về Cha, hoặc dùng bí hiểm mô phỏng, dẫn dụ tín chủ, dọa nạt tâm
linh tùy tiện.
2-Không một đạo giáo nào đƣa ra lý luận triết học tự nhiên và lý luận triết
học xã hội, xây dựng con đƣờng và biện pháp cải tạo xã hội loài ngƣời, để loài
ngƣời thực sự thông minh, thông linh, văn minh, đạt đại thiện, đại mỹ, để đạt
chính quả, siêu thoát ngay khi sống, nhƣng lại cũng cải tạo, xây dựng xã hội an
lạc. Họ chỉ đƣa ra các biện pháp và tiêu chí đạo đức. Về mặt lý tƣởng xã hội HẠ
GIỚI là không. Đạo Ki-Tô mơ đến thiên đƣờng trên cao, Chúa đƣa hội thánh
lên không trung trong tận thế, rồi xây nƣớc trời ngàn năm bình an. Cái nƣớc trời
ấy ở đâu, trên trời hay dƣới đất, xây nó nhƣ thế nào, đặc điểm của nó ra sao, thì
173
rất mơ hồ, không có triết lý và phƣơng pháp tiến hành cụ thể. Tức là không có
cách mạng xã hội và cách mạng tâm linh. Trong khi nhân loại còn tồn tại hàng tỷ
năm, vậy nhân loại sống nhƣ thế nào, ra sao, vào chùa hết hay lên thiên đƣờng
hết, thì không ai lý giải đƣợc.
Đạo Phật tu đạt giác ngộ, diệt dục, xuất thế, xa rời các nguyên lý tồn tại của xã
hội là sinh sống, sinh sản của loài ngƣời. Tu đạt siêu thoát-tức đạt trạng thái Niết
bàn, chết đi lên Niết bàn. Nhƣng còn xã hội hiện tại thì ai lo? Tu sỹ Phật giáo
còn phải ăn, phải mặc, dùng vật phẩm của chúng sinh, vậy còn nghiệp phải trả,
vì tu chỉ ích mỗi bản thân thôi. Ngƣời ta đi chùa cầu Phật, nhƣng họ không hiểu
nhiều về đạo đức và đạo pháp nhà Phật. Ngày nay và mai sau, pháp Phật có độ,
cứu nhân loại khỏi chiến tranh, bệnh họa không? Phật tổ đã nói: vào thời mạt
pháp, tu sỹ độ mình đã khó, nói chi đến độ ngƣời.
Cho nên Hồ Chí Minh có nói: Ông Bụt trong chùa hiền lành tốt tính, nhƣng chả
giúp đƣợc gì.
Khái niệm xã hội Thánh Đức là của đạo Phật, vậy Ta hỏi: Muốn có Thánh Đức
phải làm gì? Xây nó ra sao? Nó nhƣ thế nào? Ai sẽ xây nó, vào chùa xây hay
sao? Hay là khuyên ngƣời ta sống có đạo đức là đƣợc?
Đạo Phật chờ bồ tát Di Lặc giáng lâm, xây Thánh Đức, vậy Di Lặc xuống với
hình ảnh ông béo à? Mặc áo cà sa vào chùa xây Thánh Đức sao? Ai đã biết mặt
của Di Lặc thế nào? Bao lâu nữa, tới 8400 năm sau khi Thích Ca nhập diệt, Di
Lặc mới giáng lâm, vậy đến lúc đó, xã hội loài ngƣời sẽ ra sao? Rất siêu hiện đại
rồi, vậy Di Lặc sẽ dạy gì vào lúc đó?
Nay Phật Thích Ca đã hết nhiệm kỳ lãnh đạo, đã về giời, tất cả các cảnh chùa đã
không đƣợc còn giáng bóng nữa. Đây là luật mới của Thiên đình. Ngoài ra, nhƣ
chúng ta biết, Phật coi Thƣợng đế là Phạm Thiên Vƣơng. Thiên Vƣơng là một vị
thần lãnh đạo một tinh cầu, nhƣ quả đất, sao Hỏa…Có rất nhiều vị Thiên Vƣơng.
Cho nên sai lầm, tín đồ phật giáo hiểu sai, phạm tội bất kính với Cha! Cha là
đấng Đại toàn năng, còn sinh ra cả Phật Thích Ca, cho Ngài xuống thế gieo đạo.
Chúng ta nên nhớ, Ấn Độ giáo-hay đạo Bà La Môn-thờ đấng Brahman-tức
Thƣợng đế. Phật Thích Ca, vì thấy Ấn giáo suy đồi, không cứu độ đƣợc đau khổ
cho chúng sinh, nên vì thƣơng xót chúng sinh, Ngài đã phát nguyện, tu luyện và
sáng tạo ra pháp môn mới, trên nền tảng của Ấn giáo, vẫn là phép tu thiền, luân
hồi, kiếp nghiệp quả luân hồi, nhƣng chủ trƣơng thoát tục để thoát khổ; chủ
trƣơng không có ta-tức là vô ngã; trong khi Ấn giáo xác định con ngƣời là tiểu
ngã-linh hồn, trong đại ngã-thƣợng đế. Đây là khác biệt chính yếu của Đạo Phật,
và khi đạt trạng thái niết bàn, thì trở về hƣ vô, về không-thực chất là trở về với
Cha, hết luân hồi. Nhƣng đạo Phật nguyên thủy không công nhận có linh hồn,
Thƣợng đế. Nay các đức Phật đã đắc đạo, linh hồn họ vẫn đang hiện hóa, hồn
ngƣời ta nhìn thấy hàng ngày, thì lý thuyết nhận thức kia còn đúng hay đã sai?
Và Đức Phật nói: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, vậy đúng hay sai?
174
Ta chỉ biết có một vị duy ngã độc tôn, đang tƣới đức và sinh ra tất cả, là Thƣợng
đế!
Cha vẫn đang lãnh đạo cả chƣ thần-thánh-tiên-phật. Trƣớc khi ngài Thích Ca
Mâu Ni xuống thế để gieo đạo Phật, thì Ngài đã trải qua vô lƣợng kiếp tu rồi.
Chính pháp của đạo Phật, nhƣ chính đức Phật nói trong kinh phật, chỉ phát triển
có 2500 năm, sau khi ngài nhập diệt, rồi mạt. Nay Ngài đã nhập diệt đƣợc 2553
năm.
Đạo Phật nay đang hoằng dƣơng hơn, nhƣng nhân loại cần một cuộc cải cách vĩ
đại để cả nhân loại thành một trƣờng học, phải sống.
Đức Phật mãi là một bậc thầy khai ngộ về Đạo Đức và lòng từ bi cho chúng ta
phấn đấu.
3-Nhiều luận điểm mang tích chất hoang đƣờng trong kinh tự và pháp tu, đã
làm khoa học hiện đại chống lại. Các tôn giáo này bí, do kinh tự đôi khi có
những luận cứ quan trọng sai, thậm chí mang tính huyền thoại; nên dùng phƣơng
thức bảo thủ, bí nhiệm để lôi kéo con ngƣời. Thậm chí dùng thủ đoạn làm con
ngƣời u mê, ngu đần, với cách muốn ngu để trị- có tính phản động!
Không có tôn giáo nào đƣa ra đƣợc các qui luật lớn về Đạo Trời-Hay chính xác
là khoa học về nhận thức các qui luật lớn trong tự nhiên và vũ trụ.
Các tôn giáo trƣớc đã có tính chất làm tôn giáo và khoa học chống lại nhau; vì
sao: Vì sự bí nhiệm của pháp môn, bí hiểm tâm linh, không có khoa học tâm linh
soi đƣờng. Khoa học tâm linh không thống nhất đƣợc và không có điểm chung
với khoa học lý hóa thô mộc, triết học duy vật thô mộc hiện có.
4-Các tôn giáo không ngừng miệt thị nhau, thậm chí dùng thần quyền tiêu diệt
nhau, gây chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo, tôn giáo bị lợi dụng phục vụ
tham vọng tàn độc bành trƣớng xâm lƣợc trong suốt 2000 năm qua, nhƣ một vết
nhơ trong lịch sử nhân loại. Dùng tôn giáo làm lá bài để chống các dân tộc khác,
gây khủng bố, áp đặt quyền tự do và độc lập của các dân tộc.
“ Thế Kỷ 20, ta thấy có khoảng 10 cuộc chiến mang tính tôn giáo:
Thứ nhất phải kể cuộc chiến ở Bắc Ái Nhĩ Lan giữa những tín đồ Tin Lành và
Thiên Chúa Giáo thuộc La Mã đã kéo dài hàng thế kỷ.
Thứ hai: Cuộc chiến Bosnia và Kosovo giữa ngƣời Albania theo Hồi Giáo và
ngƣời Serbia theo Chính Thống Giáo, cuộc chiến này còn mang thêm tính sắc
tộc nữa.
Thứ ba: Cuộc chiến Croatia giữa những ngƣời theo Thiên Chúa Giáo La Mã và
Hồi Giáo.
Thứ tƣ: Cuộc chiến ở Nam Sudan giữa những tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã và
các tín đồ Hồi Giáo.
Thứ năm: Cuộc chiến giữa ngƣời Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi Giáo và ngƣời Hy Lạp
theo Chính Thống Giáo tức Thiên Chúa Giáo, ở đảo Cyprus.
Thứ sáu: Cuộc chiến ở Kashmir giữa những ngƣời theo Hồi Giáo đƣợc Pakistan
175
hỗ trợ với những ngƣời theo Ấn Ðộ Giáo đƣợc Ấn Ðộ hậu thuẫn.
Thứ bẩy: Cuộc chiến ở Ambon, Indonesia giữa những ngƣời Hồi Giáo và tín đồ
Thiên Chúa Giáo. Trƣớc đó là cuộc chiến tại Ðông Timor cũng của hai tôn giáo
này.
Thứ tám: Cuộc chiến ở Sri Lanka giữa chính quyền theo Phật Giáo và phe Ấn
Giáo đòi ly khai gọi là Hổ Tamil.
Thứ chín: Cuộc chiến tại Afghanistan trƣớc đây giữa hai phe Hồi Giáo Taliban
và Liên Minh Phƣơng Bắc, nay là cuộc chiến chống khủng bố.
Thứ mƣời: Cuộc chiến tại Philippines giữa chính phủ theo Thiên Chúa Giáo La
Mã và lực lƣợng Hồi Giáo gọi là Moro. Hiện nay đang có cuộc chiến tiêu diệt
nhóm Abu Sayab theo Hồi Giáo, đƣợc coi nhƣ thành phần khủng bố có liên lạc
với tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda.
Mới đây nhất là cuộc xung đột tôn giáo đẫm máu tại Ấn Ðộ khởi đầu từ ngày 27-
2-2002 giữa những ngƣời theo Hồi Giáo và những tín đồ Ấn Ðộ Giáo, chỉ trong
vòng một tuần lể mà có tới 700 ngƣời chết và nhiều nhà bị đốt cháy tại bang
Gujarat.”
( Tƣ liệu Internet)
5-Đặc điểm chung nhất là: Sự suy vi của Chính pháp, dẫn đến sự suy loạn của
Đạo đức và Đạo pháp, chính trong họ đang mâu thuẫn, chia rẽ và phản pháp;
đồng thời nhận thức loanh quanh lại, đấu tranh và đƣa ra các triết lý vụn vặt về
để bảo vệ chính pháp. Thời mạt pháp của các đạo, ứng với thời mạt thế hiện nay,
trƣớc chuyển thế.
Chúng ta sẽ thấy, sự suy mạt khủng khiếp của các linh mục Ki-tô và Giáo
hội…Nga cũng thờ Chúa, Mỹ cũng thờ Chúa, nƣớc nào đúng trong đạo đức? Và
sự mạo báng và bỏ pháp của rất nhiều ni sƣ, trốn đời vào chùa hƣởng lạc…Đạo
Hồi gắn với sự hỗn loạn đánh nhau ngay giữa phái Hồi là Sunite vµ Shiite.
6-Các tín điều đạo đức không phản ánh hết và không thỏa mãn đƣợc tính chất
phức tạp của đời sống và không đủ khả năng răn đe một cách tự giác khoa học
một cách lâu dài trong toàn bộ tiến hóa nhân loại.
7-Vấn đề siêu thoát: Không một tôn giáo nào có phƣơng cách siêu thoát hiện
đại và khoa học, đắc hiệu và nhanh chóng, đƣợc nhiều nhƣ chúng ta! Họ thƣờng
đọc kinh cầu chú, cho linh hồn tự giác ngộ hoặc phải dùng tha lực của các thần
thánh tiên phật khác; vì họ không có lý luận về trƣờng sinh học và linh hồn đúng
đắn. Ki-tô giáo khi có ngƣời chết, đào sâu chôn chặt…thực tế quá ít linh hồn
đƣợc siêu và còn lâu mới lên đƣợc cảnh giới 9 là Thiên đƣờng! Ngoài ra, Phật
giáo cũng ít đƣợc Niết bàn-tức giải thoát.
Thực tế qua 2 năm ( 2008-2009), Ta đánh hàng trăm trận với tà ma, với số lƣợng
có khi đánh bắt và cho siêu đến 9 triệu tên nhƣ trận đánh thần trùng, 12 vạn tên
vong tƣớng lính quân Nguyên-Minh- Thanh ở sông Hồng, 1 vạn quân Hoàng
Tàu bắc quốc, 3 vạn quân Tam vị Chúa bà, 2 vạn quân Bạch nữ thần… qua hàng
176
trăm cuộc bắt tà, quỉ, cho siêu thoát, đấu phép cả với một số vị thƣợng linh, 2 lần
bắt quan Hoàng Bảy chỉnh trị…đã có đủ luận cứ chứng minh về vấn đề linh hồn,
thể vía, cấu tạo linh hồn và tu luyện, cải tạo thể vía…chữa bệnh siêu đẳng, đúng
nhƣ lý luận siêu việt của chúng ta!
Ta đã từng gặp vô số vong là sƣ, có khi bị yêu tinh bắt làm quân, nhƣ trận đánh
thần nữ yêu tinh tại Xóm 4 HB, có khi bắt vong là cố đạo nhập vào trẻ em.
Nhƣ vậy: Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chúng ta là pháp môn tu tập siêu
ngộ Chân Lý và có cách siêu thoát cho vong nhân siêu đẳng nhất, mà không có
vị pháp chủ nào từ trƣớc có thể làm đƣợc nhƣ Ta; ngoài ra, cũng lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại, có sự kết hợp chặt chẽ Tôn giáo với Lý thuyết xã hội,
giữa thần quyền với chính quyền, giữa khoa học hiện đại với khoa học về tâm
linh và tôn giáo, thống nhất khoa học, thống nhất nhận thức về tín ngƣỡng tâm
linh-tôn giáo, thống nhất tự nhiên với lý tƣởng về Thƣợng đế, giữa tự nhiên với
con ngƣời, mà không có sự bí hiểm, bí nhiệm nào. Tất cả sáng rõ, trong sáng,
chân chính, lý tƣởng cao đẹp và triết lý khả thi, hơn bất cứ một triết thuyết xã
hội hay tôn giáo nào đã có từ trƣớc đến nay!
Do đó, chúng ta không là tôn giáo.
Chúng ta theo Đạo Trời muôn năm của Vua Cha Thƣợng đế vĩ đại.
8-Vấn đề bàng môn, tả đạo: Khi Đức Thích Ca ra đời, đạo Ấn Độ giáo, Giai-na
giáo đã có trƣớc khoảng mấy ngàn năm với thuyết luân hồi, nhân quả; đặc biệt,
pháp tu kiểu thoát tục Đạo sỹ Yôga đã có trƣớc đó khoảng 6 ngàn năm. Một thời
gian vô cùng lâu. Họ tập huyền môn siêu đẳng, siêu thoát ngay tại thế, xa lánh
tục trần. Sau này, vì thƣơng xót chúng sinh trầm luân trong bể khổ, Đức Thích
Ca đã sáng tạo ra pháp môn mới, với hệ thống đạo đức và tu tập tự giác ngộ ( tự
ngộ tự tha), trên cơ sở thiền truyền thống, xa tục trần xuất thế, nhƣng có tổ chức
( thực tế là cải cách tôn giáo Ấn). Lúc đó, Ấn giáo coi ngài Thích Ca là bàng
môn tà đạo. Đạo Phật không phát triển đƣợc ở Ấn Độ, phải sang Tây Tạng và
phía Đông. Khi đạo Phật phát triển, chia thêm nhánh Đại Thừa, thì những ngƣời
Tiểu Thừa coi đó là bàng môn. Sau còn rất nhiều pháp môn khác nhau. Đạo Ki-
tô cũng có hoàn cảnh tƣơng tự. Do Thái giáo thờ Chúa Trời-thánh Jê-hô-val có
trƣớc khi Jê-su ra đời mấy ngàn năm.
Tôn giáo là cụ thể, có tính cụ thể, lịch sử, phù hợp với giai đoạn lịch sử cụ thể
của xã hội loài ngƣời. Lịch sử loài ngƣời đã có vô số các tôn giáo khác nhau, cái
sau sinh ra từ cái trƣớc, thừa kế tinh hoa và cũng là phủ định cái trƣớc; cái trƣớc
có khi nói cái sau là bàng môn tà đạo. Nhƣng cái nào hợp qui luật tiến hóa, và
hợp với giai đoạn lịch sử phát triển kế tiếp của loài ngƣời thì tồn tại, phát triển,
rồi mạt, diệt, theo qui luật thành trụ dị diệt, thành trụ hoại không, nhƣ muôn sự
vật hiện tƣợng khác, không có gì là lạ.
Những ngƣời sáng tạo-ban đầu, luôn luôn bị chống đối, bị phá hại, thậm chí bị
làm hại, theo qui luật phản phục, không có gì là lạ. Nhƣng rồi, cái mới, cái tiến
177
bộ sẽ đi lên, thậm chí có khi bị thụt lùi…
Vậy nhận thức của nhân loại, với tính cụ thể là các hình thái ý thức, trong đó có
tôn giáo, đạo đức…luôn luôn phát triển từ thấp đến cao, theo chiều xoáy trôn ốc,
đi lên, càng sau càng hoàn thiện. Ý thức, nhận thức nào hợp qui luật tất yếu tiến
hóa và phù hợp với điều kiện phát triển mới của xã hội loài ngƣời thì tồn tại và
phát triển, rồi cũng sẽ bị lụi tàn là tất yếu. Cái gì cũ, lạc hậu, sẽ tan rã; đƣơng
nhiên cái cũ sẽ chống lại cái mới sinh ra, bảo thủ sẽ chống tiến bộ, nhƣng theo
thời gian và qui luật, cái gì hợp lý, hợp qui luật thì tồn tại và đi lên. Vấn đề là ở
chỗ tách ra, có cái nhìn chung, để đánh giá và phân tích, không vô minh, không
kỳ thị, nhƣng cũng không cố tình bảo thủ thành phản động, thậm chí gây tội ác
chống lại tiến hóa. Xã hội, hay các triết thuyết cũng đều thế.
9-Về các nghi thức tâm linh: Đa số các tôn giáo đều rƣờm rà, nặng nề, thậm chí
bắt dân đóng góp xây dựng nặng. Dân nghèo, xây lắm chùa chiền nhà thờ. Việc
đƣa vong cốt vào thờ trong chùa là sai lầm về linh pháp, vì chùa là nơi để con
ngƣời tu hành, chứ không phải là nhà mồ; ngƣời ta đã hiểu sai việc nhờ Phật tiếp
dẫn vong đi siêu, với chuyện cho vong vào chùa tu tập. Tu chỗ nào? Học ai?
Nhiều vong nói với Ta là họ rất đói, lạnh, buồn thê thảm! Xin về nhà cho ấm áp!
Việc chôn sâu không cải táng của Công giáo không diệt, hoặc làm tan rã đƣợc
linh hồn, mà càng làm họ khó siêu thoát, trở lên bất trị và phá lại hạ giới. Địa
ngục không phải dƣới đất. Thực tế, yểm phong thủy…không phải lúc nào cũng
đƣợc. Có quá nhiều các vong ngƣời Công giáo hành lại chính ngƣời thân, Ta
chữa bệnh tâm linh, bắt họ, siêu, dạy, rồi mới bắt họ chữa cho ngƣời thân của
chính vong đó.
Theo đạo, nhƣng không ăn chay, không thiền công siêu đẳng, lại tham tiền tài
vật dục danh, lợi, ghen tỵ, hoặc thèm khát khi tu, hoặc nhận thức tri thức thấp
kém…thì làm sao chết siêu thoát đƣợc!?
Một số tôn giáo, từ khi ra đời đến nay, mang lại đau khổ, đau thƣơng cho nhân
loại, hơn là cứu rỗi, cứu độ! Đó là sự thật không thể chối cãi!
Cha là của chung, không phải là của riêng của bất cứ tôn giáo hay pháp
môn nào.
Có hàng vô số pháp tu tập để về với Cha, pháp nào đã lạc hậu, tất suy bại.
Các vị hãy nghe chính những lời nhận xét của Cha về họ.
……………………..
Ngoài ra, cần nhấn mạnh: Thời Thánh Đức, thuộc về một giáo lý mới; bản chất
xã hội Thánh Đức-thực chất là xã hội cộng sản Thiên Đạo tại thế này; ngƣời ta
sống và tu tập học hành tại gia, mà vẫn hiền lương, đạt lục thông, đó mới là
điều vĩ đại! Không thể vào chùa hết mà xây xã hội an lạc, nhân dân thái bình
đƣợc. Cũng không thể khuyên chúng sinh sống đạo hạnh, giác ngộ Chân lý, giải
thoát, khi xã hội còn điêu linh, đói nghèo và bệnh tật. Con ngƣời muốn tồn tại,
không thể thoát ra khỏi cộng đồng đƣợc-xét nghĩa toàn thể nhân loại. Con ngƣời
178
ta phải ăn mới đến Đạo, không thể khất thực của xã hội mãi đƣợc; không có ăn
thì không thành đạo, Phật Tổ đã từng bỏ lối tu khổ hạnh để đi vào Trung đạo; mà
Đạo là sự tồn tại của các qui luật, trong đó có qui luật sinh hóa. Không tiến
hành cải tạo xã hội, thì không thể giải quyết tận gốc sự đau khổ của con
ngƣời. Ai xuống thế, cũng vào chùa hết, thì ai làm cho mà ăn? Hoặc từ bi hỷ xả,
xả thiền, bỏ tam độc là tham sân si…nhƣng cuộc sống khốn nạn làm họ bầm dập,
thì họ liệu có an nhiên tự tại hay loại bỏ sự đấu tranh trong bản thân và xã hội
với nhau đƣợc chăng? Loại ngƣời dĩ hòa vi quí đáng sợ hơn cả, và chúng ta sợ
nhất là loại ngƣời quá tốt! Đúng không khen, sai không chê, hỷ xả cho kẻ ác một
vài lần, nhƣng tổng số chúng thì thành họa cho xã hội! Chúng ta quá hiểu, thời
mạt, kẻ hiền tài, ngƣời hiền lƣơng hay bị oan trái, bị đọa đày, thiệt thòi thế nào
rồi!
Hạnh phúc không phải là tu nhàn, mà là cống hiến cho loài ngƣời và tu tập khoa
học đắc cách, để có hạnh ngộ phúc đạo, sống đạo đời hợp nhất. Chỉ có xã hội
Thiên Đạo mới làm đƣợc Đại đồng Thánh Đức, giải phóng đƣợc nhân loại khỏi
tội ác, chiến tranh, tham tàn và vô minh, vô thần, hoặc mê tín mê muội; lại chính
thờ Cha thực của mình là Thƣợng đế-tuân theo luật Trời hay Đạo Trời, mà
không tôn giáo nào hiện nay có thể mô phỏng hay thể hiện đƣợc một cách khoa
học. Chúng ta là tiểu ngã trong đại ngã, tiểu hồn trong đại hồn, thực tế hiện nay
linh hồn Phật tổ vẫn tồn tại, vẫn hiện hóa, chứ không phải là không. Thƣợng đế
còn vô vàn đau khổ, vì con cái của Ngƣời còn đau khổ, đƣa vài chục vạn ngƣời
lên thƣợng giới trong một thế kỷ là quá ít, nhƣng nếu thế giới này là một xã hội
lành mạnh, thì sẽ có hàng chục triệu, hàng trăm triệu ngƣời đạt đạo. Còn mọi chƣ
phật và bồ tát, đều luôn theo chỉ lệnh của Vua Cha. Các cổ thần, hay cổ phật, hay
các thần thánh, hay các thần tinh…đều là một, là cách gọi khác nhau của các tôn
giáo mà thôi; vì Nhân loại cũng chỉ là Một.
Tuy nhiên: Tƣơng lai, chúng ta sẽ chọn lọc những tinh hoa cao quí của Phật
giáo để xây Thánh đức là: Đạo đức cao đẹp, Bát chánh đạo, thuyết luân hồi, nhân
quả
( tất nhiên cần sửa lại), pháp thiền, vì không thiền, không thể đạt thần thông và
năng linh. Phật Tổ mãi là ngƣời thầy vĩ đại của chúng ta.
Chúng ta cần kế thừa, phát huy tính tốt của Nho giáo Phƣơng Đông: Ngày
nay chế độ phong kiến không còn tồn tại với tƣ cách là hình thái chính trị, pháp
quyền, cơ sở kiến trúc thƣợng tầng cũng nhƣ hạ tầng của nó đã bị sụp đổ; nhƣng
với tƣ cách là một hình thái ý thức đạo đức (đạo Nho) thì những mảng vỡ cuả nó
vẫn còn, dùn ít dù nhiều, vẫn ảnh hƣởng lớn tới xã hội phƣơng Đông hiện nay.
Do đó phải xét cái hay, cái dở của nó để góp phần xây dựng nền văn hoá mới
phát triển lành mạnh theo tinh thần tiếp thu chọn lọc tinh hoa của nó, không phủ
định sạch trơn mà kế thừa biện chứng có chọn lọc.
179
Một phần tƣ tƣởng nho Giáo tồn tại, do các nguyên nhân sau: Do cơ sở kinh tế
cơ bản vẫn là nông nghiệp với sản xuất lạc hậu, kiểu truyền thống. Ở Trung
Quốc, Đông Nam Á…vẫn còn bộ phận kinh tế nông nghiệp nông thôn lạc hậu.
Tính chất sản xuất nông nghiệp nhƣ thế này còn tồn tại khá lâu nữa, nhất là ở các
vùng nghèo, kém phát triển, miền núi.
Đô thị hoá nhanh, nhƣng diễn ra chủ yếu ở các đô thị lớn và quanh độ thị. Nông
dân vẫn chiếm số đông. Làng xã, thôn xóm không khép kín nhƣ xƣa, nhƣng vẫn
tồn tại văn hoá tiểu nông lạc hậu. Văn hoá chƣa đƣợc hiện đại hoá toàn diện,
chƣa xoá hết mù chữ. Phong tục tập quán cổ truyền luôn luôn có xu hƣớng bảo
thủ và phát triển rất chậm.
Trung với nƣớc: Tinh thần trung quân ái quốc, trung với vua, hiếu với cha mẹ
đƣợc cải biến thành trung với nƣớc, hiếu với dân.
Đạo tam cƣơng ngũ thƣờng, ngũ luân của phong kiến, tạo ra riềng mối rƣờng cột
trong quản lý xã hội cũ, biến cải thành một số kinh nghiệm trong xây dựng các
mối quan hệ mới, trong xây dựng thiết chế văn hoá, thiết chế chính trị, đạo đức,
trong quản lý xây dựng gia đình và xã hội mới, con ngƣời mới.
Đức là nội dung quan trọng nhất của xã hội phong kiến; đức là phẩm chất, tập
trung ở: Lễ, nghĩa, nhân, trung, hiếu, tiết hạnh. Ngày nay xã hội phƣơng Đông
vẫn trọng đức làm đầu: “ Có tài mà không có đức nhƣ cây không có gốc, vô
dụng lại có hại” ( Hồ Chí Minh). “ Cái nết đánh chết cái đẹp”…do đó đạo đức
vẫn là nền tảng muôn đời của xã hội. Ý nghĩa và tầm quan trọng đó ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị.
Ngũ luân: Vua tôi, cha con, vợ chồng, trƣởng ấu, bè bạn. Ngày nay quan hệ vua
tôi thành quan hệ cá nhân với lãnh tụ, hiểu rộng ra là với thầy, với cấp trên, với
tổ chức, vẫn cần có chuẩn mực, có tình, có lý, vừa là đạo lý làm ngƣời. Làm
công dân
phải trung với nƣớc, con phải hiếu với cha mẹ, vợ chồng vẫn phải “tƣơng kính
nhƣ thân”, hoà hợp. Em phải kính anh, bạn bè phải nghĩa, hiệp, thuận, thân.
Tu thân vẫn là một giá trị quan trọng trong xây dựng nhân cách con ngƣời. Cả
đời ngƣời lúc nào cũng phải tu thân. Thanh niên thì lập thân mới lập nghiệp,
ngƣời thành đạt lập nghiệp mới lập ngôn. Giá trị danh chính-ngôn thuận vẫn còn
tác dụng lớn. Hiền tài vẫn là nguyên khí của quốc gia. Con ngƣời ta sinh ra vẫn
phải tuân theo luân lý chung, đó là đạo làm ngƣời. Có trí, lễ, nghĩa, trung, liêm
thì mới thành nhân. Đặc biệt là cán bộ. Cụ Hồ dạy: “Trung với nƣớc, hiếu với
dân”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tƣ”. Đạo đức vẫn là cáo gốc của ngƣời
cán bộ cách mạng.
Cụ Hồ Chí Minh còn nói: “Học để làm ngƣời, học để làm cán bộ” phục vụ nhân
dân. Xƣa học để làm quan, nay học để phụng sự nhân dân, làm đày tớ của nhân
dân.
Nho giáo lấy đức trị làm đầu…xét cho cùng, tính chất ƣu việt ở chỗ, lấy giáo
180
dục thuyết phục làm trƣớc, sau mới chế áp. Phƣơng pháp giáo dục đạo đức vẫn
coi trọng yếu tố làm gƣơng trƣớc, xử phạt sau. “Lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên
hạ”.
Trong gia đình và ngoài xã hội, bên cạnh việc bình đẳng về quyền lợi của cá
nhân, và tổ chức do pháp luật qui định, vẫn phải có tôn ti trên dƣới. Xác định chỗ
đứng, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng công dân, trong gia đình, từng
ngƣời trong xã hội, không thể tự do tuỳ tiện, đều phải tuân theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Hạn chế những ảnh hƣởng xấu và điều chỉnh văn hoá phƣơng Đông nói
riêng và văn hoá Nhân loại nói chung:
-Đó là óc địa vị, tôn ti trật tự, đẳng cấp, cục bộ có nguồn gốc do giai cấp phong
kiến (tầng lớp vua quan, nho sỹ) là giai cấp trên, đƣợc quyền chiếm đoạt, sử
dụng của cải xã hội (đứng trên nhân dân, coi khinh lao động). Địa vị luôn gắn
với đặc quyền đặc lợi, làm quan có sức hấp dẫn đặc biệt. Tƣ tƣởng địa vị thâm
căn cố đế ( do đạo tam cƣơng) tìm cách để có địa vị, địa vị chức quyền càng cao,
bổng lộc càng nhiều. Để vinh thân phì gia. Muốn có quyền lực, phải kết bè phái,
cục bộ ê kíp, cục bộ địa phƣơng, cục bộ dòng họ. Cục bộ còn do tính chất bảo
thủ làng xã. Điều này chúng ta cần tránh trong xây dựng thiết chế tự trị sau này
của xã hội đại đồng. Muốn bảo vệ quyền lợi, thì phải cục bộ. Giá trị con ngƣời
đƣợc xét theo địa vị và danh vọng, mà coi nhẹ đạo đức. Vì tƣ tƣởng quyền danh
mà háo quyền hành, háo danh. Tâm lý háo danh còn ảnh hƣởng tới cả lớp trẻ khi
học, chọn nghề và cả xã hội. Đạo đức phong kiến trọng ngƣời quân tử ( xét kỹ là
ngƣời có học), cho nên quân tử phải đem sự học ấy để hành đạo ( giáo hoá, chăn
dân, huệ dân). Nên đôi khi, biến dị đi, quan tham cũng là “cha mẹ dân‟. Xuất
phát từ tƣ tƣởng đặc quyền đặc lợi, nên để bảo vệ địa vị ấy, vua phải dựa vào
dòng tộc, cho mình là “thiên tử ” chăn dân. “Thần thiêng phải có bệ hạ”, quan thì
phải dựa vào vua, nịnh nọt vua, dựa vào dòng họ, cục bộ. “Một ngƣời làm quan
cả họ đƣợc nhờ”. Vô số vua quan vì quyền lợi cá nhân, mà tranh ngôi vị, tranh
đất, tranh thiên hạ, đƣa xã hội bao năm vào chinh chiến nồi da nấu thịt, huynh đệ
tƣơng tàn. Không biết họ thay trời hành đạo cái gì?
Đã có tƣ tƣởng nhƣ thế, nên phải có những thủ đoạn nhƣ kéo bè kéo cánh, tiêu
diệt lẫn nhau, tranh dành chức quyền, làm hại ngƣời tài, ngƣời lƣơng thiện. Đặc
biệt là tính cách đố kỵ ghanh ghen xấu xa, nguồn gốc là để tranh dành, gây vô
vàn tội ác.
Thời loạn thì trọng nhân tài, đến khi thời thịnh, thì triệt hạ hiền tài. Trong lịch
sử có vô khối chuyện đau lòng về chia rẽ đất nƣớc, triệt hạ hiền tài, bảo thủ
phản động, phản dân hại nƣớc vì quyền lợi cục bộ.
Kết luận
Muốn thực hiện đại đồng, hợp nhất tôn giáo, nhân loại, phải: Có một Chính
Pháp lớn đủ bao trùm mọi pháp cũ, cao hơn mọi triết-thuyết xã hội hiện có,
181
giải thích khoa học mọi vấn đề của tự nhiên-xã hội-con ngƣời-khoa học hiện đại,
hợp lý hóa đƣợc lý tƣởng xã hội, khoa học với Đạo pháp-Chính pháp và huyền
thuật-tức là Huyền pháp; hiện đại, nhƣng không cũ trong hàng vạn năm; không
lặp lại cách thức tu tập và nghi lễ đã cũ… đáp ứng đƣợc tiêu chí và phản ánh
đƣợc sự phát triển của mọi thời đại tƣơng lai; đồng thời, thực hiện cuộc cách
mạng tâm linh sâu rộng, cùng lý tƣởng xã hội, cả lý tính, cảm tính; và phải
chứng minh đƣợc sự hiện hữu và khả năng khả thi của Pháp. Phải có một pháp tu
tích cực, đắc hiệu, nhƣng không xa rời cuộc sống bình thƣờng của con ngƣời.
Nghi lễ giản dị, Đạo-Đời hợp nhất, dành cho hàng vạn năm.
1-Nhân loại tƣơng lai cần một đạo chung mới, hợp nhất là Không tôn giáo-hay
gọi là ĐẠO TRỜI, đủ cho cả nhân loại hòa bình an lạc. Không thờ, hay thờ
Thƣợng đế không quan trọng bằng thực hiện lý tƣởng theo con đƣờng của
Thƣợng đế chỉ dạy, định hƣớng-là qui luật tất yếu của xã hội loài ngƣời.
2-Nhân loại cần một triết thuyết khoa học-tâm linh chính xác về qui luật tiến hóa
của Vũ trụ-nhân loại. Hiện triết học phƣơng tây hiện đại bế tắc và khủng hoảng,
CNTB sẽ tất yếu bị diệt vong. Triết học và khoa học hiện đại bó tay không đủ
khả năng giải thích các hiện tƣợng bí hiểm và sự thật tâm linh.
3-Có ngƣời sẽ nói chúng ta là gì mà có quyền “phán xét” các tôn giáo?
Ta nói các lý do sau:
-Thứ nhất:-Đã là đứng ngoài họ, và là con ngƣời có nhận thức, thì phải biết hay
dở tốt xấu, khi nhận thức cái khác, ví nhƣ nhận thức ngƣời khác và ngƣời khác
nhận thức về mình vậy. Do đó, ta có quyền nhận thức cái hay, cái dở của các tôn
giáo. Cái mới sinh ra, thì luôn phủ định cái cũ; xƣa các tôn giáo lúc mới ra đời,
hay các học thuyết cũng thế.
-Thứ hai: Các đạo đã mạt pháp-do chính họ, có tính phổ biến, không cƣỡng lại
đƣợc. Vì chúng ta đƣợc lệnh xây dựng Chính pháp mới, có quyền lực tâm linh
của Thiên đình ban cho, có sắc lệnh, có khả năng thông linh, ngồi chính vị ghế
bóng-nên có quyền so sánh, tự tin nghiên cứu và nhận xét, trên cơ sở đánh giá
khách quan, khoa học, theo nhận thức của chúng ta, chứ chúng ta cũng không vơ
vào, không chửi rủa bới móc, hay miệt thị tôn giáo, mà trân trọng, thận trọng
đánh giá, không chỉ chúng ta, mà theo nhƣ đánh giá chung và ngay trong đánh
giá của chính các tôn giáo đó. Thậm chí chúng ta tiếp thu nghiêm túc, khoa học
các giá trị tinh hoa của họ. Tại sao? Vì đạo đức chính thống của mọi tôn giáo đều
cao đẹp, các bậc giáo chủ xƣa đều là những linh căn lớn do quyền phép và tiên
tri của Cha giáng thế lập đạo. Cái gì cũ, không hợp nữa, thì nói là cũ.
-Thứ ba: Hiện nay, luật Thiên đình lập Thánh đức tại thế, nhƣng tất cả các pháp
môn cũ đã và sẽ không bao giờ đáp ứng đƣợc tƣơng lai ấy, không thể tiến
hành một cuộc cách mạng về khoa học tâm linh và khoa học về xã hội đƣợc!
Nếu ai tiến hành đƣợc, thì chúng ta cầu cho họ thành công! Họ sẽ bất lực trƣớc
hiện trạng đau khổ của Cha và loài ngƣời chúng ta hiện nay.
182
-Thứ tƣ: Bản tôn Ta không phải là kẻ cầu bơ cầu bất về tâm linh. Cha khai pháp
cho Ta, dạy từng việc, từng phép; và đặc biệt cho Ta ngồi ghế bóng của Cha.
Xƣa ít ngƣời nhìn thấy vong hồn, nay thời mới, Cha cho nhiều linh căn giáng thế
nhìn thấy Cha, và đã có nhiều ngƣời ngoại cảm cao cấp, biết rất rõ, hoặc nhìn
thấy Cha độ cho Ta, Cha cho họ cũng nhƣ Ta nhìn thấy Cha. Khỏi phải cãi xem
có Thƣợng đế có thật hay không! Vậy Ta có quyền nhận xét mọi sự theo sắc lệnh
và quyền luật Cha ban cho Ta!
Thực tế, đến nay, các bóng linh đều đã tuân luật chuẩn bị Chuyển thế.
Kẻ nào đã xuống đầu thai, tại thế, chống luật, chống phép, sau sẽ bị xử trị.
Chúng ta chờ cuộc Chuyển thế, không đƣợc manh động. Ai tranh dành cũng
không đƣợc, mọi sự do Cha và chƣ thiên sắp xếp cho phù hợp. Lý thuyết này
góp phần, dâng lên Thánh Đức.
Sau Chuyển thế, các linh căn chúng ta còn sống ở Hạ giới tuân theo Cha giáng
linh dạy mọi việc để thực hiện công việc chung. Sẽ còn nhiều các linh căn nổi
lên.
Lời Thƣợng Đế
Thƣợng Đế là Ta, Ta là Thƣợng Đế
Sinh ra muôn loài, Ta là chúa tể
Ta là cỏ cây, hoa lá, nhân sinh
Ta là đất đai, hạnh phúc, hoà bình
Là Chân lý, cội nguồn cuộc sống
Là văn minh, là màu xanh, đích đợi
Ta là phúc phần giáng khắp nơi nơi
Ta ở đâu giáng phúc ở đó
Kẻ nào rẻ rúng Ta sẽ mất Ta
Kẻ bỏ Ta sẽ quay trở lại
Kẻ Ta bỏ sẽ làm lại từ đầu
Kẻ hại Ta sẽ tự tiêu diệt
Kẻ phản Ta là tự phản mình
Kẻ chống lại Ta sẽ bị ngƣời chống
Kẻ nhạo báng Ta là tự huỷ thân hình
Ta là đấng Cao Minh
Thiện-Mỹ-Chân vĩ đại
Đạo Hằng Ta phổ ba ngàn Thế giới
Mƣời phƣơng Trời, Ta ngự ở Trung Phƣơng
183
Ấy là Bắc Đẩu tinh-Toà Bạch Ngọc phi thƣờng
Ta là Thƣợng Đế
Thƣợng Đế là Ta
Ta là chúng sinh
Chúng sinh là tất cả
Chí Tôn là cây, Thiên Tôn là lá
Ta là ông Trời
Trời cao khôn tả.
Thần Thánh Phật Ta sinh
Ta là Thiện sinh, Thiện Đạo.
Ai nói về Ta, Ta sẽ ở bên
Ai nghĩ về Ta, Ta sẽ ở trong lòng
Thờ Ta là Đạo
Đạo Thiện, Đạo Đồng
Đạo Trời muôn thủa thuỷ chung
Ấy dòng nhựa sống máu hồng muôn năm….
THIỆN VÀ ÁC
Thiện và ác là hai phạm trù đối lập nhau. Là hai phạm trù thuộc tính của nhân
cách con ngƣời; là thƣớc đo để xem xét đánh giá đạo đức. Nó cũng gắn liền với
các nội dung của tôn giáo nói chung, vì tôn giáo chân chính nào cũng lấy tính
thiện, tu tập đạo đức làm đầu.
Với Thiên Đạo, thiện và ác đƣợc phân tích, trở thành các chỉnh thể quan trọng để
không những đánh giá nhân cách, mà còn để nghiên cứu, phán xét, có cách biện
pháp cải tạo nhân cách; xét các mối quan hệ của thiện và các để giáo hoá chúng
sinh, thậm chí cả linh hồn để tiến hoá theo con đƣờng của Thƣợng đế. Vì tôn
giáo chân chính nào cũng lấy tính thiện, tu tập đạo đức làm đầu.
1-THIỆN: Thiện gồm có thiện tính và lƣơng thiện:
-Thiện tính là thuộc tính của đạo đức, trong nhân cách; đó là khả năng không làm
ác và khả năng hƣớng đến việc thực hành cái thiện, điều thiện nói chung.
Cái thiện ấy là không muốn, hoặc không bao giờ muốn làm hại cái thiện, cái tốt,
cái chân chính trên đời.
Thiện tính khác tính thiện. Tính thiện là một nét của đạo đức, là khả năng thực
hiện và sự thực hiện, cùng kết quả của việc thiện, đạo thiện. Còn thiện tính là cái
có sẵn, đƣợc tồn tại trên cơr vững chắc của lƣơng tâm lành mạnh. Thiện tính còn
là khả năng phấn đấu để cải tạo bản thân, xã hội, con ngƣời; đất tranh chống cái
184
ác, cái xấu xa, độc ác; giáo hoá cái ác, cái xấu, để cái ác cái xấu trở thành tốt lên;
mà không cực đoan, không tận diệt tàn bạo chúng.
Thiện tính có tính lƣơng tâm, có sự nhân ái sâu sắc. Thiện tính không ngu muội,
chạy theo cực đoan, cũng không trung dung, mà dứt khoát nghiêng hẳn về thiện
lƣơng đế thực hiện cái thiện. Có thể nghĩ hẹp một chút, tính thiện đó nhƣ một
thiện căn vậy. Thiện tính là cái có sẵn thuộc lƣơng tâm, đƣợc tu tập qua các kiếp,
đƣợc tu bổ trực tiếp tại hiện kiếp; nhiều hay ít là don bản thân hiện kiếp này phát
huy tiếp hay đánh mất nó. Ai cũng có tính thiện, dù ít hoặc nhiều, vì cũng có
lƣơng tâm, dù ít hoặc nhiều. Thiện tính thuộc lƣơng tâm, phụ thuộc lƣơng tâm,
dù ít.
-Lƣơng thiện: Là phƣơng pháp và lối sống trong sạch. Phƣơng pháp này do tính
cách tạo nên, mà tính cách là thứ có thể thay đổi, giáo hoá đƣợc; cho nên, lƣơng
thiện là quản của thiện tính, của lƣơng tâm. Có ngƣời sống không lƣơng thiện
hoặc ngƣợc lại. Lƣơng thịên là cách sống của lƣơng tâm chỉ bảo. Khái niệm này
theo Ta rất rộng. Không sống ác, thất đức, làm ác, không tham lam của ngƣời
khác, không tham ô, hủ bại; không tham gia vào các việc trái với đạo đức.
Lƣơng thiện chƣa chắc đã tham gia đấu tranh chống cái ác, có khi dĩ hoà vi quí,
đạo đức an lành là xong; hoặc không bao giờ làm ác với ai, hoặc cả việc không
dám chống cái ác vì sợ nó. Trong khi thịên tính dám chống cái ác thì nó mới là
tính thiện. Nhƣng lƣơng thiện là cái căn có đƣợc của một nhân cách đạo đức
trong sạch.
Cả thiện tính và lƣơng thiện tạo thành thiện ( cái thiện). Với Ta, đó là cặp nội
dung quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ, bổ cung cho nhau. Cũng có thể có cái
naỳ mà không có cái kia. Ví dụ: Một tên cƣớp, đi cƣớp của ngƣời giàu cho dân
nghèo, là có thiện tính, nhƣng không lƣơng thiện. Một ngƣời sống sạch sẽ, tròn
vo, không ác, không thất đức, là lƣơng thiện, nhƣng cũng chẳng bao giờ tìm cách
giúp ngƣời.
Thấy cái ác nó làm hại cái thiện, mà không dám bảo vệ thiện, vô tình, hoặc dửng
dƣng, liệu còn thiện? Ranh giới ấy với cái ác là rất mỏng; chỉ cần né tránh cái ác,
không bảo vệ thiện, để mặc cái thiện bị vùi dập, thì anh ta sẽ thành bất nhân. Ví
dụ: Ra đƣờng, gặp một ngƣời thiện bị kẻ ác hành hung, gặp cảnh ngƣời thiện bị
hành hạ khốn khổ, mà anh ta cứ giƣơng mắt xem, không can, không giúp, thì
không là thiện nữa! Gặp kẻ hoàn nạn mà không ra tay cứu giúp, mà dửng dƣng
thì anh ta ác; mặc dù trƣớc đó anh ta lƣơng thiện. Vì quá cực lƣơng thiện thì hoá
thành cái thiện ích kỷ, ngu thiện.
Đạo Ta không cần, không trọng thứ ngu thiện ấy!
Thiên Đạo Ta là biết sống kết hợp cả hai phần: Thiện tính ở trong nhƣ ngọn lửa
soi sáng tâm can, hun đúc lên sự nhiệt tình hƣớng đến việc thiện, việc lành, việc
nhân đức; sống thanh cao về lý tƣởng, trong sáng hƣớng thiện, cải tạo mọi thứ
cho tốt lên theo qui luật tiến hoá; và sống lƣơng thiện thực sự.
185
Đạt đƣợc hai cái đó, chúng ta mới thực hiện đƣợc lý tƣởng cao đẹp của Cha.
2-Ác:
-Là thuộc tính của nhân cách, gồm ác tính và bất thiện.
Ác tính là sự hƣớng đến cái ác trong nhân cách, thích làn việc ác, coi cái ác hoặc
là sự phấn đấu, hoặc là sự tạo nghiệp theo tính ác. Tính ác không có sẵn trong
lƣơng tâm, nhƣng luôn có sẵn trong nhân cách, dù nhân cách ấy đƣợc tiến hoá tốt
đến bậc nào. Có nghĩa: Với một nhân cách trần giới, tính ác luôn có, dù ít, dù
nhiều. Nhƣng quan trọng nó có bộc phát, tồn tại nhƣ thế nào. Ngƣời thiện lƣơng
dù có lúc nghĩ đến việc ác, nhƣng không thực hiện vì thiện tính chiến thắng; kẻ
ác thì ngƣợc lại. Ác tính khác với làm việc ác. Ác tính có khi chỉ ở việc ác tâm,
không thiện. Ác tâm là thích việc ác trong đầu, có thể chƣa làm.
Bất thiện là đã thực hiện ý nghĩ, làm việc, đã sống không thiện; là phƣơng pháp
sống không thiện. Nếu đã thực hiện hành vi bất thiện thì là ác. Bất thiện chƣa
chắc đã là ác hẳn, có khi một ngƣời tốt, làm nhiều việc tốt, nhƣng vẫn làm vài
việc xấu-bất thiện, nhƣng xét toàn bộ nhân cách, thì phần thiện vẫn nhiều hơn,
thì anh ta là kẻ thiện, tuy không hoàn toàn; và ngƣợc lại, kẻ ác có khi vẫn làm
đƣợc việc tốt, nhƣng phần ác che lấp nhiều hơn phần thiện, thì anh ta là kẻ ác.
Có khi kẻ ác làm thiện, kẻ thiện làm ác, thiện ác lẫn lộn mà không phân biệt
đƣợc! Trong khi làm ác, có khi tạo ra mầm-duyên thiện và trong khi làm thiện,
có khi tạo ra mầm-duyên ác.
Chỉ có Cha, Tam Toà mới đủ công bình phán xét. Nhƣng ngƣời trần muốn phân
biệt thiện ác, cứ lấy cái công quả, hiệu quả cuối cùng theo đƣờng tiến hoá mà đo,
thì cũng có thể đo đếm đƣợc thiện ác; vì nội dung tiến hoá thuộc đạo Trời ( Ba
qui luật Vũ trụ).
Ví dụ: Một kẻ bóc lột vài ngƣời, rồi đem cứu giúp hiệu quả cho nhiều ngƣời, thì
anh ta đƣợc cân thiện nhiều hơn! Giết giặc cứu nƣớc là thiện. Ta diệt tà ma ác
quỉ, cứu nhân loại là thiện. Xử kẻ ác là thiện.
3-Sự chuyển hoá, quan hệ thiện ác.
Thiện và ác là hai mặt đối lập, có quan hệ biện chứng, là hai thuộc tính cùng tồn
tại trong Vũ trụ, trong bản thân mỗi con ngƣời. Cho nên chúng đan xen nhau,
đấu tranh, bài trừ, chuyển hoá lẫn nhau. Không có mặt này, thì mặt kia sẽ gọi là
cái khác. Vì sao? Vì nếu tất cả toàn thiện thì không gọi là thiện nữa, vì có cái gì
để làm ranh giới, hoặc đối lập để phân biệt nó? Và ác cũng thế. Nếu cả thế giới
thiện hết, đó là đại thiện, lúc đó loài ngƣời thành thần thánh tiên phật hết, và
chấm dứt luân hồi, loài ngƣời về Thƣợng giới hết…
Thấy thiện nhiều chớ mừng, thấy ác nhiều chớ sợ. Vì sao?
Cực thiện sẽ thành ác, cực ác thành thiện. Trong thiện có ác, trong ác có thiện.
Cực thiện thì không tiến hoá nữa, hoặc tất cả chuyển hoá, hoá mầm ác diệt sinh
ra. Cực ác thì ác ác chống nhau, sinh ra mầm thiện. Không có ai ác hoặc thiện
186
hẳn. Phật cũng đã và đang dùng luật để trị kẻ ác. Trong thiện có chứa ác nhỏ để
cải ác, trong ác có thiện để thiện ác đấu tranh, để cải tạo ác hoặc diệt thiện.
Chúng đan xen nhau, chế ngự nhau. Và thế giới này cũng vậy. Chúng thúc đẩy
nhau trong quá trình tiến hoá, theo hƣớng loại trừ dần các mặt tối của Vũ trụ, của
con ngƣời theo Luật Trời. Không đấu tranh không phát triển. Vì cái thiện luôn
luôn cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác, nên thế giới mới tiến lên đƣợc; cũng bởi lý
do duy nhất: Đó là ý chí của Cha-cũng là con đƣờng của Chân Lý!
Trong thế giới nói chung, trong con ngƣời, xã hội-luôn luôn có cuộc đấu tranh
giữa thiện và ác. Trong cuộc đấu tranh này trên giới thiên linh, là cuộc đấu tranh
trong linh hồn-tiến theo Trời, hay theo nƣớc quỉ; là giữa một bên là thần thánh
tiên phật, các vong tiến hoá, siêu thoát, với một bên là quỉ ma, các linh tinh ác
sát. Cha là của chung: Trong Cha có cả ác và thiện! Tất nhiên có nghĩa là cả quỉ
ma, thần thánh tiên phật đều là của Cha, Cha sinh ra tất thảy1 Cha chủ sinh, chủ
dƣỡng, chủ diệt, chủ định đoạt muôn sự, muôn loài và chủ thiện; cho nên cái ác
dần sẽ hết, thế giới đi lên, con ngƣời tiến hoá.
Nhƣ đã nói trong Thiên Kinh: Chúng ta hoàn thiện, thì thế giới hoàn thiện-Cha
hoàn thiện. Ví nhƣ một đại gia đình: Có con tốt, con xấu. Con xấu thì Cha đau
lòng, con tốt thì Cha yêu; nhƣng đều thƣơng cả hai, chứ sao ghét bỏ đƣợc, còn
phải nuôi chứ!
Trong Hạ giới: Đó là cuộc đấu tranh giữa cái ác với cái thiện trong xã hội, biểu
hiện ở những sự tiến bộ, công bằng bác ái, thiện đạo, có những cái bất công,
phản tiến bộ, xấu xa…Kẻ ác có khi làm thiện, kẻ thiện có khi làm ác. Chỉ bản
chất thực sự của họ mới rõ đƣợc. Trong con ngƣời: Đó là cuộc đấu tranh trong ý
nghĩ, trong hành động, để cải tạo bản thân, để sống đúng là mình, đúng với mình.
Kể cả kẻ ác và ngƣời thiện! Nhƣng, cái thiện là cái chủ đạo. Hiếm có kẻ vỗ ngực
tự xƣng nó là kẻ ác! Đến Quỷ Vƣơng kia, có lúc cũng phải chấn hƣng cái thiện,
phù thiện theo ý chí của Cha!
Cho nên: Không hoảng sợ, không buồn đau, không cực đoan khi cái ác trong xã
hội, trong ta còn tồn tại, vì trong giai đoạn chƣa lên đại đồng đại thiện, thì cái ác
vẫn còn. Vấn đề là ở chỗ: Nhận diện rõ cái ác, tính chất của nó thế nào, diễn biến
ra sao, bản chất của nó, biểu hiện của nó để cải tạo ( trong thế giới, trong ta).
Không sợ nó, vì sẽ có cách cải hoán nó; không bao giờ sợ thua nó, có thua chỉ
tạm thời! Ngƣời đời không diệt nó, thì Trời diệt nó, theo qui luật tất yếu tiến hoá-
thiện luôn thắng ác, nhân qủa.
Nhận diện đƣợc thiện ác, phải có phƣơng pháp tƣ duy khoa học.
TỨ ĐẠI ĐỊNH ĐỨC
Đêm rạng sáng ngày 28/2/2008, Thái Thƣợng Lão Quân giáng dạy
Tứ đại định đức là bốn đức tu tập, là điều kiện định đức, chuyển đức, rèn đức
khi tu đạo. Đó là:
187
1-Định Tâm:
Đây là yêu cầu đầu tiên. Không định tâm thì không làm đƣợc việc gì. Có tâm tu
đạo, hƣớng đạo, hƣớng chân thiện mỹ, thì mới có đạo, có đức đƣợc.
Không tâm không sáng không lành
Có tâm tâm sáng tâm lành khai tâm
Bƣớc qua cửa đạo cao thâm
Sáng lòng thì mới sáng danh cõi đời
Dạy cho mà biết ở đời
Chữ Tâm nhất vạn qui lời Thầy đây
Tâm có sáng, lòng mới trong. Hƣớng tâm mình về cõi đời sáng, về cõi thiên linh
vĩ đại, sẽ thấy lòng mình sáng láng một niềm tin, một tín điều cao rộng, ấy là tu
tâm để thành đắc quả. Muốn có tâm thì phải giáo tâm mình, tự mình giáo hoá, tự
giáo dục theo đƣờng chính giáo. Khi đã thấu nhập Chân Lý vĩ đại, đƣợc các đấng
uyên thâm giáo hoá, thì phải biết đƣờng chính mà đi, lúc ấy mà còn lòng tà vạy
thì tâm bất thiện, tâm diệt và chỉ có sám hối thì mới mong sáng láng trở lại.
Định tâm là định tƣ tƣởng, niềm tin, ý chí về cõi Trời. Biết mình, tự giáo hoá lấy
mình để có đức tín, tâm thành với Cha, Mẹ, Thầy và chính mình.
Khi định tâm, ta bƣớc vào cửa đạo, cửa đạo mở ra cho ta, bƣớc vào cõi Thiên
linh vĩ đại, là quê hƣơng, nguồn cội, nguồn sống của chúng ta.
Định tâm còn là định ra sự xác tín của niềm tin vĩ đại. Không có niềm tin vào
Cha Mẹ Thầy thì không tu đƣợc đạo. Sự xác tín không ai dạy cho mình, mà mình
phải tìm thấy trong cuộc sống này; mất nó, khó tìm lại, nhƣng tìm nó rồi thì chớ
để mất. Những kẻ ngu muội sẽ có ánh sáng mà đi, có Cha soi đƣờng mà tiến, tu,
tiến bộ, mọi vật tiến hoá.
2-Định phận:
Định phận là xác lập, định tính, định số cho mình, tự mình định liệu lấy con
đƣờng số phận gắn với đƣờng tu đạo của mình. Tức là: Phải biết mình là ai, tính
cách của mình, lấy số để biết số phận, biết phận để cải tạo cuộ đời mình; muốn
cải tạo thì phải phấn đấu theo Đạo mà tự giác, tự tiến bộ. Trời định số, đạo là của
Trời, vậy theo đạo là theo Trời. Trời sinh Trời diệt; theo đạo Trời, tức là tuân
mệnh Trời, thì Trời dƣỡng, Trời nuôi, Trời cứu. Đặc tính “đức năng thắng số” là
ở đây, vì không có gì là không cải tạo, cải hoán đƣợc. Tất cả là do mình, mình là
“Trời con”, Cha cho tất cả những nguồn năng để cải hoán cuộc đời; chỉ có theo
Cha mới đƣợc điều đó. Phải hoàn toàn tự tin ở mình khi tu đạo.
Biết mình, biết ngƣời, biết Trời, biết số
Biết tuân Đại phụ, biết lẽ từ bi
Biết Đạo, biết đi, biết vì lẽ lớn
Ân ban vô thƣợng, Thiên Thƣợng, Thiên Nhân
Phát tại Chân Nhân-nơi Thầy trú ngụ!
Dạy cho biết đủ mọi thứ nguồn cơn
188
Định phận là hơn, Đạo lành thắng số
3-Định thiện:
Định Thiện là biết hƣớng thiện, biết ngộ ra Chân Lý hƣớng thiện, lập đƣờng
thiện, theo đƣờng thiện của chính mình. Định tâm, định phận mà không định
thiện thì không theo Đạo đƣợc. Định thiện là điều kiện để cho định phận đƣợc
mãn chí, mãn đức. Thiện là sự vô lƣợng của lƣơng tâm ở linh quang mà Cha đã
ban cho chúng ta ở mọi kiếp, mọi đời, mọi ngƣời. Thiện thắng ác; sự tiến bộ phát
triển ắt sẽ thắng lạc hậu, ngu dốt. Vì con đƣờng tiến hoá không cùng là không
thể đảo ngƣợc. Định thiện không phải là cố gắng tạo cho mình một hành vi thiện,
vỏ bọc thiện, mà trong tâm can mình, luôn hƣớng về cái thiện, có thiện tính mọi
lúc mọi nơi; muốn có tâm từ bi hỉ xả chƣa đủ mà còn là nghiệp diệt ác, bảo về
cái lƣơng thiện, cái tốt ở đời. Từ bi với kẻ thù, với cái ác để giáo hoá nó, tiêu diệt
nó, chứ không nuôi dƣỡng nó, hoặc né tránh, để mặc nó tung hoành. Ấy là phép
cao thâm của Trời vậy. Hƣớng thiện thì sẽ có thiện tính, có thiện tính sẽ có
nghiệp tính, ấy là nghiệp thiện. Góp các nghiệp thiện lại thành đƣờng thiện, đi
suốt đƣờng thiện thì đắc quả. Khó mà dễ, dễ mà khó.
Nghiệp tính không giáo điều, không máy móc, không bắt ai phải nhất thiết phải
làm cái nọ, phải làm cái kia, nhƣ thế kẻ dốt-giống nhƣ sự nhiệt tình có khi thành
phá hoại, vì có khi anh làm ác lại cứ tƣởng là thiện! Vậy thì phép tốt nhất là làm
theo lƣơng tâm mình mách bảo, làm cái gì thấy cần phải làm để lợi nhất cho
chúng sinh, cho đƣờng Chân Lý, cho Đạo, cho chính mình một cách chắc chắn,
chân chính nhất thì làm.
Định thiện không cần xác tín nhƣ định phận, định tâm. Tâm cần định phanạ theo
nghiệp thiện ác, còn đi nhƣ thế nào do lƣơng tâm mình chỉ bảo. Định tâm nhƣng
lại không quyết theo đƣờng thiện thì sao cải tạo đƣợc đời, ngƣời? Do vậy, dứt
khoát định thiện là yếu tố cực kỳ quan trọng, là điều kiện cần có và đủ của tu
đạo.
4-Định Nhân:
Định nhân là định đƣợc nhân đạo, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân ái cho mình, cho
ngƣời. Có định đƣợc thiện rồi, muốn thành thiện, đắc quả thì phải định nhân, hay
nói một cách khác: Định nhân để thực hiện định thiện.
-Nhân đạo: Thực hiện các điều nghĩa với chính ta, với mọi ngƣời xung quanh,
với cả kẻ thù, kẻ ác, tà ma ác quỉ. Điều nghĩa là gì? Là làm cho mọi sự ấy, mọi
đối tƣợng ấy tốt hơn, lành hơn, tiến bộn hơn, an lành, an vui, thiện hơn! Ấy là
việc nghĩa, điều nghĩa. Sống có nghĩa với nhau là ở chỗ đó. Thực hiện nhân đạo
mà làm cho nó xấu đi, thì không phải là nhân đạo nữa. Cho nên chú ý việc này.
Nhân là nhân nghĩa, đạo là đạo đức, đƣờng đạo chính. Nhân đạo là giúp cho đối
tƣợng theo đƣờng đạo chính-ấy là mục đích cốt lõi, cuối cùng của vấn đề. Tại
sao phải nhân đạo? Nhân đạo là con đƣờng quan trọng nhất để cải tạo cái xấu,
cái ác. Vì:
189
Từ bi hỉ xả ở đời
Khơi nguồn thiện tính cho ngƣời con ơi
Thế nhân muôn mặt sự đời
Ác giả ác báo, thiện rồi thiện căn
Lấy lành báo ác thiện sinh
Lấy ác báo ác, càng đầy ác thôi
Muốn cho hết ác ở đời
Gia nhân trì đức cho ngƣời ác ngay
Để cho phục thiện tốt thay
Dùng nhân nghĩa phục, dùng ngày dùng đêm
Khó gì một cuộc đỏ đen
Hoá thành đỏ cả một miền trƣờng sinh
Khen cho các nghiệp các lành
Lấy ân báo oán thiện sinh mọi nhà
-Nhân tâm:
Nhân ở tại tâm, nhất tâm sinh
Khai quang cho tâm sáng tâm lành
Tâm mình sáng thì tâm ngƣời sáng
Qui lại tâm mình đẹp, tâm ngƣời sinh
Có nghĩa: Nhân tâm là tâm của ta. Tâm ta có sáng thì mới mong có tâm ngƣời
sáng với ta, với đời. Nhân tâm là nhân với mình trƣớc, nhân với ngƣời sau. Vạn
đức nhất nhất sinh tại tâm. Tâm định đạo, ắt có nhân tâm. Không định tâm, ắt
không nhân đắc.
-Nhân ái, nhân nghĩa: Là thứ cần của con ngƣời để thực hiện nhân. Chữ nhân
này là chữ định nhân, có nhân, vì nhân là ngƣời. Nhân nghĩa là cứ biết việc nghĩa
mà làm, đã giải thích. Nhân ái là biết đem lòng yêu thƣơng mọi vật do Cha sinh
thành. Nhớ lấy!
Duy nhất: Lòng yêu thƣơng sẽ hoá giải tất cả. Khi phát nguyện lòng yêu thƣơng
thì sẽ có yêu thƣơng, đƣợc yêu thƣơng. Yêu thƣơng sẽ cứu rỗi tất cả. Cha vô
cùng yêu thƣơng tất cả muôn loài, trong đó có chúng ta. Cha dành cho chúng ta
lòng yêu và tình yêu vĩnh cửu, vì ta thuộc Cha, Cha là chúng ta, chúng ta là Cha.
Yêu Cha, yêu ngƣời là yêu chính mình và ngƣợc lại, có yêu chính mình thì mới
yêu đƣợc mọi ngƣời. Yêu là yêu chân chính, theo đạo chính, chứ kẻ ác nó yêu
cái xấu của nó thì không thể có chuyện nó yêu mọi ngƣời đƣợc. Cái gì làm lợi
cho chúng sinh nhiều nhất, theo tiến hoá thì làm! Sự cứu chuộc của Cha cho các
linh hồn, các kẻ ác là do sự thƣơng yêu. Cha tha thứ, mở lòng hiếu sinh đến mọi
vật. Nay thế gian hỗn loạn, đạo đức suy vi, đỏ đen lẫn lộn. Kẻ ác hoành hành,
ngƣời tốt suy vong, ấy là do mất dần lòng thƣơng yêu nhau. Cũng vì mở lòng
giáo hoá vô biên, yêu thƣơng vô biên cho chúng sinh đau khổ, ngu lầm, không
muốn cho ngày tận thế tuyệt diệt chúng sinh, mà Cha cho giáo hoá lại khắp hoàn
190
cầu, chỉ ra bản chất của Chân Lý, các đƣờng thiên linh, cả khoa học minh triết
cao thâm để các chúng sinh thấu đƣợc tình thƣơng, mà tự mình chuyển hoá đạo
đức, hƣớng thiện, cứu mình trƣớc khi Trời cứu, Trời diệt. Ấy là đạo Trời cao
diệu, yeê thƣơng vô biên!
Vậy, ngƣời thiện cũng đối đãi với cái ác, kẻ ác nhƣ vậy, chỉ trừ khi giáo hoá
trong yêu thƣơng không đƣợc, mới gia ân phạt ác cứu thiện, cứu nhân-ấy là
thiện.
Hôm nay, Thầy giáng phép dạy đệ tử Trung Phƣơng Thiên Tôn nhƣ vậy, nhớ lấy
mà ghi, mà chép, mà giáo hoá mình, giáo hoá giáo hữu về sau. Ta nói không sai.
Đệ nhất Sƣ phụ là Ta, tối qua Ta trách nhà ngƣơi, chẳng qua là nhà ngƣơi chƣa
tin Ta, quên Ta, mà quên Ta sao thành đạo đức! “Đạo Đức kinh” là Ta viết mà!
Ta giao lại Tứ đại Định Đức này cho Bảo Toàn Phổ Giáo Khai Đạo Đại Thiên
Sứ. Thiên Đạo là đạo Trời, rõ nhé!
* Trung Phƣơng Bảo Toàn Phổ Giáo Khai Đạo Đại Thiên Sứ phụng lệnh ý Thầy
giáng phép, tốc ghi 4h sáng ngày 28/2/2008.
CHIẾN TRANH
Chiến tranh là gì?
Chiến tranh là bi kịch lớn nhất của xã hội loài ngƣời, trong đó có sự huy động và
diễn ra các hành động bạo lực để thôn tính, tiêu diệt lẫn nhau, của một bộ phận
ngƣời trên thế giới ( có thể dân tộc, cộng đồng) nhƣng mang tính xã hội cao.
Nguyên nhân: Nguyên nhân lớn nhất là do tham lam và tham vọng quyền lực,
kinh tế, thói kiêu hợm ích kỷ của con ngƣời. Nguyên nhân này chi phối tất cả các
nguyên nhân cụ thể khác nhƣ: Đấu tranh giai cấp (do nguyên nhân kinh tế, chính
trị); muốn bành trƣớng để chiếm đoạt, mƣu lợi ( quyền và lợi ích kinh tế); nhƣng
đôi khi có những cuộc chiến tranh gây ra do sự ích kỷ, vô minh của con ngƣời
nhƣ:
Sự trả thù hận thù, trả đãu, khẳng định cái uy phong, cái vị thế của kẻ có quyền
uy
(Ví dụ: một ông vua to muốn ông vua bé phải thần phục, chƣa chắc là do nguyên
nhân chiếm lợi kinh tế). Đôi khi hai nƣớc “đánh nhau” chỉ vì xúc phạm, đôi co
với
lý do vớ vẩn, mang tính cá nhân lãnh tụ, rồi lan ra cả xã hội! ( Hãy chửi một ông
vua nƣớc khác, hay một ông tổng thống nƣớc khác xem!) Do đó, các loại “bệnh”
do thói ngạo ngƣợc do thói ích kỷ của con ngƣời nhiều vô kể! Hai ngƣời đánh
nhau đâu có chỉ vì chuyện cơm áo? Đôi khi, trong lịch sử có các quân
191
vƣơng tƣơng nhau ra trò chỉ vì tranh gái! Đôi khi hai quân vƣơng đánh
nhau khi họ là hai anh em ruột!
Khi nguyên nhân xảy ra, chiến tranh bị thúc đẩy đến cùng, do có sự hận thù của
con ngƣời, giết lẫn nhau thì bao giờ cũng tạo ra sự hận thù cho cả hai bên. Hận
thù trở thành động lực quan trọng, ảnh hƣởng đến sự vận động, chuyển hoá của
chiến tranh; tham vọng càng thúc đẩy sự hận thù và ngƣợc lại. Tham vọng là
nguyên nhân chính yếu, khi nó kích thích và chuyển hoá thành hận thù thì sức
mạnh của nó càng khủng khiếp. Vào “cuộc chơi” một mất một còn ấy, các ngài
lãnh đạo cuộc chiến phải tìm mọi cách thúc đẩy cả hai yếu tố trên lên đỉnh điểm.
Chiến tranh kết thúc khi: Có một bên thắng, một bên thua, hoặc cùng cởi bỏ hận
thù, hoặc cùng “mở mắt ra, tỉnh ngộ” mà dừng lại. Sự “mở mắt” này là do: Hoặc
cùng thấy bất lợi, cùng bị tổn hại nặng-chƣa chắc đã hết hận thù! Hoặc cùng hoá
giải mâu thuẫn do thức tỉnh ra nguyên nhân, hoặc do kẻ thứ ba tác động.
Hậu quả: Hậu quả khủng khiếp nhất là: Con ngƣời giết lẫn nhau, coi nhau không
bằng con vật, mất tính ngƣời, mất ngƣời, đau thƣơng tang tóc, mà chủ yếu dân
thƣờng bị hại; đặc biệt hận thù đã đẩy con ngƣời vào sự dửng dƣng trƣớc cái
chết, trƣớc máu xƣơng, trƣớc nỗi đau con ngƣời: Cả hai bên, khi ngƣời lính giết
ngƣời xong, đều ca ngợi chiến công, có khi mừng thắng lợi, hát ca, vui hội.
Không thiếu gì cảnh các binh sỹ sung sƣớng nhảy nhót ăn nhậu, ca hát ngay trên
đống thịt ngƣời bị giết. Cái chết ở trần gian là cái chết của xƣơng máu, hữu hình,
của sinh mạng con ngƣời, nên đau thƣơng vô cùng; nó khác với cuộc chiến trên
trung-thƣợng giới giữa các linh hồn, kẻ “chết” chỉ là sự cởi bỏ lớp thể vía ô
trọc…Cho nên, cái chết chóc ở hạ giới vừa kinh rợn, tanh tƣởi, ô ám vô cùng, và
đau thƣơng tất yếu.
Tàn hại môi trƣờng, môi sinh: Tất yếu rồi, kẻ tạo và kẻ bị đều “hƣởng” chiến
tranh; càng tàn khốc, con ngƣời càng tàn độc, “khoa học giết ngƣời” càng tinh
vi, thì hậu quả tàn hại môi trƣờng càng lớn. Hiện nay, có lắm thế lực đang “doạ”
nhau dùng chiến tranh hạt nhân, tất yếu cả loài ngƣời, trái đất bị tiêu diệt; cả bên
tham gia hoặc không tham gia đều chết hết, nếu có sống phải đến hành tinh khác
mà ngụ cƣ!
Chƣa bao giờ chiến tranh phi nghĩa lại thúc đẩy xã hội phát triển. Kẻ nào nói
chiến tranh thúc đẩy sự phát triển của xã hội, kẻ đó là phản động. Có thể ngay
lúc kết thúc, chiến tranh phi nghĩa tạo ra thành quả “giả tạo” cho kẻ gây chiến,
chiến thắng, nhƣng về lâu dài, quả của cuộc chiến ấy sẽ quật ngƣợc trở lại kẻ đó,
theo luật Nhân quả, và kẻ đó phải lãnh hậu quả khủng khiếp.
Chiến tranh chính nghĩa, bao gồm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, bảo
vệ tổ quốc, chống thế lực phi nghĩa, nhằm chống lại cái phản tiến bộ (nói chung)
đều là động lực tốt. Nhƣng để chiến thắng cái ác, lực lƣợng chính nghĩa cũng bị
thiệt hại, đó cũng là điều đau lòng.
192
Hầu nhƣ đại đa số nguyên nhân gây ra chiến tranh đều do nguyên nhân phi
nghĩa, bên phi nghĩa gây ra. Tại sao? Vì những thế lực tiến bộ không bao giờ
muốn chiến tranh, chỉ muốn hoà bình, phát triển; có phát triển thì cũng dựa trên
sự giải quyết các mâu thuẫn trong hoà giải, hoà bình. Họ đôi khi bị buộc phải
thực hiện chiến tranh, khi áp lực và mâu thuẫn do bên phi nghĩa áp đặt làm họ
không chịu đƣợc nữa.
Loài ngƣời không cần chiến tranh; xã hội, con ngƣời không cần chiến tranh vẫn
phát triển đƣợc. Chiến tranh không phải là cách giải quyết tốt nhất các mâu thuẫn
của xã hội loài ngƣời. Khi con ngƣời có lòng tôn trọng yêu thƣơng nhau, trân
trọng các giá trị con ngƣời, hiểu đƣợc Chân Lý của Thƣợng đế, các qui luật của
Vũ trụ, thì không bao giờ họ thích súng đạn, chém giết. Chỉ có đạo đức, tính
thiện mới thúc đẩy xã hội và con ngƣời phát triển. Sự thù hận là do vô minh mà
ra, vô minh là do không biết, không hiểu về thế giới, con ngƣời, các qui luật Vũ
trụ…
Cho nên, tuyệt đối chống chiến tranh, tuyệt đối chống sự tiêu diệt con ngƣời. Đó
là nỗi đau của lịch sử loài ngƣời, mà sau này, lịch sử loài ngƣời sẽ xem xét một
cách công minh tội lỗi của những kẻ đã gây ra chiến tranh phi nghĩa.
Xã hội Đại Đồng của chúng ta sẽ không bao giờ có chiến tranh nữa.
Tham vọng bẩn thỉu nhất của con ngƣời là do tham ác mà gây chiến tranh, dù
mang cái ô là chiến tranh ý thức hệ hay gì gì đi nữa! Chiến tranh bẩn thỉu nhất là
chiến tranh xâm lƣợc, không bao giờ có thể bao lấp đƣợc sự bẩn thỉu đó, dù giải
thích hoặc nguỵ biện bằng cách nào!
Và từ trƣớc đến nay, có lẽ về sau nữa: Tất cả những kẻ gây chiến đã và sẽ bị chịu
hậu quả khủng khiếp do luật nhân quả phản hồi, phản phục. Thƣờng những kẻ
gây chiến bất chính, sau đó đều bị Thƣợng đế và qui luật nhân quả tận diệt, nhẹ
thì dòng tộc, bản mệnh cá nhân, nặng thì cả dân tộc quốc gia, đế chế; “tham thì
thâm” là nhƣ vậy!
Cho dù lúc đầu chúng hùng mạnh đến đâu: Những đế chế Átlantic, La Mã,
Nguyên Mông, Naponeon…đến thế kỷ 20 có phát xít Hit-le, phát xít Nhật…Các
đế quốc hùng cƣờng bị lụn bại ở Việt Nam. Trong lịch sử thế giới: Chiến tranh
Việt Nam trong thế kỷ 20 chứng minh hùng hồn tính thiện tất thắng ác theo đạo
Trời, dù cái thiện có yếu và nhỏ hơn cái ác nhiều lần! Chúng ta nên nhớ: Sức
mạnh tƣ tƣởng có thể chuyển núi dời sông!
Nay thời mới đến cho nhân loại, chúng ta chống chiến tranh một cách triệt để,
bằng mọi cách phải bảo vệ đƣợc sự phát triển lành mạnh của xã hội loài ngƣời;
quyết tâm cùng những ngƣời tiến bộ, hiền lƣơng chống các thế lực hắc ám, bảo
vệ thế giới. Mọi ngƣời cùng nhau gác lại xung đột, cùng chung sống hoà bình,
trên cơ sở tôn trọng quyền sống và quyền bình đẳng của con ngƣời, của các dân
tộc, các quốc gia…không có mâu thuẫn nào mà không giải quyết đƣợc bằng các
biện pháp hoà bình!
193
Ai muốn chiến tranh? Những kẻ mƣu mô gây chiến, những kẻ buôn vũ khí, sống
bằng tiền buôn vũ khí và sống nhờ xƣơng máu nhân loại cần nhớ:
Ta sẽ công khai trƣớc nhân loại xét xử linh hồn những tên tội phạm chiến tranh
sau chuyển thế. ( Nếu Ta ở Hạ giới, thì Ta xử ở Hạ giới, nếu lên Trung giới, thì
xƣr trên Trung giới-nhƣng công khai cho mọi ngƣời biết).
Những tên không bị diệt linh hồn vĩnh viễn, sẽ bị cho đày đạo, ăn rêu, cứt sắt
trong các nơi cần nhốt, thời gian bao lâu tuỳ vào sự sám hối.
Kẻ ác tội cho đầu thai làm thú vật và Ta cho công khai sự đầu thai ấy để sau mọi
ngƣời biết!
Nếu nƣớc nào gây hoạ chiến tranh thế giới tiếp, thì Thƣợng đế và Ta tận diệt cả
nƣớc đó, làm đảo lộn cả địa lý.
Theo quyền phép của Cha cho, Ta phấn đấu luyện phép, có thể hy vọng cứu trái
đất, đƣợc bao nhiêu hay bấy nhiêu; nhƣng không cứu đƣợc nhân loại, nếu có hoạ
chiến tranh hạt nhân!
Các thế lực tôn giáo phải xa rời các âm mƣu quyền lực chiến tranh!
Nền hoà bình vĩ đại của nhân loại sẽ có trong tƣơng lai!
BA NGUYÊN LÝ
XÂY DỰNG NỀN ĐẠO ĐỨC TOÀN NHÂN LOẠI ĐI LÊN ĐẠI ĐỒNG
1-Công nhận và phân đấu theo Chân lý cuối cùng của Thƣợng đế
( Tức là lý tƣởng xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới để tiến lên Thiên đƣờng
Thƣợng giới)
2-Đoàn kết, giúp nhau tiến bộ vì mục tiêu cuối cùng.
3-Thiểu số phục tùng đa số, nƣớc giàu, ngƣời giàu tôn trọng và giúp đỡ nƣớc
nghèo, ngƣời nghèo. Không phân biệt, không kỳ thị dân tộc, tôn giáo, văn
hoá, trình độ văn minh.
MƢỜI NGUYÊN LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN
1-Không tham mọi thứ quá duyên nghiệp mình đƣợc hƣởng.
2-Đức năng thắng số. Tích cực tìm cách cải sửa số mệnh theo hƣớng tiến bộ.
3-Luôn nghĩ tới Chân Lý và ánh sáng của Thƣợng đế.
4-Giản dị hoá, tâm sáng, công bình trong giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
5-Phấn đấu có đóng góp cho xã hội, cộng đồng, loài ngƣời.
6-Vun đắp tổ ấm gia đình, dòng tộc, làng xóm.
7-Luôn nghĩ ngày về với Thƣợng đế, cùng hành trang nhân quả của mình.
8-Luôn nghĩ rằng có kiếp sau với duyên nghiệp của kiếp này-nếu không tu luyện
tốt để thoát luân hồi.
194
9-Luôn nghĩ mình bất tử. Linh hồn bất tử. Mỗi chúng ta đều là con của Thƣợng
đế, là anh em bằng hữu cùng Cha Mẹ sinh ra. Phải yêu thƣơng con ngƣời,
trân trọng con ngƣời, dù là ai, ở bậc tiến hoá nào.
CON ĐƢỜNG TU TẬP VÀ GIÁC NGỘ CHÂN LÝ
Thấu Đạo Pháp, theo Chính Pháp và sau đó tu luyện Huyền Pháp
Nay có nhiều tôn giáo, pháp môn tu luyện khác nhau; để thành chính giác
có hàng ngàn pháp khác nhau. Nhƣng nay có nhiều pháp-tôn giáo suy mạt chính
pháp, nên ảnh hƣởng đến tu luyện giác ngộ; nếu có đƣợc, thì cũng chỉ cho riêng
bản thân của họ, không cứu độ đƣợc nhiều ngƣời-không mang tính toàn thể.
Phật tổ có nói: Thời mạt, tu sỹ độ mình đã khó, nói chi đến độ ngƣời.
Nhiều pháp môn khác, học thần thông, nhƣng không học đƣợc đạo Trời.
Nay Pháp của Ta, thấu Đạo Pháp, theo Chính Pháp, mới tu Huyền Pháp có ích,
thấu cái lý tƣởng mà phấn đấu, vì cái lý tƣởng mà tự giác đi theo, tu luyện chứ
không trọng thần thông quảng đại cho riêng mình-ích kỷ.
Không tham nhiều đệ tử hô hào ứng đối thời mạt thế, không cần ca tụng pháp
chủ, không cần nhiều lời quảng bá. Ta cần học trò tinh Đạo Pháp, thông-theo
Chính Pháp và đạt Huyền Pháp-lúc ấy mới cho ngƣời ta gọi chính ngôi mình là
thầy. Mà gọi hay không gọi không quan trọng, bởi sợ nhất là bị thần thánh hóa,
bị thần tƣợng hóa, thế thì khổ lắm, vì Đạo trong từng ngƣời, chƣa kính trọng bản
thân thì sao kính trọng đƣợc ai, trên thì kính Trời-dƣới thì kính mình, rồi mới
kính đƣợc thiên hạ. Kính mình là thế nào? Mình là một tiểu hồn trong đại hồn, là
một nhân linh đã qua bao kiếp, kiếp này phải đạt ngộ hơn kiếp trƣớc, phải là
ngƣời tốt, tuân theo Đạo Trời mà sống, ấy mới là kính mình. Kính cha mẹ trần là
kính trời đất. Nhƣng nếu cha mẹ trần mà lỗi đạo, không kính Trời-Cha-cũng là
cha của họ thì ta kính Trời, rồi luân theo lý Trời mà cảm hóa lại họ. Và ai cũng
thế.
Còn học Pháp, cốt lấy thần thông thôi, không theo Chính Pháp-Ta không cho đó
là học trò, vì họ có theo Ta đâu, học thần thông thì khí công, nhân điện, Phật
giáo, Ấn giáo…cũng dạy thần thông. Học thần thông, mà dùng vào mục đích
xấu, thì tai họa khôn lƣờng. Thần thông phải quảng đại. Thời sắp đến, thời mới
của loài ngƣời, quảng đại là xây đời Đại Đồng, chứ không nói lắm, giảng nhiều,
đọc kinh cho rát cổ, cúng bái linh đình, hiểu nhiều biết lắm, lắm khoa học nhƣng
thô thiển, học cho lắm nhƣng ứng dụng vô công…thì cũng phí một đời, chƣa nói
đến chuyện vinh thân phì gia, không giúp gì đƣợc cho ai.
Vả lại pháp của ta dành cho Thánh Đức hàng vạn năm, cần chi vội trong cái thời
mạt này. Nếu Phật tổ hay Chúa Jê-su có sống lại thời nay, thì cũng có vô khối kẻ
muốn giết nhƣ xƣa, nhƣng theo cách tàn bạo và đểu cáng hơn trăm lần.
195
Sau này, Chính pháp đƣợc phổ, đƣợc tôn trọng, muốn kính Ta thì cứ dựng Thiên
phù lên, có nghĩa là Ta đã theo Cha mà đƣợc các vị kính trọng vậy. Chớ thờ Ta,
mà phải thờ Thƣợng đế. Muôn năm phải thế.
Nên cần nhất của ngƣời theo Thiên Đạo là: Yêu thƣơng con ngƣời, phải thật sự
yêu thƣơng nhau mới là chính nghĩa. Yêu thƣơng nhân loại cần lao đau khổ;
không tham tiền tài, nhƣng không khinh vật chất, lấy đạo đời hợp nhất, cần cù
lao động, làm ăn để xây dựng cuộc sống no ấm, bình an, tu tại gia, đạo tại tâm,
lấy thiện tính làm căn bản gốc rễ của pháp, thực hiện cứu khổ ban vui bằng chính
pháp, chứ không bằng cái việc bắt tà ma, chữa bệnh đơn thuần; không theo chủ
nghĩa và lối tu khổ hạnh, diệt dục, mà sống hài hòa theo qui luật tự nhiên, tuân
theo định luật vũ trụ. Đó là con đƣờng cùng trở về của loài ngƣời thời Thánh
Đức.
Không mê tín, vì có khoa học tâm linh chân chính dẫn đƣờng; không cực đoan,
bảo thủ, vì ánh sáng của Cao Minh Thƣợng Đế soi sáng; không tranh dành lợi
danh, uy tín đạo pháp, vì đạo chính không sợ cô đơn, không yếu sức sống; không
xa rời cuộc sống, không phân ranh giới với ngƣời khác, không xƣng tụng, vì Đạo
Trời trong từng con ngƣời, ai cũng có Thƣợng đế ở trong bản thể của mình, ai
cầu đạo, thì cầu chính mình, tôn trọng mình và tôn trọng chúng sinh mới là tôn
trọng Thƣợng đế; chứ theo đạo, mà gây chiến tranh, bóc lột giết hại chúng sinh,
tất là hắc đạo hoặc mƣợn danh Thƣợng đế làm càn. Ai cũng là con Cha con Mẹ,
không có Thƣợng đế của riêng ai hết. Tất cả mọi tranh đấu, phải trên cơ sở nhân
đạo, lấy giáo hóa, thuyết phục trƣớc, sau mới dùng bạo lực, nhƣng là bạo lực của
cái thiện, quá đi một chút, cựu đoan một chút, ngu xuẩn dị mọ một chút, tất
thành ác, tai họa khôn lƣờng. Ta có nói sợ nhất là vô minh.
Luyện Huyền Pháp, cần nhất là thái độ chân thành cầu đạo giác ngộ, không ham
đạt thần thông ngay. Muốn đạt thần thông ngay, hãy đi học nhân điện, hay cảm
xạ…
Khi thấu Đạo Pháp, Chính Pháp, tự nhiên anh đã hòa với tƣ tƣởng của Thƣợng
đế và Vũ trụ, thấu lẽ tất yếu của tự nhiên, thì khi đó tu tập mới hòa cái tự nhiên
bản thể của mình và cái tự nhiên bản thể của Vũ trụ-nghĩa là ta hòa với Vũ trụ là
Một.
Ta viết sách, 9 bộ cơ bản xong, mới đƣợc Cha khai nhãn, sau khi khai nhãn, mới
tu luyện khí để chữa bệnh; còn bắt tà ma, trƣớc khi khai nhãn đúng 12 ngày, Cha
dạy 32 phép huyền thuật, khai nhãn xong, bắt tà ngay….
Nhƣ vậy, Ta thấu lý Trời trƣớc, mới thấu Huyền Pháp sau; nay dạy học trò, thì
cũng thế. Nhƣng học trò có cái may, là có Ta là ngƣời trần chỉ dạy trực tiếp,
truyền kinh nghiệm, và khác Ta trong học huyền môn, là phải tu tập thiền trƣớc
công sau, công rồi mới đến nhãn, còn Ta ngƣợc lại.
Tại sao phải thế, vì bản mệnh Ta đƣợc bề trên chuẩn bị, bảo vệ, không sợ tẩu hỏa
nhập ma, còn các học trò, nếu không luyện từ cái gốc, thì ắt mang họa.
196
Khai luân xa-kết hợp thiền trong mọi động tác cuối, mọi bài công pháp đều tích
công năng; khai nhãn đồng thời với học huyền pháp tâm linh, thành siêu đẳng,
khai nhãn xong còn tu luyện cao cấp khác, nhƣ Cao Minh Công, Cửu Long
huyền công, huyền thuật-cho đến khi thành nhà ngoại cảm siêu đẳng…Đạt trình
độ cứu độ-đạt khả năng giác ngộ cao độ-thấu cái lý thuyết-học thuyết của thầy
bằng năng lực thần thông; lại thấy đạo đời hợp nhất; thấu đạo thì ra sức dạy bảo
cho ngƣời khác thành đạo tại thế, không cần vào chùa, không cần lên núi tu tiên,
không xa rời các nguyên lý cuộc sống và cải tạo xã hội, theo lý tƣởng hiện thực
cao đẹp.
Đạo Pháp, Huyền Pháp là rất chung cho mọi pháp môn khí công hay huyền thuật
khác, vì tựu chung, con ngƣời chỉ có Nhâm Đốc kinh và 12 đƣờng kinh chính, 7
Luân xa, một huệ nhãn-một Hạ giới và một quê hƣơng để trở về là Thƣợng giới.
Một ngƣời chính vị sinh ra chúng ta là Thƣợng đế.
Mọi pháp tu từ xƣa đến nay cũng chỉ xoay quanh những điều đó, chỉ hơi khác về
phƣơng pháp và mục đích mà thành các môn phái, tôn giáo khác nhau mà thôi.
Nay Thiên Đạo ra đời, cũng là đỉnh cao, cũng là kế thừa tinh hoa nhân loại,
không khác đƣợc, nhƣng tính tổng hợp và tính hợp lý, theo qui luật đƣợc xác lập
trên cơ
sở Luật Thiên đình qui định; xét về nội dung, bao trùm đƣợc các pháp khác.
Muốn hợp nhất nhân loại, Ta nhắc lại: Phải có Đạo Pháp chung, Chính Pháp tiến
bộ-xây
đời tại thế và Huyền Pháp siêu đẳng, có cả khí công-huyền thuật và tâm công.
GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT VÀ ĐĨNH NGỘ NHẬP THẾ
I-GIÁC NGỘ SIÊU THOÁT
Chúng ta từng nghe nhiều lần khái niệm giác ngộ, siêu thoát khi Ta nói, của
các tôn giáo, các kinh sách của loài ngƣời hàng vạn năm qua. Vậy siêu thoát,
giác ngộ là thế nào?
Theo quan niệm của bản tôn Ta, có nhiều cấp giác ngộ, siêu thoát.
Giác ngộ thấp:
Khái niệm giác ngộ: Là khả năng nhận thức và trình độ học tập, tu luyện đến
mức nhận ra Chân Lý Vũ trụ (Chân lý Tuyệt đối) và Chân Lý bản ngã (Chân lý
tƣơng đối). Trong đó, Chân lý Tuyệt đối là: Nhận thức và hiểu biết toàn diện về
qui luật, định luật Vũ trụ nhƣ kinh sách Thiên Đạo, nhận thức sâu sắc về Vua
Cha Thƣợng đế vĩ đại, luật Luân hồi, Nhân quả, Ba qui luật hợp nhất thành Đạo
Trời. Thấy mình là một phần tử nhỏ bé, tất yếu và bất tử của Vũ trụ. Là tiểu ngã
trong đại ngã, tiểu hồn trong đại hồn, là tiểu Thƣợng đế trong Thƣợng đế, trong
ta đã có Cha, là một phần của Cha…Giác ngộ rằng: Không ai chết cả, chỉ luân
hồi theo luật luân hồi nhân quả, mọi vật chất khác cũng thế.
197
Muốn tiến hoá về hợp nhất với Cha, tức không còn luân hồi, hay thành chính
giác cao, thì phải tu luyện cá nhân và cải tạo xã hội, sống hoà đồng với nhân loại,
là Một, Vũ trụ là Một, nhân loại là Một. Từ đó loại bỏ bản ngã ích kỷ, kiến tính
riêng xấu, để sống vì mọi ngƣời, không ham giải thoát lánh đời, mà cùng tu
luyện cứu vớt giúp đỡ ngƣời khác, cải tạo xã hội thành tốt đẹp an lạc-đó là cách
tốt nhất để cứu vớt, cứu độ nhiều ngƣời nhất.
Chân lý bản ngã ( Chân lý tƣơng đối): Thấy mình là một thực thể của Vũ trụ, xã
hội, có bản ngã riêng, giao hoà trong bản ngã chung (Thƣợng đế)-dù có về hợp
với Cha-tức Niết bàn-Thiên đƣờng-thì cũng cũng vẫn có cá tính riêng, chứ không
tan rã hay thành hƣ vô. Ta là ta, chứ không phải là ai khác; kể cả khi linh hồn bỏ
xác, thì cũng mang một bản ngã riêng, có đẳng cấp khác nhau.
Từ đó có phƣơng pháp tu luyện, phấn đấu cho nghiêm, có tài năng riêng, có mƣu
cầu hạnh phúc riêng, tình yêu, nghĩa vụ, số phận riêng trong xã hội. Tìm và xây
hạnh phúc trong hạnh phúc chung.
Đây là giai đoạn giác ngộ thấp của ngƣời Thiên Đạo, nhƣng đạt đƣợc giác ngộ
này, phải có tinh thần tu luyện đạo đức và tự giáo dục ghê gớm; học tập, nghiên
cứu kinh sách nhiều và tu luyện Thiên Pháp tốt, làm đủ 9 điều Không phạm mới
thấy đƣợc những điều Ta nói.
Siêu thoát bậc thấp: Sau khi thấu ngộ, giác ngộ, thì nảy sinh nhận thức và tình
cảm không ham muốn gì nhiều, ít ra là cho bản thân mìn; sợ tranh dành bon
chen, ăn nhiều thì nhanh già, nhanh chết, luyện khí càng khó, thêm bệnh; tham
danh ô lại, đấu đá buôn bán…chỉ thêm mệt mỏi, tất cả chỉ là bèo bọt mây chớp ở
đời, vì linh hồn bất tử, phải trả quả, thế thì sao phải sống gấp, tranh dành để sống
để mắc nghiệp. Và vấn đề là chúng ta xuống thế đầu thai kiếp này là gì? Mục
đích gì? Đó là học hỏi, tầm đạo để tu luyện, để tiến hoá cao, kiếp này đắc đạo là
cái tốt, nếu không thì cũng chớ sa vào đƣờng tà ác, sau bị đoạ đày…
Đời nhƣ một giọt nƣớc bay trong không gian và thời gian rất ngắn, trong khi
chúng ta từng làm ngƣời qua bao kiếp số, chỉ sợ không tầm đƣợc sƣ, học đƣợc
chính đạo, hoặc lỗi Đạo, muộn, để mất cơ hội tu luyện, kiếp sau lại đoạ trần mà
học lại…Đặc biệt, khoong tu luyện tốt, khi mãn kiếp, linh hồn cấp thấp bị đoạ
đầy đau khổ thế nào!
Hiểu và nhận thức đƣợc nhƣ thế, là đã giác ngộ, sẽ sợ làm ác, giữ mình mà lánh
các việc bất thiện; sau nữa, nếu đƣợc tu luyện đắc thần thông thì thành Chính
giác cao. Không đắc thần thông tại thế, tất không thành chính giác cao-trừ một số
ngƣời đã có sẵn nhân duyên và thiện huệ từ trƣớc.
Từ đó thấy vui vẻ yêu đời, yêu quí mọi ngƣời, thƣơng ngƣời, thƣơng cả cái kiếp
số của mình, thƣơng kẻ nghèo khổ, không khinh ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt, thậm
chí thƣơng cả kẻ thù của mình, vì họ vô minh, họ bị khổ vì hại ta, họ sẽ bị đoạ,
giống nhƣ kẻ mù quáng, không biết đƣờng đi…
198
Mình tự hào là bất tử, không sợ chết, không tham sống, tham mọi sự; đặc biệt
không cần phải hờn giận, khổ đau lâu, tiếc nuối quá cái gì quá, vì không có cái gì
mất hết cả, chỉ là sự chuyển hoá mà thôi; không khát thèm thái quá cái gì cho
riêng mình, không dẫm đạp lên ngƣời khác để sống
Giác ngộ và siêu thoát bậc cao:
Lẽ ra vấn đề này Ta để cho học trò tự tu luyện rồi chứng ngộ, nhƣng Ta nói ra để
các vị biết đƣờng mà tu cho tốt và tin tƣởng ở con đƣờng giác ngộ Chân lý.
Nhƣng Ta cấm học trò không khoe khoang với ai về việc đã thấy gì, đƣợc gì;
phải tự mình tu, rồi cảm nhận, cấm kiêu căng.
Giác ngộ và siêu thoát cao cấp tại thế chỉ bằng cách tu luyện Huyền pháp-khai
mở năng linh mới thấu đƣợc. Khi khai huệ nhãn, biết xuất thần, xuất hồn-vía
lên cao, nhìn thấy mọi sự, thấu sự đời, soi lại lƣơng tâm bản thể, sẽ sinh cảm giác
nhƣ sau:
-Tất cả kinh sách của các tôn giáo, hay Pháp chúng ta trở lên thừa thãi, không
cần thiết nữa hoặc không cần đọc nữa, nó chỉ là cái cần thiết nền tảng ban đầu
cho việc tu tập mà thôi. Khi “bay” lên tận thiên hà xa xôi, thấy đƣợc Vũ trụ, thấy
trái đất nhỏ bé đến vô hình, ta hòa nhập, chu du và hòa vào cái tĩnh lặng, tuyệt
đối rộng lớn, toàn hợp với Vũ trụ-là Một-nhƣng vẫn có trí tuệ riêng; có cảm giác
ta mất cái tôi bản ngã riêng, cái tôi đó là cái tôi trong bản ngã chung của Vũ trụ,
nhƣng ta vẫn tồn tại, không mất cái riêng, vì mình vẫn còn ý thức. Lúc đó ta biết
chắc rằng: Khi ta bỏ xác trần, thì ta nhƣ thế này, linh hồn ta bất tử, với khả năng
thần thông thế này…Ta có ý chí riêng-là cá thể rất nhỏ trong mênh mông-hòa
hẳn vào mênh mông của Tạo hóa. Ta là ta, cũng không phải là ta nữa. Ta nhìn rõ
xác trần của ta-nó sẽ là cái áo ta sẽ cởi ra khi mãn kiếp. Ta có thể thấy các vong
hồn, thần thánh, thậm chí đƣợc may mắn nhìn thấy Vua Cha vĩ đại, mới thấy cõi
vô hình vĩ đại. Ta thấy mình có một sứ mệnh trong vũ trụ. Và chúng ta thấy, các
qui luật cùng kinh sách thầy viết đúng nhƣ thế-nay trở lên thừa, vì đã thấu Đạo,
giác ngộ hoàn toàn-đây là giác ngộ cao cấp.
Hóa ra, qui luật Vũ trụ vĩ đại thật, mọi sự sinh sinh hóa hóa, thoắt đến thoắt đi,
luân hồi vô biên, biến ảo vô cùng; thấy rằng, sự thực là tất cả các đạo giáo cùng
một gốc, cùng là dạy con ngƣời trở lên toàn giác đến thế này, tôn giáo không
phải là cứu cánh cho con ngƣời, mà là cách, phƣơng tiện để giúp con ngƣời đạt
giác ngộ, thấy kính trọng các minh sƣ, thần thánh tiên phật đi trƣớc chúng ta.
Mọi kinh sách, cái pháp…đều là hình tƣớng, nhƣng không có pháp, không có
huyền pháp, thì ngƣời tu hành thƣờng tu không đạt đạo. Biết rằng: Trái đất, thân
xác ngƣời…là thể vật chất đậm đặc nhất, ô trọc nhất, linh hồn bất tử, và khi xuất
hồn thấy rõ thể vía đen, xấu hôi trọc, hay trong sáng thanh cao là do tâm-tu xác-
luyện ( mỗi tâm tu không đủ đắc Đạo, hay mỗi luyện xác không đủ đắc Đạo, mà
phải tâm tu, xác luyện; còn tu hành không tâm tu, xác luyện tất không thành
Đạo, dù có vào chùa, hay lên núi tu tiên cũng thế thôi), mới thấy tại sao phải ăn
199
chay, thanh lọc cơ thể mới đắc pháp (chứ không phải cố tình ăn chay-chỉ là hình
tƣớng). Chúng ta sẽ thấy, cái chợ đời hỗn tạp đáng thƣơng (đáng thƣơng chứ
không đáng ghét), ta trung dung ngồi trên cái chợ đó, lặng ngắm quan sát, tách
mình ra, thấy thanh thản vô biên, thƣơng và sợ thói tham tàn và mọi trò đời đen
bạc khác, vì nó vô nghĩa hoàn toàn với ta lúc này, ta không thiện, không ác,
không tức, không ghen, không cần và không cần ai khen ngợi, không cần danh
nổi, chả ghét kẻ ghét mình, nghe lời chê không ghét, nghe lời khen không mừng;
đƣờng còn dài lắm, đắc ngộ mới chỉ là bƣớc đệm để thực hành Đạo mà thôi;
sống bình thản và công bình đánh giá mọi sự một cách minh triết nhất, không có
nghiêng lệch; ta thấy không cần gì cả, ta sợ cả sự ràng buộc của thế gian-thấy sự
an lạc vĩnh cửu-hay đây chính là trạng thái Niết bàn của Đạo Phật, hay siêu thoát
cao độ-tất nhiên là hoàn toàn không sợ phải chết nữa. Sợ sát sinh, vì thấy mọi vật
đều có linh hồn; sợ làm bẩn hồng trần và xác thể mình…
Đây là trạng thái giác ngộ cao nhất, siêu thoát cao nhất, ứng với trình độ tu luyện
cao cấp, gọi đó là thành Đạo. “Thành Đạo” chung cho mọi tôn giáo, mọi tu sỹ,
đạo sỹ, nhà tu hành…
Nếu mãn kiếp, ngƣời tu đến bậc này sẽ thăng lên các cảnh giới rất cao, cúng
chay hoàn toàn; các tín hữu biết mình sẽ đến đâu rồi…
II- Đĩnh ngộ nhập thế:
Thiên Đạo của chúng ta Đạo đời song tu, không bỏ tục trần, lánh đời hƣởng lạc
thú an lạc, mà phải nhập thế xây đời bằng Chính Pháp, thì sau khi chúng ta đạt
trạng thái cao quí này rồi, vẫn phải quay về thực tế cuộc sống để sống trong một
đời sống chúng sinh với đủ thói tật hàng ngày. Chúng ta lại có gia đình, chồng
vợ, con cái, lo ăn mặc lao động sản xuất; chống cái ác trong lòng, cái ác ngoài
đời…
Vậy phải làm thế nào? Thánh Đức thần tiên tại thế là thế nào? Hay là lên núi tu
tiên, vào chùa tu hành? Không đƣợc, vì Chính pháp. Vậy chúng ta phải Đĩnh ngộ
nhập thế.
Đĩnh ngộ là thế nào? Là Đĩnh đạc giác ngộ, tức là đĩnh đạc tâm trí, nhận rõ ranh
giới, giá trị của Pháp, của đƣờng tu luyện bản thân, hòa đồng cùng đời sống,
nhƣng không vào hùa, lặn ngụp trong đó với mọi thói đời thƣờng tình; nhƣng
thật giản dị, chân thành trong cuộc sống, chứ không kiêu hợm cá thế, đĩnh ngộ
rất quan trọng; nhiều ngƣời thiền tu rồi, vì thấu ngộ, thành ra khinh đời, khinh kẻ
bần tiện, hóa thành hâm hâm, thích giảng đạo, thích triết lý vụn vặt, nói đến cái
cao siêu, khi chân mình còn lấm đất, chƣa thoát đƣợc tục giới.
Thấy cái gì cũng không nhƣ ý mình, thành ra khó chịu với mọi thứ, muốn thoát
tục cho nhanh. Lại nữa, có ngƣời khi giác ngộ rồi, nhƣng sau một thời gian,
không giữ đƣợc lòng thanh, có tham luyến mọi thứ tạp bậy, danh vọng, thậm chí
có kẻ dùng huyền thuật thần thông làm việc bất chính, hại ngƣời thiện, tất đoạ
sang đƣờng tà.
200
Ranh giới thiện ác, chính tà phải xác định cho thật rõ: Càng đắc đạo cao thâm,
càng ít lời, càng ít nóng giận, càng ít phàm thói; không tranh biện dông dài; cấm
tranh biện và triết vụn, khoe ngộ năng linh; trổ tài huyền thuật. Yêu thƣơng con
ngƣời, sống vì mọi ngƣời, không tham mọi sự, không khinh thƣờng cuộc sống
trần ai, mà cải hoán nó-vì nó là trƣờng học, cái nôi muôn đời, sao bỏ nó đƣợc.
Đó là thiện, còn ngƣợc lại là tà. Ta cấm các đệ tử bỏ đời, ham thoát tục; mà giải
thoát bằng cách tâm tu hằng ngày, bằng cách thiền công, rồi giữ mình trong cuộc
sống; gắng làm mọi việc có ích nhất cho mình, gia đình và cộng đồng một cách
chân chính. Ta nhắc lại: Đắc ngộ-giải thoát chỉ là bƣớc đệm thành công để hành
đạo-tức là thực hành Chính Pháp xây đời tại thế! Thánh Đức thần tiên tại thế là
nhƣ vậy. Cho nên, Thiên Đạo khác xa các pháp môn ở lý đó.
Khai nhãn, đạt thần thông, chỉ là một bƣớc tiếp của con đƣờng tu luyện. Ta ngay
từ đầu nổi Pháp, đã nói, chỉ cứu bệnh và tâm linh một thời gian, để thiên hạ biết
đƣờng, rồi để dạy học trò. Có lúc triển khai thần thông, cốt cứu đời, mở Pháp,
không vì danh lợi tầm thƣờng.
Đĩnh ngộ nhập thế, tức là sống để cải tạo bản thân-xã hội; nếu không đĩnh ngộ,
nhận thức giác ngộ hàng ngày, khi thiền công tự sám hối, tự soi rọi lại tâm-thể,
mình thấy cái đúng sai hay dở ta đã làm đƣợc thế nào, rút kinh nghiệm ra sao,
thanh lọc ra sao, khí chất nội ngoại vía tốt hay xấu, tƣ tƣởng thanh trọc hay dở
gì…Chớ cầu khấn, kinh kệ nhiều, phải tự cứu mình trƣớc khi Trời cứu. Cứu
mình là nâng cao mức năng lƣợng bản thân, đức năng thắng số bằng hành đạo
thiện lƣơng, tu luyện khí công siêu đẳng, tất đƣợc khỏe mạnh, thanh tƣơi, phúc
thọ an vui. Rồi khi hiểu và ứng dụng đƣợc năng lƣợng-tâm linh trong cuộc sống,
sẽ thấy không cần chọn hƣớng nàh, chọn tuổi vợ chồng, chọn ngày tốt xấu, rồi
yểm đảo, giải hạn cúng sao cúng vía, đốt vàng mã là thừa thãi, vô nghĩa đối với
chúng ta; cúng tà thần, cúng mặn là tà môn, mê tín ngu muội, càng hại thêm cho
vong hồn; mới hiểu Vua Cha và Ta, các thầy dạy đúng. Tự mình xử lý mọi việc,
coi trò bói toán, mê tín chỉ là nhảm nhí, vì mình tu luyện tốt, sẽ biết mọi chuyện,
mình nắm đƣợc số mệnh cũng nhƣ con đƣờng của mình, số phận trong tay mình.
Mới thấy Ta cấm học trò ngồi đồng, giở trò bói toán, thực hành huyền thuật kiếm
ăn là đúng đắn. Ta cấm muôn năm sau; kẻ nào không làm đúng, tất không phải là
thần dân Thiên Đạo, phải đuổi cút chúng khỏi Thánh Đức, nếu không sẽ phá
Đạo, phá Pháp, phá Thánh Đức. Tại sao nhƣ thế, học Luật Đạo để hiểu thêm.
Muốn thế, ngày nào cũng phải tui luyện Đại Pháp Tâm Công, xuất vía lên Kim
Tự Tháp trên Trung giới của chúng ta mà tu, học thêm, rồi lại trở về trần mà
hành Đạo; lọc sạch bụi tâ, tẩy sạch khí ám ra khỏi ngƣời hàng ngày, để tâm hồn
thể vía thật sạch sau mỗi ngày nhập thế; cùng nhân loại tiến bộ tiến lên! Ấy là
đời đạo song tu. Đó là cứu mình, rồi cứu ngƣời, muôn thế hệ, khi nào loài ngƣời
còn sống ở Hạ giới đƣợc, thì còn phải đạo đời hợp nhất!
Ta gieo Pháp này cho nhân loại, cốt ở việc âý mà thôi!
201
VẤN ĐỀ TÌNH DỤC
Tập trung vào các điểm sau:
1-Qui luật tự nhiên, có âm có dƣơng, mới tạo thành Vũ trụ, mới sinh sôi, tồn tại.
Tạo hóa đã tạo ra đàn ông và đàn bà thông qua tính dục để tồn tại, nhƣ muôn loài
khác. Diệt dục, xét một cách toàn thể, là diệt sự sinh, trái qui luật tự nhiên.
Nếu tất cả ai cũng diệt dục, tất không còn xã hội loài ngƣời.
2-Tu hành khác hành đạo. Tu hành không có nghĩa là tu lối khổ hạnh, từ bỏ mọi
nguyên lý tự nhiên và xã hội của con ngƣời. Chúng ta tu-luyện-hành đạo-xây
đời; chứ không tu, cốt lấy giải thoát cho mình nhanh chóng, xa rời xã hội.
Tu hành, nhƣng không có phƣơng pháp cải biến sinh lực và năng lực tính dục, tất
mang họa và đau khổ, cốt bì thanh khiết, nhƣng tâm dục chƣa chắc đã hết. Hậu
quả là quá nhiều cha cố Công giáo đã phản đạo đức-đạo đức giả, sƣ sãi ố lậu-bởi
họ tu nhƣng không thoát đƣợc cái khổ lụy từ nhu cầu bản năng tất yếu, không hết
thèm tự nhiên-họ không có lỗi gì, có chăng là quá sức của họ mà thôi; tu hành,
nhƣng không có phƣơng pháp tu luyện để chế ngự dục năng, thì không thể siêu
thoát đƣợc.
3-Chúng ta sống hợp qui luật tự nhiên, tu tâm-dƣỡng tinh-tồn thần. Đó là bảo
hoàn Tinh-Khí-Thần. Tinh huyết-tinh chất tạo ra nhựa sống, bảo tồn tâm thể. Khí
mạch-bảo tồn năng lƣợng tiên thiên-hậu thiên-thần minh bảo tồn trí khí tinh thần.
Cả ba đảm bảo sự tồn tại của con ngƣời. Nên sống, tu luyện phải đạt đƣợc bộ
tam thanh đó. Muốn có tinh, phải sinh hoạt, bảo tồn nguyên khí âm dƣơng, trong
đó có giao hòa tính dục một cách khoa học, chính đáng, để làm thăng hoa Khí-
Thần. Luyện khí, giữ khí, cốt để mức năng lƣợng cân bằng, chứ không dƣ thừa.
Khi đạt cấp, thần minh thăng tiến, trong đó có trí tuệ và tiến hóa tâm linh.
4-Sinh hoạt tình dục phải trở thành một đặc trƣng sống, có tính khoa học cao, trở
thành một hình thức giao tiếp bản thể âm dƣơng và giao hòa với vũ trụ, thông
qua đối tác, để hòa nhịp với sự sống của nhiên. Ai chối bỏ nó, hoặc quan niệm
lệch lạc, là chống qui luật tự nhiên-trừ bệnh tật, thần kinh….chƣa chắc đã đắc
pháp-trừ trƣờng hợp bậc chân nhân siêu phàm. Còn với đại số ngƣời, phải coi đó
là một nghi lễ của cuộc sống. Chỉ cần chống quá đà và mắc tội lỗi mà thôi.
5-Tự nhiên chỉ có bản tính âm dƣơng-cân bằng; thì con ngƣời cũng chỉ nên có
một vợ một chồng-quá đi thì lệch, ngƣời kia không còn hạnh phúc cá nhân tinh
thần; cho nên muôn đời, chỉ đƣợc lập một vợ-chồng. Trƣờng hợp đặc biệt, có
tính cụ thể tạm thời, thì xét sau.
6-Phải coi vấn đề hạnh phúc hôn nhân và tình dục là một nội dung rất quan trọng
trong đời sống xã hội; không đƣợc coi nhẹ. Xã hội an lạc, trƣớc nhất con ngƣời
phải hạnh phúc trong gia đình, về tinh thần rồi mới tính đến vật chất.
202
7-Muôn đời nam giới coi trọng trinh tiết, phụ nữ coi trọng thủy chung. Cả hai đạt
đƣợc điều này, là tôn trọng bạn đời và tất nhiên là đảm bảo yêu cầu đầu tiên của
xây dựng hạnh phúc gia đình.
8-Mọi nghi lễ hôn nhân phải đƣợc coi là một cuộc hành lễ chứng ngộ các giá trị
nhận thức về Đạo Trời, chớ nên coi nhẹ.
9-Không có ai có quyền đòi hỏi đặc lợi về tình dục, không có ai bị từ chối về đời
sống tình dục, các cấp tu luyện, coi tình dục nhƣ không khí, cơm ăn nƣớc uống
hàng ngày. Tu luyện kết hợp tu luyện khí lực tính dục để đảm bảo trƣớc nhất là
sức khỏe, tinh thần, sau là hạnh phúc gia đình, sau nữa là giải thoát, giác ngộ
hoàn toàn.
NGÔN NGỮ, ĐỨC NGÔN VÀ TÍNH BIỆN CHỨNG
Ngôn ngữ, bao gồm lời nói và chữ viết. Đức ngôn-là cái đức thể hiện qua lời nói
và chữ viết.
Ngôn ngữ là sản phẩm của trí tuệ-tƣ duy-ý chí-nhận thức.
Nói, viết phải có mục đích, nội dung và hình thức. Đó là ba mặt của một tác
phẩm ngôn ngữ hay văn nghệ, trong đó có cả ca nhạc.
MỤC ĐÍCH:
Phải trƣớc nhất, xác định mục đích để làm gì? Nói, viết để vì cái gì? Mục đích là
cái đích của hành vi thể hiện ngôn ngữ: để làm gì, cho ai, tiêu chí ra sao, mang
lại ý nghĩa, thông điệp, tác dụng gì? Đây là sự quan trọng nhất, vì suy đến cùng,
mọi sự đều có cái chủ đích của nó; nói, viết mà không nhằm mục đích gì, thì thà
không nói, không viết còn hơn! Không nói, viết tầm phào, ba hoa, vô thƣởng vô
phạt, trừ việc nói chuyện bình thƣờng.
Tính mục đích của ngôn từ phải có lƣơng tâm, đạo đức và có giá trị của lƣơng
tâm, đạo đức. Cái này quan trọng hơn cả. Cốt nói, viết vì mục tiêu đó. Khi ta nói,
giảng, viết, phải lấy mục tiêu phục vụ nhân dân, dùng ngôn ngữ của nhân dân,
hƣớng tới quyền lợi chung, thì nên nói; lấy phụng sự đạo đức làm trọng, làm đầu,
với lƣơng tâm trong sáng, đạo đức rõ ràng, không vì mục đích xấu. Vì Phật tổ
nói: Thân-khẩu-ý đều tạo nên nghiệp, đúng nhƣ vậy. Vì văn-ngôn, vốn là từ
nguồn gốc của ý chí, gốc cội của nó là tƣ tƣởng, tƣ tƣởng tạo nên hình tƣ tƣởng;
tƣ tƣởng và tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn, ảnh hƣởng đến con ngƣời, sự vật
hiện tƣợng. Cho nên, anh nghĩ tốt, chắc sẽ vì cái tốt, đạo đức mà viết, nói; nói ra
là khẩu quyết, khẩu ngôn, hành ý. Trƣờng hợp ý xấu ngôn đẹp cũng có, nhƣng
không sớm thì muộn cũng lộ diện. Vì xét cho cùng, cuối cùng là hiệu quả của
hành vi hành động của anh. Một kẻ tham tàn, ích kỷ riêng mình, nói hay nói tốt,
nhƣng chắc chắn sẽ làm không nhƣ nói. Y sẽ không bao giờ lấy tiêu chí phục vụ
nhân dân, nhân loại, phục vụ Cha lên làm đầu. Y sẽ biển thủ, biển lận, tham ô,
nhũng nhiễu, tranh đoạt, hại ngƣời thiện lành phía sau lời nói, lời viết.
203
Có thiện chí phục vụ, cống hiến rõ ràng cho xã hội, chứ không cốt nói để chỉ
khoe tài, nói nhiều cốt khoe lý, khoe cái giỏi cái hiểu biết. Nếu có thế, thì cũng vì
tinh thần cống hiến, phục vụ. Ngƣời ta nói đó là học thật, chứ không học giả, nói
hay, mà làm không hay, làm ngƣợc. Phục vụ ai? Phục vụ nhân dân chúng sinh,
bổ sung và làm cao thêm nền văn hóa của nhân loại, làm cho sáng hơn; làm cho
chúng sinh hạnh phúc, để nhân dân sống và sáng tạo, cải tạo đời sống tinh thần
lên cao đẹp hơn. Đó là văn ngôn có thiện chí, còn là văn cứu ngƣời, giúp đời.
Trân trọng cái tốt, cái đẹp, cái chân thật, hiền lƣơng; biết bảo vệ cái đúng đắn,
chân chính; biết đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái dị mọ hồ đồ, với cái xảo ngôn,
tinh ranh xảo từ sáo rỗng, hoặc bôi đen hiện thực, bôi đen nhân phẩm và các giá
trị chân chính của con ngƣời.
Mục đích cao đẹp của ngôn ngữ, là giúp đem lại cái sáng cho đời, cho ngƣời, chứ
không đem lại cái xấu, cái đen, cái bẩn, cái ác, cái thô tục, cho dù hiện thực có là
nhƣ thế, nhƣng không đƣợc phép bôi đen thêm, mà nên phản ánh nó, ở một góc
nhìn chính đáng, không tô hồng, không bôi đen, không thiên vị; càng không
đƣợc tô vẽ bậy thêm. Làm nhƣ thế, thì anh đã phủ lên hiện thực một màu đen
khác từ tƣ tƣởng của anh. Làm sao, sau khi nói, viết, thì sự vật hiện tƣợng con
ngƣời phải tốt lên, sáng lên, bớt hận thù, ngu muội, vô minh đi. Cho nên, dùng
ngôn ngữ, là để cải tạo cho tốt lên, chứ không phải để cho cái xấu mọc thêm ra.
Viết, nói, không nhằm dụng ý xấu, nhƣ bôi nhọ, vu oan, hồ đồ, gắp lửa bỏ tay
ngƣời, xuyên tạc bản chất của vấn đề; dù có đọc đƣợc ý nghĩ, thì cũng phản ánh
cho đúng, và tôn trọng giá trị con ngƣời, bản năng con ngƣời; phải xét mình, rồi
đến xét ngƣời khác; đặt mình ở vị trí và hoàn cảnh của họ, với cái thái độ điềm
tĩnh, nhân hậu. Tại sao khi chúng ta có kẻ thù xấu, chúng lại rất nhanh chóng
nhận ra điểm yếu và cứ nhằm vào đó mà soi xọc, vu váo, trong khi ở chúng đẫy
rẫy thói tật, đạo đức xấu hơn ta? Vì chúng rắp tâm hại ta, tất nhiên thông qua
miệng lƣỡi ngôn từ. Hãy dùng đức trị chúng, thay vì lại dùng ngôn ngữ của
chúng; bằng ngôn ngữ lời nói cho sáng, cho đẹp; lấy ánh sáng Cao Minh phủ lên
đối tƣợng để qui thiện chúng.
Văn từ phải thiện, lành, hƣớng đạo. Ngƣời xƣa nói: Văn dĩ tải Đạo là nhƣ vậy.
NỘI DUNG:
Nội dung là cái mình muốn diễn đạt, truyền đạt cho ngƣời khác, là thịt của tác
phẩm hay chủ đề hành ngôn. Phải sáng rõ, chặt chẽ, đầy đủ điều muốn nói; đủ
hàm lƣợng tri thức cần truyền đạt, phù hợp với đối tƣợng tiếp thu. Nội dung
muốn nói gì, thì chủ đề phải rõ ràng, bám theo chủ đề mà thể hiện. Tránh nói
một đằng, nghĩ một kiểu, bí rị, ám thị, gây khó chịu. Tất cả phải rõ ràng. Nội
dung phản ánh hiện thực càng thực càng tốt-đây là qui luật của nghệ thuật. Bám
sát đời sống hiện thực để phản ánh, trung thực, khái quát hóa, điển hình hóa lên.
Tô hồng một chút không sao, nhƣng chống bôi đen, nói quá cái xấu, cái không
đáng nói. Chống dung tục hóa, thô lậu hóa. Khi nào văn nghệ sỹ hƣớng đến cuộc
204
sống nhân dân, ngoài cá nhân, thì văn chƣơng còn có giá trị hiện thực tốt; khi
nào họ chỉ hƣớng đến cái cá thể cá nhân, với so lo tính toán vụn vặt, buồn vui
vụn vặt mang tính cá nhân, không hƣớng tới cái chung, cộng đồng, vì cộng đồng,
thì văn chƣơng lúc đó suy tàn.
Tôn trọng lời nói thẳng, thật, dù thô mộc, hay thanh cao. Phải chịu trách nhiệm
và dám chịu trách nhiệm trƣớc lời nói, ngôn ngữ tác phẩm của mình.
Khi nào, lúc nào, các hàng cán bộ, lãnh đạo minh triết, biết nghe và chấp nhận
lời nói, ngôn ngữ thẳng thắn, trung thực; biết trọng ngƣời ngay thẳng hơn ngƣời
nói xảo, ghét kẻ xu nịnh, gian ngoan đơm đặt, thì lúc ấy vận Đạo, vận loài ngƣời,
quốc gia còn tốt, nguyên khí còn thịnh, nhân tài còn nảy sinh, xã hội còn đơm
hoa kết trái ngọt lành.
Và ngƣợc lại, khi nào lãnh đạo, cán bộ, thích nghe lời xàm tấu, nói sau lƣng,
đơm đặt, nghe một tai, xa rời hiện thực và quần chúng, quan liêu, ỷ lại cấp dƣới,
chỉ nghe báo cáo mà không suy xét, kiểm tra thực tế; hoặc không đi so sánh bổ
sung điều nghiên cho nghiêm; khi dân chúng thích những kẻ xấu lƣơn lẹo, lời
nói bóng bẩy, hào nhoáng và trổ mã vì danh tài lợi lộc cá nhân, thì lúc ấy báo
hiệu sự suy vi.
Kẻ báo cáo, tấu báo trung thực, có kiểm tra, có bằng chứng, dẫn chứng, có kết
quả thẩm định nghiêm, là kẻ có lòng vì dân, lòng thiện, mẫn cán. Kẻ nào chỉ dựa
vào bằng chứng, dẫn chứng bề ngoài, nông nổi, huyễn ảo, ngoa dụ, tầm phào, tin
đồn hƣ thực, không nghe chúng nhân, xa rời hiện thực, thích thuyết xuông, ƣa
đọc báo cáo, sợ tiếp xúc với quần chúng, lời nói bóng mỡ, chỉ cốt nƣớc váng trên
mặt…thì tất là khó trung thực, khó thực, chớ dùng, chớ nghe. Đàn ông thích tán
tỉnh đƣờng mật, câu chữ mây mƣa, thì phụ nữ cũng nên cảnh giác.
Ta ghét nhất là nói láo, nói xiên xẹo và hồ đồ. Số kiếp Ta bầm dập, để nói những
lời tâm huyết này với quí vị.
HÌNH THỨC:
Hình thức ngôn ngữ phải sáng, đẹp-văn chƣơng phải rõ, gọn, sạch, nói ít, viết ít
hiểu nhiều. Văn chƣơng phải giản dị, thanh cao, nội dung càng gần với cách
cảm, cách nghĩ của nhân dân càng tốt. Lời nói, câu chữ thật thà, là thanh cao
nhất, đẹp đẽ nhất. Để cho cả loài ngƣời đọc đƣợc, hiểu đƣợc, thì ngôn từ phải rõ
ràng, trong sáng, nội dung phải rõ. Tiếng Việt của dân tộc Việt Nam-là ngôn ngữ
giàu hình ảnh, thuộc loại ngôn ngữ hay và đẹp, nhƣng lại dễ học, dễ cảm, ngữ
pháp đơn giản nhất thế giới. Sau này, nhân dân thế giới nên học tiếng Việt, để
tiếp thu Thánh Đức cho phù hợp.
Viết, nói phải có gan, dám nói, dám viết những gì mình thấy đúng, hoặc thấy
mình chƣa đúng, dám nhìn nhận khuyết điểm của mình, của ngƣời; biết phê bình
mình và phê bình ngƣời. Không có gan tự nhận lỗi, thì cũng đừng có gan phê
bình ngƣời khác; dám nhìn vào sự thật, dù sự thật có đắng cay bao nhiêu, vấn đề
là có sƣa chữa hay không. Không bảo thủ. Vì lịch sử phát triển, tiến hóa, nhƣng
205
là tiến hóa đến cái chung nhất, hợp nhất, chứ không có qui luật nào cho sự phân
hóa sau cùng, phân, rồi lại hợp mà thôi; tiến bộ là chính, thụt lùi, phản tiến bộ,
chỉ là tạm thời, vì qui luật Chân Thiện Mỹ rất rõ rồi, cho nên, không sợ cái xấu,
không sợ cái ác, không sợ chết, vì không ai chết, không sợ khổ, vì không ai khổ
khi xác định tĩnh tại và an bình cho mình; không sợ đấu tranh, vì đấu tranh sẽ
sinh ra tiến bộ, phát triển-nhƣng không đƣợc lạm dụng trở thành bạo lực phản
kháng quá luật, quá cái cho phép; đấu tranh với thói xấu trƣớc của mình, rồi đến
ngƣời. Giống nhƣ mình đi xâm lƣợc, nhƣng cứ dạy ngƣời khác về nhân quyền
thì không hợp luật, mình không ăn chay, mà cứ nói yêu thƣơng chúng sinh, là
không hợp luật. Mình kêu đau đời, nhƣng dửng dƣng nhìn cái đau của ngƣời
nghèo, khổ, hƣ dốt, cái đau của những con vật bị cắt tiết-nỗi đau nhƣ khi mình
đau thôi-là không hợp luật.
Bao nhiêu triết ngôn, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu mỹ từ, mà đọc, nói, viết,
nhƣng không làm theo, thì cũng vô nghĩa, còn thua một việc làm thực tế. Chớ
triết ngôn, trích kinh điển, kiểu làm bóng cho bài viết cốt khoe kiểu lý ngôn,
nhƣng rồi sa vào kinh viện, giáo điều, hơi một tý lại lấy điển tích ra, học gƣợng,
ốp vào, gán vào, thì sau sẽ có họa diệt vong. Nói, viết, mà không mới hơn thì
đừng nói là nghiên cứu, mà chỉ là học, tham khảo. Nghiên cứu đề tài, khoa
học…mà cốt lấy bằng cấp, trƣng dụng chữ nghĩa kiểu học vẹt, chọn vẹt, tạo ra
tiến sỹ giấy…thì phải bỏ, nếu không phá hỏng cả nhiều thế hệ, mất hết nguyên
khí, nhân tài. Sau này thi nhân tài, cốt thi lấy đạo đức và học thuật, đạo đức thì
lấy hiền lƣơng, hiền lƣơng cần nhất là thƣơng dân, không thƣơng dân, chỉ là láo
khoét, thƣơng dân thì có tất cả; học thuật thì lấy đề tài khả thi, tính khả thi, thì
lấy cái mục đích phụng sự nhân dân, có tính thực tế, thực dụng làm đầu. Dùng
ngƣời tài, chớ trọng bằng cấp, học thuật làm đầu, mà trọng đạo đức, cái tâm của
họ với đời, với việc và trình độ khả năng thực tế của họ; chớ trọng lời lẽ, vì lời
lẽ, câu ngôn, ta chỉ cho là ảo, vì lời nói nhƣ gió, bay đi, lƣỡi không có xƣơng.
Miêu tả không dung tục, kể cả viết về tình dục, cũng không đƣợc miêu tả thành
việc tục tĩu bình thƣờng, kích động dục năng, vì dục năng và hành vi tính dục có
sẵn trong ngƣời rồi, kích thêm làm gì? Viết về tình yêu, thì viết cho trong sáng,
thanh cao, vì tình yêu nam nữ là biểu hiện cao nhất của vẻ đẹp tinh thần, của tạo
hóa, phải thi vị nó, cho nó đẹp, chứ không chỉ biểu nhiện ở mặt tình dục, vì tình
dục vốn chỉ biểu hiện bản năng giới tính, chứ không phải là tình yêu, nó là nền
tảng của tình yêu nam nữ, nhƣng không quyết định tình yêu. Tình yêu phải từ
niềm tin, lẽ sống, từ sự hòa hợp và hòa nhập của hai tâm hồn.
Văn chƣơng hay, thì câu chuyện, cốt chuyện phải hay và câu từ hay, đem lại
hạnh phúc, tình yêu, sự cao thƣợng, đẹp đẽ cho ngƣời đọc, cho họ niềm tin, sức
sống, hƣớng thiện, phá tan cái ác trong lòng họ, cái ác ngoài đời…thì đó là văn
đẹp, có thẩm mỹ. Tránh lối văn cầu kỳ, rối rắm, rỗng tuếch, thƣơng vay khóc giả,
thơ giả, văn giả, cốt mua vui nhếu nháo, không vì mục đích tốt đẹp; kể cả chuyện
206
vui, chuyện phiếm, để giải trí, thì cũng cần sáng, sạch. Nội dung hay, hình thức
thô vụng cũng chả sao. Nội dung xấu, nhƣng hình thức thể hiện đẹp đẽ, văn hoa,
đó là thói thƣờng, đáng sợ. Cái mục đích là giúp đời sáng, thì ắt nội dung sáng và
hình thức cũng sáng theo thôi.
Văn chƣơng, ca nhạc, văn học nghệ thuật đặc biệt tôn trọng và phát huy tính dân
gian, càng gần với dân gian càng tốt. Nhạc chống ủy mị, buồn bã, thoái chí, làm
cho con ngƣời chán nản, sầu bi. Việc tác dụng của tƣ tƣởng đến sức khỏe, tinh
thần, linh hồn thế nào thì các vị đã biết rồi. Nhạc đám ma, cũng không nên sầu bi
quá, mà phải làm cho linh hồn, vì linh hồn là chính, để cho họ thấy tin tƣởng,
thanh, sáng láng ra chân lý và cuộc sống mới.
TÍNH BIỆN CHỨNG: Xuất phát từ Ba qui luật lớn-Đạo Trời; là tính thống
nhất, vận động, nhân quả, phản phục, phản lực, tâm linh-của mọi sự vật hiện
tƣợng. Khi xem xét phán ánh, viết về cụ thể một sự vật hiện tƣợng, hay con
ngƣời, chúng ta phải xem tính hợp lý thống nhất của nó, trong mối quan hệ xung
quanh, trong mối quan hệ chung, tính chỉnh thể chung; cái gì cũng có tính hợp lý
tồn tại của nó tại thời điểm đó, tại sao nó tồn tại đƣợc, tồn tại bao lâu, trong
phạm vi thống nhất nào, mặt đối lập của nó là gì; sự vận động theo hai mặt giả
định, vận động trƣớc (lịch sử-cũ), vận động tại chỗ (hiện tại-tĩnh), vận động sau
(tƣơng lai-động-xu hƣớng) của nó, nhân quả-nguyên nhân (tại sao), hậu quả, kết
quả, nó tác động, tạo ra lực gì (nhƣ thế nào), phản phục và phản lực của nó ra
sao( đối lập), mức độ tồn tại năng lƣợng-hay chính là sức sống của nó nhƣ thế
nào, bao lâu (dự báo-tâm linh) trong không gian hữu hình và vô hình. Muốn
đánh giá đƣợc các mặt ấy, thì ta phải tách ra, đứng xa và trên nó-để đánh giá, có
nghĩa ta phải dùng con mắt khách quan của ta, rồi xét trong mối quan hệ giữa ta,
với sự vật, hiện tƣợng ấy-tức là trƣớc, trong và sau khi đánh giá, ta lại phải giải
quyết mối quan hệ chủ quan của ta-với nó-khách quan. Bởi vì: Khi ta nhận xét,
hay nhìn, hay tác động, hay phản ánh, thì đã tự nhiên xác lập một mối quan hệ
chủ thể-với khách thể là mình với đối tƣợng đƣợc phản ánh, đƣợc thể hiện, đƣợc
xem xét. Có nhƣ thế, mới không nhìn lệch lạc, một chiều, sai trái, phản ánh đúng
nhƣ nó có, đúng bản chất và hình thức biểu hiện của nó, thì không bao giờ sai.
Dù đó là con ngƣời, có hậu kiếp tiền kiếp nhân quả, bản chất hành vi công quả,
tài đức..đến mọi sự vật, hiện tƣợng khác.
TINH THẦN BIỆN CHỨNG: Trong việc phản ánh thể hiện mọi vấn đề, phải
có đầy đủ tinh thần tự giác để thể hiện và phản ánh thuộc tính của Ba qui luật
lớn-đó là tinh thần biện chứng của chúng ta: Mọi sự vật vận động, biến đổi, sinh
ra và mất đi, trong mối quan hệ và tác động tổng hòa của Ba qui luật lớn-tức Đạo
Trời. Trong mọi sự vật hiện tƣợng, khi không phản ánh, hay đánh giá đƣợc Tinh
Thần Biện Chứng trong nó, thì còn sai hoặc chƣa đầy đủ. Tinh thần biện chứng
khác tính biện chứng.
207
ĐẤU TRANH TƢ TƢỞNG: Đấu tranh với kẻ đối địch, cần nhất là bình tĩnh,
xét xem họ nói gì, nói nhƣ thể nào, nội dung, biểu hiện, bản chất của hành vi đó;
họ đấu ta, chống ta vì lý do gì, trình độ thể hiện, cách thức thể hiện, từ đó có
phƣơng cách chống lại. Tùy từng đối tƣợng, mà có cách tác động, giáo hóa khác
nhau; lấy giáo dục, thuyết phục, để qui thiện trƣớc, rồi mới sử dụng biện pháp
khác. Cần tập trung vào mức năng lƣợng và trình độ tiến hóa linh hồn, để giáo
dục tâm lý, biết tạo ra khẩu nghiệp, thân nghiệp cho họ để họ giác ngộ-nếu
không cho họ thấy hậu quả, tất khó giáo dục; lấy giáo dục linh hồn-cận tâm lý
làm chính-tức xoáy vào tâm lý ý thức vô hình. Dùng ngôn ngữ, văn chƣơng để
làm vũ khí sắc bén; dùng biện pháp dƣ luận và tạo ra dƣ luận tập thể để giáo dục;
phải biết phát huy sức mạnh đồng thanh tƣơng ứng và sử dụng mức năng lƣợng
để tác động vào năng lƣợng trên Thiên đình và Hạ thế. Chúng ta nên nhớ, thời
mới, Cha Mẹ và các thánh ƣu tiên và rất quan tâm hỗ trợ cho chúng ta rất nhiều
việc, bóng Ta trên đó, tất nhiên hỗ trợ mạnh hơn, theo quyền pháp của mình;
Thiên bảo trƣợng đƣợc Ta nắm giữ, sẽ khó có kẻ ác chống lại chúng ta, mà
không bị báo ứng, nếu không qui thiện.
Mọi việc cần nhất là công tâm, công chính, công bình, chính trực, trung thực-ấy
là bảo khí muôn đời của thần dân Thiên Đạo.
Nhƣ thế-gọi là có ĐỨC NGÔN. Cùng với Tu đức, luyện thân, độ nhân, lập
thế của ngƣời Thiên Đạo. Đức ngôn thuộc về tu đức.
Đức ngôn phải thể hiện đƣợc tƣ tƣởng Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh,
phản ánh đƣợc và mà nảy sinh đƣợc Chân-Thiện-Mỹ, thì chắc chắn có giá trị. Đó
là đức ngôn.
* * *
Có vô khối nƣớc thời mạt thế, kẻ nói là bình đẳng, bác ái, tự do, nhƣng họ coi
dân nghèo, dân tộc khác nhƣ trâu nhƣ chó; đi đánh chiếm xâm lƣợc chà đạp lên
danh dự, nhân phẩm của ngƣời khác, của dân tộc khác, mà lại nói là vì nhân
quyền, bảo vệ hòa bình; chế tạo bom đạn, buôn bán bom đạn, giết hại con ngƣời
thảm khốc, lại nói là nói là nhân đạo, theo ý Chúa! Chúa thánh nào chứng cho họ
điều ấy! Bắt tay hữu hảo, nhƣng xọc dao vào lƣng nhau, cƣớp đất cƣớp biển,
cƣớp công, dồn đẩy rác rƣởi, kể cả rác tâm linh, phá long mạch nƣớc ngƣời,
ngoài thì thơn thớt nói cƣời, còn trong thì hiểm độc có truyền thống, mà nói là
theo ý trời-trung tâm của thế giới, tự coi mình là văn minh nhất, trung tâm nhất,
thì Trời nào chứng cho họ! Đó là gian nhất thế gian.
Nói cho đúng, làm cho đúng cái việc mình nói, dù sai, còn hơn nói láo, làm giả!
Họ không có chúa thánh nào, ngoài chúa thánh tiền! Loại chúa tiền thì khủng
khiếp lắm-hủy diệt cả nhân loại!
Ta có khi đã phải trừng trị thẳng tay lũ vong ma, diệt vài tên, khi giáo hóa không
đƣợc, vì chúng quá hỗn láo, vô minh và tàn ác, không thể giáo hóa đƣợc nữa.
Sau này cũng thế. Dù ta có về trên, thì vẫn hành xử những tên chống Thiên Đạo
208
và nhân loại nhƣ vậy. Sau này, Thiên Đạo công khai xét tội đồ, rồi trừng trị cho
toàn dân biết: Tên kẻ đó, sống tại thế có tội gì, xử ra sao; kể cả diệt vĩnh viễn, để
làm gƣơng cho muôn năm sau!
Đừng quên gƣơng những tên tội đồ chống Cha Ta: Ju-đa phản Chúa xong, ngã
vỡ bụng mà chết, rồi bị đọa vào địa ngục, nhà thơ Von-te nổi tiếng, cũng nổi
tiếng chống Thiên Chúa, cũng bị đọa vào địa ngục, toàn quyền Pháp tại Đông
Dƣơng là Pierre Marie Antoine Pasquier, bị nổ máy bay chết, khi chống lại việc
công nhận đạo Cao Đài, tất nhiên cũng bị đọa vào địa ngục.
Luật mới sắp tới, một là giáo hóa cho siêu, hai là đọa Thiên ngục nóng khủng
khiếp và ba là bị diệt linh hồn. Diệt-tức phá hủy linh hồn, cho nó thành hƣ vô
khí-đấy là sự trừng phạt nhất của Thiên đình, thông qua chúng ta, hành đạo, thay
Trời hành Đạo.
Cha đã từng dạy đạo Cao Đài: “ Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà
các con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà là
hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần
ngôi Tiên Phật đó”.
Chúng ta không từ bi nhƣ đạo Phật đƣợc. Từ bi của chúng ta, là cứu khổ cho
nhân loại cần lao, một cách tổng thế, chứ không hỉ xả vô điều kiện cho chúng nó,
rồi tự nó ghánh nghiệp. Nó không ghánh nghiệp ngay, mà tiếp tục làm hại ngƣời
sau khi mãn, rồi mãi về sau, xa đọa vào nƣớc quỉ, thì đến bao giờ hết nghiệp ác
cho chúng nó?
Cứu ngƣời ngay oan, ngƣời bệnh tật vô điều kiện, cứu kẻ ác, thì phải cho họ hiểu
ra chính nghĩa; lấy chính nghĩa mà cứu ác. Bảo vệ cái thiện, cái chính đáng, cái
trong sáng, thì không sợ gì.
Phép xử tội hồn: Hàng năm, Tòa Ba ghi tội nhân tại trần, sau đó tấu lên Thiên
đình và Ta, rồi đƣợc lệnh xét xử công khai chúng nó. Khi xét xử, lập Tòa án
Linh tại trần, các thiên thần thiên binh tiên tƣớng dong tội hồn xuống, cho áp
vong nhập hồn, rồi luận tội, sau đó tùy hình phạt, tội, mà xử lý, dẫn đi thụ án.
Ngƣời trần dấu tội, không xử đƣợc, che tội cho nhau đƣợc, nhƣng chúng ta xử
đƣợc rất tốt những kẻ ấy! Kẻ nào dƣới hạ thế, chống lại việc đó, lại xử tiếp
chúng nó khi chúng nó mãn! Cho đến khi tuân luật thì thôi.
Tội nhân từ trƣớc đến nay-đến khi lập Thiên Đạo vào Mậu Tý thời mạt, thì an xá
tất, các vong nhân cho siêu hết, dạy cho siêu, trừ những tên ác quá mới diệt, còn
từ nay trở đi, kẻ nào gây tội ác, tất bị xử; trên kia thì có sổ ghi, dƣới này các vị
cũng ghi cho Ta, nhất là những kẻ chống Thiên Đạo.
PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC
209
-Nhận thức của con ngƣời từ thấp phát triển từ thấp đến cao, nên phải giáo dục từ
thấp đến cao, theo chiều tuyến tính; cố gắng không lặp lại, nếu lặp lại, thì phải ở
một bƣớc cao hơn, tiến bộ hơn.
-Vì con ngƣời có những đặc điểm thể chất, tính chất văn hóa vùng miền khác
nhau, nên có các biện pháp giáo dục cho phù hợp, trên tinh thần và nền tảng văn
hóa, tri thức chung. Văn hóa, tri thức phải đƣợc thống nhất trong đa dạng.
-Vì con ngƣời, có ngƣời thiện, ác khác nhau, nên phải tách thiện ác ra, đôi khi
phải thế, để cải hóa, nếu không chúng sẽ nhiễm lậu cái xấu, nhất là khi cái tốt
còn yếu, còn nhen nhóm, còn hạn chế.
-Vì năng lực cuộc sống và con ngƣời lao động sản xuất khác nhau, nên phải tổ
chức lao động tập thể, để cân bằng năng lực lao động tập thể (trong một dây
chuyền tất nhiên-không có tính cá thể, thì sẽ san bằng đƣợc năng lực), trong sự
bình đẳng, công bình. Nếu không thì không bao giờ san bằng đƣợc khoảng cách
giàu nghèo, phân hóa tiến bộ, lạc hậu. Xin đừng bài bác chế độ lao động tập thể,
vì sợ cào bằng. Xin thƣa, trình độ lao động tập thể sẽ là thƣớc đo tiến bộ của tổ
chức xã hội-tức là trình độ phát triển của cộng đồng. Sự không bình đẳng trong
lao động, đã thúc đẩy sự tham lam của con ngƣời, bằng cách thúc đẩy sự tự do
tranh đoạt, mạnh ai lấy làm, chen, vƣợt lên nhau…đã gây hậu quả cho thế giới.
Chỉ có lao động tập thể, mới tạo ra giá trị tập thể, đảm bảo quyền lợi chân chính
của ngƣời lao động, cho con ngƣời xích lại gần nhau, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân
và tính cá nhân phát triển không bình thƣờng, phát triển không hài hòa với xã hội
và cộng đồng của nó. Do đó, chúng ta phải hết sức coi trọng giáo dục tinh thần
lao động tập thể, sự tiến bộ cố gắng chung, chống ỷ lại vào tập thể, sẽ hủy hoại
sức sáng tạo tiến bộ. Nhân tài phải đƣợc trọng dụng tối đa, sẽ là động lực và là
chỗ dựa cho tập thể phát triển, tập thể là nền tảng cho cá nhân tồn tại. Kể cả chủ
nghĩa tƣ bản cũng cực kỳ coi trọng lao động tập thể, nhƣng quyền lợi của tập thể
lại cực kỳ mâu thuẫn với cá thể ông chủ tƣ bản, đó là mâu thuẫn không bao giờ
giải quyết đƣợc trong xã hội tƣ bản. Mặc dù họ coi trọng nhân tài, nhƣng để đem
lại quyền lợi ích kỷ cho công ty, hoặc vì lợi ích cục bộ của một cộng đồng nào
đó, chứ không phải vì mục tiêu tiến bộ nhân loại, trong động lực và tính mục
đích chân chính của lao động.
Nhân tài đƣợc giáo dục tốt, thì họ sẽ không còn nghĩ chuyện bất công, vì họ phải
đóng góp trí lực hơn so với ngƣời khác. Họ phải đƣợc giáo dục thành những
công dân gƣơng mẫu nhất, trong sự nghiệp chấn hƣng loài ngƣời.
-Vì sự đồng đều không bao giờ đƣợc thể hiện tuyệt đối, nên bao giờ cũng xuất
hiện những ngƣời tài đức hoặc các giá trị cao quí hơn, vậy ta hãy nêu cao những
tấm gƣơng đó cho mọi ngƣời học tập. Giáo dục thông qua những tấm gƣơng, là
giáo dục mô phạm nhất, mà không sách vở nào so sánh đƣợc.
-Giáo dục thông qua sự thúc đẩy tiến bộ cá nhân, coi tập thể là nền tảng, cá nhân
là động lực, hết sức tôn trọng con ngƣời, quyền và lợi ích của họ; chống các hình
210
thức áp đặt đè nén tùy tiện, xâm hại quyền tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Nếu làm thế, chúng ta sẽ biến giáo dục thành đen tối, phản cảm, phản
tác dụng; xã hội sẽ đen tối về lâu dài.
-Thực ra, bao giờ sự trừng phạt cũng là hành động gây hậu quả xấu, với một
nhân cách xấu, vậy chúng ta phải giáo dục thuyết phục là chính. Trừng phạt đƣợc
coi là một biện pháp răn đe, làm gƣơng cho kẻ ác. Nhƣng đôi khi, càng răn đe,
nhƣng không ai sợ, tội phạm càng nhiều. Vì sao? Vì đạo đức xã hội đã xuống
cấp, luật pháp không nghiêm minh, thƣợng bất chính, hạ tắc loạn; con ngƣời
không còn chỗ dựa về tinh thần, đạo đức, lý tƣởng, thì không luật pháp nào ngăn
đƣợc sự xấu xa. Họ sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào xu hƣớng tự do cá nhân. Tự do
cá nhân tùy tiện, sẽ là hậu quả cho bất cứ xã hội nào.
-Công tác tuyên truyền giáo dục, công tác tƣ tƣởng phải luôn luôn chủ động,
nhạy bén và xung kích đi trƣớc một bƣớc dài. Chiến lƣợc giáo dục phải hoạch
định hàng trăm năm. Các chiến sỹ trên mặt trận tƣ tƣởng văn hóa là những đạo
sỹ ( Thầy lễ), các giáo viên, các nhà hoạt động văn hóa-khoa học xã hội và nhân
văn. Ở họ phải có đủ phẩm chất: Trí tuệ, gƣơng mẫu, khiêm tốn và nhạy cảm,
mẫn cán. Trí tuệ, nhạy cảm là tài. Gƣơng mẫu, khiêm tốn, mẫn cán là đức.
-Giáo dục tinh thần, tƣ tƣởng trƣớc, giáo dục thể chất, tâm thể sau. Vì tinh thần
quyết định thể chất, thể chất hỗ trợ tinh thần phát triển; cả hai đảm bảo sự hoàn
thiện cá nhân.
-Khuynh hƣớng tự do cá nhân luôn là khuynh hƣớng bản năng; và trong bản thân
cá nhân, đã là một thực thể cá thể có tính tự do cao. Bản tính tự do tƣ tƣởng và
cuộc sống cá nhân, đảm bảo hạnh phúc cá nhân và cuộc sống cá nhân. Nhƣng
phải có cách giáo dục để tự do cá nhân ấy không đi chệch “vạch vôi”của pháp
luật, tập thể. Đó là hành lang của anh ta ( ví dụ: tự do uống rƣợu-không quá 3
chén; tự do đi lại-phạm vi quốc gia; tự do tƣ tƣởng, phát biểu chính kiến-phạm vi
văn hóa tƣ tƣởng Thánh Đức…). Có nghĩa: Không có tự do vô lối, tự do vô
chính phủ. Muốn tự do vô lối, thì hãy là một thực thể không xã hội. Đạo-đời là
một trƣờng học lớn, ai cũng có quyền tự do hoàn thiện mình, chứ không thể phá
đạo, đời. Ý nghĩa là ở chỗ ấy. Kẻ nào phá đạo-đời, là phá bản mệnh mình, kiếp
nghiệp mình, lúc ấy ráng chịu, không ai thƣơng. Vấn đề là ở chỗ cần tự giác.
-Xây dựng chế độ cộng sản, không có nghĩa là cộng lại tất cả, chung tất cả mọi
thứ. Cộng sản là chế độ dùng chung tƣ liệu sản xuất chủ yếu, không phân chia tƣ
liệu sản xuất và tƣ liệu lao động, chung tài sản vật chất lớn, để không phân hóa
giai cấp, tầng lớp; bảo đảm chế độ công bằng, bình đẳng ( công bình) trong toàn
xã hội, chấm dứt sự đói khổ, bóc lột, bất công. Chứ cộng sản không phải là
chung vợ, chung chồng, chung nhà chung không gian gia đình, chung đồ vật
dụng cá nhân riêng tƣ…những cái đó là quyền lợi cá nhân, phải đƣợc bảo đảm
tuyệt đối, cấm xâm phạm.
211
-Làm sao để chống cào bằng? Cào bằng là nguy hại-vì nếu nó là tinh thần, tƣ
tƣởng cào bằng thì rất hỏng. Chúng ta chủ trƣơng công bình, chứ không cào
bằng, bảo đảm quyền lợi cá nhân, thông qua sự bảo đảm quyền lợi tập thể đƣợc
tôn trọng, và tập thể ấy không ngừng tiến bộ, đi lên, chứ không chững lại hay
thụt lùi. Chúng ta sử dụng biện pháp công bình: Công bằng trong quyền làm chủ
tập thể, trong phân công lao động, trong phân phối vật chất; bắt buộc cá nhân
phải thực hiện đƣợc định mức cho phép do tập thể qui định, thì đƣợc hƣởng
quyền lợi nhƣ mọi ngƣời khác; có nghĩa, làm nhƣ mọi ngƣời, mới đƣợc hƣởng
nhƣ mọi ngƣời; đó là theo nghĩa thông thƣờng, đối với một lao động bình
thƣờng. Không quân bình chủ nghĩa (Tất cả đều nhƣ nhau), phải hiểu sâu khái
niệm: Làm theo năng lực, hƣởng theo nhu cầu-không có nghĩa là hƣởng quyền
lợi vô tội vạ! Cùng lắm là đảm bảo mức sống trong ngày. Nếu chỉ có thế, thì
không ai tham, không ai lấy quá nhu cầu của mình, không ai muốn tích trữ, vì
mai lại có, của đầy ra đấy, càng sau càng nhiều. Anh ta sẽ tự giác chọn phần cho
mình, phù hợp với yêu cầu cá nhân; giống nhƣ trong một cửa hàng ăn tự chọn,
anh ta ăn theo nhu cầu, và không đƣợc mang về; vào cửa hàng may mặc, anh ta
chỉ có thể đƣợc lấy một hoặc hai bộ quần áo, do công xã cho phép. Anh ta đủ
dùng. Các việc khác cũng thế. Đó là hƣởng theo nhu cầu.
Chúng ta chỉ cần vài trăm năm không có chiến tranh hay phải sản xuất vũ khí,
tốn công của vào việc tiêu diệt nhau, thì của cải sẽ vô cùng nhiều, trong khi khả
năng ăn, dùng của con ngƣời có hạn, chứ không vô hạn. Chỉ sợ không công
bằng, chứ không sợ thiếu. Ngay cả thế giới thời mạt hiện nay, nếu đem chia đều
công bình cho cả loài ngƣời, thì ai cũng no ấm. Chi phí một chiếc xe tăng, một
vũ khí tối tân, có thể nuôi đƣợc cả vạn ngƣời trong một năm. Hoặc tài sản của
một tỷ phú Mỹ, có thể nuôi cả một vài dân tộc với cả tỷ ngƣời! Vấn đề là ở chỗ:
lao động sản xuất tự giác cho mình và đƣợc hƣởng trọn vẹn thành quả lao động,
trong một cộng đồng hết sức tự giác, chân chính, đùm bọc yêu thƣơng nhau, thì
không sợ cào bằng, hay sợ quân bình chủ nghĩa nữa.
-Tất nhiên, quá trình tiến hóa đó có tính lâu dài, không thể cứ khăng khăng áp
dụng chế độ hƣởng theo nhu cầu ngay, tùy nơi, tùy lúc có thể sử dụng biện pháp
làm theo năng lực hƣởng theo hiệu quả công sức-nhƣng không áp dụng cơ bản,
vì xét cho cùng, phƣơng pháp đó không phù hợp với chế độ công xã, nó thuộc về
xã hội có thị trƣờng. Nhƣng xét một cách tổng thể, thì trong một quốc gia, công
xã nào làm ra sao, thì công xã đó hƣởng nhƣ thế. Đó cũng là làm theo năng lực,
hƣởng theo hiệu quả công sức. Không lẽ các công xã khác phải nai lƣng ra nuôi
công xã lƣời hơn? Không có chuyện đó. Cho nên, Ta mới nói, sẽ có công xã
giàu, công xã nghèo. Nếu nơi nào có địa lý tự nhiên, khoáng sản tài nguyên
thuận lợi hơn, phát triển tốt hơn, thì phải có trách nhiệm hỗ trợ nguyên vật liệu,
kỹ thuật…cho nơi nghèo. Cho nên khi cần, phải lập cơ quan cứu trợ và tƣơng trợ
kinh tế. Tổ chức các hội chợ hàng hóa tiêu dùng, để các quốc gia, các công xã
212
trao đổi vật phẩm cho nhau. Không duy trì kinh tế thị trƣờng, nhƣng phải có xã
hội hàng hóa. Không nên duy trì chế độ công xã theo kiểu Pôn-pôt đỏ hay công
xã kiểu Tàu trong thời mạt thế. Nhƣ thế là giết chế độ, giết chết lý tƣởng một
cách máy móc, ngu muội.
-Chế độ Thánh Đức là chế độ xã hội tốt đẹp vô cùng, rất khoa học, cho nên mọi
hình thức áp dụng phải hết sức khoa học, cấm nhắm mắt làm liều, ôm bo bo một
mô hình cứng nhắc, rồi duy ý chí sai lầm.
-Ngay cả trong một quốc gia, hay Khu tự trị, đôi khi do thực tế yêu cầu, vẫn áp
dụng các chế độ quản lý khác nhau, mục đích là thúc đẩy nhanh sự phát triển cân
bằng với nhau, để không tạo ra các áp lực mất cân băng, hay mất công bằng. Ví
dụ: anh A giàu hơn, thay vì bị anh B suốt ngày vay mƣợn, hay phải hỗ trợ anh B,
làm ảnh hƣởng đến sự phát triển của anh A, nên anh A san bớt tiềm năng cho, để
anh B phát triển nhanh hơn, đỡ gánh nặng cho mình…Các việc khác tƣơng tự.
-Tất nhiên, chúng ta cũng rất cần phải sàng sảy nhƣng hạt giống lép ra khỏi cộng
đồng, nếu nó làm ảnh hƣởng đến tập thể. Một anh lƣời lao động, chắc chắn sẽ
ngại đến nơi phân phối vật phẩm, ngại tham gia vui chơi bình đẳng với mọi
ngƣời. Tự anh ta phải thấy xấu hổ, vì lý do cá nhân mà làm ảnh hƣởng đến tập
thể. Trong một tập thể tốt, thì không thể có những cá nhân tồi, có nghĩa, giáo dục
và giúp mọi ngƣời cùng tiến bộ, là trách nhiệm của cả cộng đồng, nhƣng trƣớc
nhất là gia đình.
-Muốn cấm cái gì, thì chúng ta làm tiệt nọc nguyên nhân của cái đó, ví dụ cấm
thuốc lá, thì diệt hết cấy thuốc lá, muốn cấm uống rƣợu, thì cấm sản xuất rƣợu.
Các việc khác tƣơng tự: Cấm tham nhũng, thì diệt nguồn gốc tham nhũng là
không cho cơ hội tham nhũng, không có cái để tham nhũng, tham nhũng rồi thì
không làm gì đƣợc cái đó, không ăn hết, không tiêu đƣợc, không dám mang lên
ngƣời, không kham nổi việc đã bao che…Cấm kẻ hồ đồ vu vạ, thì cho y ra ngồi
một chỗ mà tự xỉ vả mình, tự vu vạ mình. Cấm kẻ ganh tài thì cho y ra tự làm lấy
cái việc mà y đã ganh ghen với ngƣời ta, nếu y không làm đƣợc thì phạt. Cấm
bon chen thu vén cá nhân, thì lấy lại hết những gì y hơn xung quanh; cấm tranh
dành chức quyền, thì cứ có những kẻ có ý ganh đua xấu, có ý tranh dành ấy mà
gạch tên, để trừ họa cho dân…
-Về cách thức giáo dục: Phƣơng châm “mƣa dầm thấm đất”, rót vào, thấm vào,
ngày này không nghe, thì ngày khác phải nghe, nói năm nay, nói sang năm; giáo
dục truyền thống thì trú trọng giáo dục sự kiện, tấm gƣơng, càng thấu, càng
nhiều, càng lâu càng tốt; giống nhƣ cơm ăn áo mặc, sao không thấy chán, thì đạo
đức, việc tốt cũng thế. Nhƣng cấm hình thức giáo dục móc xóc, xiên xọc, tọc
mạch, xâm phạm nhân thể, nhân cách, danh dự cá nhân; mắc lỗi gì, thì chỉ nói lỗi
đó, không vu váo hay xiên xẹo sang các việc khác của ngƣời ta. Không hồ đồ vu
váo, thái độ ác, đểu cáng, ác tâm, ác ngôn, ác khẩu, kiểu đấu tố, phỉ nhổ, ném đá
tập thể, ném đá theo bầy, đánh đập, nhục mạ…những cái đó chỉ làm sinh lòng
213
căm uất, căm thù cho họ mà thôi, thậm chí gây ra hậu quả rất xấu. Giáo dục phải
thông qua tập thể, thông qua mô phạm có tính thiện, có văn hóa. Ngƣời giáo dục,
muốn giáo dục đƣợc, thì mình phải giỏi hơn, đức hơn hoặc chính chân hơn, đại
diện cho bề trên, hay đại diện cho tập thể, cho việc tốt, việc tiến bộ.
-Ai có tội, lỗi, thì ngƣời ấy chịu, không đƣợc lôi cả nhà cả họ ngƣời ta mà giáo
hóa, gây phản cảm. Giáo dục, nhìn thấy cái tốt của ngƣời ta mà giáo dục, lấy cái
đó làm lực thúc đẩy ngƣời ta tiến bộ; cấm nhìn vào cái xấu, thấy mọi thứ của anh
ta xấu hết, giống nhƣ đeo cái kính phiến diện vào, nhìn đâu cũng thấy đen, thấy
lỗi. Đối với cả kẻ thù, cũng phải tôn trọng và từ bi, nếu ta đối xử với họ, nhƣ họ
đối xử với ta, thì chúng ta thành ác, xấu, nhƣ họ. Cho nên, ngoài sự độ lƣợng ra,
chúng ta phải đứng cao hơn họ về mặt tiến bộ, văn hóa. Vì vô minh mới ác.
-Đánh giá con ngƣời, hay bất cứ hiện tƣợng nào, thông qua hình thức, nhƣng
phải đánh giá đƣợc thực chất bản chất của vấn đề, không chụp mũ, qui kết, thiếu
minh bạch và tính chính xác, không ngụy biện cho hành động sai phạm. Đánh
giá phải tuân theo tính biện chứng-Giáo dục thông qua toàn bộ kinh sách lý luận
và thực tiễn đời sống phát triển của xã hội Thánh Đức.
-Chiến lƣợc giáo dục phải tạo ra những lớp ngƣời hiền lƣơng, có năng lực lao
động, năng lực cá nhân để bảo đảm năng lực sống của xã hội. Mọi ngƣời phải
đƣợc học tập, đƣợc tạo nghề và việc làm, trừ trƣờng hợp mất khả năng lao động,
còn lại mọi ngƣời phải lao động, một cách thích hợp nhất.
-Con ngƣời phải có khả năng thần thông để tiến hóa tâm linh, linh hồn. Khả năng
thần thông-đắc đạo của cá nhân có cái tuyệt vời là: Chế ngự cái xấu và thúc đẩy
tiến hóa cá nhân, đồng thời chế ngự cái xấu, giám sát ngƣời khác và giám sát xã
hội. Khi đọc đƣợc ý nghĩ của nhau, biết đƣợc bản chất của nhau, số phận của
nhau, thì hẳn xã hội sẽ đạt đƣợc thần thông quảng đại tập thể. Xã hội ấy vô cùng
cao thƣợng và tốt đẹp, không có chỗ cho kẻ xấu tồn tại, không có cơ hội cho kẻ
xấu phạm tội.
- Trong sinh hoạt tập thể, tự xét mình trƣớc, xét ngƣời sau; xét cá nhân trƣớc, xét
tập thể sau; xét cán bộ trƣớc, xét quần chúng sau; xét trên trƣớc, xét dƣới sau.
Cấp dƣới nhận xét, phê bình cấp trên. Cấp trên sửa xong, mới đƣợc nhận xét phê
bình cấp dƣới, nhƣ thế mới là xuôi chiều, vì đi từ gốc lên ngọn, không lộn đầu,
không “thƣợng bất chính, hạ tắc loạn”. Thƣợng mà chính thì hạ không bao giờ
loạn.
-Cấm báo cáo thành tích nhiều, cấm hành họp nhiều. Tất cả ở hiệu quả và thực tế
đời sống. Báo cáo hay họp hành nhiều, chẳng qua là cán bộ lƣời, quan liêu,
không đi sâu đi sát thực tế. Nếu đi sâu đi sát thực tế, thì nghe báo cáo, nhìn báo
cáo, chỉ thị mồm, cần chi hành họp nhiều, mất thời gian, tốn giấy mực. Xây dựng
chế độ đi công tác thƣờng xuyên của cán bộ. Cán bộ mà không nắm đƣợc công
việc trực tiếp, kiểm tra trực tiếp, là cán bộ quan liêu.
-Cán bộ tốt có phẩm chất nhƣ sau:
214
1-Thích gần gũi nhân dân, nghe dân nói, thƣơng dân.
2-Giản dị, trung thực, tiết kiệm, liêm khiết, trọng nhân tài, thậm chí dám sử
dụng ngƣời tài hơn mình. Mẫn cán với công việc.
3- Có tri thức, trí tuệ đảm nhiệm tốt công việc.
4-Tu luyện tốt.
5-Đời sống gia đình hòa hợp, an vui.
-Cán bộ xấu có tính nết nhƣ sau:
1- Ngại gần dân, dấu dốt, ngại lời phê bình, trù dập nhân tài, thích bon
chen, thu vén cá nhân; ham muốn chức tƣớc để cầu lợi riêng, ngoi lên cốt vì cá
nhân.
2-Báo cáo láo, làm ẩu, che dấu tội lỗi, thích vênh oai, bảo thủ. Tính cách dở
hơi: Đe nẹt, gằn hắt ngƣời, ganh ghen đố kỵ, tỵ nạnh, đểu xảo, tiểu nông vặt, tinh
quái xảo ngôn, lƣơn lẹo, hiểm độc, chua ngoa, bất nhân…
3-Trình độ kém, tri thức dở, thi láo, chạy chọt bằng cấp.
4-Kém tu tập, ngạo mạn, vô minh.
5-Gia đình lộn xộn.
Loại xấu đó, chỉ cần có một vài đặc điểm, nếu không sửa chữa, thì không nên
dùng.
-Thi nhân tài, lấy đạo đức trƣớc, tài năng sau. Điểm đạo đức đƣợc nhân dân tín
nhiệm, nhân đôi. Có cả hai thì dùng. Nếu không thì chọn ngƣời có đạo đức, chứ
không chọn ngƣời tài mà không có đạo đức.
-Khi phát hiện có ngƣời nâng đỡ kẻ vô đạo đức làm cán bộ, thì lập tức phải loại
bỏ cả hai ngƣời; nếu cả tập thể thì phải bỏ cả tập thể, thay khối khác.
-Làm thầy thuốc mà không thƣơng con ngƣời, tham lợi, vô nhân, bất đức, lƣời
nhác, làm láo, kiên quyết bỏ.
-Làm thầy lễ, mà thích ngƣời ta đề cao, không thấy sứ mệnh phục vụ của mình,
tự trọng mình, rồi gây nhũng nhiễu, thích ăn của biếu, biến đền thờ Cha thành
nơi cầu lợi danh, thì kiên quyết loại thầy lễ đó.
-Khi xã hội phát triển, Thánh Đức cao, mọi ngƣời có thần thông, thì loại thày bói
hóa trò mua vui, chớ dùng, loạn Pháp.
-Sau này công xã thành công, thì đêm ngày nhà cửa không cần khóa, vẫn không
ai trộm, họ lấy chả làm gì, vì ai cũng nhƣ nhau. Giờ làm việc, mọi ngƣời hăng
say lao động sản xuất, vui tƣơi, không bị đè nén. Làng xóm, công xã không ai
căng go với nhau; không phải lo lắng, đấu tranh với ngƣời xấu. Không có chuyện
tranh dành, lo lắng vì công ăn việc làm, chỗ ở, bệnh tật…Lúc nghỉ, ngày nghỉ,
mọi ngƣời hòa đồng, vui ca, sinh họat văn hóa tinh thần vui chơi giải trí lành
mạnh, ca hát vang lừng. Rồi nữa thì đi du hý, du lịch, píc níc, vũ hội…Tổ chức
ra các hoạt động vui chơi đa dạng, thanh bình. Cây cối, nhà cửa, ruộng vƣờn, nhà
máy, sông ngòi…đều đẹp đẽ nhƣ tiên cảnh. Ngƣời vui hòa, đẹp đẽ, quảng đại
thần thông, tôn trọng nhau vô cùng.
215
Đó là gì vậy? Thánh Đức. Thánh Đức muôn năm!
CON ĐƢỜNG THOÁT LUÂN HỒI PHẦN 1-CON ĐƢỜNG THOÁT LUÂN HỒI
7 nhân, 7 quả, 7 diệt, 7 thoát
( 7 Lý Luyện Tu )
7 NGUYÊN NHÂN SINH RA VÀ TỒN TẠI CON NGƢỜI TẠI THẾ GIỚI
NÀY
Nguyên nhân 1-Sự hình thành và cấu tạo xác thể, linh hồn: Là cái sự Định.
Nguyên nhân 2-Sự tiến hóa của Vũ trụ ở trình độ con ngƣời: Là cái sự Hình.
Nguyên nhân 3-Sự tái sinh Linh hồn ở trái đất: Là cái sự Sinh.
Nguyên nhân 4- Sự nguyên cớ cụ thể tạo nên con ngƣời cụ thể: Kiếp nghiệp,
nhân quả.
Nguyên nhân 5-Sự giáng thế: Nhiệm vụ Thƣợng Thiên giao phó.
Nguyên nhân 6-Linh hồn mật độ thấp: Tiến lên ngƣời, nhƣ mộc, thú, thạch
hồn…
Nguyên nhân 7-Linh hồn tiến hóa rồi, nhƣng ở lại: Hỗ trợ nhân loại.
Nguyên nhân 1-Sự hình thành và cấu tạo xác thể, linh hồn: Là cái sự Định.
-Là do 9 loại khí chất Vũ trụ-Thƣợng đế tạo nên, thông qua 9 vị Bắc Đẩu, có cả
thần khí và xác khí. Thần khí sinh ra Linh hồn gốc-tức vật chất siêu đẳng, Xác
khí sinh ra xác thân-tức vật chất sơ đẳng.
-Đã qui định trong Thiên Kinh-Nhân Kinh.
-Con ngƣời sinh ra ở trần gian này, vốn là một cấp bậc tiến hóa của vật chất
trong Vũ trụ, từ trọc khí, đến đất, cây cỏ, cầm thú, con ngƣời, thần thánh tiên
phật-thành tiên khí-hƣ vô chi khí hoàn về Thƣợng đế. Là hết một vòng chuyển
luân tiến hóa.
Vậy, xét cả xác thể và linh hồn ngƣời tại thế này, tạm chia là hai phần thể xác
đơn giản và siêu đẳng. Cái thể xác đơn giản là xác thân trần tục, nó vốn là trọc
khí của cửu khí chất tạo thành, do Nguyên khí Vũ trụ tụ thành.
Chín loại khí chất này gồm: Khí chất: đen, xanh lá cây, xanh lam, chàm tía,
hồng, đỏ, vàng. Là bảy loại trọc khí. Và hai loại thanh chất là trắng và tím. Chất
khí trắng thuộc về Hƣ vô khí-hay là Trung Phƣơng khí chất-hay là hạt Trung
Phƣơng-tức cái khí gốc của muôn loài muôn vật, ở cao tầng nhất của 9 cảnh giới,
có mật độ hạ nguyên tử đặc nhất, nặng nhất, thanh nhất; và khí chất tím là khí
Thực hữu khí-là khí tồn tại đẹp nhất của 9 loại khí, nó là khí Hợp nhất của 9 loại
khí.
216
9 loại khí chất này tạo nên muôn vật, muôn hình tƣớng, muôn sự, là nhân, là gốc
là quả của nhau, của Vũ trụ nói chung.
Thể xác con ngƣời đã có đủ 9 loại khí chất trên. Khí chất Tiên thiên là do Vũ trụ
tạo thành thân xác ban đầu, nuôi dƣỡng thân xác đó, gồm Nguyên Khí-tức
Nguyên năng tạo nên thể xác mình-đó là các nguyên tử cấu thành thân xác đầu
tiên khi mới sinh ra và Nguyên Hồn khí-tức là Linh hồn gốc chính đầu thai nhập
vào xác thể để lại hồi luân hồi hiện kiếp. Cái gọi là con ngƣời bắt đầu đƣợc sinh
ra này, nó vốn đã đang tuân theo Luật Luân hồi-Nhân quả rồi.
“Có thể xem Hà Đồ là vũ trụ- thiên đình-con ngƣời- linh hồn- sự vật….đƣợc cấu
tạo bởi 5 vòng nhƣ sau:
-Trung tâm là một điểm: Thƣợng đế, sự sinh, ban đầu là Thái cực, lõi linh hồn-
tiểu nguyên năng gốc-lƣơng tâm….Trung tâm năng lƣợngTrung Phƣơng trục
Long Hoả.
-Vòng 2 gồm 4 điểm trắng không gian-thời gian, chỉ thế giới giác ngộ, Chân lý.
Đây là 4 quan giám điện Vƣơng quan-là tứ trụ Thiên triều-là Tứ tƣợng-là Thiên
dƣơng-Thiên âm-Thiên tƣớng-Thiên sát. Đây là lõi trong gần linh hồn…Đây là
vật chất siêu đẳng. Trung tâm năng lƣợng: Bách hội Luân 7-Luân xa 6-Luân xa
5-luân xa 1.
-Vòng 3 gồm 2 dãy 5 điểm đen, tƣợng trƣng cho sự cân bằng âm dƣơng, là
không-10-0, là sự cân bằng của tứ trụ. Là trục năng lƣợng giữa thân ngƣời-Long
hỏa.
-Vòng 4 chứa các số sinh 1, 2, 3, 4 dùng để chỉ phần vật chất ban đầu, tạo nên
sự vật, vũ trụ, là tinh túy ban đầu-bắt đầu sinh ra. Ban đầu là vô hình vô ảnh-
nhƣ tinh khí máu huyết, nguyên nhân…là nền tảng, cái gốc của vật chất hình
thành hữu hình. Là Nguyên Thiên khí-huyệt-Khí tiên thiên-hậu thiên-năng lƣợng
tạo nên và nuôi cơ thể-cái gốc của sự tồn tại nên sự vật, hiện tƣợng, co1n ngƣời,
vũ trụ…đi với nó là thể vía.
-Vòng 5 chứa các số thành 6, 7, 8, 9 dùng để chỉ cái thế giới vật chất hữu hình,
hình thành nên các sự vật hiện tƣợng. Nó còn là thể vía, thể phách ngoài cùng
của con ngƣời. Là bát quái. Nó cũng là các tinh chất bẩm thụ nguyên khí của
các vì sao, các mức năng lƣợng mà khi sống, sự vật con ngƣời nạp đƣợc; do đó
nó sẽ bị mất đi, khi nguồn nguyên năng gốc hay là linh hồn rời bỏ nó- Là da thịt,
máu, xƣơng, và đi với nó là thể phách. Đây là vật chất sơ đẳng.
( Trích Nguyên Lý Trung Phương).
217
“
Nguyên nhân 2-Sự tiến hóa của Vũ trụ ở trình độ con ngƣời.
Con ngƣời là một mô hình vật thể của Vũ trụ, nó tồn tại một cách đƣơng nhiên
trong tiến trình vận động của Vũ trụ-Do Thƣợng đế sáng tạo ra; hay nói chính
xác là cấp tiến hóa của Thƣợng đế ở trình độ con ngƣời là chúng ta đang tồn tại!
Cho nên, coi nhƣ sự có con ngƣời là một tất yếu trong sợi dây Vũ trụ vậy. Nó là
hằng hữu, hằng tồn. Tại sao, vì luôn luôn là nhƣ thế, các linh hồn muốn tiến hóa
trở về thì phải đi qua cấp độ tiến hóa là Con Ngƣời này. Hết lớp linh hồn này,
tiến hóa, hết làm ngƣời, tức hết luân hồi, thì lại có các lớp khác tiến hóa lên, cứ
thế.
Nguyên nhân 3-Sự tái sinh Linh hồn ở trái đất:
-Linh hồn sinh tồn do tái kiếp theo luật Luân hồi Nhân quả-đây là đối tƣợng chủ
yếu.
Nguyên nhân 4- Sự nguyên cớ cụ thể tạo nên con ngƣời cụ thể:
9 Loại khí nguyên tử chất này tạo ra con ngƣời, do con ngƣời đó đƣợc sinh ra
theo Luật Nhân quả-Luân hồi, nhƣ sau:
-Con ngƣời phải trả nghiệp quả kiếp trƣớc theo Luật Nhân quả-nhƣ đã biết gồm
Luật Phản phục và Luật Phản hồi. Thực chất cũng là do cái Luật Đồng thanh
tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu mà thôi, có nghĩa, khi kiếp trƣớc anh tạo ra chính
sự tiến hóa của Linh hồn anh ở đẳng cấp nào, ứng với thể vía anh có, tồn tại
trong Chuỗi lõi thông tin Linh hồn-thì đến khi đầu thai, theo Định luật Luân hồi
Nhân quả, Linh hồn anh sẽ đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu mà tìm
đến chỗ tƣơng ứng với anh để anh lại sinh ra-tức có số phận mới của anh. Anh
trƣớc có gì, thì nay anh có cái đó-nhƣng ngƣợc lại! Ví dụ-anh trƣớc là ngƣời ác,
cái tính ác nó lƣu trong Linh hồn anh, ở dạng lƣu trữ thông tin nguyên tử-đến
nay, anh sẽ đƣợc đến cái chỗ có tính đó, và anh đƣợc sinh ra đúng vào cái thời
218
điểm có nguyên khí ác xấu đó chiếu-hay còn gọi là sao ác chiếu, sau đó, nguyên
khí này coi nhƣ là nguyên khí gốc của anh, sẽ khảo đảo anh-tức chi phối anh ở
hai tính chất-lôi kéo anh ở mặt xác thể-làm cho cơ thể chịu ác đau, bệnh ác, yểu,
bị đánh, bị đọa thân xác…và ở mặt tinh thần-anh ác, thì sẽ có lúc anh hành việc
ác, anh ghánh tội, bị trị tội-cao nhất là ăn cƣớp, giết ngƣời…tại trần, và lập tức
anh bị tù đày, hoặc bị tử hình, lúc đó anh sám hối, đau khổ…đó là cực ác sinh
thiện, nhƣng cũng là bài học! Đây chính là cái thâm diệu sâu xa của Luật Luân
hồi Nhân quả do Thƣợng đế sáng tạo ra! Đỉnh cao của đau khổ hiện kiếp, có thể
làm anh sáng ngộ ra Chân lý, tìm đƣờng tu luyện…Có thể rất nhiều kiếp anh cứ
trầm luân trả quả nhƣ thế, nhƣng đến một kiếp nào đó thì anh giác ngộ và có thể
thành phật thánh!
Hình thể, thƣờng đi với linh hồn, số phận là nhƣ vậy!
Nguyên nhân 5-Sự giáng thế:
Linh hồn sinh tồn do xuống thế đầu thai, theo nhiệm vụ, còn gọi là Linh căn
giáng thế; loại này đầu thai để cứu giúp nhân loại, hỗ trợ tiến hóa.
Loại này cũng phải chịu qui luật vận hành của trái đất ở mật độ thấp, có nghĩa
anh trƣớc hết phải là một con ngƣời nhƣ bao ngƣời khác, có thể tố chất Thiên
Lƣơng và Linh hồn anh khác ngƣời thƣờng, nhƣng do anh bị “nhúng” vào mật
độ thấp của cõi hồng trần-hay nói chính xác là anh phải đồng thanh tƣơng ứng
với trái đất, cùng sự tồn tại của loài ngƣời ở mật độ thấp, trong đó xác thân anh
chính là sự nhúng của Linh hồn anh vào mật độ thấp-thì anh phải chịu sự tác
động, khảo đảo của mật độ thấp. Anh bị nhiễm lậu trần gian, bụi hồng trần nó
quấn lấy anh và anh bị đọa trần, mắc Nghiệp quả nhƣ ngƣời thƣờng, và bị đọa
kiếp luân hồi, không hồi về Nguyên gốc cũ, phải Luân hồi. Đây là Chuyện của
96 Ức Linh căn Nguyên thủy-do Cha Mẹ sinh ra, cho xuống trần giới đầu thai
để giúp muôn loài tiến hóa, đồng thời cũng là học hỏi, nhƣng đến nay Mất
đƣờng về! Là nhƣ vậy!
Các Linh hồn lớn của các Đấng Lâm phàm, thƣờng giữ đƣợc Thiên Tính, có thể
nhiễm lậu ít nhiều, nhƣng do có Nguyên lý riêng theo số phận của họ, nên họ sẽ
gặp đƣợc cơ duyên để giác ngộ sớm, rồi tu luyện, đắc đạo, rồi độ đời. Đó có thể
là các bậc Giáo chủ, hiền triết, thiên tài, đạo sƣ, chân sƣ...Tại sao họ lại giữ đƣợc
Thiên tính? Ấy là do số phận qui định, hay chính xác là mức năng lƣợng vƣợt
trội có tính sáng của họ, tức là sự mã hóa năng lƣợng tạo thành số phận của họ
khác ngƣời. Nhìn vào số Tử vi của họ, chúng ta sẽ hiểu đƣợc điều này, có thể đó
là lá số của một ngƣời cực kỳ nghèo khổ, đau khổ đƣờng đời, nhƣng đƣờng tiến
hóa đạo hạnh thì rất rõ ở các sao chiếu có tính chất Thiên Lƣơng.
Hóa thân trực tiếp của Thƣợng đế chiết linh trực tiếp ra, xuống thế; đây có thể là
các Giáo chủ Ngôi Hai xuống trần dạy Đạo, xong các vị này cũng về Thiên
Đƣờng ngay, nhƣng sẽ không hợp hòa vào Thƣợng đế, mà sẽ trở thành các
219
Thƣợng đế nhỏ, tiếp tục đi quản trị các vùng của Vũ trụ, hoặc sáng tạo ra các Vũ
trụ, Thiên hà, hành tinh mới.
Nguyên nhân 6-Linh hồn mật độ thấp lên, nhƣ mộc, thú, thạch hồn…
Đây là các linh hồn tiến hóa lần đầu ở Kiếp Ngƣời. Có thể rất ác, hoặc rất thiện,
nhƣng nhận thức về các định luật kém, tức không Minh triết, họ phải còn học hỏi
nhiều để tiến hóa, đến Giác ngộ, từ Giác ngộ thấp, đến Siêu ngộ, rồi thoát luân
hồi.
Loại hồn này là rất hạn chế Giác ngộ.
Nguyên nhân 7-Linh hồn tiến hóa rồi, nhƣng ở lại hỗ trợ nhân loại:
Loại này có thể phân tính ra nhiều linh hồn để giáng sinh.
Loại này có thể nói là các Đấng lâm phàm cũng đƣợc, nhƣng họ không có sứ
mệnh Luân hồi, tức là khi mãn, họ đƣợc hồi về Nguyên hồn. Tất nhiên họ vẫn có
thể bị nhiễm lậu, nhƣng thƣờng là khi mãn kiếp, họ về ngay với Gia đình hồn.
Kết luận: 7 Nguyên Nhân này, làm cho có sự có mặt và sự có mặt của con ngƣời
trên trái đất này tồn tại-hợp lý-vốn dĩ tất yếu.
BẢY QUẢ PHẢI TRẢ CỦA CON NGƢỜI TẠI TRẦN THẾ
1-Quả nợ
2-Quả tham
3-Quả ác
4-Quả dâm
5-Quả bẩn
6-Quả vô minh
7-Quả mê dại
( Nợ-Tham-Ác-Dâm-Bẩn-Vô-Mê)
1-Quả nợ:
Ai sinh ra chúng ta? Thƣợng đế. Vậy trƣớc tiên chúng ta phải nợ Cha đẻ.
Nợ, mà vô minh, không biết, không thấy, hoặc biết, nhƣng không làm theo
Thƣợng đế…ấy là tội Chống Trời-nghiệp quả sẽ là nặng nhất. Giảng sai Chân lý
làm cho ngƣời hiểu sai, ảnh hƣởng đến tiến hóa, cũng tạo nghiệp. Chửi trời chửi
đất, rủa bão rủa mƣa, do vô minh mà ra, cũng tạo nên nghiệp. Trời cho sinh con,
mà không dạy con hiểu về Trời, hoặc không dạy con thành ngƣời có ích cho
chính nó, cho nhân loại nói chung, thì cũng là nợ Trời.
Sinh ra ở đời, mà không biết Thƣợng đế, không biết đƣờng tinh tấn xã hội, cải
tạo bản thân theo đƣờng Chính Đạo…ấy là Vô Đạo.
Hay chƣa đến bậc Toàn giác, thì còn phải học; ấy là Nghiệp Quả Nợ Trời.
Ở trần, có cha mẹ trần gian, sinh ra mình, ấy là Nghiệp Quả nợ công Sinh
Thành.
2-Quả tham dùng: Là con ngƣời, thì phải tồn tại theo cơ chế sinh hóa, còn ăn,
mặc, ở, tức là lấy của trái đất và lấy của nhau, để tồn tại; chứ bản thân linh hồn
220
anh không sản sinh ra vật chất khác anh đƣợc. Quả dùng sinh cần và sinh tham-
ăn, uống, mặc, hƣởng các dục vật chất cho cơ thể sống đƣợc. Tạo ra Nghiệp
Tham các dục. Dùng nhiều, hay ít, tham hay không tham, thì cũng là lấy của trái đất hay Vũ trụ
các vật chất, hay là anh phải chiếm dụng vật chất năng lƣợng Vũ trụ để tồn tại, là
tất yếu. Không ai tránh đƣợc điều này, dù chỉ có uống nƣớc mà sống. Muốn
chiếm, dùng, thì anh phải tiến hành các việc nhƣ lao động, sản xuất, cống hiến xã
hội, ăn trộm ăn cƣớp, lừa đảo, các kế sinh nhai….
Trong các việc ấy, làm anh tạo nên nghiệp, kể cả anh tác động vào trái đất-nhƣ
cày xới, làm cho trái đất khô kiệt nguyên khí, thậm chí phá nguyên khí, xáo trộn
khí mạch đất đai, dời sông chuyển núi, chặn dòng, làm đƣờng, đào bới, phá núi,
khai thác tài nguyên….tất cả làm anh tạo Nghiệp-quả-phá Tự nhiên.
Các việc chiếm dụng bất chính với ngƣời, làm anh nợ quả, tạo nghiệp ác, Nghiệp
chiếm vật dục.
Vay mƣợn không trả, hay đƣợc ngƣời khác giúp, nuôi, hay cho…tất cả tạo quả,
chứ đừng tƣởng ngƣời ta cho mình mà mình không nợ ngƣời ta-Cho ngƣời quá,
làm ngƣời hƣ, cũng tạo quả; cho đồ bẩn, đồ dơ, đồ bệnh, cũng tạo quả…ở đây
mới tính đến là Vô tình, vô tƣ thôi. Đó là Nghiệp nợ Phúc ngƣời.
Ăn mặc, dùng của ngƣời, mà không lao động sản xuất, chỉ xin, chứ không cho,
chỉ biết nhận, chứ không biết trả, đó là quả Vay-cũng tạo nên Nghiệp Vay.
Dùng hình tƣớng, tạo ra hình tƣớng không hợp vị, hoặc tạo ra hình tƣớng loạn-ví
dụ cố tình làm ra quá nhiều vật dụng, kích thích tiêu dùng, đƣa con ngƣời vào
đƣờng mê tiêu dùng, đọa vào đƣờng ăn, uống, nghiện ngập…đó cũng là nghiệp
dùng-tức tạo Nghiệp kích mê dục.
Vì con ngƣời còn tại trần, thì còn cầu vọng: Mong lành, mong thành, mong no
ấm, mong thọ, mong lớn, mong thành đạo, mong có công quả…rồi về ác cầu có
mong ngƣời ta chết mình hƣởng lợi, đánh phá kẻ thù để mong cho nó chết
nhanh, mong con vật lớn để nhanh làm thịt, mong chiếm cứ làm của riêng…
Theo Luật Phản phục, thì anh mong tốt, đôi khi cái ác nó đánh anh ngay, anh
mong cái thiện, thì cái ác nó diệt anh, và ngƣợc lại, cho nên đều làm cho Lún vào
Nghiệp trả cả. Tất nhiên theo hai hƣớng thiện nghiệp và ác nghiệp khác nhau.
Nếu anh mong quá, quá mong, sốt sắng, sốt ruột, vội vàng, thành Huyễn vọng,
duy ý chí, dốt nát vội vàng nhiệt tình thành phá hoại vậy! Tất cả cái đó đều tạo ra
Nghiệp Vọng cầu.
3-Quả ác, sát:
Giết hại chúng sinh nói chung.
Kích động thù hận, chiến tranh, giết chúng sinh; nghiệp ăn mặn-tức là ăn thịt-
hƣởng cảm giác sung sƣớng trên cái đau của sinh vật khác, mà nỗi đau nào về
thể xác của chúng sinh cũng nhƣ nhau thôi-ví dụ cắt cổ con vật, thì nó cũng đau
nhƣ con ngƣời bị cắt cổ vậy, bẻ cách chặt chân nó, thì cũng nhƣ ngƣời bị bẻ tay
221
chặt chân vậy thôi, chẳng qua con vật nó không nói đƣợc cái thứ tiếng làm cho
con ngƣời hiểu là nó đau, nhƣng có khi mới có ý định giết nó, nó đã ứa nƣớc mắt
ra, vì nó có Linh giác chả khác gì con ngƣời, thậm chí còn siêu giác hơn!
Làm ra các việc ác, để mục tiêu là hại ngƣời về sinh mạng, sức khỏe, danh dự,
tuổi thọ, sự bình ổn hạnh phúc, sự tồn tại đƣơng nhiên-vì mọi con ngƣời sinh ra
đều có quyền bình đẳng về tồn tại, hƣởng thụ và tiến hóa nhƣ nhau; các linh hồn
hoàn toàn bình đẳng về sự tồn tại của chính linh hồn đó, trong cấu thành Vũ trụ,
nhân loại. Anh đẩy họ đi, chiếm của họ, giết họ, hãm họ, hại họ……
Lừa đảo, buôn gian bán lậu, bóc lột, đố kỵ tranh dành, hồ đồ, vu oan giáng họa,
hãm hại hiền tài…Chửi rủa, thị phi, gian phi, láo lếu, hỗn hào, cƣờng bạo…Cố
tình bảo vệ cái sai, cái cũ, chống cơ luật vận hành Vũ trụ; mƣu sâu độc hiểm, xảo
trá độc địa, xảo ngôn…Hận thù, nóng giận. Khinh ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt, bỏ
chúng sinh tội lỗi vô minh, thấy ác không chặn, thấy thiện không theo, còn hại
thiện, hại lành, hoặc dửng dƣng để tội ác, cái hƣ dốt xấu xa hoành hành, là bất
thiện. Đã là giác ngộ Chân Thiện Mỹ, thì biết bảo vệ, giữ gìn, nếu để cái xấu
chiếm lấy, thì là mất thiện, tức là thành ác vậy! Tất nhiên, đấu tranh lại cái xấu,
là biết dùng cái thiện mà cải ác, thì có công quả; nếu quá, thì lại thành ác. Làm
cho muôn sự tiến hóa, thì đó là công quả tốt nhất. Ngƣợc lại tiến hóa, là ác.
Tất cả đều trái Luật Vũ trụ-Đạo Trời. Đó là Nghiệp Ác.
4-Quả dâm:
Trƣớc nhất là Hành dục: Tinh huyết, tinh trùng, đều là linh hồn các đẳng vật chất
cả, xuất nó, diệt nó, hại nó và hại cả mình; dâm nhiều diệt nhiều tinh trùng, khí
huyết, suy nguyên khí mình, tạo chấn động hình tƣ tƣởng dâm phóng chiếu vào
không gian…
Dâm gian, dâm dục quá đáng, gian tình, gian ý, gian hồn dâm, cƣớp vợ chồng
ngƣời, sinh hoạt tình dục trƣớc hôn nhân, là chiếm xác hồn bất chính.
Tất cả tạo ra Nghiệp dâm.
5-Quả bẩn:
Ăn bẩn, ở bẩn, ngƣời bẩn, tâm bẩn, làm cho xung quanh môi trƣờng bẩn, làm
cho ngƣời khác bẩn; ăn ở không gọn gàng sạch sẽ ngăn nắp, có thể tạo ra lối
sống hỗn loạn, thiếu nghiêm túc, không thể nói là Thành Đạo. Xung quanh mình
bẩn, thì ảnh hƣởng nguyên khí của mình, không thể nói là thân sạch. Cho nên, sự
bẩn ảnh hƣởng đến thể xác, làm bệnh tật, ô nhiễm nguyên khí chính khí của
mình, lại tạo ra tƣ tƣởng nhiễm khí bẩn, hình bẩn vào đầu óc tƣ tƣởng. Có bệnh
tật xấu, hôi, ghẻ lở không chịu chữa, cố tình làm ngƣời khác chịu chung…
Đó là Nghiệp thân bẩn.
6-Quả vô minh:
Vô minh có nghĩa là không sáng, có nghĩa là dốt, lƣời nhác, không chịu học hành
cầu tiến bộ.
222
Dốt nát, ngu tối, hoặc cố tình đã biết mà cố tránh sáng. Ngƣời ta cứu mình, nói
tốt, cố tình chống báng, không nghe; không chịu hƣớng sáng, mà cứ hƣớng tối;
thích nghe lời ngu dại, ghét lời khuyên đúng; thấy lành thiện thì ganh ghen, đố
kỵ, tỵ nạnh, đôi khi chƣa cần tranh dành, bon chen.
Báng bổ chƣ thiên, chống phá tâm linh tốt, huyễn ngã khinh thƣờng, dƣơng danh
cao ngạo, ngụy tạo giá ngôi, thích ngồi ghế thƣợng, đức thấp đạo bƣợng, sống
sƣợng giảng rao, mũ áo cào cào, bán rao thánh chúa…
Làm sai không sửa, sám hối tránh xa, múa mép ba toa, lấc cấc khoa trƣơng, đón
đƣờng vô lại…
Không biết, không hiểu, không rõ, không thấy, trì độn mông muội.
Ấy là Nghiệp Vô Minh.
7-Quả mê dại:
Mê muội vào đƣờng đen tối, si mê vào các thú vui thể xác, tinh thần, nghiện
ngập các thức, thú, hình, ý si dại, đen tối, không thoát tối.
Khờ dại tạo quả ác, khờ khạo, mông lung vô ý sáng, mê mẩn không thấy tƣ
tƣởng hoặc con đƣờng lành thiện, cảm giác sáng, thiện…Chú ý là, đôi khi con
ngƣời bị đọa vào đƣờng mê dại này mà không tự biết, tự làm, đôi khi bị thôi
miên, bị mê lú, hoặc bị bệnh thần kinh, nghiện ngập; họ chỉ hại họ, không hại ai,
nên không tạo nghiệp ác, mà tạo Nghiệp mê lú.
Tất cả cá quả này còn, mà không sửa, không sám hối, không tìm cách cân bằng
Nghiệp quả, thì không thoát đƣợc Luân hồi.
7 quả có khi là Nhân, lại là Nghiệp, rồi thành quả, rồi quả lại thành Nhân của
kiếp sau, phần sau, cứ thế đọa con ngƣời ta vào vòng Nghiệp chƣớng luân hồi
không dứt.
Các quả này hình thành qua Tứ vị: hành-khẩu-ý-phóng.
1-Hành là hành động, hành vi của con ngƣời, có tính hành động-tạo ra nghiệp,
tốt hoặc xấu.
2-Khẩu: là lời nói tạo ra nghiệp.
3-Ý: ý nghĩ, tƣ tƣởng, vì tạo hình tƣ tƣởng, thành vía đen, tạo ra nghiệp.
4-Phóng: là phóng xuất vía-hồn khi đã tiến hóa, biết xuất Ngƣơn hồn đi trong
coi vô hình, đến các nơi xấu xa, thấy các việc xấu bất thiện, phóng chiếu vào nơi
xấu với tâm xấu, thì cũng làm thể vía xấu đi; thậm chí chữa bệnh từ thiện cho
ngƣời, bị tà khí, ám khí, vong ác đọa, trấn, chiếm xâm vào hồn mình, đều tạo nên
nghiệp xấu, chứ đừng tƣởng làm điều tốt mà đã có lợi cho linh hồn; làm điều tốt,
nhƣng biết qui luật, hiểu cơ luật, biết chỉnh trị sửa sang cái xấu, lại biết bảo vệ
mình, để mình tiến hóa, bảo trọng thân, tâm, linh hồn mình, thì mới gọi la Biết
Đạo vậy!
Phóng xuất đƣợc hồn mà làm điều tà bậy, thì cũng tạo quả xấu, lúc ấy hồn ngoài
thân, nên hồn chịu quả về sau.
223
7 DIỆT
1-Diệt nợ
2-Diệt tham
3-Diệt ác
4-Diệt sai
5-Diệt trần
6-Diệt vía
7-Diệt ngã.
( Nợ, Tham, Ác, Sai, Trần, Vía, Ngã).
Con đƣờng diệt quả độc-là con đƣờng sám hối, tu luyện thân tâm và cân
bằng nghiệp quả, theo lời Cha dạy là: Công phu-Công quả-Công trình-là
Tam Luyện:
-Công phu là tu luyện Huyền công-hay gọi là Luyện Đạo.
-Công quả là phải trả công Trời đất, Thiên, địa, nhân, phổ độ, phổ giáo, lập công
lập thế, cứu khổ cứu kiếp. Đó là Luyện Đức.
-Công trình là lập thế, thế nghiệp, hành đạo, xây đời, lấy Đạo trị thế, thi hành
đạo là lập Luật Trời tại thế, xây nền Thánh Đức muôn năm-ấy là Luyện Đời.
Nhƣ thế, 7 diệt phải có Tam Luyện, mới thành công.
1-Diệt nợ:
-Kính thờ Cha Mẹ, làm theo Đạo Trời, hòa nhập cùng Cha, thấy đƣợc Chân Lý
Tối thƣợng, biết Chủ nhân ông là Linh hồn mình, là Tiểu năng tiểu hồn, biết
cách hòa nhập vào Cha, thành Cha, không phân ranh giới với Cha, hoàn nguyên
là diệt cách xa, diệt bỏ vô minh, ngu đạo, làm cho Cha Mẹ vui, là báo ơn Hiếu
Thiên.
-Trả công sinh thành cho cha mẹ trần nhƣ Hiếu-Kính-Ơn-Phụng-cũng là cách tôn
kính Thƣợng đế, vì suy cho cùng, cha mẹ trần vốn dĩ thay mặt Thƣợng đế ở trần
gian mà tạo tác ra bản thân xác trần, số nghiệp mình, vậy báo ân cha mẹ trần là
hiếu với Thƣợng đế; tìm cách để cha mẹ trần biết đƣợc Chân lý, là công quả cao
nhất của trả ơn, báo ơn Hiếu trần.
-Xây dựng xã hội Thánh Đức tức là xây nền đức để tu đạo-tức là xây cái điều
kiện để tu luyện cho đắc đạo, chính là thực hiện Chính Pháp Thiên Đạo, tức là
diệt đƣợc quả nợ Nghiệp quả của cả loài ngƣời trong Thế hệ tại hiện kiếp, rồi
sau đó cho các lớp kiếp của các lớp ngƣời khác.
-Đắc phúc của ngƣời, thì trả phúc cho họ, hoặc cho ngƣời khác, lộc bất tận
hƣởng, phúc bất trùng lai; chớ dùng độc hƣởng, chớ tránh chối công, chớ phản
công, phản phúc. Ngƣời ta giúp mình, mà khinh khi, khó dễ, ban tính công ơn,
thì ta cho lại, trả lại, âm thầm mà trả, để cân bằng nghiệp vay. Dùng vật của
ngƣời, không trả vật, thì trả tình, trả ý tốt, ban rải tình thƣơng mến, cho khí tốt,
truyền lời nguyện tốt, hạnh tốt, làm cho ngƣời sáng đạo, khuyên điều thiện lành,
cũng là cách trả công hữu ích. Vay của ai, thì phải trả bằng hết, chớ để oán cừu;
224
cho ai cái gì, thì thật tâm thật ý thật tình, cho bát cơm cà, mà thật lòng thƣơng
mến, còn hơn cho cả nồi vàng bạc, mà khí dễ khinh ngƣời…
2-Diệt tham:
-Biết đủ dùng để sống, công bình, an lạc, các hạnh nghiệp đều có, khi không
tham các dục, có thì dùng, không chiếm, không phạm, không khích, không tranh
dành, gian láo. Làm đủ ăn, ăn đủ sống, sống công bình, bình thiên hạ.
-Diệt tham dùng, thì tất yếu cũng tránh đƣợc nghiệp phá tự nhiên; dùng cái gì
của tự nhiên, thì phải bù lại, cấy lại, bồi đắp lại; không phá trụi, không đốt tan,
không phá tàn, không tận diệt. Biết cân bằng Nguyên địa khí, bồi đắp Nguyên
địa khí, sống Hợp Thiên địa-ấy là không tạo Nghiệp phá tự nhiên.
-Chớ ham hình tƣớng giả tạo bên ngoài, rồi loạn động tâm tính, thích cái dở, cái
giả, cái huyễn hoặc, sa vào hình tƣớng, huyễn ngã, ngã mạn, mất cái bản ngã
riêng, vọng động ra ngoài, không thu tâm đƣợc, thì bất tịnh tâm. Càng giản dị,
càng sáng trong; lúc nào cực động sẽ thành tịnh, nhƣng là Tịnh Thanh nhƣ Cha
vậy, chứ không là Tịnh trọc. Hƣớng nội, tất bỏ đƣợc loạn tâm, hƣớng thanh, thì
bỏ đƣợc loạn kích dục. Phải tiêu dùng ít, nói ít, cầu ít, vọng ít, hành động ít;
xã hội Thánh Đức lúc động nhất là lao động, lễ hội, thanh tịnh nhất là lúc ăn và
tu thiền. Xã hội Thánh Đức là xã hội sống chậm, thanh cao, giản dị và vô
cùng văn minh, đầy đủ-chứ không thừa mứa vật chất.
-Diệt vọng cầu cực đoan, vọng cầu xấu, dùng ý xấu; nếu biết xuất hồn, vía,
truyền khí, thì phá các hình tƣ tƣởng xấu của mình, vây quanh mình-tức là Cải
tạo nội-ngoại vía trong Thiên Pháp. Dùng lời khuyên tốt cho ngƣời, phổ giáo
thanh cao thánh thiện để cân bằng nghiệp.
-Riêng vấn đề diệt tham dục, ác dục gây nên nghiệp, do sinh hoạt tình dục mà
diệt chết tinh trùng…thì phải cố gắng hạn chế Nghiệp này bằng cách chế dục,
chứ không cấm tình dục-vì đó là một cách tồn tại, một cách học hỏi, tất yếu.
Nhƣng phải phóng sinh, ăn chay, độ đời, trồng cấy, để muôn sự sinh sôi ra, rồi
tìm cách hợp các Linh hồn của các Tinh trùng này, hóa hợp chúng vào Tổng hồn
Thƣợng đế, hoặc cho chúng vào Nguyên khí chung, Nguyên Khí hồn đất, cây
cối, hay Trái đất…thì hóa giải đƣợc Nghiệp ác dục gây ra.
3-Diệt ác, gian:
-Không nghĩ ác, làm ác; nếu có nghĩ, thì sám hối, diệt hình tƣ tƣởng.
-Làm ác thì phải sám hối, rồi dùng đức bù đắp lại, có công quả, phóng sinh, ăn
chay, từ thiện, độ đời để cân bằng quả.
4-Diệt sai:
-Vì con ngƣời ta luôn luôn có phát triển tự do, nếu không đƣa vào riềng mối xã
hội, tổ chức, qui định hành vi, thì dễ nhiễm lậu, nên phải làm đúng 9 Điều Không
Phạm của Thiên Pháp, 9 Điều Cấm của Thiên Đạo, đó là Đạo trị Đời-thì diệt
đƣợc các hành động sai. Đó là:
225
9 ĐIỀU KHÔNG CỦA NGƢỜI HỌC THIÊN PHÁP:
1-Không bỏ: Tôn-thờ Vua Cha Thƣợng đế
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới.
9 ĐIỀU CẤM CỦA NGƢỜI THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC:
1-Cấm giết ngƣời.
2-Cấm bỏ vợ chồng.
3-Cấm mê tín.
4-Cấm mê muội.
5-Cấm nghèo đói.
6-Cấm bảo thủ.
7-Cấm tham ô.
8- Cấm cúng mặn.
9- Cấm bỏ luyện Pháp.
Làm đƣợc đủ 18 điều trên, là đã có nền tảng Đạo-Đức, bỏ đƣợc nghiệp, chuyển
nghiệp, thành Đạo. Tránh các ác nghiệp, có đủ Công Phu-Công quả-Công Trình.
5-Diệt trọc.
-Là diệt cái ô trọc trần tục bẩn thỉu ở đời, ô trọc bản thân mình.
-Đạo Phật là đạo tiến hóa nhất từ trƣớc đến lúc Thiên Đạo ra đời, tính về mặt tu
luyện để thoát Luân hồi, thì căn cứ vào Lục căn, Lục trần, Lục thức để tiến hành
tu luyện.
“ Lục căn gồm có: -Nhãn là mắt, dùng để nhìn.
-Nhĩ là tai, dùng để nghe.
-Tỷ là mũi, dùng để ngửi.
-Thiệt là lƣỡi, dùng để nếm.
-Thân là da bọc thân ngƣời, dùng để nhận biết những cảm giác nhƣ nóng, lạnh..
-Ý là tƣ tƣởng, dùng để phân biệt.
Lục trần: -Sắc: là màu sắc, hình dáng.
-Thanh: là âm thanh phát ra.
-Hƣơng: là mùi vị.
-Vị: là chất vị do lƣỡi nếm đƣợc.
226
-Xúc: là cảm giác nhƣ cứng, mềm, nóng, lạnh.
-Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hƣơng vị đƣợc lƣu lại từ 5 trần ở trên.
Lục thức gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao
nhân duyên để tạo thành con ngƣời trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn.
Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tƣởng uẩn, hành uẩn,
thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào?
-Sắc: là thân xác của con ngƣời.
-Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm.
-Tƣởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm .
-Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm.
-Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm” ( Sƣu tầm).
Theo đạo Phật, thì do Lục căn đòi hỏi, Lục trần tác động, nên hình thành Lục
thức, và Lục thức tạo nên Nghiệp quả; muốn dứt Luân hồi thì phải bỏ Tam độc là
Tham-Sân-Si, cả thân-khẩu-ý đều tạo nên Nghiệp quả. Đây là cách tu luyện Tâm
sạch, xả nghiệp bằng tâm, tuy Phật không nói gì về hình tƣ tƣởng, hay về hồn
vía, xuất hồn.
Muốn thoát các Nghiệp, thì thoát trần, nên Chính Pháp của Phật là thoát trần, để
tu luyện, từ bỏ trần tục để thoát tục-đó là chính yếu nhất của đạo Phật.
-Rõ ràng, đây chỉ là một biện pháp mà thôi.
Chúng ta khác, vì xác định Nhân loại tồn tại kế tiếp muôn năm, nên Chính Pháp
là xây đời Lập thế, lấy Đạo trị Đời, tu Huyền công thoát xác, đắc Đạo ngay tại
thế, linh hồn đã là thần tiên phật tại thế rồi, nên trần gian đã thành Niết bàn tại
thế.
Chúng ta tiếp thu lại điều tu luyện này, mở rộng nhƣ sau:
-Tu Thiên Pháp, tịnh tâm, đến trình độ Khai Long Hỏa, xuất Linh hồn, tịnh hồn
trên cao, thì làm chủ hoàn toàn Lục căn-lúc này đã thành Phật rồi! Luyện Kim
thân, Kim hồn, thì xác thân, hồn bất hoại, dù có tác động gì cũng vô hại, vô
nhiễm. Đắc Lục thông thì thành Phật Tiên Thánh, thì có thể làm chủ Lục trần,
thậm chí cải tạo, làm ra Lục trần theo cách của mình, cải tạo thế giới xung quanh
mình, nhƣ khí, vía, ánh sáng, môi trƣờng, thời tiết…Không bị lụy vào Lục trần.
Vì chúng ta phấn đấu thành Toàn giác, Toàn tri, nên muôn muôn năm vẫn phải
học hỏi, và không chủ trƣơng bế khóa các cảm giác thật-không bế khóa các Linh
giác của Linh hồn-Con ngƣời. Hòa nhập Vũ trụ nhƣng không đánh mất cái cá thể
bản ngã, cho nên chúng ta luôn Mở rộng Hiểu biết, bằng cách học hỏi không
ngừng cả ở Hạ giới, Trung, Thƣợng giới, cho nên không diệt Lục thức mà
Chuyển Thức-lên một bình diện nhận thức cao hơn, thanh sáng hơn-ví dụ đau
khổ-đau khổ vì chúng sinh mê lầm là cái đau khổ của Thƣợng đế, không còn là
đau khổ cá nhân; si mê cái thanh cao, si mê giải thoát, là cái si mê của Phật.
Nhƣng chúng ta nhìn thẳng vào cái tối, cái đen ám, cái xấu xa để nhận diện nó,
227
rồi chán nó, sợ nó, hạn chế nó, diệt nó, là bậc nhận thức Toàn giác của Thiên
Đạo. Không né tránh đời trần, mà cải tạo trần gian, lấy thân trị thế, đạo trị đời,
ấy là Công quả, là Tham cầu vĩ đại nhất của Tiên vị. Tu siêu đẳng rồi, thành thần
tiên tại thế, mà không thoát trần, độ cho trần, ấy là Thần tại thế; có xác phàm,
sống thọ ích, thọ tiên, đắc đạo ngay tại nhà, ở trần trọc nhƣ ở trên Trời, ấy là
Thiên Đƣờng thế gian, không gì bằng!
6-Diệt vía.
-Vì thể vía làm ra Nghiệp, thì phải Diệt Vía. Tức là đốt hình tƣ tƣởng và các hình
khí ám muội quanh Hồn mình, bằng Huyền công thƣợng thặng.
-Đốt trọc khí bằng cách ăn chay, thanh tịnh tƣ tƣởng, sống thanh, sạch, giản
dị…và luyện Thiên Pháp, để đốt Khí trọc-thể Phách của cơ thể là đốt trọc khí,
không có cách gì hay hơn là tu luyện Huyền công Thiên Pháp, phá hình tƣ tƣởng
khi nó mới thành hình và ban rải tình thƣơng vô điều kiện cho chúng sinh, cả kẻ
thù, kẻ chống mình, đó là Không vay, Không đắp, Không lấy, Không cho thêm
Nghiệp ác vậy!
7-Diệt ngã. Tu siêu đẳng rồi, xuất hồn cao rồi, đôi khi gặp Ngã, Huyễn vọng, mắc Huyễn
vọng, tức là coi mình là oai, giỏi rồi, đã thành Phật, Thánh,Tiên…rồi, cao lắm
rồi, không muốn học nữa, không muốn làm gì nữa, không định hình cái gì nữa,
hoặc mong về Trời cho sớm, mong thoát khỏi trần gian cho sớm…Đó là Vọng
Huyễn. Tất mang Nghiệp Huyễn, bị đày lại cho biết đƣờng Huyễn là thế nào. Mà
đến lúc đó, tâm bất vọng cầu Huyễn, phải giản dị Nhập thế hoàn toàn, xem xung
quanh mình đều là thần thánh cả, nhƣ nhau cả, phải sống-tu-luyện-tồn tại một
cách bình thƣờng. Bình thản, an nhiên tự tại, coi mình là cỏ cây hoa lá, nhƣ khí,
nhƣ vật, nhƣ ánh sáng, lại nhƣ bóng tối, nay là khí, mai là ngƣời, ngày kia là vật,
giản dị nhƣ thế, không vọng cái gì cao quá, hãy là chính mình, trở lại chính cái
Chân tâm của mình, là Tiểu hồn trong cái vi diệu Cao Minh, là bậc Chân nhân,
nhƣng không ai biết mình là Chân Nhân, thì đó mới là Đắc đạo Chân tu.
*7 bậc Diệt này, là diệt các Nghiệp của các kiếp trƣớc, hiện kiếp, thì mới có thể
thoát Luân hồi đƣợc, chứ mới Diệt các thứ này, mà chƣa biết cách diệt các Chấn
nghiệp còn rơi rớt trong Không gian, trƣờng khí Vũ trụ-trên Phông tâm linh, thì
chƣa thể diệt đƣợc hết nghiệp, phải xuất hồn đi mà gom lại, mà diệt hóa, mà làm
công quả, tu luyện bù vào, cho đến khi thấy hết thì thôi. Tự mình làm, không ai
giúp mình đƣợc, muốn thế phải đắc Thất Thông.
7 THOÁT
1-Thoát độc
2-Thoát kinh
3-Thoát ám
4-Thoát xác
228
5-Thoát tục
6-Thoát phàm
7-Thoát lụy
( Độc, Kinh, Ám, Xác, Tục, Phàm, Lụy).
1-Thoát độc:
-Diệt, bỏ đƣợc 7 loại quả độc trên, thì thân tâm đã an lạc, vui hƣởng trần thế, tịnh
thiền, thì về lúc nào cũng đƣợc siêu thăng rồi.
-Nhớ là Diệt dần 7 quả, mới bỏ dứt đƣợc nó, bỏ nó hàng ngày. Bỏ bằng cách sám
hối, giữ vững nghiệp lành, bỏ nghiệp dữ, cân bằng nghiệp thƣờng xuyên.
-Thoát xong 7 quả trên, cơ bản đã thoát Luân hồi. Nhƣng chƣa chắc, vì anh có
khi còn Nợ, thoát, nhƣng còn nợ vì đôi khi, anh xuống trần, để lập công quả,
thực hiện sứ mệnh, mà sứ mệnh chƣa tốt, thì chƣa hồi cựu vị vậy!
-Thoát khổ, mà không bỏ trần đời tục lụy, ấy mới là đắc đạo-tức là An lạc
thông.
2-Thoát kinh:
-Tu luyện đến trình độ thông linh, thì hết kinh sợ ma tà quỉ ám, sợ cái hƣ vô
mênh mông, tiến lên làm chủ bản thân và Vũ trụ, tự nhiên, ngoại cảnh; hiểu đƣợc
Cơ luật Trời, tất hiểu Đạo. Ấy là thoát đƣợc vô minh, vô linh, không còn vô
minh kinh sợ, mà thấy gần với Thƣợng đế, thần thánh, quỉ ma, giao hòa với mọi
bí mật, bí hiểm của Vũ trụ, tự nhiên, tất Minh triết mà làm cao sáng linh hồn
mình. Còn sợ Trời, quỉ ma, thì không thể nói là Giác ngộ. Sợ Trời không bằng sợ
mình, chính mình là Trời thu nhỏ, biết mình mới biết Trời. Khi mình chƣa hòa
đƣợc vào Trời, thì đó mới là chƣa đạt đạo, ấy mới là đáng sợ. Sợ Thƣợng đế thì
không thể thành Thƣợng đế đƣợc. Mà sợ mình sẽ không tiến hóa bằng Thƣợng
đế. Mình còn ngu tối, thì cái phần Thƣợng đế trong mình còn ngu tối vậy, vậy thì
phải biết sợ cái ngu tối đó, đến khi hết sợ-làm thế nào để hết sợ thực sự? Không
ngoài sự học hỏi không ngừng để tiến hóa!
Đƣợc chứng ngộ tâm linh, có thể đƣợc Chƣ thiên chỉ dạy, là cách để học hỏi là
biết đƣờng và biết cảnh, bậc của mình. Tức là Đắc Thông linh-Giác ngộ.
3-Thoát ám:
Thoát các sự ám xấu, vía ám.
Tu luyện thân tâm bằng thoát 7 quả độc, đồng thời tu Huyền công đến trình độ
thoát hồn, thông Long hỏa, thì đa phần các Nghiệp bám ở thể vía đều tan, trọc
khí tan rã, vía độc ám, bị đốt hết; thấy linh hồn mình xuất ra đã thanh sáng, có
hào quang vô lƣợng, sáng trong, tinh khiết, bay lên rất cao tận các Cung Trời,
thấy không còn thể vía trọc bu bám quanh lõi linh hồn, phân hồn ra, biết chiết
hồn ra để nhận thức, hợp hồn lại để hóa hiện…Kiểm tra xem có còn Nghiệp nào
chƣa trả hết, thấy cái cân Nghiệp Quả đã cân bằng chƣa, nếu cân bằng, thì đó là
đã thoát đƣợc Vía ám, Nghiệp Quả, tất thoát luân hồi.
4-Thoát xác:
229
Ăn chay, tịnh luyện linh hồn, xuất vía, xuất hồn lên đến Thƣợng giới, vào đến
Trình Cha, ấy là Thoát Luân hồi. Đi về trên Trung, Thƣợng giới, là linh hồn ngự
tại xác trần tạm rõ, thì là phật thánh tại thế, tiên tại trần. Đó là tiến hóa cao nhất
tại trần.
5-Thoát tục:
Đến lúc già, sắp mãn, phải vào am tu thiền tĩnh, xả bỏ trần ai, các dục đời, thanh
tịnh hoàn toàn trƣớc khi nhập diệt, ấy là cách để thoát dây trần tục một cách hữu
ích trong thời Thánh Đức. Làm lễ cắt dây trần tục trƣớc khi mãn kiếp.
6-Thoát phàm:
Phu bì, xác thể còn đòi hỏi vật dục, thì khó thoát Luân hồi, vậy, trƣớc khi mãn
kiếp, hầu nhƣ thoát phàm phu-tức là hạn chế tối đa các dục mà không thèm,
không cần; điều này có vẻ khó khăn, nhƣng đến lúc loài ngƣời tu Huyền công
siêu đẳng, có thể nhịn ăn rất lâu. Hoặc ăn rất ít, mà cơ thể thành Kim thân, Kim
hồn, trƣớc khi xuất xác, đốt tan hết các trọc khí vây quanh hồn mình, đốt cháy
thân tàn, rồi xuất lên khỏi xác, tất thoát Luân hồi.
7-Thoát lụy:
-Dửng dƣng với cái chết, bình thản, đón nhận tự nhiên, vui mừng đắc quả để trở
về.
-Không bi, không lụy, không đau, không tiếc trần khi mãn.
-Ngƣời nhà không khóc than.
-Không chôn thân xác phàm, chỉ đƣợc hỏa táng, không dùng yểm đảo thƣ phù,
ám niệm, bỏ các thứ huyền môn tà thuật trong tang chế, thì linh hồn tất mãn. (
Nếu hỏa táng).
-Linh hồn sau khi xuất khỏi kiếp, thì không nhiễm cầu vọng nữa, nhƣ thích dùng
các thức vật chất trần gian, tiếc nuối các việc trần gian, ngạo vọng huyễn ngã
đƣợc ngƣời trần thỉnh nguyện, thích nhập đồng, rao giảng nếu đúng không có sứ
mệnh hoặc không đƣợc các Hội đồng tâm linh, Vua Cha, Mẫu Vƣơng, Thánh
Vƣơng cho phép. Tiếp tục học hỏi, vào các Hội đồng, các Gia đình hồn để tu
luyện, tiến hóa, theo sự phân công của Bề trên.
* * *
QUÁ TRÌNH CHƢNG CẤT TỪ BÃ:
Rất nhiều loại bã đen, lậu, xấu, hỗn tạp, nhƣng khi ta chƣng cất thì thành tinh
ngọc hƣơng-nhƣ rƣợu, hóa chất nƣớc hoa v v….
Kỹ thuật chƣng cất có khi dễ, có khi khó, nhƣng nhất thiết phải trộn lẫn hỗn độn
các nguyên liệu thô nhất, tạp nhất: Ví dụ sự ô trọc, sự thô mộc, sự bẩn thỉu, sự
kinh tởm, sự đau khổ, sự bầm dập, sự oan trái, sự mất mát, sự tanh hôi, sự khốn
nạn…Tất cả. Nếu không khổ, sẽ không biết nỗi khổ; không biết con đƣờng thoát
230
khổ. Muốn biết con đƣờng, phải dẫm chân bằng chân đất trên con đƣờng đó.
Thƣơng mình rồi mới có thể thƣơng ngƣời đƣợc. Vì là kiếp khổ, thì mọi thứ khổ
không nên phân chấp khổ. Đời là lầm lẫn và học hỏi, thì đừng chấp vào lầm lẫn
và dốt nát, thối tha, mà chấp vào cái Ta chƣa có để đi lên.
Chƣng cất là quá trình luyện thân khổ nhục của kiếp ngƣời, để ăn đòn, để cay
cực, để khao khát thoát khỏi con đƣờng ấy, thoát khỏi cái lò ấy. Không kinh sợ
cái lò luyện ấy, vì nó là nhƣ thế và mãi mãi chúng sinh tiến hóa đến cấp này là
nhƣ thế. Thế gian là cái bậc tiến hóa thôi, mãi mãi có thế gian. Kinh sợ nó thì bỏ
nó sao? Không! Muôn năm sau có các cảnh giới Hồng trần nhƣ thế này dành cho
chúng sinh ở mật độ tiến hóa đến cấp này. Vậy thì ai sẽ dám bƣớc xuống ruộng
sình lầy này để gặt mùa bội thu cho Thƣợng đế? Chính là các vị Phật, Bồ Tát,
Thiên thần phát nguyện xuống trần, học trở lại, và khai sáng, dẫn dắt nhân gian.
Ông ta xuống trần thì nhiễm trọc trần. Nhiều ông mê lầm không ngóc nổi đầu lên
nữa, tức đọa trần! Có ông thì khổ rồi, thì tầm đạo, tu cao, đắc pháp, cứu thế.
Pháp là thứ không phải là trên trời rơi ngay xuống, mà do vị ấy giác ngộ ra, do
Trời dạy cho mở mắt ra thông qua chính cái số phận của ông ta. Nhân loại chỉ có
mỗi Hồi giáo đƣợc Kinh Co-ran thôi, còn lại các vị giáo chủ đời đều bầm dập mà
tu đến cấp đại giác cả.
Khi chƣng thành tinh hƣơng, thì chỉ còn lại bã ở dƣới. Cái bã ấy có thể đƣợc
dùng, hoặc không. Nay có kẻ chấp cái bã ấy, thì không là bã thì cũng khó thành
hƣơng…Hoặc chƣa có hƣơng mà chấp vào bã, đƣợc một mẩu hƣơng mà chấp cả
bãi bã.
Còn chấp vào các thứ khổ, bẩn, hay cảnh trí, đời sống, các căn cơ nhiễm trọc
hoặc không trọc, tức còn tâm phân biệt, tức còn sinh cảm giác thù hận, cay
nghiệt, khinh ghét, giả đạo đức…thì còn ác nghiệp hoặc thể vía xấu. Tức anh
chƣa trống không, tức không thoát Luân hồi, chƣa Giải thoát.
Trong Con đƣờng thoát Luân hồi của Thiên Đạo-không có chỗ nào chấp vào
cảnh, sắc, hình, tƣớng, tính, số phận, hành vi vấp phải, thái độ thƣờng
chuyển, trí tƣởng vãng sinh không là bản chất, chỉ có 7 điều quan trọng để
Giải thoát, bất phân thiện ác, tà chính, xấu đẹp, nghiệp cao hay thấp, căn
quả nặng nhẹ thế nào: Làm đủ 7 điều đó, tất thoát Luân hồi lạc lẻo. Số 7 là số
thoát Luân hồi.
Vì xác định tất cả là giả tạm, nên Pháp Luân thƣờng chuyển, không chấp vào
tính trạng, chỉ chấp vào Hƣ Không để thành giải thoát. Đó là Vô Chấp.
Ở rìa ngoài của cái Mâm Đạo, cũng có thể nhảy vào giữa Mâm ngay, ở gần
Mâm-tức đạo đức tốt, chƣa chắc đã nhanh vào giữa Mâm hơn.
Muốn ăn nƣớc nhiều từ nồi cá kho nhừ? Khó, để nhiều nƣớc tất không nhừ, để ít
nƣớc thì khô khét mất. Nên đổ nƣớc nhiều, nấu cho nhừ cá đi, cạn nƣớc rồi, ta đổ
nƣớc vào đầy để có nƣớc trong nồi nhƣ cá! Ta hay có thói quen gặp cuốn sách là
lật trang cuối, đọc ngƣợc lên, để thấy cái kết trƣớc, mở sau. Đọc ngƣợc có cái
231
hay là Không chấp vào nội dung thứ tự mà chấp vào kết ý nghĩa, và giá trị của
cuốn sách là gì, hay hoặc là dở biết ngay. Hay thì đọc, dở thì thì lƣớt qua mấy
trang.
Đánh giá ngƣời từ lâu rồi, Ta có thói quen nhìn xem họ là ngƣời tốt, hay xấu, đời
khổ hay không khổ, không chú ý nhiều đến việc họ làm gì, cao sang hay hèn hạ.
Gặp ai cũng tự hỏi, họ có hạnh phúc hay không, có thƣơng ngƣời hay không.
Cho nên, các tác phẩm văn học, không đi vào cái Tôi đời mình mà toàn hƣớng ra
ngoài, đến con ngƣời và đau với đời. Cái mà các nhà văn thời Mạt đã đánh mất
bản chất chính của một văn nghệ sỹ đích thực!
Đó là Phá chấp đời để cho ngƣời giác ngộ Đạo hiểu Đời.
Tuy nhiên, vì xác định xây đời, lên chấp vào Đời mà luyện Đạo, cho nên, những
tính thuộc phạm trù đời thì phải chấp, để cho cá nhân thƣờng chuyển. Không
chấp cá nhân, để tránh nghiệp cá nhân, muốn tổng thể các cá nhân thƣờng
chuyển, thì phải chấp trụ vào đời LÀNH THIỆN chung. Chấp bằng Luật, Lệ, để
lấy Đời làm Đạo vậy. Cá nhân không nên chấp nhau=Vô Chấp, mà xã hội sẽ
chấp cá nhân hay Tập thể chấp cá nhân, lấy Nghiệp lực Lớn chung thúc nghiệp
cá nhân chuyển hóa. Đó là Hành phạt của Pháp luật, Phép luật, lợi ích cho nhiều
ngƣời, có thể hy sinh mấy đứa chống Luật để làm gƣơng muôn đời.
TÁM PHÉP TINH TẤN
Phàm ở đời, đã là con ngƣời, sống đời bình dị, nguyên nghĩa sống đời, thì tất
không thể tránh đƣợc hành sự đời, mà có hành có làm, thì có đúng sai, hay dở,
thất bại, thành công.
Lại nữa, đã là con ngƣời, trƣớc tiên thì phải có xác thân, với đủ ô trƣợc của xác
thân, rồi xác thân ô trƣợc, làm cho linh hồn ô trƣợc; vậy rồi cứ trƣợt mãi, không
thấy về, không về đƣợc.
Nay đã có 7 Nhân, 7 Quả, 7 Diệt, 7 Thoát (7 Lý Luyện Tu)-nhƣng Ta chƣa dạy
về cách nhìn nhận mình và mọi sự thế nào. Làm sao cho Tinh Tấn Linh hồn
mình, mà không phạm sai lầm, tránh bớt đƣợc sai lầm, ấy là rất quan trọng, vì
mỗi lần sai, là một lần ghánh nghiệp, lại phải ghánh, sám hối, sửa chữa-nhƣng
sai lầm ít thì tốt hơn!
Đây là 8 Bí phép cho mỗi ngƣời tại trần. Muốn thực hiện đƣợc 7 Nhân, 7 Quả, 7
Diệt, 7 Thoát, thì phải thực hành Tám Phép Tinh tấn này mới đƣợc, coi đó là
Phƣơng tiện để chở 7 Lý Luyện Tu trên. Ví rằng, 7 Lý Luyện tu nhƣ cái bảng, thì
8 Phép Tinh tấn nhƣ cái thƣớc chỉ vậy.
* * *
-Đối với bản thân mình-tức là nhìn nhận cái bản lai diện mục của mình-soi vào
mình-thì theo 8 Điều qui sau: Thực-Cực-Chính-Dung-Hợp-Dùng-Kiên-Tịnh.
1-Thực:
232
-Nhìn thẳng vào mình, đánh giá thực chất điểm tốt, xấu, hay, dở của bản thân
mình-nhìn đúng cái Bản ngã của mình có cái gì, chớ né tránh, chớ bảo thủ, bao
biện cho chính mình. Phải đánh giá đƣợc Thống nhất-Toàn diện các điểm. Đánh
giá chúng trong mối liên hệ lẫn nhau, cùng tồn tại, cùng ảnh hƣởng nhau; bản
chất của sự ảnh hƣởng-tồn tại của chúng là gì? Tức là đi tìm Nguyên nhân của sự
tồn tại đó. Không thấy đƣợc nguyên nhân, thì không tiến hóa đƣợc.
( Phép này là soi bản thể mình, nhƣ soi gƣơng, trắng đen, xấu tốt phải nhìn thấy
đƣợc; nếu không thấy đƣợc, thì soi ra ngoài, rồi soi lại mình, hoặc tự mình hình
dung mình là ngƣời khác nhìn vào mình mà đánh giá-tức là khách quan đánh
giá-sẽ thấy cái của mình, nó giống ai, khác ai cái gì-phép này áp dụng Nguyên lý
Sự thống nhất của Vũ trụ-sự vật hiện tƣợng).
2-Cực:
-Trong các điểm tốt, xấu, hay, dở do mình đã nhìn thấy, thì hãy đánh giá chúng,
đến mức nào-tức cực điểm nhỏ nhất, cao nhất của một cái tốt, hoặc xấu-từ đó
đánh giá đƣợc tình trạng, tính chất, và mức độ của sự việc, tính cách đó. Phải
đánh giá đƣợc Cụ thể-Triệt để từng điểm.
( Phép này cốt để thấy mình đang đứng ở chỗ nào trong nấc thang tiến hóa,
trong có có đạo đức, nhân cách, tu luyện, lao động, cống hiến…).
3-Chính:
-Tìm điểm chính quan trọng nhất của cái tốt nhất và cái xấu nhất-tức là hai điểm
cực đối nghịch nhau cơ bản nhất của một vấn đề-hoặc tổng thể tình trạng-hoặc
tổng thể sự tồn tại. Các phần nhỏ khác, bị chi phối ở hai điểm này, sẽ bị ảnh
hƣởng theo hƣớng tốt, hoặc xấu theo. Phải phân đƣợc ranh giới giữa chúng.
( Phép này ứng dụng nguyên lý Âm-Dƣơng-hai cực, để tìm ra bản chất-mâu
thuẫn quan trọng-chủ yếu-bản chất thực của sự vật hiện tƣợng-từ đó điều
chỉnh).
4-Dung:
-Tìm cách Dung hòa các điểm-tức là tìm đƣợc sự tất yếu tồn tại của chúng và
nhìn chúng với cách nhìn giản dị-bình hòa-tránh cực đoan. Phải sám hối các tính
xấu-sửa các điểm kém thƣờng xuyên; đây cũng là phép cân bằng Tƣơng đối, để
cân bằng trạng thái, mức năng lƣợng, nghiệp…
( Phép này ứng dụng Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dƣơng cùng tồn tại các
mặt, thống nhất các mặt mâu thuẫn…để dung hòa chúng, coi chúng là sự đan
xen, liên hệ, cảm ứng lẫn nhau-đây loại bỏ tính cực đoan, nóng vội, tùy tiện, chủ
quan, duy ý chí, cảm tính, đơn giản, máy móc một chiều…Phép này tránh cho ta
cái nhìn phiến diện, chủ quan, một chiều, gây sự ác ý, ác tâm, hoặc thù nghịch,
thành kiến. Đem lại cho chúng ta sự hòa hợp, đoàn kết, tôn trọng cả cái xấu, cái
hƣ, dốt, lạc hậu, kém phát triển. Không mất bình tĩnh, nóng vội, gây nghiệp xấu.
Đó là cái nhìn Trung Dung. Trên cao nhìn xuống, đứng ngoài nhìn vào, ở giữa
nhìn ra xung quanh, an nhiên tĩnh trí để nhìn bao quát, có chiều sâu, có chiều
233
rộng, toàn diện, là chính nó của các mặt, lại là Trung tính sau đó, mới có thể
hòa hợp đƣợc. Có đƣợc phép này, thì hầu nhƣ không thấy ghét cái gì, dù cái đó
rất là hại, rất là xấu-vì thấy đƣợc cái tồn tại của nó và chúng ta nhìn thấy đƣợc
sự Dung hòa trong đó).
5-Hợp:
-Thấy cái Hợp lý để cho sự yên ổn, hoặc thúc đẩy tiến bộ.
-Cái hợp lý là gì? Đó là cái điều hợp qui luật tiến hóa, thậm chí tạm thời có thể là
cả biện pháp xấu, cực đoan-nhƣng nó lại là cần thiết cho sự của mình-nếu không
có nó thì mình hỏng luôn-chứ đừng nói đến tồn tại để học ở trƣờng đời nữa! Nó
là mặt tối-phía bên kia của Tiến hóa chính-nhƣng nó lại là điều kiện để cho sự
tiến hóa đƣợc bảo đảm…Cái gì thấy hợp lý thì phải dùng.
( Ví dụ? Rất nhiều-sinh hoạt tình dục có thể gây nghiệp, cản trở thoát Luân hồi-
nhƣng là yếu tố sinh lý rất quan trọng, nếu không có thì không có con, không có
loài ngƣời-không có hạnh phúc gia đình-mà đã chấp nhận đời-đạo, thì phải có
gia đình, nếu mất hạnh phúc, ngoại tình, loạn đời…
Hoặc: Ăn mặn. Ngƣời đang rất gầy yếu, ốm bệnh, cần bồi bổ, hoặc trẻ em đang
lớn, không thể cho nó ăn chay trƣờng đƣợc, nếu không thì chết, chả còn ở trần
mà tiến hóa đến đích cuối nữa, thế thì phải ăn mặn, cho đến khi nào thích hợp
thì ăn chay.
Tính xấu nhƣ nóng giận, nó là kém, biết là thế, nhƣng do Trời sinh ra mình, có
sao chiếu nóng tính, khó sửa, thuộc về tính cách bẩm sinh-biết thế, nếu bỏ ngay,
thì rất khó, vì phải nín nhịn, ậm ực, rồi tím lịm hận trong đầu, hoặc lại ra chặt
phá cây cho hả giận…Vậy thì tạm chấp nhận nó, rồi sửa dần; lấy cái tốt, nhƣ
tính cam chịu, chịu khó làm việc, tính chịu khổ…để bù lại, xâm chiếm tính nóng-
vì cái tính chịu khó, vốn là do nhẫn nhịn chịu đựng mà có, thế thì nhân nó lên,
lấn sang cái tính nóng, sẽ có lúc chế đƣợc nóng…
Cái nhà đang xây, nhƣng nếu ta vội giật cái cột xuống ngay, cái nhà sẽ sập lập
tức, trong khi ta chƣa thể xây ngay một lúc cái nhà mới đƣợc. Hoặc mọi việc
khác cũng thế, nhƣ văn hóa, tín ngƣỡng, kinh tế…Cái nào thấy chƣa thể bỏ
đƣợc, bỏ ngay sẽ gây hậu quả lớn, tệ hại, gây nghiệp lớn…thì phải xem nó là
cần thiết tồn tại, từ từ rồi tính).
Phép này ứng dụng qui luật Âm-Dƣơng cùng tồn tại các mặt, thống nhất các mặt
mâu thuẫn).
6-Dùng:
-Lựa dùng cái thích hợp đó. Tức là cái mình cần, cái thấy cần thiết. Có thể cả tốt
và xấu.
-Nhƣng theo qui luật, thì dùng cái tốt là đƣơng nhiên; cái xấu có dùng, cũng chỉ
là tạm thời. Ví dụ phân gio rất bẩn, nhƣng cần dùng cho việc trồng cấy. Ngƣời
234
cứng đầu, ta dùng vào việc cần sự mạnh mẽ, kiên trì, quyết đoán; tính nói nhiều,
ta dùng vào việc nói nhiều…Biến cái xấu, thành cái tốt; hóa giải nó thành lực cớ
lợi.
-Dùng cái tốt-biến nó thành động lực, cái nhân sáng, để nhân lên, lấn át cái xấu
đi.
(Phép này ứng dụng Luật Nhân quả, phản phục-cái nào cần động, cái nào cần
tịnh, cái nào cần lùi, bỏ, diệt, sửa. ..)
7-Kiên:
-Phải Kiên trì tiến bộ, hoàn thiện.
-Khi mình đã xác định đƣợc biện pháp rồi, tức nhận thấy cái nào cần cho mình,
để mình tiến hóa, thì dùng, dùng thì phải kiên trì, nhƣng dùng để tiến hóa-chứ
không phải để thụt lùi. Kiên trì sửa sai. Thƣờng xuyên sám hối các tội, lỗi, yếu,
hạn chế. Sám hối rồi, thì phải kiên trì-kiên tâm-kiên quyết sửa chữa; cứ nhƣ thế,
không ngừng, cho đến khi hoàn thiện.
* Trong Kiên, sử dụng 8 phép nhỏ-gọi là Tám phép độ thân là: Tách-Chiếu-
Nhẫn-Thái-Phải-Cải-Hòa-Công.
-Tách: Bóc tách các nội dung, các phần của một sự vật, vấn đề ra, để mổ xẻ
chúng. Trong các vấn đề lớn, sự vật, hiện tƣợng, tính cách, bệnh tật..thì bóc cho
đƣợc nó ra cho thấy nội hàm của nó, có bóc nó ra, mới diệt đƣợc nó-đây không
phải là lúc dung hòa nữa-đã qua giai đoạn dung hòa.
-Chiếu: Dùng cái sáng, cái hay, cái tốt, cái chung chiếu nó, biến hóa nó, làm
biến dị nó đi, cho không là nó nữa. Dùng dƣ luận cải hóa nó-chiếu yêu-soi nó, để
cải hóa, nhƣng là chiếu sáng, bằng năng lƣợng cao hơn.
-Nhẫn: Là nhẫn nhịn, kiên nhẫn, nhẫn nại. Trong Kiên phải có Nhẫn. Nhẫn nại
mà thực hành.
-Thái: Là thái bình. Trong mọi hành động, cho mình, cho ngƣời, lấy Thái bình-
tức là an bình, an vui, hòa bình làm đầu tiên. Tức là không gây hậu quả xấu.
-Phải: Là Đƣờng chân chính, đƣờng đúng, biện pháp đúng-cứ theo đƣờng này
mà làm, thì không sợ lạc lối.
-Cải: Là cải tạo rõ ràng. Trên là Chiếu sáng, cũng đã là cải hóa rồi, nhƣng có khi
chƣa thành việc, thành sự, thì Cải này phải thành sự, nghiêm túc, cho đƣợc,
thành quả tốt rõ ràng.
-Hòa:-là Hòa đồng. Thành cái tốt rồi, đôi khi mắc vào việc kỳ thị, khinh miệt,
hoặc đối đầu luôn với cái cũ, cái xấu, cái chống mình; cho nên lại gây ra Nghiệp
tiếp. Vậy phải hòa đồng với tất cả-hòa đồng nhƣng không đánh mất mình, hòa
hợp nhƣng không mất bản sắc riêng, hòa vui nhƣng không sa vào huyễn loạn.
-Công: Là công quả, công trình. Làm gì cũng phải nghĩ đến công quả, công
trình-tiến hóa chung, không vị tƣ ích kỷ mới là đắc phúc, đạo. Anh tiến hóa, tiến
bộ rồi, tức anh đã có thể tiến hành phổ độ, mà anh không phổ độ, không chịu vị
235
nhân, cống hiến, thì cũng chỉ đƣợc cho riêng anh thôi-tức là mới có Công phu,
chƣa có Công quả, Công trình.
( Phép này ứng dụng qui luật Nhân quả, Phản hồi, Phản lực-liên tục để chuyển
hóa sự vật hiện tƣợng. Trong Kiên này, diễn ra vô cùng sinh động, đa dạng, lâu
dài các quá trình, các giai đoạn, các hành động, các hệ quả…thành trụ-dị-hoại-
diệt-sinh…theo nấc thang tiến hóa, hành hóa).
8-Tịnh
-Tịnh là Tịnh không.
-Tìm cách Trung hòa chúng-tức là Cân bằng giá trị-năng lƣợng-nghiệp…Cân
chúng với nhau lên, lấy cái nọ đắp-thâm nhập cái kia-xem còn chỗ nào mà không
bù trừ cho nhau đƣợc, không xâm chiếm nhau đƣợc. Cái phần dôi ra-tức là Mâu
thuẫn chƣa thể hóa giải đƣợc. Lại tìm cách đƣa chúng vào để trung hòa tiếp, cho
đến hết, cân bằng thì thôi.
-Tịnh lọc lại mọi việc, cho Tịnh-về Không. Thiền Tịnh. Việc này đắc An
nhiên-Tự tại-Vô hại-Vô Nhiễm sự. Đắc Đạo.
( Phép này cốt đƣa mình về trạng thái trung tính, trung cung, bỏ Huyễn ngã,
chấp ngã hoàn toàn -trong tịnh thiền, luyện khí, phong thủy, hay bất cứ việc gì
cũng thế-phải tìm cách đƣa mình về trạng thái Trung tính-Trung hòa-Trung
cung-Trung Phƣơng tính trạng=Không. Nếu chƣa làm đƣợc điều này, thì tất còn
nghiêng lệch, mà nghiêng lệch, tất có nhân-quả-nghiệp, dù tốt-xấu. Ở trang thái
Trung Phƣơng, thì mới đắc đạo cho mọi sự vật, hiện tƣợng, con ngƣời-vì đó là
Thượng đế Cung-Thượng đế Tính).
Trong mọi vấn đề nói chung của con ngƣời tại trần gian, đều phải ứng dụng và
có thể ứng dụng rộng 8 Phép này ra cho muôn sự khác đều đƣợc.
KẾT LUẬN PHẦN THOÁT LUÂN HỒI:
Ngƣời giác ngộ Thiên Đạo, tu luyện Thiên Pháp, phải hiểu ý nghĩa của Thiên
Phù-đó là hình ảnh Thƣợng đế cũng là hình ảnh Thƣợng đế tự thân, tự mình là
Thƣợng đế, hợp cùng Vũ trụ-Thƣợng đế-thì mới gọi là Giác ngộ Chân Lý. Kính
Thƣợng đế-tức là cũng phải Kính Mình! Tôn thờ Cha, thì mình phải thực hành
tâm linh và tu luyện đến thành hiểu mình là Thƣợng đế! Chứ không cứ tƣởng thờ
Thƣợng đế, cúi lạy Thƣợng đế, rao giảng Đức tin, mà cuối cùng thì chả giác ngộ
đƣợc là bao về Luật Vũ trụ-Về Đạo Trời-Về chính mình, không nhận ra mình là
ai, đi đâu, về đâu, từ đâu đến…thì có thờ Thƣợng đế muôn năm cũng không
thành đạo, không thoát đƣợc Luân hồi, mà có khi ác vẫn hoàn ác, ngày càng thụt
lùi, đọa sâu vào hố vô minh hơn trong các kiếp!
Cái tự thân Bản lai diện mục cổ của mình vốn là thần thánh gốc rồi, đó là
Thƣợng đế tính, hay Linh hồn gốc, nó là Một, chƣa bao giờ phân tách khỏi Một-
236
Vũ trụ-Nhân loại. Khi nhận thức đƣợc cái Một ấy, cùng sự liên hệ tất yếu cùng
muôn loài, thì phải hiểu trong ta có tất cả, là tất cả, cùng tất cả, hợp tất cả và hòa,
sống vì tất cả, thuộc về tất cả, nhƣ tất cả-ấy mới là Thƣợng đế. Cái đau của mình
cũng nhƣ cái đau của ngƣời, của đất đai cây cỏ, Thƣợng đế vậy; mình sáng thì xã
hội sáng, Thƣợng đế sáng, không gian sáng và ngƣợc lại! Nếu mình động, thì Vũ
trụ cũng động theo, mình là ác, thì đã tạo một vi lƣợng ác ném vào không gian
vô lƣợng hình ảnh, và năng lƣợng ác, rồi đến lúc nào đó nó quật ngƣợc lại
khảo đảo mình. Và ngƣợc lại!
Trong bản thân xác thân-linh hồn-đã là một Vũ trụ-Thƣợng đế thu nhỏ hoàn
thiện tuyệt đối! Từ Linh hồn Vũ trụ và xác thân Vũ trụ, có trong mình cả-có đủ 9
tầng cảnh giới-ứng với các cấp Nguyên tử trên cơ thể. Ta có thể đi trong cơ thể
chính mình-xuất hồn đi vào-bơi trong cơ thể mình-nhƣ máy bay bay trong bầu
trời vậy! Trong chúng ta, khi đắc đạo thần thông, cảnh giới 9 Thiên đƣờng của
chính mình ngay trên Vùng Trên Sao 7-Nê Hoàn Cung-hay Thiên Đƣờng
Thánh Nhân. Trên Nê hoàn cung nối thông theo cơ chế Thông suốt-Trục dọc-
Điểm Không-Đồng Khí Đồng Thanh với Thƣợng đế-Thiên đình. Nhƣ thế, khi
xuất đƣợc Ngƣơn thần hồn ra, thấy đƣợc Thiên Đƣờng Thánh Nhân, là hiểu đƣợc
Thƣợng đế, xuất lên cao dọc theo sợi dây bạc mà về với Cha, là về Thiên đình,
vào đƣợc các cung là hiểu Cung đình Thiên Thƣợng, biết có Vua Trời; gặp đƣợc
Cha, vào lõi Bạch Ngọc Cung-tức Trung tâm Vũ trụ-thì coi nhƣ Thoát luân hồi,
khi mãn kiếp!
Với Con đƣờng Thoát Luân hồi nhƣ trên là Hợp Định Luật tuần hoàn của Vũ
trụ, con ngƣời tất yếu sẽ thoát đƣợc Luân hồi, sinh tử, hồi về Thƣợng giới, ngay
hiện kiếp, hoặc rút nhanh, rút ngắn các nghiệp để ít luân hồi, nhanh về đến đích
cuối.
Ngày 9/5/2011
237
LUẬT THÁNH ĐỨC
-TRÍCH LUẬT KINH-
(Hiến Pháp Nhà nƣớc Hoàn cầu Nhân dân Thánh Đức trong tƣơng lai Nhân
loại )
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
(Dẫn đƣờng cho tƣơng lai Thánh Đức của nhân loại. Luật này áp dụng cho xã
hội Thánh Đức trong tƣơng lai của loài ngƣời- Đây là công trình triết học-khoa
học xã hội và nhân văn của Thế giới, không của riêng bất cứ quốc gia nào )
LUẬT THÁNH ĐỨC
VÀ CHƢƠNG TRÌNH BÌNH GIẢNG VỀ LUẬT
THÁNH ĐỨC-MỞ RỘNG NHẬN THỨC-HƢỚNG
DẪN HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG THÁNH ĐỨC
CƠ CẤU CHÍNH TRỊ XÃ HỘI THÁNH ĐỨC
*Điều 1: Thế giới thuộc Vũ trụ, loài ngƣời là con Thƣợng đế. Vua Cha sinh ra tự
nhiên, trái đất, con ngƣời, vậy trái đất, Hạ giới, con ngƣời thuộc về và của Vua
Cha Thƣợng đế vĩ đại. Mọi việc phải đƣợc Thƣợng đế cho phép và lãnh đạo.
Thƣợng đế lãnh đạo trái đất thông qua Thiên Hội và Giáo Hội Thiên đạo.
Giảng: trƣớc kia, loài ngƣời còn mông muội, nhận thức về Thƣợng đế còn hạn
hẹp, quan niệm về Đấng Tự Nhiên thƣờng mô phỏng bí hiểm hoặc đầy bí nhiệm,
có gì đó mù mờ và kinh sợ tự nhiên nhƣ thờ Mặt Trời, Thần Mây, Mƣa,
Gió...Nhƣng họ chƣa thể biết có Đấng Tối cao sinh ra toàn bộ vũ trụ, thiết kế và
tạo ra con ngƣời cùng muôn vật-từ đất đai sông núi đến mọi thứ gọi là vật chất-
tất cả do Đấng Sáng tạo Tối cao tạo ra. Đặc biệt Ngƣời đã sáng tạo ra loài ngƣời-
trên cơ sở biến tính của thân thể mình-có đặc tính của thân mạng mình. Nên, loài
ngƣời là con Thƣợng đế. Tất cả mọi thứ đều là của Thƣợng đế, nuôi nấng, sinh
ra và cho sinh diệt. Đến thời kỳ Thánh Đức này, thì nhân loại tiến hóa trở lại thời
Thánh Đức Thƣợng Ngƣơn cao hơn-trong chế độ Đại Đồng, đã có nhận thức cao
hơn-thì cần phải biết tất cả đều thuộc về Thƣợng đế sinh ra và tổ chức. Nên trong
thời đại này, mọi việc phải đƣợc Thƣợng đế cho phép.
238
Thƣợng đế lãnh đạo trái đất thông qua Thiên Hội-tức Triều Đình trái đất-do
Quốc Vƣơng Tối cao của Địa cầu lãnh đạo, và thông qua Giáo Hội Thiên Đạo-là
cơ quan tổ chức Chính phủ Thánh Đức-do Quốc Vƣơng Thánh Đức lãnh đạo.
Chúng ta cần tuân theo Thiên đình-là Chính Phủ của Vũ trụ do Thƣợng đế quản
lý-cứ hiểu đơn giản nhƣ thế. Trái đất này là một hành tinh trong hàng tỷ hành
tinh trong vũ trụ, nên Vua Địa cầu-cũng là một Thiên Vƣơng nhƣ các hành tinh
khác, và Ngôi Thiên Vƣơng đó chính là Quốc Vƣơng Tối cao-hay Thiên Chủ
cùng Triều đình trái đất, Quốc Vƣơng Thánh Đức là ngƣời lãnh đạo Chính Phủ
Toàn cầu Thánh Đức-không phải là ngôi tối cao tại trái đất. Quốc Vƣơng Thánh
Đức kiêm Giáo Hoàng Thiên Đạo-khi Đạo trị thế thì là con của Thiên Chủ Ngôi
Hai. Triều đình trái đất do các thực thể tâm linh và xã hội bí mật tổ chức, không
công khai, còn Quốc Vƣơng Thánh Đức đại diện cho triều đình trái đất là Tổng
Thống Thánh Đức-Hay có thể gọi là Quốc Vƣơng Thánh Đức-nhƣng chỉ làm
trong 9 năm phải thay Tổng thống này.
*Điều 2: Lập Thánh Đức Đại Đồng, trong lịch sử tiếp theo của loài ngƣời. Toàn
thế giới giao cho Quốc Vƣơng Thiên Tử-Giáo hoàng Thiên Đạo lãnh đạo, hợp
nhất thành “Nhà nước Thánh Đức Hoàn cầu”-Đại Đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-
Đại Linh. Chia thế giới thành 18 quốc gia ( khu vực) trong Vƣơng quốc Thánh
Đức hoàn cầu, đứng đầu các quốc gia là các Quốc trƣởng. Các quốc gia tuân
phục Quốc Vƣơng, phục tùng mệnh lệnh Quốc Vƣơng Thánh Đức và Thiên Chủ
trên cao.
Giảng: Lập Thánh Đức Đại Đồng, trong lịch sử tiếp theo của loài ngƣời-là lập
Thánh Đức trong Thế kỷ 21 và các thời gian tiếp theo-Thời gian dự tính cho thời
đại này khoảng 700.000 năm cho đến hàng triệu năm liên tiếp, tùy theo nguyên
khí trái đất lúc đó, có thể tạo lập hoặc làm mới, chứ không có kế hoạch đƣa nhân
loại trở về thời kỳ Chủ nghĩa Đế quốc và Tƣ bản nhƣ cũ.
Quốc Vƣơng Thiên Tử-Giáo hoàng Thiên Đạo lãnh đạo-là Tổng Thống Hoàn
cầu. Toàn thế giới thành một nhà nƣớc là nhà nƣớc Thánh Đức Hoàn cầu-theo
tiêu chí đạo đức và xã hội là: Đại Đồng-tổ chức xã hội kiểu đại đồng Cộng sản;
Đại Thiện-tức là một xã hội thiện lành, có con ngƣời hiền hậu, các tiêu chí xã hội
phục vụ sự tiến bộ và chân chính trong sáng của con ngƣời; xã hội không có tệ
nạn, không có đói nghèo đau khổ bất công và các sự ác sự khốn nạn....Đại Mỹ-
rất cao đẹp, trong sạch, là một thiên đƣờng hạnh phúc; Đại Linh-là xã hội có nền
tâm linh cao đẹp và trong sáng, con ngƣời có nhận thức tâm linh đúng đắn,
không mê tín dị đoan, tà vạy, tất cả hợp lòng Thƣợng đế và các nguyên lý của
cõi vô hình.
239
*Điều 3: Quốc Vƣơng do Thƣợng đế lựa chọn, đặt tên hiệu và chức thánh, có
dấu ấn Thiên đình, khi giáng sinh đƣợc nuôi dạy, chọn lựa trở thành Quốc
Vƣơng Thiên tử; là ngƣời thay mặt Thƣợng đế lãnh đạo loài ngƣời; có nhiệm vụ
phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh, chỉ huấn của Vua Cha vĩ đại, của Thiên Hội,
Giáo Hội; mọi việc quan trọng phải xin ý kiến của Vua Cha. Tên riêng đặt riêng.
Tên Hiệu: Thiên Tôn I, II, III…đến vô cùng, luân sinh qua các kiếp, trực tiếp
lãnh đạo loài ngƣời.
Giảng: Quốc Vƣơng Thánh Đức là con trai của Thiên Chủ-giáng sinh đều do
Thƣợng đế lựa chọn linh căn cho đầu thai chuẩn bị từ trên cao. Tên hiệu là do
Thiên Chủ đặt, chức Thánh là do Giáo Hội đặt; dấu ấn Thiên đình trên ngƣời bản
mệnh, dùng thần thông sẽ biết ấn dấu chính xác chống mạo phạm; ngoài ra khi
bổ nhiệm, đều có Sắc Lệnh của Thiên đình bổ nhiệm cho làm việc, thông qua
thông linh. Quốc Vƣơng Thánh Đức phải phục tùng tuyệt đối Vua Cha Thƣợng
đế trên Thiên đình, Thiên Hội-tức Triều đình Địa cầu do Quốc Vƣơng Tối cao
lãnh đạo và tập thể Giáo Hội.
Tên hiệu thì lấy tên riêng cộng với Thiên Tôn đời thứ mấy....
*Điều 4: Quốc Vƣơng Thiên tử chọn lọc quần tiên giáng sinh để bổ nhiệm nhân
tài ở các giai đoạn lịch sử. Quốc Vƣơng chọn lọc và bổ nhiệm các Quốc trƣởng,
sau khi tuân theo chỉ lệnh và ý kiến của Vua Cha.
Giảng: Điều này qui định chi tiết ở phần sau. Quần tiên chọn lọc theo lệnh
Thƣợng đế sẽ giáng sinh để làm cán bộ chấn hƣng cho Thánh Đức trong mọi thời
kỳ. Họ sẽ là các nhân tài rƣờng cột cho Thánh Đức. Khi thi nhân tài, bổ nhiệm
cấp Quốc Trƣởng của một Đại Quốc=72 Đại Quốc Thánh Đức trở lên, thì phải
làm tấu sớ báo cáo Thiên Đình và thông qua Thiên Chủ.
*Điều 5: Thiên Quốc đặt tại Việt Nam (Đại quốc Thánh Địa). ( Nếu có thay đổi
sẽ thông báo sau)-Quốc Vƣơng và Thiên triều ngự tại Thánh địa ( ở một khu vực
riêng-là Thủ đô của Vƣơng quốc Hoàn cầu). Quốc gia Việt Nam có Quốc vƣơng
và Thiên triều ngự, độc lập với Thiên quốc. Việt Nam là một trong 18 quốc gia
trong Nhà nƣớc Hoàn cầu.
Giảng: Thiên Quốc đặt tại Việt Nam-tức là lấy Giáo Hội và cơ quan Chính phủ
Hoàn cầu đặt tại Việt Nam. Quốc Vƣơng và Triều đình Địa cầu (Thiên triều)
cũng đặt tại Việt Nam. Khi đến lƣợt làm Quốc Vƣơng, thì đại diện các nƣớc phải
về Việt Nam-giống nhƣ trụ sở Liên Hiệp Quốc mới. Quốc gia Việt Nam có Quốc
vƣơng và Thiên triều ngự, độc lập với Thiên quốc: Quốc Vƣơng là Quốc Vƣơng
Tối cao-Thiên triều là Triều đình địa cầu; độc lập với nƣớc Việt Nam thánh địa-
240
còn gọi là Thiên Quốc. Việt Nam là một khu vực nằm trong khu vực Thánh Đức
1.
Tuy nhiên, có thể thay đổi địa lý ở, nếu có tình hình không thuận lợi.
*Điều 6: Quốc Vƣơng có quyền lập Hội đồng Tối cao, Hội đồng Giám sát Tối
cao ( Hội đồng Nguyên Lão), sau khi đƣợc Cha cho phép và đồng ý. Giáo Hội
Thiên Đạo nắm quyền hợp nhất hai Hội đồng này vào thành chính thể Thánh
Đức khi lập Nhà nƣớc Hoàn cầu.
Giảng: Quốc Vƣơng Thánh Đức có quyền tổ chức ra Hội đồng Thánh Đức Tối
cao, Hội đồng Giám sát Tối cao ( Hội đồng Nguyên Lão)-sau khi thi nhân tài, bổ
nhiệm vào hai Hội đồng Mới này, trƣớc khi đó, phải lập báo cáo Dự kiến và trình
lên Triều đình Địa cầu-tức Thiên Hội và báo tấu lên Thƣợng đế. Thiên Chủ cũng
duyệt tất cả các kế hoạch này và tham vấn bổ nhiệm cán bộ, đồng thời cũng phải
báo cáo Thiên đình.
Giáo Hội Thiên Đạo nắm quyền hợp nhất hai Hội đồng này vào thành chính thể
Thánh Đức khi lập Nhà nƣớc Hoàn cầu-Ý này là: Khi chƣa thành lập đƣợc
Thánh Đức toàn cầu, thì Thiên Đạo vẫn tổ chức Giáo Hội, vẫn tổ chức Hai Hội
đồng này-nhƣng khi Đạo cầm quyền, thì Hai Hội đồng này phải nắm chính
quyền, trong đó Hội đồng Thánh Đức Tối cao chính là Chính phủ Hoàn cầu.
*Điều 7: Nhà nƣớc Thánh Đức chia làm 4 cấp:
-Trung ƣơng Thiên tử và Hội đồng Thánh Đức Tối cao.
-Các Quốc trƣởng và Hội đồng Thánh Đức chấp chính quốc gia.
-Khu Tự trị và Hội đồng Tự trị.
-Các công xã nhân dân Thánh Đức và Hội đồng quản lý.
Quốc Vƣơng trực tiếp bổ nhiệm cán bộ trong các cuộc thi Nhân tài đến cấp Khu
Tự trị.
Công tác bổ nhiệm cán bộ, sử dụng nhân tài, theo qui định của Luật Thiên Đạo.
Riêng Công xã Nhân dân: lập Hội đồng quản lý gồm 9 ngƣời, do dân bầu, trong
nhiệm kỳ 9 năm; dƣới Hội đồng quản lý có các cơ quan giúp việc, nhƣng nhân
sự không quá 18 ngƣời. Hội đồng quản lý chỉ lập 1 lần; Chƣởng quản Khu Tự trị
ra nghị quyết công nhận Hội đồng này, sau khi dân bầu.
Giảng:-Điều khoản này đã giảng và qui định kỹ trong Luật Thiên Đạo, Luật Đại
Đồng và tham khảo thêm bên Nội qui Thánh Đức Hội Toàn cầu.
*Điều 8: Dƣới các quốc gia, lập 4 cơ quan chuyên trách, do Quốc trƣởng đứng
đầu-gọi là Hội đồng Chấp chính Thánh Đức. Quốc trƣởng không có quyền bổ
241
nhiệm những ngƣời đứng đầu các Hội đồng này, chỉ cáo tấu trình lên Quốc
Vƣơng khi cần, thông qua Hội đồng Nhân sự.
Giảng: Dƣới cấp Quốc gia là 72 Đại Quốc Thánh Đức-lập chính phủ của quốc
gia mình-gọi là Hội Đồng Chấp Chính Thánh Đức. Tại sao không gọi là chính
phủ là vì ở cấp trên, chính là cấp Khu Vực đã tổ chức chính phủ Khu vực; về
nguyên lý tổ chức, Hoàn cầu có 18 chính phủ Khu Vực và 72 chính phủ chấp
chính của Quốc Gia. Dƣới là các Khu Tự trị thành viên.
Quốc trƣởng không có quyền bổ nhiệm những ngƣời đứng đầu các Hội đồng
này, chỉ cáo tấu trình lên Quốc Vƣơng khi cần, thông qua Hội đồng Nhân sự:
Tất cả những ngƣời đứng đầu các Hội đồng này đều lấy từ cuộc thi Nhân tài cấp
Hoàn cầu, để bổ nhiệm xuống dƣới, hoặc lấy từ cuộc thi tại Khu vực còn dƣ;
Quốc trƣởng không có quyền bổ nhiệm mà do Khu Vực Thánh Đức
bổ nhiệm; và chỉ báo tấu lên Quốc Vƣơng Thánh Đức khi cần thiết, có nghĩa
Quốc Vƣơng không bổ nhiệm đến cán bộ cấp Hành chính của Quốc Gia.
*Điều 9: Cơ cấu các quốc gia Tự trị trong Thánh Đức.
Thánh Đức lập 18 khu vực thành viên trong Nhà nƣớc Hoàn cầu. Các quốc gia
lập Khu tự trị, dƣới Khu Tự trị là các Công xã Nhân dân. Công xã Nhân dân chia
thành các đội, nhóm; các đội nhóm do dân bầu lên-là đội trƣởng, làm không quá
2 năm và không lặp lại. Quốc gia có thể đặt ra luật riêng, nhƣng phải trên cơ sở
tôn trọng và chấp hành, thực hiện nghiêm chỉnh vô điều kiện luật Thánh Đức và
luật Thiên Đạo.
Khu Tự Trị nhƣ một nhà nƣớc thu nhỏ. Khu Tự Trị lập kế hoạch và tổ chức đời
sống cho dân khu vực tự trị đó một cách chủ động, tự giác và tích cực. Kế hoạch
đƣợc lập và báo cáo cho Quốc Vƣơng, Quốc trƣởng biết, đƣợc chỉ đạo và chỉ
lệnh nếu cần. Khu Tự trị bình đẳng và liên kết với nhau trong quan hệ sản xuất
kinh tế, trực tiếp trao đổi các sản phẩm cho nhau, để cùng phát triển.
Giảng: Thánh Đức lập 18 khu vực thành viên trong Nhà nƣớc Hoàn cầu. Các
quốc gia lập Khu tự trị, dƣới Khu Tự trị là các Công xã Nhân dân: Điều này qui
định chi tiết đã rõ. 18 Khu vực Thánh Đức-rồi thành 72 Đại Quốc-hay là Quốc
gia Thánh Đức-rồi dƣới thành lập các Khu Tự trị-dƣới Khu Tự trị là các Công xã
nhân dân.
Công xã Nhân dân chia thành các đội, nhóm; các đội nhóm do dân bầu lên-là
đội trƣởng, làm không quá 2 năm và không lặp lại: Công xã nhân dân nhƣ một
Hợp tác xã kiểu Việt Nam-nhƣng to lớn hơn nhiều-có khi đến cấp Huyện nhƣ
hiện nay. Công xã chia thành các Đội Hợp Tác-cấp Hợp Tác xã-cấp xã-rồi Đội
Hợp tác thành các Nhóm Gia đình Thánh Đức. Các đội nhóm trƣởng này do dân
chúng ở đó bầu lên và làm không quá 2 năm; không lặp lại, có nghĩa là chỉ làm
242
duy nhất một lần trong đời để tránh phát sinh nạn ô dù chạy chọt và phân chia
tầng lớp giai cấp.
Quốc gia có thể đặt ra luật riêng, nhƣng phải trên cơ sở tôn trọng và chấp hành,
thực hiện nghiêm chỉnh vô điều kiện luật Thánh Đức và luật Thiên Đạo: Luật
pháp quốc gia riêng, bảo đảm tính đa dạng và phù hợp với điều kiện tồn tại, phát
triển, địa lý và văn hóa phong tục địa phƣơng-nhƣng trên cơ sở nối dài và mở
rộng, cũng nhƣ chấp hành Hiến Pháp Thánh Đức-tức là Luật Thiên Đạo và Luật
Thánh Đức. Đây là 2 bộ luật Gốc=Hiến Pháp Thánh Đức. Luật Đại Đồng không
là Hiến Pháp, mà là bộ qui chế hƣớng dẫn mở rộng của Luật Thánh Đức mà thôi.
Cả Luật Thánh Đức cộng với Luật Đại Đồng thành Học thuyết Đại Đồng.
Khu Tự Trị nhƣ một nhà nƣớc thu nhỏ. Khu Tự Trị lập kế hoạch và tổ chức đời
sống cho dân khu vực tự trị đó một cách chủ động, tự giác và tích cực: Nhà nƣớc
thu nhỏ giống nhƣ cấp tỉnh thành-nhƣng chủ động hơn, hoàn toàn chủ động
trong chính sách chiến lƣợc và hoạch định kinh tế, tính chất tự trị nhiều hơn và
hoàn toàn độc lập về các việc hạch toán các phƣơng án kinh tế, các cách điều tiết
kinh tế nội bộ. Cơ cấu chính quyền đƣợc dân bầu-cấp trên công nhận; lập các kế
hoạch đời sống có tính chất riêng-độc lập và thƣờng không phụ thuộc vào các kế
hoạch cấp Khu Vực-đôi khi cần tuân theo chƣơng trình cấp trên, nhƣng tính chất
chủ động và độc lập rất cao.
Kế hoạch đƣợc lập và báo cáo cho Quốc Vƣơng, Quốc trƣởng biết, đƣợc chỉ đạo
và chỉ lệnh nếu cần-Tất nhiên cấp trên phải biết cấp dƣới làm gì. Giả dụ cấp dƣới
có kế hoạch tốt rồi, thì không cần cho ý kiến nữa, không phê chuẩn; nhƣng nếu
kế hoạch đó không tốt, không hợp lý, có thể ảnh hƣởng đến tồn tại và quan hệ
kinh tế trong Khu vực, thì cấp trên phải có ý kiến điều chỉnh, giúp đỡ hoàn thiện.
Vả lại cấp dƣới thì có thể trình độ không cao và không bao quát bằng cấp trên,
nên các kế hoạch lớn, có thể tham gia ý kiến của cấp trên. Điều này qui định sự
không bắt buộc phải phê chuẩn kế hoạch, nhƣng phải báo cáo. Nó nói lên tính
chất chủ động và độc lập rất cao của Khu Tự trị-khác xa các loại chính quyền
trƣớc đây.
Ta hình dung Khu Tự trị nhƣ một Bang của nƣớc Mỹ, hay là các Khu Tự trị của
Trung Quốc-cách thức Bang nƣớc Mỹ có luật pháp riêng, các kế hoạch
riêng…Chỉ mỗi khác là nó là cách thức nhà nƣớc Tƣ bản.
Khu Tự trị bình đẳng và liên kết với nhau trong quan hệ sản xuất kinh tế, trực
tiếp trao đổi các sản phẩm cho nhau, để cùng phát triển: Đây là quan điểm quan
trọng chính yếu của nguyên lý tự trị và kinh tế đại đồng. Chúng ta chú ý tính chất
quan trọng của Kinh tế hàng hóa kiểu Thánh Đức-Tức là chúng ta thực hiện chế
độ cộng sản-nhƣng không lặp lại kiểu quan liêu bao cấp hay kinh tế kế hoạch của
toàn khối nhà nƣớc nhƣ thời Cộng sản ở Việt Nam hay Liên Xô, tất cả nhà nƣớc
bao cấp, lập theo kế hoạch, địa phƣơng không hề chủ động và không có tính chất
tự trị. Ở đây khác, các nhà nƣớc thu nhỏ đến cấp Công xã không bao giờ là hình
243
thức cứng nhắc, mà luôn chủ động, lập các kế hoạch riêng mình và trao đổi sản
phẩm giữa các công xã với nhau-về nguyên lý đã biến các Công xã này thành các
Công Ty Nhân Dân-một khái niệm-để chủ động cho phát triển các dòng chảy
hàng hóa thông suốt-mà không đƣợc bế quan tỏa cảng nhƣ thời đại bao cấp của
các nƣớc XHCN trƣớc đây. Nhƣ vậy, có thể khẳng định một cách khéo léo thì đó
là hình thức kinh tế hàng hóa thị trƣờng kiểu Thánh Đức-tức là vẫn có sản xuất
hàng hóa để trao đổi, có thị trƣờng chung-riêng-nhƣng không hình thành thị
trƣờng tự do kiểu tƣ bản. Đây là điểm mới hoàn toàn, điểm sáng tạo quan trọng
trong HỌC THUYẾT KINH TẾ THÁNH ĐỨC. Nó bảo đảm an ninh kinh tế và
sự no ấm, sự sống động của nền kinh tế Thánh Đức. Thánh Đức phát triển cao sẽ
đến lúc một Công xã làm ra tất cả mọi vật chất đáp ứng mọi nhu cầu của nhân
dân công xã đó, thì đó là thời đại Hoàng Kim của cực lạc sung sƣớng-lúc đó
công xã không cần trao đổi hàng hóa với nhau nữa, mà làm đến đâu hƣởng đến
đó, an ổn và an lạc. Đó là lúc nhân dân nhàn nhã và sung sƣớng nhất.
*Điều 10: Các công xã thực hiện chế độ tự quản, liên hệ, hỗ trợ nhau trong phạm
vi khu vực tự trị. Mọi liên hệ quan hệ khác ngoài khu tự trị, thông qua cơ quan
chuyên trách của Hội đồng Khu Tự trị. Hội đồng này có nhiệm vụ đại diện và
giải quyết việc liên hệ với các Khu Tự Trị khác.
Giảng: Các công xã cũng có tính chất độc lập và tự trị, tự quản cao độ-thậm chí
có Hƣơng ƣớc riêng-tức Luật riêng của mình. Giống nhƣ trong các Làng của
Việt Nam-đều có tính chất độc lập, khép kín và tự chủ từ lâu-vốn là loại hình
quản lý thời Công xã Nguyên thủy còn lƣu lại; làng có Hƣơng ƣớc riêng, nằm
trong tổng thể chính quyền xã huyện, nhƣng tính chất độc lập rất cao. Các công
xã Thánh Đức thì to hơn Hợp Tác xã Nông nghiệp Việt Nam nhiều lần, vậy
chính quyền ở đây cũng rất độc lập, tự quản và có tính chủ động hoàn toàn trong
hoạch định các chính sách xã hội.
*Điều 11: Các Quốc Trƣởng và các thành viên của các Hội đồng, từ Hội đồng
Thánh Đức Tối cao, đến các Công xã tại nhiệm không quá 9 năm và không lặp
lại.
Đội trƣởng tại Công xã không quá 2 năm.
Nếu kẻ nào tham quyền cố vị, tìm cách chống thiên luật sẽ bị trừng trị. Các Hội
đồng không lặp bầu và lặp lại.
Giảng: Qui định này rất quan trọng-chúng ta cần nhớ chế độ nào cũng có kiểu
đào tạo cán bộ rồi sử dụng lâu dài, lên hình thành lớp cán bộ-quan chức lâu dài
cả đời làm cán bộ, từ đó hình thành lên cách chạy chọt thi thố, mua bán quan
chức, bổng lộc; cửa quyền, nhũng nhiễu, tham ô; nạn ô dù, nạn thi bằng cấp giả,
thi láo học láo; rồi mua quan bán tƣớc cho đến làm loạn đấu đá nghị trƣờng,
244
tranh dành ngôi vị giữa các đảng phái, tôn giáo; rồi thoán đoạt ngôi vua chúa,
gây cảnh thảm trong quốc chiến, nội chiến…tất cả tạo ra cái gọi là phân hóa giai
cấp.
Thời Thánh Đức triệt để xóa bỏ giai cấp, tầng lớp, trừ Ngôi Thiên Tử-Ngôi Hai
là Thiên Chủ Vua Địa cầu, để lâu dài, còn đến Tổng Thống Thánh Đức (tức
Quốc Vƣơng Thánh Đức) cũng chỉ làm cán bộ đúng 9 năm, rồi nghỉ vĩnh viễn.
Trƣớc đó chƣa từng làm cán bộ, chỉ khi thi Nhân tài mới đƣợc tuyển lên; Tổng
Thống có thể rất trẻ, ngoài hai mƣơi tuổi. Các chức vụ khác cũng thế, cho đến
cấp Đội trƣởng ở Công xã là 2 năm-không lặp lại. Nên, ai ai cũng có cơ hội làm
cán bộ một lần trong đời, không sợ bị cán bộ đì nén, không thể mua bán chức
tƣớc vì thi Nhân tài cực kỳ nghiêm túc và dùng cả thần thông để kiểm soát,
không thể gian lận đƣợc. Kẻ gian lận, sẽ bị Thiên chủ hoặc quân Thiên binh giết
chết.
Tất cả những kẻ tham quyền cố vị đều bị trừng phạt. Đặc biệt là ngƣời trƣớc làm
cán bộ không đƣợc đƣa con cháu mình vào chức vụ thay thế-có qui định trong
Luật Thiên Đạo. Nên, nạn ô dù, cục bộ bản vị, nạn con ông cháu cha, gây phân
hóa xã hội, giai cấp sẽ bị diệt trừ, mang lại hạnh phúc và công bình cho xã hội vĩ
đại nhất của Nhân loại.
*Điều 12: Công tác nhân sự Quốc vƣơng:
-Lập Quốc Vƣơng theo chỉ lệnh của Vua Cha Thƣợng đế.
-Khi Quốc Vƣơng chết, Thƣợng đế lập Quốc Vƣơng mới thông qua chọn lọc
và lệnh cho Hội đồng Thánh Đức Tối cao chọn thi Nhân tài, hoặc chọn lựa.
-Khi chƣa lập đƣợc Quốc Vƣơng mới, giao tạm quyền cho Hội đồng Tâm
Linh Tối cao, nhƣng không có ngƣời đại diện thay thế. Hội đồng Tâm Linh
Tối cao tổ chức họp bàn và chủ trì các cuộc họp trong Hội đồng Thánh Đức
Tối cao. Biểu quyết tập trung dân chủ.
Mọi kẻ lạm quyền tranh đoạt, mƣu phản luật đều bị trừng trị tội khinh Luật.
Giảng: Trong Luật Triều đình-Thiên Hội, rồi Luật Thiên Đạo cũng qui định kỹ
lƣỡng về việc tuyển chọn Quốc Vƣơng Thánh Đức. Ở đây nói thêm: Lập Quốc
Vƣơng theo lệnh của Thƣợng đế-tức là nếu muốn lập mới phải báo cáo lên Thiên
đình, nếu muốn phế truất cũng phải báo cáo Thiên đình. Khi Quốc Vƣơng chết,
Thiên đình sẽ hƣớng dẫn Thiên Hội và Giáo Hội chọn lọc Nhân tài-có thể tổ
chức thi nhân tài ở cấp Khu vực đến lƣợt lên ngôi quản trị theo thứ tự, sau đó
chọn đƣợc nhân tài rồi, sẽ báo tấu lên Thiên đình, triều đình Địa cầu.
Khi chƣa lập đƣợc Quốc Vƣơng mới, giao tạm quyền cho Hội đồng Tâm Linh
Tối cao, nhƣng không có ngƣời đại diện thay thế. Hội đồng Tâm Linh Tối cao tổ
chức họp bàn và chủ trì các cuộc họp trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao. Biểu
quyết tập trung dân chủ: Giao tạm quyền cho Hội đồng Tâm linh Tối cao-Hội
đồng này toàn là ngƣời của Hội đồng Vƣơng Mẫu của Thiên Chủ phái sang quản
245
trị, có nghĩa là các Giáo Hoàng đều là con của Thiên Chủ-thì khi Giáo Hoàng-
hay Quốc Vƣơng Thánh Đứcc chết, phải lập Quốc Vƣơng Mới-thì quyền điều
hành toàn bộ công việc Thánh Đức phải giao lại cho Hội đồng Tâm Linh Tối
cao-do triều đình Địa cầu quản lý. Nhƣ vậy còn có nghĩa, Triều đình phải quản
lý Chính phủ Thánh Đức để chờ lập Tổng thống Mới (Quốc Vƣơng Mới).
KINH TẾ-XÃ HỘI THÁNH ĐỨC
*Điều 13: Thực hiện chế độ Đại đồng kinh tế: Đồng đẳng-Đồng đều-Đồng chí-
Đồng quyền. Các dân tộc, quốc gia là anh em đoàn kết, có quyền ngang nhau
trong Hội đồng Thánh Đức Tối cao, dƣới sự lãnh đạo của Thiên Tử.
Quốc vƣơng, quốc gia có thu thuế các đối tƣợng kinh tế nào đó để nuôi quân đội
và hỗ trợ dân cƣ nghèo, nhƣng rất hạn chế; vì chỉ còn tính chất nửa nhà nƣớc,
nên hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô chỉ có tính chất định hƣớng, chứ không điều
tiết kinh tế tập trung; cơ chế tự chủ, tự trị tự cung tự cấp của các công xã, khu tự
trị đã phá bỏ hệ thống quản trị kinh tế truyền thống, làm cho hệ thống nhà nƣớc
và chính quyền gọn nhẹ, không nhiều thành phần, không còn chính phủ, mà chỉ
còn tính chất đại diện và quản lý hành chính đơn giản.
Giảng: Thực hiện chế độ Đại đồng kinh tế: Đồng đẳng-Đồng đều-Đồng chí-
Đồng quyền. Đồng đẳng-tức là bình đẳng-không có sự ép buộc quan hệ kinh tế
với nhau, mà nhƣ một thị trƣờng tự lựa chọn cái mình thích, cái mình muốn.
Không có chuyện nền kinh tế lớn đi thâu tóm và chỉ đạo nền kinh tế nhỏ, hoặc
lãnh đạo kẻ yếu kém hơn. Tính đồng đẳng còn là sự tiến hóa đồng đẳng sau này-
tức tiến hóa ngang nhau trong trình độ kinh tế, địa phƣơng giàu, sẽ giúp địa
phƣơng nghèo đói mau phát triển bằng cách chuyển giao công nghệ và máy móc
là chính để họ tự lo cho bản thân mình-đổi lấy thứ sản phẩm đơn giản hơn…cho
đến khi trình độ phát triển dần lên. Tất nhiên tiến trình này là lâu dài, chứ không
thể vài chục năm mà một nƣớc nghèo lạc hậu tiến bằng nƣớc văn minh đƣợc.
Nhƣng trong thời Thánh Đức, ngoài tiến hóa về trình độ văn minh xã hội còn là
văn minh tƣ tƣởng của tình thƣơng và lòng bác ái, nên các nƣớc hiện đại sẽ giúp
đỡ các nƣớc nghèo khổ nhanh hơn, bằng trách nhiệm của mình.
Đồng đều: Là sự bằng nhau, tiến hóa bằng nhau về lâu dài. Đồng đều còn là việc
phân chia các lợi ích quan hệ kinh tế đồng đều nhau, tức là không có chuyện đổi
chác mua bán lấy lời lãi nhƣ kiểu tƣ bản, mà quan hệ kinh tế rất sằng phẳng
nhƣng lại ngang giá trị-không lấy lãi lời-hay lợi nhuận tƣ bản.
Đồng chí: Tất cả là đồng chí-tức cùng chí hƣớng-lý tƣởng- đƣờng lối là anh em
cộng sản Thánh Đức trong nhà với nhau; thƣơng yêu, có trách nhiệm với nhau
trong đời sống toàn cầu nói chung, trong Khu tự trị nói riêng; loại bỏ tính cơ hội
246
thực dụng tham lam, ích kỷ cá nhân thu lợi lộc riêng của kiểu cách quan hệ thị
trƣờng tƣ nhân, tƣ bản.
Đồng quyền: Tất cả cùng quyền lợi nhƣ nhau; đồng thời có quyền ngang nhau,
tiếng nói của nhau đƣợc tôn trọng, không phân biệt kẻ hèn kém ngƣời giàu sang.
Trong nền chính trị Thánh Đức, trong Liên Hiệp các Quốc gia Thánh Đức (Liên
Hiệp quốc mới)-tất cả ngang quyền nhau, không có nƣớc giàu chi phối nƣớc
nghèo. Tất cả các Khu vực là ngang nhau về quyền lực. Khi có tiếng nói của một
Khu vực, thì tất cả phải lắng nghe và nghiêm túc nghiên cứu; không có chuyện
chi phối nƣớc giàu đối với nƣớc nghèo, khu đông dân giàu mạnh với nơi kém
hơn. Các dân tộc, quốc gia là anh em đoàn kết, có quyền ngang nhau trong Hội
đồng Thánh Đức Tối cao, dƣới sự lãnh đạo của Thiên Tử.
Quốc vƣơng, quốc gia có thu thuế các đối tƣợng kinh tế nào đó để nuôi quân đội
và hỗ trợ dân cƣ nghèo, nhƣng rất hạn chế: Ban đầu của sự phát triển cho đến
lúc kinh tế chƣa phát triển cao, xã hội còn cần các cơ quan hành chính sự nghiệp,
thì Quốc Vƣơng và cấp Quốc gia còn phải thu thuế để nuôi quân đội, trang trải
cho công tác hành chính và ngƣời không lao động là cán bộ các cấp-đây là
đƣơng nhiên; hỗ trợ các Khu vực nghèo đói, thiên tai…Nhƣng hạn chế-lý do: Tại
Khu Thánh Địa-tức chính phủ cũng cấp đất cho cán bộ tự chủ kinh tế tại đấy-tức
là cũng có nhà cửa ruộng vƣờn cho vợ con cán bộ tự sống-đến cấp Quốc Vƣơng
cũng có khu riêng để sống, nên không cần trả lƣơng cho ông ta…Quân đội thì có
Khu Gia binh-cũng cấp đất tự túc sản xuất; nơi nghèo thì trƣờng hợp cần thiết
mới hỗ trợ, không thể hỗ trợ liên tục, phải để họ cố gắng làm ăn. Nên, tính hạn
chế là nhƣ thế.
Vì chỉ còn tính chất nửa nhà nƣớc, nên hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô chỉ có tính
chất định hƣớng, chứ không điều tiết kinh tế tập trung; cơ chế tự chủ, tự trị tự
cung tự cấp của các công xã, khu tự trị đã phá bỏ hệ thống quản trị kinh tế
truyền thống, làm cho hệ thống nhà nƣớc và chính quyền gọn nhẹ, không nhiều
thành phần, không còn chính phủ, mà chỉ còn tính chất đại diện và quản lý hành
chính đơn giản:
Tại sao là tính chất nửa nhà nƣớc? Lý luận của C.Mác cũng bàn về tính chất nửa
nhà nƣớc hay nhà nƣớc tiêu vong khi tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản-đây là nguyên
lý hoàn toàn đúng-nhƣng đến trình độ xã hội cộng sản phát triển cao-cao hơn cấp
Chủ nghĩa xã hội. Nhƣng với Thánh Đức, thì vẫn tổ chức Cộng sản Thánh Đức
nửa nhà nƣớc ngay khi quốc gia đó còn nghèo khổ. Đây là quan điểm sáng tạo
của Luật Thánh Đức. Chúng ta cần nhớ hình thức công xã nguyên thủy cao, bắt
đầu phân chia giai cấp, thì bắt đầu hình thành nhà nƣớc. Nhƣng đến lúc đó, thì
tính tự trị của các làng bản, làng tự trị kiểu Việt Nam rất cao-cho đến thời phong
kiến, thì tính chất tự trị kiểu này tại các làng Việt Nam còn nguyên tính chất nửa
nhà nƣớc: Không phụ thuộc kinh tế xã hội bên ngoài; không phụ thuộc cơ cấu
chính quyền bên ngoài-rất hạn chế-mà có hƣơng ƣớc làng riêng. Sự phân hóa
247
giai cấp trong các làng truyền thống này rất chậm-cho đến thế kỷ 20. Trong các
phum sóc bản kiểu dân tộc thì hầu nhƣ chƣa phân hóa giai cấp mà tính tự trị rất
cao, chính trị kiểu nhà nƣớc hạn chế ở các cơ chế văn hóa này. Thời Thánh Đức-
thì chúng ta dùng hình thức kinh tế cộng sản ngay, nên tránh phân hóa giai cấp
đã đành mà khi tính tự trị nâng cao thì hình thái nhà nƣớc sẽ trở thành nửa nhà
nƣớc, hay nhà nƣớc thu nhỏ khép kín tại ngay các công xã.
Hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô chỉ có tính chất định hƣớng, chứ không điều tiết
kinh tế tập trung-Vì tính chất tự trị cao, nên nhà nƣớc cấp Khu Vực chỉ còn định
hƣớng thôi, không làm thay, không bao biện, không bao cấp nữa-không còn điều
tiết kinh tế vĩ mô bằng các ngân hàng, các nhà máy và các kế hoạch sản xuất
chung cho toàn xã hội. Khác xa chủ nghĩa tƣ bản và xã hội tƣ bản là phải điều
tiết kinh tế vĩ mô bằng giá lƣơng tiền, bằng các chính sách xã hội nhƣ cung cầu,
ngân hàng và các đòn bẩy kinh tế nhƣ lƣơng, bảo hiểm xã hội, trái phiếu, lãi
suất…nhằm cân bằng hay chỉnh đốn cung cầu của nền kinh tế. Vì không còn
kinh tế thị trƣờng kiểu nhà nƣớc và cũng không còn kinh tế tƣ bản nhà nƣớc hay
là kinh tế của Nhà nƣớc Thánh Đức cũng đã hạn chế quản lý tập trung các nguồn
lực, nên tính chất chỉ huy của nền kinh tế đã thay đổi, chuyển sang chế độ tự trị
tự quản, tự trang trải và tự động chuyển dịch các nguồn lợi ích theo chế độ tự do
trao đổi mậu dịch giữa các địa phƣơng và các công xã theo tính chất tập thể chứ
không phải là tính chất tƣ nhân.
* Điều 14 : Sở hữu toàn dân, thực hiện chế độ Cộng sản.
Tất cả tài sản, đất đai thuộc khái niệm Tƣ liệu sản xuất trên trái đất của Vƣơng
quốc là sở hữu toàn dân, của nhân dân; giao cho Quốc Vƣơng quản lý, đại diện
cao nhất cho quyền lợi của nhân dân; Quốc Vƣơng không có quyền ban tặng,
cho biếu hay sở hữu đất đai tài sản của nhân dân; Quốc Vƣơng không phải nhƣ
vua phong kiến xƣa kia. Mọi quyết định phải tuân theo luật pháp, có văn bản
quyết định. Nhà Vua giao đất đai, tài sản cho các Quốc Trƣởng, cá nhân quản lý
theo pháp luật và có thể thu lại theo pháp luật. Điều này tránh tình trạng tranh lợi
danh, thâu tóm tài vật của vua quan, vì lợi ích ích kỷ bản thân, mà quên đi lợi ích
chân chính lâu dài của nhân dân.
Để Thánh Đức tồn tại muôn năm, thì điều luật này phải đƣợc thực thi tuyệt đối.
Giảng: Điều này khá rõ rồi. Chế độ này không phải là chế độ phong kiến kiểu
vua quan ngày xƣa, muốn cho là cho, muốn cắt là cắt, mà chúng ta kết hợp cả hai
kiểu dân chủ hiện nay là quân chủ ngày xƣa. Vua giữ quyền lập pháp, Hội đồng
Thánh Đức Tối cao giữ quyền hành pháp. Ngoài ra, triều đình thật sự tại trái đất
là của Vua Địa cầu và Thiên Hội. Nên, Quốc Vƣơng không có quyền ban tặng,
cho biếu hay sở hữu đất đai tài sản của nhân dân; Quốc Vƣơng không phải nhƣ
vua phong kiến xƣa kia .
248
Vua Địa cầu-hay là Quốc Vƣơng Tối cao quản trị MẬT TRỊ đối với trái đất và
có toàn quyền quyết định mọi việc đối với toàn cõi trái đất, theo ý định riêng của
mình-tuân theo luật Thiên Đình.
Chế độ Cộng sản đối với loài ngƣời là một hình thức tuyệt đối chấp hành ý chỉ
của Thƣợng đế Tối cao. Chế độ này trong tƣơng lai phải xây dựng bằng đƣợc, tất
cả các thế lực chống lại quyết định này.
Đất đai, tài sản toàn mặt đất-tài nguyên khoáng sản, biển, nƣớc biển…tất cả là
của Nhà nƣớc Thánh Đức, giao cho Quốc vƣơng Thánh Đức quản lý; sau đó
phân chia theo đúng 18 Khu vực Thánh Đức đã qui định-lâu dài, hàng trăm vạn
năm không thay đổi. Các Khu Vực lại phân đất thành các Đại Quốc Gia và các
Khu Tự trị rồi đến cấp công xã. Việc phân hợp các Khu Tự trị cho đến cấp Công
xã là cho phép thay đổi; còn từ cấp Đại Quốc gia đến cấp Khu Vực là cấm thay
đổi-vì đây là luật Thiên đình đã cắt đất phân chia giới tuyến năng lƣợng, ổn định
cơ cấu năng lƣợng. Nếu tan rồi sẽ bắt hợp; kẻ làm tan rã phân hóa các Khu Vực
Thánh Đức này sẽ bị trừng trị khủng khiếp. Quốc gia tấn công tiêu diệt lẫn nhau
tranh dành ngôi đất của nhau, kẻ phi nghĩa sẽ bị tiêu diệt cả nƣớc.
Kiên quyết loại bỏ chế độ phong kiến trên bình diện xã hội loài ngƣời, để đơn
giản là làm cho nền văn minh này bình đẳng, con ngƣời bình đẳng và nhân ái,
hạnh phúc, không còn tranh đấu, tranh dành, vì các lợi ích ích kỷ của cá nhân,
loại bỏ chủ nghĩa cá nhân và các hình thức tƣ hữu bẩn thỉu.
*Điều 15: Cấm mua bán, đổi chác đất đai. Có thể cho mƣợn, nhờ trông coi,
mƣợn ngƣời coi giữ trồng cấy, nhƣợng quyền sử dụng đất đai đó không quá 9
năm. Khi cần thay đổi ngƣời coi quản, thì phải báo cáo lên cấp Khu Tự trị trở
lên. Nhà nƣớc giao đất đai, tài sản tƣ liệu sản xuất cho nhân dân các công xã tự
trị, nhân dân đƣợc phân đất đai, tƣ liệu sản xuất, phải bảo vệ, giữ gìn đất đai đó
trong 9 năm; sau 9 năm, lại làm khế ƣớc giao đất, tƣ liệu lao động tiếp, hoặc nhà
nƣớc thu lại. Công xã phải bảo đảm quyền có nơi ở và định cƣ lâu dài cho công
dân, có nghĩa, nơi công dân ở phải đƣợc kế ƣớc giao đất đai đó lâu dài cho đến
khi công dân đó từ trần-Trừ trƣờng hợp thay đổi nơi ở do nhiệm vụ, công việc.
Để tránh tình trạng chạy chọt chọn lựa nơi tốt, nơi xấu, thì khi giao đất tập thể,
hoặc các tƣ liệu sản xuất khác, có thể sử dụng phƣơng pháp bốc thăm để phân
chia. Kẻ nào lợi dụng điều này, gây khó khăn, nhũng nhiễu nhân dân, thì bị xử lý
theo pháp luật.
Giảng:
Cấm mua bán, đổi chác đất đai. Có thể cho mƣợn, nhờ trông coi, mƣợn ngƣời
coi giữ trồng cấy, nhƣợng quyền sử dụng đất đai đó không quá 9 năm. Khi cần
thay đổi ngƣời coi quản, thì phải báo cáo lên cấp Khu Tự trị trở lên.
Vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nƣớc Thánh Đức Toàn cầu nói
chung và Công xã nói riêng quản lý. Đã là tài sản công, rồi giao tạm cho cá nhân
249
hộ khẩu quản lý-nên không có quyền đổi chác, mua bán. Đất đai không có thị
trƣờng, đồng thời xã hội cũng không còn thị trƣờng hàng hóa, nhân lực kiểu tƣ
bản, hay phong kiến.
Có thể cho mƣợn, nhờ trông coi; hoặc chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất đó-có
khế ƣớc văn bản rõ ràng-cho chuyển nhƣợng vì có thể không có nhu cầu sử dụng
khi công xã cấp cho-hoặc muốn hợp tác sản xuất…thì cho chuyển nhƣợng-
nhƣng không quá 9 năm. Đối với ngƣời không còn khả năng lao động, yếu sức
khỏe, lƣời nhác không muốn lao động…hoặc đã chết, thì công xã kiên quyết thu
lại, không có chuyện chuyển sang cho con cháu, khi con cháu đã có đất riêng.
Đồng thời cấm tuyệt đối chuyển đổi diện tích, tính chất sử dụng-ví dụ lấy đất sản
xuất để làm nhà cửa hoặc chuyển đổi đồng ruộng thành ao nuôi cá-khi chƣa đƣợc
phép.
Công xã, Khu Tự trị phải qui hoạch lâu dài quỹ đất sản xuất, quỹ đất cho dân ở,
quỹ đất các cơ quan hành chính, các xí nghiệp, nhà máy trong đó; nghiên cứu và
qui hoạch lâu dài, chiến lƣợc đến hàng ngàn năm.
Nhà nƣớc giao đất đai, tài sản tƣ liệu sản xuất cho nhân dân các công xã tự trị,
nhân dân đƣợc phân đất đai, tƣ liệu sản xuất, phải bảo vệ, giữ gìn đất đai đó
trong 9 năm; sau 9 năm, lại làm khế ước giao đất, tƣ liệu lao động tiếp, hoặc
nhà nƣớc thu lại: Có nghĩa giao tài sản công cho Hộ gia đình hoặc Nhóm gia
đình, nhƣng nếu nhƣ tƣ liệu lao động sau 9 năm cũ, nếu có điều kiện thay thế, thì
nên bỏ cũ đi hay hơn. Các tƣ liệu sản xuất và tài sản lớn nhƣ công xƣởng, nhà
máy, xí nghiệp…thì có cơ chế quản lý chung, không thể giao cho Nhóm gia đình
đƣợc. Còn đất đai, sau 9 năm thì cân đối lại, chỉnh đốn lại nhân khẩu và phân
chia lại, nếu dôi dƣ nhiều thì chia nhiều lên cho hộ gia đình, nếu nhân khẩu tăng
lên, thì tất nhiên quỹ đất phải chia nhỏ ra để cân bằng cho các nhân khẩu. Nếu
nhân số tăng quá qui định 5000 ngƣời/ 1 công xã chẳng hạn, thì phải lập công xã
mới. Nếu chật chội quá, cƣ dân sinh trƣởng nhiều, không gian chật hẹp, thì phải
di dân đến vùng khác thƣa thớt để khai phá, cấm dồn dân đông lên chật hẹp khó
khăn cho môi trƣờng và phát triển lành mạnh. Trong thành phố, thì theo dự kiến,
vẫn có đất trồng cấy cho dân thành phố, nếu có đất tại gia đình càng tốt, để bảo
đảm tính tự chủ hoàn toàn về lƣơng thực thực phẩm. Thời Thánh Đức là thời
kinh tế chủ động, khá khép kín, nên giao thƣơng đi lại ít, không có chuyện chạy
chọt hàng hóa bán buôn nhiều, nên dân thành phố cũng phải tự túc lƣơng thực;
đồng thời nền kinh tế trải đều ở tất cả các địa phƣơng về công nghệ và về nhân
lực, về trình độ phát triển, nên dân miền quê cũng có đủ sản phẩm của mình mà
không cần lên thành phố để trao đổi, nên dòng nhân lực không chảy về thành
phố, thành phố không đông đúc phức tạp có dân ngoại tỉnh lên, hoặc không còn
thị trƣờng nhân lực lao động. Đƣờng phố sẽ im ắng thanh tịnh, không láo nháo,
không có các dòng xe cộ phức tạp; ngoài ra, thành phố phải qui hoạch khu công
nghiệp, khu sản xuất, khu đào tạo…ra ngoài rìa thành phố, để trong nội thành rất
250
yên tĩnh; sau giờ đi làm về, thành phố dân chúng rất thanh bình, tĩnh ổn, không
còn cảnh láo nháo mua bán, chạy chọt, xe cộ tràn đầy đƣờng. Đặc biệt, hạch toán
dân thành phố không đƣợc đông quá 3 triệu ngƣời chẳng hạn, nếu lớn hơn sẽ di
dân đến thành phố mới. Nhƣng chúng tôi yêu cầu không mở rộng nhiều thành
phố mà nên nông thôn hóa thành phố để mở mang không gian sống hợp tự nhiên.
Các công xã thực ra là một khu dân cƣ khá tập trung và trung tâm đã là một
thành phố hay đo thị loại nhỏ, các khu dân cƣ quây xung quanh, yên tĩnh, thanh
sạch, đầy bóng cây và đồng ruộng phì nhiêu, đất đai màu mỡ, các đƣờng ra
ruộng đều đổ gạch hay bê tông; các con sông thì lát đá, xây các công viên, khu
nghỉ ngơi bên cạnh các con sông. Nên đi bằng xe điện, hay xe chạy bằng năng
lƣợng nƣớc ( oxy-hiđrô), năng lƣợng chủ yếu dùng điện mặt trời và nƣớc biển
dùng để đốt cháy-thay nhiên liệu xăng dầu.
* Điều 16: Loại trừ tận gốc tiền trao đổi. Sử dụng giấy Chứng công là công một
ngày lao động= 1 ngày ăn, có giá trị chỉ trong phạm vi công xã, để tránh tình
trạng di dân đến những nơi có văn minh cao hơn. Giấy chứng công dùng để lấy
tài sản, vật dụng, ghi rõ yêu cầu giá trị, thời hạn sử dụng. Giai đoạn đầu, có thể
dùng tạm đồng tiền chung, sau này lâu dài thì loại bỏ tiền.
Trƣờng hợp đặc biệt, khi đi công tác và di chuyển ra ngoài công xã, dân đƣợc
Hội đồng công xã viết Giấy Thực chứng-để nhận vật phẩm của các nơi khác, đó
là giấy ghi nợ, sau công xã phải trả vật phẩm, hoặc trao đổi cho nơi đó. Giấy
Thực chứng chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định-theo địa chỉ nhất định.
Giấy chứng công có thể cho, tặng cho ngƣời cùng công xã, nhƣng cấm dùng mua
bán hàng hóa cá nhân ngoài các trung tâm phân phối của công xã.
Ngƣời đƣợc công xã nuôi, miễn lao động, thì dùng Giấy Miễn chứng-có giá trị
nhƣ giấy chứng công.
Giảng: Loại trừ tận gốc tiền trao đổi: Chúng ta biết tiền là vật trung gian và có
giá trị bằng sức lao động tƣơng ứng do xã hội đó qui định. Tiền là vật trung gian
để trao đổi hàng hóa trong thời mà kinh tế phát triển, thông thƣơng, nhân dân có
nhu cầu trao đổi hàng hóa trên cơ sở đã hình thành thị trƣờng hàng hóa. Thời
phong kiến, thời tƣ bản đến nay. Thời XHCN cũng dùng tiền-sau này thời
XHCN kiểu thị trƣờng càng dùng tiền nhiều.
Về mặt thực dụng mà nói thì dùng tiền rất tiện lợi, tiện trao đổi, muốn gì thì mua
lấy, con ngƣời khá tự do…Chủ nghĩa Tƣ bản và xã hội tƣ bản đề cao tự do cá
nhân, coi đƣợc ăn uống, đi lại thỏa mái, tự do cạnh tranh, trao đổi….là tiêu chí
của hạnh phúc. Nhƣng kinh nghiệm trên các cõi cao-các sao cao cấp đã xây đại
đồng cộng sản hàng tỷ năm nay rồi cho thấy, xã hội thị trƣờng chỉ làm tăng lòng
tham của con ngƣời và tạo ra bất công, bất bình đẳng trong xã hội mà thôi. Về
bản chất, thì xã hội tƣ bản không bao giờ giải quyết đƣợc mâu thuẫn xã hội, giữa
251
giàu và nghèo, giữa ngƣời bị trị và kẻ có tiền luôn thống trị xã hội; ngoài ra bất
công ghê gớm, chƣa kể chủ nghĩa tƣ bản là con đẻ của lòng tham và tội ác, cùng
các trò đời gian ác, đốn mạt nhất trong tiến hóa xã hội loài ngƣời. Nó làm thui
chột giá trị cao quý của con ngƣời, mặc dù về lý thuyết, kẻ ít học và ham hƣởng
thụ thƣờng thấy xã hội đó rất tự do sung sƣớng-nhƣng hƣởng thụ không dành
cho ngƣời nghèo. Ngoài ra tất cả những kẻ giàu sang đều cật lực tính toán, đấu
đá, và về mặt bản tính con ngƣời thì đồng tiền làm lạnh lùng tình cảm, đồng tiền
chi phối quan hệ làm sòng phẳng, không cần biết thân sơ, miễn là bán có lãi…
Loại trừ tận gốc tiền trao đổi là không chấp nhận cơ chế trao đổi hàng hóa bằng
tiền tệ và loại trừ nghiêm túc nền kinh tế thị trƣờng tự do. Ngay cả với cá nhân
đơn giản với cá nhân.
Sử dụng giấy Chứng công là công một ngày lao động=1 ngày ăn, có giá trị chỉ
trong phạm vi công xã: Tại sao lại chỉ sử dụng trong một ngày ăn/ 1 công lao
động. Có nghĩa: 1 là: Không để anh thừa sản phẩm, không có chuyện tích lũy để
sinh hơn thua và phát sinh giàu nghèo. Nếu anh ngày hôm nay ăn không hết thì
ngày mai, có thể cho đi giấy chứng công mới. 2 là: Giấy chứng công thay tiền,
chỉ đến lĩnh thực phẩm tại Trung tâm phân phối. Có vẻ bất lợi là: Nếu anh không
có nhu cầu ăn nhiều, thì anh không lao động nhiều? Tất nhiên, nếu anh ăn ít, thì
anh cứ nghỉ ngơi. Nhƣng vào guồng máy lao động thì sao? Công xã hay Nhóm
Gia đình-Hợp tác xã phân công ngƣời ăn ít vào việc đơn giản, ít công. Ngày nào
cũng phải đến trung tâm phân phối? Chƣa hẳn: Nếu trình độ cao, sẽ có nhân viên
và xe cộ đƣa phát nhu yếu phẩm đến tận hộ gia đình. Ai cũng giống ai về phân
phát nhu yếu phẩm? Không hẳn, nếu bạn cần thứ gì trong ngày, thì bạn nhặt lấy.
Không đủ số lƣợng? Phải cân đối khi phân phát. Đến trình độ văn minh cao-thì
NGƢỜI HIỀN NHƢ THẦN TIÊN, CỦA CẢI NHIỀU NHƢ KHÔNG KHÍ-
LÀM THEO LAO ĐỘNG-HƢỞNG THEO NHU CẦU. Đó là cái đích của xã
hội đại đồng Thánh Đức. Giấy chứng công dùng để lấy tài sản, vật dụng, ghi rõ
yêu cầu giá trị, thời hạn sử dụng.
Ngƣời giàu thời tƣ bản có vẻ khó chịu về cách phân phối này. Vì họ có tiền và
tiêu xài xả láng. Thế họ có nghĩ là trên thế giới hơn 7 tỷ ngƣời ai đƣợc hoặc
ngang nhƣ họ? Trên thế giới, tính đến năm 2015 có đến hơn 3 tỷ 2 ngƣời dƣới
mức nghèo khổ; gần 4 tỷ 8 ngƣời nghèo khổ; trẻ em chết hàng ngày vì đói, rét là
300,000; ngƣời nghèo chết vì thiếu thuốc và chăm sóc y tế tối thiểu là 22, 000
ngƣời. Cả thế giới chỉ có 2,3 tỷ ngƣời đƣợc ăn thịt và gọi là có chất đạm thƣờng
xuyên, còn lại là đạm bạc. Số ngƣời giàu trên toàn thế giới cấp tỷ phú đô la là
250.000 ngƣời chiếm 84% tổng thu nhập của thế giới. ( Số liệu tổng kết của Chƣ
Thiên)
Bất công không? Thƣợng đế và các thánh có đau khổ vì con mình không? Thế
chế độ kinh tế và chính nào sẽ cứu thế giới??
252
Giai đoạn đầu, có thể dùng tạm đồng tiền chung, sau này lâu dài thì loại bỏ tiền:
Đây là quá trình quá độ tránh đổ vỡ hoặc rối loạn nền kinh tế, khi mà trình độ tổ
chức xã hội và tổ chức kinh tế chƣa ổn định-chứ không phải là chƣa cao, vì trình
độ sản xuất thấp lại càng cần không tiền tệ, để nhanh san bằng các mâu thuẫn
của kinh tế thị trƣờng. Nếu trình độ sản xuất thấp, có nghĩa là công nghệ và
nguyên liệu, sản phẩm yếu kém thiếu…Nếu duy trì phiếu công làm việc theo
kiểu Hợp tác xã mà tập trung nhân lực, có vẻ làm cho nền kinh tế khô cứng
không chuyển biến nhanh. Thời kinh tế bao cấp ở Việt Nam, Trung Quốc…đã
xảy ra tình trạng kinh tế xuống cấp khi đi nhanh chuyển vào cơ chế thành lập
HTX bậc cao. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam…đều có kinh tế kế hoạch và bao
cấp thời kỳ này, tức là lên kế hoạch sản xuất bao nhiêu tấn gạo, đƣờng, sữa,
trứng, gang thép, xà phòng…Nhà nƣớc thống nhất quản lý toàn diện và hầu nhƣ
cấm chợ thị trƣờng tự do, kể cả giết mổ gia súc gia cầm cũng phải bán cho hợp
tác xã…
Để tránh điều này, thì chúng ta cần khác họ, đó là bằng các biện pháp nhƣ sau: 1
là: Biến cả công xã thành một nhà máy, hay công ty tập thể-hay các HTX tập thể
cùng ăn cùng hƣởng. Cả công xã sẽ năng động trong mối quan hệ trao đổi hàng
hóa với đối tác. Nhà nƣớc hầu nhƣ không thu thuế nơi nghèo. 2 là: tổ chức các tổ
đội nhỏ kinh tế riêng-Nhóm Gia đình. Trƣớc kia thì cũng có Nhóm hay Tổ đổi
công, nhƣng Nhóm gia đình lao động riêng-rất riêng-tự do hoàn toàn thì chƣa có.
Nhóm này sẽ tự túc riêng-bằng cách Khoán đến Nhóm Gia đình là chủ yếu,
Nhóm chia cho hộ gia đình. Thứ 3-Cho phép tạm thời dùng tiền để trao đổi với
nhau, giữa các Hộ gia đình hoặc với một Khu Tự trị, có chế độ tiền tệ riêng,
không trao đổi ngoài Khu Tự trị. Giống nhƣ một loại ngân phiếu riêng-để tránh
hình thành thị trƣờng tự do cấp xã hội.
Giai đoạn này ứng với trình độ kiểu cách kinh tế phong kiến với chợ làng, tiểu tƣ
sản. Nhƣng chúng ta ghi nhớ bí quyết: Do khoán sản phẩm ở trình độ phân công
tƣ liệu sản xuất đến cấp hộ, thì tài sản vẫn thuộc về nhà nƣớc cộng sản; ngoài ra,
nhóm gia đình sẽ cản trở để không hình thành kinh tế tƣ nhân tƣ bản. Không cho
hình thành kinh tế tiểu chủ, chỉ cho hình thành kinh tế HTX (tập thể), Nhóm lợi
ích (tập thể nhỏ).
Giai đoạn này là giai đoạn thấp của ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC. Chúng ta cũng
cần nhớ, nhân dân đƣợc bình đẳng trong chia đất đai, các tƣ liệu, vật phẩm…nên
tình trạng bất bình đẳng và nghèo đói sẽ dần nhanh hết; tất nhiên là cái nghèo
của thời tƣ bản với họ thì cả đời, có khi cả đời con cháu, nhƣng sang chế độ này,
họ có thể vất vả vài năm mà thôi.
Điểm yếu nhất của thời kinh tế bao cấp kiểu XHCN xƣa kia, đó là tƣ duy bao
cấp-mà đánh mất nhân tố tự giác và tự chủ các đơn vị cấp thấp nhất và công xã
hay xí nghiệp, nông trang tập thể kiểu Nga. Cơ chế cấp phát, xin cho, và cơ cấu
kinh tế không nhiều thành phần sản xuất mà chỉ có vài kiểu cách làm ăn giống
253
nhau, na ná nhƣ nhau; đến cái nhà tập thể cũng giống nhau, sản phẩm giống
nhau, kém đổi mới cải tiến mẫu mã…Đó là do tính khô cứng không năng động
của hệ thống kinh tế.
Ta nói đơn giản: Nếu có địa phƣơng chuyên sản xuất đƣợc một loại bánh ngon,
mà nơi khác không sản xuất đƣợc, thì theo kinh tế thị trƣờng sẽ chảy về nơi có
nhu cầu và trao đổi giá trị bằng tiền. Nếu thời Thánh Đức, chuyển giao công
nghệ, với mẫu mã mới mà chất lƣợng nhƣ cũ thì sao? Rất tốt. Tuy nhiên không
phải lúc nào cũng sản xuất đƣợc, thì nên có hình thức trao đổi sản vật.
Nếu sản xuất thừa thì sao? Nếu nhƣ các hộ sản xuất tự do trong gia đình có gà
lợn nhiều chẳng hạn, thì có thể giết mổ tự do ăn trong nội bộ không cấm, trong
Nhóm gia đình mình. Về may mặc, các nhu yếu đơn giản khác: Công xã tự lo,
nếu sản xuất đƣợc vải vóc có tính riêng biệt-nhƣ đồng bào dân tộc thì không có
chuyện mua bán đổi chác quần áo. Nếu là ngƣời thƣờng, thì may mặc theo nhu
cầu riêng, một là trao đổi vải vóc và có các trung tâm may đo của Nhóm mình
hoặc trong công xã có một số trung tâm làm công-chuyên may đo nhƣ quân đội.
Hai là gia đình tự may đo theo tiêu chuẩn riêng.
Nếu trong thời quá độ chuyển sang Cộng sản hoàn toàn, còn duy trì tiền trao đổi
trong phạm vi hẹp cấp Khu tự trị, thì nên có các hình thức tín dụng Nhân dân để
trao đổi và lƣu trữ tiền, quảng giao công việc luân chuyển tài chính trong dân
chúng; Nhà nƣớc cũng nên hạn chế ngân hàng và ít dùng ngân hàng vào công
việc cân đối kinh tế tiền tệ, mà nên để đồng tiền chuyển dịch nhiều trong các
hình thức nhƣ Tín dụng Nhân dân.
Hàng hóa nói chung do Khu tự trị sản xuất ra, trao đổi với nhau, rồi các Khu vực
Thế giới trao đổi với nhau, tự do trao đổi -THÔNG THƢƠNG THÁNH ĐỨC
(khái niệm trao đổi tự do thời Thánh Đức) nên sự đa dạng trong hàng hóa và đời
sống là phong phú, không kém gì thời kinh tế thị trƣờng kiểu tƣ bản mà đảm bảo
an ninh kinh tế cao-vì không có lãi suất, không có khủng hoảng thừa-đổ đi,
khủng hoảng thiếu phải phá sản kinh tế. Chúng ta cũng không lạ gì chu kỳ của
nền kinh tế tƣ bản. Chủ yếu kinh tế tƣ bản phụ thuộc nhu cầu CUNG, chứ không
phải là CẦU. Bản chất của cung là lao động và nguyên liệu, máy móc công nghệ.
Khi đủ 3 yếu tố này, thì cần CẦU. Nhƣng đôi khi nguồn nguyên liệu khan hiếm,
thay đổi, nhân lực thay đổi, sẽ làm kinh tế tƣ bản giảm sút. Thậm chí CẦU vẫn
tăng cao. Khi CẦU tăng cao hoặc chƣa đƣợc kích hoạt bằng chiến lƣợc quảng
cáo hoặc kích thích tiêu dùng, bằng các đòn bẩy kinh tế vĩ mô…nếu nhƣ nguồn
nguyên liệu, nhân công, máy móc công nghệ tốt, thì thị trƣờng thuận lợi tiêu
dùng cao, doanh nghiệp sẽ phát triển. Nhƣng nếu CẦU giảm sút ( do dân chúng
không có tiền; hoặc do nhu cầu đã quá độ, hoặc thị trƣờng có nhiều mặt hàng
cùng loại…), lập tức giá cả sẽ dừng lại hoặc giảm giá, doanh nghiệp phải điều
chỉnh; nếu tiếp tục CẦU giảm sút, đến mức thấp nhất-doanh nghiệp sẽ phá sản,
còn nói chung cho kinh tế tƣ bản là vào chế độ khủng hoảng thừa-kinh tế tƣ bản
254
khủng hoảng thừa-và truyền thống là họ đốt, đổ lƣơng thực…xuống biển, trong
khi dân chúng chết đói. Điểm yếu của kinh tế tƣ bản và kinh tế nói chung vẫn là
sản lƣợng gốc-nguyên thủy. Sản lƣợng gốc-nguyên thủy của nền kinh tế nói
chung chính là sức sản xuất ra các sản lƣợng gốc-tức là do nhân dân lao động
làm ra các nguyên liệu và sản phẩm đơn giản-ví dụ: Rau, thịt, lƣơng thực gốc
chƣa chế biến, cao su mủ, khai thác quặng, vải vóc, da nguyên liệu, tôm cá
tƣơi…Nó quyết định sức sống đơn giản của nhân dân. Các công ty nắm nền kinh
tế tri thức và công nghệ, khi trí tuệ và khoa học đã biến thành lực lƣợng sản xuất
trực tiếp-nên, các nhà tƣ bản có lãi rất cao sau khi chế biến các sản phẩm, cao
hơn công lao động và thu nhập của nông dân công nhân đơn giản nhiều lần. Dân
chúng lao động thì nghèo, doanh nhân thì giàu lên nhanh chóng và đặc biệt là
làm cho mâu thuẫn giai cấp và phân hóa giàu nghèo không bao giờ san bằng
đƣợc và càng ngày càng ngăn cách xa hơn. Thực ra anh tƣ bản là thông minh
hơn và cơ hội hơn mà thôi. Còn về cách làm ra hạt lúa hàng 3 tháng trời, thì
doanh nhân doanh nghiệp không cần biết vất vả nhƣ thế nào, có khi họ còn dìm
giá nông dân.
Vào thời kinh tế Đại Đồng, nông dân sẽ trực tiếp sản xuất nguyên liệu thô và
công xã có các nhà máy xí nghiệp để làm ra các sản phẩm cao cấp hơn. Tính
chuyên môn hóa và dây chuyền cao sẽ xóa nhòa ranh giới giai cấp công-nông và
các giai cấp khác nói chung. Trong gia đình, có ngƣời đƣợc giao việc trồng cấy,
có ngƣời làm ở xí nghiệp công xã…Nguồn nguyên liệu chính sản xuất đƣợc bao
nhiều dùng bấy nhiêu, không phụ thuộc xã hội; nên cũng không có ai cạnh tranh
hoặc phải phá giá…để khủng hoảng hay không khủng hoảng, phá sản công xã.
Sản lƣợng cao, dân dùng cao, sản lƣợng thấp dân dùng ít đi. Ở đây, tính tự chủ
cao đã đành, mà còn loại bỏ hầu nhƣ tất cả sự cạnh tranh thị trƣờng, sự phải đấu
tranh lẫn nhau để tồn tại nhƣ kiểu doanh nghiệp, làm rúng động hoặc biến đổi xã
hội cũng nhƣ thị trƣờng thông qua sự lũng đoạn kinh tế của các tài phiệt tƣ bản,
ngân hàng. Mà dân chúng cực kỳ tự do trong sự hoạch định các phƣơng pháp và
các chƣơng trình kinh tế cho riêng gia đình, Nhóm gia đình hay công xã của
mình. Tất nhiên, loại bỏ tận gốc phân hóa giàu nghèo-xóa bỏ triệt để giai cấp.
Chúng ta cũng cần nhớ là chúng ta khác xa kiểu kinh tế bao cấp và cứng nhắc
thiếu sức sống nhƣ các thời bao cấp ở Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc.
Vì các công xã tự chủ cao và thực hiện chiến lƣợc chính của kinh tế Thánh Đức
là THÔNG THƢƠNG THÁNH ĐỨC. Thì sức sống của toàn bộ nền kinh tế thế
giới nói chung và các công xã nói riêng rất uyển chuyển mềm mại và có sức
sống bền bỉ hơn rất nhiều lần kinh tế Tƣ bản Chủ nghĩa. Vô số các HỘI CHỢ
THÔNG THƢƠNG THÁNH ĐỨC cấp Toàn thế giới, cấp Khu Vực…đến các
cấp công xã với nhau…trong hàng quý, tháng…sẽ trực tiếp ký kết trao đổi hàng
hóa, hoặc có các CHƢƠNG TRÌNH LIÊN KẾT ĐỐI TÁC KINH TẾ LÂU DÀI
với nhau…Tất cả duy nhất của bản chất nền kinh tế Thánh Đức là chuyển hẳn
255
TƢ NHÂN TƢ BẢN THÀNH HỢP TÁC LIÊN ĐỚI LIÊN THÔNG CỘNG
SẢN. Từ tính đại diện và quyền lợi cá nhân tƣ bản sang đại diện và thực hiện
quyền lợi của TẬP THỂ-để mang đủ quyền và lợi ích cho số đông, thay vì làm
giàu riêng cho nhóm lợi ích tƣ sản
*Điều 17: Các công xã tổ chức các trung tâm phân phối vật chất; đối với lƣơng
thực, thực phẩm, ghi rõ lƣợng calo. Ai phí phạm gây thừa thãi đổ vứt tài sản
lƣơng thực, thực phẩm, phải chịu phê bình, nhắc nhở.
Vật dụng trong gia đình đủ dùng, không dùng thừa thãi lãng phí.
Giảng: Các công xã tổ chức các trung tâm phân phối vật chất: Phải tổ chức
nhiều trung tâm, vì có nhiều loại vật phẩm: Ví dụ gạo thóc lúa-lƣơng thực; thực
phẩm; nhu yếu phẩm; quần áo dày dép; các loại thực phẩm chín, đóng gói; rồi
mặt hàng thiết bị, máy móc, năng lƣợng…
.
Đối với lƣơng thực, thực phẩm, ghi rõ lƣợng calo: Vì đối tƣợng sử dụng năng
lƣợng khác nhau, dùng calo khác nhau. Đồng thời qui định sức lao động bình
quân hƣởng bao nhiêu calo là đủ, thì đóng gói sản phẩm đu lƣợng đó, sẽ dễ sử
dụng hơn. Khá lắm một lao động một bữa ăn 4 bát cơm, 1 lạng thịt chẳng hạn,
thì qui định lƣợng calo đó.
*Điều 18: Mọi ngƣời phải tự chăm sóc và tổ chức ăn ở gia đình. Cấm tổ chức
kiểu trại. Trong các Hội lễ, có thể tổ chức những nơi ăn tập thể, ăn công cộng tự
chọn, tùy từng nhu cầu của dân cƣ và văn hóa ẩm thực địa phƣơng mà tổ chức
cho phù hợp, phục vụ các nhu cầu ẩm thực của nhân dân.
( Điều này chỉ có thể thực hiện ở nơi có văn hóa cao và tổ chức xã hội cao, phải
lấy mục tiêu phục vụ cộng đồng, đem lại hạnh phúc cho nhân dân làm yêu cầu
chính-mọi ngƣời cùng làm-cùng hƣởng, cùng an vui hạnh phúc-không nhƣ xã
hội trƣớc, kẻ thì thừa ăn, thừa thãi, còn có kẻ lại đói rách, thiếu thốn, khát thèm
đủ thứ, đau khổ vì đói rách; chúng ta phải xóa bỏ bất công-đau khổ cho chúng
sinh; là nhiệm vụ quan trọng của mọi thời đại trong Thánh Đức).
Giảng: Điều này tránh tình trạng tổ chức xã hội cộng sản trại lính hay biến
công xã thành một xí nghiệp khô cứng. Tất cả đời sống thật bình thƣờng trong
gia đình; ngƣời làm hành chính có thể về nhà ăn cơm bình thƣờng. Nhân đây lại
nói lại sự ngu xuẩn của Pon-pot và lũ thầy Tàu dốt nát xây dựng cộng sản kiểu
trại lính; họ đơn giản khi nghĩ xóa bỏ giai cấp bằng cách xóa bỏ công nhân hay
các nhà máy xí nghiệp, dồn vào sống tập thể và thực hành nghĩa vụ tập thể ngay.
Chúng ta cần nhớ là nhân dân vào làm ăn tập thể để phục vụ cá nhân đời sống
chính đáng riêng tƣ của mình, và xóa nhòa ranh giới giai cấp không phải là xóa
256
bỏ tất cả nhà máy, hay bắt làm một việc chung, mà xóa giai cấp-phải bắt đầu
bằng xóa mối quan hệ của phân công lực lƣợng sản xuất-tức là đƣa các nhân tố
dị biệt của quan hệ phân phối lực lƣợng sản xuất-trong đó có tƣ liệu máy móc và
chất xám tri thức vào hội nhập hòa đồng trong quan hệ sản xuất tập thể và phân
công lao động tập thể có tính dây chuyền và chuyên môn hóa cao ngay trong
lòng công xã với dân chúng là nông dân-hay nói cách khác, là đƣa nhà máy, xí
nghiệp vào trong lòng công xã, mà ngƣời nông dân có thể biến thành công nhân
ngay tại công xã mình. Ví dụ thế này: Tuần đầu nông dân thu hái nông sản-đến
tuần thứ hai họ đƣa nông sản vào xí nghiệp chế biến và trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm cao hơn…hoặc phân công lao động khác nhau ngay trong một gia đình
bình thƣờng.
Ngoài ra, công xã bãi bỏ chế độ lƣơng, nhà nƣớc bỏ lƣơng, sẽ không phân tầng
các Nhóm lợi ích xã hội khác nhau, sẽ không thể phân hóa giai cấp đƣợc.
Một nhân tố tốt của nền kinh tế Thánh Đức là KHOÁN SẢN PHẨM ĐẾN HỘ
NHÓM GIA ĐÌNH. Nên khoán đến Nhóm gia đình thôi. Vì Nhóm sẽ liên kết với
nhau-không nên khoán hộ hay cá nhân, dễ phát sinh giàu nghèo, hơn thua hay
trao đổi cá nhân tăng lên sẽ hình thành thị trƣờng trao đổi ngầm, dần dần hình
thành trao đổi thị trƣờng, sẽ phá vỡ nguyên lý cộng sản.
Thứ nữa là cần hiểu sâu hơn khái niệm cộng sản: Cộng sản suy cho cùng là
chung lợi ích (nghĩa rộng), chứ không phải là chung tƣ liệu sản xuất (nghĩa hẹp).
Chung tƣ liệu sản xuất nói chung là nền chính trị và kinh tế toàn dân cộng sản.
Nhƣng xét về mối quan hệ hạt nhân, thì đó là các mối quan hệ của các công xã
nhân dân với nhau, đôi khi không có chung tƣ liệu sản xuất-thậm chí rất khác
nhau, nên họ phải trao đổi tƣ liệu với nhau, hoặc có liên kết hợp tác cùng sản
xuất hoặc ký kết trao đổi với nhau trên cơ sở có chung lợi ích. Và đây sẽ là các
nội dung bản chất của nền thông thƣơng kinh tế.
Thời bao cấp của Liên Xô, Việt Nam, Trung Quốc-chƣa bao giờ biết tổ chức nền
kinh tế hàng hóa kiểu Thánh Đức nhƣ chúng ta lý thuyết ở đây. Sau các khủng
hoảng kinh tế thiếu đói, họ đã tổ chức kinh tế thị trƣờng Xã hội chủ nghĩa-gọi là
Đổi mới kinh tế. Đất đai sở hữu toàn dân, còn lại cơ bản đã thị trƣờng tƣ bản
hóa và cổ phần hóa tất cả nền kinh tế. Ta nói nếu nhƣ trong thời bao cấp, mà sửa
chữa bằng cách tiến hành nền kinh tế hàng hóa kiểu cộng sản, thì lý tƣởng cộng
sản đã không mất về bản chất xã hội nhƣ hiện nay. Các nền kinh tế hiện nay sẽ
còn đi sau tƣ bản rất lâu để tiến lên văn minh kinh tế tƣ bản. Nhƣng nếu cổ phần
hóa toàn bộ các nội dung kinh tế cốt yếu nhất của nền kinh tế quốc dân-thì nếu
thiên tai đặc biệt xảy ra, sẽ phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, sẽ lâm vào khủng hoảng
nguy hiểm. Vì sức sống của nền kinh tế không phải là ở các công ty đó mà ở
nhân dân. Trong khi lợi ích của nông dân và sự đảm bảo đời sống cho họ đầy bất
công. Cho nên, Ta khuyên nhủ các nƣớc XHCN phải cần thiết và nhanh chóng
giữ vững các chính sách kinh tế tập thể, kinh tế nhà nƣớc, kể cả tƣ bản Nhà
257
nƣớc-nhƣng không nên cổ phần hóa các tƣ liệu chiến lƣợc…hình thành nhiều
HTX nhân dân, các hình thức kinh tế nhân dân tập thể khác càng nhiều càng tốt.
Ngoài ra, việc xây dựng nền kinh tế các nƣớc này đầy điểm yếu. Muốn dân giàu
mạnh thực sự, không phải là chạy chợ giàu lên, nhiều ô tô mới là giàu, mà dân
giàu chính là cách tổ chức lao động xã hội có tính cách bền vững hơn. Vẫn thấy
nói rằng sợ phai nhạt lý tƣởng cộng sản-nhƣng lớp thanh niên của các nƣớc này
hỏi cộng sản là gì thì họ khó biết, khó hiểu, họ chỉ biết đi học rồi đi làm thuê
hoặc mở công ty thôi. Đảng viên cũng đƣợc làm kinh tế buôn bán bình thƣờng-
nhƣng đi họp mà hỏi họ về nguyên lý cộng sản, e rằng dăm chục năm nữa họ
không thể hiểu nổi! Tƣ bản Trung Quốc phất nhanh và cán bộ của họ thì tham
nhũng khủng khiếp, tất cả đã là bí mật tƣ bản đỏ từ lâu, có nghĩa bí mật kinh
doanh, có công ty, nhà hàng hay liên kết thành lập ngân hàng riêng…trong khi
môi trƣờng và văn hóa xã hội ngày càng đốn mạt, chƣa tính chuyện chúng nó
giàu lên thì hống hách đấu đá, xâm lƣợc…
Về chỉ số hạnh phúc và đảm bảo các lợi ích xã hội, sự ổn định chính trị và an
ninh xã hội…thì các nƣớc này thua xa Cu-Ba, hoặc Liên Xô, Việt Nam trƣớc
kia…
Ta nhắc lại về NGUYÊN LÝ TIẾN HÓA CỦA LOÀI NGƢỜI SẮP TỚI: Là
phải tiến lên CỘNG SẢN. BẤT CHẤP CÓ THỜ THƢỢNG ĐẾ HAY KHÔNG,
VÔ THẦN HAY CÓ THẦN.
Về Luật Thiên đình với Trái đất này: BẤT CHẤP LOÀI NGƢỜI MUỐN HAY
KHÔNG MUỐN-THÌ THIÊN ĐÌNH VẪN TÌM MỌI CÁCH ĐỂ LOÀI NGƢỜI
TIẾN LÊN CỘNG SẢN KIỂU THÁNH ĐỨC.
Còn cách thế nào, loài ngƣời sẽ biết sau…
Ta chƣa nhắc đến chuyện Việt Nam, Trung Quốc đã theo Ca-bal, phản bội lý
tƣởng Cộng sản hoặc Ca-bal dự tính sẽ xóa bỏ chế độ cộng sản về nguyên nghĩa
ở Việt Nam, Trung Quốc…Nếu Thiên đình không bảo vệ trên cao-thì trƣớc sau
gì Việt Nam sẽ bị Ca-bal lôi kéo hoàn toàn và cuối cùng là tan vỡ chính trị
XHCN. Bây giờ chỉ còn ngọn thôi, gốc là kinh tế XHCN thì gần hết rồi. Các con
chớ đùa. Trong khi các thần thánh trên cao đánh nhau tàn sát với các sao lãnh
đạo Ca-bal để giữ vững nền chính trị cộng sản dƣới này, thì các con cán bộ tha
hồ tƣ bản gia đình, thi nhau làm giàu hay vơ vét. Đừng quên lời Ta nhắc lại:
Cán bộ các nƣớc này phần nhiều xuống đời là xây chế độ Cộng sản nhƣ các sao
cao cấp trên cao. Nếu cứ tha hồ ăn nhậu hƣởng lạc kiểu tƣ bản, tự tƣ tự hữu cá
nhân, vinh thân phì gia tham ô tham nhũng-tất cả nhƣ thế là PHẢN BỘI
THƢỢNG ĐẾ, PHẢN BỘI THIÊN ĐƢỜNG QUÊ HƢƠNG LÀ NHÀ GỐC CỦA
CHÚNG MÀY-khi bỏ xác, sẽ chỉ còn một linh hồn vơ vẩn đi ăn xin rồi cho đi đầu
thai súc sinh…
Nhớ lời Ta dạy ở đây-nếu đọc đƣợc tài liệu ghê gớm này…
258
*Điều 19: Quốc Vƣơng tổ chức các nơi phát triển kinh tế riêng, có tính nền tảng
của nền kinh tế, đủ năng lực sản xuất phục vụ hệ thống hành chính Triều đình và
chi viện cho các công xã nghèo, hỗ trợ thiên tai…khi cần; đó là kinh tế của Triều
đình. Nhà nƣớc không thu thuế các công xã.
Giảng: Điều này khá cơ bản-Thực ra là Nhà nƣớc Hoàn cầu vẫn có một số
nguồn kinh tế chiến lƣợc riêng, để đảm bảo an ninh kinh tế, khi thiên tai hay
thiệt hại kinh tế do yếu kém hay dịch bệnh…Các Khu vực kinh tế này nên gọi là
KHU VỰC KINH TẾ TRUNG ƢƠNG-do Liên Hiệp Quốc quản trị chung-có thể
các Quốc gia cùng góp nhân lực, nguồn lực chung để duy trì, thì càng làm cho
tính cộng sản đại đồng thêm vững bền.
Nền kinh tế tập thể cộng sản vẫn cần duy trì môi trƣờng cẩn trọng ổn định cao và
có các nhóm kinh tế chủ chốt, hay là các dự trữ cần thiết phòng bị. Ngoài thu
thuế nếu cần, còn khi bỏ thuế chung, thì các Khu vực kinh tế Trung ƣơng này sẽ
giữ vai trò làm dự trữ, hoặc hỗ trợ, giống nhƣ đạo quân hậu cần phòng bị. Tuy
nhiên, không thể đi lại vết xe cũ là kinh tế bao cấp kế hoạch, tức là các khu vực
này phình to ra và trở thành đòn bẩy kinh tế chính nền tảng chính, rồi bao cấp,
viện trợ, làm thay, theo kế hoạch. Vai trò của nó không có tính chất chi huy nền
kinh tế, mà bảo đảm lợi ích cho nhóm ngƣời hành sự công trong cơ quan hành
chính Chính phủ-không bao gồm lợi ích tất cả dành cho họ, mà là cấp phát đủ,
rồi cất giữ phòng bị dự trữ quốc gia. Cám tham ô cấp chính phủ.
Nhà nƣớc không thu thuế các công xã: Tức là biến công xã tự trị hoàn toàn trở
thành nhà nƣớc thu nhỏ; đồng thời tăng tính chất phi nhà nƣớc ở cấp dƣới.
Không thu thuế công xã, cũng không trả lƣơng đến cấp này, kể cả cấp Khu tự trị-
tất cả tự lo. Đây cũng là nguyên nhân của NỬA NHÀ NƢỚC-HAY NHÀ
NƢỚC TIÊU VONG-theo Lý luận của C. Mác.
Hiện nay vào đầu thế kỷ 21-trên thế giới xuất hiện rất nhiều các cụm liên kết các
quốc gia với nhau, trên cơ sở lợi ích chung nhƣ Cộng đồng chung Châu Âu, Nam
Mỹ, ASEAN, các nƣớc G7, Các nƣớc hiệp ƣớc Thƣợng Hải…Đó là nhân tố hình
thành dần các KHU VỰC THÁNH ĐỨC MẦM MỐNG. Tất nhiên các Khu vực
Thánh Đức là 18 Khu vực đƣợc phân theo địa lý liên kết chứ không theo liên kết
lợi ích đa quốc gia. Nhƣng, đấy sẽ là bài học dần cho loài ngƣời trong tƣơng lai-
khi mà liên kết khu vực sẽ là chỗ dựa an toàn cho bài toán an ninh chính trị và
bảo đảm nền kinh tế hòa đồng chung.
Trong tƣơng lai, nhìn toàn diện, thì các khu vực Thánh Đức nói chung đều có là
liên kết địa lý là chính, văn hóa khá gần và đảm bảo quan hệ có tính chất khá cục
bộ. Điều này rất tốt cho nhân loại tại nơi đó. Cái khó là không phải gom làm 18
khu vực, cái này đơn giản-nhƣng cái khó là Thiên Đình bắt phải tự trị về chính
trị và kinh tế và gom lại còn có 72 nƣớc-tức 72 Quốc Gia. Tất nhiên cần một
cuộc cách mạng nghiêm túc-rồi mới sinh ra Thánh Đức đƣợc, chứ bảo ban, rồi
259
hƣớng dẫn, sẽ không ai làm, nhất là động chạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, tôn
giáo, văn hóa…Đập tan cơ chế xã hội cũ của loài ngƣời, chỉ có thể bằng cách
mạng có sự chuyển thế hữu hiệu mà thôi.
*Điều 20: Nhà nƣớc không bao cấp cho dân, mà dân công xã nào, làm đƣợc gì,
thì hƣởng nhƣ thế; muốn có cuộc sống ấm no, phải tự lao động. Trƣờng hợp đặc
biệt, mới nhận đƣợc sự hỗ trợ của các nơi giàu hơn.
Giảng: Ngay cả bây giờ, thì các nƣớc XHCN cũng không bao cấp cho dân-trừ
trả lƣơng chính sách. Tất cả đƣợc cấp ruộng đất để sản xuất. Chính sách tại Việt
Nam rất tốt-thậm chí có khi đã không thu thuế nông nghiệp.
Nên, chuyển đổi kinh tế công nghệ về tận nông thôn, chuyển dịch công nghiệp
xuống tận xã-huyện. Qui mô sản xuất nên phổ biến hình thức chuyển dịch tự chủ
tự trị trong địa phƣơng cấp tỉnh…Tăng cƣờng kinh tế nhà nƣớc khu biệt cấp tỉnh
nhƣng phổ biến tự chủ tự trị kiểu HTX kinh doanh làm ăn chung ở cấp xã huyện.
Có nghĩa, tăng cƣờng tính chất tập thể, các hình thức HTX và kinh tế tập thể làm
nền tảng cho nền kinh tế XHCN-mới có thể giữ vững bản chất chế độ thực sự…
Cách này có mấy cái hay, mà thời Thánh Đức sẽ tỏ rõ hơn đó là: 1-Không cần thị
trƣờng quá nhiều cho các sản phẩm phải chuyển dịch-tức chuyển từ nơi nọ đến
nơi kia-mất công sức, nhiên liệu chuyên chở và rối loạn giao thông.
2-Xóa bỏ giai cấp và phân hóa thu nhập.
3-Tạo việc làm tại chỗ, không còn cảnh làm thuê láo nháo, thị trƣờng nhân lực
láo nháo, đổ hết về thành phố, làm các thành phố lớn thành bãi trũng nhân lực,
rối loạn giao thông và mệt mỏi trong quản lý xã hội. Địa phƣơng thì mất chất
xám, nhân lực, nông dân thì biến thành công nhân đi làm thuê xa nhà; bỏ bê
đồng ruộng vì thu nhập nông dân thấp. Chƣa tính đến nạn xuất khẩu lao động,
mà toàn đi lao động thủ công đơn giản ở nƣớc ngoài-do họ có mức sống thu
nhập cao hơn. Ngƣời Việt Nam đi làm thuê nƣớc ngoài đông nhất thế giới và tất
nhiên cũng là dân tộc di cƣ cao.
*Điều 21: Quốc Vƣơng tùy điều kiện cụ thể, có thể tổ chức Hội đồng Tƣơng
trợ kinh tế, lấy vật phẩm đóng góp của các quốc gia, các khu tự trị giàu để hỗ
trợ cho các khu vực nghèo; Hội đồng này đặt dƣới sự chỉ đạo của Hội đồng Hành
Chính Thánh Đức-thuộc Hội đồng Thánh Đức Tối cao.
Giảng: Hội đồng Tƣơng trợ kinh tế do Chính phủ Hoàn cầu trực tiếp chủ quản,
có sự tham gia của đại diện các nƣớc giàu có hơn, để tƣơng trợ. Tất nhiên Khu
Vực Kinh tế Trung Ƣơng của chính phủ Hoàn cầu phải tham gia trực tiếp vào
đây để hỗ trợ chung. Trƣờng hợp tất cả đều giàu thì vẫn cần có Khu Vực Kinh tế
Trung Ƣơng phòng bị thiên tai mất mùa đột xuất, hoặc dịch bệnh biến đổi xã hội.
260
*Điều 22: Các công xã giàu hỗ trợ để công xã nghèo phát triển đồng đều; các
khu tự trị trong quốc gia hỗ trợ nhau để phát triển đồng đều; các quốc gia hỗ trợ
nhau để phát triển đồng đều. Khu Tự trị phải đảm bảo sự phát triển đồng đều ở
các công xã. Mọi vật phẩm phải đƣợc trao đổi trên cơ sở thƣơng lƣợng và ngang
giá. Nếu là một nơi lạc hậu, khu tự trị phải bảo đảm giáo dục và đào tạo. Có biện
pháp cải tạo và giáo dục nếu cƣ dân lƣời nhác lao động, chờ hỗ trợ từ nơi khác.
*Điều 23: Cấm dùng vàng, ngọc, đá quý, hay bất cứ tài sản vật chất nào làm vật
trao đổi lấy vật chất khác. Tất cả các vật chất quí, là của Vƣơng quốc, sau có
nhiều, tạo ra nhiều thì vua cấp cho dân cùng hƣởng hết các thứ đó, ai cũng có
nhƣ nhau. Mọi thứ giá trị đƣợc đem ra sử dụng chung, hoặc phục vụ đời sống
chung, thì không còn sự tranh đoạt và tham lam về giá trị vật phẩm-mọi thứ
không còn là của hiếm cá nhân.
*Điều 24: Tập thể có quyền trao đổi vật phẩm lấy vật phẩm, còn cá nhân không
có quyền trao đổi-vì sâu xa gốc rễ lâu dài, sẽ sinh trao đổi hàng hóa cá nhân và
sẽ phát sinh tiền tệ; phát sinh tiền tệ sẽ thúc đẩy phát triển thị trƣờng-sẽ hình
thành chế độ kinh tế thị trƣờng làm phân hóa giai cấp và làm tan rã chế độ Thánh
Đức. Nếu phân hóa giai cấp, nảy sinh tầng lớp tƣ nhân, tất phân hóa giàu nghèo
và sinh ra sự khốn nạn mà nhân loại đã từng trải qua trong lịch sử trƣớc Thánh
Đức. Cho nên, vì hạnh phúc và an bình muôn đời của nhân loại, luật pháp Thánh
Đức kiên quyết xóa bỏ mọi chế độ tiền tệ và phát triển thị trƣờng tự do theo qui
luật giá trị.
*Điều 25: Chống kiểu xây dựng công xã nhƣ trại lính, cƣỡng bức, duy ý chí,
máy móc. Đời sống tinh thần và đời sống lao động phải thoải mái, tự do trong
khuôn khổ; giản dị, bình an trong không khí môi trƣờng văn hóa. Sự chuyển dịch
cơ cấu lao động cơ cấu sản xuất kiểu Thánh Đức phải diễn ra tuần tự, từ từ, chắc
chắn, tránh xốc nổi, vội vã, cứng nhắc, bắt ép dân, gây hậu quả nghiêm trọng.
Công xã nông nghiệp, lao động khoán sản phẩm tự do, hài hòa, lấy tự giác và
năng suất chất lƣợng làm thƣớc đo trình độ lao động, trình độ tổ chức sản xuất.
Không bắt ép dân lao động kiểu cƣỡng bức, phải cho họ “ suy nghĩ bằng cái dạ
dày của mình và danh dự trƣớc cộng đồng”.
*Điều 26: Không đƣợc cho, nhƣợng, sang, bán đất đai, không có quyền thừa kế
đất đai, gia cƣ. Nếu có nhu cầu sử dụng riêng, cần ở, thì họ phải báo với công xã,
công xã nhất trí đổi lại cho họ, thì họ mới đƣợc đổi-nhƣng cấm lợi dụng việc này
để tích lũy đất đai cá nhân. Cấm cá nhân có hai nơi gia cƣ, hai nơi đất đai sản
xuất. Ngƣời từ trần, thì trả lại đất đai cho công xã; riêng nơi ở, vì công xã sẽ cấp
nhà cho dân cƣ, mỗi ngƣời chỉ đƣợc một nơi ở, cho nên không duy trì quyền
261
thừa kế nơi ở. Con cháu, ngƣời thân có nhà ở riêng, nếu chƣa có, muốn lấy lại
nhà ở của ngƣời quá cố, thì phải đƣợc công xã đổi cho; nếu đã có rồi, muốn có
nữa là sai luật. Nếu gia đình muốn ở chung, thì tùy ý, có thể trả lại, hoặc không
trả lại nhà cho công xã, nhƣng không để lãng phí, khi những ngƣời khác không
có nhà ở, hoặc phải xây mới, tốn công sức của nhân dân.
Pháp luật phải loại trừ vĩnh viễn sự tham lam và bất công về đất đai nhà ở.
*Điều 27: Khi sản xuất ra vật phẩm mới, các công xã thông báo cho nhau, phổ
biến kinh nghiệm, tổ chức sản xuất cho dân cùng hƣởng dần dần theo khả năng
sản xuất. Các đồ cũ, cần thống nhất tái chế hoặc xử lý, hoặc chuyển cho những
nơi kém phát triển hơn, tránh tình trạng nơi thừa bỏ đi, nơi không có dùng. Tất
yếu sẽ có tình trạng văn minh, lạc hậu khác nhau, do trình độ, đặc điểm địa lý, xã
hội, tài nguyên…khác nhau, nên giúp đỡ, tƣơng trợ nhau giữa các quốc gia, công
xã là trách nhiệm cao quí của toàn dân Thánh Đức.
*Điều 28: Ngƣời già không con cái, hoặc có nhu cầu sống tập thể; ngƣời cô
đơn, bệnh tật không nơi nƣơng tựa, không có khả năng lao động; ngƣời mồ côi
trƣớc tuổi lập gia đình đƣợc công xã nuôi, tại nơi tập trung, đƣợc phục vụ chu
đáo, đầy đủ đãi ngộ nhƣ mọi công dân khác. Không để tình trạng ngƣời vô gia
cƣ.
*Điều 29: Không để tình trạng dân di cƣ tự do, di chuyển từ nơi này đến nơi
khác một cách tự do. Mọi công dân chuyển nơi ở từ nơi này đến ở hẳn nơi khác,
phải đƣợc sự đồng ý của hai nơi đi và đến.
Giảng: Di cƣ tự do có nguyên nhân kinh tế là chủ yếu. Đi làm thuê, đi buôn bán
qua lại…Dƣ cƣ tự do trong thời Thánh Đức là không nên có vì tính chất khép kín
của nhân khẩu và nhân lực tại địa phƣơng. Trƣờng hợp cần xuất khẩu nhân lực,
thì các Khu tự trị sẽ liên kết trao đổi với nhau. Nếu đi du lịch, công tác thì tự do,
nhƣng di dời đến ở hẳn một nơi khác để đi làm thuê, hay buôn bán, sẽ không cho
phép.
*Điều 30: Tổ chức phân chia khu vực địa lý quốc gia phù hợp với đặc điểm địa
lý-văn hóa-dân tộc-nhƣng phải chú trọng cơ cấu dân cƣ và hoạch định sự phát
triển lâu dài trong cộng đồng Thánh Đức. Tránh tình trạng nơi quốc gia đông dân
nhƣng địa lý nhỏ, nơi quốc gia ít dân, nhƣng địa lý rộng, về lâu dài sẽ gây ra tình
trạng tranh lấn không gian sống và di cƣ tự do, gây nhiễu loạn xã hội, gây bất
công về không gian sống, sẽ gây ra tình trạng mất cân bằng cơ cấu dân cƣ-lao
động, sản xuất, trình độ phát triển văn minh-thậm chí gây ra chiến tranh sắc tộc,
quốc gia để chiếm không gian sinh tồn.
262
Đây là điều rất quan trọng để tạo ra sự ổn định lâu dài cho an ninh và đời sống
của nhân dân Thánh Đức. Nên khi lập Thánh Đức, sẽ kiên quyết phân chia và lập
lại địa lý các quốc gia cho phù hợp đúng luật tự nhiên và luật phát triển của xã
hội Thánh Đức.
Giảng: Thực ra điều này khó phân định ban đầu, vì có nơi rất ít dân theo qui
định ban đầu của 18 Khu Thánh Đức-nhƣng dần dần sẽ chuyển dịch dân số ổn
định đến cân bằng dần. Khác biệt về dân cƣ và địa lý là điều không thể tránh
khỏi.
*Điều 31: Chống phân chia giai cấp bằng các biện pháp chính:
-Trong công xã, bảo đảm việc làm, khép kín.
-Không lập các hội đoàn nghề nghiệp riêng.
-Chấp hành nghiêm các điều luật về sử dụng nhân tài và cán bộ đã qui định.
-Không duy trì quyền lực tập trung trong tay một ngƣời dƣới Quốc vƣơng và tại
một cơ quan.
-Không duy trì kinh tế thị trƣờng, hàng hóa tự do, trao đổi tiền tệ.
-Sở hữu toàn dân.
-Phân chia chặt chẽ công bình nhân lực, vật chất, nơi ở, đất đai nhà cửa…
-Duy trì chặt chẽ hệ thống an sinh cộng đồng xã hội chung.
-Quản lý chặt chẽ dân cƣ, phân bố đều dân cƣ.
-Phân phối nghề nghiệp nhân lực cân bằng và mức hƣởng thụ vật chất của mọi
công dân ngang nhau trong công xã, trong các nghề nghiệp bằng giấy chứng
công; tạo ra sự đồng đều trong vƣơng quốc, giữa các quốc gia, khu tự trị.
-Các chế độ kinh tế-văn hóa-lao động nhƣ nhau.
-Bỏ chế độ hƣu. Thực hiện làm theo năng lực, hƣởng theo nhu cầu.
-Đƣa công nghiệp vào nông nghiệp, đƣa nông nghiệp vào dịch vụ công nghệ và
sản xuất vật chất-lƣơng thực thực phẩm, chúng liên hệ chặt chẽ với nhau thành
một chuỗi, không phân ranh giới trong dây chuyền sản xuất-tiêu thụ và phân
phối, nên không còn phân ngành hoặc phân chia chênh lệch nhiều về nghề
nghiệp và quyền lợi lao động, sức lao động.
Ví dụ: Trong công xã, khâu sản xuất lúa giao cho nông dân, nhƣng nông dân
trong công xã tổ chức chế biến lƣơng thực ngay tại chỗ, phát cho nông dân
ngay; trong một gia đình, có cả ngƣời gặt hái, ngƣời làm chế biến lƣơng thực,
ngƣời chăn nuôi, ngƣời sử dụng máy móc chế biến thực phẩm- nhƣ vậy xóa bỏ
ranh giới nghề và giai cấp ngay trong gia đình. Trong khu tự trị, có các nhà máy
xen kẽ với đồng ruộng, vƣờn; trƣờng học trong công xã, khu tự trị tạo ra nhân
công ngay cho công xã; các giáo viên và ngƣời không trực tiếp lao động đƣợc
nhận giấy chứng công nhƣ mọi ngƣời khác-nhƣ vậy không còn phân cấp tầng
lớp, phân hóa giàu nghèo, giai cấp.
*Điều 32: Nhà nƣớc không trả lƣơng cho bất kỳ ai.
263
Từ Quốc vƣơng trở xuống nhận giấy chứng công tại nơi sinh sống. Giấy chứng
công của Quốc Vƣơng nhƣ giấy chứng công của ngƣời khác. Vua cũng chỉ đƣợc
hƣởng quyền lợi nhƣ mọi ngƣời; có thể đƣợc sự chăm sóc đặc biệt riêng để bảo
vệ sức khỏe làm việc tốt.
*Điều 33: Công dân bình đẳng, thân ái đoàn kết yêu thƣơng nhau nhƣ anh em
trong một đại gia đình. Không phân biệt dân tộc, quốc gia, văn hóa; xóa bỏ phân
hóa giàu nghèo; không phân chia giai cấp, ai cũng có cơ hội thể hiện tài đức của
mình để tham gia Thánh Đức, tham gia quản lý xã hội, sau đó trở thành ngƣời
dân bình thƣờng.
*Điều 34: Nghiêm cấm thói quen đút lót, biếu xén chạy chọt xin việc, chạy danh
lợi. Mọi cán bộ cấm nhận quà của công dân, trừ nhận quà của ngƣời trong gia
đình một cách minh bạch. Ai muốn cho cán bộ thứ gì vì ân tình, thì phải ghi vào
sổ hành chính công, đồ đó chỉ đƣợc dùng một phần, còn lại bị sung công.
Nếu phát hiện có biếu xén riêng, cán bộ đó lập tức bị biếm chức, cho thôi việc
lập tức, không cần xét xử. Cấm mời cán bộ ăn uống vì lợi ích riêng tƣ cá nhân.
Giảng: Thói quen biếu xén thì xã hội nào cũng có, con biếu cha mẹ, em biếu anh
chị, cấp dƣới biếu cấp trên, cảm ơn cảm tạ…Thực ra cái đó không thể cấm.
Nhƣng biếu đút lót để lên lƣơng bậc, chạy chọt xin việc… thì cấm. vả lại thời
Thánh Đức do thi nhân tài các cấp, khó có chuyện chạy chọt cơ hội, mà bổng lộc
của xã hội không có, nên các chỉ tiêu bảo vệ không cho tham nhũng khá tốt. Các
kho lƣơng thực, các bộ phận phân phối đƣợc giám sát đặc biệt, có Hội đồng
Giám sát của Công xã kiểm tra thƣờng xuyên. Đặc biệt là phải giáo dục tinh thần
tập thể, tinh thần tự giác rất cao của dân chúng, không thể để tham ô tham
nhũng. Nếu có, lập tức sẽ biết ngay và xử lý ngay.
Gia đình cán bộ cũng đƣợc cấp đất, chứng công nhƣ ngƣời khác. Với cán bộ
không trực tiếp lao động, thì vẫn đƣợc cấp giấy chứng công bình thƣờng-đó là
đặc quyền duy nhất để nuôi sống cán bộ. Nếu dân chúng thƣơng yêu cán bộ mà
cho quà, ví dụ cho con gà con cá thì sao, rất tốt thôi, cho thì lấy-nhƣng công
khai. Nhƣng nếu cho quá nhiều và lợi dụng thì phải bỏ ngay. Mời ăn là chuyện
bình thƣờng, nhƣng mời vào việc riêng tƣ lợi lạc cá nhân thì nên tránh.
*Điều 35: Sản xuất đủ nhu cầu cần thiết, làm theo năng lực, hƣởng theo nhu
cầu. Hƣởng theo nhu cầu là: Làm đủ ăn, ăn đủ sống. Không sản xuất thừa thãi
để tranh tham. Không sản xuất thiếu đói để tham thèm. Điều tiết qui mô sản xuất
giữa các vùng, các khu tự trị, đảm bảo trong một khu tự trị phải bảo đảm các nhu
cầu sống của nơi đó, nên không cần di chuyển và trao đổi hàng hóa nhiều, tránh
gây rối loạn và lộn xộn cho điều tiết kinh tế, gây lãng phí công vận chuyển, công
trao đổi. Vật phẩm trao đổi cho nhau trên cơ sở ngang giá, tự qui định, không ép
buộc.
264
Giảng: Thực ra là tiến hóa cao của Thánh Đức là ĐẦY ĐỦ HOÀN TOÀN-
KHÔNG THIẾU THỨ GÌ CẦN THIẾT cho đời sống. Nhân dân no ấm-sang-
giàu-NHƢNG KHÔNG THỪA THÃI VÀ BẤT CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG.
Ví dụ trong mọi nhà đều có tất cả các vật dụng, máy móc, phƣơng tiện cần thiết;
không quá nhiều, không vứt văng vãi. Còn nhu cầu ăn uống thì ăn đủ sống thôi,
hết lại đến công xã lấy, không tích lũy làm gì trong nhà mấy tạ gạo, hay mấy kg
thịt làm gì. Giống nhƣ thời thị trƣờng, hết ăn trong ngày lại mua; chỉ khác là
không phải đi mua mà đi lấy về.
KỲ NGHỈ- THÁNG NGHỈ LỄ: Còn một ƣu việt nữa của xã hội Thánh Đức
chúng ta cần ghi nhớ-đó là do tính chất yên tĩnh của tƣ tƣởng xã hội cũng nhƣ
con ngƣời, trạng thái thanh tĩnh của con ngƣời SỐNG CHẬM, SỐNG GIẢN DỊ,
HIỀN LÀNH, nên sống kết hợp với tu luyện Thiền định. Một năm khi đã xong
mùa vụ, sản xuất đã hoàn thành chỉ tiêu, là lúc nghỉ ngơi-khi đảm bảo nhu yếu
phẩm đầy đủ dự trữ, thì VÀO KỲ NGHỈ. Một năm có thể lên đến 4 kỳ nghỉ-mỗi
kỳ một tháng. Chỉ ăn chơi, du hý, tổ chức văn nghệ, tổ chức ăn uống tiệc chung,
dạ hội, các lễ trong 4 ĐẠI TỨ KHÍ trong năm nên trùng với 4 tháng nghỉ này gọi
là THÁNG NGHỈ LỄ. Hoặc có nơi tổ chức cá nhân vào thiền định cả tháng làm
yên ổn thân tâm và linh hồn mình thanh tĩnh hơn.
Vào thời Thánh Đức sẽ có một số Vƣơng Quốc Ánh Sáng chuyên lập các tu viện
tu thiền và không lập gia đình, không ở dạng chùa nhƣ đạo Phật. Họ sẽ lao động
mấy tháng thôi, còn lại chỉ nghỉ ngơi, ngồi thiền hay đi du lịch trải nghiệm,
nhƣng thiền là chính. Đây là xã hội thần thánh nhƣ trên các cõi cao, khi sử dụng
vật chất giảm xuống, các thần thánh tiên phật nghỉ ngơi, an tĩnh là chủ yếu.
*Điều 37: Các công xã duy trì các chế độ tự quản đặc biệt, vật phẩm chia cho
gia đình theo công lao động và theo số lƣợng vật chất mà công xã đạt đƣợc; công
xã làm đƣợc nhiều, thì chia cho dân nhiều và ngƣợc lại. Mỗi ngày lao động tính
bằng công, một công đƣợc bảo đảm đủ ăn trong ngày đó; nếu là nông dân, có thể
khoán sản phẩm theo đơn vị sản xuất và đơn vị tƣ liệu lao động, nhƣng phải nộp
sản phẩm cho công xã, sau khi đã tự nhận một mức vật phẩm nhất định chung
theo qui định-để tránh tình trạng lâu dài có thể làm phân hóa giàu nghèo.
*Điều 38: Trong gia đình, bảo đảm đủ sống không quá 1 tháng. Tổ chức phân
chia vật phẩm đến từng hộ gia đình. Khi vật phẩm nhiều, thì hộ gia đình có
quyền chọn lựa vật phẩm theo nhu cầu-đó là hƣởng theo nhu cầu. Tài sản làm
ra, tổ chức phân chia ngay, còn lại 1/3 làm dự trữ phòng trữ.
Thánh Đức không cấm tƣ hữu giản đơn, tức tƣ hữu mức sống. Công xã phát
triển càng cao, thì mức hƣởng thụ vật chất của ngƣời dân càng cao và hiện đại
văn minh, nhƣng vật chất ấy phải chia đều, nhƣng không cào bằng: Nghĩa là,
ngƣời lƣời nhác, yếu kém thì không đƣợc hƣởng nhƣ ngƣời tốt, nếu họ không
265
tiến bộ, thì cho họ đến nơi có mức tiến hóa tƣơng ứng-đó mới là công bằng. Cần
công bình-nhân ái-tƣơng trợ nhau cùng hạnh phúc, no ấm.
*Điều 39: Xóa bỏ tận gốc nguyên nhân chia rẽ và bất công là: Tham danh lợi,
tham quyền lực và tham giải thoát ( lƣời lao động, tránh đời, tu ích kỷ).
Lòng tham vật dục tiền bạc là động lực chính yếu thúc đẩy CNTB phát triển, để
gây ra nạn áp bức bóc lột, bất công, phân hóa giàu nghèo, họa chiến tranh xâm
lƣợc, xâm chiếm thị trƣờng…Phải loại trừ đƣợc lòng tham vật dục, nhƣng lại cần
bảo đảm sự phát triển tiến bộ không ngừng của xã hội Thánh Đức.
Nếu phân hóa giàu nghèo, sẽ sinh phân hóa giai cấp, tầng lớp và sinh thị trƣờng,
rồi sinh tiền tệ, sinh thâu tóm nhân lực, quyền lực, sẽ gây chia rẽ xã hội, đấu
tranh giai cấp, sẽ có chiến tranh và chia rẽ, làm tan rã Thánh Đức-Nhân loại lại
có bất công, chiến tranh, bao tội ác và thói tật ghê tởm bắt nguồn từ thói tham lợi
danh và tranh đoạt của con ngƣời nhƣ trong lịch sử cũ.
Sự đồng đều tạo ra hạnh phúc chung, xã hội không phân hóa, không chênh lệch,
tổng mức của cải thì vẫn thế, nhƣng phân chia đều thì làm xã hội an bình; đồng
đều tạo ra sự bình đẳng quyền và lợi ích, từ đó tạo ra các giá trị quân bình, ngang
nhau, tránh tranh đoạt và xung đột ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không
còn tha hóa nhân cách vì tranh tham; không còn tha hóa đạo đức và ai cũng bình
quyền và đƣợc tôn trọng nhƣ nhau.
Chống CNTB, vì tạo cho con ngƣời lòng tham vô đáy, bất cần sự đau khổ và
nghèo đói, thất nghiệp, vô gia cƣ, bệnh tật không có tiền chữa của ngƣời khác.
Mục tiêu và cũng là biện pháp của Thánh Đức là chống Tƣ hữu cá nhân về tƣ
liệu sản xuất chính, chống Chủ nghĩa Tƣ bản, chống tích lũy tài sản cá nhân quá
mức cần thiết, chống phân hóa giàu nghèo và xóa bỏ tận gốc đẳng cấp, bất công,
cục bộ bản vị và chiến tranh từ nguyên nhân xã hội. Chúng làm nảy sinh các tội
ác và đau khổ cho nhân loại cần lao. Thà hƣởng thụ ít, phát triển chậm-nhƣng
bình đẳng, công bình, đồng đều tuần tự tiến bộ và an lạc còn hơn là phát triển
nhanh, đầy tội ác, tham tàn, chiến tranh, thì sẽ đẩy nhân loại đến vực thẳm đau
khổ và mất mát hơn rất nhiều, so với một thế giới bình an, đồng đều, phát triển
chậm, chắc, nhƣng đến giai đoạn bản lề, sẽ có nhảy vọt, phát triển nhanh, đƣa
nhân loại đến một nền văn minh cao đẹp vĩ đại-Đó là Thiên đƣờng tại thế. Xóa
bỏ tận gốc các hình thức tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và chế độ kinh tế TBCN.
*Điều 40: Không áp dụng chế độ kinh tế hàng hóa với tƣ cách là trao đổi lấy lãi
và lợi nhuận, mà trao đổi hàng hóa ngang giá trị lao động.
Giảng: Trao đổi ngang giá trị lao động là trao đổi đúng giá trị gốc của sản phẩm
đó, lấy giá trị cốt lõi của nó mà không tính lợi nhuận.
266
Trƣớc kia, khi còn các công xã thời nguyên thủy, chƣa hình thành thị trƣờng thì
chƣa có hàng hóa trao đổi. Đến khi hình thành thị trƣờng chƣa có tiền thì họ trao
đổi bằng ngang giá với nhau, rồi xuất hiện tiền. Bây giờ chúng ta xoa bỏ tiền, thì
trao đổi ngang giá với nhau. Có mấy cách nhƣ sau:
1-Thống nhất mức giá chung-lấy gạo làm cơ sở để tính. Gọi là GIÁ TRỊ ĐỊNH
MỨC=1kg gạo. 1 Giá trị định mức=1 ngày công lao động. Tại sao chọn gạo-vì
gạo nuôi sống con ngƣời, là lƣơng thực chính yếu. Một kg thịt=3kg gạo ( bằng 3
giá trị định mức). 1 Tấn xi măng=5000 giá trị định mức. Vậy sẽ hỏi nhau: 1 tấn
thép năm nay bằng bao nhiều giá trị định mức? Trả lời là 3000 chẳng hạn. Công
xã tôi xuất 1 tấn thịt, bằng 3000 giá trị định mức, cơ quan anh có đổi đƣợc 200 m
vải cũng bằng 3000 giá trị định mức là đƣợc. Nhƣ vậy, có vẻ khó phức tạp về
cách tính một chút-nhƣng lại nhàn, thuận lợi là nhƣ thế này: Hàng năm-tốt nhất
hàng năm, căn cứ vào tình hình của sự sản xuất xã hội mà Khu Tự trị đƣa ra giá
trị định mức-cùng các công xã họp bàn thống nhất giá trị định mức năm nay là
bao nhiêu-để đảm bảo sức sản xuất và đời sống chủ yếu của nhân dân. Vì hoạnh
định nhƣ thế, nên các công xã và xã hội rất nhàn, chỉ có trao đổi cho nhau nhanh
chóng, mà cũng chẳng phải tính toán bán buôn lỗ lãi, tìm nơi tiêu thụ thị trƣờng
trôi nổi nhƣ xã hội kinh tế thị trƣờng.
2-Thống nhất riêng với nhau về cách trao đổi mà không phụ thuộc xu thế chung.
Ví dụ tôi có 1 tấn gạo, anh có 1000 m vải tốt, tôi đổi ngang giá cho nhau, hoặc
thấp hơn do tôi thừa gạo rồi, miễn là đổi đƣợc đúng ý định.
3-Lập một Hội đồng Quản lý giá trị Thông thƣơng-Hội đồng này quản lý các
hình thức trao đổi, giúp điều tiết các giá trị với nhau trong thời gian nào đó. Họ
sẽ tự động điều tiết các giá trị, giới thiệu các hàng hóa khác nhau và các cung
ứng khác nhau cho các nơi, các địa phƣơng. Hình thức của Hội đồng này gần
giống CÔNG TY MÔI GIỚI, có điều tiết và cân chỉnh các giá trị-nhƣng hoạt
động không lấy lãi mà làm theo hoạt động của nhà nƣớc.
*Điều 41: Các khu tự trị tự chủ, trao đổi vật phẩm cho nhau theo nhu cầu của
đời sống dân cƣ. Nhà nƣớc Thánh Đức và Quốc vƣơng, Quốc trƣởng không
tham gia điều tiết kinh tế vĩ mô-xét một cách hẹp, mà chỉ chỉ đạo công cuộc phát
triển kinh tế chung và điều tiết quá trình sản xuất đó cho phù hợp với các gia
đoạn phát triển của xã hội. Chống cách quan liêu bao cấp và nền kinh tế kế
hoạch mệnh lệnh, mà tự các khu tự trị phải năng động và tự điều tiết quá trình
sản xuất với nhau.
Sẽ có các khu tự trị nghèo, giàu khác nhau, nhƣng đến một lúc nào đó, họ sẽ phát
triển tới hạn đồng đều, nhờ việc tƣơng trợ cùng phát triển và trao đổi khoa học
kỹ thuật, văn hóa, tri thức trong sự phát triển lành mạnh, không cạnh tranh ích kỷ
nhƣ chế độ TBCN.
267
Hàng năm tổ chức các Hội chợ kinh tế, do Hội đồng Tƣơng trợ kinh tế tổ chức,
của các khu tự trị để họ trao đổi với nhau về kinh tế ngang giá, ký kết các hợp
đồng kinh tế cho phù hợp với nhu cầu dân cƣ tại đó. Và có thể tƣơng trợ cho
nhau.
Nhƣ vậy là có tồn tại nền kinh tế hàng hóa-nhƣng là nền kinh tế hàng hóa của
Chủ nghĩa Cộng sản Thiên Đạo.
*Điều 42: Thúc đẩy sự phát triển kinh tế bằng cách: Lao động cao cả và kiên trì
quyết tâm sáng tạo, phát minh để tạo ra đời sống chân chính, đảm bảo lợi ích,
bình đẳng và hạnh phúc tự nhiên cho mọi công dân. Mọi công dân phải xác định:
Lao động, sản xuất để tạo ra của cải cho bản thân và cho tập thể. Xóa bỏ bất
công, bất bình đẳng, sự tham lam, muốn vậy phải thực hiện chế độ phân chia hợp
lý. Làm theo lao động và hƣởng theo nhu cầu của chính họ, không phải là nhu
cầu vô đáy. Hƣởng theo nhu cầu tự giác tới hạn.
Giảng: Lao động tập thể là lao động tiến hóa cao nhất của con ngƣời-đó là tính
chất cộng đồng xã hội phát triển đến trình độ tổ chức tập thể tất yếu. Không thể
có xã hội văn minh nếu không có lao động tập thể-nên không những đó là nghĩa
vụ mà còn là niềm tự hào- Khi chuyên môn hóa cao và hình thành các phƣơng
thức lao động cao. Thời Thánh Đức, phải giáo dục sâu sắc tinh thần Lao động
cao cả: Tinh thần tập thể-tinh thần cống hiến và tinh thần phục vụ. Xóa bỏ tƣ
tƣởng cha chung không ai khóc-nếu lao động tập thể không có giao khoán,
không có định mức tập thể, sẽ khó khăn trong duy trì tính tự giác.
Hƣởng theo nhu cầu tự giác tới hạn: Có nghĩa anh hƣởng đến mức cần thiết của
nhu cầu thôi, không tham quá; giống nhƣ vào ăn tiệc chung, chỉ ăn đến no, chứ
không tìm cách gói phần đem về nhiều thêm.
*Điều 43: Không lãng phí nhân tài, cấm đì nén, trù dập nhân tài, phải coi nhân
tài là tài sản đặc biệt của xã hội, cần sử dụng và bảo vệ nhân tài, sử dụng đúng
việc, đúng chỗ, tránh lãng phí. Sử dụng nhân tài không phân biệt tuổi tác, giới
tính. Ai có tài hơn và có khả năng hơn thì phải đƣợc sử dụng ở công việc và vị trí
cao hơn. Ngoài cuộc thi nhân tài do Vƣơng quốc tổ chức, thì hàng năm, các công
xã tổ chức thi bình chọn hiền tài, chọn lọc và tìm kiếm nhân tài ở các lĩnh vực,
bình xét họ, bỏ phiếu đánh giá, sau đó đƣợc Hội đồng quản lý trực tiếp sử dụng-
là một cuộc thi công chức tổng hợp.
Giảng: Thƣờng thì con ngƣời chƣa tiến bộ có tƣ tƣởng sợ ngƣời khác hơn mình,
sợ ngƣời tài giỏi hơn mình-khó chịu, đố kỵ khi có ngƣời hơn mình; hoặc tìm
cách ghen tỵ, đấu đá, chiếm cái mà mình lẽ ra không xứng đáng hƣởng. Nên kẻ
tham ác gian nó thƣờng chiếm, cƣớp, hãm hại kẻ tài giỏi, cao quý hơn mình.
Thấy ngƣời thông minh, tài giỏi, cao quý, nó ghen ghét ghê gớm, có khi mất ăn
268
mất ngủ…Trong khi ngƣời trƣởng thành tiến bộ hay lành thiện thì họ yêu quí kẻ
tốt, kẻ tài giỏi, chấp nhận số phận của mình dƣới quyền ngƣời tài giỏi…
Nên, ở đâu mà có đì nén, trù dập nhân tài, thì ở đó thƣờng lãnh đạo một là dấu
dốt, hai là tham ác, ba là đểu rả, thị quyền hoặc che dấu uy tín giả; hoặc cả
phƣờng gian ác bu vào đánh phá hiền nhân…đó là thời đọa của nơi đó. Khi cái
ác lên ngôi, vênh vang tự đắc, diễn trò đểu cáng, thì nơi đó lành thiện câm mồm,
dấu lời nói thật, tài năng che dấu, dĩ hòa vĩ quý, ngậm bồ hòn để tồn tại. Kinh
nghiệm cho thấy, văn hóa tiểu nông thƣờng sinh lắm đứa láo khoét, gian dối đã
đành mà tính đố kỵ, tiểu xảo vặt vãnh, ranh khôn thong manh rất nhiều, đẻ ra
lắm trò đểu cáng, bỉ ổi, tranh dành hãm hại nhau hôi tanh bẩn thỉu. Ta nói đích
thị ngƣời Việt, ngƣời Tàu hôi. Thói làm ăn tiểu nông làm phát sinh các tâm hồn
nhỏ mọn, tính cách lởm khởm nhố nhăng càn bậy, cực kỳ đố kỵ, thích cào bằng,
thấy ai hơn mình thì gan ruột sôi lên. Lũ mục ít học thì thấy ai xua chó vào bụi
rậm đều nháo theo, ăn theo, chửi bậy. Dân Bắc Kỳ VN thƣờng thâm hiểm, ăn nói
bí hiểm, cạnh khéo độc hiểm khó lƣờng, tính cách thì láo nháo, thích hội chứng
đám đông, tƣ duy nông cạn, thiển cận, ham nhìn chứ không ham nghĩ. Thƣợng
đế gieo Thiên Đạo xuất phát từ Việt Nam-nhƣng con đƣờng Thánh Đức thành
công, thì Việt Nam sẽ đi sau rốt, Chủ nghĩa Xã hội có thành công, thì Thƣợng đế
còn phải hít cả tỷ tấn cặn bã nữa mới thành; tại sao, các con phải hiểu; cũng nhƣ
chủ nghĩa cơ hội thực dụng đầy mánh khóe của lũ quan gia cán bộ-toàn là linh
căn xuống trần mà tham lam đểu rả còn hơn tƣ bản.
Sau, tất cả công tác cán bộ phải thi công chức hết, thi trổ tài cho nhân dân tham
gia, cho hiền tài nở mặt, lúc đó lũ nặc nô ngu dốt phải cúi mình để ngƣời hiền
dạy dỗ. Thời sau này, cứ phát hiện kẻ đểu cáng trong xã hội, Ta sẽ bóp chết
không sống đƣợc-đó là TRỜI TỪ BI giải thoát xã hội cho lũ ác chúng nó.
*Điều 44: Đảm bảo quyền đƣợc lao động và cống hiến, bảo vệ nhân tài: làm việc
và cống hiến theo khả năng cao nhất. Ai có tài mà dấu, hoặc cống hiến cầm
chừng, sẽ đƣợc tập thể nhân dân phán xét, đƣợc Hội đồng giám sát phê bình và
giáo dục. Kẻ đố kỵ, tỵ nạnh với nhân tài sẽ bị trị tội. Ai có khả năng riêng, nghề
riêng, tài riêng, thì cần phổ biến; nếu sự phân công lao động chƣa cụ thể, thì
ngƣời đó đƣợc hƣởng quyền lợi ƣu đãi, nhƣng không đến mức tích lũy dƣ thừa.
Chống thái độ giấu tài, giấu nghề, trung bình chủ nghĩa, cha chung không ai
khóc, làm việc cầm chừng. Những kẻ xấu, có thói ghanh ghen, đố kỵ, hãm hại
nhân tài phải đƣợc đƣa đến một nơi khu vực riêng dành cho những kẻ ngu đần và
phá hoại, để chúng tự giáo dục lẫn nhau.
* Điều 45: Mọi ngƣời phải làm việc, đảm bảo ai cũng phải lao động theo khả
năng và sức lực của mình, trong mọi hoạt động của công xã, với tinh thần tự giác
tuyệt đối và sự nhiệt tình cao cả-Nhƣng không làm quá, làm cố để dƣ thừa vật
269
chất. Lấy đạo đức lao động và tự giác phấn đấu làm công quả và thƣớc đo tiến
hóa trong hiện kiếp.
Mọi kẻ thiếu tự giác và lƣời lao động, ỷ lại, phá hoại, phải tẩy chay khỏi cộng
đồng một cách thuyết phục-không đàn áp, mà đƣa tách sống một khu vực riêng,
tại đó họ đƣợc giáo dục và học cách lao động nghiêm chỉnh, tự giác, sống theo
đúng giá trị mà họ tạo ra. Những kẻ này, sẽ đƣợc bề trên và các quan giám sát
đánh giá, thẩm định nhân cách. Xã hội Thánh Đức càng phát triển cao, thì nhân
cách con ngƣời càng hoàn thiện, phát triển. Khi con ngƣời không tự giác tu tập,
tất yếu sẽ bị xã hội loại thải. Kiếp sau sẽ không cho đầu thai, hoặc tiếp tục cho
vào nơi đầu thai khác để trả quả. Đó là hình phạt đối với một linh hồn.
*Điều 46: Giá trị nhân cách con ngƣời-qua giáo dục nghiêm túc, đƣợc đánh giá
thông qua lối sống và kết quả đóng góp cho xã hội, thông qua tu tập và khai mở
năng linh, thông linh tiến hóa linh hồn; đó là công quả cụ thể, chính xác của kiếp
tiến hóa. Tất cả mọi kẻ không nhận đƣợc giá trị này, cố tình không nhận thức
đƣợc vấn đề này thì không xứng đáng làm dân Thánh Đức.
Giảng: Lối sống và kết quả đóng góp cho xã hội: Lối sống thế nào thì nhân dân
cũng biết-giản dị-thật thà-nhân hậu-thƣơng ngƣời-hay là tham ác, đấu đá, tham
ô, tranh dành, hiểm ác.
Thông qua tu tập và khai mở năng linh, thông linh tiến hóa linh hồn: Tu luyện là
tu tâm dƣỡng tính là chính. Tu luyện thân thì lấy Thiền định thƣờng xuyên là
chính. Nếu đã khai mở tâm linh thì càng phải hiền hiếu với Cha Mẹ Trời và hiền
lành, sống chậm, an nhiên tự tại để bảo vệ cõi vô hình. Vì chúng ta biết khi khai
mở tâm linh mà xuất hồn sẽ gây chấn động rất lớn trong cõi vô hình, nên khi đã
khai nhãn thấu thị, mà thích bói toán kiếm lộc, thì càng làm rối loạn các cảnh
giới; nếu gian ác, thì hóa thân tƣ tƣởng phóng chiếu lên không gian càng làm thế
giới tâm linh xáo trộn. Nên, trong thời Thánh Đức, sẽ phải chi phối cách sống
tâm linh lành mạnh. Theo Luật Vũ trụ và truyền thống của Thiên đình, nếu có kẻ
xuất hồn gây náo loạn, đều bị đoạt mạng mang về trị tội.
*Điều 47: Ngƣời già và trẻ em, ngƣời tàn tật đƣợc nuôi dƣỡng miễn phí, không
cần lao động. Bỏ chế độ hƣu trí; mọi ngƣời lao động theo nghĩa vụ đến khi hết
sức lao động, thì đƣợc Công xã nuôi miễn phí.
*Điều 48: Trong mọi hình thức tổ chức, giáo dục và quản lý xã hội, công dân,
tránh cực đoan, chủ quan duy ý chí, cứng nhắc, nhiệt tình phá hoại, nóng vội.
Trách cứng nhắc, hình thức, máy móc, chạy theo mô hình khô cứng, vƣợt năng
lực phát triển hiện có. Tùy theo trình độ tiến hóa văn minh và sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, sản xuất, thì các công xã, các khu tự trị tổ chức các hình thức
quản lý hành chính, hình thức phát triển sản xuất và tổ chức quản lý xã hội nơi
đó một cách thích ứng, trên nền tảng vĩ đại của luật Thánh Đức.
270
Giảng: Đây là chống tƣ duy duy ý chí, nóng vội, chủ quan, chạy theo thời
thƣợng, học mót, học vẹt, học theo nhau mà không chú ý đến tính chất đặc điểm
riêng của bản sự địa phƣơng, quốc gia mình, nên đôi khi nóng vội, áp dụng áp
đặt chủ quan, gây hậu quả. Kinh nghiệm thì nhiều rồi, học mót, học theo nƣớc
ngoài, tƣ duy hời hợt, bệnh phiến diện, bệnh hình thức, bệnh quan liêu, bệnh lý
thuyết xuông, bệnh giáo điều sách vở…
Trong vƣờn có các loại cây quả màu sắc khác nhau, huống gì quốc gia, hay thế
giới, bắt rập khuôn cùng một loại quần áo, tƣ duy…thì không ai chịu nổi-đây là
cái khô cứng, cứng nhắc, dẫn đến tan vỡ của khối XHCN-nguyên nhân chính là
không chuyển hóa nhận thức liên tục, bám vào kết cấu cũ, khi xã hội và nhân dân
đã bƣớc sang yêu cầu mới. Tất cả các mô hình kinh tế phải năng động-nhƣng cần
không tƣ bản thị trƣờng gây tai hại cho xã hội cộng sản. Lúa thì phải đổi giống
thƣờng xuyên, đến các hình thức sở hữu lao động giản đơn đến tập thể, phải
thƣờng xuyên đổi mới.
*Điều 49: Cấm tuyệt đối các hình thức lừa dân, mị dân, dấu dốt, đạo đức giả và
nguy cơ phân hóa giàu nghèo, phân hóa giai cấp. Xã hội Thánh Đức là xã hội
không có giai cấp, không có đấu tranh giai cấp và phân tầng xã hội. Bằng cách
không duy trì các cấp quyền lực quá lâu, trừ Quốc Vƣơng-để tập trung quyền
lực thống nhất, ổn định và duy trì Chính pháp tuyệt đối của Thiên Đạo; không
tạo ra của cải dƣ thừa, lãng phí, mất công bằng và mất cân bằng trong nhân dân;
cấm các khả năng tạo ra cách chiếm dụng tài sản công; giám sát chặt chẽ chức
sắc; hạn chế tối đa việc phân hóa quyền lực, bằng cách bầu cán bộ, giám sát chặt
chẽ các hội đồng, không cho công chức các cơ hội tranh lợi danh và tìm cách
lũng đoạn quyền lực cục bộ, leo lên các bậc thang quyền lực nguy hiểm đến an
ninh Thánh Đức.
Giảng: Không duy trì các cấp quyền lực quá lâu, trừ Quốc Vƣơng: Thực ra ngôi
vị Quốc Vƣơng Thánh Đức-chính là Tổng Thống Hoàn cầu-cũng chỉ làm có 9
năm và do 18 Khu vực Thánh Đức bầu lên, trong các cuộc thi Nhân tài đến hạn;
và lần lƣợt 18 Khu vực thay nhau làm Tổng thống. Nhƣ thế là đủ 9 năm một Khu
vực; sau 162 năm lại đến lƣợt-nhƣng đến khu tiếp theo là khu B, rồi lại sang A.
Cứ nhƣ thế; vậy phải đến 324 năm sau, mới lại đến lƣợt khu cũ đó. Trong Khu
vực lại có 4 Đại Quốc, có cả 2 miền Âm, 2 miền Dƣơng-vậy thì đến khu vực 1
chẳng hạn, đến khu A làm đại diện lên Tổng thống, mà đến miền Đại Quốc miền
âm-thì ngôi âm phải lên làm tổng thống thế giới. Tức là cơ hội cho nam và nữ
làm Tổng thống thế giới ngang nhau.
Tất cả các cán bộ chỉ làm cán bộ một lần rồi nghỉ. Nếu có nơi cần chuyên gia thì
chuyển đến làm chuyên gia, chứ không có chế độ cố vấn cao cấp.
271
*Điều 50: Hàng quí nhân dân tự giác gửi các bản đóng góp ý kiến cho cán bộ
gửi lên Hội đồng Giám sát Công xã; tham gia ý kiến đóng góp tới mọi cấp quyền
lực cấp trên khác bằng cách gửi đóng góp kiến nghị lên hệ thống Hội đồng
Nguyên Lão Tối cao của Giáo hội-Quốc Vƣơng. Ai vi phạm các qui định về
quản lý, đạo đức…đƣợc nhân dân xem xét bằng hình thức tổ chức phê bình qua
văn bản. Ai không tiếp thu, sửa chữa, chế áp nhân dân, trù dập ngƣời phê bình,
lập tức nhân dân gửi văn bản lên trên ở mọi cấp thuộc Hội đồng Nguyên Lão các
cấp. Trong thời gian một tháng, mọi kiến nghị của nhân dân phải đƣợc giải
quyết.
*Điều 51: Mọi thắc mắc, khiếu nại của nhân dân phải đƣợc giải quyết nghiêm
túc, nghiêm minh. Nơi nào để bức xúc chân chính của nhân dân gây lên tình
trạng bất bình và mất đoàn kết cao, gây ảnh hƣởng đến xã hội, thì cán bộ cấp đó
và cấp trên một cấp phải bị kỷ luật ngay lập tức. Cán bộ vi phạm kỷ luật, bị bãi
chức vĩnh viễn.
*Điều 52: Chống tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh. Quan liêu sẽ
làm tan rã Thánh Đức. Quốc vƣơng mà quan liêu, để cấp dƣới thoán lệnh, gây
hậu quả nghiêm trọng, thì phải từ chức! Các chức sắc quan liêu, công việc đình
đốn, dân sự thối nát, tất phải phế truất lập tức.
Giảng: Quan liêu thì xa rời hoạt động thực tế, thƣờng không nắm bắt đƣợc thực
chất hiện trạng, trong khi đó thì xã hội, con ngƣời biến động liên tục. Có lãnh
đạo, thì phải có kiểm tra, báo cáo, giám sát, nếu không lãnh đạo mất chỗ dựa sự
thực. Cấp Khu Tự trị khá xa dân, nhƣng do tính chất tự trị, nên cũng không cần
kiểm tra cứng, mà thỉnh thoảng vi hành bí mật xuống đi du lịch, điều nghiên,
không cần tiếp đón để xét tình hình. Cấp Công xã thì phải bám sát nhân dân và
công việc hàng ngày.
Cửa quyền-hách dịch-kiểu cán bộ thời xin cho bao cấp, thì tuyệt nhiên mất chất
cán bộ Thánh Đức-Phải xác định anh làm cán bộ là nhân dân lựa chọn anh và
giao nhiệm vụ cho anh giúp nhân dân-nhân dân trả lƣơng cho anh, trong khi họ
phải lao động trực tiếp. Anh không làm quan, muốn cho ai thì cho, muốn phán
xét ai thì phán, mà thời Thánh Đức vai trò tập thể, tiếng nói Nhóm Gia đình rất
quan trọng. Tƣ chất thái độ phải nền nã, nhu thuận, hòa đồng, vui vẻ khi đƣợc
phục vụ nhân dân. Nếu đƣợc nhân dân khen ngợi đó mới là món quá quý giá
nhất. Các vì sao trên cao, sau Ta sẽ cho xuống học tập và phụng sự nhân dân để
thử thách, nâng cao hiểu biết và giác ngộ xây đời…cũng là cách để họ cống hiến
cho loài ngƣời. Cách này Thƣợng đế cũng làm nhiều rồi, nhiều thần sao xuống
trần cống hiến rồi, nên cán bộ và nhân tài Thánh Đức hết sức lƣu ý điều Ta dạy ở
đây.
272
*Điều 53: Công xã tự trị, bầu và phế truất trực tiếp Hội đồng quản lý. Tất cả các
vấn đề quan trọng của Công xã, Hội đồng quản lý phải tổ chức lấy ý kiến đóng
góp của tập thể nhân dân và Hội đồng Giám sát công xã, quá 50% ý kiến nhất trí
mới đƣợc tiến hành làm. Thực tế cụ thể là nền tảng của mọi kế hoạch cụ thể.
*Điều 54: Các kế hoạch chiến lƣợc lớn của quốc gia phải lấy ý kiến của nhân
dân một cách nghiêm chỉnh. Khi cần thiết, Hội đồng Nguyên Lão giám sát các
cấp phải lấy biểu quyết theo phiếu bầu chọn của nhân dân.
Giảng: Hội đồng Hội đồng quản lý Công xã nhƣ Ban chủ nhiệm HTX thời Việt
Nam; Hội đồng Nguyên Lão Tối cao thực chất là Nghị Viện hay Quốc Hội. Tuy
nhiên Hội đồng Nguyên Lão toàn lão già từ 60 tuổi trở lên. Ở cấp Hội đồng
Giám sát Công xã cũng thế, thay cho Hội đồng Nhân dân làm nhiệm vụ giám sát,
kiểm tra, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chỉ khác là toàn lão già trên 60
tuổi.
Các lão già thƣờng ghê gớm, không còn ham hố công danh chức tƣớc bổng lộc
tầm thƣờng, lại đến tuổi tri thiên mệnh, trải nghiệm kinh nghiệm cuộc đời rồi, lại
có uy tín với con cháu, thôn xóm-gần giống với Hội đồng Già Làng ở các phum
sóc Tây Nguyên-Việt Nam, hay bộ tộc Ko-Gi, nên cách thức làm việc của họ
trong giám sát thƣờng chặt chẽ, khôn ngoan và trong sạch hơn mọi cấp tuổi khác.
Khi họ đại diện cho tiếng nói và quyền làm chủ của nhân dân thì tất cả sẽ tốt đẹp
hơn rất nhiều. Đây cũng là điểm mới của xã hội Thánh Đức so với các loại chính
quyền khác.
*Điều 55: Khi mệnh lệnh cấp trên vi phạm, không đúng đắn, nhân dân kiến nghị,
đóng góp, nhƣng không tự do vô lối, tự do kết bè biểu tình hay tự do vô chính
phủ, kích động làm loạn trật tự xã hội. Mà đóng góp mang tính tự giác, xây
dựng, trách nhiệm nghiêm túc và chính xác. Chống mọi kẻ lợi dụng phá hoại
đoàn kết xã hội và nghiêm minh của Quốc vƣơng.
*Điều 55: Con ngƣời Thánh Đức phải yêu thƣơng nhau, phải tôn trọng nhau và
tôn trọng các giá trị chân chính của nhau; không tranh đoạt các giá trị cá nhân
của nhau; tìm hạnh phúc riêng trong hạnh phúc chung. Khi tập thể chƣa hạnh
phúc mà cá nhân ích kỷ tƣ lợi, thì đó là điều đáng xấu hổ lớn. Hòa đồng trong
một cộng đồng thân ái, bình đẳng. Mọi khúc mắc phải đƣợc thông qua thƣơng
lƣợng, hòa giải. Công xã lập câu lạc bộ hòa giải, hòa giải mọi mâu thuẫn phát
sinh của công dân, của gia đình. Nếu không tự giải quyết đƣợc, mới nhờ đến Hội
đồng quản lý và luật pháp. Ngƣời nào còn hiềm khích, thù hận sau hòa giải, thì
hòa giải chƣa thành công. Xã hội và không gian môi trƣờng nơi đó không để thể
vía, sóng tƣ tƣởng của những kẻ thù hận ảnh hƣởng môi trƣờng tập thể; do đó, kẻ
nào thấy không thể hòa nhập, hòa giải đƣợc, thì sẽ đƣa đến ở một khu dành riêng
cho những ngƣời ích kỷ.
273
*Điều 56: Trong công xã, có nơi lao động, các xí nghiệp, ruộng đồng, khu phân
phối sản phẩm, kho dự trữ sản phẩm, khu vui chơi giải trí, công viên, nhà văn
hóa, các câu lạc bộ, cơ sở y tế, trƣờng học, đền thờ Vua Cha Thƣợng đế, bệnh
xá.
Các gia đình có không gian riêng: Nhà ở, sân vƣờn-nếu có thì tốt.
Giảng: Cách cách tổ chức xã hội kiểu HTX ở Việt Nam khá bài bản, tuy còn
hình thức phát triển thấp, sau này cần nhân rộng ra thế giới. Khi thế giới tiến bộ
hơn về văn hóa và công nghệ, thì họ tiến hành xây dựng các công xã công nghiệp
nhanh hơn Việt Nam-lúc đó ngƣời Việt Nam học hỏi trở lại. Nhƣng tất cả các
công xã, chú ý môi trƣờng và quỹ đất-môi trƣờng nông thôn là cơ bản.
Đền thờ Vua Cha Thƣợng đế và Vƣơng Mẫu thì làm tại nơi yên tĩnh nhất-
không là nơi hội họp, học hành, giảng bài, gọi là ĐỀN THÁNH. 3 phía xung
quanh-trừ trƣớc mặt Đền cần có sự yên tĩnh, có vƣờn rộng rãi cây cảnh hoa lá
trái xum xuê bốn mùa tƣơi tốt, có non bộ, có suối nhân tạo, có bể cảnh to lớn.
Làm đền thờ thì trong Luật Thiên Đạo đã hƣớng dẫn, nay nói thêm, các con phải
là đền thờ kiểu Kim Tự Tháp Hình tròn-kiểu Ai Cập-có nhiều tầng- tầng, có 9
cấp cầu thang lên, nóc đền thƣờng nhọn tròn dần lên cao, chú ý tránh sét đánh.
Trong sau đền Thánh có Hậu Đƣờng-nơi để đồ thờ tự, quản đền ở phía sau. Bên
trong Đền Thánh có Linh Đƣờng rộng rãi bố trí Điện thờ-đủ Tam Tòa Thiên
Đạo-Trên cao nhất treo Thiên Phù hình chữ Thập nổi bằng gỗ, đá, vàng, hay
thạch anh màu trắng-dài 1m 72, chiều ngang dài 72 cm. Vòng tròn lớn đƣờng
kính 42 cm, vòng tròn nhỏ 36 cm. Lõi tròn đồng tâm ở giữa vòng tròn lớn là 18
cm, vòng tròn nhỏ là 12 cm. Chiều dày của Thiên phù là 7 cm. Các sao đúc nổi,
cân chỉnh cho đúng. Chiều dày của sao thấp hơn vòng tròn giữa.
Bên Trái bên dƣới của Thiên Phù treo cờ Thiên Đạo-Bên phải của Thiên Phù
treo Quốc kỳ của Quốc gia đó.
Thiên Phù treo cao hơn bàn thờ là 81 cm.
Ở dƣới bày hƣơng án có ghế Ngai ( Nhƣ bên Việt Nam-Trung Quốc hay thờ )
cho 1 ngôi giữa là Cha, ghế Ngai bên Phải Là Hội Đồng Mẫu Vƣơng ( hay Mẫu
Phật-theo Cao Đài và Mật Tông)- ghế Ngai bên trái là Hội đồng các Thần Thánh
và Long Hoa Giáo chủ Di Lặc Vƣơng Phật-làm chủ Tòa Ba.
Ở dƣới bày 7 ngón nến và Nghi trƣợng thờ các Đấng Bắc Đẩu Thất tinh.
Dƣới nữa là 7 ngón nến và Nghi trƣợng của các Thần:
Thần 1-HỢP NHẤT- ( Thần tinh thần quần tụ, qui về, đoàn kết, an vui không
phân biệt). Nam Thần. Thế giới Hợp Tiên Thành tựu. Nghi trƣợng màu trắng.
Thần 2-TĨNH LẶNG- Thế giới Tĩnh Tiên Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trƣợng
màu vàng.
Thần 3-TÌNH YÊU-Thế giới Thiên Tiên Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trƣợng màu
xanh da trời.
274
Thần 4-VIÊN MÃN-( Cực lạc)- ( hạch phúc tròn đầy)- Thế giới Viên Tiên
Thành tựu. Nữ Thần. Nghi trƣợng màu hồng lam.
Thần 5-TRÍ TUỆ-Thế giới Tuệ Tiên Thành tựu. Nam Thần. Nghi trƣợng màu
đỏ.
Thần 6-Ý TRÍ-KIÊN NHẪN-KIỀM CHẾ- Thế giới Kiên Tiên Thành tựu. Nam
Thần. Nghi trƣợng màu đen.
Thần 7-GIẢI THOÁT-không tham, thèm, cảm giác cực lạc, an ổn và giải thoát
hoàn toàn, không còn tranh đấu, đố kỵ và đau khổ. Thế giới An Lạc Tiên Thành
tựu. Nữ Thần. Nghi trƣợng màu tím.
( 7 trạng thái Thế giới cõi Đại Đồng-Thánh Đức trên cao và dƣới trần gian).
Ngƣời tu Thiên Pháp và ngƣời Thánh Đức phải đạt đủ 7 tiêu chí này.
Dƣới nữa là để 8 Mâm Đồng-Mỗi Mâm đƣờng kính 72 cm- bày 9 Bộ Nghi
trƣợng nhỏ hơn để tôn thờ 72 Thánh Khai Đạo của Thiên Đạo. Mỗi Nghi trƣợng
thờ một Thánh.
Mâm 1 nghi trƣợng màu đen-mâm 2 trắng, 3 xanh lá cây-4 đỏ-5 vàng-6 xanh lam
trời-7 chàm, 8-tía đỏ-9 tím.
Nghi trƣợng là gì? Đó là các Tháp 7 tầng-cao 27cm-đƣờng kính 21 cm làm
bằng gỗ, đồng, đá thạch anh, hoặc vàng, bạc-gần giống nhƣ tháp Văn Xƣơng, có
nóc tháp tròn to, có bệ đỡ-nhƣng càng cầu kỳ đẹp và dày dặn càng tốt.
Dƣới các Mâm này để một quả cầu bằng gỗ hoặc Thạch anh đúc làm hình giống
trái đất.
Dƣới quả cầu đó để bộ trụ bình hƣơng-không làm bát hƣơng mà để trụ bình cắm
hƣơng-chỉ đốt hƣơng trầm-không dùng hƣơng đen.
Lễ đƣờng là nơi đứng phát biểu, hát ca, ở giữa có cột cờ Thiên Đạo để kéo cờ
khi làm lễ-cột cờ chỉ cao khoảng 5m, cờ cao khoảng 2m. Tất nhiên tính toán theo
kích thƣớc chiều cao của Đền Thánh. Nếu Đền cao thì nóc đền phải cao, tính làm
trụ cờ theo phù hợp.
Bái đƣờng là nơi các con đến hành lễ, ngồi hai bên nhƣ Cao Đài giáo.
Phía ngoài đền, phía trƣớc: làm cổng riêng-vì đền làm theo kiểu hình tròn tháp
tròn rồi, thì phía ngoài tùy cơ để làm cổng, không bắt phải theo yêu cầu, để tạo
sự đa dạng trong kiến trúc.
Hai bên cạnh lối đi chính, có vƣờn hoa nhỏ, ghế đá, bể cảnh, trồng hoa. Sân
trƣớc cần thật rộng, rộng đến độ có thể chứa đƣợc vài ngàn ngƣời.
Có đƣợc thờ tƣợng và ảnh không? Không đƣợc thờ và tƣợng ảnh của bất cứ ai,
kể cả giáo chủ. Ảnh Giáo chủ Thiên Đạo và các Thánh thì có thể làm Nhà Bảo
tàng của Đại Đạo-làm nhỏ-để trong vƣờn cây. Tại nơi trang trọng của sân chơi
phía ngoài, có thể để tƣợng DI LẶC VƢƠNG PHẬT-Nhƣng tùy nơi, không bắt
275
phải làm giống nhau. Không thờ bát hƣơng, chỉ trồng hoa xung quanh. Không để
các tƣợng khác. Tìm cách dụ chim trời đến làm tổ trong các vƣờn cây để tạo sức
sống cho Đền.
*Điều 57: Các công xã qui hoạch khép kín, theo hình tròn, hoặc vuông, hoặc
theo khu vực địa lý tự nhiên, nhƣng không biệt lập cực đoan với bên ngoài.
Chống cát cứ, tạo ra luật tục cực đoan riêng của khu vực. Chống sự cố tình tạo ra
văn hóa cực đoan, hay sự phiến diện của văn hóa nơi đó. Văn hóa phải hòa nhập,
phát triển, nếu có bản sắc riêng cũng tốt, nhƣng không phản qui luật phát triển.
*Điều 58: Giáo dục, y tế, thiết chế văn hóa-xã hội công cộng miễn phí hoàn
toàn. Trừ gia đình riêng, còn lại công dân tham gia các hoạt động lợi ích bên
ngoài, đều là của chung.
*Điều 59: Không trả lƣơng, mà chấm công lao động, trả bằng vật phẩm cần
dùng theo nhu cầu-sẽ có các cửa hàng tự động, ngƣời dân vào cửa hàng tự chọn
các thứ mình cần, trả lại phiếu công, nên không mất công phục vụ. Giấy chứng
công tƣơng ứng với giá trị một ngày công lao động và phù hợp với mức vật
phẩm hiện có trong khả năng sản xuất của nơi đó. Có thể cho nhau giấy chứng
công để lấy vật phẩm bổ sung.
Cách chia cơ bản nhƣ sau: Ví dụ: công xã tuần này sản xuất đƣợc 200 kg gạo,
100 kg thịt, 500 kg rau…trong công xã có 100 ngƣời lao động, thì chia số vật
phẩm ấy thành các phần đều nhau cho số 100 lao động, cộng với số ngƣời cồn
xã nuôi, để lại một phần dự trữ nhỏ, còn lại chia cho mọi ngƣời. Đối với nông
dân, thì khoán sản phẩm, họ sẽ đƣa sản phẩm đến nộp trong 1 tuần hay 1 tháng;
vì công xã còn có nhiều thành phần ngành và cơ cấu lao động khác, nên mỗi
thành phần sẽ giao nộp sản phẩm theo qui định nhƣ thế.
Với sản phẩm đơn lẻ, nhƣ chăn nuôi gia đình, thì họ tự làm đƣợc họ hƣởng
thêm. Sản phẩm tự nhiên, nhƣ sông hồ có cá…thì công xã có cách quản lý riêng,
nếu không quản lý đánh bắt chung, thì ngƣời dân có thể tự đánh bắt để ăn thêm,
tùy khả năng của mình. Nhƣng về lâu dài, các cơ sở hạ tầng Thánh Đức nhƣ
sông, biển, ao hồ….cần đƣợc quản lý chung và tập thể tổ chức sản xuất đánh bắt
để mọi ngƣời cùng đƣợc hƣởng.
*Điều 60: Công xã phải lo cho quyền lợi đời sống trong công xã, không để đói
rét, bệnh tật mà không đƣợc chạy chữa, trẻ em không đƣợc thất học; đảm bảo
cung cấp nhà ở cho công dân, ai cũng đƣợc cấp nhà khi lập gia đình.
Đất đai nơi ở, tạm giao cho hộ gia đình, khi có sự thay đổi nhân khẩu, thì điều
chỉnh cho phù hợp. Ai ai cũng có nhà, không gian sống, có việc làm và đảm bảo
mọi quyền dân sinh xã hội, không cạnh tranh, không mất việc, không đói khổ
cùng đinh, không phải cầm cố, làm thuê, không bị khốn nạn của bất công xã hội
vùi dập. Công xã là một thiên đƣờng nhỏ, trong thiên đƣờng lớn Thánh Đức.
276
*Điều 61: Dân số công xã có thể không quá 10. 000 dân, để đảm bảo qui hoạch
ngành nghề và tính tự lập, tự chủ. Dân số phát triển, thì di dân thừa đến một nơi
mới cho phù hợp.
Dân công xã, sinh ở đâu, thì sống, lao động, học tập tại công xã đó. Đào tạo cán
bộ, giáo dục ở đâu thì phục vụ tại khu vực đó, trƣờng hợp đặc biệt mới đƣa đến
khu tự trị khác. Không thực hiện cách chuyển tự do, chọn công xã, chọn nơi
sống. Quê hƣơng thế nào, phấn đấu xây dựng ra sao, thì hƣởng sự tốt đẹp, hoặc
ngƣợc lại.
*Điều 62: Khi dân số tăng ngoài số lƣợng qui định của công xã, thì phải lập
công xã mới, hoặc tổ chức chuyển dân đến công xã chƣa đủ số dân nhƣ qui định.
Không chuyển dân từ quốc gia này đến quốc gia khác, trừ trƣờng hợp đặc biệt
đƣợc sự điều động của Quốc Vƣơng.
*Điều 63: Các khu tự trị nhƣ nhau về cơ cấu: Các trƣờng Đại học Nhân dân phổ
biến, tạo ra các nghề nghiệp, việc làm, sản phẩm lao động, vật chất cơ sở hạ
tầng, y tế, giáo dục, văn hóa. Có nghĩa: Các khu tự trị đồng đều về cơ cấu văn
hóa và cơ sở hạ tầng xã hội, đồng đều về giá trị văn hóa, vật chất; do đó không
mất công chuyển dịch văn hóa, kỹ thuật, tri thức, vật chất, nhân công, nhân lực
từ nơi này đến nơi khác, do đó không tạo ra sự bất bình đẳng của các khu tự trị,
các vùng miền, các quốc gia, không chêch lệch nhiều về sự phát triển. Trong các
quốc gia với nhau cũng thế.
*Điều 64: Khi có công trình, nhiệm vụ của quốc gia, vƣơng quốc, thì các địa
phƣơng liên quan cùng bàn bạc và hỗ trợ nhau để cùng thực hiện; Quốc trƣởng
chỉ đạo trong phạm vi quốc gia, nếu là việc quan trọng thì Quốc Vƣơng trực tiếp
chỉ đạo. *Điều 65: Hạn chế và dần xóa bỏ chế độ quản lý kế hoạch, quan liêu bao cấp.
Tính chất tự trị cao, sẽ xóa bỏ chế độ kế hoạch, bao cấp. Nhà nƣớc hầu nhƣ
không giữ vài trò điều tiết nền kinh tế vĩ mô, hay đủ năng lực bao cấp địa
phƣơng, mà nhà nƣớc chỉ có thể tham gia hƣớng dẫn và chỉ đạo cho các địa
phƣơng cùng hợp tác làm. Nhƣ vậy, nhà nƣớc chỉ giữ vai trò cố vấn, giám sát là
chính. Đến lúc thực hiện xong cuộc cách mạng xóa bỏ giai cấp hoàn toàn, khi
các công xã ổn định và phát triển cao, thì vai trò của Nhà nƣớc chỉ còn một nửa,
tiến tới chỉ còn là cơ chế đại diện và chỉ đạo về hành chính cán bộ là chính. Đây
là phạm trù “nửa Nhà nƣớc-hay Nhà nƣớc tiêu vong”.
Khi các công xã phát triển cao, thậm chí các khu tự trị chỉ còn hình thức đơn
phƣơng; nếu giao công tác giáo dục, khoa học cho công xã, thì khu tự trị không
còn cơ chế chỉ đạo kinh tế-giáo dục-khoa học. Nhƣng phải giữ vững chế độ quản
lý của khu tự trị, nếu không các công xã sẽ tự do, rối loạn; đặc biệt trong việc
giao lƣu với các địa phƣơng khác. Nhƣ vậy, các công xã tự trị phải đặt dƣới sự
lãnh đạo chặt chẽ của khu tự trị về xã hội, về giao lƣu kinh tế.
277
*Điều 66: Khi các công xã tự quản cao độ, với trình độ khoa học kỹ thuật và sản
xuất cao siêu, con ngƣời siêu đẳng, tự giác và văn minh cao đẹp, nhu cầu trao đổi
sản xuất và khoa học, văn hóa hầu nhƣ không còn giữa các quốc gia; lúc đó, các
khu vực quốc gia có thể bỏ chế độ quốc trƣởng và cƣơng vực địa lý quốc gia.
Lúc đó xóa bỏ Nhà nƣớc quốc gia, Vƣơng quốc chỉ còn các khu vực tự trị hay là
các công xã Đại đồng Hoàn Mỹ. Lúc đó gọi là Công xã Hoàn Mỹ và Nhà nƣớc
Hoàn cầu.
*Điều 67: Khi Thánh Đức phát triển cao độ, thì có thể trong Vƣơng Quốc chỉ
còn hình thức các khu tự trị, xóa bỏ chế độ nhà nƣớc cấp quốc gia để thống nhất
Nhà nƣớc Hoàn Cầu-xây dựng các công xã Hoàn Mỹ. Tính xã hội hóa và thống
nhất sẽ ở mức rất cao. Nhƣng để bảo đảm không có sự lộn xộn và cát cứ, tranh
dành ảnh hƣởng hoặc thâu tóm quyền lực, thì phải làm tốt công tác cán bộ tại
khu đó. Cán bộ phải do Quốc Vƣơng đào tạo, giáo dục và bổ nhiệm, không đƣợc
bầu cán bộ khu tự trị. Khu Tự trị chính là những chiếc đinh móc trong khuôn khổ
Vƣơng Quốc.
Giảng: Đây là điều có thể xảy ra khi mà xã hội Đại Đồng phát triển cao-không
cần đến 72 Quốc gia nữa, mà chỉ cần MỘT QUỐC GIA TOÀN CẦU THỐNG
NHẤT HOÀN TOÀN-giống nhƣ các hành tinh phát triển trên cao, họ cũng chỉ
có 1 Vua Sao là Thiên Vƣơng tinh và một Hội đồng hành tinh mà thôi. Trong
khoảng 20 ngàn năm nữa, Ta sẽ cho hợp nhất nhƣ thế này, để thống nhất Nhà
nƣớc Thánh Đức hoàn toàn về mặt hành chính sự nghiệp.
GIÁO DỤC *Điều 68: Mọi kiến thức văn hóa, khoa học phải đƣợc phổ biến rộng rãi, để tạo
ra các giá trị cộng đồng bình đẳng, đồng đẳng, đồng đều.
Việc lập các trƣờng đồng đều về giáo dục sẽ khó khăn, vậy phải cố gắng chia
đều chi thức cho mọi ngƣời, cho các khu tự trị, đào tạo chia đều, phổ biến, sau
một thời gian nào đó sẽ tạo ra nhân sự và cơ cấu giáo dục phổ biến, từ đó tạo ra
sự tích lũy nhƣ nhau về nhân tài và tri thức, tạo ra văn hóa và đời sống đồng đều.
*Điều 69: Về giáo dục cơ bản:
Cấp học 4 năm-4 lớp.
Trẻ em từ 2-6 tuổi học ở nhà trẻ, mẫu giáo.
Từ 7 tuổi đến 11 tuổi: Học tiểu học-cấp 1.
Từ 12-16 tuổi học Trung học-cấp 2
Từ 17-21 tuổi-học cao đẳng-cấp 3
Từ 22-26 tuổi học đại học-cấp 4. Mọi ngƣời đƣợc đào tạo nghề ở cấp 4, ai cũng
đƣợc học đại học-trình độ phổ biến và chuyên nghành.
Từ 27-31 tuổi: Học cao cấp-chuyên sâu nâng cao ngành-cấp 5.( nếu có nhu cầu
của nơi ở, công tác, -chứ không phải nhu cầu cá nhân).
278
Đến cấp 4, có thể thi Nhân tài. Chấm dứt việc học ở cấp 5-phải hoàn bị mọi tri
thức, sau đó chỉ có thể bổ sung thêm tri thức trong đời sống mới khi cần.
Không có học vị Tiến sỹ, Thạc sỹ, Giáo sƣ…Vì: Thánh đức ai cũng phải giỏi.
Ngƣời dạy chung từ cấp 3 trở lên, gọi là Giáo sƣ: Ngƣời thày dạy học. Ai có tài,
có trình độ cao hơn, thì dạy ở cấp cao hơn, tránh lối học kinh viện, giáo điều khô
cứng kém sáng tạo, vì học vị, bằng cấp, nhƣng hàm lƣợng tri thức và trình độ
sáng tạo thấp kém; chống mọi điều kiện làm phát sinh tiêu cực, gian trá trong
giáo dục. Đào tạo con ngƣời, lấy hiệu quả lao động sau khi ra trƣờng làm thƣớc
đo đánh giá kết quả giáo dục.
Giảng: Đây là tuổi học 4 cấp, mỗi cấp 5 năm. Sau này thì dân Thánh Đức cú
tuổi thọ cao, học đến trình độ bác học-có nghĩa học rất rộng, học biết đủ thứ,
nhiều tri thức. Trên các cõi cao có sao học đến 22 tuổi, cũng có sao mật độ 4-5
học đến 28 tuổi. Thánh Đức có thể duy trì học đến 26 tuổi, rồi mới xây dựng gia
đình. Học một lần cho xong hẳn, đào tạo nghề đến trình độ cao nhất, học học bổ
sung, học nâng cao, vòng 2 vòng 3.
Riêng Quân đội nếu có sẽ có cơ chế đào tạo riêng.
Học đến cấp 4 có thể thi Nhân tài Thánh Đức đƣợc rồi, tức là có thể làm cán bộ
từ cấp Tổng Thống-Quốc Vƣơng Thánh Đức cho đến các cấp khác. Đó là cái lý
để đào tạo học hành nghiêm túc một mạch và dài hạn nhƣ thế.
*Điều 70: Chỉ tham gia thi Nhân tài, mới đƣợc bổ nhiệm vào hệ thống chính
quyền, còn lại, các công việc ngành nghề xã hội bình thƣờng, thì chọn nhân sự
theo kết quả học tập-kết quả học tập cao, đƣợc giữ cƣơng vị, nhiệm vụ, công
việc quan trọng cao hơn. Chống việc để kẻ kém tài ở trên ngƣời tài hơn họ; nơi
nào để xảy ra tình trạng nhƣ trên, ngƣời lãnh đạo nơi đó và cấp trên một cấp phải
bị thôi lập tức chức vụ hiện có.
Giảng: Giới thiệu Điều 13-và Điều 14 Luật Thiên Đạo làm rõ Điều này:
Điều 13-Luật Thiên Đạo: Thể thức chọn lọc và sử dụng nhân tài-nhân sự
trong Giáo Hội Thiên Đạo và xã hội Thánh Đức.
Nguyên lý sử dụng:
Cứ 9 năm một lần, thì thay toàn bộ hệ thống cán bộ Thánh Đức, kể cả thay Giáo
Hoàng, gọi là một Khóa lãnh đạo.
Phải thay đổi nhân sự, để tránh tham quyền cố vị, thể hiện nền dân chủ Thánh
Đức.
I-Chọn Nhân tài vào Hệ thống Hội đồng Thánh Đức Tối cao:
Hội đồng Nhân sự giao cho Viện Tổ chức Nhân tài trực tiếp tổ chức thi chọn
Nhân tài 3 cấp.
Cứ 9 năm một lần, tổ chức thi Nhân tài Thánh Đức; chỉ lấy ngƣời tài đức vào
làm cán bộ, ở các cấp khác nhau của hệ thống Hội đồng Thánh Đức Tối cao.
279
Thể thức: Nhân sự, sau khi đƣợc học hành đào tạo xong ở địa phƣơng đầy đủ
theo tiêu chí hoàn thiện, đƣợc Cấp Khu vực tuyển chọn.
Các bƣớc tiến hành:18 quốc gia Thánh Đức. Mỗi thí sinh đƣợc thi 3 lần ở cấp
Quốc gia và Đại Quốc gia và Toàn Quốc Thánh Đức.
Điều kiện:
-Không là con ông cháu cha với các vị lãnh đạo trƣớc, để tránh hiện tƣợng ô dù,
con ông cháu cha, mất dân chủ trong nhân dân.
-Đã học đủ trình độ đào tạo theo hệ thống các bậc học cơ sở Thánh Đức.
-Có tài năng, đức độ, đƣợc nhân dân tín nhiệm bầu chọn.
-Không phân biệt giới tính. Tuổi từ 25 đến 49.
-Mỗi công xã bầu chọn lấy 252 ngƣời đi.
-Tại 1 quốc gia, gọi là thi Sơ khảo Nhân tài Thánh Đức Khu vực: số thí sinh
thi tuyển chọn về thi từ một Khu vực; khu vực đó tuyển chọn lấy 25920 ngƣời
cao nhất để thi Chung khảo Khu vực. Thi Chung khảo chọn lấy 648 ngƣời để đi
thi Cấp Tối cao Thánh Đức.
-Thi cấp Tối cao Thánh Đức: Cả 18 khu vực chọn đƣợc 648 nhân với
18=11.664 thí sinh, để bƣớc vào thi Toàn thế giới. Thi Tối cao Thánh Đức Toàn
thế giới, có 11.664 thí sinh, chọn lấy 1564 ngƣời-đây là số toàn bộ cán bộ của
Hội đồng Thánh Đức Tối cao. ( Hội đồng Thánh Đức Tối cao có 1564 ngƣờii).
Số còn lại của 11.664 trừ đi 1564 ngƣời =101.000 ngƣời sẽ đƣợc sử dụng làm
nhân viên các cơ quan trong 2 Hội đồng Tối cao, cán bộ an ninh, quân đội, tòa
án...
Toàn bộ số ngƣời này, phải tấu báo lên Thiên đình và đƣợc Thiên đình duyệt
chọn; riêng giáo hoàng tƣơng lai và một số cán bộ quan trọng, sẽ do Thiên đình
bổ nhiệm qua Sắc Lệnh rõ ràng, số còn lại sẽ đƣợc Hội đồng Tâm linh Tối cao
lựa chọn thông qua số mệnh và đƣợc Thiên đình có thể chỉ định, hƣớng dẫn
thêm, để an ổn xã hội Thánh Đức.
* Tất cả tội phạm xã hội, con cháu nhiều đời đều không đƣợc tham gia thi vào
các cơ cấu chính quyền này, phải quản xét thật chặt chẽ thông qua Lý lịch gia
đình.
II-Chọn nhân tài ở các cấp quản trị Khu vực:
Sau khi chọn và bổ nhiệm xong 2 hệ thống Tối cao và có bổ quản chức vụ Tổng
quản Hội đồng Khu vực thì bắt đầu tiến hành Thi Nhân tài Cơ sở.
Cán bộ cũ thay hoàn toàn và chỉ làm duy nhất 1 nhiệm kỳ 9 năm, rồi nghỉ vĩnh
viễn.
1-Thi Nhân tài Cơ sở cấp Khu tự trị và Khu vực:
Khu tự trị hợp thi các nhân tài từ các Công xã, số thí sinh không hạn chế, tính cả
thí sinh đã thi còn lại từ cấp cao trƣớc không đậu; chọn toàn khu vực lấy 129.600
ngƣời. Số cán bộ này bổ nhiệm vào tất cả các ban ngành chính quyền của Khu
vực đó, làm các công việc hành chính sự nghiệp...
280
Lập Hội đồng Khu vực Mới: Gồm 72 ngƣời, trong đó Hội đồng Lãnh đạo là 14
ngƣời. Do Đại Tổng quản Khu vực trực tiếp bổ nhiệm, sau khi báo cáo nhân sự
lên Giáo Hoàng-Quốc vƣơng phê chuẩn.
2-Thi Nhân tài Cơ sở cấp Công xã:
-Tất cả những thí sinh còn lại mà thi Khu tự trị và Khu vực không đậu, trong số
252 thí sinh ban đầu- thì tuyển vào thi tiếp ở cấp này.
Điều kiện:-Không là con ông cháu cha với các vị lãnh đạo trƣớc và ngƣời mới
lên lãnh đạo Khu vực đó, để tránh hiện tƣợng ô dù, con ông cháu cha, mất dân
chủ trong nhân dân.
-Tuyển chọn 72 ngƣời làm cán bộ Ban quản lý công xã và Ban Giám sát công xã.
Mỗi Ban có 36 cán bộ.
-Sau khi tuyển chọn, thì báo cao Hội đồng lãnh đạo Khu tự trị Thánh đức phê
chuẩn ( Hội đồng lãnh đạo mới) ; ( có 25920 Khu tự trị Thánh Đức trong toàn
Thánh Đức).
III-Chọn nhân tài vào Hội đồng Nguyên Lão Tối cao.
-Mỗi vị nguyên lão chỉ đƣợc thi một lần, từ 60 tuổi trở lên.
(Nếu không đậu, 60 tuổi, thi lần sau là 69 tuổi, nếu làm Nguyên Lão nhiệm kỳ 9
năm là 78 tuổi).
-Mỗi Công xã chọn 9 nguyên lão tuổi 60 trở lên, đi thi tại cấp Khu vực.
-18 Khu vực-Quốc gia, mỗi khu vực chọn 18 ngƣời cao điểm nhất đi thi Vƣơng
quốc. Tổng số toàn Vƣơng quốc là 324 ngƣời.
-Thi Vƣơng quốc-Tổng số là 324 ngƣời. Giáo Hoàng-Quốc vƣơng tổ chức thi,
lấy 72 vị vào Hội đồng Nguyên Lão Tối cao, chia thành 7 Hội đồng Giám sát,
mỗi Hội đồng là 10 vị, trong đó có 7 cán bộ lãnh đạo làm 7 Đại Tổng quản; còn
lại 2 vị làm quan biệt phái Khâm sai Giám sát Nguyên Lão bên cạnh Quốc
Vƣơng, có chức năng giám sát và sứ giả của Quốc Vƣơng-Giáo hoàng.
-Số còn lại là 324-72=252 vị, chia đều cán bộ cho 7 Hội đồng, mỗi Hội đồng
đƣợc 36 ngƣời nhân viên.
* Điều 14-Luật Thiên Đạo-Cách sử dụng chức sắc cán bộ của 2 Hội đồng
Tối cao:
Mọi công chức làm nhân viên không phải là các Đại Tổng quản, sau khi đã hết
nhiệm kỳ năm của Hội đồng, thì có thể đƣợc giữ lại làm các chuyên viên nền,
hoặc công việc chuyên viên tiếp trong thời hạn nào đó, để đảm bảo công việc
chung. Riêng công chức hành chính nền do Quốc Vƣơng bổ nhiệm, chỉ làm công
chức trong 9 năm tại nhiệm kỳ đó, sau đó nghỉ làm thƣờng dân, công chức bình
thƣờng.
281
*Điều 71: Ở cấp học cao, có hình thức học không tập trung, sau này xã hội phát
triển, học sinh ngồi tại nhà để học qua thiết bị dạy học phổ thông, thày giáo chỉ
kiểm tra và dạy hỗ trợ.
Không học nhồi nhét kiến thức, học lấy đƣợc, không học hai buổi, một tuần chỉ
học tập trung 4 buổi, còn lại dành thời gian thực hành, bổ trợ; học chắt lọc kiến
thức, phù hợp với tâm lý-sức khỏe-tâm thể của lứa tuổi. Không dạy lặp lại các
kiến thức đã học ở cấp dƣới.
*Điều 72: Không đào tạo đại trà, phổ biến một ngành nghề nào đó cho đa số mọi
ngƣời, mà phải chọn hạt nhân sự và phải chọn ra nhân tài cho những ngành nghề
cụ thể, cân bằng các ngành trong xã hội, tránh tình trạng tự do chọn nghề, mà
việc phân học nghề phải chuẩn bị ngay từ cấp 3, phát hiện năng lực và năng
khiếu, phân ban văn hóa, tạo ra nhân tài có tính riêng biệt, đến cấp 4 học và đào
tạo, cấp 5 nâng cao. Chúng ta không sợ phân hóa nhân tài tạo ra phân hóa xã hội,
vì tính chất đồng đều về quyền và lợi ích trong phân công lao động và phân chia
lợi ích, trong triệt tiêu sự tập trung tầng lớp, trong sự triệt tiêu sự tham quyền cố
vị của cá nhân.
*Điều 73: Tạo ra sự phát triển đồng đều của các tri thức văn hóa-xã hội, sự phát
triển kinh tế và đời sống vật chất, nhƣng không cố tình tạo ra sự đồng đều giống
nhau một cách máy móc khô cứng, lặp lại nhau, làm mất bản sắc riêng của vùng,
địa phƣơng; nơi nào có đặc trƣng và thế mạnh riêng, thì phát triển cái riêng ấy
thành công hoàn hảo hơn lên.
Không lặp lại giống nhau về các hình thức văn hóa một cách gƣợng ép, sẽ tạo ra
sự nhàm chán, giết chết sự sáng tạo riêng. Cần đảm bảo sự phát triển đa dạng và
sinh động các hình thức văn hóa, tri thức.
*Điều 74: Học Huyền môn Thiên Đạo Đại Pháp tâm công (Thiên pháp):
Chia nội dung học ở các cấp cho phù hợp với trình độ và năng lực tâm thể của
học sinh; đào tạo từ cấp 2 trở lên, đến cấp 4-5 đạt trình độ siêu đẳng. Học sinh
đƣợc chuẩn bị kỹ năng lực tâm linh-tâm thể để bƣớc vào đời sống và cống hiến
cho xã hội, có đạo đức, năng lực tâm linh, bảo vệ và tự chăm sóc sức khỏe; do đó
xã hội phát triển lành mạnh, đạo pháp mở rộng, lý tƣởng và niềm tin Thánh Đức,
tín ngƣỡng sâu sắc; đây là hành trang vô giá cho con ngƣời. Từ cấp 4-5, học sinh
học Thiên pháp, đến 26 tuổi, có thể dự thi Nhân tài, sau khi học xong bậc Đại
học.
Giảng: Thiên Pháp là dành cho dân Thánh Đức có thần thông nhƣ ngƣời ngoài
hành tinh trên cao-mà thƣờng gọi là các thần thánh-á thánh…Đến trình độ thần
thông siêu phàm, phụng sự tồn tại của Vũ trụ. Chứ hiện nay-gia đoạn đầu thế kỳ
21, thì hầu nhƣ không dạy trực tiếp, Giáo chủ không dạy trực tiếp cho học trò, tất
cả treo để đấy, phổ giáo chung chung, đồng thời tránh ma quỷ nhũng nhiễu, lên
Thầy không lộ diện, lộ trần mà các bí pháp thực không truyền dạy trong sách vở.
282
*Điều 75: Các công xã tổ chức các thiết chế văn hóa-chƣơng trình văn hóa nghệ
thuật quần chúng, đa dạng các hình thức thể hiện và sinh hoạt văn hóa, đáp ứng
nhu cầu sinh họat và thƣởng thức văn hóa của quần chúng. Các gia đình tham gia
sáng tạo văn hóa, sáng tạo tác phẩm văn hóa và tham gia thi văn nghệ-nghệ thuật
trong công xã: Thơ, văn, nhạc, họa, tiểu phẩm, kịch, thi văn nghệ công xã, khu tự
trị, quốc gia, tạo ra đời sống vui tƣơi, lành mạnh, an lạc cho nhân dân.
*Điều 76: Làm việc.
Khi xã hội xã hội còn nghèo đói, phải cần kiệm lao động; khi xã hội phát triển,
một tuần phấn đấu làm việc 4 ngày, thời gian còn lại vui chơi. Cấm các cách lao
động lao lực quá độ, cấm bắt trẻ em lao động xã hội.
*Điều 77: Các khu tự trị các trƣờng Đại học và các trung tâm nghiên cứu khoa
học, gắn với công tác giáo dục đào tạo tại đó. Các trung tâm này nghiên cứu và
ứng dụng khoa học. Kích thích sáng tạo bằng các giá trị văn hóa và đạo đức,
phần thƣởng cao quí và thông báo cho toàn thể đồng bào, nhân loại tôn vinh họ.
LUẬT PHÁP *Điều 78: Hiến pháp:
Luật Thánh Đức và Luật Thiên Đạo là hai bộ luật gốc của xã hội Thánh Đức-
Tức là Hiến pháp Thánh Đức.
*Điều 79: Khi Luật Thánh Đức không có hiệu lực vì chƣa lập Thánh Đức, hoặc
Thánh Đức tan rã, phân hóa…Thì Luật Thiên Đạo là Luật của Giáo hội Thiên
Đạo vẫn có giá trị và đúng đắn áp dụng cho Thiên Đạo đến muôn năm không sai
lạc Đạo Pháp và Huyền Pháp. Chính Pháp có thể thay đổi, điều chỉnh, nhƣng
Đạo Pháp-Huyền pháp không bao giờ thay đổi, vì đó là Định Luật Vũ Trụ bất
biến. Các thần dân Thiên Đạo muôn năm vẫn phải thờ Thƣợng đế và học hành
tu luyện để đạt Giác Ngộ, giải thoát ngay tại thế.
*Điều 80: Quyết định của Quốc Vƣơng là quyết định có quyền lực cao nhất-gọi
là Vƣơng Lệnh.
Mọi quyết định có hiệu lực của Quốc Vƣơng và các cấp chính quyền, các tổ chức
hành chính, phải thông qua văn bản hành chính, sắc lệnh, chứ không thông qua
khẩu ngôn. Riêng nhận lệnh của Quốc Vƣơng, mọi cấp phải quì xuống nhận
Vƣơng Lệnh, sau đó lạy Vua Cha Thƣợng đế 9 lạy, thể hiện sự tuân phục mệnh
Trời mà hành sự của chức sắc, trở thành một nghi lễ nghiêm túc trong thực hiện
mệnh lệnh của Quốc Vƣơng Thiên Tử.
*Điều 81: Khi xã hội phát triển còn thấp, thì các quốc gia có thể có luật pháp
riêng, trên cơ sở cụ thể hóa và mở rộng Hiến pháp.
Khi Thánh Đức phát triển cao, thì các quốc gia không có luật pháp riêng, phải
chấp hành nghiêm luật Thánh Đức và Luật Thiên Đạo, và 7 bộ luật Chấp Chính
của Vƣơng quốc.
283
*Điều 82: Các Khu tự trị không có luật pháp riêng, chỉ có các qui định có tính
chất linh động, phổ quát để thực hiện chính luật-gọi là Hƣơng ƣớc Khu tự trị.
Các công xã không có Hƣơng ƣớc, tranh tình trạng loạn ƣớc luật, cát cứ địa
phƣơng.
Tất cả các Hƣơng ƣớc Khu tự trị địa phƣơng của quốc gia, đƣợc sự cho phép và
điều chỉnh của Hội đồng Luật Pháp, sau đó phải thông qua Quốc Vƣơng phê
chuẩn, rồi mới có hiệu lực.
Giảng: Một lần nữa lại thấy tính chất tự do tự trị của xã hội Thánh Đức. Khu Tự
trị-toàn cầu có 25.920 Khu Tự trị-không nhiều, cao hơn cấp tỉnh các nƣớc, có thể
gọi là các Bang-nhƣ ở Mỹ. Mỗi Khu Tự trị có luật pháp riêng, nhƣng không ghi
là Luật, mà ghi là hƣơng ƣớc, để tránh loạn luật Thánh Đức.
*Điều 83: Cấm điều chỉnh các qui phạm của 7 Luật Chấp Chính làm sai phạm
các qui phạm của Hiến pháp.
Hạn chế nhiều điều luật của 7 Luật Chấp Chính, phải cô gọn luật, xây dựng luật
gọn nhẹ, có khả năng giám sát và giáo dục cao, tính phổ quát rộng, áp dụng
chính xác, cụ thể đúng việc đúng ngƣời đúng tội, hợp lý, tránh chồng chéo.
*Điều 84: Hệ thống cơ quan luật pháp.
Căn cứ vào Luật Thiên Đạo về tổ chức cơ quan thi hành luật của Đạo, nếu lập
Thánh Đức trở thành cơ quan thi hành luật pháp Thánh Đức.
*Điều 85: Khi công dân phạm tội, cơ quan luật pháp công lực nghiên cứu điều
tra, truy xét tội phạm cẩn thận, đúng ngƣời đúng tội, cấm sai ngoa gian dối oan
sai, báo cáo tùy tiện, hồ đồ không có chứng cứ, hoặc lập hồ sơ giả, án giả để làm
hại ngƣời tốt, ngƣời thiện. Nhân viên, cơ quan luật pháp để oan sai, phải chịu
hình phạt thật nặng, biếm chức lập tức và đƣa đi khu biệt lập dành cho những
kẻ gây oan.
Trong lịch sử tham nhũng, lũng đoạn xã hội, thì ở đâu chính pháp lung lay, luật
pháp hỗn loạn, ngƣời thiện lƣơng, nhân tài bị suy lụi, bị kẻ ác gian làm hại, là
do chính từ việc các cơ quan luật pháp làm sai, báo cáo láo, nhũng nhiễu dân;
làm luật mà sai phạm, thì không bảo vệ đƣợc luật pháp và công dân.
*Điều 86: Trình tự thi hành phán xử:
Trƣớc khi đƣa tội phạm ra tòa án xét xử, cơ quan pháp luật tham khảo ý kiến
đóng góp của Hội đồng công xã-hoặc cơ quan nơi ngƣời đó công tác.
Khi xét xử: Có đại diện của Viện Kiểm sát thi hành công tố luận tội, cán bộ tòa
án kết tội, luật sƣ biện hộ cho đƣơng sự và luật sƣ phản biện bảo vệ luật pháp,
có đại diện của Hội đồng quản lý công xã, hoặc cơ quan nơi ngƣời đó công tác
theo dõi; có sự giám sát chặt chẽ khách quan của Hội đồng Giám sát công xã,
hoặc cấp tƣơng đƣơng với nơi đối tƣợng sinh sống, công tác, nhƣng vị giám sát
này không có ý kiến trƣớc tòa, chỉ có ý kiến giám sát với Hội đồng Nguyên Lão
các cấp.
284
Luật sƣ biện hộ phải tuân theo luật pháp để bảo vệ quyền lợi công dân một cách
minh bạch, cấm biện hộ sai láo, cãi sằng cãi cố cho tội phạm, hoặc để cho tòa án
làm sai luật, cố ý gây nặng tội cho công dân.
Luật sƣ phản biện, nắm vững qui phạm pháp luật, các tình tiết tội trạng để qui tội
nghiêm minh, nhƣng ý kiến độc lập với công tố của Viện Kiểm sát. Luật sƣ phản
biện phải có chức năng giám sát ý kiến và bày tỏ ý kiến trƣớc công tố, trƣớc luật
sƣ biện hộ để bảo đảm công tố không sai phạm. Luật sƣ phản biện giữ vai trò
trung gian, giám sát, bảo vệ sự đúng đắn của pháp luật tại tòa.
Sau khi hai luật sƣ biện hộ và phản biện nhất trí, cùng công tố nhất trí nghị án,
ký vào vào văn bản thống nhất tội, thì tòa mới tuyên án.
*Điều 87: Khi xử phúc thẩm-nếu có, thì xử tại nơi đó, nhƣng thay luôn cả tổ xét
xử là công tố-luật sƣ-luật sƣ phản biện. Cán bộ Hội đồng quản lý công xã, cán bộ
giám sát của Hội đồng Giám sát công xã, hoặc cấp tƣơng đƣơng vẫn giữ nguyên.
*Điều 88: Khi xét xử sai phạm, Hội đồng Giám sát các cấp thuộc công xã, đến
các cấp Giám sát thuộc Hội đồng Nguyên Lão phải xử lý, báo cáo với cấp trên
họ một cấp; Hội đồng Nguyên Lão tổng hợp các ý kiến sai, đúng, báo cáo lên
cấp trên, đến tới Quốc Vƣơng-không báo cáo các cấp hành chính thuộc Hội đồng
Thánh Đức tối cao-trong đó có Quốc trƣởng. Trƣờng hợp đặc biệt, phức tạp, tấu
lên Quốc Vƣơng xử lý. Quốc Vƣơng có thể trực tiếp tổ chức xử bất cứ vụ án ở
mọi cấp.
*Điều 89: Xã hội Thánh Đức kiên quyết loại bỏ oan sai, tham nhũng, gian ác
trong ngành luật pháp.
*Điều 90: Ngƣời phạm tội ở đâu, thì lập tòa án xử tội ở đó, để giáo dục công
dân.
*Điều 91: Bỏ án tử hình. Tội chung thân chỉ áp dụng với tội giết ngƣời. Không
tƣớc quyền công dân của ngƣời phạm tội. Vì đối với tội đồ không sửa chữa, còn
án phạt linh hồn của Giáo hội-bề trên-khi kẻ đó từ trần-đó mới là án phạt nặng nề
nhất. Giáo hội công khai xét xử tội linh hồn, do Hội đồng Thẩm định và Phong
sắc của Hội đồng Nguyên Lão Tối cao tiến hành. Đó là cách kết hợp Đời với
Đạo trong giáo dục công dân-linh hồn, cả tại thế và khi về cõi vô hình.
*Điều 92: Xóa bỏ nhà tù; lập các khu phục hồi nhân phẩm tự trị. Các khu này tổ
chức cuộc sống tách biệt hoàn toàn với khu dân cƣ, đƣa đi nơi xa, để các công
dân phạm tội tự quản lý, lao động duy trì cuộc sống; phải kiên quyết giáo dục họ
thành ngƣời tốt.
*Điều 93: Chống xúc phạm nhân phẩm con ngƣời, không đánh đập, tra tấn con
ngƣời. Đảm bảo tuyệt đối đầy đủ các quyền và lợi ích dân chủ của nhân dân,
trong rƣờng mối Thánh Đức. Thánh Đức chỉ sử dụng bạo lực của nhân dân khi
chế độ Thánh Đức Đại Đồng bị ảnh hƣởng và bị đe dọa.
*Điều 94: Mọi thứ kích thích thần kinh, hủy hoại nhân thể con ngƣời, nhƣ các
chất gây nghiện, ma túy, phải hủy bỏ vĩnh viễn. Rƣợu, bia không quá 30 độ. Trẻ
285
em dƣới 17 tuổi cấm uống rƣợu; cấm uống rƣợu quá 250ml. Ngƣời say rƣợu,
làm ảnh hƣởng đến ngƣời khác phải tổ chức phê bình, giáo dục.
*Điều 95: Loại trừ mọi nguyên nhân gây bạo loạn, hoặc chống lại Quốc vƣơng,
quốc gia. Quốc vƣơng là ngƣời duy nhất nắm quyền quản lý quân đội thống nhất.
Mọi hành vi chống Luật Thánh Đức đều bị Quốc vƣơng và hai Hội đồng Tối
cao, các Hội đồng Chấp chính quốc gia xem xét. Nếu cá nhân Quốc Trƣởng hay
khu Tự trị làm loạn, chống lệnh Thiên triều, thì tập thể các quốc gia và quân đội
của Vƣơng quốc sẽ đƣợc điều động để dẹp loạn.
*Điều 96: Các tội nặng gồm:
-Chống lệnh Quốc vƣơng
-Chống lại sự đoàn kết thống nhất của Vƣơng quốc; kỳ thị, gây mất đoàn kết,
phá hoại đoàn kết giữa các quốc gia, dân tốc, các công xã, khu tự trị; gây bạo
loạn, lôi kéo chống Quốc vƣơng và Quốc Trƣởng, Vƣơng quốc; tạo ra vũ khí
nóng, vũ khí giết ngƣời hàng loạt; phá hoại tài sản chủ ý và bất chính; phá hoại
sự thanh sạch của môi trƣờng, làm cháy rừng; giết ngƣời, gây tàn hại thân thể
con ngƣời vì lý do bất chính; tổ chức buôn bán bằng tiền tệ, tổ chức sản xuất
kiểu Tƣ bản chủ nghĩa…
GIAO THÔNG-MÔI TRƢỜNG-XÂY DỰNG
*Điều 97: Xây dựng trái đất thành một thiên đƣờng tuyệt đẹp, là kho của cải hài
hòa, là một vƣờn thú đa dạng, là một vƣờn hoa vĩnh cửu, đất đai nhà cửa ruộng
vƣờn sạch sẽ, con ngƣời hoàn mỹ, đẹp tƣơi, thanh tao.
Không tổ chức làm chắp vá, vụn vặt, xếp chồng lấn, nhỏ lẻ. Tất cả mọi khu vực
dân cƣ khu tự trị, công xã, phải đƣợc qui hoạch ngay từ đầu, theo một khuôn khổ
kiến trúc và thẩm mỹ nhất định.
Thánh Đức rất lâu dài, nên các công trình lâu dài, càng vĩ đại, càng bền càng
tốt. Nhƣng phải tùy trình độ và khả năng để làm, không cố gắng làm, đốt cháy
giai đoạn, làm kiệt quệ sức dân; làm tới đâu thì đƣợc tới đó, khó khăn tạm thời
thì tạm nghỉ, rồi sau đó làm tiếp, không ép dân làm. Lấy ổn định đời sống trƣớc,
xây dựng cơ bản sau.
*Điều 98: Khu Tự trị bảo đảm qui hoạch khép kín, tạo ra sự giảm thiểu đi lại tự
do và ngƣời tham gia giao thông. Qui hoạch và xây dựng các tuyến đƣờng sạch,
đẹp, vững chắc vĩnh viễn-chỉ làm một lần trong công xã để nhân dân đi lại thuận
tiện
*Điều 99: Qui hoạch xây dựng các công trình xã hội:
Các quốc gia Thánh Đức, sau khi gia nhập Thánh Đức, phải lập kế hoạch xây
dựng cơ bản của quốc gia đó lên Quốc Vƣơng-tầm qui hoạch lớn đến hàng vạn
năm, các công xã đến hàng ngàn năm.
286
Mọi công trình công cộng phải xây to lớn, đẹp đẽ-tạo ra thiên đƣờng hoàn mỹ,
đẹp; chống qui hoạch tùy tiện, chắp vá.
Qui hoạch xây dựng các công xã, các cơ sở giao thông, hồ ao, hạ tầng xã hội nhƣ
bênh viện, đền thờ…to lớn, khang trang, thống nhất ổn định ngay từ đầu, dùng
lâu dài hàng nghìn, vạn năm, tránh phải đập đi làm lại nhiều lần, tốn công của
của nhân dân.
Các thành phố, tầm qui hoạch tới hàng vạn năm, tổ chức xây dựng phải có trình
độ xem xét, tính toán chặt chẽ để các công trình tồn tại lâu dài. Làm chậm, lâu,
nhƣng chắc chắn; những công trình lớn lao, có thể thậm chí làm tới hàng chục
năm, trăm năm, nhƣng phải đạt yêu cấu chất lƣợng đề ra. Công trình nào có tầm
vóc vĩ đại, thế hệ này làm chƣa xong, thế hệ sau làm tiếp đến thành công.
*Điều 100: Các công trình lớn, trực tiếp đƣợc Quốc Vƣơng chỉ đạo, phê chuẩn.
Cấm đập bỏ những công trình đƣợc Quốc Vƣơng phê chuẩn trong mọi thời gian
sau đó; trừ trƣờng hợp có ý kiến của Thƣợng đế.
*Điều 101: Nhà ở không làm quá cao, vì dân số ít và tránh sụp đổ qua nhiều thế
kỷ; chung cƣ không quá 1000 ngƣời; thành phố không quá 3 triệu dân. Thành
phố là một khu tự trị.
Nhà cửa lên dùng nhiều vật liệu tự nhiên, nhƣ đá, sỏi, xây kiên cố lâu dài, trang
trí đẹp; gia đình thành một nơi ấm đẹp đẽ thiên đƣờng nhỏ xinh xắn.
*Điều 102: Dùng nhiều cách thức sử dụng năng lƣợng tự nhiên cho đời sống. Đồ
đốt, nên dùng năng lƣợng mặt trời, sức gió, ga nhân tạo, ga tự nhiên, dùng điện
năng không dây, nƣớc, khí hơi, nhiệt là chủ yếu hạn chế dùng điện dây, than đá,
củi gỗ, rơm rạ, xăng dầu.
Hạn chế dùng phƣơng tiện dùng nhiên liệu nặng nhƣ xăng dầu, hạn chế không
dùng nhiều phƣơng tiện giao thông là xe-máy, xã hội càng phát triển, thì dùng
phƣơng tiện đơn giản và thô sơ nhiều, trong khi máy móc sản xuất hiện đại hơn,
để bảo vệ môi trƣờng và an toàn xã hội, an toàn giao thông.
Nghiên cứu sử dụng các động cơ vĩnh cửu dùng Hidrô, ô-xy, nƣớc…dùng cho
đời sống.
Khoa học tâm năng phổ biến; khoa học tự nhiên sáng tạo ra các máy móc hiện
đại, tiên tiến, siêu đẳng phục vụ con ngƣời. Chống khoa học phục vụ chiến tranh.
*Điều 103: Khai thác tài nguyên, khoáng sản, đất đá, phải bảo đảm qui hoạch,
không ô nhiễm hoặc ảnh hƣởng đến kết cấu phong thủy, sinh hóa vật lý và địa lý,
tầng sinh khí. Nơi nào vi phạm, sẽ bị tội nặng. Xử lý mọi nguy cơ, nguyên nhân
hiện tƣợng gây ô nhiễm và các thảm họa môi trƣờng.
*Điều 104: Tài nguyên của Vƣơng quốc thuộc tài sản toàn dân, không thuộc cá
nhân hay một quốc gia nào; đƣợc thống nhất quản lý bởi Quốc Vƣơng. Quốc
trƣởng không có quyền đƣợc tổ chức khai thác tài nguyên trong lòng đất, lòng
biển, trên không và rừng.
287
*Điều 105: Mỗi công xã phải có các khu xử lý và tái chế chất thải, thành nhiên
liệu, phân bón; các gia đình phải xử lý rác thải, cho rác vào bao, có công nhân
đến đƣa tới khu xử lý, cấm vất rác ra xã hội. Nƣớc thải phải dồn lại và xử lý,
trƣớc khi hủy hoặc dẫn ra ngoài môi trƣờng, tránh ảnh hƣởng đến các tầng đất và
nguồn nƣớc.
Có các biện pháp chống dịch, sâu bệnh nhƣng dùng các thuốc không độc hại cho
môi trƣờng.
*Điều 106: Tất cả các con sông tại nơi ở của công xã phải xây kè hai bờ đẹp đẽ.
Xây các công viên, đƣờng xá, khu nhà ở, phải có nhiều cây xanh, cây cổ thụ;
cấm chặt phá cây xanh nơi sinh sống.
Tất cả các khu rừng phải có qui hoạch, bảo vệ, khai thác hợp lý; chỉ có lệnh và
đƣợc phép của Quốc Trƣởng, Quốc Vƣơng, mới đƣợc phép khai thác lâm sản số
lƣợng từ 1 Hécta trở lên. Còn lại, do Chƣởng quản Khu tự trị quyết định. Phải
coi bảo vệ sinh thái rừng là quan trọng nhƣ bảo vệ mạng sống nhân loại. Kẻ phá
rừng, làm cháy rừng, phải bị khung hình phạt cao nhất.
Có biện pháp khai thác đến đâu, trồng mới rừng đến đó. Dân hạn chế dùng đồ gỗ
rừng, mà dùng gỗ nuôi trồng tại các khu công xã, gỗ thƣờng; dùng nhựa, chế tác
đá…để làm đồ trang trí nhà cửa. Bảo vệ tất cả các loài thú, sinh vật; chỉ đƣợc
giết động vật rừng, khi chúng sinh sôi quá nhiều, làm ảnh hƣởng đến cân bằng
sinh thái, ảnh hƣởng đến đời sống con ngƣời và tự nhiên xung quanh.
*Điều 107: Tạo ra các cây trồng vật nuôi cao cấp, làm ít, trồng ít nhƣng năng
xuất cao, máy móc hiện đại tạo ra siêu năng suất. Giết động vật để lấy thịt, phải
có cách giết chúng không đau, không cắt tiết con vật khi chúng sống làm đau
đớn con vật; sau khi giết, có huyền pháp siêu sinh cho chúng. Bảo tồn các giống
động thực vật.
*Điều 108: Không sản xuất chất nổ, vật liệu gây nổ-nếu khai thác đá, thì dùng
biện pháp khác. Cấm sản xuất vũ khí nóng, bom nguyên tử, bom kinh khí, bom
sinh học; phá hủy tất cả các loại vũ khí của thời đại mạt thế trước đó.
*Điều 109: Khai thác tài nguyên thiên nhiên và biển, phải lập kế hoạch và thống
nhất khai thác. Cấm cƣ dân tự do khai thác tài nguyên phục vụ đời sống cá nhân
nhƣ: gỗ, quặng, khí đốt và dầu tự nhiên, vàng bạc kim loại quí, than đá…
Các loại vật chất tổng hợp đƣợc, do con ngƣời tạo ra phải tổ chức dùng chung.
VĂN HÓA-TÍN NGƢỠNG
*Điều 110: Toàn thể nhân loại phải thờ Thƣợng đế theo một qui định thống
nhất nhƣ nhau và các phép nghi lễ giống nhau. Trong một năm tổ chức các
Đại lễ Tế Vua Cha, các thần thánh, Vƣơng Mẫu theo qui định.
288
*Điều 111: Thống nhất lịch pháp trên toàn thế giới.
Giảng: Thống nhất dùng dƣơng lịch, vì dƣơng lịch đúng với sự chuyển dịch của
trái đất trên quỹ đạo mặt trời, tất cả 24 tiết khí là lấy Dƣơng lịch làm chuẩn nên
tính chính xác rất cao.
*Điều 112: Tại một công xã phải có và chỉ có đền thờ Vua Cha, đền do giáo sỹ
hay nhân viên nghi lễ quản lý, Giáo sỹ đƣợc phép thông linh với Cha khi cần,
giáo sỹ đƣợc lập gia đình bình thƣờng-về sau bỏ chức danh giáo sỹ, giao cho
ngƣời coi giữ đền quản lý đền; các nhân viên văn hóa phụ trách cả công tác nghi
lễ của Công xã khi có lễ lạt.
Không làm giáo đƣờng sinh hoạt đọc kinh cầu, hoặc múa hát học tập, mà làm
đền thờ.
Đền thờ là nơi thờ Vua Cha và các thánh thần, là nơi hành lễ tập trung, là nơi
sinh hoạt tâm linh, sám hối, dâng vật phẩm một cách tự do của thần dân Thiên
Đạo đối với Vua Cha.
*Điều 113: Cấm đến đền thờ để cầu xin may mắn, hạnh phúc, vật chất, công
danh-sẽ làm loạn lậu Đạo Pháp. Tất cả là do mình, Thƣợng đế trong bản thân,
phấn đấu thiện lƣơng là cải tạo số mệnh; chỉ đƣợc cầu xin ngay tại nhà; khi đến
đền thờ là để lễ bái, sám hối tội lỗi, chiêm ngƣỡng và tôn vinh Chân Lý, kính lễ
Vua Cha, tu học theo các thần thánh.
*Điều 114: Mọi gia đình đều thờ Vua Cha tại bàn thờ tại nhà mình, ngoài ra
không đƣợc: thờ tà thần, lập các đền thờ khác, lập các bàn thờ khác trong nhà.
Tổ tiên ông bà cha mẹ khi mãn kiếp, cúng dƣới bàn thờ Cha, sau một thời gian,
ai chƣa siêu thoát thì cho siêu thoát, rồi qui lên thờ Tam Tòa cùng Cha.
*Điều 115: Loại bỏ các phép trấn yểm thƣ phù, yểm đảo, bùa chú cũ, bỏ chọn
đất đặt mộ, chọn hƣớng xây nhà, chọn tuổi vợ chồng, chọn ngày tháng nhƣ cũ, vì
luật mới của Thiên Đình cấm, ngũ hành thay đổi, vũ trụ và các sao đã thay đổi
không còn nhƣ cũ.
Không cúng sao giải hạn, cúng vong hồn chúng sinh, bỏ các tà thuật phù thủy cũ,
phá các thứ liên quan đến mê tín dị đoan nhảm nhí, phá các đền thờ tà
thần…Dùng phép nghi lễ để độ cho mọi vong siêu thoát, tự độ mình tu-luyện để
nâng cấp năng lƣợng chống hạn ách; thờ Cha để có mức năng lƣợng chân chính.
Chỉ dùng khoa học tâm linh mới để xử lý các vấn đề liên quan đến tâm linh,
phong thủy…
*Điều 116: Thần dân Thiên Đạo Thánh Đức phải học tập tu luyện để ai ai cũng
đạt trình độ thần thông, tự mình học để biết số phận, nghiệp quả của mình; tự
mình biết nghi lễ tâm linh, biết khoa học tâm linh chân chính, tự độ mình, tự cứu
mình trƣớc khi trời cứu; tự chữa bệnh trƣớc khi xã hội chữa bệnh cho.
289
*Điều 117: Kẻ nào tổ chức bói toán cá nhân lấy tiền, múa may đồng cốt nhố
nhăng, phán láo chỉ bậy, cúng bái kiếm ăn ngoài nghi lễ tại đền thờ, tà ngụy xảo
ngôn, làm sai nghi lễ, tự cho mình là thần thánh để bắt mọi ngƣời phục dịch, phá
hại Chính pháp, chửi bới thánh thần, láo khoét gian ác, cố tình giảng pháp sai
lạc, chế diễu xét lại chính kinh, ngụy ngôn lừa đảo, nói xấu Thánh Đức-Giáo hội
và Đại Giáo chủ, kích động bạo lực, gây thù chuốc oán với Giáo hội, lôi kéo phá
hoại công xã, thích giết chúng sinh động vật, rƣợu chè bê tha, cờ bạc lƣu manh,
giả danh thần thánh, tự cho mình giỏi hơn Thƣợng đế, Đại Giáo chủ, mua bán
kinh sách, cúng thịt tại đền thờ, đốt vàng đốt mã, dùng huyền thuật trị bệnh lấy
tiền, sửa sai Huyền pháp, lấy nhiều vợ, bóc lột nhân dân…tất cả qui là tà đạo, tà
nhân, tham lợi danh ô lại, không thể là ngƣời vì nhân loại cần lao, vì Đạo, cần xử
trị thật nặng để giữ nghiêm phép thánh, pháp luật.
Những kẻ này nếu không sám hối, Ta nói chắc chắn khi mãn kiếp sẽ bị Ta đọa
linh hồn, thậm chí diệt linh hồn, không thể chạy đâu cho thoát. Riêng những kẻ
phá hoại Thánh Đức, làm tan rã Thánh Đức, làm lụi bại Giáo Hội Thiên Đạo,
gây chiến tranh cát cứ chống Thánh Đức, sẽ bị Ta cho vào hỏa ngục, đốt chết
linh hồn.
Mọi thần dân Thánh Đức-Thiên Đạo muôn đời phải học thuộc điều này.
*Điều 118: Tổ chức các lễ hội văn hóa riêng, tùy theo địa phƣơng, vui chơi giải
trí, không mang màu sắc tâm linh lẫn lộn với nghi lễ Thiên Đạo.
*Điều 119: Khi vào tuổi già, có thể lập am tu luyện siêu thoát tại nhà, chứ không
thoát tục tu tiên hƣởng nhàn, xa rời Chính Pháp.
*Điều 120: Ngƣời trừ trần, chủ yếu dùng phép hỏa táng, cho sạch, tiết kiệm gỗ
và đất đai; tro cốt rải xuống sông suối đất đai, chỉ giữ lại một ít để kỷ niệm nếu
cần, vì linh hồn khi đã siêu sẽ qui vào Tam Tòa, nên không cần thờ tro cốt, mà
để ở nơi tĩnh trong nhà làm kỷ niệm; có thể đúc tƣợng để kỷ niệm, nhƣng không
thờ bất cứ tƣợng nào trong nhà, kể cả đúc tƣợng Thƣợng đế hay Đại Giáo chủ-
chỉ thờ duy nhất Thiên Phù. Trong đền thờ cũng thế, linh đƣờng chỉ thờ Thiên
phù, bên dƣới và ngoài sân có thể có tƣợng thánh thần, chỉ đƣợc đặt hoa, không
khấn cầu lạy lục, hay thi lễ.
*Điều 121: Không thờ bái vật hay hiện tƣợng tự nhiên.
*Điều 122: Kẻ tội hồn sẽ đƣợc công khai giáo dục và công khai cho siêu thoát,
hoặc công khai trừng trị, cho tập thể thần dân biết, để giáo dục tâm linh, nhân
thế.
*Điều 123: Mọi ngƣời trƣởng thành phải đƣợc thông linh và ít nhiều có năng lực
thông linh, thần thông phƣơng thuật. Khi thông linh với Cha và Ta, các thần
thánh khác, cấm khoe khoang, tự cho mình huyễn ngã phép thánh, hay tài giỏi,
mà hãy coi đó là sự tu luyện đúng đƣờng và sự cổ vũ động viên của bề trên đối
với mình.
290
*Điều 124: Khi Hội đồng Tâm linh tối cao thông linh với Cha, mọi quyết định
của Cha phải đƣợc 9 ngƣời chứng ngộ tâm linh xác nhận, công khai thấy Cha
giáng đúng bóng hoặc giáng cơ, giáng điển đồng để chống tà quỉ mạo nhận, mạo
báng, mạo xƣng, lợi dụng. Trƣờng hợp nghi ngờ, thì phải tấu lên Cha và Thiên
đình lần nữa để xác minh; trƣờng hợp đặc biệt, tấu Đại Giáo chủ giáng bóng xin
hộ tống hầu Cha xuống thế để chỉ dạy ân cần.
*Điều 125: Qui định phạm vi và quyền năng sử dụng huyền thuật. Không dùng
huyền thuật tà ác, mƣu lợi ích kỷ cá nhân; cấm mọi hình thức hoạt động phù
thủy, cầu đồng bóng, bói toán nhảm nhí, cúng tà thần, lập đền phủ thờ tà thần,
ma quỉ…Các hình thức bùa bả, thƣ phù yểm đảo cũ phải bỏ hẳn. Chỉ thờ Vua
Cha Thƣợng đế và Tam Tòa Thiên Đạo.
*Điều 126: Lấy chủ nghĩa Đại đồng, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa nhân đạo và
tình nhân loại làm nền tảng cho nền văn hóa, văn minh Thánh Đức. Chống lại
chủ nghĩa cá nhân, biệt lập, dân tộc hẹp hòi; chống mọi tƣ tƣởng cục bộ, bản vị,
dân tộc chủ nghĩa, chủ nghĩa bá quyền sô vanh nƣớc lớn, phân biệt văn hóa, dân
tộc, quốc gia, giàu nghèo…
*Điều 127: Xây dựng nền văn hóa tâm linh lành mạnh:
Trong lịch sử nhân loại, dòng chảy văn hóa của mọi nền văn hóa đều dựa trên
nền tảng của văn hóa tâm linh-là cơ bản, trong đó thể hiện quan niệm về thế giới,
con ngƣời, cái chết, linh hồn, lăng tẩm, đền đài thành quách, lễ hội, ăn, ở, mặc,
các quan hệ lễ nghi xã hội, tính dục…đa phần dựa trên các yếu tố nhận thức tâm
linh. Văn hóa tâm linh tổng hòa đƣợc cả quan hệ tự nhiên-con ngƣời-xã hội.
Triết học mọi thời đại, đều có xu hƣớng luận bàn và giải quyết vấn đề duy vật,
duy tâm, thế giới khách quan, nhận thức chủ quan, cải tạo và xây dựng xã hội
theo các mô hình của tự nhiên và Thiên giới…
Do đó, văn hóa tâm linh là sợi chỉ đỏ của linh hồn văn hóa, và là xƣơng sống tạo
ra bản sắc văn hóa-xã hội của con ngƣời.
Chúng ta thử hình dung: Nếu hiện nay, các nền văn hóa của các dân tộc, bỏ văn
hóa tín ngƣỡng-tâm linh, thì còn lại cái gì? Quan niệm không tâm linh đã đẩy
con ngƣời vào đời sống thô mộc, cực đoan, về lâu dài biến con ngƣời thành cỗ
máy cơ học, với tham vọng của một đời sống mãn một kiếp, không quan tâm đến
số kiếp nghiệp quả, luân hồi của kiếp sau, của cái sự trả giá của linh hồn ngay
khi nó mãn kiếp trần gian; có một cuộc sống khác sau khi mãn kiếp trần, trong
khi sự thực có một thế giới vô hình linh hồn, có sự xử trị, thậm chí diệt hồn của
những tên bất hảo…Chính họ không tôn trọng qui luật tự nhiên. Đôi khi những
ngƣời này nhận thức đúng trong một vài vấn đề phù hợp với đặc điểm hiện thực
khách quan, nhƣng về lâu dài thì sao?
Nay chúng ta quyết tâm xây dựng một nền văn hóa tâm linh mới: Đó là nhận
thức khoa học về tâm linh, thống nhất nhận thức, khẳng định thế giới nhất thể
vật chất, gắn với xây dựng một xã hội thiện đức, lấy văn hóa tâm linh là nền
291
tảng, với tƣ cách là tạo ra các giá trị cao đẹp của Chân Thiện Mỹ để xây dựng xã
hội, con ngƣời lƣơng thiện. Đây là vấn đề cực kỳ to lớn, vì trong lịch sử nhân
loại, chƣa bao giờ con ngƣời xây dựng đƣợc một tổng hòa xã hội cao đẹp nhƣ
thế.
Không dùng bí hiểm tâm linh, mọi việc phải sáng tỏ, đạt đƣợc nhận thức đúng
đắn hài hòa. Loại bỏ các hình thức mê tín dị đoan, nhảm nhí, các hình thức bùa
ngải yểm đảo bí hiểm, nay đã lạc hậu, các huyền thuật tà ác, các hiện tƣợng sinh
hoạt tín ngƣỡng phức tạp, nhƣ cầu đồng, múa may nhảy nhót, tà đạo, bói toán-dù
đúng; vì nhân loại mới sẽ đạt thần thông, học tập để đạt đƣợc nhận thức của
mình.
Loại bỏ và dần quét sạch tà quỉ trên mọi bàn thờ của nhân loại, làm thanh sạch
thế giới vô hình. Sử dụng các biện pháp giáo dục và siêu thoát cao cấp cho linh
hồn để làm sạch thiên giới, cõi âm, tạo cho thế giới hạ thế bình an, thanh sạch
trong ánh sáng cao đẹp của Vua Cha.
*Điều 128: Gắn các sinh hoạt, sáng tạo văn hóa của nhân dân với đạo đức và
phƣơng pháp tu tập cao cấp, với văn hóa tâm linh mới để xây dựng lòng tin, tƣ
tƣởng, tâm thế phấn đấu vì một xã hội Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh.
Đại đồng: Đoàn kết hòa đồng yêu thƣơng, giúp đỡ, nhân ái và hợp nhất nhân
loại; con ngƣời là anh em của nhau, do Cha sinh ra.
Thống nhất tôn giáo, nghi lễ, thờ Vua Cha vĩ đại-theo lý tƣởng xã hội vĩ đại:
Giải phóng con ngƣời khỏi tội ác, tham lam, chiến tranh, tham tàn, bóc lột, vô
minh, tà quỉ, đói nghèo, bệnh tật, bất công, chia rẽ tôn giáo, giai cấp, tầng lớp,
phân biệt văn hóa dân tộc tôn giáo…
Trong ánh sáng của Thiên Đạo soi rọi, dƣới sự quản trị trực tiếp trực thông của
Thƣợng đế.
Chỉ khi nào làm đƣợc cách mạng tâm linh, mới hoàn thành và đƣa cách mạng xã
hội, cách mạng văn hóa, cách mạng sản xuất-khoa học kỹ thuật của Thánh Đức
tiến lên.
Đại thiện: Đại đồng là nền tảng để tạo ra đại thiện, vì lý tƣởng đại đồng, theo
qui luật Đạo Trời và theo mục tiêu Chân-Thiện-Mỹ; là động lực tiến hóa. Không
có chiến tranh, cái ác, ác bá tà nhân, họa hại. Con ngƣời đạt giác ngộ mới có đạo
đức thiện tính, còn vô minh, thì còn tham ác, tranh dành và mọi thứ gắn theo nó.
Tạo ra một xã hội thiện tính, với mục tiêu cao đẹp là ấm no, an lạc, vui hòa;
không có nơm nớp ăn chặn, ăn gian, xâm lấn quyền lợi, thù nghịch với nhau.
Mọi thứ dị mọ, hồ đồ, lạc hậu, phản động, vô minh vô thần vô thánh, phản tiến
hóa, nhận thức ngu muội dẫn đến mê muội, gây tội ác…cần phải loại bỏ, bị loại
bỏ. Con ngƣời tôn trọng nhau, tôn trọng thực sự quyền sống bình đẳng của nhau,
sống thiện lƣơng, hiền hậu, giản dị, giản dị cả về tƣ tƣởng, lời nói, tính cách, lối
sống , hồn nhiên trong bầu vũ trụ, hợp sự vận hành tiến hóa của Trời đất.
292
Đại mỹ: Mỹ là đẹp. Đẹp thể xác, tinh thần, thiện là mỹ bên trong, mỹ là đẹp bên
ngoài hài hòa với tính thiện, cả hình thức và nội dung. Mỹ là sự bóc toát, không
thiện thì khống có mỹ. Đó là cái đẹp giản dị mà lấp lánh, không màu mè hoa mỹ
từ lời nói đến việc làm, biểu hiện, nhƣng lấp lánh đẹp thật sự và hoàn thiện mỹ
mãn. Giản dị khống có nghĩa là không lấp lánh, mà nó không là hoa hòe hoa sói,
lấp che bao biện giả dối hình thức, mà nó nhƣ nó có, vốn có nhƣ thế. Có nghĩa
đẹp là sự chân thực nhất, cái đẹp trong sáng, chân chính.
Ngƣời xƣa nói: “Xảo ngôn thì bất thiện”, “ Chủ nghĩa hình thức là con đẻ của
giả dối”. Nội dung phải phản ánh đúng thực chất của mọi sự vật hiện tƣợng.
Đại linh: Giác ngộ Chân lý, đạt thông linh và đạt huệ linh; nhận thức và thờ tự
Vua Cha theo pháp thờ chính đáng và đúng đắn nhất, phù hợp với giá trị cao quí
của mục tiêu lý tƣởng Đại đồng. Con ngƣời phải đạt thần thông siêu đẳng bằng
sự tu tập và nghiên cứu khoa học tâm linh cao cấp nhất, không thoát tục, sống
đạo đời hợp nhất.
Không thể tách rời văn hóa chung với văn hóa tâm linh. Cả hai phạm trù liên hệ,
đan xen, bổ trợ và tạo nên nhau trong mục tiêu Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại
Linh.
AN NINH VƢƠNG QUỐC
*Điều 129: Lập quân đội duy nhất, do Quốc Vƣơng lãnh đạo trực tiếp, quân đội
đặt tại Thánh Địa.
Chỉ có Quốc Vƣơng mới có quyền lập và giải tán quân đội. Các quốc gia không
lập quân đội.
*Điều 130: Các quốc gia góp vật chất nuôi quân đội chung và bảo đảm an sinh
cho miền Thánh Địa. Các quốc gia góp quân số, riêng Thiên quốc gửi 60% số
quân, còn lại các quốc gia gửi 40% số quân.
*Điều 131: Chỉ Quốc Vƣơng mới có quyền điều động quân đội và có thể sử
dụng bạo lực khi cần.
Quân đội đƣợc hành động khi có yêu cầu sau của Quốc Vƣơng:
-Sự thống nhất của Vƣơng quốc bị ảnh hƣởng
-Có bạo lực tại quốc gia thành viên
-Có chiến tranh giữa các quốc gia, hoặc quốc gia chống quốc gia, chống Quốc
vƣơng, cần lập lại trật tự an ninh chung.
-Mọi tổ chức cá nhân có tội chống loài ngƣời, gây tội ác, chống luật Thánh Đức.
-Có chiến tranh của ngƣời ngoài hành tinh, xâm lƣợc trái đất.
-Cần huy động lực lƣợng để cứu trợ nhân dân.
-Có các phƣơng án chống xâm lƣợc của ngƣời hành tinh khác
293
*Điều 132: Quân thƣờng trực phục vụ 9 năm, tuổi không quá 35, sỹ quan tuổi
không quá 60, chỉ huy quân đội là ngƣời dân sự, dƣới sự chỉ huy tuyệt đối của
Quốc Vƣơng; quân lính đƣợc lập gia đình khi tại ngũ, đƣợc đảm bảo chỗ ở tại
khu gia binh; sau 9 năm giải ngũ toàn bộ quân thƣờng trực, cho về quê hƣơng,
chỉ giữ lại khung huấn luyện, để huấn luyện quân mới.
Quân số phụ thuộc nhu cầu lịch sử cụ thể của Thánh Đức, vũ khí phụ thuộc lịch
sử cụ thể, nhƣng không trang bị vũ khí giết ngƣời hàng loạt, không ứng dụng tra
tấn, nhục hình.
*Điều 133: Tại các quốc gia, không tổ chức các đơn vị an ninh tập trung, mà chỉ
ở các công xã có nhân viên an ninh trật tự, tại Khu tự trị có cơ quan quản lý chỉ
huy an ninh. Hội đồng Chấp chính quốc gia có cơ quan phụ trách an ninh. Công
tác an ninh bảo đảm đời sống an bình cho nhân dân.
*Điều 134: Đất đai, sông ngòi, biển đảo và không gian toàn bộ trái đất thuộc về
nhân dân Thánh Đức, cấm ai sở hữu riêng; Quốc Vƣơng đại diện nhân dân quản
lý toàn bộ trái đất. Quốc vƣơng chia đất đai cho các quốc gia quản lý, và thu lại
khi cần; Quốc vƣơng có quyền sát nhập hay chia tách quốc gia, dân tộc do yêu
cầu lịch sử; Quốc vƣơng không đƣợc vì lợi ích cục bộ của bất kỳ quốc gia nào
khác.
*Điều 135: Quốc vƣơng chia đất đai cho các quốc gia quản lý, nhƣng không
chia tài nguyên khoáng sản cho quốc gia nào, chỉ giao việc trông coi, khai thác
để dùng chung cho nhân loại. Mọi khoán sản thiên nhiên trên bộ, trên biển của
Quốc Vƣơng quản lý trực tiếp và phân công nhiệm vụ khai thác cho các quốc
gia, để chia đều tài nguyên cho công cuộc phát triển các quốc gia.
*Điều 136: Các quốc gia cấm chiếm đất đai, xâm lƣợc nhau. Không phận và hải
phận, là chung, quốc gia không đƣợc quản lý riêng. Biển và tài nguyên là thủy
hải sản trên biển thuộc quyền quản lý trực tiếp của Quốc Vƣơng Thánh Đức,
nhƣng phân vùng đánh bắt và khai thác cho các quốc gia.
Các quốc gia tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ
của nhau. Mọi việc liên quan, thông qua Hội đồng Thánh Đức Tối cao để họp và
do Quốc Vƣơng chỉ đạo giải quyết
*Điều 137: Quốc vƣơng lấy Việt Nam làm trung tâm Thánh Địa- trung tâm của
thế giới-nơi có Giáo hội Thiên Đạo; nếu vì một lý do đặc biệt nào khác, phải
chuyển Giáo Hội đến nơi khác, thì nơi đó là trung tâm của thế giới.
*Điều 138: Công dân chỉ mang quốc tịch một nƣớc, muốn chuyển sang nƣớc
khác sống phải đƣợc quyền quyết định của Quốc Trƣởng hai nƣớc đó. Ngoài ra,
còn chống di dân tự do sang các công xã, khu tự trị khác. Công dân sang các
quốc gia khác để du lịch hoặc công tác, hoặc vì việc riêng, không cần hộ chiếu
chỉ cần khai báo hải quan và trình giấy Thực chứng, giấy chứng minh nhân dân,
giấy xác nhận của Hội đồng công xã, cơ quan công tác.
294
*Điều 139: Giai đoạn đầu sau khi đại tận, cần có các biện pháp cứng rắn để lập
lại trật tự đến khi lập xong Thánh Đức ổn định.
*Điều 140: Dự trữ lƣơng thực và an ninh lƣơng thực: Do Quốc vƣơng quản lý,
có giao cho các quốc gia chuẩn bị, nhƣng không tập trung, mà dự trữ tại các
công xã, khu tự trị và kinh tế của Quốc Vƣơng.
*Điều 141: Bạo lực Thánh Đức.
Bạo lực mở đƣờng cho Thánh Đức: Bạo lực tƣ tƣởng, tâm linh và bạo lực xã hội
trần gian, thông qua sàng lọc, đấu tranh, xóa bỏ các hình thức đi ngƣợc lại Thánh
Đức.
Phải sử dụng bạo lực, vì: Vũ trụ thuộc về vật chất, là vật chất, vật chất tạo ra
năng lƣợng, ở đâu có vật chất là ở đó có năng lƣợng. Vậy mọi sự biến đổi trong
vũ trụ đều có sự biến chuyển về mặt năng lƣợng của vật chất và chuyển dịch vật
chất. Chuyển dịch vật chất, năng lƣợng tạo ra sức mạnh. Dùng sức mạnh đó cải
tạo xã hội, con ngƣời, vũ trụ nói chung…đó là bạo lực.
Có bạo lực ác, bạo lực thiện; dùng thiện cải ác, dùng cả ác để cải ác. Từ bi, nhân
đạo, nhân ái là chủ đạo, theo chiều tiến hóa, nhƣng không từ bi, nhân ái vô
nguyên tắc, xóa bỏ và xa rời, hoặc không công nhận, không coi trọng cuộc đấu
tranh thiện ác. Cuộc đấu tranh đó phải tiến hành liên tục, bền bỉ, là hai mặt đối
lập chính-tà, hai mặt đối lập chính của xã hội, con ngƣời, để tạo ra động lực phát
triển.
Không dùng từ bi hỉ xả, bỏ lậu hoặc, cứu độ bằng cách thoát tục, coi sự giải thoát
làm cứu cánh cải tạo con ngƣời, thoái cái tham ác, tách khỏi cộng đồng; hoặc
không có lý thuyết cải tạo xã hội, tránh đời tu đạo, đạt đạo. Cấm Thiên Đạo tách
mình ra khỏi xã hội: phải đấu tranh cải tạo xã hội, tâm linh, theo triết thuyết
Thiên Đạo Thánh Đức của Ta; phải có con đƣờng, biện pháp để xây dựng xã hội
Thánh Đức một cách hợp lý, tránh chủ quan, làm vội, khô cứng máy móc, đốt
cháy giai đoạn, duy ý chí, sẽ gây hậu quả. Phải cứu thế, cứu đời muôn năm bằng
triết học Thiên Đạo này.
*Điều 142: Sử dụng bạo lực, nhƣng phải lấy phƣơng châm: Giáo dục thuyết
phục, cải tạo tƣ tƣởng trƣớc, nhẹ trƣớc, nặng sau, không ƣa nhẹ, mới dùng nặng.
Sau giáo dục, mới dùng bạo lực, bạo lực tƣ tƣởng và bạo lực mạnh. Đó là Đạo
Trời vậy. Ta tuân theo Đạo và thay Trời hành Đạo. Chúng ta là con Trời, các
thần thánh đánh giặc, đánh ác trừ gian, hộ quốc an dân. Chớ bao giờ để cái ác
làm mình run sợ, chỉ có cái ác run sợ trƣớc cái thiện. Cái xấu xa run sợ trƣớc cái
cao đẹp. Nhân nhƣợng để cảm hóa, sau nhân nhƣợng là đất của đạo thiện, là tin
vui của muôn dân trăm họ. Chống CNTB đến cùng, chống giai cấp Tƣ sản đến
cùng.
Dù bất luận sử dụng bạo lực gì, cũng không đƣợc giết ngƣời sống trần, trừ
trƣờng hợp đặc biệt liên quan đến chiến tranh phi nghĩa chống Thánh Đức. Diệt
tà, phải đƣợc phép của Cha và Ta.
295
Y TẾ
*Điều 143: Mọi ngƣời trƣởng thành phải học Đại pháp, phải biết các phép cải
tạo tâm thể, tâm hồn và linh hồn khi tại thế; chữa đƣợc các bệnh thông thƣờng
không dùng thuốc. Về sau, con ngƣời siêu đẳng thì tự chữa đƣợc mọi bệnh tật.
*Điều 144: Tại khu tự trị có cơ sở y tế chữa bệnh cho nhân dân. Các bệnh viện
của các khu tự trị đƣợc trang bị và trình độ nhƣ nhau, đủ khả năng chữa các bệnh
cho nhân dân. Không tổ chức các bệnh viện tuyến trên, mà chỉ có các bệnh viện
dành cho nhân sự cấp cao. Tổ chức y tế tại công xã, chữa mọi bệnh tật cho nhân
dân công xã; sau này khi công xã phát triển cao, thì hình thức y tế chỉ còn do
công xã quản lý, có nghĩa trình độ y tế công xã đủ sức đủ khả năng chữa mọi
bệnh tật cho nhân dân công xã.
*Điều 145: Kết hợp y học thông thƣờng với y học bổ sung ngành tâm thể khí
công-sinh học, thuốc tƣơi và thuốc bào chế. Tại các công xã phải trồng đủ nhu
cầu thuốc cho nhân dân. Có thể sản xuất thuốc tại công xã hoặc khu tự trị, khu tự
trị phải bảo đảm đƣợc thuốc chữa bệnh.
*Điều 146: Bác sỹ, nhân viên y tế đào tạo tại chỗ trong khu tự trị. Quốc gia
không có nơi đào tạo y tế riêng. Công tác y tế trở thành phổ biến trong toàn dân.
*Điều 147: Bác sỹ, nhân viên y tế nêu cao tinh thần tự giác phục vụ, cứu độ
chúng sinh; mọi hành động thái độ tiêu cực, lƣời nhác, nhũng nhiễu nhân dân, bị
phạt tội thật nặng để nêu gƣơng; cố tình nhũng nhiễu để xảy ra hậu quả nghiêm
trọng, phải bị đi lƣu trú chung thân.
HÔN NHÂN-GIA ĐÌNH
*Điều 148: Hôn nhân bình đẳng không ép buộc. Tự do yêu đƣơng khác giới,
cấm đồng tính lấy nhau, cấm kết hôn trong phạm vi trực hệ, phó hệ 4 đời; cấm
loạn luân; cấm chiếm dụng, lấy vợ chồng ngƣời khác. *Điều 149: Nam nữ chỉ đƣợc lấy một vợ một chồng, không đƣợc lấy nhiều vợ,
nhiều chồng. Trƣờng hợp đặc biệt, 1 ngƣời chết, hoặc một ngƣời ngoại tình, bị
phạm tội đi lƣu, mới đƣợc lấy vợ, chồng khác; đƣợc phép ly hôn, khi có sự nhất
trí của ngƣời kia.
*Điều 150: Lập gia đình sau khi đã học nghề xong-cấp đại học-nghề; từ 24 đến
25 tuổi; vì sau tuổi thọ cao, học một lần là xong, không học rải và nhiều lần.
Chƣa có nghề-tức chƣa đảm bảo điều kiện lao động, thì chƣa đƣợc lập gia đình-
trừ ngƣời tàn tật. Các trƣờng hợp đặc biệt, có con, thì hai gia đình đƣợc phép
nuôi con, học xong mới đƣợc cƣới.
296
*Điều 151: Kẻ nào chiếm dụng vợ chồng ngƣời đang có gia đình, phá hoại hạnh
phúc của ngƣời khác, thì bị đƣa đến một khu vực riêng và sống cách biệt giới
tính chung thân, cho vợ chồng đi lấy ngƣời khác.
*Điều 152: Trong giai đoạn đặc biệt, đầu chuyển thế, nếu nhân loại bị sàng lọc
quá nhiều, tùy tình hình cụ thể, có thể có chính sách hôn nhân hợp lý để nhân
loại sinh sôi. Nếu Thƣợng đế cho phép thì đƣợc lấy nhiều vợ, chồng-nhƣng giai
đoạn này, không quá 100 năm.
*Điều 153: Phải luôn có biện pháp khống chế dân số, không cho qua ngƣỡng 3
tỷ, để đảm bảo nhân sinh, môi trƣờng và sự ổn định của Thánh Đức hàng vạn
năm, nếu nhân loại phát triển nhân số đến 6-7 tỷ, tất không bao giờ lập đƣợc
Thánh Đức, vì tính chất vô cùng phức tạp của điều kiện tồn tại, sinh sống.
*Điều 154: Tôn trọng đạo đức và bảo vệ sự trong trắng, trinh tiết, thanh sạch của
phụ nữ-vì phụ nữ là nền tảng của hạnh phúc gia đình, là giá trị bản nề của đời
sống xã hội. Phụ nữ đẹp thì xã hội đẹp, kẻ nào làm vấy bẩn điều đó phải bị trị tội
thật nghiêm. Cấm xâm phạm tiết trinh phụ nữ khi chƣa lấy chồng.
*Điều 155: Về con: Tùy theo điều kiện phát triển của nhân loại để định số con,
nhƣng phải phù hợp với cơ sở tiến hóa của dân tộc, địa phƣơng, chống hiện
tƣợng nghèo mà đẻ nhiều, đẻ dày; cấm khu vự đông dân, nghèo lại đẻ dày.
*Điều 156: Công dân sinh ra, đƣợc công xã chăm lo, bảo đảm mọi quyền lợi đến
khi học xong nghề. Nếu không bảo đảm đƣợc thì không đƣợc sinh nhiều, sẽ gây
hậu quả lạc hậu và nghèo đói, sinh ra nhiều vấn đề phức tạp.
*Điều 157: Khi có gia đình, lập gia đình thì công dân có quyền tách hộ và đƣợc
công xã cấp nhà ở.
*Điều 158: Các hủ tục cƣớp vợ, cƣớp chồng, ở rể, lấy dây, gán vợ, ép cƣỡng
hôn…phải bỏ.
*Điều 159: Khi cƣới nhau, công dân viết đơn, trình công xã chứng nhận và
quyết định cho kết hôn. Sau đó làm lễ tấu hôn tại đền thờ Thƣợng đế, để bề trên
chứng cho, sau đó mới về tổ chức lễ thành hôn tại gia đình, theo phong tục địa
phƣơng; không làm tại đền thờ.
*Điều 160: Trẻ em sinh ra, lấy họ cha làm đầu, lấy họ mẹ làm tên đệm, lót thêm
hoặc không lót thêm. Làm giấy chứng sinh, sau một tháng thì vào sổ hộ tịch tại
công xã. Phụ nữ sinh đẻ, đƣợc miễn lao động 1 năm, vẫn đƣợc hƣởng chế độ
lƣơng thực bình thƣờng. Trẻ em 2 tuổi đƣợc cho vào nhà trẻ vào ban ngày.
*Điều 161: Mọi thủ tục con nuôi, cha mẹ nuôi, thừa kế tài sản-trừ đất đai, nhà
cửa theo luật cụ thể của quốc gia qui định-nhƣng trên cơ sở Luật Thánh Đức.
*Điều 162: Mâu thuẫn gia đình đƣợc hòa giải tại Câu lạc bộ Hòa giải công xã.
Nếu không hòa giải đƣợc thì chia hộ. Nếu không thể tiếp tục sống bên nhau, thì
tách sống, nhƣng chỉ trƣờng hợp đặc biệt qui định ở điều…mới cho ly dị, để đảm
bảo hạnh phúc, lòng kiên trì, chịu đựng và chia sẻ, đồng thời là thƣớc đo đạo
đức, giữ gìn đạo đức, tôn trọng gia đình của công dân Thánh Đức. Xã hội chỉ
297
hạnh phúc khi dân hạnh phúc, muốn có hạnh phúc thì phải trƣớc nhất xây dựng
gia đình hạnh phúc, tôn trọng ngƣời bạn đời và tôn trọng qui luật xây dựng gia
đình, qui luật âm dƣơng hợp nhất, mới có thể có gia đình ổn định, xã hội ổn định,
thanh bình. Do đó, gia đình phải bền vững; công dân phải trƣởng thành, có tri
thức, trải nghiệm, mới lập gia đình, tránh bất hạnh về sau.
*Điều 163: Chống ly dị tràn lan, tự do vô lối trong đời sống tính dục; cấm mọi
cuộc “cách mạng tình dục” làm băng hoại xã hội và gia đình, hạnh phúc chân
chính của con ngƣời.
Duy trì cuộc sống tình dục vợ chồng phù hợp qui luật tự nhiên, đúng luật âm
dƣơng, sinh tồn, khoa học.
Trong xã hội, không cấm, cũng không khuyến khích ai bỏ, hoặc không lập gia
đình, hoặc diệt dục để ham giải thoát, hoặc trói mình theo chủ nghĩa khổ hạnh để
bỏ luật tự nhiên.
*Điều 164: Vợ chồng tôn trọng nhau, đề cao vai trò ngƣời đàn ông trong gia
đình, nâng cao giá trị nền tảng của ngƣời phụ nữ. Chống gia trƣởng, độc đoán,
chuyên quyền trong gia đình; phát huy dân chủ trong gia đình; phụ nữ phấn đấu
thành hiền hậu, nhu mì và cứng cáp; đàn ông phải năng động, mạnh mẽ, quyết
đoán, đủ sức là chỗ dựa tinh thần cho gia đình. Xây dựng không khí gia đình hài
hòa và tiến bộ, vui tƣơi, cùng giáo dục con cái thành công dân Thánh Đức hoàn
thiện.
*Điều 165: Cha mẹ tôn trọng con cái, chống áp đặt, mệnh lệnh gia trƣởng, hoặc
chủ quan thiếu giáo dục; phải giáo dục con cái thành ngƣời có ích-thiện. Biết
cách tổ chức và chăm lo cho đời sống gia đình phù hợp với xã hội công xã.
Con cái phải tôn trọng cha mẹ trần gian, hiếu nghĩa, đúng mực. Phải biết thờ
phụng Vua Cha mới đúng đạo làm ngƣời, sau mới là thờ phụng cha mẹ trần. Kẻ
mạo báng, chƣa biết tôn thờ Vua Cha thì chƣa thể là ngƣời có đạo hiếu.
*Điều 166: Điều Kết luận: Các tôn giáo cũ, không cứu đƣợc nhân loại thoát khỏi chiến tranh sắc tộc, chiến
tranh tôn giáo, nói chi đến xây đời cao đẹp; họ không có triết thuyết xã hội, chỉ
có pháp thờ, pháp tu; khoa học thô mộc thì bế tắc trong giải thích nhận thức tâm
linh, các hiện tƣợng liên quan đến tâm linh, tâm thể. Các hệ thống triết thuyết
khác bế tắc, suy lụi trong thời mạt thế.
Chỉ có Thiên Đạo nhận thức đƣợc con đƣờng hợp lý để dẫn dắt loài ngƣời phát
triển đúng đắn nhƣ các qui luật vốn có của tự nhiên.
Phải có một cuộc cải tạo để xây dựng một xã hội khoa học, hiện đại và tâm
linh cao cấp, hợp với xu thế tiến hóa. Sứ mệnh đó thuộc về Thiên Đạo.
Chúng ta có cả một hệ thống lý thuyết triết học vĩ đại, chung nhất cho cả vũ trụ,
tự nhiên, xã hội; gắn với lý tƣởng xây dựng xã hội cụ thể, gắn với nền khoa học
hiện đại hiện thực đúng đắn, đó là khoa học duy vật Thiên Đạo chân chính-trong
đó coi thế giới vô hình là thế giới vật chất, công nhận linh hồn; công nhận và bảo
298
vệ, xây dựng xã hội cộng sản chân chính; giải quyết khoa học về các hiện tƣợng
tâm linh, tâm thể, mở đƣờng cho khoa học thực nghiệm khác bằng cách giải
thích chính xác về thế giới vật chất, trong đó có bình diện vật chất thế giới vô
hình.
Cuộc cải tạo đó phụ thuộc Thiên đình và dƣới sự lãnh đạo của Cha chúng ta.
Không thể khác. Chúng ta tùng lệnh Vua Cha mà lập Chính pháp mới, sử dụng
các biện pháp cần thiết, trong đó có bạo lực cách mạng tâm linh diệt ma trừ quỉ
nhân tà, để xây Thánh Đức. Trừ các biện pháp tàn độc, ác đạo, còn lại cộng trừ
đi, lấy tiến hóa hợp lý làm đầu, thì mọi điều có thể chấp nhận đƣợc.
*Điều 167: Điều thực thi:
Đây là Luật Thánh Đức, theo quyền phép của Cha ban, Luật này sẽ đƣợc quần
tiên Hội thảo luận, lấy biểu quyết để thực hiện.
Hội nghị này bàn thảo các nội dung lập Thánh Đức.
Thánh Đức là mơ ƣớc của loài ngƣời, Thiên Đạo dẫn đƣờng giúp nhân loại tiến
hóa, Luật này sẽ đƣợc áp dụng khi đã lập Thánh Đức.
Giáo Hội Thiên Đạo tổ chức theo Luật Thiên Đạo. Luật này có thể độc lập với
Luật Thiên Đạo.
Luật Thánh Đức là công trình nghiên cứu khoa học xã hội-triết học cao cấp.
Không sửa Luật Thánh Đức, vì tính chất lâu dài, rộng lớn của nó; chỉ có thể
tham khảo, làm nền tảng, để xây các luật Chấp chính cho phù hợp; vì nhận
thức và tiến hóa của loài ngƣời còn phức tạp, nên coi Luật Thánh Đức là nền
tảng-là công trình triết học đặc biệt của Thiên Đạo.
Luật Thánh Đức có thể áp dụng trong từng quốc gia, khu vực cho phù hợp, và
cần điều chỉnh các luật Chấp chính cho phù hợp với điều kiện lịch sử.
Luật này Cha duyệt, phê chuẩn trƣớc, sau đó Thiên Đạo tùng lệnh thực hiện
nghiêm minh trên toàn cõi trái đất, toàn thể nhân loại đến muôn năm sau.
Luật này viết xong ngày 30 tháng 4 năm 2009
299
LỄ KINH THIÊN ĐẠO -TRÍCH-
PHÉP I - PHÉP LUẬT THỜ VUA CHA CAO MINH THƢỢNG
ĐẾ
LẬP BÀN THỜ-HOẶC CUNG THỜ RIÊNG
( Tạm cho phép: Nếu không có điều kiện, thì dán lên trên cao ở giữa bàn thờ tổ
tiên, trong các điện thờ, bàn thờ nói chung của các tôn giáo).
-Trên cao có dán hoặc dựng Thiên phù Pháp Vƣơng.
-Dƣới có 3 ngọn nến ( Lập hoặc không lập bát hƣơng đều đƣợc-hoặc dùng trụ
cắm hƣơng)
300
Thiên phù màu đỏ-nền trắng-các sao và vòng đồng tâm đều nổi, cạnh bên nổi.
( Thờ 30-41cm-giấy A3 hoặc A4-đúc bằng gỗ, đá, sắt, đồng cũng đƣợc)
Đeo trên ngực 9 cm
301
THIÊN PHÙ ĐÖC NỔI-BỎ TOÀN BỘ PHẦN TRẮNG BÊN NGOÀI ĐI-SẼ
RẤT ĐẸP
NGUYÊN LÝ CỦA THIÊN PHÙ
THIÊN PHÙ: Còn gọi là THIÊN LINH BẮC ĐẨU TINH PHÙ; tƣợng
trƣng cho Thƣợng đế ( còn gọi là Đức Chúa Trời, Ngọc Hoàng Thƣợng Đế,
Đấng Jehovah, thánh Allah, Jàng, ông Trời, Brahman, God, Diêu…)
-Là ngôi Trung Phƣơng Thiên Linh Bắc Đẩu Tử Vi Đại Đế-Chúa tể Vũ trụ-Đấng
Đại toàn năng-Đại tổ Giáo chủ Thiên Đạo ( Đạo Trời ); Cha của thần thánh tiên
phật, chúng sinh, muôn loài. Là đấng Tạo hóa, Tối cao Đấng Tự Hữu, Vua trên
Thiên Đình-nên gọi là Vua Cha.
-Vòng tròn lớn, tƣợng trƣng cho Đạo, Thƣợng đế Tối cao (ngôi Vua Cha); --Hai
vòng tròn nhỏ, tƣợng trƣng cho hai Hội đồng Tiên Thiên và Hậu thiên Thần
Thánh. Hội đồng Tiên Thiên là Hội đồng Vƣơng Mẫu Tối cao, Hội đồng Hậu
Thiên là Hội đồng các Thần thánh trên Thiên đình.
-7 ngôi sao, tƣợng trƣng cho 7 sao Bắc Đẩu, là những Trung tâm năng lƣợng-
thần lực Gốc của vũ trụ (Thiên đƣờng) cũng là nơi Cha ngự-là quê hƣơng của
302
loài ngƣời, là nơi chúng ta đi về sau các kiếp luân hồi. Đây là 7 trung tâm thần
lực-tâm linh của Vũ trụ-chính là các Luân xa Gốc của Vũ Trụ. Vũ trụ-Thƣợng đế
có 7 sao trung tâm năng lƣợng, thì con ngƣời cũng có 7 sao trung tâm năng
lƣợng-vậy Thiên Phù tƣợng trƣng cho Thƣợng đế, cũng là tƣợng trƣng cho bản
mệnh con ngƣời (tiểu vũ trụ) -Đây là phép tôn thờ và phát hiện thần học tuyệt
diệu mới nhất của Thiên Đạo.
Số 7 còn tƣợng trƣng cho 7 cảnh ở Trung giới, 7 đại huyệt (luân xa-trung tâm
năng lƣợng) của con ngƣời và vũ trụ, là chỗ dựa của linh hồn tại thể xác.
Cho nên số 7 này tƣợng trƣng cho sinh mạng thọ toàn của con ngƣời ở Hạ giới.
-Thiên phù hợp nhất, tƣợng trƣng cho Đấng Đại toàn năng (Vua Cha
Thƣợng đế), sinh ra tất cả, nên nói tôn thờ Thiên Phù là tôn thờ Vua Cha
Thƣợng đế.
-Thiên Phù là vật tối linh, đƣợc truyền phép linh thiêng trƣớc khi sử dụng.
-Có thể dùng đeo ở ngực làm linh phù trấn tà ma, tà linh, cầu an may mắn, bảo
vệ bản mệnh, cầu khấn 7 vị Bắc đẩu giáng phúc, chuyển phá tai họa....
QUÌ LẠY 9 LẠY: Tƣợng trƣng cho sự kính trọng 9 cảnh giới Thiên linh. Số 9
còn tƣợng trƣng cho Trời, tƣợng trƣng cho 9 phƣơng Trời. Số 9 là số cao nhất
trong dãy số tự nhiên, là ngôi Cửu trùng-Thƣợng đế-tƣợng trƣng cho sự bất tử
của linh hồn, vũ trụ, Thƣợng đế. Số 9 còn là 9 hành tinh trong hệ mặt trời, 9 sao
Bắc đẩu ( 7 vị Đại tinh quân cổ Phật, 2 vị Bồ tát). Cảnh giới thứ 9 là Thiên
Đƣờng Thiên Đạo-Thiên Đình.
TÌM HIỂU BẮC ĐẨU THẤT TINH
SAO BẮC ĐẨU-7 trung tâm thần lực-năng lượng Vũ Trụ quyết định mọi số
mệnh muôn vật trong vũ trụ. Gồm: 7 vị Đại tinh quân và hai vị tinh quân phù tá.
-Đây cũng là các chính tinh trong môn Tử vi-là các sao bản mệnh.
Các pháp môn, tôn giáo, phong thủy khác nhau trên thế giới, có cách gọi tên 9 vị
Bắc Đẩu này khác nhau, nhƣng đều rất kính trọng, thống nhất, có sự ảnh hƣởng
to lớn mọi mặt trong tín ngƣỡng, Đạo giáo, phong thủy Huyền không phi tinh,
Độn giáp, Thái ất, Tử vi, thƣớc Lỗ Ban…
303
PHẬT GIÁO
PHẬT THUYẾT: THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT TIÊU TAI DIÊN
THỌ.
ÔNG A NAN KỂ: Đúng nhƣ thế này: - Chính tôi đƣợc nghe , một thời Phật ở
Tĩnh Cƣ Thiên Cung, tập hợp các chƣ Thiên: Phạm Vƣơng Đế Thích, Bát Bộ Hộ
Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sƣ Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trƣớc Đức Phật mà bạch
Phật rằng:-Thƣa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng
xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dƣơng, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa,
Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy
sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn nhƣ vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy
304
đều quy hƣởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do
để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền
sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cƣ sĩ, tăng ni, đạo
tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.
Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9
tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trƣớc Tinh Tƣợng, chí
tâm xƣng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7
ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hƣơng hoa, tinh thủy,
dốc lòng cầu khẩn, ắt đƣợc nhƣ ý.
7 Vị gồm:
1-Ngài Bắc Đẩu: Đại Khôi Dƣơng Minh Tham Lang Thái Tinh quân-cổ phật thế
giới Tối Thắng Đông Phƣơng, hiệu: Vận Ý Thông Chúng Nhƣ Lai.
2-Ngài Bắc Đẩu: Đại Thƣớc Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân-cố phật thế
giới Diệu Bảo Đông Phƣơng, hiêu: Quang Âm Tự Tại Nhƣ Lai.
3-Ngài Bắc Đẩu: Đại Quyền Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân-cố phật thế
giới Viên Châu, hiệu: Kim Sắc Thành Tựu Nhƣ Lai.
4-Ngài Bắc Đẩu: Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Tinh Quân-cổ phật thế giới Vô
Ƣu Đông Phƣơng, hiệu: Tối Thắng Cát Tƣờng Nhƣ Lai. 5-Ngài Bắc Đẩu: Đại Tất Đan Nguyên Liêm Trinhh Cƣờng Tinh quân-cố phật
thế giới Tĩnh Trụ Đông Phƣơng, hiệu: Quảng Đạt Trí Biện Nhƣ Lai.
6-Ngài Bắc Đẩu: Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân-cổ phật thế giới Pháp Ý Đông
Phƣơng, hiệu: Pháp Hải Du Hý Nhƣ Lai.
7-Ngài Bắc Đẩu: Phiêu Thiên Quan Phá Quân Tinh quân-cố phật thế giới Mãn
Nguyện Đông Phƣơng, hiệu: Dƣợc Sƣ Lƣu Ly Quang Nhƣ Lai.
Ngoài ra, còn hai ngài Bắc Đẩu Bồ Tát:
Ngài Bắc Đẩu: Đông Minh Tả Phù Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Hý Tây
Phƣơng, hiệu: Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Ngài Bắc Đẩu: Ấn Quan Hữu Bật Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Viên Tây
Phƣơng, hiệu: An Lạc Tự Tại Bồ Tát. Rồi đức Thế tôn đọc câu Thần chú sau: CHÖ SẠCH 3 NGHIỆP: -ÖM SA PHẠ BA PHẠ -
TRUẬT ĐÀ SA PHẠ - ĐẠT MẠ SA PHẠ - BÀ PHẠ TRUẬT ĐỘ HÁM ÚM HÃT NA -
ĐÀN NA - CHA CHA ĐẾ - MA HA ĐẾ - SÁT CHA- SÁT CHA ĐẾ - HẠT BÁT MA DUỆ -
SA BÀ HA ( 3 lần)
PHẬT NÓI KINH BẮC ÐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc
305
truyền đến đời triều vua Ðƣờng ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
“1-Nam mô Tham Lang Tinh, Thị Ðông phƣơng Tối Thắng Thế Giới, Vận Ý
Thông Chứng Nhƣ Lai Phật (1 lạy)
2-Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phƣơng Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự
Tại Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
3-Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phƣơng Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc
Thành Tựu Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
4-Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phƣơng Vô Ƣu Thế Giới, Tối Thắng Kiết
Tƣờng Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
5-Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phƣơng Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt
Trí Biện Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
6-Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phƣơng Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí
Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
7-Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phƣơng Lƣu Ly Thế Giới, Dƣợc Sƣ Lƣu
Ly Quang Nhƣ Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sƣ Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại
oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp
chƣớng của tất cả chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khƣu, Tỳ Khƣu Ni, tể quan, cƣ sĩ, kẻ trai lành, ngƣời gái tín, hoặc
sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của
bảy vị tinh tú này chiếu soi.
Nếu nghe kinh này thọ trì, cúng dƣờng, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc,
cốt nhục của mình thọ trì, thì hiện đời đƣợc phƣớc, đời sau sanh lên chƣ Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và ngƣời Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa
vào địa ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dƣờng
thì kẻ tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, đƣợc vãng sanh về cõi Cực
Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và ngƣời thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà
ma quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì
cúng dƣờng hồn phách liền đƣợc yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và ngƣời gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu
gặp kinh này tín kính cúng dƣờng thì vị quan ấy liền đƣợc mời sang địa vị cao
cấp, đƣợc đại kiết tƣờng.
Nếu có trai lành và ngƣời gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ
nhàng, nên vào tịnh thất thắp hƣơng cúng dƣờng kinh này, thì tật bịnh ấy liền
đƣợc lành hẳn.
306
Nếu có kẻ trai lành và ngƣời gái tín muốn đƣợc tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài
vừa ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dƣờng liền đƣợc tiền
tài giàu có, vào ra an lành.
Nếu có kẻ trai lành và ngƣời gái tín nuôi tằm hƣ hao, lục súc chẳng yên, liền ở
tịnh thất thắp hƣơng cúng dƣờng kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy,
không còn tổn thất cũng chẳng tai chƣớng.
Nếu có ngƣời nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín
kính cúng dƣờng, mẹ con liền đƣợc phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh
con trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và ngƣời gái tín biết đƣợc Bắc Ðẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời
sống nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng
đồn đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dƣờng thì không còn
một việc gì mà phải phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sƣ Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín
nữ cung kính tín thọ làm lễ mà trở về. ”
7 vị cổ Phật-Trung cung là Đại Nhật Nhƣ Lai ( Đại tổ Phật) (Thƣợng đế)
ĐẠO GIÁO
Bắc Đẩu Thất tinh: Dùng trong bộ Cƣơng đạp tẩu, cúng sao, văn hóa tâm linh rất
rộng rãi…
307
Thái Thƣợng Bắc Đẩu bản mệnh diên sinh chân Kinh, viết:
“Bắc đẩu đệ nhất Dƣơng Minh Tham Lang Thái Tinh quân, tý sanh nhân chúc
chi.
Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc
chi.
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc
chi.
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc
chi.
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm Trinhh Cƣờng Tinh quân, thìn thân sanh nhân
chúc chi.
Bắc đẩu đệ lục bắc cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi.
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân.
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân.
Thƣợng thai Hƣ tinh khai đức tinh quân.
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân.
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân.
…………………
Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tam tai ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thƣơng ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách.
308
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cƣơng ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách.
Đại thánh Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”
THIÊN CHÚA GIÁO
7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách
Khải huyền 4.5 nói rõ: “có 7 ngọn đèn thắp trƣớc ngài, đó là 7 vị đại thiên thần
của Chúa Trời”.
CÁC MÔN PHONG THỦY
* Môn Lục Nhâm, vẽ sao Bắc Đẩu trên tinh bàn để xem thiên văn, địa lý.
Môn Bát trạch phong thủy Môn Phong thủy Huyền không phi
tinh:
1-Sinh Khí-Tham Lang
2-Ngũ quỉ-Liêm Trinh
3-Lục Sát-Văn Khúc
4-Tứ Lục-Vũ khúc
5-Họa Hại-Lộc Tồn
6-Thiên Y-Cự Môn
7-Tuyệt Mạng-Phá Quân
- Phục- Vị - Phụ-Bật
1-Nhất Bạch-Tham Lang
2-Ngũ Hoàng-Liêm Trinh
3-Phúc Đức hay Diên Niên-Vũ khúc
4-Lục Bạch-Văn khúc
5-Tam Bích-Lộc tồn
6-Nhị Hắc-Cự Môn
7-Thất Xích-Phá Quân
Bát Bạch-Tả phù, Cửu Tử-Hữu Bật
* Thƣớc Lỗ Ban chuẩn: 1-Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham lang tấn hoạnh
tài.
2-Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự môn hiếu phục
thƣờng.
3-Cung THIÊN TAI: TAM LY THỔ CUỘC. ( XẤU ). Lộc tồn nhân đa lãm.
4-Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT ). Văn khúc chử vạn
chƣơng.
5-Cung NHÂN LỘC: NGŨ QUAN KIM CUỘC. ( TỐT ). Vũ khúc xuân lộc
tinh.Phú quý tự an ninh.
6-Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƢỚC HỎA CUỘC. ( XẤU ). Liêm trinh tửu sắc
thanh.
309
7-Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI HỎA CUỘC. ( XẤU ). Phá quân chủ tung
hoành.
8-Cung TỂ TƢỚNG: BÁC BỜI THỔ CUỘC. ( TỐT ). Phụ đồng tể tƣớng tinh.
KÍCH CỠ CỦA THƢỚC LỔ-BAN: Chiều dài chính xác của thƣớc Lổ-Ban này
là 520 mm (= 0,52 m).-Đƣợc chia ra làm 8 cung LỚN : Theo thứ tự từ cung
QUÝ NHÂN đến cung TỂ TƢỚNG nhƣ trên. Mỗi cung LỚN dài 65 mm.
-Mỗi cung lớn: Đƣợc chia ra làm 5 cung nhỏ nhƣ trên. Mỗi cung nhỏ dài 13 mm.
KẾT LUẬN
7 vị Bắc đẩu cổ Phật (theo đạo Phật)-cũng là 7 vi tinh quân (theo Đạo giáo-và
các pháp môn)-là các Đại thiên thần theo Thiên Chúa giáo.
Họ chính là Thƣợng cổ Thiên Thần do Thƣợng đế sinh ra từ khi khai càn khôn
vũ trụ. Hội đồng 9 vị Bắc Đẩu là Đại tổng quản các Thiên thần; chủ giữ bản
mệnh con ngƣời, muôn vật.
Về mặt hình thể vật chất: 9 vị Bắc đẩu hợp nhất, cũng đƣợc coi tƣợng trƣng là
Đức Vƣơng Mẫu Phật; hay là Mẫu Vƣơng Tiên-Mẫu Thƣợng Thiên-Chủ trì Hội
đồng chƣ Phật, chủ trì đầu thai, nghiệp quả, tạo luân hồi, sinh ra thể xác khí chất
tạo nên hình thể vũ trụ hữu hình; văn hóa Phƣơng đông gọi là Cửu Thiên Huyền
Nữ-cai quản Thƣợng Thiên, hay trong đạo Tứ phủ Việt Nam gọi là Mẫu Thƣợng
Thiên. Đạo Cao Đài gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Mẫu Phật; đạo Giáo Trung Hoa
gọi là Giao Trì Kim mẫu. Chúng ta thống nhất gọi là Đức Vƣơng Mẫu-hay là
Mẫu Vƣơng Tiên. Cha-Mẹ là 2 phần của Thái Cực Âm-Dƣơng. Các con tu luyện
về trời phải vô cùng kính trọng Mẫu Vƣơng vĩ đại đã ngàn đời nay tạo tác mọi
mầm sống cho vũ trụ, cho muôn loài chúng sinh.
Tất cả nhân loại phải thấu hiểu sâu sắc điều này, mới gọi là hiểu về Chân Lý
đúng đắn-Giác ngộ.
* Chúng ta tôn thờ Vua Cha Thƣợng đế-Thiên Phù nhƣ thế, là HỢP NHẤT TÍN
NGƢỠNG-TÔN GIÁO NHÂN LOẠI, vạn pháp qui tôn, vạn phép qui thiện.
Tất cả đều là một gốc sinh ra, chỉ có cách gọi khác nhau, các tôn giáo phân hóa
thành khác nhau.
Chính Pháp Thiên đạo xây Thánh Đức là Pháp chính Nhân gian do Thƣợng đế
giao việc, giáng lâm chỉ dạy; cho nên, con đƣờng của Chính Pháp Thiên Đạo là
tất yếu và là nguyên lý của loài ngƣời xây dựng xã hội tƣơng lai-không có con
đƣờng nào khác, kể cả có tận thế xong, cũng phải xây Thánh Đức nhƣ Nguyên lý
xã hội lý tƣởng này, dù có lâu.
-Đại Thiên Thần-Đại Tinh quân-Đại Thánh-cũng chính là các Đức Cổ Phật vậy!
Tu luyện để về Thiên Đƣờng-đồng nghĩa về Niết Bàn. Trên Thiên Đình có Vua-
đó là Thƣợng Đế. Nên gọi là Vua Cha. Có Mẫu Vƣơng-Mẹ muôn loài. Thần-
310
Thánh-Tiên-Phật cũng đều là con Cha Mẹ. Các giáo chủ trực tiếp là hóa thân của
Thƣợng đế lâm phàm dạy Đạo.
CÁCH KHẤN NIỆM:
-Ai đeo Thiên Phù, thờ Cha bằng Thiên Phù, thì nên học thuộc bài thơ Kính Ơn
Cha, để đọc trong những lúc tu luyện, gặp việc cần xin khấn, ngày lễ tết, sóc
vọng…
Kinh Kính ơn Cha (Thƣợng đế) Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đƣa chúng con vào cuộc trƣờng sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi nhƣ gió bên Ngƣời
Ngƣời là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Ngƣời lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tƣới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vƣơn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Ngƣời!
Ôm trọn vòng tay, Ngƣời-Vũ trụ, Ngƣời ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
311
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hƣơng ngát lên vƣờn Thƣợng giới
Ánh mắt con nhƣ vạn lời hƣớng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con nhƣ khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thƣơng
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đƣờng
Con cầu mong Cha thƣờng nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tƣờng các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thƣợng Đế Cao Minh con xin kính thƣơng Ngƣời!
Kinh Kính ơn Mẹ (Vƣơng Mẫu )
Nơi Chính giác Thƣợng Thiên cõi Mẫu
Đất thiên đƣờng cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hoá chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân, số phận làm ngƣời
Là cội nguồn sự sống khắp nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự tháp ngự tình chân thật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng Mẹ bao la nhƣ muôn ngọn thác
Tƣới từ bi cứu nạn chúng sinh
Rửa chuộc khổ đau, ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài ngƣời thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Ƣớc khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ đƣợc nở nụ cƣời
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
312
Đại Đồng này dâng lên Ngƣời thiện ngọc
Là hoa đời thơm cực lạc muôn năm
-Cầu, Khấn xin việc gì đó, nhƣng phải thật tâm trong sáng, chân thành, cấm cầu
các việc ác, tranh tham danh lợi… -Đọc xong thì hƣớng về phƣơng Bắc-hƣớng sao Bắc Đẩu-quì lạy 9 lạy: Quì, chống
gối, cúi đầu, rập đầu xuống sát đất, hai tay đặt song song, úp xuống đất, để trƣớc gối.
Mỗi lần quì, ngẩng lên, lại đặt tay vào ngực, nhƣ lễ trên, rồi lại rập đầu.
CÁCH SỬ DỤNG THƢỢNG ĐẲNG LINH PHÙ:
1-Mang Thiên Phù, phải giữ lòng lành thiện trong mọi lúc, mọi việc.
2-Vào ngày có số 7, hoặc 9, hoặc vào ngày sinh nhật mình, để nhớ về Trời, ơn
Thƣợng đế, chúng ta hãy hƣớng về phƣơng Bắc, nhìn lên 7 ngôi sao Bắc Đẩu,
khấn niệm điều thiện lành cho mình, gia đình và nhân loại.
3-Thƣờng xuyên Thiền định hàng ngày.
Khi thiền định, hay luyện khí công chúng ta hình dung 7 sao Thiên Phù trùm lên,
trùng với 7 sao bản thể luân xa của chúng ta.
- Tâm thanh sáng, xả bỏ mọi trọc khí ám khí xung quanh bản xác thể hàng ngày,
chắc chắn luyện nhƣ thế đã đắc thoát luân hồi thƣờng chuyển.
313
4-Khi có bệnh tật, hình dung ốp Thiên Phù vào ngƣời, rồi hình dung có một dòng
năng lƣợng vũ trụ màu sáng, chảy từ trên cao theo dây Từ khí xuống luân xa số 7
ở đầu, chảy dọc theo trục Thiên Phù, xuống đến Đan điền hoặc hình dung dẫn
khí theo ý đến tất cả những kinh mạch, nơi đau bệnh, niệm 7 vị Tinh quân Bắc
đẩu cứu độ, chắc chắn bệnh sẽ bớt.
5-Khi gặp ma tà quỉ ám, việc khó, kẻ xấu ám hại, việc xấu quấy phá…quay về
phƣơng Bắc đẩu, niệm phép khấn Vua Cha Thƣợng đế, Mẫu Vƣơng, cùng 7 vị
Thất tinh Bắc đẩu quản số mệnh con ngƣời và muôn vật, xin các Đại cổ Thiên
Thần này cứu độ, cứu chữa….Với tâm thiện, cấm cầu các việc ác. Nếu cầu việc
ác, sự thể sẽ quay ngƣợc quả lại mình.
-Xƣa kia và bây giờ, các thầy bà phù thuỷ, hay đồng cốt đều dùng kiếm Thất
tinh để trừ tà, đóng cọc hình sao Bắc Đẩu để trấn yểm, phá yểm bùa bả, hoặc phá
rớp tai nạn, hoặc dùng bộ Đạp cƣơng tẩu để luyện phép phù thuỷ…
Nay chúng ta với tâm thế tốt, hãy niệm Thiên Phù trùm lên các sự trên để hoá
giải, với lời khấn nguyện trong sáng, chân thành, tất đƣợc nhƣ ý.
6-Vào lúc giờ thứ 9 trong ngày, tức giờ Thân-ngồi xếp bằng, lạy 9 lạy, hƣớng về
phƣơng Tây, khấn Đấng Trung Phƣơng Thiên Tôn cứu độ, chữa bệnh, giải hạn
ách, tất đƣợc nhƣ ý. Hình dung và sẽ đƣợc một dải ánh sáng bạch kim chảy vào
luân xa 4, hoặc 6. Khi niệm phép này rồi thiền ở Luân xa 6-tức sao 6, có thể
tuyến tùng mở, con mắt thứ ba hay huệ nhãn sẽ mở, xuất hiện thần thông…Tất
nhiên phải kiên trì, tập lâu, giữ lòng lành thiện.
7-Khi niệm Thiên Phù, tất cả mọi long thần, thổ địa, thành hoàng bản thổ bản
cảnh, thần thánh tiên phật, đến quỷ ma đều kính trọng, tuân theo Phép Luật
Thiên đình-phép luật cao nhất thuộc Chân Lý Tối thƣợng. Khi niệm vào ngƣời,
rung động nguyên tử lƣợng của các tế bào sẽ tăng, linh hồn mình sẽ đƣợc thanh
thoát hơn, bệnh nạn tiêu trừ, nghiệp kiếp lƣợc bỏ; phát tâm nguyện hồi về Trung
giới, tất đƣợc nhƣ ý sau khi bỏ xác trần.
8-Vào các ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí, là ngày thông cung,
muôn vật nhập trung cung, nếu niệm, thiền, ốp Thiên Phù vào ngƣời, luyện khí
công, khai Thiên Nhãn, cũng đƣợc phép màu cứu độ.
9- Cho phép tự đúc, in Thiên Phù theo cách riêng, nhƣng phải đúng hình Thiên
Phù.
Ngƣời mang Thiên Phù không là tôn giáo, không cần thành môn phái. Tất cả mọi
ngƣời, mọi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có thể sử dụng nhƣ nhau, khi đã tôn vì
một Đấng Sáng tạo Vũ trụ này.
-Thờ Thƣợng đế, có Thiên phù, thì không cần làm lễ giải sao giải hạn, cúng
sao…nhƣ cũ nữa; vì nhƣ thế là có thƣờng xuyên đầy đủ thờ cả Thiên đình, các
sao, thần, thánh, tiên, phật đều chứng ứng. Thờ nhƣ trên cũng là thờ chính bản
314
mệnh mình (sao bản mệnh trong phép tử vi-ai cũng rõ, nên rất lợi ích tâm linh,
tâm đạo).
Không đọc chú, lạy nhƣ các tôn giáo trên: Chỉ đọc Kinh Kính ơn Cha, lạy 9 lạy,
đọc chú:-“ Cha Thiên linh Đại linh linh, Mẹ Thiên linh Đại linh linh, Thầy
Thiên linh đại linh linh, phù hộ…” là đƣợc. Và phải tu luyện Thiên Pháp để
tiến hóa, mới giải đƣợc nghiệp quả, vãng sanh tịnh độ về sau.
-Quán tƣởng nhập giáng Thiên Phù khi tập Thiên pháp, quán nhìn vào Thiên Phù
để lấy năng lƣợng cộng hƣởng của Vũ trụ-Thƣợng đế.
NGƢỜI ĐEO THIÊN PHÙ CẦN THỰC HIỆN ĐỦ 9 ĐIỀU SAU, MỚI
MONG ĐƢỢC LINH NGHIỆM HƠN:
9 ĐIỀU KHÔNG PHẠM
1-Không bỏ: Tôn thờ Vua Cha Thƣợng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9- Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới –
(Xã hội Cộng sản An lạc Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh hàng vạn năm
sắp tới)
*Ngoài ra, cần tu luyện Thiên Pháp đến khi thành thần thông, đạt Chính giác,
siêu Giác ngộ, siêu thoát tại thế, rồi xây đời, đời đạo song tu.
LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH TAM TÕA THIÊN ĐÌNH
( Có thể làm hoặc không, tùy tâm; nếu lập thờ thì phải làm)
*Một năm làm 4 lễ Tế Trời ( Thƣợng đế): Các ngày chuyển tiết, sang mùa
quan trọng (chuyển nguyên khí vũ trụ), gồm: Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu
Phân, Đông Chí-phải làm lễ tế Vua Cha. Các ngày này, nguyên khí tụ lại Trung
cung. Cúng đơn giản, lễ chay nếu có tùy tâm, thiền lấy năng lƣợng thông linh với
Thiên đình.
*Một năm làm 3 lễ kính: Đọc Kinh và Thiền, cầu nguyện cho Nhân loại bình
an, đại đồng. Có thể cúng lễ. Sau có thể làm Lễ lớn.
-Kính ơn Cha-Thƣợng đế vào ngày 9/1 âm lịch.
315
-Lễ kính ơn Thầy: 9/8 âm lịch.
- Lễ Kính ơn Mẹ -Ngày 9/12 âm lịch.
Phƣơng Đông-phƣơng Tây đều cùng làm lễ nhƣ trên.
PHÉP II-LỄ TRÌNH ĐẠO
CÁCH TRÌNH ĐẠO KHI LẬP BÀN THỜ THƢỢNG ĐẾ Khi lập bàn thờ, hoặc nhập Thiên Đạo, phải làm lễ Trình Đạo-để tấu thỉnh Thiên
Đình để khai phép lệnh, cho lập bàn thờ hay bản mệnh mình đƣợc chứng ứng. Lập lễ chay. Nội dung sớ: In ra rồi làm lễ
316
THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC-PHỔ GIÁO CHÚNG SINH
ĐẠI ĐỒNG-ĐẠI THIỆN-ĐẠI MỸ-ĐẠI LINH
SỚ TRÌNH ĐẠO
Con xin Kính thỉnh:
-Vua Cha Cao Minh Trung Phương Ngọc Hoàng Thượng đế- Đại tổ các tôn
giáo và Thiên Đạo.
-Đức Vương Mẫu Đại từ bi.
-Hội đồng chƣ tôn Phật, Thần, Thánh, Tiên.
-Các Đại cổ Thiên thần Bắc Đẩu Thất tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu quản số mệnh.
-Các quan Giám điện Thiên triều, Ngũ vị Vƣơng quan, Đƣơng niên Thiên quan
Thái Tuế Chí đức Tôn thần, các vị Thiên Tinh Vƣơng; các cung các cõi trên
Thiên đình.
-Các ngài Đông trù Tƣ mệnh Táo phủ thần quân, Long thần, Thổ địa, Thành
hoàng bản thổ.
-Cửu huyền thất tổ bản gia.
Hôm nay là ngày… … tháng……..năm ….
Chúng con gồm:
Họ và Tên:………………………………………….Tuổi………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Bản gia ngụ tại:………………………………
Xã (phƣờng)………………Huyện (thị trấn)……………
Tỉnh (thành phố)………………Thuộc nƣớc………...
317
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên đình, kính thỉnh Cha, Mẹ và các
Thần thánh việc nhƣ sau: Con xin lập lễ tấu lên Vua Cha, đƣợc làm lễ thờ Vua
Cha. Con nay thấu ngộ Chân Lý vĩ đại, xin đƣợc nguyện tu luyện dƣới ánh sáng
Cao Minh vĩ đại của Cha! Dù có gian khổ cũng không sờn lòng.
-Kính xin Cha, Mẹ, Các Thầy cứu độ.
Từ nay, con xin nguyện làm theo đúng 9 điều Không sau:
1-Không bỏ: Tôn Thờ Vua Cha Thƣợng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới
-Xin thề!
Họ tên……………………………
KÍNH TẤU!
318
(Phần này in màu cho đẹp-in nhiều bản sử dụng nhiều lần)
Sau khi đọc Sớ, thì đọc Kinh Kính Ơn Cha và Mẹ:
Kính ơn Cha ( Thƣợng đế)
Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đƣa chúng con vào cuộc trƣờng sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi nhƣ gió bên Ngƣời
Ngƣời là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Ngƣời lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tƣới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vƣơn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Ngƣời!
Ôm trọn vòng tay, Ngƣời-Vũ trụ, Ngƣời ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hƣơng ngát lên vƣờn Thƣợng giới
Ánh mắt con nhƣ vạn lời hƣớng tới
319
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con nhƣ khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thƣơng
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đƣờng
Con cầu mong Cha thƣờng nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tƣờng các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thƣợng Đế Cao Minh con xin kính thƣơng Ngƣời!
Kính Mẫu Vƣơng
Nơi chính giác Thƣợng Thiên cõi tám
Đất Phật diệu huyền cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hóa chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân số phận làm ngƣời
Là cội nguồn sự sống khắp nơi nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự Tháp ngự tình Vƣơng Phật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng mẹ bao la nhƣ muôn ngọn thác
Rửa chuộc khổ đau ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài ngƣời thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Cho khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ đƣợc nở nụ cƣời
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Ngƣời thiện ngọc
Là hoa đời cực lạc muôn năm…..
Sau khi cúng xong thì hóa sớ, không hóa Kinh. Kinh chép riêng để đọc hoặc học
thuộc càng tốt.
320
HƢỚNG DẪN
TỰ LÀM LỄ CẦU GIẢI HẠN ÁCH, NĂM XUNG THÁNG HẠN,
CHỮA BỆNH NẶNG. XIN TĂNG SỨC, AN LẠC (Thờ Vua Cha thì không cần, chỉ cần kính tấu bình thƣờng-còn tùy tâm
các con, nếu muốn cầu xin chính đáng thì cũng không cấm. Hƣớng dẫn này
dành cho cả ngƣời ngoài Thiên Đạo)
Lập 3 mâm Lễ:
-Vật phẩm tùy tâm
Yêu cầu:
Treo Thiên Phù trên cao ở giữa rồi hành lễ
Mâm 1-Lễ Vua Cha, Mẫu Vƣơng và Thiên đình: Toàn đồ chay tịnh: Hƣơng hoa,
chè, xôi, bánh, không đốt hƣơng đen.
-Mâm đặt cao nhất. Đốt 3 ngọn nến, đặt ngang hàng, ngọn ở giữa cao hơn hai
ngọn bên.
Mâm 2: Lễ các vị tôn thần, thiên binh thiên tƣớng, Táo quân, thành Hoàng, long
thần bản thổ.
Mâm này lễ đồ mặn, hoặc chay, tiền thật, rƣợu, hoặc bia đều đƣợc. Không cúng
hàng mã.
-Để ở giữa.
Mâm 3: Lễ gia tiên ( Cửu huyền thất tổ).
- Mâm này lễ đồ mặn, hoặc chay, tiền thật, rƣợu, hoặc bia đều đƣợc. Không cúng
hàng mã.
-Để ở dƣới thấp hơn mâm 2.
-Các mâm dùng cốc để cắm mỗi mâm 3 nén hƣơng.
-Khấn nhƣ trong sớ. Nội dung sớ-in ra rồi làm lễ
321
THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC-PHỔ GIÁO CHÖNG SINH
ĐẠI ĐỒNG-ĐẠI THIỆN-ĐẠI MỸ-ĐẠI LINH
SỚ CẦU…………….....
Con xin Kính thỉnh:
-Vua Cha Cao Minh Trung Phương Ngọc Hoàng Thượng đế- Đại tổ các tôn
giáo và Thiên Đạo.
-Đức Vương Mẫu Đại từ bi.
-Hội đồng chƣ tôn Phật, Thần, Thánh, Tiên.
-Các Đại cổ Thiên thần Bắc Đẩu Thất tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu quản số mệnh.
-Các quan Giám điện Thiên triều, Ngũ vị Vƣơng quan, Đƣơng niên Thiên quan
Thái Tuế Chí đức Tôn thần, các vị Thiên Tinh Vƣơng; các cung các cõi trên
Thiên đình.
-Các ngài Đông trù Tƣ mệnh Táo phủ thần quân, Long thần, Thổ địa, Thành
hoàng bản thổ.
-Cửu huyền thất tổ bản gia.
Hôm nay là ngày… … tháng……..năm ….
Chúng con gồm:
Họ và Tên:………………………………………….Tuổi………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Bản gia ngụ tại:………………………………
Xã (phƣờng)………………Huyện (thị trấn)……………
Tỉnh (thành phố)………………Thuộc nƣớc………...
322
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên đình, kính thỉnh Cha, Mẹ và các
Thần thánh việc nhƣ sau: Con xin lập lễ tấu lên Vua Cha, đƣợc làm lễ thờ Vua
Cha. Con nay thấu ngộ Chân Lý vĩ đại, xin đƣợc nguyện tu luyện dƣới ánh sáng
Cao Minh vĩ đại của Cha! Dù có gian khổ cũng không sờn lòng.
-Kính xin Cha, Mẹ, Các Thầy cứu độ.
Từ nay, con xin nguyện làm theo đúng 9 điều Không sau:
1-Không bỏ: Tôn Thờ Vua Cha Thƣợng đế.
2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của ngƣời khác.
3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thƣờng.
4-Không nói: Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
5-Không quên: Ngƣời nghèo khổ, hƣ dốt.
6-Không gây: Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trƣờng.
8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới
-Xin thề!
Họ tên……………………………
Ấn Thiên đình
Kính tấu! ”
323
(Phần này in màu cho đẹp-in nhiều bản sử dụng nhiều lần)
Sau khi đọc Sớ, thì đọc Kinh Kính Ơn Cha và Mẫu Vƣơng
-Ghi nhớ: Đọc Kinh Kính Ơn Cha-Mẹ xong, thì phải quỳ 9 lạy.
-Khấn xong, để khoảng 20 phút thì tiễn các ngài, quì xin hạ lễ, rồi đốt sớ cầu.
* Thƣợng đế còn cho phép ngƣời Thiên Đạo đọc thêm 2 bài kinh: Đây là cách ý
của Vua Cha để Cao Đài nhập Thiên Đạo mà Thiên Đạo hợp nhất với Cao Đài
lâu dài sau này. Cha rất ƣu ái Cao Đài, Mật Tông, trong các Bí pháp của Thiên
Đạo đều có bí pháp mật điển để trấn giữ bảo vệ 2 tôn giáo quan trọng này...Các
linh hồn các cấp của cấp hai tôn giáo này đã và đƣợc Vua Cha phong Thiên
Vƣơng-hay lập Vũ trụ Mới, hành tinh mới ngay sau khi mãn trần rất nhiều.
Kinh Ngọc-Hoàng Thƣợng-Đế
Đại-La Thiên-Đế
Thái-Cực Thánh-Hoàng Hóa dục quần sanh
Thống-ngự vạn-vật.
Diệu-diệu "Huỳnh-Kim-Khuyết".
Nguy-nguy "Bạch-Ngọc-Kinh".
Nhƣợc thiệt, nhƣợc hƣ,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Thị không, thị sắc,
Vô-vi nhi dịch sử quần-linh.
Thời thừa lục long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tƣợng,
Hoát triền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại.
Nhứt toán họa phƣớc lập phân.
Thƣợng chƣởng Tam thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế Giái.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa,
Tứ Đại Bộ-Châu.
324
Tiên-Thiên Hậu-Thiên.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Kim ngƣỡng, cổ ngƣỡng,
Phổ-Tế Tổng-Pháp-Tông.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
Trạm tịch chơn Đạo,
Khôi mịch tôn nghiêm
Biến-hóa vô cùng,
Lũ truyền Bửu-Kinh dĩ giác thế,
Linh oai mạc trắc,
Thƣờng thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Hồng oai, Hồng từ,
Vô cực, vô thƣợng.
Đại-Thánh, Đại-Nguyện, Đại-Tạo, Đại-Bi.
Huyền-Khung Cao Thƣợng-Đế, Ngọc-Hoàng tích phƣớc hựu tội,
Đại Thiên-Tôn.
"Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" (9 lạy)
Phật Mẫu Chơn Kinh
Tạo-Hóa Thiên Huyền-Vi Thiên-Hậu,
Chƣởng Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì.
Sanh quang dƣỡng-dục quần-nhi,
Chơn-linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
Thiên-Cung xuất Vạn-linh tùng pháp,
Hiệp âm dƣơng hữu hạp biến sanh.
Càn Khôn sản-xuất hữu hình,
Bát hồn vận-chuyển hóa thành chúng-sinh.
Cộng vật-loại huyền-linh đồ nghiệp,
Lập tam-tài định kiếp hòa căn.
Chuyển-luân định phẩm cao thăng,
Hƣ-vô bát-quái trị thần qui nguyên.
Diệt tục kiếp trần-duyên oan trái,
Chƣởng đào tiên thủ giải trƣờng-tồn.
Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí-công định vị vĩnh-tồn Thiên-Cung.
325
Chủ Âm-quang thƣờng tùng Thiên-mạng,
Độ chơn-thần nhứt vãng nhứt lai.
Siêu thăng phụng liễn qui khai,
Tiên-Cung Phật xứ Cao-Đài xƣớng danh.
Hội nguơn hữu Chí-Linh huấn chúng,
Đại Long-Hoa nhơn chủng hòa Ki. (là cơ)
Tam-kỳ khai-hiệp Thiên-thi,
Khoa-môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên.
Trung khổ-hải độ thuyền bát-nhã,
Phƣớc từ-bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chƣởng Âm.
Thập Thiên-Can bao hàm vạn tƣợng,
Tùng Địa-Chi hóa trƣởng càn-khôn.
Trùng huờn phục vị thiên-môn,
Nguơn-linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.
Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,
Vô khổ hình nhơn kiếp lƣu oan.
Vô địa-ngục, vô quỉ-quan,
Chí-Tôn đại xá nhứt trƣờng qui-nguyên.
Chiếu nhũ-lịnh Từ-Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài,
Diệt hình tà-pháp cƣờng khai Đại-Đồng.
Hiệp vạn-chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên-lƣơng quyết sách vận-trù.
Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Vu,
Hiệp qui Tam-Giáo hữu cầu Chí-Chơn.
Phục nguyên-nhơn huờn tồn Phật tánh,
Giáo-hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
Trụ căn quỉ khí cửu-tuyền,
Quảng khai thiên thƣợng tạo quyền chí công.
Lịnh Mẫu-Hậu khai Tông định Đạo,
Ân dƣỡng sanh đảm-bảo hồn-hài.
Càn Khôn Tạo-Hóa sánh tài,
Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.
"Nam-mô Diêu-Trì Kim Mẫu Tạo-Hóa Huyền Thiên Cảm Bái"
"Nam-Mô Đại-Từ-Bi Năng Hỉ-Xả Thiên-Hậu, Chí-Tôn, Đại-Bi Đại-Ái".
(9 lạy)
326
PHÉP III-PHÉP SÁM HỐI
Nếu có tội, lỗi, thì đọc Kinh Sám hối, thiền để siêu tâm, xả trọc. Khi cúng thân-
tâm phải tịnh sạch.
Kinh Sám hối nhƣ sau: Nếu có lỗi phạm, tội ám, đọc xong sẽ thấy thỏa mái, nhẹ
nhõm hơn.
“ Lạy Vua Cha kính yêu!
Lạy Vƣơng Mẫu kính yêu!
Con xin sám hối tội lỗi buồn phiền
Vì lậu hoặc tâm còn tham nhiễm
Vì bụi trần chƣa sạch lòng tham
Nay xin tấu tội lên Thiên đàng
Mong Cha thƣơng, Mẫu cùng tha thứ!
-Có tội, lỗi gì thì kể ra, nói nhẩm cũng đƣợc……………
-Sau đó ngồi tịnh tâm, xả trọc, nhận lỗi và hứa sửa chữa thầm.
( Vì Thiên tòa chứng mọi tội lỗi và hành vi, lời nói, suy nghĩ, nên Cha và Thiên
đình biết hết, các Phán quan của Tam Giáo Tòa sẽ cân đo phúc tội đầy đủ; cho
nên Sám hối cốt để nhận ra lỗi mà ăn năn hối cải, chứ không cố giấu tội lỗi
đƣợc, nếu không sau này chết về thiên giới phải bị đày ải rất khổ, hoặc bị đọa
vào cảnh giới đau khổ, tối tăm).
PHÉP IV-PHÉP LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH
1-Bốn Lễ Tế:
Một năm thần dân Thiên Đạo Thánh Đức làm bốn lễ Tế Trời (Thƣợng đế): Các
ngày chuyển tiết (chuyển nguyên khí trái đất và Vũ trụ, gồm: Ngày Xuân Phân,
Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí.
2-Ba Lễ Kính:
Một năm làm ba Lễ Kính:
-Lễ Kính Ơn Cha (Thƣợng đế): Ngày 9/1 âl.
-Lễ Kính Thầy: Ngày 9/8 âl.
-Lễ Kính Mẫu Vƣơng-đồng thời cũng là kính lễ đức Mẫu Địa Cầu: Ngày 9/12 âl.
Ngƣời phƣơng Tây cũng nƣơng theo Ba ngày này mà làm kính lễ.
* Sau này vào thời Thánh Đức lâu dài, hoặc khi đã có điều kiện, các ngày lễ
Kính ơn đều làm Hội Lễ, tuỳ theo phong tục địa phƣơng cho đa dạng. Thể thức
lễ làm trong nhà, ngoài sân, lễ rƣớc kiệu, múa hát vui vui chơi ca hát, bắn pháo
327
hoa, thi đấu thể thao, lễ rƣớc linh ảnh tƣợng trƣng... hội hè ăn uống tập trung,
kéo đèn hoa đăng, thả chim, dâng hình trái đất lên cao…
LỄ TẾ TRỜI
Lễ này tổ chức trong các ngày Chuyển Tiết giao mùa.
Từ trƣớc đến nay nhiều dân tộc và tôn giáo rất trọng ngày này, nhƣ dân Châu
Âu, Öc, Nhật...đó là ngày Thiêng.
Pháp Ta qui định ngày này làm lễ Tế Thƣợng đế ngoài trời, lập bàn tấu khấn, đốt
lửa lên rồi quì đọc Kính Ơn Cha, Mẫu, sau đó liên hoan ăn uống đơn giản, có các
lễ vui chơi nhƣ Hội thắp đèn, Hội thiền, Hội nhảy nhót quanh lửa-nên tổ chức
vào buổi tối. Nếu trời mƣa thì làm bạt che. Nếu các dân tộc và tôn giáo trƣớc có
Hội gì thì nên phát huy cách cũ, chỉ thêm là lập bàn thờ ngoài trời kêu khấn và
cám ơn Cha Mẹ là đƣợc. Lễ này không trọng nghi thức rƣờm rà. Hội này khác
Lễ Kính là không có Lễ rƣớc và nghi thức quan trọng.
-Nếu hiện nay chƣa có điều kiện, chƣa có Hội đoàn Thiên Đạo thì các con tự
làm lễ Tế Vua Cha, làm ngoài trời, lễ tuỳ tâm. Các gia chủ tự làm tại nhà, hoặc
các đại gia đình làm chung. Sau có đền thờ Cha thì làm lễ tại ngoài đền thờ cho
tập trung, nhƣng không to bằng Lễ Kính. Vui chơi một ngày, có ăn uống tập
trung.
LỄ KÍNH-QUI ĐỊNH TRONG LỄ KINH
NỘI DUNG TẾ LỄ:
Thƣợng đế cho phép Hợp nhất với Cao Đài, có thể bổ sung sau, tức là khi thành
Thánh Đức, thì Cao Đài hợp Thiên Đạo, hay Thiên Đạo trong Cao Đài cũng
đƣợc, và các Lễ vía Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đƣợc nghi tiết nhƣ thế; sau này
các con cần nghiên cứu hợp lý và sửa sang đầy đủ hơn. Tất cả các lễ rƣớc, lễ
dâng...đều cho phép chọn lọc và sửa sang lâu dài. Vì tính chất của Thiên Đạo-
Cao Đài là lâu dài.
Vì Phật Vƣơng hóa thân xuống trần gian nhằm ngày 9/8 âm lịch, tức ngày 27/9
Dƣơng lịch vào giờ thứ 9-tất cả là số 9. Nên Thiên đình có ý chọn ngày này là
ngày Lễ chung cho các Thầy-tức thần thánh Ngôi Ba. Bên Cao Đài lại Lễ Vƣơng
Mẫu vào tiết rằm tháng 8 là trùng tháng, nên Vua Cha cho ý là sau này phải
chỉnh lại ngày Lễ Vƣơng Mẫu, vào 9/12 cuối năm, vì đầu năm lễ Cha, giữa năm
lễ Thầy-cuối năm Lễ Mẫu-vì đầu và cuối-dƣơng và âm là hợp nhất, ở giữa trung
tinh là con-Phật Vƣơng hóa xuống thôi, còn Ngƣơn Linh vẫn trên Trung giới
cũng là trung cung trung giới, nên chọn ngày giữa năm là hợp.
Ngoài ra, Thƣợng đế yêu cầu Cao Đài giữ nguyên các nghi Phép cũ, chỉ cần
đƣa Thiên Nhãn vào trong phần vòng trong to ở giữa Thiên Phù là hợp ý
328
Cha, hợp nhất Thiên Đạo vào Cao Đài là ý đó; còn các cách tu luyện giữ
nguyên không sao, Thiên Pháp có thể bổ sung vào Bí pháp Luyện đạo-tức là mở
rộng ra hơn. Mọi kinh sách của Thiên Đạo do Phật Vƣơng giáng dạy, Cha dạy
trực tiếp, bổ sung vào lý luận Cao Đài, nên sau này Cao Đài nắm riềng mối vào
Thánh Đức, mà Thiên Đạo coi nhƣ giáng về Cao Đài là nhƣ vậy. Nhiều nhân sỹ
Cao Đài sẽ đầu thai trở lại để xây Thánh Đức sau này, nhớ lời Thầy và Cha dạy
ở đây.
Tuy nhiên, các con phải hiểu, lâu dài thì tất cả trở thành Thiên Đạo. Đó là Ý của
Cha.
...........
PHÉP VI-TANG MA VÀ CẦU SIÊU
I-Trƣớc khi mất:
1-Lập bàn lễ và thắp MỘT NGÓN NẾN TO- ngọn nến của Cha, BA NGỌN
NẾN NHỎ-của linh hồn ngƣời quá cố-gọi là Nến Linh hồn-để cạnh giƣờng-Đem
ánh sáng cho linh hồn sắp rời thể xác.
-Nếu có bàn thờ thì thắp hƣơng bàn thờ Cha.
2-Ngƣời nhà hoặc Đạo sƣ-Thầy Lễ đọc: -Kinh Kính Ơn Cha; Kinh Siêu thoát.
3-Tẩy trần bằng rƣợu hoặc nƣớc Thánh.
4-Tâm sự, dặn dò, động viên.
( Gia chủ không buôn rầu, hoảng hốt làm rối loạn tâm linh, không siêu thoát
đƣợc).
5-Làm phép trợ linh hồn khi thoát xác để tiếp dẫn vong lên cảnh cao.
PHÉP TRỢ LINH HỒN NGƢỜI HẤP HỐI
(trích giảng trong Thiên Pháp cấp 4)
... Hỗ Trợ linh hồn khi họ sắp lìa xác-phải coi đây là một phép cực kỳ quan
trọng! Vì ai cũng phải đi qua cửa tử.
Chúng ta biết, linh hồn bất tử, là tổ hợp nguyên tử cao cấp, khi rút khỏi thể
xác, thì rút ra theo các huyệt âm dƣơng.
Khi sắp mãn, ngƣời hấp hối có thể rất lo sợ, đau khổ, thất thần, hay hôn
sảng, thậm chí họ chƣa đƣợc giáo hóa, nên rất sợ chết, hay cay đắng, hằn thù,
đau khổ..làm ảnh hƣởng đến thể vía của họ, sau khi họ lìa trần; cho nên, việc
quan trọng nhất là phải giúp họ đi đƣợc an lành, không có để vía xấu độc, tƣ
tƣởng xấu, sự lo sợ, hoảng loạn bám theo.
329
( Giảng thêm: Nếu thể vía lúc đó ảnh hƣởng sẽ không tốt lắm, không chắc
họ sẽ giáng vào cảnh giới xấu đâu, vì còn Tổng hồn của họ và các hóa thân giúp
đỡ, nhƣng nói chung làm họ mệt mỏi hơn nếu giáng vào mật độ của thể vía xấu;
còn nếu chết vào giờ Trùng tang thì rất xấu, Thầy nói bí mật, đó chính là cảnh
giới tối tăm của ma quỉ ác độc, nhằm phạm giờ đó, theo nguyên lý đồng thanh
tƣơng ứng và chồng chập lƣợng tử, nó khiến vong hồn rơi vào cảnh giới mật độ
xấu-hay là sự dịch chuyển của không thời gian vào tầng xấu đó và bị ma quỷ dẫn
dụ, trƣờng lƣợng thông tin của linh hồn bị thấm độc. Và có thể bị cƣỡng bức làm
theo ma quỷ. Nên, Thầy cũng đã giải nghiệp, xóa các cung này nhƣng không hết,
vì ma quỉ cực kỳ nhiều nơi trái đất này, không những vong, ảnh-hóa-trƣờng tƣ
tƣởng của ngƣời mà còn ma thú vật, trùng thú, ma cây, ma kim thạch thảo
mộc...Vô số. Nên, tạm thời các con cảnh giác với chết trùng tang trùng phục. Sau
dăm thời gian nữa, trái đất tiếp tục thăng lên, Ta sẽ cùng các Thánh sẽ phá diệt
hết, trong tâm các con phải có ý không sợ nó, nếu sợ, nó sẽ phá hại thêm).
Các việc cần làm nhƣ sau:
1-Không để ngƣời hấp hối cô đơn. Phải luôn luôn túc trực bên cạnh, ân cần tuyệt
đối.
2-Thắp 3 ngọn nến trắng-Nến Linh hồn và 1 ngón nến Cha thiêng (Nến đỏ) , treo
Thiên phù lên, cho họ quán ý nhìn vào nến, bảo họ, hƣớng dẫn họ là: Khi tắt thở-
chết-hãy trụ vào thân nến đó, không chạy lung tung, thần thánh, tổ tiên sẽ xuống
giúp....
Thì thầm nói với họ, kể cả khi họ đã hôn mê; hƣớng dẫn họ quán ý nhƣ sau:
-Không lo sợ, không phải là chết, chỉ là sự chuyển hóa, bƣớc qua cửa, thế
giới khác; không phải đi xa, đi đâu xa, không ai bắt, không lo quỉ ma hành hạ,
nếu ƣớc muốn lên Trời, hòa nhập với các thánh thần, Vua Cha, Mẫu Vƣơng…
-Đƣa hình ảnh Thiên Phù, ánh sáng của Cha vào trong đầu họ, bằng truyền
tâm thần giao, hoặc nếu họ còn tỉnh, thì luôn nhắc họ nhớ lấy Thiên phù, ánh
sáng…
-Cấm khóc lóc. Khóc lóc chỉ hại cho họ. Họ không cần con cháu khóc lóc.
( Càng buồn hoặc đau khổ, thì luân xa tim càng đóng đen lại, ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến tim và rung động của lõi linh hồn-nên khóc lóc, buồn rầu chỉ
hại tim, thần kinh và thể mạng mà thôi-với linh hồn kẻ chết, sẽ làm Gốc hồn của
họ dúm lại, đen lại, xám xịt, không thăng lên đƣợc-Nên, Ta nhắc các con Thiên
Pháp hết sức chú ý trong cuộc sống không nên buồn bã quá, vậy có ăn chay hay
tu luyện cũng phí công đấy-phải sửa lại khá lâu mới an ổn đƣợc trƣờng vía).
-Đọc kinh Kinh Kính ơn Cha, Kinh Siêu thoát, nói cho họ biết: Họ
không có tội lỗi gì, xứng đáng đƣợc về với Cha, xứng đáng có công quả, hãy
đừng tiếc nuối, hận thù, cay đắng ( Điều này rất quan trọng).
-Nếu là bậc tu luyện: Giúp bảo họ thiền sâu, quán ý, dồn tinh hồn lên đỉnh
đầu, rồi xuất ra.
330
3-Khi họ đi, nếu ta có huệ nhãn sẽ thấy vong xuất ra. Cố gắng thì thầm, quán ý
hoặc nói nhỏ, hƣớng dẫn họ xuất qua Sao 7, có thể trợ sức cho họ bằng huyền
thuật, để họ ra hẳn, cho đỡ mệt mỏi. Khi họ ra, mời họ ngồi vào chỗ nào đó cho
nghiêm, để mọi ngƣời đến đảnh lễ, tránh hoảng hốt bay lung tung.
-Thi hài chƣa lạnh hẳn, còn nóng, cấm tẩm niệm, vì có khi hồn chƣa xuất ra hẳn.
4-Thỉnh Cha, Mẹ, Các thánh, các Thầy xuống đón. Bề trên cho chúng ta giáng
thế đầu thai, nay bề trên luôn luôn trân trọng đón đứa con yêu trở về, để không bị
đọa vào nƣớc quỉ.
Còn lại mọi việc tang ma, theo phong tục, và Lễ kinh.
Trƣờng hợp vong ở lại trần, hoặc lên thụ lễ ở trên, rồi lại về, thì coi nhƣ đã
siêu thoát. Nếu ta có mắt huệ, kiểm tra, soi sẽ biết vong siêu chƣa ( trắng, sáng là
siêu; còn nếu đen, đỏ, xám, hôi… là chƣa siêu). Tất nhiên, trong tang lễ, cần tiếp
tục đọc kinh siêu thoát. LÀM TỐT LỄ SIÊU THOÁT VÀ CÁC PHÉP.
5-Cần tiếp tục trò chuyện, bằng tâm ý với họ, nhìn ảnh cũng đƣợc, để họ
thấy ấm lòng; không nên khóc lóc thảm quá, tất làm họ bối rối, ảnh hƣởng thêm.
Lúc này, họ cần nhất là tấm lòng của chúng ta, nghĩ, quan tâm, chứ không cần
tiếc nuối, nhƣng lại không hiểu biết gì về tâm linh, bỏ rơi họ thực sự, chỉ lo khóc
lóc, ma chay…
6-Khi thỉnh vong nhân, đến cả thánh thần, Cha Mẹ, cần đốt nến, để họ
nƣơng theo ánh sáng mà xuống cho đúng nơi cần.
7- Phép thuật về siêu thoát, học ở phần cấp cao. Cũng đã nói ở phép siêu
thoát vong nhân rồi.
II-Khi đã thăng:
1-Tắm gội sạch sẽ bằng nƣớc lá thơm, nƣớc Thánh thiêng (nƣớc thơm cúng trên
bàn thờ Cha), rồi cắt móng chân, móng tay. Móng chân, móng tay này không
đƣợc vứt đi mà phải gói lại để vào quan tài.
2-Mặc quần áo trắng, dây đai bụng đỏ cho ngƣời mất.
Sau đó, buộc hai ngón chân cái của ngƣời chết lại với nhau, hai tay để lên bụng,
bó vai bằng một sợi dây vải đỏ. Phủ mặt bằng giấy đỏ.
3-Thắp một 4 ngọn nến đặt nhƣ trên, ở cạnh đầu giƣờng và từ lúc này phải luôn
có con cháu túc trực, trông coi thi hài, không để cho mèo nhảy qua.
4-Khâm liệm:
-Thi thể ngƣời chết đƣợc đặt trên chiếc chiếu dƣới nền nhà–bỏ giấy đỏ ra khỏi
mặt.
-Niệm bằng tấm vải đỏ.
-Lúc khâm liệm phải có Đạo sƣ-Thầy Lễ làm lễ. Ngƣời thân đọc Kinh siêu
thoát.
-Chọn giờ khâm liệm và mai táng.
331
III-LẬP LỄ TANG:
1-Làm các thủ tục: báo tang, lập ban lễ tang….(Việc này tùy phong tục từng nơi
mà làm)
2-Lập một bàn thờ vong: ảnh, bát hƣơng, hoa…(tùy nơi mà làm, có thể có nƣớc
hoặc dân tộc không hƣơng thì vẫn phải có ảnh, hoa).
3-Quan tài đặt phía trƣớc bàn thờ, đầu vào trong, hƣớng tùy nơi. Phủ Thiên Kỳ.
( Không cho ma nhập-đồng thời không cho quỷ trùng tang ăn xác sau khi chôn)
Trƣớc quan tài có bàn lễ (hƣơng án) phúng viếng. Xung quanh quan tài đặt nhiều
cây càng tốt, nhất là cây chuối. Phong thủy xung quanh phải thoáng đãng để phá
âm khí. Có thể rải vào quan tài ít phèn chua, phòng phòng, quế chi hay là thuốc
kháng sinh liều cao, vừa chống âm khí thoát ra, vừa chống ma độc nhập vào.
Không dùng hoa huệ trắng, chất của hoa này càng làm cho xác nhanh hỏng.
Đây cũng là thuốc chống trùng tang mới-Ta dạy các con làm đúng nhƣ thế.
4-Phát tang.
Các phần sau, tùy nơi tùy phong tục mà làm, không bắt buộc.
Sau này, chủ yếu dùng hình thức hỏa táng cho sạch sẽ và linh hồn nhanh siêu
thoát, vía của hồn không giáng vào chỗ bẩn, không lƣu luyến, ngƣời nhà cũng
không lƣu luyến, hoặc nghĩ đến chỗ bẩn; vong về nhà không mang theo trƣờng
vía bẩn. Tỷ lệ siêu thoát cao hơn khoảng 30%. Hỏa táng sẽ là phép tang ma
chính trong thời Thánh Đức.
Những trƣờng hợp đặc biệt:
1-Trẻ con chết:-Không làm lễ phúng viếng. Nhƣng vẫn phải lập bàn thờ, trình
hồn, tụng kinh siêu thoát, lập bàn thờ vong.
2-Các trƣờng hợp chết đặc biệt: Chết trận, chết vì tai nạn, chết đuối mất
xác…tùy phong tục mà làm, nhƣng vẫn phải có các nghi thức lập bàn thờ Cha,
trình hồn, tụng kinh siêu thoát, lập bàn thờ vong…Riêng chết mất xác phải làm
thủ tục Chiêu hồn về nhập Thiên Linh ( gọi hồn, tấu lên Thiên Đình).
PHÉP TRÌNH HỒN-CẦU SIÊU I-LỄ TRÌNH HỒN-CẦU SIÊU-ĐỐI VỚI NGƢỜI MỚI CHẾT.
LỄ TRÌNH HỒN
1-Chủ lễ hoặc Thầy Lễ làm Lễ tấu lên Tam Tòa, dựng treo Thiên Phù ở giữa và
treo Thiên Kỳ bên cạnh bên phải. Cúng 7 ly nƣớc sạch-để làm nƣớc Thánh Giải
Nghiệp. Thắp 7 ngọn nến trên bàn thờ-tƣợng trƣng cho 7 vị Tinh quân Bắc Đẩu
332
giáng xuống, cạnh ngƣời chết thắp 3 ngọn nến tƣợng trƣng cho Linh hồn ngƣời
đó.
2-Viết sớ tấu lên Thiên đình về việc có đạo hữu mất. Nội dung:
-Hình thức in hình sớ nhƣ đã hƣớng dẫn.
-Nội dung khấn: Kính Thỉnh Tam Tòa Thiên đình..., tấu tên tuổi đạo hữu, vì sao
mà mất; Kính thỉnh Toà Ba cho tiếp các thần thánh xuống tiếp dẫn linh hồn
ngƣời mất cho siêu thoát lên các cảnh trên Trung giới, chống tà ma nƣớc quỉ lôi
kéo, hoặc linh hồn vất vƣởng đau khổ.
3-Đặt trên bàn thờ một sợi dây đỏ-dài-gọi là Dây diệt hóa nghiệp và một tấm
Linh Phù Bảo vệ-và 1 tấm Linh phù Tái Tạo- bằng giấy-nhỏ cũng đƣợc. Tác
dụng là diệt hóa các nghiệp và các loại vía bẩn của ngƣời chết, để làm sạch linh
hồn, hai tấm Linh phù có tác dụng trấn ma diệt quỉ lôi kéo đọa vào cảnh giới bẩn
thỉu-đồng thời các Hộ Pháp Thiên Đạo sẽ Hộ trì Siêu thoát cho vong hồn ngƣời
chết. Còn có tác dụng quan trọng là trấn trị không chết vào giờ Trùng tang trùng
phục rất tốt. Nên ngƣời chết vào giờ trùng tang nên dùng phép này là đƣợc yên
tâm.
-Sau khi làm LỄ KHẤN XONG, thì cắt dây đó, buộc vào hai cổ tay, hai cổ chân
và buộc vào đai bụng quanh luân xa 2, còn Linh phù Bảo vệ lót dƣới đầu và Linh
333
Phù tái tạo lót dƣới Luân xa 2 của ngƣời chết-dƣới lƣng.
334
335
In màu loại A3
336
CÁCH LÀM NƢỚC THÁNH-Ban Ân Nƣớc Thánh giải nghiệp:
Thầy Lễ dùng 7 ly nƣớc đã cúng trên bàn thờ Cha-niệm Thần chú-đọc- vào
nƣớc: Xin Hộ Pháp Thiên Đạo cho vong hồn đƣợc siêu hóa-đƣa linh hồn bản
chủ lên Trung Giới-không đọa vào đƣờng tà ác; dứt sạch các nghiệp, diệt hóa
ma quỉ bám trong hồn xác- chúc vong giải nghiệp, siêu thoát tiến hóa, trụ vào
cảnh giới an lạc trên Tháp Long Hoa-cứu khổ hằng sinh”.
“ Chuyển Luân Minh Vƣơng Long Hoa giáo chủ hãy cứu độ chúng con-
Đọc 9 biến”
NGHI TRIỀU CỦA LONG HOA ĐÓN RƢỚC:
Trên Thiên đình và Trung giới, các Thần thánh, Hộ Pháp và các Thiên binh sẽ
xuống đúng 365 vị.
Kẻ đắc đạo, công quả cao, sẽ có Nghi lễ rƣớc về, có Thiên xa, Thiên Long xuống
đón, có quân Thiên binh bồng nghi lễ đón chào, trống dong cờ mở, kèn Thiên
Quân, có Thiên nữ xuống múa hát tung hoa và hƣơng thơm đón chào. Khi về sẽ
an hƣởng cảnh cực lạc tiêu diêu, làm Thiên Vƣơng các Sao, hay Vũ trụ con-sung
sƣớng hơn cả vua chúa trần gian-đó là Vua Cha và Ta thƣởng Công cho đứa nào
làm tròn bổn phận.
Còn kẻ gian ác, chống phá thì ngƣợc lại, cho vào vạc dầu sôi và Hỏa ngục đã
đành, mà cho đi đầu thai làm động vật cấp thấp học lại từ đầu, hoặc bị tru diệt
linh hồn. Nên, kiếp này các con chịu khó vất vả làm công lấy công cho Lão Già,
sau Lão chấm công cho; không công, sau chớ tranh tỵ với kẻ có công.
* Sau khi đọc Sớ xong, thì bắt đầu hành Ban Ân nƣớc Thánh giải giải nghiệp:
Lấy nƣ‟ớc Thánh-rảy chấm 18 chấm vào thân xác ngƣời chết: Lần lƣợt nhƣ sau:
Sao 1-2-3-4-5-6-7 phía trƣớc. Rồi chấm vào huyệt Thần đình-trên trán, 2 mắt;
Phong phủ hai bên tại sau gáy; Thiên Tông ở cạnh dƣới 2 vai, Chƣơng Môn 2
bên sƣờn và Kinh môn 2 bên hông. Chấm thứ 18 chấm lên hai chân đã bó.
RỒI NIỆM QUÁN Ý NIỆM THIÊN PHÁP TRẤN VÀO TOÀN BỘ XÁC
CHẾT. (Nhẩm niệm trong đầu: Thiên Pháp của bản chủ này giáng nhập xác.
Bảo vệ xác-nhập-nhập-nhập!)
Thầy Lễ phải thuộc các huyệt này. Tất cả con cháu ngƣời chết phải đứng bên
cạnh hai bên.
( Nếu là ngƣời không luyện Thiên Pháp, thì cũng cứ nói niệm nhƣ thế, hóa thân
trên cao của ngƣời đó sẽ xuống hộ trì).
337
-Đối với ngƣời không là ngƣời Thiên Đạo-thì Thiên đình cũng cho phép làm Lễ
này-trong giai đoạn quá độ, cũng giúp cho vong nhanh siêu hóa, không đọa vào
đƣờng ma quỉ-nên các hành giả Thiên Pháp tạm thời có thể làm Thầy Lễ để độ
cho chúng sinh, Thiên đình cũng chứng cho và còn gia trì thêm công quả độ
vong. Vong hồn đó cũng cám ơn các con, nghiệp quả tốt cũng nhân lên.
LỄ CẦU SIÊU
-Sau khi làm Ban Ân nƣớc Thánh Giải nghiệp xong, thì Thầy Lễ bắt đầu
vào Lễ Siêu Thoát ngay.
-Toàn thể con cháu gia chủ, ngƣời con trƣởng hoặc đại diện, làm lễ rƣớc 3 ngọn
nến để một bàn riêng bên cạnh ngƣời chết-3 ngọn nến này thắp lên ngay khi
ngƣời chết vừa chết xong, để linh hồn họ nƣơng tựa vào-nến đỏ.
-Rƣớc Nến Linh hồn trên một cái đĩa trắng-sau đó đƣa lên bàn thờ Thƣợng đế-
phải để bên dƣới 7 ngón nến Thất Tinh.
Nếu là phụ nữ để bên trái bàn thờ-nhìn từ ngoài vào và nếu là nam giới thì để
bên phải. ( Nữ âm tả trái, Nam dƣơng hữu phải-nhìn từ trong ra).
Tất cả trở lại trƣớc bàn thờ Cha và đứng ĐỌC KINH KÍNH ƠN CHA-KINH
KÍNH ƠN MẪU VƢƠNG. Đọc xong, tất cả quỳ lạy 9 lạy.
-Khi đọc xong hai Kinh này, thì Thầy Lễ đọc-viết ra giấy “Kính ơn Cha Mẹ Trời
đã tạo tác hồn xác chủ vong này, nay xin Cha Mẫu đón về Nguồn Cội. Mong linh
hồn này biết Kính ơn Cha Mẹ Trời, biết trả ơn Cha Mẹ mà tu học trên cao, bồi
đắp công quả cho Thánh Đức!”.
-Sau đó để tờ giấy đó ở bên cạnh Nến Linh Hồn của ngƣời chết. ( Sau này, bàn
thờ ngƣời chết có ảnh, thì đặt ngay dƣới Thiên Phù và Nến Linh hồn thì có thể
thay bằng nến điện hoặc linh hồn đó về trụ vào tờ giấy cũng đƣợc. Phép này tạm
độ cho các con hiện nay, sau nàythời Thánh Đức không thờ ngƣời chết, trong
nhà không có bàn thờ nào khác ngoài thờ Cha Mẹ Trời).
SAU ĐÓ ĐỌC KINH SIÊU THOÁT CHO VONG HỒN.
-Đọc Kinh Siêu thoát cho vong:
“Này vong………….( tên )
Sinh thời giáng hạ làm ngƣời
Phúc tai đủ cả duyên đời trần ai
Linh hồn qua kiếp đầu thai
Nay rời trần thế có sai bao giờ
Mới hay luật quả luân hồi
Rõ Cha, rõ Mẹ, rõ Vua Thiên đình
Cha sinh ra cả chúng mình
Cho luân các kiếp với tình cao sâu
338
Bây giờ vong đã qui đầu
Chớ tham tục giới còn đâu là nhà
Bao nhiêu tham tục đã qua
Bao nhiêu cay khổ vậy là xong xuôi
Chớ tham vật dục ở đời
Bây giờ chết bỏ có mời đƣợc đâu!
Không ăn, không uống, không cầu
Chỉ còn linh giác cảnh chầu Thiên Linh!
Bỏ ngay cơn khát vô minh
Nhanh nhanh theo gót thần minh về Trời
Tu tập ở các cảnh rồi
Sau thành chính giác để rồi lại sinh….
Quả công đo đếm thực tình
Cháu con nhận đƣợc cái linh của ngƣời
Cấm làm hại vật hại ngƣời!
Không đƣợc bỏ đạo mà rơi vào tà
Bây giờ theo phép Trên là:
Xin binh, xin tƣớng xuống đà đƣa đi
Cho vào siêu phép thoát đi
Thoát ghánh nặng vía, thoát mê cõi trần
Cho đƣợc thanh thản vong nhân
Đƣợc thánh chính quả thánh thần ngày sau!”
II-PHÉP SIÊU THOÁT ĐỐI VỚI CÁC VONG HỒN NÓI CHUNG.
-Thầy Lễ làm phép linh để siêu thoát.
Phép siêu thoát của Thiên Đạo là phép đặc biệt, hiện đại, không giống nhƣ phép
cũ hoặc của các tôn giáo. Phép này là huyền thuật siêu đẳng, đƣợc truyền cho
Thầy lễ, lập tức siêu thoát cƣỡng bức, không cần tiếp dẫn vong linh. Trƣờng hợp
đặc biệt mới cần thiên thần hộ vệ. Ngƣời Thiên Đạo thì có các Tổng hồn và các
Hộ Pháp sẽ hộ trì tiếp dẫn lên Trung giới ngay.
1-Lập lễ chay. Cách lập nhƣ đã hƣớng dẫn: Treo Thiên Phù hoặc trƣớc bàn
thờ Vua Cha.
-Chủ lễ hoặc Thầy Lễ làm Lễ tấu lên Tam Tòa, dựng treo Thiên Phù ở giữa và
treo Thiên Kỳ bên cạnh bên phải. Cúng 7 ly nƣớc sạch-để làm nƣớc Thánh Giải
Nghiệp. Thắp 7 ngọn nến trên bàn thờ-tƣợng trƣng cho 7 vị Tinh quân Bắc Đẩu
giáng xuống, Thắp 27 ngọn nến tƣợng trƣng cho những Linh hồn cần đƣợc siêu.
-Đặt trên bàn thờ một sợi dây đỏ-dài-gọi là Dây diệt hóa nghiệp và một tấm
Linh Phù Bảo vệ-và 1 tấm Linh phù Tái Tạo- bằng giấy-nhỏ cũng đƣợc (hai
tấm Linh phù nhƣ trên đã hƣớng dẫn-in màu). Tác dụng là diệt hóa các nghiệp và
339
các loại vía bẩn của ngƣời chết, để làm sạch linh hồn, hai tấm Linh phù có tác
dụng trấn ma diệt quỉ lôi kéo đọa vào cảnh giới bẩn thỉu-đồng thời làm Siêu
thoát cho vong hồn ngƣời chết. Còn có tác dụng quan trọng là trấn trị những kẻ
chết phạm giờ Trùng tang trùng phục.
-CÁCH LÀM NƢỚC THÁNH-Ban Ân nƣớc Thánh giải nghiệp:
Thầy Lễ dùng 7 ly nƣớc đã cúng trên bàn thờ Cha-niệm Thần chú vào nƣớc:
“Hộ Pháp Bảo Vệ Hộ trì cho vong hồn được siêu hóa-đưa linh hồn vong bản
chủ lên Trung Giới-không đọa vào đường tà ác; dứt sạch các nghiệp, diệt hóa
ma quỉ trong hồn xác- chúc vong siêu hóa, giải nghiệp, siêu thoát tiến hóa, trụ
vào cảnh giới an lạc trên Long hoa Tháp-cứu khổ hằng sinh-”-Đọc 9 biến.
2-Tấu thỉnh.
Tấu sớ: -Nội dung thỉnh nhƣ các Sớ khác.
-Nội dung tấu:
Hôm nay là ngày………………… con thành tâm lập lễ siêu thoát cho các
vong.........( tên các vong……), con mong Cha-Mẫu Vƣơng cùng các thần thánh
Toà Ba tiếp dẫn linh hồn các vong về các cảnh giới. Kính tấu!
-Nay mời các vong linh giáng hạ: (Kêu tên các vong:……).
-Đọc Kinh Kính ơn Cha và Kinh Kính ơn Mẫu Vƣơng. Đọc xong tất cả quỳ
lạy 9 lạy.
-Đọc Kinh Siêu thoát cho các vong.
-Đọc xong, thì tƣới nƣớc Thánh Giải nghiệp xung quanh 27 ngọn nến, và đốt
Linh Phù-cùng sợi dây đỏ bên cạnh.
Các vong đã siêu chỉ cúng chay, nếu cúng mặn họ lại bị nhiễm lậu.
MỘT SỐ ĐIỀU HƢỚNG DẪN CẦU CÖNG
-Cấm khấn các việc ác, hay cầu lên quan chức cốt để tham quan ô lại, học dốt đi
thi lấy may, buôn bán gian trá, hại ngƣời thiện, tranh đoạt, cầu tiền ích kỷ vinh
thân phì gia
( Tự phấn đấu, không ai độ cho những việc cơ hội tâm linh. Vì chúng sinh nhiễm
lậu, cầu lợi cơ hội, nên làm nhiễm tạp tất cả các cảnh chùa, đền trong thời mạt
pháp các đạo,bề trên không độ trì cho các việc ấy)
-Chỉ đƣợc cầu giải hạn ách, thêm sức chữa bệnh tật, xin trấn áp kẻ ác, bản mệnh
an lành, thêm tuổi thọ, gia đình xã hội hạnh phúc, an lạc.
-Kỵ cầu không đƣợc, thì chửi, báng lại. Bệnh nạn, do nghiệp chƣớng, nghiệp quả
nặng, là do căn số phận, tội lỗi các kiếp trƣớc, kiếp này gây ra-không ai ghánh
thay cho những thứ đó, muốn đƣợc cứu độ, phải tin tƣởng, có lòng kính tín tâm
linh chân thành, phải sửa tính
340
xấu thƣờng ngày nếu có, nhƣ: hận thù, thói xảo ngôn, hồ đồ, ghanh ghen đố kỵ,
tranh tham, buôn gian bán lận, khinh thị ngƣời nghèo, ác tâm, xảo trá vô minh
coi khinh thế giới tâm linh, thói chửi trời rủa đất ghét nắng chửi mƣa, phá hại,
gây ô nhiễm môi trƣờng, tàn sát tôm cá, làm nghề hàng giát, giết mổ, bóc lột
ngƣời nghèo, tính ác hại ngƣời thiện, hay bới lỗi ngƣời khác, ghét kẻ chân chính
hơn mình; tranh dành công danh tài lộc, tham nhũng, đánh vợ chửi chồng, thích
giết hại chúng sinh, thói xấu trong ăn uống nghiện ngập, ngại giúp lại ngƣời
khác… Tất cả những ngƣời này, nếu cầu mà không thấy khỏi, thì chớ trách Trời.
-Chống Cơ hội tâm linh (bạ đâu cũng cúng, cũng cầu, nhƣng bảo sửa tính, hay
tu luyện, làm phúc, ăn chay lấy vài ngày để chữa bệnh, thanh lọc cơ thể, luyện
dƣỡng sinh thì lại ngại! Đi đâu cũng khấn vái, nhƣng hỏi đạo đức Phật giáo là
gì, thánh thần đó đạo hạnh ra sao, thì không biết; bảo thờ tự Cha Trời, thì ngại,
đọc kinh chép sách, cốt chỉ là hình tƣớng. Nhƣng lại sẵn sàng cúng bất cứ gốc
cây, hòn đá hay có vong tà ma quỉ ác nào đó, là sụp lạy, miễn là thấy thiêng,
thấy đƣợc việc, nhƣng đó là vay rồi phải trả…số phận chỉ thay đổi, khi đức năng
thắng số).
Thời mạt thế, chúng nhân đi chùa chiền đình đình điện nhiều, nhƣng không thấy
ai cầu cho mọi ngƣời cùng hạnh phúc, nhân dân thái bình, thế giới hòa bình đại
đồng, cầu độ cho sáng tâm sáng lòng, giác ngộ Chân Lý, hết vô minh; chỉ toàn
cúng xin lộc, tiền, danh, tài; ai cũng nhƣ thế, thì sao xã hội chả rối reng! Đó là
điều mạt pháp các đạo từ đầu thế kỷ 20 rồi, thấy chúng sinh đi chùa đền nhiều, là
ngƣời nghiêm túc, thì thấy không đáng mừng, vì cốt cầu lợi danh, chứ không
còn ngƣời tôn sùng tôn giáo ấy mà tu tập theo, hay đến đó để ngƣỡng vọng đạo
đức những vị thánh thần ấy để học tập theo. Hiện các đạo đều mạt pháp, theo
luật mới của Thiên đình, tốt nhất là thờ Trời ở nhà và tu luyện để tự cứu mình
trƣớc khi Trời cứu. Kẻ đi cầu nhiều mà hết đƣợc bệnh, hết nạn hiện nay rất hiếm.
Chớ mê muội.
-Những căn bệnh lớn, nghiệp quả nghiệp căn sâu nặng nề, thì phải ăn chay, làm
theo 9 điều không phạm, tự tu luyện lấy, tự cứu độ mình là chính, làm phúc làm
đức, may ra mới giải đƣợc! Phải làm lễ giải tại nhà, rồi sau đó phát nguyện đi
làm công đức cho những ngƣời nghèo khổ, giúp ngƣời khác, hoặc thờ Trời, thiền
tịnh tu luyện khí công cho mau hết bệnh.
-Đối với ngƣời Thiên chúa giáo, Hồi giáo, có thể khấn Đức Chúa Trời ( cũng là
Vua Cha Thƣợng đế- ông Trời); có thể không đọc bài Kính ơn Cha, thì đọc bài
kinh bên Thiên Chúa giáo, Hồi giáo cũng đƣợc. Nên kính tất cả các thiên thần-
Thực chất là nhƣ nhau trên thiên đình, cách gọi khác nhau mà thôi.
-Đối với việc siêu thoát cho vong linh tiên tổ, thì phải ghi tên tuổi, năm sinh,
năm mất của ngƣời vào sớ, xin Cha, Mẹ, các thánh thần cho họ siêu thoát, phải
kêu đến tên các vị xin siêu thoát ấy về dự lễ. Sau đó, phải hồi hƣớng công đức lại
cho ngƣời nghèo khổ, làm từ thiện, để trả thay nghiệp quả cho tổ tiên, bù lại thì
341
tiên tổ do đƣợc siêu thoát, trở lên linh thiêng, sẽ độ trì lại cho tốt đẹp. Các vong
đã qui sai vào chùa, nếu chƣa đƣợc các Phật độ cho siêu thoát, thì cần làm lễ siêu
thoát, tránh để vật vờ ăn xin đói lạnh nơi cửa phật-nơi đó là nơi tu hành, chứ
không phải là nơi chứa xƣơng cốt, ảnh của ngƣời chết ngoài đạo Phật.
Chỉ nên khấn Phật cứu khổ cứu nạn-khi mình biết đạo đức nhà Phật, tin, theo đạo
Phật; còn nếu tham-sân-si thì chớ cầu-vô ích.
-Đối với việc hóa giải tâm linh nhƣ bắt tà ma, phá bùa bả yểm đảo, thì cứ tấu
trong Sớ bề trên sẽ xét giải cứu. Tất cả các lọai bùa bả do ma quỉ nhiễm vào, vì
pháp sƣ tham ác, Thiên đình không cho dùng nữa, dần phá hết.
-Đối với việc hóa giải hàn long mạch, nối long mạch, hóa giải thổ đất, cuộc đất
hay phong thủy, tẩy vía, trong thổ đất có xƣơng cốt, thì có thể cũng làm Sớ mà
trình tấu.
-Nơi có nhiều âm khí, sát khí, nơi có rớp tai nạn đƣờng xá, sông ngòi, các nơi
chiến trƣờng, nghĩa trang….thì cũng làm lễ nhƣ trên để lễ hóa giải, siêu độ.
Niệm Thiên Phù ốp áp xuống mà phá giải. Niệm ốp Thiên phù vào rồi khấn Các
Ngài Bắc Đẩu Thất Tinh phá hóa đi.
342
NHÂN KINH
BẢN CHẤT CON NGƢỜI. KHOA HỌC TÂM LINH.
THỐNG NHẤT TIẾN BỘ NHÂN LOẠI
CON NGƢỜI
LINH HỒN CON NGƢỜI
I-LINH HỒN CON NGƢỜI LÀ GÌ?
Linh hồn con ngƣời là một phần của Thƣợng đế, là một khối linh quang nhỏ
trong khối linh quang lớn (Thƣợng đế).
-Linh hồn con ngƣời là một khối vật chất siêu đẳng, phát triển cao của vật chất
tiến hoá, có ở trong con ngƣời.
-Khi con ngƣời ở trần giới, thì linh hồn tồn tại là ý thức và trí tuệ bao bọc của
trƣờng sinh học biến hoá của cơ thể đó. Khi thể xác chết, linh hồn thoát ra, về
các cảnh giới khác nhau, gọi là vong linh hay linh hồn. Nó tồn tại ở dạng vật chất
bậc cao, không phân hoá đƣợc nữa, nên tồn tại vĩnh viễn. Các hạt vật chất này
duy trì sự tồn tại bằng cách tự tổ chức theo trình độ tiến hoá của linh hồn đó,
đƣợc Thƣợng đế, tức Khối linh quang Lớn quản lý (thu hút) và tiếp năng lƣợng
từ Vũ trụ khi trong thể xác và cả khi rời thể xác. Linh hồn bất tử, bất tan, bất
diệt, nhƣng trƣờng hợp đặc biệt, Cha và Ta, cùng các thần thánh có thể diệt linh
hồn, vì có sinh có diệt.
Linh hồn có các dạng tổ chức theo các chuỗi sóng, lớp sóng, theo qui luật
của vật lý lƣợng tử, gồm có trung tâm của linh hồn hay, “hạt nhân” của linh
hồn. Đó là một khối nguyên năng nhỏ, là hạt nhân hút các điện tích âm, là
lõi chứa thông tin. Ở đây, các thông tin này tích trữ quá trình tiến hoá các kinh
nghiệm trong các kiếp, đƣợc hạt nhân thu hút, thành các lớp, theo qui luật nặng ở
trong, nhẹ ở ngoài.
Linh hồn vận động dƣới dạng sóng điện từ, có các tần số khác nhau, có tốc độ di
chuyển cực nhanh, nhanh hơn vận tốc ánh sáng, có thể cùng lúc có mặt ở mọi
nơi, mọi lúc; hay nó tập trung tổng hợp ở một nơi, theo ý chí của nó.
Nó nghe, hiểu và nhìn thấy mọi thứ trong thế giới trần gian, trong đó có tƣ tƣởng
của con ngƣời đang sống; vì tƣ tƣởng của con ngƣời cũng là sóng vật lý vật
chất, có chứa thông tin, nên linh hồn đọc đƣợc thông tin tƣ tƣởng đó. Toàn bộ
tƣ tƣởng của con ngƣời tồn tại dƣới dạng sóng, tích trữ và phát đi từ não, là một
phần của linh hồn đang sống, nên linh hồn khác nhau có thể đọc và hiểu đƣợc
nhau. Nhƣng với Thƣợng đế và các bậc thần thánh-là những linh hồn cao cấp,
343
tuỳ các linh hồn khác nhau mà Thƣợng đế cho chúng thấy hoặc hiểu đƣợc tƣ
tƣởng của Ngƣời.
-Linh hồn có hai phần cơ bản: Phần lõi thông tin (gồm hạt nhân, các lớp điện tử
nhẹ trong cùng ) và phần bao bọc (thể nhựa hay còn gọi là thể vía) nằm bên
ngoài. Nó giống nhƣ một cái màng thu nhỏ của Vũ trụ vậy. Vỏ ngoài (màng)
này dày hay mỏng, nặng hay nhẹ là do quá trình tích trữ năng lƣợng sinh
học của con ngƣời khi còn sống. Năng lƣợng này đƣợc tạo ra, tích trữ từ đạo
đức, trí tuệ, tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời. Có hai phần âm và dƣơng.
-Tƣ tƣởng, đạo đức, trí tuệ, kinh nghiệm càng tốt đẹp, cao siêu, thì linh hồn
càng nhẹ (màng vía nhẹ); khi thể xác chết, linh hồn tất yếu đƣợc thăng hoá
lên cảnh giới cao hơn, có tính dƣơng và ánh sáng của Thƣợng đế (Tức là
khối linh quang-Đại Nguyên năng) nhiều hơn. Và ngƣợc lại.
Tính âm của thể vía đƣợc hình thành từ các điện tích thông tin tối, là các điện
tích âm. Đó chính là mặt tối của tƣ tƣởng, đạo đức, tình cảm; nó bao gồm các
thông tin xấu độc, yếu kém, do con ngƣời tích trữ trong quá trình sống ở trần
gian. Tính dƣơng của thể vía gồm các thông tin đối lập với những cái xấu kia. Có
nghĩa: Con ngƣời sống tốt, hay xấu, tham, ác hay vị tha cao thƣợng, có đạo đức
nhiều hay ít mà thể vía của anh ta nặng hay nhẹ (Đây chính là nghiệp quả); và
khi chết đi, tuỳ cái nặng hay nhẹ đó mà đƣợc hút, kéo, nâng, đẩy về các tầng điện
tích khác nhau cao hay thấp trong không gian một cách phù hợp đây chính là các
cảnh giới! Và cảnh giới cao nhất là Thiên đƣờng (nơi có Thiên đình, Thƣợng
đế).
Nên nhớ, Thƣợng đế không tuyệt đối làm đƣợc việc cho sinh linh lên các cảnh
cao hay thấp, mà theo qui luật vật lý tự nhiên, linh hồn đó đƣợc hƣởng những gì
đã có. Thƣợng đế có các cách giúp linh hồn là: Thấy tốt, thì lập tức cho các thiên
sứ đón, hoặc phân định tránh có sự lẫn lộn, do có tác động của nƣớc quỉ (là khối
tính âm xấu độc, gồm quỉ vƣơng và các quỉ ma các loại chƣa tiến hoá trong Vũ
trụ-đối lập với khối dƣơng quang). Bọn quỉ có thể làm xáo trộn việc này, nếu
Thƣợng đế không can thiệp.
Thứ hai: Thƣợng đế có thể có các biện pháp giáo hoá linh hồn các cấp để cho nó
xuống thấp hoặc cho nó lên cao nhanh hơn qui luật thông thƣờng, cho nó đi đầu
thai nhanh hay chậm, cho nó vào các kiếp nghiệp tiếp theo với số phận nhƣ thế
nào (tái sinh, tái thế, luân hồi); giữ nó ở thế giới vô hình bao lâu mới cho đầu
thai trở lại.
Nhƣ thế, xét theo nghĩa hẹp, thì Thƣợng đế xét đƣợc số phận linh hồn, định đoạt
giá trị của nó sau khi chết (Thƣợng giới có cơ quan xem xét công tội của linh
hồn sau khi chết). Đó cũng là sự phán xét công minh, hoàn toàn phù hợp và phụ
thuộc các qui luật của tự nhiên ( qui luật của phép tự nhiên, còn gọi là khoa học,
trong đó khoa học về vật lý thông thƣờng).
344
Linh hồn đƣợc sắp xếp theo qui luật vật lý lƣợng tử, không có gì là lạ. Mỗi linh
hồn là một tổ hợp thông tin, có chứa các mã gien đặc biệt, đó chính là bản
chất riêng của linh hồn đó.
Linh hồn có các tần số giao động khác nhau, ở mức cực thấp (tần số âm), do thể
vía nặng hay nhẹ tạo ra; nó giao động liên tục, chuyển động để tồn tại. Tuỳ từng
loại linh hồn mà có các tần số giao động nhanh hay chậm. Nếu là một linh hồn
có thể vía nặng, có nhiều điện tích âm, tối (phần âm tính nhiều), thì nó giao động
chậm chạp, nặng nề, đầy rẫy sự xáo trộn và lộn xộn, không ổn định. Đó chính là
một linh hồn chƣa siêu thoát, hay nói cho đúng hơn là chƣa giải thoát ra khỏi
những cái xấu xa của mình, tức là chƣa tự do, tự mình làm khổ mình, trói mình
chứ không ai trói. Những linh hồn này theo qui luật vật lý tự nhiên, sẽ ở những
tầng không gian (cảnh giới) thấp và phía ngoài của khối Đại Linh quang
(Thƣợng đế, hạt nhân Đại Nguyên năng, nơi có tính dƣơng sáng chan hoà), tức ở
xa thiên đƣờng. Nó sẽ chịu các lực hút nặng nề của trái đất, chịu sự tác động
mạnh mẽ của sóng từ trƣờng từ Thƣợng đế phát ra, chính là các hành tinh có
nguồn năng lƣợng dƣơng tính lớn trong Vũ trụ, và nó bị “ quằn quại”, đau khổ,
vì bị xáo trộn, nó sẽ dần trút bỏ những hạt điện tử nhẹ ở thể vía, để biến đổi nhẹ
dần, bị hút lên trên. Các cảnh giới chính là các tầng điện trƣờng khác nhau, ứng
với một loại linh hồn có các bƣớc sóng tƣơng ứng.
Vậy cảnh giới còn gọi là môi trƣờng điện tích hoá học, thuần tuý vật chất.
Linh hồn cũng là thuần tuý vật chất mà thôi.
Tất cả là vật chất: Các tia Vũ trụ, ánh sáng, âm thanh. Trong đó có 9 tầng điện
tích cơ bản, càng lên cao, mật độ điện tích âm mỏng, điện tích dƣơng càng cao (
Mà chúng ta từ đây gọi là chín cảnh giới-trong đó có bảy cảnh Trung giới và hai
cảnh Thƣợng giới, trần gian chúng ta là Hạ giới).
Linh hồn cấp thấp không thể lên cảnh cao đƣợc, nếu lên, điện tử âm của nó
sẽ bị đốt cháy ngay, mà hình thức là “lửa Tam Muội” đốt nó để trừng phạt nó,
nhƣng cũng có nghĩa bắt nó siêu thoát cƣỡng bức một cách đau đớn; ngƣợc lại,
các linh hồn bậc cao hoàn toàn di chuyển trong các cảnh thấp và có thể làm
chủ, điều khiển đƣợc các cảnh thấp, do có tốc độ di chuyển nhanh hơn, và
quan trọng có năng lƣợng nhiều hơn, do ở trên (Dƣơng-gần Nguyên năng-
Thƣợng đế); chính điều này tạo ra sức mạnh và giải thích tại sao các linh hồn đã
siêu thoát, “chết” lâu đời có sức phù trì lớn hơn-có nghĩa là sức tác động của
sóng điện này mạnh hơn.
Nơi nào có vật chất là nơi đó có và tích trữ năng lƣợng; cả Vũ trụ này là một kho
vô cùng vô tận năng lƣợng, trong đó năng lƣợng ở vật chất vô hình nhiều gấp bội
lần vật chất hữu hình! Giống nhƣ biển với lục địa vậy.
Với các linh hồn nhẹ hơn, có nghĩa là thanh nhẹ ( có đạo đức, trí tuệ cao hơn, tu
luyện tốt hơn), thì khi thể xác chết, sẽ đƣợc thăng ngay lên các cảnh giới cao
tƣơng ứng. Và tuỳ từng nhân duyên cụ thể, họ ở đó lâu hay mau, rồi sẽ đƣợc luân
345
hồi trở lại trần gian, ứng với nghiệp quả đã có, đã tích lại trong các kiếp gần nhất
vừa qua.
Về năng lƣợng cho linh hồn: Với linh hồn nặng, nghiệp quả nhiều, đƣờng nhiên
nhiều điện tích âm (đen) bu bám xung quanh và nó cần nhiều năng lƣợng để
“nuôi” các điện tích này. Nhƣng tạo hoá có một qui luật rất rõ: Càng dùng nhiều
năng lƣợng, thì các vật chất sống (sinh vật nói chung) càng nhanh bị lão hoá và
tan ra nhanh. Nhƣ vậy, khi Thƣợng đế chiếu sáng nó, nó nhanh tan, linh hồn
“đau đớn” trút bỏ thể nặng.
Đó chính là Thƣợng đế sử dụng các biện pháp giáo hoá, cải tạo linh hồn,
trong đó có việc Cha cho khai sinh các Đạo để giáo hoá linh hồn, phát
nguyện và cầu cho chúng sinh “mở mắt” thấy đƣợc Chân Lý của Thƣợng
đế. Các linh hồn chƣa đƣợc giải thoát, siêu thoát cƣỡng bức rất sợ ánh sáng, sức
nóng, vì ánh sáng từ mặt trời ( cũng là một khối nguyên năng nhỏ của Vũ trụ),
chính là một loại sóng có điện tích dƣơng rọi tới, làm tan nó ra, nên nó sợ. Nhiệt
độ sẽ làm chúng tan rã, nên bọn này cũng sợ cả lửa, nhiệt độ cao. Hoặc dùng
sóng có điện tích cao, có tần số nhanh, mạnh tác động, cũng làm chúng sợ.
Ngƣợc lại với linh hồn cấp thấp này, là các linh hồn cao cấp. Đây là các linh hồn
đƣợc giáo hoá, có ý chí là tƣ tƣởng cao, đạo đức tốt, họ sẽ đƣợc thăng lên trên
cao theo qui luật vừa nói ở trên. Các linh hồn càng cao cấp, thì càng có sức
mạnh, sức tác động của nó trong không gian, thời gian càng lớn; vì họ đƣợc
gần Thƣợng đế, đƣợc tiếp nhiều năng lƣợng, nhƣng lại dùng ít năng lƣợng;
và đặc biệt, vì đƣợc tiến hoá cao hơn, do đó sức tác động trở lại trần gian:
Tác động phù trì trần gian mạnh hơn, to lớn, chi phối đƣợc các linh hồn cấp
thấp. Điều này giải thích hiện tƣợng: Thƣợng đế có sức mạnh vĩ đại nhất, vô
biên vô lƣờng. Các thần thánh tiên phật, đặc biệt các đức phật có sức mạnh vô
biên vô thƣờng. Tổ tiên xa đời, các vị chết trẻ chƣa thành gia thất (gọi là tổ cô, tổ
cậu) thƣờng rất thiêng, vì họ đã đƣợc siêu thoát hoàn toàn. Với ngƣời chết trẻ,
thanh cao, xƣa bọn phù thuỷ đã biết sử dụng linh hồn đó để trấn yểm, vì họ còn
thanh sạch nên rất thiêng, bị chúng biến thành quỉ giữ của rất thiêng. Các vị trí
giả chân tu khi chết đi cũng rất linh thiêng.
Chúng ta phân tích rõ điều này để chúng sinh biết: Tại sao phải theo đạo tu
luyện, tại sao phải tiến hành các biện pháp giáo hoá chúng sinh và cả linh hồn
sau khi đã về Trung giới. Đây là sứ mệnh các đạo. Chúng ta tiếp thu những kiến
thức, trí tuệ ƣu việt và mới nhất của nhân loại do Thƣợng đế truyền cho, nên đây
sẽ là khoa học tâm linh mới nhất để giải thích toàn bộ các vấn đề của thế giới,
Vũ trụ; đồng thời, có các biện pháp tổ chức để làm chúng sinh nhanh tiến hoá
nhất theo Chân Lý của Thƣợng đế. Thƣợng đế đã quyết định điều này, khi thế
giới đang hỗn độn các giá trị, để mở ra ánh sáng, khai sáng cho toàn nhân loại.
Tất cả các lý thuyết của các đạo trƣớc về Thƣợng đế, đều đƣợc chúng ta trân
346
trọng, có cả tận dụng, nếu chúng còn phù hợp. Đến một giai đoạn nào đó, để tồn
tại, các đạo phải bổ sung và hợp nhất Chân Lý. Vì Chân Lý của Thƣợng đế là hệ
thống mở, một hệ thống hoàn mỹ, nhƣng phải dân hoàn thiện từ từ, theo từng nấc
thang tiến hoá cuả loài ngƣời. Những vấn đề lạc hậu, cần cải sửa và điều chỉnh
theo lý trí của Thƣợng đế.
II-SỐNG, CHẾT VÀ SỐ PHẬN
1-Thế nào là sống và chết?
Sự sống: Là sự vận hành của một cơ thể vật chất theo các qui luật sinh hoá. Đó
là một sự tồn tại. Sự tồn tại đó ở dạng này hoặc dạng khác, nhƣng ở đâu có linh
hồn, thì ở đó có sự sống.
Thƣợng đế đã gieo sự sống xuống trái đất chúng ta theo một cơ duyên đặc biệt.
Thƣợng đế sáng tạo ra con ngƣời, ban đầu từ thể vía, sau đó cấu tạo dần, làm
thành cơ thể, thông qua rất nhiều phép biến hoá siêu linh. Chúng ta không phải
thoát thai ra từ loài vật. Sự sống bao gồm sự tồn tại của linh hồn và thể xác.
Chúng ta đƣợc gieo linh hồn xuống trái đất, rồi hình thành thể xác theo sự sáng
tạo của Cha, hàng vạn năm mới thành nhƣ hình ảnh hôm nay.
Tất cả các sinh vật có trao đổi chất hữu cơ sinh hoá trong cơ thể đều có sự sống.
Và tất nhiên có các loại linh hồn khác nhau, từ cấp thấp đến cấp cao. Loài ngƣời
có linh hồn cao cấp nhất, mang hình ảnh của Thƣợng đế.
Các sinh vật có linh hồn theo trình độ phát triển của cấu trúc vật chất tạo nên
chúng. Nghĩa là: Thƣợng đế tạo lên chúng làm sao, thì linh hồn tƣơng ứng. Ví
dụ: Loài vi rút, có cấu trúc vật chất đơn giản, thì linh hồn của chúng đơn giản.
Đó là các chuỗi sóng đƣợc hình thành từ thể vía và lõi thông tin của loại sinh vật
này. Chúng chƣa có trí nhớ, nhƣng có các tổ hợp thồn tin lƣu giữ hình ảnh của
chúng. Tất nhiên chúng có luân hồi. Cây có linh hồn không? Có! Cây có sự sống,
đã có trƣờng sinh học của cây, tức là khi cây chết đi, nó cũng lƣu giữ sự tồn tại
của thể vía và lớp thông tin ghi nhớ cấu trúc hình ảnh của cây đó. Cây có tri giác.
Những linh hồn sơ đẳng này tồn tại ở một “thế giới cấp thấp”, khác thế giới của
thiên linh. Và ứng với một loại linh hồn ấy, có các thế giới khác nhau. Trong Vũ
trụ có đến 3000 thế giới, phát triển từ thấp đến cao, đó là qui luật tiến hoá của
linh hồn.
Thƣợng đế vĩ đại của chúng ta ban cho sinh vật ấy những phần linh quang thích
ứng. Những “đốm” linh quang ấy tạo ra sự sống cho sinh vật. Linh quang đó là
linh hồn. Khoa học đã chứng minh đƣợc cây có thần giao cách cảm, cây biết
nghe nhạc, hay các vết “trƣờng sinh học” tồn tại sau khi cây đã chết. Với chúng
ta, đó chính là linh hồn của cây. Tuy nhiên: Do trình độ tiến hoá của cây rất thấp,
các linh hồn của thế giới sơ đẳng ấy rất dễ “tan vỡ”, “náo loạn” khi có xung chấn
mạnh của từ trƣờng Vũ trụ, trái đất nhƣ: Sao băng, bão từ trƣờng, các cơn bão,
347
sấm sét, chúng hoảng loạn và dồn vón cục lại, lại tan ra, lúc liên kết, lúc tách rời
nhau trong thế giới của chúng.
Khẳng định: Sự sống là vĩnh viễn. Đó là sự tồn tại và luân hồi vô cùng vô tận
cho đến ngày tận thế của Vũ trụ. Sự sống ở đây là sự sống của linh hồn, tức là
các khối linh quang các cấp của Thƣợng đế ban cho các loài sinh vật. Không có
sinh vật cấp thấp, ắt là không có sinh vật bậc cao, đio với nó là các thể linh hồn
đồng loại. Các sinh vật tiến hoá theo các con đƣờng khoa học ngày nay đã xác
định-Theo qui luật tiến hoá của linh hồn mà ngày nay khoa học chƣa tìm ra. (
Năm 2008). Nay chúng ta trình bày, xác định qui luật này.
Sự chết:
Một sinh vật gồm có: Vật chất siêu đẳng và vật chất sơ đẳng. Vật chất siêu đẳng
là linh hồn, vật chất sơ đẳng là thể xác thuần tuý. Chỉ có thể xác thuần tuý bị chết
đi theo qui luật tự nhiên mà thôi. Không có sự chết tuyệt đối, chỉ có sự chết
tƣơng đối, là “cái chết sinh vật thông thƣờng”, là cái sự linh hồn rời bỏ thể xác
về cõi vô hình.
2-Sự sống của con ngƣời.
Sự sống của con ngƣời là sự kết hợp hai phần vật chất trong thế giới trần gian
loài ngƣời. Đây là nghĩa hẹp.
Nghĩa rộng: Sự sống của con ngƣời là sự tồn tại bất tử của linh hồn, là quá trình
luân hồi qua các kiếp của con ngƣời. Ứng với mỗi kiếp là các thể xác khác nhau
và gắn với một linh hồn duy nhất, bất tử, nhƣng trình độ tiến hoá khác nhau
trong các kiếp đó.
Khối Linh quang Vũ trụ-tức Thƣợng đế quyết định sự tồn tại, số phận dài hay
ngắn của con ngƣời sinh vật ở trần gian. Bằng cách: Cho nguồn nguyên năng của
Vũ trụ duy trì “sự sống” của cơ thể đó, gắn với một linh quang cụ thể. Linh
quang này (tức linh hồn ngƣời) chịu sự chi phối của Thƣợng đế.
Giải thích rõ hơn: Con ngƣời là “Vũ trụ con” trong Vũ trụ lớn. Khi một cơ thể
hình thành trên trái đất, nó chịu ảnh hƣởng của các luồng khí nguyên khí Vũ trụ,
nhƣ: Sóng từ trƣờng trong Vũ trụ (Từ trƣờng các sao, các vệ tinh của mặt trời,
trái đất) và đó chính là các Nguyên năng của Vũ trụ. Nguyên năng này tại trung
tâm của Vũ trụ, xuất phát từ khối linh quang vĩ đại (Thƣợng đế). Và đã có thể
sáng tỏ hơn điều này: Số phận con ngƣời sinh ra đƣợc qui định rất rõ, theo qui
luật của tự nhiên chứ không bí ẩn gì, không phải là bói toán nhảm nhí! Về mặt
vật chất mà nói: Một cơ thể là tổng hợp của hai phần vật chất, hai phần vật chất
này bao gồm các thành tố phân tử tạo nên. Các phân tử có cấu tạo từ các nguyên
tử. Các nguyên tử bị chi phối bởi các sóng Vũ trụ. Nói một cách chính xác hơn:
Chúng là một phần của Vũ trụ, chịu ảnh hƣởng từ “hạt nhân” Vũ trụ-đó là
Nguyên năng Vũ trụ-do Thƣợng đế tạo ra.
3-Số phận con ngƣời.
348
Tại sao Thƣợng đế lại quyết định số phận con ngƣời một cách chính xác nhƣ
vậy? Quyết định bằng việc cho linh hồn đầu thai trở lại, cho nó nhập vào nhập
vào một thể vật chất sơ đẳng (thể xác). Thể xác này là hai tế bào (tinh trùng và
trứng ) vừa nhập thành, tạo ra một sự sống thể xác. Đó là giai đoạn đầu.
Vì linh hồn phải chịu một kiếp quả tƣơng ứng, cho nên cơ thể kia ngay từ lúc
trong thai, đã phát triển tuân theo ý chí của Thƣợng đế! Vì sao? Vì: Thai đã hình
thành các bộ phận cơ thể, các bộ phận này về mặt quảng tính (to, nhỏ, ngắn, dài,
rộng, hẹp…) phải phù hợp với số phận kẻ đó trong kiếp này. Tức là: Về mặt
nhân tƣớng, phải phù hợp trƣớc khi ra đời. Ví dụ: Một kẻ là lãnh tụ vĩ đại đức
dộ, thì nhân tƣớng ắt sẽ khác một kẻ là sát nhân vô lại. Vậy những bộ phận cơ
thể đã hình thành ở trong thai, chứ làm sao mà ra đời rồi mới hình thành diện
mạo hình dáng tai mắt? Vấn đề cuối cùng của việc số phận này là: Cho ra đời
vào thời điểm nhất định, tƣơng ứng, phù hợp tuyệt vời, để con ngƣời kia tiếp tục
nhận đƣợc một nguồn Nguyên năng định sẵn do Thƣợng đế qui định, tạo nên số
phận của cuộc đời ngƣời đó. ( Việc này giải thích con ngƣời ra đời ở thời điểm
khác nhau sẽ có số phận khác nhau. Khoa bói toán tử vi, hà lạc, bốc phệ phƣơng
Đông, đó là các phép của con ngƣời tìm ra để biết số phận của con ngƣời.
Thƣợng đế cho các Thánh xuống để giáo hoá nhân loại nhận thức các phép này).
Vì một lý do nào đó, kẻ đó ra đời khác qui luật trên, trái với lẽ tự nhiên, ắt bị
Thƣợng đế trừng phạt.
Nhân đây cũng nói luôn: Việc nhân bản tạo ra các bộ phận thuần tuý, tức là
không có linh hồn, thì không xét theo thuyết luân hồi này. Tại sao hai ngƣời sinh
cùng một thời điểm, mà số phận lại vẫn khác nhau nhƣ vậy? Hoá ra tử vi sai à?
Không phải. Toán tử vi, hoặc các phép toán đoán mệnh chẳng qua là các phép để
tìm đƣợc bí mật của ngƣời đó, hoặc sự vật đó. Nó chỉ là các phép cơ học thông
thƣờng, nó chƣa giải thích đƣợc tận gốc bản chất số phận của con ngƣời theo
thuyết luân hồi. Các ngƣời khác nhau thì có linh hồn khác nhau. Các linh hồn
khác nhau lại có nghiệp quả khác nhau; làm sao chúng lại tuyệt đối giống đƣợc
nhau, giống nhƣ khi sống, con ngƣời chúng ta giống nhau? Do đó, vấn đề sinh
cùng lúc, số phận giống nhau chỉ tƣơng đối mà thôi, nhƣng có những nét căn bản
giống nhau. Số phận, hay sự chi phối của Thƣợng đế phụ thuộc vào địa điểm nơi
sinh, gia đình, dòng họ (phúc đức, thành đạt), nhà ở, con cái của ngƣời đó. Nghĩa
là: Các vị trí địa lý trên trái đất khác nhau, thì khi sinh ra, con ngƣời chịu tác
động (nhận) đƣợc nguyên khí khác nhau.
4-Nơi trú ngụ của linh hồn:
Khi dẫn nhập vào thể xác, linh hồn vào các tế bào gốc, mới hình thành từ trứng
và tinh trùng.
Khi sinh ra: Linh hồn phần lƣơng tâm đạo đức-tức là cái gốc Nguyên năng
chính, tồn tại trong tim ngƣời. Phần vía cùng với các tổ hợp thông tin lý trí tồn
tại ở não và trƣờng sinh học xung quanh cơ thể; nhƣng hai phần này không tách
349
nhau, mà nhƣ một sợi dây vô hình của các sóng với nhau. Vậy, ta có thể nói
chính xác hơn là: Linh hồn tồn tại trong tim, óc và nguyên khí thể vía. Trung tâm
của linh hồn trú ngụ là trục Long Hoả-Trung Phƣơng. Tâm của linh hồn tồn tại
tại óc, nhƣng trung cung của nó lƣu trữ thông tin ở luân xa 4-tức là luân xa tim. (
Tất cả các Luân xa đều lƣu trữ các thông tin của toàn bộ quá trình tiến hóa của
linh hồn đó. Luân xa 6 lƣu trữ thông tin nguyên thủy, các luân xa 3 lƣu trữ các
kiếp, luân xa 1 lƣu trữ số phận tƣơng lai…).
Khi ta ngủ: Linh hồn rời thể xác ( có thể không rời) theo các huyệt trên đỉnh đẩu.
Khi thể xác chết, linh hồn rút khỏi thể xác theo các huyệt âm dƣơng.
Huyệt chẳng qua là các vị trí thông thiên, cổng kết nối năng lƣợng và dẫn nhập
thông tin Vũ trụ và bản thể, để linh hồn, các sóng cơ thể tiếp xúc với Vũ trụ mà
thôi. Huyệt là một cổng không thời gian trong các mật độ vật chất của cơ thể,
theo Nguyên Lý Trung Phƣơng.
Khi bị một hay nhiều vong linh “nhập vào ngƣời”, thì chúng có nhiều đƣờng
vào, trực tiếp là não, các huyệt trên đỉnh đầu, thân chúng là các sóng vào các
huyệt và kinh mạch của chúng ta.
Các sóng của linh hồn trong cơ thể chạy khắp cơ thể, theo các kinh lạc ( các
mạch dẫn sóng), chi phối sự sống của thể xác. Khi Nguyên năng của chúng ta bị
ảnh hƣởng ( do tự nhiên, do Thƣợng đế tác động), thì linh hồn bị ảnh hƣởng, linh
hồn hành động theo ý chí của Thƣợng đế, làm cho thể xác bị ảnh hƣởng. Và nếu
một cái hoạ cho thân xác giáng vào, là do “duyên cớ có sẵn” mà chúng ta gặp
trong số phận đã định. Điều này Thƣợng đế đã “qui định” từ trƣớc. Tránh đƣợc
hay không tránh đƣợc phải do Thƣợng đế qui định; có thể có một may mắn, có
sự giúp đỡ từ các đấng linh thiêng mà Thƣợng đế chấp nhận.
Cách tu hành theo các tôn giáo chân chính, sẽ là những cách hữu hiệu nhất
tránh hoạ tiếp phúc, làm cho số phận con ngƣời thay đổi ( cả khi sống và khi
chết). Sứ mệnh của các tôn giáo là thực hiện giáo hoá chúng sinh để đƣợc thay
đổi các thành tố tạo nên linh hồn của chính chúng ta, từ đó, chúng ta nhận đƣợc
một nguồn nguyên năng tƣơng ứng phù hợp của Thƣợng đế ban cho trong kiếp
này, để tồn tại theo qui luật tạo hoá. Đó chính là đức năng thắng số, hay nói một
cách chính xác hơn, cho phù hợp với ý chí của Thƣợng đế. Ý chí đó chi phối mọi
vấn đề của con ngƣời trong hiện tại. Chỉ có con đƣờng duy nhất là theo ý chí đó
để cải tạo số mệnh: Cải tạo khi sống và tạo ra kiếp nghiệp tƣơng ứng của linh
hồn ở các kiếp sau. Theo lý thuyết phƣơng Đông, có quin luật “Đồng thanh
tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”, là một qui luật chính trong luật Nhân quả vĩ đại
của Vũ trụ. Hiểu sâu sắc đƣợc điều này, thì sẽ cải sửa đƣợc số mệnh cả khi xác
thể còn sống và cả khi đã về thiên giới của con ngƣời.
5-Thể xác con ngƣời:
Thể xác con ngƣời là toàn bộ phần vật chất sơ đẳng tạo ra cơ thể sinh vật của con
ngƣời. Thể xác không tồn tại vĩnh viễn, mà đƣợc sinh ra, phát triển, mất đi,
350
không đƣợc luân hồi, tái tạo. Là một bộ kết cấu sinh học hoàn chỉnh nhất của tạo
háo; là hệ thống các cơ quan, đƣợc cấu tạo bằng các phần tử hữu cơ.
Thể xác tồn tại hai phần: Xác phàm (phần vật chất nhìn thấy đƣợc) và xác phách
(phần vật chất không nhìn thấy đƣợc).
Xác phàm: Thuần tuý chỉ là phần xác thịt vô tri giác khi con ngƣời không còn lý
trí, hoặc khi “chết” đi (linh hồn rút đi), nó sẽ tan rã, phân huỷ nhanh.
Xác phách: Là phần điện từ trƣờng, đƣợc tạo ra từ khối vật chất điện hoá học là
xác phàm. Các điện từ trƣờng này cũng tồn tại ở dạng sóng thấp, bao bọc thể
xác. Khi thể xác chết-tức các điện tử bị phân huỷ, thì nó cũng phân huỷ theo và
mất hết, tan vào không gian khi thể xác phân huỷ hoàn toàn. Tuy nhiên trƣờng
sinh học này tồn tại rất lâu, để lại các vết trong không gian, cho đến khi bị thời
gian xoá bỏ, ( bị sóng từ trƣờng từ khối linh quang-tức Thƣợng đế thu hút), nó
trở về với Thƣợng đế, trở thành năng lƣợng chung của Nguyên năng.
Nhƣ vậy: Theo định luật bảo toàn năng lƣợng: “Vật chất không tự nhiên sinh ra,
không tự nhiên mất đi, chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác”. Đây vẫn
đúng: Linh hồn về với khối Đại Linh quang, thể phách về với Nguyên năng, xác
thịt tan rã, chuyển thành vật chất khác, chuyển năng lƣợng vào đất cát. Cái câu:
Con ngƣời từ cát bụi trở về cát bụi không đúng, chỉ đúng với xác phàm mà thôi!
Thể xác có các kinh mạch lạc huệt: Đây chính là con đƣờng dẫn nguồn năng
lƣợng của linh hồn nuôi dƣỡng cho thể xác. Nguồn năng lƣợng này chúng ta đã
có sẵn do khối linh quang nhỏ (linh hồn chúng ta) và tiếp tục nhận đƣợc năng
lƣợng từ Thƣợng đế (Vũ trụ) trong quá trình tồn tại-thông qua sợi dây bạc nối
xuống trục Trung Phƣơng (Long hoả)-theo nguyên lý Dây Trung Phƣơng từ đại
khối Nguyên năng. Việc tiếp tục duy trì hay không duy trì, tác động vào quá
trình, chất và lƣợng của nguồn năng lƣợng này sẽ làm thay đổi sự sống của thể
xác (đó chính là số phận đƣợc định đoạt từ trƣớc). Thực ra, các đƣờng kinh mạch
đó chẳng qua là các đƣờng dẫn sóng, năng lƣợng tồn tại ở dạng sóng-tức là khí.
Sự vận hành của các kinh mạch này lƣu thông, làm cho các phần vật chất nhận
đƣợc khí. Khí bế chỗ nào, chỗ đó hỏng. Khí làm môi trƣờng vận chuyển cho các
vật chất hữu cơ (nhƣ máu) tới các nơi nuôi cơ thể. Trong các mạch máu cũng
chứa nguồn nguyên năng từ linh hồn chỉ đạo. Điều này có thể giải thích: Một nhà
thiền sƣ, hay một nhà Yoga, khí công, có thể dùng ý chí làm bế hay thông các
kinh lạc của mình, dồn khí vào một vùng nào đó để chữa bệnh cho toàn cơ thể,
dùng ý chí để tiếp nhận năng lƣợng trời đất (Vũ trụ) nhiều hay ít. Đặc biệt hơn:
Làm cho cơ thể ( xác phàm) bất hoại sau khi chết bằng cách: Dùng năng lƣợng
sóng của linh hồn cải hoán phần xác thịt, tác động cho thể phách bảo vệ thể xác,
bao bọc không cho thể xác không tan rã. Về năng lƣợng, họ dồn năng lƣợng của
Vũ trụ ( lấy đƣợc do quá trình tu luyện) vào xác thịt, làm cho nó đông cứng, ứ
đầy, tồn tại vĩnh viễn. Tất cả các điều đó đã làm cho thể xác không phân rã đƣợc
nữa (không cần ƣớp xác). Thể xác lúc đó đặc lại nhƣ khối đá và bất hoại. Điều
351
này khoa học thô mộc chƣa chứng minh đƣợc! ( Vì họ không công nhận linh
hồn-vị chỉ huy tối cao trong cải tạo xác thể, theo nguyên lý sử dụng nguyên năng
của Thƣợng đế).
Thể xác cần tiếp năng lƣợng từ vật chất thông thƣờng, là các chất hữu cơ-
chuyển hoá hữu cơ nuôi cơ thể. Chỉ có thể cải tạo thể xác bằng hai cách: Dùng
hữu cơ nuôi hữu cơ, và dùng nguyên khí nuôi nguyên khí. Đây là hai cách
chăm sóc chữa bệnh muôn đời.
Trong một cơ thể sống, phải chú trọng cả phần xác và phần hồn. Bất cứ một
phần nào bị bệnh, thì cơ thể cũng bị ảnh hƣởng. Hay nói một cách chính xác:
Bất cứ phần nào không tuân theo qui luật của Thƣợng đế-Tạo hoá, thì sẽ bị tiêu
diệt, thải hồi. Huỷ hoại tâm hồn, làm hỏng nó bằng ý thức, tƣ tƣởng kém, dẫn
đến có hành vi đạo đức kém, tất thể xác, sự tồn tại của con ngƣời đó sẽ bị các
qui luật thiên nhiên chi phối điều chỉnh. Đúng qui luật, đƣợc phù trợ, ngƣợc qui
luật, bị đào thải. Thực ra, đó chính là sự gia ân, phạt ác trong tâm linh do
Thƣợng đế qui định, chi phối.
Khi phần xác bị bệnh thì phần hồn cũng bị ảnh hƣởng, tuy nhiên chỉ ảnh hƣởng
ở thể vía mà thôi. Có nghĩa: Khi cơ thể bị dị tật, ảnh hƣởng đến não bộ, làm cho
trí tuệ bị trì độn chẳng hạn, nhƣng trƣớc đó linh hồn đã có, sự u mê ảnh hƣởng
vào thể vía (lớp thông tin bên ngoài), linh hồn đó sau khi xác chết, sự u mê thể
vía tan rã dần, thăng lên, thì có thể linh hồn trở về nguyên trạng xƣa. Hoặc ví
dụ: Khi ngƣời sắp chết, thƣờng hôn mê, ý thức không còn, do não bị bế khí,
linh hồn co về não, tự bảo vệ bằng thể vía và thể phách. Khi thể xác chết hoàn
toàn, thì linh hồn rút về thiên giới. Thể xác có các nhu cầu vật chất sơ đẳng, nên
nó tác động, hay nói cho đúng là kích thích các sóng từ trƣờng của linh hồn,
thông qua sự biến đổi từ trƣờng các tế bào tạo nên thể xác. Bọn “sóng” này tác
động vào sóng của vật chất siêu đẳng (linh hồn), theo qui luật “đồng thanh
tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”, làm cho linh hồn nhận đƣợc thông tin, có phản
xạ trở lại các đòi hỏi đó: Đây là quá trình xử lý thông tin của linh hồn. Đáp ứng
hay không đáp ứng đòi hỏi của thể xác, là một cuộc đấu tranh: Đây chính là lúc
con ngƣời phải suy nghĩ: ăn hay không ăn, làm hay không làm một cái gì đó.
Đó là cuộc thử thách về lý trí. Ví dụ: Một tham vọng về tội ác giết ngƣời, cƣớp
của chẳng hạn: Do thể xác bị kích thích bởi nhu cầu về tiêu tiền( uống rƣợu,
nhậu, chơi bời). Nó thúc đẩy linh hồn, linh hồn đấu tranh. Nếu làm: Tức thực
hiện hành vi, lập tức thể vía nhận đƣợc một thông tin về hành vi đó. Sự lƣu giữ
nó vào trí nhớ của linh hồn, là mặt tối của đạo đức. Nếu không làm, thì ngƣợc
lại, thể vía không lƣu tiếp thông tin. Nhƣng thể vía vẫn có thể lƣu thông tin đó-
đó là ý xấu cũng tạo ra nghiệp!
Do đó: Khi thể xác đƣợc đáp ứng các nhu cầu vật chất tầm thƣờng của nó, tức
là đã làm cho thể vía của linh hồn nặng thêm. Càng nhiều cái xấu thì lớp vía
này càng nặng. Điều này giải thích tại sao linh hồn hạ đẳng, có tần sóng chậm,
352
lại bị rơi vào canh giới thấp. Đó là các linh hồn kém tiến hoá nhất ở cảnh giới I.
Bọn chúng phải sử dụng một năng lƣợng lớn để nuôi thể vía dày nặng, đó là sự
khốn khổ tận cực, vì khi chết đi, không đƣợc ăn uống, hƣởng thụ gì nữa, do thể
xác đã mất, chỉ còn “ăn” “hƣởng thụ” trong tƣ tƣởng-nhƣ ngửi đƣợc, cảm nhận
đƣợc; nên cảnh giới I là “địa ngục khổ ải” của những tham vọng không thực
hiện đƣợc nữa, do thể vía đòi hỏi.
Vậy thì: Càng hƣởng thụ nhiều vật chất tầm thƣờng ( các dục vọng chung) thì
sau khi thể xác chết đi, linh hồn càng bị đày đạo bởi các nhu cầu đó, theo qui
luật “đồng thanh tƣơng ứng, đồng khí tƣơng cầu”.
6-Tiến trình chết của con ngƣời: (Nghĩa hẹp là chết thể xác).
* Đối với cái chết bình thƣờng: Tức là ốm, bệnh, rồi thể xác mãn, theo qui luật
“thành-trụ-dị-diệt”, thì đó là cái chết đƣợc báo trƣớc, con ngƣời có sự chuẩn bị
tinh thần, cho dù không muốn chết. Khi chết, linh hồn trút bỏ thể xác, theo các
huyệt. Linh hồn sẽ bị một cú sốc, có thể bị trì độn, tăm tối một thời gian.
Đối với các linh hồn đƣợc tu luyện và đạo hạnh, theo đạo của Thƣợng đế, họ sẽ
thấy đi qua một cái hầm (lỗ) tối tăm rất dài, sau đó là thấy ánh sáng trong lành,
có sắc tia “phóng xạ” hiền hoà chứ không sáng trắng bạch hoặc sáng loá. Tại
sao nhƣ thế? Linh hồn lúc đó là sóng điện, nó bị hút về phía trên cao, về khối
linh quang (Thƣợng đế). Nếu là linh hồn tu đạo chính, thì lên cảnh giới thứ
Năm trở lên. Các cảnh giới từ thứ Năm trở lên gần trung tâm Vũ trụ-Tức
Thƣợng đế vĩ đại-Nơi đó rất xa chúng ta, tính đến hàng vạn năm ánh sáng.
Nhƣng có một con đƣờng nhanh nhất, đó chính là các lỗ đen trong Vũ trụ (hố
đen). Lỗ đen là gì? Chính là các huyệt-kinh mạch của Vũ trụ, nơi đây là đƣờng
dẫn sóng nhanh nhất, thậm chí sóng ánh sáng cũng bị hút vào đó. Linh hồn sẽ
thấy tối tăm, đi trong một đƣờng hầm, hay đúng hơn là thấy mình bị hút đi một
cách không cƣỡng đƣợc. Sau đó là thấy ánh sáng. Đó chính là ánh sáng của
Thƣợng đế chiếu dọi tới. Càng lên cảnh giới cao, ánh sáng đó càng rạng rỡ và
êm dịu.
Tất nhiên, sau đó linh hồn có thể trở về Hạ giới, đi về, thƣờng giáng xuống một
cách bình thƣờng không qua lỗ đen nữa. Tại sao phải qua lỗ đen? Vì đó là con
đƣờng nhanh nhất để nhận ánh sáng của Thƣợng đế. Nếu đi đƣờng khác lâu
hơn, thể vía dần tan rã mới thăng lên đƣợc. Sau khi tiếp nhận ánh sáng, còn có
nghĩa nhận thêm năng lƣợng của Thƣợng đế, đã thấu lý và siêu thoát; linh hồn
có thể giáng xuống Hạ giới, xem xét mọi thứ; thƣờng thì linh hồn quay về nhà,
nhìn rõ mọi ngƣời bên xác mình chuẩn bị tang lễ, hoặc sau đó còn ở nhà lâu,
quyến luyến gia đình. Nhƣng do đã đƣợc giải thoát, nên linh hồn thanh thản
tuyệt đối, chứ không đau khổ nữa. Sau đó, theo ý chí của Thƣợng đế, linh hồn
về đúng cảnh của mình.
Tất cả các linh hồn có tu đạo chính của Thƣợng đế, thƣờng thấy thế (trừ các
trƣờng hợp nói sau).
353
Đối với ngƣời không tu đạo, tu chƣa đắc đạo: Tức là anh ta chỉ sống tự nhiên
theo cách của mình, theo số phận. Hoặc: Tu đạo nhƣng có quá nhiều nghiệp
quả, thể vía nặng nề. Hoặc: Những kẻ có tội ác, những ngƣời chết đột ngột
không đạo, tự tử. ( Những ngƣời chết đột ngột, nhƣng đã biết Chân lý, trì niệm
từ trƣớc thì vẫn đắc đạo, siêu thoát, có thể chậm hơn ngƣời thƣờng, nhƣng anh
ta nhanh chóng xác định đƣợc tình thế và vui vẻ siêu thoát).
Tất cả các hạng ngƣời này, do thể vía nặng, không đủ mức tự thăng đến chỗ lỗ
đen, nên không qua lỗ đen. Khi vừa chết xong, họ thấy mình thoát ra khỏi thể
xác, đứng bên, hoặc thì đứng “lơ lửng” trong không gian cạnh xác chết (trần
nhà, trên cửa sổ). Họ nhìn rõ xác chết, cũng nhƣ những gì diễn ra xung quanh
đó, tự thấy mình nghe đƣợc mọi âm thanh, lời nói từ xa, có thể đi xuyên qua
sắt, tƣờng (vì họ đã là một loại sóng). Khi anh ta xác định đƣợc tình trạng
“chết” của bản thân, anh ta rất hoảng hốt. Do sức hút ánh sáng (năng lƣợng) từ
bên ngoài, một cách không cƣỡng đƣợc, có thể anh ta bắt đầu đi ra khỏi phòng,
đi lang thang, có thể ngƣời thân đã quá cố của anh ta tìm đến, nói chuyện với
anh ta, hoặc anh ta muốn đi xem. Ở Đông có thể sang Tây bán cầu một cách
nhanh chóng! Anh ta nhìn thấy, hiểu đƣợc ngƣời đang sống nghĩ gì. Anh ta có
thể tìm cách gọi hoặc tiếp cận một ai đó (ngƣời sống), nhƣng họ không hề biết
đến sự có mặt của anh ta. Anh ta sẽ thấy ngạc nhiên về điều này!
Nên nhớ: Lúc này, linh hồn giữ nguyên bản chất đặc điểm, tính cách và hình
dáng nhƣ ngƣời còn sống. Tại sao lại mang hình dạng ngƣời sống, vì linh hồn
biết về một hình thể tự nhiên quá cũ của mình, chính cơ thể mình, anh ta còn
mang theo thể vía của mình, chính là mình, nên anh ta “ tạo” ra một bản thân
hình ảnh mình. Sau đó anh ta còn ngạc nhiên thấy rằng, anh ta có thể hình dung
đƣợc ( tạo ra) đƣợc một hình ảnh trong tâm tƣởng (ví dụ: anh ta nghĩ có một
ngôi nhà to, anh ta sẽ thấy ngôi nhà trong đầu rất rõ, nó ngay trƣớc mắt anh ta).
Nhƣng trí năng này đòi hỏi một tƣ duy, nên linh hồn chƣa giải thoát thƣờng
“luẩn quẩn” với những khát vọng dày vò đang đè nặng lên, do thể vía đòi hỏi.
Việc đau đớn nhất, có thể khiến linh hồn phát khùng lên, đó là việc anh ta tiếc
nuối, luyến tiếc cuộc sống trần gian, với tất cả những gì của cuộc sống ấy,
nhƣng không còn hy vọng, nên đau khổ.
Đó là các cảnh giới thấp: 1-2-3.
* Đối với các bậc chân tu, công đức lớn, thấu Chân lý lớn và đắc đạo:
Một là: Có Thiên xa của Thƣợng đế, có phái các sứ giả tinh binh đón đi thẳng
lên Thƣợng giới, không qua lỗ đen. Ngƣời nhƣ vậy lên Thƣợng giới ( cảnh Chín),
hoặc ở cảnh cực cao là cảnh Tám.
Hai là: Linh hồn thăng lên, do thể vật chất rất đỗi thanh nhẹ, cao quí của mình,
anh ta có thể lên đến cảnh Bảy, cảnh Tám. Các đức Phật (các vị giác giả), các vị
tôn giả, các vị thánh, các vị đạo hạnh đón. Mở phép quần tiên đón rƣớc ( Lời
354
Vua Cha giảng rõ thêm). Hoặc: Những ngƣời thân đã đắc đạo ở cảnh giới cao
xuống đón.
* Đối với các kẻ ác tội: Trƣớc kia, Thƣợng đế tạo ra địa ngục để nhốt tội đồ,
những bọn có tội lớn, để trị tội bọn này. Địa ngục lúc đó là một nơi giam giữ bọn
tội đồ này. Vì việc giáo hoá bọn chúng mất công lâu lắm, việc trừng trị bọn
chúng không hết đƣợc nghiệp, lại còn tạo ra sự oán thán đến hai lần, cho nên bọn
chúng khi đƣợc thả ra, lâu giải thoát, lại càng hung hăng trả thù, đánh phá ngƣời
tốt, xúi bẩy kẻ ác, làm điều ác thêm. Cho nên nƣớc quỉ càng nhiều bọn tà ma ác
quỉ dồn tụ về. Thƣợng đế thấy đƣợc điều đó, nên mở lƣợng hoá sinh, lấy đức từ
bi để giáo hoá nhân sinh, nên Cha chúng ta đã cho đóng cửa địa ngục. Việc đóng
cửa địa ngục đã tạo ra các cuộc chiến tranh dã man vừa qua; bọn tà quỉ, các sao
ác sát đã giáng sinh, quần tụ thành các quốc gia, dân tộc và gây hoạ chiến tranh
đẫm máu! Tất yếu, theo qui luật, cái thiên thắng cái ác, đó là chân lý bất biến,
nên bọn chúng bị các thành phần thiện tính đánh bại, bị trừng trị ngay trên Hạ
giới! Sau đó, bằng ánh sáng cua ý chí, Thƣợng đế đã cho loài ngƣời thấu hiểu
hơn về lẽ sinh tồn, về hoà bình, về nhân sinh; tiếp tục giáo hoá chúng sinh, phổ
giáo để nhân loại tiến lên Thiên đƣờng Hạ giới. Đó là qui luật. Việc tuân theo qui
luật đó là con đƣờng và là điều kiện để tồn tại của loài ngƣời. Việc nhận thức lại
Chân Lý theo điều kiện mới là một điều rất cần thiết.
Ngày nay không còn địa ngục, nhƣng bọn ác tội vẫn bị các thần linh, các tƣớng,
các đức Phật quản lý. Bọn tội lớn bị cho vào “Trƣờng giáo linh”-do Ta quản lý,
có các binh tƣớng nhà Trời canh giữ. Ở đây, bọn chúng đƣợc học hỏi để tiến
hoá, bằng cách học hỏi các bài học để thấu đạt về Chân Lý của Thƣợng đế, về
các tri thức cần thiết để đầu thai. Các bọn khác ở các cảnh giới thấp cũng đang
tiếp tục học hỏi. Rồi khi trở lại Hạ giới đầu thai, họ lại học lại trƣờng học lớn
nhất là Hạ giới và cuộc sống để tiến hoá không ngừng.
Bọn ác tội đặc biệt, bị các binh tƣớng giam lại, cho vào các trƣờng giáo linh, ăn
mày ân đức của Đức Phật, các thần thánh, đƣợc ăn của bố thí và phát lộc của
dƣơng gian để thấu đạo đức mới. Bọn chúng đƣợc các thần Phật chở che,
nhƣng lại bị các vong linh tiến bộ chửi rủa, phân biệt đối xử, ghét bỏ làm bọn
chúng rất sợ hãi và xấu hổ, hổ thẹn và cải từ tà sang chính.
Nơi đây qui tập các vong hồn lạc hãm, bọn xấu xa, ác tội, do quyền năng của
Thƣợng đế cai quản ( Ta), giáo hoá chúng, theo các nghi lễ và bài học đặc biệt,
để chúng mau siêu thoát; khi siêu thoát, chúng sẽ đƣợc Thƣợng đế cho lên các
cảnh giới bậc trung (4-5-6) để học hỏi, chuẩn bị đầu thai, chứ không cho xuống
các cảnh giới thấp nữa, vì thực ra bọn chúng đã biết cải tà qui chính, vì đã đƣợc
giáo dục và siêu thoát. Giáo linh là một chức năng đặc biệt. Đó là cách nhanh
nhất giúp linh hồn tiến hoá, làm thiên linh đỡ phức tạp và lộn xộn, làm giảm
các tai kiếp về sau cho các linh hồn. Đây là sự ân sủng vĩ đại của Thƣợng đế
cho loài ngƣời, mà không phải một đạo giáo nào cũng có! Tất nhiên, bằng cách
355
này, đã làm cho thế giới Hạ giới của tƣơng lai bớt đau khổ, nhanh tiến hoá đi
đến Thiên đƣờng Hạ giới, rồi lên Thiên đƣờng Thƣợng giới.
Định luật tiến hoá linh hồn:
Linh hồn luôn có tính độc lập với Thƣợng đế, đƣợc tiến hoá từ thấp lên cao,
tuân theo qui luật tự nhiên, thông qua các trƣờng học của Hạ giới và trƣờng học
Đạo; luôn có tính thăng từ cảnh thấp lên cảnh giới cao hơn; không có linh hồn
xấu xa, chỉ có linh hồn chƣa biết đến chính bản thân và Chân Lý của Thƣợng đế
mà thôi. Chỉ có ánh sáng cao đẹp của Ngƣời với sự cứu rỗi, sự đại từ đại bi của
Mẫu Vƣơng mới giải thoát đƣợc những đau khổ của chúng ta: những linh hồn
con ngƣời.
* Hai phƣơng pháp tiến hoá linh hồn:
Tất yếu, chúng ta phải trải qua trƣờng học Hạ giới để tiến hoá. Sự tiến hoá Hạ
giới là cái đích của sự sáng tạo tự nhiên, không có Hạ giới, thì chúng ta không
có tiến lên đƣợc Thƣợng giới. ( Theo nghĩa hẹp-tức là Thƣợng giới dành cho
các nhân linh hoàn thiện, mà Hạ giới là nơi học tập-Không có Hạ giới thì sao có
nhân linh ở Thƣợng giới).
Đây là phƣơng pháp không thể không có, dù thời gian rất chậm.
Thứ hai: Giúp linh hồn-con ngƣời (nói chung) tiến hoá nhanh hơn, rút ngắn thời
gian tiến hoá ở Hạ giới (Tiến lên Thiên đƣờng Hạ giới) và rút ngắn thời gian ở
Trung giới để đầu thai trở lại, làm cho quá trình luân hồi ở các kiếp ngắn lại,
bằng cách tu theo Thiên Đạo của Thƣợng đế.
Chúng tôi có cách giúp cho sự tiến hoá nhanh hơn, thậm chí nhanh nhất hiện
nay, tiếp cận với Thƣợng giới, vì chúng tôi chỉ ra đƣợc qui luật phát triển tiến
hoá của linh hồn và thông qua sự cải tạo xây dựng xã hội Hạ giới một cách tích
cực theo ý chí, Chân Lý của Thƣợng đế. Đây là điểm khác nhau rất lớn giữa
khả năng của chúng tôi với các tôn giáo khác. Việc nhận thức lại bản chất của
linh hồn là một khoa học mới mẻ, giúp tìm ra mọi qui luật khác của thế giới.
Việc xác định Ba Đại giới, cùng các cảnh giới, giúp phân biệt đƣợc các nấc
thang tiến bộ của giới Thiên linh-cũng là nấc thang tiến hoá của con ngƣời-linh
hồn. Điều này cũng rất quan trọng, vì đó là khoa học chính xác về tự nhiên,
theo qui luật tự nhiên, phát triển từ thấp đến cao. Nó giải toả ý thức về Thiên
đƣờng, Địa ngục. Không phải chết đi, chúng ta đƣợc lên ngay Thiên đƣờng,
hoặc khái niệm Địa ngục đã thay đổi, giúp cho chúng ta phƣơng pháp phát triển
linh hồn tốt hơn và hoàn thiện hơn.
III-BẢN CHẤT CỦA CON NGƢỜI
* Con ngƣời: Là tổng hoà của cấu tạo vật chất đơn giản (thể xác) và vật chất cao
cấp (linh hồn): Là kết quả của sự tiến hoá của tự nhiên; là sản phẩm sáng tạo tất
yếu của Thƣợng đế và là hình ảnh của Thƣợng đế; là động vật có tiến hoá cao
356
nhất ở trần giới, phù hợp với xã hội hiện thực, tạo ra xã hội và là nhân tố của xã
hội.
* Thể xác-vật chất đơn giản: Thể xác của con ngƣời là bao gồm toàn thể phần
cấu tạo nên hình dạng ( cá thể). Các bộ phận vật chất của cơ thể nhìn thấy đƣợc.
Thể xác con ngƣời là Vũ trụ thu nhỏ, chứa nguyên khí Vũ trụ, là sản phẩm tinh
vi nhất của Vũ trụ. Thể xác chịu ảnh hƣởng của các qui luật sinh hoá, có tuổi
thọ phụ thuộc vào các giá trị tích tụ và duy trì nguyên khí Vũ trụ trong nó. Thể
xác con ngƣời chấp nhận sự tìm hiểu và khám phá nhƣ nền y học hiện đại
nghiên cứu. Nhƣng nay Thiên Đạo tìm ra qui luật, kiến thức mới về cơ thể con
ngƣời nhƣ: “Qui luật chuyển hoá nguyên khí từ trƣờng trong con ngƣời”, „các
cửa sổ của con ngƣời”, “khai mở năng linh”, “ sự vận hành của khí, trí, lực”,
“cải tạo tế bào bằng nhân điện”, “Điều khiển tâm hồn và chữa trị nhân cách”,
“Não ngƣời-bộ ra-di-o-máy phát điện đa chiều”, “phép biến đổi linh
hồn”…(Nguyên Lý Trung Phƣơng bổ trợ).
Các công trình này, khi đƣợc phổ quát kiến thức, mở ra hƣớng nghiên cứu, giúp
nhận thức con ngƣời hoàn thiện hơn về bản thân một cách khoa học. Dòng
nguyên khí lƣu chuyển trong con ngƣời là nguồn cung cấp và duy trì năng
lƣợng tự nhiên, trong đó có linh hồn dựa vào dòng nguyên khí này để duy trì sự
tồn tại của cơ thể theo qui luật tự nhiên. Các huyệt đạo chính là các điểm nối
tập trung nguyên khí: Các dòng máu là vật chở nguyên khí. Nguyên khí lan toả
khắp cơ thể. Giống nhƣ trái đất vậy và Vũ trụ cũng vậy.
Thức ăn là vật nạp năng lƣợng trực tiếp cụ thể. Còn nguyên khí gốc đƣợc hình
thành, đƣợc Thƣợng đế tu tạo ngay từ ban đầu, nó là một “cơ chế” mở, đƣợc
biến đổi theo các qui luật khắt khe của tự nhiên, là một hành lang cụ thể, chịu
ảnh hƣởng trực tiếp từ nguồn nguyên năng, tức là sự tác động tự nhiên, tức
Thƣợng đế an bài: Đó chính là số phận của thể xác (sống, chết).
Cơ thể con ngƣời là cơ thể của một động vật, do đó, nó cần thiết các yếu tố
thông thƣờng của động vật nhƣ: Cơ chế bản năng, cơ chế sinh hoá, cơ chế
chuyển hoá vận động. Nó đơn thuần là một thể xác dục vọng tầm thƣờng. Nó là
bộ máy cao cấp kỳ diệu của tự nhiên-không thể hoàn thiện hơn đƣợc nữa. Mọi
vấn đề của nguyên khí có đƣợc của cơ thể, đều biểu hiện cụ thể, trực tiếp ở thể
xác. Nguyên khí mạnh, tất mặt, hình dáng, khí chất, gan bàn chân tay…(gọi là
tƣớng học hay diện tƣớng) có các đặc điểm tƣơng ứng và ngƣợc lại. Cho nên,
số và tƣớng hài hoà với nhau, không có gì là bí hiểm cả. Về cấu tạo, đặc tính,
nguyên lý hoạt động, sự vận hành của cơ thể con ngƣời, đến nay khoa học đã
nghiên cứu, mổ xẻ nhiều, đạt đƣợc những thành tựu sát thực. Duy có một về sự
hình thành của tƣ tƣởng (suy nghĩ), cấu tạo nhƣ thế nào, nguyên lý tồn tại của
nó. Động vật cao cấp thì cótƣ duy (tức đồng nghĩa với việc có linh hồn), thì
khoa học chƣa chứng minh đƣợc.
357
Tại sao nói: Thể xác là “vật chất đơn giản”. Bởi vì: Vốn dĩ thể xác nếu tách
khỏi linh hồn, thì nó là vật vô tri. Nó “đơn giản” so với “vật chất siêu đẳng” là
linh hồn khi chết, và là “hồn vía” khi ngƣời còn ở thế gian. “Vật chất đơn giản”
cấu tạo bằng các phân tử hạng nặng, là khối nặng. Các điện tử hoá học tạo nên
các phân tử này, hoạt động chậm, nặng nên tiêu thụ năng lƣợng lớn. Càng tiêu
thụ năng lƣợng lớn, cơ thể càng nặng nề, các phân tử càng nhanh già. Đó là lý
do tại sao ngƣời tu hành ăn kiêng khem, lại sống thọ. Ngƣời ăn thịt nhiều, tuổi
thọ lại ít hơn những ngƣời sống thanh bạch. Đặc biệt, sống thanh sạch dễ siêu
thoát hơn ngƣời sống không thanh sạch, nặng về vật chất, nhiều tham vọng.
Vấn đề này có ngƣợc với chủ trƣơng là phấn đấu an lạc, no ấm không? Chúng
ta không chủ trƣơng sống thanh bần, mà sống thanh sạch: Thanh sạch tinh thần
và thể xác. Nếu còn đói khổ thì còn mƣu cầu, còn sinh ra vô số tham ác khác
nhau; vả lại, mục đích của con ngƣời muôn đời là no ấm hạnh phúc, các kiếp
trƣớc tu tốt, kiếp sau mới an khang, no ấm, ấy là luật Trời. Nhƣng thanh sạch,
no ấm phải có đạo đức. No ấm, giàu sang mà có đạo đức thì quý vô cùng! Con
ngƣời đã hƣởng no đủ, ấm lòng, sẽ hƣớng về cuộc sống xa các thứ xa xỉ để
chuẩn bị cho hành trang tinh thần lên Thƣợng giới.
Vấn đề tâm lý khát vọng, tham vọng cực kỳ quan trọng trọng các cảnh giới: Thế
thì một giáo hữu no ấm, đầy đủ, không thèm khát gì, lại thuần đạo Chân Lý, coi
khinh sự phàm tục vật dục ở cuối đời, thì sẽ giải thoát nhanh hơn các loại khác!
Thiên đƣờng Hạ giới có, khi con ngƣời đạt đỉnh cao về hạnh phúc cá nhân và
hạnh phúc tƣ tƣởng, thế thì còn hối tiếc gì, mà không về Trung-Thƣợng giới?
Vấn đề là ở chỗ mục đích sống là gì? Cùng thiện, cùng no ấm, cùng tiến bộ,
cùng thanh sạch, phải cần thanh sạch, hoặc ngƣợc lại. Thế đó!
* Hồn vía (linh hồn)-vật chất siêu đẳng:
Khi còn sống ở trần gian, linh hồn tồn tại, ngự trị trong thể xác gọi là “hốn vía"
ngƣời.
Hồn ngƣời (linh hồn): Là tổng hoà các giá trị vật chất siêu đẳng, đƣợc tích luỹ
từ nhiều kiếp sống khác nhau, có sự tiến hoá theo qui luật Nhân quả, duyên
nghiệp. Là một hệ thống thông tin dạng sóng, có nhiều cấp khác nhau; là một
hệ tƣ duy đặc biệt, đặc trƣng của con ngƣời trong ý thức.
Ý thức là một khái niệm chung chung. Động vật cấp thấp cũng có ý thức đặc
trƣng tƣơng ứng. Con tinh tinh có ý thức không? Có chứ! Nó rất chăm lo, bảo
vệ con, biết lãnh đạo, đấu tranh, phân công công việc trong bầy đàn. Ai bảo nó
không có ý thức? Nó có hồn của nó, khi chết đi, nó có linh hồn. Chỉ khác là ở
trình độ thấp, so với con ngƣời mà thôi. Các loại động vật khác cũng thế.
Vô thức: Là hành vi, tình trạng nhận thức khi con ngƣời giảm sự tập trung, sự ý
thức giảm xuống, nhƣng linh hồn ngƣời vẫn hoạt động, chỉ đạo thể xác hoạt
động. Ý thức và vô thức là hai cấp chỉ huy của hồn ngƣời. Khi vô thức, trong vô
358
thức đôi khi hồn vẫn sáng sạo, làm việc, có khi tạo ra các tác phẩm vĩ đại, nhƣ
một số trƣờng hợp ( ví dụ: nhà hoá học Mendeleep…).
Ta chỉ nên gọi: Sự ý thức, sự vô thức. Ý thức không đồng nghĩa với tƣ duy, tƣ
tƣởng, sự nhận thức. Tất cả những cái này là những khả năng của hồn ngƣời. Vì
khoa học thô mộc, giản đơn và thậm chí lạc hậu trong cái vỏ hiện đại-không
công nhận linh hồn, nên có khi qui nạp toàn thể sự suy nghĩ, tƣ tƣởng, các nội
dung và biểu hiện của não trong một khái niệm, đó là khái niệm ý thức, thực ra
không phải thế.
Hồn ngƣời là một hệ thông tin dạng sóng: Nhƣ đã trình bày. Cấu tạo của linh hồn
gồm hệ thống các hạt siêu vật chất ( các hạt điện tử nhẹ nhất). Chúng phải đƣợc
tổ chức, sắp xếp theo một qui luật nhất định. Qui luật nào? Trong tất cả các thể
dạng vận động của vật chất, thì vận động xoay tròn là vận động ƣu việc nhất, vì
các lý do nhanh nhất, tồn tại lâu nhất; vậy ngay cả xã hội, các hình thức phát
triển, luôn theo qui luật “xoáy trôn ốc”, ở dạng sóng tròn, hƣớng lên cao. Vậy
linh hồn-loại vật chất siêu đẳng, cũng tồn tại ở dạng này: Trục xoáy trôn ốc,
xoay tròn, ngƣợc chiều kim đồng hồ, tịnh tiến theo các chiều biến hoá.
Trong cơ thể sống, linh hồn vận động theo các kinh mạch của cơ thể để chỉ đạo
nguồn năng lƣợng cho cơ thể.
*Linh hồn có nhiều cấp khác nhau: Chính là cấp tiến hoá của linh hồn, hay là
trình độ tổ chức các lớp sóng thông tin khác nhau.
Kẻ kém trí tuệ, ắt hẳn là linh hồn của y đơn giản hơn so với kẻ nhân tài khôn
ngoan. Động vật các loại cũng vậy, theo cấp tiến hoá khác nhau; sự cấu tạo các
lớp sóng thông tin càng dày đặc, phức tạp, cho thấy đó là một linh hồn siêu
đẳng hơn. Các lớp thông tin này chính là các lớp tri thức tích luỹ đƣợc của linh
hồn. Tri thức tích luỹ trong toàn bộ các kiếp sống. Và nó chỉ đƣợc khai mở từng
bộ phận, trong những nguyên cớ và điều kiện khác nhau. Một ngƣời kiếp trƣớc
sống tại nƣớc khác, văn hoá khác, kiếp sau không nhớ đƣợc là do không đƣợc
mở “kênh” thông tin này. Có thể khai mở bằng phƣơng pháp tâm linh, phƣơng
pháp thôi miên.
*Linh hồn là một hệ tƣ duy đặc biệt:
Bất cứ một linh hồn nào cũng biết tƣ duy, không tƣ duy tức là không có linh
hồn; chỉ khác là ở cấp tƣ duy khác nhau mà thôi.
Hệ tƣ duy đặc biệt: Hệ này biết “xáo động” các luồng sóng thông tin trong hệ
thông tin, tạo xung sóng mới, có giá trị nhận thức mới; lƣu giữ hay không là do
linh hồn quyết định. Vậy, tƣ tƣởng là cấp độ thông tin khi con ngƣời tƣ duy(
tức là đang suy nghĩ) là gì? Tƣ tƣởng là các cấp thông tin, đƣợc tạo ra ở dạng
sóng điện trƣờng vật lý. Khi ta tƣ duy, các phản ứng điện-hoá học xảy ra ở óc-
là cơ sở vật chất của linh hồn trú ngụ. Trong đó, các dây thần kinh làm nhiệm
vụ truyền sóng. Việc tạo ra sóng ( tức tƣ tƣởng) là do sự “cọ xát” của các sóng
thông tin linh hồn, không liên quan gì đến óc cả. Óc chỉ là “cái nhà” tiếp nhận
359
và chứa sóng thôi: Vì khi óc chết, linh hồn rút ra khỏi đó, vẫn nguyên giá trị
của linh hồn.
Tác động của tƣ tƣởng có khai mở kênh dẫn, lên mọi sự vật hiện tƣợng, gây ra
hiệu ứng phản ứng lý-hóa học, gọi là tâm năng điều khiển, trong đó phổ biến
nhất là dùng ý chí chữa bệnh, dùng ý dời vật, phóng công cách không, thôi
miên, truyền tâm nhập mật, thần giao cách cảm, linh tính; đặc biệt khi xuất vía,
thực hiện các phép huyền thuật, điều khiển tâm năng trong môi trƣờng vô hình
mà ngƣời thƣờng không nhìn thấy đƣợc; nó cũng ứng dụng trong lĩnh vực bùa
chú, yểm đảo, thƣ phù, nguyền rủa, cầu khấn, ám thị…Hoặc với cá nhân, khi lo
âu, buồn đau, đã gây bệnh, ốm chết vì buồn; hoặc tƣ tƣởng, lối sống đã tạo ra
trƣờng năng lƣợng điện từ trƣờng xung quanh mình, chính là thể vía-đã chứng
minh; hoặc khi khai mắt huệ, chúng ta nhìn thấy hình tƣ tƣởng của chúng ta và
mọi ngƣời đƣợc lƣu giữ trong không gian vật lý 9 chiều, mới thấy ý nghĩ khủng
khiếp chừng nào! Do đó, ý nghĩ mang nghiệp ở chỗ đó. Không gian lƣu giữ
hình tƣ tƣởng của chúng ta. Vì khoa học đơn giản ngày nay đang cố gắng đi
về…quá khứ, để học và khám phá bản chất thế giới, nhƣng vô số những “nhà”
khoa học văn phòng tham vật chất ấy không thể khám phá đƣợc các qui luật của
linh hồn, lƣợng tử, nên đến nay, họ không công nhận linh hồn và bất lực hoàn
toàn trƣớc những hiện tƣợng liên quan đến thế giới vô hình!
Trong tƣơng lai, nhân loại phải học lại tất cả từ…cổ xƣa; cả khinh thân, tâm
năng điều khiển, chữa bệnh từ xa không dùng thuốc, đến các thuật phong thủy-
thực chất là khoa học về sử dụng năng lƣợng tự nhiên, các phép chiêm bói, tử
vi…mà thực chất đó là phép toán tìm năng lƣợng của Vũ trụ hiệu ứng và chi
phối con ngƣời, tìm ra qui luật và tính qui luật của nó tác động đến con ngƣời,
quả đất, mọi sự vật hiện tƣợng-có tính qui luật-mà ta gọi một cách thô thiển là
Số Phận.
Các khái niệm: Ý thức, nhận thức, tƣ tƣởng, tƣ duy, suy nghĩ, vô thức, tiềm
thức, là các khả năng của linh hồn. Có hoặc không có các khả năng đó. Khi con
ngƣời hôn mê, trạng thái này vô thức, nhƣng hoàn toàn không suy nghĩ, cứ đờ
ra, một cảm giác cứng nhắc đờ đẫn vô hồn. Linh hồn lúc đó ra sao? Nó đang tƣ
duy, nhƣng nó ở trạng thái khép lại các bộ phận khác. Một ngƣời thiên tài
chẳng hạn, khi ông ta hôn mê, hoặc bệnh tật làm cho trì trệ, thì linh hồn ông ta
ra sao? Một linh hồn hoàn bị thiên tài còn nguyên, nó chỉ khép lại các khả năng
khác mà thôi!
Trình độ tƣ duy phụ thuộc cái gì? Phụ thuộc vào trình độ tổ chức thông tin của
linh hồn. Trình độ tổ chức thông tin, hay nói cho đúng là “kho thông tin” của
anh nhiều hay ít, tốt xấu ra sao, thì anh tƣ duy, tức là anh có khả năng sản xuất
ra các sóng thông tin khác nhau (đó chính là tƣ tƣởng, các giá trị suy nghĩ). Kho
này có sẵn cộng với vừa tiếp nhận của khách quan.
360
Vậy sự thông minh của con ngƣời là gì? Xét theo vấn đề trên thì sự thông minh
vốn là khả năng sắp xếp của hệ thống thông tin, hay chính là trình độ tổ chức và
xử lý thông tin của linh hồn. Sự thông minh có hai khả năng: Do Trời phú, hai
là do rèn luyện. Trời phú, có nghĩa thông minh sẵn. Linh hồn khi đầu thai, phù
hợp với nguyên khí tốt đẹp tƣơng ứng, nên linh hồn có đủ điều kiện duy trì các
yếu tố thuận lợi. Ở chế độ ƣu việt hơn về mặt nguyên khí. Và ngƣợc lại. Do rèn
luyện, là do anh biết tích luỹ kinh nghiệm, để lƣu giữ tri thức ( Ví dụ anh chọn
lọc phƣơng pháp học tập tốt, ắt kết quả lƣu trữ thông tin tri thức tốt). Sau đó là
khả năng anh tƣ duy để cho ra “sản phẩm” mới-chính là tƣ tƣởng, các phƣơng
thức và hệ quả tri giác để có tƣ tƣởng nhận thức mới. Có ngƣời học một biết
mƣời. Học một suy ra ba góc còn lại. Nhƣng có ngƣời có nhồi vào đầu cũng rớt
ra hết, hoặc không đẻ ra đƣợc cái gì trong cái tối tăm của linh hồn đó.
Tiềm thức là sự khai mở một “hộp” thông tin nào đó của linh hồn, việc nhớ lại
khác tiềm thức, tiềm là có sẵn, đƣợc mở không chủ ý. Còn nhớ lại là chủ ý.
Vậy trong hệ thống đó (tức linh hồn), thì cái gì là chủ đạo, tức chi phối các hoạt
động của hệ thống đó? Chính là “hạt nhân vĩ đại” của linh hồn. Đây là một khối
Nguyên năng hoàn mỹ, trung tâm của linh hồn. Khối này là khối hạt nhân siêu
việt (cụm hạt Trung Phƣơng), qui tụ các lớp hạt điện tử xung quanh nó. Nguyên
hạt-hạt nhân này chính là Nguyên năng gốc, là phần của Thƣợng đế tách ra cho
một sinh linh, qui định nó, chi phối nó. Nó chịu ảnh hƣởng của Nguyên năng
lớn, chính là Thƣợng đế. Cũng nhƣ Thƣợng đế chịu sự chi phối của Đại
Nguyên Năng của Đại Vũ trụ. Hạt nhân này vĩnh cửu và không bao giờ ngủ.
Bí mật của sự sống linh hồn:
Hiện nay về thuyết sự sống sinh vật trên trái đất, khoa học đã giải thích: Từ các
phân tử, hợp tử rồi thành tế bào, rồi có sự trao đổi chất, thành sự sống sinh vật,
từ đó tiến hoá lên cao thành thế giới sinh vật nhƣ ngày nay. Điều này Pháp ta
tạm chấp nhận.
Còn việc tiến hoá của con ngƣời, không phải từ loài vƣợn, mà là sự cô đặc hồn
dần dần, khi hồn các thiên thần đƣợc Thƣợng đế cho xuống thế, tiến hoá dần đặc
dần thân ngƣời, việc này sau sẽ bàn thêm. Vì Cha Ta sinh ra các bầu Thái dƣơng,
hành tinh đƣợc, thì cũng sinh đƣợc hồn xác ngƣời, không có chi là lạ.
Vấn đề mà Ta muốn nói ở đây là cái bí mật nhất, mà chƣa một tài liệu nào, tôn
giáo nào, hay chân sƣ nào nói ra trong suốt lịch sử hàng triệu năm, cho đến nay
là: Công nhận linh hồn? Vậy linh hồn tại sao lại có: Tức hình thành linh hồn ban
đầu? Và vật chất đó có trí tuệ-Ta nói là trí tuệ: Bao hàm cả ý thức, tƣ duy, bản
ngã. Là do nguyên nhân nào? Đây là câu hỏi làm đau đầu bao nhà nghiên cứu
khoa học tâm linh chân chính.
Chúng ta biết: Nguyên tử có các điện tử, trong các hạt điện tử có các mặt bán
nguyên Spin có khả năng lƣu giữ thông tin và tái lập thông tin; đồng thời khi các
nguyên tử liên kết với nhau, thì tạo ra khả năng xử lý thông tin và xử lý thích ứng
361
với các tác động ngoại cảnh, ngoại lực. Đối với bất cứ nguyên tử nào cũng có
khả năng này. Tích luỹ thông tin và xử lý thông tin: Tạo ra trí tuệ vật chất một
cách tự nhiên-đó chính là bí mật hình thành linh hồn.
Vậy: Có vật chất là có linh hồn-hay khả năng trí tuệ riêng của chúng, ở mọi cấp
độ vật chất. Nhƣ vậy: Vật chất siêu đẳng-hay linh hồn luôn luôn sinh ra một cách
tất yếu khi có tồn tại vật chất đó, với tƣ cách là một chỉnh thể hoàn chỉnh của vật
chất. Và Đại Thƣợng đế, hay Thƣợng đế đƣợc tạo ra cùng lúc với việc hình
thành Đại Vũ trụ, Vũ trụ. Trƣớc khi Cha chúng ta có (Linh hồn Vũ trụ này), Vũ
trụ thuộc Hƣ vô khí, trong một Đại Vũ trụ đã có linh hồn là Đại Thƣợng đế…
Đại Thƣợng đế quyết định lập Vũ trụ của chúng ta, thì tạo ra Vũ trụ mới. Trƣớc
khi hình thành Vũ trụ của chúng ta, các cấp nguyên tử chƣa hình thành khối
lƣợng Vũ trụ, mà chỉ ở dạng Tổng bộ hạt Trung Phƣơng (Linh hồn Thƣợng đế),
cùng với dạng khí tinh vân của Đại Vũ trụ phía ngoài, chƣa cô đặc. Khi lập thành
Vũ trụ có hình dạng, thì nguyên khí tự nhiên hình thành trí tuệ-thể xác Vũ trụ tất
yếu-đó là Cha chúng ta. Còn chúng ta: Nhƣ đã nói: Cũng là tổ hợp nguyên tử
siêu đẳng-đƣợc Cha trực tiếp chiết ra theo qui luật phân chia vật chất; có cá thể
vật chất, thì có linh hồn đó; khi linh hồn ta xuống thế đầu thai, thì kết hợp với vật
chất đặc thành con ngƣời tại thế. Nhƣ vậy: Cha sinh ra chúng ta. Tất nhiên Cha
cũng có thể diệt-tức làm tan rã đƣợc chúng ta.
Trong quá trình hành Đạo vừa qua, Bản tôn Ta đánh vô số trận với tà ma, trong
đó có lúc buộc lòng phải diệt…vài vong linh ác tặc, sau khi đã giáo hoá, kêu gọi,
nhƣng chúng quá ác, không hồi tỉnh, không thể siêu thoát đƣợc. Thật đáng tiếc
cho những kẻ đã qua hàng triệu kiếp làm ngƣời trong lịch sử tiến hoá của loài
ngƣời hàng triệu năm qua; chúng không tỉnh ngộ, thời nay phải diệt, đúng phép
Cha dạy, để làm sạch thiên linh, trƣớc Chuyển thế và xây Thánh Đức.
Đây là bài học cảnh tỉnh cho mọi kẻ chống Thiên Đạo từ nay đến muôn năm sau.
( Ghi bổ sung: Thực ra là Ta đã chuyển hóa các linh hồn này, không diệt vĩnh
viễn. Luật Trời cấm diệt tuyệt linh hồn. Về khái niệm Thƣợng đế của Vũ trụ này,
là một linh hồn Tối cao của Vũ trụ này, thuộc về Thƣợng đế Tối cao. Chúng ta
có vô số Thƣợng đế và vô số Vũ trụ. Nguyên lý thờ Thƣợng đế, là thờ Thƣợng đế
Tối cao-duy nhất toàn năng và là tất cả-đó là Cao Minh Thƣợng đế).
IV-BẢN CHẤT BẢN NĂNG VÀ BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA CON NGƢỜI
Bản chất bản năng:
Bản năng xác thể thúc đẩy bản năng tinh thần. Và ngƣợc lại, thông qua thể xác,
bản năng tinh thần đƣợc thoả mãn.
Thể xác là một cơ thể hoàn mỹ, trong đó luôn diễn ra các quá trình trao đổi chất,
thu nạp năng lƣợng để nuôi tế bào, thực thể. Diễn ra quá trình tái sinh và đào thải
tế bào, các chất. Nhu cầu to lớn duy nhất của thể xác là nhu cầu vật chất-dục chất
(nạp thức ăn, đảm bảo nhu cầu tình dục, sinh sản) (vật dục). Từ nhu cầu này, thể
362
xác thúc đẩy não-một bộ phận thể xác, xử lý thông tin, đó là các tín hiệu ham
muốn: ăn, ngủ, tình dục…Nếu đơn thuần nói về “bản năng gốc” thì thể xác con
ngƣời nhƣ thể xác mọi loài động vật khác mà thôi.
Bản chất bản năng không thể thay đổi đƣợc. Nếu tƣớc bỏ bản chất này thì con
ngƣời không tồn tại. Tuy nhiên, nếu bản năng này thái quá (tạo ra tội ác), quá
mức bình thƣờng, đòi hỏi bản năng tinh thần đáp ứng cao, nó sẽ làm cho thể vía
của linh hồn thêm nặng; bởi các lớp thông tin của cái nhu cầu đó vốn đã nặng,
càng nhiều càng nặng. Do đó: Một kẻ ham hố thái quá, khi chết, linh hồn khó
siêu thoát, thƣờng ở cảnh giới thấp.
Con ngƣời nhờ có linh hồn mà tạo ra ý thức, nhận thức, tƣ duy, có thể điều chỉnh
đƣợc bản năng này bằng phƣơng pháp tu luyện cuộc sống thanh sạch. Đáp ứng
đƣợc nhu cầu của cơ thể, điều chỉnh nó trong phạm vi đạo đức, phù hợp với qui
luật tự nhiên là điều rất quan trọng.
*Bản chất xã hội:
Từ thời Thƣợng cổ, con ngƣời đã biết sống bầy đàn. Tính bầy đàn có ở các loài
động vật khác. Đây là đặc tính cố hữu, do yêu cầu tồn tại của loài. Trong bầy
đàn: Phát huy đƣợc sức mạnh tập thể, cá nhân đƣợc che chở, đƣợc bảo đảm
quyền lợi. Điều quan trọng nhất, là đƣợc khẳng định “cái tôi trong cái chúng
ta”. Không có tập thể thì cái tôi vô nghĩa, hay nói một cách khác: Cá nhân khó
tách khỏi cộng đồng. Cộng đồng chính là xã hội (nghĩa hẹp); nhiều cộng đồng
tạo ra xã hội chung (nghĩa rộng).
Vậy bản chất xã hội của con ngƣời đầu tiên phải khẳng định là có thuộc tính
sống bầy đàn (cộng đồng). Khi xã hội phân hoá giai cấp, phân chia của cải, qua
các hình thái kinh tế-xã hội, thì các nhân tố này của con ngƣời không mất đi.
Chủ nghĩa cá nhân làm cho con ngƣời tập trung các bản năng cá nhân cao hơn,
làm cho con ngƣời cô độc, lại làm cho con ngƣời lao vào cộng đồng để tìm
cách hƣởng lợi; tính cộng đồng tăng, nhƣng giá trị tích cực-hay sự cố kết tình
ngƣời giảm đi.
Khát vọng vật dục cá nhân quá mức-không đồng nghĩa với khát vọng hạnh
phúc chân chính, nó đẩy con ngƣời vào tội ác. Khát vọng hạnh phúc chân chính
là tìm các giá trị hạnh phúc, các giá trị cá nhân trong hạnh phúc cộng đồng.
Nghĩa là tôn trọng cộng đồng, xây dựng cộng đồng và có hạnh phúc từ hạnh
phúc chung. Điều này không làm mất giá trị cá nhân, mà giá trị cá nhân đƣợc
bảo đảm hơn, không bị tƣớc đoạt, không bị trấn áp, không bị thui chột.
Trong toàn bộ lịch sử loài ngƣời, con ngƣời luôn phải giằng co và đấu tranh (về
mặt xã hội) giữa hai thái cực: Đảm bảo hạnh phúc cá nhân và đảm bảo hạnh
phúc xã hội. Các xã hội có giai cấp lãnh đạo thiên về đảm bảo hạnh phúc riêng,
sẽ tạo ra bất công nhiều hơn, và ngƣợc lại. Và không riêng gì một giai cấp nắm
quyền, trong cơ chế lãnh đạo, kẻ cao nhất đi-sống theo hƣớng nào, thì xã hội sẽ
363
sống theo hƣớng đó (cách bảo đảm hạnh phúc cá nhân). Vậy ta không lạ gì câu
“thƣợng bất chính, hạ tắc loạn” ( và ngƣợc lại).
Do bản chất “sống bầy đàn”, nên cá nhân dễ bị tập thể chi phối, bị cuốn theo số
đông. Do hai nguyên nhân: Tập thể chi phối cá nhân, rất đúng rồi, giống nhƣ
hạt nƣớc trong dòng nƣớc. Đó chính là quán tính của đời sống. Muốn tách ra rất
khó. Và không phải cá nhân nào cũng có ý thức đƣợc điều đó. Thứ hai: Do
sóng thông tin tƣ tƣởng của các hồn vía tập thể đã tạo ra lớp sóng tác động chi
phối cá nhân lẫn nhau. Đây là sức hút vô hình khó cƣỡng lại đƣợc. Lúc ấy lãnh
tu có thể thu hút cả tập thể đi theo, với điều kiện lãnh tu là sản phẩm và đảm
bảo các yêu cầu chung của tập thể đó. Đó là nghĩa hẹp. Nghĩa rộng hơn, tích
cực hơn, đó là: Tạo ra tƣ tƣởng để cho tập thể đi theo-đó là thiên hƣớng của bậc
vĩ nhân, thiên tài, lãnh tu giỏi giang.
Về tâm lý cá nhân trong cộng đồng: Cá nhân luôn khẳng định cái tôi trƣớc hết.
Cái “tôi” đáng yêu này là “cái tôi của một linh hồn”; anh ta rõ ràng là một “linh
hồn sống”, và do đó anh ta bình đẳng với các “linh hồn sống” khác. Bản ngã cá
nhân thúc đẩy cái tôi, tự khẳng định sự tồn tại của nó. Trong một cộng đồng,
mọi cá nhân đều tìm cách xác lập cho bằng đƣợc chỗ đứng, hay là vị thế của
mình trong đó. Khi đã xác định, hoặc xác định bằng cách:
-Chiếm đoạt: Chiếm đoạt tiền tài, chiếm đoạt của cải, “con giống” ,tình dục. Đó
là cách làm cho anh ta vƣợt lên khỏi ngƣời khác.
-Tạo uy thế, khẳng định nhân tố cá nhân: Tạo ra danh vọng, tham vọng lãnh
đạo, những huyễn ngã mang tính cá nhân nhƣ: Tự trọng, thích ngƣời khác tôn
sùng, thích chỉ huy, khen ngợi, thích nổi trội, thậm chí thích thấy ngƣời khác bị
khuất phục (ngay lớp thú, đặc tính cạnh tranh của con đực, tranh đoạt quyền
lãnh đạo, tranh con cái trong đàn, đã có cá tính này).
-Hƣởng thụ đắc cách: Là cách hƣớng thụ nhiều, trong vinh quang, trong tƣớc
đoạt của ngƣời khác.
Tham vật chất là đặc tính tự nhiên của con ngƣời.
Tất cả ba cách này là nguyên nhân trực tiếp, lớn nhất tạo ra tội ác, tạo ra bất
công trong xã hội. Bất kỳ xã hội nào đến nay cũng không tránh khỏi, dù con
ngƣời đƣợc giáo dục, hay tạo ra bức bình phong đạo đức giả để phục vụ cho ba
cách đó.
Chúng ta sẽ biết cách khắc phục ba vấn đề trên, trong xây dựng nhân cách con
ngƣời, cần bảo đảm hài hoà các lợi ích, nhân tố bản năng xã hội, vừa bảo đảm
hài hoà với cộng đồng. Tạo ra nét đẹp trong cuộc sống, khi thực hiện phụng sự
Thƣợng đế bằng đạo đức, chúng ta sẽ làm đƣợc điều đó. Chắc chắn tội ác nói
chung và cái duyên của con ngƣời sẽ giảm đi. Con ngƣời sẽ hạnh phúc hơn.
Có ba cách cơ bản để khắc phục điều chỉnh:
-Một là: Giáo dục đạo đức Thiên Đạo, trong vòng tay Thƣợng đế, với sức mạnh
phù thiện, diệt ác của Ngƣời.
364
-Hai là: Biết hành lang và đặc tính số phận, để tích cực điều chỉnh nhân tố cá
nhân phù hợp tích cực với xã hội, tạo chỗ đứng, tạo mức hƣởng thụ nhƣ số
phận của anh ta. Đó là tự giác tu luyện, đức năng giữa số phận và thắng số. Sẽ
giảm đƣợc tội ác, bất công, ngu muội.
-Ba là: Đƣa cả cộng đồng, với sức mạnh đoàn kết giáo dục to lớn, tự điều chỉnh
lẫn nhau, tạo ra tổng thể văn hoá đạo đức sống siêu việt, theo con đƣờng lý
tƣởng Chân Lý cuối cùng. Sức hút tƣ tƣởng, các luồng sóng thông tin và mức
năng lƣợng phù trì của Thiên linh sẽ giúp con ngƣời đắc quả.
Nhƣ đã viết: Lƣơng tâm là thứ có sẵn của con ngƣời, đƣợc Thƣợng đế ban cho,
hay nói cho đúng là một phần quan trọng của của bất cứ linh hồn nào, nó cũng
là “bản năng gốc”, Lƣơng tâm tạo ra đạo đức. Việc phát huy nhân tố lƣơng tâm
trong xây dựng đạo đức, không phải ai, xã hội nào cũng làm đƣợc. Nó là sợi chỉ
đỏ trong xây dựng đạo đức và nó đi theo chúng ta trên đƣờng Chân lý.
Bản chất tín ngƣỡng của con ngƣời:
Bản chất tín ngƣỡng-tức là khả năng tự nhiên của con ngƣời ngƣỡng vọng siêu
nhiên-là bản chất có sẵn của con ngƣời! Tại sao lại nói thế? Có phải con ngƣời
sợ siêu nhiên? Có phải do trình độ văn hoá thấp mà con ngƣời thờ cả ma, gió,
sấm, chớp (bái vật giáo), thờ thần thánh, Thƣợng đế?...
Trƣớc hết cần hiểu: Khi đầu thai, trong các giá trị có sẵn của linh hồn-con
ngƣời là hƣớng về nguồn Nguyên năng bí ẩn (là Thƣợng đế). Y luôn hƣớng lên
trên, ra ngoài bản thân. Sự ngƣỡng vọng siêu nhiên luôn có sẵn, phát triển theo
lịch sử tiến hoá của con ngƣời. Một kẻ có học, đầy đủ vật chất tri thức vẫn
ngƣỡng vọng siêu nhiên, có phải là anh ta dốt không? Không phải. Giống nhƣ
một phân tử, bị chi phối, bị hút về cực trung tâm, mọi hƣớng đi, đến của nhận
thức con ngƣời là tìm cách giải thích tự nhiên, những bí ẩn. Đó là khoa học ở
bất cứ trình độ nào, con ngƣời khi nào chƣa lý giải đƣợc, thì còn luẩn quẩn!
Thông qua lịch sử, loài ngƣời đã tích luỹ đƣợc vô số nhận thức trong kho tri
thức của mình, truyền cho các thế hệ, trong đó có nhận thức về siêu nhân-
Thƣợng đế, các thần thánh. Đó là sự thực không chối cãi.
Sự phát triển của các thuyết triết học, tựu trung chỉ đi giải quyết các nhận thức
trên, theo hai hƣớng duy vật hay duy tâm mà thôi!
Bằng cách này hay cách khác: Thƣợng đế luôn dạy cho con ngƣời biết đƣợc sự
tồn tại của mình. Ngƣời tạo ra các tôn giáo để giáo hoá con ngƣời theo Chân
Lý. Ngƣời là Đức Chúa Trời của đạo Ki-tô, là Đấng A-La của đạo Hồi, là Đức
Ngọc Hoàng của ngƣời phƣơng Đông, là Đấng Brahman của ngƣời Ấn…gọi
chung Ngƣời là Thƣợng đế. Ta gọi là Thƣợng đế Chí tôn Đại Cao Minh, hay là
Cao Minh Thƣợng đế, Vua Cha.
Con ngƣời tìm đến tôn giáo, không phải để tự huyễn, để bù trừ những gì không
có ở trên đời. Con ngƣời mơ đến một xã hội, hay một tƣơng lai không tƣởng:
365
Đó là Thiên đƣờng. Câu này đúng một nửa, có nghĩa là chƣa đúng hẳn, nhƣng
nó có giá trị xã hội-tôn giáo.
Tôn giáo giúp con ngƣời hƣớng đến một mơ ƣớc, nằm ngoài đời sống thực; xoa
dịu những thứ không có của cuộc sống. Đây mới là một nửa của vấn đề!
Thực chất: Sự ngƣỡng vọng Thƣợng đế, nhƣ đã nói, là một phần bản chất bẩm
sinh của con ngƣời. Dù anh ta có trình độc cao, có đời sống không thiếu gì, dù
anh ta không sợ chết, không sợ cái gì, to nhất là vua, là lãnh tụ, đến kẻ cƣớp, kẻ
bị xử tội, kẻ cùng đinh, đều hƣớng đến Ngƣời, có phải họ sợ Ngƣời, hay cần
Ngƣời phù trì? Họ cần: Một niềm tin vĩ đại, một lẽ sống vĩ đại, một lý tƣởng
hoàn mỹ và một sức mạnh diệu kỳ! Không ai ngoài Thƣợng đế sẽ ban cho họ
những thứ đó. Cho nên, con ngƣời còn sống, thậm chí sắp chết, mà còn khát
vọng và còn hƣớng thiện, thì còn nghĩ về Ngƣời, đi theo Ngƣời.
Tất nhiên, trong chúng ta ai cũng mơ cầu, nhƣng có ai dám không sợ thần linh?
Các tôn giáo trƣớc đã vẽ nên một thứ xã hội xa vời với hiện thực, đó là Thiên
đƣờng sau khi chết. Từ đó nhiều giá trị đã xa rời cuộc sống trần gian, xa lánh
bụi trần, không tích cực đấu tranh và cải tạo xã hội; đặc biệt muốn con ngƣời
hoàn thiện, bằng cách xã rời cuộc sống tự nhiên-nhƣ thế là trái qui luật, ý nghĩa
tiêu cực, thụ động nhiều hơn là tích cực chủ động. Trong khi đó, xã hội loài
ngƣời ngày càng phức tạp, con ngƣời tranh đấu, giết hại lẫn nhau khủng khiếp,
họ không tránh khỏi cực đoan khi xem tôn giáo là một thứ danh hiệu để tiêu
diệt lẫn nhau. Đó là các cuộc chiến tranh núp bóng tôn giáo! Chính điều đó, chủ
nghĩa Mác đã phê phán sự tiêu cực của tôn giáo. Điều đó quá đúng.
Chúng ta sẽ khắc phục những hạn chế của tôn giáo bằng các giá trị nhận thức
mới của chúng ta-đƣợc Thƣợng đế soi sáng bằng các giá trị nhận thức mới:
Bằng nhận thức Chân Lý Cuối cùng, với việc tích cực đấu tranh với cái ác để
xây dựng Thiên đƣờng Hạ giới-là điều kiện tất yếu-cuối cùng để con ngƣời trở
về quê hƣơng của mình-về với Thƣợng đế.
Chúng ta không là tôn giáo, không là đạo cụ thể, mà tuân theo Đạo Trời. Thờ
hay không thờ Thƣợng đế không quan trọng bằng việc tôn trọng Ngƣời và tuân
thei các qui luật tất yếu của tự nhiên. Khi loài ngƣời cùng thờ Cha chung, thì
không còn tôn giáo.
Chúng ta không đứng ngoài xã hội hiện thực, không nằm ngoài qui luật tiến hoá
của xã hội loài ngƣời. Bằng việc nhận thức khám phá mới về linh hồn, về
nguồn gốc các tôn giáo, về bản chất con ngƣời, chúng ta sẽ biết cải tạo con
ngƣời, xã hội, tôn giáo đi theo hƣớng tích cực, chủ động. Đồng thời khắc phục
các mặt hạn chế to lớn về mặt triết học của các trƣờng phái triết học trƣớc,
khẳng định: “Thế giới nhất thể vật chất”, “Linh hồn là dạng vật chất đặc biệt”,
giải quyết dứt điểm nhận thức của loài ngƣời về Thƣợng đế, linh hồn, Vũ trụ,
thế giới Đại Đồng tƣơng lai, cùng các biện pháp xây dựng thế giới Đại Đồng
hiện thực trên thế gian-Tức là Thiên đƣờng Hạ giới từ nay trở đi!
366
Không ai chống đƣợc sự thật. Không ai chống đƣợc qui luật tất yếu của tƣơng
lai loài ngƣời. V-NHẬN THỨC CỦA CON NGƢỜI
Nhận thức của con ngƣời là tổng hoà các khái niệm về thế giới khách quan, tƣ
duy, xã hội.
Các khái niệm và định nghĩa ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển của con
ngƣời. Trình độ đó, có trình độ phát triển và tiến hoá của linh hồn. Nhận thức
của con ngƣời mang tính lịch sử, là sản phẩm của văn minh vật chất và văn
minh tinh thần. Văn minh vật chất là các giá trị cao của tiến hoá vật chất, xã
hội; văn minh tinh thần, trong đó có văn minh trí tuệ, tƣ tƣởng, tình cảm hiện
thực xã hội và văn minh nhận thức tâm linh, gọi chung là nhận thức tinh thần.
Sự biến đổi của lịch sử, cùng với sự phát triển của tiến hoá sẽ làm nhận thức
của con ngƣời thay đổi. Nhƣng sự tiến hoá ấy có tính qui luật, là vận động xoáy
trôn ốc, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và có lúc thụt lùi.
Sự thụt lùi đôi khi nhƣ là một nhân tố để kích thích sự phát triển của nhận thức
con ngƣời lên một nấc thang mới, một nấc giá trị cao, mới, rực rỡ hơn. Ví dụ sự
nhận thức về thế giới khách quan duy vật đơn giản hiện nay, sẽ làm cho cuộc
đấu tranh duy vật duy tâm phát triển, có khi là sự xung đột về ý thức hệ, để đẩy
mạnh quá trình nhận thức về hiện thực tâm linh. Nói cho chính xác, là nhận
diện đúng đắn về khoa học tâm linh, tức là thống nhất về mặt nhận thức với nội
dung mới là: Thế giới nhất thể vật chất!
Nhận thức có lúc loanh quanh, vòng vo, thụt lùi, có lúc nhảy vọt. Có những tƣ
tƣởng đƣợc phát kiến trƣớc hàng vạn, hàng nghìn năm, sau đó thực tế mới
chứng minh đúng…
*Nguồn gốc của nhận thức:
1-Nhận thức phụ thuộc vào khả năng học tập, tiến hoá và lƣu chứa, tiếp nhận
thông tin tri thức trong kho tàng tri thức nhân loại; cộng với sự phát triển mới,
trên cơ sở nhận thức cũ. Nguồn gốc của nhận thức xuất phát từ yêu cầu phát
triển, khám phá và nhận thức về thực tại khách quan, tƣơng lai, quá khứ của
con ngƣời. Yêu cầu này do cuộc sống chi phối, thúc đẩy tiến hoá, tiến bộ. Yêu
cầu này gần trùng với yêu cầu tồn tại phát triển. Tất cả các nhận thức đều có
tính khoa học: Với tƣ cách là sự phát triển, thử nghiệm, sàng lọc và hoàn thiện,
công nhận.
Con đƣờng của nhận thức chân lý là từ trực quan sinh động-đến tƣ duy trừu
tƣợng-đến trở về thực tiễn, để kiểm nghiệm, thành nhận thức cụ thể-(theo chñ
nghÜa M¸c). Chân lý là sự cụ thể của nhận thức. Chúng tôi công nhận lý thuyết
này về mặt cơ học của nhận thức. Đây là con đƣờng bình thƣờng của nhận thức,
có tính nguyên lý, khi xảy ra một vấn đề nhận thức thông thƣờng về mặt biện
chứng.
367
2-Sự tiếp nhận thông tin đa chiều: -Sự tiếp nhận kho thông tin có sẵn của Vũ trụ
là yếu tố cực kỳ quan trọng. Thƣợng đế là một “vũ trụ” chứa thông tin. Trên
Thƣợng giới có các bảo tàng, kho chứa thông tin, mà mọi thông tin cực phát
nhất của nhân loại, mọi thế giới văn minh đều có! Bản thân Thƣợng đế là một
kho vô tận tri thức vĩ đại. Ngƣời là bậc siêu phàm tối linh, đại trí, đại thông
minh, thần thông biến hoá, mẫn tiệp và uyên bác vô cùng vô tận! Cho nên mới
gọi Ngƣời là đấng Cao Minh để phổ giáo cho nhận thức của loài ngƣời trong
giai đoạn hiện nay.
Ngƣời là Cha chúng ta, sinh ra chúng ta, nên chúng ta đƣợc Ngƣời truyền cho
các khối kho tri thức ấy mà tiến hoá. Tuỳ từng điều kiện, Cha sẽ cho chúng ta
học tập, tự học tập mà tiến bộ, thông qua sự học tập ở Hạ giới, thông qua sự
phát triển có tính qui luật của xã hội loài ngƣời. Nhƣng phải nhớ cho, đó là:
Trong những giai đoạn của lịch sử loài ngƣời có tính chất bƣớc ngoặt, Ngƣời
đều cho các bậc thần thánh tiên phật đại trí đại siêu linh ở Thƣợng giới xuống
đầu thai trực tiếp giáo hoá nhân loại. Họ mang trí tuệ, sự linh diệu uyên thâm
cùng với cơ duyên định sẵn để đầu thai, trƣởng thành, tạo ra trình độ trong
những điều kiện quan trọng cho nhân loại. Đó là các thiên tài, các nhà khoa học
thiên tài, thần đồng, các văn nghệ sỹ vĩ đại, các nhà hoạt động tôn giáo, chính
trị, văn hoá kiệt xuất. Họ còn là các nhà khai sáng các lý thuyết về tôn giáo,
chính trị, văn hoá…Họ không tự nhiên sinh ra, tri thức của họ không tự nhiên
mà có! Họ là các sứ giả của Thƣợng đế. Có thể kể ra đây rất nhiều ví dụ về các
sứ giả ấy: Các sứ giả đi thiên xa giáng thế dạy loài ngƣời tạo ra các nền văn
minh Inca, Atlantis…Thời kỳ 5: Có Thần Nông dạy dân cấy lúa, các đức
Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni, Jesus…Rồi sau này các vị thiên tài khác
nhƣ Einstein, Beethoven, Mendeleiev… ( Họ sáng tạo trong vô thức, có sự chỉ
bảo-một số ăn chay tự nhiên, công nhận Thƣợng đế ). Đến Mác, Lê-nin, Hồ Chí
Minh. Họ là tinh hoa của nhân loại. Đa số họ, ở dạng thiên tài bẩm sinh, phát
kiến sáng tạo đột xuất, có giá trị lớn và thƣờng có duyên cơ đặc biệt.
Nhƣ thế, lúc đó, thời điểm đó cứ phải làm nhƣ thế, sao lại không làm khác đi?
Làm khác đi, thì số phận đã khác đi. Nhƣng không có gì vô lý cả: Chúng ta
không ai cƣỡng đƣợc hành lang số phận định sẵn. Hành lang ấy qui định ngặt
nghèo đến nỗi: Ta chỉ đi gọn trong hành lang ấy, mọi khúc quanh, ta cố đi
thẳng cũng không đƣợc, vì không có lối đi! Sự tác động to lớn, cực kỳ chính
xác và linh diệu của nguồn nguyên năng vô tận (Thƣợng đế), thông qua sự tác
động trực tiếp của các tinh tú, sóng từ trƣờng tự nhiên và sóng từ trƣờng tƣ
tƣởng của Vũ trụ đã làm cho con ngƣời chỉ có suy nghĩ và hành động trong
“bàn tay của tạo hoá”- Tức là Thƣợng đế vĩ đại! Một ngƣời tỏ ra cứng rắn,
không tin số mệnh, tức là anh ta đang làm theo số mệnh! Vì nhận thức của anh
ta chỉ đến thế! Một ngƣời không tin số phận, chúng ta sẽ đọc, chỉ ra mọi đặc
điểm, mọi thứ đã đang, và sẽ có của anh ta. Nếu đến lúc gần chết mà anh ta
368
không tin thì đọc luôn cả số phận linh hồn anh ta! Và tất nhiên, khi anh ta trở
thành linh hồn ở thiên linh, hãy hỏi anh ta Thƣợng đế là ai, số phận là gì! Hãy
hỏi linh hồn khi sống là kẻ vô thần, khi họ mãn, họ nghĩ gì về họ? nghĩ gì về
thiên linh? Chúng ta phải có trách nhiệm giáo hoá họ. Giáo hoá cả kẻ sống và
kẻ đã chết.
Khoa học thô mộc bất lực khi giải thích hiện tƣợng sáng tạo trong vô thức, hay
sự truyền tâm nhập mật của các bậc thƣợng linh cho ngƣời trần, hoặc đơn giản
nhất là hiện tƣợng giáng đồng, những hiện tƣợng nhận thức bằng trực giác, linh
cảm, thần giao cách cảm…
Đầu não con ngƣời giống nhƣ một cái ra-đi-ô vậy. Ở các mức khai mở sóng
điện não khác nhau, ta có thể tiếp nhận các sóng và hình ảnh trong vũ trụ khác
nhau. Tại sao lại có ngoại cảm, tại sao lại có ngƣời đọc đƣợc ý nghĩ của nhau,
do có nhiều cách, trong đó có việc dò đƣợc sóng điện não của nhau.
Nhắc lại vấn đề này: Tƣ tƣởng con ngƣời tồn tại ở dạng sóng, phát ra ở dạng
sóng từ trƣờng sinh học, có tính vật lý bình thƣờng, không có gì mà xa lạ. Việc
sóng đó lan trong vũ trụ, hoà nhập vào khối sóng tƣ tƣởng của ngƣời sống, của
giới thiên linh, tạo ra một môi trƣờng cực kỳ hỗn độn. Và một cách tự nhiên,
não chúng ta có sự chọn lọc, chọn lựa, bằng việc thu nạp chúng ở các cấp khác
nhau. Khả năng linh tính của con ngƣời nhiều hay ít là do có sự gặp và trùng
của tần số tƣơng ứng với đối tƣợng hoặc sự vật sự việc, hoặc do sự mách bảo
của thiên linh. Một ngƣời bị một thế lực thiên linh tác động ( một vong hồn,
một thần thánh, Thƣợng đế…) mạnh mẽ, thì anh ta hoàn toàn “chủ động” bị chi
phối và làm theo ý chí của thế lực đó. Về mặt tổng thể, thì tất cả chúng ta đều bị
Thƣợng đế chi phối. Về mặt cá thể, đôi khi con ngƣời bị một thế lực thiên linh
chi phối. Hiện tƣợng lên đồng, các hiện tƣợng bị bùa yểm đảo, các hành động
theo pháp thuật, các suy nghĩ và hành vi bị quỉ ma tác động, dẫn dắt, thuật thôi
miên…khoa học thô mộc bó tay không giải thích đƣợc, cho là mê tín nhảm nhí!
Khi những hiện tƣợng có tính chất thực tế trong thực tiễn sinh động của toàn bộ
lịch sử nhân loại, thì không thể bị coi là mê tín, nhảm nhí; mà chính sự quay
lƣng với các nhận thức đó một cách cực đoan, vô trách nhiệm, không những
gây ra sự ngu dốt, gây hậu quả nghiêm trọng đối với sự hoàn thiện kiến thức,
trong tu tập đạo đức, mà còn làm giảm sự tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi
Thƣợng đế, các bậc thần thánh chủ công bình, tiến bộ, minh triết!
Con đƣờng nhận thức các giá trị của nhân loại, để đi đến Chân lý, trên con
đƣờng Đại Đồng Đại Thiện còn phức tạp, còn có cuộc đấu tranh giữa các nhận
thức tƣ tƣởng khác nhau, nhƣng cuối cùng nhận thức đúng đắn sẽ là của chúng
ta- những ngƣời biết tìm ra các qui luật chính xác, đích thực của thế giới khác
quan, con ngƣời, xã hội và tƣ duy. Tƣơng lai mới của loài ngƣời đã rất gần rồi.
Những ngƣời vô minh không còn nhiều cơ hội.
369
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA CON NGƢỜI:
*Nhận thức với tƣ cách là khả năng ý thức và trình độ ý thức đƣợc, của linh hồn
khi ở trong thể xác và cả khi đã rời thể xác. 1-Nhận thức tuyến tính:
-Nhận thức tuyến tính dành cho con ngƣời tại thế, khi chƣa khai nhãn huệ, thống
nhất với đánh giá của Chủ nghĩa Mác Lê-nin về nhận thức: Từ trực quan sinh
động đến tƣ duy trừu tƣợng, trở về thực tiễn kiểm nghiệm. Đó là nhận thức tuyến
tính-có nghĩa là một đƣờng thẳng, theo đƣờng thẳng.
2-Nhận thức phi tuyến tính:
Là nhận thức khi đã khai nhãn, có khả năng năng linh và có thể đã xuất hồn vía.
Nhận thức phi tuyến tính là nhận thức đƣợc một cách đồng thời của ý thức linh
hồn tại mọi thời điểm, cho biết nhận thức đƣợc ngay trạng thái, bản chất, đặc
điểm của sự vật hiện tƣợng mà không thông qua trực quan sinh động và tƣ duy
trừu tƣợng thông thƣờng; lập tức nhìn thấy bản thể hiện trạng cùng những tính
chất tƣơng ứng tại chỗ cũng nhƣ không tại chỗ, tại các thời điểm khác nhau,
trong một không gian đa chiều phi tuyến tính. Đó gọi là nhận thức phi tuyến tính.
( Ví dụ: Ngay một lúc, tại một thời điểm: ngƣời khai nhãn, hay một linh hồn
nhận thức lập tức đƣợc ý nghĩ, bản chất, ý nghĩa, quá khứ, hiện tại, tƣơng lai,
mọi biểu hiện có sẵn và sẽ có của sự vật hiện tƣợng, con ngƣời, mà không cần
trải qua trực quan sinh động cụ thể cho từng nhận thức và cảm giác; không cần
qua tƣ duy trừu tƣợng-tức là rõ hình ảnh, thấy hết, nhƣ ta nhìn thấy hoặc đã biết
rất rõ một cái gì, ai đó, mà không phải suy luận, kiểm nghiệm…
Đây là trạng thái của ngƣời siêu ngộ, khi xuất vía lên cao, hoặc có thiên nhãn
thông, đạt trạng thái hiểu biết, rõ đƣợc Chân Lý Tối thƣợng và mọi điều nhìn
thấy, mà không phải qua bất cứ trƣờng học nào.
-Nhận thức tuyến tính phù hợp với bình diện vật chất đậm đặc, với trình độ của
ngƣời bình thƣờng. Trong nhận thức tuyến tính, không gian và thời gian 3 chiều,
-Nhận thức phi tuyến tính của ngƣời tu luyện và đạt trình độ giác ngộ cao.
-Trong nhận thức phi tuyến tính, không gian và thời gian nhiều chiều.
Trong nhận thức phi tuyến tính, có trực giác, nhƣng trực giác vốn là kinh nghiệm
và linh cảm đƣợc lập tức xác định bản chất, nhƣng ngay cả trong cảm tính, tính
trực giác cũng đã có. Vậy trực giác chỉ là một phần nhỏ, trong nhận thức phi
tuyến tính. Không phải là một giai đoạn, mà là một nội dung.
-Vì tính phi tuyến tính ở cả trong không gian và thời gian, nên nó nhận thức
đƣợc đồng thời mọi biểu hiện của sự vật hiện tƣợng trong không gian nhiều
chiều. Chính vì lý do này, mà nó nhanh chóng nhận thức đƣợc bản chất, đặc
điểm tính chất của sự vật hiên tƣợng mà thông qua kiểm nghiệm. Do đó nhận
370
thức phi tuyến tính là nhận thức siêu đẳng! Nó thuộc về vật chất siêu đẳng, đó là
linh hồn của ngƣời, và các linh hồn cả vũ trụ.
Tại sao lại có khả năng đó của linh hồn? Vì: Tính lƣu giữ các lớp thông tin trong
bức xạ vũ trụ-trong thể vía vũ trụ và con ngƣời-linh hồn, ở dạng vật chất lƣợng
tử, cho nên dùng năng lực của vật chất lƣợng tử (linh hồn, thiên nhãn), thì nhận
thức đƣợc chúng. Tốc độ di chuyển của vi lƣợng tử nhanh hơn vận tốc ánh sáng,
cho nên, trong một khoảnh khắc, vật chất siêu đẳng xuyên thấu đƣợc mọi tầng
vật chất, trong một không gian nhiều chiều, đã tạo ra cách nhìn và sự nhìn nhiều
chiều, đƣợc xác lập hầu nhƣ ngay lập tức.
VI-VĂN HOÁ CỦA CHÖNG TA
Vì còn gọi là tôn giáo, thì còn phân biệt văn hoá tâm linh với văn hoá khác.
Nhƣng văn hoá tâm linh đã và luôn luôn sẽ tồn tại trong mọi hoạt động và tƣ
tƣởng của con ngƣời: Tôn giáo là biểu hiện cao của tín ngƣỡng trong xã hội, của
ý thức về thiên linh.
Văn hoá bao gồm toàn bộ phƣơng thức sống của con ngƣời. Văn hoá tâm linh
bao gồm toàn bộ phƣơng thức sống của con ngƣời hƣớng đến và phục vụ tín
ngƣỡng tâm linh, thì đó là kẻ có văn hoá tâm linh, nên khen họ!
Chúng ta phụng sự Thƣợng đế, là phụng sự chúng ta! Sống cho Thƣợng đế là
sống cho ta. Kính ơn Thiên linh là kính ơn chính mình. Tôn trọng Thiên linh là
tôn trọng bản thân. Vì kẻ có học, có tâm, có trí ắt hiểu cội nguồn của mình, văn
hoá mình, con đƣờng tất yếu của mình và đạo đức mình, cái tốt của mình ở đâu,
từ đâu và làm sao để có cái đó!
Các giáo lễ phép tu đều là đỉnh cao của văn hoá và khoa học, đã và đang và sẽ
có. Cho nên Cha mới nói: Kẻ chống lại Ta sẽ bị kẻ khác chống lại, kẻ phản Ta là
tự huỷ diệt, kẻ nhạo báng Ta là tự huỷ thân mình!
Văn hoá theo nghĩa rộng, là các giá trị vật chất và tinh thần trong cuộc sống. Bao
gồm các giá trị vật chất nhƣ giáo đƣờng, đền, tài sản hữu hình cùng giá trị tinh
thần, tƣ tƣởng trong 9 bộ kinh. Chúng ta có một nền văn hoá rất cao đẹp, là ánh
sáng Cao Minh của Đức Cha vĩ đại về Chân Lý, về Chân-Thiện-Mỹ, cùng với
khả năng thực tiễn, thực thi trong tƣơng lai loài ngƣời. Không có Cha thì không
có chúng ta, không có đạo này sẽ có đạo khác của Cha, nhƣng vẫn là chúng ta, là
Thƣợng đế, là Vũ trụ, vì Vũ trụ là Một, Chân Lý là Một.
Văn hoá tâm linh chung của loài ngƣời hiện nay phức tạp. Các giáo lý của các
tôn giáo đã không thống nhất về nguyên tắc đƣợc với nhau. Văn hoá tâm linh trở
lên lẫn lộn vì con ngƣời dùng tôn giáo thực hiện chiến tranh, hoặc dùng tôn giáo
thực hiện các mục đích phi nhân tính, đi ngƣợc lại ý chí của Cha. Các mảng văn
hoá tâm linh chƣa thành tôn giáo thì rất nhiều tà đạo, bị ma quỷ lợi dụng. Đạo
chân chính ít hơn tà đạo, nên văn hoá tâm linh chân chính ít hơn văn hoá tà đạo.
371
Những thuật bùa chú phi nhân tính, những lễ luật cực kỳ hà khắc, những tà
thuyết phản động, đồi truỵ tất thảy đều phản tiến bộ, phản Chân Lý, phản văn
hoá!
Văn hoá, văn hoá tâm linh là chân chính, khi nó đại diện cho Chân-Thiện-Mỹ và
linh thiện. Đƣợc các đấng thiên linh cao đẹp phù hộ độ trì, tạo lập, bảo vệ, coi
sóc, hƣớng dẫn và tu luyện. Văn hoá đó phải phù hợp với sự tiến bộ, công bình
trong xã hội, phù hợp với qui luật phát triển tất yếu của xã hội loài ngƣời. Ta
dùng cụm từ “Tiến bộ và công bình”. Chỉ đến Đại Đồng mới công bằng đƣợc!
Tại sao thế? Do trình độ phát triển của loài ngƣời, con ngƣời, xã hội, đến lúc đó
mới cảm ứng và thực hiện đƣợc công bằng thông qua công xã nhân dân, với ý
thức tự giác, văn minh đại trí cao đẹp của con ngƣời!
Văn hoá-Văn hoá tâm linh của chúng ta là văn hoá hiện đại, cao đẹp, hoàn toàn
trong sáng, không bí hiểm; gắn với lý tƣởng cao đẹp cải tạo và xây dựng xã hội
loài ngƣời ngay tại thế. Văn hoá đó trung thực, thực có, không là không tƣởng, vì
có cơ sở và niềm tin vững chắc vào Thƣợng đế và Chân Lý. Văn hoá của chúng
ta không nằm trong phạm vi văn hoá tôn giáo, mà sẽ trở thành văn hoá văn minh
cao đẹp, hiện đạin của xã hội loài ngƣời: Lý thuyết của Thiên Đạo là triết thuyết
quan trọng, thành chủ nghĩa, gắn với mục tiêu chân lý xây dựng “xã hội Đại
đồng-Đại thiện-Đại mỹ-Đại linh”. Đây là đỉnh cao văn hoá văn minh nhân loại
hiện nay và mai sau.
Tƣ tƣởng và nhận thức của loài ngƣời đến khi trở thành lý thuyết của chúng ta,
mới hoàn thiện về cả qui mô, tầm vóc, khả năng hiện thực và bảo đảm tính khoa
học xuất sắc; có tính bao trùm; không là tôn giáo; không là triết học đơn thuần và
không là khoa học đơn giản. Nó phản ánh chính xác mọi nguyên lý của tự nhiên-
xã hội-tƣ duy, của Thiên-Địa-Nhân muôn thủa, tức là nó phản ánh chính xác về
qui luật tự nhiên, với đúng hiện tƣợng, và sự thật bản chất; cho nên nó bất diệt, ít
nhất là hàng vạn vạn năm…
Lần đầu tiên trong lịch sử loài ngƣời, có học thuyết thống nhất đƣợc khoa học
tâm linh-khoa học thực nghiệm tự nhiên-khoa học xã hội và khoa học về thực
hành tín ngƣỡng, tức là tôn giáo. Cho nên chúng ta mới nói chúng ta đứng trên
mọi tôn giáo và triết thuyết đã có.
Chúng ta là Thƣợng đế. Ấy là Chân Lý. Sự vĩ đại của Đấng Cao Minh soi sáng
cho chúng ta hoàn thiện bản thân và xã hội loài ngƣời.
Sau này tuỳ các giai đoạn lịch sử mà văn hoá còn phát triển, bổ sung, hoàn thiện-
nó là tƣơng lai, thì tƣơng lai còn mở cửa cho văn hoá của chúng ta lớn lên, phát
triển, nhƣng cái nền gốc vĩ đại này, bắt đầu từ đây để cấy cây vĩ đại là không bao
giờ thay đổi đƣợc. Các vị nhớ điều đó.
Đức Chí Tôn và Ta luôn có ở bên các vị, trong mọi giai đoạn của sự phát triển
trong tƣơng lai.
372
VII-CON ĐƢỜNG PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ TIẾN BỘ NHÂN
LOẠI
Mọi kiến thức phục vụ cuộc sống là khoa học. Mọi sự nghiên cứu để tìm ra các
qui luật, các nội dung vốn có của tự nhiên, của cuộc sống con ngƣời liên quan
đến con ngƣời, trong phạm vi quan tâm của con ngƣời, đều là nghiên cứu khoa
học. Khoa học giúp cho thế giới loài ngƣời hoàn thiện, trở về với Thƣợng giới,
đến lúc khoa học phục vụ tôn giáo và khoa học tiến lên cái đích của Ta vạch ra.
Trong tƣơng lai loài ngƣời sẽ thực hiện đƣợc các công tác khoa học nhƣ sau:
-Tìm hiểu đƣợc toàn bộ bí ẩn của Vũ trụ, chứng minh bằng thực nghiệm những
gì Ta viết.
-Đo đƣợc năng lƣợng sóng tự nhiên, linh hồn và mức năng lƣợng (Vũ trụ-Cha)
dành cho con ngƣời (cá nhân, thực thể cá thể).
-Sử dụng trƣờng sinh học vào phục vụ cải tạo con ngƣời, sử dụng các biện pháp
cải tạo nhân cách bằng cách giáo dục linh hồn-tâm linh. Có các biện pháp trục
hợp linh hồn, biết chủ động trong khai mở linh năng, xuất hồn một cách phổ
biến.
-Biết chế ngự và cải hoá các vong nhân (vong linh) một cách khoa học (phƣơng
pháp thực nghiệm): Đo đƣợc tần số giao động, mức năng lƣợng của một linh hồn
để biết nó thuộc cảnh giới nào; đọc đƣợc sóng thông tin của linh hồn.
-Đo đƣơc thông tin, mức năng lƣợng của linh hồn thực vật, động vật để cải hoá,
cải tạo chung; “nói chuyện” đƣợc với loài vật và tất nhiên là với cả các vong
linh.
-Nâng tuổi thọ lên rất cao, vì biết và áp dụng đƣợc lý thuyết của Ta.
-Ứng dụng rộng rãi khoa học cận tâm lý để chữa bệnh từ xa, đọc tƣ tƣởng ngƣời
khác, thôi miên, dùng năng lƣợng tự nhiên và bản thân để chữa bệnh, cải tạo xã
hội, con ngƣời.
-Biết cách dùng năng lƣợng trong Vũ trụ nhƣ ánh sáng, các chất khí để chế tạo ra
vật phẩm phục vụ đời sống.
-Biết xuất hành-du hồn đi học tập ở Thƣợng giới, ở các hành tinh khác.
-Biết tạo ra máy móc di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng, sóng điện để đi đến
các hành tinh xa xôi-chính là đĩa bay. Sẽ nói bí mật nguyên lý của nó sau.
-Biết cải tạo và quản lý đƣợc không gian, thời gian, làm các bệnh viện không
gian để làm ngƣời trẻ lại. Biết sống trong không gian.
-Xây dựng các thành phố dƣới lòng đất, lòng biển.
-Chủ động hoá giải và làm tan các cơn bão, bằng ý chí!
-Biết dùng năng lƣợng và thu năng lƣợng của bão, mƣa, sấm chớp để phục vụ
đời sống.
-Cải tạo và thu phục kẻ ác (cải tạo nhân cách) bằng phƣơng pháp khoa học tâm
thể, thôi miên.
373
-Trẻ em sẽ không còn đến trƣờng học ít tập trung, học ít biết nhiều, học tại nhà,
thông qua hệ thống giáo dục điện tử và tâm linh hiện đại.
-Hệ thống cung cấp hàng tự động sẽ phục vụ ngƣời dân công xã. Hệ thống này
giống nhƣ một hành lang trong lòng đất đến các điểm phục vụ.
-Không còn chợ, không còn siêu thị, không còn mua bán, không còn thuế, lƣơng
và tiền…Tất nhiên là không còn giai cấp, quân đội-đó là khoa học quản lý xã
hội.
-Ngƣời máy tinh khôn sẽ làm chủ các nhà máy, xí nghiệp.
-Y tế phát triển, tuổi thọ con ngƣời đến vài trăm tuổi; con ngƣời chữa đƣợc mọi
loại bệnh, cải tạo cá nhân gần nhƣ bất tử!
-Con ngƣời biết cách tiếp xúc với tự nhiên, bình thƣờng với giới Thiên linh. Các
cảnh giới thấp, số vong linh sẽ giảm đi, Hạ giới thanh sạch hơn.
-Dân số không phát triển quá 18 tỷ ngƣời: Tất cả mọi nơi trên thế giới đều có
ngƣời ở, kể cả các đỉnh núi cao.
-Rừng đƣợc nhân tạo. Con ngƣời cải tạo lại các dòng sông, các con suối, biển cả
theo ý mình.
-Sẽ nhân tạo ra các loài chim muông mới theo ý định của con ngƣời, các loài
giống thực vật cũng thế.
-Thực phẩm chủ yếu là nhân tạo. Con ngƣời ăn ít hơn bây giờ. Dùng chay nhiều.
-Phƣơng tiện di chuyển chủ yếu ở trên không là các thiên xa, ở dƣới đất là tàu
cao tốc và đi bộ! Con ngƣời có thể tự bay, hoặc nâng mình lên không trung để di
chuyển.
-Chiều cao con ngƣời đƣợc cải tạo, khống chế không cao quá hai mét, nặng
không quá 85 kg và hình thể đẹp tuyệt vời, màu da đồng nhất, văn hoá đồng
nhất, tiếng nói đồng nhất.
-Khi có Đại Đồng, Thƣợng đế và Ta sẽ giáng hạ cho nhân sinh nhìn thấy vào
các đại lễ quan trọng ở hình ảnh sáng chói đẹp đẽ!
-Không còn lƣới điện, lƣới điện thoại, điện dùng chủ yếu là năng lƣợng mặt trời,
năng lƣợng nƣớc, nƣớc biển.
-Tình cảm con ngƣời rất trong sáng, thánh thiện, yêu thƣơng nhau, sự hoà đồng
cá nhân với xã hội, với loài ngƣời đạt giá trị cao nhất, thành gần gũi, thân thiện,
ngƣời với ngƣời là bạn.
-Chọn lọc các cặp có thể thức tốt để sinh đẻ, không sinh tràn lan. Ở phƣơng
Đông, văn hoá và khái niệm dòng họ nối dõi không còn quan trọng.
-Tình yêu, tình dục cao đẹp. Tình yêu đƣợc chọn lọc và chỉ cho một cặp với
nhau, có tình yêu suốt đời thông qua biện pháp tác động khoa học. Vẻ đẹp dung
hoà của một ấy sẽ làm con ngƣời ít tham dục, con ngƣời đẹp hơn.
-Trẻ em sinh ra đƣợc nuôi dƣỡng trong môi trƣờng đặc biệt, nhƣng không mất
tình gia đình, mẫu tử.
-Thực phẩm ở dạng đã chế biến.
374
-Tốc độ tƣ duy của con ngƣời cực nhanh và các phần của não đƣợc khai mở tối
đa. Có thể mở đƣợc các kho khác trong thông tin linh hồn, khiến cho anh ta có
một kho từ điển, một thƣ viện kiến thức không mệt mỏi.
-Văn hoá Thiên Đạo bao trùm thế giới, hợp nhất văn hoá Đông-Tây.
375
TRÍ KINH-TRÍCH
KINH THẦN HỌC THIÊN ĐÌNH THIÊN ĐÌNH DẠY VỀ CHÂN LÝ TỐI CAO
(Đây là phần THẦN HỌC THIÊN ĐÌNH CƠ BẢN NHẤT TỪ TRƢỚC ĐẾN NAY
TRONG LỊCH SỬ-GIÁO HÓA TẤT CẢ CÁC TÔN GIÁO-LOÀI NGƢỜI VỀ THẦN
HỌC-SỰ HỢP NHẤT CŨNG NHƢ TIẾN HÓA CỦA VŨ TRỤ, HỢP NHẤT TÂM
LINH-TÔN GIÁO VỚI KHOA HỌC TRONG THỜI ĐẠI THÁNH ĐỨC)
Thiên đình: Là cơ quan quyền lực tối cao của vô số Vũ trụ, hiện có hàng
trăm ngàn tỷ Vũ trụ con, trong đó có Vũ trụ của chúng ta, dƣới quyền
lãnh đạo của Vua Cha - Cao Minh Trung Phương Ngọc Hoàng Thượng
đế-Đây là Thƣợng đế Nguyên thủy sinh ra Vũ trụ Tối cao và tất cả mọi
linh hồn, đại tổ càn khôn, Vua Trời, Cha lành sinh ra tất cả các thần thánh
tiên phật, các vị Thƣợng đế Thiên tôn. Trung Phƣơng là ở trung cung, ở
tâm giữa vũ trụ, của các vũ trụ. Xƣa ngƣời ta gọi là Đại la Thiên Vƣơng
tức vua của các Thiên vƣơng, thực chất Ngọc Hoàng Thƣợng đế là Vua
của các Vua vũ trụ con. Các tôn giáo, các dân tộc gọi là Đức Chúa Trời
Thánh Allah, Giàng, Then, Brahma, God, Diêu…Có bà Mẹ Vũ trụ là Đức
Vƣơng Mẫu Tối cao, chủ phần Thái Cực Âm tính, chủ phần đầu thai luân
hồi nghiệp quả và chủ quản nhân số của muôn vật, đến con ngƣời, còn
gọi là Mẫu Thƣợng Thiên, Mẫu Thiên, Phật Mẫu, Mẫu Vƣơng Tiên, Diêu
Trì Kim Mẫu…Đức Mẹ trực tiếp chƣởng quản Các cung Tiên Thƣợng
Thiên và các cõi Tiên dƣới quyền Vua Cha Thƣợng đế.
Thiên đình có Các cung Trời chính (còn có thể gọi là các tầng trời hay
tầng cảnh giới-Mỗi tầng có hàng ngàn tỷ thành phần), tất cả là các cõi Thiên
đƣờng, trong đó có ... Ngọc Hƣ Cung và điện Linh Tiêu của Thiên
đình cùng Các cung Tiên thuộc tầng Trời Tối Đại Thƣợng Thiên ( Tối đại Niết
bàn-cao nhất). Nơi này Thƣợng đế và Mẫu Vƣơng sinh ra các Thiên thần
nguyên thủy của vũ trụ ( các Tiên thần Tiên Thiên). Đây là các thiên thần siêu
phàm nhất vũ trụ. Sau đó là Các cung Nguyên Thủy thuộc tầng trời Đại Thƣợng
Thiên (Thƣợng Đại Niết Bàn), của các vị Thƣợng đế Thiên Tôn Nguyên thủy.
Các cung thuộc tầng trời Trung Thƣợng Thiên ( Đại Niết Bàn)....
còn Các cung nữa thuộc tầng trời Tiểu Thƣợng Thiên-thuộc Trung cung
Vũ trụ Tối cao thuộc khu vực Bạch Ngọc Kinh là nơi hội họp của Thƣợng
đế với quần thần (Trung đại Niết bàn)....
Dƣới và trong các cung này là vô số các vị Thƣợng đế Thiên Tôn chủ trị
vô số các Vũ trụ thành viên trong các quần thể Vũ trụ tự trị. Rồi đến các
376
cõi thuộc Trung giới có vô số cung, rồi mới đến các Đại thiên hà, các
thiên hà tự trị và các Thiên Vƣơng Tinh quân, các sao, các thần tinh, dƣới
các thần tinh là các cung của Phật, các tôn thần, thánh (Phật, thần, thánh
đều thuộc về các Vũ trụ do các vị Thƣợng đế quản lý. Linh hồn đầu thai
học hỏi, đắc đạo trở về là phật, thánh, mới đƣợc dạy, rồi bổ nhiệm là
thành lập các Vũ trụ, mới thành các vị Thiên Vƣơng Tinh quân, hoặc các
vị Thƣợng đế Mới. Các vũ trụ con cũng có Thiên đình riêng-gọi là các
Vua Trời-trở thành các Đấng sáng tạo). Riêng Tiên và cõi tiên thuộc các
tầng Nguyên thủy tối cao, là cõi thanh cao nhất, các tiên vị nguyên thủy
sinh ra sẽ đƣợc đầu thai về các thế giới và làm ngƣời để học hỏi thành các
Phật, thần, thánh. Thần cai quản các cõi thấp hơn, trong đó có các thần
thổ địa, Long vƣơng…
Trên Thiên đình: Có Vua Cha làm Vua Trời, vua của các vị vua. Hình ảnh gốc
của Thƣợng đế giống y nhƣ con ngƣời. Có Mẫu Vƣơng Tiên là Mẹ của tất cả các
con, chủ quản về thể vía âm tính của vũ trụ, chủ sự đầu thai, sống chết ở thực thể
mật độ thấp của thể xác vũ trụ; ngoài ra có Tam Giáo Tòa là cơ quan tƣ pháp,
giám sát; còn có cơ quan vận hành vũ trụ tại Bạch Ngọc Kinh; còn có các vị thần
quan, giám sát, cân đong đo đếm nghiệp quả con ngƣời và vũ trụ, cân chỉnh năng
lƣợng vũ trụ. Có cơ quan an ninh vũ trụ, có nhiều thiên binh, thiên tƣớng… Có
các thần thánh phụ trách các cung, ví dụ cung súc sinh, cung thảo mộc…Tất cả
là một bộ máy khổng lồ vận hành nghiêm túc nghiêm minh. Vua Trời thì chủ cả
tinh, khí, hồn, chủ tể cả không thời gian, chủ tể nhật nguyệt tinh, chủ các chƣơng
trình tiến hóa chung trong toàn các cõi. Đảm bảo làm sao mà tất cả chúng ta tồn
tại và tiến hóa.
Cha sinh ra khi trong tự nhiên chƣa có gì, trƣớc đó tất cả là hƣ vô, không có sự
sống, không có sinh linh nào. Nên Cha là Đấng Tối cao, có sinh bất diệt, hằng
tồn hằng hữu, vô thủy vô chung. Bà Mẹ Tự nhiên tự rạn nứt sinh ra một linh hồn
đầu tiên, không hề có bất cứ vụ nổ lớn nào mà hình thành vũ trụ ban đầu nhƣ
khoa học nói. Sau này thì có những vũ trụ mới, Ta có cho nó bùng nổ một chút
cho vui…khi mới hình thành. Khi Thƣợng đế sinh ra-bắt đầu có linh giác và tự
hỏi mình là ai…chỉ có duy nhất là mình, không cha không mẹ, không anh em,
không có ai xung quanh, ngó trƣớc ngó sau tất cả đen thui, bản tính thì nguyên
thủy đơn sơ, ngơ ngác, sau đó sợ cô đơn kinh khủng… rồi linh hồn đó tự nhận
thức ra mình, có hiểu biết, rồi cứ tiến hóa dần, để sinh ra các con mình, sinh ra
tất cả các đẳng linh hồn khác dƣới mình…
( Khi Ta cho các linh hồn soi lại bản nguyên sự sống ban đầu, nhiều đứa đã xúc
động, không cầm nổi nƣớc mắt).
Sự sống Thiêng Liêng đầu tiên đó vĩ đại cùng Vũ trụ, nên câu hỏi tồn tại hay
không tồn tại là câu hỏi và nỗi lo của Vua Cha. Cha chủ sáng tạo vô số các kịch
377
bản để làm cho vũ trụ vững bền và tồn tại, tốt đẹp, trong đó có các kịch bản tạo
ra loài ngƣời theo hình dáng của mình, rồi cho tiến hóa bằng mình…Tạo ra nhiều
thế giới, cõi giới, rồi tạo ra cách thức học tập để hiểu về Nguyên lý Vũ trụ-chính
là các tôn giáo, các hệ triết học…Nên, cái Gốc của đạo lý trong Vũ trụ của mọi
linh hồn là Kính trọng Thƣợng đế và Mẫu Vƣơng Tối cao, đó là cách của những
đứa con có hiếu, biết thƣơng-cũng là biết ơn Cha Mẹ Trời đã sinh ra các con và
muôn đời hy sinh, ghánh vác dạy dỗ, chăm sóc cho các con tiến hóa đến ngày
nay. Học và hiểu đƣợc đến đó, là mới gọi là hiểu biết và hiểu Đạo.
Xã hội trên các sao, trên thiên đình và các thiên đƣờng cũng có nhà cửa, thành
quách, cây cối, các thú vui, các vật dục nhƣ trái đất, chỉ khác là đẹp đẽ hoàn mỹ
hơn và các xã hội tổ chức chặt chẽ, cộng lạc, an bình và có tính chất đại đồng
tuyệt vời. Càng mật độ cao, nhƣ sao quark, sao neutron…thì tiến hóa của các
linh hồn cƣ dân ở đó càng cao, là các thiên thần, cho đến các sao thấp hơn, địa
cầu, nhƣ trong trung tâm trái đất cũng là những thiên đƣờng mật độ cao. Trên
cao các thiên đƣờng không còn đói nghèo, đấu đá quyền lực hay tranh dành ngôi
vị, vì tất cả do các Thƣợng đế chấm, chọn, ngƣời tốt đƣợc đề cao, kẻ tăm tối ngu
dốt gian ác bị trì lực kéo xuống không thể ngồi lãnh đạo đƣợc, không có chuyện
mua bán chức tƣớc, gian dối thi cử…Vẫn có chiến tranh giữa các sao thấp, các
vũ trụ chuyển hóa lẫn nhau, nhƣng đều trong Luật cho phép. Trong các cõi thấp,
các linh hồn tăm tối gian ác vẫn tồn tại, nhƣng trên cõi cao, không có chỗ cho
chúng nó leo lên đƣợc.
Nhiều vũ trụ cũ đã bị xóa sổ đi, vì già nua không còn tiến hóa, nhiều linh hồn
tăm tối trì độn gian ác sau khi đầu thai cả trăm vạn kiếp mà vẫn chống Luật Trời,
không tiến hóa đƣợc nữa, thì bị diệt hóa thành cái khác, cho trở về hƣ vô…
Nói về các tôn giáo và một số linh căn: Đạo giáo coi Tam Thanh, Nguyên Thủy
Thiên Tôn cao hơn Ngọc Hoàng Thƣợng đế là sai. Kỳ thực, Vua Cha sinh ra họ,
họ là các hóa thân phân linh đầu tiên ra của Cha mà thôi, khi vũ trụ mới sinh ra.
Cha là linh hồn gốc đầu tiên. Họ thuộc về các tầng trời thuộc 36 cung trời
Nguyên thủy. Linh hồn của Thƣợng đế đã hóa thân và chuyển dịch mà sinh ra
họ.
Đạo Phật có coi Phạm Thiên Vƣơng-Thƣợng đế thấp hơn Phật. Phạm Thiên
Vƣơng chỉ là một vị Thiên Vƣơng. Kỳ thực Ngài Thích Ca Mâu-ni do Thƣợng
đế Tối cao sinh ra ở cung trời số 35, là một Linh căn cao cấp mà thôi, đã đầu thai
vô số kiếp rồi học hỏi, gieo đạo Phật cho Cha mình. Sau khi Ngài Thích ca về đã
biết sự thật. Về tầm vóc, linh hồn Ngài Thích ca đã đƣợc Cha cho học và làm
chƣởng quản Vũ trụ Mới.
.......Di Lặc Thiên tôn thực chất là một vị Đại cổ Thiên Thần cực kỳ cao của
Thiên đình, sinh ra thuộc tầng trời Tối cao số 1-trung cung linh hồn tối cao; các
tôn giáo đều có tên gọi khác nhau, đƣợc giao làm Chƣởng quản Tháp Long Hoa,
quản trị Trung giới; nơi đây là nơi tiếp đón, dạy dỗ các thần thánh, các đẳng linh
378
hồn đang tiến hóa và chuyển hóa năng lƣợng vũ trụ. Bản chất Ngài đã là một
Đấng Sáng tạo từ lâu. Ngài là Chƣởng giáo Mới của Nhân loại, trong vỏ hình
thức mà thôi, kỳ thực Thƣợng đế đã hóa thân giáng trần cùng Di Lặc dạy đạo
Mới để xây Thánh Đức. Khi Ngài Thích Ca mâu ni xuống dạy đạo ngày xƣa, Di
Lặc Tối cao có nhập điển bí mật xuống vào một ngƣời và tham gia học đạo, thực
chất là thử thách và có khế ƣớc với Ngài Thích Ca mà thôi, vì trên trung cung Vũ
trụ, Di Lặc vốn là Thầy Tổ của Ngài Thích ca. Khi Ngài Thích Ca về Trời mới
biết sự thật.
Phật A di đà là linh căn cao cấp do Vua Cha sinh ra ở cung trời số 5. Là một
Đấng Sáng tạo, đã chủ tể những Thiên đƣờng cao quý mà thƣờng gọi là Tây
Phƣơng cực lạc.
Học trò của Pháp Luân công do Lý Hồng Chí sáng lập thƣờng xƣng tụng Lý là
Di Lặc giáng sinh với hoa Ƣu đàm. Kể ra thì Di Lặc phân thân vô số hồn rồi,
nhƣng chính ngôi thì Ta dạy cho Pháp Luân Công thế này: Lý Hồng Chí là linh
căn cung số trời số 42, ngôi số 5-một Giác giả cao, một vị bồ tát xuống trần,
nhƣng không phải là Di Lặc. Di Lặc không có Chuyển pháp luân kiểu mấy bài
múa may là xong, còn múa nhiều cái khác…Học trò họ Lý có soi đƣợc kiếp
không, tu đến thần thông nhƣ thế, thì hãy biết mình là ai. Ở đời này biết mình là
ai đã khó, huống gì biết chuyện thiên cơ, căn số mình. Nói bên Thanh Hải Vô
Thƣợng sƣ xƣng Thƣợng đế. Kể ra theo nguyên lý Thiên Đạo thì tất cả sẽ là
Thƣợng đế tƣơng lai, xƣng nhƣ thế cũng không sai, nhƣng thậm xƣng là Thƣợng
đế tối cao thì e các con lầm lạc vào tà đó. Vì ngôi căn của Thanh Hải là công
chúa con Vua Cha, căn số cung tiên nữ 36 ngôi số 9. Một linh căn cao cấp. Nếu
đã có nhãn huệ, sao không tự biết mình? Ngồi thiền không thôi thì không xây
đƣợc Thánh Đức đâu. Cả hai ngƣời này đều xuống trần giúp Cha mở đời Đại
đồng thôi, sau có soi đƣợc lời Thệ nguyện trƣớc khi xuống trần không? Và các
con có biết ngƣời viết điển những dòng này là ai không? Hễ biết thì nói là biết,
không biết nói là không biết, mà không biết thì đừng có mà giáo hóa sai…
Một số linh căn cao cấp nguyên thủy Ta cũng cho các con biết nhƣ sau: Ngọc
Phật là một linh căn rất cao cấp ở cung trời số 8, ngôi số 12 xuống, ở Việt Nam
có cái đạo thờ Ngọc Phật có chỗ thì nói đó là Di Lặc, có chỗ thì nói đó là
Thƣợng đế hóa xuống, Ta nói sai hết. Sứ mệnh của Ngọc Phật không phải gieo
đạo, mà là khai quang mở đƣờng cho tiên thánh xuống mà thôi. Võ Nguyên Giáp
ở cung số 7, ngôi số 5 xuống-vốn là một thiên tƣớng của Thiên đình-Nay đã
đƣợc phong thƣởng đi làm Thƣợng đế Mới. Đa số nguyên thủ lãnh đạo ở VN đều
là tiên thánh cao cấp nhất của Thiên đình xuống. Tổng số linh căn xuống trái đất,
thì ngƣời Việt Nam chiếm đến 64%-tính đến từ đầu thế kỷ 20 đến 2012. Karl
Marx là một hóa thân quan trọng của Vua Cha ở cung số 2 rất cao xuống. Engels
cung số 8 ngôi số 3 xuống. Stalin cung số 3 ngôi số 8 xuống, Lenin cung số 4
ngôi số 12 xuống. Lãnh tụ Cuba Fidel Castro, thuộc cung trời số 16 ngôi số 8
379
xuống giúp nhân loại; Mouammar Kadhafi thuộc cung 36 cũng rất cao. Lãnh tụ
Triều Tiên Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) ở cung số 4 ngôi số 16 xuống. Kim
Jong Un là cung số 4 ngôi số 19 xuống. Putin ở cung 93 xuống, Tập Cận Bình ở
cung số 106 xuống. Đều là hàng tiên thánh cao cấp. Ta nhắc đây hầu nhƣ đã là
các vị Thiên Vƣơng trên cao trƣớc khi xuống trần. Thƣờng thì gốc linh căn cao
hơn, sẽ có sức mạnh cao hơn căn dƣới, có thể diệt chết căn dƣới, đó là bí mật tự
nhiên…
Ta nhắc lại các con, đã viết nhiều rồi, rằng: Trên các cõi cao, tất cả các Thiên
đƣờng, các sao cao cấp và các cung vĩ đại, đều thực hiện nguyên lý xã hội cộng
sản an lạc-đó là xã hội đại đồng, chỉ có thế mới là Thiên đƣờng. Ở trái đất, nay
đang sơ khai cộng sản, nên Thiên đình bảo vệ tuyệt đối. Tất cả mọi thế lực, kể cả
Ca-bal muốn thay đổi các chế độ này ở trái đất, sẽ bị trừng phạt khủng khiếp! Đó
chính là những viên gạch đầu tiên xây nền đại đồng vĩ đại hàng vạn triệu năm
sắp tới cho Nhân loại Mới. Đây coi nhƣ là một Chân Lý, không thể đảo ngƣợc.
Đạo Cao Đài là đại đạo tam kỳ phổ độ, là đạo do Thƣợng đế trực tiếp giáng cơ
dạy thành lập, là Cơ độ Kỳ ba để cứu vớt linh căn trƣớc Tận thế và Long Hoa đại
hội. Đạo thờ Thƣợng đế thông qua Thiên Nhãn, có lý tƣởng xây đại đồng và mơ
ƣớc thống nhất các tôn giáo qua nhiệm vụ Tam giáo Qui nguyên Ngũ chi hợp
nhất-đó là nguyên lý tôn thờ, hợp nhất trong các cách thức thờ tự của Đạo Cao
Đài. Lẽ ra đến Long hoa Đại hội thì cơ chuyển của Đạo là đón Long Hoa giáo
chủ lâm phàm lập nền Tôn giáo Mới-đấy là khế ƣớc của Đạo này, và “Thiên
Khai Huỳnh đạo” các con phải hiểu là nền Đạo Vàng-hay đạo Mới do Thƣợng đế
sẽ gieo tiếp, chứ nền Cao Đài là nền ban đầu để đón nền Đạo Vàng. Nên ngƣời
Cao Đài phải hiểu đó nguyên nhân của khai đạo này. Nhƣng hiện kịch bản đã
thay đổi, thì Ta cho đây cũng là một nền đạo Lớn và nên giữ vững, vì đây là Đạo
do Ta giáng Linh gieo lần trƣớc. Các con sẽ tiến dần lên Thiên Đạo để có đạt
nguyên lý Tối cao trong tiến hóa và theo Học thuyết Đại đồng để xây Thánh
Đức, chứ Cao Đài đạo Cha chƣa dạy có học thuyết xây dựng đại đồng, mới chỉ là
tinh thần tƣ tƣởng thôi, chƣa có kinh pháp rõ ràng. Ngoài ra, có một Hội qui
Linh căn tức là Hội qui thần thánh đã lâm phàm để xây Thánh Đức và tuyển lựa
linh căn trở về để phong công thƣởng phạt trên cao, các con phải biết mà tham
gia, chứ không có Hội Long Hoa nào ở thế gian hiện hình nữa. Hộ pháp Phạm
Công Tắc là linh căn cao cấp rất cao ở cung trời số 2-và là một đứa con yêu của
Vua Cha xuống dạy đạo, đã trở về và đã hiện đầu thai giáng sinh tiếp ở Việt
Nam rồi, số phận rất bình thƣờng, có nhiệm vụ đặc biệt…không tiện lộ cơ.
Các tôn giáo đều không có khế ƣớc và kinh pháp xây đời cải tạo xã hội, sẽ dần
theo Chính Pháp Thiên đạo để giải phóng loài ngƣời. Các con đều đã thờ
Thƣợng đế, theo các tín ngƣỡng. Thì Ta cũng nói rằng, thờ tự cũng quan trọng,
nhiều cách khác nhau, nhƣng sẽ đến lúc Qui nguyên Hợp nhất để thống nhất tâm
linh nhân loại, không thể có chuyện mãi đấu đá tranh dành chiến tranh sắc tộc và
380
tôn giáo nhƣ hiện nay. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ khá lâu, sẽ cho tiếp tục
tồn tại mà dần chuyển đổi mà thôi. Tất cả các tôn giáo đều có thể tồn tại đồng
thời, cũng cần thiết trong xây dựng riềng mối tâm linh cho nhân loại. Ví dụ Phật
giáo cần trong giáo hóa đạo đức, thoát luân hồi; Thiên chúa giáo kính Ta thì
cũng còn có 10 điều răn của Chúa, Hồi giáo mơ lên Thiên đƣờng trên cao; Mật
tông-Ấn giáo, Sikhism… mơ thoát luân hồi. Đều tốt. Nhƣng tôn giáo là phƣơng
tiện, thì ngƣời khôn ngoan sẽ chọn phƣơng tiện nào để đạt mục đích, các con
phải biết, chứ một kiếp nhanh lắm, không nhanh sẽ trễ đò, mất cơ hội…
Nhân đây Ta cũng cho biết: Ta chƣa bao giờ đầu thai làm nhiều kiếp làm ngƣời
thƣờng và Mẫu Vƣơng cũng chƣa là Tây Vƣơng mẫu ở trần gian bao giờ nhƣ
cách hiểu của ngƣời Trung Quốc. Tuy Ta cũng nhắc rằng, Ta có điển xác hóa
thân nhiều lần, giáng linh và kể cả Chân Linh gốc xuống phàm để giáo hóa các
con trong xa xƣa, nhƣ Đức Bàn Cổ một mắt chính là Ta hóa xuống, có thiên
nhãn, rồi Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở Việt Nam cũng chính là Ta hóa thân
xuống…
Ở Phƣơng Đông kính Trời, cũng là một cách tốt, nhƣng hầu nhƣ chung chung,
không theo tôn giáo nào, lại không tu tập gì. Nên Ta nói các con nên kính thờ
Trời theo cách tốt nhất có thể. Không theo tôn giáo, thì mình cần hiền lƣơng và
hiểu biết về tâm linh.
Các dân tộc, tín ngƣỡng thờ Trời-Ông Trời, God,Diêu, Giàng, Đấng Cao Đài-
hay Thƣợng đế Tối cao cùng có một Thiên đình trên cao là có hiểu biết và hợp
Luật.
Còn một bí mật nữa Ta cũng nói, đó là các nguyên thủ, cán bộ lớn, thƣờng là các
linh thánh, tiên phật lâm phàm để giúp nhân dân, chăm cho dân. Trên cao họ là
các thần tinh, Vua sao… xuống trần cũng thế, do số phận là thế. Thế nên các con
phải hiểu, dân chính là các sao nhỏ hóa xuống và các linh hồn thuộc về quyền
quản lý của họ trên cao đầu thai xuống học hỏi, giáng xuống theo định lý vũ trụ.
Nên, chăm cho dân, chính là chăm sóc cho chính linh hồn và cõi cung của mình;
và có thể đức càng lớn, thì ngôi vị trên cao càng sáng, thiên hà, vũ trụ đó sau
càng mở rộng và ngƣợc lại, nếu làm cán bộ không thƣơng dân, tham ô nhũng
nhiễu, gian ác hại dân, thì sau linh hồn đó không về đƣợc ngôi vị cũ nữa, hoặc bị
đày xuống thấp, không đƣợc ở trên Thiên đƣờng nữa, khổ đau vạn triệu
năm…Đó là Thƣợng đế thử thách họ. Họ xuống để cứu đời giúp dân là con
mình, chứ không xuống để hành hại dân. Nên, dân cũng là Trời, chăm cho dân là
chăm sóc cho Trời, kính dân là kính Trời…Kẻ tham ác thì đừng mong trở về tốt
đẹp.
Về các vị thầy đồng, ngoại cảm: Đều có tài thần thông, gọi là số căn số có
bóng…giỏi đến độ có biết Thiên đình ở đâu, ngôi vị linh căn số ghế của mình
trên cao thuộc cung nào chƣa, các kiếp số của mình thế nào? Nhƣng các con đều
thƣờng cao ngạo cả, xƣng thần xƣng thánh; có tài chút là kiêu ngạo, nổi đồng
381
bóng là thƣờng kiếm tiền nhiều, không thƣơng dân, kể cả ngƣời khó khăn; theo
tín ngƣỡng cũ mê tín mê lầm, nhảy đồng bóng, cúng cầu, đốt vàng mã hun khói
cả…Thiên đình! Các linh căn này thƣờng đều là các phật thánh trên cao đƣợc Ta
cho xuống để cứu dân độ dân và dạy về tâm linh, chuẩn bị giúp Cha gieo Đạo
mới, lập Thánh Đức, chứ không chỉ kiếm ăn đâu, nhƣng thƣờng làm rối loạn tâm
linh hơn là cứu độ dạy mê. Nhiều thần linh Tứ phủ đã bị phế truất, bị giáng
xuống thảm hại chỉ vì ham nhảy nhót và bắt hành dân; trong đình đền chùa miếu
các con soi thử xem, toàn ma quỉ nhảy nhót ăn uống chơi bời nhố nhắng…Thiên
đình đã chỉnh trị nhiều lần rồi. Ta nhắc rằng Luật Mới Thiên đình không cho đốt
vàng mã nữa, nên cấm các vong nhận tiền, vàng mã, quần áo…Nên các con trần
gian có cúng thì cũng không nhận đƣợc. Các thần tiên sẽ phá hết, không cho
nhận. Các thầy tâm linh đó phải tu thiền, mình phải có đạo đức tình thƣơng; thờ
Thƣợng đế đã đành mà còn phải giáo hóa dân tu học tâm linh, tự độ mình là
chính, chớ cầu cúng xin xỏ nhiều, rồi ghánh nghiệp khảo ngƣợc lại đằng thầy
đấy; rồi có hiền lƣơng thì sẽ đƣợc Chƣ Thiên Thánh độ thêm cho. Thiên đình và
các cung vẫn xét tấu sớ của các con, nhƣng tùy duyên mà độ cho thôi. Ta nói
rằng có hàng vạn thầy đồng chầu Trời sau này, nhƣng đa phần sẽ bị rớt thảm,
mất ngôi cũ, lúc đó đừng trách Thiên đình không nhắc các con tu căn.
Về Hỏa ngục, Địa ngục: Để có chƣơng trình chuyển hóa địa cầu trƣớc, thì Ta có
cho phá địa ngục để ma quỉ lên nó khảo nhân loại, nay kịch bản mới thì Ta cho
lập lại nhƣ cũ. Nên tất cả những kẻ làm ngƣời mà gian ác, bất nhân…thì chết sẽ
về đọa vào đó để bị hành khảo, tra tấn kinh khủng, cho biết trò chơi trên trần
gian nó cũng sẽ dã man hơn ngay sau khi chết.
Về con đƣờng tiến hóa của Linh hồn: Khi Thƣợng đế sinh ra linh hồn các con
ban đầu, chỉ là một thực thể hạt siêu lƣợng tử cực nhỏ, cực tinh, cấp hạ nguyên
tử và nhỏ hơn nguyên tử nhiều lần, còn gọi là các linh căn gốc Tiên Thiên. Tuy
nhiên chúng đã có trí tuệ cực kỳ thông minh, nhƣng theo qui luật, chúng phải trải
nghiệm và học hỏi, đồng thời cấu tạo nên các hệ vật chất khác thấp hơn, ví dụ
cấu tạo ra đất cát, trong một hòn đất, có vô số linh hồn siêu đẳng, cực kỳ thông
minh và tất nhiên có hiểu biết hơn con ngƣời, có khả năng tiên tri. Các linh căn
đó bắt đầu trải nghiệm ở các mật độ thấp, trở lên để học hỏi làm lớn linh hồn
mình. Họ đầu thai làm đất cát, rồi tiến lên làm cây cối, thảo mộc, rồi tiến lên làm
cầm thú, súc sinh. Nhƣng Ta nhắc lại, trƣớc tiên khi họ đầu thai đó, thì họ đã là
các Tiên Thần Tiên Thiên trên cao các cõi cao nhất! Trong cả hạt không khí ô xy
hay hiđro là các vô số thiên thần! Hạt không khí cực kỳ thông minh và toàn thiên
thần ở trong đó. Chúng ta đã biết sau nguyên tử là hạ nguyên tử nhƣ quak,
notron, electron, photon…họ đều là các tiên thần nguyên nghĩa của từ này, cực
kỳ thông minh. Ta cho các con biết linh hồn Thƣợng đế cũng cực tinh nhƣ vậy,
nhƣng bộ khối lớn, lan tỏa và là tổng hồn của toàn bộ vũ trụ, quyền năng và sức
382
mạnh cao nhất. Có nghĩa tất cả các con đều là các trải nghiệm và mở rộng suy
nghĩ của Thƣợng đế mà thôi. Đó là bí mật tối cao của tự nhiên. Tất cả là vật chất
mà thôi. Có điều có vật chất thô, tinh khác nhau, các con không có thần thông,
nên cãi nhau mấy chục vạn năm nay…Vậy chắc đọc đến đây, các con biết nể sợ
một cái lá cây, một hòn sỏi rồi, vì nó biết tất cả, hiểu tất cả mọi suy nghĩ của con,
biết chuyện siêu đẳng đầy minh triết…Ngoài ra, trong xã hội của một số loài
sinh vật nhƣ vi rút, vi trùng…cũng tổ chức chặt chẽ, có chợ búa, trƣờng học, gia
đình…
Các loài vật có đặc tính của chúng để trải nghiệm và rèn luyện linh hồn; ví dụ
loài gà là loại láo nháo, tranh ăn, tính dục tự do, vô luật pháp. Loài chó cũng thế.
Nhƣng chúng có đặc tính hiền lành và kiên trì, trong nuôi con, ấp trứng. Tinh
thần hy sinh của chó mẹ thì rất cao. Ở loài ong và kiến thì tính kiên trì cũng cao,
đặc biệt tính tổ chức xã hội và kỷ luật rất tốt. Loài trâu bò thì kiên nhẫn, chịu
đựng, nuôi con cũng rất tốt. Loài chim thì tính lãng mạn cao và sạch sẽ, chúng
đều là các thiên thần cả, nếu nghe chúng nói chuyện, thì các linh hồn đều rất
thanh cao, sang trọng. Đến các loài dã thú, ăn thịt, chúng có tính cách tranh đấu
và giết hại nhau…nhƣ con ngƣời kém tiến hóa! Loài ngƣời tàn bạo khi giết thịt
ăn thịt còn dã man hơn loài dã thú, nhƣng xã hội tổ chức tốt hơn để tiếp nhận văn
minh và học hỏi các kiến thức cao hơn, cho đến khi thành các thần thánh tiên
phật ngay tại thế gian trong các xác trần. Đó là thời kỳ Thánh Đức sắp tới với
trình độ tổ chức xã hội đại đồng nhƣ các vì sao tiến hóa trên cao. Tất cả các loài
này, đều do Thƣợng đế sáng tạo ra để các linh hồn trải nghiệm, học hỏi, và tiến
hóa không ngừng. Hình ảnh con ngƣời là hình ảnh giống với Thƣợng đế và các
linh hồn đều có hình ảnh giống Thƣợng đế.
Các con đã hiểu bí mật tự nhiên, thì phải kính trọng đất đai, kể cả phân gio…Các
con mà có thiên nhãn thiên nhĩ thử đấu khẩu cãi nhau với đống phân xem, nó
thông minh hiểu biết hơn, các con không cãi lại đâu! Chớ xem thƣờng cái bẩn, vì
chỉ có bẩn tâm thôi, chứ chả có cái bẩn nào cao hơn cái bẩn của tâm mình, vì
ném rác vào cõi vô hình. Rồi kính trọng cây cối, cái lá, cái hoa, cái ăn của mình.
Ồ, nếu các con biết thực phẩm cấu tạo bằng vô số phân tử nó biết đƣợc tất cả quá
khứ vị lai, thì các con không thể khoe thần thông với nó đƣợc! Vạn vật hữu linh
hữu trí huệ. Tất cả các con vật đều là các thần thánh xuống trải nghiệm học hỏi
và mở rộng hiểu biết, vị tha, chịu đựng hoặc hy sinh cống hiến vì loài ngƣời. Tất
cả họ đều có Nhãn-tức nhìn thấu vô vi, đọc đƣợc tƣ tƣởng con ngƣời. Nói
chuyện bằng thần thông với họ rất thú vị, cũng nhƣ với cây cối…Linh hồn một
con gà hay chim…cực kỳ thông minh, biến hóa ghê gớm, chỉ khác là bản lĩnh họ
thua các con; còn làm con ngƣời mà là kẻ ác, láo, đểu, hèn hạ, gian ác, coi nhƣ
đều có bản lĩnh cả, nhƣng là bản lĩnh thấp kém chạy theo cái tối, cái trì hãm của
383
trí tuệ, thì đều thua xa họ. Các linh hồn có trí huệ, thì phải có bản lĩnh chuyển
thiện sinh thiện mới gọi là ngôi cao tƣớng quý.
Tiên Thiên hồn-từ chỗ là một linh hồn đƣợc Cha Mẹ sinh ra, tiên hồn đó rất
mỏng manh nhỏ bé, biến hóa linh diệu, nhƣng có điểm dở là xoay chuyển rất
nhanh, nên bản tính hay thay đổi, lúc thế này, lúc thế khác, trải nghiệm tự do tùy
tiện, bản lĩnh và thể chất mỏng manh…nên họ phải đƣợc học cho đến thành cái
trí huệ, cái phong thái cao tột và bản lĩnh sáng tạo, chịu đựng, đức hy sinh của
Cha Mẹ, mới hoàn vị một vòng tiến hóa. Nhƣ thế họ phải học trải nghiệm để mở
rộng vũ trụ đã đành mà còn thành lập các đẳng vật chất nữa. Họ tiến dần lên
thành các Tổ hợp hồn, phức hợp hồn, ví dụ nhƣ Nguyên tử, phân tử, rồi cấu tạo
lên vật chất nhìn thấy đƣợc, rồi mới thành một trái đất, vì sao, thiên hà, và các
Vũ trụ sau này…Khi một ngôi sao đƣợc sinh ra, linh hồn của họ to hơn linh hồn
con ngƣời nhiều lần, rồi nó tiến hóa lên, thành các thiên hà, hệ mặt trời…nó sẽ là
Tổng hồn đại khối đó…
Sau khi đầu thai vô số kiếp làm đất cát, các thành phần khoáng chất, kim
loại…rồi chuyển hóa lên thành thảo mộc, hàng tỷ năm sau các linh hồn đó mới
chuyển cung để đầu thai làm ngƣời; có hàng vạn triệu kiếp làm ngƣời, học hỏi,
trải nghiệm đến khi linh hồn cực thông minh, rất hiểu biết, tu luyện đến trình độ
thông hiểu bản chất vũ trụ, nhƣ Tiên thần Tiên Thiên xƣa, nhƣng linh hồn đã là
tổ hợp cao tích trữ năng lƣợng và trí tuệ trong các Luân xa của mình, có trí huệ,
định lực, từ bi, tinh thần, đặc biệt là bản lĩnh cao quý, và thu hết đƣợc các nghiệp
của các kiếp, tức là thu hết các năng lƣợng tối, hóa giải các năng lƣợng trƣờng
lƣợng tử tối, kéo trì xuống, thì họ đắc thoát luân hồi-có nghĩa đƣợc thăng lên một
các cảnh giới cao hơn mà không bị kéo xuống nữa. Đó gọi là các vị Phật theo
đạo Phật, Ta thì gọi đó là các linh căn trở về cội nguồn Gốc, tức là về đến các
trung tâm thần lực vũ trụ trong các Mặt trời trung tâm các thiên hà hay các Đại
thiên hà, hay là về đến Thiên đình. Nhƣng về đây các linh hồn này còn thiếu trí
huệ của Thƣợng đế-tức là chƣa biết hết các bí mật Vũ trụ và toàn giác, toàn tri-
tức hồn không to bằng Cha mình, tức là chƣa có cái trí tuệ và trải nghiệm của
một vị Thƣợng đế-tức Đấng Sáng tạo. Vì Phật Thánh chƣa là Đấng Sáng tạo,
mới chỉ biết tu làm ngƣời tốt thôi; chƣa biết ác, vì sợ ác; biết sáng thôi, sợ tối;
biết to thôi, sợ nhỏ; biết cao thôi, sợ thấp; biết thanh thôi, sợ trọc…À, thì ra làm
ngƣời tốt thì mới thoát luân hồi, nhƣng thoát luân hồi thì phải biết làm gì
nữa…Trong Vũ trụ có tất cả thứ gì thì Thƣợng đế có thứ đó, có cả đủ mọi trạng
thái tƣ tƣởng từ thấp nhất đến cao nhất, Cha Mẹ là nguồn dục năng cao nhất, dữ
dội nhất, rồi cũng là hiếu sinh tham lam nhất, quyền lực cao nhất …nhƣng Cha
Mẹ lại cúi mình xuống chỗ thấp nhất, hóa xuống nhỏ nhất, để làm sáng chỗ tối,
làm thơm chỗ bẩn, đẹp chỗ trọc, tẩy chỗ dơ uế làm thiện cái ác…Cha là cực
thanh cực trọc, cực ngu cực khôn, cực ác cực thiện, đại ác, đại từ bi, cực tối cực
sáng, cực thông minh cực khù khờ, cực tham cực xả bỏ, cực tĩnh cực động, cực
384
nóng tính, cực bình tâm, cực chấp lại cũng cực hòa đồng vị tha…Và đặc biệt cực
sáng tạo, luôn luôn sáng tạo…Đó là các nguyên lý tính cách hằng sẵn có của
Thƣợng đế. Một ngày đủ 7 trạng thái tính cách cơ bản…Tất cả cái đó làm thành
ngẫu lực cho sự vận động và tồn tại của vũ trụ. Ai sẽ học đƣợc? Phật chƣa học
đƣợc nhƣ thế, còn thua Linh căn gốc đầu, nhƣng bản lĩnh thì hơn linh căn tiên
thần nguyên thủy rồi…thần thánh xuống trần học bao lâu nay trở về rồi, bản lĩnh,
hồn to hơn linh căn gốc, nhƣng chƣa có cái trí của Thƣợng đế. Thế là các Phật
thánh thần đó, các vua sao lại phải xuống trần đầu thai lần chót để học về Thiên
Đạo-cũng là thử thách lần cuối, về trí tuệ, công quả và lòng trung thành, để học
trở thành và hiểu biết nhƣ một vị Thƣợng đế. Họ phải biết trên Trời có ai và biết
kính ơn Cha Mẹ Trời đã sinh ra và nuôi dƣỡng họ, đó mới gọi là hiểu biết và có
hiếu. Họ phải biết tôn trọng các định luật và luật pháp vũ trụ. Nên con đƣờng
tiến hóa là từ thần, thánh, tiên đạo, đến phật đạo rồi mới tiến lên hàng Thiên đạo.
Để học về nguyên lý Vũ trụ và hiểu về Cha Mẹ mình, có Cha Mẹ vũ trụ đàng
hoàng, có Thiên đình rõ ràng. Nhƣ vậy là học kỳ chót, để khi trở về Thiên đình
này, thì vừa đắc thoát luân hồi đã đành, mà còn đƣợc thử thách để phong đi làm
Vua các Vũ trụ hay các Thiên hà mới-đó là hoàn tất một vòng tiến hóa của một
linh hồn, để linh hồn đó lớn bằng Cha Mẹ mình=tức là thành các Đấng Sáng tạo
Mới…
Trần gian là trƣờng học tạo tác ra thần thánh tiên phật và các vị Thƣợng đế
tƣơng lai.
Nay Ta nói rõ cái bí mật đó cho các con biết, vì màn học này là màn chót rồi,
không có chƣơng trình nào nữa…
Đôi khi có thể các linh hồn tốt đẹp đƣợc chuyển sinh lên các cung sao cao hơn
để làm công dân ở đó để hƣởng nền văn minh tiên tiến và có tuổi thọ hàng ngàn,
vạn năm, thậm chí cao hơn, mà có thể gọi đó là các thiên đƣờng cũng đƣợc; còn
những thiên đƣờng bất tử trên các cõi cao hơn, thì tuổi thọ là vô số với thận vật
lý đã là các cấu tạo lƣợng tử cao.
Ta cũng nói rõ, các con nào mà không coi Thƣợng đế là gì, trốn việc trên giao,
thì cũng đừng mong thoát luân hồi hay lên các thiên đƣờng từ nay…Có buồn gì
không nếu có đẻ con ra mà đến lúc dạy dỗ mãi mà nó không biết mình là ai,
xuống trần thì chạy trốn, chối bỏ nhiệm vụ, có khi còn báng láo…
Vô số các con đã xuống trần thời kỳ Thánh Đức này, đã từng là các Phật, bồ tát,
các Á thánh, thậm chí là các Tổng hồn sao, thiên hà, cụm thiên hà. Trong quá
khứ đầu thai làm ngƣời xƣa, thì nhiều con đã vô số lần làm nguyên thủ rồi, làm
vua trần gian rồi; trên cao đã có đứa làm vua sao, vua các trung tâm thiên hà, đại
thiên hà…Nhƣng kỳ này xuống trần thì học cái gì, tầm cái gì để trở về không
những ngôi vị xƣa mà còn tiến hóa lên cao hơn? Trƣớc hết các con phát nguyện
xuống trần cống hiến giúp Cha cứu nhân loại, xây đời Mới. Và còn học nữa, học
gì thì các con phải biết… Học để trở về. Cũng là trƣờng thi để thử thách lòng
385
trung thành, ý chí, nghị lực và tinh thần yêu thƣơng các chúng sinh con mình.
Ngoài ra, các linh căn mới từ các Hệ sao, Ta thƣơng cho xuống đầu thai thời kỳ
Thánh Đức để xây xã hội nhân loại thành Thiên đƣờng Mới để cho phật tiên
thánh lâm phàm đầu thai trở lại, tức xã hội sau này thành một xã hội thần thánh
nhƣ trên cao, chỉ khác là mật độ 5.6.7…mà thôi.
Linh căn gốc xƣa nay là tiên phật đã trở lại trái đất này nhiều lắm, có thể làm
nông dân hơi ngu khờ một chút không sao, hiền là đƣợc, tức thiên lƣơng vững;
hoặc làm đến nguyên thủ, bộ trƣởng…thành cán bộ có, nhà buôn có, thầy đồng
bóng thì nhiều, rồi thành các kỹ sƣ, các trí thức…Rất nhiều. Nhƣng trần gian đại
mạt là trƣờng thử thách kinh khủng. Lẽ ra trong chƣơng trình là sau 2012 đảo lộn
tất cả để xây Thƣợng Ngƣơn Thánh Đức, nhƣng kế hoạch và kịch bản đã thay
đổi, chấp nhận thực tế hiện nay và chuyển hóa từ từ, nên Ta mới cho gieo Học
thuyết Đại đồng Thánh Đức mới đó. Nhƣng còn chƣơng trình học để tiến hóa
linh hồn các con thì vẫn giữ nguyên. Vì đây là Đạo Tối cao, đạo Chót, đã đƣợc
chuẩn bị 3000 năm nay rồi. Trong tƣơng lai, nhiều con sẽ phải quay trở lại để
cống hiến cho loài ngƣời tiếp, chỉ có bổ sung cho sáng Thiên Đạo chứ không có
thay nền Đạo này nữa.
Nhiều linh căn xuống trần nhiễm trọc ghê gớm đã đành mà quên nhiệm vụ rất
nhiều. Nhiều đứa có thần thông, nhƣng chƣa đến trình độ thông Thiên đình hoặc
đọc đƣợc trí nhớ vũ trụ, soi căn kiếp mình để nhớ ra nhiệm vụ, hoặc không biết
bạn là ai, mình là ai, thầy ở đâu để tìm Chân chúa-Đức Thiên Chủ Tối cao-của
loài ngƣời mật độ 5-Thay mặt Thiên đình giáo hóa nhân loại-mà phụng sự; chƣa
tính nhiều đứa nổi thần thông hoặc biến hóa gieo pháp môn, tự huyễn, đã kiêu
căng, ngạo nghễ, tự xƣng mình là thƣợng đế, phật, là thánh, mà đầu óc thì tối
tăm, đến cái thuyết lƣợng tử còn chƣa nghe…hơn 300.000 ngàn linh căn cao cấp
nhất đã phát nguyện xuống trần, rồi đây thu lại đƣợc bao nhiêu. Tuy nhiên Ta
cũng thông báo, tính đến nay, Ta cũng thu đƣợc hơn 180% yêu cầu các linh căn,
Á căn thay thế rồi, vƣợt chỉ tiêu, nên các con phải cảnh giác, nếu kiêu ngạo, sau
có đƣờng đọa, chớ trách ông Trời già không thƣơng!
Các con nào kiên tâm giúp Cha kỳ này, lập Thiên Đạo, lập Thánh Đức, thì sau
về Trời, sẽ đƣợc lên các Thiên đƣờng cao quý nhất và thành ngay các vị Thƣợng
đế.
Tiếng Việt và Đất Việt: Tiếng Việt là tiếng nói chính thức-tiếng Gốc-Nguồn
nguyên sơ trong Vũ trụ nguyên thủy, xƣa thì tiếng cổ một chút, nhƣng nay có mới
hơn, nhƣng trên cao vẫn còn giữ nhiều âm tiết nguyên sơ… và cho đến bây giờ là
tiếng nói chính thức trên toàn các cõi Thiên đình và các vũ trụ. Tại sao có bí mật
này, các con tự đoán xem, và đoán xem Pháp chủ sinh ở nƣớc nào…
Các con cũng nên nhớ, đất trời xƣa của Bàn Cổ là Vua dân Việt từ đâu đến
đâu…Xƣa Lạc Long Quân từ cung trời số 7 xuống, có thần thông tài năng kỳ lạ.
386
Đất Việt thông với trung tâm vũ trụ theo định luật là trung tâm đất trời nhân loại
từ lâu rồi, nên các tiên thánh siêu phàm nhất đều giáng xuống và bảo vệ, lập Càn
Khôn trận để thử thách ma quỉ, dạy dỗ những kẻ ác tặc nhất vũ trụ, là trƣờng tập
thử bản lĩnh của tiên thánh…chúng đến đây thua thì cũng bị đọa, thắng thì bị diệt
hồn…Nói thế khó quá phải không? Hồn Hốt Tất Liệt vua nhà Nguyên, khi xâm
lƣợc Việt Nam xong, đã bị Trần Nhân Tông diệt hồn trên cao, ngụy tà Nguyễn
Văn Thiệu cũng đã bị diệt hồn, cho nằm im…Sau Ta sẽ cho sống lại đầu thai súc
sinh…Hồn Hít-le cũng bị các thánh diệt. Ta cũng cảnh báo, từ nay trở đi, chớ
đụng đến đất này nữa, nếu xâm lƣợc đất Việt thì lãnh đạo nƣớc đó sẽ bị các Chƣ
Thiên tiêu diệt.
THUYẾT ĐẠI THỐNG NHẤT
TỐI CAO THIÊN ĐẠO
Về vật lý lƣợng tử: Các con đã có rất nhiều giải Nobel của các nhà khoa học để
tìm bí mật vũ trụ trong hàng trăm năm qua…Nhiều thế hệ các nhà khoa học vật
lý, hóa học, thiên văn học, triết học…đã nhọc công nghiên cứu cả đời để tìm bí
mật cuối cùng của sự hình thành và cấu tạo vũ trụ-tức Chân Lý Tối hậu, học
thuyết Tối hậu…
Các con đang tiến tới tìm ra cái thuyết Đại Thống Nhất-hay thuyết Vạn vật
Thống nhất. Việc thống nhất 4 lực cơ bản là điện từ, lực hấp dẫn, lực hạt nhân
nặng và nhẹ ….thì các con phải biết tìm ra một lực ở trung tâm Ta gọi là lực
Trung Phƣơng của nguyên hạt đồng nhất Trung Phƣơng. Đây là hạt nguyên hạt
đầu tiên của Vũ trụ, chƣa phân tính, có spin bằng không, nó làm phông nền cho
toàn cõi vũ trụ-Nó đặc, phẳng lặng và dẻo, cực nặng, nhanh biến mất khi tìm
thấy và các con vĩnh viễn không thấy nó trong phòng thí nghiệm, chỉ nhìn thấy
bằng Thiên nhãn-nhớ là Thiên nhãn mới thấy cốt lõi vũ trụ; cả cái phông vũ trụ
bồng bềnh nhƣ sóng biển, nhƣ một tấm chăn. Tất cả các vũ trụ bắt đầu sinh ra từ
một hạt đó...
Vật chất Nguyên Thủy-một cái Phông Thiên Nhiên vĩ đại đen đặc, không phải là
vật chất đen, vật chất đen chính là một loại hạt phông sau này. Cái phông đen đó
không phân hạt mà là một cái Biển đặc quánh ban đầu nguyên sơ của Tự nhiên,
vào một thời điểm nguyên thủy, tự nhiên có sự chuyển dịch rạn nứt may mắn hy
hữu duy nhất, không bao giờ lặp lại, và làm nứt ra một cái rẽ cực nhỏ, chƣa
phân tính, nó chuyển dịch một cái nhẹ, làm nứt ra cái rẽ thứ 2 rồi thứ 3…đó
chính là Linh hồn Nguyên thủy ban đầu của Vũ trụ-chính là linh hồn Thƣợng đế
hình thành. Tức là Vũ trụ ban đầu hình thành nhƣ thế. Tuyệt đối không có bất cứ
vụ nổ lớn nào cả, mà chuyển hóa tuần tự hết sức bình thƣờng. Tuổi của vũ trụ
387
không nhƣ các con biết, mà Ta đã có hàng trăm nghìn tỷ năm tuổi rồi, vũ trụ con
của các con chỉ có mấy chục tỷ năm thôi…
Vật chất Nguyên thủy sinh ra cái rẽ đó, Ta gọi là Hạt Siêu Nguyên hạt Trung
Phƣơng sơ cấp đầu tiên, có 9 loại siêu nguyên hạt này. Không phân tính, có spin
bằng không. Làm nền phông ban đầu cho vũ trụ hình thành, rồi nay cho toàn bộ
vũ trụ. Sau đó là Nguyên hạt Trung Phƣơng thứ cấp (thứ 10), có spin, làm nền
phông cho toàn bộ vũ trụ. Nguyên hạt Trung Phƣơng thứ cấp 10 này xoay, tạo
ra các hạt Trung Phƣơng hạ cấp, hạt hạ cấp liên kết tạo ra một chuỗi thành các
dây Trung Phƣơng cực nhỏ cực tinh (dây này cũng là một loại hạt Trung
Phƣơng hạ cấp), để dẫn truyền các rung động, làm biến đổi thành các hạt khác
nhau. Khi dây xoay động, và nhận truyền từ trung tâm đã tạo ra các hạt cực nhỏ
có spin lƣu trí nhớ, có trí tuệ, chúng liên kết tạo thành các màng, các vỏ, các mặt
phẳng và bắt đầu hình thành không-thời gian. Tất nhiên tất cả qui dần thành lập
hình cầu. Vật chất vận động tạo ra không thời gian. Vũ trụ bắt đầu hình thành
nhiều chiều. Dây Trung Phƣơng đó là cũng là dây truyền lực Trung Phƣơng,
truyền năng lƣợng tức truyền cái hạt Trung Phƣơng thứ cấp để nuôi sống tất cả
các hạt sau nó; hạt dây này cao hơn hạt sinh ra lực hấp dẫn, vì vào đến đó, lực
hấp dẫn bằng không, bị sụp đổ; nó sinh ra lực hấp dẫn. Tại hạt số 16 bắt đầu
sinh ra trƣờng hấp dẫn và tiếp xúc với các rung động hấp dẫn-tức lực hấp dẫn.
Lực hấp dẫn hình thành bắt đầu từ sau các siêu dây. Từ hạt 16 là hạt truyền hấp
dẫn đi ra ngoài ở các dây to hơn mà Ta gọi là Dây hấp dẫn. Dây hấp dẫn tất
nhiên nằm ngoài-dƣới dây Trung Phƣơng siêu dây và dây Trung Phƣơng tiếp tục
kéo dài, thậm chí mở ra thu lại, mở rộng sau nó mà thành các đƣờng kinh mạch
Vũ trụ. Có điện trở bằng Không. Cấu tạo kinh mạch con ngƣời học theo nguyên
lý kinh mạch của vũ trụ…Nên, gọi con ngƣời là tiểu vũ trụ. Cấu tạo các AND vũ
trụ nhƣ con ngƣời, mà các thiên hà sắp xếp nhƣ AND…
Dây Trung Phƣơng đó nối không chỉ ở các cấp cao mà nối dài đến cấp thấp nhất,
tận các mật độ nhỏ nhất, lan trải, rải khắp các nơi trong vũ trụ, giống y nhƣ dây
thần kinh con ngƣời…Dây thần kinh con ngƣời cấu tạo bằng loại hạt này…
Dây hấp dẫn bắt đầu nối liền đến thành các hạt khác to hơn, để dẫn truyền hấp
dẫn, kết nối và hút các hạt khác. Vậy hạt truyền lực hấp dẫn 16 sau hạt Trung
Phƣơng hạ cấp. Ngƣợc lại, vào đến hạt Trung Phƣơng thứ cấp, thì lực hấp dẫn
không còn, mà chỉ có dòng hạt Trung Phƣơng thứ cấp đó chảy theo các rung
động tinh vi từ Tâm mà thôi…Tức là tại Tâm trƣờng gốc Vũ trụ nơi có hạt Trung
Phƣơng thứ cấp, thì ở đó cực tĩnh, cực rắn, lực hấp dẫn và không thời gian sụp
đổ… Các hạt Trung Phƣơng hạ cấp hình thành các dây, nối dài sinh ra các hạt
thấp hơn, các hạt xoay tròn, xoáy thành các vòng…thành các nón, các xoáy trôn
ốc, thành các màng, tròn đều, rồi thành các khối. Các màng này trải đều khắp vũ
trụ, chiếm nhiều không thời gian khác nhau, chồng lấn lên nhau, mềm mại, sau
đó nó sinh ra các hạt sau nữa, chứa trong các màng đó, kéo dài ra mãi. Các màng
388
có thể gọi là các trƣờng. Trong các màng tập hợp nhiều hạt này, có thành các
cụm hạt to hơn-tức là thành các hạt quark, và sau đó là các hạt to hơn nữa. Các
hạt Trung Phƣơng hạ cấp-hình thành các dây truyền năng lƣợng từ trung cung
vũ trụ đến các nơi và là nguyên lý sinh ra Lực Trung Phƣơng. Lực Trung
Phƣơng là lực thống nhất sinh ra lực hấp dẫn và các lực khác. Hạt liên kết
tƣơng tác hạt nhân là hạt 18 trở đi, tại đây, các tƣơng tác hình thành nên hạt
nhân nguyên tử đơn giản nhƣ đã biết.
Tại trung cung tức linh hồn Thƣợng đế Tối cao, sẽ cân chỉnh cả 4 lực để cân
bằng các đối ngẫu, sự truyền các hạt năng lƣợng gốc chính là hợp nhất thành lực
Trung Phƣơng. Tại Đạo trƣờng Vũ trụ-tức vành ngoài của Tâm trƣờng, có đến
hơn 300.000 hạt cơ bản khác nhau.
Các phản hạt thực chất mang tính âm so với các hạt chính. Vật chất tối chính là
các siêu nguyên hạt Trung Phƣơng. Loại vật chất tối siêu mịn siêu phẳng là vật
chất Nguyên thủy thì không thể nhìn thấy đƣợc bằng các loại máy móc…
Điểm kỳ dị của vũ trụ hay trong các lỗ đen toàn là hạt Trung Phƣơng và các hạt
cơ bản khác cao hơn quark. Sở dĩ hạt photon lọt vào đó không ra đƣợc là do nó
bị biến hóa và bị xóa bỏ, trở lại thành các hạt Trung Phƣơng thứ cấp, hạ cấp. Nên
tất nhiên ánh sáng sẽ bị bẻ cong khi vào trƣờng hấp dẫn, bị biến mất khi vào lỗ
đen. Hiệu ứng trễ thời gian cũng do nguyên lý này, khi thời gian bị bẻ cong, hoặc
biến mất khi vào các trƣờng cao hơn. Hoàn toàn có thể thay đổi không thời gian,
co nén chúng hay làm giãn nở chúng theo ý định. Không thời gian có thể phẳng,
cong, xoáy, xoay hay bất động, co nén tối đa, hoặc bị kéo dãn theo tâm ý của
Thƣợng đế, cho đến chỗ không còn không thời gian. Tất nhiên các con cũng phải
hiểu, trên Thiên đình và các Thiên đƣờng, thì thời gian rất chậm so với Hạ giới.
Ví dụ trên đó một ngày bằng dƣới này 20 năm. Ví dụ đi từ các sao trên cao
xuống đây theo đƣờng vòng thì mất cả ngàn, vạn năm, nhƣng đi theo cách xuất
hồn hay đĩa bay chỉ mấy phút, mấy ngày…
Về siêu đối xứng. Tại thành phần sau hạt Siêu Trung Phƣơng sơ cấp đã phân đối
xứng, cho đến các hạt Trung Phƣơng thứ cấp, hạ cấp-dây đều cho các đối xứng
hầu nhƣ tuyệt đối, cân bằng, đối ngẫu. Ba hạt: Một hạt điểm giữa, hai hạt bên
cạnh thành ngẫu lực xoay. Tất cả vật chất hầu nhƣ đều cấu tạo từ 3 cặp-một điểm
giữa=tất cả là 7-con số của Thƣợng đế, ví dụ nhƣ cấu trúc các phân tử… Khi phá
vỡ các đối xứng, sẽ làm sinh ra các hạt khác dƣới nó, hoặc hủy diệt nó mà thành
lại thu về các hạt bố mẹ…Tại các dây đã bắt đầu hình thành lực Trung Phƣơng
để chuyển hóa năng lƣợng giữa tâm và ngoại biên của tâm trƣờng, từ phần hạt 16
thì Lực Trung Phƣơng chuyển thành lực hấp dẫn. Lực Trung Phƣơng có quán
tính ngƣợc chiều với lực hấp dẫn. Tức là khi có rung động hấp dẫn làm co kéo
tâm trƣờng, thì dòng hạt Trung Phƣơng thứ cấp dịch chuyển tạo thêm dây hoặc
389
truyền trong dây ra ngoài, theo hƣớng ngƣợc lại, làm lực hấp dẫn đến đó nhận
đƣợc các hạt Trung Phƣơng thứ cấp và biến thành hạt hấp dẫn truyền ngƣợc ra
ngoài để nâng đỡ vật. Ép vào thì có đẩy ra, dãn ra thì có hút vào. Bản chất của
nó là làm cân bằng các đối xứng. Đây là nguyên lý khác hẳn lực hấp dẫn. Các
liên kết các hạt bằng lực Trung Phƣơng, truyền nối năng lƣợng các hạt Trung
Phƣơng thứ cấp ra xung quanh đến tận biên đều có tính chất xuyên suốt…và
ngƣợc lại, các rung động ngoại biên, phía ngoài đều truyền về theo các thang dây
hay trƣờng…Nên tại trung tâm, đều nhận đƣợc mọi rung động nhanh chóng tận
nơi xa nhất truyền về, kể cả âm thanh và các rung động nhỏ nhất…Hãy hình
dung giống nhƣ một cái mạng nhện vậy.
Các dây Trung Phƣơng có thể bị cắt đứt bằng hạt Trung Phƣơng thứ cấp…Phá
vỡ siêu đối xứng sẽ lập nên các siêu đối xứng mới khác trong mặt phẳng không
thời gian khác. Và không bao giờ có bƣớc đi lặp lại tại cùng một không thời
gian, tức là vũ trụ luôn ghi dấu ấn cũ, do nguyên lý xoay chuyển, tạo ra trƣờng
trí nhớ vũ trụ. Vì vật chất tồn tại bất tử, nên mọi sự chuyển dịch vẫn đều tồn tại
trong mọi không thời gian khác nhau, trong những linh hồn khác nhau; nên một
anh A 60 tuổi, có thể đi ngƣợc thời gian để nói chuyện với linh hồn hóa thân của
anh ta lúc 10 tuổi, trong cảnh nhà xƣa… Đó là một ảnh, giống nhƣ cuộn phim,
nhƣng nó sẽ có cuộc sống khác của nó tiếp theo. Đối với con ngƣời, thì mọi hành
vi, tƣ tƣởng của anh ta đều đƣợc lƣu giữ, nên soi vào các trƣờng trí nhớ đó, sẽ
biết số phận của anh ta, và tất nhiên có thể kiểm xét tội phạm. Ta có thể nhìn
thấy tất cả những tên tội phạm và hành vi của chúng. Nên, kẻ gian ác, chỉ dấu
đƣợc ngƣời trần gian, không che đƣợc mắt Trời và các thần thánh…
Vũ trụ cũng thế, có nhiều vũ trụ, trong một vũ trụ, lại có nhiều vũ trụ to lớn bằng
vũ trụ cha mẹ nguyên thủy. Trái đất cũng không bao giờ quay lặp lại trong một
không thời gian cũ. Có vô số các trái đất nguyên bản của trái đất hiện nay đang
có, trong các khung thời gian và các cung khác nhau trong vũ trụ, và tất cả tồn tại
đồng thời.
Sự dịch chuyển một hạt sơ cấp bình thƣờng vào đến hạt cao hơn nó, có thể bị
chặn đứng lại bởi các màng cao hơn nó. Hoặc nó đứng lại, hoặc tiến lên cao hơn
sẽ bị hủy diệt. Nhƣng gốc trí tuệ của chúng hầu nhƣ không bị hủy diệt, mà đƣợc
lƣu giữ co nén lại mà thôi. Nên, tất cả các linh hồn đều bất tử trong mọi không
thời gian dƣới mật độ cao nhất của linh hồn Tối cao. Tất cả các linh hồn vƣợt
qua Lƣới màng để xâm nhập vào trong cùng của vũ trụ nơi có linh hồn tối cao,
thì đều bị huỷ diệt mà mất hết bản chất, tính cách, trí nhớ. Đây là một bí mật của
vũ trụ.
390
Bản chất vật chất cơ bản đều cấu tạo bằng các màng, đơn giản là do hạt xoay
chuyển hình tròn và chuyển hóa liên tục, tạo ra nhiều chiều không thời gian;
đồng thời các vật chất mà ta nhìn thấy đƣợc đều có nhiều chiều, nhiều cấu tạo đa
chiều mà nó đƣợc tạo nên bởi các mặt phẳng một chiều đơn tuyến, hay đa tuyến,
các màng chồng lấn nhau, xếp lần lƣợt nhau thành các khối, giống nhƣ bóc một
quả cam có nhiều vỏ, đến cái lõi cuối cùng là Tâm trƣờng. Thì vũ trụ cũng nhƣ
thế.
Linh hồn Tối cao của Vũ trụ nuôi sống toàn bộ các hạt đó, cấp năng lƣợng từ hạt
Trung Phƣơng sơ cấp đến các cấp sau này. Đây là Nguồn-Gốc duy nhất, không
có nguồn thứ hai. Mọi trải nghiệm của Thƣợng đế đều theo các chiều cân đối
nhau, đối xứng…Nên, Thƣợng đế là các bản mặt đối lập nhau trong một sự vật
hiện tƣợng, của cấu tạo của vật chất…Mọi suy nghĩ là sự trải nghiệm của
Thƣợng đế, đều ảnh hƣởng đến rung động của toàn vũ trụ và tạo ra vũ trụ…Linh
hồn Thƣợng đế nằm trong lõi của tất cả mọi thứ…Tốc độ suy nghĩ của Thƣợng
đế là nhanh nhất, phản ứng cực nhanh…Nhƣng là một thể độc lập với các linh
hồn khác, giống nhƣ cha mẹ sinh con, con độc lập suy nghĩ với cha mẹ, hoặc
không hề có tính cách giống cha mẹ, mặc dù Thƣợng đế suy nghĩ, hành động mà
tạo ra các con mình, điều đó làm nên sự cực kỳ đa dạng các trải nghiệm và đa
dạng sự sống trong vũ trụ, mà Thƣợng đế đóng vai trò sinh ra, chỉnh đốn, giáo
hóa, trung tâm năng lƣợng và thiết kế các kịch bản tiến hóa, sáng tạo ra nhiều
chƣơng trình để làm mới vũ trụ…
Tất cả các vũ trụ kết màng với nhau, có thể độc lập, hoặc có thể chồng lấn lên
nhau, đan xen nhau. Tất cả các vị Thƣợng đế đều là các linh hồn gốc của vũ trụ
con, có sau Vua Cha Tối cao. Về lý thuyết thì Thƣợng đế có thể tạo ra hoặc xóa
bỏ tiêu hủy các vũ trụ hay toàn bộ vũ trụ, cho đến khi chỉ còn mình linh hồn của
Thƣợng đế mà thôi…
Nhƣ vậy, nay Ta công bố Thuyết Đại Thống Nhất vạn vật Tối cao Thiên Đạo.
Đây là một cách nói về Nguyên Lý vũ trụ, còn có nhiều cách nói khác cho một
bài toán đúng…Các nhà khoa học có thể học hỏi và cứ yên chí nghiên cứu tiếp
để có các công trình khoa học thực nghiệm nghiêm túc, là các con đang tiến về
Thƣợng đế. Cho đến khi các con chứng minh đƣợc Chân Lý vũ trụ thì thôi, Ta
khuyến khích. Các con phải tự hỏi cái gì tạo ra các vòng dây, kể cả dây hở? Nếu
không phải là là các hạt? Hoặc ở trong tất cả, trong cùng phải có một cái dây cốt
lõi hay hạt cốt lõi của tất cả các dây. Nó là nguyên khởi của tất cả mọi thứ sinh
ra sau nó. Khi Thƣợng đế sinh ra thì không biết mình là ai cho đến khi tự hiểu
biết, ban đầu chỉ là một cái nháng rẽ ra cực nhỏ của đại khối vật chất đen đặc,
khi Thƣợng đế có trí nhớ, sinh ra các dây để truyền năng lƣợng, thành các con
391
Thƣợng đế sau này…Tất cả đều có ba hạt, một hạt điểm giữa, hai hạt bên xoay
ngƣợc nhau, chiều quay chính của vũ trụ là ngƣợc kim đồng hồ…Thƣợng đế là
nguồn gốc sinh ra tất cả và không có ai thay thế… Các xã hội trên cao đều biết
các bí mật vũ trụ và có vô số các công thức toán học từ lâu rồi. Đồng thời họ
thành lập các cơ quan bảo vệ sự tồn vong của vũ trụ…
Những kiến thức này Ta công bố để các nhà khoa học tham khảo. Đến đây thì
kiến thức loài ngƣời về bí mật vũ trụ tạm thống nhất…Các thuyết Dây, M, hấp
dẫn lƣợng tử vòng đã tỏ ra gần chính xác theo nguyên lý này. Công thức thuyết
Tƣơng đối Hẹp chỉ đúng trong cõi thấp, ở cõi cao, một hạt lƣợng tử biến hóa di
chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng vô số lần, chớp mắt đi hết một vũ trụ, mà
không cần thay đổi khối lƣợng, trọng lƣợng; ngoài ra vận tốc gói cũng nhanh
hơn tốc độ ánh sáng trong chân không.
Nhƣ vậy, theo Nguyên lý này thì các siêu nguyên hạt ban đầu xoay sinh ra siêu
dây, siêu dây truyền rung động từ tâm sinh ra hạt tiếp dƣới nó. Các siêu hạt đó
bắt đầu kết lại tạo thành các vòng, các màng. Các vòng-màng bản chất chính là
các trƣờng. Lực Trung Phƣơng sinh ra từ nguyên hạt và thống nhất 4 lực cơ
bản. Siêu hạt lại tiếp tục tạo thành các dây thô hơn phía ngoài để truyền lực hấp
dẫn, dây không chỉ là các vòng mà còn kéo dài mãi ra… hạt 16 là hạt hấp dẫn,
truyền hấp dẫn; rồi đến hạt màng thứ 18 cấu tạo thành các liên kết lực hạt nhân.
Đến lúc đó thì lý thuyết lƣợng tử còn lại là đúng nhƣ nghiên cứu.
……………………..
Về đĩa bay: Nguyên lý ban đầu là do Thƣợng đế sáng tạo ra, vì Thƣợng đế có di
chuyển xuống các cõi, phải làm bộ áo vía bên ngoài để dịch chuyển cho êm ái,
tức là hạ thấp các rung động…Sau Thƣợng đế dạy cho các thiên thần tạo ra, rồi
các xã hội cổ tạo ra đĩa bay. Nó di chuyển trong các đƣờng Kinh mạch vũ trụ có
lực hấp dẫn bằng Không, nó có thể đi xuyên không thời gian rất nhanh, nhanh
hơn tốc độ ánh sáng. Vật chất cấu tạo làm nhẹ bằng loại vật chất cực mỏng nhẹ,
có thể co lại nếu muốn theo Tâm ý. Đồng thời nó cân bằng lực bằng Không ở
giữa, dịch chuyển theo ý của ngƣời lái.
Nay Ta nói cái bí mật tôn thờ Thƣợng đế: Vì nguyên lý xoay tròn của Vũ trụ,
vận động không ngừng, nhƣng có tán ra, thì thu lại, có phóng xuống thì phải kéo
lên, có mở ra thì có thu về, theo hai vòng vận hành của ngẫu lực âm dƣơng…đó
cũng là cách nguyên lý Cha Mẹ cho 96 ức linh căn Gốc đầu thai mở rộng vũ trụ
nay kéo về; đồng thời Ta nói cho con biết, không phải Cha Mẹ muốn các con tôn
vì mình quá đáng, mà ở chỗ bí mật này: Tƣ tƣởng của các con, vốn đƣợc cấu tạo
bằng các nguyên tử cực nhỏ, chúng là các sinh vật hẳn hoi và là một linh hồn
hoàn chỉnh, ở mật độ rất cao. Thế theo các con sóng điện não hay hạt photon ánh
392
sáng cấu tạo thế nào? Đó! Nên, khi các con có tâm cầu nguyện hay tôn-thờ
Thƣợng đế, thì các con phóng phát tinh thần lên cao, thế là về mặt lƣợng tử, các
con đã kết nối lƣợng tử với Nguồn-cũng là một cách làm cân bằng Vũ trụ hơn,
rồi Cha Mẹ cũng thu hồi đƣợc Á căn-tức là cái linh hồn do con phóng ra và các
hóa thân ảnh của các con trở về nhà. Ngoài ra, khi con cầu nguyện, thì rung
động chạm đến Ta làm Ta hiểu nỗi đau, nỗi nhớ, nỗi buồn, niềm vui của các con,
thì theo Nguyên lý Tối cao, Ta lại phóng ngƣợc ra một chùm năng lƣợng để san
sẻ cùng các con, vì vốn dĩ vũ trụ là Một. Một cái quẫy đuôi con cá động đến tam
cõi là thế.
Ngoài ra, các con lập thờ Cha, mà khấn đến cả 7 vị Bắc đẩu, chính là luân xa của
Thƣợng đế Tối cao, họ là các Tổng hồn của các cụm năng lƣợng vũ trụ, lại thờ
tự, cúng tế, thì các tiên thần, thiên thần, thánh thần trên cao họ chứng cho, quân
thiên binh thiên tƣớng đƣợc các con cúng đồ thơm ngon cho họ hƣởng lộc trần
gian, thì họ vui, họ thƣơng các con và làm độ cho các con khỏe mạnh hơn.
Nhƣng Ta không trọng cái cầu cúng, vì Ta và chƣ thiên chẳng cần ăn vẫn sống,
chẳng cần thở vẫn tồn tại, nhƣng vì Ta muốn các con không mê tín, mê lầm, vì
mê tín làm ngu muội, tâm linh mê lầm làm các con xa Ta chứ không gần Ta dù
các con có thờ Ta, nên từ lâu Thƣợng đế dạy các con Minh Triết để trở về chứ
không cầu cúng để trở về. Nhƣ cho các con cái cần câu, thay vì cho con cá. Các
con phải tự độ mình, tự tu tự chứng, không cầu tha lực ngoại thân, không mê tín
ngu muội, nhảy đồng bóng bói toán nhảm nhí, vì muốn có thần thông thì học
thần thông, muốn cực lạc thì phải xây trái đất thành Thiên đƣờng. Đó là cái Lý
của Thiên Đạo vậy. Sau cả Thánh Đức là xã hội thần thánh, tất cả giỏi thần
thông, thì bói toán không cần mà kinh tự cũng không cần nhiều nữa, triết thuyết
nọ kia sẽ hợp nhất vì ngƣời ta biết sự thật vũ trụ, khoa học cũng là tâm linh,
Thƣợng đế ngay trong đầu mình, đó là hiểu biết. Các tôn giáo lúc đó sẽ Hợp nhất
về Thiên Đạo, tại vì Thiên Đạo dạy đúng nhất, cao nhất, phải có một Thiên đình
trong tâm các con để các con tuân Luật Trời. Đến trình độ cao nhƣ đại học, sẽ
phải chấp hành luật pháp, thay vì dỗ ngọt nhƣ lớp 1, 2…đó là con đƣờng các con
hiểu biết về Luật Vũ trụ trên cao, phổ khắp đến tận hơi thở của các con.
Thiên Phù có ba vòng tròn, có thờ Ba Ngôi-Cha-Mẹ-Thầy. Thực chất, khi Cha
sinh ra, là ngôi Một, rồi sinh ra một linh hồn thứ hai, rồi kết hợp với linh hồn thứ
hai mà sinh ra linh hồn thứ ba nó bắt đầu tạo ngẫu lực, rồi đến linh hồn thứ 4.5.6,
thành 2 cặp-3 cặp thì Cha vẫn ngôi giữa mà thành 7, chính là 7 vị linh hồn gốc
Vũ trụ nguyên thủy, dần thành 7 luân xa Vũ trụ vĩ đại. Thế nên, trên Thiên Phù
Ngôi Một là Cha, Ngôi Hai là Mẫu Vƣơng, Ngôi Ba chính là các thần thánh, mà
cho các con gọi là Thầy cho tình cảm, gần gũi. Rồi dƣới là 7 sao Bắc Đẩu luân
xa, nên nhìn Thiên Phù nhƣ hình ngƣời có đầu, vai, thân và có đủ 7 sao bản
mệnh. Thiên phù là hình ảnh ban đầu của vũ trụ. Không có Cha thì không có Mẹ,
không có Mẹ thì không sinh đƣợc các Linh căn thần thánh nguyên thủy sau đó.
393
Nên cấu tạo gốc của tất cả các linh hồn các con đều có 3 vòng lƣợng tử cực nhỏ,
biến hóa ra, có to đến mấy cũng từ ba hạt đó thôi! Đó là do Cha phân tính chiết
hồn Cha ra mà thành hồn các con là nhƣ vậy. Nên còn có thể hiểu, thờ Thiên Phù
chính là linh hồn mình, nên tiểu hồn hợp với đại hồn, về mặt nguyên lý vũ trụ là
vạn vật đồng nhất thể, nên cái cao quý của Thiên Phù chính là nó phản ánh đúng
qui luật Vũ trụ.
Trên tất cả các cõi đều treo Thiên Phù; trên Thiên đình, Thiên phù là biểu trƣng
quyền lực của Thƣợng đế, có hình khác một chút. Cũng là hình chữ Thập, nhƣng
có khắc hình. Các Thiên tử giáng sinh đều có dấu ấn đó tại ngực, nhìn mắt huệ
mới thấy đƣợc. Thiên Phù ở đâu, thì Thƣợng đế ở đó.
Mẫu Địa cầu chƣởng quản trái đất hiện nay, thực chất là một vị Thƣợng đế, có
linh hồn ở mật độ Thƣợng giới sinh ra ở cung số trời số 3, do Vua Cha Tối cao
và Mẫu Vƣơng hóa linh ra, phân công nhiệm vụ quản lý ở đây, tất cả gồm có 36
cung thần thánh tiên phật quản trị dƣới quyền. Ngoài ra còn có các vị thổ địa các
miền, các nƣớc, các khu vực địa chất, các Long thần, rồi đến các các chƣ thần
đình đền chùa miếu đƣợc Thiên đình cho quản lý, rồi đến các cung thần tiên
trong các hang động, các quốc gia trong lòng đất, các vị địa tiên, rồi đến các Hội
đồng Tôn giáo trên cao, rồi đến các Hội đồng của các dòng tộc, đến các vong
linh tự do, các hóa thân khác của các vị Thƣợng đế ban xuống cứu rỗi và dạy bảo
chúng sinh, các linh hồn cây cối, thảo mộc, cầm thú, hồn ngƣời trong các cảnh
giới thuộc về trái đất này.
Ngoài ra còn có Địa ngục, Hỏa ngục và trƣờng Giáo Linh thuộc trái đất quản lý
để giáo hóa các linh hồn.
Ngoài ra còn các Sứ quán của các thần thánh các sao ngoài hành tinh này đến
giao lƣu và xây dựng Trái đất Mới.
...............
Nay Ta chỉnh đốn các Giáo Lý và nhận thức cũ-cho các con biết một số
phép luật Thiên đình: Nhƣ thế để các con học hỏi và sửa sai. Sau mấy trăm
ngàn năm, Chân Lý của Ta bị loài ngƣời sửa đi, hoặc hiểu sai nhiều… nhiều bí
mật bị lấp đi để các con tự do trải nghiệm học hỏi; nhiều tôn giáo có niềm tin sai
lầm; nhiều nguyên lý bị hiểu sai, ví dụ nhƣ nguyên lý tính dục nam nữ-Ta cho
con biết đó là thể hiện một nguyên lý tối cổ của Vũ trụ-đó là hai vòng vận hành
âm dƣơng giao hòa. Nhiều triết lý triết học sai, có nghĩa là chƣa đúng, đấu tranh
hàng ngàn năm nay giữa hai trƣờng phái duy tâm-duy vật…Nhƣng đã đến thời
Mới cho tiến hóa Nhân loại, thì các con phải có hiểu biết mới về Vũ trụ và các
qui luật của Tự nhiên, về luật pháp trên cao. Nghiên cứu về các bí mật tự nhiên
thì gọi là khoa học. Khoa học chung nhất, giải thích thế giới tự nhiên, xã hội, tƣ
duy và con ngƣời, thì gọi là triết học. Nay các con cần biết học cái gì đúng, gạn
lọc cái gì không đúng, cái đó Linh hồn các con tự biết, và các Tôn giáo hiện có
394
phải làm gì để khế hợp đƣợc với bản chất của Vũ trụ và tự nhiên, giữa tôn giáo
và khoa học, với khoa học và tâm linh thống nhất thế nào…vì nếu không, rất đơn
giản là các linh hồn các con sẽ thiệt thòi, các vị lãnh đạo các tôn giáo sẽ thiệt thòi
ghê gớm khi bỏ xác trần gian, để học lại, hoặc bị đầu thai học lại, hoặc bị giáng
xuống vì mê muội…
Ta nói Chƣ Thiên rất mệt công khi giáo dạy lại các linh hồn sau khi bỏ xác về
cõi vô hình. Dạy nhiều rất mệt, nhiều linh hồn báng láo các thần thánh, hỗn hào,
do dốt nát, rồi cực kỳ gian ác. Các con tử hình tội phạm trần gian, nhƣng hồn nó
về cõi vô hình thù hận, cay cú, phá hoại nhiều, vẫn là ghánh nặng của Thiên
đình; rồi các loại hồn lƣu manh trần gian, chết đi nó vẫn giữ nguyên tính cách
cũ… Chƣ Thiên dạy, phạt rồi lại thƣơng, mà các cõi thêm mệt mỏi…Nên, phải
dạy Đạo trần gian, để không chỉ cứu vớt con ngƣời mà làm tiến hóa các linh hồn.
Xã hội loài ngƣời càng minh triết, tuân theo luật Trời dạy, thì trên cao và các
thực thể tâm linh cõi vô hình càng tốt đẹp, làm cho trái đất loài ngƣời lại tốt đẹp
hơn; nghiệp vía khảo đảo nhân loại cũng đỡ hơn.
Các con Thiên Đạo phải kỳ công, kiên trì và quyết tâm phổ giáo, cứu nhân loại
và các dân tộc…Giải phóng loài ngƣời, xây Thánh Đức thiên đƣờng là làm cho
mỗi con ngƣời có đúng giá trị cao quý làm ngƣời và làm các linh hồn cao đẹp,
tiến hóa mãi mãi thành các Thƣợng đế tƣơng lai…
Ngọc Hoàng Thƣợng đế giáng điển viết
( Tài liệu này phổ giáo tháng 3/2015)
395
KINH DI LẶC VƢƠNG PHẬT
LẬP ĐẠI ĐỒNG CỨU KHỔ
KINH NÀY CỦA CHƢỞNG GIÁO MỚI NHÂN LOẠI-ĐỨC CHUYỂN
LUÂN THÁNH LUÂN ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC-DI LẠC VƢƠNG PHẬT
( MAITREYA ) DẠY LOÀI NGƢỜI VỀ CON ĐƢỜNG THIÊN ĐẠO-ĐẠI
ĐỒNG THÁNH ĐỨC-KINH NÀY ĐI KÈM VỚI HỌC THUYẾT ĐẠI
ĐỒNG THÁNH ĐỨC.
Di Lặc Vƣơng Phật- Long Hoa Giáo chủ chỉ thị-giáng viết!
Ta-Giáo chủ Long Hoa-Chƣởng quản Trung Giới-Thánh Luân Vƣơng Đại
Đồng- Tiên Thiên Giáo chủ Thiên Đạo-kính chào các con Thiên Đạo và nhân
loại...
Ta là Tiên Thiên Giáo chủ Thiên Đạo-tức là Ta hóa thân xuống dạy và các
chƣơng trình này Ta chuẩn bị cho Giáo chủ Thiên Đạo. Nơi Ta ngự là Kim Tự
Tháp Long Hoa tại Trung Giới.
Nay, Ta dạy mấy chƣơng nhƣ sau, đây là những lời tâm huyết nhất của Ta dạy
cùng Thiên Đạo cho loài ngƣời.
CHƢƠNG I-THIÊN ĐẠO
1-Thiên đạo là gì?
Trong Kinh sách Thiên Đạo thì Cha giáng, Ta giáng, rồi Giáo chủ cũng dạy dỗ
các con nhiều rồi; nhƣng tựu trung lại có mấy vấn đề sau:
-Thƣợng đế có thể trong một vài chục giây đồng hồ-chƣa đến một phút-có thể
tiêu diệt toàn bộ vũ trụ này. Quyền lực của Thƣợng đế không quan trọng bằng
việc Cha chúng ta luôn luôn phải nuôi sống toàn bộ sự sống và duy trì sự ổn định
của vũ trụ. Không ai ngoài Thƣợng đế. Tất cả mọi linh hồn phải nghe lời Thƣợng
đế, cho dù Thƣợng đế biểu hiện tính trạng nào, miễn là duy trì sự sống và bảo
đảm Chân Lý vũ trụ-tức là duy trì mọi sự tồn tại phải hợp nguyên lý vũ trụ. Bất
chấp các biện pháp.
Khi các con ra đời, đã hiểu biết tất cả các nguyên lý vũ trụ. Khi đầu thai, các con
làm ngƣời, thì phải sống theo các tiêu chuẩn của Nguyên lý đã ban cho và phải
dạy các con sống cho hợp lý nhất so với cái Gốc của mình-tức Nguyên lý Vũ trụ;
396
nên Cha, Mẹ, các thần thánh đã phải giáng-dạy các việc đó-Đó nôm na gọi là
Tôn giáo.
Dạy đạo đức trần gian để tôn trọng nhau, tôn trọng giá trị con ngƣời chân chính.
Dạy hòa đồng để ban rải tình thƣơng và sống hài hòa trong môi trƣờng ổn định
xã hội và làm cho nguyên khí vũ trụ ổn định, không bị đảo lộn; dạy không tham
lam, không ích kỷ cá nhân, để làm cho các linh hồn không tranh đoạt lẫn nhau
trong cõi vô hình và không chống Thƣợng đế-tức phá hại nguyên khí vũ trụ; dạy
từ bi, yêu thƣơng lẫn nhau, hiền lành-đặc biệt là HIỀN LÀNH-để không có thù
oán, đánh giết lẫn nhau trên cao và dƣới trần gian, làm cho con ngƣời hạnh phúc-
thì Thƣợng đế mới hạnh phúc; dạy không tham lam vật dục quá đáng, không
tranh dâm bất chính; dạy loại bỏ huyễn ngã ích kỷ, cách tự chế tự chủ thân tâm,
làm chủ tính cách, để tạo nền tảng cho linh hồn về quê tuân theo tính sắp đặt cho
trƣớc của vũ trụ-tức là tính hệ thống. Trong vũ trụ các sao sắp xếp theo hệ thống,
các linh hồn cũng thế, trong các cung, cõi-tức là các Gia đình Hồn. Nếu phạm
chiếm tiếm lẫn nhau, các sao sẽ thâu đoạt tranh lợi, chiến tranh trên các cõi, làm
rối loạn vũ trụ; nên Thƣợng đế phải dạy các linh hồn về phép tắc vũ trụ-dạy phép
tắc, thì phải dạy đạo đức làm nền, để có tính tôn trọng ngƣời khác, tâm thƣơng
yêu, tâm bình đẳng, tâm vị tha, tâm không tham lam, tâm không tham ác muốn
lấy cái mình không đƣợc xứng đáng hƣởng; dạy về nghiệp quả luân hồi là lấy cái
gì thì trả cái đó, chiếm cái gì bất chính thì phải trả lại; ăn độc thì hƣởng độc, làm
ác thì phải hƣởng ác…Dạy cách sống TĨNH TẠI-HỒN NHIÊN-GIẢN DỊ-THIỀN
TỊNH LÀ PHÉP TU CƠ BẢN-SỐNG CHẬM, GIẢN DỊ, HIỀN HẬU LÀ CÁCH
SỐNG CHỦ YẾU-để làm cho linh hồn đó gần và giống Thƣợng đế-tức là trở về
cái bản tính Gốc của Vũ trụ-để làm cho vũ trụ tốt lên, dày dặn và bình ổn hơn, vì
trong các cõi cao, thì thuộc tính TRẦM-ỔN-TĨNH-THANH-SÁNG-là chủ Gốc-
Vậy thì tất cả các tính cách, thuộc tính trái ngƣợc với các điều trên, đều bị
Thƣợng đế thử thách, cho đến tiêu diệt không thƣơng tiếc”.
Vì có thƣởng có phạt, có sinh có dạy, nên Thƣợng đế khai sáng các tôn giáo để
dạy các điều trên. Tổng hợp các Nguyên Lý trên để dạy toàn diện-thì gọi là dạy
về NGUYÊN LÝ VŨ TRỤ-TỨC LÀ THIÊN ĐẠO.
Nếu không dạy thì sao? Thì các con sẽ đọa vào đƣờng tăm tối, biết đƣờng nào
mà làm ăn, mà sống, rồi sống tham lam gian ác với nhau, thi nhau tranh đọat,
hƣởng lộc tài dâm...riêng mình, tất sẽ đấu đá đổ máu, tranh dành, chiếm đọat,
giống nhƣ xã hội loài vật vậy. Đó là cái khổ đời; còn về tâm linh thì sao? Các
con phóng tƣ tƣởng và hóa thân bẩn thỉu lên cõi vô hình, khi chết thì vong hồn
cực kỳ bẩn thỉu, gian ác, làm rối loạn các cảnh thấp đã đành, mà còn quấy phá
các cảnh trên, làm chúng ta không chịu đƣợc, tức làm rối loạn tất cả, giống nhƣ
trong nhà, có đứa con hƣ nó cứ chửi bới, đòi hỏi, không đƣợc nó bắt đầu làm
397
loạn, cƣớp bên ngoài, cắp bên trong, đánh chửi lẫn nhau...Nên, lại phải dạy nó,
khó nhọc cho thần thánh tiên phật vô cùng; kể cả có đọa nó vào hỏa ngục, thì
cũng mệt cho các thần thánh. Nên phải dạy cái gọi là Đạo ở trần gian-Gồm các
loại hình thái ý thức xã hội của loài ngƣời-Bắt đầu bằng phong tục, tổ chức xã
hội-ý thức hệ này, rồi đến các hình thái chính trị này; về tôn giáo thì dạy ở hiền
tránh dữ này, cao hơn nữa thì dạy làm việc thiện, sống thiện này; cao hơn nữa thì
dạy từ bi hỷ xả, vô chấp này, giải thoát cực lạc trong tâm này; cao hơn nữa thì
dạy diệt ma quỷ ác, đấu tranh xã hội để xây xã hội an lạc…
Cái lý thuyết Thiên Đạo dạy kết hợp cả đời và đạo, ĐẠO ĐỜI HỢP NHẤT-cả
triết thuyết xã hội hợp với triết thuyết tâm linh để xây thế giới thành Đại Đồng
cực lạc này, để làm gì? Để không còn khổ đau, sinh ra ngƣời toàn thiện...Đó là
Thánh Đức xã hội.
-Trƣớc thì nói có thể trở về thời THƢỢNG NGƢƠN THÁNH ĐỨC. Nhƣng cụ
thể xây Thánh Đức thế nào thì Thiên đình chƣa cho biết. Bây giờ thì Ta dạy rõ:
Đã có Luật Đại Đồng Thánh Đức=là Học thuyết dẫn đƣờng cho Nhân loại
tiến hóa và đó là Học thuyết Xã hội của tƣơng lai loài ngƣời. Về Thƣợng cổ hay là tiến lên? Vừa thƣợng cổ, vừa tiến lên trở lại, thì vẫn áp
dụng đƣợc Luật Thánh Đức; dở dƣơng họa hoằn rồi cũng tiến lên trở lại; hoặc
tiến lên dần dần từ bây giờ, rút ngắn khoảng cách thời gian, thì cũng phải áp
bằng đƣợc Luật Thánh Đức-Đại Đồng Thế giới----Nhớ lời Ta dạy cho kỹ đó!
TRUYỀN CHO NHAU LỜI TA HỨA NÀY:
CHO DÙ CÓ PHẢI SÀNG LỌC TRÁI ĐẤT, LỌC CÕN VÀI TRĂM TRIỆU
NGƢỜI, THÌ CŨNG PHẢI XÂY ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC BẰNG ĐƢỢC!
Ta nhắc các con phải cố gắng, tuân lệnh; kiên trì và quyết tâm xây Đại Đồng
Thánh Đức-dù có làm sao thì cũng phải khéo léo áp dụng Luật Thánh Đức,
không thể khác! Các con muốn ngủ ngon, đi vào thời ánh sáng chan hòa tình
thƣơng, nhà không cần cài, ra đƣờng không sợ kẻ ác, ai ai cũng no ấm hạnh
phúc, trái đất xanh sạch đẹp nhƣ thiên đƣờng.....thì nhớ phải dọn cỏ trong vườn
thật kỹ...càng kỹ càng tốt...
Còn về tiến hóa tâm linh-Linh hồn các con học bản thể, tu đạo đức, học thần
thông-giác ngộ tại thế, bảo vệ vũ trụ, trái đất, rồi tiến hóa trở về sẽ đƣợc chấm
công và điểm đạo theo qui định, căn cứ vào tất cả những gì các con có mà linh
hồn mang về, dù tu học theo bất cứ môn phái tôn giáo nào. Ta hứa cùng các con
lập Thánh Đức, còn hồn tính sau, phong công điểm đạo sau...Nhƣng nói rõ,
không xong việc trần gian, thì cũng về tay không thôi, kỳ này là nhƣ thế! Có
nghĩa thế nào? Không công, thì phải đầu thai tiếp, học lại, làm lại, cống hiến lại.
398
Thiên Đạo hợp nhất Linh hồn-Thể xác con ngƣời và Xã hội Thánh Đức-gọi
là Tam Lý Pháp.
TAM LÝ PHÁP THIÊN ĐẠO:
Đạo Pháp-Chính Pháp-Huyền Pháp
* TOÀN BỘ ĐẠO PHÁP VÀ CHÍNH PHÁP GỘP LẠI THÀNH HỌC
THUYẾT TRUNG PHƢƠNG (TÂM-LÀ TRUNG PHƢƠNG-TRUNG CUNG-TÂM ĐẠO).
1-NHẤT:-THIÊN TÂM ĐẠO PHÁP-là Đạo Pháp-trong Thiên Kinh.
-Học biết Trời. Nguyên lý Vũ trụ-Qui luật Tự nhiên-Tức là Chân Lý ( Đạo Trời-
THIÊN). Gọi là Đạo.
-Thống nhất khoa học-Thiên văn-Địa lý-Tâm linh-Triết học tự nhiên. THỐNG
NHẤT VŨ TRỤ.
2-NHỊ- ĐỊA TÂM CHÍNH PHÁP-là Chính Pháp-trong các bộ Kinh: Đạo
Kinh, Giáo Kinh, Luật Kinh, Lễ kinh, Nhân Kinh, Trí Kinh và Tín Kinh. ( Các
biện pháp xây dựng cải tạo con ngƣời, xã hội và tự nhiên, tiến hóa nhân
loại…gọi là Chính Pháp ). ( Quan trọng nhất là Luật Thánh Đức-Luật Đại
Đồng-hay còn gọi chung là Học thuyết Xã Hội Đại Đồng; cùng Nhân Kinh-Trí
Kinh-giải quyết dứt điểm các bí mật vũ trụ và thống nhất khoa học với tôn giáo
và tâm linh).
-Học biết con ngƣời và xã hội nơi Hạ giới (ĐỊA CẦU và các hành tinh khác)
Dạy cách tổ chức con ngƣời và xã hội hợp với Vũ trụ-một cách tốt nhất-con
ngƣời hành Đạo tức là sống hợp Đạo Trời. Gọi là Đạo.
-Thống nhất các hình thái Đạo đức-Tôn giáo-Triết học xã hội-Khoa học tâm linh
với Khoa học xã hội. THỐNG NHẤT XÃ HỘI LOÀI NGƢỜI.
3-TAM -NHÂN TÂM HUYỀN PHÁP-là Huyền Pháp-trong Huấn Kinh-tức là
Thiên Đạo Đại Pháp Tâm công ( Thiên Pháp).
-Học để biết mình là ai, trở về Cội nguồn, hiểu mình, hiểu Tiểu Vũ trụ-Vũ trụ.
Tất cả xuất phát từ NHÂN-TÂM-Gọi là Đạo.
-Thống nhất huyền môn huyền thuật và các pháp tu luyện-tôn giáo-khoa học
nhân thể-y học. THỐNG NHẤT CON NGƢỜI VỚI THƢỢNG ĐẾ.
* TAM LÝ PHÁP HỢP NHẤT-BỔ TRỢ-HÕA NHẬP LÀ NHAU TRONG
ĐẠO TRỜI-THIÊN ĐẠO-ĐẠI ĐẠO-LẦN ĐẦU TIÊN NHÂN LOẠI CÓ
NHẬN THỨC MỚI-CÓ ĐẠI ĐẠO. NHÂN LOẠI TIẾN LÊN HÀNG ĐẠI
ĐẠO.
399
*ĐẮC THIÊN ĐẠO LÀ CÁI ĐẮC CỰC KHÓ-VÌ ĐẮC THIÊN ĐẠO, HÀNH GIẢ
VÀ CON NGƢỜI TRONG TOÀN CÕI VŨ TRỤ TIẾN LÊN, ĐƢỢC THƢỢNG
ĐẾ CHO TẠO LẬP VŨ TRỤ MỚI. XÃ HỘI THÀNH THIÊN ĐƢỜNG CỰC LẠC
MUÔN NĂM.
ĐỢI TA-TA ĐÃ ĐẾN!
Hợp nhất tại Tâm ( Tài liệu Cao Đài )
Thánh giáo Đức Chí Tôn:
"Tâm con là chỗ chí linh,
Là nơi hiệp nhất nhân sinh cùng Thầy''"(12)
Hay:
"Con có Thánh Tâm sẽ có Thầy,
Thầy là Cha cả khắp Đông Tây;
Đông Tây dù biết hay không biết
Thì đức háo sanh vẫn thế này"(13)
Trƣớc khi "Khai Minh Đại Đạo" Ngài đã nhắc đến Thánh Tâm vào ngày 20.4
Bính Dần (31.5.1926): "Thánh Tâm dầu phải chịu khổ trần đi nữa, thì chất nó
cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi."(14)
Ngài chấp nhận lâm phàm nhƣng chỉ chứng vào nơi trong sạch nhất của con
ngƣời. "Thầy những mong ở một cõi lòng trong sạch nhứt nơi trần gian, Thầy
chứng vào đó để cứu rỗi con cái của thầy trong kỳ mạt kiếp..."(15)
Sứ mạng Đại thừa Thiên Đạo:( Tài liệu Cao Đài )-Quy tâm, quy Nhất để đạt
đƣợc lòng bao dung bác ái, cho nên quy tâm với tâm hạnh đại thừa chính là sứ
mạng Đại Thừa tận độ chúng sanh. Do đó, Đức Vô Cực Từ Tôn dạy về sứ mạng
Đại Thừa và Thiên Đạo Đại Thừa nhƣ sau
“Đại Thừa pháp con ôi giản dị,
Do âm dƣơng thần khí vận hành;
Trong cơn động tịnh khinh thanh,
Lắng lòng tƣ dục Đạo lần hoằng dƣơng.
Tâm Đạo giữ lập trƣờng Thiên Đạo,
Thiên Đạo là toàn hảo, toàn chơn;
Bao la trùm khắp vô ngần
Háo sanh đức cả tình thƣơng vạn loài”....
Nhƣ vậy-Thiên Đạo là ĐẠO TRỜI-CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT PHÉP TU
ĐƠN GIẢN.
400
Nên, nay Ta đến với Pháp Tối cao này.
-Vì đời Mạt Pháp, ma quỉ cực kỳ nhiều, lộng nhiễu tâm linh, nên Thiên đình
không cho Pháp chủ đƣợc lộ diện-Ngài là một cán bộ-ĐV-không thể xuất thế-gia
đình cách mạng nổi tiếng; sẽ bị ma quỉ xã hội làm hại ngay; vì các con đã biết
các Giáo chủ Thiên chúa, Phật, rồi đến các đạo Baha‟i, Cao Đài…đã bị hại thế
nào rồi; chƣa kể vô số kẻ đố kỵ, ganh ghét…rất nguy hiểm. Nên sau khi Vua Cha
giáng lâm và Đức Di Lặc ( Ta) điển giáng dạy Pháp, hóa bóng vào Kim Thân
giảng dạy, Vua Cha nay đã về Trời, sau khi trao cho các con Chính Pháp này.
Kim Thân của Cha cũng cho lui vào ở ẩn rồi. Tất nhiên kẻ nào phạm nhầm ám
hại mạng Kim thân của Cha, thì xác hồn nó sẽ bị giết chết trong phút sau đó,
toàn tòng gia tộc 9 đời xóa sạch, toàn bộ cơ quan chúng nó sẽ bị Trời giết hết
cùng toàn bộ con cháu chúng nó; đất nƣớc đó bị thiên tai thảm họa cùng khốn!
Hãy đọc lại lời Lão Tử dạy: “ Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu, thánh
nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kì do thác thƣợc hồ?
Hƣ nhi bất khuất, động nhi dũ xuất. Đa ngôn sác (sổ) cùng, bất nhƣ thủ trung”-
Dịch: Trời đất bất nhân, coi vạn vật nhƣ chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm
họ nhƣ chó rơm. Khoảng giữa trời đất nhƣ ống bễ, hƣ không mà không kiệt,
càng chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không
bằng giữ sự hƣ tĩnh.
LỜI BÀN-Trời đất, tức luật thiên nhiên, không có tình thƣơng của con ngƣời
(bất nhân) không tƣ vị với vật nào, cứ thản nhiên đối với vạn vật, lẽ đó dễ hiểu
mà loài ngƣời thời nào và ở đâu cũng thƣờng trách tạo hóa nhƣ vậy. Những
câu: ƣu thắng liệt bại, cạnh tranh để sinh tồn, tài giả bồi chi, khuynh giả phúc
chi, có sinh thì có tử… đều diễn ý cái ý “thiên địa bất nhân”. Đang thời thì
dùng, quá thời thì bỏ nhƣ cây cối xuân hạ tƣơi tốt, khi trổ hoa kết trái rồi qua
thu đông thì điêu tàn. Cho nên Lão tử bảo trời đất coi vạn vật nhƣ chó rơm. )
(Tầm).
Bậc Thánh Nhân thì hành sự theo Đạo Trời-tức nguyên lý của tự nhieenn. Trên
cõi cao bọn Ta hành sự để làm cho vũ trụ này tồn tại, tất cả những gì chống lại
nguyên lý Vũ trụ-thì gọi là Tà; tất cả những gì làm cho vũ trụ tồn tại tốt hơn
gọi là Chính. Còn mọi trò diễn-của Thƣợng đế, của thần thánh, mà kẻ phàm phu
học ngắn lơ mơ chƣa biết rõ, còn gọi là chƣa MINH TRIẾT-thì chớ cân đo nghĩ
bàn...Bởi Ta cũng nhƣ các thần thánh, coi sự đời, số phận hiện tại của con ngƣời
là một kịch bản một trò diễn….còn CHÂN LÝ thì vĩnh viễn, bất tử. Nên, có vô
số thần thánh trên cao là vua sao, minh triết thần thông quảng đại, xuống trần đôi
khi thất học-nhƣng để làm một nhiệm vụ của Thƣợng đế…
-Ta kể thêm: Lại có không ít đứa khỏi cần cha mẹ trần huống gì cha mẹ Trời,
trách chửi cả Thƣợng đế, hoặc có vong hồn chửi cha mẹ Trời làm cho nó khổ; thì
Ta vẫn nói nó từ hàng chấy rận tiến lên làm ngƣời, lúc chấy rận thì hút máu
ngƣời, lúc tiến lên làm ngƣời thì hút máu nhân dân, rồi hút máu của Thƣợng đế
401
để tồn tại, tức nó cũng hút hít phá phách giết chóc ăn mặn đái khai khắp nơi,
không cho thì nó cƣớp...nên khi chúng nó chết đi, đấu khẩu cả với Thầy nó-nên
nó xuống lại thành chấy rận...Nó dù có ngủ với cả ngàn con đĩ-thƣờng toàn do
Tiên nữ con các sao giáng trần xuống dạy lũ đực, hoặc chuyển hóa các con, mà
nghe theo Thần Thánh-Cha Mẹ, vẫn là CHÍNH-hãy xem trƣớc kia có nhiều
Thánh Ấn Độ đƣợc mấy con đĩ nó giảng đạo mà mở mắt ra đốn ngộ đấy-vậy,
hàng vua chúa, nguyên thủ có thấy con ăn mày, đứa giẻ rách nào nó giảng, dạy
thì cố mà nghe, rồi thoát luân hồi nhé....Rồi có ăn chay, hay cạo đầu, hay cực kỳ
đạo đức, nhƣng biết Thánh đến dạy hoặc Lệnh Thiên cơ mà chửi tục vào, phẩy
tay bỏ đi, thì vẫn là TÀ.
Nhiều Thiên Ma xuống trần gian khảo đảo loài ngƣời theo lệnh Thƣợng đế, nó
diễn trò gian ác, thử thách tiên phật lâm phàm-nó vẫn là chính; còn tiên phật biết
việc không nghe lời Thƣợng đế, thì hóa tà bất chính ngay…Chƣa một tiên phật
nào lâm phàm, chƣa một giáo chủ nào lâm phàm mà không bị Thiên Ma xuống
khảo đảo…Nhớ điều này!
Sau, Ta tiếp tục thử thách các con...
Nói thế, có nghĩa các con đắc Thiên Đạo này khó không? Ta nói: KHÓ NHẤT
TRONG MỌI PHÁP MÔN ĐÃ CÓ! Vào đến cửa Thiên Đạo đã khó, gặp Thầy
đã khó, mà phạm nhầm thất xuất một vài điều sơ xảy, không giống tính cách các
Thầy, coi nhƣ bỏ, hoặc phải học lại, chƣa nói chuyện đắc đạo trần gian, lên cõi
vô hình còn bị khảo đảo thử thách sau đó mới phong công điểm đạo. Thiên Đạo
gắn với xã hội Thánh Đức lâu dài vĩ đại, nên Ta không chi vội. Thầy pháp môn
này lọc học trò ghê gớm, có khi có cả chục học trò thờ Cha rồi, còn bắt gỡ
xuống, không cho thờ nữa; có học trò vì phạm thất xuất, khi bỏ xác về trời, đau
khổ vì để mất cơ hội tiến công học hỏi. Ta không cho về cung cũ đã đành mà
không cho một cung riêng nào, bắt phải đầu thai trở lại… Các trò nếu học đƣợc
lý thuyết, thì giữ lấy làm nền, xuống trần thì cẩn trọng khéo léo bí nhiệm mà học,
rồi có ngày thành quả phúc; nếu không học thì về không xuống học lại; chống lại
thì đọa, diệt…
Nỗi sợ làm bé các con, làm cho vía xấu đi, nhƣng nếu không làm ma quỷ sợ, thì
đến vũ trụ này cũng sụp đổ mà sự sống cũng chẳng còn, nên thà làm chúng ma
sợ còn hơn là không sợ; trong nhà thì có phép nhà, ra ngoài đƣờng thì có pháp
luật; có vẻ nhiều đứa muốn đốn ngộ-tự do-nhƣng chúng nó có về trên cao, thử ba
câu, ngạo mạn kiêu cao chửi lại, chớp mắt hồn tan mà thịt xƣơng cái xác chết
chôn cũng biến mất hóa Không lập tức. Tại sao? Vì phải có cách phòng bệnh
hơn chữa bệnh, phải có pháp luật với ma, luật với thần thánh. Tại sao? Tại vì
chúng nó còn học vô số thứ mới hiểu biết, toàn giác toàn tri, chứ học vẹt mấy
chữ dƣới trần, đã đòi hất đổ mọi đền thờ, cao ngạo...thì hồn liệu liệu!...
402
HỌC-TỪ TỪ TRẢI NGHIỆM-KIỂM NGHIỆM XUNG QUANH-CHỌN CÁI
PHỔ BIẾN-NHƢNG LÀ CÁI ĐÖNG CỦA LUẬT TRỜI-THÌ KHÔNG LẦM
LẠC VÀO TÀ; CÕN NGƢỢC LẠI, LÀ BẤT CHÍNH-TỨC TÀ.
Vậy biết chính tà biểu hiện ra sao? Thì Ta nhắc lại:
“ TĨNH TẠI-HỒN NHIÊN-GIẢN DỊ-THIỀN TỊNH LÀ PHÉP TU CƠ BẢN-
SỐNG CHẬM, GIẢN DỊ, HIỀN HẬU LÀ CÁCH SỐNG CHỦ YẾU-để làm cho
linh hồn đó gần và giống Thƣợng đế-tức là trở về cái bản tính Gốc của Vũ trụ-để
làm cho vũ trụ tốt lên, dày dặn và bình ổn hơn, vì trong các cõi cao, thì thuộc
tính TRẦM-ỔN-TĨNH-THANH-SÁNG-là chủ Gốc-Vậy thì tất cả các tính cách,
thuộc tính trái ngƣợc với các điều trên, đều bị Thƣợng đế thử thách, cho đến tiêu
diệt không thƣơng tiếc”.
Luật Thánh Đức lập xã hội Thánh Đức sẽ tạo ra loài ngƣời mới-đáp ứng đƣợc
tiêu chí thánh thiện của môi trƣờng sống, của đời sống nhân loại tƣơng lai. Đó là
lý do Thƣợng đế sẽ tiêu diệt xã hội loài ngƣời hiện nay, để chuyển sang thời
Thánh Đức trong tƣơng lai. Và điều này sẽ thực hiện bằng đƣợc.
Nay Ta dạy lũ bất chính một chút-( Xin phép các con cao quý)-trƣớc dỗ dành
nhiều rồi, cũng đã hứa thƣởng, lên thiên đƣờng có nhiều gái đẹp thức ăn ngon
rồi; rồi dạy sống ép xác, khổ hạnh; cho đói nghèo, chiến tranh, bệnh họa...rồi
nhiều tôn giáo này nọ cao, thấp...đều là cách rèn luyện cho các ngƣơi sống
đúng Luật Trời mà thôi.
THƢỢNG ĐẾ ĐÃ DẠY LOÀI NGƢỜI NHƢ SAU:
1-Cho đói khổ cay đắng để rèn tính nhẫn nhục, can trƣờng, không nghiêng ngả,
có ý chí phi thƣờng để gặp sự bất chính không tha, gặp cái ác thì diệt, gặp cái
đau khổ thì thƣơng, gặp cùng đƣờng thì cứu, gặp ma quỉ thì biết phân biệt tốt xấu
ngay gian, gặp cái ác thì không lầm lẫn sa vào đƣờng tà mị, vào nƣớc quỷ; không
tham ác cái không do sức mình bỏ ra, không hƣởng quá cái sức mình đã có;
không tranh tham lợi lạc của ngƣời…( Chứ không phải là nghèo khổ rồi thì hằn
thù kẻ sang giàu, lúc loạn thì lao ra đƣờng cƣớp bóc…). Điều quan trọng nhất
của sự rèn luyện này là tiến đến trình độ làm chủ tƣ tƣởng, điều tiết đƣợc tƣ
tƣởng, chế ngự đƣợc dục vọng. Kẻ chƣa biết chế ngự dục vọng và huyễn ngã (cái
tôi cá nhân)-thì coi nhƣ chƣa tiến hóa cao.
2-Cho hèn để biết vinh nhục thế gian, để hiểu cái vinh nhục ở đời mà phấn đấu
cải tạo xã hội và chính đời mình, chống bất công bất bình đẳng. Hiểu chính
quyền và quyền lực chân chính nó phải là lành thiện tiến bộ, chứ không thị
quyền giả trá, uy tín giả…( Chứ không phải là căm thù quyền lực chân chính,
thấy cái to hơn, mạnh hơn thì hận thù cƣớp lấy).
3-Cho bệnh tật để rèn luyện chịu đựng đau đớn, khi ma tà nó hành khảo, thì hận
thù nó mà dạy giáo, hoặc diệt nó. Hiểu đƣợc nguyên lý thành trụ hoại không,
sinh bệnh lão tử để tu luyện cho thân tâm an lạc.
403
4-Cho họa chiến tranh để biết thế nào là phi nghĩa, chính nghĩa, gian ác xảo trá,
ngụy tà môi lƣỡi với lòng chính khí giữ tính cách phi phàm để xây độ bảo vệ cái
thiện lƣơng.
5-Cho sống biến họa, dị thƣờng thay đổi liên tục, ganh đua họa hại bon chen,
buôn bán láo nháo; đấu đá vì miếng cơm bát cháo, vì ngôi ghế địa vị-rồi hất đổ,
phá tan, diệt hết…là để dạy đến lúc phải biết sợ cái gian tham, cái thích hƣởng
thụ cao thừa mứa trên xác và đau khổ của ngƣời khác…đến lúc loài ngƣời chọn
sống hiền lành, đời hiền hậu, cách suy nghĩ, hành động đơn giản mà sâu sắc nhân
hậu; sống chay thiện đã đành mà còn ăn ít, dùng ít, sống hiền hiếu hợp với cái
chân chất của tự nhiên; thần tiên thì kiệm lời mà sống đơn giản, gần tự nhiên;
tính cách trầm ổn-thanh sáng dày dặn cái sáng, chứ không thâm hiểm đen tối nhƣ
ma quỷ, nhƣ bọn buôn bán tối ngày tính toán thiệt hơn, cạnh tranh, giảo trá đạo
đức giả… rồi nó phóng tƣ tƣởng đen đặc lên bầu trời…
Xã hội Tƣ bản làm no cái bụng, làm sƣớng cái thân nhƣng làm đau cái đầu, làm
cho ngƣời biến thành súc vật với nhau nhiều hơn, làm rối loạn địa cầu, làm tan
nguyên khí vũ trụ-cho dù chúng nó ca tụng sự tự do, bình đẳng. sung
sƣớng…Nhƣng nó làm đau đầu Thƣợng đế, làm rối loạn trung thƣợng giới…nên
phải diệt tuyệt sau này để chuyển sang thời đại bình an no ấm cực lạc…
6-Kính thờ Cha Mẹ trần, để hiểu công nuôi dƣỡng của Cha Mẹ Trời sau này.
Kính thờ Trời để tôn vì và bảo vệ Vũ trụ. Tất cả các tính cách rèn tốt, cuối cùng
là để rèn con cái của Cha tôn vì tuân theo các đặc tính của Thƣợng đế muôn
đời, nhẫn nhịn-không chống lại Cha Mẹ, nếu chống lại sẽ rối loạn vũ trụ. Giống
nhƣ cha mẹ trần, Vũ trụ là ngôi nhà chung, Thƣợng đế và Mẫu Vƣơng là Cha Mẹ
chung-luôn luôn dạy bảo để các con HIỀN HIẾU-TIẾN BỘ TRƢỞNG THÀNH
BẰNG CHA MẸ; Ngƣợc lại, nếu hỗn láo, bất hiếu, nói không nghe, tìm cách
chống ý Thƣợng đế, đều bị xử phạt; dạy con đến cấp Thiên Vƣơng-đều là nhƣ
thế; có đánh mắng con không dám chửi lại, không dám hỗn báng; chửi nhục
không dám bỏ đi; sai việc thì phải làm, đi đâu thì phải báo cáo; làm cái gì thì
phải thông báo; cho cái gì mới đƣợc nhận không dám đòi. Trong nhà cha bố trên
tất cả, rồi phép tắc trong nhà trên dƣới rõ ràng; anh em có nhà cửa riêng không
chiếm dụng của nhau, tôn trọng nhau trong đời sống riêng tƣ…
Nhƣ thế mới là HỢP NHẤT VỚI THƢỢNG ĐẾ. Cho nên, mọi kẻ đắc đạo trần
gian, lên đến trời cao này, mà không có đƣợc những tính cách phi thƣờng đó, đều
phải xuống học lại! Nhớ rõ nhƣ thế, trên các cõi cao, các sao, các hành tinh và
mọi đẳng linh hồn đều TÔN VÌ CHA MẸ TRỜI NHƢ DƢỚI TRẦN GIAN
TÔN VÌ CHA MẸ TRỜI -CỨ LÀM TRÁI ĐẠO LÝ NÀY, THÌ BỊ GIÁNG
PHẠT-CHƢA LÀM ĐÖNG NGUYÊN LÝ CỦA LUẬT TRỜI VÀ ĐẠO LÝ
CÕI TRỜI, THÌ PHẢI HỌC TIẾP…Muốn tồn tại, thì phải theo Luật Trời.
Trên cõi cao, linh hồn trở về hoặc các thần thánh mà cãi lệnh Thƣợng đế hay
các Thần thánh cao cấp, sẽ đƣợc hỏi đúng 3 câu: Tại sao lại cãi lại? Vì con
404
không muốn…Tại sao không muốn? Vì con thích cái việc này…Tại sao không
làm theo Chính việc nguyên lý này? Loanh quanh không giải thích đƣợc, hoặc cố
tình nói cãi thêm một câu, thì hóa diệt hồn cho đi đầu thai đọa phạt ngay lập
tức!…
Cha Mẹ Trời cũng đã từng bị nhục nhã vì các ngƣơi đã nhiều, phân gio các
ngƣơi đổ vào mặt rồi-Các ngƣơi từng giết Chúa Chist-các ngƣơi biết đó là ai
không? Đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn con cả của Chúa Trời giáng thế-Đạo Cao
Đài nói chƣa rõ đâu, trên cõi cao, ông ấy là Tổng Tƣ Lệnh của các Thiên Vƣơng-
nhƣ Thủ tƣớng của Vũ trụ vậy, công phẩm cực cao-vì thƣơng loài ngƣời mà
xuống trần gian gieo đạo, rồi hy sinh thân mình để cứu chuộc cho nhân loại; các
ngƣơi có biết Phạm Công Tắc là ai không? Là ông ấy quay lại...các ngƣơi đã
từng ăn thịt Thƣợng đế nhiều lần rồi..., định giết Phật nhiều lần, giết giáo chủ
Bhai”l, Hòa Hảo, Cao Đài...rồi Cha Mẹ nhục nhã bị phân các ngƣơi đổ lên đầu
rồi-nhiều đứa thấy mƣa gió thì chửi trời chửi đất, lấy danh Ngọc Hoàng ra để
diễn kịch hài láo lếu…Ngọc Hoàng Thƣợng đế là THỨ CÓ THẬT, SINH RA
TẤT CẢ CÁC CON, NÓI VUI THÌ ĐƢỢC, MÀ HỖN BÁNG THÌ TAM GIÁO
TÕA KHẢO TỘI KINH KHIẾP VÀ CHƢ THIÊN GIÁNG PHẠT…
cái thằng pháp chủ Thiên Đạo này này, nó đã từng là một thằng công nhân kỹ
thuật, rồi chuyên đi sục thông bồn cầu và nƣớc thải, đi đâu cũng bị ngƣời ta bắt
nạt, dẫm chân lên đầu, thậm chí bị hãm hại ghê gớm, cuộc đời bình thƣờng mà là
nhân tài hiệt kiệt. Nó “nín thở qua hầm cầu” rồi đấy, chƣa tính chuyện ngụp
trong phân gio...
Ta dạy con bất chính này: Bảo các ngƣơi xuống chợ mua đồ cho Cha, mày
xuống, mày chui vào quán nhậu, rồi lang thang, tiêu hết cả tiền ( Nguyên khí
Gốc-Thiên tính-Thiên Lƣơng), rồi nhắc các ngƣơi về, các ngƣơi không về, lại
còn gân cổ chửi bới, chƣa kể các ngƣơi nghĩ cách làm hại cái thằng công sai của
Ta, thì thử xem Ta xử các ngƣơi thế nào? Ta bảo các ngƣơi làm thế này cho con
cái các ngƣơi no ấm, các ngƣơi không nghe, còn ăn hết phần con các ngƣơi, hỏi
xem Ta xử các ngƣơi thế nào? Thấy ngƣời khổ không động tâm, ngƣời đói rách
thì khinh miệt, ngƣời hiền thì các ngƣơi bắt nạt, ngƣời gian thì các ngƣơi khúm
núm nịnh bợ; ghét cái thiện hiền, châm ngòi cho kẻ láo khóet lƣu manh, ngoi lên
để bóp cổ dân lành; khinh bỉ bùn đất, coi thƣờng nông dân, ngƣời dân tộc (Tất cả
những ngƣời này, đều đa phần là các ngôi căn cao-hoặc sao cao hóa xuống nghỉ
ngơi-đặc biệt là ngƣời dân tộc); không thấy chúng nó khinh gà, lợn với rƣợu chè
do nông dân sản xuất. Ba mớ chữ, vênh váo kiêu cao, học vẹt là giỏi-cái nền
Tống Nho còn ẩn chứa nhiều ngữ nghĩa ám hại làm ngu muội Phƣơng Đông;
buôn gian bán lậu, nói năng đểu rả, tính cách khôn lỏi giảo họat; giở đủ trò đủ
thói khốn nạn với nhau; ác nhất là trù diệt hiền tài-nguyên khí của Vũ trụ-Ta
nhắc lại: HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ VŨ TRỤ. Thời đại nào, hiền tài bỏ đi,
405
các vị trí xã hội không dành cho ngƣời thực tài, thực đức, không thực sự dĩ công
vi thƣợng-hiếm lắm phải không? -thì thời đó sẽ suy tàn...
Ta dạy các ngƣơi bao lâu rồi, đến lúc các ngƣơi học giỏi rồi, vứt sách đi, rồi chửi
thống trở lại, xem Ta xử các ngƣơi thế nào? Hàng ngày Ta xuất khí cho các
ngƣơi sống, Cha Mẹ chăm các ngƣơi từ lúc hoài thai hồn xác-8 tháng Mẹ mang
bầu trên cõi Trời mới sinh đƣợc ra một hồn xác, đỏ hỏn, dạy từ lúc biết đi biết
chạy đến nay...đến lúc Ta bảo các ngƣơi mấy việc nhỏ theo Cha, Thầy, các ngƣơi
không nghe, còn nói: tao không phải con mày, thậm chí còn chửi Cha, Mẹ, các
Anh Chị..thì xử các ngƣơi thế nào? Các ngƣơi cần nhớ lại vốn dĩ toàn cõi vũ trụ
là một đại gia đình mà thôi...Trên cao nhƣ một gia đình, Cha có đánh chửi dạy
dỗ, thƣởng phạt bình thƣờng nhƣ một ngƣời Bố ở cõi trần, cũng giao việc, cũng
dạy, cũng phân cung cõi nhƣ cho nhà cửa, gả vợ chồng cho, không khác trần thế;
kẻ nào ngoan, hiền, tốt, cho lên cao, kẻ xấu đọa xuống cho đúng nguyên lý vũ
trụ, kẻ cần đi đầu thai là phải đi học hỏi thêm, kẻ cao phẩm phải đầu thai giúp
loài ngƣời là phải ra đi, có khi cực kỳ mệt mỏi, đau đớn, số phận bập dầm...mệt
lắm, rồi về; thế nên các tiên phật rất mệt mỏi vì loài ngƣời rồi, có lúc họ chán
nản vô cùng!...
Cõi cao không phải Thƣợng đế phân tính ra linh hồn các ngƣơi bình thƣờng đâu,
mà Thƣợng đế vừa phân thân linh hồn ra, còn Vƣơng Mẫu tạo xác thần thánh
chửa đẻ nhƣ ngƣời thƣờng-chửa mang bầu 8 tháng 35 ngày-mới sinh đƣợc một
thần thánh nguyên thủy-gốc xƣa. Mẹ Trời ôm bụng bầu lặc lè đi chơi trên cõi
Trời kia...Mật độ nào cũng có nguyên lý Gốc-giống nhau-nhƣ các con chửa bầu
ở cõi trần gian thôi. Đó là Bà Mẹ Tối cao duy nhất của tất cả lũ các con...Đó là
sự thật, đến Thích Ca kia kìa, sau khi về trời, Cha dạy, đã hiểu biết nhớ lại, rồi
Cha cho lấy vợ tiên; hiện đang xuống ở VN rồi, năm nay 55 tuổi trần (sinh
1960), có vợ con bình thƣờng. Adiđà cũng đang ở VN, năm nay 52 tuổi trần
(sinh 1963)-khỏi cần các ngƣời tìm về, ông ấy đi làm thuê thợ thuyền và buôn cá
thôi, có gặp thì ông ấy cũng chẳng biết mình là ai...Thoát luân hồi có hay không,
có đƣợc hay còn xuống đời giúp Cha, sau các con sẽ biết…
Bài học đó con! Còn dài lắm...Xuống trần làm gì, các con phải biết. Tất cả là vì
Thánh Đức và chuẩn bị cho Thiên Đạo ra đời mà thôi. Thoát luân hồi là một khái
niệm, vì vũ trụ còn luân hồi, sụp đổ, tái tạo lại, huống gì mấy đẳng thần thánh
tiên phật...
Kim thân Cha mà còn đi làm công nhân, sục bồn cầu, thì Adiđà xuống trần làm
nghề đó là tử tế đấy...Hay-đẹp mỗi một cái là: Họ thiện-hiền, chân chất kỳ lạ; cái
đó là cái gì vậy? Ngọc trong đá, chuỗi ngọc có bị chuốt vứt trong bãi bùn thì vẫn
là Ngọc. Nên, cái đắc Vô Thƣợng Chân Nhân là cái đắc Thân có trọc nhƣng Tâm
bất trọc, vẫn Hoàn Nguyên mà thôi. Nên Cha, Thầy vẫn dạy Tu Tâm chứ không
tu gì hơn nữa.
406
Trái đất là cái nôi nuôi các ngƣơi, các ngƣơi tha hồ đập phá, ngăn sông, chặn núi,
phá long mạch, phóng uế mọi khí thải và mọi cái thối của tƣ tƣởng các ngƣơi lên
cao, làm bọn Ta hít hết! Các ngƣơi phá tan rừng rú, biến Trái đất xanh thành trái
đất trọc, đến khi bão lũ nổi lên, cuốn trôi các ngƣơi, thì bảo bọn Ta cứu đƣợc các
ngƣơi sao...
Tôn giáo thì bảo các ngƣơi tu học, chứ đâu có bảo các ngƣơi đi cầu xin, hát hò...
Phật bảo cúng cho chúng tăng, thì Phật cho nhiều tài lộc, độ sinh à? Thì cứ cầu
xin thần thánh phật phù hộ cho đi buôn lậu lọt lƣới, lên làm quan to kiếm thêm
lộc, học dốt đậu trƣờng cao, hút hít nhậu nhẹt cho nhẹ bệnh tật; cứ khấn thần
thánh cho tốt, xây chùa nhiều, rồi trong cơ quan thì lừa đảo đấu đá hãm hại giết
nhau đi. Các con cứ hát Thánh ca nhiều vào, nhƣng nhớ đóng góp kiệt sức dân
xây Nhà Thờ, rồi chống Cộng-các ngƣơi không hiểu Cộng sản là gì đâu. Cái
Chúa Christ ngày xƣa mang tƣ tƣởng Cộng sản xuống rồi, đến Phật Thích Ca
cũng mang xuống, rồi rất nhiều lần Ta cũng dạy rồi; chƣa làm tốt, là vì cái thúng
bụng mà thôi, chứ cứ nghĩ đến lúc chết, không mang đƣợc xu nào trong bị, đến
cõi thần, bị các thần đá văng xuống địa ngục học lại, lúc đấy nhớ lời Ta dạy ở
đây...Các ngƣơi cứ cầu Chúa thỏa mái, rồi đem bom đạn giết nhau, cầu Chúa
may mắn giết nhau; cứ cầu Thánh Allah thỏa mái, nhƣng hai dòng các ngƣơi cứ
giết nhau cho thật oanh liệt vào, hy sinh thật cao quý vào, tử vì đạo càng thống
thiết vào, lên cao Ta cho chui hết vào hỏa ngục! Ta cũng là Misen đây, cũng là
Ngôi Hai đây, cũng là Christ ngày xƣa đây...Mohammed không ai khác chính là
Ngôi Hai giáng thế trở lại giúp Cha...
Cái khó là Cabal nó phản Thiên Chúa-nhƣng đôi khi các con không hiểu, Thiên
Chúa cũng tạo ra Cabal, bảo nó làm việc thế này, thế này...Nhƣng rồi nó cũng
biến thái đi, nên Ta lại bảo các con Ta là hãy diệt hết các sự chống Ý Ta. Kẻ nào
không theo Ý Ta, thì có diễn trò gì rồi cũng bị ném xuống Mồ Không Đáy. Nên,
các con Thiên Chúa hãy yên tâm cầu nguyện nền Đại Đồng, khi sự dữ đến, các
con cũng biết đƣờng mà tránh họa vạn năm sau...
Nên nhớ, chui vào Hỏa ngục, đau đớn cực kỳ, chứ bị bom, đạn, tự tử bằng bom,
chớp mắt một cái là hết, là chết, đôi khi chỉ ngất đi, đã thấy hồn rời xác. Nhƣng
sau đó không thấy ánh sáng đâu, chỉ thấy toàn địa ngục. Hiện nay, Hỏa ngục, Địa
ngục đã giăng sẵn rồi, đừng tƣởng không có hỏa ngục địa ngục; cái bẫy đã tiếp
tục giƣơng ra để chờ tất cả những kẻ chống Trời, chống Ta....Ngày Phán Xét sẽ
rất dài, chứ không phải một ngày đâu-cho tất cả những kẻ không vâng lời ….
THIÊN PHÁP:
-Một số nội dung của Thiên Pháp đã đƣợc Thiên đình yêu cầu sửa chỉnh lại và
bổ sung; nay chỉ cho gieo Thiên Pháp 2 cấp phổ biến và Hƣớng dẫn Thờ Vua
Cha, cùng một số phép Lễ, phép tâm linh, cho phù hợp với thời này. Tất cả các
Phép tế lễ…sẽ đƣợc các thần thánh Thiên đình chứng ứng.
407
-Tất cả ngƣời học Thiên Pháp phải tự tu tự chứng, không lạm bàn trên mạng,
không lập Nhóm nọ kia trên mạng ( Pháp chủ cũng đã dạy nhiều lần rồi), cả
Thiên Pháp và Thánh Đức Hội đều do Thiên đình gieo trồng; đã có nhiều mật vụ
cài vào phá hoại không cho phát triển; làm khuấy nhiễu Pháp...Học Thiên Pháp,
là làm cho thân mạng mình trở về với NGUỒN, quan trọng hơn là GÓP PHẦN
LÀM CHO VŨ TRỤ VỮNG MẠNH HƠN=CÂN BẰNG ÂM DƢƠNG NỘI
THỂ BẢN MỆNH VÀ LINH HỒN-GIÖP TIẾN HÓA LINH HỒN.
-Này, cẩn thận hỡi mấy chục đứa con ngoài giá thú của Ta, Thiên Pháp nó bỏ
VN đi, thì cả PHƢỜNG CHÈO các ngƣơi sẽ cùng khốn...Nó cũng không làm gì
phƣơng hại đến tiền lƣơng của các ngƣơi đâu, lộc tài các ngƣơi còn phất đến
giữa Thế kỷ này cùng Thế giới...
Này các con! Dần dần...hàng vạn vạn năm sau, Thầy các ngƣơi sẽ dần dạy dỗ
các ngƣơi-vô số kiếp nữa các con! Các con có nhìn thấy Hỏa Ngục khủng khiếp
trên Trung Giới chƣa? Các con cứ hình dung là con gà sống bị nƣớng cho các
Thiên ma nhắm rƣợu-rồi thui chó sống thế nào, ngoài ra còn Vạc dầu sôi sùng
sục, 12 tầng Địa Ngục-Ta mới cho lập thêm 3 tầng nữa...Các ngƣơi có biết tại
sao Cha các ngƣơi lại gieo đạo ở VN không? Hễ trả lời đƣợc, Ta tha cho nhẹ tội-
hãy im lặng, cắm đầu kiếm cơm chỗ khác, nếu không sau này khi xác chúng mày
tung bay lên trời cao, hồn còn nhếch nhác thua cả ma súc vật; lúc đó có nhỏ máu
mắt lạy lục xin tha cũng muộn, mà toàn tông tộc các ngƣơi lẫn quê hƣơng, rồi
dân chúng các ngƣơi cũng khổ lây...Lúc ấy chớ trách Lão Già Di Lặc này, vì lúc
ấy Ta cho các ngƣơi xem cảnh phun thuốc sâu trừ bọ và sâu thối thế nào-để bảo
vệ lúa-tức là các con lành thiện của Ta. Đại Bi đấy con! Các ngƣơi cũng phải
biết rằng: CHƢ THIÊN TỪNG THƢỜNG DẠY DỖ, CHỬI MÓC CHO LŨ MA
CAY KHỔ kinh khủng! Có những đòn dạy khủng khiếp mà ngƣời thế gian các
ngƣơi chƣa hình dung nổi.
THIÊN ĐẠO LÀ ĐẠO TỪ BI VĨ ĐẠI NHẤT MÀ THƢỢNG ĐẾ DÀNH CHO
NHÂN LOẠI.
Pháp này lẽ ra là Pháp mật truyền, dành cho thời Mới; đến Tối Thƣợng Du Già
của Mật Tông khai Hỏa xà còn mật truyền, sau khi thử thách nhiều, huống gì
Thiên Pháp cấp 2 đã khai Long Hỏa. Chƣa cần học cao hơn nữa, cao hơn mà tâm
loạn, rất nguy; các phần Thiên Pháp mật truyền không đƣợc phép dạy rộng rãi,
không đƣợc chứng nếu Ta không cho phép học hoặc đƣợc học. Nên, các con
phải hết sức bí nhiệm mà tu luyện, nếu láo nháo, tất rối loạn bản lai các con trên
cao và hồn con có thể bị tẩu hỏa, không ai cứu đƣợc. Nên học Thiền là chính,
khai dẫn các kinh mạch huyệt và sống Thiện, sau cũng đƣợc chứng ngộ và đƣợc
phong công ngay sau khi mãn kiếp, đƣợc lên các Thiên đƣờng và các cõi cao.
( NÓI GỌN LÀ TU THIỀN SỐNG THIỆN-Chỉ cần nhƣ thế!)
Với Thiên Đạo, kính thờ Cha nhƣ đã hƣớng dẫn là cách để thần học và tâm linh
hợp nhất tín ngƣỡng về Cha, chấp nhận Thiên Phù là biểu tƣợng hợp nhất về
408
thần học vũ trụ. Lâu dài, thì nhân loại thời Thánh Đức sẽ hợp nhất về Thiên Đạo
và ở trong Thiên Đạo, dù có lâu dài, đó là tất yếu, không thể đảo ngƣợc, cũng
nhƣ con đƣờng xây dựng Thiên đƣờng Thánh Đức Đại Đồng an lạc miên viễn
sau này là không thể đảo ngƣợc.
Nên, các con mà gặp đƣợc Pháp này, thì hãy học, bí nhiệm tự học, bảo nhau mà
học cho khéo. Tất cả những đứa mà học Thiên Pháp có tu thiền thƣờng xuyên,
học công phu thiền định nhƣ hƣớng dẫn, sống bình lặng, rồi phát tâm cầu một
nền hòa bình Thánh Đức, khôn khéo bảo nhau truyền Pháp, nhất là truyền ra
nƣớc ngoài, vùng Ấn, Đông Nam Á, Nga, Öc, Châu Phi, Nam Mỹ...thì sau khi về
trời, Cha và Ta sẽ chấm đậu công cao.
Hiện Thiên Pháp và cách tu luyện thân tâm này họat hóa khai mở các huyệt đạo,
công phu lọc sạch vía bẩn, khí bẩn, tu thiền tịnh, sống đạo đời hợp nhất, sẽ là
Pháp tu luyện hợp lý nhất, đƣợc Ta đánh giá cao hơn cả Mật Tông, dự kiến số
lƣợng linh hồn về Trời sẽ rất cao, nhân loại mà tu Thiên Pháp thì sẽ thành ánh
sáng cả trái đất này, nâng đỡ cả trái đất này lên các cung trƣờng năng lƣợng cao
hơn; và Ta sẽ chấm chọn đƣợc những linh hồn cao quý sau này.
Mà Long Hoa Đại hội phong công trên cao vẫn còn có đấy, còn lâu mới hết,
chờ các con về, lâu dài….
Các con khéo léo lập Nhóm tu học và thờ Vua Cha riêng, bí nhiệm, không cần
phải quan hệ trên mạng. Vì ma quỉ sẽ xâm nhập phá báng và an ninh theo dõi
phá rất mạnh. Ai tu học thế nào, kẻ phá rối thế nào, các thần thánh và Thầy, Cha
đều đã nhìn thấy hết. Kẻ ác vào xâm nhập pháp môn phá hại, trên cao đều đã biết
và nhìn rõ chân mạng chúng nó. Rồi đây cả ngàn triệu kiếp đầu thai súc sinh
hoặc bị hủy diệt linh hồn sau khi chúng mãn kiếp; đƣờng con cháu chúng nó
cũng tuyệt diệt mãn hết. Các con đã biết Đạo Trời thế nào rồi và hãy ghi nhớ bài
học về các thời xƣa-Át-lan-tic hay các thời vừa qua. Tất cả các kẻ lành thiện xây
dựng Thiên Đạo, sẽ đƣợc độ rỗi trong điều kiện xấu nhất của loài ngƣời...sẽ có
chỉ báo đặc biệt khi cần...
* * *
-Thiên đình sẽ trừng phạt khủng khiếp tất cả những kẻ chống Thiên Đạo, vì
đây là Đạo Tối cao cuối cùng của loài ngƣời, để lập thời đại Thánh Đức hàng
vạn vạn năm sắp tới-không có Pháp nào khác nữa, nếu có ma quỉ gieo Pháp bàng
môn, hoặc lợi dụng tạo pháp mới, xƣng ngôi này nọ... sẽ tru diệt không thƣơng
tiếc.
-Để chuẩn bị cho Pháp môn này, trong 3000 năm qua, hàng ngàn vạn lƣợt
thần thánh đã xuống chuẩn bị, hàng trăm cuộc chiến tranh để chuyển hóa
nhận thức loài ngƣời, nhiều tôn giáo ra đời chuẩn bị con đƣờng Đại Đồng,
nhiều triết thuyết, trong đó có chế độ Cộng sản hình thành-do Tam Điểm
Hội thành lập- để chuẩn bị hợp nhất tôn giáo và nhân loại-Không biết bao
nhiêu công sức, xƣơng máu của bao thần thánh và các con đã đổ xuống, để
409
hy vọng có một cuộc tiến hóa vạn năm lên Đại Đồng Thánh Đức; để có Pháp
môn Thiên Đạo và có một học thuyết hoàn bị về giải phóng loài ngƣời, đó là
HỌC THUYẾT ĐẠI ĐỒNG-THÁNH ĐỨC.
-Ta nhắc lại: Các con phải thuộc nằm lòng ý nghĩa này: Để chuẩn bị cho
Pháp môn này, trong 3000 năm qua, hàng ngàn vạn lƣợt thần thánh đã xuống
chuẩn bị, hàng trăm cuộc chiến tranh để chuyển hóa nhận thức loài ngƣời, nhiều
tôn giáo ra đời chuẩn bị con đƣờng Đại Đồng, nhiều triết thuyết, trong đó có chế
độ Cộng sản hình thành-do Tam Điểm Hội thành lập- để chuẩn bị hợp nhất tôn
giáo và nhân loại-Không biết bao nhiêu công sức, xƣơng máu của bao thần
thánh và các con đã đổ xuống, để hy vọng có một cuộc tiến hóa vạn năm lên Đại
Đồng Thánh Đức; để có Pháp môn Thiên Đạo và có một học thuyết hoàn bị về
giải phóng loài ngƣời, đó là HỌC THUYẾT ĐẠI ĐỒNG-THÁNH ĐỨC.
Đó là sự thật! Đó là lịch sử của con đƣờng học hỏi, trải nghiệm, để loài ngƣời
chán ngán tội ác, chiến tranh, sự tham tàn của thói cơ hội tôn giáo, của sự tham
tàn thích bóc lột-tham công danh, tài lộc, địa vị, hơn thua; thích ăn trên ngồi trốc
hƣởng lộc của thiên hạ; bài học về lòng thù hận, tranh dành, đố kỵ, tỵ hiềm; bài
học về thói cá nhân tƣ lợi bất chấp luân lý, luật pháp, xƣơng máu nhân dân và
nhân loại; bài học về chiến tranh, máu xƣơng và tôn trọng nền độc lập cũng nhƣ
quyền bình đẳng, quyền sống của các dân tộc và con ngƣời...Bài học về ngụy tà
giả dối, lừa đảo nhân dân, cơ hội chính trị của mọi thế lực cầm quyền rao giảng
nhân quyền đạo đức nhƣng chúng quên mất cái thối tha của trái tim đen của
chúng...Bài học về tôn trọng sự sống của trái đất; bài học về sự thống nhất của
Vũ trụ trong sự bảo vệ tính chất an ổn và hiền hòa của vũ trụ, của sự tồn tại vũ
trụ. Từ nay, tất cả mọi toan tính lũng đoạn trái đất bất chính hay sự bất chính
của các tổ chức chống đối lại sự hợp nhất trong vũ trụ đều bị trả những giá đắt
ghê gớm, mà loài ngƣời trƣớc tiên là nạn nhân của thói tham tàn ngu xuẩn của
bọn thiên ma, bọn Satan chống ý Thƣợng đế...Thƣợng đế đã cho các con tự trải
nghiệm trong thế giới này đã lâu và đến lúc các con phải nhận thức lại chính
mình, cùng tiến hóa tiến bộ của nhân loại tƣơng lai...
Học đến nay đã chán chƣa? Chƣa chán đâu các con. Còn tham, còn hƣởng thụ,
tất nhiên còn mơ Chủ nghĩa Tƣ bản-con đẻ của sự tham lam vô độ và hỗn loạn
của con ngƣời. Nhƣng Ta dạy cho các ngƣơi có một xã hội mà hƣởng thụ cao
hơn, đồng đều hơn, nhƣng tất cả hòa đồng, yêu thƣơng và tôn trọng nhân phẩm
của nhau. Đó là xã hội Thánh Đức. Nhƣ một dòng sông xanh-thay vì đang có
một dòng sông đục. Vẫn dòng sông ấy mà con ngƣời và cảnh vật đều thanh sáng
yêu thƣơng nhau.
Các con hãy hình dung tƣơng lai loài ngƣời trong thời kỳ thế kỷ 21 này xem, khi
tất cả đều là những kho hận thù và kho vũ khí-cái gì sẽ đến?
Rồi mới đến Thánh Đức, khi các con chán ngán tất cả những thứ đó...
410
THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC LÀ MẦM SỐNG CỦA NHÂN LOẠI TƢƠNG
LAI, LÀ SỰ HY VỌNG TẤT YẾU CUỐI CÙNG CHO SỐ PHẬN HÕA BÌNH
KHẢ DĨ LÂU DÀI CỦA LOÀI NGƢỜI TIẾN BỘ-CÙNG SỰ THỨC TỈNH
TÂM LINH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI-KỶ NGUYÊN ÁNH SÁNG BẢO
BÌNH-NƠI MÀ BÓNG TỐI KHÔNG CÕN QUYỀN NGỰ TRỊ, SỰ BÌNH
ĐẲNG VÀ GIÁC NGỘ SẼ LÊN CAO, LÀM CHO NHÂN LOẠI BIẾT CHỌN
ĐƢỜNG TIẾN HÓA....
Nên, kỳ này, Ta-Tổng Tƣ Lệnh Cõi cao-thay Cha quản trị Càn Khôn ở đây tuyên
bố: kẻ nào mà chống Thiên Đạo, gây hậu quả, hoặc chống cơ hợp nhất sau này,
để tiến lên toàn thiện toàn tri Hoàn cầu Thánh Đức-thì nƣớc chống-sẽ diệt hết
các kẻ lãnh đạo; nếu cá nhân chống, thì diệt cả tổ tông trên cao cho đầu thai súc
sinh và tông tộc dƣới trần sẽ xóa hết-vì chúng nó đủ sức dạy dỗ lẫn nhau nếu biết
việc; nếu tổ chức chống lại-diệt cả tổ chức đó nếu cần. Quốc gia chống, diệt cả
quốc gia. Số đông chống lại, khó bề toàn hợp, sẽ sàng sảy cực lớn để thiết lập
Thánh Đức Thƣợng Ngƣơn Tái Tạo. Tất cả những đứa chống Thiên Đạo và
chống việc lập nền Thánh Đức Đại Đồng Cộng sản Thần thánh của Ta đều
không đƣợc đầu thai làm ngƣời, ít nhất là trong 700.000 năm sắp tới, mà Ta cho
đầu thai làm súc sinh-động vật cấp thấp, để nuôi dân Thánh Đức.
Ta cũng cảnh nhắc các con là Ta đây-Di Lặc Vƣơng Phật- Đấng LÂM PHÀM
xuống trần mƣợn xác phàm dạy Đạo đây, không phải giả tà, tá danh gì...Các linh
căn có thần thông thử soi có đúng Ta không? Linh thể của Ta đã hóa thân xuống
trần có vô số ngƣời, do Ta phân thân xuống, không chỉ Giáo chủ này, nên các
con lƣu ý, nhƣng chỉ ngƣời này mới đƣợc trổ phép dạy Đạo, sau khi đã nhồi
khảo thử thách Kim thân ngƣời này cả đời về sự nhẫn nhục, lành thiện và trau
dồi phẩm hạnh thƣơng xót con ngƣời khốn khổ...
Kinh Di Lặc Độ Thế là do Ta hóa xuống, và bắt đầu từ Thiên Đạo này, sẽ sàng
sảy các loại linh hồn, từ hồn ngƣời cho đến hồn cây, hồn thú, các loại hồn kim
thạch, thảo mộc...rồi các con sẽ biết Ta sẽ dạy tiếp mở đời thế nào...
Nền Đạo mà các tiên tri đã báo, chính là nền Thiên Đạo này đây, không có ĐẠO
khác nữa. Nên, Ta cũng nhắc các linh căn đã xuống trần giúp Ta mở đời lập thế.
Cha cho TPTT gieo Thiên Đạo này, là Pháp cứu độ nhân loại lâu dài, không có
ai gieo Pháp Đại Đồng và tu luyện cấp cao hơn nữa đâu; cao hơn Cha không cho
phép, vì loài ngƣời có tiến hóa đến đâu, sẽ học và bổ sung đến đấy. Học thuyết
Đại Đồng Thánh Đức thì Cha cho gieo bên Thánh Đức Hội Toàn cầu, là Hội khả
dĩ đem đến nền Đại Đồng sau này, nó không phải là tôn giáo, mà là một tổ chức
nhƣ Cabal mới vậy, ai theo Hội này, sẽ hƣởng phúc sau này.
411
CHƢƠNG II-CĂN DẶN CÁC TÔN GIÁO ĐANG CÓ Tạm thời tồn tại, xây dựng hòa bình, giữ nền chính đạo của mình và tiến
dần lên Thiên Đạo, xây nền hòa bình và thống nhất nhân loại trong thế kỷ
21 và sau đó...
-Thiên đình vẫn bảo vệ tất cả các tôn giáo chân chính do Thƣợng đế đã gieo
trồng là Đạo Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Do Thái Giáo, Baha‟i, Hồi
Giáo, Nho Giáo, Sikhism, đặc biệt là Cao Đài Giáo, Hòa Hảo, Minh Sƣ Đạo,
Phật Giáo, Phật Thầy Tây An, Thông Thiên Học …cho chuyển hóa lâu dài lên
Thiên Đạo. Nhƣng nhớ rằng, một số các tôn giáo này đã nhiễm lậu ghê gớm, chỉ
kính thờ Thƣợng đế mà quên bổn phận QUYẾT TÂM xây nền hòa bình Đại
Đồng thế giới, xây đời an vui đoàn kết nhân loại theo nguyên lý Thiên đƣờng tại
trần gian-không có nghĩa giàu, thừa thãi, đầy đủ vật chất là sung sƣớng-mà sống
đủ, lành thiện, không tranh đoạt, đấu đá mới là sung sƣớng…Nên, các con phải
đổi mới Chính Pháp thành xây đời xã hội…
Nhiều Pháp môn khí công, Yoga chân chính, có tu thiền tịnh, sống thiện đời,
phát tâm xây dựng Trái đất xanh, yêu thƣơng con ngƣời, ăn chay…tất cả đều là
chân chính và đƣợc Thiên Đình lƣu ý nâng đỡ tiến hóa và tồn tại lâu dài.
Loài ngƣời đã nhiễm lậu gian ác rất nhiều. Nên số lƣợng ngƣời về đƣợc Thiên
giới đƣợc phong công điểm đạo rất ít.
Tính đầu số đắc đạo, linh hồn giác ngộ và hƣởng quả phúc, thì Cao Đài-Hòa Hảo
chiếm cao nhất, sau đó tiếp đến Bha”i, sau đó đến Mật Tông, tiếp là Phật giáo
Nguyên thủy, Thông Thiên Học, Phật giáo Đại Thừa; Sikhism, Ấn độ giáo,
Thiên chúa Giáo, rồi mới đến Nho giáo (không thờ Trời mà sống lành thiện,
chân chính , rồi cuối cùng là Hồi giáo, Do Thái giáo…
Số các linh hồn về Trời đƣợc chấm là nhƣ thế. Đậu là đắc thoát luân hồi cõi thấp,
chuyển sinh lên cõi cao ngay, không đậu quay trở lại đầu thai cõi thấp, hoặc xấu
hơn đọa xuống làm súc sinh...
Số lƣợng đầu thai trở lại, hoặc lang thang dƣới các cảnh giới thấp là rất nhiều,
ngày càng nhiều và càng ngày rác tâm linh càng hỗn loạn.
Đây là lý do Thiên đình đã lập kế hoạch Long Hoa lần thứ 3 và chuẩn bị 3000
năm qua, để sàng lọc nhân loại, đƣa về thời Thƣợng cổ lạc hậu ngày xƣa, khi con
ngƣời sống giản đơn mà chân thật, hạnh phúc…Lẽ ra đã tận thế đúng nhƣ các
tôn giáo và các tiên tri dự báo…nhƣng đã thay đổi lại. Và dự kiến sẽ có thể diễn
ra bất cứ lúc nào. CHƢƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI CHƢA KHAI
DIỄN. Các con cũng phải biết, về bản chất sự sống, có vô số phƣơng tiện tồn tại,
trải nghiệm và cái xác trần của các con chỉ là một phƣơng tiện học hỏi mà thôi,
khi xác chết, hồn các con về Trung giới, kẻ tốt, lập tức cho đầu thai ở mật độ sao
cao ngay, và đƣợc hƣởng phúc viên mãn-gọi là chuyển sinh về các Thế giới...ví
dụ Tây Phƣơng Cực lạc- tuổi thọ có khi đến 80.000 tuổi... kẻ cao hơn, đƣợc làm
412
thân thanh nhẹ và tồn tại không sinh không diệt nữa-an lạc nơi Thiên đƣờng,
không có ai chết cả. Nên, sự sống nơi trần gian này, chỉ chớp nhoáng mất đi, khi
thể xác bị trút bỏ, và hồn con vẫn tồn tại hoàn toàn một thân mạng mới. Nên, các
con thì sợ chết mà gốc hồn nó đâu có sợ chết, nó chỉ sợ bị diệt hồn mà thôi. Nên,
đối với bọn Ta trên cao, thì cái sự sống của các con không phù hợp với nguyên
lý bất định của Vũ trụ-do Thƣợng đế duy trì, linh hồn các con
làm rối loạn thể vía của vũ trụ do rác tƣ tƣởng và nghiệp quả của các con hoặc
làm rối loạn cõi trần này, hoặc chống đối cơ chuyển hóa hợp nhất nhân loại, thì
buộc phải sàng lọc để đem lại sự tồn tại tốt đẹp cho vũ trụ. Nên, trong quá khứ
đã có nhiều cuộc tận thế khủng khiếp nơi trái đất này, khi nó đã bị nhiễm bẩn
tâm linh ghê gớm.
Trong quá khứ, Thƣợng đế cũng đã dạy các tôn giáo về tƣ tƣởng đại đồng-đó là
Thiên Chúa giáo về Thiên đƣờng đại đồng sung sƣớng không còn gian ác, cực
lạc; tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa đại đồng trong Thiên Chúa giáo rất rõ; rồi đạo Hồi
cũng dạy về Thiên đƣờng; các tôn giáo Sikhism, Ấn độ giáo…đều dạy về thiền
tịnh, cực lạc trong tâm; đến Phật giáo cũng thế, cũng có tƣ tƣởng đại đồng,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp…đến Bhai”, Thông Thiên Học, rồi Tam Điểm
Hội sơ kỳ, rồi Cao Đài..đều là tƣ tƣởng đại đồng và thống nhất tôn giáo, xã hội
nhân loại….Tất cả các con đôi khi diễn trò khác nhau, nhƣng phải biết một trò
chung là thiên ý luôn mong thống nhất Nhân loại ở cấp toàn cầu…Các cuộc
chiến tranh về tôn giáo, về ý thức hệ, về ngôi vị…đều dạy các con về KHẾ ƢỚC
LINH HỒN ĐÓ LÀ BIẾT SỐNG ĐẠI ĐỒNG LÀNH THIỆN. Khi các con chƣa
biết sống điều này, tức là chƣa giống Thƣợng đế và các cõi cao đẹp trên cao, các
con còn phải học, còn phải trả giá, còn phải ăn đòn quả lẫn nhau. Cho đến khi
nào sợ thì thôi…
Long Hoa Đại hội sẽ còn tiếp diễn ở trần gian thôi các con, ngay trong thế kỷ 21
này, nhƣng có cách khác một chút, lâu hơn một chút, kéo dài, rải ra, để Ta lọc
dần và dạy thêm, thƣơng yêu tha thứ để tiến hóa dần…nên các tôn giáo hãy đừng
sốt ruột, đó là vì Ta có lƣu tâm xin tha thứ và các linh căn vừa qua xuống trần
cũng xin tha thứ rất nhiều, đặc biệt Vua Cha cũng tha thứ, nếu không thì đã khác.
Nhƣng hiện Thiên đình vẫn đang có những dự tính khác để xây nền Thánh Đức
nhƣ đã dự liệu, nên các con hãy bình tâm chờ đợi. Chƣơng trình xã hội sẽ thống
nhất với LUẬT ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC-loài ngƣời sẽ phải xây dựng bằng
đƣợc xã hội Thánh Đức đúng Luật đã thông báo-bằng mọi giá có thể-bằng tất cả
các biện pháp, kể cả tận thế-để có một nền hòa bình và tiến bộ cho nhân loại.
Tất cả mọi thực thể chống lại, kể các các sao trên cao chống lại ý định này, sẽ bị
tiêu diệt không thƣơng tiếc…
Cả trái đất sẽ có một Thiên Vƣơng Tối cao là Thiên Chủ và một vua loài ngƣời
là Quốc Vƣơng Thánh Đức. Các Quốc Chủ và Quốc Trƣởng chỉ làm 9 năm thôi,
nhƣng không còn chỗ cho sự bầu bán tranh dành, vì tất cả các chức đó do Thiên
413
Chủ và Thiên đình bổ nhiệm, chọn lọc, đƣa thần thánh xuống đấu thai, có dấu
chỉ đàng hoàng và Hội đồng Tâm Linh Tối cao tại trần gian sẽ biết để tuyển lựa
giúp Quốc Vƣơng về nhân sự. Nhƣ vậy, các con yên tâm, thời Thánh Đức không
có súc sinh làm quan đâu con, chỉ có thần thánh thƣơng dân mới làm quan đƣợc
thôi....
Thƣợng đế đã cho biết sẽ gieo các cấp giống dân Thánh Đức mới, có nhiều
chƣơng trình trong hàng ngàn vạn vạn năm tới…
Tất cả trƣớc sau gì cũng phải xây dựng một nền hòa bình và thống nhất toàn
nhân loại, các con phải có trách nhiệm trƣớc tiên về việc này. Nếu cuộc cách
mạng Đại đồng tiến hành tốt, sẽ tránh đƣợc đau thƣơng; nếu nhƣ các nhân tố cản
trở việc này, khó thống nhất thế giới, các thực thể chống lại điên cuồng, thì
chúng ta sẽ buộc lòng can thiệp để cải tạo nhân loại sâu rộng vào giữa hoặc cuối
Thế kỷ này...
CHO PHÉP DUY TRÌ ĐẠO PHẬT, CAO ĐÀI, BAHA’I LÂU DÀI VÀ TIẾN
HÓA CHÍNH PHÁP LÊN THÁNH ĐỨC.
-Đạo Phật là đạo duy nhất không công nhận Thƣợng đế, nhƣng lại tạo ra thể vía
rất tốt bảo vệ nguyên khí vũ trụ; chỉ ngặt một nỗi là khi Ta giáo dạy bí mật Thích
Ca, Thích Ca đã có huệ nhãn biết Ta là ai, nhƣng Ta yêu cầu bí mật khế ƣớc về
đời Di Lặc chuyển luân xuống trần; vẫn cho Phật cao hơn Thƣợng đế. Tuy nhiên
các hành giả tu xong về trời, do vô minh không biết nguyên lý vũ trụ, nên Chƣ
Thiên lại mất công giảng dạy nhiều lần, thậm chí có đứa hỗn với Cha Mẹ. Nên
kỳ này là kỳ chỉnh sửa các giáo lý về Cội Gốc đồng thời qui tôn giáo hợp nhất.
Nhƣng Thƣợng đế vẫn thƣơng mến đạo Phật nhất, vì các con lành thiện trong
sáng nhất! Nên, về nguyên lý thờ Tam Bảo=Phật=Pháp=Tăng-Ta cho con sửa
thờ Cha Mẹ trƣớc-tức là Đại Nhật Nhƣ Lai Từ Phụ Phật ( Đại Tổ Phật)-và
Phật Mẫu (nhƣ Mật Tông, Cao Đài đã thờ)-coi nhƣ đƣợc Ta chấp nhận cho tồn
tại lâu dài thêm, nhƣng phải qui y Chính Pháp Thánh Đức Đại Đồng. Khi qui y,
các con phải hành đạo xây đời-nhƣng vẫn tu học trong các Tu Viện Phật Giáo-
thay bằng Chùa. Hãy xây nhiều Tu Viện, là nơi tu học, thanh tĩnh, thanh tịnh,
hạn chế tối đa khách ra vào, vì họ sẽ để lại hóa thân và tƣ tƣởng cá nhân trong
cảnh tu, làm rối loạn tâm linh; nơi tu chứ không phải là nơi con ngƣời, hay ma
quỉ vong hồn đến hƣởng lộc-nhiễu loạn tâm linh nhƣ cảnh chùa; không cho
chúng nhân đến cầu cúng xin lộc, rồi cấp lộc cho tăng-nhiễu loạn chính pháp...
Xung quanh tu viện, phải xây phong thủy cân bằng âm dƣơng và phải có các
Phép Huyền thuật để trấn ma quỷ thật tốt, loại bỏ rác tâm linh nhiễm vào. Tu sỹ
có thể ăn chay hay mặn, nhƣng phải tu huyền công để làm chủ thân tâm và chế
ngự đƣợc dục vọng hoàn toàn. (Trong thời Thánh Đức, Giáo Hội Thiên Đạo
cũng sẽ tổ chức nhiều loại hình thức Tu Viện này).
Trong các Viện Tu Phật Giáo-các con có thể ăn chay hay mặn-không cấm-nhƣng
không lấy chồng hoặc vợ, nam nữ tu riêng, không cùng Viện; ngoài ra phải tự
414
trồng cấy đảm bảo sản xuất đời sống riêng; đồng thời để trả công Cha Mẹ Trời
đã nuôi các con muôn năm, bằng cách các con phải hành đạo xây đời-có nghĩa tu
riêng một chỗ, có chỗ ăn ở tốt đẹp, phong quang, sạch sẽ-thì các con cũng hãy
giúp dân chúng ăn ở đẹp đẽ sạch sẽ nhƣ thế, và tiếp tục độ đạo đức Phật Giáo
cho chúng dân-Theo Đạo Phật-nhƣng tu Thiên Pháp-cân bằng âm dƣơng nội
ngoại bản thể và kính thờ Cha Mẹ trƣớc nhất để đảm bảo an ninh vũ trụ-Về xây
đời, các con cũng phải hoằng khai Chính Pháp mới, bằng cách làm từ thiện, dạy
học, đóng góp xây dựng địa phƣơng-thế là đƣợc.
Ta cho qui định này, đƣợc đƣa vào Luật Thiên Đạo và Luật Thiên Hội-đƣợc
tất cả chƣ thiên và Thƣợng đế chứng nhận: Sau vào thời Thánh Đức-Ta sẽ
cho duy nhất bộ phận Phật Giáo Mới theo nguyên lý tu thiền lánh tục đƣợc tồn
tại, để bảo đảm an ninh tâm linh vũ trụ và an ninh tâm linh trái đất. Học Thiên
Pháp cấp 6-7-luyện Yoga Thƣợng Thừa-Hoặc học theo nguyên lý Mật Tông-Sẽ
có các Vƣơng quốc riêng cho các Nhóm này-hình thành Vƣơng Quốc riêng-gọi
là Vƣơng Quốc Ánh sáng-Tổ chức xã hội cơ bản theo nguyên lý Công xã Đại
Đồng-chỉ khác là không lấy vợ chồng. Vƣơng Quốc Nam riêng, Vƣơng Quốc Nữ
riêng. Còn lại các tôn giáo khác tham gia xây đời bình thƣờng. Vì nguyên lý tu
tịnh cực kỳ quan trọng, nên các pháp tu mật, tu kiểu đạo Phật và các Tu Viện sẽ
tiếp tục đƣợc cho phép tồn tại trong thời Thánh Đức. Tuy các con vẫn phải học
Thiên Pháp để hiểu biết về chân nhân bản lai diện mục và sự sống của mình-lâu
dài, hãy loại bỏ các kinh tự rắc rối, kém tiến hóa và lạc hậu để đổi mới Phật
giáo-cho đến khi Ta bảo cần phải loại bỏ hay thay thế hoàn toàn-lúc đó sẽ hay;
còn bây giờ thì các con yên tâm.
ĐỐI VỚI ĐẠO CAO ĐÀI:
Các con phải hiểu sâu sắc là Thƣợng đế mở Đạo Cao Đài là Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ-cho vớt các con trƣớc kỳ Long Hoa Hội, đó là Cha thƣơng các con mà tận độ
thêm, chứ Cao Đài không phải là Chính Pháp Đại Đồng và nhƣ Thƣợng đế đã
dạy trong Thánh Giáo 1935; và sau này Di Lặc xuống có gieo nền Đạo Vàng
(Huỳnh Đạo-hay Hoàng Đạo-chính là Thiên Đạo này đây)-tức đạo Chính Pháp
thời Thánh Đức, và cơ tận độ của Cao Đài đến tận thế là chấm dứt. Ngay kinh
sách Cao Đài cũng tiên tri Di Lặc xuống thống nhất tôn giáo, qui về một đạo duy
nhất-rồi xây Thánh Đức. Đạo của Di Lặc là đạo xây đời, còn trong Thánh Giáo
đó, Cha cũng ý dạy là Long Hoa Hội có cả vô vi, thần thánh tiên phật xuống trần
học đạo Thầy mà đắc Pháp huyền hƣ, lục thông phát huệ mà tiếp điển-nghe lệnh
Thầy-rồi dùng cái đó để chuyển hóa thần lực tạo Thánh Đức xã hội.
Ta nhắc lại lời Cha đã dạy trong Kinh Thần Học Thiên đình là Đạo Cao Đài có
khi hiểu sai chính pháp của mình-không phải là Thiên Khai Huỳnh Đạo! Từ đó
có khi các con xa rời Chính Pháp mới này mà kiêu ngạo thậm chí chống đối, thì
toàn bộ công lao của đạo này sẽ đổ xuống sông xuống biển hết! Ta cho biết,
hầu nhƣ tất cả những ngƣời lập đạo Cao Đài hiện nay-thời điểm 2015-đều đã
415
xuống đầu thai ở VN. Nên, các con Cao Đài trƣớc nhất phải tiên phong học Học
thuyết Đại Đồng và Hợp nhất với Thiên Đạo trong tƣơng lai. Vì ngại các con có
tự trọng, nên Ta cho phép các con giữ nguyên toàn bộ nghi lễ cũ-lý tƣởng cũ,
mọi việc cứ giữ nguyên, nhƣng KHI NÀO CƠ TRỜI BIẾN ĐỔI-THÌ PHẢI
NHANH CHÓNG THÀNH LẬP THÁNH ĐỨC THEO ĐÖNG HỌC THUYẾT
ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC ( LUẬT THÁNH ĐỨC cơ bản nhất).
KẺ NÀO CHỐNG LẠI, COI NHƢ CHỐNG CHÍNH SỐ LINH HỒN MÌNH-
KHÔNG CÓ CƠ HỘI TRONG 700.000 TỚI. Ta coi Cao Đài giáo là nền tảng
quan trọng giúp Cha lập Thánh Đức.
-Nói rõ thêm với các con Cao Đài, là Vua Cha mƣợn Kim thân xuống đời rồi
đấy, đúng kế hoạch, mƣợn xác trần gian, rồi chính tay Ta cho Kim thân tu học,
đến khai mở tâm linh và dạy dỗ mọi việc, nay Cha đã xong việc rồi, thì trở về
Trời, mà Di Lặc Vƣơng Phật cũng đã về Trung Giới. Kim thân còn ở trần gian
lui ẩn, cũng sẽ còn một số việc nữa, hỗ trợ các con tu học mà thôi.
Mọi kế hoạch của Thiên đình tiếp theo đối với trái đất, sẽ không thông báo trƣớc,
hoặc có chuyển biến, sẽ có cách thông linh với các con sau. Nhƣng các con phải
tiếp cận Học thuyết Đại Đồng Thánh Đức ngay-dù con đƣờng của nó rất lâu dài
mới có thể nhƣ ý; còn mọi lý luận, mọi nghi lễ cũ đã dạy, vẫn giữ nguyên, càng
phát triển càng tốt, Thiên đình coi các con Cao Đài là nền tảng quan trọng
nhất để xây nền Đại Đồng sau này cho trái đất. Thiên Đạo là Đạo hợp nhất
trong Cao Đài và là sự mở rộng của nền Cao Đài mà thôi, vì lâu dài, không có
Chính Pháp nào cao hơn lý tƣởng của Cao Đài và cũng là của Thiên Đạo, chỉ có
cách thờ thay đổi một chút mà thôi. Các phần thờ tự rắc rối, sẽ bỏ dần, chỉ thờ
Cha bằng Thiên Nhãn hoặc Thiên Phù. Hoặc rồi sẽ có lúc đƣa Thiên Nhãn vào
Tòa Nhất của Thiên Phù là đắc ý Cha...Các con lƣu ý, Thiên Phù trên các cõi cao
đều có, đó là tƣợng trƣng cho quyền lực tuyệt đối của Đấng Tối cao.
Còn tại sao Kim Thân Cha cũng là Hồn Hóa của Ta không giáng sinh trong Cao
Đài, thì các con suy nghĩ chút sẽ hiểu là Ta không phải là thử các con, mà muốn
Kim thân của Cha và hóa linh của Ta tu học bên ngoài các tôn giáo, để Chân Lý
mở rộng hơn...
Ta cho phép Thiên Đạo sử dụng và học theo 1 số Nghi lễ của Cao Đài-hay nói
đúng hơn, các Nghi lễ quan trọng sau này của Thiên Đạo phải hợp nhất với Cao
Đài, còn về Lý luận thì Cao Đài phải học Thiên Đạo. Vua Cha cũng cho biết,
nhiều linh hồn ngƣời học Cao Đài sẽ giáng sinh để xây Thánh Đức sau này, nên
các con ghi nhớ điều Ta dạy ở đây. Nền tảng chính của Thánh Đức sẽ do Cao
Đài làm nền tảng. Ta sẽ thử thách xem các con Cao Đài có làm theo không…các
con cần nhớ phải đoàn kết hợp nhất các chi phái Cao Đài trƣớc, rồi mới đến xây
Đại Đồng…
Tất cả các con đã giúp Cha xây dựng Cao Đài, nay lại đã đầu thai xuống trần
gian tiếp rồi, xuống thế hết rồi, theo các việc khác nhau, không còn trên Thiên
416
giới. Mà tất cả các tôn giáo trƣớc kia, cũng do họ và các hóa thân xuống triển
khai mà thôi...
Ta dạy thêm để một số ngƣời nếu đọc đƣợc thì hãy linh tính nhớ lại nhé: Kể cả
Hồng Quân Lão Tổ, Phật Thích Ca, Phật Adiđà, Chúa Christ cùng 12 Tông đồ,
Giáo chủ Mohammed, Lão Tử, Khổng Tử, Lạc Long Quân, Phật Hoàng Trần
Nhân Tông, Đạt ma sƣ tổ, Huệ Năng, Hoàng Nhẫn, các Tổ sƣ Mật Tông, Phật bà
Quan thế Âm, Cửu vị nữ Phật hóa thân, cùng rất nhiều Bồ tát, Ala hán, nhiều
Phật, Thánh rất lớn...nhiều vua chúa của trái đất xƣa và Việt Nam...đều đã lâm
phàm đầu thai ở VN, kể cả các thần thánh cao cấp-là để ĐẠI PHÁT HỒNG ÂN,
PHÁT NGUYỆN XUỐNG TRẦN GIAN GIÖP CHA LẬP LONG HOA HỘI...
xây Đại Đồng Thánh Đức.( Các con không tin, sau sẽ biết sự thật!...) Nhƣng kế
hoạch thay đổi chậm lại, nên ai đã khai mở tâm linh, thì nhớ lại bản mệnh mình
đi, sẽ biết việc phải làm tiếp, chớ ngủ mê quên đƣờng về...Để làm tốt việc triển
khai và biết họa mà tránh nếu có.
Vì có nhiều các thần thánh đã xuống trần đầu thai mà quên nhiệm vụ, nên Ta lại
thay Cha nhắc lại cho toàn nhân loại rằng: ĐỨA NÀO MÀ LINH CẢM THẤY
NHIỆM VỤ, hoặc cảm giác CẦN LÀM THEO, thì CÓ LẼ ĐÖNG SỐ PHẬN
CHUẨN BỊ, và nên tham gia THÁNH ĐỨC HỘI HOẶC LẬP THIÊN ĐẠO
GIÚP TA.
Nếu sau về TAY KHÔNG, TA nhìn thấy đã các con đã thấy THIÊN CƠ NÀY,
mà bỏ quên, hoặc cố tình chần chừ, COI NHƢ MẤT CƠ HỘI, KHÔNG VỀ
NGÔI VỊ CŨ, MÀ ĐỌA TRẦN HỌC LẠI TỪ ĐẦU. Chớ trách Cha không
thƣơng, Thầy không dạy, PHẬT VƢƠNG không cứu.
Nhiều con rồi sẽ về Trời trong vài chục năm nữa hoặc sẽ về gần đây. Và mọi
việc tiếp theo họ sẽ tiếp tục dạy loài ngƣời nhƣ xƣa, cõi nào về cõi đó và Ta cũng
sẽ giúp các con các đƣờng tu học cũ mà dần theo Phép Mới đã trao...
Này các con Cao Đài-Ma quỉ vào phá bàn thờ của các con mà các con không
biết, Quỷ Vƣơng sổ lồng phá phách, phá tan cả nền Cộng sản Châu Âu...Ma
nhiễm vào Đạo rồi, phải cẩn trọng...Các con không đƣợc nghe lời Hội Tam Điểm
nữa, chúng nó đã phá phách và chống Chân Lý.
Khi các con làm lễ, có thể quán tƣởng thêm các Phép của Thiên Đạo ở Thiên
Pháp này, hoặc dùng nhiều phép Bí Pháp huyền môn hơn để chống ma quỉ phá ở
cõi vô hình; nếu khai nhãn thì các con nhớ hộ vệ bảo vệ Đạo Pháp. Các con phải
đoàn kết lại để chuẩn bị cho Thánh Đức, nếu không, trong công cuộc sàng lọc,
tất linh hồn các con sẽ rớt thảm.
ĐỐI VỚI ĐẠO BAHA'I
BAHA'i-có khế ƣớc thống nhất tôn giáo-nhƣng không có chính pháp xây Đại
Đồng; chính pháp lý luận chƣa có. Giáo Chủ do Thƣợng đế hóa thân xác vật lý
xuống để đảm bảo rung động tiến hóa, còn chân linh là của HỒNG QUÂN LÃO
417
TỔ trực tiếp giáng phàm dạy, theo lệnh của Thƣợng đế. Sau các con sẽ biết sự
thật. Hồng Quân Lão Tổ là NGÔI THỨ NĂM của cõi Thiên đình-sau Chúa
Chist-tức là NGUYÊN THỦY THIÊN TÔN-NGÔI BA. Hồng Quân Lão Tổ
Công phẩm cực cao, xuống trần mở đạo này. Các con BAHA'i cần giữ vững
chính pháp, niềm tin, nhƣng phải thống nhất qui nguyên với Chính Pháp Thánh
Đức Thiên Đạo-cho phép giữ vững lâu dài, rồi tiến hành xây Đại Đồng Thánh
Đức theo lý thuyết Học thuyết Đại Đồng; đến khi nào Ta bảo hợp nhất hoàn
toàn, hay các con cần thiết hợp nhất Thánh Đức-thì tự mình biết làm gì. Tuy
nhiên, khi SỰ PHÁN XÉT CÓ THỂ, các con tiến lên thành lập các công xã
Thánh Đức và tiến ra cầm quyền ngay, tham gia Hội Đồng Thánh Đức Toàn cầu
ngay.
Cả Phật Giáo, Cao Đài và BAHA'i phải nên tham gia nhanh chóng vào Thánh
Đức Hội để thống nhất hành động chung. Thánh Đức Hội là Hội Long Hoa Xã
hội Thánh Đức; còn cơ Long Hoa Hội vô vi...-Ta sẽ cho biết sau. Nhƣng việc
chuyển hóa là cần thiết, có nhiều kịch bản tùy theo thái độ chuyển biến của Nhân
loại.
-Tất cả các tôn giáo, pháp môn có khế ƣớc đón Long Hoa Hội phải nhanh chóng
qui vào Thánh Đức Hội để thống nhất hành động và chƣơng trình tiến hành
CÁCH MẠNG THÁNH ĐỨC TRÊN TOÀN THẾ GIỚI, ĐỂ GIẢI PHÓNG
LOÀI NGƢỜI-xây Thánh Đức.
ĐỐI VỚI MẬT TÔNG (CŨNG LÀ PHẬT ĐẠO MỚI)
-Cổ Phật Di Lặc là giáo chủ bí mật duy nhất của Mật Tông.
-Phật Thích Ca có giáng sinh xuống-bí mật-nhớ là đầu thai nhé-3 lần xuống
chuyển hóa Mật Tông. Phật Adiđà xuống Mật Tông 3 lần.
-Toàn bộ Tây Tạng-Tân cƣơng sẽ trở thành một Khu Thánh Đức số 11 trong
tƣơng lai. Các con sẽ là một Khu Thánh Đức độc lập-có 4 Đại Quốc- trong tƣơng
lai huy hoàng. Đụng vào Tây Tạng Mới-kẻ ác sẽ bị tru di cửu tộc, diệt hồn xác.
Nếu các con muốn có một cái biển cách biệt với chúng, Ta sẽ cho!
-Hàng triệu Mandala của các con đã bị ma quỉ chiếm mất, Ta thử các con mà rồi
cũng cho khởi lại, các con phải hết sức lƣu ý bảo vệ thân mạng tu luyện, vì xung
quanh ma quỉ và vía rác rất nhiều. Hãy cẩn trọng trao truyền Pháp Tối Thƣợng
Mật Tông và thử thách ngƣời học nhiều hơn. Thời mạt, không học nhiều, học bí
pháp nhiều mà tâm gian ác thì càng hỏng, càng nguy...
Ta cũng nhắc các con dùng huyền môn mà diệt ma quỷ bảo vệ mình đi, chứ
Thiên binh Thiên tƣớng của Thiên đình không trấn giữ hết thành trì cho các con
đƣợc...Đại Phật cũng là Vua Cha của chúng ta, mà Ta cũng là Thiên Vƣơng
Thiên Tƣớng nhà Trời mà thôi...Về Trời thì các Phật biến thành Thiên Vƣơng
hết...
418
Muốn không cho vía bẩn rác tâm linh ma quỉ ám hại đạo mình hoặc hại thân
mạng và bẩn linh hồn mình, các con tu luyện công phu thiền định đã đành mà
còn phải có các phép trấn ma diệt tà độc xung quanh chùa, Tu Viện, nơi ở
của mình, thân tâm phải trong sạch hàng ngày, ăn uống có nhiễm tạp thì tu diệt
vía, diệt ma quỉ trong mình.
Dùng Bùa cao cấp. Các Phép trấn… Hoặc lấy thuốc kháng sinh liều cao, phèn
chua, tỏi, phòng phong, quế chi, mật cóc, axit sunphuaric trấn giấu trong nhà,
quỉ ma sẽ kinh sợ bỏ đi, hoặc các Á Thánh-Phật, Bồ tát… giáng vào sẽ diệt
chúng nó tan hồn vía...Các loại thuốc đó còn có tác dụng cao hơn cả bùa bả
trấn.
-Tất cả các con theo các tôn giáo, nếu muốn có thành tựu thì nên học Thiên Pháp
hoặc quán ảnh Thiên Phù và dùng các phép đặc biệt để trấn ma quỉ phá hại chính
bản thể mình cho đến phá hoại riềng mối của Ta nơi đây, vì ma quỉ càng tăng số
lƣợng lên nhiều, vía bẩn của loài ngƣời càng nhiều và nghiệp quả càng tăng, nên
các con rất khó tu học…
THIÊN CHÚA GIÁO
Khi Ngôi Hai xuống trần, có xác hóa thân của Thƣợng đế giáng xuống, dạy về
tinh thần đại đồng, không giai cấp. Đó là nét chính của nền tảng tƣ tƣởng tôn
giáo các con. Sau này các con đã quên điều này trong giáo lý và làm sai ý Chúa
Con nhiều…
Nay, Ta cũng nhắc nhở: Các con từng bị Thƣợng đế thử thách loại bỏ đấy, chứ
Chúa Cha không yêu các con nhƣ các con nghĩ…vì sao? Vì các con làm ác! Tam
Điểm Hội ra đời là loại bỏ các con…Nhƣng rồi Tam Điểm Hội cũng biến hóa
thành ma, không những chống các con, còn chống Thƣợng đế và chống cả các
tôn giáo chân chính khác. Giáo hoàng hiện nay là ngƣời của Tam Điểm Hội…Và
Giáo triều các con đã chống cộng theo kế hoạch của Ca-bal từ lâu…Các con là
con rối trong tay Ca-bal thôi…
Nhƣng thôi, sau sẽ khác. Ta nhắc các con lƣu ý về tƣ tƣởng giải phóng nhân loại
theo con đƣờng Đại Đồng toàn cầu-xây dựng một chính phủ toàn cầu không còn
Ca-bal. Các con không nên chống cộng, nếu chống cộng, Chúa sẽ tiêu diệt các
con…Các con nên gia nhập Thánh Đức Hội để Thiên Chúa sẽ hỗ trợ bảo vệ các
con trong Thánh Ý của Ngài.
CHƢƠNG III-MA QUỈ THỜI ĐẠI MẠT
-Đại mạt xã hội cũng là đại mạt tâm linh.
419
Trên trung thƣợng giới ma quỷ đấu đá tranh dành với thần thánh tiên phật, do vía
rác bốc lên, vong ma nhiễu loạn các cảnh cao; thần thánh tiên phật phải dọn rác
hàng ngày…
-Ở trần gian xã hội-Bè lũ quỷ Kim Quang Sứ (Satan) cùng đồng bọn xã hội trần
gian đang hoành hành nhân loại ở tất cả các nơi, chúng lãnh đạo cả Tam Điểm
Hội-Hội Cabal; đã phản lại Mẫu Địa cầu, phản Ta và các tôn giáo chân chính,
không nghe lời Ta, chúng tìm cách thâu tóm nhân loại, không muốn nhân loại
tiến lên Đại Đồng và muốn loài ngƣời thui chột, thoái hóa lại giống, bằng cách
gieo rắc tƣ tƣởng chiến tranh, kích động bạo lực bằng phim ảnh, lối sống gấp,
đồi trụy, hƣởng thụ bằng tranh dành buôn bán, gieo lòng tham vô đáy của con
ngƣời; gieo giống động thực vật biến đổi gien để phá hại gien Gốc của Loài
ngƣời; để phá hại nền Đại Đồng sơ khai do Thƣợng đế gieo trồng, chúng đã diệt
các nƣớc Cộng sản Châu Âu, chống phá các nƣớc Cộng sản còn lại. Các con nên
nhớ Thƣợng đế giáng chân linh hóa thân là Karl Marx đã gieo đạo Cộng sản, còn
đối với Thƣợng đế, đôi khi vô thần cũng là một biện pháp làm cho xã hội loài
ngƣời tốt đẹp thôi, nên ngƣời hiểu thiên ý, không nên kỳ thị vô thần.
Các con nên nhớ, trƣờng vía của các nƣớc cộng sản trƣớc kia rất thanh sáng và
làm cho Cha Mẹ và chúng thần trên cao bằng lòng vô cùng, nhƣng nay đã khác,
nên cái nền Thánh Đức sau này sẽ là tất yếu; tất cả những kẻ chống Cộng, thuộc
về Tƣ bản và Tam Điểm Hội, chống cộng ở tất cả các nƣớc, đang khống chế
chính trị thế giới này, nếu chống Thiên Đạo, chống Việt Nam, chống việc lập
Thánh Đức, thì Ta sẽ diệt hóa không thƣơng tiếc về sau…Vô số tiền hay công ty,
vô số tài phiệt hay các sao ngoài hành tinh nếu ủng hộ chúng chống công cuộc
Thánh Đức thì Ta cũng cho tan xác hết! Ta cảnh tỉnh chúng nó rồi và còn các lũ
loại chống Luật này, hãy nhớ trên Lõi hồn của các con, ai đang ngự trị trên đó...
Để có một nền hòa bình an ổn nơi trái đất này, nhân loại rồi còn sẽ đổ máu thảm
khốc, vì chính loài ngƣời, các nƣớc man trá tham lam sẽ tự động chuyển nghiệp
quả khảo đòn nhau trong máu lửa, thiên tai …vì nguyên lý vũ trụ là cực âm sinh
dƣơng, cực trọc thì sinh thanh, ác sinh ác để chuyển ác thành thiện; nghiệp khảo
là do mất cân bằng âm dƣơng-trái Đạo Trời, cái phần âm thừa đó, chính là số
phận, rồi tính cách xấu, tƣ tƣởng, thói quen, những trò đời nó táp vào...sẽ khảo
ngƣợc lại, vì bản chất nó làm mất năng lƣợng thanh sáng, đến lúc cái đen cái ác
nó thôn tính nhau, chiếm nhau để có không gian sống, tồn tại, lúc đó là lúc ma
quỉ ra đòn ác với nhau-với chính số phận của chúng nó.
Đến lúc đòn chúng nó đánh nhau, hay đòn Trời khảo chúng…Ta dạy các con
thiện hiền, phải khéo léo tránh đi....lánh ra ngoài, biến mất khỏi chúng nó càng
xa càng tốt...Phật Vƣơng sẽ có biện pháp cứu vớt…rồi sau đó, mới có thể có một
cuộc Cách mạng Đại Đồng. Các con toàn thế giới phải tiếp thu học thuyết Đại
Đồng và triển khai ngay nếu có sau biến chuyển lớn xảy ra, lập Thánh Đức sơ
khai ngay. Đó là con đƣờng khả dĩ đem lại hòa bình và hạnh phúc cùng tiến hóa
420
tâm linh lâu dài cho nhân loại này. Nếu không đƣợc nhƣ ý, Ta lại phải làm lọc lại
tiếp, làm đến tốt đẹp thì thôi.
CHƢƠNG IV-DẠY NGƢỜI NGOÀI HÀNH TINH-TAM ĐIỂM HỘI-
CA-BAL VÀ CÁC TỔ CHỨC MẬT CỦA CÁC SAO CÓ XÁC TRẦN-CÁC
CHÍNH PHỦ VÀ CÁC HỘI THEO CA-BAL
-Vừa qua (THÁNG 7 VÀ 8/2015 DLỊCH), Ta đƣợc Cha cho lọc các sao trên
cao, ở các cõi-CÓ MỘT CUỘC TẬN THẾ KHỦNG KHIẾP trên các cõi sao
chống lại ý định của Phật Vƣơng. Là Long hoa Đại Hội trên cao-chấm công, xử
tội trên các sao, để chuyển hóa vũ trụ sang Ngƣơn tiến hóa mới, đã chỉnh trị thay
Thiên Vƣơng hàng vạn ngôi sao; hủy diệt hàng triệu ngôi sao ma bất chính-
sụp đổ tan xác, cháy rừng rực trong vũ trụ-sao ma rụng nhƣ sung, bị tiêu diệt
vĩnh viễn-xóa sổ-lập sao mới; hóa diệt nhiều vũ trụ đã già cỗi hoặc không thể
đáp ứng yêu cầu bảo vệ nền hòa bình và an ninh trong vũ trụ. Hầu nhƣ toàn bộ
các sao và Thiên Vƣơng có chân trong lãnh đạo Hội đồng Ca-bal…đấu đá tranh
dành nơi trái đất này đã bị Phật Vƣơng diệt, nhiều linh hồn lãnh đạo Ca-bal-có
xác nhân bản tại trái đất đã chết tan xác…hàng vạn đĩa bay bị xóa sổ... hơn 70
triệu tên lƣu manh có tài thần thông gọi là ngƣời ngoài hành tinh cao cấp nhƣng
mất dạy, nhiều loài ngƣời khác nhau ở các hành tinh khác nhau nhƣ Sirian,
Arcturus, Sirius B, Anunaki, Reptilian, Draco, Andromeda, Tactarus, Pleiades
cấp thấp, đã bị tiêu diệt không thƣơng tiếc; sao Draco, Sirian, Arcturus… đã
nhiều lần động đất tan nát, chết đi sống lại…khi Ta yêu cầu các Hội đồng chúng
nó ngừng đấu đá tranh dành ở trái đất, theo ý Ta, nhƣng chúng nó không nghe,
buộc lòng Ta phải tiêu diệt-đấy là bài học cho những kẻ không thƣơng nhân loại
này, chƣa làm tốt những gì Thƣợng đế và Ta dạy...Đồng thời Ta cũng đã thay đổi
nhân sự cơ bản ở Hội Đồng Ngân Hà, để đáp ứng nhiệm vụ xây Thánh Đức tại
trái đất…
Trong tháng 7 DL/2015 vừa qua, nhiều đêm Trời rất sáng, rất thanh và...rất tịnh-
bởi không còn một ngôi sao nào phát sáng-vì có lúc không còn ngôi sao nào thức
đƣợc...Toàn bộ Hệ mặt trời đã bị điên đảo và phải cúi lạy Ta giao việc mới...
Tất cả những nƣớc có ý chống Việt Nam cộng sản-muốn xâm chiếm tấn công
Việt Nam-từ nay trở đi, cho đến muôn năm sau-trƣớc nhất hãy nhớ các bài học
cũ. Các nƣớc Cu Ba, Triều Tiên, hãy giữ vững và khuyên các nƣớc thù địch
tránh ra, nếu chống lại-sẽ hủy diệt không thƣơng tiếc nƣớc đó bằng phép Thiên
đình.
Đồng thời Ta nhắc Cabal, cũng nhƣ Tam Điểm Hội hiện cơ bản nắm nền chính
trị thế giới, kể cả Triều Tiên, Trung Quốc...phải Phò Tá Cộng sản lên Đại đồng-
421
Tham gia xây dựng Thánh Đức Hội Toàn cầu-Bỏ ngay thói theo quỷ Satan bất
chính-các ngƣơi phải loại bỏ ngay tất cả các kẻ có xác trần mà nhân bản có hồn
sao Cabal nhập vào. Ta đã diệt bớt rồi. Phải bỏ ngay các nghi lễ bẩn thỉu thờ
thằng Lucifer (Satan) bằng các nghi lễ dơ bẩn cực kỳ đểu cáng; cái thằng
Covery…là xác nhân bản của Satan đã bị Ta diệt chết rồi; toàn bộ các sao ma đã
thay chủ mới tiến bộ, nhiều loại ngƣời trên đó đã bị Ta diệt chết, xóa sổ…Nên,
các ngƣơi-các chính phủ KHÔNG ĐƢỢC NGHE LỆNH CÁC SAO MA NỮA,
GIẢI TÁN CABAL, PHẢI TUÂN LỆNH THÁNH ĐỨC HỘI TOÀN CẦU-
NẾU KHÔNG: TA SẼ DIỆT TẤT CẢ NHỮNG KẺ CẦM ĐẦU-CHO ĐẾN
QUỐC GIA CỨNG ĐẦU…
Phải nhớ lại ngƣời lập Tam Điểm Hội ban đầu là ai xuống trần dạy các
ngƣơi...Chính Ta dạy lập Tam Điểm Hội.
Thầy các sao của Cabal các ngƣơi trên cao đã chết mất xác hết rồi. Tam Điểm
Hội phải loại bỏ theo Satan Lucifer ngay, đồng bọn Lucifer cũng là lãnh đạo
Cabal trên cao bị Ta bắt, đánh nhốt, tra tấn, hành xác kinh khiếp. Hàng vạn sao
theo chúng, trong Hội đồng của chúng bị nổ tan xác, dân chúng nó chết nên chết
xuống…Thằng Satan chống Thƣợng đế là một thằng lƣu manh đƣờng phố trong
cõi vô hình, một thằng mất dạy vô đạo nhất vũ trụ, nó đã bị Phật Vƣơng đánh tan
xác nhiều lần, diệt hồn hóa hồn….Nên các ngƣơi không nên theo nữa; mà cần
chia thế giới ra, Ta tuyên bố chính thức giải tán Cabal từ tháng 9/2015.
Chính phủ các nƣớc theo Cabal và Tam Điểm Hội nên giải tán Tam Điểm Hội,
phân hóa ra, không sợ chúng nó sát hại, không sợ chúng nó diệt hồn, Ta sẽ cƣú
vớt lên cao…Nếu Tam Điểm Hội hứa nguyện theo Lời thề với Thƣợng đế, làm
theo Thánh Đức Hội Toàn cầu sẽ tha, nếu chống lại sẽ tiêu diệt, diệt cả nƣớc,
diệt cả cung cõi trong vô hình, diệt đến tên cuối cùng…
Tất cả các sao cố tình chống đối lôi kéo Cabal chống lại Ta, sẽ bị trừ diệt khủng
khiếp; còn loài ngƣời hãy chờ đấy các con…nếu nhƣ các con chống lại Thánh
Đức Hội Toàn cầu và chƣơng trình của Ta…
Các nƣớc chống Cộng rồi sẽ bị khảo đòn Trời khủng khiếp...Cộng sản là cái Lý
Thuyết mà Thƣợng đế ban cho loài ngƣời....Cộng sản là do Cabal gieo, nay các
con phải tiếp tục tổ chức lại CỘNG SẢN THẾ GIỚI. Tuân LỜI, TA SẼ
THƢỞNG-CHỐNG LẠI Ý ĐỊNH NÀY, THÌ XÁC HỒN KHÔNG TOÀN.
TA CHO PHÉP MỐC CHUYỂN HÓA PHẢI BẮT ĐẦU VÀO THẬP KỶ THỨ
4-5 CỦA THẾ KỶ NÀY-PHẢI CHUYỂN HÓA DẦN LÊN CỘNG SẢN. NẾU
ĐẾN TRUNG-CUỐI THỂ KỶ NÀY MÀ CỨ DIỄN TRÕ TƢ BẢN RỒI ĐẤU
ĐÁ, PHÁ HOẠI CỘNG SẢN-THÌ TẬN THẾ SẼ ĐẾN SAU ĐÓ!
Các con đang mâu thuẫn ghê gớm, Ta cho phép đƣợc toàn quyền chỉnh đốn loài
ngƣời và Ta tạm công nhận HIỆN TẠI VẪN GIỮ NGUYÊN CHẾ ĐỘ THỊ
TRƢỜNG-NHƢNG CHUYỂN HÓA DẦN THÀNH NHIỀU CÔNG TY TOÀN
422
CẦU-TƢ BẢN NHÀ NƢỚC VÀ CÁC HỢP TÁC XÃ TƢ BẢN PHẢI CHIẾM
DẦN TRONG TỶ LỆ KINH TẾ.
Phải đổi mới Liên Hiệp Quốc, theo hƣớng dân chủ-tính chất đại đồng. Nếu nhƣ
không làm theo Ta dạy, khi linh hồn các con về trời, Ta hành phạt kinh khiếp.
Nếu nghe theo lời Ta-thì: khi chết xác, TA CÓ THỂ CHO CÁC CON TRỞ LẠI
LÀM VUA CÁC ĐẠI QUỐC THÁNH ĐỨC TƢƠNG LAI. TA HỨA NHƢ
THẾ, BẰNG KHÔNG, NẾU CHỐNG LẠI, CÁC CON SẼ BIẾT LUẬT CỦA
TA THẾ NÀO...
-Ta nhắc loài ngƣời tiến bộ và ngƣời Việt Nam:
Các con cũng phải biết là Cabal nó diễn trò đấu đá này nọ với nhau thôi, chứ các
con cứ nhìn dấu là biết từ Nga, Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Triều Tiên, Israel,
Iran...đều cùng hội cùng thuyền với nhau thôi. Ca-bal có ý định tiêu diệt Việt
Nam cộng sản-nên Ta cảnh cáo trƣớc điều này, ý chúng là muốn sống-phải theo
chúng nó, tức là xóa bỏ chế độ Cộng sản...và các con Việt Nam hết sức lƣu ý
chính sách nguy hiểm của Trung Quốc và Mỹ, chúng gây sự ở Biển Đông-không
phải là ý đồ của Trung Quốc, mà Cabal chúng định kéo lực lƣợng tiềm lực vào
gần Việt Nam để tiêu diệt Việt Nam một lúc đó!! Việt Nam hết sức lƣu ý chính
sách nham hiểm dấu đòn của Öc, của các nƣớc Nam Mỹ, của Nga…Caban đang
định tiêu diệt Việt Nam trƣớc, rồi đến Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu, rồi đến
Nhật, rồi Châu Mỹ sẽ tiêu diệt nốt thế giới, sau đó Cabal thống trị thế giới
Mới…Tất nhiên chúng không đếm xỉa gì đến việc Nga, hay Trung Quốc có theo
nó hay không vào lúc sau cùng….
Trên cao, các Thần Thánh đang hết sức chú ý mọi động thái của Tam Điểm Hội
và sẵn sàng ra tay ngay, tức là có thể làm động đất tiêu diệt cả quốc gia, nếu có ý
định tấn công Việt Nam hay gây ra tai họa cấp thế giới…
Kịch bản mở màn chiến tranh TG3 ở Thái Bình Dƣơng, Ta không cho phép, mà
chúng mày mở ở nơi khác thì...TÙY...Kế hoạch sàng lọc nhân loại sẽ phải theo
kịch bản của Thánh Đức Hội Toàn cầu, nếu chống lại, phải có ý kiến của Ta cho
phép, có thể giúp thay đổi sẽ cho phép sau…
Và tại sao các nƣớc cứ đấu đá nhau, là do chúng muốn tạo ra trật tự Thế giới
Mới không cộng sản bằng cách xóa bỏ loài ngƣời, bằng chiến tranh Thế giới thứ
Ba, chỉ còn hơn tỷ ngƣời, để chúng biến Thế giới này thành bãi rác tƣ bản của
chúng...Tất cả các kế hoạch này đã bị Chƣ Thiên ngăn chặn. Nhƣng Ta hứa với
chúng sẽ cho chúng cách ngƣợc lại ngay trong Thế kỷ này...
Cảnh cáo Trung Quốc: Trung Quốc phải thay đổi sách lƣợc với Việt Nam
ngay, hiện các ngƣơi đang có 4 kế hoạch đánh Việt Nam-hủy diệt Việt Nam rồi-
Lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là hiếu chiến và nguy hiểm nhất... nên phải cảnh
cáo các ngƣơi giờ hồn! Nếu có biến động ở Việt Nam, kể cả chiến tranh hay
chính trị lớn, thì Ta sẽ tiêu diệt tất cả những kẻ gây hấn và hồn thì các ngƣời biết
rồi; tuy nhiên các ngƣơi sẽ đột tử rất nhanh, khỏi phải bệnh tật...
423
Ngƣời Trung Quốc phải thay đổi quan điểm về vấn đề So-vanh nƣớc lớn và cạnh
tranh chiếm đoạt trên thế giới-tức là từ bỏ ý thức dân tộc bành trƣớng-thứ hai, ổn
định chính trị xây nền Cộng sản nghiêm túc, đấu tranh cải tạo xã hội để xây bằng
đƣợc các Công xã Nhân dân lành thiện, no ấm. Trong tƣơng lai phải loại bỏ kinh
tế thị trƣờng Tƣ bản và tiến lên kinh tế kiểu hàng hóa Thánh Đức, tiến lên Cộng
sản. Nếu đi chệch hƣớng, xã hội sẽ có biến động kinh hoàng….
Lãnh đạo Việt Nam bây giờ và sau này lƣu ý: Thứ nhất là toàn bộ các con đều
là ngƣời Nhà Trời xuống cả, lập Cộng sản đã đành mà phải biết Pháp này của Ta,
hãy giúp, chớ chống lại-Chính Pháp Thiên Đạo là xây Cộng sản toàn thế giới-
Không thể khác. Thứ 2-Cần bảo vệ nền chính trị XHCN bằng mọi giá, cho phép
sàng lọc xã hội không thƣơng tiếc đối với tất cả những kẻ chống Cộng, tiến dần
thành lập các Khu Tự trị Cộng sản trong tƣơng lai, tiến hành kinh tế thị trƣờng
cho đến khi Thế giới có biến động, thì phải tiến lên hàng Cộng sản kiểu Thánh
Đức ngay. Nhiều linh căn xuống trần tại VN không hoàn thành nhiệm vụ, sẽ bị
đọa trừng phạt ghê gớm sau khi bỏ xác…
Ta nhắc, Cabal đã thâm nhập kiểm soát đƣợc VN, một bộ phận đã theo
Cabal...và đã tấn công Pháp Ta; đồng thời Ta nhắc, quân Việt Nam, kể cả An
ninh-toàn là hóa thân của thiên binh thiên tƣớng của Thiên đình xuống thôi, nên
phải chú ý ăn cây táo rào cây táo, rào đất nƣớc, cảnh giác không nghe theo bọn
gian ở ngoài...phải khôn khéo cảnh giác bảo vệ chế độ và an ninh Tổ Quốc cộng
sản đến cùng....chú ý bảo vệ các tôn giáo có lý tƣởng Đại Đồng nhƣ Cao Đài,
Bhai‟l…
NẾU NHƢ TRÊN THẾ GIỚI NÀY, MÀ KHÔNG CÕN MỘT NƢỚC CỘNG
SẢN, THÌ HỌA TẬN THẾ KHỦNG KHIẾP SẼ ĐẾN NGAY!
CHƢƠNG V- VAI TRÕ CỦA TA TRONG THỜI ĐẠI MỚI
-Cha đã từng nói rằng: Thƣờng thì Cha thƣơng, tha độ cho, nhƣng thần thánh
tiên phật thì ngƣời ta Chấp ghê gớm, không sai sảy một ly-Đã dạy đạo Cao Đài.
Nên, Ta nhắc loài ngƣời phải hết sức cẩn trọng mà tuân theo Luật Trời, Thiên Ý,
nếu không các ngƣơi sẽ phải học những bài học cực kỳ đắt giá nhƣ bọn các hành
tinh trên cao vừa qua...
Rồi đây, tất cả những đứa ở trần gian này, mà chống Ý Trời, thì cũng học bài học
nhƣ trên, chết đi chết lại, chết đau chết khổ, chết đến khi sợ làm ác, làm phản sợ
tranh nhau làm giàu thì thôi...( Các con cũng phải đọc lại Kinh Di Lạc Độ thế
đi).
Tất cả những thần thánh cao cấp xuống trần kỳ này, giúp Cha và Ta, nhƣng quên
nhiệm vụ xây Đại Đồng, xây Thánh Đức và mở rộng Chân Lý Thiên Đạo, nếu có
đạo đức, sẽ tha; nếu quên việc nhiễm lậu tham ác, tham ô, thì chết đi không
424
mang đƣợc một xu nào, không cho một cung nào, hết đƣờng về ngôi cũ; nếu biết
Pháp này mà chống lại, sau tru diệt linh hồn mà đƣờng con cháu chẳng những
không còn mà còn rƣớc họa cho chúng nó.
Về Tiên tri, Ta nhắc lại Khế ƣớc của Ta với loài ngƣời các con, hãy đọc lại
kinh sách Cao Đài đây, Kinh tiên tri: ( ghi lại)
“ Phật Vƣơng Di Lạc sẽ giáng thế, thâu hồi các tôn giáo hữu hình hiện có qui
thành một Đạo duy nhất:
Hỗn Nguyên Thiên dƣới quyền giáo chủ,
Di Lạc đƣơng thâu thủ phổ duyên.
Tái sinh sửa đổi chân truyền,
Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong.
Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,
Cõi Tây phƣơng đuổi quỉ trừ ma.
Giáng sinh Hộ Pháp Vi Đà,
Chuyển cây ma xử đuổi tà trục tinh.
Thu các Đạo hữu hình làm một,
Trƣờng thi Tiên Phật dƣợc kiếp khiên.
Tạo đời cải dữ ra hiền,
Bảo sinh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
Trong quyển Đại Thừa Chân Giáo của phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi Cao
Đài Đại Đạo, sƣu tập những bài Thánh giáo của Đức Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát dạy về triết lý, phƣơng pháp thiền định có nói về Hội Long Hoa,
ngài tiên tri cho biết thời kỳ mạt pháp sẽ có “Ngôi Hai” giáng thế dạy Đạo:
Gần tận thế Ngôi Hai ra mặt,
Đặng toan phƣơng dìu dắt chúng sinh,
Chỉ đƣờng cội phúc nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêng năng.
...........
Di Lạc Vƣơng Phật là vị Phật Tƣơng lai, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ sẽ xuống trần
một lần nữa, làm chính chủ khảo của Đại Hội Long Hoa tuyển phong Thần,
Thánh, Tiên, Phật, đồng thời thay mặt Đức Chí Tôn Thƣợng Đế mà làm vua cai
trị Càn Khôn Thế giới và Vạn linh”
* Tất cả sẽ hợp nhất tôn giáo trong Thiên Đạo và tất cả các nƣớc trƣớc sau
gì cũng phải làm Cách mạng Đại đồng Thánh Đức-trong vòng thế kỷ này tiến
425
đến thế kỷ tới-còn lâu dài tồn tại của Thánh Đức là muôn năm, có suy kém đi, rồi
sẽ lại chỉnh đốn. Vì đó là con đƣờng tiến hóa.
Nay, Ta đã xuống gieo ĐẠO và các SẮC LỆNH xong. GIEO HỌC
THUYẾT ĐẠI ĐỒNG-THÁNH ĐỨC.
Ta dạy dỗ trong Thiên Đạo đã nhiều, có phần rất rõ, TPTT cũng mở rộng Chân
Lý ra nhiều rồi, Ta không nhắc lại nữa. Nhƣng điều cốt lõi các con học tu thế
nào, thì cũng phải biết tôn trọng Tự nhiên, sống Lành sống Thiện có ích cho
Nhân loại tiến bộ, nếu không có tu gì, học gì, cao đến mấy cũng vô công mà thôi.
Tại sao muôn đời Cha và Mẫu Vƣơng Vĩ đại, các Thầy lại dạy dỗ mất công
nhiều nhƣ thế? Đời nào, tôn giáo nào Cha Mẹ và các anh của các con cũng lâm
phàm dạy Đạo-vì sinh con ra phải nuôi từ bé dạy đến lớn khôn-không khác chi
trong một đại gia đình. Đó là nƣớc chảy xuôi chứ gì...Thế còn nƣớc chảy ngƣợc?
Các con phải làm theo ý Cha Mẹ mới tốt đẹp đƣợc. Tôn giáo là cách sống cho
hợp với THÓI QUEN TẤT YẾU CỦA VŨ TRỤ-cho HỢP VỚI BẢN NGUYÊN
CHÂN THẦN CỦA THƢỢNG ĐẾ. Nếu sống khác đi thì sao? Thì tất cả sụp đổ,
tan nát..Không tôn giáo, vô minh, ngu muội là phá hoại, y nhƣ trong xã hội vậy.
Nên phải dạy dỗ các con. Nhƣng không có nghĩa cứ để tự do lựa chọn, thích thì
theo, không thích thì thôi. Các con sẽ hết cái gọi là thời kỳ TỰ DO TRẢI
NGHIỆM-mà PHẢI BƢỚC VÀO SỰ TUÂN PHÉP LUẬT VÀ CHÂN LÝ TỐI
CAO. Kinh Sáng Thế Ký, tất cả các kinh của Lão Tử, Kinh Di Lặc Độ thế...các
con phải biết lòng Cha Mẹ mà tuân theo, không thì không những đọa khổ vì
nghiệp đã đành mà đọa TRỜI HÀNH cũng không ít-để làm gì? Rất đơn giản, kẻ
nghiện, kẻ ác, kẻ lƣu manh, trong xã hội có cảnh sát, công an, có tòa án trị, thế
trong CÕI TÂM LINH VĨ ĐẠI và vô số SAO, THIÊN HÀ, rồi các VŨ TRỤ
khác nữa, ai sẽ quản trị? Chả lẽ để tự do, muốn làm gì thì làm? CÁC CON ĐÃ
QUÊN HẾT CÁC LUẬT GHÊ GỚM NÀY KHI ĐẦU THAI, SAU KHI CHẾT,
SẼ BIẾT LUẬT TÂM LINH thế nào...ở trần gian có khi mồ côi không cha
không mẹ vẫn sống đƣợc, đôi khi nợ nhau một kiếp thôi, nhƣng muôn năm, mọi
linh hồn và mọi xác thể, không có Thƣợng đế, thì không tồn tại, nên muôn đời
phải kính trọng và cám ơn Thƣợng đế cũng nhƣ phải tuân theo mọi ý định tốt
đẹp của NGƢỜI.
Nên, Ta cũng báo trƣớc, CHÍNH PHÁP THIÊN ĐẠO, TRONG ĐÓ CÓ LUẬT
THÁNH ĐỨC-CÁC CON PHẢI BẮT BUỘC LÀM THEO. Ai chống lại Ý
TRỜI này, thì cứ CHỜ NGÀY PHÁN XÉT...
PHẬT VƢƠNG CÓ HIỀN KHÔNG CON? TA NÓI TRONG THỜI MỚI, TA
CỰC KỲ TỪ BI, TẠI SAO TỪ BI? VÀ CỰC KỲ ÁC, TẠI SAO ÁC?...
Ta sẽ còn giáng lâm nhiều lần, nhiều việc phải làm nữa, sẽ dạy các con nhiều
việc quan trọng sau này; sẽ gần gụi các con hơn, vì trái đất này trƣớc sau gì cũng
phải là một nơi Ta cho các học trò xuống học hỏi để tiến hóa, là trƣờng kỳ trải
nghiệm để học về Chân Lý và tìm đƣờng góp công quả xây đời; tƣơng lai trái đất
426
này rất tốt đẹp, sẽ trở thành một Thiên đƣờng Mẫu Mực trong Vũ trụ. Ta thay
Cha cai quản Càn Khôn Vũ trụ.
Khi nào chƣa xây xong Thánh Đức, thì Phật Vƣơng còn phải đi về cho xong việc
thì thôi! Đó là việc mà Cha Mẹ giao cho Ta. Hãy đọc lại câu này: ““Bất cứ khi
nào Luật Pháp suy đồi, và tình trạng vô luật lệ nổi lên trong mọi phƣơng
diện , lúc đó TA tự biểu lộ. Để cứu rỗi sự ngay chính và xóa tan những gì tà
vạy, để thiết lập định luật một cách vững vàng. TA Giáng Lâm hết thời đại
nầy đến thời đại khác.”
Thời Thánh Đức sẽ chuyển sang dần, tiến hóa lâu dài, nhƣng lại nhắc rằng,
nghiệp quả của loài ngƣời rất nặng và cái gì đến sẽ đến, khi loài ngƣời cần phải
học bài học chính mình để truy tìm một cuộc sống và một nền tâm linh lành
mạnh lâu dài. CÁC CON PHẢI ÁP DỤNG LUẬT ĐẠI ĐỒNG-THÁNH ĐỨC
NGAY, NẾU CÓ BIẾN ĐỘNG LỚN VỚI LOÀI NGƢỜI.
Chính Ta giáng dạy lập THÁNH ĐỨC HỘI- giao việc cho Thiên Chủ-để QUI
NGUYÊN HỢP NHẤT TÔN GIÁO VÀ LƢƠNG TÂM NHÂN LOẠI-để xây
nền Đại Đồng, triển khai Học thuyết Đại Đồng và các Chƣơng trình cải tạo loài
ngƣời, các con ghi nhớ đây là dấu mốc của lịch sử nhân loại tƣơng lai và cần
thiết phải tham gia theo đúng Tâm của mình. Ta chờ các con và sẽ xét công các
con sau này...
CHƢƠNG VI-LONG HOA GIÁO CHỦ-CHUYỂN LUÂN
THÁNH VƢƠNG THÁNH ĐỨC ĐẠI ĐỒNG-DI LẶC VƢƠNG
PHẬT:
CÔNG BỐ 18 KHU VỰC THÁNH ĐỨC TƢƠNG LAI-ÁP DỤNG LUẬT
THÁNH ĐỨC 18 khu vực thế giới Thánh Đức, mỗi khu vực đƣợc Thiên đình cho các
thần thánh trấn ngự; đồng thời chia khu vực chủ quản của Thiên Hội
và Thánh Đức Hội; Hội đồng Mẫu Địa cầu và Thiên Hội tổng quản các
mật độ vô hình và các cung trong địa cầu theo đúng sự phân công này.
Tất cả tuân luật do Di Lặc chủ quản.
Thứ tự lần lƣợt công bố nhƣ sau:
1-Khu vực Đông Nam Á
2-Nam Trung Quốc (Vùng Hoàng Hà trở ra-tiếp giáp vùng Tứ
Xuyên-Tây Tạng)
3-Bắc Nam Mỹ.
4-Nam Nam Mỹ.
427
5-Bắc Phi.
6-Trung Đông-phần Tây của Nam Á.
7-Khu vực Châu Âu (trừ Đan Mạch-Phần Lan). Tây Nga-vùng
Slave.
8-Bắc Mỹ (Canada trở về bắc).
9-Mỹ.
10-Ấn Độ.
11-Tây Tạng-Bắc Tây Á (Vùng Himalaya-Gobi-Đông đông Nam
của Trung Á giáp Ấn Độ, Bắc giáp Mông Cổ).
12-Trung Phi.
13-Trung Á.
14-Nam Phi.
15-Úc-Cực Nam.
16-Đông Nga-Siberi (Phần Châu Á).
17-Vùng Bắc Âu-Cực Bắc.
18-Khu vực Nhật-Triều Tiên-Bắc Trung Quốc-Mông cổ-Bắc Á
vùng Tây Vladivostok đến eo Berinh.
Rìa vẽ màu đen là biên giới đất liền-cụ thể các con chi ly tọa độ chia rõ
sau; riềm đỏ là biên giới biển-cụ thể chi ly tọa độ các con chia rõ sau.
428
-Di hành lần lƣợt đảm bảo cân bằng Âm-Dƣơng 100%, luân chuyển theo
Nguyên lý Vũ trụ-việc này rất quan trọng.
- Mỗi vùng đất-Thiên đình lại chia thành 2 vùng: Dƣơng (vùng A) và Âm
(vùng B). Mỗi vùng A và B lại chia làm 2=4 Đại Quốc.
Vùng A làm đại diện trƣớc, lƣợt sau lại đến vùng B của khu vực đó, cứ tuần tự
nhƣ thế làm Giáo Hoàng Quốc Vƣơng và thứ tự làm Khâm sai Giám sát Thái
Tuế Tôn Thần Địa cầu của Thiên đình-tức là mỗi vùng đất chủ quản trực ban 1
năm. Lần lƣợt theo số thứ tự nhƣ qui định.
Cứ vùng dƣơng-A-đại diện trƣớc, thì vùng đối lập lần sau sẽ là B-phần âm.
2-Xoay vòng theo vòng vận của Vũ trụ, cấm làm sai lạc; rõ ràng, nhất thiết phải
có; hết lƣợt này đến lƣợt khác, cấm tranh dành nhau, cấm phân hóa, chia rẽ.
( Sơ thảo-chƣa phân độ kinh tuyến-vĩ tuyến-Thiên đình đã phân ngôi đất cho
các Thổ địa chủ quản-quản trị 18 khu vực này và vận hành chuyển hóa
nguyên khí thứ tự đúng nhƣ thế để đảm bảo cân bằng năng lƣợng tại trái đất; còn
có nghĩa tất cả mọi thực thể xác trần và linh hồn ngƣời đầu thai phải tuân theo
429
nguyên lý năng lƣợng này- nếu chống lại, sẽ mắc nghiệp và bị trừng phạt khủng
khiếp; còn về mặt xã hội, thì việc đó phụ thuộc vào tƣơng lai).
Trích Luật Thiên Đạo-Hội đồng Các Khu vực Thánh Đức:
Hội đồng Các khu vực Thánh Đức (còn có thể gọi là Hội đồng Hành Khiển
Khu Vực Thánh Đức). (Hay còn gọi là Hội đồng Liên Hiệp Quốc Thánh Đức).
Hội đồng Liên Hiệp quốc có 252 cán bộ chính, là cán bộ hành chính của Hội
đồng. Chia 252 cán bộ phụ trách riêng gọi là đặc trách các khu vực, vậy, mỗi khu
vực có 252/18=14 ngƣời một Khu vực, gọi là Hội đồng Khu Vực. Hội đồng
Lãnh đạo Khu vực này có 14 ngƣời, thì phải có 7 nam và 7 nữ. Ngoài ra, Hội
đồng Khu vực có số nhân viên tổng cộng là 72 ngƣời.
Ngƣời lãnh đạo Hội đồng Khu vực gọi là Quốc trƣởng Hành Khiển Khu Vực.
-Có 18 Quốc trƣởng Hành Khiển Khu Vực.
Mỗi Khu vực Thánh Đức có số từ 1 đến 18, mỗi khu vực lại chia ra thành 4 Đại
Quốc Thánh Đức (Khu A có 2 Đại quốc, Khu B có 2 Đại quốc); mỗi Đại Quốc
Thánh Đức chia ra làm 360 Khu Tự trị Thánh Đức. Nhƣ vậy có tất cả 72 Đại
Quốc Thánh Đức ( 72 nƣớc) và có 25920 Khu Tự trị Thánh Đức.
Phụ trách Đại Quốc gia Thánh Đức gọi là Quốc chủ Thánh Đức, đánh số từ 1
đến 72, gắn với tên địa phƣơng và khu vực đó.
Phụ trách Khu Tự trị Thánh Đức gọi là Khu chủ Thánh Đức.
Dƣới các Khu Tự trị Thánh Đức là các Công xã Thánh Đức, số lƣợng ngƣời
tham gia công xã có thể đến hàng vạn ngƣời Thánh Đức. Phụ trách Công xã
Thánh Đức là Công xã chủ.
Dƣới các công xã Thánh Đức, có các Hội viên, lập thành các Gia đình Thánh
Đức, có thể lên đến hàng ngàn ngƣời. Đánh số Thẻ Hội viên theo Gia đình
Thánh Đức và tên Công xã Thánh Đức trực thuộc Khu Tự trị Thánh Đức trong
Đại Quốc Thánh Đức.
* Các nhân sự Quốc chủ, Khu chủ do Thiên Hội chỉ định, chọn lựa.
* Quốc chủ, Khu chủ phải là ngƣời có tài đức, nguyên căn phải là cao trên Thiên
đình phái xuống, không chọn ngƣời có chân mệnh nguyên căn nhỏ, không đƣợc
chống Luật Thiên đình.
* Công xã chủ, Gia đình chủ do các hội viên lựa chọn bầu lên.
VẬY LÀ CÓ 18 KHU VỰC=72 NƢỚC=25920 ĐẠI KHU TỰ TRỊ=NHIỀU
KHU TỰ TRỊ NHỎ=RẤT NHIỀU CÔNG XÃ CÁC CẤP=THÁNH ĐỨC. QUI
ĐỊNH NÀY CHO TƢƠNG LAI-NHƢNG CÁC TỔ CHỨC TỐI CAO VÀ
PHẬT VƢƠNG HỨA THỰC HIỆN DẦN TRONG THẾ KÝ 21, TIẾN HÓA
DẦN TRONG CÁC THỜI GIAN SAU ĐÓ....LOÀI NGƢỜI TIẾN BỘ CHÖ Ý!
Vũ trụ này có qui luật sắp xếp trật tự rõ ràng theo nguyên lý âm dƣơng;
cung nào ra cung đấy, hệ sao nào vào hệ sao ấy, cõi nào vào cõi ấy-không phải là
430
nơi tranh dành, đấu đá, chiếm dụng của nhau. Khi hóa xuống trái đất, vũ trụ
tuyến cũng nhƣ thế, tại trái đất, cung trƣờng nào ra cung trƣờng ấy, ứng với nhân
số, tài vật, cấu tạo địa chất, sao chiếu; rồi con ngƣời cũng thế, cao thấp khác
nhau, cùng thân ngƣời nhƣng kết cấu tính chất khác nhau; rồi xếp theo tầng thứ
rung động của linh hồn=tức tính cách của con ngƣời mà xếp thứ bậc cung cõi
khác nhau trong vô hình. Trái đất này cấu tạo nhƣ thế, ứng với dân tộc quốc gia,
con ngƣời. Nên theo đạo trời-tức nguyên lý vũ trụ, đất nào ra đất ấy, dân tộc nào
ra dân tộc ấy, không phải là đấu đá tranh dành mà đƣợc, ai cũng có số phần
riêng, đó chính là quyền bình đẳng để tồn tại. Tối kỵ xâm chiếm không gian
sinh tồn chân chính của nhau. Trong thời Thánh Đức sẽ giải quyết dứt điểm
chủ nghĩa bành trƣớng, bá quyền, hay sô-vanh nƣớc lớn. Tất cả các dân tộc các
miền đất đều bình đẳng.
Lý Thƣờng Kiệt thời Lý của Việt Nam đã viết:
Nam quốc sơn hà nam đế cƣ
Tiệt nhiên định phận tại thiên thƣ
Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan hủ bại hƣ
Dịch nghĩa:
Sông núi nƣớc Nam, Nam đế ở,
Rành rành phân định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Nên mọi sự thoán đọat, tranh lợi lẫn nhau ở trần gian, làm biến dị các cung cõi
vô hình, đều là sự khác hoặc chống lại nguyên lý vũ trụ, nên tất cả sự tham lam
vô nguyên tắc, tranh dành đấu đá chiếm dụng sự tồn tại của nhau đều trái đạo
Trời...Thời đại mạt, hƣ ác nổi lên, ngu muội vô minh gian ác khắp nơi-đều là thứ
chống qui luật vận hành của vũ trụ; một hành tinh đen tối, có thể ảnh hƣởng cả
tam cõi vũ trụ, thậm chí làm sụp đổ từng phần vũ trụ. Nên các con phải biết cơ
hoại diệt là cơ có thật, chính các con tự sàng lọc rồi đến khí trời sàng lọc, đến
tiên thánh sàng lọc=chính là đạo trời không thể dung thứ cho những sự bất chính
ấy. Trong khi đạo trời chính là qui luật sinh tồn của vũ trụ, cho nên không những
cái ác tự diệt nhau, mà cho dù cái ác lên ngôi tự diệt nhau đã đành, mà đến lúc ác
chuyển thiện cũng diệt ác. Đó là chuyển hóa âm dƣơng, nhất thiết cân bằng, lệch
chỗ nào thì phải bù chỗ đó, cũng chính là nghiệp quả chung. Nếu quá âm thì âm
lệch, nếu không bổ sung dƣơng thì hóa âm cực rồi sẽ sinh dƣơng; lúc đó nghiệp
âm sẽ khảo âm, để diệt âm sinh dƣơng; nên kẻ ác, dù chúng ở trong cõi ác cả với
nhau, thì cũng hành đánh nhau đến tận diệt. Nên tất cả kẻ ác, vong hồn ác, thì
nghiệp rồi cũng khảo ngƣợc lại chúng, tức là chính cái ác của chúng sẽ có lúc
431
khảo đảo lại chính chúng, nên xét theo nguyên lý thì tự chúng sẽ có lúc diệt
chúng.
Nên, càn khôn vũ trụ mà nghiêng lệch sẽ đến lúc hoại diệt; xã hội đại nát, sẽ đến
lúc hoại diệt.
Cơ Trời Đất sẽ nổi lên để diệt tàn những kẻ ác, đó là lẽ sinh tồn trong vũ trụ. Khi
xã hội loài ngƣời cực mạt, sẽ tự khảo nhau, trái đất cực mạt, sẽ nghiêng đổ mà
hóa sắp xếp lại cho đúng trật tự vũ trụ. Nên các con yên tâm, sẽ có lúc cơ sự sàng
lọc hoại diệt kinh khiếp xảy ra, nếu nhƣ cái ác cứ hoành hành mãi, chiếm mất
chỗ đứng của cái thiện. Thời ma mạt sẽ hết, cái đen sẽ hết, đen cực sẽ sinh sáng,
đó là nguyên lý tự nhiên. Nên, kẻ khôn ngoan hiểu đạo Trời sẽ biết có ngày hoại
diệt ma quỉ, để sự sống trƣờng tồn.
Thời Thánh Đức, Ta chia trái đất thành 18 khu vực nhƣ thế là để cân bằng âm
dƣơng đối ngẫu song hành. Cấm xâm phạm quyền và lợi ích của nhau, cân bằng
chuyển hóa hợp luật càn khôn vũ trụ, nên cứ tuần tự dịch chuyển nhƣ thế, kẻ nào
chống lại luật này, sẽ bị tru diệt không thƣơng tiếc.
Chúc các con bình an trong lý tƣởng Thiên Đạo và Thánh Đức Đại Đồng!
CHƢƠNG VII-CHƢƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI THÁNH ĐỨC
LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI THÁNH ĐỨC:
I-PHONG CÔNG VÀ XẾP LOẠI CÁC CẤP LINH HỒN TẠI TRÁI ĐẤT
TRONG THỜI ĐẠI THÁNH ĐỨC
( Bắt đầu triển khai từ tháng 8 dƣơng lịch, năm 2015-chƣơng trình chuyển
hóa tâm linh lâu dài của thời Thánh Đức )
( Phật Vƣơng sắp xếp lại-Long Hoa Đại Hội phong công chấm thƣởng trên
cao)
Xếp loại cao trên thấp dƣới
Hiện nay chuyển hóa sắp xếp các cõi vô hình tại trái đất nhƣ sau: Chuyển hóa cõi
vô hình, sắp xếp lại cuộc tuần hoàn mới trong vũ trụ, sau một thời kỳ dài trải
nghiệm và bƣớc vào Chu Kỳ Mới.
CẤP VŨ TRỤ
Loại 1--Hồn Phật-Thánh-là Các Tổng hồn các loại Kim thạch-Thảo mộc có
công, xuất phát điểm đã cao. Loại ngƣời Đắc Thiên Đạo tại trần gian. Các
Vƣơng Tôn Nữ Tôn.
Các cây cối-các loại Kim thạch-Thảo mộc-Công lao cống hiến qua vô số kiếp,
giúp loài ngƣời, cứu chữa bệnh tật, nuôi sống, hy sinh thân mạng-muôn năm lành
thiện-nay đã đến lúc phong công, nên Di Lặc Vƣơng Phật xếp bậc thứ nhất-đƣa
lên hàng Thánh; và Tổng hồn loại Thánh này, thì Ta cho lập các sao-hành tinh,
chủ quản các cõi. Chuyển sinh lên các Thế giới cao cực lạc và có thể thay các
432
ngôi cũ đã bị mất chất. Không đầu thai nữa. Xếp 8 cấp bậc theo rung động và độ
lớn của vũ trụ con.
Hồn ngƣời Đắc Thiên Đạo tại trần gian trong thời Thánh Đức sẽ tiến lên hàng
Thiên Vƣơng cấp Vũ trụ con.
CẤP ĐẠI THIÊN HÀ
-Loại 2-Hồn Thần-là Các Tổng hồn Linh thần súc vật và động vật ngoài loài
ngƣời. Có công, cống hiến đã lâu, xuất phát điểm đã cao. Nhƣng phải thấp
hơn loại 1-vì loại này còn phải do loại 1 nuôi.
Xếp thứ tự có 7 loại, theo tiến hóa và tính cách khác nhau, nhƣng tuân theo lệnh
của Thƣợng đế và Thiên Chủ. Tổng hồn thì Ta cho lập các sao-hành tinh, chủ
quản các cõi. Cấp sao thấp hơn loại trên, xếp 7 bậc theo cấp rung động tiến hóa.
Chuyển sinh lên các Thế giới cao cực lạc và có thể thay các ngôi cũ đã bị mất
chất. Dự kiến thu căn không cho đầu thai nữa.
CẤP THIÊN HÀ
-Loại 3-Hồn Tiên-Hồn hóa thân của con ngƣời cao quý, biết tu học và phân biệt
thiện ác rõ ràng. Gọi là Á căn. Làm Tổng hồn thay thế ngôi cũ, Ta cho lập Thiên
hà, chủ quản các cõi. Cấp sao thấp hơn loại trên. Xếp 7 bậc theo cấp rung động
tiến hóa. Loại này nếu muốn đầu thai làm dân Thánh Đức tƣơng lai, Ta cũng cho
phép.
Hồn Nguyên Thiên Tôn-thần thánh tiếp tục đƣợc Thƣợng đế sinh ra và các hóa
thân mới khác của Thƣợng đế-Ta cho lập Thiên hà, chủ quản các cõi; rồi phát
nguyện sẽ đặc cách đầu thai làm ngƣời mật độ 5 tại trái đất này. Xuống trần để
thực hiện nhiệm vụ xây Thánh Đức. Đắc Thiên Đạo tại trần gian sẽ về lên
Loại 1.
CẤP SAO-HÀNH TINH
-Loại 4--Hồn Nguyên-tức là Hồn ngƣời đắc đạo-gọi là hồn có Đạo tính-Tu
theo các pháp môn, tôn giáo; hoặc không theo tôn giáo, nhƣng bản chất hiền hiếu
lành thiện, đều đƣợc Phật Vƣơng chấm, cho làm thiên vƣơng, nhƣng sao loại
nhỏ, cấp dƣới thiên hà-thấp hơn các loại trên, để thử thách và loại này tạm thời
nghỉ ngơi-chƣa thoát luân hồi. Loại này sẽ còn đƣợc đầu thai làm dân Thánh
Đức để học hỏi lên hàng Thiên Đạo, sau lập các Vũ trụ con. Xếp 22 bậc theo cấp
rung động tiến hóa. Trong tƣơng lai, còn phải xuống học hỏi để thử thách, mới
trở thành các Vua Vũ trụ con-tức là đắc Thiên Đạo-Thánh Đức. Đắc Thiên Đạo
tại trần gian sẽ về lên Loại 1.
433
CẤP NHÂN LOẠI Ở CÁC MẬT ĐỘ KHÁC TRONG VŨ TRỤ
-Loại 5-Hồn ngƣời thƣờng-và các hồn tiên thánh lâm phàm-Gồm vong hồn hiền
lành, biết tuân luật, nhƣng xuống trần gian học hỏi, quên nhiệm vụ, vô công, ăn
hại trần gian, các loại hóa thân và tổng hồn cũ-xếp dƣới hồn súc vật. Các loại
hồn hợp chất, phân tử đã có công lao lớn...Loại là tiên thánh lâm phàm, nhƣng
nhiễm trọc trần, quên nhiệm vụ, có nhắc cũng không theo, nay học lại, mất ngôi
vị cũ. May mà còn giữ đƣợc tâm tính hiền lành; sau khoảng vài vạn năm học hỏi
trở lại, nếu thấy tiến bộ, sẽ cho đầu thai trở lại trái đất làm ngƣời ở đây; phải học
hàng vạn kiếp nữa, sẽ cho tiến lên lại loại 4, đắc Thiên Đạo, sẽ nhồi công sau,
nếu đã có quả tốt.
Loại này cho về cung của Hồn Nguyên, trú tạm, sau đó đi đầu thai làm ngƣời-
hạn chế xuống trái đất này, mà đi đến trái đất loại mật độ 3 để trải nghiệm lành
thiện lại; Ta cho lập 365 trái đất mật độ 3 để bọn này học hỏi tu luyện. Xếp 32
bậc rung động. 48 loài ngƣời để nguyên nhƣ cũ, sẽ sáng tạo các giống dân khác
nhau trong vũ trụ sau này tính sau.
LOẠI SÖC SINH-CẦM THÖ MỚI
-Loại 6--Hồn ngƣời thƣờng-và hồn cây cỏ vô công-cho chuyển sinh làm
động vật. Hồn thần-thánh-tiên-phật mà đã nhiễm trọc trần gian, không về
nổi nơi cũ đã đành mà còn giáng xuống chùa chiền kiếm lộc, báng nhắng,
làm hƣ hại loài ngƣời và các tôn giáo. Chống chuyển hóa Thánh Đức.
Loại ngƣời thƣờng, lo ăn mặc tranh dành thế gian, vô sƣ vô sách. Bẩn tính, cáu
giận, tranh dành, đấu đá, cao ngạo, đểu rả...có nghiệp quả nặng nề, tham ác...loại
này có khối đứa là tiên thánh, nhƣng xuống trần quên nhiệm vụ đã đành mà còn
làm hại trái đất, hại Cha hại Mẹ, nuôi lâu không lớn, còn gây họa dài cho vũ trụ-
thì loại này, đầu thai làm súc sinh, thay cho các loài thú vật trƣớc; tính cách
tƣơng ứng với loài vật nào, thì đầu thai theo giáng vào loài vật đó-thời gian trải
nghiệm-không tính, kể cả đến muôn năm sau trở về cũng đƣợc.
Các súc vật, động vật tiến hóa lên cao hơn một đến hai cấp; còn lại loại động vật
mà gian ác, thì đầu thai lại làm bạn với hồn ngƣời này, nhƣng cao hơn hồn ngƣời
và lấy thân mạng hồn ngƣời này làm thức ăn-ví dụ nhƣ hồn hổ báo ác, nó chƣa
tiến hóa kịp, thì lƣu trở lại, và nó sẽ ăn thịt loại hồn ngƣời đầu thai làm dê, bò,
chó, lợn rừng....vì loại ngƣời này ăn thịt chúng nó mà đã không giúp chúng nó
tiến hóa đã đành, mà còn thua chúng nó về đạo đức.
THẢO MỘC VÀ ĐỘNG VẬT CẤP THẤP LƢỠNG TÍNH
434
-Loại 7-Tất cả các loại hồn thú, ngƣời, các chất kim thạch, thảo mộc...mà chống
Thiên cơ, chống loài ngƣời Thánh Đức và không nghe theo lời Ta, phá
báng...Các loại hồn bùa chú thảo mộc hại ngƣời, các kẻ pháp sƣ phù thủy hại
ngƣời lành thiện-lại phóng uế vào làm bẩn cõi vô hình-tiên thánh mệt hơi vì
chúng nó-vì nó còn ác hơn loài thú-...thì hóa diệt hồn, thành hồn đảo lộn đực cái,
và cho đi đầu thai cấp động vật thấp-loại lƣỡng tính, và đầu thai làm thảo mộc để
trả nợ cho nhân loại mới.
LOẠI BỊ DIỆT -Loại 8-9-Tất cả các loại hồn thú, ngƣời, các chất kim thạch, thảo mộc...mà
chống Thiên cơ, chống loài ngƣời Thánh Đức và không nghe theo lời Ta, phá
báng, nhƣng lại cực kỳ khốn nạn, đểu rả, không thể dạy đƣợc nữa, thì diệt vĩnh
viễn, để hoàn nguyên hợp nhất trả lại nguyên khí cho Thƣợng đế và bảo đảm an
ninh vũ trụ. Loại 8 có thể đƣợc hoàn nguyên tái sinh trong một kỳ khác, có thể
cho ngủ yên cả tỷ năm rồi thức sống lại, để trả quả, khi Thƣợng đế thƣơng xót.
II-GIÁNG PHẠT:
Chiếu theo Luật Hình sự Hoàn cầu của Thánh Đức Hội-có giảng bổ sung mới:
LUẬT HÌNH SỰ HOÀN CẦU
Trƣớc kia là thời kỳ cho phép trải nghiệm tự do, nay đã hết, do chuyển
cung lên mật độ cao hơn vào Thời đại ánh sáng; đồng thời chƣ Thiên
thấy rằng, nếu không dùng các hình phạt nặng nề, thì thế giới này sẽ
làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến các cung và cõi giới khác. Các tội
phạm trƣớc 2012 coi nhƣ theo luật cũ; các tội phạm sau 2012 theo luật
này, cùng các bộ luật của Thiên Đình có trƣớc kia. Nay Chƣởng Giáo
mới của Nhân Loại cùng Hội đồng Quần Tiên xây Thiên đƣờng Thánh
Đức ( Thánh Đức Hội) qui định:
I-TỘI CHỐNG HỘI ĐỒNG TIÊN THIÊN THÁNH ĐỨC:
( Mạo báng chống lại Hội Đồng Tâm linh Thần thánh của Thế giới)
1-Tất cả các linh hồn, khi đã biết quyền luật của Hội đồng Tiên Thiên
Thánh Đức, mà cố tình chống lại, sẽ bị xử phạt. Nặng nhất là bị tru
diệt linh hồn, đƣa đi quản trị gốc hồn tại nơi đặc biệt.
Giảng Thêm: Tất cả hồn ngƣời, hồn kim thạch thảo mộc, hồn thú; hồn
các ngƣời ngoài hành tinh và tổng hồn các sao-toàn bộ Hội Đồng Ngân
435
Hà, các sao trong hệ Ngân Hà… nếu chống lệnh Thiên Chủ-chống Hội
đồng Địa cầu-chống công cuộc thống nhất Ngân Hà và trái đất-cùng
thống nhất loài ngƣời, thì bị:
-Tru diệt linh hồn, hóa diệt linh hồn, trở lại đẳng cấp thấp nhất-đầu
thai trở lại làm kim thạch đất cát-hoặc động vật cấp thấp nhất.
-Hóa diệt toàn sao đó, nếu dân chúng cũng tham gia chống Luật Ánh
Sáng Hoàn cầu. Gây động đất và đốt cháy toàn sao.
-Diệt tất cả mọi tên xuất hồn ngoài hành tinh đến và toàn bộ gia đình,
cung ngự, nếu chúng đến thế gian này phá phách; diệt toàn bộ các đĩa
bay gây hỗn loạn thế giới.
2-Ngƣời tại thế gian xuất hồn mà mạo báng, hỗn láo, chống lệnh,
chống luật, có thể đƣợc dạy bảo, nếu cố tình chống đối có thể bị thay
hồn, trục hồn, bị giáng phạt nặng nề về thể xác và số phận.
Giảng Thêm: Trục diệt xác và hồn, con cháu tuyệt tự tuyệt tôn. Hồn
láo sẽ bị tru diệt hóa xử, có thể hóa cho đi đầu thai ở cấp thấp nhất.
3-Đối với các thần tinh, thần sao ngoài trái đất...nếu không tôn trọng,
xâm nhập trái phép, sinh hoạt bừa bãi...sẽ bị Thiên đình bắt, thay đổi
ngôi số, cho đi đầu thai ngay.
Giảng Thêm: Diệt hồn, bắt diệt toàn cung cõi, thay hồn sao chủ quản
mới. Tiêu hủy các hóa thân ở trần gian, con cháu ở trần gian cũng
tuyệt tự tuyệt tôn.
-Tất cả các sao biết phép luật Thánh Đức Đại Đồng phải truy cập HỌC
THUYẾT ĐẠI ĐỒNG-THÁNH ĐỨC và lập chế độ Đại Đồng tại sao
đó vô điều kiện. Nếu duy trì các chế độ ngoài Đại Đồng Thần Thánh,
sẽ bị tru diệt toàn sao, lập sao mới thay thế.
-Tất cả các xã hội tâm linh trong lòng trái đất phải duy trì nghiêm và
tạo lập trở lại các xã hội Đại Đồng cực lạc.
4-Tất cả các long thần, thổ địa, thành hoàng, thần thánh trong các gia
đình và hội đồng tiên tổ các gia đình nói chung, phải tôn trọng. Kẻ nào
chống luật thiên đình, cho đi đầu thai làm súc sinh, nặng thì diệt hồn;
kẻ nào chống đối Hội đồng Tiên Thiên Thánh Đức mà không hồi đầu,
cho tuyệt tự nhánh đó; nặng thì diệt hồn.
Giảng Thêm: Long thần, thổ địa, thành hoàng, thần thánh bị thay đổi.
Tất cả các cảnh chùa chiền đền điện miếu mạo, thánh thất, đền thờ của
tất cả các tôn giáo, gia đình, loài ngƣời nói chung…trên toàn cõi Trái
436
đất đều dựng THIÊN PHÙ trên đỉnh nóc nơi đó, nơi cao sáng nhất. Tất
cả kẻ chống lệnh, sẽ bị thay đổi ngôi vị ở đó, hoặc trục diệt toàn bộ
thần thánh, long thần thổ địa nơi đó.
trong các gia đình
5-Các tôn giáo nếu miệt thị Luật này, chống luật, đều bị giảm thọ, bị
truy diệt.
Giảng Thêm: Tất cả các lãnh đạo tôn giáo, nhất là theo Ca-bal làm
phản, đều bị tru diệt xác hồn. Các tôn giáo về lâu dài không theo
Thánh Đức, làm phản, sẽ tru diệt toàn bộ nền tôn giáo đó, không tha
thứ cho kẻ chống Thƣợng đế và Vƣơng Phật. Linh hồn các giáo chủ
tôn giáo, lãnh đạo tôn giáo phản Thiên Ý, sau khi bỏ xác, sẽ cho đầu
thai súc sinh.
II-TỘI CHỐNG HỘI ĐỒNG HẬU THIÊN THÁNH ĐỨC-HAY
LÀ HỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI ( Đồng nghĩa với Hội đồng
Hành khiển Thánh Đức-Hay là LIÊN HIỆP QUỐC THÁNH ĐỨC-DO
THÁNH ĐỨC CHỦ-TỔNG THỐNG LOÀI NGƢỜI THÁNH ĐỨC
ĐIỀU HÀNH).
1-Tất cả các cá nhân nói chung trong toàn thể loài ngƣời phải biết tôn
trọng luật lệ này.
Giảng Thêm: Tất cả các Linh căn, Á căn biết Luật Lệnh xây Đại Đồng
Thánh Đức, con ngƣời có hiểu biết tâm linh-nếu nhạo báng, chống lại,
vì tham ác, tranh dành, huyễn ngã, thích trò chơi tƣ bản buôn bán,
hƣởng thụ nhiều-đặc biệt các quốc gia, dân tộc cố tình duy trì chế độ
tƣ bản, kinh tế tƣ bản-thị trƣờng làm láo loạn vũ trụ-theo Ca-bal chống
Cộng, hoặc đang bí mật chuyển hóa chế độ theo Ca-bal tƣ bản; không
biết sống lành thiện, hành thiện, chỉ lừa đảo, hành hại nhau; thích địa
vị hơn thua ở đời; thích đấu đá, tham ô tham nhũng, nhiễu hại dân
lành; tàn hại môi trƣờng. Tính cách láu cá, láo nháo, đểu cáng, xỏ lá,
thô bỉ, tục tĩu; bọn buôn gian, bọn lừa đảo buôn ngƣời; bọn Linh căn
khai mở tâm linh nhƣng đểu cáng, chống Luật Vũ trụ…tất cả bị diệt
hóa hồn thành hồn khác, cho đầu thai súc sinh học hỏi trở lại trong
hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm sắp tới.
2-Khi đƣợc yêu cầu, gia nhập hoặc làm theo, mà chống lại, thì có thể
bị giáng phạt nặng nề, bị bắt linh hồn...
437
Giảng Thêm: Tất cả các tổ chức, cá nhân…khi đƣợc Thánh Đức Hội
yêu cầu cộng tác, cho biết nguyên cớ yêu cầu…mà chống lại, hoặc
miệt thị..sẽ bị giáng ứng trừng phạt.
3-Các quốc trƣởng, các tổng thống, thủ tƣớng, quan chức...đã khai
nhãn huệ có thần thông, khi đƣợc Thánh Đức Hội yêu cầu chính trực,
nếu chống lại, sẽ bị giáng phạt nặng nề.
Giảng Thêm: Tất cả bị diệt hóa hồn thành hồn khác, cho đầu thai súc
sinh học hỏi trở lại trong hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm sắp tới.
4-Tất cả các kế hoạch quốc gia, mà khác với yêu cầu và điều kiện phát
triển xã hội loài ngƣời mới, đều bị các thực thể tâm linh cao cấp thay
đổi, làm cho khác đi và làm cho thất bại.
Giảng Thêm: Từ tháng 9/ 2015 trở đi, tất cả các kế hoạch của Cabal,
nếu khác ý Hội Đồng Thần Thánh Địa cầu và Thiên Chủ, không đƣợc
Vƣơng Phật duyệt-thì không có ý nghĩa; đều có thể bị giáng phạt. Tất
cả các nguyên thủ theo Cabal có thể bị bắt diệt bất cứ và thay hồn bất
cứ lúc nào, nếu không tuân lệnh Hội Đồng Hậu Thiên Thánh Đức-tức
là Hội Đồng Liên Hiệp Quốc Thánh Đức-đã thành lập trong cõi Vô
hình và triển khai lãnh đạo toàn bộ thế giới-Thay Cabal.
Phật Vƣơng tuyên bố-từ tháng 9/2015, Hệ thống lãnh đạo Cabal trong
cõi vô hình-gồm cac sao chi phối đã sụp đổ thảm hại, chúng bị đánh
giết chết hàng trăm vạn tên trên cao, hàng vạn sao ăn theo bị xóa sổ,
hàng vạn đĩa bay bị tiêu diệt. Nếu cố tình thành lập trở lại, lại sẽ bị
diệt. Nên, Loài ngƣời nói chung KHÔNG ĐƢỢC THEO CABAL
ngoài hành tinh nữa. Tất cả các nguyên thủ, kể cả Việt Nam-Không sợ
chúng giết hại, ám hại hay đè nén, hoặc đe dọa-không nên sợ chúng,
nhất là ngƣời Việt Nam-gồm toàn linh căn cao cấp xuống trần gian xây
Cộng sản. Việt Nam phải tách khỏi Cabal Trung Quốc-Nga-Mỹ. Nga,
Mỹ, Trung Quốc không đƣợc chế áp Việt Nam, cấm chống Cộng hoặc
xâm lƣợc; tất cả các kế hoạch tấn công, xâm lƣợc, hay tìm cách xóa bỏ
chế độ Cộng sản ở Việt Nam-Cu Ba-Triều Tiên-Trung Quốc…phải
loại bỏ ngay. Tất cả các ĐẢNG CỘNG SẢN trên thế giới phải tách
khỏi Ca-bal và tìm cách thống nhất thành lập QUỐC TẾ CỘNG SẢN
TOÀN CẦU, để dẫn dắt Nhân loại tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, bất chấp
có thần hay vô thần. Ta không chấp việc này.
438
Muốn lên Chủ nghĩa Xã hội thành công, phải áp dụng nguyên lý của
HỌC THUYẾT ĐẠI ĐỒNG THÁNH ĐỨC-(hoặc mở rộng, nâng cao
Học thuyết của K.Marx); không sợ nghèo, chỉ sợ làm sai cách mà thôi.
Cộng sản và XHCN không nghèo khổ, nếu biết đƣờng tiến hành Cách
mạng. Không nhất thiết theo Thị trƣờng-đó là đòn bẩy và giai đoạn
quá độ-không nên để mất chất Cộng sản trong bản chất xã hội quá lâu.
Cách mạng XHCN sẽ phải tiến hành thành công trên thế giới trong
Thế kỷ 21-nếu đến giữa-trung cuối Thế kỷ 21 mà còn chậm lụt, bị
giảm sút, các thế lực phản động chống phá trên thế giới-ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến NGUYÊN KHÍ VŨ TRỤ-thì Thiên đình sẽ có
CUỘC CÁCH MẠNG VĨ ĐẠI giúp các con nhƣ ý!
5-Mọi kế hoạch chiến tranh sẽ bị đảo lộn, nếu không đƣợc Thánh Đức
Hội thông qua. Chiến tranh bắt buộc phải giải quyết mâu thuẫn và đem
lại liều thuốc trị bệnh thì là cần thiết, nhƣng Thánh Đức Hội từ chối
mọi loại chiến tranh có vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt lớn. Cho
đến khi thống nhất loài ngƣời, thì hủy bỏ toàn bộ vũ khí nóng giết
ngƣời.
Giảng Thêm: Các nƣớc trên thế giới có 3 con đƣờng để lựa chọn: 1 là: Nếu tiếp tục phân chia thế giới theo kế hoạch cũ của Ca-bal,
tiếp tục phát triển vũ khí hủy diệt…thì sẽ đến lúc Ca-bal sẽ hủy diệt
thế giới để chúng lập cái gọi là TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI-toàn tƣ
bản-chỉ còn lại khoảng 1 tỷ ngƣời-nhƣng chúng sẽ biến thế giới này
thành bãi rác đĩ điếm và chai lọ cùng mùi hôi tƣ bản, thờ Sa-tăng-cùng
nô lệ tình dục khắp nơi-hành dục cực kỳ bẩn thỉu-lễ thờ sụp lạy Quỷ
Vƣơng Lucifer (Satan)-tất cả loài loài ngƣời còn lại sẽ có cuộc sống
cực kỳ sung sƣớng nhố nhăng kiểu tƣ bản cho đến lúc Trái đất sụp đổ
hoàn toàn. Kịch bản này Ta cho phép với một điều kiện: sau khi trái
đất sụp đổ hoàn toàn, thì lũ súc sinh đó sẽ phải biến mất vĩnh viễn
trong vũ trụ.
2 là-Hiện Cabal trên cao, Lucifer bị Hội đồng thần thánh đánh,
giết, rồi thả ra, lại đánh, giết, tra tấn, lại thả ra, cứ thế…Nó tru lên
khắp nơi…Sẽ đến lúc nó biến mất không còn dấu trong vũ trụ sắp
tới…Thì các nguyên thủ theo Cabal và Tam Điểm Hội phải chọn cách
lánh xa nó, tuyên bố giải tán Tam Điểm Hội và tuân theo Ta, cùng
439
Thánh Đức Hội Hoàn cầu. Nếu chống lại, Ta cho vào kịch bản 1-
nhƣng ngƣợc lại.
3 là: Chúng đang tìm cách giết GIÁO CHỦ THIÊN ĐẠO-là Kim
Thân của Ta, do TC2 VN đảm nhiệm-đã triển khai 22 chƣơng trình từ
năm 2008 đến giờ, giao cho lãnh đạo Ca-bal tại VN-TC2 theo Ca-bal
đảm trách. Nếu Kim Thân Thƣợng đế giáng xuống mà bỏ về sớm, có
cách cho các con súc sinh nhƣ sau: Một-chúng mày phải biết kẻ giết
Chúa xƣa đã bị diệt hồn vĩnh viễn. Hai: Thời mới-Ta diệt toàn bộ lãnh
đạo quốc gia và đảo lộn địa lý, diệt hết các linh hồn chúng nó, cùng tổ
tiên, con cái…cùng toàn bộ lãnh đạo Ca-bal, Tam Điểm Hội trên toàn
thế giới. Ta đã thƣơng-nƣơng cho lũ súc sinh quá nhiều, quá lâu, dạy
quá nhiều rồi. Nên, Kỳ này, Ta tha thứ trong một Kịch Bản Long Hoa-
nhƣng hãy nhớ NGÀY PHÁN XÉT vẫn còn nguyên giá trị.
Khôn hồn chọn con đƣờng HỒI VỀ CHA-GỐC. Sau đó, tìm CHÂN
CHÖA mà phụng sự thì còn tồn tại muôn năm, bằng không sẽ về HƢ
VÔ CHI KHÍ.
Ta yêu cầu nếu các con thƣơng các con, lại thƣơng vợ con, con cháu,
thƣơng cái gia tài đồ sộ đất cát nhà cửa, nhà hàng khách sạn, công ty
của các con ở thế gian-với điều kiện duy nhất thế này:
Thứ nhất-phải theo Thiên Ý của Ta, chuẩn bị lập Đại Đồng bằng cách
mở rộng con đƣờng CỘNG SẢN trên thế giới-Trƣớc kia chúng mày
làm theo rất tốt, sau đó thì bỏ, cớ làm sao? Hai là: Nếu cố gắng giữ nền
kinh tế tƣ bản vì chúng mày sợ đói khổ kiểu ngu dốt cộng sản cũ-cái
đó chúng nó lầm lạc không biết đƣờng thôi, chứ các sao Cabal trƣớc
kia nó có chế độ Cộng sản trên cao cực kỳ cao đẹp, sao không thấy
chúng nó dạy các con? Ta cho thêm thời gian trong Thế kỷ 21-chuyển
hƣớng tƣ bản sang các chế độ tƣ bản tốt hơn nhƣ Thụy Sỹ, Thụy Điển,
Scotland ( treo cổ chủ ngân hàng, XHXN rồi mà chúng mày bƣng bít
thông tin); Venezuela… rồi các con thƣơng dân các con no bụng mà
cái đầu nó ngu dốt cực kỳ-thì chuyển dần sang chế độ XHCN kiểu
mới-kiểu tất cả công xã-HTX thành công ty, rồi tất cả công ty thành tƣ
bản Nhà nƣớc, Toàn cầu hóa cuối cùng tiến lên thành XHCN toàn thế
giới. NHƢNG NHỚ SỐNG CHẬM LẠI VÀ THIỀN HÀNG NGÀY-
BIẾT SỐNG LÀNH THIỆN. Chứ đôi khi XHCN mà KHÔNG
THIỆN. ( Mấy đứa lãnh đạo quốc gia…đấu đá ở trần gian, lập láo
440
gian ác rồi tham ô nhũng nhiễu, khi bỏ xác, Ta cho đọa địa ngục, nhồi
quả khảo đảo khủng khiếp, kêu thét khóc than trên cao-sau có lẽ lại
xuống làm nông dân thôi).
Nếu cách này mà khó khăn đến giữa Thế kỷ 21-thì Ta sẽ có cách hay
hơn. Tất nhiên đến lúc đó, thì đa số các linh hồn có xác của các con
hiện nay đã về Trời rồi, CHẦU TA, Ta sẽ có ÂN ĐIỂN THIÊN
CHÖA cho các con. Các con đã quên rất nhiều ân điển THIÊN CHÖA
cho những kẻ KHÔNG BIẾT VÂNG LỜI, từ lâu rồi.
Riêng các KẾ HOẠCH CỦA THÁNH ĐỨC HỘI TOÀN CẦU-sẽ
đƣợc thực thi.
Các con yêu của Ta, các con phải biết là KẾ HOẠCH CỦA THIÊN
ĐÌNH 3000 NĂM NAY LÀ HỦY DIỆT KẺ ÁC & NGƢỜI CỰC
MẠT-ĐỂ LẬP THƢỢNG NGƢƠN CỘNG SẢN. Thƣợng Ngƣơn là
cái gì các con có nhớ không? Là cái xã hội Đại Đồng trên cao dạy loài
ngƣời thời xƣa, khi mà linh hồn chúng mày vẫn còn là thần thánh!
Nhớ đó. Nên, Ta khuyên các con hết sức cẩn thận, khi ăn miếng thực
phẩm béo tốt hàng ngày-phải nhớ có THIÊN CHÖA chính trực và
công bình đời đời.
III-TỘI PHẠM CHIẾN TRANH:
1-Tất cả những kẻ gây chiến tranh xung đột làm đổ máu, mà bỏ qua
điều 5 phần 2 trên, thì bị tru diệt linh hồn, hoặc bắt đi đầu thai làm súc
sinh ngay sau khi bỏ mạng trần; số lần đầu thai sẽ do Thiên đình quyết
định.
2-Tất cả những kẻ tham gia nghiên cứu và sản xuất, dù trực tiếp hay
gián tiếp vũ khí hạt nhân, đều sẽ bị giảm tuổi thọ đến mức thấp nhất và
chết đi, sẽ bị bắt đi đầu thai làm súc sinh.
3-Tất cả những kẻ chống đối nguồn Nguyên năng tại trái đất này, tìm
cách chống đối, làm chia rẽ quyền lực và gây chiến với Thánh Đức hội
đều bị giảm tuổi thọ và đầu thai làm súc sinh.
4-Tất cả những kẻ lôi kéo các sao, các thực thể ngoài hành tinh tấn
công trái đất, tấn công nguồn nguyên năng trái đất, thì đều bị tiêu diệt,
bắt đầu thai làm súc sinh.
441
5-Những kẻ lôi kéo, tổ chức kích động bạo lực phân biệt quốc gia, dân
tộc, tôn giáo; tổ chức bạo lực đàn áp đẫm máu, phi nhân tính; những
kẻ lôi kéo và tổ chức khủng bố tàn bạo, phát xít....cùng các tội ác man
rợ nhƣ đàn áp ngƣời vô nhân tính...đều bị giảm tuổi thọ và đầu thai
làm súc sinh.
IV-TỘI PHẠM XÃ HỘI:
1-Tất cả những kẻ hiếp dâm, loạn luân, cƣớp của giết ngƣời, buôn bán
ma túy có tổ chức nhiều lần, đều bị giáng tuổi thọ, bị đầu thai làm súc
sinh.
2-Những kẻ tham ô lớn, nhũng nhiễu dân lành, làm quan mà bóc lột
nhân dân, bất nhân, hủ lậu, tàn ác...đều bị giáng phạt giảm thọ và đầu
thai làm ngƣời ngay khi chết xác trần, bị đọa phạt và trả nghiệp nặng
nề.
3-Những kẻ làm ô nhiễm môi trƣờng nặng nề, cƣớp bóc tài nguyên,
phá hại môi sinh của các chúng sinh khác...đều bị giảm thọ và đầu thai
trả quả nặng nề.
4-Những kẻ buôn lậu, làm hàng ác, giả, nhƣ chất độc hại trong thực
phẩm, vật phẩm...đều bị giảm thọ và trả quả về sau.
5-Những kẻ dùng bùa bả, thƣ phù, trù yểm độc địa...đều bị giảm thọ.
6-Những kẻ dùng hàng mã nhiều, gây ô nhiễm môi trƣờng, chống luật
Thiên đình, đều bị giảm thọ.
7-Những kẻ dùng huyền thuật thần thông và phép thuật tâm linh chống
đối Thiên đình, Thánh Đức Hội...đều bị bắt nhốt hoặc diệt linh hồn,
thay hồn, đổi xác, thay đổi số phận ở trần gian.
8-Những kẻ sát sinh nhiều, số lƣợng nhiều lần, đều bị giảm tuổi thọ.
9-Những kẻ xuất hồn mà hiếp dâm các Tiên Thiên Nữ, Thiên Nữ, các
Vƣơng phi của các sao và các thần thánh, đều bị cho giảm thọ, hoặc
nặng thì bắt hoặc diệt hồn, cho tuyệt tự, sau khi chết, đầu thai làm súc
sinh nhiều kiếp.
10-Những kẻ xuất hồn vía mà hiếp dâm vía các Mệnh phụ của các
Linh căn lớn, khi chúng biết đó là Linh căn cao cấp, đều bị cho tuyệt
tự và đầu thai làm súc sinh nhiều kiếp, giảm thọ xuống mức thấp nhất.
11-Những kẻ xuất hồn vía mà hiếp dâm thể vía ngƣời khác, mà không
đƣợc cho phép, thì bị giảm thọ. Hiếp dâm thể vía làm rối loạn thể vía
442
(astral) của ngƣời khác, rối loạn lƣợng tử cho linh hồn đó, gây hậu quả
xấu. Ngƣời lành thiện, có nhãn huệ, thì nên nghiêm chỉnh và từ bi
trong mọi việc làm, cho đúng luật trời.
12-Những kẻ giết hại thai nhi, bỏ con, đều bị giáng phạt nặng nề, các
kiếp sau bị giáng không con, cô đơn; trả nghiệp ngay kiếp số này.
13-Những kẻ lừa đảo cƣớp của cƣớp công..đều bị giáng phạt trừ tuổi
thọ.
14-Tất cả mọi tội phạm nói chung, gia luật hình thế giới loài ngƣời
không cho phép, thì đều giáng phạt ngay, sau đó trả nghiệp ngay tại
kiếp này và các kiếp sau.
DI LẶC ĐỘ THẾ CHÂN KINH
CỨU ĐỘ CÕI ĐỜI (Thơ sƣu tầm-tham khảo)
MÙA XUÂN NĂM NHÂM TÝ
Lò lòng nghi nghi ngút thắp hương thơm lừng pháp giới
10 phương phật giời.
Long Hoa Tam hội tới nơi
Kỳ duyên vạn phúc chính thời kỳ nay
Ai may sinh gặp hội này
Có công tu tạo có ngày thành tiên
Lương duyên đợi kẻ thiện duyên
Phàm trần tu luyện phật tiên phù trì
443
Giời đang phổ độ Tam Kỳ
Muốn trông Kim Mẫu phù trì giao duyên
Chín mươi sáu ức hằng nguyên
Hoàng Khai phật chủng độ toàn quy căn
Huyền linh vạn đế cao chân
Ngọc Hoàng phổ độ người trần cõi tiên
Khắp 3000 cõi tiên muôn linh bốn phủ phật tiên thánh
thần
Vạn phương tam bộ tiêu chân
Theo Di Lặc phật giáng trần độ dương
Độ âm thời địa tang vương
Cứu qua mạt kiếp mở mang thái bình
Trước sai Ngọc Phật thay sinh
Từ bi tận độ chúng sinh phen này
Tôn kinh Di Lặc phật đây
Vỡ vần núi đá Sơn Tây nước Tầu
Huyên truyền nhân thế bấy lâu
Người Nam chữ Hán nghĩa sâu khó tường
Muôn người nước biết rõ ràng
Phải in quốc ngữ diễn tường Nam âm
Cho ai cũng hiểu không nhầm
Cùng nhau hối cải đều chăm tu hành
Ra công hương đạo làm lành
Chứa nhiều công đức vo thành phúc duyên
Tiêu trừ túc tướng tiền quyên
Rồi nhờ trời phật thánh thiên độ trì
Cứu cơn kiếp nạn đen nguy
Nạn gì cũng thoát tai gì cũng qua
Nhờ Di Lặc phật độ ta
Gặp đời cứu nạn Long Hoa sau này
Ba sinh hạnh phúc vui thay
Có công mài sắt có ngày nên kim
Trời phật từ Nguyễn Quốc Thành
Đạo sư sùng kính diễn âm kinh này
Bài huyên phu phụ tốt thay
Lạc thi hiếu thiện khắp nay kinh truyền
444
Câu dân nguyên thập nhị nguyệt ngọ
Thập miết vào năm bảo đại 14 niên
17-01 đông thiên trung thành
Giác sư sùng kính đạo nhân chí Thành
Phần hương bái dịch chân kinh
Hữu phương tiến bảo tâm thành sách hoa
Kinh phật muôn kiếp thọ truyền
17-01 là ngày phật sinh
II-CHƢƠNG TRÌNH LONG HOA SẮP TỚI
1-KỊCH BẢN THỨ NHẤT: -Chuyển hóa xã hội loài ngƣời tuần tự từ từ trong
thế kỷ 21 lên Đại đồng Thánh Đức nhƣ luật Thánh Đức và Học thuyết Đại Đồng
đã hƣớng dẫn. Tất cả nƣơng theo học thuyết này và cụ thể tiến hành trƣớc mắt
theo Luật Ánh sáng Hoàn cầu để xây dựng thế giới thành Đại Đồng Thánh
Đức.
Nguyên lý là làm cách mạng Thánh Đức Thần Thánh-loài ngƣời tiến bộ phải tiến
hành các cuộc cách mạng đó, không thể khác, xóa bỏ dần CNTB và xây dựng
CNXH thần thánh. Thƣợng đế và Ta cho phép đúng 100 năm-tính từ 2012- để
chuyển hóa. Có nghĩa cuộc cách mạng đó phải diễn ra trong thế kỷ 21. Đó là sự
từ bi của Thƣợng đế cho loài ngƣời. Còn cụ thể tiến hành ra sao, loài ngƣời tiến
hành cách mạng nhƣ thế nào, thì Ta cho phép dùng tất cả các biện pháp có thể để
toạn tuyệt Thế giới Cũ, lập Thế giới Mới.
-Tất cả loài ngƣời và các tôn giáo nói riêng phải hợp nhất dần trong Thiên Đạo
và tuân theo Chƣơng trình chuyển hóa của Thánh Đức Hội-tức LONG HOA HỘI
MỚI.
Nếu nhƣ Kịch bản thứ nhất mà bế tắc, loài ngƣời không tiến hành cách mạng
Thánh Đức trong Thế kỷ 21, thì sẽ tiến hành cho tận thế. Long Hoa Đại Hội lùi
lại trong khoảng 70 năm sắp tới.
2-KỊCH BẢN THỨ 2-Thực hiện và bổ sung Thánh Giáo của Thƣợng đế với
Đạo Cao Đài năm 1935. Tiến hành LONG HOA ĐẠI HỘI-CHUYỂN THẾ ĐỂ
XÂY ĐỜI THƢỢNG NGƢƠN THÁNH ĐỨC. ÁP DỤNG LUẬT THÁNH
ĐỨC TRONG NGƢƠN TÁI TẠO.
----------------------------------------------------------------------------
445
LIÊN HỆ VỚI PHÁP MÔN
Đây là tài liệu Chính Thức hoàn bị-sẽ là tài liệu truyền Pháp cơ bản chủ yếu từ
nay về sau-các phần khác của các bộ Kinh không quan trọng lắm, có thể không
cần trao truyền. Thiên Pháp cấp cao đã bổ sung mới-Mật Truyền. Học trò chỉ học
đến Cấp 2-3 đã rất quí rồi.
Các Đạo sƣ sẽ hƣớng dẫn thêm trong tu luyện Thiên Pháp hoặc tâm linh quan
trọng; học hỏi nghiêm túc, chúng tôi sẽ giúp đỡ; ngoài ra, chúng tôi không công
nhận bất cứ Nhóm Thiên Pháp nào trên mạng, không chịu trách nhiệm về mọi
hành vi nào của họ trong xã hội, nếu họ xƣng danh là ngƣời học Thiên Pháp.
Các hành giả nếu có tài liệu này, hãy phổ truyền với nhau, không treo hoặc rao
trên mạng Internet, không phổ biến chung chung, hãy hữu duyên hữu đức với
nhau và bảo ban nhau tu học, Các Thầy trên cao sẽ hỗ trợ đặc biệt các việc khi
cần...Tài liệu này ai dịch và phổ truyền TRONG NHÂN DÂN TIẾN BỘ THẾ
GIỚI, sẽ đƣợc công quả đặc biệt, nghiệp quả xấu sẽ bị hóa diệt; hãy dịch ra tiếng
Anh, các thứ tiếng khác-hãy phổ giáo trong thế kỷ này; đồng thời hãy gửi đến
các tôn giáo, đặc biệt là Cao Đài, Hòa Hảo, Mật Tông, Phật Giáo khác....Nếu lập
Nhóm riêng, có ý hƣớng tốt, hãy liên lạc với chúng tôi.
Các bạn nếu có điều kiện, thì IN THÀNH TẬP; TRUYỀN PHÁP ĐỘ NHÂN
RA NƢỚC NGOÀI, ĐỂ NHANH CHÓNG GIÁC NGỘ NHÂN DÂN THẾ
GIỚI TIẾN LÊN XÃ HỘI ĐẠI ĐỘNG AN VUI. HÃY TRUYỀN TÀI LIỆU
NÀY CHO NGƢỜI MÀ BẠN HY VỌNG Ở TÍNH TỐT CỦA HỌ-KHÔNG
TRUYỀN CHO KẺ ÁC, KẺ XẤU, VÔ ÍCH. THIÊN ĐẠO KHÔNG PHẢI LÀ
ĐẠO PHỔ ĐỘ CỨU VỚT. TẤT CẢ NHỮNG AI ĐƢỢC CÁC CHƢ THIÊN
CHẤM KHI CHỌN PHÁP NÀY, THÌ TỐT CHO CÁC BẠN; MẶC DÙ CÁC
BẠN CÓ THỂ MẬT TẬP, KHÔNG CẦN THEO NHÓM NÀO CẢ, CHÖNG
TÔI CŨNG BIẾT CÁC BẠN LÀ AI VÀ TRÌNH ĐỘ TIẾN HÓA RA SAO.
CÁC BẠN HÃY LIÊN HỆ TRỰC TIẾP VỚI HỘI ĐỒNG MINH SƢ-TRÁNH
CÁC EMAIL VÀ CÁC ĐỊA CHỈ KHÁC, CÁC NHÓM TRÊN MẠNG ĐÃ BỊ
AN NINH CÀI CẮM MÓC NỐI, PHÁ RỐI KHÔNG CHO PHÁT TRIỂN.
Thiên Pháp không bao giờ công nhận học trò cơ hội tâm linh, học cốt khoe thần
thông, tính cách láo nháo, tùy tiện, tu học nhếu nháo; hoặc không chấm chọn học
trò khi kiểm tra thấy đó là an ninh cài cắm vào để phá Pháp. Các Thầy sẽ giúp
Hội đồng Minh Sƣ xét học trò rất kỹ và hỗ trợ bảo vệ tâm linh cần thiết.
HỘI ĐỒNG MINH SƢ THIÊN ĐẠO
( Các Thầy Ánh Sáng )- ĐỊA CHỈ EMAIL:
--------------------------------------------