THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui...
Transcript of THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Bùi Thị Phương Thùy
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về thực hiện
công bằng xã hội với việc phát triển con người 5
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện công
bằng xã hội với việc phát triển con người 17
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy vai trò của
thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người 23
1.4. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan và định hướng nghiên
cứu của luận án 26
Chương 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 29
2.1. Công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội 29
2.2. Phát triển con người 47
2.3. Vai trò của thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người 61
Chương 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 74
3.1. Những thành tựu của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay 74
3.2. Những hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển
con người ở Việt Nam hiện nay 93
Chương 4: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 116
4.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để thực hiện tốt công bằng xã hội, phát triển con người 116
4.2. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội
trong việc thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người 120
4.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị trong việc thực hiện công bằng xã
hội, phát triển con người 134
4.4. Nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện công bằng xã hội
cho phát triển con người 144
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BHYT : Bảo hiểm y tế
CBXH : Công bằng xã hội
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
PTCN : Phát triển con người
TLSX : Tư liệu sản xuất
UNDP : Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển con người (PTCN). Khái niệm PTCN đã được sử
dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một thuật ngữ thông dụng. Hơn
150 năm trước, khi khẳng định tiến trình lịch sử của loài người là sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới sự phát triển toàn diện
con người là thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phấn đấu vì sự
nghiệp PTCN đã trở thành mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản trong quá
trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Vấn đề ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế
- xã hội và PTCN thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu khi hoạch định
chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng
làm được điều này. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội to
lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội. Trên thế giới, người ta
cũng đã đề cập nhiều đến sự phát triển không đồng đều giữa kinh tế và xã hội,
giữa các vùng, khu vực, sự gia tăng của nạn nghèo khổ trong nhiều dân tộc, quốc
gia, sự xa cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân v.v.. Một điều có thể
khẳng định là, sự chênh lệch lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền
đã làm mất cơ hội phát triển của nhiều nhóm người, nhiều cộng đồng và chính
điều này là nguyên nhân sâu xa của những vấn đề xã hội và sẽ làm tăng thêm
gánh nặng của quốc gia, cộng đồng trong tương lai. Do đó, PTCN bền vững luôn
đi liền với công bằng xã hội (CBXH).
Ở Việt Nam, xuyên suốt lịch sử, con người luôn hiện ra như một giá trị nhân
văn cao cả nhất. PTCN toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách
của Đảng và Nhà nước ta. Để có thể PTCN toàn diện, mọi chủ trương, chính sách của
2
Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời
sống con người: Từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến
vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng:
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội, giữa đời sống vật chất và đời tinh thần, giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội [35, tr.13].
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta không những đề
ra nội dung, phương thức thực hiện CBXH hội trên các mặt của đời sống xã hội,
mà còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện CBXH: “thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các
chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống
hiến và hưởng thụ" [42, tr.101].
Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những
kết quả khả quan góp phần quan trọng vào CBXH Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự chênh lệch về PTCN giữa các địa
phương, dân tộc, tầng lớp xã hội, vấn đề đói nghèo, việc làm, v.v.. đang là một thách
thức cho PTCN bền vững ở nước ta hiện nay. Để đạt được sự PTCN bền vững cần
phải có sự phân bổ công bằng các giá trị do tăng trưởng mang lại, tạo cơ hội cho
nhóm người thiệt thòi vươn lên. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách xã
hội phù hợp, phải tạo dựng được bộ máy và các nguyên tắc làm việc minh bạch, làm
công cụ để quản lý, tổ chức việc thực hiện CBXH. Cùng với đó, sự tham gia của
người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết định
đó là một đảm bảo cho chính sách PTCN được thực thi vì lợi ích người dân, hướng
vào nhu cầu của người dân.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên đây, đồng thời, xét trên phương
diện lý luận cũng như thực tiễn, đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu vấn đề thực hiện CBXH với việc PTCN dưới góc độ triết
3
học. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện công bằng xã hội với việc phát
triển con người ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của
thực hiện CBXH đối với việc PTCN, luận án phân tích thực trạng và đề xuất một
số giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, thực hiện CBXH, PTCN
và vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam từ đổi mới
đến nay.
- Đề xuất các giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực
hiện CBXH với việc PTCN ở nước ta hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở
Việt Nam dưới góc độ triết học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cở sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH; đồng thời,
luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học
trong và ngoài nước có liên quan.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử -
lôgic, so sánh, phân tích - tổng hợp v.v.. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã tiếp cận khái niệm CBXH, thực hiện CBXH dưới góc độ
PTCN, chỉ ra và làm rõ những nội dung của thực hiện CBXH với việc PTCN.
- Luận án đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH vì mục
tiêu PTCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
Luận án có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu lý luận về CBXH,
thực hiện CBXH và PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học và các ngành khoa học
xã hội nhân văn.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp người làm công tác quản lý xã
hội xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 13 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội
* Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, vấn đề CBXH được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nhìn
chung, các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài luận án chủ yếu tập
trung luận giải cơ sở lý thuyết của CBXH. Mặc dù, xuất phát từ những quan điểm,
lập trường triết học khác nhau, song tất cả đều cho rằng, công bằng là một trong
những phẩm hạnh của con người và CBXH là một trong những cái đích mà con
người phải phấn đấu vươn tới bên cạnh những cái đích khác như tự do, dân chủ.
Ngày nay, trên thế giới, người ta coi CBXH là một trong những đối tượng nghiên cứu
của triết học chính trị, triết học xã hội liên quan đến các vấn đề quản lý và phát triển
xã hội. Tác giả luận án chỉ điểm qua một số công trình cơ bản nhất có liên quan đến
đề tài luận án.
Trước hết, phải kể đến tác phẩm mang tính nền tảng về vấn đề này trong lịch
sử triết học đó là Bàn về khế ước xã hội [129] của J.J Rousseau. Tư tưởng xuyên suốt
trong tác phẩm là tự do, bình đẳng và sự cảm thông sâu sắc với thân phận con người.
Theo J.J Rousseau, nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong xã hội do chế độ
tư hữu và những lầm lạc của con người. Ông phê phán mạnh mẽ những người cam
chịu, không dám đấu tranh, từ bỏ tự do của mình, bởi “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ
phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” [126, tr.59].
J.J Rousseau đưa ra biện pháp để thiết lập tự do, bình đẳng giữa người với người đó
là nhà nước phải được tổ chức cai trị bằng một khế ước xã hội, trong đó, mọi thành
viên kết hợp với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ
chung, một ý chí chung. Tư tưởng tiến bộ của J.J Rousseau đã góp phần đánh thức
tinh thần đấu tranh vì tự do, bình đẳng của con người trong cách mạng tư sản Pháp
1789, đồng thời chứa đựng những luận điểm mà nhiều tác giả sau này bàn về CBXH
đã tham khảo.
6
Tư tưởng về CBXH của J.J Rousseau đã được nhà triết học Mỹ J.Rawls
tiếp nối và phát triển trong tác phẩm A theory of Justice [165]. J.Rawls đã đưa ra
một quan niệm mới về CBXH: công lý như là công bằng và coi đây là khái niệm
trung tâm trong cuốn sách. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự
nguyện cùng tham dự vào hợp tác xã hội để làm sao cho mỗi cá nhân giành được
lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ. Vì thế, nếu thể chế của một xã hội là
căn cứ để xác định được một nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ phù
hợp với lợi ích của mỗi cá nhân thì thể chế xã hội ấy là công bằng. Ông cho rằng,
công bằng hay không công bằng trong một thể chế xã hội không phải khác nhau
về xuất phát điểm của mỗi cá nhân mà chủ yếu ở chỗ, khi tham gia vào hợp tác
xã hội, cho dù có sự bất bình đẳng do những khác biệt bẩm sinh và địa vị xã hội
nhưng có sự chấp nhận mang tính tự nguyện trong cơ chế hoạt động hợp tác xã
hội chung thì đó vẫn là công bằng. Quan niệm của J.Rawls về CBXH đã thể hiện
những cố gắng của ông trong việc đưa ra một cách nhìn mới về CBXH.
Cũng với mục đích tìm ra các nguyên tắc để thực hiện CBXH, David
Miller với cuốn sách Principles of social justice [161], cho rằng, CBXH là một
phạm trù lịch sử, nội dung và các nguyên tắc cơ bản của nó phải gắn liền với các
điều kiện khác nhau của các cộng đồng xã hội khác nhau. Tác giả đã đưa ra ba
thành phần chính trong hệ thống các nguyên tắc của CBXH cần phải được thực
hiện và đảm bảo, đó là: công lao, nhu cầu và sự bình đẳng của con người. Cuốn
sách làm rõ những cơ sở, điều kiện cũng như những khó khăn, thách thức nhằm
thực hiện những nguyên tắc của CBXH trong thời đại ngày nay.
Nếu J.Rawls tìm kiếm sự công bằng hoàn hảo thông qua việc xây dựng
các định chế hoàn hảo thì A.Sen với cuốn sách The idea of justice [160] tiếp
cận công bằng dựa trên bản thân cuộc sống, trên hiện thực hóa xã hội và tìm
cách giảm bớt những bất công. A.Sen cho rằng, phải kiểm nghiệm lâu dài
những tình trạng xã hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh những gì đã
xảy ra rồi tìm những tiêu chuẩn công bằng, thay vì đề ra một lý thuyết chung.
Theo A.Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công bằng là làm thế nào để
xóa bỏ mọi chướng ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu
hạnh phúc. Nỗ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là chủ yếu, nhưng
môi trường xã hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Cuốn sách của
A.Sen giúp chúng ta hiểu đúng các vấn đề về công bằng, dân chủ trong mỗi
quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.
7
Cũng liên quan đến đề tài luận án phải kể đến cuốn sách Social work and
social policy: advancing the principles of economic and social justice [162] của
các tác giả Ira C.Colby, Catherine, Karen M.Sowers. Các giả đã coi công tác xã
hội và chính sách phúc lợi xã hội toàn cầu như một nội dung chủ yếu để thực thi
CBXH hiện nay, còn nhà nước như một công cụ quản lý và điều tiết chủ yếu
nhằm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột xã hội để thực thi công bằng và bình
đẳng. Hiện nay, xã hội châu Á đang đứng trước những thách thức cơ bản trong
việc thực thi CBXH: sự cọ sát giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trong
việc tìm kiếm những giải pháp thực thi CBXH trong nền kinh tế thị trường, tính
thiếu đồng bộ trong thể chế chính trị, pháp lý và hệ thống chính sách xã hội...
Cuốn sách cũng đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện CBXH.
Trên cơ sở khái quát lại các các tư tưởng về CBXH trong lịch sử, Báo cáo
phát triển thế giới 2006: Công bằng và phát triển [117] của Ngân hàng Thế giới
tập trung vào một số vấn đề như: Bất bình đẳng trong từng nước và giữa các
nước; ý nghĩa quan trọng của công bằng; mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
như là không gian cho bình đẳng. Công bằng được hiểu là công bằng trong các
cơ hội. Báo cáo nhấn mạnh, cơ hội đồng đều tức là sự thành đạt của một người
phải do các nỗ lực, chọn lựa và tài năng của người ấy, chứ không do những hoàn
cảnh có sẵn trước đó như chủng tộc, giới tính, nhóm xã hội, gốc gác gia đình và
sinh quán của họ.
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm tiêu biểu khác liên quan đến vấn đề
CBXH như: Justice and the politics of difference [163] của Iric Masion Young;
A Metastructural Reinterpretation of the Rawlsian Theory: From Rawls to
Machiavelli [164] của Jacques Bidet; bài “Distributive Justice” [166], v.v..
Trong khuôn khổ đề tài luận án, những nghiên cứu nêu ra ở đây không thể
bao quát hết các công trình nghiên cứu về chủ đề này trên thế giới. Vấn CBXH
và thực hiện CBXH được các tác giả nghiên cứu và luận giải chủ yếu dưới góc
độ kinh tế, chính trị, liên quan đến nhiều vấn đề: tự do, bình đẳng, dân chủ, đoàn
kết v.v.. Về cơ bản, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ
sở nhận thức của con người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình thực
hiện CBXH trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối cảnh xã
hội của mỗi quốc gia mà các nghiên cứu này gợi ý những phương án thực thi
CBXH cụ thể. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu phục vụ tác giả luận án
trong công tác nghiên cứu và tìm kiếm những giải pháp thực hiện CBXH.
8
* Các công trình nghiên cứu trong nước
Về khái niệm công bằng xã hội
Xung quanh khái niệm CBXH, có các công trình tiêu biểu: Hiện đại hóa
xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60]; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Công bằng xã
hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội [49]; Những vấn đề lý luận cơ bản về
công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay [147]; Công bằng xã hội
trong tiến bộ xã hội [71]; Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của nhà
triết học Mỹ John Rawls [121] v.v;.., các bài báo, tạp chí: “Tư tưởng của C.Mác
về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội” [135]; “Về vấn đề bình đẳng
và công bằng xã hội” [154]; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội
với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người” [69], “Về khái niệm “công
bằng xã hội” [112], v.v.. Các công trình đã cho chúng ta thấy được những quan
niệm khác nhau về CBXH trong lịch sử triết học Đông và phương Tây cũng như
các quan niệm hiện đại về CBXH, đặc trưng, bản chất và nội dung của CBXH.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, CBXH là sự ngang bằng nhau giữa
người và người trong xã hội không phải về mọi phương diện mà chủ yếu về
phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau [112, tr.8].
Công bằng xã hội ngoài nội dung phân phối theo lao động như đã đề cập ở
trên, trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều
kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả bổ sung thêm nội dung phân phối thông qua
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và phải phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc.
Theo đó, CBXH
Là một khái niệm khoa học có tính chất tổng hòa các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... dùng để chỉ sự
ngang bằng giữa người và người theo nguyên tắc phân phối lợi ích phù
hợp giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, thưởng và
phạt… đồng thời còn thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội (cả về
vật chất và tinh thần), CBXH “vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính đạo
lý, phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc; là động lực của sự tiến bộ
xã hội [147, tr.349].
Tiếp cận CBXH trên cơ sở nhấn mạnh hệ giá trị, tác giả Bùi Đại Dũng và
Phạm Thu Phương [28] cho rằng, CBXH là tình trạng mà mọi quyền lợi, nghĩa
vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội
9
để khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại
của mỗi cá nhân cho xã hội trong lâu dài.
Đa phần các nhà khoa học đều khẳng định, CBXH là phạm trù lịch sử,
mang tính giai cấp, có thể được xem xét ở nhiều phương diện: kinh tế, chính trị,
pháp quyền, đạo đức v.v... trong đó kinh tế là phương diện cơ bản nhất. Các tác
giả cũng phân biệt rất rõ hai khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội.
Về khái niệm thực hiện công bằng xã hội
Có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, tuy nhiên, phần lớn
các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc thực hiện
CBXH, còn vấn đề lý luận thực hiện CBXH gần như chưa có công trình nào đề
cập đến.
Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong
điều kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả đã đưa ra những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản trong việc nhận thức và thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:
Nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc toàn diện. Tiền đề để
thực hiện CBXH là sự tiếp cận bình đẳng của mọi người với các điều kiện và
nguồn lợi phát triển, và phụ thuộc vào trách nhiệm xã hội của quản lý Nhà nước
trong việc điều hòa lợi ích xã hội theo hướng công bằng. Các tác giả cũng chỉ ra
hai nội dung cơ bản của việc thực hiện CBXH: Phân phối công bằng và bình đẳng
về cơ hội.
Nghiên cứu thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường, các tác giả của
cuốn sách Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60] đã chỉ ra rằng,
trong giới hạn của kinh tế thị trường đã bao hàm việc thực hiện CBXH, tuy nhiên, nó
không thể thực hiện triệt để, rộng khắp và toàn diện. Thực hiện CBXH theo tác giả
phải được thực hiện bằng nhiều hình thức phân phối, ngoài việc phân phối theo cống
hiến cần phân phối công bằng các nguồn lực phát triển cho các vùng, miền, ngành,
nghề; thực hiện công bằng trong việc phân phối các thành quả của sự phát triển xã
hội trên các phương diện như giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở, v.v.. nhằm đảm bảo cho
mọi người có được cơ hội và điều kiện sống, lao động bình đẳng. Các tác giả cho
rằng, việc thực hiện CBXH phải được tiến hành ngay trong mỗi bước phát triển,
song song với tăng trưởng kinh tế. Ở đây, Nhà nước đóng vai trò điều tiết thu nhập,
đảm bảo thực hiện CBXH.
Đi sâu vào khía cạnh kinh tế, trong cuốn sách Thực hiện công bằng xã hội
đối với các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay [78], các tác giả đã phân
10
tích, làm rõ nội dung của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế bao
gồm hai nội dung chủ yếu: Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội phát
triển và bình đẳng trong phân chia lợi ích giữa các thành phần kinh tế. Thực chất
của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế là thực hiện hài hòa lợi ích
giữa các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng thông qua
hệ thống các chính sách và các cơ chế, hiện thực hóa các chính sách kinh tế - xã
hội với các nội dung chính là đảm bảo sự bình đẳng về quyền tiếp cận các nguồn
lực, quyền tham gia vào hoạt động kinh tế và quyền được chia sẻ (được phân
phối công bằng) các thành quả của phát triển giữa các thành phần kinh tế, từ đó
tạo động lực cho phát triển, góp phần ổn định xã hội. Ở đây, Nhà nước và thể
chế với tư cách là những nhân tố đảm bảo cho thực hiện CBXH đối với các
thành phần kinh tế.
Bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH có thể kể
đến các công trình: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á
và Việt Nam [88]; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp [115]; các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội trong trong xu thế hội nhập hiện nay” [89]; “Thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
[110], “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [111],... Các tác giả đã đã nêu bật mối quan hệ khăng
khít, hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, coi đó là những mục tiêu
không thể tách rời của sự phát triển bền vững xã hội ngày nay.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
công CBXH và thực hiện CBXH phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm
coi CBXH là một giá trị định hướng con người sinh sống và phát triển, thực
hiện CBXH là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến bộ. Thực hiện CBXH
được thể hiện tập trung ở hai nội dung chính là đảm bảo công bằng trong phân
phối và công bằng về cơ hội. Nhìn chung, ở nước ta hiện nay, các công trình
chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ thực hiện CBXH trong phân phối. Những công
trình trên sẽ là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tiếp thu, bổ sung và phát
trển trong nghiên cứu của mình.
11
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về phát
triển con người và thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người
Quan điểm PTCN từ lâu đã được biết đến như là một quan điểm triết học
cơ bản, đặc biệt là trong triết học Mác và tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.
Đây cũng là nội dung xuyên suốt các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Xung
quanh vấn đề PTCN ở nước ta hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, sau
đây là một số các công trình tiêu biểu.
Cuốn sách Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác
và Ph.Ăngghen [125] đã tập trung nghiên cứu để tiếp tục làm sáng tỏ cơ sở lý
luận đối với PTCN ở Việt Nam. Phần thứ nhất của cuốn sách đã trình bày một
cách có hệ thống những luận điểm về con người và PTCN của C.Mác và
Ph.Ăngghen: Con người là gì, bản chất con người, vấn đề giải phóng con người,
đặc biệt những tư tưởng về con người tự nhiên, con người cá nhân, con người cá
thể, những tư tưởng ở thời “Mác trẻ” - giai đoạn mà lâu nay ta ít khai thác.
Tương ứng với các luận điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của các ông đã đưa
độc giả đi từ bao quát đến cụ thể để có thể nắm bắt vấn đề tốt hơn cũng như hiểu
sâu hơn tư tưởng của các nhà kinh điển về vấn đề này. Phần thứ hai gồm bài viết
của các tác giả khai thác di sản kinh điển theo cách nhìn từ thời đại ngày nay, ý
nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và PTCN. Cuốn sách
là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận
phục vụ nghiên cứu vấn đề PTCN.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng về PTCN của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về PTCN là hệ thống những
quan điểm sâu sắc, đã trở thành cơ sở lý luận đối với việc nghiên cứu con
người ở Việt Nam trong những năm qua. Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người Việt Nam toàn diện [20], đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận,
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn diện. PTCN
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải tập trung phát triển tất cả các bộ
phận cấu thành nên chỉnh thể đó: Thể lực, trí tuệ, năng lực thẩm mỹ, đạo đức.
Tác giả cũng trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nhân tố kinh tế,
chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành và PTCN, con đường hình thành
và PTCN toàn diện. Theo tác giả, ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta đang được đẩy mạnh, những biến chuyển trên thế giới ngày càng
nhanh chóng và phức tạp, những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng
12
nhiều, đòi hỏi con người phải sáng suốt, linh hoạt, có bản lĩnh để vượt qua thì
việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn
diện trở thành nhiệm vụ cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Ở Việt Nam, quan điểm PTCN được nghiên cứu một cách có hệ thống trong
các công trình của tác giả Phạm Minh Hạc, chủ nhiệm của ba chương trình quốc gia
“Con người - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991 - 1995); “Phát
triển văn hóa, xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” (1996 - 200); “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001-2005). Tác giả cũng đã xuất bản nhiều cuốn
sách liên quan đến PTCN, trong đó phải kể đến ba cuốn sách: Phát triển giáo dục,
phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [55], Nghiên cứu con người
và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa [56], Về phát triển toàn
diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [57]. Theo tác giả, phát triển
toàn diện con người là “khắc phục tình trạng tha hóa, phát triển toàn diện, hài hòa,
cân đối trí lực và thể lực, đức và tài, phát triển cá tính và sự phong phú của con
người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm chủ, thích ứng với sự di động chức
năng xã hội của con người” [57, tr.33]. Tác giả khẳng định vai trò của CBXH đối
với việc PTCN. CBXH tạo ra động lực mạnh mẽ cho hoạt động của con người. Giải
quyết vấn đề phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo chính là thực hiện CBXH vì
mục tiêu PTCN.
Cùng chủ đề này chúng ta còn phải kể đến các công trình nghiên cứu Về
vấn đề xây dựng con người mới [24]; Tư tưởng triết học về con người [137]; Tư
tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện [31]; các bài viết của tác giả Đặng Hữu Toàn: “Phát triển vì con người trong
quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu
phát triển con người ở nước ta hiện nay” [140]; “Phát triển con người Việt Nam
toàn diện với tư cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước” [141]; “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” [142]; “Phát triển con người - thước đo
nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới
ở Việt Nam” [143] đã cung cấp cho tác giả luận án cơ sở lý luận quan trọng cho
việc nghiên cứu con người và PTCN.
13
Ngoài những công trình nghiên cứu PTCN theo quan điểm mácxít trong
những năm gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới theo phương pháp lượng hóa
PTCN, trong đó phải kể đến: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi
mới và sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam [153]; Báo cáo phát triển con
người Việt Nam 1999 - 2004: Những thay đổi và xu hướng chủ yếu [155]; Phát
triển con người Việt Nam năm 2011 [149]; Báo cáo Phát triển con người Việt
Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người [150]. Báo cáo
Phát triển con người Việt Nam năm 2011 đã xem xét những thách thức mà nhiều
người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Báo cáo cho thấy, gia tăng bất bình đẳng về kinh tế đi kèm với sự chênh lệch dai
dẳng trong các chỉ tiêu về giáo dục và y tế cơ bản như thế nào. Báo cáo kết luận,
nếu Việt Nam muốn tiếp tục đạt được mức PTCN cao hơn thì việc đảm bảo tiếp
cận toàn dân và công bằng đối với dịch vụ y tế và giáo dục là vô cùng cần thiết.
Còn Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2015 đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của an sinh xã hội trong việc thúc đẩy tính công bằng, hiệu quả và sức
chống chịu, đồng thời đưa ra đánh giá cơ bản về hệ thống này của Việt Nam.
Hướng đến tương lai, Báo cáo tập trung khuyến nghị các chính sách thiết thực để
mở rộng việc làm có năng suất, cải thiện hiệu quả và nâng cao tính công bằng
của hệ thống giáo dục và y tế cũng như gia tăng diện bao phủ của hệ thống an sinh
xã hội. Các phân tích trong Báo cáo cung cấp một cơ hội để cân nhắc xem làm thế
nào xây dựng được một mô hình phát triển công bằng và toàn diện, có thể mở rộng
các lựa chọn và tạo ra cơ hội cho mọi người.
Bên cạnh báo cáo phát triển con người cấp quốc gia, nhiều tỉnh thành ở
nước ta trong thời gian vừa qua cũng đã triển khai thực hiện nghiên cứu và tính
toán chỉ số PTCN cấp địa phương, một số đã được xuất bản thành sách: Con
người và phát triển con người ở Hòa Bình - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[158]; Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta [119]. Cũng có một số công
trình đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác nhau về PTCN (chính trị, y tế,
giáo dục, văn hóa, chính sách xóa đói, giảm nghèo), từ đó đề ra những giải pháp
cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người: Dân chủ và phát triển
con người [118]; Dân chủ tham gia với phát triển con người [139]; Chỉ số tuổi
thọ trong HDI, một số vấn đề thực tiễn Việt Nam [11]; Thực trạng phát triển con
người Việt Nam về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ [83]; Chỉ số phát triển kinh tế
trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [13], Chỉ số phát triển
14
giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [15] v.v... Các
công trình đã cho thấy vai trò của kinh tế, chính trị, xã hội đối với PTCN, chỉ ra
những vấn đề cần quan tâm trong việc mở rộng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục,
văn hóa cho người nghèo ở Việt Nam. Mở rộng cơ hội tiếp cận ở đây cũng chính
là góp phần thực hiện CBXH, PTCN.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTCN rất
phong phú, đa dạng, tiếp cận dưới nhiều góc độ. PTCN bị quy định bởi nhiều
yếu tố trong đó có CBXH. Các nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được vai trò của
việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN.
Đi sâu hơn vào vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN gần như
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Theo chúng tôi được biết duy
nhất có bài viết của tác giả Phạm Thành Nghị “Công bằng xã hội và phát triển
con người bền vững” [49] đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa CBXH và
PTCN. Vai trò của CBXH đối với PTCN được thể hiện qua các nội dung: thứ
nhất, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho phát triển năng lực thông qua các chính
sách xã hội và chính sách kinh tế và các chương trình hướng tới sự hoàn thiện
con người; thứ hai, sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực do tăng trưởng
mang lại, tạo điều kiện để PTCN bền vững, liên quan đến xây dựng và thực thi
các chính sách kinh tế và chính sách xã hội; thứ ba, thông qua tăng cường sự
bình đẳng về cơ hội tham gia; thứ tư: sự bình đẳng giữa các thế hệ. Tác giả
khẳng định, bình đẳng tiếp cận và bình đẳng về cơ hội là các yếu tố cơ bản nhất
tạo điều kiện cho PTCN bền vững. Đây là những gợi mở quan trọng để tác giả
luận án có thể tiếp thu.
Nhìn chung, vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN chủ yếu được đề
cập gián tiếp thông qua vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Con người với tư cách vừa là chủ thể,
vừa là mục tiêu của sự phát triển triển, do đó, phát triển kinh tế - xã hội cũng
chính là để PTCN.
Bàn về vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, tác giả Nguyễn
Minh Hoàn [71] cho rằng, vai trò của CBXH thể hiện ở 2 nội dung chính: là
động lực của sự phát triển xã hội và là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội.
Theo tác giả, động lực thúc đẩy con người hoạt động là lợi ích của chủ thể hoạt
động. CBXH cũng là một nguyên tắc phân chia lợi ích, làm cho các thành viên
tham gia vào quan hệ lợi ích không thấy bị thiệt thòi, hơn nữa còn kích thích họ
15
hoạt động một cách tích cực hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Với tư cách là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội, qua các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử, có thể thấy rõ mức bất công trong phân phối sản
phẩm của lao động đã giảm dần và mức công bằng tăng dần.
Tác giả Võ Thị Hoa và Nguyền Hồng Sơn [66] thông qua việc phân tích vai
trò của thực hiện CBXH với tư cách là động lực thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã chỉ ra vai trò của
việc thực hiện CBXH với việc PTCN. Thực hiện CBXH trong kinh tế hướng tới đảm
bảo lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân, tạo một không gian kinh tế lành
mạnh, bình đẳng mà ở đó các chủ thể kinh tế được phát huy năng lực của mình, làm
giàu cho cá nhân và xã hội. Dưới góc độ chính trị, thực hiện CBXH tạo điều kiện cho
người lao động thực sự là chủ và làm chủ. Dưới góc độ văn hóa, xã hội, thực hiện
CBXH đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có quyền bình đẳng trong sáng tạo
và hưởng thụ những giá trị văn hóa - tinh thần, khắc phục tình trạng phân hóa giàu
nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đảm bảo cho mọi tầng
lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, y tế.... Thực hiện CBXH
đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và khẳng
định mình, tạo sự đồng thận, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hà [53], CBXH là một nội dung quan trọng
trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất công bằng,
người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của mình, hơn
nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh khỏi bất
ổn xã hội. CBXH luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội. Để có được CBXH trong điều kiện kinh tế
thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp
mà Đảng ta đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của CBXH, theo tác giả, cần
khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện CBXH hiện đang còn tồn tại.
Tiếp cận dưới góc độ vai trò của thực hiện CBXH đối với các thành phần
kinh tế, các tác giả cuốn sách Thực hiện công bằng đối với các thành phần kinh
tế ở Việt Nam hiện nay [78] cho rằng, công bằng trong phân phối các nguồn lực
xã hội sẽ thúc đẩy phát triển và làm lành mạnh hóa môi trường sản xuất kinh
doanh. Phân phối công bằng tạo ra môi trường tương tác hài hòa giữa các chủ
thể, tạo cho các chủ thể cơ hội phát triển ngang nhau và hưởng thụ sòng phẳng
16
theo năng lực trên thị trường. Điều này giúp hạn chế sự lạm dụng đặc quyền, đặc
lợi, lạm dụng nguồn lực phát triển cho xã hội. Trên bình diện vĩ mô, CBXH đối
với các thành phần kinh tế là động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững. CBXH
đối với các thành phần kinh tế góp phần vào sự ổn định xã hội ở chỗ: cốt lõi của
nó là thực hiện hài hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội, từ đó tạo điều kiện giải
quyết các mâu thuẫn xã hội một cách hợp lý, thỏa đáng thông qua phân phối lợi
ích một cách công bằng.
Tiếp cận dưới góc độ phân phối, các tác giả của cuốn sách “Phân phối
bình đẳng các nguồn lực kinh tế: Tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc
gia” [132] cho rằng, việc phân phối bình đẳng các nguồn lực xã hội sẽ khuyến
khích sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế, làm lành mạnh hóa môi trường sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy xã hội phát triển. Phân phối bình đẳng còn bao hàm
việc tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi chủ thể xã hội, đặc biệt là nhóm
người dễ bị tổ thương. Theo các tác giả, sự phân phối không bình đẳng các
nguồn lực phát triển chính là khởi nguồn cho những căng thẳng, xung đột và
bất ổn trong xã hội, biểu hiện rõ nhất qua “nhóm lợi ích”.
Cũng theo hướng tiếp cận này, tác giả Bùi Đại Dũng cho rằng, việc phân
phối thu nhập quá bất công khiến nhóm cực giàu thì giàu mãi lên và nhóm nghèo
khổ càng bị bần cùng hóa. Bất công xã hội gây ra nhiều biến động xã hội ghê gớm
mà hậu quả là những tổn thất khủng khiếp cho phát triển bền vững [27, tr.52]. Do
đó, để phát triển bền vững về mặt xã hội cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và CBXH, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề PTCN và thực hiện
CBXH với việc PTCN. Có thể thấy, PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát triển
tự thân mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là các nhân tố: kinh tế,
y tế, giáo dục, văn hóa. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự PTCN cần phải xem xét
tất cả các nhân tố tác động trong mối quan hệ tương tác với nhau. Dưới các góc
độ khác nhau, các công trình đều khẳng định sự cần thiết của việc PTCN cũng
như xây dựng các chính sách PTCN đúng đắn. Thực hiện công bằng trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội góp phần PTCN. Những công trình khoa học của các tác
giả có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn để tác giả luận án tiếp cận
và phát triển.
17
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Trực tiếp bàn đến thực trạng thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam
hiện nay theo chúng tôi được biết thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Phần
lớn các công trình nghiên cứu mới dừng lại ở việc phân tích thực trạng thực hiện
CBXH ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thông qua các công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài luận án ít nhiều có thể thấy được thực trạng thực hiện CBXH
với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Với báo cáo “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp” [49],
tác giả Đỗ Huy đã khái quát bốn thời kỳ thực hiện CBXH ở nước ta. 1) Thời kỳ
trước Cách mạng tháng Tám, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
tuyệt đại bộ phận nhân dân sống lầm than, cơ cực trong bất công của thân phận
người dân mất nước. Đây là thời kỳ mất công bằng toàn diện. 2) Thời kỳ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ hình thành những chuẩn mực
công bằng mới cho xã hội, người ta chỉ nghĩa đến cống hiến mà ít nghĩ đến
hưởng thụ; nghĩ đến lao động cho tổ quốc mà không nghĩ đến thu vén cá nhân.
3) Thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp. Thời kỳ này đã tạo ra
được nhiều giá trị công bằng về y tế, giáo dục nhưng nó đã làm cho xã hội Việt
Nam phát triển chậm chạp và tạo ra sự mất công bằng ở lĩnh vực phân phối. 4)
Thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay. Đây là thời kỳ thực hiện CBXH theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Tác giả nhấn mạnh, những di hại của chiến
tranh gây nên khá nhiều bệnh tật cần được khắc phục. Vì thế, muốn có CBXH,
không thể phân phối theo cơ chế thị trường thông thường, mà Việt Nam đã thực
hiện phân phối theo lao động trên cơ sở kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cơ chế thị trường định hướng XHCN tạo nên những chuẩn mực mới để thực
hiện CBXH. Các chuẩn mực này xuất phát từ đạo lý uống nước nhớ nguồn
truyền thống. Để thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, chúng ta thực hiện cơ chế
phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời Nhà nước Việt Nam đã đề ra rất
nhiều chính sách nhằm giúp đỡ những người tàn tật, già yếu, cô đơn, các gia
đình thương binh liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những gia
đình có công với cách mạng, các chính sách xóa đói, giảm nghèo. Tác giả cũng
chỉ ra những hạn chế, bất cập của việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:
nhiều nghề lao động giản đơn lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao động phức
18
tạp, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các
thành phố; sự cách biệt về mức sống, chế độ giáo dục, chăm sóc y tế ở nông thôn
so với thành thị, chế độ lương của nhà nước còn bất hợp lý so với thu nhập ngoài
nhà nước, tệ tham nhũng hối lộ v.v.. Tất cả những vấn đề trên đã phá hoại sự ổn
định của xã hội. Báo cáo giúp tác giả luận án hình dung được quá trình thực hiện
CBXH ở nước ta từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay; đồng thời thấy rõ,
thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Tác giả Lê Hữu Tầng đã phân tích một số vấn đề về thực hiện CBXH ở
Việt Nam hiện nay trong báo cáo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” [49]. Trước hết là
vấn đề phân phối. Đối với nước ta, do đặc thù trải qua chiến tranh, nhiều người
hy sinh xương máu, tính mạng cho nền độc lập của nước nhà, do đó, tác giả đề
xuất, để thực hiện đầy đủ hơn CBXH cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao
động và theo mức đóng góp vốn vào sản xuất kinh doanh hiện nay thành nguyên
tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng mọi cống hiến
khác) cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất, mặc dù cống hiến
cho sản xuất vẫn là chủ yếu, đồng thời phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Nguyên tắc phân phối công bằng này đã có tác dụng cuốn hút mọi người hăng
hái góp công, góp của vào sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển
của sản xuất kinh doanh nói riêng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả
khẳng định, CBXH chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc phân phối theo cống hiến lại dẫn đến hậu
quả là sự phân cực ngày càng tăng giữa giàu và nghèo trên phạm vi cả nước.
Theo tác giả, sự phân hóa giàu nghèo ở đây không phải là biểu hiện của sự vi
phạm CBXH mà chính là biểu hiện của việc CBXH đang được lập lại: Ai làm
tốt, làm giỏi, làm nhiều, đóng góp nhiều vốn liếng... thì được hưởng nhiều; còn
ai làm dở, làm kém, làm ít, đóng góp vốn liếng ít thì được hưởng ít. Song, điều
đó không có nghĩa chúng ta chấp nhận và để cho tình trạng bất bình đẳng xã hội
gia tăng mà phải tìm cách hạn chế bớt bất bình đẳng để tiến tới dần xóa bỏ nó.
Cùng đề cập tới vấn đề thực hiện CBXH trong phân phối, tác giả Nguyễn
Duy Quý trong báo cáo “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” [49] khẳng định, CBXH trong phân phối ở nước
ta hiện nay cơ bản theo nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào
19
sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Cùng quan điểm
với tác giả Lê Hữu Tầng, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện CBXH,
hơn thế nữa càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện CBXH,
nếu muốn tạo ra bầu không khí hoà thuận, tin yêu lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn
cho xã hội ổn định. CBXH chính là động lực mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế.
Nhờ giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới
chính sách xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về PTCN:
liên tục dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích xóa đói, giảm nghèo; đã
tăng cường khả năng tiếp cận với giáo dục tiểu học, nước sạch và vệ sinh môi
trường; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi v.v.. Kết quả là đã cải thiện đáng
kể cuộc sống của người dân. Người dân Việt Nam giờ đây có tuổi thọ dài hơn,
sức khỏe tốt hơn.
Cũng theo hướng tiếp cận trên, báo cáo “Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [49]
của tác giả Phạm Xuân Nam đã phân tích việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và
CBXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta qua hơn 20
năm đổi mới đã góp phần nâng cao chỉ số PTCN: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
đời sống của đại đa số nhân dân được cải thiện rõ rệt; cả nước đã đạt chuẩn quốc
gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học; công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, tác giả đã nêu ra một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình
thực hiện CBXH ở Việt Nam: Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển
với mức thu nhập thấp; khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa
thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi đang doãng ra; việc xóa đói giảm
nghèo trong những năm gần đây có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo do thiên
tai dịch bệnh có xu hướng tăng; tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị và thiếu việc
ở nông thôn còn cao; hiện tượng làm giàu bất chính do tham nhũng, buôn lậu,
lừa đảo, đầu cơ vẫn chưa được ngăn chặn. Theo tác giả, vấn đề đặt ra là cần phải
làm gì và làm như thế nào để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục
những yếu kém còn lại, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện
CBXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Còn trong cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay [60], những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH ở nước ta
hiện nay được các tác giả phân tích khá chi tiết. Các tác giả khẳng định, việc
20
thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đạt được nhiều kết quả đáng
kể, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, được hưởng thụ giáo
dục, y tế và sự phát triển xã hội như nhau. Song, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, việc thực hiện CBXH ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định.
Trong kinh tế, sự bất công bằng trong việc phân phối các điều kiện, cơ
hội sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại. Việc phân phối nguồn vốn đầu tư giữa
các vùng, miền vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến khoảng cách về điều kiện kinh tế
- xã hội, mức sống và trình độ phát triển của dân cư giữa các vùng, miền đất
nước, đặc biệt là khu vực miền núi còn chậm được thu hẹp. Việc ưu tiên, ưu đãi
các điều kiện phát triển sản xuất như đầu tư, quyền sử dụng đất đai, chính sách
tín dụng, thuế, còn thiên về thành phần, chưa căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp chưa thực sự được hoạt động
trong một sân chơi hoàn toàn công bằng, bình đẳng. Ở nông thôn, sự hiện diện
của một bộ phận nông dân không có ruộng đất, phải đi làm thuê và trở thành lớp
người nghèo trong xã hội cũng là một vấn đề liên quan đến CBXH.
Trong lĩnh vực xã hội, sự bất công và bất bình đẳng xã hội thể hiện ở
sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm; sự phân hóa giàu nghèo, chênh
lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên. Vấn đề nghèo
đói làm gia tăng chênh lệch về mức sống, khả năng và điều kiện tiếp cận các
cơ hội phát triển.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế vẫn còn các hiện tượng bất CBXH: tình
trạng thương mại hóa giáo dục và y tế; vấn đề viện phí, học phí... là những rào
cản để người nghèo có cơ hội tiếp cận bình đẳng với giáo dục, y tế.
Những vấn đề mà các tác giả nêu ra bước đầu mới dừng lại ở việc đưa ra
ý kiến, chưa có sự phân tích đi sâu, song là những gợi ý để tác giả luận án tiếp
tục đi sâu, làm rõ.
Chương 3 của cuốn sách Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội [71], tác giả
Nguyễn Minh Hoàn đã góp phần làm rõ một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện
CBXH ở nước ta hiện nay. Trước tiên, việc thực hiện CBXH ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, song lại
làm gia tăng phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng. Đây là hệ quả tất yếu của việc
thực hiện nguyên tắc phân phối đảm bảo CBXH trong thời kỳ quá độ của nước ta
đi lên CNXH. Đó là điều chúng ta không mong muốn vì nó hoàn toàn không phù
hợp với mục tiêu xây dựng CNXH. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân
21
dân, việc phát triển ồ ạt y tế tư nhân không theo quy hoạch về cơ cấu vùng miền sẽ
dẫn đến làm tăng tình trạng bất bình đẳng trong chăm sóc y tế với những đối tượng
là vùng sâu, vùng xa và người nghèo. Việc phân bổ ngân sách nhà nước trong lĩnh
vực y tế, lĩnh vực bảo hiểm y tế, chính sách viện phí cũng phải tiến hành sao cho
đảm bảo công bằng. Trong lĩnh vực giáo dục, việc phát triển các trường ngoài công
lập sẽ có nguy cơ làm tăng bất bình đẳng trong giáo dục, vấn đề thu học phí như
thế nào để đảm bảo cho mọi người đều có cơ hội học tập. Thu nhập, y tế, giáo dục
là những vấn đề liên quan trực tiếp đến PTCN. Giải quyết những vấn đề đặt ra
nhằm bảo CBXH trong những lĩnh vực này cũng chính là giải quyết những vấn đề
liên quan đến PTCN.
Các tác giả Nguyễn Tấn Hùng, Lê Hữu Ái [49], lại đi vào một số mâu
thuẫn nảy sinh cần giải quyết để thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị
trường. Theo các tác giả, mâu thuẫn bao trùm nhất trong lĩnh vực CBXH ở nước
ta hiện nay là mâu thuẫn giữa cá nhân với xã hội. Bởi nếu lợi ích cá nhân bị vi
phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn để phát triển; còn nếu cá nhân có
lợi nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm thì sẽ dẫn đến những bất công xã hội. Tiếp đến
là mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của
chính sách kinh tế là giải quyết những vấn đề kinh tế, do vậy, không thể bao quát
và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp của lĩnh vực xã hội rộng lớn.
Vì thế, cần phải có những chính sách xã hội nhất định để bổ sung cho chính sách
kinh tế. Ngược lại, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng có thể mâu thuẫn
với chính kinh tế. Bởi vì, việc thực hiện các chính sách này vượt quá khả năng
cho phép của nền kinh tế, hoặc vi phạm những nguyên tắc công bằng trong kinh
tế sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Một mâu thuẫn nữa là mâu
thuẫn giữa lợi ích nhà đầu tư và lợi ích người lao động. Thực tế cho thấy, những
nhà đầu tư nếu không có sự can thiệp, điều chỉnh của Nhà nước thì họ có khuynh
hướng giảm thiểu thu nhập và những điều kiện thiết yếu của người lao động đến
mức thấp nhất để lợi nhuận của họ đạt đến mức tối đa. Do đó, hàng nghìn cuộc
đình công tự phát nổ ra bên ngoài sự mong muốn của Nhà nước là điều dễ hiểu.
Cuối cùng là mâu thuẫn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo biểu hiện như: nhiều cơ
sở đào tạo muốn tăng thu nhập của mình thường có khuynh hướng giảm chi phí
cho đào tạo, giảm yêu cầu về chất lượng đào tạo để có thể thu hút được số đông
người học vẫn có tâm lý cần bằng cấp chứ không phải cần kiến thức; bệnh thành
tích trong giáo dục; chính sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo muốn nâng cao chất
22
lượng đào tạo nhưng không muốn tăng ngân sách; đối xử thiếu công bằng với đội
ngũ giáo viên, giảng viên… Những mâu thuẫn nếu không được giải quyết tốt sẽ
dẫn đến bất công, tiêu cực xã hội. Để thực hiện CBXH, chúng ta cần phải mạnh
dạn nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận và tìm phương án, biện pháp hữu hiệu nhất
để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu thực trạng thực hiện CBXH mang
tính bao quát có những công trình đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực phân phối có các cuốn sách: Vai trò của nhà nước trong
phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay [138]; Kỷ yếu hội thảo Vấn đề phân phối
và phân hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [19]; Công bằng trong phân phối - cơ sở để
phát triển bền vững [27]... tác giả Nguyễn Ngọc Hà với các bài viết: “Nguyên
tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội ở nước ta hiện nay” [52], “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI về nguyên tắc
phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội” [54]... Theo đó, hiện nay đất nước ta
đang trong thời quá độ lên CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiều
hình thức phân phối phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hà, nếu thực
hiện nguyên tắc phân phối như trên thì giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ được
chia thành ba phần: phần thứ nhất được dành để tái sản xuất và để giải quyết các
vấn đề xã hội chung; phần thứ hai sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức
cống hiến bằng sức lao động của họ cho xã hội; phần thứ ba sẽ được phân phối
cho các cá nhân theo mức cống hiến vốn. Tỷ lệ giữa ba phần này được xác định
căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương và từng giai đoạn, trong đó,
phần thứ nhất là rất quan trọng.
Dưới góc độ Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước ta
hiện nay [138] các tác giả phân tích thực trạng vai trò của nhà nước đối với lĩnh
vực phân phối thu nhập như: chính sách tiền lương, chính sách thuế, chính sách
bảo hiểm xã hội, chính sách việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách
cứu trợ xã hội. Sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập đã góp phần thực
hiện CBXH. Nhờ đó, kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến theo hướng tích
cực, thu nhập của người dân tăng lên, sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa,
23
thể dục thể thao có nhiều đổi mới và tiến bộ. Các tác giả cũng chỉ ra những vấn đề
đặt ra đối với sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập: sự phân hóa giàu
nghèo; tiền lương tối thiểu thấp, còn mang tính bình quân; hệ thống thuế chưa bao
quát hết được các nguồn thu, tính công bằng của hệ thống thuế chưa cao; việc
phân phối phúc lợi xã hội tầng lớp trung lưu được hưởng nhiều hơn nhóm người
có thu nhập thấp. Trên cơ sở những phân tích của các tác giả dưới góc độ phân
phối chúng tôi nhận thấy, thực hiện CBXH trong phân phối là một trong những
điều kiện để PTCN.
Thông qua những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, có
thể thấy, thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tăng
trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trình độ dân trí, sức
khỏe của người dân cũng được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
không ít hiện tượng bất công, bất bình đẳng cản trở sự PTCN. Tuy nhiên, các
công trình mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung chung hoặc đi vào một khía
cạnh của thực trạng thực hiện CBXH tác động đến sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã
hội. Chưa có công trình nào đi sâu phân tích thực trạng thực hiện CBXH tác động
đến việc PTCN Việt Nam hiện nay.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI
PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Để phát huy vai trò của thực hiện CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện
nay cần đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Ở mức độ nhất định, các
công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đưa ra những giải pháp
cơ bản.
Trên cơ sở nhận thức một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá
trình thực hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay, các tác giả của cuốn sách Những
vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay
[147] đã đưa ra một số kiến nghị:
Về việc thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, các tác giả kiến nghị,
để phân phối chủ yếu theo kết quả lao động cần xác định được giá trị của từng
loại lao động, tránh tình trạng lao động trí óc và lao động chất xám chưa được
đánh giá đúng mức, lao động giản đơn hay lao động cơ bắp lại được hưởng
phân phối cao hơn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho chất
24
lượng lao động của chúng ta hiện nay rất thấp. Đồng thời, cần phải quán triệt
một cách đầy đủ, nghiêm túc nguyên tắc phân phối công bằng này ở tất cả mọi
loại hình sở hữu của tư nhân cũng như của Nhà nước góp phần tạo sự đồng
thuận và ổn định xã hội.
Theo các tác giả, tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH là làm sao cho
mọi người đều có cơ hội tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực và điều kiện phát
triển, tức bình đẳng về cơ hội. Vì vậy, cần phải có một chiến lược đầu tư mạnh
mẽ về cơ sở hạ tầng, tài chính, thông tin, về giáo dục - đào tạo, công tác chăm
sóc sức khỏe cho người dân, nhất là đối với những người nghèo, vùng nghèo.
Trên cơ sở bình đẳng về cơ hội con người sẽ được phát triển toàn diện.
Các tác giả cho rằng, tệ tham nhũng, nạn làm giàu phi pháp tạo ra những
bất công xã hội lớn nhất, do đó, cần phải có một cuộc đấu tranh quyết liệt từ
Trung ương đến các địa phương, đến từng cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ...
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiến đến khắc phục về cơ bản những quốc nạn này.
Điều quan trọng là phải làm sao nâng cao nhận thức của người dân về
CBXH, từ đó họ tự giác phấn đấu để đạt được công bằng xã hội bằng chính sức
lực và tài năng của mình chứ không trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp từ bên
ngoài. Tuy nhiên, để thực hiện được CBXH, trách nhiệm lớn thuộc về sự quản
lý của Nhà nước. Sự quản lý, điều tiết một cách đồng bộ, nhất quán và có trách
nhiệm của Nhà nước sẽ giữ vai trò quyết định trong việc điều hòa các lợi ích xã
hội theo hướng công bằng, từ đó tạo nên một xã hội đồng thuận và phát triển.
Theo tác giả Đỗ Huy [49], để thực hiện mục tiêu CBXH toàn diện trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, vấn đề không chỉ là phân phối theo lao động, gắn
cống hiến với hưởng thụ, mà phải là phát triển xã hội toàn diện. Các giải pháp
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phải có sự dính kết như các mắt xích trong hệ
thống xã hội lấy con người làm trung tâm. Theo tác giả, cần phải thực hiện các
giải pháp chủ yếu sau: 1.Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân; 2. Hiện
đại hóa lực lượng sản xuất; 3. Từng bước tập thể hóa, quốc doanh hóa trong quá
trình thiết lập quan hệ sản xuất mới; 4. Xây dựng hệ tư tưởng chính thống trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 5. Thực hiện đại
đoàn kết: dân tộc, quốc tế, con người; 6. Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc;
7. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là những giải pháp mang tính
định hướng, lâu dài để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để đảm bảo thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế
25
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần phải đi vào
những giải pháp cụ thể hơn.
Tác giả Phạm Xuân Nam [49], đã kiến nghị một số hướng giải pháp để
thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
trong thời gian tới. 1) Tiếp tục thực hiện nghiêm túc nguyên tắc phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong đó,
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu và đặt
ở vị trí hàng đầu của CBXH. 2) Trong việc thực hiện đầu tư cho phát triển, cần
có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng
lãnh thổ khác nhau. Dành mức đầu tư cao cho các vùng kinh tế động lực, chú ý
đầu tư các vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến
cũ nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng. 3) Trong
số những chính sách có liên quan đến phân phối lại tổng thu nhập quốc dân
không nên chỉ đặt vấn đề phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Về vấn đề này,
Văn kiện Đảng lần thứ XI bổ sung thêm hình thức phân phối thông qua an sinh
xã hội. 4) Đấu tranh quyết liệt kết hợp nhiều biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi có
hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp vì đây chính là nhân tố vừa làm
tổn hại đến tăng trưởng kinh tế chung, vừa tạo ra bất công xã hội lớn nhất.
Những giải pháp tác giả đưa ra rất thiết thực cung cấp cơ sở để tác giả luận án
đưa ra giải pháp phù hợp nhằm thực hiện CBXH, vì mục tiêu PTCN Việt Nam
toàn diện.
Những giải pháp đưa ra trong cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [60], dưới góc độ để đẩy nhanh tiến trình hiện
đại hóa xã hội tiến đến mục tiêu CBXH, các tác giả đưa ra ba giải pháp cơ bản
và cấp bách: Thứ nhất, đẩy nhanh nhịp độ phát triển toàn diện kinh tế thị trường
định hướng XHCN; Thứ hai, xây dựng và thực thi đầy đủ, hợp lý các chính sách
xã hội; Thứ ba, nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước HXCN trong tiến trình
hiện đại hóa vì mục tiêu CBXH.
Những giải pháp mà các tác giả đưa ra rất phong phú mà tác giả luận án
có thể tiếp thu. Có thể khái quát lại thành những nhóm giải pháp chủ yếu: hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và thực thi đầy đủ
các chính sách xã hội, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
CBXH, tích cực phòng chống tham nhũng. Các tác giả tùy theo góc độ nghiên
26
cứu của mình tập trung nhấn mạnh vào một vài nhóm giải pháp hoặc mới chỉ
nêu tên các nhóm giải pháp. Điều này đòi hỏi tác giả luận án cần tiếp tục đi sâu
nghiên cứu và làm rõ.
Do tính chất khái lược chúng tôi không có điều kiện đi phân tích cụ thể
về tất cả các công trình nghiên cứu có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi thấy còn nhiều công trình cũng cần được xem là những tài liệu bổ ích
cho nghiên cứu vấn đề này. Bên cạnh những công trình được chúng tôi xem là
cơ bản và có tầm quan trọng nói trên, có thể kể đến những công trình khác mà
chúng tôi thấy cần tham khảo như: Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam [123]; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác
về công bằng xã hội với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người” [69];
“Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của Việt Nam trong những năm gần
đây” [75]; “Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở
Việt Nam” [63] v.v..
1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Sau khi nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến luận án, tác
giả luận án rút ra một số kết luận sau:
Các công trình nghiên cứu về vấn đề thực hiện CBXH và PTCN người ở
Việt Nam trong những năm gần đây được đăng tải với số lượng ngày càng nhiều,
chất lượng cũng ngày càng được nâng cao với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Nội dung các công trình cũng đã đề cập một cách khá toàn diện nhiều vấn đề về
CBXH, thực hiện CBXH (các tư tưởng về CBXH trong lịch sử, các quan niệm
khác nhau về CBXH, vị trí, vai trò của thực hiện CBXH, thực trạng thực hiện
CBXH...) và PTCN (nguồn gốc, bản chất con người; vai trò, vị trí của con người;
cấu trúc nhân cách con người Việt Nam; sự PTCN toàn diện ở Việt Nam…).
Trên phương diện lý luận, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cơ sở lý
luận và phương pháp luận quan trọng trong nghiên cứu vấn đề thực hiện CBXH
với việc PTCN, từ các quan điểm trong lịch sử triết học đến quan điểm hiện đại,
đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta.
Trên phương diện thực tiễn, những khảo sát thực tiễn và các kết quả
nghiên cứu thực chứng về vấn đề thực hiện CBXH, PTCN đã đưa ra cho chúng
27
ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt
Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp cho tác giả luận án
những tư liệu quý báu, vừa có tính khái quát cao lại vừa hết sức đa dạng, nhưng
cũng rất cụ thể và chi tiết để tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Có thể thấy, những đánh giá, nhận xét và những kết luận được các nhà
nghiên cứu đưa ra hết sức đúng đắn, xác thực. Các nhà khoa học đều khẳng định,
con người vừa mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất
là trong giai đoạn hiện nay, trong khi các nguồn lực khác khi được khai thác thì
ngày càng khan hiếm, cạn kiện thì con người, đặc biệt là trí tuệ con người, khi
được khai thác nó lại càng trở nên vô tận. Thực hiện CBXH là điều kiện, động
lực cho sự phát triển đất nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, hiện
đại hóa xã hội. Đây là phần quan trọng trong những giá trị mà tác giả luận án
tiếp thu được từ các công trình nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu đã đề xuất phương hướng, kiến nghị, giải pháp
quan trọng, cần phải làm để thực hiện CBXH, PTCN. Nhiều kiến nghị có giá trị
khoa học và thiết thực là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất
những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao vai trò của thực hiện CBXH với việc
PTCN ở Việt Nam hiện nay.
Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề thực hiện CBXH với việc
PTCN có thể nói là đa dạng. Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công
trình nghiên cứu trên đã đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích cho những
nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi. Tuy nhiên, có một số vấn đề đặt ra xung
quanh các công trình nghiên cứu có liên quan.
Trong các công trình nghiên cứu về PTCN, vai trò của dân chủ, của giáo
dục, của kinh tế, của y tế, của văn hóa đối với PTCN được bàn đến khá nhiều,
trong khi đó, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN được các tác giả đề cập
đến rất ít, có thể nói là không đáng kể, thường đi cùng cụm từ: dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Còn trong các công trình nghiên
cứu về CBXH và thực hiện CBXH, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế, tiến bộ xã hội, một số công trình đề cập đến thực hiện
CBXH trong công tác chăm sóc sức khỏe, trong giáo dục. Tất nhiên, thực hiện
CBXH vì mục tiêu phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội suy cho đến cùng cũng vì
mục tiêu PTCN. Con người là trung tâm của phát triển. Mọi sự phát triển đều
phải vì con người, cho con người và của con người. Tuy nhiên, thực hiện công
28
bằng trong kinh tế hay giáo dục, y tế mới chỉ phản ánh được một hay một vài
khía cạnh của PTCN. Mặt khác, đây mới chỉ là những nghiên cứu rời rạc. PTCN
liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội,
chính trị. Để mọi người dân đều được hưởng các thành quả từ sự phát triển kinh
tế, văn hóa, giáo dục, y tế cũng như được sống trong một xã hội ổn định thì thực
hiện CBXH là điều kiện đầu tiên. Cho đến nay, theo chúng tôi được biết thì chưa
có công trình nghiên cứu nào thuộc chuyên ngành triết học nghiên cứu dưới góc
độ vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN. Đây là hướng nghiên cứu mới
đòi hỏi phải có sự đi sâu, tìm tòi, phân tích.
Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước đó, duới góc
độ triết học, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về CBXH, thực hiện
CBXH, PTCN. Trong đó, luận án xác định khái niệm, những nội dung cơ bản
của CBXH, thực hiện CBXH, PTCN. Điểm mới và là một trong những nội dung
trọng tâm của luận án là làm rõ vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN. Từ
đó làm cơ sở để nghiên cứu, đánh giá về thực trạng và đề xuất những giải pháp
có bản nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, làm rõ thực trạng vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN ở
Việt Nam hiện nay. Tìm ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực
hiện CBXH đối với PTCN ở Việt Nam trong thời gian tới.
Chúng tôi cũng xác định đây là vấn đề mới và khó, nên những kết quả
nghiên cứu trong luận án chỉ là bước đầu, vấn đề này vẫn cần tiếp tục nghiên cứu
sâu hơn trong các công trình tiếp theo.
29
Chương 2
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Trong lịch sử tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây có rất
nhiều cách tiếp cận và lý giải khác nhau về vấn đề CBXH, đi cùng với nó là vấn
đề thực hiện CBXH. Việc đặt ra và giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử mà còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và khả
năng thực hiện của con người từng thời kỳ. Nếu trong xã hội phương Đông tư
tưởng CBXH thường gắn liền với tôn giáo, đạo đức, chính trị - xã hội, thì trong
xã hội phương Tây CBXH thường gắn liền với khái niệm về tự do và bình đẳng,
với vấn đề sở hữu, phân phối. Mặc dù các quan niệm về CBXH còn tản mác,
chưa có sự thống nhất, nhưng có thể thấy, nội dung của CBXH rất rộng, liên
quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: Tôn giáo, đạo đức, kinh
tế, chính trị, xã hội… Cho dù có khác nhau thế nào chăng nữa thì các quan niệm
về CBXH có điểm chung là đều bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Theo đó, thực
hiện CBXH chỉ là công bằng cho thiểu số những người nắm trong tay toàn bộ tư
liệu sản xuất (TLSX) của xã hội, còn lại phần đông quần chúng nhân dân lao
động vẫn đang hàng ngày phải chịu những bất công xã hội. Trong một xã hội
mất công bằng như vậy không thể nói đến sự giải phóng cũng như PTCN. Thực
tiễn lịch sử đã cho thấy, CBXH luôn là khát vọng cháy bỏng của quần chúng
nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước khi triết học Mác ra đời, các nhà tư tưởng
trong lịch sử vẫn chưa đưa ra được quan điểm đúng đắn về CBXH cũng như
cách thức, con đường để đạt tới CBXH đích thực. Chỉ đến triết học Mác, vấn đề
CBXH mới được nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện. Đặc biệt, nó đã trở thành
hiện thực trong sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
2.1.1. Quan điểm của triết học Mác về công bằng xã hội
Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, cùng với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của
các nhà tư tưởng đi trước, triết học Mác đã có những đóng góp quý giá khi xây
dựng một quan niệm mới về CBXH.
Xem xét từng thời kỳ khác nhau trong lịch sử của xã hội loài người, triết
học Mác coi CBXH là một phạm trù có lịch sử và có tính giai cấp. Mỗi một quốc
30
gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp dân cư khác nhau có những quan niệm khác nhau
về CBXH. Do đó, khái niệm CBXH cũng thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã
hội, thậm chí theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế -
xã hội nhất định. Về điều này, Ph.Ănghen đã chỉ rõ:
Công lý của người Hy Lạp và người La Mã cho rằng chế độ nô lệ là
công bằng: Công lý của những nhà tư sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu
chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng. Đối với những địa
chủ - quý tộc Phổ thì ngay cả cái sắc lệnh đáng ghét về việc tổ chức
các khu cũng là một sự vi phạm công lý vĩnh cửu. Do đó, khái niệm
về công lý vĩnh cửu biến đổi, chẳng những cùng với thời gian và
không gian, mà cùng với bản thân con người nữa [93, tr.379].
Thực chất của CBXH là giải quyết mối quan hệ về lợi ích của con người
trong xã hội. Khi vấn đề lợi ích được giải quyết sẽ tạo cơ sở, động lực cho sự
phát triển của con người. Để có quan niệm đúng đắn về CBXH cần phải gắn nó
với lợi ích giai cấp, nhóm xã hội và những điều kiện vật chất đã sinh ra nó. Lợi
ích của con người được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… trong đó, lợi ích về kinh tế là cơ bản nhất. Do đó, giải quyết vấn đề
CBXH trước hết phải giải quyết vấn đề CBXH trên lĩnh vực kinh tế với tiêu chí
chung của nó nằm trong quan hệ phân phối sản phẩm.
Triết học Mác đã chỉ ra, ai nắm quyền sở hữu TLSX chủ yếu của xã hội
thì là người quyết định việc phân phối sản phẩm, đồng thời là giai cấp thống trị
xã hội. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mọi quan hệ trao đổi được được nhà
tư bản coi là công bằng khi chúng được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Về
lý thuyết, quan hệ trao đổi ngang giá khi mua và bán sức lao động giữa nhà tư
bản và giai cấp công nhân là công bằng, nhưng, như Ph.Ăngghen đã vạch rõ: “sự
thật không phải như vậy. Nếu nhà tư bản không đồng ý với công nhân, thì y có
điều kiện để chờ đợi và sống bằng tư bản của y. Người công nhân không thể làm
như vậy được”… “Người công nhân ngay từ đầu đã ở vào những điều kiện bất
lợi trong cuộc đấu tranh. Cái đói đặt anh ta vào hoàn cảnh hết sức bất lợi. Thế
mà, theo khoa kinh tế chính trị của giai cấp các nhà tư bản, đó là đỉnh cao của sự
công bằng” [94, tr.367].
Rõ ràng, người công nhân luôn bị đưa vào tình thế không được tự do lựa
chọn trong quan hệ trao đổi được coi là tự nguyện và buộc phải bán sức lao động
của mình dưới giá trị. Còn cái gọi là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá thực chất
31
chỉ là không ngang giá, không công bằng. Bởi, không giống như những loại hàng
hóa khác, hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, khi đưa vào sản
xuất nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân. C.Mác gọi phần dư ra
đó là giá trị thặng dư, “còn nhà tư bản thì chẳng phải tốn gì cả, và tuy vậy giá trị
thặng dư ấy lại là vật sở hữu hợp pháp của nhà tư bản” [97, tr.826]. Đó chính là
bản chất bất công của chế độ phân phối tư bản chủ nghĩa. Triết học Mác đã lên
án sự bất công trong phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa.
Quan hệ không công bằng trong phân phối còn thể hiện ở chỗ, phương
thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản không dựa vào sức lao động mà lại dựa
vào tài sản và vốn. Điều này đã dẫn tới: “Người nào không có sở hữu nào khác
ngoài sức lao động của mình ra thì trong mọi trạng thái xã hội và văn hóa, đều
nhất định sẽ phải làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện
vật chất của lao động. Người đó chỉ có thể lao động, do đó chỉ có thể sinh sống,
khi được những kẻ này cho phép”. [94, tr.27].
Phương thức phân phối này đã đưa tới “một sự đối lập ngày càng gay gắt
hơn giữa những nhà tư bản ngày càng ít đi, nhưng ngày lại càng giàu thêm, với
những công nhân làm thuê không có của ngày càng đông đảo hơn và nói chung
sống trong một tình cảnh ngày càng tồi tệ hơn” [95, tr.212]. Từ đó, triết học Mác
đã chỉ ra, sự tăng trưởng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình
tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và do đó, không thể dẫn tới CBXH, cũng
không thể tạo điều kiện để con người phát triển theo đúng nghĩa của nó. Muốn
có CBXH thì phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo đúng với giá trị của sức
lao động.
Nhà nước tư bản tuyên bố công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật,
nhưng trên thực tế, giai cấp tư sản chi phối sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội
thì cũng chi phối phối pháp luật và các quan hệ xã hội chủ yếu khác. Để xây
dựng một xã hội công bằng thực sự, phải làm cho mọi người bình đẳng trong
quan hệ sở hữu, tức phải làm cho mọi người phải ngang bằng về địa vị trong
quan hệ đối với TLSX. Đó chính là xuất phát điểm bình đẳng làm cơ sở để thực
hiện được công bằng thực sự trong xã hội.
Trong CNXH, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, khi lực lượng sản
xuất chưa phát triển đến trình độ cao, chưa đủ sức thỏa mãn mọi nhu cầu của con
người, nên tất cả mọi người đều phải lao động và được hưởng theo mức độ lao
động mà họ đã đóng góp cho xã hội thì CBXH trong CNXH là làm theo năng
32
lực, hưởng theo lao động. Triết học Mác cũng đã chỉ rõ rằng, trong điều kiện của
CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn
hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng “bất bình đẳng” nhất định giữa
các thành viên trong xã hội, tức vẫn chưa có CBXH hoàn toàn. Bởi cái ngự trị
trong nguyên tắc phân phối theo lao động này vẫn là nguyên tắc trao đổi ngang
giá trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Quyền của người sản xuất là tỷ
lệ với lao động mà người ấy cung cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người ta đo bằng
thước đo như nhau, tức là bằng lao động. Nhưng những người lao động không
phải ai cũng như ai, còn tồn tại rất nhiều sự khác biệt về sức khỏe, về năng khiếu
cá nhân, về năng lực lao động, về hoàn cảnh gia đình. Do vậy, trên thực tế, với
một công việc ngang nhau và với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng
của xã hội vẫn có tình trạng người này lĩnh nhiều hơn người kia, người này giàu
hơn người kia, v.v.. Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là không
bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng. Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của
nguyên tắc phân phối theo lao động. Chính vì thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động nên ngay cả trong CNXH, khi CBXH được thực hiện thì chúng ta
vẫn chưa thể thực hiện được bình đẳng xã hội.
Theo triết học Mác, CBXH thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào giai
đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt đến mức độ rất cao, tất cả các
nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, lúc đó việc phân phối không còn phụ
thuộc vào lao động, thay vào đó sẽ là nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu”. Lúc này, CBXH đồng nhất với bình đẳng xã hội, còn
bình đẳng ở đây đạt tới trình độ bình đẳng hoàn toàn, con người được hoàn
toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do phát triển toàn diện những năng lực bản
chất của mình.
Như vậy, so với các quan điểm trong lịch sử, triết học Mác đã xây dựng
quan niệm về CBXH trên lập trường bảo vệ lợi ích của những người lao động
với nội dung chủ yếu là nguyên tắc phân phối theo lao động. Cơ sở để thực hiện
CBXH nói chung bao giờ cũng phải dựa trên một xuất phát điểm bình đẳng giữa
người với người và dựa trên sự tự nguyện tham gia vào mối quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, trong triết học Mác, CBXH không chỉ là vấn đề thuần túy kinh tế. Thiết
lập CBXH ở mức phổ quát nhất, có nghĩa là giải phóng con người ra khỏi mọi
bất công và bất bình đẳng xã hội. CBXH theo xu hướng vận động của nó luôn
33
hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu căn bản của con người, đảm bảo tốt
hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển toàn diện của con người. Quan
điểm của triết học Mác về CBXH cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận để
tác giả luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề này trong điều kiện nước ta
hiện nay.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công bằng xã hội
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
Xây dựng một xã hội công bằng, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện luôn là mong muốn, khát vọng và
lý tưởng cao cả mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp và thực hiện trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về CBXH vào hoàn cảnh của nước ta. Tư tưởng về
CBXH được Hồ Chí Minh thể hiện linh hoạt, sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ
thể của quá trình xây dựng đất nước.
Khi nói đến CBXH, Hồ Chí Minh thường gắn nó với quan niệm về bình
đẳng xã hội, mà ở đây là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. CBXH, theo Hồ
Chí Minh, là một trong những mục tiêu của sự nghiệp xây dựng CNXH, đồng
thời, là một trong những đặc trưng mang tính bản chất của CNXH. Người đã chỉ
rõ, chỉ dưới chế độ XHCN “Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi” [103,
tr.219], mới thực sự được hưởng quyền “bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”
[106, tr.310], được đảm bảo ngang bằng về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ
TLSX để mỗi người có thể phát huy được mọi khả năng của mình vươn tới mục
tiêu ấm no, hạnh phúc.
Theo Hồ Chí Minh, CBXH không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của
CNXH mà còn là một động lực thúc đẩy đất nước phát triển, là một yêu cầu bức
thiết của công cuộc xây dựng CNXH. Do dó, không nhất thiết xã hội giàu có,
không cần phải đợi đến có CNXH mới thực hiện CBXH mà ngay từ bây giờ,
trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn lại càng cần phải
thực hiện CBXH. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh chỉ ra, thực hiện CBXH trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, đặc biệt, trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn về
kinh tế không có nghĩa là cào bằng sự nghèo khổ. Theo Người, con người có trí
tuệ, năng lực, thể chất khác nhau nên có cống hiến khác nhau, không nên có tình
trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ cũng công điểm như nhau. Chủ
34
nghĩa bình quân hoàn toàn khác với tinh thần đồng cam cộng khổ để vượt qua
những khó khăn: “Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu
bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? là ai cũng
như ai, bằng hết”... “Bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội, thế là
không đúng” [104, tr.386].
Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH rất phong phú, thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện công bằng trong kinh tế là thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động với quá trình sản xuất. Kế thừa nguyên tắc
phân phối theo lao động của chủ nghĩa Mác - Lênin và xem đó là nguyên tắc
phân phối công bằng trong CNXH, trong điều kiện quá độ đi lên CNXH ở nước
ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, tính chất và trình độ lao động có sự
khác biệt, Người khẳng định, tất cả mọi người đều phải lao động, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Người bổ sung
thêm, trừ những người già cả, đau yếu, và trẻ em. Luận điểm này vừa thể hiện sự
nhất quán với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CBXH trong điều kiện
CNXH, vừa thể hiện chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Thực hiện công bằng trong chính trị là đảm bảo quyền tự do, bình đẳng
trong bầu cử và ứng cử của nhân dân vào các cơ quan nhà nước: “... hễ là người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền
đi bầu cử. Không chia gái trai, giầu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng
phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” [101, tr.133]. Thực hiện
công bằng trong chính trị còn là phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua
việc đảm bảo những điều kiện để nhân dân tham gia quản lý, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, của đội ngũ cán bộ, bày tỏ ý kiến của mình khi Nhà nước
trưng cầu dân ý.
Thực hiện công bằng trên lĩnh vực văn hóa - xã hội là tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi thành viên trong xã hội đều được tiếp cận bình đẳng cơ hội được
hưởng thụ thành quả xã hội mang lại như giáo dục, văn hóa, y tế… để có cơ hội
bình đẳng, thành đạt trong cuộc sống.
Để thực hiện CBXH hội, theo Người, phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa
chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, phải tính đến điều
kiện đặc thù của nước ta là nền kinh tế kém phát triển, phải trải qua những cuộc
chiến tranh kéo dài nên ngoài những vấn đề chung phải có trọng tâm, chú ý đến
các đối tượng chính sách, các vùng dân tộc miền núi, vùng căn cứ cách mạng,
35
coi trọng xóa đói giảm nghèo… Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến lợi
ích cá nhân. Người phân biệt rất rõ lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chúng
ta phải tôn trọng lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi người không ngừng phấn
đấu, cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới; đồng thời, đấu
tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân nhằm ngăn chặn tác hại đối với lợi ích chung
của toàn xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện CBXH là trách nhiệm
chung của nhà nước, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của
nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi
của mình đối với nhà nước và xã hội.
Có thể thấy, quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH hội là toàn diện, sâu
sắc, được thể hiện một cách độc đáo và sáng tạo. Quan niệm của Hồ Chí Minh
về CBXH luôn gắn liền với vấn đề con người. Mọi suy nghĩ và hành động của
Người đều toát lên tư tưởng chủ đạo coi con người là trung tâm của sự phát triển,
mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đều phải vì con
người, cho con người. Thực hiện CBXH chính là giải quyết mối quan hệ giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong xã
hội; là việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển của xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo
quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. Tư tưởng của
Người về vấn đề này là một trong những đóng góp quan trọng cho sự phát triển
lý luận của CNXH nói chung, lý luận về CBXH nói riêng.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH, cùng với sự phát triển của đất nước,
quan niệm về CBXH của Đảng ta không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Quan
điểm của Đảng ta về CBXH hội có thể khái quát ở những điểm cơ bản sau:
Một là, Đảng ta xác định CBXH là một trong những đặc trưng cơ bản của
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, là cơ sở cho sự PTCN. Xã hội mà chúng ta
đang xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
trong đó con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân. Thực hiện CBXH chính là đảm bảo sự tương xứng giữa
cống hiến và hưởng thụ, tạo điều kiện cho mọi người dân “đều có cơ hội và điều
kiện phát triển toàn diện” [46, tr.30-31]. Do đó, cần phải thực hiện CBXH “ngay
36
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển
con người” [42, tr.77].
Hai là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với CBXH. Tăng trưởng kinh tế và
CBXH có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tăng trưởng kinh tế chính là điều
kiện, tiền đề vật chất cần thiết để thực hiện CBXH và việc thực hiện CBXH sẽ là
động lực để phát triển kinh tế. Bởi CBXH không chỉ là việc điều hòa lợi ích, điều
tiết phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội một cách hợp lý, mà
còn đảm bảo cho mọi tầng lớp trong xã hội được hưởng thụ các quyền lợi như giáo
dục, y tế, giúp đỡ lúc khó khăn hoạn nạn…, được bình đẳng trong việc tiếp cận các
cơ hội: Việc làm, cơ hội đầu tư… để nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. Do
đó, quan điểm của Đảng ta là phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển. Không phải đợi đến kinh tế phát triển cao,
dân giàu lên mới thực hiện CBXH mà chúng ta thực hiện CBXH trong suốt quá
trình phát triển kinh tế của đất nước. Quan niệm này của Đảng đòi hỏi khi xây dựng
các chính sách kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển xã hội, đồng thời mỗi chính
sách xã hội phải chứa nội dung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: “Gắn kết chặt chẽ
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, đảm bảo để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước” [46, tr.30]. Việc
giải quyết tốt vấn đề CBXH là một trong những mục tiêu chiến lược của sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN hướng
tới sự phát triển toàn diện của con người.
Ba là, về nội dung của việc thực hiện CBXH. Theo quan điểm của Đảng,
thực hiện CBXH thể hiện ở 2 nội dung chính: Phân phối công bằng và tạo điều
kiện cho mọi người có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình:
“Công bằng xã hội phải được thể hiện ở các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản
xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có
cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [39, tr.113].
Bốn là, điều kiện để thực hiện CBXH. Đảng ta chỉ ra, để thực hiện CBXH
trước hết phải tăng trưởng kinh tế, phải làm sao cho sản xuất phát triển, tạo ra
nhiều của cải cho xã hội. Chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chính là biện pháp tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển để có điều kiện thực hiện ngày càng tốt hơn CBXH ở nước ta. Tuy nhiên,
37
kinh tế thị trường xuất hiện những mặt trái của nó: Lợi ích cá nhân…. khiến vấn
đề CBXH không được giải quyết đúng đắn. Do vậy tăng cường hiệu lực quản lý
của nhà nước trên các mặt giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng là điều
kiện không thể thiếu được để thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay. Muốn vậy,
Nhà nước phải thực sự là cơ quan quyền lực của dân, vì dân, thực sự trong sạch
và vững mạnh. Nhà nước phải có các chính sách xã hội phù hợp, làm công cụ để
quản lý, tổ chức thực hiện CBXH, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện
CBXH. Cùng với đà tiến triển của công cuộc đổi mới, chủ trương trên đã dần
dần được cụ thể hóa và thể chế hóa thành một hệ thống các chính sách có liên
quan trên nhiều lĩnh vực, như: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích
cực xóa đói giảm nghèo; thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện để ai
cũng được học hành; thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân;
mọi chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều phải tạo
điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình...
2.1.3. Một số quan điểm hiện đại về công bằng xã hội
Ngày nay, xã hội loài người đang ở giai đoạn chuyển mình sâu sắc trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với tự do, dân chủ, CBXH là một trong
những vấn đề được quan tâm hàng đầu của thế giới hiện đại, bởi lẽ, cái nhân loại
cần không chỉ là một cuộc sống vật chất thuần túy mà là sự hài hòa cả về vật
chất và tinh thần. Trong thế giới ngày nay, công bằng hơn bao giờ hết đang trở
nên là điều kiện tối cần thiết để con người được tự do, hạnh phúc. Trong điều
kiện đó, nhiều lý thuyết mới về CBXH đã ra đời, phản ánh những biến đổi trong
nhận thức về CBXH. Trong số đó, tiêu biểu là quan điểm của J.Rawls.
Tiếp nối và phát triển những tư tưởng truyền thống về CBXH trong lịch
sử, J.Rawls đã đưa ra một quan niệm mới về CBXH: công lý như là công bằng.
Công lý được hiểu là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con người.
Công lý như là công bằng chính là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng. Chuẩn
mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân
chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. J.Rawls đã đưa ra một khái niệm
tổng quát về CBXH, tất cả mọi giá trị xã hội (sự tự do và cơ hội, thu nhập và tài
sản....) phải được phân phối bình đẳng trừ khi một sự phân phối không bình đẳng
của những giá trị như vậy mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Theo J.Rawls, để công bằng trong phân phối cần phân phối theo công lao.
Phân phối theo công lao có nghĩa là sự phân chia kết quả hợp tác xã hội phụ thuộc
38
vào những đóng góp thực tế của các cá nhân vào các yếu tố sản xuất trong việc tạo
ra của cải xã hội. Việc phân phối theo công lao sẽ làm tăng mức độ tự nguyện của
mọi người, huy động được mọi nguồn lực vào quá trình sản xuất. Xét theo nghĩa
này thì công bằng trong phân phối là động lực của tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Với vấn đề bình đẳng về cơ hội, J.Rawls cho rằng, bình đẳng về cơ
hội là điều kiện, tiền đề để thực hiện CBXH. Nhờ có bình đẳng về cơ hội mà
những tài năng của con người được phát huy, khai thác được tối đa nguồn lực của
con người. Để thực hiện CBXH, J.Rawls chủ trương phải có chính phủ lớn - nhà
nước tự do dân chủ.
Với quan niệm công lý như là công bằng, J.Rawls đã xây dựng một lý
thuyết hoàn chỉnh về công bằng. Một thể chế xã hội được coi là công bằng khi
các cá nhân tự nguyện tham gia vào hợp tác xã hội cho dù có sự khác biệt bẩm
sinh và địa vị xã hội trong cơ chế hợp tác xã hội chung. Với những nguyên tắc
của công bằng, xã hội sẽ bớt đi hiện tượng con người mù quáng chạy theo lợi
nhuận, họ chấp nhận sự phân phối có thể không tối đa hóa lợi ích của mình,
không thật công bằng nhưng có lợi cho những người nghèo khó hơn. Tuy nhiên,
quan điểm của J.Rawls cũng không tránh khỏi những hạn chế. Cùng cho rằng,
khế ước luôn gắn với quan hệ hợp tác tự nguyện và bình đẳng, nhưng khác với
J.Rawls, C.Mác đã không tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá và trừu tượng hoá sự tự
nguyện và xuất phát điểm bình đẳng. Bởi, sự tự nguyện và xuất phát điểm bình
đẳng được C.Mác xét trong điều kiện xã hội XHCN và chủ nghĩa cộng sản. Còn
trong điều kiện của xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ “hợp tác” dựa trên sự tự
nguyện và bình đẳng ấy đã tự biến thành sự chiếm hữu của nhà tư bản đối với
giá trị thặng dư của người lao động làm thuê. Do đó, quan hệ ấy chỉ có thể dẫn
đến sự cưỡng bức và bất bình đẳng mà thôi. Quan niệm của J.Rawls về bức màn
vô tri với tính cách là xuất phát điểm bình đẳng và sự tự nguyện trong mối quan
hệ hợp tác xã hội giữa người và người chỉ có trong xã hội lý tưởng. Còn trong xã
hội hiện thực, do luôn có sự khác biệt về khả năng bẩm sinh và điều kiện xã hội
của mỗi cá nhân, nên vị thế mặc định của mỗi cá nhân không thể là bình đẳng,
mà vẫn phải được coi là xuất phát điểm khác nhau khi tham dự vào quan hệ hợp
tác xã hội. Do đó, lý thuyết của J.Rawls chỉ mang tính giả định. Về điểm này,
J.Bidet, một nhà triết học chính trị người Pháp đương thời đã đưa ra nhận định,
lý thuyết công lý của J.Rawls trong điều kiện hiện thực của thị trường đã khiến
39
quan hệ hợp tác xã hội không phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện
thực sự, mà thực tế là luôn xuất phát từ quan hệ bất bình đẳng và sự cưỡng chế.
Công bằng xã hội là một trong những nội dung mà Chương trình Phát
triển của Liên Hợp quốc (UNDP) dành nhiều sự quan tâm. UNDP cho rằng, nội
dung bao trùm của CBXH là công bằng về cơ hội phát triển. CBXH được hiểu là
các cá nhân có cơ hội ngang nhau trong việc theo đuổi cuộc sống như họ đã chọn
và phải tránh được những kết cục cùng khổ. Thực hiện CBXH là tạo ra sân chơi
bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa cho mọi người dân. UNDP tiếp cận vấn
đề từ góc độ bất bình đẳng. Bất bình đẳng diễn ra trong mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bất bình đẳng về cơ
hội kinh tế dẫn tới bất bình đẳng trong chính trị. Phân phối bất bình đẳng tài sản,
cơ hội và quyền chính trị dẫn tới bất bình đẳng trong văn hóa, xã hội. Nguyên
nhân cơ bản của tình trạng bất bình đẳng về phân phối các nguồn lực cho phát
triển là do bất công trong vấn đề sở hữu, đặc biệt là vấn đề sở hữu TLSX. Do đó,
cần phải phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm
của UNDP, phân phối công bằng không chỉ dừng lại ở việc phân phối công bằng
đối với các sản phẩm đầu ra, điều quan trọng hơn là phải tạo điều kiện và cơ hội
bình đẳng cho mọi người, đặc biệt là nhóm người nghèo, dễ bị tổn thương trong
việc tiếp cận các nguồn lực phát triển. Khi con người được đảm bảo các điều
kiện thuận lợi, có môi trường tích cực, họ sẽ là động lực chính khởi nguồn cho
mọi tăng trưởng, biến đổi và phát triển của chính họ và của xã hội. Xã hội công
bằng, bình đẳng là tiền đề cho đồng thuận và đoàn kết, đồng thời, là cơ sở để mọi
cá nhân và mọi tầng lớp có cơ hội, điều kiện phát triển.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về CBXH, dưới các góc độ
triết học, kinh tế học, chính trị học, luật học… Tùy theo góc độ nghiên cứu, các
tác giả đưa ra quan niệm của mình về CBXH. Phổ biến hiện nay là cách luận giải
khi tập trung vào quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực phân phối sản
phẩm xã hội, tập trung ở nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau
thì sẽ được hưởng quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau [71].
Ngoài ra, còn một số hướng tiếp cận khác. Theo hướng tiếp cận giá trị, tác
giả Phạm Công Nhất cho rằng, CBXH là các giá trị định hướng con người sinh
sống và phát triển trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về
vật chất cũng như tinh thần. Đó là những giá trị cơ bản trong các mối quan hệ xã
hội như: quan hệ giữa khả năng lao động và mức độ thu nhập; quan hệ giữa
40
quyền sở hữu TLSX và phân phối sản phẩm; quan hệ giữa mức độ phạm tội và
mức độ bị trừng phạt; quan hệ giữa các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh
tế, trình độ phát triển trí lực khác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục,
khám chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể
thao, v.v..
Xem xét CBXH với tính cách là một phạm trù xã hội phản ảnh sự phát triển
của con người và tiến bộ xã hội, tác giả Dương Xuân Ngọc cho rằng, CBXH là một
phạm trù xã hội dùng đê chỉ trình độ phát triển về phương diện xã hội của con
người (cá nhân và cộng đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị và xã hội đến văn hóa, tinh thần, mà trước
hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã
hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con người, của xã hội phù
hợp với xu thế tiến bộ của xã hội [120].
Có thể thấy, trong quá trình phát triển lịch sử, nội hàm của khái niệm
CBXH đã có nhiều thay đổi. Quan niệm về CBXH rất phong phú, đa dạng.
Nhìn chung, các quan điểm đều coi CBXH là một giá trị, là khát vọng vươn
tới của toàn thể nhân loại. Nội dung của CBXH không chỉ bó hẹp công bằng
trong kinh tế - mặc dù đây vẫn là yếu tố nền tảng - mà còn là công bằng trong
việc tham gia và hưởng thụ kết quả hoạt động trong tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội. Trên cơ sở khái niệm CBXH, đa phần
các tác giả đều cho rằng, thực hiện CBXH thể hiện ở việc phân phối công
bằng và tạo công bằng về cơ hội. Thực hiện phân phối công bằng góp phần
giải quyết các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn về mặt lợi ích trong xã hội tạo
động lực cho sự phát triển của cá nhân cũng như xã hội. Thực hiện công bằng
về cơ hội giúp cho mọi người có thể phát triển tối đa năng lực của bản thân.
Thực hiện CBXH chính là động lực, điều kiện, môi trường cho sự PTCN. Để
thực hiện CBXH cần đến vai trò của nhà nước.
2.1.4. Khái niệm công bằng xã hội, thực hiện công bằng xã hội
2.1.4.1. Khái niệm công bằng xã hội
Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh
về CBXH, đồng thời, tiếp thu những giá trị trong quan niệm của các nhà nghiên
cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới góc độ tiếp
cận vai trò CBXH đối với việc PTCN, theo chúng tôi, công bằng xã hội là một
giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình thành trên cơ
41
sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống hiến
và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển…
trên mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với điều kiện hiện thực của
xã hội.
Từ những phân tích ở trên CBXH gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, CBXH là một giá trị nhằm xác lập mối quan hệ giữa người với
người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, v.v..) theo nguyên tắc tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống
hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát
triển. Với tư cách là giá trị xã hội, CBXH là phạm trù mang tính nhân loại, gắn
liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của con người và cộng đồng loài người.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử đấu tranh cho dân chủ,
tự do, công bằng và tiến bộ nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng con người,
phát triển toàn diện các năng lực, sức mạnh bản chất của con người, hoàn thiện
nhân cách.
Thứ hai, CBXH là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. CBXH không phải
là một khái niệm bất di bất dịch. Với tư cách là sản phẩm của đời sống xã hội,
mà đời sống xã hội luôn vận động, biến đổi nên nội dung của CBXH cũng phải
biến đổi cho phù hợp. Không thể có một quan niệm chung về CBXH cho mọi
thời đại, dân tộc và giai cấp. Mỗi xã hội có đòi hỏi riêng về công bằng. Việc đặt
ra và giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, trước
hết là trình độ phát triển của phương thức sản xuất, cùng với nó là trình độ nhận
thức của con người, đặc biệt, sự chi phối lợi ích của các giai cấp, các nhóm chủ
thể xã hội thời kỳ đó. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do nền sản xuất còn thấp kém, chưa
có sản phẩm dư thừa, chưa có chế độ tư hữu thì CBXH chỉ có nghĩa là mọi người
đều phải tuân theo một trật tự đã được thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt
theo phong tục, tập quán. Khi xã hội phân chia giai cấp, nhà nước xuất hiện, tùy
theo mức độ phát triển của xã hội, quan niệm về CBXH cũng khác nhau. Xã hội
Hy - Lạp cổ đại cho rằng, công bằng là sự đối xử ngang nhau đối với những
người cùng một địa vị xã hội và sự bất bình đẳng giữa những người không cùng
địa vị xã hội cũng là công bằng (Arixtốt); công bằng là ở chỗ mỗi hạng người
làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình (Platon).
Các nhà tư tưởng của chế độ phong kiến trong lịch sử cũng nói về CBXH nhưng
42
đó là công bằng có tôn ti, trật tự trên dưới. Chế độ tư sản cho rằng, nguyên tắc
trao đổi ngang giá là công bằng. Trong XHCN, công bằng gắn với nguyên tắc
phân phối theo lao động. Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa thì công bằng là làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Lịch sử loài người là lịch sử phấn đấu không
mệt mỏi cho sự công bằng và đi đến CBXH từ cấp thấp đến cấp cao, từ cho số ít
đến cho số nhiều và cho mọi người. Một xã hội công bằng phải là một xã hội tạo
ra cho mọi người có những cơ may để họ tự phát triển, đem lại hạnh phúc cho
bản thân họ và có những đóng góp cho xã hội. Theo đó, CBXH phản ánh trình
độ phát triển về phương diện xã hội của con người.
Thứ ba, CBXH là một trường hợp riêng của bình đẳng xã hội.
Theo từ điển tiếng Việt, bình đẳng là ngang nhau về địa vị, quyền lợi.
Bình đẳng xã hội được hiểu là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một
(hoặc một vài) lĩnh vực xã hội như: sự ngang bằng nhau về quyền và nghĩa vụ
công dân, về địa vị xã hội, về khả năng, cơ hội, mức độ thỏa mãn những nhu cầu
cụ thể nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần, v.v..
Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác nhau về giới tính, lứa tuổi, chủng tộc,
màu da. Đó là sự khác nhau về mặt sinh học tự nhiên chứ không phải là sự khác
nhau về mặt xã hội. Với cách hiểu như vậy, trong xã hội, không phân biệt thành
phần, địa vị xã hội mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, có điều kiện
và khả năng sống như nhau để phát triển năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của
cuộc sống. Khi nào đạt đến sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi
phương diện thì đó là sự bình đẳng xã hội hoàn toàn, sự bình đẳng lý tưởng, mơ
ước của con người. Bình đẳng được thể hiện ở các mối quan hệ: sự bình đẳng
trong việc thực hiện nghĩa vụ; sự bình đẳng trong việc được hưởng quyền lợi; sự
tương ứng hay không tương ứng giữa sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ
với sự bình đẳng trong việc hưởng thụ quyền lợi khi thực hiện cùng một nghĩa
vụ ấy. CBXH được hiểu trong trường hợp thứ ba. Như vậy, bình đẳng xã hội có
phạm vi rộng và bao quát hơn CBXH.
Công bằng xã hội có khía cạnh bình đẳng, đồng thời có khía cạnh bất bình
đẳng. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân trước pháp luật; bình đẳng về
nhân phẩm, chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng tôn giáo chống lại mọi sự kỳ thị,
phân biệt đối xử là những yêu cầu của CBXH. Tuy nhiên, trong CNXH, sự bất
bình đẳng về hưởng thụ do sự không ngang nhau về phẩm chất và năng lực trong
lao động, cống hiến cũng là một yêu cầu của CBXH. Như vậy, xét đến cùng,
43
không có bình đẳng trừu tượng, mà bình đẳng phải được thể hiện ở việc thực
hiện CBXH. Đến lượt nó, bản thân việc thực hiện CBXH cũng chính là thực hiện
bình đẳng xã hội từng phần để hướng đến bình đẳng xã hội ngày một cao hơn.
Về bản chất, CBXH được hiểu là sự tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền
lợi, về cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều
kiện phát triển, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội. Có sở để đánh giá sự
tương xứng đó chính là những tiêu chí nhất định mà xã hội lựa chọn và chấp
nhận. Nếu tiêu chí thay đổi thì sự tương xứng cũng thay đổi. Nếu tiêu chí thay
đổi thì quan niệm về sự tương xứng cũng thay đổi. Như vậy, công bằng xã hội là
một khái niệm vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng. Trên thực tế,
hình thức đóng góp đa dạng: thời gian lao động, vốn, chất xám, xương máu, kinh
nghiệm, v.v… và hình thức được nhận lại cũng rất đa dạng: tiền công, phần
thưởng, địa vị, chức vụ, sự kính trọng v.v... Chính sự đa dạng trong hình thức
đóng góp và nhận lại như vậy khiến cho sự tương xứng nói trên trong thực tế
không phải bao giờ cũng được bộc lộ rõ ràng nên có những trường hợp là công
bằng nhưng chủ thể cho là chưa công bằng và ngược lại. “Công bằng không phải
là sự bằng nhau về số lượng hay chất lượng giữa cái mà anh bỏ ra và cái mà anh
ta thu về. Vấn đề cốt yếu ở đây là sự so sánh về tỷ lệ. Nếu tỷ lệ giữa phần mà
người hay nhóm xã hội xã hội nào đó đóng góp và phần mà họ nhận được mà
tương quan với tỷ lệ ấy ở những người hay nhóm xã hội khác thì đó mới là công
bằng” [60, tr.96], tức công bằng xã hội phải được xét trong quan hệ cống hiến
ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Nội dung của CBXH:
Công bằng xã hội mag tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội... trong đó thể hiện tập trung ở 2 nội dung chính: công bằng trong
phân phối và công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.
Nội dung thứ nhất, công bằng trong phân phối. Phân phối là một trong
những phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong việc
phân chia các nguồn lực trong quá trình sản xuất xã hội và tái sản xuất xã hội, nó
phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và quản lý. Phân phối vừa là một khâu của quá
trình sản xuất (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng), vừa là một mặt của
quan hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối). Phân phối bao gồm việc
phân phối các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất) và sản phẩm đầu ra
(tư liệu tiêu dùng) phục vụ nhu cầu tái sản xuất xã hội và đời sống con người. Do
44
đó công bằng trong phân phối bao hàm cả việc phân phối công bằng các yếu tố
đầu vào của sản xuất lẫn các yếu tố đầu ra của sản xuất. Tính chất phân phối các
yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối tiêu dùng, còn sự phân phối các
yếu tố sản xuất lại do phương thức sản xuất chi phối. Về điều này C.Mác đã chỉ
rõ: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự
phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều
kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất” [95,
tr.36-37]. Do vậy, trong các xã hội khác nhau, các hình thức phân phối cũng
khác nhau. Điều này phụ thuộc vào bản chất kinh tế, chính trị, xã hội, cũng như
điều kiện, năng lực thực tế của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển trước hết được hiểu là quyền
của mọi người được tiếp cận ngang nhau với một cơ hội nào đó bất kỳ (ở đây
chính là bình đẳng về cơ hội). Còn điều kiện phát triển được hiểu là những điều
kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó không chỉ bình đẳng về cơ hội tiếp
cận các nguồn lực phát triển mà còn bao gồm tất cả các điều kiện và các dịch vụ
xã hội nói chung từ hạ tầng cơ sở (điện, nước sạch, đường sá, các cơ sở khám
chữa bệnh, các cơ sở giáo dục, đào tạo; thị trường tài chính, chứng khoán) đến
thượng tầng kiến trúc (tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước, học tập và
trao đổi thông tin, sáng tác, hưởng thụ văn học nghệ thuật, giao lưu văn hóa...).
Một số người cho rằng, đây là công bằng trong tiếp cận cơ hội. Về cơ bản, công
bằng hàm ý một sự phân chia hay phân phối, còn khi không có sự phân biệt về
quyền được tiếp cận các cơ hội phát triển thì đó là bình đẳng.
Cơ hội là bình đẳng nhưng năng lực của mọi người là khác nhau, không
phải tất cả mọi người đều có thể sử dụng cơ hội đó một cách ngang nhau để thực
hiện điều mình mong muốn. Vì vậy, “bình đẳng về cơ hội ở đây lại trở thành bất
bình đẳng về cơ hội và do đó nó cũng không công bằng vì nó mở ra cơ hội phát
triển cho người này nhưng lại không mở ra, thậm chí còn thu hẹp cơ hội phát
triển đối với người kia” [71, tr.206 - 207]. Công bằng về cơ hội cùng với việc tạo
sự bình đẳng về cơ hội còn bao hàm nội dung, tạo cơ hội phù hợp cho mỗi chủ
thể, để chủ thế đó có thể đó có thể phát huy khả năng vốn có của mình, cống
hiến cho xã hội và được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến ấy.
Trên thực tế, việc phân biệt công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển và
công bằng trong phân phối chỉ mang ý nghĩa tương đối. Việc đảm bảo công bằng
về cơ hội, điều kiện phát triển cũng chính là hình thức phân phối, chủ yếu dưới
45
dạng phân phối gián tiếp, phân phối lại từ các quỹ, các nguồn lực xã hội để tạo
cho các cá nhân, các nhóm xã hội có điều kiện phát huy tối đa vai trò của mình
đóng góp cho xã hội và được hưởng thụ công bằng. Công bằng về cơ hội, điều
kiện phát triển ở đây được xác định như là tiền đề để đảm bảo CBXH thực sự.
2.1.4.2. Khái niệm thực hiện công bằng xã hội
Theo cách hiểu thông thường, “thực hiện” là bằng những hoạt động cụ thể
làm cho ý tưởng, lý thuyết, chủ trương, nghị quyết, quyết định... của một cá
nhân, tổ chức thành hiện thực. Theo Từ điển tiếng Việt: “thực hiện là làm cho trở
thành cái có thật bằng hoạt động cụ thể; làm theo trình tự, thao tác nhất định”.
Mức độ “thực hiện” phụ thuộc rất lớn vào năng lực, ý thức của chủ thể cũng như
đối tượng thực thi chúng. Điều này đòi hỏi chủ thể đưa ra ý tưởng, lý thuyết, chủ
trương, nghị quyết, quyết định... phải am hiểu và đảm bảo tính đúng đắn, khả thi
của vấn đề, đồng thời đối tượng thực thi chúng cũng phải ý thức được về vấn đề
trước khi hành động.
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. Việc đặt ra và
giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: trình độ phát
triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của con người, sự chi phối lợi
ích của các giai cấp, các nhóm chủ thể xã hội thời kỳ đó. Do vậy, việc thực hiện
CBXH cũng phụ thuộc những điều kiện lịch sử - cụ thể của từng chế độ xã hội.
Theo đó, thực hiện công bằng xã hội là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ
thống chính trị, các lực lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị
trí, vai trò của mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành
hiện thực trong đời sống xã hội.
Chủ thể thực hiện CBXH:
Xét trong phạm vi một quốc gia, chủ thể thực hiện CBXH gồm: đảng cầm
quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng, tổ
chức xã hội, người dân ở quốc gia đó. Ngoài ra, còn các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ thiện... hỗ trợ, tham gia thực hiện CBXH.
Phương thức thực hiện CBXH:
- Đảng chính trị cầm quyền ở quốc gia đó xác định quan điểm, chiến lược, chủ
trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.
- Nhà nước có trách nhiệm triển khai thực hiện quan điểm, chiến lược,
chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH trong cả nước và thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về thực hiện CBXH.
46
- Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội ở nước
đó, tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để thực
hiện các nội dung của CBXH.
Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc thực hiện CBXH:
Việc thực hiện CBXH do nhiều nhân tố tác động, trong đó phụ thuộc chặt
chẽ vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất (thông qua trình độ phát
triển kinh tế), vào chế độ chính trị, vào các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc và tính chất của thời đại.
- Trình độ phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế của một nước là
nhân tố đặc biệt quan trọng để thực hiện CBXH. Kinh tế phát triển tạo tiền đề vật
chất cần thiết cho việc đảm bảo thực hiện tốt các chính sách CBXH. Không thể
có CBXH trên cơ sở một nền kinh tế trì trệ, suy thoái. Kinh tế phát triển, nhà
nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề: xóa đói, giảm
nghèo, tạo thêm công ăn việc làm, đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa... Tuy
nhiên, thực tế nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế tăng trưởng cao nhưng
nghèo đói, bất công xã hội vẫn gia tăng. Bản thân sự tăng trưởng kinh tế chưa
hẳn đã quyết định CBXH được thực hiện, mà vấn đề có ý nghĩa quyết định đó là
mục đích phát triển kinh tế của một nước. Nếu mục đích của sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế là vì sự phát triển của đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của mọi người dân, thì CBXH mới được thực hiện theo đúng nghĩa của nó. Còn
nếu sự phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị cầm quyền thì
CBXH ở những nước đó tuy được thực hiện ở mức độ nhất định, nhưng chủ yếu
nhằm bảo đảm ổn định xã hội, duy trì vị trí của giới cầm quyền. Do đó kết hợp
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH là một trong những yêu cầu hàng
đầu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay.
- Chế độ chính trị, đặc biệt là bản chất của giai cấp cầm quyền và của nhà
nước ở mỗi nước chi phối, quy định CBXH và việc thực hiện CBXH ở nước đó.
Quan điểm về CBXH và chủ trương, giải pháp thực hiện CBXH ở những nước
ấy là của giai cấp cầm quyền, được thực hiện chủ yếu thông qua nhà nước của
họ. Ở các nước tư bản giai cấp tư sản cầm quyền, chính đảng và nhà nước tư sản
chi phối và quyết định việc thực hiện CBXH theo quan điểm và lợi ích của giai
cấp tư sản, chủ yếu vì sự cầm quyền và giàu có của giai cấp tư sản. Điều này đã
cản trở lớn việc thực hiện CBXH ở các nước đó. Chế độ XHCN với tính ưu việt
của nó, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình và
47
chấp hành, CBXH có nhiều thuận lợi để thực hiện ngày càng tốt hơn trong các
lĩnh vực đời sống xã hội và ở các địa phương.
- Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Văn hóa là tập hợp những
tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi
người, cộng đồng - đó là yếu tố tinh thần trong đời sống con người. Mỗi quốc
gia, dân tộc có nền văn hóa mang bản sắc riêng và có một giá trị riêng độc đáo.
Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là khát vọng hướng tới tính chân, thiện, mỹ,
xây dựng xã hội công bằng, nhân văn và văn minh. Văn hoá chi phối, định
hướng giá trị lẽ sống, lý tưởng sống của mỗi người dân trong xã hội. Các giá trị
văn hoá và truyền thống lịch sử dân tộc của mỗi nước tác động và là một trong
những động lực của sự phát triển của người dân và xã hội, hướng tới xã hội tươi
đẹp, công bằng, nhân ái, văn minh... chi phối mạnh mẽ việc thực hiện CBXH.
Ngược lại, những khía cạnh của văn hóa và truyền thống lạc hậu lại kìm hãm con
người tiếp nhận và phát triển những cái mới, họ bằng lòng với hiện tại lại chi
phối và hạn chế đáng kể việc thực CBXH.
- Tính chất của thời đại. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa, kinh tế tri thức
một mặt tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tốt hơn CBXH.
Tuy nhiên, mặt trái của nó tác động rất lớn đến các nước chậm và đang phát triển
làm cho khoảng cách thu nhập và mức sống giữa người giàu và người nghèo
ngày càng tăng lên, gây khó khăn, phức tạp cho việc thực hiện CBXH. Điều này
đòi hỏi mỗi quốc gia cần có những điều chỉnh vừa đảm bào thực hiện CBXH cho
người dân của nước mình, vừa phì hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.
2.2. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
2.2.1. Quan niệm của triết học Mác về phát triển con người
Phát triển ngày càng toàn diện con người là mục tiêu và lý tưởng cao cả
của nhân loại. Tùy theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử, cũng như xuất phát
từ địa vị xã hội và lập trường tư tưởng khác nhau, các nhà tư tưởng trong lịch sử
triết học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về PTCN. Tuy nhiên, chỉ đến
triết học Mác, vấn đề con người và PTCN mới được xem xét một cách hệ thống,
toàn diện, khoa học. Trên cơ sở phê phán những hạn chế của các nhà triết học đi
trước khi xem xét vấn đề con người, triết học Mác không chỉ đưa ra hệ thống lý
luận đúng đắn về bản chất của thế giới và bản chất con người, mà còn chỉ ra con
đường để PTCN một cách khoa học, đúng đắn.
48
Thứ nhất, phát triển con người theo quan niệm của triết học Mác là sự
phát triển các mặt, các yếu tố cấu thành nên con người.
Xem xét một cách hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác về con
người, có thể thấy, các ông luôn coi con người là một thực thể phức tạp của mối
quan hệ thống nhất giữa mặt tự nhiên với mặt xã hội, giữa bản chất với tồn tại
của nó - con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Nếu như mặt xã hội là nói
về thế giới tinh thần bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và
vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,… thì mặt sinh học của con
người thể hiện ra trong các hiện tượng: sinh lý học, di truyền học, các quá trình
thần kinh và một số quá trình khác của cơ thể con người… Mỗi mặt riêng rẽ trên
không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh thể của nó. Ở đây, mặt
sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con
người. Do đó, khi xem xét PTCN phải chú ý đến tất cả các mặt, các yếu tố cấu
thành nên con người.
Thứ hai, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác gắn liền
với sự phát triển kinh tế - xã hội, thông qua lao động sản xuất.
Đứng trên lập trường duy vật lịch sử, triết học Mác đã coi tiến trình phát
triển lịch sử loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
và khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội - con người và những công cụ lao động
do con người sáng tạo ra. Trình độ sản xuất càng cao thì con người càng có điều
kiện để thoả mãn những nhu cầu vật chất của mình và do đó, làm phong phú
thêm đời sống xã hội, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.
Thông qua đó, con người tự phát triển mình, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Con người trong quan niệm của triết học Mác không chỉ là chủ thể của
hoạt động sản xuất, là yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất
của xã hội mà còn là chủ thể hoạt động của lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử. Xã
hội, dưới bất cứ hình thức nào đều là “sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người” [98, tr.657] và “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con
người theo đuổi mục đích của bản thân mình” [91, tr.141]. Mặt khác, con người
không chỉ sáng tạo ra lịch sử, mà con người còn là động lực cơ bản nhất cho sự
phát triển của lịch sử. Tiến trình phát triển lịch sử của con người, của nhân loại
chính là quá trình giải quyết các mâu thuẫn trong tiến trình vận động của nó và
chủ thể giải quyết các mâu thuẫn đó chính là con người. Con người với tư cách
49
vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội; vừa là mục đích vừa là động lực của
sự phát triển xã hội. Do vậy, sự phát triển của con người luôn gắn liền với sự
phát triển xã hội.
Thứ ba, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác là sự giải
phóng con người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa.
Xuất phát từ thực tiễn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã chỉ rõ
thành tựu cơ bản của chủ nghĩa tư bản là tạo ra tiền đề thực tiễn cho sự PTCN
nhưng mặt trái của nó là dẫn tới sự tha hóa của con người. Theo C.Mác, đến xã
hội tư bản chủ nghĩa thì hiện tượng tha hóa là gay gắt nhất và phổ biến nhất. Nó
là một quá trình khách quan và biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. C.Mác quy toàn bộ các hình thức tha hóa ở lĩnh vực chính trị, tinh thần về
nền tảng của nó là tha hóa trong lĩnh vực kinh tế, với biểu hiện tập trung là tha
hóa lao động. Sự tha hóa lao động dẫn đến sự tha hóa bản chất con người, các
quan hệ xã hội trở lại thống trị con người. Kết quả của sự tha hóa là làm cho con
người trở thành xa lạ với con người và xa lạ với bản chất loài của mình: Công
nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng
nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản
phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh tạo ra
càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng
hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu; công việc của anh ta làm càng
phức tạp thì bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới
tự nhiên [99, tr.131].
Với tầng lớp tư sản tình hình cũng không sáng sủa hơn. Bởi ông chủ thực
sự của xã hội tư sản là tiền. Vì mục đích cao nhất là càng kiếm được nhiều tiền
càng tốt, là đạt được lợi nhuận tối đa bằng mọi giá mà nhà tư bản sẵn sàng chà
đạp thô bạo lên mọi luật lệ và cả nhân phẩm của con người, sẵn sàng hy sinh mọi
niềm vui, hạnh phúc chân chính của con người.
Như vậy, ngay cả khi lực lượng sản xuất có đạt đến trình độ phát triển cao
nhưng nếu như quan hệ giữa người và người vẫn là quan hệ bóc lột, bất công, bất
bình đẳng thì sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn mới chỉ dừng lại ở sự gia
tăng và ngày càng hoàn thiện của TLSX chứ vẫn chưa phải là sự phát triển của
con người. Do đó, PTCN trong quan niệm của triết học Mác là sự giải phóng con
người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa do tình trạng bóc lột và phân công
lao động mà chủ nghĩa tư bản mang lại.
50
Thứ tư, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác là sự phát
triển tự do và làm chủ.
Triết học Mác đã khẳng định, mỗi bước tiến của nền văn minh nhân loại
lại là một bước con người tiến tới tự do nhiều hơn. Tự do là năng lực hành động
khi nhận thức được cái tất yếu. Ăngghen chỉ rõ: “Tự do không phải là ở sự độc
lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được
những quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc
những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất
định” [95, tr.163].
Sự tự do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối
công bằng của cải vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội,
được phát triển và vận dụng các năng lực của mình. Thông qua tự do, con người
được hoạt động theo sở thích, con người có thể tìm thấy sự hứng thú và phát huy
tốt yếu tố nội lực, hiệu quả trong hoạt động sẽ được nâng cao và tính tích cực
của hoạt động đó sẽ đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội. Các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác đã phác họa mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai là
một chế độ xã hội công bằng, văn minh, con người được tự do phát triển tiềm năng
của mình.
Đồng thời, tự do gắn liền với làm chủ. Trên cơ sở nhận thức được cái tất
yếu con người có thể làm cho bản thân mình tồn tại, phát triển phù hợp với cái
tất yếu đó, hơn nữa, con người tự do khi con người có thể chi phối được thế giới
bên ngoài và chính bản thân mình. “Con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội
của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình,
trở thành người tự do” [94, tr.333].
Triết học Mác cũng chỉ ra, chỉ khi các cá nhân riêng biệt liên kết thành cộng
đồng thực sự, họ mới có được sự phát triển toàn diện mọi năng lực, phẩm chất của
mình: “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân con người mới có được những phương tiện
để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng
đồng, mới có thể có tự do cá nhân” [92, tr.108]. Đó cũng là lúc con người hoàn thành
nhiệm vụ mà C.Mác đã nêu, làm sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển
hoàn toàn tự do và vận dụng mọi khả năng và sức lực của mình để tạo ra những con
người hoàn thiện.
Để PTCN toàn diện, theo triết học Mác, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa
lao động sản xuất với giáo dục về thể chất và trí tuệ: “kết hợp lao động sản xuất
51
với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi
đó không chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn
là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra con người phát triển toàn diện nữa”
[97, tr.688]. Cùng với đó là phát triển văn hóa bởi “mỗi bước tiến lên trên con
đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [95, tr.164].
Triết học Mác ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về
con người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Với luận điểm
coi con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử; con người là động lực
và cũng là mục đích của sự phát triển xã hội, con người đã bằng hoạt động thực
tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản thân mình và thông qua đó làm
cho xã hội phát triển. PTCN là giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, khỏi
sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó,
con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã hội của
mình. Để con người được phát triển toàn diện cần xây dựng một xã hội công
bằng - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng về PTCN của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp luận trong
việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về PTCN, cũng như xem xét,
đánh giá các vấn đề thực tiễn của PTCN trong giai đoạn hiện nay.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con người
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
Lý luận của chủ nghĩa Mác về PTCN đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận
dụng sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với quan niệm con người là
một thực thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố kết hợp chặt chẽ với nhau, Hồ Chí
Minh cho rằng, muốn PTCN thì phải xây dựng và phát triển các bộ phận cấu
thành nên chỉnh thể đó. Trước hết là vấn đề thể lực, bởi: “Giữ gìn dân chủ, xây
dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành
công” [101, tr.212]. Theo Người, hoạt động của con người muốn có kết quả tốt
không chỉ phụ thuộc vào tri thức, phẩm chất, kỹ thuật, chuyên môn mà còn phụ
thuộc vào sức khỏe của con người. Thể lực là cơ sở, tiền đề cơ bản cho sự tồn tại
và phát triển của con người. Chỉ trên một cơ thể khỏe mạnh thì các phẩm chất,
năng lực của con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển. Cùng với việc
PTCN về thể lực, Hồ Chí Minh đặc biệt còn quan tâm PTCN Việt Nam về mặt
trí lực. Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải
52
có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật. Cần phải học l ý
luận Mác - Lênin kết hợp đấu tranh với công tác hàng ngày”… “Học đi đôi với
hành” [106, tr.306]. Nếu trí lực có ý nghĩa quyết định “trình độ người”, thì tâm
lực là cái “gốc” làm nên nhân cách toàn vẹn của con người. Do đó, Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng và giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, đó là một cấu trúc mang tính hệ thống rất chặt chẽ mà trong
đó, sự phát triển của bất kỳ thành tố nào cũng bị chi phối và có sự tác động của
của các thành tố khác ở những mức độ khác nhau. Do đó, PTCN là phải chú ý
đến tất cả các mặt trong đời sống của con người, từ đời sống vật chất đến đời
sống tinh thần.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn PTCN toàn diện cả về thể lực, trí lực
và tâm lực, thì nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội vững chắc phù hợp. Trong đó, nhân tố kinh tế đóng vai trò nền tảng, có ý
nghĩa quyết định: “Để sống còn, loài người lại phải sản xuất mới có ăn, có mặc”
[105, tr.282], “Muốn ăn no, mặc ấm, mọi người phải ra sức tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh kinh tế nước nhà tiến lên” [104, tr.396]. Chỉ có
xây dựng và tạo lập được nền một kinh tế phát triển mạnh mới làm cho “đời
sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn” [102,
tr.95], thúc đẩy con người vươn lên về mọi mặt, hoàn thiện và nâng cao phẩm
chất, năng lực của mình; tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng cho các lĩnh vực
khác: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa thông tin... phát triển - những lĩnh vực có
tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển mọi mặt của con người.
Trong quá trình xây dựng và PTCN, Hồ Chí Minh hết sức đề cao sự tự
giác, vươn lên của cá nhân. Sự PTCN luôn bị chi phối bởi nhân tố chủ quan và
khách quan. Trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con người,
nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố
chủ quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá
nhân. Do đó, cần phải luôn giáo dục ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường,
vươn lên của con người: “phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi
trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật” [106, tr.295]. Để động viên, khuyến khích
con người tự giác vươn lên đúng hướng, theo Hồ Chí Minh, xã hội phải đánh giá
đúng khả năng, năng lực của các cá nhân, tạo điều kiện cho họ cống hiến và
hưởng thụ, phù hợp với sự đóng góp của họ cho xã hội, cần phải luôn tôn trọng
lợi ích chính đáng của cá nhân. Tức là phải đảm bảo CBXH.
53
Hồ Chí Minh coi thực hiện CBXH là một động lực rất quan trọng để
PTCN. Chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự con người mới có được cơ
hội và điều kiện phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội dung thực hiện
CBXH trên những lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; cũng như cách
thức để thực hiện CBXH (tiết 2.1).
Như vậy, PTCN trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phát triển tất cả các mặt, các
yếu tố cấu thành nên con người. Muốn đưa sự nghiệp xây dựng và PTCN ở nước ta đi
đến thành công nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
vững chắc, phù hợp. PTCN Việt Nam theo Hồ Chí Minh chủ yếu thông qua quá trình
hoạt động của họ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thông qua việc giáo dục, đào
tạo một cách toàn diện cũng như sự nỗ lực, tự giác vươn lên của các cá nhân. Thực
hiện CBXH là một trong những động lực quan trọng để CBXH. Thực tiễn cho thấy, đi
theo những phương hướng mà Hồ Chí Minh đã vạch ra, chúng ta đã đào tạo, phát triển
được những con người mới XHCN vừa hồng vừa chuyên, đã đưa dân tộc vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi to lớn đem lại tự do, hạnh
phúc cho toàn dân tộc.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênnin, kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về PTCN, suốt những năm lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn quý
nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, việc gì có hại cho dân, ta phải
hết sức tránh đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi là nhiệm vụ trọng
tâm. Với tư cách là Đảng cầm quyền, ngay từ đầu, mọi chủ trương, chính sách,
đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và PTCN Việt Nam
toàn diện.
Trước đổi mới, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau
nên vấn đề con người, PTCN chưa được Đảng ta quan tâm đúng mức, chưa có
những chính sách thích hợp để PTCN. Đại hội VI của Đảng được coi là bước
ngoặt quan trọng, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi khẳng định vai trò quan
trọng của nhân tố con người trong toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu
của phát triển vì con người được khẳng định trong khẩu hiệu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Vấn đề con người và PTCN
được xem xét một cách toàn diện, cụ thể và thực chất hơn, gắn chặt chẽ hơn với
54
sự phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu hướng của thời đại. Chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại cho mỗi cá nhân nhiều cơ hội hơn
trong phát triển và tạo ra môi trường khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của
mỗi cá nhân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định:
Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng
về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời tinh thần, giữa đáp ứng
các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập
thể và cộng đồng xã hội [35, tr.13].
Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn của Đảng về vị
trí trung tâm của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Để PTCN các chính
sách xã hội cần đảm bảo công bằng, bình đẳng, quan tâm đến lợi ích cá nhân.
Quan điểm của Đảng về PTCN tiếp tục được cụ thể hóa trong các Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc tiếp theo. Con người được coi là “chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” [44, tr.100] và xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện “phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát
triển”[46, tr.126]. Tiếp thu những yếu tố tích cực trong quan điểm về PTCN trên
thế giới, đặc biệt là quan niệm của Liên hợp quốc về bộ tiêu chí đánh giá sự
PTCN, nội dung cụ thể của con người Việt Nam phát triển toàn diện ngày càng
được chỉ ra rõ ràng hơn cả về mặt định tính và về mặt định lượng, cả mục tiêu
chung cũng như các mục tiêu cụ thể. Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế phải “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng
sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ tổ quốc” [46, tr.29]. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: “con
người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức
công dân, tuân thủ pháp luật” [44, tr.105].
Để có thể PTCN toàn diện ngay từ bây giờ phải chăm lo đến tất cả các
mặt liên quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời sống tinh
55
thần; từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công
bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính sách
xã hội phải “đúng đắn, công bằng vì con người”... “Đảm bảo công bằng, bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân” [44, tr.79].
Có thể thấy, quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá
trình đổi mới là phát triển vì con người và do con người. Con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển và cũng là chủ thể của quá trình
phát triển. Mọi người dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong quá trình
phát triển. PTCN Việt Nam toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực với những
đức tính cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Do đó, cần chú
trọng phát triển tất cả các yếu tố: kinh tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, chăm sóc
sức khỏe, bảo vệ môi trường… trên cơ sở công bằng, bình đẳng, góp phần mở
rộng cơ hội và nâng cao điều kiện cho con người phát triển. Quan điểm về PTCN
của Đảng ta là rất đầy đủ, toàn diện, bao quát, khoa học, phù hợp với điều kiện
Việt Nam.
2.2.3. Quan điểm hiện đại về phát triển con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan
niệm về con người, nhất là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Lần đầu tiên,
con người được coi là điểm xuất phát và sự giải phóng, PTCN là mục tiêu cao nhất
mà nhân loại cần đạt tới. Để biến những lý tưởng và ước mơ đầy nhân văn của học
thuyết Mác thành hiện thực, các cuộc cách mạng XHCN đã nổ ra, mở đầu bằng thắng
lợi của cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 ở nước Nga. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà việc xây dựng xã hội mới theo lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa đã bị ngừng trệ ở nhiều nước Đông Âu và Liên - xô từ những
năm cuối thế kỷ XX.
Quan điểm coi con người là động vật kinh tế khá phổ biến vào những năm
đầu của thế kỷ XX. Phần lớn các nước theo mô hình tăng trưởng chỉ lo tìm cách
tăng thu nhập và cho rằng, tăng trưởng kinh tế có thể đem lại sự phồn vinh, hạnh
phúc cho loài người. Với cách xem xét đó, con người vô hình chung chỉ được coi
là một yếu tố của sản xuất, một loại “vốn”, bên cạnh các loại vốn khác như “vốn
tài nguyên”, “vốn công nghệ”, “vốn tài chính”...
Sau một thời gian tập trung vào đường lối tăng trưởng, nhất là từ năm
1970, nhiều nước cùng với cơ quan Liên hợp quốc đã chuyển sang đường lối
phát triển: phát triển kinh tế hài hòa với phát triển xã hội, tập trung quan tâm
56
nhiều tới con người. Từ cuối những năm 1980, khái niệm PTCN đã trở thành
trung tâm của cuộc tranh luận về phát triển toàn cầu. Mahbub El Haq và A. Sen
là hai nhà khoa học đã đưa ra lý thuyết PTCN. Theo họ, mục tiêu của phát triển
không chỉ là sự tăng trưởng kinh tế mà là việc tạo điều kiện để con người làm việc
nhiều hơn, sống tốt hơn và lâu hơn, tránh được bệnh tật và nắm được chìa khóa của
kho tàng tri thức nhân loại. Do đó, quá trình phát triển trở thành quá trình phát triển
năng lực con người.
Theo A. Sen, năng lực được hiểu là những gì mà một người có thể làm. Từ
cách tiếp cận năng lực A. Sen cho rằng, sự lựa chọn của con người chỉ xảy ra khi
có sự xuất hiện cơ hội lựa chọn và con người có năng lực lựa chọn. Sự xuất hiện
cơ hội lựa chọn phụ thuộc vào môi trường, thể chế xã hội tạo điều kiện cho sự
xuất hiện cơ hội lựa chọn, đồng thời phụ thuộc vào năng lực của chủ thể con
người. Con người càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Xã hội càng
phát triển thì càng có điều kiện tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn cho con người, trong
đó, năng lực là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vậy, PTCN theo A. Sen đó chính là
phát triển năng lực của con người.
Để đánh giá sự PTCN Mahbub El Haq đã đưa ra bốn thành tố có bản, đó
là: công bằng, bền vững, hiệu quả và quyền. Trong đó chiều cạnh công bằng
được hiểu là, nếu phát triển được coi là lựa chọn cho con người thì con người
phải được hưởng một cách công bằng những cơ hội đó. Phát triển mà thiếu đi sự
công bằng có nghĩa là hạn chế sự lựa chọn của rất nhiều người trong xã hội.
Công bằng ở đây được hiểu là công bằng trong cơ hội chứ không nhất thiết phải
công bằng về kết quả. Do đó, công bằng về cơ hội không phải lúc nào cũng dẫn
tới sự lựa chọn giống nhau hay kết quả giống nhau. Công bằng trong tiếp cận cơ
hội đòi hỏi sự tái cấu trúc căn bản quyền lực trong các xã hội như phân phối
TLSX, phân phối thu nhập… công bằng. Triết lý PTCN này được đánh giá cao
bởi giả định rằng tất cả mọi người đều được tạo điều kiện để phát triển năng lực
của họ một cách tối đa và đưa các năng lực đó vào sử dụng tốt nhất trong các
lĩnh vực của cuộc sống.
Quan điểm PTCN của Mahbub El Haq và A. Sen đã được UNDP cụ thể
hóa bằng các Báo cáo phát triển con người. Có thể nói, thuật ngữ “phát triển con
người” chính thức được biết đến và sử dụng rộng rãi kể từ năm 1990 khi Báo cáo
đầu tiên về phát PTCN của UNDP ra đời. Cùng với những biến động của thực
tiễn cũng như là sự thay đổi trong tư duy của con người, quan niệm của UNDP
57
về PTCN cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp. Hiện nay, theo quan điểm của
Chương trình này,
Phát triển con người là sự mở rộng tự do của con người để sống cuộc
sống trường thọ, khỏe mạnh và sáng tạo; nhằm đạt được các mục tiêu
khác mà họ cho là có giá trị; và để tham gia tích cực vào việc kiến tạo
một sự phát triển công bằng, bền vững trong một hành tinh chung.
Con người vừa là mục tiêu vừa là người hưởng lợi sự phát triển con
người, với tư cách cá nhân và cả trong các nhóm [86, tr.35].
Phát triển con người có hai chiều cạnh quan trọng là: Mở rộng quyền tự
do lựa chọn và nâng cao năng lực của con người. PTCN chỉ có thể đạt được khi
con người được tự do lựa chọn điều mà họ mong muốn, ví dụ như được sống
khỏe mạnh, được nuôi dưỡng tốt, được giáo dục tốt, tham gia vào đời sống cộng
đồng v.v.. Mở rộng tự do cá nhân cũng góp phần gia tăng cơ hội lựa chọn của
con người. Tuy nhiên, mở rộng các cơ hội lựa chọn của con người không có
nghĩa là càng nhiều sự lựa chọn thì càng tốt. A. Sen đã từng cảnh báo, đôi khi
nhiều tự do lựa chọn hơn có thể làm cho người ta băn khoăn, khổ sở hơn. Do đó,
nâng cao chất lượng của các lựa chọn quan trọng hơn việc gia tăng số lượng các
lựa chọn. Trong đó, con người càng có năng lực thì cơ hội lựa chọn càng nhiều
và khả năng thực hiện cơ hội càng cao. A. Sen đã đưa ra 5 loại quyền tự do của
con người: Các quyền tự do về chính trị; các quyền tự do về kinh tế; các cơ hội
về mặt xã hội; các đảm bảo về tính minh bạch, công khai; con người được bảo vệ
an toàn. Tất cả các quyền tự do này đều góp phần tăng cường năng lực con
người. Có thể nói, PTCN là làm cho khả năng của mỗi con người được phát huy
đầy đủ, tạo điều kiện cho mỗi con người có thể tìm ra một cuộc sống lao động,
sáng tạo phù hợp với nhu cầu và mong muốn của chính bản thân. Việc mở rộng
thang lựa chọn để mỗi con người có khả năng sống cuộc sống có giá trị đối với
bản thân mới là phát triển.
Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc đã xây dựng một khái niệm
mới về PTCN khá chi tiết, trong đó, con người được coi là thước đo đánh giá
sự tiến bộ xã hội, là mục tiêu tối thượng mà mỗi quốc gia, cộng đồng hướng
tới. PTCN là mở rộng quyền tự do của con người, tạo điều kiện cho mỗi cá
nhân được chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, xã hội, phát huy mọi năng
lực của mình. Để nâng cao năng lực cần tạo điều kiện để con người bình đẳng
58
hơn về cơ hội và hưởng lợi công bằng thành quả của sự tham gia đó. PTCN là
một quá trình do người dân thực hiện theo nguyên tắc PTCN là sự nghiệp của
con người, do con người và vì con người, trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ
đạo cho sự phát triển bền vững. Quan điểm của UNDP về PTCN đã được lượng
hóa bằng các chỉ số HDI với ba chỉ số quan trọng: thu nhập bình quân đầu
người, tuổi thọ và giáo dục. Đây là ba chỉ số đặc trưng cho các phương diện cơ
bản của con người. Khái niệm PTCN của UNDP chẳng những không mâu
thuẫn mà tựa hồ đang dựa trên tinh thần cơ bản của triết học Mác về PTCN.
PTCN đã trở thành tư tưởng của thời đại, thành công cụ cơ bản để các quốc gia
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mình.
Có thể thấy, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, các quan điểm về
PTCN trong lịch sử triết học có những điểm khác nhau. Nhìn chung, các quan
điểm đều coi PTCN là sự nâng cao địa vị của con người trong các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa; là giải phóng con người khỏi quan hệ bất công và
bất bình đẳng. Cùng với các giá trị khác như tự do, dân chủ thì CBXH được coi
là giá trị cốt lõi định hướng cho sự PTCN.
Từ toàn bộ quan điểm của triết học Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm hiện đại về PTCN tác giả luận
án rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, PTCN được hiểu là làm tăng giá trị của con người trên các mặt
tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế, kỹ thuật, nghệ thuật, tri thức, tình cảm xã
hội, pháp lý, v.v.. Sự gia tăng ở đây không hiểu đơn thuần là sự thêm vào số
lượng các tiêu chí, mà là sự biến đổi số lượng và chất lượng con người trên các
mặt, theo các tiêu chí ngày một rộng khắp hơn, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, với
trình độ, mức độ, quy mô ngày một to lớn hơn trong xã hội để đáp ứng yêu cầu
của thời đại.
Thứ hai, cùng với việc gia tăng các giá trị trong con người, PTCN là nâng
cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực là những khả năng của
chủ thể hoạt động được sử dụng để đáp ứng những đòi hỏi của công việc cũng
như cuộc sống đặt ra. Khi nói đến năng lực phải nói đến từng con người cụ thể,
đó là người đã trưởng thành về mặt xã hội, là một cá nhân, một chủ thể mang
nhân cách. Con người có năng lực mới có khả năng tham gia đầy đủ vào cuộc
sống, mới có thể tiến hành các hoạt động năng suất và sáng tạo. Nâng cao năng
59
lực của con người là làm cho mỗi con người ngày càng có thể lực tốt, có trí lực
tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, có thể thực hiện được các chức năng xã hội mà
con người phải đảm nhận.
Thứ ba, PTCN phải hướng tới sự phát triển mang tính chất toàn diện. Tính
toàn diện trước hết là hướng tới sự hoàn thiện trên cả ba phương diện cấu thành
nên con người: thể lực, trí lực và tâm lực. Thể lực đóng vai trò nền tảng ban đầu
cho sự PTCN, còn trí lực và tâm lực là yếu tố đóng vai trò cơ bản và quyết định
nhất đối với chất lượng con người. Để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện,
PTCN phải được xem xét một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… trong mối liên hệ và tác
động qua lại giữa các yếu tố này.
Thứ tư, PTCN không chỉ được hiểu là sự phát triển các mặt của cá nhân
con người, mà còn phải được hiểu là sự phát triển các mặt đó ở những tầng
lớp người, cộng đồng người, những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó,
cần chú ý đến những nhóm người yếu thế, những lớp người dễ bị tổn thương
như: người nghèo, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, cư dân vùng miền
núi, hải đảo…, tạo điều kiện để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của đời sống
như: ăn, ở mặc, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục cơ bản để họ có thể hòa
nhập vào cộng đồng xã hội một cách tự giác và bình đẳng với các lớp người
khác trong xã hội. Mặt khác, phải quan tâm, chăm lo PTCN ngay từ những
năm đầu đời. Điều này đỏi hỏi phải hướng tới việc tạo ra sự công bằng về cơ
hội phát triển cho tất cả mọi người, đồng thời cần quan tâm đến việc phân bổ
nguồn lực công bằng hơn trong toàn bộ dân cư.
Tóm lại, phát triển con người là kết quả vận động và phát triển xã hội bị
quy định bởi tổng hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt lõi là các quan hệ xã hội
công bằng làm định hướng chung của các giá trị của xã hội trong những điều
kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của các xã hội cụ thể. Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ
các điều kiện để con người trở thành chủ thể toàn vẹn trong chỉnh thể phong phú
của năng lực thể chất và năng lực tinh thần, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
sự phát triển xã hội hiện đại.
Để đánh giá sự PTCN thực ra phải cần rất nhiều tiêu chí, bởi sự PTCN là
sự phát triển, nâng cao về mọi mặt của đời sống con người, nó do nhiều yếu tố
60
tác động. Trong phạm vi luận án, nội dung của khái niệm PTCN được tác giả
xem xét trên ba mặt cơ bản làm nên con người phát triển toàn diện: thể lực, trí
lực và tâm lực. PTCN ở Việt Nam hiện nay chính là làm cho ba mặt đó trong
con người có điều kiện được nảy sinh, được hình thành, được thể hiện và không
ngừng phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự phát triển các mặt đó trong con
người Việt Nam hiện nay một mặt phải trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực
của con người Việt Nam truyền thống, đồng thời, phải phù hợp với yêu cầu
chung của thời đại. Cụ thể:
Sự phát triển về mặt thể lực thể hiện ở cân nặng, chiều cao, sức khỏe và
tuổi thọ. Trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi con người phải có sức bền và sức dẻo
dai của cơ bắp, khả năng lao động và làm việc ở nhịp độ cao, chịu áp lực tốt, linh
hoạt, nhanh nhạy, có tâm sinh lý tốt. Do đó, cần phải tạo điều kiện để nâng cao
về chiều cao, cân nặng, sức mạnh cơ bắp và sức mạnh tinh thần. Điều này liên
quan đến việc phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập; xóa đói, giảm nghèo; cải
thiện môi trường sống; nâng cao điều kiện dinh dưỡng; tăng cường các hoạt
động lành mạnh (văn hóa, giải trí, thể dục thể thao); chăm lo công tác y tế, chăm
sóc sức khỏe người dân.
Sự PTCN về mặt trí lực thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn,
khả năng nhận thức, hiểu biết, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động, tư duy
sáng tạo... Ở phương diện này, chúng ta cần phải không ngừng đẩy mạnh các
hoạt động giáo dục, đào tạo, tạo điều kiện để mỗi người dân đều có cơ hội học
tập, nâng cao học vấn, kiến thức.
Sự PTCN về mặt tâm lực thể hiện thông qua lý tưởng, niềm tin, đạo đức,
lối sống, ý chí vươn lên trong cuộc sống, ý thức trách nhiệm với bản thân và
cộng đồng, quan điểm và hành vi pháp luật, quan điểm và hành vi thẩm mỹ... Sự
phát triển tâm lực của con người liên quan đến các yếu tố văn hóa, chính trị: xây
dựng một nền chính trị ổn định, môi trường sống lành mạnh; xây dựng các chuẩn
mực và giá trị đạo đức mới phù hợp với xã hội hiện đại; vấn đề thông tin và
truyền thông...
Như vậy, PTCN là sự gia tăng các giá trị trong con người trên cả ba mặt:
thể lực, trí lực và tâm lực. Sự PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát triển tự thân
mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, có những nhân tố trực tiếp, có những
61
nhân tố tiếp, có những nhân tố bên trong, có những nhân tố bên ngoài, có những
nhân tố của quá khứ, cũng có nhân tố của thực tại. Trong đó, kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội là những thành tố cơ bản tác động trực tiếp đến sự PTCN. PTCN
như đã nói đến ở trên không phải chỉ là sự phát triển các mặt của cá nhân con
người, mà là sự phát triển các mặt đó ở những tầng lớp người, cộng đồng người,
những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó, thực hiện CBXH là một trong
những yêu cầu quan trọng hàng đầu để đảm bảo cho mọi người dân của của quốc
gia đó đều có cơ hội và điều kiện để phát triển, cũng như được được hưởng thụ
những thành quả của quá trình phát triển đất nước.
2.3. VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI
Được sống đầy đủ về vật chất, tinh thần và được đối xử công bằng là khát
vọng từ xa xưa đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử loài người. Con người
phải đấu tranh không ngừng với thiên nhiên, với mọi chế độ áp bức, bóc lột, hy
sinh bao nhiêu xương máu cũng vì mục đích cao cả nhưng rất thiết thực, bình dị
đó. Lịch sử đã chứng minh, chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự con
người mới có thể phát triển theo đúng nghĩa của bản chất người. Ngày nay, mỗi
con người vẫn không ngừng đấu tranh để vươn tới một xã hội ngày càng công
bằng hơn. Thực hiện CBXH đối với việc PTCN không chỉ là tất yếu về mặt lý
luận, mà trên thực tế còn là một vấn đề thực sự cấp bách đối với thực tiễn PTCN ở
Việt Nam hiện nay. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã
hội vì mục tiêu phát triển con người” [42, tr.77-78]; “Chính sách xã hội đúng đắn,
công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [43, tr.79].
Trên cơ sở các khái niệm “công bằng xã hội”, “thực hiện công bằng xã
hội”, “phát triển con người” có thể hiểu, thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt
Nam hiện nay là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực
lượng, tổ chức xã hội và người dân Việt Nam theo chức năng, vị trí, vai trò của
mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong
đời sống xã hội chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, từ
62
đó tạo động lực, cơ hội và điều kiện cho sự phát triển con người, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.
Ở nước ta, tính chất của phương thức sản xuất là thời kỳ quá độ đi lên
CNXH, chúng ta đang tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, do đó, cần xác định chủ thể, phương thức, nội dung thực hiện CBXH
cho phù hợp.
Chủ thể chính thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng cộng
sản Việt Nam; Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các giai cấp, các
tầng lớp xã hội và các cá nhân, người lao động...
Phương thức thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:
- Đảng cộng sản Việt Nam xác định quan điểm, hoạch định các chủ
trương, chiến lược, mục tiêu, định hướng về thực hiện CBXH và lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện.
- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam triển khai thực hiện quan
điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về CBXH của Đảng bằng các chính
sách cụ thể của mình. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, giám sát việc thực
hiện CBXH trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời, bằng những công
cụ của mình để hạn chế những bất công, bất bình đẳng xã hội.
- Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản xuất
kinh doanh, các giai cấp, các tầng lớp xã hội và các các nhân, người lao động...
tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để thực hiện
các nội dung của CBXH trong các lĩnh vực cụ thể.
Xét ở mục tiêu phát triển là cho con người và vì con người, bởi vậy, nền
tảng cho việc thực hiện CBXH chính ở vai trò chủ thể của mỗi cá nhân con
người trong xã hội. Song, để đảm bảo thực hiện CBXH trong điều kiện ở nước ta
hiện nay thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng thông qua sự lãnh
đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự
hợp tác phối kết hợp nhịp nhàng của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
kinh tế, các giai cấp, các tầng lớp xã hội và cá nhân trên cơ sở của sự đồng thuận
của toàn xã hội.
63
Vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN có thể khái quát ở những nội
dung cơ bản sau: đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự PTCN; tạo cơ hội và điều
kiện cho sự PTCN về thể lực, trí lực và tâm lực; tạo môi trường chính trị - xã hội
ổn định cho sự PTCN.
2.3.1. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự
phát triển con người
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của kinh tế là giải
quyết mối quan hệ lợi ích giữa người với người trong sản xuất nhằm giải phóng,
phát triển sức sản xuất. Kinh tế là tính thứ nhất, là cái quyết định các quan hệ
khác. Do đó, phát triển kinh tế có vai trò quan trọng đối với PTCN.
Trước hết, tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện cần thiết đầu tiên để
khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu; để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc
sống cho con người. Tăng trưởng, phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để con
người tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao mức sống của
người dân.
Ở những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, GDP bình quân đầu
người ổn định ở mức cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể
lực, trí lực và tâm lực. Bởi vì, khi trình độ kinh tế phát triển cao con người có
điều kiện vật chất để cải thiện đời sống; đầu tư để phát triển thể lực, trí lực và
tâm lực; nhà nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề:
giáo dục, y tế, văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội. Sự phát triển kinh tế là
nền tảng vật chất để nhà nước giải quyết vấn đề con người nói chung và nguồn
lực con người nói riêng. Đến lượt nó, sự phát triển của nguồn lực con người lại
là điều kiện để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Ngược lại, nhân tố
kinh tế cũng là lực cản đối với sự phát triển của con người khi nền kinh tế trì trệ,
chậm phát triển, con người không có đủ những điều kiện vật chất để phát triển
toàn diện; hoặc khi mục tiêu phát triển kinh tế không phải vì con người và cho
con người.
Để phát triển kinh tế cần đến nhiều yếu tố, trong đó thực hiện CBXH đóng
vai trò như là động lực để phát triển kinh tế. Điều này có thể giải thích như sau:
Theo từ điển tiếng Việt, động lực là cái thúc đẩy, làm cho phát triển. Động
lực được hình thành bởi nhu cầu và lợi ích. Nhu cầu được hiểu là những đòi hỏi
64
của cá nhân, các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có những
điều kiện nhất định để tồn tại. Trong chuỗi nhân quả quy định hoạt động của con
người: hoàn cảnh bên ngoài - nhu cầu - lợi ích - mục đích (động cơ tư tưởng) -
hoạt động của con người - kết quả (làm thay đổi hoàn cảnh bên ngoài), nhu cầu
là khâu trung gian đầu tiên phản ánh và chuyển hóa những yêu cầu khách quan
bên ngoài thành động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy con người hành động. Nếu
nhu cầu không được thỏa mãn thì nhu cầu vẫn chỉ là nhu cầu. Nếu nhu cầu được
thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu sẽ đạt tới lợi ích. Lợi ích xét về mặt bản chất “chính
là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ
thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn nhu
cầu, đáp ứng lại nhu cầu” [136, tr.35]. Nhu cầu là cơ sở của lợi ích còn lợi ích là
sự thể hiện của nhu cầu.
Trong hoạt động, khi nhu cầu xuất hiện con người thường hướng vào việc
tìm kiếm cái thỏa mãn nhu cầu tức lợi ích. Khi “lợi ích ấy đã xuất hiện và đã
được tìm thấy, đã được nhận thức, thì nó trở thành mục tiêu hành động của con
người” [136, tr.37], thúc đẩy con người hành động nhằm giành lấy lợi ích để thỏa
mãn nhu cầu. Như vậy, lợi ích chính là một trong những động lực cực kỳ quan
trọng thúc đẩy con người hành động. Nó khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực
của con người và thông qua tính tích cực ấy mà thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Xã hội không chỉ đơn thuần là kết quả hoạt động riêng lẻ của mỗi cá nhân,
mà là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Do đó, lợi ích của
mỗi cá nhân bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ với lợi ích của các cá nhân
khác trong xã hội. Lợi ích của các cá nhân là không giống nhau. Vấn đề đặt ra,
cần phải tìm ra một công cụ để điều hòa giữa lợi ích riêng của các cá nhân trong
hoạt động chung của xã hội.
Thực chất của CBXH là giải quyết trên phương diện lợi ích. Thực hiện
CBXH đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa các thành viên trong xã hội theo
nguyên tắc phân phối lợi ích phù hợp giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ, giữa thưởng và phạt... Thực hiện CBXH đảm bảo mỗi cố gắng, mỗi
đóng góp đều được đánh giá một cách thỏa đáng, đảm bảo sự hài hòa giữa những
lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi lợi ích của người lao động được đảm bảo sẽ
65
kích thích tính năng động, sáng tạo của họ. Có CBXH, người lao động mới phát
huy hết nhiệt tình và khả năng lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao
động để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất lượng cao, thúc đẩy kinh tế
phát triển. Kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống của người lao động
(đời sống vật chất và lẫn đời sống tinh thần). Mặt khác, để nâng cao năng suất,
người lao động không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, tích cực học tập nâng cao tay
nghề, kỹ năng. Thông quá đó, bản thân người lao động cũng không ngừng phát
triển. Do đó, để phát huy được vai trò động lực của CBXH trước hết đòi hỏi phải
đảm bảo thực hiện CBXH trong phân phối (gọi tắt là thực hiện công bằng trong
phân phối). Vậy thế nào là CBXH trong phân phối?
Theo tác giả luận án, thực hiện CBXH trong phân phối có nghĩa là sự đối
xử ngang nhau giữa các chủ thể kinh tế (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cộng
đồng) trong việc phân chia, phân bổ đầu vào và đầu ra các nguồn lực kinh tế
trong xã hội trên cơ sở những quy định pháp luật chung của nhà nước.
Đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất): đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn, sự hỗ trợ từ chính sách..., thực hiện công bằng trong
phân phối có nghĩa là, các TLSX chủ yếu của xã hội do Nhà nước quản lý được
phân bổ cho mọi chủ thể kinh tế trong xã hội dựa trên hiệu quả sử dụng chúng.
Hiệu quả ở đây trước hết được hiểu là hiệu quả kinh tế - tức là lợi ích kinh tế mà
chủ thể kinh tế đó mang lại cho xã hội và bản thân. Sự đóng góp này dựa trên tỷ
lệ giữa đóng góp cho tổng sản phẩm quốc nội và những nguồn lực mà chủ thể
kinh tế đó được hưởng từ xã hội trong tương quan với các chủ thể kinh tế khác.
Điều đó có nghĩa, ai sử dụng TLSX có hiệu quả hơn, người đó sẽ được phân phối
nhiều TLSX hơn. Việc phân phối TLSX dựa trên hiệu quả kinh tế của việc sử
dụng nguồn TLSX sẽ buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng những TLSX được phân phối cũng như khai thác tối đa tiềm năng
của chúng để vừa đóng góp vào sự phát triển của xã hội, vừa được hưởng thành
quả của sự phát triển ấy tương xứng với đóng góp của mình. Đồng thời, phân
phối TLSX dựa trên hiệu quả kinh tế giúp các chủ thể kinh tế có cơ hội tiếp cận
bình đẳng hơn với các nguồn lực để phát triển. Mọi chủ thể đều có cơ hội như
nhau trong việc tham gia vào thị trường, tiếp cận nguồn lực, lựa chọn lĩnh vực
đầu tư. Các chủ thể hấp thụ một hay nhiều nguồn lực, sử dụng như thế nào tùy
thuộc vào khả năng riêng.
66
Nguyên tắc phân phối dựa trên hiệu quả kinh tế là công bằng, vì nó đã
đảm bảo sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, làm lành mạnh hóa môi
trường sản xuất kinh doanh, kích thích các chủ thể kinh tế không ngừng suy nghĩ
để sử dụng một cách hiệu quả nhất TLSX để phát triển sản xuất, đồng thời, hạn
chế sự lạm dụng đặc quyền, đặc lợi để lạm dụng nguồn lực phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, cần lưu ý, thực hiện công bằng trong phân phối TLSX bên cạnh
hiệu quả kinh tế còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là tất cả
những đóng góp phi vật chất, những cái thuộc về văn hóa, chính trị, xã hội mà chủ
thể kinh tế mang lại cho xã hội. Kinh tế phát triển nhưng lại làm nảy sinh các vấn
đề xã hội như: mất việc làm, phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội không đảm bảo,
môi trường hủy diệt... thì kết quả của sự phân phối đó chưa phải là công bằng,
thậm chí là sự bất công. Mặt khác, với các chủ thể kinh tế có xuất phát điểm bất
lợi hơn thì nhất thiết phải có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn vốn. Ở đây,
nhà nước phải thực hiện điều phối các nguồn lực một cách hợp lý để những khu
vực ít có điều kiện thuận lợi vẫn có thể có được cơ hội phát triển tốt hơn, khắc
phục và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu tại các khu vực đó, đảm bảo cho mọi khu vực
đều được hưởng thụ những cơ hội cũng như thành quả của sự phát triển chung.
Bởi lẽ, nguồn TLSX là của toàn xã hội, điều này đòi hỏi việc sử dụng toàn bộ tài
sản của xã hội phải nhằm phục vụ lợi ích của toàn xã hội, góp phần ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự PTCN.
Việc phân phối công bằng kết quả sản xuất cũng không phải là điều đơn
giản, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kinh tế, xã hội, pháp lý... Điều này phản
ánh tương quan giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Theo
C.Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc trưng cho
nó. Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không có phương
thức phân phối chung cho mọi thời đại cũng như không có khái niệm công bằng
chung chung. Xét trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN tồn tại nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình
thức sở hữu, vì vậy, cần xác định nguyên tắc phân phối cho phù hợp. Ở nước ta
hiện nay, phân phối theo lao động vẫn luôn được xác định là nguyên tắc phân
phối chủ đạo. Tiêu chí để tiến hành phân phối theo lao động là kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, tức là phân phối phải căn cứ vào cả mặt số lượng lẫn mặt chất
67
lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không
hưởng. Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với
xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ, nó không chỉ đảm bảo công bằng mà
còn tạo động lực thúc đẩy người lao động hăng say lao động sản xuất, không
ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề, trình độ văn
hóa kỹ thuật. Thêm vào đó, nó còn góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và
kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao
động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động. Nhờ đó,
góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao, vừa đảm bảo
tái sản xuất lao động, vừa tạo điều kiện cho mọi người phát triển toàn diện. Để
thực hiện chế độ phân phối theo lao động một cách đúng đắn nhà nước cần phải
có các chính sách về giá cả, thuế, tiền lương một cách thích hợp.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, cùng
với hình thức phân phối theo lao động là chủ yếu, phân phối theo mức đóng góp
vốn và tài sản vào sản xuất là một đòi hỏi tất yếu và cũng là một nguyên tắc phân
phối cơ bản. Người sở hữu vốn và tài sản có đóng góp vào quá trình sản xuất
phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy mới huy
động được mọi nguồn vốn trong xã hội để phát triển sản xuất. Điều này không
chỉ tạo lợi nhuận cho chính bản thân họ mà còn góp phần phát triển kinh tế đất
nước, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Phân phối thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội cũng là một nguyên
tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong xã hội nào
cũng phải tái sản xuất và giải quyết các vấn đề xã hội chung (như khắc phục
thiên tai, dịch bệnh...), hơn nữa xã hội nào cũng có những người không có khả
năng lao động, hết khả năng lao động và không có vốn mà xã hội vẫn cần phải
bảo đảm đời sống cho họ. Mặt khác, tiêu dùng cá nhân không chỉ dựa vào thu
nhập theo hai nguyên tắc phân phối nói trên, mà vẫn cần nhận được những khoản
thu nhập hoặc dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hóa... Sự phân phối này
có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có
mức sống bình thường tối thiểu, góp phần nâng cao thêm mức sống toàn dân,
68
đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn; làm giảm
chênh lệch qua lớn về thu nhập, về mức sống giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội;
xóa bỏ dần sự khác biệt giữa các vùng miền, giữa các loại hình lao động khác
nhau trong xã hội. Hình thức phân phối này góp phần phát huy tính tích cực lao
động của mọi thành viên trong xã hội, kích thích lao động sản xuất, phát triển
kinh tế - xã hội. Thông qua việc đảm bảo an toàn cho đời sống của con người
trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng, phân phối qua an sinh xã hội tạo môi
trường xã hội ổn định và thông qua sự ổn định xã hội đó sẽ góp phần tăng trưởng
kinh tế. Phân phối qua an sinh xã hội còn giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ
trách nhiệm xã hội, giáo dục ý thức cộng đồng, tạo ra sự đồng thuận trong xã
hội. Với ý nghĩa như trên, việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội và an sinh xã
hội là việc làm cần thiết góp phần khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi
tập thể và cả cộng đồng, tạo động b lực cho sự phát triển toàn diện của mọi
thành viên trong xã hội.
Như vậy, thực hiện CBXH, cụ thể hơn là thực hiện công bằng trong phân
phối sẽ làm cho mọi thành viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được
tôn trọng, được đền bù hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp
phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước, một trong những điều kiện quan
trọng hàng đầu cho PTCN.
2.3.2. Thực hiện công bằng xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát
triển con người về thể lực, trí lực và tâm lực
Phát triển con người là sự gia tăng các giá trị trong con người trên các
mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi con người sinh ra đều có những khả năng và
năng lực nhất định, nhưng nó thường tồn tại dưới dạng tiềm năng. PTCN có
nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người để con người có thể làm
việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất; là hướng vào việc tạo ra cho
con người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội). Để biến điều đó thành hiện thực cần phải có những điều
kiện cần thiết về tự nhiên, xã hội, đặc biệt là các nhân tố thuộc về xã hội. CBXH
liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực hiện CBXH tạo
điều kiện cho mọi người có cơ hội tiếp cận với các điều kiện cần thiết cho sự
phát triển của mình để có thể phát huy khả năng vốn có của mình cống hiến cho
xã hội và nhận được kết quả tương xứng với những cống hiến ấy.
69
Công bằng về cơ hội là quyền của mọi người được tiếp cận ngang nhau với
một cơ hội nào đó bất kỳ và tạo cơ hội phù hợp cho mỗi chủ thể để chủ thể đó có
thể phát huy khả năng vốn có của mình cống hiến cho xã hội và được hưởng thụ
tương xứng với những cống hiến ấy. Để đảm bảo thực hiện CBXH, việc tạo ra bình
đẳng về cơ hội cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục cho tất cả mọi người,
mọi lứa tuổi, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khi được bình đẳng
trong việc tiếp cận cơ hội, con người với cố gắng và năng lực của mình có thể đạt
đến một mức sống cao hơn. Mặt khác, thực hiện bình đẳng về cơ hội phát triển cũng
chính là để đảm bảo thực hiện CBXH trong phân phối. Bởi bình đẳng về cơ hội
giúp xã hội có thể lượng hóa được sự cống hiến của các chủ thể theo tỷ lệ đóng góp
trên những ưu đãi mà họ nhận được. Nhà nước phải đóng vai trò tạo lập sân chơi
bình đẳng thông qua việc sử dụng các công cụ đặc biệt của mình như: chính sách,
luật, cơ chế...
Cùng với việc tạo ra bình đẳng về cơ hội cần “tạo điều kiện cho mọi người
đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [37, tr.113]. Năng lực
của con người được coi là tiền đề cần thiết để chuyển những cơ hội thành hiện thực.
Nâng cao năng lực cho con người ở đây trước hết là năng lực về sinh thể và năng
lực về tinh thần (năng lực sinh thể là nâng cao sức khỏe cho con người; năng lực
tinh thần là nâng cao kiến thức, kỹ năng cho con người). Còn điều kiện để mọi
người có thể phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình bao gồm các điều kiện về
kinh tế, văn hóa, xã hội. Cụ thể:
Thực hiện CBXH trong lĩnh vực kinh tế là tạo điều kiện cho mọi chủ thể
kinh tế bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực phát triển (nguồn lực tự nhiên: đất
đai, tài nguyên...; nguồn lực xã hội: vốn, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ,
chính sách...). Điều này có nghĩa là, mọi chủ thể kinh tế trong xã hội không
phân biệt thành phần, loại hình sản xuất kinh doanh đều có cơ hội ngang nhau
khi tiếp cận các nguồn lực để phát triển. Các chủ thể tùy theo khả năng, năng
lực của mình mà lựa chọn cách thức, mức độ tiếp cận cho phù hợp để đạt được
hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ đó sẽ khuyến khích mọi người làm giàu hợp
pháp, phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, văn hóa nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần. Đối với từng lĩnh vực cụ thể thực hiện CBXH sẽ có những nội dung
và yêu cầu khác nhau.
70
Thực hiện CBXH trong giáo dục là phải đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng về
cơ hội học tập cho mọi người dân trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước. Điều đó có nghĩa là, Nhà nước phải đảm bảo cho mọi người
dân được học tập đạt trình độ phổ cập theo quy định của mỗi quốc gia; phải đảm
bảo khả năng tiếp cận chuẩn tối thiểu về giáo dục cho tất cả mọi người không
phân biệt nhóm xã hội hay địa bàn sinh sống. Đồng thời, Nhà nước cũng khuyến
khích việc thực hiện các hoạt động giáo dục ở mức cao hơn chuẩn cho các nhóm
có điều kiện trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Cùng với đó, tạo nhiều cơ
hội học tập khác nhau để mọi người dân đều được học tập, phát huy năng lực, sở
trường của mình; giúp đỡ để người nghèo được học tập, bảo đảm điều kiện để
người giỏi phát triển được tài năng. Thực hiện công bằng trong giáo dục tạo điều
kiện cho mọi người có cơ hội được học tập, nâng cao tri thức, có khả năng lao
động với năng suất cao, đem lại thu nhập tốt và đóng góp vào sự phát triển
chung của xã hội.
Thực hiện CBXH trong y tế là đảm bảo cho mọi người dân đều được
chăm sóc sức khỏe, đều được dễ dàng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
mọi người có bệnh như nhau sẽ được chăm sóc y tế như nhau. Tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người dân được được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Những người nghèo hơn, sống ở vùng khó khăn hơn, các đối tượng chính
sách, thiệt thòi thì nhận được sự hỗ trợ và bao cấp của Nhà nước nhiều hơn.
Công bằng trong y tế tạo cho mọi người có sức khỏe tốt. Mà vấn đề sức khỏe có
liên quan đến năng lực tư duy và tinh thần sáng suốt của mỗi cá nhân trong suy
nghĩ và hành động.
Thực hiện CBXH trong lĩnh vực văn hóa tạo điều kiện cho các thành viên
trong xã hội có quyền ngang nhau về hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, có
cơ hội bình đẳng để nắm bắt các thông tin xã hội; mọi thành viên trong xã hội
đều có cơ hội phát triển về văn hóa, tinh thần; khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho những tài năng phát triển. Thực hiện công bằng trong lĩnh vực văn
hóa tạo điều kiện cho con người phát triển về tâm lực.
Có thể thấy, CBXH liên quan tới tất cả các mặt của đời sống con người,
do đó, quá trình thực hiện CBXH tác động tới nhiều mặt của đời sống con người.
71
Thực hiện CBXH tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận bình đẳng với các điều kiện
phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi người
đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình.
2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn
định cho sự phát triển con người
Chính trị hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động của con người nhằm làm ra,
gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực
tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung đó.
Với cách hiểu như thế thì trong bất cứ xã hội nào, chính trị có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội và sự phát triển của con người. Một nền
chính trị ổn định là điều kiện tốt nhất để con người phát triển. Có ổn định chính trị
thì đời sống xã hội mới ổn định, con người mới yên tâm phát triển sản xuất, lao
động và sáng tạo, đời sống tâm lý của con người mới ổn định. Con người không
thể sống yên ổn và phát triển tốt trong một xã hội mà tình trạng an ninh không
đảm bảo (cướp bóc, khủng bố) do thiếu luật lệ; quyền lợi, tài sản của con người bị
xâm phạm; hoặc tình trạng chính trị bất ổn, tính mạng, sức khỏe con người luôn bị
đe dọa.
Lịch sử đã chứng minh, chính những bất công trong xã hội là nguy cơ gây ra
bất ổn chính trị, rối ren xã hội, dẫn đến các cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản
luôn tự hào cho rằng xã hội tư bản là công bằng. Đặc biệt, ngày nay, chủ nghĩa tư
bản đã có những điều chỉnh phù hợp với sự phát triển chung, đã áp dụng nhiều biện
pháp để xoa dịu những mâu thuẫn luôn thường trực trong lòng nó và trong một
chừng mực nhất định đã tạo ra sự biến đổi nhất định theo chiều hướng tiến bộ xã
hội. Trong các công ty cổ phần không chỉ các nhà tư bản mà những người công
nhân cũng có cổ phần. Tuy nhiên, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản thực
chất nhằm mục đích ổn định xã hội, duy trì vị trí cầm quyền và bảo vệ lợi ích của
giai cấp tư sản. Bởi lẽ, chính các nhà tư bản cũng ý thức được rằng, những áp lực
ngày càng tăng về CBXH nếu không được xoa dịu có thể làm tổn hại đến thể chế
chính trị của nó.
Công bằng xã hội là nguyên tắc và đòi hỏi tối quan trọng trong việc xác lập
mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
72
trong đời sống chính trị - xã hội cũng như các quyền tự do cơ bản của công dân.
Chỉ sống trong một xã hội công bằng con người mới bộc lộ hết được chính mình,
mới có thể tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tạo, tự do tham gia thảo luận, quyết
định những vấn đề chung của tập thể và có thể đảm bảo các quyền và cơ hội phát
triển của mỗi cá nhân trong tập thể, cộng đồng và xã hội. Thông qua đó, với tư
cách là chủ thể của mọi hành động, con người không ngừng hoàn thiện và phát
triển bản thân.
Đồng thời, thực hiện CBXH đảm bảo việc tuân thủ nguyên tắc quản lý xã
hội bằng pháp luật. Thực hiện CBXH là một đòi hỏi cấp bách của tiến trình xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Thực hiện CBXH là đảm
bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, mọi công dân bình đẳng trước pháp
luật. Nhà nước phải tạo điều kiện để mọi công dân được tham gia vào các công
việc của nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật; được kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan công quyền và các công chức nhà nước theo quy
định.... Với ý nghĩa đó, thực hiện CBXH tạo môi trường để con người thoải mái
cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.
Kết luận chương 2
Trong lịch sử tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây có rất nhiều
cách tiếp cận và lý giải khác nhau về vấn đề CBXH, đi cùng với nó là vấn đề thực hiện
CBXH. Việc đặt ra và giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử mà còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và khả năng thực hiện của con người
từng thời kỳ. Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, kế thừa tư tưởng Hồ Chí
Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH có thể hiểu,
công bằng xã hội là một giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình
thành trên cơ sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống
hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển… trên
mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội. Còn
thực hiện CBXH là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực
lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị trí, vai trò của mình làm cho
những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
73
Cũng giống như CBXH, phát triển ngày càng toàn diện con người là mục tiêu
và lý tưởng cao cả của nhân loại. Song, tùy theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử,
cũng như xuất phát từ địa vị xã hội và lập trường tư tưởng khác nhau, các nhà tư
tưởng trong lịch sử triết học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về PTCN. Chủ
nghĩa Mác - Lênin ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con
người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và phát triển tự do của con người.
Lần đầu tiên, con người được coi là điểm xuất phát và sự giải phóng, phát triển toàn
diện của con người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới. Lý luận của chủ
nghĩa Mác nói chung, lý luận về con PTCN nói riêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Phát triển con người là kết quả vận động và phát triển xã hội bị quy định bởi tổng
hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt lõi là các quan hệ xã hội công bằng làm định
hướng chung của các giá trị của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội - văn
hóa của các xã hội cụ thể. Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ các điều kiện để con người
trở thành chủ thể toàn vẹn trong chỉnh thể phong phú của năng lực thể chất và năng
lực tinh thần, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.
Con người chỉ có thể hoàn thiện và phát triển tốt nhất trong một xã hội
đảm bảo: công bằng, dân chủ, tự do, trong đó, CBXH là yếu tố quan trọng hàng
đầu. CBXH là khát vọng, mục tiêu phấn đấu của toàn thể loài người. Thực hiện
CBXH là động lực, là điều kiện và là môi trường cho sự PTCN.
74
Chương 3
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
3.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối đảm bảo
điều kiện kinh tế cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay
Tháng 12 năm1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Đảng ta đã xác định, thực hiện CBXH là một điều kiện cơ
bản để tạo động lực cho sự phát triển đất nước, PTCN. Trên cơ sở quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc phân phối công
bằng, Đảng và Nhà nước ta vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước nhằm
xóa bỏ bất công, phát triển kinh tế, để đi tới mục tiêu PTCN toàn diện.
3.1.1.1. Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất thúc đẩy
kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân
Sang thời kỳ đổi mới, với việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó
chế độ công hữu về TLSX giữ vai trò chủ đạo, các TLSX chủ yếu của xã hội như
tài nguyên, đất đai, vốn, tài sản… thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước
với chức năng điều tiết phân phối TLSX một cách công bằng, hợp lý trên một số
mặt nhất định.
Thứ nhất, từng bước xác lập địa vị làm chủ của người lao động với TLSX
góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Trước đổi mới việc phân phối TLSX ở nước ta được tập trung cho hai khu
vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. TLSX để phân phối thường mang tính
hiện vật: nguồn vật tư, máy móc hay cơ sở vật chất nhất định. Nhà nước là chủ
thể duy nhất có quyền phân phối TLSX theo kế hạch tập trung. Tuy nhiên, do
không có chế tài ràng buộc trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử
dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, đã dẫn đến hệ quả của việc sử dụng TLSX kém
hiệu quả, nhiều nguồn lực đã không được khai thác, nhiều tiềm năng đã không
được phát huy. Trên thực tế: “Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được khoảng
một nửa công suất thiết kế”, “Tài nguyên của đất chưa được khai thác tốt, lại bị
sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng” [34, tr.17]. Đây
75
chính là cơ sở kinh tế, xã hội làm phát sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ
biến và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế ngày càng sa sút,
đời sống nhân dân ngày càng khó khăn.
Tháng 8 năm 1987, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 đã ra Nghị quyết về
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ tự chủ
kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và đổi mới quản lý nhà nước về kinh
tế. Từ đó đến nay, rất nhiều văn bản, quy định của Nhà nước liên quan đến vấn
đề này được ban hành để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Theo tinh
thần các văn bản trên, các Bộ đã dần dần giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc quản lý vốn, tài sản của đơn vị.
Điều này buộc các đơn vị phải có trách nhiệm bảo quản, sử dụng tư TLSX xuất
được giao.
Trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu
toàn dân, nhưng việc sử dụng TLSX đó đã được trao cho người chủ đích thực
của nó là nông dân. Với Luật Đất đai năm 1993, tiếp đến là Luật Đất đai năm
2003, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan, người sử
dụng đất đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất
hiệu quả theo năng lực của họ.
Việc phân định rõ các loại quyền đảm bảo mọi TLSX đều có người làm
chủ. Chủ thể được phân phối TLSX cũng đồng thời được giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong việc sử dụng TLSX. Việc gắn quyền sở hữu với quyền sử
dụng đã gắn bó người sản xuất với TLSX, buộc mỗi người phải suy nghĩ, tính
toán, chủ động sáng tạo, để sử dụng TLSX với hiệu quả cao nhất. TLSX khi
được sử dụng hiệu quả sẽ nâng cao năng suất, chất lượng lao động, góp phần
phát triển kinh tế đất nước và cải thiện thu nhập của người lao động.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta luôn đảm bảo và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các chủ thể bình đẳng trong việc tiếp cận tư TLSX và những điều kiện
sản xuất kinh doanh.
Để tạo điều kiện cho các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể phát huy tốt
năng lực của mình, bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định:
Bảo đảm cho mọi công dân quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong
những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm, quyền
bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền bình đẳng
76
trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát
triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin [42, tr.230].
Việc ban hành các Luật Doanh nghiệp năm 1999, năm 2005 và năm 2014
góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh, khuyến khích đầu tư tư nhân, tạo sân
chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước có quyền được sản xuất, kinh doanh những lĩnh vực, mặt hàng chủ thể kinh
tế có khả năng, miễn là không vi phạm pháp luật. Nhà nước không phân biệt đối
xử giữa các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận các nguồn lực.
Việc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng đã khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới không ngừng
tăng lên qua các năm. Cùng với sự tăng trưởng mạnh số lượng doanh nghiệp, số
lượng việc làm trong các doanh nghiệp cũng tăng lên liên tục. Cơ hội để mọi
người tham gia vào phát triển kinh tế nhiều hơn, đa dạng và phong phú hơn (xem
phụ lục 1).
Thứ ba, TLSX được phân phối theo hướng đảm bảo quan hệ hợp lý giữa
các vùng, miền, giữa các dân tộc, tầng lớp nhân dân trong quá trình phát triển,
góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Nước ta đi lên từ điểm xuất phát rất thấp. Sau khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới, nền kinh tế tuy có khởi sắc nhưng trình độ phát triển vẫn còn nhiều
hạn chế. Trong khi đó, nguồn vốn nhìn chung có hạn, nếu đầu tư dàn trải chắc chắn
sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội cao. Vì vậy, việc đầu tư
cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Từ giữa những năm 1990, Nhà nước đã tập trung
thích đáng các nguồn lực để xây dựng và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở
cả ba miền, tăng tỷ trọng đầu tư ở các trung tâm kinh tế lớn như: Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Huế, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, v.v.. Ý nghĩa của các vùng này là ở chỗ, đây là các
vùng động lực không chỉ có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế cả nước phát triển mà
còn tạo cơ hội đi lên cho các vùng khác. Chúng ta đã và đang đầu tư vào các
chương trình, dự án lớn như: đường Hồ Chí Minh, trồng 5 triệu ha rừng, thủy điện
Sơn La, dự án lọc dầu Dung Quất, nhà máy điện đạm cà Mau, dự án lọc dầu Nghi
Sơn, v.v.. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển với nhịp độ nhanh đã có đóng góp
đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế chung và GDP của đất nước.
77
Bên cạnh việc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chúng ta cũng dành nguồn
lực để giải quyết những nhu cầu bức xúc của các vùng khác, tạo điều kiện để
phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, nhất là các
vùng khó khăn, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng. Chính phủ đã phê duyệt và chỉ
đạo thực hiện hàng loạt các chính sách, chương trình quan trọng như: Quyết
định: 755/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản
đặc biệt khó khăn; Quyết định 54/QĐ-TTg về việc Ban hành chính sách cho vay
vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn
2012 - 2015; Chương trình Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi; các mô
hình thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; chương
trình hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình dự án 135; các chương trình
thủy lợi, giao thông nông thôn, v.v.. Sự chuyển dịch cơ cấu hợp lý của nền kinh
tế giúp hình thành một cơ chế phân bổ nguồn nhân lực có hiệu quả theo hướng
tạo được nhiều việc làm, phát huy được tính năng động của người lao động theo
đúng ngành nghề, sở trường, khả năng.
Trong bối cảnh nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng TLSX có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Bởi vì, nó đảm bảo cho mỗi người dân lao động chân chính có
những TLSX tối thiểu, làm chủ chúng, trên cơ sở đó tự tạo ra việc làm và phát huy
tốt mọi khả năng lao động của bản thân mình. Sự điều tiết phân phối công bằng,
hợp lý TLSX trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống của người dân đặc biệt vùng nông thôn, miền núi. Nhân dân ở
những vùng này được hưởng những thành quả của quá trình phát triển kinh tế, kết
cấu hạ tầng được nâng cấp và xây dựng mới; thị trường hàng hóa được hình thành
thay thế dần nền kinh tế tự cung, tự cấp. Các dịch vụ xã hội thiết yếu như y tế, giáo
dục, nước sạch, vệ sinh môi trường đã được cải thiện, từng bước rút ngắn sự chênh
lệch về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân giữa các vùng, miền. Việc thực
hiện công bằng trong phân phối TLSX còn góp phần quan trọng trong việc ổn định
xã hội. Bởi nó tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, các nhóm xã hội, từ
đó tạo dựng được lòng tin của các chủ thể kinh tế vào Nhà nước và chế độ xã hội.
Xã hội ổn định là cơ sở để PTCN.
78
3.1.1.2. Thực hiện công bằng trong phân phối sản phẩm đảm bảo lợi
ích vật chất cho người lao động, phát triển kinh tế
Thời kỳ trước đổi mới, chúng ta thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động. Tiến hành phân phối theo lao động nhưng không dựa vào hiệu quả kinh tế
của lao động đã làm cho sự phân phối mang tính bình quân, cào bằng. Thực tế đó
đã đưa đến nghịch lý, những người lao động sống nhiệt tình, có nhiều cống hiến
cũng chỉ được hưởng bằng, thậm chí còn ít hơn những cá nhân không có cống
hiến và đóng góp sức lao động cho xã hội. Phương thức phân phối ấy đã thủ tiêu
tính tích cực của người lao động, thủ tiêu động lực phát triển sản xuất. Giai đoạn
này sản xuất nông - công nghiệp đình đốn; hàng hóa luôn khan hiếm, thiếu về số
lượng, kém về chất lượng; lưu thông, phân phối ách tắc và dẫn đến khủng hoảng
kinh tế - xã hội vào đầu những 80 của thế kỷ XX. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân khó khăn, nghèo nàn, nhiều “nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân
dân về đời sống vật chất và văn hóa nói chung chưa được đảm bảo” [34, tr.18],
các hoạt động xã hội bị tê liệt, tiêu cực xã hội lan rộng, lòng tin của quần chúng
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Với phương
châm nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ, phải khắc
phục tính bình quân, khắc phục tình trạng trả công tách rời kết quả lao động
trong phân phối trước đây, thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, quan
hệ sở hữu mang tính đa dạng với nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau,
do đó, chủ thể phân phối, hình thức phân phối cũng đa dạng. Trên cơ sở thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, quan điểm phân phối sản phẩm được bổ
sung, hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII để tiến tới thực
hiện CBXH một cách thực chất hơn, thể hiện tính ưu việt của CNXH. Theo đó, ở
nước ta hiện nay có ba hình thức phân phối cơ bản: phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.. Đây là
nguyên tắc phân phối được đánh giá là công bằng, phù hợp với các điều kiện của
Việt Nam hiện nay.
Để đảm bảo thực hiện phân phối công bằng và hiệu quả, cần đến vai trò
của Nhà nước. Nhà nước điều tiết phân phối theo hướng vừa kích thích sự phát
triển kinh tế - xã hội, vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở thừa
nhận sự khác biệt về thu nhập của cá nhân, Nhà nước điều tiết thu nhập phải làm
79
cho sự khác biệt đó ở mức vừa phải, có thể chấp nhận được. Để can thiệp vào
phân phối, Nhà nước phải sử dụng các công cụ là những chính sách: chính sách
quy định mức lương tối thiểu, chính sách tài chính, tín dụng, thuế thu nhập, các
chính sách phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Ở nước ta hiện nay, các chính sách
phân phối thường xuyên được cải cách cho phù hợp với tính chất của nền kinh tế
mới. Có thể kể một số thay đổi quan trọng về chủ trương và chính sách phân
phối như sau:
Chính sách tiền lương luôn được điều chỉnh nhằm đảm bảo đúng nguyên
tắc phân phối theo lao động.
Trong các giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến việc cải cách hoặc điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm
từng bước nâng cao mức sống cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế và
thực hiện CBXH. Nhà nước quy định ngày càng rõ hơn mức lương tối thiểu cho
từng khu vực (doanh nghiệp, hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, cán bộ
công chức...), xây dựng các bậc, ngạch và thang lương hợp lý hơn. Đối với mỗi
loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
hoạt động theo luật doanh nghiệp) Nhà nước có quy định mức lương tối thiểu
khác nhau. Việc quy định tiền lương tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp lí
nhằm tạo ra lưới an toàn cho người lao động. Người sử dụng lao động không
được trả lương cho người lao động thấp hơn tiền lương tối thiểu do Nhà nước
quy định. Nhờ đó, thu nhập của các tầng lớp dân cư, nhất là cán bộ, viên chức,
hưu trí được đảm bảo hơn, đáp ứng được những nhu cầu cơ bản.
Chính sách thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,
đảm bảo công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, do có sự khác nhau giữa mọi người về sở
hữu tài sản, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề, sự may mắn nên có sự
khác nhau trong thu nhập. Khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập, kéo theo đó
là quá trình phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn trong xã hội. Nhà nước đã chủ
trương cải cách hệ thống thuế như là công cụ chủ yếu để phân phối lại thu nhập
quốc dân, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo CBXH. Thông
qua chính sách thuế: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà
nước thực hiện điều tiết một cách hợp lý thu nhập của những người có thu nhập
cao, đưa vào ngân sách nhằm trợ cấp cho những người có thu nhập thấp. Nhờ
đó, hạn chế chênh lệnh thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội,
80
từng bước thực hiện CBXH. Ở đây, Nhà nước không hạn chế mức thu nhập cao
do nỗ lực của mỗi người, nhưng phải điều tiết một phần để thực hiện các chính
sách xã hội.
Phân phối theo mức đóng góp vốn đã khuyến khích được nhiều cá nhân
và chủ thể sản xuất, kinh doanh bỏ vốn, tài sản để tham gia đầu tư mở rộng,
phát triển sản xuất.
Từ sau nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương khoá VI
ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn điển hình như một số đơn vị
kinh tế quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân dưới các hình thức: vay
vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý... Cách làm
như vậy đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi vào sản xuất, kinh doanh. Như
vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội.
Nguyên tắc phân phối này tạo điều kiện để tất cả các thành viên trong xã hội yên
tâm mạnh dạn đầu tư vốn, tài sản vào sản xuất kinh doanh để nguồn vốn không chỉ
tạo ra cơ hội sinh lợi cho các thành viên tham gia đầu tư mà còn tạo ra những lợi ích
kinh tế, xã hội to lớn.
Phân phối qua an sinh xã hội đã được hoàn chỉnh, dần góp phần xóa đói,
giảm nghèo, cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư.
Về mặt cấu trúc, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta bao gồm những thành
phần cơ bản sau: các chương trình, chính sách bảo hiểm xã hội; chương trình và
chính sách ưu đãi xã hội; chương trình và chính sách trợ cấp xã hội; chương trình
và những chính sách tương trợ xã hội, cứu tế xã hội. Hệ thống an sinh xã hội ở
nước ta đang được hoàn chỉnh dần, ngày càng hướng đến bao phủ toàn bộ mọi
thành viên trong xã hội.
Các chính sách về bảo hiểm xã hội trong thời gian qua được đổi mới theo
hướng mở rộng đối tượng tham gia. Mọi người lao động làm việc trong các
thành phần kinh tế đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội không ngừng tăng cao qua các năm: năm 2009 có 10.001.170
người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tính đến hết 31/12/2015 số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 12.065.223 người; số người tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện năm 2013 đạt 173.462 người, đến 31/12/2015 254.643
người [50]. Tham gia bảo hiểm xã hội, người lao động yên tâm cống hiến và
không phải lo lắng nhiều về những rủi ro mà mình có thể gặp phải trong hoạt
động lao động sản xuất, công tác, sinh hoạt, góp phần thực hiện mục tiêu CBXH.
81
Bảo hiểm xã hội còn góp phần làm hạn chế và điều hoà các mâu thuẫn giữa
người tham gia bảo hiểm xã hội và người sử dụng lao động, tạo môi trường làm
việc ổn định, đảm bảo cho hoạt động lao động sản xuất, công tác với hiệu quả
cao, từ đó góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, PTCN.
Chính sách ưu đãi người có công được thực hiện tương đối toàn diện. Chế
độ, chính sách đối với người có công được thực hiện thông qua hình thức trợ
cấp, phụ cấp, bảo hiểm y tế và các chế độ ưu đãi khác (trang cấp, điều dưỡng,
nhà ở, quà Tết, quà ngày 27-7 hằng năm, ưu đãi giáo dục, công tác...). Người có
công đã được chăm sóc tốt hơn về vật chất và tinh thần. Đến cuối năm 2015 có
98,5% hộ gia đình chính sách, người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn
mức sống trung bình của hộ dân cư trên địa bàn cư trú; 98% số xã, phường được
công nhận làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công [146, tr.9].
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư.
Chính phủ đã đề ra một số chính sách, cơ chế để cụ thể hoá chủ trương xoá đói
giảm nghèo: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lí cho người nghèo và đối tượng
chính sách; thành lập Ban Chủ nhiệm Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói
giảm nghèo; phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa; thực hiện nhiều dự án xoá đói giảm
nghèo như dự án trồng 5 triệu ha rừng, chương trình 773,; nguồn lực đầu tư cho
Chương trình xoá đói, giảm nghèo được tăng cường. Nhờ đó, công tác xoá đói,
giảm nghèo ở nước ta đã đạt được kết quả rất ấn tượng. Theo chuẩn nghèo chung
của Ngân hàng Thế giới (gồm cả nghèo về lương thực, thực phẩm và nghèo phi
lương thực, thực phẩm), tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã giảm mạnh, từ 37,4%
năm 1998 xuống còn 18,1% năm 2004. Với thành tựu này, Việt Nam đã đạt được
mục tiêu xoá bỏ tình trạng đói nghèo đề ra cho năm 2015, nghĩa là vượt trước
mục tiêu. Việt Nam được coi là nước xoá bỏ tình trạng đói nghèo thành công
nhất thế giới. Đối với giai đoạn 2011 - 2015 (áp dụng chuẩn nghèo mới), tỷ lệ hộ
nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 7% năm 2015 [xem phụ
lục 4]. Với việc xóa đói, giảm nghèo nhanh chóng, nhân dân có thu nhập ổn định
sẽ có điều kiện đầu tư cho các nhu cầu ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh, giáo dục,
văn hóa… góp phần trực tiếp vào việc nâng cao thể lực, trí lực cũng như tâm lực
của con người Việt Nam.
82
Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo, các chính sách trợ cấp xã hội
nhằm trợ giúp những người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội với chế độ trợ
giúp thường xuyên (người tàn tật, cô đơn; trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ;
người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo, người cao tuổi không có lương hưu, không
có người chăm sóc...) và trợ giúp đột xuất (những người, những vùng bị thiên tai
tàn phá, dịch bệnh hoành hành...) nhằm khắc phục những rủi ro, giúp cho mọi
thành viên trong xã hội mau chóng ổn định cuộc sống. Các chính sách trợ cấp xã
hội vừa góp phần thực hiện CBXH, vừa thể hiện bản chất nhân đạo của Đảng và
Nhà nước ta, tạo ra mạng lưới để bảo vệ mọi người trong xã hội không ai bị rơi vào
bần cùng hóa.
Thực tiễn 30 năm đổi mới của nước ta cho thấy, chính việc thực hiện các
nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng đã có tác động trực tiếp đến PTCN.
Thực hiện công bằng trong phân phối đảm bảo lợi ích của người lao động. Khi
lợi ích được đảm bảo sẽ kích thích tính tích cực lao động trong mỗi người, không
ngừng suy nghĩ tìm tòi, học tập để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất, tạo nên bước tăng trưởng đáng kể của nền kinh tế.
Thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong những năm vừa qua là
rất đáng tự hào. Nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm.
Những thành tựu đạt được trong tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo cơ sở vật
chất để PTCN Việt Nam ngày càng đáp ứng yêu cầu của đổi mới.
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam không ngừng được cải thiện
(xem phụ lục 2). Sự tăng trưởng GDP đầu người của chúng ta tăng nhanh, đồng
nghĩa với việc chỉ số thu nhập trong HDI của chúng ta cũng tăng nhanh: năm
1992 mới là 0,386, năm 2008 là 0,559, năm 2012 đạt 0,615. Hơn nữa, mức đóng
góp của chỉ số này đối với chỉ số PTCN (HDI) cũng ngày càng tăng, tính giai
đoạn từ năm 1999 đến năm 2012, mức đóng góp của chỉ số GDP vào việc tăng
trưởng HDI tới 42%, năm 2014 là 60,9% [Nguồn: Tính toán của Trung tâm phân
tích dự báo VASS trình bày tại Hội thảo Tăng trưởng kinh tế vì tăng trưởng bao
trùm, Hà Nội, tháng 5, 2014].
Cùng với việc thu nhập gia tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người
dân được nâng cao. Tỷ lệ hộ có đồ dùng lâu bền tăng từ 98,4% năm 2010 lên
99,4% năm 2012 và 99,7% năm 2014. Tương tự, tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước
hợp vệ sinh tăng từ 90,5% lên 91,0% và 93,0%; tỷ lệ hộ dùng điện cho sinh hoạt
tăng từ 97,2% lên 97,6% và 98,3%; tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 75,7%
83
lên 77,4% và 83,6% [146, tr.17]. Mức tiêu dùng các dịch vụ viễn thông hay công
nghệ thông tin của người dân cũng tăng lên nhanh chóng. Tính đến ngày
1/1/2015, Việt Nam có dân số là 90,7 triệu người, trong đó có 39,8 triệu người sử
dụng internet (tương đương với 44%), 28 triệu người sở hữu tài khoản mạng xã
hội (chiếm 31%), 128,3 triệu người có kết nối mạng di động (tương đương với
141%) [113].
Với những kết quả thu được từ tăng trưởng kinh tế, ngân sách đầu tư cho
các lĩnh vực xã hội y tế, giáo dục, văn hóa cũng tăng lên góp phần PTCN trên
các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.
3.1.2. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo cho sự phát triển con
người về trí lực, thể lực và tâm lực
Trong 30 năm qua, thông qua nhiều chiến lược, chính sách, chương trình,
dự án của Đảng và Nhà nước, cơ hội phát triển được mở rộng hơn cho mọi tầng
lớp nhân dân góp phần PTCN Việt Nam về trí lực, thể lực và tâm lực.
3.1.2.1. Thực hiện công bằng trong giáo dục góp phần phát triển trí lực
con người Việt Nam
Thực hiện CBXH tạo ra điều kiện và cơ hội cho sự phát triển trí lực
của con người. Phát triển trí lực của con người được thực hiện trước hết
thông qua phát triển giáo dục. Thông qua cơ hội công bằng, giáo dục kích
thích nỗ lực vươn lên của mọi cá nhân, thúc đẩy sự ưu tú, tài năng, sự sáng
tạo của con người.
Thực hiện CBXH trong giáo dục được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Chủ
trương thực hiện công bằng trong giáo dục được quán triệt trong các văn kiện
của Đảng qua các kỳ Đại hội, trong Hiến pháp cũng như Luật Giáo dục. Để đảm
bảo mọi người đều có cơ hội bình đẳng trong giáo dục, trong thời kỳ đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách có liên quan
như: Luật phổ cập giáo dục tiểu học được Quốc hội thông qua năm 1991; Nghị
định Số: 88/2001/NĐ-CP của chính phủ Về thực hiện phổ cập giáo dục trung học
cơ sở ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2001; Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09
tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 - 2015... Cùng với sự phát của
triển của kinh tế trong những năm qua, chúng ta không ngừng tăng đầu tư ngân
sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Từ năm 2012, chi cho giáo dục là 20%.
Đây là mức đầu tư của Nhà nước cho giáo dục cao hơn nhiều nước trong khu
84
vực và trên thế giới. Nhờ vậy, quy mô, hình thức giáo dục, đào tạo không ngừng
được mở rộng, tạo cho mọi người dân có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ.
Chúng ta đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn
chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo với các loại hình
trường, lớp, từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới.
Cho đến nay, về cơ bản ở nước ta đã xóa được "xã trắng" về giáo dục
mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã
hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Việt Nam đã
đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học vào năm 2000. Tính đến
cuối năm 2015, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi [146]. Hiện nay, chúng ta đang đẩy
mạnh thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi. Về mặt giới tính, bình đẳng giới trong cơ hội tiếp cận
giáo dục ở các cấp học ngày càng được nâng cao, không có sự chênh lệch lớn
giữa học sinh nam và học sinh nữ. Điều này cho thấy, Việt Nam đã thu hẹp
khoảng cách về sự bất bình đẳng giữa học sinh nam và học sinh nữ trong độ tuổi
nhập học. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các
nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh
lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Cơ hội đến trường đã được mở
rộng cho mọi đối tượng, tạo mặt bằng dân trí tối thiểu cho đất nước.
Trên cơ sở tạo sự bình đẳng về cơ hội học tập, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm tạo nhiều cơ hội khác nhau phù hợp cho mọi người dân đều được học
tập, phát huy năng lực, sở trường của mình. Mô hình giáo dục của nước ta trong
thời gian qua không ngừng được mở rộng, tạo điều kiện cho người dân có nhiều
cơ hội được tham gia học tập: Giáo dục chính quy, giáo dục vừa làm vừa học,
giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng.
Đồng thời, Nhà nước còn triển khai mạnh mẽ việc xã hội hóa giáo dục, khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các trường ngoài công lập với
các loại hình đa dạng, trên cơ sở quy định của Nhà nước đáp ứng nhu cầu học
tập ngày càng đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.
Cùng với đó, Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có
đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo
dục giữa các vùng, miền thông qua việc miễn giảm các khoản đóng góp đối với
học sinh dân tộc thiểu số, tiếp tục phát triển hệ thống trường nội trú, bán trú, thực
85
hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số, thực hiện
chính sách tuyển cử. Nhờ vậy mà cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh thiểu số
ngày càng được nâng cao. Đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách,
Nhà nước có chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học và hỗ
trợ khác. Đối với những người có năng khiếu Nhà nước tạo điều kiện để họ phát
triển tài năng.
Với những nội dung như trên, thực hiện CBXH trong giáo dục tạo cơ hội
và điều kiện cho sự PTCN về mặt trí lực. Trình độ dân trí của người Việt Nam
được nâng lên đáng kể, óc sáng tạo, kỹ năng ứng xử và chỉ số thông minh cũng
được nâng cao; trình độ của người lao động được nâng lên nhanh chóng về cả số
và chất lượng. Tính đến năm 2014, tỷ lệ người biết chữ độ tuổi từ 15 - 60 là
98,25%. Hằng năm có hơn 400.000 người tốt nghiệp đại học, cao đẳng trong
nước. Từ năm 1976 cho đến hết năm 2014, tổng số giáo sư, phó giáo sư đã được
công nhận ở nước ta là 11.097, gồm có 1.628 giáo sư và 9.469 phó giáo sư. Việt
Nam có hơn 100 nghìn thạc sĩ, hơn 24 nghìn tiến sĩ [2].
Phản ánh những thành tựu phát triển trí lực của con người Việt Nam theo
chỉ số HDI, có thể thấy, chỉ số giáo dục trong HDI của Việt Nam không ngừng
tăng lên: năm 1992 chỉ số giáo dục đạt 0,776, đến năm 2008 là 0,830. Như vậy,
từ năm 1992 đến năm 2008 chỉ số giáo dục tăng 7%; mức đóng góp của chỉ số
giáo dục vào việc tăng trưởng chỉ số HDI trong giai đoạn này là 15,9%. Đây là
chỉ số khá cao trong khu vực. Nhìn chung, những thành quả về phát triển trí lực
con người Việt Nam trong những năm vừa qua là rất đáng trân trọng.
3.1.2.2. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe góp phần phát
triển thể lực con người Việt Nam
Sức khỏe là giá trị cơ bản của cuộc sống, là một trong ba yếu tố cấu thành
cơ bản phản ánh chỉ số PTCN. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt
Nam là làm tất cả, từ những việc nhỏ nhất để chăm lo cho sức khỏe con
người, để con người có cơ hội phát triển toàn diện; phấn đấu thực hiện chăm sóc
sức khỏe cho mọi người dân, đảm bảo thực hiện CBXH trong y tế: “Đổi mới và
hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội
để mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Xây dựng chiến
lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam” [42, tr.33].
Xây dựng một nền y tế theo hướng công bằng để mọi người dân đều được chăm
sóc, nâng cao sức khỏe không chỉ góp phần PTCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu
86
của thời kỳ đổi mới mà còn thể hiện bản chất nhân đạo XHCN ở nước ta. Thực
hiện CBXH trong y tế ở nước trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu
đáng trân trọng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, góp phần nâng cao thể lực
con người Việt Nam.
Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cung ứng dịch vụ y tế khá
hoàn chỉnh với mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp giúp người dân dễ dàng tiếp cận
và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe.
Hiện nay, Việt Nam có một hệ thống y tế khá hoàn chỉnh với hệ thống
cung ứng dịch vụ y tế được tổ chức theo tuyến từ Trung ương tới thôn bản với 4
lĩnh vực: khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và dân số - kế
hoạch hóa gia đình; trong đó, chú trọng xây dựng mạng lưới y tế cơ sở (bao gồm
y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện). Tính đến hết năm 2014, 99% xã,
phường, thị trấn đã có nhà trạm; 78% trạm y tế xã có bác sỹ làm việc (bao gồm
cả các xã có bác sỹ làm việc từ 3 ngày/tuần trở lên); 98% trạm y tế xã có nữ hộ
sinh hoặc y sỹ sản nhi; 78% thôn, bản, tổ dân phố trong cả nước đã có nhân viên
y tế hoạt động [6]. Tất cả các huyện đều có bệnh viện đa khoa, liên xã có phòng
khám đa khoa khu vực. Đây là tuyến y tế gần dân nhất, phát hiện sớm những vấn
đề sức khỏe của nhân dân, đảm bảo cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe
cơ bản với chi phí thấp nhất, góp phần thực hiện CBXH.
Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em ngày càng được chú ý
Thực hiện CBXH là đảm bảo nguyên tắc mọi người cống hiến ngang nhau
thì được hưởng thụ ngang nhau. Với cơ hội ngang nhau nhưng năng lực mỗi
người khác nhau, kết quả cũng khác nhau. Năng lực ở đây bao gồm năng lực
sinh thể (sức khỏe) và năng lực tinh thần (kiến thức, kỹ năng). Để đảm bảo mọi
người có thể lực tốt cần phải tạo nền tảng sức khỏe ngay từ những năm đầu đời.
Chăm sóc sức khỏe trẻ em là vấn đề được đặc biệt quan tâm ở nước ta và cũng là
một trong những thành tố góp phần thực hiện CBXH. Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 1991 đã quy định, trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức
khỏe ban đầu, được khám chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế của
Nhà nước. Đến nay, chúng ta đang cố gắng để 100% trẻ em được cấp thẻ bảo
hiểm y tế (BHYT). Việt Nam cũng đã thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở
rộng và mang lại kết quả khả quan. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ 9 các
loại vắcxin theo chương trình tiêm chủng mở rộng năm 2014 đạt trên 90%. Số
trẻ em bị bệnh truyền nhiễm giảm mạnh. Tỷ lệ chết và suy dinh dưỡng ở trẻ em
87
giảm nhanh trong thời gian qua. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm 60%,
từ 58 trên 1000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn 22,12‰ vào năm 2015]. Hiện
nay, mức tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta tương đương với tỷ suất của các
nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam 3 - 4 lần. Chúng ta đã
giảm trên 60% trẻ suy dinh dưỡng trong thời gian này, vượt Mục tiêu thiên niên
kỷ là giảm 50% vào năm 2015 [146, tr.101].
Thứ ba, bảo hiểm y tế đang đóng vai trò tích cực giúp tăng khả năng tiếp
cận của người dân với các dịch vụ y tế.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), BHYT được coi là công cụ quan trọng
để đạt mục tiêu bao phủ y tế toàn dân. Ở Việt Nam, hệ thống BHYT được bắt đầu
thực hiện năm 1992, được coi là nguồn tài chính công có vai trò hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo sự công bằng trong các đóng góp tài chính cũng như hưởng lợi
y tế theo nhu cầu (không dựa trên mức đóng góp) thông qua một hệ thống ngăn
ngừa rủi ro. Đây được xem như là công cụ tạo nên sự bình đẳng trong chăm sóc sức
khỏe toàn dân. Độ bao phủ BHYT mở rộng làm tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế
người dân. Mức độ bao phủ của BHYT ở Việt Nam tăng dần qua các năm, năm
2006 gần 44,4%; năm 2010 là 60,3%; năm 2014 là 70,8% (Số liệu từ Vụ Bảo hiểm
y tế, Bộ Y tế, các năm), trong đó có một tỉ lệ đáng kể người nghèo và các đối tượng
chính sách, yếu thế đang tham gia. Hiện nay, 100% người nghèo, người dân tộc
thiểu số được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí để mua BHYT. Với những hộ cận
nghèo, Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi để họ được tham gia BHYT. Nhờ
vậy, người nghèo đã có điều kiện quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn. Đây là những
chủ trương đúng đắn góp phần thực hiện CBXH trong y tế, tạo cho người nghèo,
nhân dân các vùng khó khăn và một bộ phận lớn đồng bào dân tộc thiểu số giảm
được những chi phí về khám khám chữa bệnh, có cơ hội được chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe.
Thực hiện CBXH trong lĩnh vực y tế ở nước ta thời gian qua đã đảm bảo cho
mọi người dân có quyền được chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận với nguồn lực của xã hội đầu tư vào lĩnh
vực y tế. Nhờ đó, thể lực con người Việt Nam trong những năm gần đây đã được
nâng cao.
Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam được cải thiện đáng kể. Tốc
độ tăng chiều cao trung bình qua từng 10 năm được đảm bảo. Các thế hệ hiện
nay cao hơn cha anh trước kia và có xu hướng ngày càng tăng. Tuổi thọ trung
88
bình của cả nước tăng từ 62,7 tuổi (năm 1990) lên 73,3 tuổi năm 2015 (Theo số
liệu của tổng cục thống kê qua các năm). Các chỉ số y tế, đặc biệt chỉ số tuổi thọ
đóng góp vị trí quan trọng trong việc cải thiện chỉ số PTCN Việt Nam trong thời
gian qua. Chỉ số tuổi thọ (xem phụ lục 10) luôn đạt giá trị cao hơn chỉ số HDI
chứng tỏ những cố gắng về mặt y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân của nước ta
đang mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong thành tựu phát triển con người.
Những kết quả đạt được về mặt thể lực của con người Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển con người
toàn diện.
3.1.2.3. Thực hiện công bằng trong văn hóa, thông tin góp phần phát
triển tâm lực con người Việt Nam
Văn hóa là nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội, góp phần hình thành
nhân cách con người. Để đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận,
hưởng thụ các giá trị văn hóa của xã hội, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng pháp luật, chính sách tạo nên những
thay đổi sâu sắc trên lĩnh vực văn hóa, thông tin.
Trong những năm qua, truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về số
lượng, quy mô lẫn chất lượng góp phần mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho
người dân. Năm 2012, tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài phát thanh, được xem đài
truyền hình là 99,5%, số người sử dụng mạng intemet đạt 35% dân số, đạt 3,4
đầu sách/người/năm [51]. Phần lớn các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ,
mục đích, định hướng chính trị, phản ánh nhanh, nhạy, sinh động công cuộc đổi
mới đất nước, góp phần mở rộng dân chủ, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn
hóa của nhân. Nhờ đó, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền được
rút ngắn, cơ hội lựa chọn và tiếp cận thông tin của người dân được mở rộng, góp
phần nâng cao tri thức, ý thức chính trị, pháp luật, tâm hồn con người cũng
phong phú hơn.
Công tác phát triển văn hóa ở địa phương cũng được đầu tư nhiều hơn.
Đến nay, 100% số xã, phường ở miền xuôi và gần 100% số xã vùng dân tộc,
miền núi có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc điểm bưu điện văn hóa
xã. Đây vừa là nơi hội họp của chính quyền, đoàn thể, vừa là nơi diễn ra các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Có địa điểm tổ chức, công tác xây dựng thiết
chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng
được duy trì và phát triển, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân được hưởng
89
thụ và tham gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Cùng với
đó, công tác xây dựng đời sống văn hóa mới, phong trào “Người tốt, việc tốt”
diễn ra hết sức sôi nổi. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ngày càng phát
triển về chiều rộng và bề sâu. Thực hiện CBXH trong văn hóa đã đem đến cho
người dân một đời sống mới vô cùng phong phú, không chỉ trên bình diện đời
sống vật chất, mà cả đời sống tinh thần, góp phần quan trọng vào việc PTCN
Việt Nam toàn diện.
Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua dành nhiều sự quan tâm phát
triển văn hóa cho các đối tượng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải
đảo... Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu
sưu tầm và phục dựng. Các hoạt động giao lưu, giới thiệu, quảng bá, tôn vinh
văn hóa các dân tộc được tăng cường như: tổ chức ngày hội văn hóa vùng, ngày
hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc Mông, Chăm, Khmer; xác lập ngày
19/4 hằng năm là ngày Văn hóa các dân tộc; dự án sưu tầm, công bố sử thi Tây
Nguyên... Nhờ vậy, đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số được cải thiện.
Trong lĩnh vực sáng tác, các tài năng văn hóa nghệ thuật được khuyến
khích phát triển. Mọi người dân được tham gia một cách tự chủ trong quá trình
sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa, được đóng góp sức lực và trí tuệ
vào sự phát triển văn hóa. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn
trọng. Sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng,
tăng đáng kể về số lượng và bước đầu có chuyển biến về chất lượng. Tiếng nói
phản biện xã hội của văn học, nghệ thuật có một số mặt mạnh mẽ hơn trước,
phát hiện, cảnh báo, phê phán cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng nhân cách, đề
cao phẩm giá con người. Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai
trái trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được coi trọng hơn.
Những thay đổi trong đời sống văn hóa, tinh thần theo hướng ngày càng
tốt đẹp hơn hướng con người vào các giá trị, chuẩn mực chân, thiện, mỹ trong
đời sống hàng ngày để mỗi người sống tốt hơn, tin tưởng hơn, yêu thương nhau
hơn. Người dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường
đi lên CNXH; thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của Đảng đề ra là đúng đắn,
theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân: tất cả vì
sự phát triển toàn diện của con người.
Xuất phát từ những chủ trương của Đảng về thực hiện CBXH, việc thực
hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan
90
trọng. Thực hiện phân phối công bằng đã điều hòa được mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội trên phương diện lợi ích: Lợi ích riêng
của mỗi cá nhân luôn được bảo vệ và được bảo đảm trong mối quan hệ hài
hòa với lợi ích chung của toàn xã hội. Từ đó sẽ động viên, kích thích được
nhiều hơn sự cống hiến của mỗi cá nhân cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Người lao động tự nguyện đem hết nhiệt tình, khả năng lao động để không
ngừng nâng cao năng suất lao động, làm ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất
lượng thỏa mãn nhu cầu cá nhân và xã hội; các nhà kinh doanh sẽ không ngại
bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất; những người yếu thế trong xã hội giảm bớt
gánh nặng khó khăn, nhanh chóng thoát khỏi nghèo đói, có cơ hội vươn lên
hòa nhập vào sự phát triển chung của xã hội. Toàn bộ kết quả của thực hiện
phân phối công bằng được thể hiện qua sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nhưng muốn thực hiện sự phân phối công bằng kết quả sẽ có của sự
cống hiến thì phải tạo cơ hội phù hợp cho mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân đều có
điều kiện được cống hiến và phát huy được khả năng của mình, rồi sau đó có
được sự hưởng thụ tương ứng với cống hiến ấy. Những thành tựu đạt được
trong việc thực hiện CBXH ở nước ta thời kỳ đổi mới đã kích thích được tính
tích cực, chủ động trong mỗi con người, đã mang lại các cơ hội phát triển cho
đông đảo quần chúng nhân dân, tạo ra những điều kiện tốt nhất có thể để con
người Việt Nam phát huy hết khả năng của mình để có thể phát triển toàn diện
cả về thể lực, trí lực lẫn tâm lực. Điều này được biểu hiện bằng sự cải thiện
đáng kể trong chỉ số PTCN. Căn cứ vào số liệu của UNDP công bố, khoảng
thời gian từ năm 1995-2014, HDI của Việt Nam tăng từ 0,539 lên 0,666. Dĩ
nhiên, tốc độ tăng này chưa phải là cao, song, để tăng được chỉ số phát triển
con người thì cả ba chỉ số bộ phận đều phải có tiến bộ. Điều đáng lưu ý là, chỉ
số HDI của Việt Nam tương đương với chỉ số này của nhiều nước có GDP
bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
3.1.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn
định cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay
Trong nhiều năm qua, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về thực hiện CBXH luôn phát huy vai trò của mình trong việc đảm bảo
cho người dân được hưởng một môi trường chính trị - xã hội ổn định.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát
triển, Đảng và Nhà nước đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách,
91
pháp luật về quyền con người. Nhiều chính sách kinh tế, chính sách xã hội
hướng vào việc bảo đảm quyền con người theo nguyên tắc bình đẳng, công bằng,
không phân biệt đối xử được ban hành như: Chính sách kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, chính sách bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, chính sách lao
động, việc làm, chính sách giáo dục, chính sách y tế, chính sách an sinh xã hội...
Các chính sách kinh tế, xã hội góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề
quan trọng cho PTCN.
Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật,
Hiến pháp năm 1992 và sau này là Hiến pháp năm 2013 quy định, trách nhiệm
của Nhà nước là phải “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân...” (Điều 3, Hiến pháp 2013). Nghĩa vụ của Nhà nước là tạo điều kiện
để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28, Hiến pháp
2013). Quy trình xây dựng luật cũng được thay đổi theo hướng dân chủ, công
khai, minh bạch. Đến nay, hầu hết các luật, bộ luật trước khi thông qua đều được
thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Nhờ đó, quyền làm chủ
của nhân dân không ngừng được mở rộng và nâng cao. Người dân có điều kiện
tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước, phát triển kinh tế - xã hội thông qua đại biểu trong các cơ quan đại diện
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân), các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp do họ
lập ra để đại diện cho lợi ích của mình.
Với sự phát triển nhanh của phương tiện truyền thông đại chúng, các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin của người dân ngày càng
được đảm bảo hơn. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình nước ta đã
phát huy được vai trò thực sự là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước. Các tổ
chức chính trị xã - hội thực sự là diễn đàn để nhân dân thể hiện được tinh thần
tự do, dân chủ, nêu lên chính kiến, nguyện vọng của mình, cũng như thông tin
với các cơ quan của Đảng và Nhà nước về những vấn đề bức xúc trong cuộc
sống, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, các tệ nạn xã
hội... tạo thành dư luận tác động đến sự vận hành của xã hội, làm cho xã hội
ngày càng tốt đẹp hơn.
Thực hiện CBXH đã tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho người dân
tham dự vào đời sống chính trị của đất nước. Người dân được tham gia vào công
92
việc chung của cộng đồng, họ được nói tiếng nói của mình, đề đạt nguyện vọng
của mình để đảm bảo lợi ích của mình. Những vấn đề về quyền lợi của người
dân được giải quyết tạo ra bầu không khí cởi mở, thẳng thắn, có sự đồng thuận
cao, góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ổn
định xã hội. Đây là cơ sở, nền tảng cho sự thúc đẩy phát triển kinh tế, mở ra cơ
hội, nâng cao năng lực và tiếp cận với các nguồn lực xã hội. Đồng thời, làm cho
con người năng động hơn, phát huy được tính tích cực, chủ động trong các hoạt
động, nâng cao năng lực cá nhân.
3.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực
đổi mới trong tư duy lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN. Quan điểm
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới là phát triển vì con
người và do con người. Con người “là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu
của sự phát triển” [44, tr.100]. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: “con người
phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công
dân, tuân thủ pháp luật” [44, tr.105]. Để có thể PTCN toàn diện, ngay từ bây giờ
phải chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời sống con người: Từ đời sống
vật chất đến đời sống tinh thần, từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị,
xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Thực hiện CBXH chính là đảm bảo sự tương xứng giữa cống hiến
và hưởng thụ, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng
tốt năng lực của mình. Do đó, cần phải thực hiện CBXH ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển vì mục tiêu PTCN:
Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển
kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để
nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ
hội và điều kiện phát triển toàn diện [46, tr.30-31].
Đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta cơ bản là đúng
đắn, hợp lòng dân đã động viên, khai thác, phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong
nhân dân cùng với Nhà nước giải quyết những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Đây là
nguyên nhân cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với những thành công của việc
93
thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, góp phần vào sự nghiệp PTCN Việt Nam
toàn diện.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt
được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan trọng đảm bảo thực hiện có hiệu
quả CBXH ở nước ta. Cùng với đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
được định hình ngày càng rõ nét thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sức sản xuất được
giải phóng, các nguồn lực bên trong và bên ngoài được khai thác đang tạo tiền đề
vật chất cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN.
Thứ ba, truyền thống dân tộc là một trong những nhân tố có tác động
không nhỏ tới việc thực hiện CBXH. Trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc
phải kể đến truyền thống: Đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương ái, biết chia xẻ,
gánh vác trách nhiệm, yêu chuộng lẽ công bằng, bình đẳng, lẽ phải… được xây
dựng và định hình trong suốt tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, thấm
sâu trong nhận thức và hành động của mỗi thế hệ người Việt Nam. Hiện nay,
trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị truyền thống ngày càng phát huy tác
dụng trong việc hình thành nhân cách, lối sống tốt đẹp của mỗi cá nhân nhân, khắc
phục chủ nghĩa vị kỷ, sùng bái vật chất, đồng tiền, coi trọng tập thể, cộng đồng. Đây
cũng là cơ sở để những quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH có điều kiện
nhanh chóng đi vào đời sống xã hội.
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối dẫn
đến cản trở sự phát triển con người
3.2.1.1. Sự bất cập của việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
tư liệu sản xuất hạn chế việc phát huy vai trò chủ thể của người lao động
Nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng ban hành và thực thi nhiều chính sách
nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phát huy năng
lực sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đạt được hiệu quả như
mong đợi.
Trước tiên phải kể đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận TLSX. Vẫn còn
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế: “Quyền tự do kinh doanh chưa được
tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh chưa thật sự đảm bảo cạnh tranh công
bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế” [41, tr.73].
94
Do đó, các tiềm năng kinh tế chưa được phát huy một cách tương xứng, làm triệt
tiêu động lực phát triển kinh tế, xã hội.
Thực tế đã chứng minh, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động rất hiệu quả, đem
lại nhiều lợi ích cho đất nước. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực bị phân biệt đối xử,
chịu nhiều rào cản. Trong lĩnh vực đất đai, mặc dù các chính sách đầu tư đều khẳng
định sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế trong tiếp cận đất
đai, trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được sự ưu tiên nhiều hơn so với
doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước được cấp đất kinh doanh, hoặc nếu
phải thuê thì với mức giá ưu đãi (so với giá trị thị trường), sau đó được sử dụng đất
thuê để thế chấp vay vốn ngân hàng, trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước
không được hưởng ưu đãi này. Trong tiếp cận nguồn vốn tiền tệ cũng diễn ra tương
tự. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên tiếp cận tín dụng và ngoại tệ khan
hiếm với giá thấp hơn giá thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có giới
hạn ngân sách mềm, nghĩa là Nhà nước cứu trợ các doanh nghiệp nhà nước khi các
doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính. Với những ưu đãi như vậy,
doanh nghiệp nhà nước mặc dù hoạt động kém hiệu quả vẫn có lợi thế hơn hẳn và
có thể lấn át doanh nghiệp tư nhân. Nguồn lực mà Nhà nước sử dụng để ưu đãi là
tài sản chung của toàn dân. Việc Nhà nước ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước gặp
khó khăn mà không ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân tương tự gặp khó khăn là
việc làm không công bằng.
Không chỉ các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng được hưởng nhiều ưu đãi khi tham gia đầu tư tại Việt
Nam. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam là chủ trương phù hợp của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, vì
ưu đãi một cách thái quá đã gây ra tình trạng bất công, phân biệt đối xử, vi phạm
nguyên tắc công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.
Mặc dù được hưởng nhiều ưu đãi về phương diện tiếp cận nguồn lực,
đồng thời, trong nhiều trường hợp, được hưởng vị thế độc quyền trên thị trường
nội địa, nhưng hiệu quả và sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước
trong đó có cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế lại rất hạn chế
và đang trên đà đi xuống (xem phục lục 3).
Việc quá ưu ái đối với thành phần kinh tế nhà nước đã mang lại nhiều hậu
quả xấu cho nền kinh tế như nợ công, nợ xấu ngày càng lớn và càng phổ biến;
tham nhũng, tham ô tràn lan không kiểm soát được; sự thao túng của các nhóm
95
lợi ích ngày càng rõ rệt và có ảnh hưởng tiêu cực chi phối đến nền kinh tế. Nếu
chúng ta vẫn tiếp tục duy trì tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực
phát triển cũng như bất hợp lý trong phân phối TLSX như hiện nay chúng ta sẽ
không còn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư. Do đó, việc phân phối lại
nguồn vốn là hết sức cần thiết để đạt được tiêu chí hiệu quả, chất lượng hoạt
động của các chủ thể kinh tế.
Không công bằng trong phân phối TLSX còn thể hiện ở chỗ, trong quá
trình phân phối, chúng ta chưa kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.
Nhân dân ở nhiều nơi đã di dời nhường đất canh tác cho các dự án lớn nhưng họ
vẫn chưa hoặc chậm nhận được hưởng thành quả do dự án đó đem lại. Tình trạng
ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp gây bức xúc cho người dân. Tồn tại
nhiều nghịch lý: dân ở vùng thủy điện lại không có điện, dân vùng sông hồ mà
thiếu nước sạch, dân vùng châu thổ vẫn thiếu lương thực; nông dân mất đất sản
xuất không được đào tạo nghề nên bế tắc trong tìm kế mưu sinh; quy hoạch xong
rồi bỏ trống trong khi đó nông dân không có ruộng để sản xuất; công nhân, nông
dân ở nhiều nơi trở thành người làm thuê. Nếu chúng ta không giải quyết tốt
những vấn đề này sẽ gây ra những bất ổn trong xã hội: tệ nạn xã hội gia tăng,
người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, môi trường tự nhiên ô nhiễm.
Tất cả điều này đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
PTCN Việt Nam nói riêng.
3.2.1.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu
nhập hạn chế việc phát triển con người Việt Nam hiện nay
Việc thực hiện phân phối công bằng với những nội dung mới được đặt ra
khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của
nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực
hiện còn nhiều hạn chế, chưa giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích, chưa trở thành
phương thức đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện CBXN. Điều này được phản
ánh rõ nhất qua chính sách tiền lương. Tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức
lao động, còn nhiều bất cập.
Tiền lương tối thiểu là mức lương thấp nhất mà người làm công ăn lương
được hưởng. Mục tiêu đặt ra của tiền lương tối thiểu là tái sản xuất sức lao động
và một phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Đây là “lưới an toàn” giúp người
lao động được bảo vệ khi người trả lương muốn trả mức lương càng thấp càng
96
tốt. Mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu ở nước ta hiện nay
còn quá thấp, không đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho người lao động và lại
chi phối quá lớn, quá cứng nhắc trên toàn bộ các khu vực nhận lương. Theo số
liệu thống kê, mức lương tối thiểu những năm gần đây chỉ đạt 60 - 65% nhu cầu
thực tế. Khi so sánh tiền lương tối thiểu của Việt Nam với các nước trong khu
vực thì nước ta thấp hơn khoản 40%. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam lại lấy mức lương tối thiểu mà Nhà nước chi trả làm gốc tham
chiếu trả lương cho người lao động mà không dựa vào năng suất, chất lượng và
hiệu quả lao động. Điều này dẫn đến trả lương không tương xứng với tốc độ tăng
lợi nhuận và tăng năng suất lao động. Khi đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng
định: “chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động còn thấp, lương tối thiểu chưa đảm bảo
đủ mức sống tối thiểu” [46, tr.136].
Mặt khác, chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay vẫn còn mang tính
bình quân chủ nghĩa. Trong khu vực kinh tế nhà nước, chúng ta trả lương theo vị
trí công chức chứ không trả theo công việc, chưa gắn liền với trách nhiệm, kết
quả lao động. Chính sách biên chế suốt đời, tăng lương đều hàng năm chưa thực
sự khuyến khích người lao động phấn đấu về mặt chuyên môn, mà còn vô tình
thúc đẩy người lao động cố gắng đua theo chức vị.
Tiền lương thấp, một mặt không phản ánh đúng sự đánh giá của xã hội đối
với người lao động, vì vậy, trong nhiều trường hợp đã triệt tiêu động lực sáng
tạo, không kích thích người lao động tích cực tìm kiếm những giải pháp để tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Mặt khác, người lao động phải
tìm cách tăng thêm thu nhập ngoài lương, từ đó sinh ra những hiện tượng tiêu
cực: lao động thiếu trách nhiệm, không tận tâm, không gắn bó với công việc,
tham ô, hối lộ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ đang bị tha hóa dẫn đến nạn tham
nhũng, làm giàu bất chính. Do đó, cần “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý”, “Bảo đảm
tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động”
[46, tr.136].
Tình trạng không công bằng còn thể hiện ở sự chênh lệch quá mức về thu
nhập giữa các khu vực, các thành phần, các ngành kinh tế; sự bất bình đẳng về
thu nhập, mức sống giữa những người có cùng trình độ, cùng năng lực làm việc,
97
nhưng làm việc ở những thành phần kinh tế khác nhau. Theo tài liệu thống kê
của Bộ lao động, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ
lệ lớn nhưng đây là khu vực mà người lao động có mức thu nhập từ tiền lương
thấp nhất trong các loại hình doanh nghiệp. Số lao động có thu nhập cao chỉ tập
trung ở một số ngành chiếm dung lượng lao động trong cơ cấu lao động là
không nhiều (tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí, điện lực, bưu chính, viễn
thông). Những ngành kinh tế có số lượng người tham gia nhiều nhất (hoạt động
hiệp hội, đoàn thể, nông nghiệp, lâm nghiệp) thì lại có mức thu nhập bình quân
đầu người thấp nhất. Sự không công bằng trong thu nhập của người lao động
giữa các ngành, các thành phần kinh tế kéo theo sự bất bình đẳng về PTCN.
Khi chúng ta thực hiện CBXH với các hình thức phân phối đã đề cập ở
trên, sự phân hóa trong thu nhập ngày càng gia tăng giữa các vùng, miền, giữa
các nhóm dân cư. Theo kết quả điều tra chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm
dân số có thu nhập cao nhất so với nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất năm
1990 là 4,1 lần, năm 2012 là 9,4 lần. Chênh lệch thu nhập trung bình giữa các
vùng cũng tương đối rõ nét. Vùng có thu nhập đầu người tính theo tháng cao
nhất hiện nay là Đông Nam Bộ gấp 1,5 lần mức thu nhập chung trên toàn quốc
và gấp gần 2,5 lần so với vùng thu nhập thấp nhất là trung du và miền núi phía
Bắc (xem phụ lục 2 và phục lục 5). Ngay trong nội bộ từng khu vực, từng vùng,
chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng đang tăng dần.
Sự phân hóa này xét ở mức độ nào đó là biểu hiện của CBXH đã được
thiết lập, công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Người có năng lực, trình độ
cao, đóng góp nhiều thì được hưởng thành quả từ sự đóng góp đó. Từ đó sẽ góp
phần kích thích mọi thành viên trong xã hội tích cực học tập, nâng cao trình độ,
hăng hái tham gia sản xuất, kinh doanh, phấn đấu làm giàu. Điều này đã được
Đảng ta đã khẳng định từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII,
việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Song, nếu sự
phân hóa đi quá xa, tập trung ở những vùng nhạy cảm trong thời gian dài sẽ là
lực cản thực sự trên con đường phát triển kinh tế và thực hiện CBXH.
Điều đáng lo ngại là những người gia nhập vào tầng lớp nghèo không chỉ
là những người hạn chế về năng lực, trình độ sản xuất kinh doanh, vốn... phần
đông trong số họ là những người phải chịu nhiều bất lợi về điều kiện sinh sống,
cơ hội được học tập, đào tạo, được tiếp nhận thông tin... Do đó, họ không thể
cạnh tranh với nhiều đối tượng khác có nhiều ưu thế hơn. Đi liền với sự phân
98
hóa về thu nhập là sự phân hóa về cơ hội. Sự đầu tư về giáo dục, y tế và các dịch
vụ khác - những lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chất lượng cuộc
sống chủ yếu thuộc về những người có nhiều tiền. Người nghèo cứ vẫn mãi ở
trong cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Phát triển con người ở đây không chỉ tập trung phát triển một cá nhân,
một bộ phận mà phải đảm bảo sự phát triển của cả cộng đồng, dân tộc. Chúng ta
phấn đấu ngày càng thu hẹp phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện, cơ hội cho
nhiều người vươn lên thoát nghèo và trở lên giàu có, nâng cao mức sống chung
cho đại bộ phận dân cư. Điều này đỏi hỏi Nhà nước phải sử dụng hệ thống công
cụ của mình để có sự điều tiết hợp lý về mọi mặt mới có thể phân phối công
bằng các thành quả của sự tăng trưởng và phát triển nói chung. Phân phối theo
cống hiến các thành quả phát triển, đảm bảo cho mọi người có điều kiện sống,
lao động bình đẳng là nguyên tắc phân phối công bằng nhất hiện nay. Vấn đề đặt
ra là tạo ra được tỷ lệ tương xứng, hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ có tính
đến khả năng phát triển.
3.2.1.3. Những hiện tượng làm giàu bất chính dẫn đến bất công đang
cản trở sự phát triển con người Việt Nam
Làm giàu hợp pháp là xu hướng tất yếu mà xã hội và Nhà nước đang
khuyến khích. Cùng với đó, chúng ta cần ngăn chặn những hiện tượng làm giàu
bất chính như tham nhũng, làm ăn phi pháp. Giàu có không phải bằng tài năng,
công sức, trí tuệ mà bằng cách làm giàu bất chính là hiện tượng bất công xã hội.
Những biểu hiện làm giàu bất chính trong xã hội ngày càng phức tạp và có xu
hướng gia tăng ảnh hưởng xấu, thậm chí vi phạm đến việc thực hiện CBXH và
nghiêm trọng hơn nếu không được sớm ngăn chặn sẽ dẫn đến bất ổn xã hội.
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm
trọng, trở nên phổ biến. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình phân phối
và bóp méo kết quả phân phối ở nước ta. Tham nhũng không chỉ phát sinh ở
trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý
đất đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả
năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao... Thậm
chí, cả những lĩnh vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và
pháp luật như lĩnh vực phúc lợi xã hội (tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã
hội) hay bảo vệ pháp luật. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới về chỉ
số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm, Việt Nam xếp hạng thứ
99
112/168 trong năm 2015 với điểm số: 31/100 [21] (trong đó 0 chỉ mức độ tham
nhũng cao và 100 là rất trong sạch).
Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy
nhà nước, lợi dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật, được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản,
các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Hậu quả của hành vi
tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của
cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà
nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí
một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Hàng loạt vụ
tham nhũng lớn, nghiêm trọng đã bị phát hiện như: vụ tham nhũng tại Vinalines;
vụ tham nhũng tại tập đoàn Vinashin; vụ Huỳnh Thị Huyền Như cũng đồng
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vụ tham ô tài sản lợi dụng chức vụ quyền hạn
xảy ra tại công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam; vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản xảy ra tại công ty dệt Kim Phượng và chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Thành phố Hồ Chí Minh....
Do giàu có nhanh chóng từ tham nhũng nảy sinh tệ nạn lãng phí, lối sống
xa hoa, phô trương, hưởng lạc, sa đọa, biến chất,… Điều đáng nói là, trong khi
đời sống nhân dân nhìn chung vẫn còn nghèo, những người lao động chân chính
đang phải nỗ lực, cố gắng phát huy sức lực, trí tuệ... phấn đấu vươn lên làm giàu,
đóng góp vào sự phát triển chung của dân tộc, thì chính những kẻ tham nhũng lại
đang từng ngày từng giờ cản trở tiến trình phát triển chung đó. Tham nhũng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, thất thoát, lãng phí
tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng
cách giàu nghèo.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của
sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng
còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc khi người thực
hiện hành vi tham nhũng là những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế,
văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống, nền tảng tinh thần cho xã hội.
Bên cạnh đó, tình trạng làm giàu bất chính thông qua các hoạt động buôn
lậu, gian lận thương mại, làm ăn phi pháp, trốn thuế... vẫn còn tồn tại khá phổ
100
biến làm gia tăng bất công xã hội. Trong khi những người làm ăn chân chính
phải bỏ nhiều công sức mới có được khoản thu nhập thì chỉ bằng vài thủ đoạn
lừa lọc, gian lận, bọn chúng đã có thể kiếm được những món tiền lớn, thỏa sức
tiêu sài. Điều này không chỉ khiến ngân sách Nhà nước thất thu lớn mà còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên phương diện PTCN, tham nhũng, làm giàu bất chính xét đến cùng là
sự đánh đổi bằng việc đã lấy đi lợi ích, lấy mất cơ hội phát triển của người lương
thiện. Nó làm giảm niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Đây là nguy cơ làm suy thoái về chính trị, tư tưởng, một trong những tác
nhân của sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa và suy thoái về lối sống, cản trở sự
PTCN bền vững.
3.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội cản trở sự phát
triển năng lực con người Việt Nam
3.2.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong giáo dục,
đào tạo làm hạn chế sự phát triển trí lực con người Việt Nam
Với những thành quả đạt được trong công tác giáo dục, trình độ dân trí
của người Việt Nam được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, để có thể hội nhập quốc
tế một cách hiệu quả, để có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì con người Việt Nam phải có trình độ trí tuệ ngang tầm
đòi hỏi ít ra là của khu vực. Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc phổ cập giáo dục
cơ bản, ở việc biết đọc, biết viết. Công bằng về cơ hội giáo dục còn là tạo điều
kiện để mọi người đều có cơ hội học tập ở bậc học cao hơn, được tiếp cận với
một nền giáo dục có chất lượng. Ở nước ta hiện nay, những bất bình đẳng về cơ
hội giáo dục đang cản trở sự phát triển trí lực con người Việt Nam.
Với việc phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở nên ở các cấp học
này tình trạng bất bình đẳng về giáo dục vẫn chưa rõ nét. Tuy nhiên, người học
muốn học lên các cấp cao hơn phải đóng học phí ngoài kinh phí do Nhà nước
cấp. Càng lên bậc cao thì các hộ gia đình càng phải chi tiêu nhiều hơn cho giáo
dục. Do đó, không phải gia đình nào cũng có điều kiện để cho con em mình tiếp
tục học ở bậc học cao hơn. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách trợ
giúp các đối tượng nghèo, khó khăn như miễn, giảm học phí, nhưng trong thực
tế, khoản tiền miễn, giảm chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ chi phí cho việc
học tập, còn nhiều khoản phải đóng góp như: học thêm, các loại quỹ, tiền mua
sách tham khảo... Độ bao phủ của dịch vụ giáo dục giảm dần từ tiểu học đến đại
101
học. Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012, tỷ lệ đi học đúng độ
tuổi tiểu học đúng độ tuổi 92,4%, trung học cơ sở là 81,4%, trung học phổ thông
59,4%, cao đẳng đại học chưa đến 20% [73, tr.63]. Điều này dẫn đến tỷ trọng lực
lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp. Theo số liệu của tổng cục
thống kê năm 2014, trong tổng số 53,748 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực
lượng lao động của cả nước, chỉ có 9,99 triệu người đã được đào tạo, chiếm
18,6% tổng lực lượng lao động. Trình độ dân trí chưa cao, nhất là trình độ
chuyên môn kỹ thuật còn thấp là những yếu tố cơ bản phản ánh chất lượng của
người Việt Nam còn chưa thực sự phát triển. Đây là một trong những trở ngại
lớn trong lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong bối cảnh
hiện nay để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao. Sự hạn chế về giáo dục, đào
tạo cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội tìm việc làm
có thu nhập tốt.
Thực hiện CBXH trong giáo dục còn là nâng cao chất lượng giáo dục
vùng khó khăn để đạt được mặt bằng chung, đồng thời, tạo điều kiện để các địa
phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt
trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Hiện nay, đa số học
sinh nghèo, nhất là học sinh ở vùng miền núi dân tộc thiểu số thể hiện sự kém
hơn về chất lượng giáo dục khi lên những bậc học cao hơn (do chất lượng giáo
viên, điều kiện học tập, sự quan tâm và khả năng đầu tư của gia đình kém hơn).
Số lượng học sinh ở vùng miền núi dân tộc thiểu số đỗ vào những trường đại học
chính quy cấp quốc gia rất ít, họ thường chỉ có thể thi vào những trường đại học
vùng, tỉnh, các trường cao đẳng, trung cấp, hoặc chờ cơ hội cử tuyển.
Sự chênh lệch về chất lượng giáo dục còn thể hiện ở sự chênh lệch lớn về
lao động được đào tạo giữa các vùng, các địa phương, giữa nông thôn và thành
thị. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo thấp nhất ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long 11,4%, cao nhất là ở Hà Nội 39,4% và thành phố Hồ Chí Minh
34,1% [146, tr.89-92]; ở nông thôn là 12,6% và ở thành thị là 36,3%. Khi người
lao động được đào tạo, có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới
và hội nhập thì thu nhập của họ được nâng cao, là tiền đề quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và PTCN nói riêng.
Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục đang diễn ra cản
trở việc thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo. Đầu tư cho giáo dục, đào
102
tạo còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Tính dàn trải biểu hiện rõ nhất
qua việc số lượng các trường đại học, cao đẳng tăng quá nhanh, mở rộng nhiều
hình thức đào tạo như đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa, vừa học vừa làm...
nhưng quản lý nhà nước không chặt chẽ, cho nên hiện tượng học giả nhưng vẫn
nhận bằng thật không phải là hiếm. Bằng cấp không phản ánh đúng thực chất
trình độ của người có bằng. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng
cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục, đào tạo.
Những bất công trong giáo dục, đào tạo đang từng ngày, từng giờ cản trở
sự phát triển sự phát triển trí lực của con người Việt Nam. Nếu chúng ta căn cứ
vào chỉ số HDI để đánh giá thì giáo dục ở nước ta có chỉ số cao hơn hẳn so với
chỉ số thu nhập và tuổi thọ. Có được điều đó là do chúng ta đã thực hiện nhanh
và hiệu quả quá trình xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, do những yếu kém, bất cập
nên sự phát triển của giáo dục còn chưa tương xứng với sự PTCN, chưa thực sự
tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát triển trí lực của con người.
3.2.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong y tế làm
hạn chế sự phát triển thể lực con người Việt Nam
Thực hiện CBXH trong y tế ở nước ta mặc dù đạt được những tiến bộ nhất
định, góp phần nâng nâng cao thể lực con người Việt Nam; tuy nhiên, tình trạng
bất công bằng trong y tế vẫn lớn.
Thứ nhất, phân bổ nguồn lực và tài chính cho y tế còn nhiều bất hợp lý.
Y tế tuyến huyện và xã là tuyến gần dân nhất thì tỷ lệ chi của ngân sách
nhà nước chiếm tỷ trọng rất thấp, chiếm 18,5% tổng chi. Do đó, các cơ sở y tế
tuyến huyện, xã thường hoạt động trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất,
khó khăn về nhân lực, chế độ thù lao thấp, chi thường xuyên thấp, dẫn đến yếu
kém về chất lượng chuyên môn. Tuyến Trung ương và tuyến tỉnh, nơi mà nhiều
người giàu sử dụng dịch vụ hơn so với người nghèo thì ngân sách nhà nước tập
trung tương đối lớn: tuyến trung ương là 36,8 %, tuyến tỉnh là 44,7%. Tuyến
trung ương, các thành phố lớn và các khu đô thị cũng là nơi tập trung các cơ sở
khám chữa bệnh có cơ sở vật chất tốt và đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên
môn cao. Trong khi đó, phần lớn người dân số nước ta vẫn tập trung ở vùng
nông thôn nên khó tiếp cận tiếp cận với các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe có
chất lượng, vừa gây ra hiện tượng trợ cấp ngược: người giàu được hưởng chi từ
103
ngân sách nhà nước hơn là người nghèo. Có thể nói, việc người giàu nhận được
nhiều ưu đãi về y tế hơn người nghèo là một sự bất công. Điều đó thể hiện sự
yếu kém trong khâu quản lý và thực thi chính sách ở các địa phương, làm tăng
bất công xã hội.
Thứ hai, bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế.
Trong những năm gần đây, độ bao phủ BHYT được mở rộng làm tăng cơ
hội tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là đối với người nghèo. Đây sẽ là
phao cứu sinh cho người nghèo để họ có thể tiếp cận được với các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe khi chẳng may ốm đau. Tuy nhiên, mức chi trả của BHYT dành cho
nhóm đối tượng này rất thấp khiến thẻ BHYT của người nghèo phát ra chỉ lấy số
lượng nhiều hơn chất lượng, không giúp được họ nhiều trong tiếp cận và sử dụng
dịch vụ y tế, bảo vệ họ khỏi các thảm họa bệnh tật, thảm họa tài chính do bệnh tật.
Thực tế cho thấy, các nhóm dân số nông thôn, người nghèo, dân tộc thiểu số có
mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế thông qua bảo hiểm y tế thấp hơn các nhóm thành
thị, người giàu dân tộc Kinh. Tần suất khám chữa bệnh của người giàu thông qua
bảo hiểm y tế cao hơn. Rõ ràng, người giàu vẫn là người hưởng lợi nhiều hơn
người nghèo từ qũy BHYT.
Bên cạnh đó, với cơ chế tự chủ và xã hội hóa dịch vụ y tế, nhiều bệnh viện
công hình thành khu vực khám chữa bệnh theo nhu cầu. Từ đó dẫn tới nghịch lý,
trong cùng một một khoa hình thành 2 chế độ. Người bệnh sử dụng BHYT hoặc
thu nhập thấp thì phải nằm ghép 2-3 người/giường, còn người bệnh khám chữa
bệnh theo yêu cầu 1 người/giường với đầy đủ tiện nghi, những người có điều
kiện hơn có thể chọn nằm phòng riêng chỉ có 1-2 người/phòng. Sự tương phản
này cũng làm tăng bất công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Thứ ba, tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình cho y tế vẫn cao so với thu nhập.
Hiện nay ở nước ta, tỷ trọng nguồn tài chính công chiếm khoảng 30%
tổng chi của xã hội cho y tế, nguồn tài chính cho chăm sóc sức khỏe chủ yếu từ
tiền túi hộ gia đình. Tỷ trọng chi công như vậy được coi là rất thấp so với những
nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới và thuộc nhóm có cơ cấu chi
gây bất bình đẳng nghiêm trọng theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới
(WHO). Việc các nguồn chi trả từ hộ gia đình chiếm tỉ trọng cao sẽ dẫn đến
việc các gia đình sẽ phải thường xuyên đối mặt với chi phí y tế quá khả năng
chi trả, họ có nguy cơ bị nghèo hóa. Theo báo cáo tổng quan của ngành y tế
104
năm 2013, nếu chi phí từ tiền túi của hộ gia đình bằng hoặc lớn hơn 40% khả
năng chi trả của hộ gia đình (là phần thu nhập còn lại của hộ gia đình sau khi
đã chi cho lương thực, thực phẩm) thì đó là chi phí y tế thảm họa. Khi con
người gặp khó khăn trong việc trang trải chi phí y tế thì có nghĩa thể lực không
được đảm bảo phát triển tốt, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt khác:
Trí lực, tâm lực.
Có thể thấy, vấn đề công bằng trong y tế ở nước ta đang bị đánh giá khá
thấp. Theo đánh giá của Tổ chức y tế thế giới năm 2009, Việt Nam được xếp thứ
183 trong tổng số 194 quốc gia về công bằng trong y tế. Tình trạng bất công
bằng về y tế ở nước ta biểu hiện rõ nhất ở sự bất công bằng giữa các vùng miền,
giữa các khu vực cư trú, giữa các nhóm tuổi, giữa nhóm giàu và nhóm nghèo...
về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe. Điều này đã dẫn đến sự
khác biệt trong tình trạng sức khỏe người dân giữa các nhóm kinh tế, xã hội,
vùng miền, dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là
những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển về thể lực con người. Có sự
khác nhau giữa các nhóm, vùng, miền về những chỉ tiêu này. Ở khu vực nông
thôn, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở mức 21,5‰, cao gấp 1,5 lần khu vực
thành thị (15,7‰). Tỷ suất tử vong trẻ em dưới năm tuổi cao nhất ở khu vực
Trung du và miền núi phía Bắc là 47,5‰, cao gấp 6,5 lần so với khu vực thấp
nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi cao
nhất ở nhóm dân tộc thiểu số là 53‰, cao gấp khoảng 4 lần so với nhóm
Kinh/Hoa [148]. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em cũng có sự khác biệt lớn theo
vùng, trong đó, Tây Bắc và Tây Nguyên có tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao nhất.
Điều này dẫn đến sự phát triển thể lực con người Việt Nam cũng có sự chênh
lệnh lớn giữa các vùng, các địa phương. Vì thế, tuổi thọ cũng có sự chênh lệch
lớn (xem phụ lục 6 và phụ lục 7).
Báo cáo PTCN của thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy, chỉ số tuổi thọ ở nước ta đang có xu hướng tăng chậm do nhiều yếu tố,
trong đó có sự bất công bằng về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khỏe. Đây là thách thức rất lớn đối với việc PTCN khi Việt Nam đang nỗ lực
giảm bớt khoảng cách giữa các vùng và các nhóm thu nhập hướng tới mục tiêu
PTCN bền vững.
105
3.2.2.3. Công bằng về cơ hội trong tiếp cận thông tin, văn hóa còn nhiều
bất cập làm hạn chế sự phát triển tâm lực của con người Việt Nam
Hiện nay, việc tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội được
tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa vẫn chưa thực sự đạt kết quả như mong
muốn. Sự phân hóa trong thu nhập giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư
đã kéo theo sự phân hóa trong đời sống văn hóa. Các nhóm xã hội có thu nhập,
trình độ học vấn khác nhau có nhu cầu hưởng thụ văn hóa, lối sống, định hướng
giá khác nhau, hình thành các nhóm văn hóa trung lưu, văn hóa người giàu, văn
hóa người nghèo. Khảo sát thực tế cho thấy, những gia đình có mức sống thấp
hầu như không có điều kiện đầu tư cho nhu cầu tinh thần. Đặc biệt ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc cư trú, các sinh hoạt văn hóa còn nghèo nàn,
nhiều gia đình quanh năm không bao giờ đọc sách báo, xem phim, thỉnh thoảng
xem văn nghệ do các đoàn văn công tỉnh về biểu diễn không mất tiền.Thực tế
cũng chỉ ra, nhóm nghèo thường mặc cảm và đóng kín về văn hóa, từ đó khiến
họ khó tiếp cận được với các thông tin, tri thức, tiếp cận các cơ hội nguồn lực
giúp họ cải thiện đời sống.
Sự phân hóa về văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến PTCN, khiến cơ hội và
điều kiện để nâng cao năng lực của con người rất khác nhau. Đời sống văn hóa
nghèo nàn, cơ hội tiếp cận thông tin hạn chế kéo theo sự nghèo nàn về tâm hồn,
trí tuệ. Do không có điều kiện tiếp cận thông tin, tri thức nên những nhóm này
thường khó vươn lên làm giàu. Đây cũng là nhóm dễ bị các phần tử xấu, các
phần tử phản động lôi kéo, kích động gây mất ổn định xã hội.
Sự phân hóa còn thể hiện rất rõ ở các thiết chế văn hóa cộng đồng. Những
khu vực kém phát triển hay thu nhập thấp thì các thiết chế văn hóa cũng thường ít
được đầu tư, không được xây dựng khang trang như những nơi có thu nhập cao. Ở
nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, vùng biên giới, hải đảo, hệ
thống thiết chế văn hóa cũng như hoạt động văn hóa còn quá nghèo nàn, chưa đáp
ứng nhu cầu của nhân dân. Nhiều địa phương chưa có đủ quỹ đất như quy định
cũng như thiếu kinh phí, thiếu đội ngũ cán bộ để xây dựng hệ thống thiết chế văn
hóa. Tình hình trên đây cũng đúng với hệ thống rạp chiếu phim, thư viện, bảo tàng,
nhà triển lãm,... Hiện nay, cả nước có rất nhiều thư viện, nhưng ngoại trừ ở các
thành phố lớn, số lượng đầu sách ở các thư viện cơ sở rất nghèo nàn, các sách mới
không được bổ sung, do đó không hấp dẫn người đọc. Điều này đã hạn chế người
106
dân tiếp cận thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc biệt về kiến thức
trong đời sống kinh tế, kinh nghiệm làm ăn vươn lên thoát nghèo và làm giàu cho
bản thân cũng như cho gia đình và cộng đồng.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xã hội
hóa hoạt động văn hóa. Thời gian qua, các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa do
các cá nhân tự tổ chức và huy động kinh phí đã phát triển tương đối mạnh, nhất là
lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, bảo tồn, tôn tạo các di
tích lịch sử - văn hóa của địa phương, khôi phục, phát triển các lễ hội truyền thống
v.v.. Công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả quan trọng,
góp phần cải thiện và nâng cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc
biệt là người dân vùng nông thôn. Những thành tựu xã hội hóa hoạt động văn hóa là
đáng ghi nhận, tuy nhiên, vẫn còn không ít những mặt yếu kém, khuyết điểm.
Chúng ta chưa có những giải pháp hữu hiệu để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
đời sống văn hóa của đồng bào miền ngược với miền xuôi, nông thôn và thành thị.
Hoạt động xã hội hóa văn hóa không đồng đều giữa các vùng miền và các lĩnh vực
văn hóa đã dẫn đến những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin, kiến thức, học hành
ở những vùng khó khăn.
Cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn đều đã chứng minh, để tạo điều kiện cho
mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình thì cần phải tạo
điều kiện cho họ có thể tiếp cận một cách bình đẳng, công bằng với các dịch vụ
xã hội như: giáo dục, y tế, thông tin văn hóa… Thực tế cho thấy, các cơ hội đầu
tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác chủ yếu thuộc về những
người giàu. Phần thua thiệt thường rơi vào những người nghèo, người dễ bị tổn
thương và yếu thế trong xã hội. Người nghèo ít có cơ hội trong tiếp cận nền giáo
dục bậc cao và chất lượng, hạn chế trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
thông tin, văn hóa, do đó, cũng bị hạn chế về cơ hội việc làm. Điều này làm tăng
thêm tình trạng bất công trong xã hội, khiến sự PTCN thiếu bền vững.
3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện CBXH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Sau 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã
chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta hướng đến mục tiêu thực hiện: dân giàu, nước
107
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế thị trường có tác động tích
cực trong việc kích thích mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất để thực hiện CBXH. Song, kinh tế thị
trường cũng có nhiều hạn chế, làm nảy sinh nhiều bất công trong xã hội, ảnh
hưởng tới mục tiêu thực hiện CBXH. Nền kinh tế thị trường với sự hoạt động
mạnh mẽ của các quy luật khách quan: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...
dẫn tới tình trạng sẽ có một lớp người giàu lên nhanh chóng do có năng lực, trình
độ, vốn, tài sản... đồng thời, cũng sẽ có nhiều người do thiếu trình độ, kỹ năng
sản xuất, kinh nghiệm quản lý, thiếu vốn, làm ăn thua lỗ... trở nên nghèo khó.
Những người giàu có do lợi thế về vốn, kỹ năng quản lý... ngày càng giàu có.
Những người nghèo, yếu thế hơn do quy luật cạnh tranh của thị trường lại tiếp
tục bị đào thải và ngày càng nghèo. Theo vòng quay của kinh tế thị trường thì sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu thêm. Phân hóa giàu nghèo là điều không thể
tránh khỏi của mọi nền kinh tế thị trường. Điều này không ngoại lệ đối với quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Thực tế những năm qua đã cho thấy,
cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế là tình trạng phân hóa giàu
nghèo ngày càng có chiều hướng gia tăng. Sự phân hóa này, xét ở mức độ nào đó
là biểu hiện của CBXH, công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Tuy nhiên, sự
phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất bình đẳng xã hội hoàn toàn không phù hợp
với mục tiêu xây dựng CNXH của chúng ta.
Nhận thức rõ xu hướng phân cực ngày càng lớn trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc triển khai
các biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này: có chính sách bảo trợ và điều tiết
hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các khu vực, giữa các vùng,
miền, nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội phù hợp với trình độ phá triển
kinh tế; dùng các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp; khuyến khích làm
giàu hợp pháp, tích cực xóa đói, giảm nghèo, ngăn chặn thu nhập phi pháp... Tuy
nhiên, hiệu quả của những biện pháp trên chưa cao.
Cùng với việc gia tăng phân tầng xã hội, kinh tế thị trường dẫn đến tuyệt
đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là
trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. Tiền xâm nhập vào
nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu
chuẩn hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô,
hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy
108
chức chạy quyền bằng tiền... chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay
nhưng hiện vẫn đang diễn ra phức tạp và là nỗi lo lắng của xã hội.
Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang hạn chế vai trò của thực hiện
CBXH đối với việc PTCN mà nguyên nhân của nó là do thể nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chúng ta đang xây dựng “chưa thật đồng bộ, thông
suốt; chưa thực sự là động lực đột phá để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện
môi trường kinh doanh”... “Các loại thị trường vận hành còn nhiều vướng mắc
và hiệu quả chưa cao”... “Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để
đảm bảo cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng
trong kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế” [46, tr.247-248].
Bên cạnh đó, những bất cập của thời kỳ bao cấp với “cơ chế xin cho”, vừa
bình quân, vừa đặc quyền vẫn còn phổ biến không những trong đời sống vật chất
mà cả trong nhận thức. Chúng ta tiến hành đổi mới được 30 năm, song đến nay,
trong cách làm chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại. Chẳng hạn,
trong vấn đề về phân phối TLSX mà cụ thể ở đây là vốn, chúng ta phân phối vẫn
mang tính dàn trải, theo cơ chế xin - cho. Từ cơ chế này các nguồn lực sẽ được
phân bổ tới những địa chỉ có “quan hệ”, chứ không phải tới những địa chỉ cần
cho sự phát triển. Cùng với đó, vấn đề chế độ tiền lương của người lao động
trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
của Nhà nước vẫn bất cập bởi tính bình quân của nó. Điều này đã trực tiếp làm
giảm lòng nhiệt tình lao động, hạn chế việc phát huy khả năng, sự sáng tạo của
người lao động.
Cùng với chế độ phân phối bình quân, tư tưởng đặc quyền, đặc lợi vẫn
còn tồn tại phổ biến, thậm chí có chiều hướng gia tăng tính bất công xã hội. Có
thể thấy rõ qua việc một bộ phận cán bộ có chức quyền được cấp hoặc bán đất
phân lô với giá rẻ, thấp hơn giá thị trường rất xa (trong khi đó Nghị định của
Chính phủ từ năm 1992 trở đi cấm cấp đất phân lô cho cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước); đó là việc cấp phương tiện đi làm không đúng cho một bộ phận
cán bộ (ô tô, xăng dầu, người điều khiển...); đó là đặc quyền, đặc lợi trong phân
bổ ngân sách, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, trong tổ chức bố trí cán bộ đi
tham quan, nghiên cứu nước ngoài... Thậm chí, đặc quyền, đặc lợi còn thể hiện
trong cả cơ cấu vào cấp uỷ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Tư tưởng và lề thói đặc
quyền, đặc lợi có tác hại rất lớn đến sự phát triển của đất nước. Nó xâm phạm tài
109
sản nhà nước, lợi ích của nhân dân, gây mất CBXH. Nó kích thích phát triển tệ
nạn chạy chức, làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với
Đảng và chế độ, tạo nên những bức xúc, cản trở sự đồng thuận xã hội và là một
trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự thờ ơ về chính trị.
Thứ hai, sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội,
cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện chính sách đã
gây khó khăn cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN.
Chính sách kinh tế là những chủ trương và biện pháp kinh tế mà Nhà nước
áp dụng trong một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những yêu cầu
và những mục tiêu kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách kinh tế được xây dựng
trên cơ sở những phân tích, dự báo về các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước
và những xu hướng phát triển của xã hội. Các chính sách kinh tế có tác dụng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kinh tế phát triển là điều kiện, cơ sở để thực hiện
tốt CBXH.
Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, sự phát triển kinh tế cũng đồng thời
kéo theo một loạt các vấn đề về xã hội, như nạn thất nghiệp, sự phân hóa giàu
nghèo, mất cân bằng sinh thái, các chứng bệnh nan y và cả sự thay đổi về các giá
trị đạo đức, giá trị tinh thần... Chính vì vậy, bên cạnh các chính sách kinh tế,
chính sách xã hội đóng vai trò như một cán cân điều tiết, đem lại đời sống tốt
đẹp, sự công bằng, dân chủ cho mỗi thành viên trong xã hội. Chính sách xã hội
là bộ phận cấu thành chính sách chung của Nhà nước trong việc quản lý và giải
quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của các
thành viên trong xã hội, từ điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa
đến quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội.
Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là hai phạm trù riêng rẽ nhưng
không tách rời nhau, có mối quan hệ tương hỗ và thống nhất. Sự đồng bộ giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội là điều kiện cần và đủ để bình ổn và phát
triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện
chính sách xã hội và ngược lại, sự ổn định, công bằng và tiến độ của xã hội đạt
được thông qua các chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ để thực
hiện các mục tiêu kinh tế, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Làm rõ mối quan hệ giữa hai loại chính sách này thực chất là
làm rõ mục tiêu xã hội trong chính sách kinh tế, làm rõ điều kiện kinh tế ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách xã hội. Đây cũng đồng thời là quan hệ giữa tăng
110
trưởng kinh tế và mục tiêu CBXH. Sự hài hòa, đồng thuận giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, mạnh, bền vững đồng thời
đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.
Ở nước ta hiện nay, việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội
bên cạnh những thống nhất cơ bản vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, dẫn đến
vi phạm nguyên tắc CBXH. Việc thực hiện chính sách kinh tế phải tuân thủ
nghiêm ngặt quy luật của kinh tế thị trường, phải chấp nhận cạnh tranh, phá sản,
thất nghiệp... Mặc dù trong chính sách kinh tế đã hàm chứa những giải pháp xã
hội, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của nó là giải quyết những vấn đề kinh tế. Để đảm
bảo tăng trưởng kinh tế, bất cứ một giải pháp kinh tế nào cũng trước hết, phải
chú trọng đến hiệu quả kinh tế. Do vậy, chính sách kinh tế, dù tối ưu đến đâu
cũng không thể bao quát và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp của
lĩnh vực xã hội rộng lớn. Vì vậy, không thể tránh khỏi nảy sinh những vấn đề xã
hội nhức nhối trong quá trình phát triển kinh tế. Ngược lại, việc thực hiện các
chính sách xã hội nhiều khi mâu thuẫn với kinh tế. Bởi vì, việc thực hiện các
chính sách này vượt quá khả năng cho phép của nền kinh tế, hoặc vi phạm những
nguyên tắc công bằng trong kinh tế, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự giàu lên nhanh chóng của một bộ phận
dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế, chính sách và yếu kém trong
quản lý nhà nước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả lao
động. Chính sách đất đai là một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay. Ở
nhiều vùng, chính sách thu hồi đất làm khu công nghiệp, khu đô thị phục vụ
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa bên cạnh những tác động tích cực: thay
đổi diện mạo nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, nhiều ngành nghề mới được
mở ra tạo điều kiện cho người nông dân có cơ hội tìm kiếm việc làm... nhưng
cũng đặt ra nhiều bất cập: Vấn đề việc làm cho những người nông dân mất đất
nhưng trình độ nhận thức và tay nghề hạn chế không thể trực tiếp tham gia vào
những ngành nghề mới mở ra; phân hóa thu nhập, giàu nghèo diễn ra với tốc độ
nhanh giữa những người có cơ hội tiếp cận được những ngành nghề phi nông
nghiệp và bến động giá đất với những người không có cơ hội trên. Trong thời
gian qua chúng ta chưa có các chính sách và giải pháp hữu hiệu để giải quyết
những vấn đề nêu trên.
Mặt khác, chính sách tốt nhưng tổ chức thực hiện kém sẽ làm giảm hiệu
lực thực thi, thậm chí vi phạm nguyên tắc CBXH. Nguyên tắc phân phối mà
111
Đảng ta nêu ra trong điều kiện nước ta hiện nay được đánh giá là công bằng và
hợp lý nhưng nguyên tắc này chưa được thực hiện tốt trong thực tế. Tuy là phân
phối theo lao động nhưng còn đang xảy ra tình trạng bất công bất khả kháng.
Nhiều nghề lao động giản đơn trong một số trường hợp lại có thu nhập lớn hơn
nhiều lần thu nhập phức tạp, nhiều lĩnh vực lao động trí óc lại hưởng thụ thấp
hơn lao động chân tay, nhiều sản phẩm lao động trí óc vẫn chưa có thị trường.
Nhiều người ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng phúc lợi như ở thành phố....
Hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện chính sách còn thể hiện qua: chậm
thực thi chính sách, rõ nhất ở thực hiện các dự án đầu tư công, chính sách thuế,
chính sách ưu đãi; chưa bao quát, thậm chí chưa đúng đối tượng chính sách; hoạt
động theo dõi, đánh giá vẫn mang nặng tính hình thức dẫn đến tình trạng chỉ
quản lý theo đầu vào, không đánh giá được đầu ra. Hệ quả là khó nắm bắt thông
tin kịp thời cũng như khó đánh giá được tác động của chính sách để phục vụ cho
điều hành, điều chỉnh chính sách.
Thứ ba, hạn chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã
làm giảm vai trò của việc thực hiện CBXH với việc PTCN.
Thực chất sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị mang tính định
hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính
trị có cơ sở để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công
cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể của mình. Đảng đề ra chủ trương, đường
lối về CBXH. Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa chủ trương, đường lối đó
thành các luật và chính sách. Đảng lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội tổ chức thực hiện và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động đó.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lãnh đạo, chỉ đạo
và quản lý việc thực hiện CBXH của Đảng và Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn
chế ảnh hưởng đến mục PTCN Việt Nam.
Năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và về CBXH nói riêng
còn hạn chế. Điều này đã được đề cập nhiều lần trong các kiện Đảng: “Công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở
khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước” [42, tr.67]. Nói chung trình độ tư duy lý luận của Đảng về CBXH vẫn
trong tình trạng bất cập so với yêu cầu của thực tiễn hiện nay. Nhiều vấn về
112
CBXH được đặt ra mà lý luận chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức
thuyết phục, vì vậy vai trò tiên phong, dẫn đường của lý luận cách mạng bị hạn
chế. Hơn nữa, mặc dù công bằng là một trong 5 thành tố của mục tiêu phát
triển song cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng và ban hành nghị quyết
tổng thể về thực hiện CBXH. Các chủ trương, quan điểm, giải pháp thực hiện
CBXH chủ yếu thể hiện ở những quan điểm, giải pháp chung chung trong Văn
kiện, Nghị quyết của Đảng. Việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện những quan
điểm, giải pháp chung về CBXH chủ yếu được thể hiện trong các nghị quyết về
phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục - đào tạo, văn hóa... Còn tình trạng ban hành
nhiều nghị quyết, quyết định trong các lĩnh vực này chưa thực sự gắn kết với
việc thực hiện CBXH. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện CBXH
chưa được coi trọng.
Trong thời gian qua, Đảng ta có nhiều nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước về cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước. Song, năng lực quản lý điều hành của bộ máy nhà nước ta chưa ngang tầm
với đòi hỏi của thời kỳ mới, năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát;
trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm.
Việc xây dựng và ban hành một số văn bản pháp luật, mà ở đây là những
đạo luật, những chế độ, chính sách liên quan đến CBXH vừa chậm, vừa thiếu
đồng bộ, chất lượng chưa cao. Hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng
bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Nhiều đối
tượng lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để trục lợi gây ảnh hưởng đến việc
thực hiện CBXH (trốn thuế, tham nhũng, v.v..). Một số văn bản pháp luật quan
trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao. Ví dụ, Luật Cạnh tranh tuy
được ban hành từ năm 2004, song hiệu lực thực thi còn thấp, vẫn còn nhiều khe
hở để một số doanh nghiệp lạm dụng vị thế khống chế thị trường, làm tổn hại lợi
ích của xã hội nói chung và những doanh nghiệp nhỏ nói riêng. Tính cụ thể,
minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp. Những sai phạm về hình thức văn
bản vẫn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp
luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh. Quy
trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng. Cách phân công
và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của
ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của người dân.
113
Việc sửa đổi những điểm không còn hợp lý và bổ sung những điểm mới trong
một số văn bản pháp luật nhìn chung còn chậm trễ, làm cho việc xử lý những
vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn thiếu căn cứ pháp lý. Trong khi đó, công tác
kiểm tra và giám sát còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp của các cơ quan chức năng
thanh tra và kiểm toán rất lỏng lẻo, thiếu đồng bộ. Công tác xử lý hay cưỡng chế
sai phạm, truy cứu trách nhiệm công vụ chưa thực sự kịp thời và đúng pháp luật.
Đây chính là nguyên nhân gia tăng tình trạng tham nhũng, lãng phí, làm ăn phi
pháp… trong thời gian qua.
Thực hiện CBXH là một nội dung lớn, cần được quán triệt và phối hợp
tích cực giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng
quan điểm, đường lối, định hướng chính trị giúp cho Nhà nước phát huy vai trò,
hiệu quả hoạt động. Nhà nước cần thực hiện chức năng quản lý hiệu quả, đặt
dưới sự lãnh đạo Đảng. Tuy là hai mặt thống nhất, nhưng Đảng và Nhà nước có
vai trò, chức năng khác nhau. Ở nước ta hiện nay, tình trạng không phân định rõ
về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Đảng và Nhà nước còn khá phổ biến
dẫn đến sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gây nhiều lúng
túng trong tổ chức hoạt động, làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
quản lý của Nhà nước. Chính những hạn chế trong phân định chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn giữa Đảng và Nhà nước đã dẫn tới tình trạng quan điểm, đường
lối của Đảng đúng đắn, nhưng nhiều khi không được thực hiện, thậm chí thực
hiện sai.
Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ đảng viên còn tương
đối thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Các cán bộ,
đảng viên hầu như chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, hệ thống về
thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh
nghiệm lãnh đạo thực hiện công việc này của các cán bộ, đảng viên còn chưa
nhiều, nên họ khó tránh khỏi lúng túng và sai sót. Điều đáng quan ngại hơn nữa
chính là sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận không ít cán bộ, công chức.
Không ít trường hợp cán bộ, công chức lợi dụng chức quyền để vòi vĩnh, đòi hối
lộ, gây đủ mọi phiền hà đối với người dân và doanh nghiệp.
Thứ tư, hạn chế trong nhận thức về CBXH đã và đang làm giảm vai trò
của việc thực hiện CBXH với việc PTCN.
Như đã phân tích, CBXH là một phạm trù mang tính lịch sử. Nó không
chỉ phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, bản chất của nhà nước và giai cấp
114
cầm quyền mà còn bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Để thực hiện tốt CBXH trước hết cần
có quan niệm đúng về CBXH phù hợp với tiền đề hiện thực của nền kinh tế cũng
như mục tiêu chính trị của đất nước.
Chúng ta tiến hành đổi mới được 30 năm, tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn
đề lý luận về CBXH chưa được làm sáng tỏ khiến không ít cán bộ và người dân
vẫn còn nhận thức mơ hồ, giản đơn về CBXH. Nhiều người đồng nhất CBXH với
chủ nghĩa bình quân, coi CBXH là mọi người đều ngang bằng nhau trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, người làm ít, làm nhiều, cống hiến nhiều, cống hiến ít
đều được hưởng quyền lợi như nhau dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp
đỡ của Đảng và Nhà nước, không chịu cố gắng vươn lên. Đa số mọi người nhận
thức về CBXH mới chỉ dừng lại ở chiều cạnh kinh tế, hiểu CBXH là sự tương
xứng giữa cống hiến và hưởng thụ. Cách hiểu này không bao quát hết được nội
hàm của khái niệm CBXH. Nhiều người lẫn lộn giữa CBXH và bình đẳng xã hội.
Chính những sai lầm, hạn chế trong nhận thức dẫn đến quá trình thực hiện CBXH
ở nước ta còn nhiều bất cập, mục tiêu thực hiện CBXH cũng như PTCN đều
không thực hiện được.
Những nguyên nhân trên đây là chủ yếu. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu
nhất quyết định sự thành, bại trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở nước
ta hiện nay là nhân tố chủ quan, tức bản thân các chủ thể trong thực hiện CBXH.
Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống các chính sách phù hợp góp phần đảm
bảo thực hiện CBXH, PTCN.
Kết luận chương 3
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta,
CBXH đã được thực hiện tương đối tốt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế... củng cố sự ổn định xã hội, phát triển kinh
tế, góp phần nâng cao đời sống người dân, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội cho
sự PTCN. Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong việc thực hiện CBXH
với việc PTCC là nhờ: Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực đổi mới trong tư duy
lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan
trọng đảm bảo thực hiện có hiệu quả CBXH; truyền thống đoàn kết cộng đồng,
115
tương thân, tương ái, biết chia xẻ, gánh vác trách nhiệm, yêu chuộng lẽ công
bằng, bình đẳng, lẽ phải… của dân tộc ta.
Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CBXH, PTCN là kết quả
nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong suốt thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên,
thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế đang cản trở sự PTCN.
Trong lĩnh vực phân phối TLSX cũng như phân phối thu nhập vẫn còn nhiều
bất hợp lý, không phát huy được tính tích cực của người lao động, trong khi đó,
những biểu hiện làm giàu bất chính có xu hướng tăng gây bất ổn về chính trị -
xã hội. Những bất cập trong giáo dục - đào tạo, trong công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân, trong lĩnh vực văn hóa - thông tin đang từng ngày, từng giờ cản
trở sự PTCN Việt Nam cả về trí lực, thể lực và tâm lực. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến những bất cập nêu trên, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu:
những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN; sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội, cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện
chính sách đã gây khó khăn cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN; hạn
chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã làm giảm vai trò
của việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN; hạn chế trong nhận thức về
CBXH đã và đang làm giảm vai trò của việc thực hiện CBXH đối với sự PTCN.
Điều này đòi hỏi cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện tốt
hơn nữa CBXH, đồng thời, khắc phục những tồn tại, yếu kém vì mục tiêu
PTCN người Việt Nam toàn diện.
116
Chương 4
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG BẰNG XÃ HỘI,
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Có thể hiểu, thể chế kinh tế thị trường “là khung khổ, trật tự quy tắc
xác định quan hệ giữa các chủ thể kinh tế, xã hội thích ứng với các nguyên lý
của hệ kinh tế thị trường trong mọi hoạt động kinh tế” [4, tr.118]. Thể chế
kinh tế thị trường bao gồm: các thị trường và cơ chế vận hành thị trường; các
chủ thể thị trường; các quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu tham gia vận hành cơ
chế thị trường.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Nhờ đó, đã tạo ra những cơ hội để các thành phần kinh tế cũng như các
thành viên trong xã hội có cơ hội phát huy năng lực, sở trường, vốn liếng vào
phát triển kinh tế, đảm bảo cho tất cả mọi người có cống hiến đều được hưởng
thụ tương xứng với mức độ mà họ đã cống hiến cho xã hội, từ đó khuyến khích
mọi người làm giàu chính đáng, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế
thị trường cũng tạo ra những cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề phúc lợi xã
hội, an sinh xã hội tốt hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục -
đào tạo, y tế, văn hóa... nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, thể chế kinh tế thị trường vẫn là một trong
những điểm nghẽn cản trở sự phát triển, làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu
nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và hàng loạt các tiêu cực xã hội nảy
sinh như: tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại, hàng
giả, hàng kém chất lượng… gây ra tình trạng mất CBXH, cản trở sự PTCN. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã coi hoàn thiện thế chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một trong 3 khâu đột phá chiến lược. Sau gần 5
năm thực hiện, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định, thể chế kinh tế
117
thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thiện, chưa có đột phá về thể chế
để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế
thị trường. Với Việt Nam, việc xây dựng thể chế KTTT là một nhu cầu cấp bách
trong thực hiện CBXH đối với việc phát triển con người nói riêng, cũng như sự
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục xóa bỏ triệt để hơn nữa cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp về tiếp cận các nguồn lực phát triển và thành quả phát triển.
Cơ chế phân phối là một bộ phận quan trọng của thể chế kinh tế. Cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp với kiểu phân phối bình quân, cào bằng, cơ chế xin -
cho tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài đã cản trở các chủ thể kinh tế quyền
được tiếp cận với các cơ hội phát triển, gây ra những bất công trong phân phối
các nguồn lực (tư liệu sản xuất/điều kiện sản xuất) cũng như thành quả phát
triển. Sự bất công thể hiện rất đa dạng: bất bình đẳng giữa thành phần kinh tế
này với thành phần kinh tế khác, bất bình đẳng giữa các chủ thể trong cùng một
thành phần kinh tế hay trong cùng một ngành nghề kinh doanh và sản xuất... Sự
bất công trong phân phối khiến môi trường cạnh tranh không lành mạnh, cản trở
cơ chế thị trường phát huy tác dụng, gây mất CBXH, thủ tiêu tính tích cực của
người lao động, là một trong những nguyên nhân gây bất ổn xã hội, cản trở sự
PTCN. Do đó, cần phải hoàn thiện cơ chế phân phối. Việc phân phối các nguồn
lực của phát triển phải tuân theo các quy luật của thị trường và các quy định của
Nhà nước. Các chủ thể kinh tế được đảm bảo cơ hội bình đẳng tiếp cận nguồn
lực phát triển. Nhà nước có vai trò điều tiết quá trình phân phối cần phải bảo
đảm một sân chơi lành mạnh cho các chủ thể kinh tế, tạo môi trường thuận lợi
cho các chủ thể kinh tế phát triển trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Bên cạnh
đó, cần có hệ thống công cụ giám sát, cưỡng chế mạnh để ngăn chặn kịp thời
những hành vi phân phối gây ra hiên tượng bất công.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội phát triển
cho mỗi cá nhân.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên sự tồn tại khách quan
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp.
Đó là yêu cầu khách quan. Hoàn thiện chế độ sở hữu là cơ sở cho việc tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, đảm bảo tăng
118
trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội phát triển
cho mỗi cá nhân. Phương hướng cơ bản của hoàn thiện chế độ sở hữu là: tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về sở hữu theo hướng khẳng định sự tồn
tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở
hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư,
quyền sở hữu và quyền tài sản. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với
các loại tài sản mới như: trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu. Thể chế hoá quyền tài sản
(bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử
dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến
pháp năm 2013. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của
mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Đối với các chủ thể sản xuất, kinh doanh hoàn thiện thể chế theo hướng đảm
bảo mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế
thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Bảo đảm quyền tự do kinh
doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả
cơ chế hậu kiểm; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh
bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền
kinh doanh.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng tập
trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác không đầu tư. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính
trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng
quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh
bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đối với
kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã, Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp
cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ
phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát
triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Khuyến khích phát triển các loại hình
doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp,
nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích,
tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực
119
kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính
sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường, hình thành đầy đủ các
yếu tố của kinh tế thị trường trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội cho mỗi cá
nhân phát triển.
Ở nước ta hiện nay có 5 loại thị trường cơ bản được xác định là: thị trường
hàng hóa và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học và công nghệ,
thị trường bất động sản, thị trường tài chính. Sự phát triển đồng bộ cả 5 loại thị
trường cơ bản là nền tảng để phát triển kinh tế, tạo tiền đề vật chất để phát triển
con người. Mặt khác, các loại thị trường vận hành thông suốt hiệu quả, các tổ
chức, cá nhân yên tâm sản xuất, kinh doanh góp phần ổn định xã hội. Các loại thị
trường ở nước ta mới hình thành sơ khai, còn nhiều yếu tố tiềm ẩn đan xen chủ
quan, khách quan. Thị trường chưa được hình thành một cách đồng bộ xét về
tổng thể hệ thống các loại thị trường. Do đó, cần tiếp tục phát triển đồng bộ và
vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị trường hàng
hoá, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển
hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo
đảm lành mạnh hoá và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông
suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng
phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường
lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi
mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện
cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân,
nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN có vai trò hết sức quan
trọng trong thực hiện CBXH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
cũng như sự PTCN nói riêng. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN đảm bảo cho mọi chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn quy mô, lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. Hơn nữa, đây là nền kinh
120
tế, mọi công dân, mọi chủ thể kinh tế đều có quyền tiếp xúc với các nguồn lực
của sự phát triển, đều có quyền ngang nhau trong việc nắm bắt các cơ hội sản
xuất kinh doanh. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng tạo ra cơ
hội nắm bắt lựa chọn thông tin, nguồn lực phát triển và phương thức hoạt động
sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi nhất. Chính điểm đó là một cơ sở vững
chắc đảm bảo cho việc thực hiện CBXH đối với PTCN.
4.2. HOÀN THIỆN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH
SÁCH KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Thực hiện CBXH là phải biết kết hợp tổng hợp nguyên tắc cống hiến và
hưởng thụ, điều tiết và phân phối lại thu nhập cho có hiệu quả theo hướng tạo
điều kiện cho mọi người dân có có hội để vươn lên, phát huy khả năng của mình
vào hoạt động kinh tế để nâng cao thu nhập, đồng thời thực hiện các chính sách
xã hội khác như: chính sách việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách
đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội, bảo hiểm xã hội... nhằm tạo dựng bầu không
khí dân chủ, nhân văn trong xã hội, hướng tới mục tiêu PTCN toàn diện.
Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện
CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Không thể có
được CBXH trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một
nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả và bền vững trong một xã hội con
người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp, nghèo đói, thất nghiệp... Do đó,
thực hiện CBXH gắn liền với tăng trưởng kinh tế là một đòi hỏi tất yếu trong
điều kiện nước ta hiện nay: “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [37, tr.113].
Vấn đề là ở chỗ, tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH không phải lúc nào
cũng đồng thuận và là một quá trình thống nhất hài hòa.
Tăng trưởng kinh tế nói về sự phát triển sự phát triển lĩnh vực kinh tế của
đời sống xã hội, sự phát triển này được quy định bởi nhiều nhân tố, nhưng nhân
tố quyết định cơ bản nhất là lực lượng sản xuất xã hội. CBXH thuộc phạm trù
đạo đức - pháp quyền và chính trị - xã hội. Thực hiện CBXH là nhu cầu của con
người trong bất kỳ xã hội nào. Việc thực hiện CBXH phụ thuộc vào nhiều nhân
tố, trong đó quan hệ sản xuất là nhân tố cơ bản nhất. Để tạo lập được mối quan
hệ thống nhất, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH ngay trong
121
từng bước phát triển thì các chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải có sự
kết hợp chặt chẽ, phải tạo ra lực đẩy trong cùng một hướng.
Ở nước hiện nay, các chính sách kinh tế và chính sách xã hội bên cạnh sự
thống nhất cũng nảy sinh không ít mâu thuẫn cản trở quá trình thực hiện CBXH, tác
động tiêu cực đến sự PTCN. Do đó, tăng cường đổi mới và hoàn thiện hệ thống các
chính sách kinh tế, chính sách xã hội là một trong những yêu cầu nhằm thực hiện
CBXH, PTCN. Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải
được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách phát triển kinh tế
đều phải gắn với mục tiêu xã hội, tạo cơ sở thực hiện CBXH và mỗi chính sách giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện CBXH phải dựa trên những tiền đề vật chất của
quá trình tăng trưởng kinh tế và phải tạo động lực cho quá trình tăng trưởng kinh tế.
Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu
trung tâm là PTCN.
Một là, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đảm bảo thực hiện công
bằng xã hội cho phát triển con người.
Các chính sách kinh tế của chúng ta được xây dựng sao cho phải vừa thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo CBXH. Trước mắt cần phải hoàn thiện một
số chính sách kinh tế sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách đầu tư.
Chính sách đầu tư là yếu tố cơ bản để đạt được mục đích vừa tăng trưởng
kinh tế, vừa thực hiện CBXH. Trên cơ sở đặc điểm, vị trí của từng vùng, miền,
cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
một cách hợp lý, hiệu quả. Chính sách đầu tư phải chú ý đến đặc điểm từng
ngành, vùng, từng lĩnh vực để khai thác tối đa thế mạnh của các vùng, ngành đó,
tránh đầu tư tràn lan, manh mún mà không đem lại kết quả. Tiếp tục đẩy mạnh
đầu tư những vùng kinh tế trọng điểm, các trung tâm kinh tế lớn là đàu tàu cho
toàn bộ nền kinh tế. Ưu tiên phát triển những ngành mũi nhọn, then chốt đem lại
sự tăng trưởng cao, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình
thực hiện CBXH. Cần tăng cường triển khai các chính sách hỗ trợ, tập trung đầu
tư nhiều hơn nữa vào phát triển khu vực miền núi, vùng nông thôn nhằm rút
ngắn khoảng cách chênh lệch với các vùng kinh tế, các trung tâm công nghiệp
lớn. Với khu vực nông thôn, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, phát triển mở rộng thị trường nông thôn, thúc đẩy lưu thông phân
phối, giao lưu hàng hóa, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
122
nông thôn, tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng những nhu cầu tối thiểu của
cuộc sống, từ đó mới có điều kiện để phát triển sản xuất, thu nhập cao hơn, từng
bước rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đồng thời, xây dựng các
trung tâm khoa học tổng hợp nhằm cung cấp thông tin cho sản xuất kinh doanh
ngay trên địa bàn nông thôn. Với các vùng miền đặc biệt khó khăn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa cần triển khai các chính sách, chiến lược đầu tư dài hơi hơn. Ở
các vùng này, cần tập trung phát triển nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội,
vận động cuộc sống định canh, định cư, phát triển kinh tế gia đình, thực hiện
giao đất, giao rừng. Đào tạo bồi dưỡng và đãi ngộ xứng đáng cán bộ các dân tộc
thiểu số. Chính sách đầu tư cần được tiến hành một cách đồng bộ, trên nhiều
mặt: đầu tư về vốn, về khoa học - công nghệ, đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ
tầng... mới có thể phát huy cao độ hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế.
Cần tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài để mở rộng, phát
triển sản xuất; khuyến khích đầu tư phát triển vùng, miền còn gặp nhiều khó
khăn mà khả năng Nhà nước chưa với tới được. Khuyến khích tư nhân và các
thành phần kinh tế khác tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng bằng
những hình thức đầu tư thích hợp.
Cùng với việc thực hiện các chính sách đầu tư, khuyến khách đầu tư hợp
lý cần tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển khai các dự án
đó trong thực tế, đảm bảo hiệu quả của chính sách đầu tư, đảm bảo đầu tư đúng
đối tượng, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực:
thất thoát, tham ô, lãng phí...
Thứ hai, tiếp tục cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý.
Chính sách thuế là một trong những chính sách quan trọng trong phân
phối thu nhập, góp phần thực hiện CBXH. Thuế đã trực tiếp tham gia vào sự
phân phối thu nhập xã hội từ kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Sự
bình đẳng của chính sách thuế sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội
làm ăn có hiệu quả, có năng suất cao phải được thu nhập cao hơn. Từ đó kích
thích mọi tổ chức, cá nhân tập trung sức đầu tư phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh để có thu nhập cao một cách chính đáng. Đồng thời, với vai trò phân
phối, thuế còn được thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Vai trò phân phối lại
của thuế được thực hiện thông qua việc Nhà nước sử dụng tiền thuế để sản xuất
ra hàng hóa - dịch vụ công phục vụ tiêu dùng chung cho toàn xã hội. Ngoài ra,
Nhà nước còn sử dụng một phần tiền thuế để trợ cấp, thực hiện điều hòa thu
123
nhập xã hội. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ
mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và
tiến tới CBXH. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu
nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia
tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu, việc giảm thuế sẽ có lợi cho người
nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại, những mặt
hàng xa xỉ, cao cấp, việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu
nhập của người giàu trong xã hội.
Hiện nay, hệ thống thuế nước ta còn phức tạp chồng chéo, chưa hợp lý, ít
khuyến khích phát triển sản xuất lại có nhiều kẻ hở dễ bị lợi dụng, gây cản trở tăng
trưởng kinh tế và thực hiện CBXH. Trong thời gian tới, cần cải cách chính sách thuế
theo hướng mở rộng cơ sở tính thuế. Thông qua mở rộng phạm vi đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp phạm vi ưu đãi, miễn giảm thuế bằng cách giảm bớt
các miễn, giảm thuế không thiết thực, không công bằng, xóa bỏ những quy định khác
biệt về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng, tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính
sách thuế. Thực hiện ưu đãi hơn nữa về thuế với đầu tư, phát triển, với những vùng
khó khăn.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Chính sách phân phối thu nhập hợp lý, đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa chất lượng, hiệu quả công việc với thu nhập sẽ có
tác dụng kích thích người lao động phát huy mọi khả năng, trí tuệ, chủ động, sáng
tạo, nâng cao hiệu quả công việc, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện CBXH,
PTCN. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh, đổi mới chính sách phân phối
thu nhập trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, chú trọng phân phối theo đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất kinh doanh và thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Trong nguyên tắc
phân phối thì phần dành để phân phối theo lao động là chủ yếu, bởi vì, người lao
động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội để nhờ đó mới có cái mà phân phối, lợi
ích của người lao động không được bảo đảm thì tính tích cực của họ sẽ không
được phát huy ở mức cao nhất, điều đó dẫn đến sản xuất trì trệ, năng suất lao động
thấp. Phân phối theo lao động phù hợp với hoàn cảnh và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta mặc dù có sự phát triển
hơn so với trước kia nhưng chưa phải là đủ để phân phối theo nhu cầu. Mặt khác,
124
hiện nay vẫn còn sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động, điều này dẫn đến
cống hiến của mỗi người trong quá trình lao động là khác nhau. Phân phối theo
mức đóng góp vốn hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, với nhu cầu cấp bách cần thu
hút vốn, các nguồn lực khác nhau đầu tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà
trước hết là kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Phân phối thông qua các quỹ an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội là tất yếu trong điều kiện Việt Nam, vừa thể hiện tính nhân
đạo, nhân văn của chế độ ta, vừa bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm
người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội.
Chính sách phân phối và phân phối lại phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà
nước, của người lao động và của doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động.
Những công cụ, chính sách đắc lực điều tiết quan hệ phân phối và phân phối lại là
thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, sở hữu đất đai, tài sản, thừa kế,v.v.. Sự
can thiệp này cần được thực thi bằng những hệ thống công cụ đồng bộ và hiệu lực
cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân phối lại diễn ra một cách minh bạch, lành
mạnh, tạo động lực cho quá trình phát triển như đã phân tích ở các mục trên. Các
chính sách định hướng phân phối lại thu nhập, của cải hay tài sản cần được cân
nhắc từ nhiều góc độ: một mặt, chúng tạo môi trường minh bạch và điều kiện công
bằng cho các chủ thể xã hội; mặt khác, chúng có khả năng ngăn chặn những hành vi
vi phạm pháp luật, quy tắc phân phối dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong xã hội
tương lai.
Trong chính sách phân phối, vấn đề nổi cộm nhất cần giải quyết hiện nay
chính là chính sách tiền lương. Chính sách tiền lương dù đã trải qua nhiều lần
“cải cách” nhưng vẫn chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa tạo ra động
lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương
thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham nhũng... Do
đó, cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới, cải cách chính sách tiền lương cho phù
hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo tiền lương phải phản ánh
được giá trị sức lao động, tương xứng với hiệu quả và chất lượng công việc.
Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương tối thiểu theo lộ
trình phù hợp, đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động đang
làm việc cũng như người đã nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn, thực sự đại diện quyền
lợi cho người lao động, giải quyết kịp thời các tranh chấp. Thực hiện
cơ chế đối thoại và thỏa thuận về tiền lương giữa các bên, xây dựng
125
quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ. Có cơ chế để công đoàn, tổ chức đại
diện cho người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động
giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể. Tiếp tục hoàn thiện
chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hệ
thống tiêu chuẩn quản lý nhân lực và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng
suất lao động [46, tr.301].
Nhà nước cũng cần kiểm soát mức độ chênh lệch thu nhập giữa các
ngành nghề, các vùng miền để có biện pháp can thiệp, điều tiết phù hợp để hạn
chế phân hóa giàu nghèo quá mức, ảnh hưởng tới hiệu quả của quá trình thực
hiện CBXH.
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính xã hội đảm bảo thực hiện công bằng xã
hội cho phát triển con người.
Chính sách xã hội là sự thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn
diện con người. Ngay từ Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã khẳng định: “Chính sách
xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [31,
tr.13]. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người
trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; kết
hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, giữa đời sống vật chất và tinh thần;
giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập
thể và cộng đồng xã hội.
Chính sách xã hội tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội, tức là tác
động trực tiếp đến con người trên tất cả các khía cạnh: chăm sóc y tế, giáo dục - đào
tạo, văn hóa - thông tin, công ăn việc làm, đảm bảo xã hội... Việc giải quyết các vấn
đề xã hội một cách đúng đắn, hợp lý, kịp thời, phù hợp với trình độ và khả năng của
nền kinh tế sẽ góp phần khắc phục những khác biệt cơ bản về điều kiện sống, lao
động của mọi người; đồng thời, có thể khai thác, phát huy tối đa năng lực tiềm ẩn
của mỗi cá nhân, của cộng đồng và toàn xã hội; vừa tạo nên tấm lá chắn ngăn chặn,
hạn chế và đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, những hiểm họa về mặt xã hội có thể
xảy ra.
Trong những năm qua, hệ thống chính sách xã hội đã có tác động tích cực
đến sự phát triển xã hội, tạo ra một môi trường xã hội công bằng, bình đẳng, tạo
cơ hội và điều kiện cho sự phát triển của mỗi cá nhân, làm giảm phân hóa xã hội,
126
góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Nước ta
được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực
hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều
hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục tạo ra sự phân biệt
đối xử, tạo ra những nhóm xã hội bị thiệt thòi về cơ hội hưởng thụ và cống hiến,
nhất là những nhóm người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Để đảm bảo
CBXH, các chính sách xã hội cần được hoàn thiện theo hướng:
- Tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư có cơ hội như nhau trong việc sử
dụng những điều kiện sẵn có của xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn; bình
đẳng trong việc hưởng thụ các khoản an sinh xã hội, hưởng thụ những giá trị
văn hóa.
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, các vùng, miền để
giảm sự cách biệt; tạo điều kiện, cơ hội để những người nghèo, người yếu thế
trong xã hội phấn đấu vươn lên.
- Tạo điều kiện để mọi người có thể phát huy tối đa năng lực, được cống
hiến và được hưởng những thành quả tương xứng với sự cống hiến của mình.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần hoàn thiện các chính sách xã hội,
trong đó tập trung vào một số chính sách cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách về lao động và việc làm.
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Trên phương diện phân phối, để đảm bảo
mọi người có thể cống hiến và hưởng thụ những thành quả lao động của mình thì
trước tiên phải đảm bảo bình đẳng về cơ hội việc làm. Chính sách việc làm nhằm
giải quyết thoả đáng nhu cầu việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội có việc làm; góp phần thực hiện CBXH, xóa đói, giảm
nghèo, đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội tạo điều kiện cho sự PTCN.
Thực tiễn cho thấy, quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế của nền kinh tế nước ta, ngoài những tác dụng tích cực đối với sự PTCN
cũng đã và đang gạt một bộ phận những người lao động ra khỏi guồng máy hoạt
động kinh tế. Hơn nữa, hàng năm nước ta có một số lượng lớn thanh niên đến
tuổi lao động nhưng chưa có việc làm. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
thường xuyên của một bộ phận lao động không chỉ dẫn tới các vấn đề xã hội
thuần túy: đói nghèo, thất học, sức khỏe... mà còn là nguồn gốc nảy sinh và gia
tăng các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, lừa đảo... Yêu cầu có việc làm ổn định, tạo
127
nguồn thu nhập thường xuyên là nguyện vọng chính đáng của người dân. Giải
quyết triệt để vấn đề này là biện pháp quan trọng để thực hiện CBXH, PTCN.
Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách
lao động việc làm là bảo đảm CBXH trên cơ sở Nhà nước tạo mọi điều kiện, môi
trường thuận lợi cho mọi người có cơ hội tìm kiếm việc làm; tạo việc làm với thu
nhập đảm bảo cuộc sống, tức là tạo việc làm có thu nhập và bền vững; đảm bảo
hài hòa giữa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Theo đó,
trong giai đoạn hiện nay, chính sách lao động và việc làm cần được xây dựng và
hoàn thiện theo hướng:
Cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể về
tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. Sớm bổ sung các
chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát triển nguồn nhân lực trình độ
cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng như: Kinh tế nông nghiệp sử dụng công
nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật cũng
như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về sau khi kết thúc hợp đồng
lao động.
Ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động giải
quyết việc làm cho người lao động. Các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện, bổ
sung các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, khai thác các tiềm năng sẵn có của địa
phương, thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách thu hút vốn
đầu tư cần chú trọng vào cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh, nhất
là cải cách thủ tục đầu tư. Tích cực đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ
những trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa
mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động.
Tăng cường chính sách hỗ trợ đặc biệt ưu đãi về vốn, mặt bằng sản xuất kinh
doanh, thuế... đối với các doanh nghiệp đầu tư vào những vùng miền ít thuận lợi.
Tích cực đẩy mạnh việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề, các chương
trình quốc gia về đào tạo nghề, giải quyết việc làm đối với các đối tượng như
thanh niên, lao động nông thôn, phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn. Có
chính sách khuyến khích người lao động tự tạo việc làm và khuyến khích các
doanh nghiệp phát triển các ngành nghề cần nhiều lao động sản xuất kinh doanh,
mở rộng ngành nghề, phát triển sản xuất, thu hút thêm nhiều lao động.
Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông
nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công
128
nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Xây dựng chiến lược và tăng đầu tư
mở rộng thị trường xuất khẩu lao động sang các khu vực, các nước phù hợp với
lao động Việt Nam. Đồng thời, chuẩn bị đủ nguồn lao động đảm bảo chất lượng
đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi
thuế, hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động. Cải
cách thủ tục hành chính nhằm tạo sự thông thoáng, giảm phiền hà cho người lao
động và doanh nghiệp.
Tăng quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó. Quỹ
cho vay giải quyết việc làm hiện nay hoạt động với mục đích chủ yếu là cho vay để
phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo thêm nhiều việc làm mới, đi
xuất khẩu lao động và giúp các hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo bền vững. Trong
thời gian tới, Nhà nước cũng như chính quyền các địa phương cần có sự điều chỉnh
một số chỉ tiêu cho vay vốn như thời hạn cho vay vốn, quy trình thủ tục cho vay
vốn... để phù hợp hơn với tình hình kinh tế hiện nay của đất nước, không ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đối tượng có nhu cầu vay vốn, ảnh hưởng
đến giải quyết việc làm.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội.
Trong cuộc sống không ai luôn gặp may mắn và cũng không ai luôn gặp tủi ro,
nhưng thường thì bất hạnh hay đến với những người nghèo, vùng nghèo, những
người yếu thế trong xã hội, mà khi đã gặp rủi ro, họ khó có thể tự vượt qua được. Hệ
thống cách chính sách an sinh xã hội sẽ giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ trách
nhiệm xã hội để giảm thiểu và khắc phục rủi ro khi các thành viên trong xã hội chẳng
may gặp rủi ro, từ đó tạo ổn định, đồng thuận xã hội và đó là nền tảng để thực hiện
CBXH, PTCN. Một hệ thống an sinh xã hội đầy đủ, hoàn thiện sẽ tạo cho mọi người
tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển. Khi con người có được
cơ hội tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển thì họ cũng có cơ
hội cống hiến tài năng, sức lực của mình để có được sự hưởng thụ phù hợp với sự
cống hiến đó.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách để đảm bảo an sinh xã hội. Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung
ương khóa X nhấn mạnh: “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã
hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp trong xã hội,
nhất là nhóm đối tượng, chính sách, đối tượng nghèo” [43, tr.154]. Trên tinh thần
đó, các chủ trương, quan điểm của Đảng đã được thể chế hóa thành cơ chế, chính
129
sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và vận hành của hệ thống an
sinh xã hội như: Luật bảo hiểm xã hội; Pháp luật ưu đãi người có công, về người
cao tuổi, người tàn tật; Chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo trợ xã hội...
Trong những năm tiếp theo, để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được
trong việc đảm bảo an sinh xã hội, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, góp
phần thực hiện CBXH, PTCN, chính sách an sinh xã hội cần hoàn thiện theo
hướng sau:
- Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ
xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; bảo đảm giáo dục tối thiểu, bảo đảm y tế tối
thiểu, bảo đảm nhà ở tối thiểu, bảo đảm nước sạch, bảo đảm thông tin.
- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn
nhau, nhưng phải có trọng tâm. Chú trọng xây dựng và hoàn thiện những trụ cột
chính của nó là: Bảo hiểm xã hội, BHYT, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội để bảo
đảm tính bền vững của cả hệ thống an sinh xã hội.
Với chính sách bảo hiểm xã hội, cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm
xã hội theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách và
hiện đại hóa mô hình bảo hiểm xã hội, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội hiện
đại, chuyên nghiệp. Hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm tăng
cường khả năng tiếp cận của người lao động và phạm vi bao phủ của bảo hiểm
xã hội tự nguyện. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý quỹ bảo
hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của quỹ bảo hiểm xã hội.
Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu
vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội. Rà soát, bổ sung quy định buộc
người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy
định của pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo. Trước mắt tiếp tục triển khai có
hiệu quả Nghị quyết số: 80/ NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về
định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết
số: 30a/2008/NQ- CP ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ về Chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo và Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đối với hộ
cận nghèo. Đặc biệt chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo,
ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới,
130
xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo,
thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Xây
dựng mức sống tối thiểu, mức sống trung bình, chuẩn nghèo, cận nghèo phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ làm cơ sở xác định các đối tượng và
mức chuẩn của các chính sách an sinh xã hội, từ đó tiệm cận dần đến những quy
định về chuẩn nghèo thế giới hiện nay. Giảm dần chính sách hỗ trợ cho không kém
hiệu quả, tạo sức ì, trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, chuyển dần sang
hình thức cho vay, cho mượn không lãi suất, thậm chí đến thời điểm nhất định thì
xóa nợ tạo sự năng động, sáng tạo, ý chí không cam chịu đói nghèo của chính người
dân. Xây dựng quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong nước và ngoài
nước, quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và thực sự có hiệu quả. Các giải pháp
của lĩnh vực này là tập trung nỗ lực, đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để
thực hiện xoá đói, giảm nghèo nhanh, bền vững, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và
CBXH. Tập trung vào các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ
nghèo có tư liệu và phương tiện để sản xuất, dịch vụ, bảo đảm an ninh lương thực ở
cấp hộ gia đình, nâng cao thu nhập để thoát nghèo vươn lên làm giầu chính đáng.
Tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế,
nước sạch, vệ sinh môi trường.
Để xây dựng, hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội cần phải thay đổi quan
điểm, tư duy về trợ cấp xã hội cũng như chính sách trợ cấp xã hội. Chuyển quan
điểm chính sách trợ cấp xã hội là chính sách nhân đạo, là việc của Nhà nước hoặc
chính quyền địa phương sang chính sách đảm bảo thực hiện quyền cho đối tượng
hưởng lợi, bởi con người sinh ra đều có quyền như nhau đối với các chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Phải đảm bảo để mọi người đều có quyền được sống,
được thụ hưởng các thành quả của tăng trưởng, phát triển kinh tế, quyền được đảm
bảo an toàn, an sinh. Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng
đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội
thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối
thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện
được hưởng trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát
triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng. Khuyến khích
sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao
tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Bên cạnh đó,
cần đa dạng hóa các loại hình trợ cấp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân
131
đạo, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng. Tạo cơ hội và ưu tiên
cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận nguồn lực kinh tế (trước hết là người
còn khả năng lao động), dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng về giáo dục, đào tạo,
dạy nghề, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thông tin... thông qua
thực hiện các chương trình mục tiêu.
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ thể
hiện sự tiếp nối đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của dân tộc
Việt Nam mà còn là giải pháp thực thi CBXH, góp phần vào việc ổn định chính trị
- xã hội, PTCN. Trước mắt, cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, cơ chế
pháp luật đối với người có công nhằm tiếp tục cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của người có công, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa
cách mạng. Xây dựng mô hình và cơ chế thích hợp trong ưu đãi về nhà ở cho thân
nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học có khó khăn về nhà ở. Ưu đãi về giải quyết việc làm cho con liệt sĩ,
con của thương binh. Duy trì và phát triển các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các
chương trình xã hội khác hướng vào việc tạo cơ hội cho người có công phát triển
kinh tế, giảm nghèo, tạo việc làm.
Để mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội
đến mọi người dân, tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ
tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống cần có các chính sách
tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội. Khuyến
khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình an sinh xã hội,
các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các
đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá
nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các hoạt động
nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng
đặc thù. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các
nước trong xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo.
Chính sách giáo dục, đào tạo cần được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng: tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên,
học suốt đời; tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào
tạo cho mọi tầng lớp dân cư; đặc biệt chú ý tạo cơ hội học tập ở bậc cao hơn (cao
132
đẳng, đại học...) cho con em nông dân, các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo đáp ứng
yêu cầu giảm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư. Mở rộng
một cách hợp lý hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học, các trường bán
công, dân lập, trường công…, trong đó các trường công lập phải là nòng cốt.
Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ xứng đáng cho đào tạo giáo dục về cơ
sở vật chất như: trường học, trang thiết bị, đồ dùng học tập cho học sinh miền
núi, đồng thời có chính sách khuyến khích hơn nữa để cán bộ giáo viên có thể tự
nguyện và đảm bảo đến công tác dạy học tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số nhằm
từng bước khắc phục sự nghèo nàn, lạc hậu cả về vật chất lẫn tinh thần, sớm rút
ngắn khoảng cách giữa nông thôn miền núi và thành thị.
Thứ tư, hoàn thiện chính sách y tế.
Chính sách y tế được xây dựng và hoàn thiện cần đáp ứng yêu cầu xây
dựng và phát triển mô hình đan xen giữa y tế công và y tế tư nhân trong đó y tế
công là chủ đạo. Nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế hoạt động của bệnh viện công
theo hướng không vì mục tiêu lợi nhuận. Tiếp tục cải tiến chế độ viện phí và cơ
chế thanh toán BHYT cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Cần đầu tư hơn nữa
trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng lưới y tế kết hợp với cán bộ y tế
có tay nghề cao, thuốc men được hỗ trợ đầy đủ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân nông thôn và miền núi có điều kiện chăm lo sức khỏe để tái sản xuất
sức lao động, đồng thời, thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện đồng bộ và có
hiệu quả các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Tiếp tục hoàn thiện chính sách
BHYT cho người hưởng chính sách xã hội, người nghèo, tiến tới thực hiện
BHYT toàn dân. Hoàn thiện các chính sách phát triển y tế công nghệ cao và
ngoài công lập, tăng số cơ sở khám chữa bệnh cho người có BHYT không phân
biệt thành phần sở hữu.
Thứ năm, hoàn thiện chính sách về văn hóa.
Tiếp tục hoàn thiện các chính sách tạo điều kiện phát triển văn hóa của các
dân tộc, các vùng miền và tạo sự bình đẳng về cơ hội, điều kiện thuận lợi cho
mọi công dân hưởng thụ và thu nhận văn hóa, nghệ thuật. Hoàn thiện các chính
sách đầu tư hợp lý, có trọng điểm và ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng văn
hóa, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng bào các dân tộc thiểu
số. Xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn vinh những tập thể, cá nhân có đóng
góp lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Hoàn thiện chính bảo vệ bản quyền
133
các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật. Tạo điều kiện cho mọi người dân Việt Nam có
thể tham gia vào việc sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn học, nghệ thuật
góp phần phát triển đời sống tinh thần con người Việt Nam. Kế thừa và phát huy
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại, đồng thời thường xuyên đấu tranh loại trừ những hiện tượng đạo đức
hủ bại, những văn hóa mới phản tiến bộ, trái với các chuẩn mực của xã hội và thuần
phong mỹ tục của dân tộc.
Ba là, tổ chức triển khai và thực hiện chính sách.
Các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội không giải quyết một
cách riêng rẽ mà chúng phải được thực hiện đồng thời và song song cùng nhau.
Để các chính sách đi vào cuộc sống và được thực hiện đầy đủ, kịp thời và mang
lại hiệu quả thì khâu tổ chức thực hiện rất quan trọng.
Trách nhiệm và việc làm của Nhà nước, của chính quyền Trung ương, địa
phương và cơ sở.
Các cấp, các ngành cần tăng cường những biện pháp phổ biến chính sách
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thường xuyên tổ chức tập huấn cho
cán bộ cấp dưới và cán bộ cấp cơ sở để thực hiện đúng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Mỗi bộ, mỗi ngành cần xây dựng chương
trình hành động, chương trình mang tính dài hạn và có các chương trình kế
hoạch ngắn hạn đi kèm. Đề cao trách nhiệm thực hiện của các tổ chức, các nhân
có trách nhiệm, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh nhằm tạo động lực cho toàn
xã hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Tăng cường các cơ chế nhằm huy
động nguồn lực và sức mạnh của các tổ chức ngoài nhà nước, doanh nghiệp và
người dân để cùng thực hiện các mục tiêu chung: xây dựng một xã hội công
bằng, con người được phát triển toàn diện. Có cơ chế theo dõi, giám sát việc
thực hiện chính sách, tiếp thu ý kiến phản hồi từ người dân và thường xuyên
tổng kết, rút kinh nghiệm.
Trách nhiệm và việc làm của các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao
động, các cơ quan chuyên trách.
Về phía các doanh nghiệp. Thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc
trả lương cho người lao động theo nguyên tắc công bằng. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu. Đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào
kết quả sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức sử dụng lao động cần thực hiện đầy đủ
134
và minh bạch các quy định về bảo hiểm xã hội, BHYT, bảo hiểm tai nạn lao
động cho người lao động. Các doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho người lao
động nâng cao trình độ, tay nghề, có kỹ năng, kỹ xảo, nâng cao năng lực nghề
nghiệp; quan tâm đến việc chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động. Các doanh nghiệp cần thực hiện trách nhiệm của mình trong các lĩnh vực
như: Tạo công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, các hoạt động từ thiện, v.v..
Về phía các tổ chức giáo dục và đào tạo: các cơ sở giáo dục và đào tạo cần
tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân, mọi người lao động được tiếp cận với
các dịch vụ về giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá, thu hút sự
tham gia của nhiều chủ thể xã hội vào phát triển giáo dục, đào tạo. Thực hiện
miễn giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện
chính sách và học sinh giỏi. Tăng cường tính minh bạch về công tác tài chính
giáo dục để người dân có thể thực hiện chức năng giám sát một cách có hiệu quả.
Về phía các tổ chức y tế: Tăng cường chất lượng công tác khám và chữa
bệnh cho người dân. Thực hiện nghiêm túc các quy định về khám, chữa bệnh đối
với người sử dụng thẻ BHYT. Đảm bảo sự công bằng về cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ y tế đối với mọi người dân.
4.3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện công
bằng xã hội cho phát triển con người.
Công bằng xã hội luôn là mục tiêu nhất quán của Đảng ta từ khi thành lập
đến nay. Chính nhờ giương cao ngọn cờ CBXH mà Đảng ta đã nhận được sự ủng
hộ của đông đảo nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây
và trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Vai trò của Đảng trong việc đảm
bảo thực hiện CBXH được chứng minh rất rõ qua thực tiễn nước ta trước và sau
đổi mới. Trước đổi mới, do mong muốn sớm có được CNXH, quan điểm, chủ
trương của Đảng về thực hiện CBXH có phần thoát ly thực tiễn, không phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, dẫn đến những hiện tượng vi phạm
CBXH, cản trở sự PTCN. Bước vào thời kỳ đổi, với quan điểm coi con người là
mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển, tăng trưởng
kinh tế xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người. Con người chỉ
có thể phát triển tự do, toàn diện trong một xã hội công bằng. Do đó, quan điểm
135
của Đảng ta là phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH. Không phải
đợi đến kinh tế phát triển cao, dân giàu lên mới thực hiện CBXH mà chúng ta
thực hiện CBXH “ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” [42, tr.77]. Với quan điểm, chủ
trương, đường lối đúng đắn của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
trong thực hiện CBXH, góp phần vào sự nghiệp PTCN Việt Nam toàn diện.
Thực hiện CBXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là
vấn đề rất mới, có nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách
thức. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm phải đáp ứng tất cả
những đòi hỏi chính đáng của nhân dân, chăm lo xây dựng một xã hội giàu đẹp,
công bằng, con người được phải triển toàn diện. Điều này đỏi hỏi Đảng phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trình độ trí tuệ ngang tầm đòi của nhiệm vụ, có năng lực
lãnh đạo mới có thể tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy
lùi nguy cơ đưa đất nước đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội
trong việc thực hiện CBXH thì phải thực hiện tốt những nội dung sau:
Xung quanh vấn đề lý luận CBXH hiện nay vẫn còn chưa thống nhất, đòi
hỏi Đảng phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tạo khung lý luận cơ
bản để tiếp tục thực hiện tốt công bằng xã hội trong điều kiện và tình hình mới.
Đảng phải là một lực lượng có trình độ và trí tuệ cao, phải luôn nhạy bén, năng
động và sáng tạo, vừa nắm bắt quy luật khách quan, vừa vận dụng sáng tạo
chúng, làm cho các quy luật tác động có hiệu quả vào các lĩnh vực kinh tế, xã
hội. Đảng phải đề ra đường lối, chủ trương cũng như sách lược, chiến lược để
thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta theo từng giai đoạn, trên
cơ sở vận dụng những quan điểm đắn đắn, khách quan, khoa học về vấn đề này
trong lịch sử cũng như trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước
giải quyết vấn đề này. Các chủ trương, đường lối thực hiện CBXH của Đảng
phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn, được cuộc sống kiểm định, thường xuyên
theo dõi, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời sửa chữa, sai sót, bất cập nhằm
không ngừng hoàn thiện chúng cho phù hợp với thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu
136
cần của thời đại. Những chủ trương, đường lối đó phải hướng vào việc tiếp tục
đảm bảo tốt hơn nữa công bằng trong phân phối, công bằng về cơ hội và điều
kiện phát triển, đặc biệt chú ý hơn nữa các đối tượng vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách...
Ngoài ra, để có cơ sở phát triển lý luận về công bằng, thì ngoài tổng kết
thực tiễn, còn phải nghiên cứu bài học thực hiện CBXH của những nước có
điều kiện phát triển tương tự với Việt Nam. Đồng thời, còn phải nghiên cứu
những quan điểm về thực hiện công bằng trên thế giới đang được ứng dụng vào
đời sống xã hội hiện nay.
Trên cơ sở những chủ trương, quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH,
Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa thành các thể chế, pháp luật, các chính sách
về CBXH và tổ chức thực hiện các chính sách đó trong hiện thực. Đây là chức
năng hết sức quan trọng của Đảng cầm quyền. Đảng phải chỉ đạo, giám sát chặt
chẽ để đảm bảo các chủ trương đó nhanh chóng được các cơ quan Nhà nước cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện. Ở đây, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, không can thiệp
quá sâu vào công việc quản lý, điều hành của Nhà nước, Đảng cũng không làm
thay công việc của Nhà nước. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước sẽ giúp nâng cao hiệu quả và hiệu lực các chính sách, biện pháp của
Nhà nước nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn CBXH cho mọi tầng lớp nhân dân.
Đảng phải nghiêm túc phê và tự phê, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả
việc phòng chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ,
đảng viên. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ trí tuệ, năng lực tổ chức thực tiễn, có
phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh nhằm thực hiện CBXH. Bởi
lẽ, mọi chủ trương, đường lối dù đúng đắn đến đâu, dù được phổ biến tuyên
truyền rộng khắp đến nhiều ban, ngành, cơ sở nhưng nếu thiếu đội ngũ cán bộ,
đảng viên có trình độ, phẩm chất đạo đức, những người trực tiếp chỉ đạo những
chủ trương đó trong hiện thực thi những chủ trương, đường lối đó sẽ chỉ là
những khẩu hiệu, những nghị quyết suông trên giấy.
Thứ hai, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện công
bằng xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển con người.
Trong quá trình thực hiện CBXH, vai trò của Nhà nước thể hiện ở sự điều
tiết, phân chia lợi ích của Nhà nước một cách hợp lý giữa chủ thể lợi ích nói
137
chung bao gồm các cá nhân, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đảm bảo sao cho
mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội được hưởng những lợi ích phù
hợp với khả năng phát triển của mình, dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa cống
hiến và hưởng thụ, quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện và phân chia các
lợi ích đấy. Những nguyên tắc công bằng được thể hiện qua hệ thống chính sách,
pháp luật, sự thực thi pháp luật và sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Sự thể
hiện vai trò của Nhà nước lại tùy thuộc vào từng chế độ chính trị, từng giai đoạn
lịch sử.
Nhà nước ta là nhà nước XHCN với mục tiêu xây dựng một xã hội mà ở
đó, “con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân” [35, tr.29]. Mọi chính sách của Nhà nước ta đều hướng
tới việc thực hiện ngày càng tốt hơn các mục tiêu cao đẹp đó. Tuy nhiên, do nôn
nóng muốn có ngay CNXH, nhanh chóng xây dựng một xã hội công bằng mà
thời kỳ trước đổi mới chúng ta đã có những nhận thức cũng như hành động mang
tính chủ quan, vận dụng sai lệch, méo mó, giáo điều lý luận của chủ nghĩa Mác.
Từ đó đề ra một loạt các chính sách mang tính chủ quan, duy ý chí duy ý, chưa
thật phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội lúc bấy giờ. Nhà nước thực hiện quản
lý xã hội bằng cơ chế mệnh lệnh, tập trung bao cấp; thực hiện phân phối cào
bằng, bình quân theo chế độ tem phiếu, cấp phát... Do những chính sách sai lầm,
thoát ly thực tế đất nước, đi ngược quy luật khách quan đã khiến mục tiêu CBXH
không thể thực hiện được. Các điều kiện, cơ hội cho sự PTCN đều bị hạn chế.
Từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, chuyển
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý, điều tiết của
Nhà nước. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai
những chính sách nhằm thực hiện CBXH. Nhà nước sử dụng chức năng điều tiết
của mình để chủ động thực hiện CBXH trên nguyên tắc phù hợp với từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể khái quát vai trò của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc thực hiện CBXH ở những nội dung chủ
yếu sau: đảm bảo quyền làm chủ, quyền dân chủ của nhân dân; tạo điều kiện và
môi trường cho thực hiện CBXH; định hướng phát triển kinh tế, phân bổ các
nguồn lực, điều tiết thu nhập để giảm dần sự mất cân đối về điều kiện, cơ hội và
trình độ phát triển giữa các tầng lớp dân cư, giữa các ngành, các vùng, miền; ban
138
hành và chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội nhằm hạn chế sự phân hóa giàu
nghèo, phân tầng xã hội; tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội ngang nhau
trong việc hưởng thụ các thành tựu văn hóa, giáo dục, y tế, tiếp cận thông tin...
Có thể thấy, Nhà nước ta thông qua chức năng quản lý xã hội và điều tiết của
mình đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện CBXH trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tạo cơ hội, điều kiện cho PTCN. Tuy nhiên, trong thời gian
qua, môi trường thể chế chưa hoàn thiện, bộ máy quản lý kém hiệu quả, pháp
luật yếu kém, bất cập là những trở ngại trong việc thực hiện CBXH ở nước ta
hiện nay. Để nâng hơn nữa vai trò của Nhà nước trong thực hiện CBXH, theo tôi
cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau:
* Hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện
công bằng xã hội, phát triển con người
Để Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo thực hiện
CBXH đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định.
Hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành viên trong xã hội yên tâm, tích cực tham gia vào mọi hoạt động kinh tế,
xã hội. Đồng thời, thông qua pháp luật, lợi ích chính đáng của người dân được
bảo vệ, những hành vi sai trái sẽ bị trừng phạt, CBXH được thực hiện. Với thực
trạng hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay: Luật nhiều nhưng vẫn thiếu, nhiều
luật chồng chéo, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao. Mặt
khác, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã và đang đưa lại những thay
đổi nhanh chóng mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi phải có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn đang biến đổi nhanh chóng
của Việt Nam và thế giới, phù hợp với thông lệ quốc tế càng trở nên cần thiết.
Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay là
vấn đề quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc
thực hiện CBXH.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay phải theo hướng đảm bảo
những tiêu chuẩn cơ bản sau: Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và ngôn
ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ
ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Căn cứ vào thực trạng hệ
thống pháp luật nước ta hiện nay, trên cơ sở những tiêu chí vừa xác định, để hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng rà soát lại hệ thống
các văn bản, quy phạm pháp luật, đối chiếu loại bỏ những văn bản trùng lặp,
139
chồng chéo, không phù hợp, cản trở quá trình thực hiện CBXH. Xúc tiến sửa đổi,
bổ sung những văn bản pháp luật đã ban hành cũng như có chiến lược ban hành
các văn bản, quy phạm pháp luật mới cho phù hợp với thực tiễn. Kết hợp các quy
định, quy tắc pháp luật trong nước với những nguyên tắc, thông lệ quốc tế chung,
tạo hành lang pháp lý thông thoáng, lành mạnh nhằm thu hút đầu tư, phát triển sản
xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho việc thực hiện
CBXH. Hệ thống pháp luật của Nhà nước phải được đổi mới, cải cách cụ thể, rõ
ràng, minh bạch để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho mọi công dân. Nhà nước
cũng kịp thời ban hành các văn bản dưới luật, pháp lệnh hướng dẫn cụ thể thực thi
những luật đó trong hiện thực, đảm bảo tính thời sự của các văn bản pháp luật
cũng như đảm bảo vận dụng, thực hiện đúng luật trong thực tiễn. Đồng thời, cần
tăng cường giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tổ chức, cá
nhân. Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong
thực tế, có chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi coi thường, làm trái pháp
luật. Đặc biệt, không để tồn tại những hiện tượng tiêu cực trong thi hành luật như
chạy án, xét xử oan, không đúng người đúng tội... Nếu thực hiện được những yêu
cầu vừa nêu mới nâng cao được vai trò của pháp luật, phát huy được vai trò của
Nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo CBXH.
* Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động của
Nhà nước làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện công bằng xã hội, phát triển
con người.
Thực tế hiện nay, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Nhà nước còn bất hợp lý,
cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả
thấp; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan
và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều mối
quan hệ còn bất hợp lí, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về mặt năng
lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm. Các vấn đề trên dẫn tới hậu quả là hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước còn chưa cao, công tác quản lý đất nước còn
lúng túng, mắc nhiều sai sót, sản xuất tuy có tăng nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu,
tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt… gây cản trở thực hiện CBXH,
PTCN. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần tăng cường đổi mới, hoàn thiện
cơ cấu tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động theo hướng:
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước với các nội dung: xác định
rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
140
quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; khắc phục những
chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà
nước, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện phân cấp hợp lý giữa
Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; tiếp tục thực
hiện nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong xây dựng cơ cấu tổ chức
của Chính phủ; tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước, nâng cao chất lượng trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; thực hiện việc đánh giá
mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với các dịch vụ do cơ quan hành chính
cung cấp.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu
quả, minh bạch, công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính; loại bỏ
những rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho
dân. Trong công tác cải cách thủ tục hành chính, tập trung quyết liệt thực hiện
cải cách thủ tục hành chính theo các lĩnh vực trọng tâm được giao tại Nghị quyết
số: 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia hai năm 2015-2016. Tiếp tục rà soát, bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần
thiết, không phù hợp, gây phiền hà, tốn kém cho cá nhân và tổ chức, vừa cản trở
các hoạt động kinh tế xã, hội vừa dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực (tham nhũng,
hối lộ). Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành
chính. Chuẩn hóa, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực
hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Công khai kết quả giải
quyết thủ tục hành chính trên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương
để giảm thời gian, chi phí thực hiện của cá nhân và tổ chức.
Cần tăng cường và cải tiến các hoạt động mang tính dân chủ cao như: chất
vấn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân
qua truyền hình và internet, thiết lập các đường dây nóng liên lạc với người dân,
đổi mới các cuộc tiếp xúc cử tri...
Nhà nước cũng cần tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức nhà nước cả về nâng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu thực thi
công vụ hiệu quả. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, xử lý nghiêm những
141
hành vi tiêu cực như thói hách dịch, thái độ nhũng nhiễu, gây phiền hà, tham
nhũng... của cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước.
* Phát huy vai trò của Nhà nước đối với việc mở rộng và phát huy
dân chủ làm cơ sở đảm bảo thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, phát triển
con người.
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực của sự
phát triển đất nước. Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi
trọng phát huy dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động, đặc biệt là quyền làm chủ
của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Thực chất của quá
trình này là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, ý thức
chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội và tính tích cực, tự giác, sáng tạo của
các tầng lớp nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước.
Dân chủ là điều kiện tiên quyết để phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc
PTCN, bởi dân chủ đảm bảo cho mọi người đều có quyền như nhau.
Những năm qua, nhờ có quan điểm, đường lối đúng, việc xây dựng, phát
huy dân chủ ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang lại hiệu
quả thiết thực trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có ý nghĩa to lớn trong phát
triển đất nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, vai trò làm chủ của nhân
dân có lúc, có nơi chưa thật sự được coi trọng, quyền hạn của nhân dân chưa
được trao đầy đủ; tình trạng vi phạm dân chủ vẫn còn diễn ra tuy không phổ
biến, quyền lợi của nhân dân còn bị xâm phạm. Do dân chủ chưa được đảm bảo
và thực hiện đầy đủ đã dẫn đến xu hướng lạm quyền; những biểu hiện quan liêu,
tham nhũng, tiêu cực không được phát hiện và đấu tranh ngăn chặn, khắc phục
kịp thời, tạo nên những bất công trong các quan hệ xã hội, làm giảm lòng tin và
gây bất bình trong nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước. Để đảm bảo quyền dân chủ, phát huy đầy đủ vai trò của các tầng lớp nhân
dân lao động qua đó tạo điều kiện để thực thi CBXH ở nước ta hiện nay cần tiếp
tục mở rộng và phát huy dân chủ.
Ngay từ khi khi hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Bằng mọi hình thức, giải pháp bảo đảm để nhân dân
tham gia đóng góp trí tuệ ở tất cả các khâu trước khi đưa ra những quyết định
liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
142
Tiếp tục phát huy hiệu quả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện;
thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Trong đó, cần chú trọng hình thức dân chủ trực tiếp, vì đây là hình
thức nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề, các công việc quan trọng mà không
phải thông qua một yếu tố trung gian nào; bảo đảm nhanh, trung thực ý chí của
nhân dân. Bảo đảm thực thi quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013 như: Bầu cử, bãi miễn đại biểu, thực
hiện quyền sáng kiến lập pháp, dân chủ ở cơ sở, quyền tham gia đóng góp ý kiến
quản lý xã hội, quản lý nhà nước và các hình thức khác, v.v.. thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đó là điều kiện cần thiết để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân một cách hữu hiệu nhất, theo phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Mở rộng và phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật.
Thực thi dân chủ mà không gắn với nguyên tắc, kỷ cương, pháp luật sẽ trở thành
dân chủ quá trớn, mất tập trung, vô tình tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi
dụng gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Dân chủ gắn liền với kỷ
luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Chỉ như vậy, dân chủ mới từ tư tưởng trở thành hiện thực, định hướng giá trị về
dân chủ mới định hình trong thực tế, làm cho mỗi người dân được thụ hưởng lợi
ích do dân chủ đem lại trong cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, phải xây dựng các
thể chế để đảm bảo cho nhân dân có quyền và khả năng thực tế kiểm tra, giám
sát các cán bộ và cơ quan Nhà nước nhằm ngăn ngừa và đẩy lùi tệ quan liêu,
tham nhũng, cửa quyền, vô trách nhiệm.
Phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ.
Quá trình dân chủ hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sống từ
kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần. Về kinh tế, cái cốt lõi là bảo đảm lợi ích kinh tế
của người lao động. Những lợi ích đó phải được thể chế hóa trong các quyền công
dân: sở hữu, quản lý, phân phối. Về chính trị, phải bảo đảm cho nhân dân có quyền
tham gia vào các hoạt động quản lý điều hành của nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội một cách trực tiếp và thông qua các đại diện ưu tú do mình lựa chọn. Phải bảo
đảm quyền dân chủ trong ứng cử, bầu cử, trong thảo luận, đóng góp ý kiến xây
dựng các dự án luật; trong sinh hoạt dân chủ ở các cơ quan dân cử, các đoàn thể xã
hội... Về văn hóa, tinh thần, phải tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền tự do
143
hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Bảo đảm cho công dân
quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo, quyền thảo
luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần xã hội... Việc mở rộng và phát huy dân chủ đảm bảo xây dựng một nhà
nước trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò của nhà nước trong thực hiện CBXH,
tạo cơ sở cho sự PTCN.
Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức kinh tế - xã hội trong thực hiện
công bằng xã hội, phát triển con người.
Để đảm bảo thực hiện CBXH thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức
quan trọng, đó chính là sự lãnh đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Tuy nhiên,
thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự hợp tác phối kết hợp nhịp nhàng của các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân và sự đồng thuận của toàn
xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò triển khai, thực hiện, cụ thể hóa
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực cụ thể. Việc
thực hiện CBXH có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, cần phát huy vai trò của các tổ chức chính
trị - xã hội để tiến hành giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện CBXH. Sự
giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức xã hội sẽ phản ánh trực tiếp, chân
thật, đầy đủ mọi nhu cầu về CBXH của mọi tầng lớp nhân dân, giúp cho cơ quan
lãnh đạo và quản lý nắm bắt nhu cầu xã hội một cách đầy đủ, khách quan để kịp
thời điều chỉnh chủ trương chính sách, pháp luật về CBXH cho phù hợp. Đảng
và Nhà nước cần thừa nhận, đánh giá đúng mức lực lượng xã hội này, tạo điều
kiện thuận lợi nhất để cho các tổ chức xã hội này hoạt động ngày càng hiệu quả
hơn, không hành chính hoá, quan liêu hoá. Nhà nước cần ban hành Luật về hội
để tạo cơ sở pháp lý thuận tiện nhất cho các tổ chức này hoạt động. Ban hành
luật về hội là sự công nhận địa vị pháp lý và vai trò lịch sử của các tổ chức xã
hội trong quá trình quản lý xã hội, là thừa nhận sự đóng góp to lớn không thể
phủ nhận của các tổ chức xã hội đối với việc hiện thực hoá quan điểm, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về CBXH, qua đó phát huy vai trò
của CBXH đối với PTCN.
Các tổ chức thông qua các hình thức như: tài trợ, đóng góp kinh phí để hỗ trợ
cho các gia đình chính sách gặp khó khăn, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người già cả
144
neo đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi cơ nhỡ, người lầm đường lạc lối... giúp họ
có điều kiện hòa nhập cộng đồng và có điều kiện phát triển kinh tế. Hỗ trợ các vùng
đặc biệt khó khăn, thiên tai lũ lụt… Đây là những việc làm tình nghĩa hết sức cao
đẹp, vừa mang tính truyền thống dân tộc, vừa góp phần tích cực vào việc xóa bỏ bất
công, thực hiện CBXH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đảng và Nhà nước cần
phối hợp với các tổ chức này nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước
thực hiện CBXH. Cụ thể, tích cực triển khai các chính sách thu hút vốn đầu tư trong
và ngoài nước cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư xây cho các dự
án phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng
kinh tế khó khăn. Kêu gọi sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước
tham gia công tác xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ nhân đạo. Đẩy
mạnh xã hội hóa công tác giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Có cơ chế khuyến khích (miễn giảm
thuế, ưu đãi về vốn...) đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh đầu tư
vào những vùng miền khó khăn.
Như vậy, thực hiện CBXH không đơn giản là công việc của một tổ chức,
một cá nhân, mà là sự phối kết hợp đồng thuận của toàn xã hội, công việc đó là
của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đó là sức mạnh tổng hợp của tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc kiên quyết đấu tranh chống những bất công, bất bình đẳng,
thực hiện CBXH, vì mục tiêu PTCN.
4.4. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Công bằng xã hội là khát vọng ngàn đời của con người. Thực hiện CBXH
là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là điều kiện cho sự PTCN. Có chủ
trương, đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt nhưng một vấn
đề không kém phần quan trọng đó là phải nâng cao nhận thức của người dân về
thực hiện CBXH.
Ở Việt Nam hiện nay, sự hiểu biết của người dân về CBXH còn rất hạn
chế, giản đơn. Đa số đồng nhất CBXH với bình đẳng xã hội từ đó dẫn đến tư
tưởng bình quân, cào bằng. Không ít người quan niệm thực hiện CBXH là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước nước từ đó ỉ lại, trông chờ vào sự trợ giúp từ bên
ngoài... Do đó, cần nâng cao nhận thức của người dân về đề CBXH, giúp mọi
người hiểu rằng, phấn đấu đạt được CBXH không chỉ là quyền lợi thiết thực của
145
mỗi người mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự phát triển đất nước. Khi
mọi người đều có hiểu biết đúng đắn về CBXH họ sẽ tự giác phấn đấu để đạt
được CBXH bằng chính sức lực và tài năng của mình chứ không trông chờ vào
sự trợ giúp từ bên ngoài. Để nâng cao nhận thức của người dân về CBXH cần
phải thông qua nhiều biện pháp.
Thứ nhất, hoàn chỉnh quan niệm về CBXH để không nhầm lẫn với bình
đẳng xã hội, bình quân, cào bằng. Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách
đúng đắn, sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển về CBXH để triển khai thực
hiện, giải quyết CBXH trong thực tế phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và
mục tiêu chính trị của đất nước. Vì CBXH không đồng nhất với bình đẳng xã hội
cho nên thậm chí chúng ta phải chấp nhận tình trạng có thể bất bình đẳng nhưng
vẫn là công bằng. Chúng ta cũng phải thừa nhận chênh lệch thu nhập, phân hóa
giàu nghèo ở một mức độ nào đó là biểu hiện của công bằng nhằm kích thích
mọi thành viên trong xã hội phát huy sức lực, trí tuệ, nhiệt tình, sáng tạo, vươn
lên làm giàu, phát triển bản thân, gia đình và xã hội. Chúng ta cũng cần hiểu
đúng rằng, CBXH chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Đối với nước ta hiện nay, quan điểm đúng đắn, khoa học, phù hợp
nhất là phải thực hiện công bằng trong và đồng thời với quá trình phát triển kinh
tế. Cần thấy CBXH có phạm vi toàn diện chứ không chỉ quy vào kinh tế, hơn
nữa chỉ ở việc phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. CBXH không chỉ trên
phạm vi hoạt động của xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa... mà còn trên cơ sở
của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội - giai cấp. Ở nước ta hiện nay với nhiều
thành phần kinh tế nên cơ cấu xã hội - giai cấp bao hàm nhiều giai cấp, tầng lớp
khác nhau. CBXH ở từng giai cấp, tầng lớp và thành phần kinh tế sẽ rất khác
nhau và cần được tìm hiểu cụ thể.
Thứ hai, cần phải có kế hoạch, nội dung, chương trình, thông qua giáo dục
chính quy bằng cách lồng ghép trong các giáo trình về kinh tế, luật, chính trị, đạo
đức, văn hóa... Tuyên truyền giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, internet; thông qua văn học, nghệ thuật:
phim ảnh, sân khấu, truyện... nhằm nâng cao nhận thức về những nội dung, chức
năng, vai trò, ý nghĩa CBXH để các tổ chức, cá nhân có thể thấy được quyền và
nghĩa vụ của mình trong việc xây dựng và thực thi CBXH. Từ đó nâng cao trách
nhiệm của các cấp, các ngành, của người dân đối với nhiệm vụ thực hiện CBXH
vì sự PTCN và xã hội.
146
Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH. Đưa nội dung của
các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, về
quyền dân chủ của nhân dân, về thực hiện CBXH vào nội dung sinh hoạt cấp ủy
các cấp, thảo luận nghiêm túc. Biên soạn tài liệu, phát hành, phổ biến rộng rãi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tài liệu khoa học, tài liệu trao đổi
kinh nghiệm cho cán bộ, công chức về CBXH. Biên soạn, bổ sung chuyên đề
thực hiện CBXH vào chương trình bồi dưỡng cán bộ của các trung tâm bồi
dưỡng chính trị. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, cơ quan, đơn vị đối với thực hiện CBXH ngay tại địa phương, đơn vị, địa
bàn, lĩnh vực người đó phụ trách. Trách nhiệm ấy, phải được thể hiện trong
chương trình, kế hoạch hoạt động của cá nhân cán bộ và cơ quan, đơn vị hằng
quý, năm. Việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH chẳng những góp phần nâng cao ý
thức trách nhiệm cá nhân mà thông qua đó phát huy tầm ảnh hưởng của họ để
động viên, thuyết phục, nêu gương trong thực hiện CBXH nhằm thuyết phục dư
luận xã hội.
Thứ tư, phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc góp phần giáo dục
ý thức của người dân về thực hiện công bằng xã hội.
Giá trị truyền thống được hiểu là những giá trị tương đối ổn định, những
gì là tốt đẹp, là tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, có khả năng
truyền lại qua không gian, cần phải bảo vệ và phát triển. Bàn về giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam, GS Trần Văn Giàu đã tổng kết và phân tích bảy
giá trị được coi là tiêu biểu nhất trong các giá trị truyền thống của người Việt
Nam là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa. Có thể thấy, nội dung cốt lõi của các giá trị văn hóa truyền thống đều
hướng tới việc xây dựng và củng cố, phát triển quan hệ tốt đẹp giữa người với
người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh và định hướng
hành vi của con người theo hướng nhân văn, lành mạnh, bình đẳng. Do vậy,
phát huy những giá trị tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc là công cụ
quan trọng để hoàn thiện quan hệ bình đẳng, nhân ái giữa người với người
trong xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người
được phát triển toàn diện. Theo đó cần:
147
- Đẩy mạnh nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và
tính cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Việc
bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở để giáo dục, nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng nhân cách con
người Việt Nam có ý thức cộng đồng, tinh thần tương thân tương ái, tôn trọng
nghĩa tình, luôn đấu tranh chống lại những bất công, bất bình đẳng trong xã hội.
Trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu thêm nền
văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống lại sự du nhập của các nền văn hóa độc hại,
những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền,
bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, kiếm tiền bằng mọi giá. Đây
chính là tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH.
- Xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, gia
đình văn hoá, làng văn hoá. Chúng ta đều biết, gia đình là nơi duy trì nòi giống
và giáo dưỡng tình cảm của con người. Đặc biệt, gia đình là nơi duy trì gia
phong cũng như nuôi dưỡng các giá trị văn hoá truyền thống khác của dân tộc.
Vì vậy, việc xây dựng gia đình văn hoá là hết sức cần thiết. Nội dung của các
tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá phải phản ánh đạo lý dân tộc. Bên cạnh việc
xây dựng gia đình văn hoá, cần xây dựng phong trào làng văn hoá để giáo dục,
bồi dưỡng tính cộng đồng, tính tích cực chính trị - xã hội, tinh thần văn hoá và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng các phong trào văn hoá quần chúng,
bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá, xây dựng hương ước và làng văn hoá mới và
các phong trào xã hội, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, xoá đói giảm nghèo,vv... có tác
dụng bồi dưỡng tính cộng đồng cho con người và phát huy truyền thống đoàn kết
cũng như tính nhân văn, lòng khoan dung, yêu lẽ công bằng.
- Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với tăng
cường giáo dục pháp luật. Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc
điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Cùng với đạo đức, pháp luật
XHCN hướng con người tới hệ giá trị chân - thiện - mỹ, trừng trị và ngăn chặn
cái ác, cái xấu nhằm làm lành mạnh hoá xã hội. Do vậy, cần phải giáo dục ý thức
pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh niên, học sinh, sinh
viên; giúp họ tránh được những hành vi phạm pháp và trở thành những công dân
sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
148
- Xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập quốc tế. Chúng ta cần tiếp cận các giá trị văn hoá của nhân loại để
hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, nhưng cũng cần phải giữ gìn, phát huy các giá
trị truyền thống để không đánh mất bản thân mình; hơn nữa, phải biến các giá trị
đó thành sức mạnh nội sinh nâng đất nước ta lên tầm cao mới. Đây là yêu cầu có
tính nguyên tắc. Chính vì vậy, chúng ta cần phải xác lập được bản lĩnh văn hóa
Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá
hiện nay để làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung các giá trị truyền thống
nhằm tạo nên nền tảng văn hoá tinh thần cho sự phát triển bền vững của đất nước
theo hướng: dân chủ, công bằng, văn minh.
Công bằng xã hội không phải từ trên trời rơi xuống, nó phụ thuộc rất
nhiều vào từng cá nhân. Phải đấu tranh, vươn tới, phải lao động đóng góp thì
mới có hưởng thụ; phải ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi thì mới có được công
bằng cho bản thân và xã hội. Thực tiễn ngày nay đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nhận thức mới về CBXH.
Kết luận chương 4
Thực hiện CBXH là một nội dung quan trọng trong chiến lược PTCN Việt
Nam toàn diện ở nước ta hiện nay. Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay
bên cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế cản trở việc PTCN
Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đề ra, trước mắt chúng ta cần triển khai hàng
loạt các giải pháp, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như: tiếp
tục hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn thiện
và thực thi đầy đủ các chính sách kinh tế, các chính sách xã hội đảm bảo thực
hiện CBXH; nâng cao vai trò của hệ thống chính trị trong việc thực hiện CBXH
và một giải pháp không kém phần quan trọng đó là phải nâng cao nhận thức của
người dân về thực hiện CBXH. Các giải pháp này có quan hệ mật thiết với nhau,
bổ sung, hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau. Do đó, để đạt hiệu quả tối ưu đòi hỏi hệ
thống giải pháp này phải được phối, kết hợp thực hiện một cách đồng bộ, toàn
diện, thường xuyên, liên tục.
149
KẾT LUẬN
Lịch sử nhân loại là lịch sử PTCN. Trong quá trình đó, ước mơ có một
cuộc sống tự do, công bằng, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần, không
ngừng được nâng cao về tri thức của mỗi người luôn được ấp ủ và theo đuổi qua
mọi thế hệ, thời đại. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, khi
theo đuổi mục đích đó, trọng tâm và mục tiêu phát triển lại không hoàn toàn như
nhau. Phải mãi đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề giải phóng con
người khỏi xã hội có áp bức, bất công, tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện mới được đặt ra như một yêu cầu tất yếu của hiện thực. Thực hiện
CBXH đã trở thành mục tiêu hướng tới của mọi xã hội muốn phát triển ổn định
và bền vững.
Đối với nước ta, CBXH là khát vọng của toàn dân, là yêu cầu cấp bách
trong chiến lược xây dựng và PTCN Việt Nam hiện nay. Thông qua thực hiện
CBXH, mà cụ thể là thực hiện công bằng trong phân phối, sẽ làm cho mọi thành
viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được tôn trọng, được đền bù
hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp phần tích cực vào sự
phát triển bản thân cũng như phát triển xã hội. Thực hiện CBXH trong y tế, giáo
dục, văn hóa tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận bình đẳng với các điều kiện
phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi người
đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình. Thông qua việc đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hiện CBXH tạo môi trường để con
người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.
Thực tiễn 30 năm đổi mới đã ghi nhận vai trò to lớn của thực hiện CBXH
với việc PTCN ở nước ta thông qua những thành tựu mà chúng ta thu được trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,
môi trường chính trị ổn định, giáo dục, y tế, văn hóa thông tin phát triển... đời
sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận tầng lớp nhân dân được cải thiện, góp
phần PTCN Việt Nam cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Bên cạnh những thành tự
đã đạt được, chúng ta còn đang đương đầu với hàng loạt khó khăn, thách thức
trong quá trình phát huy vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN: phân
phối TLSX vẫn còn nhiều bất hợp lý, gây bức xúc cho các chủ thể kinh tế;
nguyên tắc đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập vẫn chưa được thực
hiện đầy đủ, chưa phát huy được tính tích cực của người lao động; những biểu
150
hiện làm giàu bất chính có xu hướng tăng gây bất ổn về chính trị - xã hội; bất
công trong giáo dục, y tế, văn hóa đang làm hạn chế sự PTCN trên tất cả các
mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp,
đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Để phát huy hơn nữa vai trò
của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay cần triển khai thực
hiện hàng loạt các giải pháp. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mọi
chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn quy mô, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phù
hợp với điều kiện của mình; mọi chủ thể kinh tế đều có cơ hội nắm bắt lựa chọn
thông tin, nguồn lực phát triển và phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh
một cách thuận lợi nhất. Ở nước hiện nay, các chính sách kinh tế và chính sách
xã hội bên cạnh sự thống nhất cũng nảy sinh không ít mâu thuẫn cản trở quá
trình thực hiện CBXH, tác động tiêu cực đến sự PTCN. Do đó, tăng cường đổi
mới và hoàn thiện hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội là một
trong những yêu cầu nhằm thực hiện CBXH, PTCN. Một giải pháp không kém
phần quan trọng là nâng cao vai trò của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước và
các tổ chức kinh tế - xã hội trong việc thực hiện CBXH, PTCN. Cuối cùng là
nâng cao nhận thức của người dân về thực hiện CBXH. Khi mọi người đều có
hiểu biết đúng đắn về CBXH họ sẽ tự giác phấn đấu để đạt được CBXH bằng
chính sức lực và tài năng của mình. Những giải pháp này có tính định hướng
trong việc tạo dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, ở đó con người được phát
huy quyền làm chủ, luôn sáng tạo, luôn cống hiến cao nhất năng lực của mình vì
sự phát triển của bản thân cũng như sự phát triển của xã hội.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bùi Thị Phương Thùy (2011), “Văn kiện Đại hội XI với vấn đề phát triển con
người”, Tạp chí phát triển nhân lực, (5).
2. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Những yếu tố cơ bản ánh hưởng đến việc thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, trong Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, dân chủ hóa với bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Lê Quốc
Lý, Nguyễn Thị Nga và Phạm Anh Hùng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Chiến lược phát triển con người trong Văn kiện
Đại hội XI”, trong Một số vấn đề triết học trong các Văn kiện của Đảng,
Nguyễn Hùng Hậu, Trần Văn Phòng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
4. Bùi Thị Phương Thùy (Chủ nhiệm) (2012), Giáo dục, đào tạo với việc phát triển
con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ đổi
mới”, Tạp chí Mặt trận, (115).
6. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối
cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (198).
7. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá
nhân và phát triển con người Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, (116).
8. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Giáo dục, đào tạo với việc phát triển con người
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí phát triển nhân
lực, (3).
9. Bùi Thị Phương Thùy, Lô Quốc Toản (2013), “Vấn đề bản chất con người trong
tác phẩm “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người” của
Trần Đức Thảo”, Tạp chí Triết học, (8).
10. Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Công bằng xã hội cho người phụ nữ trong đời sống
và tư tưởng Việt Nam truyền thống”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời
sống, (3).
152
11. Trần Văn Phòng, Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Vấn đề bản chất con người
trong quan niệm của Trần Đức Thảo”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
tế: Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo, Trường Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
12. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Bàn về khái niệm phát triển con người”, Tạp chí
Triết học, (10).
13. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công
bằng xã hội”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời sống, (4).
14. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở
nước ta - thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, (2).
15. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức
khỏe ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và hạn chế”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (5).
16. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản
xuất ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (7).
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc và Phạm Văn Thủy (2010), Phát triển văn
hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Ngân Anh (2015), “Dân trí Việt Nam cao hay thấp”, tại trang http://vietnamnet.vn,
[truy cập ngày 09/06/2015].
3. Phạm Ngọc Anh (1995), “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).
4. Vũ Đình Bách (chủ biên), (2008), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương (2005), Báo cáo tổng kết một số
vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
6. Báo điện tử Chính phủ (2015), “Báo cáo Tổng kết công tác y tế năm 2014,
một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2015, giai đoạn 2016-
202”, tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 19/01/2015].
7. Báo điện tử Chính phủ (2014), "Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa
XI", tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 12/06/2015].
8. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Một số cách tiếp cận
phạm trù "nhân tố con người" trong lý thuyết phát triển và phương án
đo đạc”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (4).
9. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Nghiên cứu phát triển
con người (HD), chỉ số phát triển con người (HDI) ở nước ta và những
vấn đề đặt ra cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển của Thiên niên
kỷ (MDG)”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
10. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người vào việc nghiên cứu con người và phát triển con
người ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (9).
11. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2004), “Chỉ số phát triển con
người (HDI) Việt Nam trong tiến trình 15 năm (1990 - 2004) của thời
kỳ đổi mới”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (12).
154
12. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Mạnh Cương và Trương Thị Thuý Hằng (2005),
“Chỉ số phát triển con người Việt Nam 2005 thực trạng và kiến nghị”,
Tạp chí Nghiên cứu con người, (6).
13. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2005), Chỉ số phát triển kinh tế
trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2005), Chỉ số tuổi thọ trong HDI,
một số vấn đề thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đặng Quốc Bảo, Đặng Thị Thanh Huyền (2005), Chỉ số phát triển giáo
dục trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
16. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với việc phát huy
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (1).
17. Hoàng Chí Bảo (1998), “Đổi mới ở Việt Nam, một số vấn đề triết học về
con người và xã hội”, Tạp chí Triết học, (10).
18. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
19. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Vấn đề phân phối và phân
hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Lê Chi (2016), “Chỉ số cảm nhận tham nhũng”, tại trang https://towardstran
sparency.vn, [truy cập ngày 12/02/2016]
22. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), “Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội”, Tạp chí Triết học, (4).
23. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã
hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phạm Như Cương (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
155
25. Phùng Danh Cường (2014), Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Dân (2009), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Bùi Đại Dũng (2012), Công bằng trong phân phối - cơ sở để phát triển bền
vững, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
28. Bùi Đại Dũng, Phạm Thu Phương (2009), “Tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội”, Tạp chí Khoa học, Chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, (25).
29. Nguyễn Hữu Dũng (2002), “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá
trình hội nhập xét từ góc độ nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và
xã hội, (209).
30. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
31. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Anh Đào (2012), “Quyền được chăm sóc sức khỏe: Đánh giá từ
góc độ phát triển con người”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
33. Trần Thị Tâm Đan (1996), “Phát huy và phát triển nguồn nhân lực trẻ”, Tạp
chí cộng sản, (11).
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu ban chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng nguồn
lực con người”, Tạp chí Triết học, (6).
48. Phạm Văn Đức (2000), “Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục, đào tạo
trong việc phát triển nguồn nhân lực con người”, Tạp chí Triết học, (6).
49. Phạm Văn Đức và các cộng sự (2008), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã
hội và đoàn kết xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Điều Bá Được (2015), “Tình hình quản lý và sử dụng Quỹ BHXH năm
2015”, tại trang http://baohiemxahoi.gov.vn, [truy cập ngày 4/5/2016].
51. Bắc Hà (2015), “Việt Nam xứng đáng là thành viên Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc”, tại trang http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày
18/04/2014].
52. Nguyễn Ngọc Hà (2002), “Nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
53. Nguyễn Ngọc Hà (2009), “Đảm bảo công bằng xã hội vì sự phát triển bên
vững”, Tạp chí Triết học, (2).
54. Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại
hội VI đến Đại hội XI về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng
xã hội”, tại trang http://dangcongsan.vn/, [truy cập ngày 12/10/2016].
157
55. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về phát triển văn
hoá và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người, đối
tượng và những hướng nghiên cứu chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
60. Lương Việt Hải (chủ biên), (2008), Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công
bằng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Phạm Hảo, Võ Xuân Tiến, Mai Đức Lộc (chủ biên) (2000), Tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một
số tình miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Trương Thị Thuý Hằng (2007), “Tiếp cận phát triển con người trong công
tác kế hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (6).
63. Hoàng Triều Hoa (2015), “Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (8).
64. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diện (chủ biên) (1996), Tôn trọng tri thức, tôn
trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
65. Võ Thị Hoa (2011), Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
66. Võ Thị Hoa, Vũ Hồng Sơn (2015), “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công bằng xã hội ở
Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 3 (286).
67. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1).
158
68. Lê Công Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Minh Hoàn (2007), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã
hội với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người”, Tạp chí Triết
học, (5).
70. Nguyễn Minh Hoàn (2008), “Quan điểm triết học Mác về con người và việc
xóa bỏ sự tha hóa con người”, Tạp chí Triết học, (7).
71. Nguyễn Minh Hoàn (2009), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995),
Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
73. Lê Ngọc Hùng (2015), “Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (1).
74. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (2008), Triết học giáo dục hiện đại,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Nguyễn Quỳnh Huy (2005), “Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của
Việt Nam trong những năm gần đây”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (3).
76. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu con
người ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (8).
77. Nguyễn Văn Huyên (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển
con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Thị Lan Hương (Chủ biên) (2016), Thực hiện công bằng xã hội đối với
các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
79. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2012), “Tăng cường thực hiện dân
chủ ở cơ sở để bảo đảm hiệu quả hơn quyền con người ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
80. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
81. Tường Duy Kiên (2011), “Các chỉ số về quyền con người - ý nghĩa và khả
năng áp dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
82. Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất
lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh
của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6).
159
83. Dương Bạch Kim (2006), “Thực trạng phát triển con người Việt Nam về
sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
84. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn
hoá và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Nguyễn Thị Lê (2014), "Phát triển con người trên thế giới: khái niệm và đo
lường", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
87. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và
sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Lê Bộ Lĩnh (Chủ biên) (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
một số nước châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Trương Giang Long (2004): “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong trong xu thế hội nhập hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (24).
90. Trịnh Duy Luân (2008), “Quá trình bổ sung nhận thức về công bằng xã hội và thực
hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 4 (104).
91. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. C.Mác , Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
96. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
97. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
100. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
103. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
107. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Mai Quỳnh Nam (chủ biên) (2012), Con người - văn hóa quyền và phát
triển, Từ điển bách khoa, Hà Nội.
109. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2012), Phát triển con người Việt Nam năm 2011,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
110. Phạm Xuân Nam (2004), “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Xã hội học, (13).
111. Phạm Xuân Nam (2004), “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (712).
112. Phạm Xuân Nam (2007), “Về khái niệm “công bằng xã hội”, Tạp chí Xã hội
học, số 1, (97).
113. Lê Nga (2015), “Trung bình mỗi người Việt Nam sở hữu 1,4 thuê bao di
động”, tại trang http://ictnews.vn, [truy cập ngày 23/01/2015].
114. Nguyễn Thị Nga (2005), “Công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - một số
thành tựu và vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
115. Nguyễn Thị Nga (chủ biên) (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp,
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
116. Thúy Ngà (2015), “Nhắm đích 50% người lao động tham gia bảo hiểm xã
hội”, tại trang http://vietnamnet.vn, [truy cập ngày 17/10/2015].
117. Ngân hàng thế giới (2005), Báo cáo phát triển thế giới 2006: Công bằng và
phát triển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
118. Phạm Thành Nghị (2007), “Dân chủ và phát triển con người”, Tạp chí
Nghiên cứu Con người, (6).
119. Phạm Thành Nghị (2010), Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Dương Xuân Ngọc, Nguyễn Văn Nhớn (2002), “Vai trò của nhà nước trong
việc thực hiện công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (7).
121. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý”
của nhà triết học Mỹ John Rawls, Nxb Thế giới, Hà Nội.
122. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
123. Vũ Thị Ngọc Phùng (Chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội
và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Nguyễn Duy Quý (1998), “Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản (19).
125. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong
quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
126. Hồ Sĩ Quý (2005), “Phát triển con người Việt Nam qua các báo cáo thường niên
về phát triển con người của UNDP”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (4).
127. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Giáo trình dùng cho
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
128. Trần Văn Rón, Lương Việt Hải (2015), “Thực hiện công bằng xã hội với
các hình thức sở hữu vì sự phát triển con người ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Nghiên cứu con người, số 3 (782).
129. Jean - Jacques Rousseau (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
130. Lê Văn Sang, Kim Ngọc (chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn "thần kỳ" và Việt Nam thời kỳ
"đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Amartya Sen (2002), Phát triển là quyền tự do, Nxb Thống kê, Hà Nội.
132. Vũ Thanh Sơn (chủ biên) (2014), Phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế -
tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
133. Vũ Thanh Sơn (2011), “Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng”, tại trang http://www.tapchicongsan.org,
[truy cập ngày 15/10/2016].
134. Đường Vinh Sường (2013), “Phát triển nguồn nhân lực ở nước ta ”, Tạp chí
Cộng sản, (850).
135. Lê Hữu Tầng (1993), “Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng
trong chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (2).
162
136. Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
137. Vũ Minh Tâm (Chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
138. Mai Hữu Thực (Chủ biên) (2004), Vai trò của nhà nước trong phân phối
thu nhập ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Phạm Thị Tính (2009), “Dân chủ tham gia với phát triển con người”, Tạp
chí Nghiên cứu con người, (2).
140. Đặng Hữu Toàn (1997), “Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác
và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu phát triển
con người ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1).
141. Đặng Hữu Toàn (1997), “Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội, (3).
142. Đặng Hữu Toàn (2000), “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”, Tạp chí Triết học, (4).
143. Đặng Hữu Toàn (2005), “Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến
bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, (9).
144. Đặng Hữu Toàn (2008), “Con người - Chủ thể sáng tạo lịch sử”, trong Một
số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
145. Tổng cục thống kê (2015), Niên giám thống kê, tại trang https://gso.gov.vn,
[truy cập ngày 20/8/2016].
146. Tổng cục thống kê (2016), Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt
Nam 5 năm 2011-2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
147. Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên) (2009), Những vấn đề lý luận cơ bản về công
bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
148. Anh Tuấn (2015), “Thực trạng tử vong trẻ em tại Việt Nam”, tại trang
http://m.songkhoe.vn, [truy cập ngày 09/10/2015].
149. UNDP (2011), Dịch vụ xã hội vì sự phát triển con người, Báo cáo Quốc gia
về phát triển con người năm 2011, Hà Nội.
163
150. UNDP (2015), Báo cáo Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng
bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
151. Nguyễn Thành Trung (2008), “Vai trò của con người và vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Triết học, (7).
152. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Phát triển con người: Từ
quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (2001), Báo cáo phát triển con
người Việt Nam 2001, Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154. Đỗ Tư (2005), “Về vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội”, Tạp chí Tư
tưởng - Văn hóa, (9).
155. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
(2006), Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999 - 2004, Những
thay đổi và xu hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2012), Tuyển tập Nguyễn Duy Quý, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở
Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
158. Viện Thông tin khoa học xã hội (2007), Con người và phát triển con người
ở Hòa Bình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
159. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
160. Amartya Sen (2009), The idea of justice, Harvard University press.
161. David Miller (2010), Principles of social just, Harvard University press.
162. Ira C.Colby, Catherine, N.Dulmus, Karen M.Sowers (2013), Social work
and social policy: advancing the principles of economic and social
justice, Hoboken: John Wiley & Son press.
164
163. Iris Marion Young (1990), Justice and Politics of Deffirence, Princeton
University Press Oxford.
164. Jacques Bidet (1995), A Metastructural Reinterpretation of the Rawlsian
Theory: From Rawls to Machiavelli, Publisher Oxford UK and
Cambridge, USA.
165. John Rawls (2001), A theory of justice, Revised edition, The Belknap press
of Haward University Press Cambridge, Massachusetts,USA.
166. Không rõ tên (1996), "Distribute Justice", Stanford Encyclopedia of
Philosophy, tại trang https://plato.stanford.edu, [truy cập ngày
10/10/2014].
165
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo
thành phần kinh tế
Đơn vị: nghìn người
Năm Tổng số Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài
Nhà nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
2000 37.075,3 4.358,2 32.358,6 358,5
2005 42.774,9 4.967,4 36.694,7 1.112,8
2010 49.048,5 5.107,4 42.214,6 1.726,5
2013 52.207,8 5.330,4 45.091,7 1.785,7
2014 52.744,5 5.473,5 45.214,4 2.056,6
2015 52.840,0 5.185,9 45.450,9 2.203,2
Nguồn: Niêm giám thống kê các năm (2000 - 2015) [145]
PHỤ LỤC 2
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân theo vùng
Đơn vị: nghìn đồng/tháng
1999 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Cả nước 295 356 484 636 995 1.387 2.000 2.637
Đồng bằng sông Hồng 282 358 498 666 1.065 1.580 2.351 3.278
Trung du và miền núi phía
Bắc 199 237 327 442 657 905 1.258 1.613
Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung 229 268 361 476 728 1.018 1.505 1.982
Tây Nguyên 345 244 390 522 795 1.088 1.643 2.008
Đông Nam Bộ 571 667 893 1.146 1.773 2.304 3.173 4.124
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (1999 -2014) [145]
166
PHỤ LỤC 3
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và đóng góp của 3 khu vực kinh tế
Đơn vị: %
Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài
Nhà nước Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
Sử dụng
nguồn lực Đóng góp
GDP Sử dụng
nguồn lực Đóng góp
GDP Sử dụng
nguồn lực Đóng góp
GDP
2005 47,1 37,62 38,0 47,22 14,9 15,16
2010 38,1 29,34 36,1 42,96 25,8 15,15
2014 39,9 28,73 38,4 43,33 21,7 17,89
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm 2005, 2010, 2014 [145]
PHỤ LỤC 4
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng
Đơn vị: %
1998 2002 2004 2006 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Cả nước 37,4 28,9 18,1 15,5 13,4 14,2 12,6 11,1 9,8 8,4 7,0
Thành thị 9,0 6,6 8,6 7,7 6,7 6,9 5,1 4,3 3,7 3,0 2,5
Nông thôn 44,9 35,6 21,2 18,0 16,1 17,4 15,9 14,1 12,7 10,8 9,2
Ðồng bằng sông Hồng 30,7 21,5 12,7 10,0 8,6 8,3 7,1 6,0 4,9 4,0 3,2
Trung du và miền núi phía Bắc
64,5 47,9 29,4 27,5 25,1 29,4 26,7 23,8 21,9 18,4 16,0
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
42,5 35,7 25,3 22,2 19,2 20,4 18,5 16,1 14,0 11,8 9,8
Tây Nguyên 52,4 51,8 29,2 24,0 21,0 22,2 20,3 17,8 16,2 13,8 11,3
Ðông Nam Bộ 7,6 8,2 4,6 3,1 2,5 2,3 1,7 1,3 1,1 1,0 0,7
Ðồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,3 13,0 11,4 12,6 11,6 10,1 9,2 7,9 6,5
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2010 -2015) [145]
Chú thích: Tỷ lệ hộ nghèo được tính theo thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của hộ gia đình theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011-2015 được cập nhật theo chỉ số giá tiêu dùng như sau: - 2010: 400 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 500 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2012: 530 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 660 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2013: 570 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 710 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2014: 605 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 750 nghìn đồng đối với khu vực thành thị.
- 2015: 615 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 760 nghìn đồng đối với khu vực thành thị.
167
PHỤ LỤC 5
Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm
thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành
phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng
2010 2012 2014
Nhóm
thu
nhập
thấp
nhất
(Nghìn
đồng)
Nhóm
thu
nhập
cao
nhất
(Nghìn
đồng)
Chênh
lệch
giữa
hai
nhóm
(Lần)
Nhóm
thu
nhập
thấp
nhất
(Nghìn
đồng)
Nhóm
thu
nhập
cao
nhất
(Nghìn
đồng)
Chênh
lệch
giữa
hai
nhóm
(Lần)
Nhóm
thu
nhập
thấp
nhất
(Nghìn
đồng)
Nhóm
thu
nhập
cao
nhất
(Nghìn
đồng)
Chênh
lệch
giữa
hai
nhóm
(Lần)
Cả nước 369 3.410 9,2 512 4.784 9,4 660 6.413 9,7
Thành thị 633 4.983 7,9 952 6.794 7,1 1.267 9.421 7,4
Nông thôn 330 2.462 7,5 450 3.615 8,0 565 4.641 8,2
Đồng bằng
sông Hồng 468 3.744 8,0 700 5.384 7,7 1.007 7.858 7,8
Trung du và
miền núi phía
Bắc 282 2.137 7,6 377 2.943 7,8 468 3.806 8,1
Bắc Trung Bộ
và Duyên hải
miền Trung 317 2.283 7,2 443 3.355 7,6 561 4.400 7,8
Tây Nguyên 305 2.526 8,3 421 3.626 8,6 510 4.574 9,0
Đông Nam Bộ 720 5.573 7,7 1.054 7.361 7,0 1.397 9.979 7,1
Đồng bằng
sông Cửu
Long 395 2.908,0 7,4 545,0 4.214 7,7 728 5.420 7,4
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2010 - 2015) [145]
168
PHỤ LỤC 6
Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi phân theo vùng
Đơn vị: ‰
2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Cả nước 26,8 24,1 22,5 24,1 23,8 23,3 23,2 23,1 22,4 22,1
Đồng bằng sông Hồng 17,2 14,9 16,4 18,6 18,4 18,7 18,4 18,3 17,7 17,5
Trung du và miền núi phía Bắc 40,3 36,0 31,8 37,2 36,9 34,9 35,7 35,2 33,9 33,4
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 33,9 28,3 24,1 25,8 25,7 25,8 25,8 25,5 24,9 24,5
Tây Nguyên 44,0 41,2 34,9 41,6 40,9 37,0 40,2 39,8 39,5 37,7
Đông Nam Bộ 15,8 14,9 12,1 15,0 14,3 13,9 13,7 13,5 13,1 12,9
Đồng bằng sông Cửu Long 21,6 16,4 16,4 20,0 18,9 18,3 18,0 17,9 17,4 17,0
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2005 -2015) [145]
PHỤ LỤC 7
Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh phân theo vùng
Đơn vị: tuổi
2005 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Cả nước 72,2 72,8 72,9 73,0 73,0 73,1 73,2 73,3
Đồng bằng sông Hồng 74,6 74,2 74,3 74,2 74,3 74,3 74,5 74,5
Trung du và miền núi phía Bắc 69,4 70,0 70,0 70,5 70,3 70,4 70,7 70,8
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 70,7 72,4 72,4 72,4 72,4 72,5 72,6 72,7
Tây Nguyên 68,7 69,1 69,3 70,0 69,4 69,5 69,5 69,9
Đông Nam Bộ 75,0 75,3 75,5 75,6 75,7 75,7 75,9 76,0
Đồng bằng sông Cửu Long 73,4 73,8 74,1 74,3 74,4 74,4 74,6 74,7
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2005 -2015) [145]
169
PHỤ LỤC 8
Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo
phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đơn vị: %
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tổng số 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 19,9
Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật .. 85,4 84,5 83,4 82,1 81,8 80,1
Dạy nghề 4,8 3,8 4,0 4,7 5,3 4,9 5,0
Trung cấp chuyên nghiệp 2,7 3,4 3,7 3,6 3,7 3,7 3,9
Cao đẳng 1,5 1,7 1,7 1,9 2,0 2,1 2,5
Đại học trở lên 5,5 5,7 6,1 6,4 6,9 7,6 8,5
Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2009 -2015) [145]
PHỤ LỤC 9
Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế
đã qua đào tạo phân theo vùng
Đơn vị:%
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Cả nước 14,3 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 19,9
Đồng bằng sông Hồng 18,1 20,9 20,7 21,1 24,0 24,9 25,9 27,5
Trung du và miền núi phía Bắc 12,2 13,2 13,3 13,6 14,6 15,6 15,6 17,0
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 13,1 13,5 12,7 14,4 14,9 15,9 16,4 19,4
Tây Nguyên 11,4 10,9 10,4 10,8 12,1 13,1 12,3 13,3
Đông Nam Bộ 22,5 19,6 19,5 20,7 21,0 23,5 24,1 25,3
Đồng bằng sông Cửu Long 7,8 7,9 7,9 8,6 9,1 10,4 10,3 11,4
Chú thích: Lao động đã qua đào tạo là những người đã học và tốt nghiệp ở một trường lớp đào tạo chuyên
môn kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc Hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng
trở lên (có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo).
170
PHỤ LỤC 10
Chỉ số HDI vác các chỉ số thành phần của Việt Nam giai đoạn 2009 - 2012
Năm Chỉ số HDI Chỉ số
tuổi thọ
Chỉ số
giáo dục Chỉ số GDP
1999 0,650 0,721 0,803 0,430
2008 0.726 0,794 0,83 0,559
2012 0.752 0,80 0.84 0,615
Nguồn: Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, 2015 [149]; [150]
và tính toán của tác giả