THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui...

175
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2017

Transcript of THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui...

Page 1: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2017

Page 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ PHƯƠNG THÙY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN

HÀ NỘI - 2017

Page 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Bùi Thị Phương Thùy

Page 4: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về thực hiện

công bằng xã hội với việc phát triển con người 5

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện công

bằng xã hội với việc phát triển con người 17

1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy vai trò của

thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người 23

1.4. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan và định hướng nghiên

cứu của luận án 26

Chương 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN

CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 29

2.1. Công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội 29

2.2. Phát triển con người 47

2.3. Vai trò của thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người 61

Chương 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN

CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 74

3.1. Những thành tựu của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con

người ở Việt Nam hiện nay 74

3.2. Những hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển

con người ở Việt Nam hiện nay 93

Chương 4: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ

CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON

NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 116

4.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

để thực hiện tốt công bằng xã hội, phát triển con người 116

4.2. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội

trong việc thực hiện công bằng xã hội đối với phát triển con người 120

4.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị trong việc thực hiện công bằng xã

hội, phát triển con người 134

4.4. Nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện công bằng xã hội

cho phát triển con người 144

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153

PHỤ LỤC 165

Page 5: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BHYT : Bảo hiểm y tế

CBXH : Công bằng xã hội

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

PTCN : Phát triển con người

TLSX : Tư liệu sản xuất

UNDP : Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 6: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch

sử hình thành và phát triển con người (PTCN). Khái niệm PTCN đã được sử

dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác nhau như một thuật ngữ thông dụng. Hơn

150 năm trước, khi khẳng định tiến trình lịch sử của loài người là sự thay thế lẫn

nhau của các hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã nói tới sự phát triển toàn diện

con người là thước đo chung cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phấn đấu vì sự

nghiệp PTCN đã trở thành mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản trong quá

trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Vấn đề ở chỗ, mặc dù coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế

- xã hội và PTCN thường được nhiều quốc gia ưu tiên hàng đầu khi hoạch định

chính sách kinh tế - xã hội, nhưng trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng

làm được điều này. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội to

lớn cho các nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra

những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã hội. Trên thế giới, người ta

cũng đã đề cập nhiều đến sự phát triển không đồng đều giữa kinh tế và xã hội,

giữa các vùng, khu vực, sự gia tăng của nạn nghèo khổ trong nhiều dân tộc, quốc

gia, sự xa cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân v.v.. Một điều có thể

khẳng định là, sự chênh lệch lớn giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền

đã làm mất cơ hội phát triển của nhiều nhóm người, nhiều cộng đồng và chính

điều này là nguyên nhân sâu xa của những vấn đề xã hội và sẽ làm tăng thêm

gánh nặng của quốc gia, cộng đồng trong tương lai. Do đó, PTCN bền vững luôn

đi liền với công bằng xã hội (CBXH).

Ở Việt Nam, xuyên suốt lịch sử, con người luôn hiện ra như một giá trị nhân

văn cao cả nhất. PTCN toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách

của Đảng và Nhà nước ta. Để có thể PTCN toàn diện, mọi chủ trương, chính sách của

Page 7: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

2

Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời

sống con người: Từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế đến

vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng:

Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con

người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và

quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã

hội, giữa đời sống vật chất và đời tinh thần, giữa đáp ứng các nhu

cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và

cộng đồng xã hội [35, tr.13].

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta không những đề

ra nội dung, phương thức thực hiện CBXH hội trên các mặt của đời sống xã hội,

mà còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện CBXH: “thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các

chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống

hiến và hưởng thụ" [42, tr.101].

Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những

kết quả khả quan góp phần quan trọng vào CBXH Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu

của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, sự chênh lệch về PTCN giữa các địa

phương, dân tộc, tầng lớp xã hội, vấn đề đói nghèo, việc làm, v.v.. đang là một thách

thức cho PTCN bền vững ở nước ta hiện nay. Để đạt được sự PTCN bền vững cần

phải có sự phân bổ công bằng các giá trị do tăng trưởng mang lại, tạo cơ hội cho

nhóm người thiệt thòi vươn lên. Muốn vậy, Nhà nước phải có những chính sách xã

hội phù hợp, phải tạo dựng được bộ máy và các nguyên tắc làm việc minh bạch, làm

công cụ để quản lý, tổ chức việc thực hiện CBXH. Cùng với đó, sự tham gia của

người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết định

đó là một đảm bảo cho chính sách PTCN được thực thi vì lợi ích người dân, hướng

vào nhu cầu của người dân.

Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên đây, đồng thời, xét trên phương

diện lý luận cũng như thực tiễn, đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình khoa

học nào nghiên cứu vấn đề thực hiện CBXH với việc PTCN dưới góc độ triết

Page 8: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

3

học. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện công bằng xã hội với việc phát

triển con người ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích của luận án

Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của

thực hiện CBXH đối với việc PTCN, luận án phân tích thực trạng và đề xuất một

số giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của luận án

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, thực hiện CBXH, PTCN

và vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN.

- Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu

và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam từ đổi mới

đến nay.

- Đề xuất các giải pháp giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực

hiện CBXH với việc PTCN ở nước ta hiện nay

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở

Việt Nam dưới góc độ triết học.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án nghiên cứu vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN ở

Việt Nam thời kỳ đổi mới.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cở sở lý luận

Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí

Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH; đồng thời,

luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học

trong và ngoài nước có liên quan.

Page 9: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

4

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử -

lôgic, so sánh, phân tích - tổng hợp v.v.. để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.

5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án đã tiếp cận khái niệm CBXH, thực hiện CBXH dưới góc độ

PTCN, chỉ ra và làm rõ những nội dung của thực hiện CBXH với việc PTCN.

- Luận án đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu

và hạn chế trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH vì mục

tiêu PTCN ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa của luận án

Luận án có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu lý luận về CBXH,

thực hiện CBXH và PTCN ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học và các ngành khoa học

xã hội nhân văn.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp người làm công tác quản lý xã

hội xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công

bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm

4 chương, 13 tiết.

Page 10: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN

CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN

CON NGƯỜI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về

công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội

* Các công trình nghiên cứu ngoài nước

Trên thế giới, vấn đề CBXH được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nhìn

chung, các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài luận án chủ yếu tập

trung luận giải cơ sở lý thuyết của CBXH. Mặc dù, xuất phát từ những quan điểm,

lập trường triết học khác nhau, song tất cả đều cho rằng, công bằng là một trong

những phẩm hạnh của con người và CBXH là một trong những cái đích mà con

người phải phấn đấu vươn tới bên cạnh những cái đích khác như tự do, dân chủ.

Ngày nay, trên thế giới, người ta coi CBXH là một trong những đối tượng nghiên cứu

của triết học chính trị, triết học xã hội liên quan đến các vấn đề quản lý và phát triển

xã hội. Tác giả luận án chỉ điểm qua một số công trình cơ bản nhất có liên quan đến

đề tài luận án.

Trước hết, phải kể đến tác phẩm mang tính nền tảng về vấn đề này trong lịch

sử triết học đó là Bàn về khế ước xã hội [129] của J.J Rousseau. Tư tưởng xuyên suốt

trong tác phẩm là tự do, bình đẳng và sự cảm thông sâu sắc với thân phận con người.

Theo J.J Rousseau, nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong xã hội do chế độ

tư hữu và những lầm lạc của con người. Ông phê phán mạnh mẽ những người cam

chịu, không dám đấu tranh, từ bỏ tự do của mình, bởi “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ

phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” [126, tr.59].

J.J Rousseau đưa ra biện pháp để thiết lập tự do, bình đẳng giữa người với người đó

là nhà nước phải được tổ chức cai trị bằng một khế ước xã hội, trong đó, mọi thành

viên kết hợp với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ

chung, một ý chí chung. Tư tưởng tiến bộ của J.J Rousseau đã góp phần đánh thức

tinh thần đấu tranh vì tự do, bình đẳng của con người trong cách mạng tư sản Pháp

1789, đồng thời chứa đựng những luận điểm mà nhiều tác giả sau này bàn về CBXH

đã tham khảo.

Page 11: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

6

Tư tưởng về CBXH của J.J Rousseau đã được nhà triết học Mỹ J.Rawls

tiếp nối và phát triển trong tác phẩm A theory of Justice [165]. J.Rawls đã đưa ra

một quan niệm mới về CBXH: công lý như là công bằng và coi đây là khái niệm

trung tâm trong cuốn sách. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự

nguyện cùng tham dự vào hợp tác xã hội để làm sao cho mỗi cá nhân giành được

lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ. Vì thế, nếu thể chế của một xã hội là

căn cứ để xác định được một nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ phù

hợp với lợi ích của mỗi cá nhân thì thể chế xã hội ấy là công bằng. Ông cho rằng,

công bằng hay không công bằng trong một thể chế xã hội không phải khác nhau

về xuất phát điểm của mỗi cá nhân mà chủ yếu ở chỗ, khi tham gia vào hợp tác

xã hội, cho dù có sự bất bình đẳng do những khác biệt bẩm sinh và địa vị xã hội

nhưng có sự chấp nhận mang tính tự nguyện trong cơ chế hoạt động hợp tác xã

hội chung thì đó vẫn là công bằng. Quan niệm của J.Rawls về CBXH đã thể hiện

những cố gắng của ông trong việc đưa ra một cách nhìn mới về CBXH.

Cũng với mục đích tìm ra các nguyên tắc để thực hiện CBXH, David

Miller với cuốn sách Principles of social justice [161], cho rằng, CBXH là một

phạm trù lịch sử, nội dung và các nguyên tắc cơ bản của nó phải gắn liền với các

điều kiện khác nhau của các cộng đồng xã hội khác nhau. Tác giả đã đưa ra ba

thành phần chính trong hệ thống các nguyên tắc của CBXH cần phải được thực

hiện và đảm bảo, đó là: công lao, nhu cầu và sự bình đẳng của con người. Cuốn

sách làm rõ những cơ sở, điều kiện cũng như những khó khăn, thách thức nhằm

thực hiện những nguyên tắc của CBXH trong thời đại ngày nay.

Nếu J.Rawls tìm kiếm sự công bằng hoàn hảo thông qua việc xây dựng

các định chế hoàn hảo thì A.Sen với cuốn sách The idea of justice [160] tiếp

cận công bằng dựa trên bản thân cuộc sống, trên hiện thực hóa xã hội và tìm

cách giảm bớt những bất công. A.Sen cho rằng, phải kiểm nghiệm lâu dài

những tình trạng xã hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh những gì đã

xảy ra rồi tìm những tiêu chuẩn công bằng, thay vì đề ra một lý thuyết chung.

Theo A.Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công bằng là làm thế nào để

xóa bỏ mọi chướng ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu

hạnh phúc. Nỗ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là chủ yếu, nhưng

môi trường xã hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Cuốn sách của

A.Sen giúp chúng ta hiểu đúng các vấn đề về công bằng, dân chủ trong mỗi

quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.

Page 12: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

7

Cũng liên quan đến đề tài luận án phải kể đến cuốn sách Social work and

social policy: advancing the principles of economic and social justice [162] của

các tác giả Ira C.Colby, Catherine, Karen M.Sowers. Các giả đã coi công tác xã

hội và chính sách phúc lợi xã hội toàn cầu như một nội dung chủ yếu để thực thi

CBXH hiện nay, còn nhà nước như một công cụ quản lý và điều tiết chủ yếu

nhằm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột xã hội để thực thi công bằng và bình

đẳng. Hiện nay, xã hội châu Á đang đứng trước những thách thức cơ bản trong

việc thực thi CBXH: sự cọ sát giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trong

việc tìm kiếm những giải pháp thực thi CBXH trong nền kinh tế thị trường, tính

thiếu đồng bộ trong thể chế chính trị, pháp lý và hệ thống chính sách xã hội...

Cuốn sách cũng đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện CBXH.

Trên cơ sở khái quát lại các các tư tưởng về CBXH trong lịch sử, Báo cáo

phát triển thế giới 2006: Công bằng và phát triển [117] của Ngân hàng Thế giới

tập trung vào một số vấn đề như: Bất bình đẳng trong từng nước và giữa các

nước; ý nghĩa quan trọng của công bằng; mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

như là không gian cho bình đẳng. Công bằng được hiểu là công bằng trong các

cơ hội. Báo cáo nhấn mạnh, cơ hội đồng đều tức là sự thành đạt của một người

phải do các nỗ lực, chọn lựa và tài năng của người ấy, chứ không do những hoàn

cảnh có sẵn trước đó như chủng tộc, giới tính, nhóm xã hội, gốc gác gia đình và

sinh quán của họ.

Bên cạnh đó còn có các tác phẩm tiêu biểu khác liên quan đến vấn đề

CBXH như: Justice and the politics of difference [163] của Iric Masion Young;

A Metastructural Reinterpretation of the Rawlsian Theory: From Rawls to

Machiavelli [164] của Jacques Bidet; bài “Distributive Justice” [166], v.v..

Trong khuôn khổ đề tài luận án, những nghiên cứu nêu ra ở đây không thể

bao quát hết các công trình nghiên cứu về chủ đề này trên thế giới. Vấn CBXH

và thực hiện CBXH được các tác giả nghiên cứu và luận giải chủ yếu dưới góc

độ kinh tế, chính trị, liên quan đến nhiều vấn đề: tự do, bình đẳng, dân chủ, đoàn

kết v.v.. Về cơ bản, các nghiên cứu chủ yếu tập trung luận giải cơ sở xã hội, cơ

sở nhận thức của con người về CBXH; những vấn đề đặt ra trong quá trình thực

hiện CBXH trong thời đại ngày nay. Đồng thời, cũng tùy thuộc vào bối cảnh xã

hội của mỗi quốc gia mà các nghiên cứu này gợi ý những phương án thực thi

CBXH cụ thể. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu phục vụ tác giả luận án

trong công tác nghiên cứu và tìm kiếm những giải pháp thực hiện CBXH.

Page 13: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

8

* Các công trình nghiên cứu trong nước

Về khái niệm công bằng xã hội

Xung quanh khái niệm CBXH, có các công trình tiêu biểu: Hiện đại hóa

xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60]; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Công bằng xã

hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội [49]; Những vấn đề lý luận cơ bản về

công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay [147]; Công bằng xã hội

trong tiến bộ xã hội [71]; Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của nhà

triết học Mỹ John Rawls [121] v.v;.., các bài báo, tạp chí: “Tư tưởng của C.Mác

về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội” [135]; “Về vấn đề bình đẳng

và công bằng xã hội” [154]; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội

với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người” [69], “Về khái niệm “công

bằng xã hội” [112], v.v.. Các công trình đã cho chúng ta thấy được những quan

niệm khác nhau về CBXH trong lịch sử triết học Đông và phương Tây cũng như

các quan niệm hiện đại về CBXH, đặc trưng, bản chất và nội dung của CBXH.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, CBXH là sự ngang bằng nhau giữa

người và người trong xã hội không phải về mọi phương diện mà chủ yếu về

phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động

ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau [112, tr.8].

Công bằng xã hội ngoài nội dung phân phối theo lao động như đã đề cập ở

trên, trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều

kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả bổ sung thêm nội dung phân phối thông qua

phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và phải phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc.

Theo đó, CBXH

Là một khái niệm khoa học có tính chất tổng hòa các lĩnh vực khác nhau

của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... dùng để chỉ sự

ngang bằng giữa người và người theo nguyên tắc phân phối lợi ích phù

hợp giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi, thưởng và

phạt… đồng thời còn thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội (cả về

vật chất và tinh thần), CBXH “vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính đạo

lý, phản ánh bản sắc văn hóa của một dân tộc; là động lực của sự tiến bộ

xã hội [147, tr.349].

Tiếp cận CBXH trên cơ sở nhấn mạnh hệ giá trị, tác giả Bùi Đại Dũng và

Phạm Thu Phương [28] cho rằng, CBXH là tình trạng mà mọi quyền lợi, nghĩa

vụ của các thành viên xã hội có và được thực hiện phù hợp với các giá trị xã hội

Page 14: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

9

để khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại

của mỗi cá nhân cho xã hội trong lâu dài.

Đa phần các nhà khoa học đều khẳng định, CBXH là phạm trù lịch sử,

mang tính giai cấp, có thể được xem xét ở nhiều phương diện: kinh tế, chính trị,

pháp quyền, đạo đức v.v... trong đó kinh tế là phương diện cơ bản nhất. Các tác

giả cũng phân biệt rất rõ hai khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội.

Về khái niệm thực hiện công bằng xã hội

Có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, tuy nhiên, phần lớn

các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc thực hiện

CBXH, còn vấn đề lý luận thực hiện CBXH gần như chưa có công trình nào đề

cập đến.

Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong

điều kiện nước ta hiện nay [147], các tác giả đã đưa ra những nguyên tắc phương

pháp luận cơ bản trong việc nhận thức và thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:

Nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc toàn diện. Tiền đề để

thực hiện CBXH là sự tiếp cận bình đẳng của mọi người với các điều kiện và

nguồn lợi phát triển, và phụ thuộc vào trách nhiệm xã hội của quản lý Nhà nước

trong việc điều hòa lợi ích xã hội theo hướng công bằng. Các tác giả cũng chỉ ra

hai nội dung cơ bản của việc thực hiện CBXH: Phân phối công bằng và bình đẳng

về cơ hội.

Nghiên cứu thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường, các tác giả của

cuốn sách Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội [60] đã chỉ ra rằng,

trong giới hạn của kinh tế thị trường đã bao hàm việc thực hiện CBXH, tuy nhiên, nó

không thể thực hiện triệt để, rộng khắp và toàn diện. Thực hiện CBXH theo tác giả

phải được thực hiện bằng nhiều hình thức phân phối, ngoài việc phân phối theo cống

hiến cần phân phối công bằng các nguồn lực phát triển cho các vùng, miền, ngành,

nghề; thực hiện công bằng trong việc phân phối các thành quả của sự phát triển xã

hội trên các phương diện như giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở, v.v.. nhằm đảm bảo cho

mọi người có được cơ hội và điều kiện sống, lao động bình đẳng. Các tác giả cho

rằng, việc thực hiện CBXH phải được tiến hành ngay trong mỗi bước phát triển,

song song với tăng trưởng kinh tế. Ở đây, Nhà nước đóng vai trò điều tiết thu nhập,

đảm bảo thực hiện CBXH.

Đi sâu vào khía cạnh kinh tế, trong cuốn sách Thực hiện công bằng xã hội

đối với các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay [78], các tác giả đã phân

Page 15: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

10

tích, làm rõ nội dung của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế bao

gồm hai nội dung chủ yếu: Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội phát

triển và bình đẳng trong phân chia lợi ích giữa các thành phần kinh tế. Thực chất

của thực hiện CBXH đối với các thành phần kinh tế là thực hiện hài hòa lợi ích

giữa các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng thông qua

hệ thống các chính sách và các cơ chế, hiện thực hóa các chính sách kinh tế - xã

hội với các nội dung chính là đảm bảo sự bình đẳng về quyền tiếp cận các nguồn

lực, quyền tham gia vào hoạt động kinh tế và quyền được chia sẻ (được phân

phối công bằng) các thành quả của phát triển giữa các thành phần kinh tế, từ đó

tạo động lực cho phát triển, góp phần ổn định xã hội. Ở đây, Nhà nước và thể

chế với tư cách là những nhân tố đảm bảo cho thực hiện CBXH đối với các

thành phần kinh tế.

Bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH có thể kể

đến các công trình: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á

và Việt Nam [88]; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt

Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp [115]; các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế

và công bằng xã hội trong trong xu thế hội nhập hiện nay” [89]; “Thực hiện tiến bộ

và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

[110], “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa” [111],... Các tác giả đã đã nêu bật mối quan hệ khăng

khít, hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, coi đó là những mục tiêu

không thể tách rời của sự phát triển bền vững xã hội ngày nay.

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về

công CBXH và thực hiện CBXH phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ

khác nhau. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm

coi CBXH là một giá trị định hướng con người sinh sống và phát triển, thực

hiện CBXH là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến bộ. Thực hiện CBXH

được thể hiện tập trung ở hai nội dung chính là đảm bảo công bằng trong phân

phối và công bằng về cơ hội. Nhìn chung, ở nước ta hiện nay, các công trình

chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ thực hiện CBXH trong phân phối. Những công

trình trên sẽ là cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tiếp thu, bổ sung và phát

trển trong nghiên cứu của mình.

Page 16: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

11

1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về phát

triển con người và thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển con người

Quan điểm PTCN từ lâu đã được biết đến như là một quan điểm triết học

cơ bản, đặc biệt là trong triết học Mác và tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.

Đây cũng là nội dung xuyên suốt các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Xung

quanh vấn đề PTCN ở nước ta hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, sau

đây là một số các công trình tiêu biểu.

Cuốn sách Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác

và Ph.Ăngghen [125] đã tập trung nghiên cứu để tiếp tục làm sáng tỏ cơ sở lý

luận đối với PTCN ở Việt Nam. Phần thứ nhất của cuốn sách đã trình bày một

cách có hệ thống những luận điểm về con người và PTCN của C.Mác và

Ph.Ăngghen: Con người là gì, bản chất con người, vấn đề giải phóng con người,

đặc biệt những tư tưởng về con người tự nhiên, con người cá nhân, con người cá

thể, những tư tưởng ở thời “Mác trẻ” - giai đoạn mà lâu nay ta ít khai thác.

Tương ứng với các luận điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của các ông đã đưa

độc giả đi từ bao quát đến cụ thể để có thể nắm bắt vấn đề tốt hơn cũng như hiểu

sâu hơn tư tưởng của các nhà kinh điển về vấn đề này. Phần thứ hai gồm bài viết

của các tác giả khai thác di sản kinh điển theo cách nhìn từ thời đại ngày nay, ý

nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và PTCN. Cuốn sách

là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận

phục vụ nghiên cứu vấn đề PTCN.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng về PTCN của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về PTCN là hệ thống những

quan điểm sâu sắc, đã trở thành cơ sở lý luận đối với việc nghiên cứu con

người ở Việt Nam trong những năm qua. Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về

phát triển con người Việt Nam toàn diện [20], đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận,

những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn diện. PTCN

theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải tập trung phát triển tất cả các bộ

phận cấu thành nên chỉnh thể đó: Thể lực, trí tuệ, năng lực thẩm mỹ, đạo đức.

Tác giả cũng trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nhân tố kinh tế,

chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành và PTCN, con đường hình thành

và PTCN toàn diện. Theo tác giả, ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới của Đảng và

Nhà nước ta đang được đẩy mạnh, những biến chuyển trên thế giới ngày càng

nhanh chóng và phức tạp, những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng

Page 17: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

12

nhiều, đòi hỏi con người phải sáng suốt, linh hoạt, có bản lĩnh để vượt qua thì

việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về PTCN toàn

diện trở thành nhiệm vụ cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Ở Việt Nam, quan điểm PTCN được nghiên cứu một cách có hệ thống trong

các công trình của tác giả Phạm Minh Hạc, chủ nhiệm của ba chương trình quốc gia

“Con người - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991 - 1995); “Phát

triển văn hóa, xây dựng con người toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa” (1996 - 200); “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001-2005). Tác giả cũng đã xuất bản nhiều cuốn

sách liên quan đến PTCN, trong đó phải kể đến ba cuốn sách: Phát triển giáo dục,

phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [55], Nghiên cứu con người

và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa [56], Về phát triển toàn

diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [57]. Theo tác giả, phát triển

toàn diện con người là “khắc phục tình trạng tha hóa, phát triển toàn diện, hài hòa,

cân đối trí lực và thể lực, đức và tài, phát triển cá tính và sự phong phú của con

người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm chủ, thích ứng với sự di động chức

năng xã hội của con người” [57, tr.33]. Tác giả khẳng định vai trò của CBXH đối

với việc PTCN. CBXH tạo ra động lực mạnh mẽ cho hoạt động của con người. Giải

quyết vấn đề phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo chính là thực hiện CBXH vì

mục tiêu PTCN.

Cùng chủ đề này chúng ta còn phải kể đến các công trình nghiên cứu Về

vấn đề xây dựng con người mới [24]; Tư tưởng triết học về con người [137]; Tư

tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn

diện [31]; các bài viết của tác giả Đặng Hữu Toàn: “Phát triển vì con người trong

quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu

phát triển con người ở nước ta hiện nay” [140]; “Phát triển con người Việt Nam

toàn diện với tư cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước” [141]; “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” [142]; “Phát triển con người - thước đo

nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới

ở Việt Nam” [143] đã cung cấp cho tác giả luận án cơ sở lý luận quan trọng cho

việc nghiên cứu con người và PTCN.

Page 18: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

13

Ngoài những công trình nghiên cứu PTCN theo quan điểm mácxít trong

những năm gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới theo phương pháp lượng hóa

PTCN, trong đó phải kể đến: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi

mới và sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam [153]; Báo cáo phát triển con

người Việt Nam 1999 - 2004: Những thay đổi và xu hướng chủ yếu [155]; Phát

triển con người Việt Nam năm 2011 [149]; Báo cáo Phát triển con người Việt

Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người [150]. Báo cáo

Phát triển con người Việt Nam năm 2011 đã xem xét những thách thức mà nhiều

người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Báo cáo cho thấy, gia tăng bất bình đẳng về kinh tế đi kèm với sự chênh lệch dai

dẳng trong các chỉ tiêu về giáo dục và y tế cơ bản như thế nào. Báo cáo kết luận,

nếu Việt Nam muốn tiếp tục đạt được mức PTCN cao hơn thì việc đảm bảo tiếp

cận toàn dân và công bằng đối với dịch vụ y tế và giáo dục là vô cùng cần thiết.

Còn Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2015 đã nhấn mạnh tầm quan

trọng của an sinh xã hội trong việc thúc đẩy tính công bằng, hiệu quả và sức

chống chịu, đồng thời đưa ra đánh giá cơ bản về hệ thống này của Việt Nam.

Hướng đến tương lai, Báo cáo tập trung khuyến nghị các chính sách thiết thực để

mở rộng việc làm có năng suất, cải thiện hiệu quả và nâng cao tính công bằng

của hệ thống giáo dục và y tế cũng như gia tăng diện bao phủ của hệ thống an sinh

xã hội. Các phân tích trong Báo cáo cung cấp một cơ hội để cân nhắc xem làm thế

nào xây dựng được một mô hình phát triển công bằng và toàn diện, có thể mở rộng

các lựa chọn và tạo ra cơ hội cho mọi người.

Bên cạnh báo cáo phát triển con người cấp quốc gia, nhiều tỉnh thành ở

nước ta trong thời gian vừa qua cũng đã triển khai thực hiện nghiên cứu và tính

toán chỉ số PTCN cấp địa phương, một số đã được xuất bản thành sách: Con

người và phát triển con người ở Hòa Bình - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

[158]; Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta [119]. Cũng có một số công

trình đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác nhau về PTCN (chính trị, y tế,

giáo dục, văn hóa, chính sách xóa đói, giảm nghèo), từ đó đề ra những giải pháp

cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người: Dân chủ và phát triển

con người [118]; Dân chủ tham gia với phát triển con người [139]; Chỉ số tuổi

thọ trong HDI, một số vấn đề thực tiễn Việt Nam [11]; Thực trạng phát triển con

người Việt Nam về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ [83]; Chỉ số phát triển kinh tế

trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [13], Chỉ số phát triển

Page 19: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

14

giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu [15] v.v... Các

công trình đã cho thấy vai trò của kinh tế, chính trị, xã hội đối với PTCN, chỉ ra

những vấn đề cần quan tâm trong việc mở rộng tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục,

văn hóa cho người nghèo ở Việt Nam. Mở rộng cơ hội tiếp cận ở đây cũng chính

là góp phần thực hiện CBXH, PTCN.

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTCN rất

phong phú, đa dạng, tiếp cận dưới nhiều góc độ. PTCN bị quy định bởi nhiều

yếu tố trong đó có CBXH. Các nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được vai trò của

việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN.

Đi sâu hơn vào vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN gần như

chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Theo chúng tôi được biết duy

nhất có bài viết của tác giả Phạm Thành Nghị “Công bằng xã hội và phát triển

con người bền vững” [49] đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa CBXH và

PTCN. Vai trò của CBXH đối với PTCN được thể hiện qua các nội dung: thứ

nhất, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho phát triển năng lực thông qua các chính

sách xã hội và chính sách kinh tế và các chương trình hướng tới sự hoàn thiện

con người; thứ hai, sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực do tăng trưởng

mang lại, tạo điều kiện để PTCN bền vững, liên quan đến xây dựng và thực thi

các chính sách kinh tế và chính sách xã hội; thứ ba, thông qua tăng cường sự

bình đẳng về cơ hội tham gia; thứ tư: sự bình đẳng giữa các thế hệ. Tác giả

khẳng định, bình đẳng tiếp cận và bình đẳng về cơ hội là các yếu tố cơ bản nhất

tạo điều kiện cho PTCN bền vững. Đây là những gợi mở quan trọng để tác giả

luận án có thể tiếp thu.

Nhìn chung, vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN chủ yếu được đề

cập gián tiếp thông qua vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, với sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Con người với tư cách vừa là chủ thể,

vừa là mục tiêu của sự phát triển triển, do đó, phát triển kinh tế - xã hội cũng

chính là để PTCN.

Bàn về vai trò của thực hiện CBXH với tiến bộ xã hội, tác giả Nguyễn

Minh Hoàn [71] cho rằng, vai trò của CBXH thể hiện ở 2 nội dung chính: là

động lực của sự phát triển xã hội và là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội.

Theo tác giả, động lực thúc đẩy con người hoạt động là lợi ích của chủ thể hoạt

động. CBXH cũng là một nguyên tắc phân chia lợi ích, làm cho các thành viên

tham gia vào quan hệ lợi ích không thấy bị thiệt thòi, hơn nữa còn kích thích họ

Page 20: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

15

hoạt động một cách tích cực hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.

Với tư cách là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội, qua các hình thái kinh

tế - xã hội đã có trong lịch sử, có thể thấy rõ mức bất công trong phân phối sản

phẩm của lao động đã giảm dần và mức công bằng tăng dần.

Tác giả Võ Thị Hoa và Nguyền Hồng Sơn [66] thông qua việc phân tích vai

trò của thực hiện CBXH với tư cách là động lực thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã chỉ ra vai trò của

việc thực hiện CBXH với việc PTCN. Thực hiện CBXH trong kinh tế hướng tới đảm

bảo lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân, tạo một không gian kinh tế lành

mạnh, bình đẳng mà ở đó các chủ thể kinh tế được phát huy năng lực của mình, làm

giàu cho cá nhân và xã hội. Dưới góc độ chính trị, thực hiện CBXH tạo điều kiện cho

người lao động thực sự là chủ và làm chủ. Dưới góc độ văn hóa, xã hội, thực hiện

CBXH đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có quyền bình đẳng trong sáng tạo

và hưởng thụ những giá trị văn hóa - tinh thần, khắc phục tình trạng phân hóa giàu

nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đảm bảo cho mọi tầng

lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, y tế.... Thực hiện CBXH

đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và khẳng

định mình, tạo sự đồng thận, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hà [53], CBXH là một nội dung quan trọng

trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất công bằng,

người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của mình, hơn

nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh khỏi bất

ổn xã hội. CBXH luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi vừa là mục tiêu, vừa

là động lực của sự phát triển xã hội. Để có được CBXH trong điều kiện kinh tế

thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp

mà Đảng ta đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của CBXH, theo tác giả, cần

khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện CBXH hiện đang còn tồn tại.

Tiếp cận dưới góc độ vai trò của thực hiện CBXH đối với các thành phần

kinh tế, các tác giả cuốn sách Thực hiện công bằng đối với các thành phần kinh

tế ở Việt Nam hiện nay [78] cho rằng, công bằng trong phân phối các nguồn lực

xã hội sẽ thúc đẩy phát triển và làm lành mạnh hóa môi trường sản xuất kinh

doanh. Phân phối công bằng tạo ra môi trường tương tác hài hòa giữa các chủ

thể, tạo cho các chủ thể cơ hội phát triển ngang nhau và hưởng thụ sòng phẳng

Page 21: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

16

theo năng lực trên thị trường. Điều này giúp hạn chế sự lạm dụng đặc quyền, đặc

lợi, lạm dụng nguồn lực phát triển cho xã hội. Trên bình diện vĩ mô, CBXH đối

với các thành phần kinh tế là động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững. CBXH

đối với các thành phần kinh tế góp phần vào sự ổn định xã hội ở chỗ: cốt lõi của

nó là thực hiện hài hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội, từ đó tạo điều kiện giải

quyết các mâu thuẫn xã hội một cách hợp lý, thỏa đáng thông qua phân phối lợi

ích một cách công bằng.

Tiếp cận dưới góc độ phân phối, các tác giả của cuốn sách “Phân phối

bình đẳng các nguồn lực kinh tế: Tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc

gia” [132] cho rằng, việc phân phối bình đẳng các nguồn lực xã hội sẽ khuyến

khích sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế, làm lành mạnh hóa môi trường sản

xuất kinh doanh, thúc đẩy xã hội phát triển. Phân phối bình đẳng còn bao hàm

việc tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho mọi chủ thể xã hội, đặc biệt là nhóm

người dễ bị tổ thương. Theo các tác giả, sự phân phối không bình đẳng các

nguồn lực phát triển chính là khởi nguồn cho những căng thẳng, xung đột và

bất ổn trong xã hội, biểu hiện rõ nhất qua “nhóm lợi ích”.

Cũng theo hướng tiếp cận này, tác giả Bùi Đại Dũng cho rằng, việc phân

phối thu nhập quá bất công khiến nhóm cực giàu thì giàu mãi lên và nhóm nghèo

khổ càng bị bần cùng hóa. Bất công xã hội gây ra nhiều biến động xã hội ghê gớm

mà hậu quả là những tổn thất khủng khiếp cho phát triển bền vững [27, tr.52]. Do

đó, để phát triển bền vững về mặt xã hội cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh

tế với thực hiện tiến bộ và CBXH, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của

nhân dân.

Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề PTCN và thực hiện

CBXH với việc PTCN. Có thể thấy, PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát triển

tự thân mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là các nhân tố: kinh tế,

y tế, giáo dục, văn hóa. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự PTCN cần phải xem xét

tất cả các nhân tố tác động trong mối quan hệ tương tác với nhau. Dưới các góc

độ khác nhau, các công trình đều khẳng định sự cần thiết của việc PTCN cũng

như xây dựng các chính sách PTCN đúng đắn. Thực hiện công bằng trên các lĩnh

vực của đời sống xã hội góp phần PTCN. Những công trình khoa học của các tác

giả có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn để tác giả luận án tiếp cận

và phát triển.

Page 22: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

17

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Trực tiếp bàn đến thực trạng thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam

hiện nay theo chúng tôi được biết thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Phần

lớn các công trình nghiên cứu mới dừng lại ở việc phân tích thực trạng thực hiện

CBXH ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát

triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thông qua các công trình nghiên cứu

liên quan đến đề tài luận án ít nhiều có thể thấy được thực trạng thực hiện CBXH

với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay.

Với báo cáo “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp” [49],

tác giả Đỗ Huy đã khái quát bốn thời kỳ thực hiện CBXH ở nước ta. 1) Thời kỳ

trước Cách mạng tháng Tám, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,

tuyệt đại bộ phận nhân dân sống lầm than, cơ cực trong bất công của thân phận

người dân mất nước. Đây là thời kỳ mất công bằng toàn diện. 2) Thời kỳ sau

Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ hình thành những chuẩn mực

công bằng mới cho xã hội, người ta chỉ nghĩa đến cống hiến mà ít nghĩ đến

hưởng thụ; nghĩ đến lao động cho tổ quốc mà không nghĩ đến thu vén cá nhân.

3) Thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp. Thời kỳ này đã tạo ra

được nhiều giá trị công bằng về y tế, giáo dục nhưng nó đã làm cho xã hội Việt

Nam phát triển chậm chạp và tạo ra sự mất công bằng ở lĩnh vực phân phối. 4)

Thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay. Đây là thời kỳ thực hiện CBXH theo cơ

chế thị trường định hướng XHCN. Tác giả nhấn mạnh, những di hại của chiến

tranh gây nên khá nhiều bệnh tật cần được khắc phục. Vì thế, muốn có CBXH,

không thể phân phối theo cơ chế thị trường thông thường, mà Việt Nam đã thực

hiện phân phối theo lao động trên cơ sở kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Cơ chế thị trường định hướng XHCN tạo nên những chuẩn mực mới để thực

hiện CBXH. Các chuẩn mực này xuất phát từ đạo lý uống nước nhớ nguồn

truyền thống. Để thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, chúng ta thực hiện cơ chế

phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời Nhà nước Việt Nam đã đề ra rất

nhiều chính sách nhằm giúp đỡ những người tàn tật, già yếu, cô đơn, các gia

đình thương binh liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những gia

đình có công với cách mạng, các chính sách xóa đói, giảm nghèo. Tác giả cũng

chỉ ra những hạn chế, bất cập của việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:

nhiều nghề lao động giản đơn lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao động phức

Page 23: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

18

tạp, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các

thành phố; sự cách biệt về mức sống, chế độ giáo dục, chăm sóc y tế ở nông thôn

so với thành thị, chế độ lương của nhà nước còn bất hợp lý so với thu nhập ngoài

nhà nước, tệ tham nhũng hối lộ v.v.. Tất cả những vấn đề trên đã phá hoại sự ổn

định của xã hội. Báo cáo giúp tác giả luận án hình dung được quá trình thực hiện

CBXH ở nước ta từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay; đồng thời thấy rõ,

thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn nhiều vấn đề cần giải quyết.

Tác giả Lê Hữu Tầng đã phân tích một số vấn đề về thực hiện CBXH ở

Việt Nam hiện nay trong báo cáo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung

quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” [49]. Trước hết là

vấn đề phân phối. Đối với nước ta, do đặc thù trải qua chiến tranh, nhiều người

hy sinh xương máu, tính mạng cho nền độc lập của nước nhà, do đó, tác giả đề

xuất, để thực hiện đầy đủ hơn CBXH cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao

động và theo mức đóng góp vốn vào sản xuất kinh doanh hiện nay thành nguyên

tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng mọi cống hiến

khác) cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất, mặc dù cống hiến

cho sản xuất vẫn là chủ yếu, đồng thời phân phối thông qua phúc lợi xã hội.

Nguyên tắc phân phối công bằng này đã có tác dụng cuốn hút mọi người hăng

hái góp công, góp của vào sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển

của sản xuất kinh doanh nói riêng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó, tác giả

khẳng định, CBXH chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc phân phối theo cống hiến lại dẫn đến hậu

quả là sự phân cực ngày càng tăng giữa giàu và nghèo trên phạm vi cả nước.

Theo tác giả, sự phân hóa giàu nghèo ở đây không phải là biểu hiện của sự vi

phạm CBXH mà chính là biểu hiện của việc CBXH đang được lập lại: Ai làm

tốt, làm giỏi, làm nhiều, đóng góp nhiều vốn liếng... thì được hưởng nhiều; còn

ai làm dở, làm kém, làm ít, đóng góp vốn liếng ít thì được hưởng ít. Song, điều

đó không có nghĩa chúng ta chấp nhận và để cho tình trạng bất bình đẳng xã hội

gia tăng mà phải tìm cách hạn chế bớt bất bình đẳng để tiến tới dần xóa bỏ nó.

Cùng đề cập tới vấn đề thực hiện CBXH trong phân phối, tác giả Nguyễn

Duy Quý trong báo cáo “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa” [49] khẳng định, CBXH trong phân phối ở nước

ta hiện nay cơ bản theo nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,

hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào

Page 24: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

19

sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Cùng quan điểm

với tác giả Lê Hữu Tầng, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện CBXH,

hơn thế nữa càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện CBXH,

nếu muốn tạo ra bầu không khí hoà thuận, tin yêu lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn

cho xã hội ổn định. CBXH chính là động lực mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế.

Nhờ giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới

chính sách xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về PTCN:

liên tục dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích xóa đói, giảm nghèo; đã

tăng cường khả năng tiếp cận với giáo dục tiểu học, nước sạch và vệ sinh môi

trường; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi v.v.. Kết quả là đã cải thiện đáng

kể cuộc sống của người dân. Người dân Việt Nam giờ đây có tuổi thọ dài hơn,

sức khỏe tốt hơn.

Cũng theo hướng tiếp cận trên, báo cáo “Công bằng xã hội trong điều

kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [49]

của tác giả Phạm Xuân Nam đã phân tích việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và

CBXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta qua hơn 20

năm đổi mới đã góp phần nâng cao chỉ số PTCN: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,

đời sống của đại đa số nhân dân được cải thiện rõ rệt; cả nước đã đạt chuẩn quốc

gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học; công tác chăm sóc sức khỏe nhân

dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên. Bên cạnh những

thành tựu đã đạt được, tác giả đã nêu ra một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình

thực hiện CBXH ở Việt Nam: Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển

với mức thu nhập thấp; khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa

thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi đang doãng ra; việc xóa đói giảm

nghèo trong những năm gần đây có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo do thiên

tai dịch bệnh có xu hướng tăng; tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị và thiếu việc

ở nông thôn còn cao; hiện tượng làm giàu bất chính do tham nhũng, buôn lậu,

lừa đảo, đầu cơ vẫn chưa được ngăn chặn. Theo tác giả, vấn đề đặt ra là cần phải

làm gì và làm như thế nào để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục

những yếu kém còn lại, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện

CBXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Còn trong cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội ở Việt

Nam hiện nay [60], những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH ở nước ta

hiện nay được các tác giả phân tích khá chi tiết. Các tác giả khẳng định, việc

Page 25: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

20

thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đạt được nhiều kết quả đáng

kể, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, được hưởng thụ giáo

dục, y tế và sự phát triển xã hội như nhau. Song, do nhiều nguyên nhân khác

nhau, việc thực hiện CBXH ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định.

Trong kinh tế, sự bất công bằng trong việc phân phối các điều kiện, cơ

hội sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại. Việc phân phối nguồn vốn đầu tư giữa

các vùng, miền vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến khoảng cách về điều kiện kinh tế

- xã hội, mức sống và trình độ phát triển của dân cư giữa các vùng, miền đất

nước, đặc biệt là khu vực miền núi còn chậm được thu hẹp. Việc ưu tiên, ưu đãi

các điều kiện phát triển sản xuất như đầu tư, quyền sử dụng đất đai, chính sách

tín dụng, thuế, còn thiên về thành phần, chưa căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ,

hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp chưa thực sự được hoạt động

trong một sân chơi hoàn toàn công bằng, bình đẳng. Ở nông thôn, sự hiện diện

của một bộ phận nông dân không có ruộng đất, phải đi làm thuê và trở thành lớp

người nghèo trong xã hội cũng là một vấn đề liên quan đến CBXH.

Trong lĩnh vực xã hội, sự bất công và bất bình đẳng xã hội thể hiện ở

sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm; sự phân hóa giàu nghèo, chênh

lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên. Vấn đề nghèo

đói làm gia tăng chênh lệch về mức sống, khả năng và điều kiện tiếp cận các

cơ hội phát triển.

Trong lĩnh vực giáo dục, y tế vẫn còn các hiện tượng bất CBXH: tình

trạng thương mại hóa giáo dục và y tế; vấn đề viện phí, học phí... là những rào

cản để người nghèo có cơ hội tiếp cận bình đẳng với giáo dục, y tế.

Những vấn đề mà các tác giả nêu ra bước đầu mới dừng lại ở việc đưa ra

ý kiến, chưa có sự phân tích đi sâu, song là những gợi ý để tác giả luận án tiếp

tục đi sâu, làm rõ.

Chương 3 của cuốn sách Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội [71], tác giả

Nguyễn Minh Hoàn đã góp phần làm rõ một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện

CBXH ở nước ta hiện nay. Trước tiên, việc thực hiện CBXH ở nước ta trong thời

kỳ đổi mới đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, song lại

làm gia tăng phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng. Đây là hệ quả tất yếu của việc

thực hiện nguyên tắc phân phối đảm bảo CBXH trong thời kỳ quá độ của nước ta

đi lên CNXH. Đó là điều chúng ta không mong muốn vì nó hoàn toàn không phù

hợp với mục tiêu xây dựng CNXH. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân

Page 26: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

21

dân, việc phát triển ồ ạt y tế tư nhân không theo quy hoạch về cơ cấu vùng miền sẽ

dẫn đến làm tăng tình trạng bất bình đẳng trong chăm sóc y tế với những đối tượng

là vùng sâu, vùng xa và người nghèo. Việc phân bổ ngân sách nhà nước trong lĩnh

vực y tế, lĩnh vực bảo hiểm y tế, chính sách viện phí cũng phải tiến hành sao cho

đảm bảo công bằng. Trong lĩnh vực giáo dục, việc phát triển các trường ngoài công

lập sẽ có nguy cơ làm tăng bất bình đẳng trong giáo dục, vấn đề thu học phí như

thế nào để đảm bảo cho mọi người đều có cơ hội học tập. Thu nhập, y tế, giáo dục

là những vấn đề liên quan trực tiếp đến PTCN. Giải quyết những vấn đề đặt ra

nhằm bảo CBXH trong những lĩnh vực này cũng chính là giải quyết những vấn đề

liên quan đến PTCN.

Các tác giả Nguyễn Tấn Hùng, Lê Hữu Ái [49], lại đi vào một số mâu

thuẫn nảy sinh cần giải quyết để thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị

trường. Theo các tác giả, mâu thuẫn bao trùm nhất trong lĩnh vực CBXH ở nước

ta hiện nay là mâu thuẫn giữa cá nhân với xã hội. Bởi nếu lợi ích cá nhân bị vi

phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn để phát triển; còn nếu cá nhân có

lợi nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm thì sẽ dẫn đến những bất công xã hội. Tiếp đến

là mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của

chính sách kinh tế là giải quyết những vấn đề kinh tế, do vậy, không thể bao quát

và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp của lĩnh vực xã hội rộng lớn.

Vì thế, cần phải có những chính sách xã hội nhất định để bổ sung cho chính sách

kinh tế. Ngược lại, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng có thể mâu thuẫn

với chính kinh tế. Bởi vì, việc thực hiện các chính sách này vượt quá khả năng

cho phép của nền kinh tế, hoặc vi phạm những nguyên tắc công bằng trong kinh

tế sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Một mâu thuẫn nữa là mâu

thuẫn giữa lợi ích nhà đầu tư và lợi ích người lao động. Thực tế cho thấy, những

nhà đầu tư nếu không có sự can thiệp, điều chỉnh của Nhà nước thì họ có khuynh

hướng giảm thiểu thu nhập và những điều kiện thiết yếu của người lao động đến

mức thấp nhất để lợi nhuận của họ đạt đến mức tối đa. Do đó, hàng nghìn cuộc

đình công tự phát nổ ra bên ngoài sự mong muốn của Nhà nước là điều dễ hiểu.

Cuối cùng là mâu thuẫn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo biểu hiện như: nhiều cơ

sở đào tạo muốn tăng thu nhập của mình thường có khuynh hướng giảm chi phí

cho đào tạo, giảm yêu cầu về chất lượng đào tạo để có thể thu hút được số đông

người học vẫn có tâm lý cần bằng cấp chứ không phải cần kiến thức; bệnh thành

tích trong giáo dục; chính sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo muốn nâng cao chất

Page 27: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

22

lượng đào tạo nhưng không muốn tăng ngân sách; đối xử thiếu công bằng với đội

ngũ giáo viên, giảng viên… Những mâu thuẫn nếu không được giải quyết tốt sẽ

dẫn đến bất công, tiêu cực xã hội. Để thực hiện CBXH, chúng ta cần phải mạnh

dạn nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận và tìm phương án, biện pháp hữu hiệu nhất

để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu thực trạng thực hiện CBXH mang

tính bao quát có những công trình đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể.

Trong lĩnh vực phân phối có các cuốn sách: Vai trò của nhà nước trong

phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay [138]; Kỷ yếu hội thảo Vấn đề phân phối

và phân hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [19]; Công bằng trong phân phối - cơ sở để

phát triển bền vững [27]... tác giả Nguyễn Ngọc Hà với các bài viết: “Nguyên

tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội ở nước ta hiện nay” [52], “Quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI về nguyên tắc

phân phối vì mục tiêu công bằng xã hội” [54]... Theo đó, hiện nay đất nước ta

đang trong thời quá độ lên CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiều

hình thức phân phối phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: thực

hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời

theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ

thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hà, nếu thực

hiện nguyên tắc phân phối như trên thì giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ được

chia thành ba phần: phần thứ nhất được dành để tái sản xuất và để giải quyết các

vấn đề xã hội chung; phần thứ hai sẽ được phân phối cho các cá nhân theo mức

cống hiến bằng sức lao động của họ cho xã hội; phần thứ ba sẽ được phân phối

cho các cá nhân theo mức cống hiến vốn. Tỷ lệ giữa ba phần này được xác định

căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương và từng giai đoạn, trong đó,

phần thứ nhất là rất quan trọng.

Dưới góc độ Vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập ở nước ta

hiện nay [138] các tác giả phân tích thực trạng vai trò của nhà nước đối với lĩnh

vực phân phối thu nhập như: chính sách tiền lương, chính sách thuế, chính sách

bảo hiểm xã hội, chính sách việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách

cứu trợ xã hội. Sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập đã góp phần thực

hiện CBXH. Nhờ đó, kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến theo hướng tích

cực, thu nhập của người dân tăng lên, sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa,

Page 28: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

23

thể dục thể thao có nhiều đổi mới và tiến bộ. Các tác giả cũng chỉ ra những vấn đề

đặt ra đối với sự điều tiết của Nhà nước về phân phối thu nhập: sự phân hóa giàu

nghèo; tiền lương tối thiểu thấp, còn mang tính bình quân; hệ thống thuế chưa bao

quát hết được các nguồn thu, tính công bằng của hệ thống thuế chưa cao; việc

phân phối phúc lợi xã hội tầng lớp trung lưu được hưởng nhiều hơn nhóm người

có thu nhập thấp. Trên cơ sở những phân tích của các tác giả dưới góc độ phân

phối chúng tôi nhận thấy, thực hiện CBXH trong phân phối là một trong những

điều kiện để PTCN.

Thông qua những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, có

thể thấy, thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những

thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tăng

trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trình độ dân trí, sức

khỏe của người dân cũng được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại

không ít hiện tượng bất công, bất bình đẳng cản trở sự PTCN. Tuy nhiên, các

công trình mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung chung hoặc đi vào một khía

cạnh của thực trạng thực hiện CBXH tác động đến sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã

hội. Chưa có công trình nào đi sâu phân tích thực trạng thực hiện CBXH tác động

đến việc PTCN Việt Nam hiện nay.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI

PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI

VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Để phát huy vai trò của thực hiện CBXH nhằm PTCN ở Việt Nam hiện

nay cần đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Ở mức độ nhất định, các

công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đưa ra những giải pháp

cơ bản.

Trên cơ sở nhận thức một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá

trình thực hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay, các tác giả của cuốn sách Những

vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay

[147] đã đưa ra một số kiến nghị:

Về việc thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, các tác giả kiến nghị,

để phân phối chủ yếu theo kết quả lao động cần xác định được giá trị của từng

loại lao động, tránh tình trạng lao động trí óc và lao động chất xám chưa được

đánh giá đúng mức, lao động giản đơn hay lao động cơ bắp lại được hưởng

phân phối cao hơn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho chất

Page 29: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

24

lượng lao động của chúng ta hiện nay rất thấp. Đồng thời, cần phải quán triệt

một cách đầy đủ, nghiêm túc nguyên tắc phân phối công bằng này ở tất cả mọi

loại hình sở hữu của tư nhân cũng như của Nhà nước góp phần tạo sự đồng

thuận và ổn định xã hội.

Theo các tác giả, tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH là làm sao cho

mọi người đều có cơ hội tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực và điều kiện phát

triển, tức bình đẳng về cơ hội. Vì vậy, cần phải có một chiến lược đầu tư mạnh

mẽ về cơ sở hạ tầng, tài chính, thông tin, về giáo dục - đào tạo, công tác chăm

sóc sức khỏe cho người dân, nhất là đối với những người nghèo, vùng nghèo.

Trên cơ sở bình đẳng về cơ hội con người sẽ được phát triển toàn diện.

Các tác giả cho rằng, tệ tham nhũng, nạn làm giàu phi pháp tạo ra những

bất công xã hội lớn nhất, do đó, cần phải có một cuộc đấu tranh quyết liệt từ

Trung ương đến các địa phương, đến từng cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ...

nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiến đến khắc phục về cơ bản những quốc nạn này.

Điều quan trọng là phải làm sao nâng cao nhận thức của người dân về

CBXH, từ đó họ tự giác phấn đấu để đạt được công bằng xã hội bằng chính sức

lực và tài năng của mình chứ không trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp từ bên

ngoài. Tuy nhiên, để thực hiện được CBXH, trách nhiệm lớn thuộc về sự quản

lý của Nhà nước. Sự quản lý, điều tiết một cách đồng bộ, nhất quán và có trách

nhiệm của Nhà nước sẽ giữ vai trò quyết định trong việc điều hòa các lợi ích xã

hội theo hướng công bằng, từ đó tạo nên một xã hội đồng thuận và phát triển.

Theo tác giả Đỗ Huy [49], để thực hiện mục tiêu CBXH toàn diện trong

thời kỳ quá độ lên CNXH, vấn đề không chỉ là phân phối theo lao động, gắn

cống hiến với hưởng thụ, mà phải là phát triển xã hội toàn diện. Các giải pháp

kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phải có sự dính kết như các mắt xích trong hệ

thống xã hội lấy con người làm trung tâm. Theo tác giả, cần phải thực hiện các

giải pháp chủ yếu sau: 1.Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân; 2. Hiện

đại hóa lực lượng sản xuất; 3. Từng bước tập thể hóa, quốc doanh hóa trong quá

trình thiết lập quan hệ sản xuất mới; 4. Xây dựng hệ tư tưởng chính thống trên

nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 5. Thực hiện đại

đoàn kết: dân tộc, quốc tế, con người; 6. Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc;

7. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là những giải pháp mang tính

định hướng, lâu dài để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Để đảm bảo thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế

Page 30: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

25

thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần phải đi vào

những giải pháp cụ thể hơn.

Tác giả Phạm Xuân Nam [49], đã kiến nghị một số hướng giải pháp để

thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

trong thời gian tới. 1) Tiếp tục thực hiện nghiêm túc nguyên tắc phân phối chủ

yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức

đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong đó,

phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu và đặt

ở vị trí hàng đầu của CBXH. 2) Trong việc thực hiện đầu tư cho phát triển, cần

có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng

lãnh thổ khác nhau. Dành mức đầu tư cao cho các vùng kinh tế động lực, chú ý

đầu tư các vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến

cũ nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng. 3) Trong

số những chính sách có liên quan đến phân phối lại tổng thu nhập quốc dân

không nên chỉ đặt vấn đề phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Về vấn đề này,

Văn kiện Đảng lần thứ XI bổ sung thêm hình thức phân phối thông qua an sinh

xã hội. 4) Đấu tranh quyết liệt kết hợp nhiều biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi có

hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp vì đây chính là nhân tố vừa làm

tổn hại đến tăng trưởng kinh tế chung, vừa tạo ra bất công xã hội lớn nhất.

Những giải pháp tác giả đưa ra rất thiết thực cung cấp cơ sở để tác giả luận án

đưa ra giải pháp phù hợp nhằm thực hiện CBXH, vì mục tiêu PTCN Việt Nam

toàn diện.

Những giải pháp đưa ra trong cuốn Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công

bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [60], dưới góc độ để đẩy nhanh tiến trình hiện

đại hóa xã hội tiến đến mục tiêu CBXH, các tác giả đưa ra ba giải pháp cơ bản

và cấp bách: Thứ nhất, đẩy nhanh nhịp độ phát triển toàn diện kinh tế thị trường

định hướng XHCN; Thứ hai, xây dựng và thực thi đầy đủ, hợp lý các chính sách

xã hội; Thứ ba, nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước HXCN trong tiến trình

hiện đại hóa vì mục tiêu CBXH.

Những giải pháp mà các tác giả đưa ra rất phong phú mà tác giả luận án

có thể tiếp thu. Có thể khái quát lại thành những nhóm giải pháp chủ yếu: hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và thực thi đầy đủ

các chính sách xã hội, nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện

CBXH, tích cực phòng chống tham nhũng. Các tác giả tùy theo góc độ nghiên

Page 31: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

26

cứu của mình tập trung nhấn mạnh vào một vài nhóm giải pháp hoặc mới chỉ

nêu tên các nhóm giải pháp. Điều này đòi hỏi tác giả luận án cần tiếp tục đi sâu

nghiên cứu và làm rõ.

Do tính chất khái lược chúng tôi không có điều kiện đi phân tích cụ thể

về tất cả các công trình nghiên cứu có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu,

chúng tôi thấy còn nhiều công trình cũng cần được xem là những tài liệu bổ ích

cho nghiên cứu vấn đề này. Bên cạnh những công trình được chúng tôi xem là

cơ bản và có tầm quan trọng nói trên, có thể kể đến những công trình khác mà

chúng tôi thấy cần tham khảo như: Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và

vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam [123]; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác

về công bằng xã hội với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người” [69];

“Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của Việt Nam trong những năm gần

đây” [75]; “Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở

Việt Nam” [63] v.v..

1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Sau khi nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến luận án, tác

giả luận án rút ra một số kết luận sau:

Các công trình nghiên cứu về vấn đề thực hiện CBXH và PTCN người ở

Việt Nam trong những năm gần đây được đăng tải với số lượng ngày càng nhiều,

chất lượng cũng ngày càng được nâng cao với nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Nội dung các công trình cũng đã đề cập một cách khá toàn diện nhiều vấn đề về

CBXH, thực hiện CBXH (các tư tưởng về CBXH trong lịch sử, các quan niệm

khác nhau về CBXH, vị trí, vai trò của thực hiện CBXH, thực trạng thực hiện

CBXH...) và PTCN (nguồn gốc, bản chất con người; vai trò, vị trí của con người;

cấu trúc nhân cách con người Việt Nam; sự PTCN toàn diện ở Việt Nam…).

Trên phương diện lý luận, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cơ sở lý

luận và phương pháp luận quan trọng trong nghiên cứu vấn đề thực hiện CBXH

với việc PTCN, từ các quan điểm trong lịch sử triết học đến quan điểm hiện đại,

đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm của Đảng ta.

Trên phương diện thực tiễn, những khảo sát thực tiễn và các kết quả

nghiên cứu thực chứng về vấn đề thực hiện CBXH, PTCN đã đưa ra cho chúng

Page 32: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

27

ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt

Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp cho tác giả luận án

những tư liệu quý báu, vừa có tính khái quát cao lại vừa hết sức đa dạng, nhưng

cũng rất cụ thể và chi tiết để tiếp tục đi sâu nghiên cứu.

Có thể thấy, những đánh giá, nhận xét và những kết luận được các nhà

nghiên cứu đưa ra hết sức đúng đắn, xác thực. Các nhà khoa học đều khẳng định,

con người vừa mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất

là trong giai đoạn hiện nay, trong khi các nguồn lực khác khi được khai thác thì

ngày càng khan hiếm, cạn kiện thì con người, đặc biệt là trí tuệ con người, khi

được khai thác nó lại càng trở nên vô tận. Thực hiện CBXH là điều kiện, động

lực cho sự phát triển đất nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, hiện

đại hóa xã hội. Đây là phần quan trọng trong những giá trị mà tác giả luận án

tiếp thu được từ các công trình nghiên cứu.

Các công trình nghiên cứu đã đề xuất phương hướng, kiến nghị, giải pháp

quan trọng, cần phải làm để thực hiện CBXH, PTCN. Nhiều kiến nghị có giá trị

khoa học và thiết thực là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất

những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao vai trò của thực hiện CBXH với việc

PTCN ở Việt Nam hiện nay.

Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề thực hiện CBXH với việc

PTCN có thể nói là đa dạng. Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công

trình nghiên cứu trên đã đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích cho những

nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi. Tuy nhiên, có một số vấn đề đặt ra xung

quanh các công trình nghiên cứu có liên quan.

Trong các công trình nghiên cứu về PTCN, vai trò của dân chủ, của giáo

dục, của kinh tế, của y tế, của văn hóa đối với PTCN được bàn đến khá nhiều,

trong khi đó, vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN được các tác giả đề cập

đến rất ít, có thể nói là không đáng kể, thường đi cùng cụm từ: dân giàu, nước

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Còn trong các công trình nghiên

cứu về CBXH và thực hiện CBXH, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu

dưới góc độ kinh tế, tiến bộ xã hội, một số công trình đề cập đến thực hiện

CBXH trong công tác chăm sóc sức khỏe, trong giáo dục. Tất nhiên, thực hiện

CBXH vì mục tiêu phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội suy cho đến cùng cũng vì

mục tiêu PTCN. Con người là trung tâm của phát triển. Mọi sự phát triển đều

phải vì con người, cho con người và của con người. Tuy nhiên, thực hiện công

Page 33: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

28

bằng trong kinh tế hay giáo dục, y tế mới chỉ phản ánh được một hay một vài

khía cạnh của PTCN. Mặt khác, đây mới chỉ là những nghiên cứu rời rạc. PTCN

liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội,

chính trị. Để mọi người dân đều được hưởng các thành quả từ sự phát triển kinh

tế, văn hóa, giáo dục, y tế cũng như được sống trong một xã hội ổn định thì thực

hiện CBXH là điều kiện đầu tiên. Cho đến nay, theo chúng tôi được biết thì chưa

có công trình nghiên cứu nào thuộc chuyên ngành triết học nghiên cứu dưới góc

độ vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN. Đây là hướng nghiên cứu mới

đòi hỏi phải có sự đi sâu, tìm tòi, phân tích.

Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước đó, duới góc

độ triết học, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về CBXH, thực hiện

CBXH, PTCN. Trong đó, luận án xác định khái niệm, những nội dung cơ bản

của CBXH, thực hiện CBXH, PTCN. Điểm mới và là một trong những nội dung

trọng tâm của luận án là làm rõ vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN. Từ

đó làm cơ sở để nghiên cứu, đánh giá về thực trạng và đề xuất những giải pháp

có bản nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam

hiện nay.

Thứ hai, làm rõ thực trạng vai trò của thực hiện CBXH đối với PTCN ở

Việt Nam hiện nay. Tìm ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.

Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của thực

hiện CBXH đối với PTCN ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chúng tôi cũng xác định đây là vấn đề mới và khó, nên những kết quả

nghiên cứu trong luận án chỉ là bước đầu, vấn đề này vẫn cần tiếp tục nghiên cứu

sâu hơn trong các công trình tiếp theo.

Page 34: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

29

Chương 2

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

2.1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Trong lịch sử tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây có rất

nhiều cách tiếp cận và lý giải khác nhau về vấn đề CBXH, đi cùng với nó là vấn

đề thực hiện CBXH. Việc đặt ra và giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc

vào những điều kiện lịch sử mà còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và khả

năng thực hiện của con người từng thời kỳ. Nếu trong xã hội phương Đông tư

tưởng CBXH thường gắn liền với tôn giáo, đạo đức, chính trị - xã hội, thì trong

xã hội phương Tây CBXH thường gắn liền với khái niệm về tự do và bình đẳng,

với vấn đề sở hữu, phân phối. Mặc dù các quan niệm về CBXH còn tản mác,

chưa có sự thống nhất, nhưng có thể thấy, nội dung của CBXH rất rộng, liên

quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: Tôn giáo, đạo đức, kinh

tế, chính trị, xã hội… Cho dù có khác nhau thế nào chăng nữa thì các quan niệm

về CBXH có điểm chung là đều bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Theo đó, thực

hiện CBXH chỉ là công bằng cho thiểu số những người nắm trong tay toàn bộ tư

liệu sản xuất (TLSX) của xã hội, còn lại phần đông quần chúng nhân dân lao

động vẫn đang hàng ngày phải chịu những bất công xã hội. Trong một xã hội

mất công bằng như vậy không thể nói đến sự giải phóng cũng như PTCN. Thực

tiễn lịch sử đã cho thấy, CBXH luôn là khát vọng cháy bỏng của quần chúng

nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước khi triết học Mác ra đời, các nhà tư tưởng

trong lịch sử vẫn chưa đưa ra được quan điểm đúng đắn về CBXH cũng như

cách thức, con đường để đạt tới CBXH đích thực. Chỉ đến triết học Mác, vấn đề

CBXH mới được nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện. Đặc biệt, nó đã trở thành

hiện thực trong sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

2.1.1. Quan điểm của triết học Mác về công bằng xã hội

Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật lịch sử, cùng với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của

các nhà tư tưởng đi trước, triết học Mác đã có những đóng góp quý giá khi xây

dựng một quan niệm mới về CBXH.

Xem xét từng thời kỳ khác nhau trong lịch sử của xã hội loài người, triết

học Mác coi CBXH là một phạm trù có lịch sử và có tính giai cấp. Mỗi một quốc

Page 35: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

30

gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp dân cư khác nhau có những quan niệm khác nhau

về CBXH. Do đó, khái niệm CBXH cũng thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã

hội, thậm chí theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế -

xã hội nhất định. Về điều này, Ph.Ănghen đã chỉ rõ:

Công lý của người Hy Lạp và người La Mã cho rằng chế độ nô lệ là

công bằng: Công lý của những nhà tư sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu

chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng. Đối với những địa

chủ - quý tộc Phổ thì ngay cả cái sắc lệnh đáng ghét về việc tổ chức

các khu cũng là một sự vi phạm công lý vĩnh cửu. Do đó, khái niệm

về công lý vĩnh cửu biến đổi, chẳng những cùng với thời gian và

không gian, mà cùng với bản thân con người nữa [93, tr.379].

Thực chất của CBXH là giải quyết mối quan hệ về lợi ích của con người

trong xã hội. Khi vấn đề lợi ích được giải quyết sẽ tạo cơ sở, động lực cho sự

phát triển của con người. Để có quan niệm đúng đắn về CBXH cần phải gắn nó

với lợi ích giai cấp, nhóm xã hội và những điều kiện vật chất đã sinh ra nó. Lợi

ích của con người được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội… trong đó, lợi ích về kinh tế là cơ bản nhất. Do đó, giải quyết vấn đề

CBXH trước hết phải giải quyết vấn đề CBXH trên lĩnh vực kinh tế với tiêu chí

chung của nó nằm trong quan hệ phân phối sản phẩm.

Triết học Mác đã chỉ ra, ai nắm quyền sở hữu TLSX chủ yếu của xã hội

thì là người quyết định việc phân phối sản phẩm, đồng thời là giai cấp thống trị

xã hội. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mọi quan hệ trao đổi được được nhà

tư bản coi là công bằng khi chúng được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Về

lý thuyết, quan hệ trao đổi ngang giá khi mua và bán sức lao động giữa nhà tư

bản và giai cấp công nhân là công bằng, nhưng, như Ph.Ăngghen đã vạch rõ: “sự

thật không phải như vậy. Nếu nhà tư bản không đồng ý với công nhân, thì y có

điều kiện để chờ đợi và sống bằng tư bản của y. Người công nhân không thể làm

như vậy được”… “Người công nhân ngay từ đầu đã ở vào những điều kiện bất

lợi trong cuộc đấu tranh. Cái đói đặt anh ta vào hoàn cảnh hết sức bất lợi. Thế

mà, theo khoa kinh tế chính trị của giai cấp các nhà tư bản, đó là đỉnh cao của sự

công bằng” [94, tr.367].

Rõ ràng, người công nhân luôn bị đưa vào tình thế không được tự do lựa

chọn trong quan hệ trao đổi được coi là tự nguyện và buộc phải bán sức lao động

của mình dưới giá trị. Còn cái gọi là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá thực chất

Page 36: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

31

chỉ là không ngang giá, không công bằng. Bởi, không giống như những loại hàng

hóa khác, hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, khi đưa vào sản

xuất nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân. C.Mác gọi phần dư ra

đó là giá trị thặng dư, “còn nhà tư bản thì chẳng phải tốn gì cả, và tuy vậy giá trị

thặng dư ấy lại là vật sở hữu hợp pháp của nhà tư bản” [97, tr.826]. Đó chính là

bản chất bất công của chế độ phân phối tư bản chủ nghĩa. Triết học Mác đã lên

án sự bất công trong phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa.

Quan hệ không công bằng trong phân phối còn thể hiện ở chỗ, phương

thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản không dựa vào sức lao động mà lại dựa

vào tài sản và vốn. Điều này đã dẫn tới: “Người nào không có sở hữu nào khác

ngoài sức lao động của mình ra thì trong mọi trạng thái xã hội và văn hóa, đều

nhất định sẽ phải làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện

vật chất của lao động. Người đó chỉ có thể lao động, do đó chỉ có thể sinh sống,

khi được những kẻ này cho phép”. [94, tr.27].

Phương thức phân phối này đã đưa tới “một sự đối lập ngày càng gay gắt

hơn giữa những nhà tư bản ngày càng ít đi, nhưng ngày lại càng giàu thêm, với

những công nhân làm thuê không có của ngày càng đông đảo hơn và nói chung

sống trong một tình cảnh ngày càng tồi tệ hơn” [95, tr.212]. Từ đó, triết học Mác

đã chỉ ra, sự tăng trưởng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình

tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và do đó, không thể dẫn tới CBXH, cũng

không thể tạo điều kiện để con người phát triển theo đúng nghĩa của nó. Muốn

có CBXH thì phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo đúng với giá trị của sức

lao động.

Nhà nước tư bản tuyên bố công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật,

nhưng trên thực tế, giai cấp tư sản chi phối sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội

thì cũng chi phối phối pháp luật và các quan hệ xã hội chủ yếu khác. Để xây

dựng một xã hội công bằng thực sự, phải làm cho mọi người bình đẳng trong

quan hệ sở hữu, tức phải làm cho mọi người phải ngang bằng về địa vị trong

quan hệ đối với TLSX. Đó chính là xuất phát điểm bình đẳng làm cơ sở để thực

hiện được công bằng thực sự trong xã hội.

Trong CNXH, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, khi lực lượng sản

xuất chưa phát triển đến trình độ cao, chưa đủ sức thỏa mãn mọi nhu cầu của con

người, nên tất cả mọi người đều phải lao động và được hưởng theo mức độ lao

động mà họ đã đóng góp cho xã hội thì CBXH trong CNXH là làm theo năng

Page 37: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

32

lực, hưởng theo lao động. Triết học Mác cũng đã chỉ rõ rằng, trong điều kiện của

CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn

hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng “bất bình đẳng” nhất định giữa

các thành viên trong xã hội, tức vẫn chưa có CBXH hoàn toàn. Bởi cái ngự trị

trong nguyên tắc phân phối theo lao động này vẫn là nguyên tắc trao đổi ngang

giá trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Quyền của người sản xuất là tỷ

lệ với lao động mà người ấy cung cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người ta đo bằng

thước đo như nhau, tức là bằng lao động. Nhưng những người lao động không

phải ai cũng như ai, còn tồn tại rất nhiều sự khác biệt về sức khỏe, về năng khiếu

cá nhân, về năng lực lao động, về hoàn cảnh gia đình. Do vậy, trên thực tế, với

một công việc ngang nhau và với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng

của xã hội vẫn có tình trạng người này lĩnh nhiều hơn người kia, người này giàu

hơn người kia, v.v.. Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là không

bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng. Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của

nguyên tắc phân phối theo lao động. Chính vì thực hiện nguyên tắc phân phối

theo lao động nên ngay cả trong CNXH, khi CBXH được thực hiện thì chúng ta

vẫn chưa thể thực hiện được bình đẳng xã hội.

Theo triết học Mác, CBXH thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào giai

đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa,

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt đến mức độ rất cao, tất cả các

nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, lúc đó việc phân phối không còn phụ

thuộc vào lao động, thay vào đó sẽ là nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng

lực, hưởng theo nhu cầu”. Lúc này, CBXH đồng nhất với bình đẳng xã hội, còn

bình đẳng ở đây đạt tới trình độ bình đẳng hoàn toàn, con người được hoàn

toàn giải phóng, được hoàn toàn tự do phát triển toàn diện những năng lực bản

chất của mình.

Như vậy, so với các quan điểm trong lịch sử, triết học Mác đã xây dựng

quan niệm về CBXH trên lập trường bảo vệ lợi ích của những người lao động

với nội dung chủ yếu là nguyên tắc phân phối theo lao động. Cơ sở để thực hiện

CBXH nói chung bao giờ cũng phải dựa trên một xuất phát điểm bình đẳng giữa

người với người và dựa trên sự tự nguyện tham gia vào mối quan hệ xã hội. Tuy

nhiên, trong triết học Mác, CBXH không chỉ là vấn đề thuần túy kinh tế. Thiết

lập CBXH ở mức phổ quát nhất, có nghĩa là giải phóng con người ra khỏi mọi

bất công và bất bình đẳng xã hội. CBXH theo xu hướng vận động của nó luôn

Page 38: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

33

hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu căn bản của con người, đảm bảo tốt

hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển toàn diện của con người. Quan

điểm của triết học Mác về CBXH cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận để

tác giả luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề này trong điều kiện nước ta

hiện nay.

2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về công bằng xã hội

* Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội

Xây dựng một xã hội công bằng, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,

hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện luôn là mong muốn, khát vọng và

lý tưởng cao cả mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp và thực hiện trong suốt

cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người đã vận dụng sáng tạo quan điểm

của chủ nghĩa Mác - Lênin về CBXH vào hoàn cảnh của nước ta. Tư tưởng về

CBXH được Hồ Chí Minh thể hiện linh hoạt, sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ

thể của quá trình xây dựng đất nước.

Khi nói đến CBXH, Hồ Chí Minh thường gắn nó với quan niệm về bình

đẳng xã hội, mà ở đây là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. CBXH, theo Hồ

Chí Minh, là một trong những mục tiêu của sự nghiệp xây dựng CNXH, đồng

thời, là một trong những đặc trưng mang tính bản chất của CNXH. Người đã chỉ

rõ, chỉ dưới chế độ XHCN “Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi” [103,

tr.219], mới thực sự được hưởng quyền “bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”

[106, tr.310], được đảm bảo ngang bằng về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ

TLSX để mỗi người có thể phát huy được mọi khả năng của mình vươn tới mục

tiêu ấm no, hạnh phúc.

Theo Hồ Chí Minh, CBXH không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của

CNXH mà còn là một động lực thúc đẩy đất nước phát triển, là một yêu cầu bức

thiết của công cuộc xây dựng CNXH. Do dó, không nhất thiết xã hội giàu có,

không cần phải đợi đến có CNXH mới thực hiện CBXH mà ngay từ bây giờ,

trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn lại càng cần phải

thực hiện CBXH. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh chỉ ra, thực hiện CBXH trong thời kỳ

quá độ lên CNXH, đặc biệt, trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn về

kinh tế không có nghĩa là cào bằng sự nghèo khổ. Theo Người, con người có trí

tuệ, năng lực, thể chất khác nhau nên có cống hiến khác nhau, không nên có tình

trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ cũng công điểm như nhau. Chủ

Page 39: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

34

nghĩa bình quân hoàn toàn khác với tinh thần đồng cam cộng khổ để vượt qua

những khó khăn: “Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu

bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? là ai cũng

như ai, bằng hết”... “Bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội, thế là

không đúng” [104, tr.386].

Quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH rất phong phú, thể hiện trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện công bằng trong kinh tế là thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân lao động với quá trình sản xuất. Kế thừa nguyên tắc

phân phối theo lao động của chủ nghĩa Mác - Lênin và xem đó là nguyên tắc

phân phối công bằng trong CNXH, trong điều kiện quá độ đi lên CNXH ở nước

ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, tính chất và trình độ lao động có sự

khác biệt, Người khẳng định, tất cả mọi người đều phải lao động, làm nhiều

hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Người bổ sung

thêm, trừ những người già cả, đau yếu, và trẻ em. Luận điểm này vừa thể hiện sự

nhất quán với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CBXH trong điều kiện

CNXH, vừa thể hiện chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc của Hồ Chí Minh.

Thực hiện công bằng trong chính trị là đảm bảo quyền tự do, bình đẳng

trong bầu cử và ứng cử của nhân dân vào các cơ quan nhà nước: “... hễ là người

muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền

đi bầu cử. Không chia gái trai, giầu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng

phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” [101, tr.133]. Thực hiện

công bằng trong chính trị còn là phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua

việc đảm bảo những điều kiện để nhân dân tham gia quản lý, giám sát hoạt động

của cơ quan nhà nước, của đội ngũ cán bộ, bày tỏ ý kiến của mình khi Nhà nước

trưng cầu dân ý.

Thực hiện công bằng trên lĩnh vực văn hóa - xã hội là tạo điều kiện thuận

lợi cho mọi thành viên trong xã hội đều được tiếp cận bình đẳng cơ hội được

hưởng thụ thành quả xã hội mang lại như giáo dục, văn hóa, y tế… để có cơ hội

bình đẳng, thành đạt trong cuộc sống.

Để thực hiện CBXH hội, theo Người, phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa

chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, phải tính đến điều

kiện đặc thù của nước ta là nền kinh tế kém phát triển, phải trải qua những cuộc

chiến tranh kéo dài nên ngoài những vấn đề chung phải có trọng tâm, chú ý đến

các đối tượng chính sách, các vùng dân tộc miền núi, vùng căn cứ cách mạng,

Page 40: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

35

coi trọng xóa đói giảm nghèo… Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến lợi

ích cá nhân. Người phân biệt rất rõ lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chúng

ta phải tôn trọng lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi người không ngừng phấn

đấu, cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới; đồng thời, đấu

tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân nhằm ngăn chặn tác hại đối với lợi ích chung

của toàn xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện CBXH là trách nhiệm

chung của nhà nước, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của

nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi

của mình đối với nhà nước và xã hội.

Có thể thấy, quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH hội là toàn diện, sâu

sắc, được thể hiện một cách độc đáo và sáng tạo. Quan niệm của Hồ Chí Minh

về CBXH luôn gắn liền với vấn đề con người. Mọi suy nghĩ và hành động của

Người đều toát lên tư tưởng chủ đạo coi con người là trung tâm của sự phát triển,

mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đều phải vì con

người, cho con người. Thực hiện CBXH chính là giải quyết mối quan hệ giữa

cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong xã

hội; là việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát

triển của xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo

quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. Tư tưởng của

Người về vấn đề này là một trong những đóng góp quan trọng cho sự phát triển

lý luận của CNXH nói chung, lý luận về CBXH nói riêng.

* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng xã hội

Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH, cùng với sự phát triển của đất nước,

quan niệm về CBXH của Đảng ta không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Quan

điểm của Đảng ta về CBXH hội có thể khái quát ở những điểm cơ bản sau:

Một là, Đảng ta xác định CBXH là một trong những đặc trưng cơ bản của

CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, là cơ sở cho sự PTCN. Xã hội mà chúng ta

đang xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,

trong đó con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng

lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát

triển toàn diện cá nhân. Thực hiện CBXH chính là đảm bảo sự tương xứng giữa

cống hiến và hưởng thụ, tạo điều kiện cho mọi người dân “đều có cơ hội và điều

kiện phát triển toàn diện” [46, tr.30-31]. Do đó, cần phải thực hiện CBXH “ngay

Page 41: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

36

trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát

triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển

con người” [42, tr.77].

Hai là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với CBXH. Tăng trưởng kinh tế và

CBXH có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tăng trưởng kinh tế chính là điều

kiện, tiền đề vật chất cần thiết để thực hiện CBXH và việc thực hiện CBXH sẽ là

động lực để phát triển kinh tế. Bởi CBXH không chỉ là việc điều hòa lợi ích, điều

tiết phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội một cách hợp lý, mà

còn đảm bảo cho mọi tầng lớp trong xã hội được hưởng thụ các quyền lợi như giáo

dục, y tế, giúp đỡ lúc khó khăn hoạn nạn…, được bình đẳng trong việc tiếp cận các

cơ hội: Việc làm, cơ hội đầu tư… để nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. Do

đó, quan điểm của Đảng ta là phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng

xã hội ngay trong từng bước phát triển. Không phải đợi đến kinh tế phát triển cao,

dân giàu lên mới thực hiện CBXH mà chúng ta thực hiện CBXH trong suốt quá

trình phát triển kinh tế của đất nước. Quan niệm này của Đảng đòi hỏi khi xây dựng

các chính sách kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển xã hội, đồng thời mỗi chính

sách xã hội phải chứa nội dung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: “Gắn kết chặt chẽ

chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng

cuộc sống của nhân dân, đảm bảo để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn

thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước” [46, tr.30]. Việc

giải quyết tốt vấn đề CBXH là một trong những mục tiêu chiến lược của sự phát

triển kinh tế - xã hội ở nước ta, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN hướng

tới sự phát triển toàn diện của con người.

Ba là, về nội dung của việc thực hiện CBXH. Theo quan điểm của Đảng,

thực hiện CBXH thể hiện ở 2 nội dung chính: Phân phối công bằng và tạo điều

kiện cho mọi người có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình:

“Công bằng xã hội phải được thể hiện ở các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản

xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có

cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [39, tr.113].

Bốn là, điều kiện để thực hiện CBXH. Đảng ta chỉ ra, để thực hiện CBXH

trước hết phải tăng trưởng kinh tế, phải làm sao cho sản xuất phát triển, tạo ra

nhiều của cải cho xã hội. Chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN chính là biện pháp tích cực thúc đẩy sản xuất phát

triển để có điều kiện thực hiện ngày càng tốt hơn CBXH ở nước ta. Tuy nhiên,

Page 42: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

37

kinh tế thị trường xuất hiện những mặt trái của nó: Lợi ích cá nhân…. khiến vấn

đề CBXH không được giải quyết đúng đắn. Do vậy tăng cường hiệu lực quản lý

của nhà nước trên các mặt giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng là điều

kiện không thể thiếu được để thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay. Muốn vậy,

Nhà nước phải thực sự là cơ quan quyền lực của dân, vì dân, thực sự trong sạch

và vững mạnh. Nhà nước phải có các chính sách xã hội phù hợp, làm công cụ để

quản lý, tổ chức thực hiện CBXH, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện

CBXH. Cùng với đà tiến triển của công cuộc đổi mới, chủ trương trên đã dần

dần được cụ thể hóa và thể chế hóa thành một hệ thống các chính sách có liên

quan trên nhiều lĩnh vực, như: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích

cực xóa đói giảm nghèo; thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện để ai

cũng được học hành; thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân;

mọi chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều phải tạo

điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình...

2.1.3. Một số quan điểm hiện đại về công bằng xã hội

Ngày nay, xã hội loài người đang ở giai đoạn chuyển mình sâu sắc trong

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với tự do, dân chủ, CBXH là một trong

những vấn đề được quan tâm hàng đầu của thế giới hiện đại, bởi lẽ, cái nhân loại

cần không chỉ là một cuộc sống vật chất thuần túy mà là sự hài hòa cả về vật

chất và tinh thần. Trong thế giới ngày nay, công bằng hơn bao giờ hết đang trở

nên là điều kiện tối cần thiết để con người được tự do, hạnh phúc. Trong điều

kiện đó, nhiều lý thuyết mới về CBXH đã ra đời, phản ánh những biến đổi trong

nhận thức về CBXH. Trong số đó, tiêu biểu là quan điểm của J.Rawls.

Tiếp nối và phát triển những tư tưởng truyền thống về CBXH trong lịch

sử, J.Rawls đã đưa ra một quan niệm mới về CBXH: công lý như là công bằng.

Công lý được hiểu là lẽ phải, điều thiện và là phẩm hạnh tối cao của con người.

Công lý như là công bằng chính là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng. Chuẩn

mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân

chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. J.Rawls đã đưa ra một khái niệm

tổng quát về CBXH, tất cả mọi giá trị xã hội (sự tự do và cơ hội, thu nhập và tài

sản....) phải được phân phối bình đẳng trừ khi một sự phân phối không bình đẳng

của những giá trị như vậy mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.

Theo J.Rawls, để công bằng trong phân phối cần phân phối theo công lao.

Phân phối theo công lao có nghĩa là sự phân chia kết quả hợp tác xã hội phụ thuộc

Page 43: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

38

vào những đóng góp thực tế của các cá nhân vào các yếu tố sản xuất trong việc tạo

ra của cải xã hội. Việc phân phối theo công lao sẽ làm tăng mức độ tự nguyện của

mọi người, huy động được mọi nguồn lực vào quá trình sản xuất. Xét theo nghĩa

này thì công bằng trong phân phối là động lực của tăng trưởng kinh tế và phát

triển xã hội. Với vấn đề bình đẳng về cơ hội, J.Rawls cho rằng, bình đẳng về cơ

hội là điều kiện, tiền đề để thực hiện CBXH. Nhờ có bình đẳng về cơ hội mà

những tài năng của con người được phát huy, khai thác được tối đa nguồn lực của

con người. Để thực hiện CBXH, J.Rawls chủ trương phải có chính phủ lớn - nhà

nước tự do dân chủ.

Với quan niệm công lý như là công bằng, J.Rawls đã xây dựng một lý

thuyết hoàn chỉnh về công bằng. Một thể chế xã hội được coi là công bằng khi

các cá nhân tự nguyện tham gia vào hợp tác xã hội cho dù có sự khác biệt bẩm

sinh và địa vị xã hội trong cơ chế hợp tác xã hội chung. Với những nguyên tắc

của công bằng, xã hội sẽ bớt đi hiện tượng con người mù quáng chạy theo lợi

nhuận, họ chấp nhận sự phân phối có thể không tối đa hóa lợi ích của mình,

không thật công bằng nhưng có lợi cho những người nghèo khó hơn. Tuy nhiên,

quan điểm của J.Rawls cũng không tránh khỏi những hạn chế. Cùng cho rằng,

khế ước luôn gắn với quan hệ hợp tác tự nguyện và bình đẳng, nhưng khác với

J.Rawls, C.Mác đã không tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá và trừu tượng hoá sự tự

nguyện và xuất phát điểm bình đẳng. Bởi, sự tự nguyện và xuất phát điểm bình

đẳng được C.Mác xét trong điều kiện xã hội XHCN và chủ nghĩa cộng sản. Còn

trong điều kiện của xã hội tư bản chủ nghĩa, quan hệ “hợp tác” dựa trên sự tự

nguyện và bình đẳng ấy đã tự biến thành sự chiếm hữu của nhà tư bản đối với

giá trị thặng dư của người lao động làm thuê. Do đó, quan hệ ấy chỉ có thể dẫn

đến sự cưỡng bức và bất bình đẳng mà thôi. Quan niệm của J.Rawls về bức màn

vô tri với tính cách là xuất phát điểm bình đẳng và sự tự nguyện trong mối quan

hệ hợp tác xã hội giữa người và người chỉ có trong xã hội lý tưởng. Còn trong xã

hội hiện thực, do luôn có sự khác biệt về khả năng bẩm sinh và điều kiện xã hội

của mỗi cá nhân, nên vị thế mặc định của mỗi cá nhân không thể là bình đẳng,

mà vẫn phải được coi là xuất phát điểm khác nhau khi tham dự vào quan hệ hợp

tác xã hội. Do đó, lý thuyết của J.Rawls chỉ mang tính giả định. Về điểm này,

J.Bidet, một nhà triết học chính trị người Pháp đương thời đã đưa ra nhận định,

lý thuyết công lý của J.Rawls trong điều kiện hiện thực của thị trường đã khiến

Page 44: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

39

quan hệ hợp tác xã hội không phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện

thực sự, mà thực tế là luôn xuất phát từ quan hệ bất bình đẳng và sự cưỡng chế.

Công bằng xã hội là một trong những nội dung mà Chương trình Phát

triển của Liên Hợp quốc (UNDP) dành nhiều sự quan tâm. UNDP cho rằng, nội

dung bao trùm của CBXH là công bằng về cơ hội phát triển. CBXH được hiểu là

các cá nhân có cơ hội ngang nhau trong việc theo đuổi cuộc sống như họ đã chọn

và phải tránh được những kết cục cùng khổ. Thực hiện CBXH là tạo ra sân chơi

bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa cho mọi người dân. UNDP tiếp cận vấn

đề từ góc độ bất bình đẳng. Bất bình đẳng diễn ra trong mọi lĩnh vực kinh tế,

chính trị, xã hội và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bất bình đẳng về cơ

hội kinh tế dẫn tới bất bình đẳng trong chính trị. Phân phối bất bình đẳng tài sản,

cơ hội và quyền chính trị dẫn tới bất bình đẳng trong văn hóa, xã hội. Nguyên

nhân cơ bản của tình trạng bất bình đẳng về phân phối các nguồn lực cho phát

triển là do bất công trong vấn đề sở hữu, đặc biệt là vấn đề sở hữu TLSX. Do đó,

cần phải phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm

của UNDP, phân phối công bằng không chỉ dừng lại ở việc phân phối công bằng

đối với các sản phẩm đầu ra, điều quan trọng hơn là phải tạo điều kiện và cơ hội

bình đẳng cho mọi người, đặc biệt là nhóm người nghèo, dễ bị tổn thương trong

việc tiếp cận các nguồn lực phát triển. Khi con người được đảm bảo các điều

kiện thuận lợi, có môi trường tích cực, họ sẽ là động lực chính khởi nguồn cho

mọi tăng trưởng, biến đổi và phát triển của chính họ và của xã hội. Xã hội công

bằng, bình đẳng là tiền đề cho đồng thuận và đoàn kết, đồng thời, là cơ sở để mọi

cá nhân và mọi tầng lớp có cơ hội, điều kiện phát triển.

Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về CBXH, dưới các góc độ

triết học, kinh tế học, chính trị học, luật học… Tùy theo góc độ nghiên cứu, các

tác giả đưa ra quan niệm của mình về CBXH. Phổ biến hiện nay là cách luận giải

khi tập trung vào quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực phân phối sản

phẩm xã hội, tập trung ở nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau

thì sẽ được hưởng quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau [71].

Ngoài ra, còn một số hướng tiếp cận khác. Theo hướng tiếp cận giá trị, tác

giả Phạm Công Nhất cho rằng, CBXH là các giá trị định hướng con người sinh

sống và phát triển trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về

vật chất cũng như tinh thần. Đó là những giá trị cơ bản trong các mối quan hệ xã

hội như: quan hệ giữa khả năng lao động và mức độ thu nhập; quan hệ giữa

Page 45: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

40

quyền sở hữu TLSX và phân phối sản phẩm; quan hệ giữa mức độ phạm tội và

mức độ bị trừng phạt; quan hệ giữa các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh

tế, trình độ phát triển trí lực khác nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục,

khám chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể

thao, v.v..

Xem xét CBXH với tính cách là một phạm trù xã hội phản ảnh sự phát triển

của con người và tiến bộ xã hội, tác giả Dương Xuân Ngọc cho rằng, CBXH là một

phạm trù xã hội dùng đê chỉ trình độ phát triển về phương diện xã hội của con

người (cá nhân và cộng đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị và xã hội đến văn hóa, tinh thần, mà trước

hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã

hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con người, của xã hội phù

hợp với xu thế tiến bộ của xã hội [120].

Có thể thấy, trong quá trình phát triển lịch sử, nội hàm của khái niệm

CBXH đã có nhiều thay đổi. Quan niệm về CBXH rất phong phú, đa dạng.

Nhìn chung, các quan điểm đều coi CBXH là một giá trị, là khát vọng vươn

tới của toàn thể nhân loại. Nội dung của CBXH không chỉ bó hẹp công bằng

trong kinh tế - mặc dù đây vẫn là yếu tố nền tảng - mà còn là công bằng trong

việc tham gia và hưởng thụ kết quả hoạt động trong tất cả các lĩnh vực kinh

tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội. Trên cơ sở khái niệm CBXH, đa phần

các tác giả đều cho rằng, thực hiện CBXH thể hiện ở việc phân phối công

bằng và tạo công bằng về cơ hội. Thực hiện phân phối công bằng góp phần

giải quyết các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn về mặt lợi ích trong xã hội tạo

động lực cho sự phát triển của cá nhân cũng như xã hội. Thực hiện công bằng

về cơ hội giúp cho mọi người có thể phát triển tối đa năng lực của bản thân.

Thực hiện CBXH chính là động lực, điều kiện, môi trường cho sự PTCN. Để

thực hiện CBXH cần đến vai trò của nhà nước.

2.1.4. Khái niệm công bằng xã hội, thực hiện công bằng xã hội

2.1.4.1. Khái niệm công bằng xã hội

Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh

về CBXH, đồng thời, tiếp thu những giá trị trong quan niệm của các nhà nghiên

cứu đi trước và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới góc độ tiếp

cận vai trò CBXH đối với việc PTCN, theo chúng tôi, công bằng xã hội là một

giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình thành trên cơ

Page 46: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

41

sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống hiến

và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển…

trên mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với điều kiện hiện thực của

xã hội.

Từ những phân tích ở trên CBXH gồm những đặc trưng sau:

Thứ nhất, CBXH là một giá trị nhằm xác lập mối quan hệ giữa người với

người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, v.v..) theo nguyên tắc tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống

hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát

triển. Với tư cách là giá trị xã hội, CBXH là phạm trù mang tính nhân loại, gắn

liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của con người và cộng đồng loài người.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử đấu tranh cho dân chủ,

tự do, công bằng và tiến bộ nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng con người,

phát triển toàn diện các năng lực, sức mạnh bản chất của con người, hoàn thiện

nhân cách.

Thứ hai, CBXH là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. CBXH không phải

là một khái niệm bất di bất dịch. Với tư cách là sản phẩm của đời sống xã hội,

mà đời sống xã hội luôn vận động, biến đổi nên nội dung của CBXH cũng phải

biến đổi cho phù hợp. Không thể có một quan niệm chung về CBXH cho mọi

thời đại, dân tộc và giai cấp. Mỗi xã hội có đòi hỏi riêng về công bằng. Việc đặt

ra và giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, trước

hết là trình độ phát triển của phương thức sản xuất, cùng với nó là trình độ nhận

thức của con người, đặc biệt, sự chi phối lợi ích của các giai cấp, các nhóm chủ

thể xã hội thời kỳ đó. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do nền sản xuất còn thấp kém, chưa

có sản phẩm dư thừa, chưa có chế độ tư hữu thì CBXH chỉ có nghĩa là mọi người

đều phải tuân theo một trật tự đã được thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt

theo phong tục, tập quán. Khi xã hội phân chia giai cấp, nhà nước xuất hiện, tùy

theo mức độ phát triển của xã hội, quan niệm về CBXH cũng khác nhau. Xã hội

Hy - Lạp cổ đại cho rằng, công bằng là sự đối xử ngang nhau đối với những

người cùng một địa vị xã hội và sự bất bình đẳng giữa những người không cùng

địa vị xã hội cũng là công bằng (Arixtốt); công bằng là ở chỗ mỗi hạng người

làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình (Platon).

Các nhà tư tưởng của chế độ phong kiến trong lịch sử cũng nói về CBXH nhưng

Page 47: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

42

đó là công bằng có tôn ti, trật tự trên dưới. Chế độ tư sản cho rằng, nguyên tắc

trao đổi ngang giá là công bằng. Trong XHCN, công bằng gắn với nguyên tắc

phân phối theo lao động. Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa thì công bằng là làm

theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Lịch sử loài người là lịch sử phấn đấu không

mệt mỏi cho sự công bằng và đi đến CBXH từ cấp thấp đến cấp cao, từ cho số ít

đến cho số nhiều và cho mọi người. Một xã hội công bằng phải là một xã hội tạo

ra cho mọi người có những cơ may để họ tự phát triển, đem lại hạnh phúc cho

bản thân họ và có những đóng góp cho xã hội. Theo đó, CBXH phản ánh trình

độ phát triển về phương diện xã hội của con người.

Thứ ba, CBXH là một trường hợp riêng của bình đẳng xã hội.

Theo từ điển tiếng Việt, bình đẳng là ngang nhau về địa vị, quyền lợi.

Bình đẳng xã hội được hiểu là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một

(hoặc một vài) lĩnh vực xã hội như: sự ngang bằng nhau về quyền và nghĩa vụ

công dân, về địa vị xã hội, về khả năng, cơ hội, mức độ thỏa mãn những nhu cầu

cụ thể nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần, v.v..

Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác nhau về giới tính, lứa tuổi, chủng tộc,

màu da. Đó là sự khác nhau về mặt sinh học tự nhiên chứ không phải là sự khác

nhau về mặt xã hội. Với cách hiểu như vậy, trong xã hội, không phân biệt thành

phần, địa vị xã hội mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, có điều kiện

và khả năng sống như nhau để phát triển năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của

cuộc sống. Khi nào đạt đến sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi

phương diện thì đó là sự bình đẳng xã hội hoàn toàn, sự bình đẳng lý tưởng, mơ

ước của con người. Bình đẳng được thể hiện ở các mối quan hệ: sự bình đẳng

trong việc thực hiện nghĩa vụ; sự bình đẳng trong việc được hưởng quyền lợi; sự

tương ứng hay không tương ứng giữa sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ

với sự bình đẳng trong việc hưởng thụ quyền lợi khi thực hiện cùng một nghĩa

vụ ấy. CBXH được hiểu trong trường hợp thứ ba. Như vậy, bình đẳng xã hội có

phạm vi rộng và bao quát hơn CBXH.

Công bằng xã hội có khía cạnh bình đẳng, đồng thời có khía cạnh bất bình

đẳng. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân trước pháp luật; bình đẳng về

nhân phẩm, chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng tôn giáo chống lại mọi sự kỳ thị,

phân biệt đối xử là những yêu cầu của CBXH. Tuy nhiên, trong CNXH, sự bất

bình đẳng về hưởng thụ do sự không ngang nhau về phẩm chất và năng lực trong

lao động, cống hiến cũng là một yêu cầu của CBXH. Như vậy, xét đến cùng,

Page 48: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

43

không có bình đẳng trừu tượng, mà bình đẳng phải được thể hiện ở việc thực

hiện CBXH. Đến lượt nó, bản thân việc thực hiện CBXH cũng chính là thực hiện

bình đẳng xã hội từng phần để hướng đến bình đẳng xã hội ngày một cao hơn.

Về bản chất, CBXH được hiểu là sự tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền

lợi, về cống hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều

kiện phát triển, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội. Có sở để đánh giá sự

tương xứng đó chính là những tiêu chí nhất định mà xã hội lựa chọn và chấp

nhận. Nếu tiêu chí thay đổi thì sự tương xứng cũng thay đổi. Nếu tiêu chí thay

đổi thì quan niệm về sự tương xứng cũng thay đổi. Như vậy, công bằng xã hội là

một khái niệm vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng. Trên thực tế,

hình thức đóng góp đa dạng: thời gian lao động, vốn, chất xám, xương máu, kinh

nghiệm, v.v… và hình thức được nhận lại cũng rất đa dạng: tiền công, phần

thưởng, địa vị, chức vụ, sự kính trọng v.v... Chính sự đa dạng trong hình thức

đóng góp và nhận lại như vậy khiến cho sự tương xứng nói trên trong thực tế

không phải bao giờ cũng được bộc lộ rõ ràng nên có những trường hợp là công

bằng nhưng chủ thể cho là chưa công bằng và ngược lại. “Công bằng không phải

là sự bằng nhau về số lượng hay chất lượng giữa cái mà anh bỏ ra và cái mà anh

ta thu về. Vấn đề cốt yếu ở đây là sự so sánh về tỷ lệ. Nếu tỷ lệ giữa phần mà

người hay nhóm xã hội xã hội nào đó đóng góp và phần mà họ nhận được mà

tương quan với tỷ lệ ấy ở những người hay nhóm xã hội khác thì đó mới là công

bằng” [60, tr.96], tức công bằng xã hội phải được xét trong quan hệ cống hiến

ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.

Nội dung của CBXH:

Công bằng xã hội mag tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội... trong đó thể hiện tập trung ở 2 nội dung chính: công bằng trong

phân phối và công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.

Nội dung thứ nhất, công bằng trong phân phối. Phân phối là một trong

những phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong việc

phân chia các nguồn lực trong quá trình sản xuất xã hội và tái sản xuất xã hội, nó

phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và quản lý. Phân phối vừa là một khâu của quá

trình sản xuất (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng), vừa là một mặt của

quan hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối). Phân phối bao gồm việc

phân phối các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất) và sản phẩm đầu ra

(tư liệu tiêu dùng) phục vụ nhu cầu tái sản xuất xã hội và đời sống con người. Do

Page 49: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

44

đó công bằng trong phân phối bao hàm cả việc phân phối công bằng các yếu tố

đầu vào của sản xuất lẫn các yếu tố đầu ra của sản xuất. Tính chất phân phối các

yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối tiêu dùng, còn sự phân phối các

yếu tố sản xuất lại do phương thức sản xuất chi phối. Về điều này C.Mác đã chỉ

rõ: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự

phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều

kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất” [95,

tr.36-37]. Do vậy, trong các xã hội khác nhau, các hình thức phân phối cũng

khác nhau. Điều này phụ thuộc vào bản chất kinh tế, chính trị, xã hội, cũng như

điều kiện, năng lực thực tế của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển trước hết được hiểu là quyền

của mọi người được tiếp cận ngang nhau với một cơ hội nào đó bất kỳ (ở đây

chính là bình đẳng về cơ hội). Còn điều kiện phát triển được hiểu là những điều

kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó không chỉ bình đẳng về cơ hội tiếp

cận các nguồn lực phát triển mà còn bao gồm tất cả các điều kiện và các dịch vụ

xã hội nói chung từ hạ tầng cơ sở (điện, nước sạch, đường sá, các cơ sở khám

chữa bệnh, các cơ sở giáo dục, đào tạo; thị trường tài chính, chứng khoán) đến

thượng tầng kiến trúc (tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước, học tập và

trao đổi thông tin, sáng tác, hưởng thụ văn học nghệ thuật, giao lưu văn hóa...).

Một số người cho rằng, đây là công bằng trong tiếp cận cơ hội. Về cơ bản, công

bằng hàm ý một sự phân chia hay phân phối, còn khi không có sự phân biệt về

quyền được tiếp cận các cơ hội phát triển thì đó là bình đẳng.

Cơ hội là bình đẳng nhưng năng lực của mọi người là khác nhau, không

phải tất cả mọi người đều có thể sử dụng cơ hội đó một cách ngang nhau để thực

hiện điều mình mong muốn. Vì vậy, “bình đẳng về cơ hội ở đây lại trở thành bất

bình đẳng về cơ hội và do đó nó cũng không công bằng vì nó mở ra cơ hội phát

triển cho người này nhưng lại không mở ra, thậm chí còn thu hẹp cơ hội phát

triển đối với người kia” [71, tr.206 - 207]. Công bằng về cơ hội cùng với việc tạo

sự bình đẳng về cơ hội còn bao hàm nội dung, tạo cơ hội phù hợp cho mỗi chủ

thể, để chủ thế đó có thể đó có thể phát huy khả năng vốn có của mình, cống

hiến cho xã hội và được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến ấy.

Trên thực tế, việc phân biệt công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển và

công bằng trong phân phối chỉ mang ý nghĩa tương đối. Việc đảm bảo công bằng

về cơ hội, điều kiện phát triển cũng chính là hình thức phân phối, chủ yếu dưới

Page 50: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

45

dạng phân phối gián tiếp, phân phối lại từ các quỹ, các nguồn lực xã hội để tạo

cho các cá nhân, các nhóm xã hội có điều kiện phát huy tối đa vai trò của mình

đóng góp cho xã hội và được hưởng thụ công bằng. Công bằng về cơ hội, điều

kiện phát triển ở đây được xác định như là tiền đề để đảm bảo CBXH thực sự.

2.1.4.2. Khái niệm thực hiện công bằng xã hội

Theo cách hiểu thông thường, “thực hiện” là bằng những hoạt động cụ thể

làm cho ý tưởng, lý thuyết, chủ trương, nghị quyết, quyết định... của một cá

nhân, tổ chức thành hiện thực. Theo Từ điển tiếng Việt: “thực hiện là làm cho trở

thành cái có thật bằng hoạt động cụ thể; làm theo trình tự, thao tác nhất định”.

Mức độ “thực hiện” phụ thuộc rất lớn vào năng lực, ý thức của chủ thể cũng như

đối tượng thực thi chúng. Điều này đòi hỏi chủ thể đưa ra ý tưởng, lý thuyết, chủ

trương, nghị quyết, quyết định... phải am hiểu và đảm bảo tính đúng đắn, khả thi

của vấn đề, đồng thời đối tượng thực thi chúng cũng phải ý thức được về vấn đề

trước khi hành động.

Công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. Việc đặt ra và

giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: trình độ phát

triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của con người, sự chi phối lợi

ích của các giai cấp, các nhóm chủ thể xã hội thời kỳ đó. Do vậy, việc thực hiện

CBXH cũng phụ thuộc những điều kiện lịch sử - cụ thể của từng chế độ xã hội.

Theo đó, thực hiện công bằng xã hội là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ

thống chính trị, các lực lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị

trí, vai trò của mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành

hiện thực trong đời sống xã hội.

Chủ thể thực hiện CBXH:

Xét trong phạm vi một quốc gia, chủ thể thực hiện CBXH gồm: đảng cầm

quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng, tổ

chức xã hội, người dân ở quốc gia đó. Ngoài ra, còn các tổ chức phi chính phủ,

các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ thiện... hỗ trợ, tham gia thực hiện CBXH.

Phương thức thực hiện CBXH:

- Đảng chính trị cầm quyền ở quốc gia đó xác định quan điểm, chiến lược, chủ

trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.

- Nhà nước có trách nhiệm triển khai thực hiện quan điểm, chiến lược,

chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH trong cả nước và thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về thực hiện CBXH.

Page 51: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

46

- Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội ở nước

đó, tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để thực

hiện các nội dung của CBXH.

Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc thực hiện CBXH:

Việc thực hiện CBXH do nhiều nhân tố tác động, trong đó phụ thuộc chặt

chẽ vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất (thông qua trình độ phát

triển kinh tế), vào chế độ chính trị, vào các giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc và tính chất của thời đại.

- Trình độ phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế của một nước là

nhân tố đặc biệt quan trọng để thực hiện CBXH. Kinh tế phát triển tạo tiền đề vật

chất cần thiết cho việc đảm bảo thực hiện tốt các chính sách CBXH. Không thể

có CBXH trên cơ sở một nền kinh tế trì trệ, suy thoái. Kinh tế phát triển, nhà

nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề: xóa đói, giảm

nghèo, tạo thêm công ăn việc làm, đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa... Tuy

nhiên, thực tế nhiều nước trên thế giới cho thấy, kinh tế tăng trưởng cao nhưng

nghèo đói, bất công xã hội vẫn gia tăng. Bản thân sự tăng trưởng kinh tế chưa

hẳn đã quyết định CBXH được thực hiện, mà vấn đề có ý nghĩa quyết định đó là

mục đích phát triển kinh tế của một nước. Nếu mục đích của sự tăng trưởng và

phát triển kinh tế là vì sự phát triển của đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc

của mọi người dân, thì CBXH mới được thực hiện theo đúng nghĩa của nó. Còn

nếu sự phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị cầm quyền thì

CBXH ở những nước đó tuy được thực hiện ở mức độ nhất định, nhưng chủ yếu

nhằm bảo đảm ổn định xã hội, duy trì vị trí của giới cầm quyền. Do đó kết hợp

giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH là một trong những yêu cầu hàng

đầu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay.

- Chế độ chính trị, đặc biệt là bản chất của giai cấp cầm quyền và của nhà

nước ở mỗi nước chi phối, quy định CBXH và việc thực hiện CBXH ở nước đó.

Quan điểm về CBXH và chủ trương, giải pháp thực hiện CBXH ở những nước

ấy là của giai cấp cầm quyền, được thực hiện chủ yếu thông qua nhà nước của

họ. Ở các nước tư bản giai cấp tư sản cầm quyền, chính đảng và nhà nước tư sản

chi phối và quyết định việc thực hiện CBXH theo quan điểm và lợi ích của giai

cấp tư sản, chủ yếu vì sự cầm quyền và giàu có của giai cấp tư sản. Điều này đã

cản trở lớn việc thực hiện CBXH ở các nước đó. Chế độ XHCN với tính ưu việt

của nó, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình và

Page 52: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

47

chấp hành, CBXH có nhiều thuận lợi để thực hiện ngày càng tốt hơn trong các

lĩnh vực đời sống xã hội và ở các địa phương.

- Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Văn hóa là tập hợp những

tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của mỗi

người, cộng đồng - đó là yếu tố tinh thần trong đời sống con người. Mỗi quốc

gia, dân tộc có nền văn hóa mang bản sắc riêng và có một giá trị riêng độc đáo.

Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là khát vọng hướng tới tính chân, thiện, mỹ,

xây dựng xã hội công bằng, nhân văn và văn minh. Văn hoá chi phối, định

hướng giá trị lẽ sống, lý tưởng sống của mỗi người dân trong xã hội. Các giá trị

văn hoá và truyền thống lịch sử dân tộc của mỗi nước tác động và là một trong

những động lực của sự phát triển của người dân và xã hội, hướng tới xã hội tươi

đẹp, công bằng, nhân ái, văn minh... chi phối mạnh mẽ việc thực hiện CBXH.

Ngược lại, những khía cạnh của văn hóa và truyền thống lạc hậu lại kìm hãm con

người tiếp nhận và phát triển những cái mới, họ bằng lòng với hiện tại lại chi

phối và hạn chế đáng kể việc thực CBXH.

- Tính chất của thời đại. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa, kinh tế tri thức

một mặt tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tốt hơn CBXH.

Tuy nhiên, mặt trái của nó tác động rất lớn đến các nước chậm và đang phát triển

làm cho khoảng cách thu nhập và mức sống giữa người giàu và người nghèo

ngày càng tăng lên, gây khó khăn, phức tạp cho việc thực hiện CBXH. Điều này

đòi hỏi mỗi quốc gia cần có những điều chỉnh vừa đảm bào thực hiện CBXH cho

người dân của nước mình, vừa phì hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.

2.2. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

2.2.1. Quan niệm của triết học Mác về phát triển con người

Phát triển ngày càng toàn diện con người là mục tiêu và lý tưởng cao cả

của nhân loại. Tùy theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử, cũng như xuất phát

từ địa vị xã hội và lập trường tư tưởng khác nhau, các nhà tư tưởng trong lịch sử

triết học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về PTCN. Tuy nhiên, chỉ đến

triết học Mác, vấn đề con người và PTCN mới được xem xét một cách hệ thống,

toàn diện, khoa học. Trên cơ sở phê phán những hạn chế của các nhà triết học đi

trước khi xem xét vấn đề con người, triết học Mác không chỉ đưa ra hệ thống lý

luận đúng đắn về bản chất của thế giới và bản chất con người, mà còn chỉ ra con

đường để PTCN một cách khoa học, đúng đắn.

Page 53: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

48

Thứ nhất, phát triển con người theo quan niệm của triết học Mác là sự

phát triển các mặt, các yếu tố cấu thành nên con người.

Xem xét một cách hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác về con

người, có thể thấy, các ông luôn coi con người là một thực thể phức tạp của mối

quan hệ thống nhất giữa mặt tự nhiên với mặt xã hội, giữa bản chất với tồn tại

của nó - con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Nếu như mặt xã hội là nói

về thế giới tinh thần bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và

vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,… thì mặt sinh học của con

người thể hiện ra trong các hiện tượng: sinh lý học, di truyền học, các quá trình

thần kinh và một số quá trình khác của cơ thể con người… Mỗi mặt riêng rẽ trên

không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh thể của nó. Ở đây, mặt

sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con

người. Do đó, khi xem xét PTCN phải chú ý đến tất cả các mặt, các yếu tố cấu

thành nên con người.

Thứ hai, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác gắn liền

với sự phát triển kinh tế - xã hội, thông qua lao động sản xuất.

Đứng trên lập trường duy vật lịch sử, triết học Mác đã coi tiến trình phát

triển lịch sử loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội

và khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự

phát triển của lực lượng sản xuất xã hội - con người và những công cụ lao động

do con người sáng tạo ra. Trình độ sản xuất càng cao thì con người càng có điều

kiện để thoả mãn những nhu cầu vật chất của mình và do đó, làm phong phú

thêm đời sống xã hội, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.

Thông qua đó, con người tự phát triển mình, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Con người trong quan niệm của triết học Mác không chỉ là chủ thể của

hoạt động sản xuất, là yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất

của xã hội mà còn là chủ thể hoạt động của lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử. Xã

hội, dưới bất cứ hình thức nào đều là “sản phẩm của sự tác động qua lại giữa

những con người” [98, tr.657] và “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con

người theo đuổi mục đích của bản thân mình” [91, tr.141]. Mặt khác, con người

không chỉ sáng tạo ra lịch sử, mà con người còn là động lực cơ bản nhất cho sự

phát triển của lịch sử. Tiến trình phát triển lịch sử của con người, của nhân loại

chính là quá trình giải quyết các mâu thuẫn trong tiến trình vận động của nó và

chủ thể giải quyết các mâu thuẫn đó chính là con người. Con người với tư cách

Page 54: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

49

vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội; vừa là mục đích vừa là động lực của

sự phát triển xã hội. Do vậy, sự phát triển của con người luôn gắn liền với sự

phát triển xã hội.

Thứ ba, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác là sự giải

phóng con người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa.

Xuất phát từ thực tiễn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã chỉ rõ

thành tựu cơ bản của chủ nghĩa tư bản là tạo ra tiền đề thực tiễn cho sự PTCN

nhưng mặt trái của nó là dẫn tới sự tha hóa của con người. Theo C.Mác, đến xã

hội tư bản chủ nghĩa thì hiện tượng tha hóa là gay gắt nhất và phổ biến nhất. Nó

là một quá trình khách quan và biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội. C.Mác quy toàn bộ các hình thức tha hóa ở lĩnh vực chính trị, tinh thần về

nền tảng của nó là tha hóa trong lĩnh vực kinh tế, với biểu hiện tập trung là tha

hóa lao động. Sự tha hóa lao động dẫn đến sự tha hóa bản chất con người, các

quan hệ xã hội trở lại thống trị con người. Kết quả của sự tha hóa là làm cho con

người trở thành xa lạ với con người và xa lạ với bản chất loài của mình: Công

nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng

nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản

phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh tạo ra

càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng

hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu; công việc của anh ta làm càng

phức tạp thì bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới

tự nhiên [99, tr.131].

Với tầng lớp tư sản tình hình cũng không sáng sủa hơn. Bởi ông chủ thực

sự của xã hội tư sản là tiền. Vì mục đích cao nhất là càng kiếm được nhiều tiền

càng tốt, là đạt được lợi nhuận tối đa bằng mọi giá mà nhà tư bản sẵn sàng chà

đạp thô bạo lên mọi luật lệ và cả nhân phẩm của con người, sẵn sàng hy sinh mọi

niềm vui, hạnh phúc chân chính của con người.

Như vậy, ngay cả khi lực lượng sản xuất có đạt đến trình độ phát triển cao

nhưng nếu như quan hệ giữa người và người vẫn là quan hệ bóc lột, bất công, bất

bình đẳng thì sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn mới chỉ dừng lại ở sự gia

tăng và ngày càng hoàn thiện của TLSX chứ vẫn chưa phải là sự phát triển của

con người. Do đó, PTCN trong quan niệm của triết học Mác là sự giải phóng con

người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa do tình trạng bóc lột và phân công

lao động mà chủ nghĩa tư bản mang lại.

Page 55: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

50

Thứ tư, phát triển con người trong quan niệm của triết học Mác là sự phát

triển tự do và làm chủ.

Triết học Mác đã khẳng định, mỗi bước tiến của nền văn minh nhân loại

lại là một bước con người tiến tới tự do nhiều hơn. Tự do là năng lực hành động

khi nhận thức được cái tất yếu. Ăngghen chỉ rõ: “Tự do không phải là ở sự độc

lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được

những quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc

những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất

định” [95, tr.163].

Sự tự do đem lại cho con người quyền được lao động, được phân phối

công bằng của cải vật chất và tinh thần, được tham gia vào các công việc xã hội,

được phát triển và vận dụng các năng lực của mình. Thông qua tự do, con người

được hoạt động theo sở thích, con người có thể tìm thấy sự hứng thú và phát huy

tốt yếu tố nội lực, hiệu quả trong hoạt động sẽ được nâng cao và tính tích cực

của hoạt động đó sẽ đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội. Các nhà sáng lập

chủ nghĩa Mác đã phác họa mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai là

một chế độ xã hội công bằng, văn minh, con người được tự do phát triển tiềm năng

của mình.

Đồng thời, tự do gắn liền với làm chủ. Trên cơ sở nhận thức được cái tất

yếu con người có thể làm cho bản thân mình tồn tại, phát triển phù hợp với cái

tất yếu đó, hơn nữa, con người tự do khi con người có thể chi phối được thế giới

bên ngoài và chính bản thân mình. “Con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội

của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình,

trở thành người tự do” [94, tr.333].

Triết học Mác cũng chỉ ra, chỉ khi các cá nhân riêng biệt liên kết thành cộng

đồng thực sự, họ mới có được sự phát triển toàn diện mọi năng lực, phẩm chất của

mình: “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân con người mới có được những phương tiện

để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng

đồng, mới có thể có tự do cá nhân” [92, tr.108]. Đó cũng là lúc con người hoàn thành

nhiệm vụ mà C.Mác đã nêu, làm sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển

hoàn toàn tự do và vận dụng mọi khả năng và sức lực của mình để tạo ra những con

người hoàn thiện.

Để PTCN toàn diện, theo triết học Mác, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa

lao động sản xuất với giáo dục về thể chất và trí tuệ: “kết hợp lao động sản xuất

Page 56: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

51

với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi

đó không chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn

là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra con người phát triển toàn diện nữa”

[97, tr.688]. Cùng với đó là phát triển văn hóa bởi “mỗi bước tiến lên trên con

đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [95, tr.164].

Triết học Mác ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về

con người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Với luận điểm

coi con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử; con người là động lực

và cũng là mục đích của sự phát triển xã hội, con người đã bằng hoạt động thực

tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản thân mình và thông qua đó làm

cho xã hội phát triển. PTCN là giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, khỏi

sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó,

con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã hội của

mình. Để con người được phát triển toàn diện cần xây dựng một xã hội công

bằng - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng về PTCN của các nhà

sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp luận trong

việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về PTCN, cũng như xem xét,

đánh giá các vấn đề thực tiễn của PTCN trong giai đoạn hiện nay.

2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về phát triển con người

* Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người

Lý luận của chủ nghĩa Mác về PTCN đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận

dụng sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với quan niệm con người là

một thực thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố kết hợp chặt chẽ với nhau, Hồ Chí

Minh cho rằng, muốn PTCN thì phải xây dựng và phát triển các bộ phận cấu

thành nên chỉnh thể đó. Trước hết là vấn đề thể lực, bởi: “Giữ gìn dân chủ, xây

dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành

công” [101, tr.212]. Theo Người, hoạt động của con người muốn có kết quả tốt

không chỉ phụ thuộc vào tri thức, phẩm chất, kỹ thuật, chuyên môn mà còn phụ

thuộc vào sức khỏe của con người. Thể lực là cơ sở, tiền đề cơ bản cho sự tồn tại

và phát triển của con người. Chỉ trên một cơ thể khỏe mạnh thì các phẩm chất,

năng lực của con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển. Cùng với việc

PTCN về thể lực, Hồ Chí Minh đặc biệt còn quan tâm PTCN Việt Nam về mặt

trí lực. Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải

Page 57: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

52

có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật. Cần phải học l ý

luận Mác - Lênin kết hợp đấu tranh với công tác hàng ngày”… “Học đi đôi với

hành” [106, tr.306]. Nếu trí lực có ý nghĩa quyết định “trình độ người”, thì tâm

lực là cái “gốc” làm nên nhân cách toàn vẹn của con người. Do đó, Hồ Chí Minh

đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng và giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, đó là một cấu trúc mang tính hệ thống rất chặt chẽ mà trong

đó, sự phát triển của bất kỳ thành tố nào cũng bị chi phối và có sự tác động của

của các thành tố khác ở những mức độ khác nhau. Do đó, PTCN là phải chú ý

đến tất cả các mặt trong đời sống của con người, từ đời sống vật chất đến đời

sống tinh thần.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn PTCN toàn diện cả về thể lực, trí lực

và tâm lực, thì nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội vững chắc phù hợp. Trong đó, nhân tố kinh tế đóng vai trò nền tảng, có ý

nghĩa quyết định: “Để sống còn, loài người lại phải sản xuất mới có ăn, có mặc”

[105, tr.282], “Muốn ăn no, mặc ấm, mọi người phải ra sức tăng gia sản xuất,

thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh kinh tế nước nhà tiến lên” [104, tr.396]. Chỉ có

xây dựng và tạo lập được nền một kinh tế phát triển mạnh mới làm cho “đời

sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn” [102,

tr.95], thúc đẩy con người vươn lên về mọi mặt, hoàn thiện và nâng cao phẩm

chất, năng lực của mình; tạo ra những tiền đề hết sức quan trọng cho các lĩnh vực

khác: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa thông tin... phát triển - những lĩnh vực có

tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển mọi mặt của con người.

Trong quá trình xây dựng và PTCN, Hồ Chí Minh hết sức đề cao sự tự

giác, vươn lên của cá nhân. Sự PTCN luôn bị chi phối bởi nhân tố chủ quan và

khách quan. Trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con người,

nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố

chủ quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá

nhân. Do đó, cần phải luôn giáo dục ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường,

vươn lên của con người: “phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi

trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật” [106, tr.295]. Để động viên, khuyến khích

con người tự giác vươn lên đúng hướng, theo Hồ Chí Minh, xã hội phải đánh giá

đúng khả năng, năng lực của các cá nhân, tạo điều kiện cho họ cống hiến và

hưởng thụ, phù hợp với sự đóng góp của họ cho xã hội, cần phải luôn tôn trọng

lợi ích chính đáng của cá nhân. Tức là phải đảm bảo CBXH.

Page 58: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

53

Hồ Chí Minh coi thực hiện CBXH là một động lực rất quan trọng để

PTCN. Chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự con người mới có được cơ

hội và điều kiện phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội dung thực hiện

CBXH trên những lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; cũng như cách

thức để thực hiện CBXH (tiết 2.1).

Như vậy, PTCN trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phát triển tất cả các mặt, các

yếu tố cấu thành nên con người. Muốn đưa sự nghiệp xây dựng và PTCN ở nước ta đi

đến thành công nhất thiết phải tạo lập được các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội

vững chắc, phù hợp. PTCN Việt Nam theo Hồ Chí Minh chủ yếu thông qua quá trình

hoạt động của họ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thông qua việc giáo dục, đào

tạo một cách toàn diện cũng như sự nỗ lực, tự giác vươn lên của các cá nhân. Thực

hiện CBXH là một trong những động lực quan trọng để CBXH. Thực tiễn cho thấy, đi

theo những phương hướng mà Hồ Chí Minh đã vạch ra, chúng ta đã đào tạo, phát triển

được những con người mới XHCN vừa hồng vừa chuyên, đã đưa dân tộc vượt qua

muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi to lớn đem lại tự do, hạnh

phúc cho toàn dân tộc.

* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người

Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênnin, kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về PTCN, suốt những năm lãnh đạo

cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn quý

nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của

chế độ ta. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, việc gì có hại cho dân, ta phải

hết sức tránh đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi là nhiệm vụ trọng

tâm. Với tư cách là Đảng cầm quyền, ngay từ đầu, mọi chủ trương, chính sách,

đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và PTCN Việt Nam

toàn diện.

Trước đổi mới, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau

nên vấn đề con người, PTCN chưa được Đảng ta quan tâm đúng mức, chưa có

những chính sách thích hợp để PTCN. Đại hội VI của Đảng được coi là bước

ngoặt quan trọng, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi khẳng định vai trò quan

trọng của nhân tố con người trong toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu

của phát triển vì con người được khẳng định trong khẩu hiệu “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Vấn đề con người và PTCN

được xem xét một cách toàn diện, cụ thể và thực chất hơn, gắn chặt chẽ hơn với

Page 59: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

54

sự phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu hướng của thời đại. Chính sách đổi

mới của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại cho mỗi cá nhân nhiều cơ hội hơn

trong phát triển và tạo ra môi trường khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của

mỗi cá nhân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định:

Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn

phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:

Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng

về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với

tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời tinh thần, giữa đáp ứng

các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập

thể và cộng đồng xã hội [35, tr.13].

Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn của Đảng về vị

trí trung tâm của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Để PTCN các chính

sách xã hội cần đảm bảo công bằng, bình đẳng, quan tâm đến lợi ích cá nhân.

Quan điểm của Đảng về PTCN tiếp tục được cụ thể hóa trong các Văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc tiếp theo. Con người được coi là “chủ thể, nguồn lực

chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” [44, tr.100] và xây dựng con người Việt

Nam phát triển toàn diện “phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát

triển”[46, tr.126]. Tiếp thu những yếu tố tích cực trong quan điểm về PTCN trên

thế giới, đặc biệt là quan niệm của Liên hợp quốc về bộ tiêu chí đánh giá sự

PTCN, nội dung cụ thể của con người Việt Nam phát triển toàn diện ngày càng

được chỉ ra rõ ràng hơn cả về mặt định tính và về mặt định lượng, cả mục tiêu

chung cũng như các mục tiêu cụ thể. Xây dựng con người Việt Nam phát triển

toàn diện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc

tế phải “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng

sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức

tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp

xây dựng, bảo vệ tổ quốc” [46, tr.29]. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: “con

người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức

công dân, tuân thủ pháp luật” [44, tr.105].

Để có thể PTCN toàn diện ngay từ bây giờ phải chăm lo đến tất cả các

mặt liên quan đến đời sống con người: từ đời sống vật chất đến đời sống tinh

Page 60: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

55

thần; từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, trên cơ sở công

bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính sách

xã hội phải “đúng đắn, công bằng vì con người”... “Đảm bảo công bằng, bình

đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân” [44, tr.79].

Có thể thấy, quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá

trình đổi mới là phát triển vì con người và do con người. Con người vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển và cũng là chủ thể của quá trình

phát triển. Mọi người dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong quá trình

phát triển. PTCN Việt Nam toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực với những

đức tính cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Do đó, cần chú

trọng phát triển tất cả các yếu tố: kinh tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, chăm sóc

sức khỏe, bảo vệ môi trường… trên cơ sở công bằng, bình đẳng, góp phần mở

rộng cơ hội và nâng cao điều kiện cho con người phát triển. Quan điểm về PTCN

của Đảng ta là rất đầy đủ, toàn diện, bao quát, khoa học, phù hợp với điều kiện

Việt Nam.

2.2.3. Quan điểm hiện đại về phát triển con người

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan

niệm về con người, nhất là những luận điểm về giải phóng và PTCN. Lần đầu tiên,

con người được coi là điểm xuất phát và sự giải phóng, PTCN là mục tiêu cao nhất

mà nhân loại cần đạt tới. Để biến những lý tưởng và ước mơ đầy nhân văn của học

thuyết Mác thành hiện thực, các cuộc cách mạng XHCN đã nổ ra, mở đầu bằng thắng

lợi của cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 ở nước Nga. Tuy nhiên, do nhiều nguyên

nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà việc xây dựng xã hội mới theo lý tưởng

cộng sản chủ nghĩa đã bị ngừng trệ ở nhiều nước Đông Âu và Liên - xô từ những

năm cuối thế kỷ XX.

Quan điểm coi con người là động vật kinh tế khá phổ biến vào những năm

đầu của thế kỷ XX. Phần lớn các nước theo mô hình tăng trưởng chỉ lo tìm cách

tăng thu nhập và cho rằng, tăng trưởng kinh tế có thể đem lại sự phồn vinh, hạnh

phúc cho loài người. Với cách xem xét đó, con người vô hình chung chỉ được coi

là một yếu tố của sản xuất, một loại “vốn”, bên cạnh các loại vốn khác như “vốn

tài nguyên”, “vốn công nghệ”, “vốn tài chính”...

Sau một thời gian tập trung vào đường lối tăng trưởng, nhất là từ năm

1970, nhiều nước cùng với cơ quan Liên hợp quốc đã chuyển sang đường lối

phát triển: phát triển kinh tế hài hòa với phát triển xã hội, tập trung quan tâm

Page 61: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

56

nhiều tới con người. Từ cuối những năm 1980, khái niệm PTCN đã trở thành

trung tâm của cuộc tranh luận về phát triển toàn cầu. Mahbub El Haq và A. Sen

là hai nhà khoa học đã đưa ra lý thuyết PTCN. Theo họ, mục tiêu của phát triển

không chỉ là sự tăng trưởng kinh tế mà là việc tạo điều kiện để con người làm việc

nhiều hơn, sống tốt hơn và lâu hơn, tránh được bệnh tật và nắm được chìa khóa của

kho tàng tri thức nhân loại. Do đó, quá trình phát triển trở thành quá trình phát triển

năng lực con người.

Theo A. Sen, năng lực được hiểu là những gì mà một người có thể làm. Từ

cách tiếp cận năng lực A. Sen cho rằng, sự lựa chọn của con người chỉ xảy ra khi

có sự xuất hiện cơ hội lựa chọn và con người có năng lực lựa chọn. Sự xuất hiện

cơ hội lựa chọn phụ thuộc vào môi trường, thể chế xã hội tạo điều kiện cho sự

xuất hiện cơ hội lựa chọn, đồng thời phụ thuộc vào năng lực của chủ thể con

người. Con người càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Xã hội càng

phát triển thì càng có điều kiện tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn cho con người, trong

đó, năng lực là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vậy, PTCN theo A. Sen đó chính là

phát triển năng lực của con người.

Để đánh giá sự PTCN Mahbub El Haq đã đưa ra bốn thành tố có bản, đó

là: công bằng, bền vững, hiệu quả và quyền. Trong đó chiều cạnh công bằng

được hiểu là, nếu phát triển được coi là lựa chọn cho con người thì con người

phải được hưởng một cách công bằng những cơ hội đó. Phát triển mà thiếu đi sự

công bằng có nghĩa là hạn chế sự lựa chọn của rất nhiều người trong xã hội.

Công bằng ở đây được hiểu là công bằng trong cơ hội chứ không nhất thiết phải

công bằng về kết quả. Do đó, công bằng về cơ hội không phải lúc nào cũng dẫn

tới sự lựa chọn giống nhau hay kết quả giống nhau. Công bằng trong tiếp cận cơ

hội đòi hỏi sự tái cấu trúc căn bản quyền lực trong các xã hội như phân phối

TLSX, phân phối thu nhập… công bằng. Triết lý PTCN này được đánh giá cao

bởi giả định rằng tất cả mọi người đều được tạo điều kiện để phát triển năng lực

của họ một cách tối đa và đưa các năng lực đó vào sử dụng tốt nhất trong các

lĩnh vực của cuộc sống.

Quan điểm PTCN của Mahbub El Haq và A. Sen đã được UNDP cụ thể

hóa bằng các Báo cáo phát triển con người. Có thể nói, thuật ngữ “phát triển con

người” chính thức được biết đến và sử dụng rộng rãi kể từ năm 1990 khi Báo cáo

đầu tiên về phát PTCN của UNDP ra đời. Cùng với những biến động của thực

tiễn cũng như là sự thay đổi trong tư duy của con người, quan niệm của UNDP

Page 62: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

57

về PTCN cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp. Hiện nay, theo quan điểm của

Chương trình này,

Phát triển con người là sự mở rộng tự do của con người để sống cuộc

sống trường thọ, khỏe mạnh và sáng tạo; nhằm đạt được các mục tiêu

khác mà họ cho là có giá trị; và để tham gia tích cực vào việc kiến tạo

một sự phát triển công bằng, bền vững trong một hành tinh chung.

Con người vừa là mục tiêu vừa là người hưởng lợi sự phát triển con

người, với tư cách cá nhân và cả trong các nhóm [86, tr.35].

Phát triển con người có hai chiều cạnh quan trọng là: Mở rộng quyền tự

do lựa chọn và nâng cao năng lực của con người. PTCN chỉ có thể đạt được khi

con người được tự do lựa chọn điều mà họ mong muốn, ví dụ như được sống

khỏe mạnh, được nuôi dưỡng tốt, được giáo dục tốt, tham gia vào đời sống cộng

đồng v.v.. Mở rộng tự do cá nhân cũng góp phần gia tăng cơ hội lựa chọn của

con người. Tuy nhiên, mở rộng các cơ hội lựa chọn của con người không có

nghĩa là càng nhiều sự lựa chọn thì càng tốt. A. Sen đã từng cảnh báo, đôi khi

nhiều tự do lựa chọn hơn có thể làm cho người ta băn khoăn, khổ sở hơn. Do đó,

nâng cao chất lượng của các lựa chọn quan trọng hơn việc gia tăng số lượng các

lựa chọn. Trong đó, con người càng có năng lực thì cơ hội lựa chọn càng nhiều

và khả năng thực hiện cơ hội càng cao. A. Sen đã đưa ra 5 loại quyền tự do của

con người: Các quyền tự do về chính trị; các quyền tự do về kinh tế; các cơ hội

về mặt xã hội; các đảm bảo về tính minh bạch, công khai; con người được bảo vệ

an toàn. Tất cả các quyền tự do này đều góp phần tăng cường năng lực con

người. Có thể nói, PTCN là làm cho khả năng của mỗi con người được phát huy

đầy đủ, tạo điều kiện cho mỗi con người có thể tìm ra một cuộc sống lao động,

sáng tạo phù hợp với nhu cầu và mong muốn của chính bản thân. Việc mở rộng

thang lựa chọn để mỗi con người có khả năng sống cuộc sống có giá trị đối với

bản thân mới là phát triển.

Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc đã xây dựng một khái niệm

mới về PTCN khá chi tiết, trong đó, con người được coi là thước đo đánh giá

sự tiến bộ xã hội, là mục tiêu tối thượng mà mỗi quốc gia, cộng đồng hướng

tới. PTCN là mở rộng quyền tự do của con người, tạo điều kiện cho mỗi cá

nhân được chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, xã hội, phát huy mọi năng

lực của mình. Để nâng cao năng lực cần tạo điều kiện để con người bình đẳng

Page 63: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

58

hơn về cơ hội và hưởng lợi công bằng thành quả của sự tham gia đó. PTCN là

một quá trình do người dân thực hiện theo nguyên tắc PTCN là sự nghiệp của

con người, do con người và vì con người, trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ

đạo cho sự phát triển bền vững. Quan điểm của UNDP về PTCN đã được lượng

hóa bằng các chỉ số HDI với ba chỉ số quan trọng: thu nhập bình quân đầu

người, tuổi thọ và giáo dục. Đây là ba chỉ số đặc trưng cho các phương diện cơ

bản của con người. Khái niệm PTCN của UNDP chẳng những không mâu

thuẫn mà tựa hồ đang dựa trên tinh thần cơ bản của triết học Mác về PTCN.

PTCN đã trở thành tư tưởng của thời đại, thành công cụ cơ bản để các quốc gia

hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mình.

Có thể thấy, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, các quan điểm về

PTCN trong lịch sử triết học có những điểm khác nhau. Nhìn chung, các quan

điểm đều coi PTCN là sự nâng cao địa vị của con người trong các lĩnh vực kinh

tế, xã hội, chính trị, văn hóa; là giải phóng con người khỏi quan hệ bất công và

bất bình đẳng. Cùng với các giá trị khác như tự do, dân chủ thì CBXH được coi

là giá trị cốt lõi định hướng cho sự PTCN.

Từ toàn bộ quan điểm của triết học Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm hiện đại về PTCN tác giả luận

án rút ra một số kết luận như sau:

Thứ nhất, PTCN được hiểu là làm tăng giá trị của con người trên các mặt

tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế, kỹ thuật, nghệ thuật, tri thức, tình cảm xã

hội, pháp lý, v.v.. Sự gia tăng ở đây không hiểu đơn thuần là sự thêm vào số

lượng các tiêu chí, mà là sự biến đổi số lượng và chất lượng con người trên các

mặt, theo các tiêu chí ngày một rộng khắp hơn, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, với

trình độ, mức độ, quy mô ngày một to lớn hơn trong xã hội để đáp ứng yêu cầu

của thời đại.

Thứ hai, cùng với việc gia tăng các giá trị trong con người, PTCN là nâng

cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực là những khả năng của

chủ thể hoạt động được sử dụng để đáp ứng những đòi hỏi của công việc cũng

như cuộc sống đặt ra. Khi nói đến năng lực phải nói đến từng con người cụ thể,

đó là người đã trưởng thành về mặt xã hội, là một cá nhân, một chủ thể mang

nhân cách. Con người có năng lực mới có khả năng tham gia đầy đủ vào cuộc

sống, mới có thể tiến hành các hoạt động năng suất và sáng tạo. Nâng cao năng

Page 64: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

59

lực của con người là làm cho mỗi con người ngày càng có thể lực tốt, có trí lực

tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, có thể thực hiện được các chức năng xã hội mà

con người phải đảm nhận.

Thứ ba, PTCN phải hướng tới sự phát triển mang tính chất toàn diện. Tính

toàn diện trước hết là hướng tới sự hoàn thiện trên cả ba phương diện cấu thành

nên con người: thể lực, trí lực và tâm lực. Thể lực đóng vai trò nền tảng ban đầu

cho sự PTCN, còn trí lực và tâm lực là yếu tố đóng vai trò cơ bản và quyết định

nhất đối với chất lượng con người. Để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện,

PTCN phải được xem xét một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… trong mối liên hệ và tác

động qua lại giữa các yếu tố này.

Thứ tư, PTCN không chỉ được hiểu là sự phát triển các mặt của cá nhân

con người, mà còn phải được hiểu là sự phát triển các mặt đó ở những tầng

lớp người, cộng đồng người, những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó,

cần chú ý đến những nhóm người yếu thế, những lớp người dễ bị tổn thương

như: người nghèo, người tàn tật, người dân tộc thiểu số, cư dân vùng miền

núi, hải đảo…, tạo điều kiện để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của đời sống

như: ăn, ở mặc, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục cơ bản để họ có thể hòa

nhập vào cộng đồng xã hội một cách tự giác và bình đẳng với các lớp người

khác trong xã hội. Mặt khác, phải quan tâm, chăm lo PTCN ngay từ những

năm đầu đời. Điều này đỏi hỏi phải hướng tới việc tạo ra sự công bằng về cơ

hội phát triển cho tất cả mọi người, đồng thời cần quan tâm đến việc phân bổ

nguồn lực công bằng hơn trong toàn bộ dân cư.

Tóm lại, phát triển con người là kết quả vận động và phát triển xã hội bị

quy định bởi tổng hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt lõi là các quan hệ xã hội

công bằng làm định hướng chung của các giá trị của xã hội trong những điều

kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của các xã hội cụ thể. Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ

các điều kiện để con người trở thành chủ thể toàn vẹn trong chỉnh thể phong phú

của năng lực thể chất và năng lực tinh thần, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

sự phát triển xã hội hiện đại.

Để đánh giá sự PTCN thực ra phải cần rất nhiều tiêu chí, bởi sự PTCN là

sự phát triển, nâng cao về mọi mặt của đời sống con người, nó do nhiều yếu tố

Page 65: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

60

tác động. Trong phạm vi luận án, nội dung của khái niệm PTCN được tác giả

xem xét trên ba mặt cơ bản làm nên con người phát triển toàn diện: thể lực, trí

lực và tâm lực. PTCN ở Việt Nam hiện nay chính là làm cho ba mặt đó trong

con người có điều kiện được nảy sinh, được hình thành, được thể hiện và không

ngừng phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự phát triển các mặt đó trong con

người Việt Nam hiện nay một mặt phải trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực

của con người Việt Nam truyền thống, đồng thời, phải phù hợp với yêu cầu

chung của thời đại. Cụ thể:

Sự phát triển về mặt thể lực thể hiện ở cân nặng, chiều cao, sức khỏe và

tuổi thọ. Trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi con người phải có sức bền và sức dẻo

dai của cơ bắp, khả năng lao động và làm việc ở nhịp độ cao, chịu áp lực tốt, linh

hoạt, nhanh nhạy, có tâm sinh lý tốt. Do đó, cần phải tạo điều kiện để nâng cao

về chiều cao, cân nặng, sức mạnh cơ bắp và sức mạnh tinh thần. Điều này liên

quan đến việc phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập; xóa đói, giảm nghèo; cải

thiện môi trường sống; nâng cao điều kiện dinh dưỡng; tăng cường các hoạt

động lành mạnh (văn hóa, giải trí, thể dục thể thao); chăm lo công tác y tế, chăm

sóc sức khỏe người dân.

Sự PTCN về mặt trí lực thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn,

khả năng nhận thức, hiểu biết, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động, tư duy

sáng tạo... Ở phương diện này, chúng ta cần phải không ngừng đẩy mạnh các

hoạt động giáo dục, đào tạo, tạo điều kiện để mỗi người dân đều có cơ hội học

tập, nâng cao học vấn, kiến thức.

Sự PTCN về mặt tâm lực thể hiện thông qua lý tưởng, niềm tin, đạo đức,

lối sống, ý chí vươn lên trong cuộc sống, ý thức trách nhiệm với bản thân và

cộng đồng, quan điểm và hành vi pháp luật, quan điểm và hành vi thẩm mỹ... Sự

phát triển tâm lực của con người liên quan đến các yếu tố văn hóa, chính trị: xây

dựng một nền chính trị ổn định, môi trường sống lành mạnh; xây dựng các chuẩn

mực và giá trị đạo đức mới phù hợp với xã hội hiện đại; vấn đề thông tin và

truyền thông...

Như vậy, PTCN là sự gia tăng các giá trị trong con người trên cả ba mặt:

thể lực, trí lực và tâm lực. Sự PTCN không chỉ đơn thuần là sự phát triển tự thân

mà còn chịu tác động của nhiều nhân tố, có những nhân tố trực tiếp, có những

Page 66: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

61

nhân tố tiếp, có những nhân tố bên trong, có những nhân tố bên ngoài, có những

nhân tố của quá khứ, cũng có nhân tố của thực tại. Trong đó, kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội là những thành tố cơ bản tác động trực tiếp đến sự PTCN. PTCN

như đã nói đến ở trên không phải chỉ là sự phát triển các mặt của cá nhân con

người, mà là sự phát triển các mặt đó ở những tầng lớp người, cộng đồng người,

những lứa tuổi, những giới tính người. Do đó, thực hiện CBXH là một trong

những yêu cầu quan trọng hàng đầu để đảm bảo cho mọi người dân của của quốc

gia đó đều có cơ hội và điều kiện để phát triển, cũng như được được hưởng thụ

những thành quả của quá trình phát triển đất nước.

2.3. VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT

TRIỂN CON NGƯỜI

Được sống đầy đủ về vật chất, tinh thần và được đối xử công bằng là khát

vọng từ xa xưa đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử loài người. Con người

phải đấu tranh không ngừng với thiên nhiên, với mọi chế độ áp bức, bóc lột, hy

sinh bao nhiêu xương máu cũng vì mục đích cao cả nhưng rất thiết thực, bình dị

đó. Lịch sử đã chứng minh, chỉ sống trong một xã hội công bằng thực sự con

người mới có thể phát triển theo đúng nghĩa của bản chất người. Ngày nay, mỗi

con người vẫn không ngừng đấu tranh để vươn tới một xã hội ngày càng công

bằng hơn. Thực hiện CBXH đối với việc PTCN không chỉ là tất yếu về mặt lý

luận, mà trên thực tế còn là một vấn đề thực sự cấp bách đối với thực tiễn PTCN ở

Việt Nam hiện nay. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng

kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã

hội vì mục tiêu phát triển con người” [42, tr.77-78]; “Chính sách xã hội đúng đắn,

công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của

nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [43, tr.79].

Trên cơ sở các khái niệm “công bằng xã hội”, “thực hiện công bằng xã

hội”, “phát triển con người” có thể hiểu, thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt

Nam hiện nay là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực

lượng, tổ chức xã hội và người dân Việt Nam theo chức năng, vị trí, vai trò của

mình làm cho những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong

đời sống xã hội chủ yếu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, từ

Page 67: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

62

đó tạo động lực, cơ hội và điều kiện cho sự phát triển con người, đáp ứng yêu

cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.

Ở nước ta, tính chất của phương thức sản xuất là thời kỳ quá độ đi lên

CNXH, chúng ta đang tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, do đó, cần xác định chủ thể, phương thức, nội dung thực hiện CBXH

cho phù hợp.

Chủ thể chính thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng cộng

sản Việt Nam; Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các tổ chức chính

trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các giai cấp, các

tầng lớp xã hội và các cá nhân, người lao động...

Phương thức thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay:

- Đảng cộng sản Việt Nam xác định quan điểm, hoạch định các chủ

trương, chiến lược, mục tiêu, định hướng về thực hiện CBXH và lãnh đạo, chỉ

đạo tổ chức thực hiện.

- Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam triển khai thực hiện quan

điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về CBXH của Đảng bằng các chính

sách cụ thể của mình. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, giám sát việc thực

hiện CBXH trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời, bằng những công

cụ của mình để hạn chế những bất công, bất bình đẳng xã hội.

- Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản xuất

kinh doanh, các giai cấp, các tầng lớp xã hội và các các nhân, người lao động...

tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để thực hiện

các nội dung của CBXH trong các lĩnh vực cụ thể.

Xét ở mục tiêu phát triển là cho con người và vì con người, bởi vậy, nền

tảng cho việc thực hiện CBXH chính ở vai trò chủ thể của mỗi cá nhân con

người trong xã hội. Song, để đảm bảo thực hiện CBXH trong điều kiện ở nước ta

hiện nay thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng thông qua sự lãnh

đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự

hợp tác phối kết hợp nhịp nhàng của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức

kinh tế, các giai cấp, các tầng lớp xã hội và cá nhân trên cơ sở của sự đồng thuận

của toàn xã hội.

Page 68: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

63

Vai trò của thực hiện CBXH với việc PTCN có thể khái quát ở những nội

dung cơ bản sau: đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự PTCN; tạo cơ hội và điều

kiện cho sự PTCN về thể lực, trí lực và tâm lực; tạo môi trường chính trị - xã hội

ổn định cho sự PTCN.

2.3.1. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo điều kiện kinh tế cho sự

phát triển con người

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của kinh tế là giải

quyết mối quan hệ lợi ích giữa người với người trong sản xuất nhằm giải phóng,

phát triển sức sản xuất. Kinh tế là tính thứ nhất, là cái quyết định các quan hệ

khác. Do đó, phát triển kinh tế có vai trò quan trọng đối với PTCN.

Trước hết, tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện cần thiết đầu tiên để

khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu; để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc

sống cho con người. Tăng trưởng, phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để con

người tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao mức sống của

người dân.

Ở những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, GDP bình quân đầu

người ổn định ở mức cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể

lực, trí lực và tâm lực. Bởi vì, khi trình độ kinh tế phát triển cao con người có

điều kiện vật chất để cải thiện đời sống; đầu tư để phát triển thể lực, trí lực và

tâm lực; nhà nước mới có điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề:

giáo dục, y tế, văn hóa, thực hiện các chính sách xã hội. Sự phát triển kinh tế là

nền tảng vật chất để nhà nước giải quyết vấn đề con người nói chung và nguồn

lực con người nói riêng. Đến lượt nó, sự phát triển của nguồn lực con người lại

là điều kiện để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Ngược lại, nhân tố

kinh tế cũng là lực cản đối với sự phát triển của con người khi nền kinh tế trì trệ,

chậm phát triển, con người không có đủ những điều kiện vật chất để phát triển

toàn diện; hoặc khi mục tiêu phát triển kinh tế không phải vì con người và cho

con người.

Để phát triển kinh tế cần đến nhiều yếu tố, trong đó thực hiện CBXH đóng

vai trò như là động lực để phát triển kinh tế. Điều này có thể giải thích như sau:

Theo từ điển tiếng Việt, động lực là cái thúc đẩy, làm cho phát triển. Động

lực được hình thành bởi nhu cầu và lợi ích. Nhu cầu được hiểu là những đòi hỏi

Page 69: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

64

của cá nhân, các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có những

điều kiện nhất định để tồn tại. Trong chuỗi nhân quả quy định hoạt động của con

người: hoàn cảnh bên ngoài - nhu cầu - lợi ích - mục đích (động cơ tư tưởng) -

hoạt động của con người - kết quả (làm thay đổi hoàn cảnh bên ngoài), nhu cầu

là khâu trung gian đầu tiên phản ánh và chuyển hóa những yêu cầu khách quan

bên ngoài thành động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy con người hành động. Nếu

nhu cầu không được thỏa mãn thì nhu cầu vẫn chỉ là nhu cầu. Nếu nhu cầu được

thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu sẽ đạt tới lợi ích. Lợi ích xét về mặt bản chất “chính

là một quan hệ - quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ

thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn nhu

cầu, đáp ứng lại nhu cầu” [136, tr.35]. Nhu cầu là cơ sở của lợi ích còn lợi ích là

sự thể hiện của nhu cầu.

Trong hoạt động, khi nhu cầu xuất hiện con người thường hướng vào việc

tìm kiếm cái thỏa mãn nhu cầu tức lợi ích. Khi “lợi ích ấy đã xuất hiện và đã

được tìm thấy, đã được nhận thức, thì nó trở thành mục tiêu hành động của con

người” [136, tr.37], thúc đẩy con người hành động nhằm giành lấy lợi ích để thỏa

mãn nhu cầu. Như vậy, lợi ích chính là một trong những động lực cực kỳ quan

trọng thúc đẩy con người hành động. Nó khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực

của con người và thông qua tính tích cực ấy mà thúc đẩy quá trình phát triển

kinh tế - xã hội.

Xã hội không chỉ đơn thuần là kết quả hoạt động riêng lẻ của mỗi cá nhân,

mà là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Do đó, lợi ích của

mỗi cá nhân bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ với lợi ích của các cá nhân

khác trong xã hội. Lợi ích của các cá nhân là không giống nhau. Vấn đề đặt ra,

cần phải tìm ra một công cụ để điều hòa giữa lợi ích riêng của các cá nhân trong

hoạt động chung của xã hội.

Thực chất của CBXH là giải quyết trên phương diện lợi ích. Thực hiện

CBXH đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa các thành viên trong xã hội theo

nguyên tắc phân phối lợi ích phù hợp giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và

hưởng thụ, giữa thưởng và phạt... Thực hiện CBXH đảm bảo mỗi cố gắng, mỗi

đóng góp đều được đánh giá một cách thỏa đáng, đảm bảo sự hài hòa giữa những

lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi lợi ích của người lao động được đảm bảo sẽ

Page 70: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

65

kích thích tính năng động, sáng tạo của họ. Có CBXH, người lao động mới phát

huy hết nhiệt tình và khả năng lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao

động để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất lượng cao, thúc đẩy kinh tế

phát triển. Kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống của người lao động

(đời sống vật chất và lẫn đời sống tinh thần). Mặt khác, để nâng cao năng suất,

người lao động không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, tích cực học tập nâng cao tay

nghề, kỹ năng. Thông quá đó, bản thân người lao động cũng không ngừng phát

triển. Do đó, để phát huy được vai trò động lực của CBXH trước hết đòi hỏi phải

đảm bảo thực hiện CBXH trong phân phối (gọi tắt là thực hiện công bằng trong

phân phối). Vậy thế nào là CBXH trong phân phối?

Theo tác giả luận án, thực hiện CBXH trong phân phối có nghĩa là sự đối

xử ngang nhau giữa các chủ thể kinh tế (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cộng

đồng) trong việc phân chia, phân bổ đầu vào và đầu ra các nguồn lực kinh tế

trong xã hội trên cơ sở những quy định pháp luật chung của nhà nước.

Đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (tư liệu sản xuất): đất đai, tài

nguyên thiên nhiên, vốn, sự hỗ trợ từ chính sách..., thực hiện công bằng trong

phân phối có nghĩa là, các TLSX chủ yếu của xã hội do Nhà nước quản lý được

phân bổ cho mọi chủ thể kinh tế trong xã hội dựa trên hiệu quả sử dụng chúng.

Hiệu quả ở đây trước hết được hiểu là hiệu quả kinh tế - tức là lợi ích kinh tế mà

chủ thể kinh tế đó mang lại cho xã hội và bản thân. Sự đóng góp này dựa trên tỷ

lệ giữa đóng góp cho tổng sản phẩm quốc nội và những nguồn lực mà chủ thể

kinh tế đó được hưởng từ xã hội trong tương quan với các chủ thể kinh tế khác.

Điều đó có nghĩa, ai sử dụng TLSX có hiệu quả hơn, người đó sẽ được phân phối

nhiều TLSX hơn. Việc phân phối TLSX dựa trên hiệu quả kinh tế của việc sử

dụng nguồn TLSX sẽ buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng nâng cao hiệu

quả sử dụng những TLSX được phân phối cũng như khai thác tối đa tiềm năng

của chúng để vừa đóng góp vào sự phát triển của xã hội, vừa được hưởng thành

quả của sự phát triển ấy tương xứng với đóng góp của mình. Đồng thời, phân

phối TLSX dựa trên hiệu quả kinh tế giúp các chủ thể kinh tế có cơ hội tiếp cận

bình đẳng hơn với các nguồn lực để phát triển. Mọi chủ thể đều có cơ hội như

nhau trong việc tham gia vào thị trường, tiếp cận nguồn lực, lựa chọn lĩnh vực

đầu tư. Các chủ thể hấp thụ một hay nhiều nguồn lực, sử dụng như thế nào tùy

thuộc vào khả năng riêng.

Page 71: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

66

Nguyên tắc phân phối dựa trên hiệu quả kinh tế là công bằng, vì nó đã

đảm bảo sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, làm lành mạnh hóa môi

trường sản xuất kinh doanh, kích thích các chủ thể kinh tế không ngừng suy nghĩ

để sử dụng một cách hiệu quả nhất TLSX để phát triển sản xuất, đồng thời, hạn

chế sự lạm dụng đặc quyền, đặc lợi để lạm dụng nguồn lực phát triển của xã hội.

Tuy nhiên, cần lưu ý, thực hiện công bằng trong phân phối TLSX bên cạnh

hiệu quả kinh tế còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là tất cả

những đóng góp phi vật chất, những cái thuộc về văn hóa, chính trị, xã hội mà chủ

thể kinh tế mang lại cho xã hội. Kinh tế phát triển nhưng lại làm nảy sinh các vấn

đề xã hội như: mất việc làm, phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội không đảm bảo,

môi trường hủy diệt... thì kết quả của sự phân phối đó chưa phải là công bằng,

thậm chí là sự bất công. Mặt khác, với các chủ thể kinh tế có xuất phát điểm bất

lợi hơn thì nhất thiết phải có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn vốn. Ở đây,

nhà nước phải thực hiện điều phối các nguồn lực một cách hợp lý để những khu

vực ít có điều kiện thuận lợi vẫn có thể có được cơ hội phát triển tốt hơn, khắc

phục và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu tại các khu vực đó, đảm bảo cho mọi khu vực

đều được hưởng thụ những cơ hội cũng như thành quả của sự phát triển chung.

Bởi lẽ, nguồn TLSX là của toàn xã hội, điều này đòi hỏi việc sử dụng toàn bộ tài

sản của xã hội phải nhằm phục vụ lợi ích của toàn xã hội, góp phần ổn định và

phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự PTCN.

Việc phân phối công bằng kết quả sản xuất cũng không phải là điều đơn

giản, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kinh tế, xã hội, pháp lý... Điều này phản

ánh tương quan giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Theo

C.Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc trưng cho

nó. Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không có phương

thức phân phối chung cho mọi thời đại cũng như không có khái niệm công bằng

chung chung. Xét trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay, phát triển nền kinh

tế thị trường định hướng XHCN tồn tại nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình

thức sở hữu, vì vậy, cần xác định nguyên tắc phân phối cho phù hợp. Ở nước ta

hiện nay, phân phối theo lao động vẫn luôn được xác định là nguyên tắc phân

phối chủ đạo. Tiêu chí để tiến hành phân phối theo lao động là kết quả lao động,

hiệu quả kinh tế, tức là phân phối phải căn cứ vào cả mặt số lượng lẫn mặt chất

Page 72: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

67

lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người

làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không

hưởng. Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với

xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ, nó không chỉ đảm bảo công bằng mà

còn tạo động lực thúc đẩy người lao động hăng say lao động sản xuất, không

ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề, trình độ văn

hóa kỹ thuật. Thêm vào đó, nó còn góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và

kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao

động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động. Nhờ đó,

góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đời sống vật

chất và tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao, vừa đảm bảo

tái sản xuất lao động, vừa tạo điều kiện cho mọi người phát triển toàn diện. Để

thực hiện chế độ phân phối theo lao động một cách đúng đắn nhà nước cần phải

có các chính sách về giá cả, thuế, tiền lương một cách thích hợp.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, cùng

với hình thức phân phối theo lao động là chủ yếu, phân phối theo mức đóng góp

vốn và tài sản vào sản xuất là một đòi hỏi tất yếu và cũng là một nguyên tắc phân

phối cơ bản. Người sở hữu vốn và tài sản có đóng góp vào quá trình sản xuất

phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy mới huy

động được mọi nguồn vốn trong xã hội để phát triển sản xuất. Điều này không

chỉ tạo lợi nhuận cho chính bản thân họ mà còn góp phần phát triển kinh tế đất

nước, tạo thêm việc làm cho người lao động.

Phân phối thông qua phúc lợi xã hội và an sinh xã hội cũng là một nguyên

tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong xã hội nào

cũng phải tái sản xuất và giải quyết các vấn đề xã hội chung (như khắc phục

thiên tai, dịch bệnh...), hơn nữa xã hội nào cũng có những người không có khả

năng lao động, hết khả năng lao động và không có vốn mà xã hội vẫn cần phải

bảo đảm đời sống cho họ. Mặt khác, tiêu dùng cá nhân không chỉ dựa vào thu

nhập theo hai nguyên tắc phân phối nói trên, mà vẫn cần nhận được những khoản

thu nhập hoặc dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hóa... Sự phân phối này

có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó đảm bảo cho các thành viên trong xã hội có

mức sống bình thường tối thiểu, góp phần nâng cao thêm mức sống toàn dân,

Page 73: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

68

đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn; làm giảm

chênh lệch qua lớn về thu nhập, về mức sống giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội;

xóa bỏ dần sự khác biệt giữa các vùng miền, giữa các loại hình lao động khác

nhau trong xã hội. Hình thức phân phối này góp phần phát huy tính tích cực lao

động của mọi thành viên trong xã hội, kích thích lao động sản xuất, phát triển

kinh tế - xã hội. Thông qua việc đảm bảo an toàn cho đời sống của con người

trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng, phân phối qua an sinh xã hội tạo môi

trường xã hội ổn định và thông qua sự ổn định xã hội đó sẽ góp phần tăng trưởng

kinh tế. Phân phối qua an sinh xã hội còn giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ

trách nhiệm xã hội, giáo dục ý thức cộng đồng, tạo ra sự đồng thuận trong xã

hội. Với ý nghĩa như trên, việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội và an sinh xã

hội là việc làm cần thiết góp phần khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi

tập thể và cả cộng đồng, tạo động b lực cho sự phát triển toàn diện của mọi

thành viên trong xã hội.

Như vậy, thực hiện CBXH, cụ thể hơn là thực hiện công bằng trong phân

phối sẽ làm cho mọi thành viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được

tôn trọng, được đền bù hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp

phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước, một trong những điều kiện quan

trọng hàng đầu cho PTCN.

2.3.2. Thực hiện công bằng xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát

triển con người về thể lực, trí lực và tâm lực

Phát triển con người là sự gia tăng các giá trị trong con người trên các

mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi con người sinh ra đều có những khả năng và

năng lực nhất định, nhưng nó thường tồn tại dưới dạng tiềm năng. PTCN có

nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người để con người có thể làm

việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất; là hướng vào việc tạo ra cho

con người có cơ hội tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội). Để biến điều đó thành hiện thực cần phải có những điều

kiện cần thiết về tự nhiên, xã hội, đặc biệt là các nhân tố thuộc về xã hội. CBXH

liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực hiện CBXH tạo

điều kiện cho mọi người có cơ hội tiếp cận với các điều kiện cần thiết cho sự

phát triển của mình để có thể phát huy khả năng vốn có của mình cống hiến cho

xã hội và nhận được kết quả tương xứng với những cống hiến ấy.

Page 74: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

69

Công bằng về cơ hội là quyền của mọi người được tiếp cận ngang nhau với

một cơ hội nào đó bất kỳ và tạo cơ hội phù hợp cho mỗi chủ thể để chủ thể đó có

thể phát huy khả năng vốn có của mình cống hiến cho xã hội và được hưởng thụ

tương xứng với những cống hiến ấy. Để đảm bảo thực hiện CBXH, việc tạo ra bình

đẳng về cơ hội cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục cho tất cả mọi người,

mọi lứa tuổi, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khi được bình đẳng

trong việc tiếp cận cơ hội, con người với cố gắng và năng lực của mình có thể đạt

đến một mức sống cao hơn. Mặt khác, thực hiện bình đẳng về cơ hội phát triển cũng

chính là để đảm bảo thực hiện CBXH trong phân phối. Bởi bình đẳng về cơ hội

giúp xã hội có thể lượng hóa được sự cống hiến của các chủ thể theo tỷ lệ đóng góp

trên những ưu đãi mà họ nhận được. Nhà nước phải đóng vai trò tạo lập sân chơi

bình đẳng thông qua việc sử dụng các công cụ đặc biệt của mình như: chính sách,

luật, cơ chế...

Cùng với việc tạo ra bình đẳng về cơ hội cần “tạo điều kiện cho mọi người

đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [37, tr.113]. Năng lực

của con người được coi là tiền đề cần thiết để chuyển những cơ hội thành hiện thực.

Nâng cao năng lực cho con người ở đây trước hết là năng lực về sinh thể và năng

lực về tinh thần (năng lực sinh thể là nâng cao sức khỏe cho con người; năng lực

tinh thần là nâng cao kiến thức, kỹ năng cho con người). Còn điều kiện để mọi

người có thể phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình bao gồm các điều kiện về

kinh tế, văn hóa, xã hội. Cụ thể:

Thực hiện CBXH trong lĩnh vực kinh tế là tạo điều kiện cho mọi chủ thể

kinh tế bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực phát triển (nguồn lực tự nhiên: đất

đai, tài nguyên...; nguồn lực xã hội: vốn, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ,

chính sách...). Điều này có nghĩa là, mọi chủ thể kinh tế trong xã hội không

phân biệt thành phần, loại hình sản xuất kinh doanh đều có cơ hội ngang nhau

khi tiếp cận các nguồn lực để phát triển. Các chủ thể tùy theo khả năng, năng

lực của mình mà lựa chọn cách thức, mức độ tiếp cận cho phù hợp để đạt được

hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ đó sẽ khuyến khích mọi người làm giàu hợp

pháp, phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, văn hóa nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần. Đối với từng lĩnh vực cụ thể thực hiện CBXH sẽ có những nội dung

và yêu cầu khác nhau.

Page 75: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

70

Thực hiện CBXH trong giáo dục là phải đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng về

cơ hội học tập cho mọi người dân trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội của đất nước. Điều đó có nghĩa là, Nhà nước phải đảm bảo cho mọi người

dân được học tập đạt trình độ phổ cập theo quy định của mỗi quốc gia; phải đảm

bảo khả năng tiếp cận chuẩn tối thiểu về giáo dục cho tất cả mọi người không

phân biệt nhóm xã hội hay địa bàn sinh sống. Đồng thời, Nhà nước cũng khuyến

khích việc thực hiện các hoạt động giáo dục ở mức cao hơn chuẩn cho các nhóm

có điều kiện trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Cùng với đó, tạo nhiều cơ

hội học tập khác nhau để mọi người dân đều được học tập, phát huy năng lực, sở

trường của mình; giúp đỡ để người nghèo được học tập, bảo đảm điều kiện để

người giỏi phát triển được tài năng. Thực hiện công bằng trong giáo dục tạo điều

kiện cho mọi người có cơ hội được học tập, nâng cao tri thức, có khả năng lao

động với năng suất cao, đem lại thu nhập tốt và đóng góp vào sự phát triển

chung của xã hội.

Thực hiện CBXH trong y tế là đảm bảo cho mọi người dân đều được

chăm sóc sức khỏe, đều được dễ dàng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe và

mọi người có bệnh như nhau sẽ được chăm sóc y tế như nhau. Tạo điều kiện

thuận lợi cho mọi người dân được được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe

với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Những người nghèo hơn, sống ở vùng khó khăn hơn, các đối tượng chính

sách, thiệt thòi thì nhận được sự hỗ trợ và bao cấp của Nhà nước nhiều hơn.

Công bằng trong y tế tạo cho mọi người có sức khỏe tốt. Mà vấn đề sức khỏe có

liên quan đến năng lực tư duy và tinh thần sáng suốt của mỗi cá nhân trong suy

nghĩ và hành động.

Thực hiện CBXH trong lĩnh vực văn hóa tạo điều kiện cho các thành viên

trong xã hội có quyền ngang nhau về hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, có

cơ hội bình đẳng để nắm bắt các thông tin xã hội; mọi thành viên trong xã hội

đều có cơ hội phát triển về văn hóa, tinh thần; khuyến khích và tạo điều kiện

thuận lợi cho những tài năng phát triển. Thực hiện công bằng trong lĩnh vực văn

hóa tạo điều kiện cho con người phát triển về tâm lực.

Có thể thấy, CBXH liên quan tới tất cả các mặt của đời sống con người,

do đó, quá trình thực hiện CBXH tác động tới nhiều mặt của đời sống con người.

Page 76: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

71

Thực hiện CBXH tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận bình đẳng với các điều kiện

phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi người

đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình.

2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn

định cho sự phát triển con người

Chính trị hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động của con người nhằm làm ra,

gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực

tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh

những luật lệ chung đó.

Với cách hiểu như thế thì trong bất cứ xã hội nào, chính trị có vai trò đặc

biệt quan trọng trong đời sống xã hội và sự phát triển của con người. Một nền

chính trị ổn định là điều kiện tốt nhất để con người phát triển. Có ổn định chính trị

thì đời sống xã hội mới ổn định, con người mới yên tâm phát triển sản xuất, lao

động và sáng tạo, đời sống tâm lý của con người mới ổn định. Con người không

thể sống yên ổn và phát triển tốt trong một xã hội mà tình trạng an ninh không

đảm bảo (cướp bóc, khủng bố) do thiếu luật lệ; quyền lợi, tài sản của con người bị

xâm phạm; hoặc tình trạng chính trị bất ổn, tính mạng, sức khỏe con người luôn bị

đe dọa.

Lịch sử đã chứng minh, chính những bất công trong xã hội là nguy cơ gây ra

bất ổn chính trị, rối ren xã hội, dẫn đến các cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản

luôn tự hào cho rằng xã hội tư bản là công bằng. Đặc biệt, ngày nay, chủ nghĩa tư

bản đã có những điều chỉnh phù hợp với sự phát triển chung, đã áp dụng nhiều biện

pháp để xoa dịu những mâu thuẫn luôn thường trực trong lòng nó và trong một

chừng mực nhất định đã tạo ra sự biến đổi nhất định theo chiều hướng tiến bộ xã

hội. Trong các công ty cổ phần không chỉ các nhà tư bản mà những người công

nhân cũng có cổ phần. Tuy nhiên, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản thực

chất nhằm mục đích ổn định xã hội, duy trì vị trí cầm quyền và bảo vệ lợi ích của

giai cấp tư sản. Bởi lẽ, chính các nhà tư bản cũng ý thức được rằng, những áp lực

ngày càng tăng về CBXH nếu không được xoa dịu có thể làm tổn hại đến thể chế

chính trị của nó.

Công bằng xã hội là nguyên tắc và đòi hỏi tối quan trọng trong việc xác lập

mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân

Page 77: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

72

trong đời sống chính trị - xã hội cũng như các quyền tự do cơ bản của công dân.

Chỉ sống trong một xã hội công bằng con người mới bộc lộ hết được chính mình,

mới có thể tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tạo, tự do tham gia thảo luận, quyết

định những vấn đề chung của tập thể và có thể đảm bảo các quyền và cơ hội phát

triển của mỗi cá nhân trong tập thể, cộng đồng và xã hội. Thông qua đó, với tư

cách là chủ thể của mọi hành động, con người không ngừng hoàn thiện và phát

triển bản thân.

Đồng thời, thực hiện CBXH đảm bảo việc tuân thủ nguyên tắc quản lý xã

hội bằng pháp luật. Thực hiện CBXH là một đòi hỏi cấp bách của tiến trình xây

dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Thực hiện CBXH là đảm

bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, mọi công dân bình đẳng trước pháp

luật. Nhà nước phải tạo điều kiện để mọi công dân được tham gia vào các công

việc của nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật; được kiểm tra, giám

sát hoạt động của các cơ quan công quyền và các công chức nhà nước theo quy

định.... Với ý nghĩa đó, thực hiện CBXH tạo môi trường để con người thoải mái

cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.

Kết luận chương 2

Trong lịch sử tư tưởng triết học ở cả phương Đông và phương Tây có rất nhiều

cách tiếp cận và lý giải khác nhau về vấn đề CBXH, đi cùng với nó là vấn đề thực hiện

CBXH. Việc đặt ra và giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện

lịch sử mà còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức và khả năng thực hiện của con người

từng thời kỳ. Đứng trên lập trường duy vật của học thuyết Mác, kế thừa tư tưởng Hồ Chí

Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH có thể hiểu,

công bằng xã hội là một giá trị nhằm định hướng cho sự phát triển con người được hình

thành trên cơ sở của bình đẳng giữa những con người về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống

hiến và hưởng thụ, giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển… trên

mọi phương diện của đời sống xã hội, phù hợp với điều kiện hiện thực của xã hội. Còn

thực hiện CBXH là những hoạt động cụ thể của toàn bộ hệ thống chính trị, các lực

lượng, tổ chức xã hội và người dân theo chức năng, vị trí, vai trò của mình làm cho

những nội dung của công bằng xã hội trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.

Page 78: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

73

Cũng giống như CBXH, phát triển ngày càng toàn diện con người là mục tiêu

và lý tưởng cao cả của nhân loại. Song, tùy theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử,

cũng như xuất phát từ địa vị xã hội và lập trường tư tưởng khác nhau, các nhà tư

tưởng trong lịch sử triết học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về PTCN. Chủ

nghĩa Mác - Lênin ra đời thực sự là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con

người, đặc biệt là những luận điểm về giải phóng và phát triển tự do của con người.

Lần đầu tiên, con người được coi là điểm xuất phát và sự giải phóng, phát triển toàn

diện của con người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới. Lý luận của chủ

nghĩa Mác nói chung, lý luận về con PTCN nói riêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh

và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Phát triển con người là kết quả vận động và phát triển xã hội bị quy định bởi tổng

hòa các quan hệ xã hội, trong đó cốt lõi là các quan hệ xã hội công bằng làm định

hướng chung của các giá trị của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội - văn

hóa của các xã hội cụ thể. Trên cơ sở đó, hội tụ đầy đủ các điều kiện để con người

trở thành chủ thể toàn vẹn trong chỉnh thể phong phú của năng lực thể chất và năng

lực tinh thần, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội hiện đại.

Con người chỉ có thể hoàn thiện và phát triển tốt nhất trong một xã hội

đảm bảo: công bằng, dân chủ, tự do, trong đó, CBXH là yếu tố quan trọng hàng

đầu. CBXH là khát vọng, mục tiêu phấn đấu của toàn thể loài người. Thực hiện

CBXH là động lực, là điều kiện và là môi trường cho sự PTCN.

Page 79: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

74

Chương 3

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON

NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ

3.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối đảm bảo

điều kiện kinh tế cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay

Tháng 12 năm1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã

tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN. Đảng ta đã xác định, thực hiện CBXH là một điều kiện cơ

bản để tạo động lực cho sự phát triển đất nước, PTCN. Trên cơ sở quan điểm của

chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc phân phối công

bằng, Đảng và Nhà nước ta vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước nhằm

xóa bỏ bất công, phát triển kinh tế, để đi tới mục tiêu PTCN toàn diện.

3.1.1.1. Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất thúc đẩy

kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân

Sang thời kỳ đổi mới, với việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó

chế độ công hữu về TLSX giữ vai trò chủ đạo, các TLSX chủ yếu của xã hội như

tài nguyên, đất đai, vốn, tài sản… thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước

với chức năng điều tiết phân phối TLSX một cách công bằng, hợp lý trên một số

mặt nhất định.

Thứ nhất, từng bước xác lập địa vị làm chủ của người lao động với TLSX

góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Trước đổi mới việc phân phối TLSX ở nước ta được tập trung cho hai khu

vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. TLSX để phân phối thường mang tính

hiện vật: nguồn vật tư, máy móc hay cơ sở vật chất nhất định. Nhà nước là chủ

thể duy nhất có quyền phân phối TLSX theo kế hạch tập trung. Tuy nhiên, do

không có chế tài ràng buộc trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử

dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, đã dẫn đến hệ quả của việc sử dụng TLSX kém

hiệu quả, nhiều nguồn lực đã không được khai thác, nhiều tiềm năng đã không

được phát huy. Trên thực tế: “Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được khoảng

một nửa công suất thiết kế”, “Tài nguyên của đất chưa được khai thác tốt, lại bị

sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng” [34, tr.17]. Đây

Page 80: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

75

chính là cơ sở kinh tế, xã hội làm phát sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ

biến và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế ngày càng sa sút,

đời sống nhân dân ngày càng khó khăn.

Tháng 8 năm 1987, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 đã ra Nghị quyết về

đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là thực hiện chế độ tự chủ

kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và đổi mới quản lý nhà nước về kinh

tế. Từ đó đến nay, rất nhiều văn bản, quy định của Nhà nước liên quan đến vấn

đề này được ban hành để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Theo tinh

thần các văn bản trên, các Bộ đã dần dần giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc quản lý vốn, tài sản của đơn vị.

Điều này buộc các đơn vị phải có trách nhiệm bảo quản, sử dụng tư TLSX xuất

được giao.

Trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu

toàn dân, nhưng việc sử dụng TLSX đó đã được trao cho người chủ đích thực

của nó là nông dân. Với Luật Đất đai năm 1993, tiếp đến là Luật Đất đai năm

2003, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan, người sử

dụng đất đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất

hiệu quả theo năng lực của họ.

Việc phân định rõ các loại quyền đảm bảo mọi TLSX đều có người làm

chủ. Chủ thể được phân phối TLSX cũng đồng thời được giao quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm trong việc sử dụng TLSX. Việc gắn quyền sở hữu với quyền sử

dụng đã gắn bó người sản xuất với TLSX, buộc mỗi người phải suy nghĩ, tính

toán, chủ động sáng tạo, để sử dụng TLSX với hiệu quả cao nhất. TLSX khi

được sử dụng hiệu quả sẽ nâng cao năng suất, chất lượng lao động, góp phần

phát triển kinh tế đất nước và cải thiện thu nhập của người lao động.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta luôn đảm bảo và tạo mọi điều kiện thuận

lợi để các chủ thể bình đẳng trong việc tiếp cận tư TLSX và những điều kiện

sản xuất kinh doanh.

Để tạo điều kiện cho các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể phát huy tốt

năng lực của mình, bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định:

Bảo đảm cho mọi công dân quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong

những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm, quyền

bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền bình đẳng

Page 81: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

76

trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát

triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin [42, tr.230].

Việc ban hành các Luật Doanh nghiệp năm 1999, năm 2005 và năm 2014

góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh, khuyến khích đầu tư tư nhân, tạo sân

chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài

nước có quyền được sản xuất, kinh doanh những lĩnh vực, mặt hàng chủ thể kinh

tế có khả năng, miễn là không vi phạm pháp luật. Nhà nước không phân biệt đối

xử giữa các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận các nguồn lực.

Việc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng đã khuyến khích các thành

phần kinh tế phát triển, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới không ngừng

tăng lên qua các năm. Cùng với sự tăng trưởng mạnh số lượng doanh nghiệp, số

lượng việc làm trong các doanh nghiệp cũng tăng lên liên tục. Cơ hội để mọi

người tham gia vào phát triển kinh tế nhiều hơn, đa dạng và phong phú hơn (xem

phụ lục 1).

Thứ ba, TLSX được phân phối theo hướng đảm bảo quan hệ hợp lý giữa

các vùng, miền, giữa các dân tộc, tầng lớp nhân dân trong quá trình phát triển,

góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Nước ta đi lên từ điểm xuất phát rất thấp. Sau khi đất nước bước vào công

cuộc đổi mới, nền kinh tế tuy có khởi sắc nhưng trình độ phát triển vẫn còn nhiều

hạn chế. Trong khi đó, nguồn vốn nhìn chung có hạn, nếu đầu tư dàn trải chắc chắn

sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội cao. Vì vậy, việc đầu tư

cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Từ giữa những năm 1990, Nhà nước đã tập trung

thích đáng các nguồn lực để xây dựng và phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở

cả ba miền, tăng tỷ trọng đầu tư ở các trung tâm kinh tế lớn như: Thành phố Hồ Chí

Minh, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Huế, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Hải

Dương, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, v.v.. Ý nghĩa của các vùng này là ở chỗ, đây là các

vùng động lực không chỉ có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế cả nước phát triển mà

còn tạo cơ hội đi lên cho các vùng khác. Chúng ta đã và đang đầu tư vào các

chương trình, dự án lớn như: đường Hồ Chí Minh, trồng 5 triệu ha rừng, thủy điện

Sơn La, dự án lọc dầu Dung Quất, nhà máy điện đạm cà Mau, dự án lọc dầu Nghi

Sơn, v.v.. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển với nhịp độ nhanh đã có đóng góp

đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế chung và GDP của đất nước.

Page 82: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

77

Bên cạnh việc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chúng ta cũng dành nguồn

lực để giải quyết những nhu cầu bức xúc của các vùng khác, tạo điều kiện để

phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, nhất là các

vùng khó khăn, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và thu hẹp

khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng. Chính phủ đã phê duyệt và chỉ

đạo thực hiện hàng loạt các chính sách, chương trình quan trọng như: Quyết

định: 755/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước

sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản

đặc biệt khó khăn; Quyết định 54/QĐ-TTg về việc Ban hành chính sách cho vay

vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn

2012 - 2015; Chương trình Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và

công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi; các mô

hình thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; chương

trình hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình dự án 135; các chương trình

thủy lợi, giao thông nông thôn, v.v.. Sự chuyển dịch cơ cấu hợp lý của nền kinh

tế giúp hình thành một cơ chế phân bổ nguồn nhân lực có hiệu quả theo hướng

tạo được nhiều việc làm, phát huy được tính năng động của người lao động theo

đúng ngành nghề, sở trường, khả năng.

Trong bối cảnh nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng TLSX có ý nghĩa vô

cùng quan trọng. Bởi vì, nó đảm bảo cho mỗi người dân lao động chân chính có

những TLSX tối thiểu, làm chủ chúng, trên cơ sở đó tự tạo ra việc làm và phát huy

tốt mọi khả năng lao động của bản thân mình. Sự điều tiết phân phối công bằng,

hợp lý TLSX trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh

tế, nâng cao đời sống của người dân đặc biệt vùng nông thôn, miền núi. Nhân dân ở

những vùng này được hưởng những thành quả của quá trình phát triển kinh tế, kết

cấu hạ tầng được nâng cấp và xây dựng mới; thị trường hàng hóa được hình thành

thay thế dần nền kinh tế tự cung, tự cấp. Các dịch vụ xã hội thiết yếu như y tế, giáo

dục, nước sạch, vệ sinh môi trường đã được cải thiện, từng bước rút ngắn sự chênh

lệch về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân giữa các vùng, miền. Việc thực

hiện công bằng trong phân phối TLSX còn góp phần quan trọng trong việc ổn định

xã hội. Bởi nó tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, các nhóm xã hội, từ

đó tạo dựng được lòng tin của các chủ thể kinh tế vào Nhà nước và chế độ xã hội.

Xã hội ổn định là cơ sở để PTCN.

Page 83: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

78

3.1.1.2. Thực hiện công bằng trong phân phối sản phẩm đảm bảo lợi

ích vật chất cho người lao động, phát triển kinh tế

Thời kỳ trước đổi mới, chúng ta thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao

động. Tiến hành phân phối theo lao động nhưng không dựa vào hiệu quả kinh tế

của lao động đã làm cho sự phân phối mang tính bình quân, cào bằng. Thực tế đó

đã đưa đến nghịch lý, những người lao động sống nhiệt tình, có nhiều cống hiến

cũng chỉ được hưởng bằng, thậm chí còn ít hơn những cá nhân không có cống

hiến và đóng góp sức lao động cho xã hội. Phương thức phân phối ấy đã thủ tiêu

tính tích cực của người lao động, thủ tiêu động lực phát triển sản xuất. Giai đoạn

này sản xuất nông - công nghiệp đình đốn; hàng hóa luôn khan hiếm, thiếu về số

lượng, kém về chất lượng; lưu thông, phân phối ách tắc và dẫn đến khủng hoảng

kinh tế - xã hội vào đầu những 80 của thế kỷ XX. Đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân khó khăn, nghèo nàn, nhiều “nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân

dân về đời sống vật chất và văn hóa nói chung chưa được đảm bảo” [34, tr.18],

các hoạt động xã hội bị tê liệt, tiêu cực xã hội lan rộng, lòng tin của quần chúng

với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Với phương

châm nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ, phải khắc

phục tính bình quân, khắc phục tình trạng trả công tách rời kết quả lao động

trong phân phối trước đây, thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, quan

hệ sở hữu mang tính đa dạng với nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau,

do đó, chủ thể phân phối, hình thức phân phối cũng đa dạng. Trên cơ sở thực tiễn

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, quan điểm phân phối sản phẩm được bổ

sung, hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII để tiến tới thực

hiện CBXH một cách thực chất hơn, thể hiện tính ưu việt của CNXH. Theo đó, ở

nước ta hiện nay có ba hình thức phân phối cơ bản: phân phối theo kết quả lao

động và hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực

khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.. Đây là

nguyên tắc phân phối được đánh giá là công bằng, phù hợp với các điều kiện của

Việt Nam hiện nay.

Để đảm bảo thực hiện phân phối công bằng và hiệu quả, cần đến vai trò

của Nhà nước. Nhà nước điều tiết phân phối theo hướng vừa kích thích sự phát

triển kinh tế - xã hội, vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở thừa

nhận sự khác biệt về thu nhập của cá nhân, Nhà nước điều tiết thu nhập phải làm

Page 84: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

79

cho sự khác biệt đó ở mức vừa phải, có thể chấp nhận được. Để can thiệp vào

phân phối, Nhà nước phải sử dụng các công cụ là những chính sách: chính sách

quy định mức lương tối thiểu, chính sách tài chính, tín dụng, thuế thu nhập, các

chính sách phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Ở nước ta hiện nay, các chính sách

phân phối thường xuyên được cải cách cho phù hợp với tính chất của nền kinh tế

mới. Có thể kể một số thay đổi quan trọng về chủ trương và chính sách phân

phối như sau:

Chính sách tiền lương luôn được điều chỉnh nhằm đảm bảo đúng nguyên

tắc phân phối theo lao động.

Trong các giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta

luôn quan tâm đến việc cải cách hoặc điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm

từng bước nâng cao mức sống cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế và

thực hiện CBXH. Nhà nước quy định ngày càng rõ hơn mức lương tối thiểu cho

từng khu vực (doanh nghiệp, hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, cán bộ

công chức...), xây dựng các bậc, ngạch và thang lương hợp lý hơn. Đối với mỗi

loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp

hoạt động theo luật doanh nghiệp) Nhà nước có quy định mức lương tối thiểu

khác nhau. Việc quy định tiền lương tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp lí

nhằm tạo ra lưới an toàn cho người lao động. Người sử dụng lao động không

được trả lương cho người lao động thấp hơn tiền lương tối thiểu do Nhà nước

quy định. Nhờ đó, thu nhập của các tầng lớp dân cư, nhất là cán bộ, viên chức,

hưu trí được đảm bảo hơn, đáp ứng được những nhu cầu cơ bản.

Chính sách thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,

đảm bảo công bằng xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường, do có sự khác nhau giữa mọi người về sở

hữu tài sản, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề, sự may mắn nên có sự

khác nhau trong thu nhập. Khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập, kéo theo đó

là quá trình phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn trong xã hội. Nhà nước đã chủ

trương cải cách hệ thống thuế như là công cụ chủ yếu để phân phối lại thu nhập

quốc dân, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo CBXH. Thông

qua chính sách thuế: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà

nước thực hiện điều tiết một cách hợp lý thu nhập của những người có thu nhập

cao, đưa vào ngân sách nhằm trợ cấp cho những người có thu nhập thấp. Nhờ

đó, hạn chế chênh lệnh thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội,

Page 85: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

80

từng bước thực hiện CBXH. Ở đây, Nhà nước không hạn chế mức thu nhập cao

do nỗ lực của mỗi người, nhưng phải điều tiết một phần để thực hiện các chính

sách xã hội.

Phân phối theo mức đóng góp vốn đã khuyến khích được nhiều cá nhân

và chủ thể sản xuất, kinh doanh bỏ vốn, tài sản để tham gia đầu tư mở rộng,

phát triển sản xuất.

Từ sau nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương khoá VI

ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn điển hình như một số đơn vị

kinh tế quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân dưới các hình thức: vay

vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý... Cách làm

như vậy đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi vào sản xuất, kinh doanh. Như

vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội.

Nguyên tắc phân phối này tạo điều kiện để tất cả các thành viên trong xã hội yên

tâm mạnh dạn đầu tư vốn, tài sản vào sản xuất kinh doanh để nguồn vốn không chỉ

tạo ra cơ hội sinh lợi cho các thành viên tham gia đầu tư mà còn tạo ra những lợi ích

kinh tế, xã hội to lớn.

Phân phối qua an sinh xã hội đã được hoàn chỉnh, dần góp phần xóa đói,

giảm nghèo, cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư.

Về mặt cấu trúc, hệ thống an sinh xã hội ở nước ta bao gồm những thành

phần cơ bản sau: các chương trình, chính sách bảo hiểm xã hội; chương trình và

chính sách ưu đãi xã hội; chương trình và chính sách trợ cấp xã hội; chương trình

và những chính sách tương trợ xã hội, cứu tế xã hội. Hệ thống an sinh xã hội ở

nước ta đang được hoàn chỉnh dần, ngày càng hướng đến bao phủ toàn bộ mọi

thành viên trong xã hội.

Các chính sách về bảo hiểm xã hội trong thời gian qua được đổi mới theo

hướng mở rộng đối tượng tham gia. Mọi người lao động làm việc trong các

thành phần kinh tế đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia

bảo hiểm xã hội không ngừng tăng cao qua các năm: năm 2009 có 10.001.170

người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tính đến hết 31/12/2015 số lao động

tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 12.065.223 người; số người tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện năm 2013 đạt 173.462 người, đến 31/12/2015 254.643

người [50]. Tham gia bảo hiểm xã hội, người lao động yên tâm cống hiến và

không phải lo lắng nhiều về những rủi ro mà mình có thể gặp phải trong hoạt

động lao động sản xuất, công tác, sinh hoạt, góp phần thực hiện mục tiêu CBXH.

Page 86: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

81

Bảo hiểm xã hội còn góp phần làm hạn chế và điều hoà các mâu thuẫn giữa

người tham gia bảo hiểm xã hội và người sử dụng lao động, tạo môi trường làm

việc ổn định, đảm bảo cho hoạt động lao động sản xuất, công tác với hiệu quả

cao, từ đó góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, PTCN.

Chính sách ưu đãi người có công được thực hiện tương đối toàn diện. Chế

độ, chính sách đối với người có công được thực hiện thông qua hình thức trợ

cấp, phụ cấp, bảo hiểm y tế và các chế độ ưu đãi khác (trang cấp, điều dưỡng,

nhà ở, quà Tết, quà ngày 27-7 hằng năm, ưu đãi giáo dục, công tác...). Người có

công đã được chăm sóc tốt hơn về vật chất và tinh thần. Đến cuối năm 2015 có

98,5% hộ gia đình chính sách, người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn

mức sống trung bình của hộ dân cư trên địa bàn cư trú; 98% số xã, phường được

công nhận làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công [146, tr.9].

Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải

thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về

trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư.

Chính phủ đã đề ra một số chính sách, cơ chế để cụ thể hoá chủ trương xoá đói

giảm nghèo: thành lập tổ chức trợ giúp pháp lí cho người nghèo và đối tượng

chính sách; thành lập Ban Chủ nhiệm Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói

giảm nghèo; phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt

khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa; thực hiện nhiều dự án xoá đói giảm

nghèo như dự án trồng 5 triệu ha rừng, chương trình 773,; nguồn lực đầu tư cho

Chương trình xoá đói, giảm nghèo được tăng cường. Nhờ đó, công tác xoá đói,

giảm nghèo ở nước ta đã đạt được kết quả rất ấn tượng. Theo chuẩn nghèo chung

của Ngân hàng Thế giới (gồm cả nghèo về lương thực, thực phẩm và nghèo phi

lương thực, thực phẩm), tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã giảm mạnh, từ 37,4%

năm 1998 xuống còn 18,1% năm 2004. Với thành tựu này, Việt Nam đã đạt được

mục tiêu xoá bỏ tình trạng đói nghèo đề ra cho năm 2015, nghĩa là vượt trước

mục tiêu. Việt Nam được coi là nước xoá bỏ tình trạng đói nghèo thành công

nhất thế giới. Đối với giai đoạn 2011 - 2015 (áp dụng chuẩn nghèo mới), tỷ lệ hộ

nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 7% năm 2015 [xem phụ

lục 4]. Với việc xóa đói, giảm nghèo nhanh chóng, nhân dân có thu nhập ổn định

sẽ có điều kiện đầu tư cho các nhu cầu ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh, giáo dục,

văn hóa… góp phần trực tiếp vào việc nâng cao thể lực, trí lực cũng như tâm lực

của con người Việt Nam.

Page 87: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

82

Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo, các chính sách trợ cấp xã hội

nhằm trợ giúp những người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội với chế độ trợ

giúp thường xuyên (người tàn tật, cô đơn; trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ;

người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo, người cao tuổi không có lương hưu, không

có người chăm sóc...) và trợ giúp đột xuất (những người, những vùng bị thiên tai

tàn phá, dịch bệnh hoành hành...) nhằm khắc phục những rủi ro, giúp cho mọi

thành viên trong xã hội mau chóng ổn định cuộc sống. Các chính sách trợ cấp xã

hội vừa góp phần thực hiện CBXH, vừa thể hiện bản chất nhân đạo của Đảng và

Nhà nước ta, tạo ra mạng lưới để bảo vệ mọi người trong xã hội không ai bị rơi vào

bần cùng hóa.

Thực tiễn 30 năm đổi mới của nước ta cho thấy, chính việc thực hiện các

nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng đã có tác động trực tiếp đến PTCN.

Thực hiện công bằng trong phân phối đảm bảo lợi ích của người lao động. Khi

lợi ích được đảm bảo sẽ kích thích tính tích cực lao động trong mỗi người, không

ngừng suy nghĩ tìm tòi, học tập để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát

triển của lực lượng sản xuất, tạo nên bước tăng trưởng đáng kể của nền kinh tế.

Thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong những năm vừa qua là

rất đáng tự hào. Nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm.

Những thành tựu đạt được trong tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo cơ sở vật

chất để PTCN Việt Nam ngày càng đáp ứng yêu cầu của đổi mới.

Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam không ngừng được cải thiện

(xem phụ lục 2). Sự tăng trưởng GDP đầu người của chúng ta tăng nhanh, đồng

nghĩa với việc chỉ số thu nhập trong HDI của chúng ta cũng tăng nhanh: năm

1992 mới là 0,386, năm 2008 là 0,559, năm 2012 đạt 0,615. Hơn nữa, mức đóng

góp của chỉ số này đối với chỉ số PTCN (HDI) cũng ngày càng tăng, tính giai

đoạn từ năm 1999 đến năm 2012, mức đóng góp của chỉ số GDP vào việc tăng

trưởng HDI tới 42%, năm 2014 là 60,9% [Nguồn: Tính toán của Trung tâm phân

tích dự báo VASS trình bày tại Hội thảo Tăng trưởng kinh tế vì tăng trưởng bao

trùm, Hà Nội, tháng 5, 2014].

Cùng với việc thu nhập gia tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người

dân được nâng cao. Tỷ lệ hộ có đồ dùng lâu bền tăng từ 98,4% năm 2010 lên

99,4% năm 2012 và 99,7% năm 2014. Tương tự, tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước

hợp vệ sinh tăng từ 90,5% lên 91,0% và 93,0%; tỷ lệ hộ dùng điện cho sinh hoạt

tăng từ 97,2% lên 97,6% và 98,3%; tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 75,7%

Page 88: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

83

lên 77,4% và 83,6% [146, tr.17]. Mức tiêu dùng các dịch vụ viễn thông hay công

nghệ thông tin của người dân cũng tăng lên nhanh chóng. Tính đến ngày

1/1/2015, Việt Nam có dân số là 90,7 triệu người, trong đó có 39,8 triệu người sử

dụng internet (tương đương với 44%), 28 triệu người sở hữu tài khoản mạng xã

hội (chiếm 31%), 128,3 triệu người có kết nối mạng di động (tương đương với

141%) [113].

Với những kết quả thu được từ tăng trưởng kinh tế, ngân sách đầu tư cho

các lĩnh vực xã hội y tế, giáo dục, văn hóa cũng tăng lên góp phần PTCN trên

các mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.

3.1.2. Thực hiện công bằng xã hội đảm bảo cho sự phát triển con

người về trí lực, thể lực và tâm lực

Trong 30 năm qua, thông qua nhiều chiến lược, chính sách, chương trình,

dự án của Đảng và Nhà nước, cơ hội phát triển được mở rộng hơn cho mọi tầng

lớp nhân dân góp phần PTCN Việt Nam về trí lực, thể lực và tâm lực.

3.1.2.1. Thực hiện công bằng trong giáo dục góp phần phát triển trí lực

con người Việt Nam

Thực hiện CBXH tạo ra điều kiện và cơ hội cho sự phát triển trí lực

của con người. Phát triển trí lực của con người được thực hiện trước hết

thông qua phát triển giáo dục. Thông qua cơ hội công bằng, giáo dục kích

thích nỗ lực vươn lên của mọi cá nhân, thúc đẩy sự ưu tú, tài năng, sự sáng

tạo của con người.

Thực hiện CBXH trong giáo dục được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Chủ

trương thực hiện công bằng trong giáo dục được quán triệt trong các văn kiện

của Đảng qua các kỳ Đại hội, trong Hiến pháp cũng như Luật Giáo dục. Để đảm

bảo mọi người đều có cơ hội bình đẳng trong giáo dục, trong thời kỳ đổi mới,

Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách có liên quan

như: Luật phổ cập giáo dục tiểu học được Quốc hội thông qua năm 1991; Nghị

định Số: 88/2001/NĐ-CP của chính phủ Về thực hiện phổ cập giáo dục trung học

cơ sở ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2001; Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09

tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục

mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 - 2015... Cùng với sự phát của

triển của kinh tế trong những năm qua, chúng ta không ngừng tăng đầu tư ngân

sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Từ năm 2012, chi cho giáo dục là 20%.

Đây là mức đầu tư của Nhà nước cho giáo dục cao hơn nhiều nước trong khu

Page 89: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

84

vực và trên thế giới. Nhờ vậy, quy mô, hình thức giáo dục, đào tạo không ngừng

được mở rộng, tạo cho mọi người dân có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ.

Chúng ta đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn

chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo với các loại hình

trường, lớp, từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới.

Cho đến nay, về cơ bản ở nước ta đã xóa được "xã trắng" về giáo dục

mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã

hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Việt Nam đã

đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học vào năm 2000. Tính đến

cuối năm 2015, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt

chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi [146]. Hiện nay, chúng ta đang đẩy

mạnh thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo

dục tiểu học đúng độ tuổi. Về mặt giới tính, bình đẳng giới trong cơ hội tiếp cận

giáo dục ở các cấp học ngày càng được nâng cao, không có sự chênh lệch lớn

giữa học sinh nam và học sinh nữ. Điều này cho thấy, Việt Nam đã thu hẹp

khoảng cách về sự bất bình đẳng giữa học sinh nam và học sinh nữ trong độ tuổi

nhập học. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các

nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh

lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Cơ hội đến trường đã được mở

rộng cho mọi đối tượng, tạo mặt bằng dân trí tối thiểu cho đất nước.

Trên cơ sở tạo sự bình đẳng về cơ hội học tập, Đảng và Nhà nước ta luôn

quan tâm tạo nhiều cơ hội khác nhau phù hợp cho mọi người dân đều được học

tập, phát huy năng lực, sở trường của mình. Mô hình giáo dục của nước ta trong

thời gian qua không ngừng được mở rộng, tạo điều kiện cho người dân có nhiều

cơ hội được tham gia học tập: Giáo dục chính quy, giáo dục vừa làm vừa học,

giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng.

Đồng thời, Nhà nước còn triển khai mạnh mẽ việc xã hội hóa giáo dục, khuyến

khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các trường ngoài công lập với

các loại hình đa dạng, trên cơ sở quy định của Nhà nước đáp ứng nhu cầu học

tập ngày càng đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.

Cùng với đó, Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có

đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo

dục giữa các vùng, miền thông qua việc miễn giảm các khoản đóng góp đối với

học sinh dân tộc thiểu số, tiếp tục phát triển hệ thống trường nội trú, bán trú, thực

Page 90: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

85

hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số, thực hiện

chính sách tuyển cử. Nhờ vậy mà cơ hội tiếp cận giáo dục của học sinh thiểu số

ngày càng được nâng cao. Đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách,

Nhà nước có chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học và hỗ

trợ khác. Đối với những người có năng khiếu Nhà nước tạo điều kiện để họ phát

triển tài năng.

Với những nội dung như trên, thực hiện CBXH trong giáo dục tạo cơ hội

và điều kiện cho sự PTCN về mặt trí lực. Trình độ dân trí của người Việt Nam

được nâng lên đáng kể, óc sáng tạo, kỹ năng ứng xử và chỉ số thông minh cũng

được nâng cao; trình độ của người lao động được nâng lên nhanh chóng về cả số

và chất lượng. Tính đến năm 2014, tỷ lệ người biết chữ độ tuổi từ 15 - 60 là

98,25%. Hằng năm có hơn 400.000 người tốt nghiệp đại học, cao đẳng trong

nước. Từ năm 1976 cho đến hết năm 2014, tổng số giáo sư, phó giáo sư đã được

công nhận ở nước ta là 11.097, gồm có 1.628 giáo sư và 9.469 phó giáo sư. Việt

Nam có hơn 100 nghìn thạc sĩ, hơn 24 nghìn tiến sĩ [2].

Phản ánh những thành tựu phát triển trí lực của con người Việt Nam theo

chỉ số HDI, có thể thấy, chỉ số giáo dục trong HDI của Việt Nam không ngừng

tăng lên: năm 1992 chỉ số giáo dục đạt 0,776, đến năm 2008 là 0,830. Như vậy,

từ năm 1992 đến năm 2008 chỉ số giáo dục tăng 7%; mức đóng góp của chỉ số

giáo dục vào việc tăng trưởng chỉ số HDI trong giai đoạn này là 15,9%. Đây là

chỉ số khá cao trong khu vực. Nhìn chung, những thành quả về phát triển trí lực

con người Việt Nam trong những năm vừa qua là rất đáng trân trọng.

3.1.2.2. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe góp phần phát

triển thể lực con người Việt Nam

Sức khỏe là giá trị cơ bản của cuộc sống, là một trong ba yếu tố cấu thành

cơ bản phản ánh chỉ số PTCN. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt

Nam là làm tất cả, từ những việc nhỏ nhất để chăm lo cho sức khỏe con

người, để con người có cơ hội phát triển toàn diện; phấn đấu thực hiện chăm sóc

sức khỏe cho mọi người dân, đảm bảo thực hiện CBXH trong y tế: “Đổi mới và

hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội

để mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Xây dựng chiến

lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam” [42, tr.33].

Xây dựng một nền y tế theo hướng công bằng để mọi người dân đều được chăm

sóc, nâng cao sức khỏe không chỉ góp phần PTCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu

Page 91: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

86

của thời kỳ đổi mới mà còn thể hiện bản chất nhân đạo XHCN ở nước ta. Thực

hiện CBXH trong y tế ở nước trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu

đáng trân trọng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, góp phần nâng cao thể lực

con người Việt Nam.

Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cung ứng dịch vụ y tế khá

hoàn chỉnh với mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp giúp người dân dễ dàng tiếp cận

và thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe.

Hiện nay, Việt Nam có một hệ thống y tế khá hoàn chỉnh với hệ thống

cung ứng dịch vụ y tế được tổ chức theo tuyến từ Trung ương tới thôn bản với 4

lĩnh vực: khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và dân số - kế

hoạch hóa gia đình; trong đó, chú trọng xây dựng mạng lưới y tế cơ sở (bao gồm

y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện). Tính đến hết năm 2014, 99% xã,

phường, thị trấn đã có nhà trạm; 78% trạm y tế xã có bác sỹ làm việc (bao gồm

cả các xã có bác sỹ làm việc từ 3 ngày/tuần trở lên); 98% trạm y tế xã có nữ hộ

sinh hoặc y sỹ sản nhi; 78% thôn, bản, tổ dân phố trong cả nước đã có nhân viên

y tế hoạt động [6]. Tất cả các huyện đều có bệnh viện đa khoa, liên xã có phòng

khám đa khoa khu vực. Đây là tuyến y tế gần dân nhất, phát hiện sớm những vấn

đề sức khỏe của nhân dân, đảm bảo cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe

cơ bản với chi phí thấp nhất, góp phần thực hiện CBXH.

Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em ngày càng được chú ý

Thực hiện CBXH là đảm bảo nguyên tắc mọi người cống hiến ngang nhau

thì được hưởng thụ ngang nhau. Với cơ hội ngang nhau nhưng năng lực mỗi

người khác nhau, kết quả cũng khác nhau. Năng lực ở đây bao gồm năng lực

sinh thể (sức khỏe) và năng lực tinh thần (kiến thức, kỹ năng). Để đảm bảo mọi

người có thể lực tốt cần phải tạo nền tảng sức khỏe ngay từ những năm đầu đời.

Chăm sóc sức khỏe trẻ em là vấn đề được đặc biệt quan tâm ở nước ta và cũng là

một trong những thành tố góp phần thực hiện CBXH. Luật bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em năm 1991 đã quy định, trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức

khỏe ban đầu, được khám chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế của

Nhà nước. Đến nay, chúng ta đang cố gắng để 100% trẻ em được cấp thẻ bảo

hiểm y tế (BHYT). Việt Nam cũng đã thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở

rộng và mang lại kết quả khả quan. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ 9 các

loại vắcxin theo chương trình tiêm chủng mở rộng năm 2014 đạt trên 90%. Số

trẻ em bị bệnh truyền nhiễm giảm mạnh. Tỷ lệ chết và suy dinh dưỡng ở trẻ em

Page 92: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

87

giảm nhanh trong thời gian qua. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm 60%,

từ 58 trên 1000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn 22,12‰ vào năm 2015]. Hiện

nay, mức tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta tương đương với tỷ suất của các

nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam 3 - 4 lần. Chúng ta đã

giảm trên 60% trẻ suy dinh dưỡng trong thời gian này, vượt Mục tiêu thiên niên

kỷ là giảm 50% vào năm 2015 [146, tr.101].

Thứ ba, bảo hiểm y tế đang đóng vai trò tích cực giúp tăng khả năng tiếp

cận của người dân với các dịch vụ y tế.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), BHYT được coi là công cụ quan trọng

để đạt mục tiêu bao phủ y tế toàn dân. Ở Việt Nam, hệ thống BHYT được bắt đầu

thực hiện năm 1992, được coi là nguồn tài chính công có vai trò hết sức quan trọng

trong việc đảm bảo sự công bằng trong các đóng góp tài chính cũng như hưởng lợi

y tế theo nhu cầu (không dựa trên mức đóng góp) thông qua một hệ thống ngăn

ngừa rủi ro. Đây được xem như là công cụ tạo nên sự bình đẳng trong chăm sóc sức

khỏe toàn dân. Độ bao phủ BHYT mở rộng làm tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế

người dân. Mức độ bao phủ của BHYT ở Việt Nam tăng dần qua các năm, năm

2006 gần 44,4%; năm 2010 là 60,3%; năm 2014 là 70,8% (Số liệu từ Vụ Bảo hiểm

y tế, Bộ Y tế, các năm), trong đó có một tỉ lệ đáng kể người nghèo và các đối tượng

chính sách, yếu thế đang tham gia. Hiện nay, 100% người nghèo, người dân tộc

thiểu số được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí để mua BHYT. Với những hộ cận

nghèo, Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi để họ được tham gia BHYT. Nhờ

vậy, người nghèo đã có điều kiện quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn. Đây là những

chủ trương đúng đắn góp phần thực hiện CBXH trong y tế, tạo cho người nghèo,

nhân dân các vùng khó khăn và một bộ phận lớn đồng bào dân tộc thiểu số giảm

được những chi phí về khám khám chữa bệnh, có cơ hội được chăm sóc và bảo vệ

sức khỏe.

Thực hiện CBXH trong lĩnh vực y tế ở nước ta thời gian qua đã đảm bảo cho

mọi người dân có quyền được chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận và sử dụng các

dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận với nguồn lực của xã hội đầu tư vào lĩnh

vực y tế. Nhờ đó, thể lực con người Việt Nam trong những năm gần đây đã được

nâng cao.

Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam được cải thiện đáng kể. Tốc

độ tăng chiều cao trung bình qua từng 10 năm được đảm bảo. Các thế hệ hiện

nay cao hơn cha anh trước kia và có xu hướng ngày càng tăng. Tuổi thọ trung

Page 93: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

88

bình của cả nước tăng từ 62,7 tuổi (năm 1990) lên 73,3 tuổi năm 2015 (Theo số

liệu của tổng cục thống kê qua các năm). Các chỉ số y tế, đặc biệt chỉ số tuổi thọ

đóng góp vị trí quan trọng trong việc cải thiện chỉ số PTCN Việt Nam trong thời

gian qua. Chỉ số tuổi thọ (xem phụ lục 10) luôn đạt giá trị cao hơn chỉ số HDI

chứng tỏ những cố gắng về mặt y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân của nước ta

đang mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong thành tựu phát triển con người.

Những kết quả đạt được về mặt thể lực của con người Việt Nam trong thời kỳ

đổi mới đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển con người

toàn diện.

3.1.2.3. Thực hiện công bằng trong văn hóa, thông tin góp phần phát

triển tâm lực con người Việt Nam

Văn hóa là nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội, góp phần hình thành

nhân cách con người. Để đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận,

hưởng thụ các giá trị văn hóa của xã hội, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà

nước ta đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng pháp luật, chính sách tạo nên những

thay đổi sâu sắc trên lĩnh vực văn hóa, thông tin.

Trong những năm qua, truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về số

lượng, quy mô lẫn chất lượng góp phần mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho

người dân. Năm 2012, tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài phát thanh, được xem đài

truyền hình là 99,5%, số người sử dụng mạng intemet đạt 35% dân số, đạt 3,4

đầu sách/người/năm [51]. Phần lớn các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ,

mục đích, định hướng chính trị, phản ánh nhanh, nhạy, sinh động công cuộc đổi

mới đất nước, góp phần mở rộng dân chủ, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn

hóa của nhân. Nhờ đó, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền được

rút ngắn, cơ hội lựa chọn và tiếp cận thông tin của người dân được mở rộng, góp

phần nâng cao tri thức, ý thức chính trị, pháp luật, tâm hồn con người cũng

phong phú hơn.

Công tác phát triển văn hóa ở địa phương cũng được đầu tư nhiều hơn.

Đến nay, 100% số xã, phường ở miền xuôi và gần 100% số xã vùng dân tộc,

miền núi có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc điểm bưu điện văn hóa

xã. Đây vừa là nơi hội họp của chính quyền, đoàn thể, vừa là nơi diễn ra các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Có địa điểm tổ chức, công tác xây dựng thiết

chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng

được duy trì và phát triển, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân được hưởng

Page 94: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

89

thụ và tham gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Cùng với

đó, công tác xây dựng đời sống văn hóa mới, phong trào “Người tốt, việc tốt”

diễn ra hết sức sôi nổi. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ngày càng phát

triển về chiều rộng và bề sâu. Thực hiện CBXH trong văn hóa đã đem đến cho

người dân một đời sống mới vô cùng phong phú, không chỉ trên bình diện đời

sống vật chất, mà cả đời sống tinh thần, góp phần quan trọng vào việc PTCN

Việt Nam toàn diện.

Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua dành nhiều sự quan tâm phát

triển văn hóa cho các đối tượng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải

đảo... Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu

sưu tầm và phục dựng. Các hoạt động giao lưu, giới thiệu, quảng bá, tôn vinh

văn hóa các dân tộc được tăng cường như: tổ chức ngày hội văn hóa vùng, ngày

hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc Mông, Chăm, Khmer; xác lập ngày

19/4 hằng năm là ngày Văn hóa các dân tộc; dự án sưu tầm, công bố sử thi Tây

Nguyên... Nhờ vậy, đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số được cải thiện.

Trong lĩnh vực sáng tác, các tài năng văn hóa nghệ thuật được khuyến

khích phát triển. Mọi người dân được tham gia một cách tự chủ trong quá trình

sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa, được đóng góp sức lực và trí tuệ

vào sự phát triển văn hóa. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn

trọng. Sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng,

tăng đáng kể về số lượng và bước đầu có chuyển biến về chất lượng. Tiếng nói

phản biện xã hội của văn học, nghệ thuật có một số mặt mạnh mẽ hơn trước,

phát hiện, cảnh báo, phê phán cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng nhân cách, đề

cao phẩm giá con người. Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai

trái trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được coi trọng hơn.

Những thay đổi trong đời sống văn hóa, tinh thần theo hướng ngày càng

tốt đẹp hơn hướng con người vào các giá trị, chuẩn mực chân, thiện, mỹ trong

đời sống hàng ngày để mỗi người sống tốt hơn, tin tưởng hơn, yêu thương nhau

hơn. Người dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường

đi lên CNXH; thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của Đảng đề ra là đúng đắn,

theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân: tất cả vì

sự phát triển toàn diện của con người.

Xuất phát từ những chủ trương của Đảng về thực hiện CBXH, việc thực

hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan

Page 95: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

90

trọng. Thực hiện phân phối công bằng đã điều hòa được mối quan hệ giữa cá

nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội trên phương diện lợi ích: Lợi ích riêng

của mỗi cá nhân luôn được bảo vệ và được bảo đảm trong mối quan hệ hài

hòa với lợi ích chung của toàn xã hội. Từ đó sẽ động viên, kích thích được

nhiều hơn sự cống hiến của mỗi cá nhân cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Người lao động tự nguyện đem hết nhiệt tình, khả năng lao động để không

ngừng nâng cao năng suất lao động, làm ra ngày càng nhiều sản phẩm có chất

lượng thỏa mãn nhu cầu cá nhân và xã hội; các nhà kinh doanh sẽ không ngại

bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất; những người yếu thế trong xã hội giảm bớt

gánh nặng khó khăn, nhanh chóng thoát khỏi nghèo đói, có cơ hội vươn lên

hòa nhập vào sự phát triển chung của xã hội. Toàn bộ kết quả của thực hiện

phân phối công bằng được thể hiện qua sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Nhưng muốn thực hiện sự phân phối công bằng kết quả sẽ có của sự

cống hiến thì phải tạo cơ hội phù hợp cho mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân đều có

điều kiện được cống hiến và phát huy được khả năng của mình, rồi sau đó có

được sự hưởng thụ tương ứng với cống hiến ấy. Những thành tựu đạt được

trong việc thực hiện CBXH ở nước ta thời kỳ đổi mới đã kích thích được tính

tích cực, chủ động trong mỗi con người, đã mang lại các cơ hội phát triển cho

đông đảo quần chúng nhân dân, tạo ra những điều kiện tốt nhất có thể để con

người Việt Nam phát huy hết khả năng của mình để có thể phát triển toàn diện

cả về thể lực, trí lực lẫn tâm lực. Điều này được biểu hiện bằng sự cải thiện

đáng kể trong chỉ số PTCN. Căn cứ vào số liệu của UNDP công bố, khoảng

thời gian từ năm 1995-2014, HDI của Việt Nam tăng từ 0,539 lên 0,666. Dĩ

nhiên, tốc độ tăng này chưa phải là cao, song, để tăng được chỉ số phát triển

con người thì cả ba chỉ số bộ phận đều phải có tiến bộ. Điều đáng lưu ý là, chỉ

số HDI của Việt Nam tương đương với chỉ số này của nhiều nước có GDP

bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.

3.1.3. Thực hiện công bằng xã hội tạo môi trường chính trị - xã hội ổn

định cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay

Trong nhiều năm qua, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước ta về thực hiện CBXH luôn phát huy vai trò của mình trong việc đảm bảo

cho người dân được hưởng một môi trường chính trị - xã hội ổn định.

Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát

triển, Đảng và Nhà nước đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách,

Page 96: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

91

pháp luật về quyền con người. Nhiều chính sách kinh tế, chính sách xã hội

hướng vào việc bảo đảm quyền con người theo nguyên tắc bình đẳng, công bằng,

không phân biệt đối xử được ban hành như: Chính sách kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, chính sách bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, chính sách lao

động, việc làm, chính sách giáo dục, chính sách y tế, chính sách an sinh xã hội...

Các chính sách kinh tế, xã hội góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề

quan trọng cho PTCN.

Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật,

Hiến pháp năm 1992 và sau này là Hiến pháp năm 2013 quy định, trách nhiệm

của Nhà nước là phải “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của

nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền

công dân...” (Điều 3, Hiến pháp 2013). Nghĩa vụ của Nhà nước là tạo điều kiện

để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai minh bạch trong

việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28, Hiến pháp

2013). Quy trình xây dựng luật cũng được thay đổi theo hướng dân chủ, công

khai, minh bạch. Đến nay, hầu hết các luật, bộ luật trước khi thông qua đều được

thảo luận, lấy ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Nhờ đó, quyền làm chủ

của nhân dân không ngừng được mở rộng và nâng cao. Người dân có điều kiện

tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà

nước, phát triển kinh tế - xã hội thông qua đại biểu trong các cơ quan đại diện

(Quốc hội, Hội đồng nhân dân), các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp do họ

lập ra để đại diện cho lợi ích của mình.

Với sự phát triển nhanh của phương tiện truyền thông đại chúng, các

quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin của người dân ngày càng

được đảm bảo hơn. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình nước ta đã

phát huy được vai trò thực sự là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước. Các tổ

chức chính trị xã - hội thực sự là diễn đàn để nhân dân thể hiện được tinh thần

tự do, dân chủ, nêu lên chính kiến, nguyện vọng của mình, cũng như thông tin

với các cơ quan của Đảng và Nhà nước về những vấn đề bức xúc trong cuộc

sống, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, các tệ nạn xã

hội... tạo thành dư luận tác động đến sự vận hành của xã hội, làm cho xã hội

ngày càng tốt đẹp hơn.

Thực hiện CBXH đã tạo điều kiện và cơ hội bình đẳng cho người dân

tham dự vào đời sống chính trị của đất nước. Người dân được tham gia vào công

Page 97: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

92

việc chung của cộng đồng, họ được nói tiếng nói của mình, đề đạt nguyện vọng

của mình để đảm bảo lợi ích của mình. Những vấn đề về quyền lợi của người

dân được giải quyết tạo ra bầu không khí cởi mở, thẳng thắn, có sự đồng thuận

cao, góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ổn

định xã hội. Đây là cơ sở, nền tảng cho sự thúc đẩy phát triển kinh tế, mở ra cơ

hội, nâng cao năng lực và tiếp cận với các nguồn lực xã hội. Đồng thời, làm cho

con người năng động hơn, phát huy được tính tích cực, chủ động trong các hoạt

động, nâng cao năng lực cá nhân.

3.1.4. Nguyên nhân của những thành tựu

Thứ nhất, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực

đổi mới trong tư duy lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN. Quan điểm

xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới là phát triển vì con

người và do con người. Con người “là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu

của sự phát triển” [44, tr.100]. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: “con người

phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công

dân, tuân thủ pháp luật” [44, tr.105]. Để có thể PTCN toàn diện, ngay từ bây giờ

phải chăm lo đến tất cả các mặt liên quan đến đời sống con người: Từ đời sống

vật chất đến đời sống tinh thần, từ vấn đề kinh tế đến vấn đề văn hóa, chính trị,

xã hội, trên cơ sở công bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh

đạo của Đảng. Thực hiện CBXH chính là đảm bảo sự tương xứng giữa cống hiến

và hưởng thụ, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng

tốt năng lực của mình. Do đó, cần phải thực hiện CBXH ngay trong từng bước

và từng chính sách phát triển vì mục tiêu PTCN:

Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển

kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để

nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc

đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ

hội và điều kiện phát triển toàn diện [46, tr.30-31].

Đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta cơ bản là đúng

đắn, hợp lòng dân đã động viên, khai thác, phát huy mạnh mẽ nguồn lực trong

nhân dân cùng với Nhà nước giải quyết những mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Đây là

nguyên nhân cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với những thành công của việc

Page 98: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

93

thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, góp phần vào sự nghiệp PTCN Việt Nam

toàn diện.

Thứ hai, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt

được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan trọng đảm bảo thực hiện có hiệu

quả CBXH ở nước ta. Cùng với đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

được định hình ngày càng rõ nét thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sức sản xuất được

giải phóng, các nguồn lực bên trong và bên ngoài được khai thác đang tạo tiền đề

vật chất cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN.

Thứ ba, truyền thống dân tộc là một trong những nhân tố có tác động

không nhỏ tới việc thực hiện CBXH. Trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc

phải kể đến truyền thống: Đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương ái, biết chia xẻ,

gánh vác trách nhiệm, yêu chuộng lẽ công bằng, bình đẳng, lẽ phải… được xây

dựng và định hình trong suốt tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, thấm

sâu trong nhận thức và hành động của mỗi thế hệ người Việt Nam. Hiện nay,

trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị truyền thống ngày càng phát huy tác

dụng trong việc hình thành nhân cách, lối sống tốt đẹp của mỗi cá nhân nhân, khắc

phục chủ nghĩa vị kỷ, sùng bái vật chất, đồng tiền, coi trọng tập thể, cộng đồng. Đây

cũng là cơ sở để những quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH có điều kiện

nhanh chóng đi vào đời sống xã hội.

3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối dẫn

đến cản trở sự phát triển con người

3.2.1.1. Sự bất cập của việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối

tư liệu sản xuất hạn chế việc phát huy vai trò chủ thể của người lao động

Nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng ban hành và thực thi nhiều chính sách

nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phát huy năng

lực sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đạt được hiệu quả như

mong đợi.

Trước tiên phải kể đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận TLSX. Vẫn còn

phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế: “Quyền tự do kinh doanh chưa được

tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh chưa thật sự đảm bảo cạnh tranh công

bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế” [41, tr.73].

Page 99: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

94

Do đó, các tiềm năng kinh tế chưa được phát huy một cách tương xứng, làm triệt

tiêu động lực phát triển kinh tế, xã hội.

Thực tế đã chứng minh, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động rất hiệu quả, đem

lại nhiều lợi ích cho đất nước. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực bị phân biệt đối xử,

chịu nhiều rào cản. Trong lĩnh vực đất đai, mặc dù các chính sách đầu tư đều khẳng

định sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế trong tiếp cận đất

đai, trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được sự ưu tiên nhiều hơn so với

doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước được cấp đất kinh doanh, hoặc nếu

phải thuê thì với mức giá ưu đãi (so với giá trị thị trường), sau đó được sử dụng đất

thuê để thế chấp vay vốn ngân hàng, trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước

không được hưởng ưu đãi này. Trong tiếp cận nguồn vốn tiền tệ cũng diễn ra tương

tự. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên tiếp cận tín dụng và ngoại tệ khan

hiếm với giá thấp hơn giá thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có giới

hạn ngân sách mềm, nghĩa là Nhà nước cứu trợ các doanh nghiệp nhà nước khi các

doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính. Với những ưu đãi như vậy,

doanh nghiệp nhà nước mặc dù hoạt động kém hiệu quả vẫn có lợi thế hơn hẳn và

có thể lấn át doanh nghiệp tư nhân. Nguồn lực mà Nhà nước sử dụng để ưu đãi là

tài sản chung của toàn dân. Việc Nhà nước ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước gặp

khó khăn mà không ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân tương tự gặp khó khăn là

việc làm không công bằng.

Không chỉ các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài cũng được hưởng nhiều ưu đãi khi tham gia đầu tư tại Việt

Nam. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam là chủ trương phù hợp của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, vì

ưu đãi một cách thái quá đã gây ra tình trạng bất công, phân biệt đối xử, vi phạm

nguyên tắc công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.

Mặc dù được hưởng nhiều ưu đãi về phương diện tiếp cận nguồn lực,

đồng thời, trong nhiều trường hợp, được hưởng vị thế độc quyền trên thị trường

nội địa, nhưng hiệu quả và sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước

trong đó có cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế lại rất hạn chế

và đang trên đà đi xuống (xem phục lục 3).

Việc quá ưu ái đối với thành phần kinh tế nhà nước đã mang lại nhiều hậu

quả xấu cho nền kinh tế như nợ công, nợ xấu ngày càng lớn và càng phổ biến;

tham nhũng, tham ô tràn lan không kiểm soát được; sự thao túng của các nhóm

Page 100: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

95

lợi ích ngày càng rõ rệt và có ảnh hưởng tiêu cực chi phối đến nền kinh tế. Nếu

chúng ta vẫn tiếp tục duy trì tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực

phát triển cũng như bất hợp lý trong phân phối TLSX như hiện nay chúng ta sẽ

không còn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư. Do đó, việc phân phối lại

nguồn vốn là hết sức cần thiết để đạt được tiêu chí hiệu quả, chất lượng hoạt

động của các chủ thể kinh tế.

Không công bằng trong phân phối TLSX còn thể hiện ở chỗ, trong quá

trình phân phối, chúng ta chưa kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.

Nhân dân ở nhiều nơi đã di dời nhường đất canh tác cho các dự án lớn nhưng họ

vẫn chưa hoặc chậm nhận được hưởng thành quả do dự án đó đem lại. Tình trạng

ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp gây bức xúc cho người dân. Tồn tại

nhiều nghịch lý: dân ở vùng thủy điện lại không có điện, dân vùng sông hồ mà

thiếu nước sạch, dân vùng châu thổ vẫn thiếu lương thực; nông dân mất đất sản

xuất không được đào tạo nghề nên bế tắc trong tìm kế mưu sinh; quy hoạch xong

rồi bỏ trống trong khi đó nông dân không có ruộng để sản xuất; công nhân, nông

dân ở nhiều nơi trở thành người làm thuê. Nếu chúng ta không giải quyết tốt

những vấn đề này sẽ gây ra những bất ổn trong xã hội: tệ nạn xã hội gia tăng,

người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, môi trường tự nhiên ô nhiễm.

Tất cả điều này đã và đang cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và

PTCN Việt Nam nói riêng.

3.2.1.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu

nhập hạn chế việc phát triển con người Việt Nam hiện nay

Việc thực hiện phân phối công bằng với những nội dung mới được đặt ra

khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang trở

thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của

nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực

hiện còn nhiều hạn chế, chưa giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích, chưa trở thành

phương thức đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện CBXN. Điều này được phản

ánh rõ nhất qua chính sách tiền lương. Tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức

lao động, còn nhiều bất cập.

Tiền lương tối thiểu là mức lương thấp nhất mà người làm công ăn lương

được hưởng. Mục tiêu đặt ra của tiền lương tối thiểu là tái sản xuất sức lao động

và một phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Đây là “lưới an toàn” giúp người

lao động được bảo vệ khi người trả lương muốn trả mức lương càng thấp càng

Page 101: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

96

tốt. Mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh, mức lương tối thiểu ở nước ta hiện nay

còn quá thấp, không đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho người lao động và lại

chi phối quá lớn, quá cứng nhắc trên toàn bộ các khu vực nhận lương. Theo số

liệu thống kê, mức lương tối thiểu những năm gần đây chỉ đạt 60 - 65% nhu cầu

thực tế. Khi so sánh tiền lương tối thiểu của Việt Nam với các nước trong khu

vực thì nước ta thấp hơn khoản 40%. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp tư

nhân ở Việt Nam lại lấy mức lương tối thiểu mà Nhà nước chi trả làm gốc tham

chiếu trả lương cho người lao động mà không dựa vào năng suất, chất lượng và

hiệu quả lao động. Điều này dẫn đến trả lương không tương xứng với tốc độ tăng

lợi nhuận và tăng năng suất lao động. Khi đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng

định: “chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán

bộ, công chức, viên chức, người lao động còn thấp, lương tối thiểu chưa đảm bảo

đủ mức sống tối thiểu” [46, tr.136].

Mặt khác, chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay vẫn còn mang tính

bình quân chủ nghĩa. Trong khu vực kinh tế nhà nước, chúng ta trả lương theo vị

trí công chức chứ không trả theo công việc, chưa gắn liền với trách nhiệm, kết

quả lao động. Chính sách biên chế suốt đời, tăng lương đều hàng năm chưa thực

sự khuyến khích người lao động phấn đấu về mặt chuyên môn, mà còn vô tình

thúc đẩy người lao động cố gắng đua theo chức vị.

Tiền lương thấp, một mặt không phản ánh đúng sự đánh giá của xã hội đối

với người lao động, vì vậy, trong nhiều trường hợp đã triệt tiêu động lực sáng

tạo, không kích thích người lao động tích cực tìm kiếm những giải pháp để tăng

năng suất lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Mặt khác, người lao động phải

tìm cách tăng thêm thu nhập ngoài lương, từ đó sinh ra những hiện tượng tiêu

cực: lao động thiếu trách nhiệm, không tận tâm, không gắn bó với công việc,

tham ô, hối lộ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ đang bị tha hóa dẫn đến nạn tham

nhũng, làm giàu bất chính. Do đó, cần “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính

sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý”, “Bảo đảm

tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động”

[46, tr.136].

Tình trạng không công bằng còn thể hiện ở sự chênh lệch quá mức về thu

nhập giữa các khu vực, các thành phần, các ngành kinh tế; sự bất bình đẳng về

thu nhập, mức sống giữa những người có cùng trình độ, cùng năng lực làm việc,

Page 102: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

97

nhưng làm việc ở những thành phần kinh tế khác nhau. Theo tài liệu thống kê

của Bộ lao động, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ

lệ lớn nhưng đây là khu vực mà người lao động có mức thu nhập từ tiền lương

thấp nhất trong các loại hình doanh nghiệp. Số lao động có thu nhập cao chỉ tập

trung ở một số ngành chiếm dung lượng lao động trong cơ cấu lao động là

không nhiều (tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí, điện lực, bưu chính, viễn

thông). Những ngành kinh tế có số lượng người tham gia nhiều nhất (hoạt động

hiệp hội, đoàn thể, nông nghiệp, lâm nghiệp) thì lại có mức thu nhập bình quân

đầu người thấp nhất. Sự không công bằng trong thu nhập của người lao động

giữa các ngành, các thành phần kinh tế kéo theo sự bất bình đẳng về PTCN.

Khi chúng ta thực hiện CBXH với các hình thức phân phối đã đề cập ở

trên, sự phân hóa trong thu nhập ngày càng gia tăng giữa các vùng, miền, giữa

các nhóm dân cư. Theo kết quả điều tra chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm

dân số có thu nhập cao nhất so với nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất năm

1990 là 4,1 lần, năm 2012 là 9,4 lần. Chênh lệch thu nhập trung bình giữa các

vùng cũng tương đối rõ nét. Vùng có thu nhập đầu người tính theo tháng cao

nhất hiện nay là Đông Nam Bộ gấp 1,5 lần mức thu nhập chung trên toàn quốc

và gấp gần 2,5 lần so với vùng thu nhập thấp nhất là trung du và miền núi phía

Bắc (xem phụ lục 2 và phục lục 5). Ngay trong nội bộ từng khu vực, từng vùng,

chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng đang tăng dần.

Sự phân hóa này xét ở mức độ nào đó là biểu hiện của CBXH đã được

thiết lập, công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Người có năng lực, trình độ

cao, đóng góp nhiều thì được hưởng thành quả từ sự đóng góp đó. Từ đó sẽ góp

phần kích thích mọi thành viên trong xã hội tích cực học tập, nâng cao trình độ,

hăng hái tham gia sản xuất, kinh doanh, phấn đấu làm giàu. Điều này đã được

Đảng ta đã khẳng định từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII,

việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Song, nếu sự

phân hóa đi quá xa, tập trung ở những vùng nhạy cảm trong thời gian dài sẽ là

lực cản thực sự trên con đường phát triển kinh tế và thực hiện CBXH.

Điều đáng lo ngại là những người gia nhập vào tầng lớp nghèo không chỉ

là những người hạn chế về năng lực, trình độ sản xuất kinh doanh, vốn... phần

đông trong số họ là những người phải chịu nhiều bất lợi về điều kiện sinh sống,

cơ hội được học tập, đào tạo, được tiếp nhận thông tin... Do đó, họ không thể

cạnh tranh với nhiều đối tượng khác có nhiều ưu thế hơn. Đi liền với sự phân

Page 103: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

98

hóa về thu nhập là sự phân hóa về cơ hội. Sự đầu tư về giáo dục, y tế và các dịch

vụ khác - những lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chất lượng cuộc

sống chủ yếu thuộc về những người có nhiều tiền. Người nghèo cứ vẫn mãi ở

trong cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.

Phát triển con người ở đây không chỉ tập trung phát triển một cá nhân,

một bộ phận mà phải đảm bảo sự phát triển của cả cộng đồng, dân tộc. Chúng ta

phấn đấu ngày càng thu hẹp phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện, cơ hội cho

nhiều người vươn lên thoát nghèo và trở lên giàu có, nâng cao mức sống chung

cho đại bộ phận dân cư. Điều này đỏi hỏi Nhà nước phải sử dụng hệ thống công

cụ của mình để có sự điều tiết hợp lý về mọi mặt mới có thể phân phối công

bằng các thành quả của sự tăng trưởng và phát triển nói chung. Phân phối theo

cống hiến các thành quả phát triển, đảm bảo cho mọi người có điều kiện sống,

lao động bình đẳng là nguyên tắc phân phối công bằng nhất hiện nay. Vấn đề đặt

ra là tạo ra được tỷ lệ tương xứng, hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ có tính

đến khả năng phát triển.

3.2.1.3. Những hiện tượng làm giàu bất chính dẫn đến bất công đang

cản trở sự phát triển con người Việt Nam

Làm giàu hợp pháp là xu hướng tất yếu mà xã hội và Nhà nước đang

khuyến khích. Cùng với đó, chúng ta cần ngăn chặn những hiện tượng làm giàu

bất chính như tham nhũng, làm ăn phi pháp. Giàu có không phải bằng tài năng,

công sức, trí tuệ mà bằng cách làm giàu bất chính là hiện tượng bất công xã hội.

Những biểu hiện làm giàu bất chính trong xã hội ngày càng phức tạp và có xu

hướng gia tăng ảnh hưởng xấu, thậm chí vi phạm đến việc thực hiện CBXH và

nghiêm trọng hơn nếu không được sớm ngăn chặn sẽ dẫn đến bất ổn xã hội.

Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm

trọng, trở nên phổ biến. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình phân phối

và bóp méo kết quả phân phối ở nước ta. Tham nhũng không chỉ phát sinh ở

trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý

đất đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả

năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao... Thậm

chí, cả những lĩnh vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và

pháp luật như lĩnh vực phúc lợi xã hội (tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã

hội) hay bảo vệ pháp luật. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới về chỉ

số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm, Việt Nam xếp hạng thứ

Page 104: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

99

112/168 trong năm 2015 với điểm số: 31/100 [21] (trong đó 0 chỉ mức độ tham

nhũng cao và 100 là rất trong sạch).

Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy

nhà nước, lợi dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật, được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền giao cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản,

các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Hậu quả của hành vi

tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của

cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà

nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí

một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Hàng loạt vụ

tham nhũng lớn, nghiêm trọng đã bị phát hiện như: vụ tham nhũng tại Vinalines;

vụ tham nhũng tại tập đoàn Vinashin; vụ Huỳnh Thị Huyền Như cũng đồng

phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vụ tham ô tài sản lợi dụng chức vụ quyền hạn

xảy ra tại công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát

triển nông thôn Việt Nam; vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái, lừa đảo

chiếm đoạt tài sản xảy ra tại công ty dệt Kim Phượng và chi nhánh Ngân hàng

nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Thành phố Hồ Chí Minh....

Do giàu có nhanh chóng từ tham nhũng nảy sinh tệ nạn lãng phí, lối sống

xa hoa, phô trương, hưởng lạc, sa đọa, biến chất,… Điều đáng nói là, trong khi

đời sống nhân dân nhìn chung vẫn còn nghèo, những người lao động chân chính

đang phải nỗ lực, cố gắng phát huy sức lực, trí tuệ... phấn đấu vươn lên làm giàu,

đóng góp vào sự phát triển chung của dân tộc, thì chính những kẻ tham nhũng lại

đang từng ngày từng giờ cản trở tiến trình phát triển chung đó. Tham nhũng ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, thất thoát, lãng phí

tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng

cách giàu nghèo.

Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình

thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của

sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng

còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc khi người thực

hiện hành vi tham nhũng là những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế,

văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống, nền tảng tinh thần cho xã hội.

Bên cạnh đó, tình trạng làm giàu bất chính thông qua các hoạt động buôn

lậu, gian lận thương mại, làm ăn phi pháp, trốn thuế... vẫn còn tồn tại khá phổ

Page 105: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

100

biến làm gia tăng bất công xã hội. Trong khi những người làm ăn chân chính

phải bỏ nhiều công sức mới có được khoản thu nhập thì chỉ bằng vài thủ đoạn

lừa lọc, gian lận, bọn chúng đã có thể kiếm được những món tiền lớn, thỏa sức

tiêu sài. Điều này không chỉ khiến ngân sách Nhà nước thất thu lớn mà còn ảnh

hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trên phương diện PTCN, tham nhũng, làm giàu bất chính xét đến cùng là

sự đánh đổi bằng việc đã lấy đi lợi ích, lấy mất cơ hội phát triển của người lương

thiện. Nó làm giảm niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà

nước. Đây là nguy cơ làm suy thoái về chính trị, tư tưởng, một trong những tác

nhân của sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa và suy thoái về lối sống, cản trở sự

PTCN bền vững.

3.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội cản trở sự phát

triển năng lực con người Việt Nam

3.2.2.1. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong giáo dục,

đào tạo làm hạn chế sự phát triển trí lực con người Việt Nam

Với những thành quả đạt được trong công tác giáo dục, trình độ dân trí

của người Việt Nam được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, để có thể hội nhập quốc

tế một cách hiệu quả, để có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước thì con người Việt Nam phải có trình độ trí tuệ ngang tầm

đòi hỏi ít ra là của khu vực. Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc phổ cập giáo dục

cơ bản, ở việc biết đọc, biết viết. Công bằng về cơ hội giáo dục còn là tạo điều

kiện để mọi người đều có cơ hội học tập ở bậc học cao hơn, được tiếp cận với

một nền giáo dục có chất lượng. Ở nước ta hiện nay, những bất bình đẳng về cơ

hội giáo dục đang cản trở sự phát triển trí lực con người Việt Nam.

Với việc phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở nên ở các cấp học

này tình trạng bất bình đẳng về giáo dục vẫn chưa rõ nét. Tuy nhiên, người học

muốn học lên các cấp cao hơn phải đóng học phí ngoài kinh phí do Nhà nước

cấp. Càng lên bậc cao thì các hộ gia đình càng phải chi tiêu nhiều hơn cho giáo

dục. Do đó, không phải gia đình nào cũng có điều kiện để cho con em mình tiếp

tục học ở bậc học cao hơn. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách trợ

giúp các đối tượng nghèo, khó khăn như miễn, giảm học phí, nhưng trong thực

tế, khoản tiền miễn, giảm chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ chi phí cho việc

học tập, còn nhiều khoản phải đóng góp như: học thêm, các loại quỹ, tiền mua

sách tham khảo... Độ bao phủ của dịch vụ giáo dục giảm dần từ tiểu học đến đại

Page 106: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

101

học. Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012, tỷ lệ đi học đúng độ

tuổi tiểu học đúng độ tuổi 92,4%, trung học cơ sở là 81,4%, trung học phổ thông

59,4%, cao đẳng đại học chưa đến 20% [73, tr.63]. Điều này dẫn đến tỷ trọng lực

lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp. Theo số liệu của tổng cục

thống kê năm 2014, trong tổng số 53,748 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực

lượng lao động của cả nước, chỉ có 9,99 triệu người đã được đào tạo, chiếm

18,6% tổng lực lượng lao động. Trình độ dân trí chưa cao, nhất là trình độ

chuyên môn kỹ thuật còn thấp là những yếu tố cơ bản phản ánh chất lượng của

người Việt Nam còn chưa thực sự phát triển. Đây là một trong những trở ngại

lớn trong lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong bối cảnh

hiện nay để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao. Sự hạn chế về giáo dục, đào

tạo cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội tìm việc làm

có thu nhập tốt.

Thực hiện CBXH trong giáo dục còn là nâng cao chất lượng giáo dục

vùng khó khăn để đạt được mặt bằng chung, đồng thời, tạo điều kiện để các địa

phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt

trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Hiện nay, đa số học

sinh nghèo, nhất là học sinh ở vùng miền núi dân tộc thiểu số thể hiện sự kém

hơn về chất lượng giáo dục khi lên những bậc học cao hơn (do chất lượng giáo

viên, điều kiện học tập, sự quan tâm và khả năng đầu tư của gia đình kém hơn).

Số lượng học sinh ở vùng miền núi dân tộc thiểu số đỗ vào những trường đại học

chính quy cấp quốc gia rất ít, họ thường chỉ có thể thi vào những trường đại học

vùng, tỉnh, các trường cao đẳng, trung cấp, hoặc chờ cơ hội cử tuyển.

Sự chênh lệch về chất lượng giáo dục còn thể hiện ở sự chênh lệch lớn về

lao động được đào tạo giữa các vùng, các địa phương, giữa nông thôn và thành

thị. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo thấp nhất ở vùng Đồng bằng

sông Cửu Long 11,4%, cao nhất là ở Hà Nội 39,4% và thành phố Hồ Chí Minh

34,1% [146, tr.89-92]; ở nông thôn là 12,6% và ở thành thị là 36,3%. Khi người

lao động được đào tạo, có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới

và hội nhập thì thu nhập của họ được nâng cao, là tiền đề quan trọng cho sự phát

triển kinh tế - xã hội nói chung và PTCN nói riêng.

Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục đang diễn ra cản

trở việc thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo. Đầu tư cho giáo dục, đào

Page 107: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

102

tạo còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Tính dàn trải biểu hiện rõ nhất

qua việc số lượng các trường đại học, cao đẳng tăng quá nhanh, mở rộng nhiều

hình thức đào tạo như đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa, vừa học vừa làm...

nhưng quản lý nhà nước không chặt chẽ, cho nên hiện tượng học giả nhưng vẫn

nhận bằng thật không phải là hiếm. Bằng cấp không phản ánh đúng thực chất

trình độ của người có bằng. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng

cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục, đào tạo.

Những bất công trong giáo dục, đào tạo đang từng ngày, từng giờ cản trở

sự phát triển sự phát triển trí lực của con người Việt Nam. Nếu chúng ta căn cứ

vào chỉ số HDI để đánh giá thì giáo dục ở nước ta có chỉ số cao hơn hẳn so với

chỉ số thu nhập và tuổi thọ. Có được điều đó là do chúng ta đã thực hiện nhanh

và hiệu quả quá trình xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, do những yếu kém, bất cập

nên sự phát triển của giáo dục còn chưa tương xứng với sự PTCN, chưa thực sự

tạo cơ hội và điều kiện cho sự phát triển trí lực của con người.

3.2.2.2. Sự bất cập của thực hiện công bằng về cơ hội trong y tế làm

hạn chế sự phát triển thể lực con người Việt Nam

Thực hiện CBXH trong y tế ở nước ta mặc dù đạt được những tiến bộ nhất

định, góp phần nâng nâng cao thể lực con người Việt Nam; tuy nhiên, tình trạng

bất công bằng trong y tế vẫn lớn.

Thứ nhất, phân bổ nguồn lực và tài chính cho y tế còn nhiều bất hợp lý.

Y tế tuyến huyện và xã là tuyến gần dân nhất thì tỷ lệ chi của ngân sách

nhà nước chiếm tỷ trọng rất thấp, chiếm 18,5% tổng chi. Do đó, các cơ sở y tế

tuyến huyện, xã thường hoạt động trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất,

khó khăn về nhân lực, chế độ thù lao thấp, chi thường xuyên thấp, dẫn đến yếu

kém về chất lượng chuyên môn. Tuyến Trung ương và tuyến tỉnh, nơi mà nhiều

người giàu sử dụng dịch vụ hơn so với người nghèo thì ngân sách nhà nước tập

trung tương đối lớn: tuyến trung ương là 36,8 %, tuyến tỉnh là 44,7%. Tuyến

trung ương, các thành phố lớn và các khu đô thị cũng là nơi tập trung các cơ sở

khám chữa bệnh có cơ sở vật chất tốt và đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên

môn cao. Trong khi đó, phần lớn người dân số nước ta vẫn tập trung ở vùng

nông thôn nên khó tiếp cận tiếp cận với các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe có

chất lượng, vừa gây ra hiện tượng trợ cấp ngược: người giàu được hưởng chi từ

Page 108: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

103

ngân sách nhà nước hơn là người nghèo. Có thể nói, việc người giàu nhận được

nhiều ưu đãi về y tế hơn người nghèo là một sự bất công. Điều đó thể hiện sự

yếu kém trong khâu quản lý và thực thi chính sách ở các địa phương, làm tăng

bất công xã hội.

Thứ hai, bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế.

Trong những năm gần đây, độ bao phủ BHYT được mở rộng làm tăng cơ

hội tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là đối với người nghèo. Đây sẽ là

phao cứu sinh cho người nghèo để họ có thể tiếp cận được với các dịch vụ chăm

sóc sức khỏe khi chẳng may ốm đau. Tuy nhiên, mức chi trả của BHYT dành cho

nhóm đối tượng này rất thấp khiến thẻ BHYT của người nghèo phát ra chỉ lấy số

lượng nhiều hơn chất lượng, không giúp được họ nhiều trong tiếp cận và sử dụng

dịch vụ y tế, bảo vệ họ khỏi các thảm họa bệnh tật, thảm họa tài chính do bệnh tật.

Thực tế cho thấy, các nhóm dân số nông thôn, người nghèo, dân tộc thiểu số có

mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế thông qua bảo hiểm y tế thấp hơn các nhóm thành

thị, người giàu dân tộc Kinh. Tần suất khám chữa bệnh của người giàu thông qua

bảo hiểm y tế cao hơn. Rõ ràng, người giàu vẫn là người hưởng lợi nhiều hơn

người nghèo từ qũy BHYT.

Bên cạnh đó, với cơ chế tự chủ và xã hội hóa dịch vụ y tế, nhiều bệnh viện

công hình thành khu vực khám chữa bệnh theo nhu cầu. Từ đó dẫn tới nghịch lý,

trong cùng một một khoa hình thành 2 chế độ. Người bệnh sử dụng BHYT hoặc

thu nhập thấp thì phải nằm ghép 2-3 người/giường, còn người bệnh khám chữa

bệnh theo yêu cầu 1 người/giường với đầy đủ tiện nghi, những người có điều

kiện hơn có thể chọn nằm phòng riêng chỉ có 1-2 người/phòng. Sự tương phản

này cũng làm tăng bất công bằng trong chăm sóc sức khỏe.

Thứ ba, tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình cho y tế vẫn cao so với thu nhập.

Hiện nay ở nước ta, tỷ trọng nguồn tài chính công chiếm khoảng 30%

tổng chi của xã hội cho y tế, nguồn tài chính cho chăm sóc sức khỏe chủ yếu từ

tiền túi hộ gia đình. Tỷ trọng chi công như vậy được coi là rất thấp so với những

nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới và thuộc nhóm có cơ cấu chi

gây bất bình đẳng nghiêm trọng theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới

(WHO). Việc các nguồn chi trả từ hộ gia đình chiếm tỉ trọng cao sẽ dẫn đến

việc các gia đình sẽ phải thường xuyên đối mặt với chi phí y tế quá khả năng

chi trả, họ có nguy cơ bị nghèo hóa. Theo báo cáo tổng quan của ngành y tế

Page 109: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

104

năm 2013, nếu chi phí từ tiền túi của hộ gia đình bằng hoặc lớn hơn 40% khả

năng chi trả của hộ gia đình (là phần thu nhập còn lại của hộ gia đình sau khi

đã chi cho lương thực, thực phẩm) thì đó là chi phí y tế thảm họa. Khi con

người gặp khó khăn trong việc trang trải chi phí y tế thì có nghĩa thể lực không

được đảm bảo phát triển tốt, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt khác:

Trí lực, tâm lực.

Có thể thấy, vấn đề công bằng trong y tế ở nước ta đang bị đánh giá khá

thấp. Theo đánh giá của Tổ chức y tế thế giới năm 2009, Việt Nam được xếp thứ

183 trong tổng số 194 quốc gia về công bằng trong y tế. Tình trạng bất công

bằng về y tế ở nước ta biểu hiện rõ nhất ở sự bất công bằng giữa các vùng miền,

giữa các khu vực cư trú, giữa các nhóm tuổi, giữa nhóm giàu và nhóm nghèo...

về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe. Điều này đã dẫn đến sự

khác biệt trong tình trạng sức khỏe người dân giữa các nhóm kinh tế, xã hội,

vùng miền, dân tộc ở Việt Nam hiện nay.

Tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là

những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển về thể lực con người. Có sự

khác nhau giữa các nhóm, vùng, miền về những chỉ tiêu này. Ở khu vực nông

thôn, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở mức 21,5‰, cao gấp 1,5 lần khu vực

thành thị (15,7‰). Tỷ suất tử vong trẻ em dưới năm tuổi cao nhất ở khu vực

Trung du và miền núi phía Bắc là 47,5‰, cao gấp 6,5 lần so với khu vực thấp

nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi cao

nhất ở nhóm dân tộc thiểu số là 53‰, cao gấp khoảng 4 lần so với nhóm

Kinh/Hoa [148]. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em cũng có sự khác biệt lớn theo

vùng, trong đó, Tây Bắc và Tây Nguyên có tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao nhất.

Điều này dẫn đến sự phát triển thể lực con người Việt Nam cũng có sự chênh

lệnh lớn giữa các vùng, các địa phương. Vì thế, tuổi thọ cũng có sự chênh lệch

lớn (xem phụ lục 6 và phụ lục 7).

Báo cáo PTCN của thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây cho

thấy, chỉ số tuổi thọ ở nước ta đang có xu hướng tăng chậm do nhiều yếu tố,

trong đó có sự bất công bằng về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức

khỏe. Đây là thách thức rất lớn đối với việc PTCN khi Việt Nam đang nỗ lực

giảm bớt khoảng cách giữa các vùng và các nhóm thu nhập hướng tới mục tiêu

PTCN bền vững.

Page 110: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

105

3.2.2.3. Công bằng về cơ hội trong tiếp cận thông tin, văn hóa còn nhiều

bất cập làm hạn chế sự phát triển tâm lực của con người Việt Nam

Hiện nay, việc tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội được

tiếp cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa vẫn chưa thực sự đạt kết quả như mong

muốn. Sự phân hóa trong thu nhập giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân cư

đã kéo theo sự phân hóa trong đời sống văn hóa. Các nhóm xã hội có thu nhập,

trình độ học vấn khác nhau có nhu cầu hưởng thụ văn hóa, lối sống, định hướng

giá khác nhau, hình thành các nhóm văn hóa trung lưu, văn hóa người giàu, văn

hóa người nghèo. Khảo sát thực tế cho thấy, những gia đình có mức sống thấp

hầu như không có điều kiện đầu tư cho nhu cầu tinh thần. Đặc biệt ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào dân tộc cư trú, các sinh hoạt văn hóa còn nghèo nàn,

nhiều gia đình quanh năm không bao giờ đọc sách báo, xem phim, thỉnh thoảng

xem văn nghệ do các đoàn văn công tỉnh về biểu diễn không mất tiền.Thực tế

cũng chỉ ra, nhóm nghèo thường mặc cảm và đóng kín về văn hóa, từ đó khiến

họ khó tiếp cận được với các thông tin, tri thức, tiếp cận các cơ hội nguồn lực

giúp họ cải thiện đời sống.

Sự phân hóa về văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến PTCN, khiến cơ hội và

điều kiện để nâng cao năng lực của con người rất khác nhau. Đời sống văn hóa

nghèo nàn, cơ hội tiếp cận thông tin hạn chế kéo theo sự nghèo nàn về tâm hồn,

trí tuệ. Do không có điều kiện tiếp cận thông tin, tri thức nên những nhóm này

thường khó vươn lên làm giàu. Đây cũng là nhóm dễ bị các phần tử xấu, các

phần tử phản động lôi kéo, kích động gây mất ổn định xã hội.

Sự phân hóa còn thể hiện rất rõ ở các thiết chế văn hóa cộng đồng. Những

khu vực kém phát triển hay thu nhập thấp thì các thiết chế văn hóa cũng thường ít

được đầu tư, không được xây dựng khang trang như những nơi có thu nhập cao. Ở

nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu

số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, vùng biên giới, hải đảo, hệ

thống thiết chế văn hóa cũng như hoạt động văn hóa còn quá nghèo nàn, chưa đáp

ứng nhu cầu của nhân dân. Nhiều địa phương chưa có đủ quỹ đất như quy định

cũng như thiếu kinh phí, thiếu đội ngũ cán bộ để xây dựng hệ thống thiết chế văn

hóa. Tình hình trên đây cũng đúng với hệ thống rạp chiếu phim, thư viện, bảo tàng,

nhà triển lãm,... Hiện nay, cả nước có rất nhiều thư viện, nhưng ngoại trừ ở các

thành phố lớn, số lượng đầu sách ở các thư viện cơ sở rất nghèo nàn, các sách mới

không được bổ sung, do đó không hấp dẫn người đọc. Điều này đã hạn chế người

Page 111: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

106

dân tiếp cận thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc biệt về kiến thức

trong đời sống kinh tế, kinh nghiệm làm ăn vươn lên thoát nghèo và làm giàu cho

bản thân cũng như cho gia đình và cộng đồng.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xã hội

hóa hoạt động văn hóa. Thời gian qua, các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa do

các cá nhân tự tổ chức và huy động kinh phí đã phát triển tương đối mạnh, nhất là

lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, bảo tồn, tôn tạo các di

tích lịch sử - văn hóa của địa phương, khôi phục, phát triển các lễ hội truyền thống

v.v.. Công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả quan trọng,

góp phần cải thiện và nâng cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc

biệt là người dân vùng nông thôn. Những thành tựu xã hội hóa hoạt động văn hóa là

đáng ghi nhận, tuy nhiên, vẫn còn không ít những mặt yếu kém, khuyết điểm.

Chúng ta chưa có những giải pháp hữu hiệu để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về

đời sống văn hóa của đồng bào miền ngược với miền xuôi, nông thôn và thành thị.

Hoạt động xã hội hóa văn hóa không đồng đều giữa các vùng miền và các lĩnh vực

văn hóa đã dẫn đến những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin, kiến thức, học hành

ở những vùng khó khăn.

Cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn đều đã chứng minh, để tạo điều kiện cho

mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình thì cần phải tạo

điều kiện cho họ có thể tiếp cận một cách bình đẳng, công bằng với các dịch vụ

xã hội như: giáo dục, y tế, thông tin văn hóa… Thực tế cho thấy, các cơ hội đầu

tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác chủ yếu thuộc về những

người giàu. Phần thua thiệt thường rơi vào những người nghèo, người dễ bị tổn

thương và yếu thế trong xã hội. Người nghèo ít có cơ hội trong tiếp cận nền giáo

dục bậc cao và chất lượng, hạn chế trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe,

thông tin, văn hóa, do đó, cũng bị hạn chế về cơ hội việc làm. Điều này làm tăng

thêm tình trạng bất công trong xã hội, khiến sự PTCN thiếu bền vững.

3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện CBXH trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Sau 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã

chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao

cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN ở nước ta hướng đến mục tiêu thực hiện: dân giàu, nước

Page 112: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

107

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế thị trường có tác động tích

cực trong việc kích thích mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất để thực hiện CBXH. Song, kinh tế thị

trường cũng có nhiều hạn chế, làm nảy sinh nhiều bất công trong xã hội, ảnh

hưởng tới mục tiêu thực hiện CBXH. Nền kinh tế thị trường với sự hoạt động

mạnh mẽ của các quy luật khách quan: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...

dẫn tới tình trạng sẽ có một lớp người giàu lên nhanh chóng do có năng lực, trình

độ, vốn, tài sản... đồng thời, cũng sẽ có nhiều người do thiếu trình độ, kỹ năng

sản xuất, kinh nghiệm quản lý, thiếu vốn, làm ăn thua lỗ... trở nên nghèo khó.

Những người giàu có do lợi thế về vốn, kỹ năng quản lý... ngày càng giàu có.

Những người nghèo, yếu thế hơn do quy luật cạnh tranh của thị trường lại tiếp

tục bị đào thải và ngày càng nghèo. Theo vòng quay của kinh tế thị trường thì sự

phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu thêm. Phân hóa giàu nghèo là điều không thể

tránh khỏi của mọi nền kinh tế thị trường. Điều này không ngoại lệ đối với quá

trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Thực tế những năm qua đã cho thấy,

cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế là tình trạng phân hóa giàu

nghèo ngày càng có chiều hướng gia tăng. Sự phân hóa này, xét ở mức độ nào đó

là biểu hiện của CBXH, công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Tuy nhiên, sự

phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất bình đẳng xã hội hoàn toàn không phù hợp

với mục tiêu xây dựng CNXH của chúng ta.

Nhận thức rõ xu hướng phân cực ngày càng lớn trong quá trình phát triển

nền kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc triển khai

các biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này: có chính sách bảo trợ và điều tiết

hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các khu vực, giữa các vùng,

miền, nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội phù hợp với trình độ phá triển

kinh tế; dùng các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp; khuyến khích làm

giàu hợp pháp, tích cực xóa đói, giảm nghèo, ngăn chặn thu nhập phi pháp... Tuy

nhiên, hiệu quả của những biện pháp trên chưa cao.

Cùng với việc gia tăng phân tầng xã hội, kinh tế thị trường dẫn đến tuyệt

đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là

trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. Tiền xâm nhập vào

nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu

chuẩn hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô,

hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy

Page 113: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

108

chức chạy quyền bằng tiền... chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay

nhưng hiện vẫn đang diễn ra phức tạp và là nỗi lo lắng của xã hội.

Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang hạn chế vai trò của thực hiện

CBXH đối với việc PTCN mà nguyên nhân của nó là do thể nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN chúng ta đang xây dựng “chưa thật đồng bộ, thông

suốt; chưa thực sự là động lực đột phá để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả

các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện

môi trường kinh doanh”... “Các loại thị trường vận hành còn nhiều vướng mắc

và hiệu quả chưa cao”... “Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để

đảm bảo cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng

trong kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế” [46, tr.247-248].

Bên cạnh đó, những bất cập của thời kỳ bao cấp với “cơ chế xin cho”, vừa

bình quân, vừa đặc quyền vẫn còn phổ biến không những trong đời sống vật chất

mà cả trong nhận thức. Chúng ta tiến hành đổi mới được 30 năm, song đến nay,

trong cách làm chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại. Chẳng hạn,

trong vấn đề về phân phối TLSX mà cụ thể ở đây là vốn, chúng ta phân phối vẫn

mang tính dàn trải, theo cơ chế xin - cho. Từ cơ chế này các nguồn lực sẽ được

phân bổ tới những địa chỉ có “quan hệ”, chứ không phải tới những địa chỉ cần

cho sự phát triển. Cùng với đó, vấn đề chế độ tiền lương của người lao động

trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh

của Nhà nước vẫn bất cập bởi tính bình quân của nó. Điều này đã trực tiếp làm

giảm lòng nhiệt tình lao động, hạn chế việc phát huy khả năng, sự sáng tạo của

người lao động.

Cùng với chế độ phân phối bình quân, tư tưởng đặc quyền, đặc lợi vẫn

còn tồn tại phổ biến, thậm chí có chiều hướng gia tăng tính bất công xã hội. Có

thể thấy rõ qua việc một bộ phận cán bộ có chức quyền được cấp hoặc bán đất

phân lô với giá rẻ, thấp hơn giá thị trường rất xa (trong khi đó Nghị định của

Chính phủ từ năm 1992 trở đi cấm cấp đất phân lô cho cán bộ, công chức, viên

chức nhà nước); đó là việc cấp phương tiện đi làm không đúng cho một bộ phận

cán bộ (ô tô, xăng dầu, người điều khiển...); đó là đặc quyền, đặc lợi trong phân

bổ ngân sách, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, trong tổ chức bố trí cán bộ đi

tham quan, nghiên cứu nước ngoài... Thậm chí, đặc quyền, đặc lợi còn thể hiện

trong cả cơ cấu vào cấp uỷ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Tư tưởng và lề thói đặc

quyền, đặc lợi có tác hại rất lớn đến sự phát triển của đất nước. Nó xâm phạm tài

Page 114: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

109

sản nhà nước, lợi ích của nhân dân, gây mất CBXH. Nó kích thích phát triển tệ

nạn chạy chức, làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với

Đảng và chế độ, tạo nên những bức xúc, cản trở sự đồng thuận xã hội và là một

trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự thờ ơ về chính trị.

Thứ hai, sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội,

cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện chính sách đã

gây khó khăn cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN.

Chính sách kinh tế là những chủ trương và biện pháp kinh tế mà Nhà nước

áp dụng trong một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những yêu cầu

và những mục tiêu kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách kinh tế được xây dựng

trên cơ sở những phân tích, dự báo về các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước

và những xu hướng phát triển của xã hội. Các chính sách kinh tế có tác dụng

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kinh tế phát triển là điều kiện, cơ sở để thực hiện

tốt CBXH.

Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, sự phát triển kinh tế cũng đồng thời

kéo theo một loạt các vấn đề về xã hội, như nạn thất nghiệp, sự phân hóa giàu

nghèo, mất cân bằng sinh thái, các chứng bệnh nan y và cả sự thay đổi về các giá

trị đạo đức, giá trị tinh thần... Chính vì vậy, bên cạnh các chính sách kinh tế,

chính sách xã hội đóng vai trò như một cán cân điều tiết, đem lại đời sống tốt

đẹp, sự công bằng, dân chủ cho mỗi thành viên trong xã hội. Chính sách xã hội

là bộ phận cấu thành chính sách chung của Nhà nước trong việc quản lý và giải

quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của các

thành viên trong xã hội, từ điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa

đến quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội.

Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là hai phạm trù riêng rẽ nhưng

không tách rời nhau, có mối quan hệ tương hỗ và thống nhất. Sự đồng bộ giữa

chính sách kinh tế và chính sách xã hội là điều kiện cần và đủ để bình ổn và phát

triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện

chính sách xã hội và ngược lại, sự ổn định, công bằng và tiến độ của xã hội đạt

được thông qua các chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ để thực

hiện các mục tiêu kinh tế, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh. Làm rõ mối quan hệ giữa hai loại chính sách này thực chất là

làm rõ mục tiêu xã hội trong chính sách kinh tế, làm rõ điều kiện kinh tế ảnh hưởng

đến việc thực hiện chính sách xã hội. Đây cũng đồng thời là quan hệ giữa tăng

Page 115: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

110

trưởng kinh tế và mục tiêu CBXH. Sự hài hòa, đồng thuận giữa chính sách kinh tế

và chính sách xã hội bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, mạnh, bền vững đồng thời

đảm bảo thực hiện CBXH, PTCN.

Ở nước ta hiện nay, việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội

bên cạnh những thống nhất cơ bản vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, dẫn đến

vi phạm nguyên tắc CBXH. Việc thực hiện chính sách kinh tế phải tuân thủ

nghiêm ngặt quy luật của kinh tế thị trường, phải chấp nhận cạnh tranh, phá sản,

thất nghiệp... Mặc dù trong chính sách kinh tế đã hàm chứa những giải pháp xã

hội, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của nó là giải quyết những vấn đề kinh tế. Để đảm

bảo tăng trưởng kinh tế, bất cứ một giải pháp kinh tế nào cũng trước hết, phải

chú trọng đến hiệu quả kinh tế. Do vậy, chính sách kinh tế, dù tối ưu đến đâu

cũng không thể bao quát và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp của

lĩnh vực xã hội rộng lớn. Vì vậy, không thể tránh khỏi nảy sinh những vấn đề xã

hội nhức nhối trong quá trình phát triển kinh tế. Ngược lại, việc thực hiện các

chính sách xã hội nhiều khi mâu thuẫn với kinh tế. Bởi vì, việc thực hiện các

chính sách này vượt quá khả năng cho phép của nền kinh tế, hoặc vi phạm những

nguyên tắc công bằng trong kinh tế, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng

kinh tế. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự giàu lên nhanh chóng của một bộ phận

dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế, chính sách và yếu kém trong

quản lý nhà nước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả lao

động. Chính sách đất đai là một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay. Ở

nhiều vùng, chính sách thu hồi đất làm khu công nghiệp, khu đô thị phục vụ

quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa bên cạnh những tác động tích cực: thay

đổi diện mạo nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, nhiều ngành nghề mới được

mở ra tạo điều kiện cho người nông dân có cơ hội tìm kiếm việc làm... nhưng

cũng đặt ra nhiều bất cập: Vấn đề việc làm cho những người nông dân mất đất

nhưng trình độ nhận thức và tay nghề hạn chế không thể trực tiếp tham gia vào

những ngành nghề mới mở ra; phân hóa thu nhập, giàu nghèo diễn ra với tốc độ

nhanh giữa những người có cơ hội tiếp cận được những ngành nghề phi nông

nghiệp và bến động giá đất với những người không có cơ hội trên. Trong thời

gian qua chúng ta chưa có các chính sách và giải pháp hữu hiệu để giải quyết

những vấn đề nêu trên.

Mặt khác, chính sách tốt nhưng tổ chức thực hiện kém sẽ làm giảm hiệu

lực thực thi, thậm chí vi phạm nguyên tắc CBXH. Nguyên tắc phân phối mà

Page 116: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

111

Đảng ta nêu ra trong điều kiện nước ta hiện nay được đánh giá là công bằng và

hợp lý nhưng nguyên tắc này chưa được thực hiện tốt trong thực tế. Tuy là phân

phối theo lao động nhưng còn đang xảy ra tình trạng bất công bất khả kháng.

Nhiều nghề lao động giản đơn trong một số trường hợp lại có thu nhập lớn hơn

nhiều lần thu nhập phức tạp, nhiều lĩnh vực lao động trí óc lại hưởng thụ thấp

hơn lao động chân tay, nhiều sản phẩm lao động trí óc vẫn chưa có thị trường.

Nhiều người ở vùng sâu, vùng xa chưa được hưởng phúc lợi như ở thành phố....

Hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện chính sách còn thể hiện qua: chậm

thực thi chính sách, rõ nhất ở thực hiện các dự án đầu tư công, chính sách thuế,

chính sách ưu đãi; chưa bao quát, thậm chí chưa đúng đối tượng chính sách; hoạt

động theo dõi, đánh giá vẫn mang nặng tính hình thức dẫn đến tình trạng chỉ

quản lý theo đầu vào, không đánh giá được đầu ra. Hệ quả là khó nắm bắt thông

tin kịp thời cũng như khó đánh giá được tác động của chính sách để phục vụ cho

điều hành, điều chỉnh chính sách.

Thứ ba, hạn chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã

làm giảm vai trò của việc thực hiện CBXH với việc PTCN.

Thực chất sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị mang tính định

hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ thống chính

trị có cơ sở để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những công

cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể của mình. Đảng đề ra chủ trương, đường

lối về CBXH. Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa chủ trương, đường lối đó

thành các luật và chính sách. Đảng lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã

hội tổ chức thực hiện và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động đó.

Hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lãnh đạo, chỉ đạo

và quản lý việc thực hiện CBXH của Đảng và Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn

chế ảnh hưởng đến mục PTCN Việt Nam.

Năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng đường lối,

chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và về CBXH nói riêng

còn hạn chế. Điều này đã được đề cập nhiều lần trong các kiện Đảng: “Công tác

tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn

đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở

khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà

nước” [42, tr.67]. Nói chung trình độ tư duy lý luận của Đảng về CBXH vẫn

trong tình trạng bất cập so với yêu cầu của thực tiễn hiện nay. Nhiều vấn về

Page 117: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

112

CBXH được đặt ra mà lý luận chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức

thuyết phục, vì vậy vai trò tiên phong, dẫn đường của lý luận cách mạng bị hạn

chế. Hơn nữa, mặc dù công bằng là một trong 5 thành tố của mục tiêu phát

triển song cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng và ban hành nghị quyết

tổng thể về thực hiện CBXH. Các chủ trương, quan điểm, giải pháp thực hiện

CBXH chủ yếu thể hiện ở những quan điểm, giải pháp chung chung trong Văn

kiện, Nghị quyết của Đảng. Việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện những quan

điểm, giải pháp chung về CBXH chủ yếu được thể hiện trong các nghị quyết về

phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục - đào tạo, văn hóa... Còn tình trạng ban hành

nhiều nghị quyết, quyết định trong các lĩnh vực này chưa thực sự gắn kết với

việc thực hiện CBXH. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện CBXH

chưa được coi trọng.

Trong thời gian qua, Đảng ta có nhiều nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện

Nhà nước về cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà

nước. Song, năng lực quản lý điều hành của bộ máy nhà nước ta chưa ngang tầm

với đòi hỏi của thời kỳ mới, năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà

nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát;

trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm.

Việc xây dựng và ban hành một số văn bản pháp luật, mà ở đây là những

đạo luật, những chế độ, chính sách liên quan đến CBXH vừa chậm, vừa thiếu

đồng bộ, chất lượng chưa cao. Hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng

bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật. Nhiều đối

tượng lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để trục lợi gây ảnh hưởng đến việc

thực hiện CBXH (trốn thuế, tham nhũng, v.v..). Một số văn bản pháp luật quan

trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao. Ví dụ, Luật Cạnh tranh tuy

được ban hành từ năm 2004, song hiệu lực thực thi còn thấp, vẫn còn nhiều khe

hở để một số doanh nghiệp lạm dụng vị thế khống chế thị trường, làm tổn hại lợi

ích của xã hội nói chung và những doanh nghiệp nhỏ nói riêng. Tính cụ thể,

minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp. Những sai phạm về hình thức văn

bản vẫn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp

luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh. Quy

trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng. Cách phân công

và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của

ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của người dân.

Page 118: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

113

Việc sửa đổi những điểm không còn hợp lý và bổ sung những điểm mới trong

một số văn bản pháp luật nhìn chung còn chậm trễ, làm cho việc xử lý những

vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn thiếu căn cứ pháp lý. Trong khi đó, công tác

kiểm tra và giám sát còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp của các cơ quan chức năng

thanh tra và kiểm toán rất lỏng lẻo, thiếu đồng bộ. Công tác xử lý hay cưỡng chế

sai phạm, truy cứu trách nhiệm công vụ chưa thực sự kịp thời và đúng pháp luật.

Đây chính là nguyên nhân gia tăng tình trạng tham nhũng, lãng phí, làm ăn phi

pháp… trong thời gian qua.

Thực hiện CBXH là một nội dung lớn, cần được quán triệt và phối hợp

tích cực giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng

quan điểm, đường lối, định hướng chính trị giúp cho Nhà nước phát huy vai trò,

hiệu quả hoạt động. Nhà nước cần thực hiện chức năng quản lý hiệu quả, đặt

dưới sự lãnh đạo Đảng. Tuy là hai mặt thống nhất, nhưng Đảng và Nhà nước có

vai trò, chức năng khác nhau. Ở nước ta hiện nay, tình trạng không phân định rõ

về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Đảng và Nhà nước còn khá phổ biến

dẫn đến sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gây nhiều lúng

túng trong tổ chức hoạt động, làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực

quản lý của Nhà nước. Chính những hạn chế trong phân định chức năng, nhiệm

vụ và quyền hạn giữa Đảng và Nhà nước đã dẫn tới tình trạng quan điểm, đường

lối của Đảng đúng đắn, nhưng nhiều khi không được thực hiện, thậm chí thực

hiện sai.

Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ đảng viên còn tương

đối thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Các cán bộ,

đảng viên hầu như chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, hệ thống về

thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh

nghiệm lãnh đạo thực hiện công việc này của các cán bộ, đảng viên còn chưa

nhiều, nên họ khó tránh khỏi lúng túng và sai sót. Điều đáng quan ngại hơn nữa

chính là sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận không ít cán bộ, công chức.

Không ít trường hợp cán bộ, công chức lợi dụng chức quyền để vòi vĩnh, đòi hối

lộ, gây đủ mọi phiền hà đối với người dân và doanh nghiệp.

Thứ tư, hạn chế trong nhận thức về CBXH đã và đang làm giảm vai trò

của việc thực hiện CBXH với việc PTCN.

Như đã phân tích, CBXH là một phạm trù mang tính lịch sử. Nó không

chỉ phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, bản chất của nhà nước và giai cấp

Page 119: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

114

cầm quyền mà còn bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn

lịch sử cụ thể ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Để thực hiện tốt CBXH trước hết cần

có quan niệm đúng về CBXH phù hợp với tiền đề hiện thực của nền kinh tế cũng

như mục tiêu chính trị của đất nước.

Chúng ta tiến hành đổi mới được 30 năm, tuy nhiên, cho đến nay, nhiều vấn

đề lý luận về CBXH chưa được làm sáng tỏ khiến không ít cán bộ và người dân

vẫn còn nhận thức mơ hồ, giản đơn về CBXH. Nhiều người đồng nhất CBXH với

chủ nghĩa bình quân, coi CBXH là mọi người đều ngang bằng nhau trong mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội, người làm ít, làm nhiều, cống hiến nhiều, cống hiến ít

đều được hưởng quyền lợi như nhau dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp

đỡ của Đảng và Nhà nước, không chịu cố gắng vươn lên. Đa số mọi người nhận

thức về CBXH mới chỉ dừng lại ở chiều cạnh kinh tế, hiểu CBXH là sự tương

xứng giữa cống hiến và hưởng thụ. Cách hiểu này không bao quát hết được nội

hàm của khái niệm CBXH. Nhiều người lẫn lộn giữa CBXH và bình đẳng xã hội.

Chính những sai lầm, hạn chế trong nhận thức dẫn đến quá trình thực hiện CBXH

ở nước ta còn nhiều bất cập, mục tiêu thực hiện CBXH cũng như PTCN đều

không thực hiện được.

Những nguyên nhân trên đây là chủ yếu. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu

nhất quyết định sự thành, bại trong việc thực hiện CBXH với việc PTCN ở nước

ta hiện nay là nhân tố chủ quan, tức bản thân các chủ thể trong thực hiện CBXH.

Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống các chính sách phù hợp góp phần đảm

bảo thực hiện CBXH, PTCN.

Kết luận chương 3

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta,

CBXH đã được thực hiện tương đối tốt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế... củng cố sự ổn định xã hội, phát triển kinh

tế, góp phần nâng cao đời sống người dân, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội cho

sự PTCN. Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong việc thực hiện CBXH

với việc PTCC là nhờ: Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực đổi mới trong tư duy

lý luận về CBXH, thực hiện CBXH và PTCN; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước đã đạt được những thành tựu cơ bản tạo tiền đề quan

trọng đảm bảo thực hiện có hiệu quả CBXH; truyền thống đoàn kết cộng đồng,

Page 120: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

115

tương thân, tương ái, biết chia xẻ, gánh vác trách nhiệm, yêu chuộng lẽ công

bằng, bình đẳng, lẽ phải… của dân tộc ta.

Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CBXH, PTCN là kết quả

nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong suốt thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên,

thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế đang cản trở sự PTCN.

Trong lĩnh vực phân phối TLSX cũng như phân phối thu nhập vẫn còn nhiều

bất hợp lý, không phát huy được tính tích cực của người lao động, trong khi đó,

những biểu hiện làm giàu bất chính có xu hướng tăng gây bất ổn về chính trị -

xã hội. Những bất cập trong giáo dục - đào tạo, trong công tác chăm sóc sức

khỏe nhân dân, trong lĩnh vực văn hóa - thông tin đang từng ngày, từng giờ cản

trở sự PTCN Việt Nam cả về trí lực, thể lực và tâm lực. Có nhiều nguyên nhân

dẫn đến những bất cập nêu trên, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu:

những khó khăn, phức tạp của việc thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị

trường định hướng XHCN; sự thiếu đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính

sách xã hội, cùng với những hạn chế trong việc triển khai, tổ chức thực hiện

chính sách đã gây khó khăn cho việc thực hiện CBXH vì mục tiêu PTCN; hạn

chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã làm giảm vai trò

của việc thực hiện CBXH đối với việc PTCN; hạn chế trong nhận thức về

CBXH đã và đang làm giảm vai trò của việc thực hiện CBXH đối với sự PTCN.

Điều này đòi hỏi cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện tốt

hơn nữa CBXH, đồng thời, khắc phục những tồn tại, yếu kém vì mục tiêu

PTCN người Việt Nam toàn diện.

Page 121: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

116

Chương 4

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ

CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN

CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH

HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG BẰNG XÃ HỘI,

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Có thể hiểu, thể chế kinh tế thị trường “là khung khổ, trật tự quy tắc

xác định quan hệ giữa các chủ thể kinh tế, xã hội thích ứng với các nguyên lý

của hệ kinh tế thị trường trong mọi hoạt động kinh tế” [4, tr.118]. Thể chế

kinh tế thị trường bao gồm: các thị trường và cơ chế vận hành thị trường; các

chủ thể thị trường; các quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu tham gia vận hành cơ

chế thị trường.

Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được những thành

tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Nhờ đó, đã tạo ra những cơ hội để các thành phần kinh tế cũng như các

thành viên trong xã hội có cơ hội phát huy năng lực, sở trường, vốn liếng vào

phát triển kinh tế, đảm bảo cho tất cả mọi người có cống hiến đều được hưởng

thụ tương xứng với mức độ mà họ đã cống hiến cho xã hội, từ đó khuyến khích

mọi người làm giàu chính đáng, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân

dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế

thị trường cũng tạo ra những cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề phúc lợi xã

hội, an sinh xã hội tốt hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục -

đào tạo, y tế, văn hóa... nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.

Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, thể chế kinh tế thị trường vẫn là một trong

những điểm nghẽn cản trở sự phát triển, làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu

nghèo, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và hàng loạt các tiêu cực xã hội nảy

sinh như: tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại, hàng

giả, hàng kém chất lượng… gây ra tình trạng mất CBXH, cản trở sự PTCN. Văn

kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã coi hoàn thiện thế chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN là một trong 3 khâu đột phá chiến lược. Sau gần 5

năm thực hiện, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI

tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định, thể chế kinh tế

Page 122: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

117

thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thiện, chưa có đột phá về thể chế

để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế

thị trường. Với Việt Nam, việc xây dựng thể chế KTTT là một nhu cầu cấp bách

trong thực hiện CBXH đối với việc phát triển con người nói riêng, cũng như sự

phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng XHCN ở nước ta cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục xóa bỏ triệt để hơn nữa cơ chế tập trung quan liêu bao

cấp về tiếp cận các nguồn lực phát triển và thành quả phát triển.

Cơ chế phân phối là một bộ phận quan trọng của thể chế kinh tế. Cơ chế

tập trung quan liêu, bao cấp với kiểu phân phối bình quân, cào bằng, cơ chế xin -

cho tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài đã cản trở các chủ thể kinh tế quyền

được tiếp cận với các cơ hội phát triển, gây ra những bất công trong phân phối

các nguồn lực (tư liệu sản xuất/điều kiện sản xuất) cũng như thành quả phát

triển. Sự bất công thể hiện rất đa dạng: bất bình đẳng giữa thành phần kinh tế

này với thành phần kinh tế khác, bất bình đẳng giữa các chủ thể trong cùng một

thành phần kinh tế hay trong cùng một ngành nghề kinh doanh và sản xuất... Sự

bất công trong phân phối khiến môi trường cạnh tranh không lành mạnh, cản trở

cơ chế thị trường phát huy tác dụng, gây mất CBXH, thủ tiêu tính tích cực của

người lao động, là một trong những nguyên nhân gây bất ổn xã hội, cản trở sự

PTCN. Do đó, cần phải hoàn thiện cơ chế phân phối. Việc phân phối các nguồn

lực của phát triển phải tuân theo các quy luật của thị trường và các quy định của

Nhà nước. Các chủ thể kinh tế được đảm bảo cơ hội bình đẳng tiếp cận nguồn

lực phát triển. Nhà nước có vai trò điều tiết quá trình phân phối cần phải bảo

đảm một sân chơi lành mạnh cho các chủ thể kinh tế, tạo môi trường thuận lợi

cho các chủ thể kinh tế phát triển trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Bên cạnh

đó, cần có hệ thống công cụ giám sát, cưỡng chế mạnh để ngăn chặn kịp thời

những hành vi phân phối gây ra hiên tượng bất công.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ sở hữu, phát triển các thành phần

kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội phát triển

cho mỗi cá nhân.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên sự tồn tại khách quan

nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp.

Đó là yêu cầu khách quan. Hoàn thiện chế độ sở hữu là cơ sở cho việc tiếp tục

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, đảm bảo tăng

Page 123: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

118

trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội phát triển

cho mỗi cá nhân. Phương hướng cơ bản của hoàn thiện chế độ sở hữu là: tiếp tục

hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về sở hữu theo hướng khẳng định sự tồn

tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở

hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các

chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư,

quyền sở hữu và quyền tài sản. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với

các loại tài sản mới như: trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu. Thể chế hoá quyền tài sản

(bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử

dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến

pháp năm 2013. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của

mọi chủ thể trong nền kinh tế.

Đối với các chủ thể sản xuất, kinh doanh hoàn thiện thể chế theo hướng đảm

bảo mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế

thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Bảo đảm quyền tự do kinh

doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả

cơ chế hậu kiểm; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh

bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền

kinh doanh.

Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng tập

trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc

phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác không đầu tư. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính

trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng

quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh

bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đối với

kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã, Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp

cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ

phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát

triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Khuyến khích phát triển các loại hình

doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp,

nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích,

tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực

Page 124: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

119

kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính

sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.

Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp

vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường, hình thành đầy đủ các

yếu tố của kinh tế thị trường trên cơ sở tạo điều kiện và cơ hội cho mỗi cá

nhân phát triển.

Ở nước ta hiện nay có 5 loại thị trường cơ bản được xác định là: thị trường

hàng hóa và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học và công nghệ,

thị trường bất động sản, thị trường tài chính. Sự phát triển đồng bộ cả 5 loại thị

trường cơ bản là nền tảng để phát triển kinh tế, tạo tiền đề vật chất để phát triển

con người. Mặt khác, các loại thị trường vận hành thông suốt hiệu quả, các tổ

chức, cá nhân yên tâm sản xuất, kinh doanh góp phần ổn định xã hội. Các loại thị

trường ở nước ta mới hình thành sơ khai, còn nhiều yếu tố tiềm ẩn đan xen chủ

quan, khách quan. Thị trường chưa được hình thành một cách đồng bộ xét về

tổng thể hệ thống các loại thị trường. Do đó, cần tiếp tục phát triển đồng bộ và

vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị trường hàng

hoá, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển

hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo

đảm lành mạnh hoá và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Tiếp tục hoàn thiện hệ

thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông

suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả

nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng

phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường

lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi

mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện

cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân,

nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng

dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN có vai trò hết sức quan

trọng trong thực hiện CBXH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung,

cũng như sự PTCN nói riêng. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng

XHCN đảm bảo cho mọi chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn quy mô, lĩnh vực

sản xuất, kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. Hơn nữa, đây là nền kinh

Page 125: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

120

tế, mọi công dân, mọi chủ thể kinh tế đều có quyền tiếp xúc với các nguồn lực

của sự phát triển, đều có quyền ngang nhau trong việc nắm bắt các cơ hội sản

xuất kinh doanh. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng tạo ra cơ

hội nắm bắt lựa chọn thông tin, nguồn lực phát triển và phương thức hoạt động

sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi nhất. Chính điểm đó là một cơ sở vững

chắc đảm bảo cho việc thực hiện CBXH đối với PTCN.

4.2. HOÀN THIỆN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT CÁC CHÍNH

SÁCH KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG

BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thực hiện CBXH là phải biết kết hợp tổng hợp nguyên tắc cống hiến và

hưởng thụ, điều tiết và phân phối lại thu nhập cho có hiệu quả theo hướng tạo

điều kiện cho mọi người dân có có hội để vươn lên, phát huy khả năng của mình

vào hoạt động kinh tế để nâng cao thu nhập, đồng thời thực hiện các chính sách

xã hội khác như: chính sách việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách

đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội, bảo hiểm xã hội... nhằm tạo dựng bầu không

khí dân chủ, nhân văn trong xã hội, hướng tới mục tiêu PTCN toàn diện.

Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện

CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Không thể có

được CBXH trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một

nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả và bền vững trong một xã hội con

người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp, nghèo đói, thất nghiệp... Do đó,

thực hiện CBXH gắn liền với tăng trưởng kinh tế là một đòi hỏi tất yếu trong

điều kiện nước ta hiện nay: “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [37, tr.113].

Vấn đề là ở chỗ, tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH không phải lúc nào

cũng đồng thuận và là một quá trình thống nhất hài hòa.

Tăng trưởng kinh tế nói về sự phát triển sự phát triển lĩnh vực kinh tế của

đời sống xã hội, sự phát triển này được quy định bởi nhiều nhân tố, nhưng nhân

tố quyết định cơ bản nhất là lực lượng sản xuất xã hội. CBXH thuộc phạm trù

đạo đức - pháp quyền và chính trị - xã hội. Thực hiện CBXH là nhu cầu của con

người trong bất kỳ xã hội nào. Việc thực hiện CBXH phụ thuộc vào nhiều nhân

tố, trong đó quan hệ sản xuất là nhân tố cơ bản nhất. Để tạo lập được mối quan

hệ thống nhất, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH ngay trong

Page 126: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

121

từng bước phát triển thì các chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải có sự

kết hợp chặt chẽ, phải tạo ra lực đẩy trong cùng một hướng.

Ở nước hiện nay, các chính sách kinh tế và chính sách xã hội bên cạnh sự

thống nhất cũng nảy sinh không ít mâu thuẫn cản trở quá trình thực hiện CBXH, tác

động tiêu cực đến sự PTCN. Do đó, tăng cường đổi mới và hoàn thiện hệ thống các

chính sách kinh tế, chính sách xã hội là một trong những yêu cầu nhằm thực hiện

CBXH, PTCN. Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải

được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách phát triển kinh tế

đều phải gắn với mục tiêu xã hội, tạo cơ sở thực hiện CBXH và mỗi chính sách giải

quyết các vấn đề xã hội, thực hiện CBXH phải dựa trên những tiền đề vật chất của

quá trình tăng trưởng kinh tế và phải tạo động lực cho quá trình tăng trưởng kinh tế.

Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu

trung tâm là PTCN.

Một là, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đảm bảo thực hiện công

bằng xã hội cho phát triển con người.

Các chính sách kinh tế của chúng ta được xây dựng sao cho phải vừa thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo CBXH. Trước mắt cần phải hoàn thiện một

số chính sách kinh tế sau:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách đầu tư.

Chính sách đầu tư là yếu tố cơ bản để đạt được mục đích vừa tăng trưởng

kinh tế, vừa thực hiện CBXH. Trên cơ sở đặc điểm, vị trí của từng vùng, miền,

cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội

một cách hợp lý, hiệu quả. Chính sách đầu tư phải chú ý đến đặc điểm từng

ngành, vùng, từng lĩnh vực để khai thác tối đa thế mạnh của các vùng, ngành đó,

tránh đầu tư tràn lan, manh mún mà không đem lại kết quả. Tiếp tục đẩy mạnh

đầu tư những vùng kinh tế trọng điểm, các trung tâm kinh tế lớn là đàu tàu cho

toàn bộ nền kinh tế. Ưu tiên phát triển những ngành mũi nhọn, then chốt đem lại

sự tăng trưởng cao, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình

thực hiện CBXH. Cần tăng cường triển khai các chính sách hỗ trợ, tập trung đầu

tư nhiều hơn nữa vào phát triển khu vực miền núi, vùng nông thôn nhằm rút

ngắn khoảng cách chênh lệch với các vùng kinh tế, các trung tâm công nghiệp

lớn. Với khu vực nông thôn, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa, phát triển mở rộng thị trường nông thôn, thúc đẩy lưu thông phân

phối, giao lưu hàng hóa, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

Page 127: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

122

nông thôn, tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng những nhu cầu tối thiểu của

cuộc sống, từ đó mới có điều kiện để phát triển sản xuất, thu nhập cao hơn, từng

bước rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đồng thời, xây dựng các

trung tâm khoa học tổng hợp nhằm cung cấp thông tin cho sản xuất kinh doanh

ngay trên địa bàn nông thôn. Với các vùng miền đặc biệt khó khăn, miền núi,

vùng sâu, vùng xa cần triển khai các chính sách, chiến lược đầu tư dài hơi hơn. Ở

các vùng này, cần tập trung phát triển nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội,

vận động cuộc sống định canh, định cư, phát triển kinh tế gia đình, thực hiện

giao đất, giao rừng. Đào tạo bồi dưỡng và đãi ngộ xứng đáng cán bộ các dân tộc

thiểu số. Chính sách đầu tư cần được tiến hành một cách đồng bộ, trên nhiều

mặt: đầu tư về vốn, về khoa học - công nghệ, đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ

tầng... mới có thể phát huy cao độ hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế.

Cần tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài để mở rộng, phát

triển sản xuất; khuyến khích đầu tư phát triển vùng, miền còn gặp nhiều khó

khăn mà khả năng Nhà nước chưa với tới được. Khuyến khích tư nhân và các

thành phần kinh tế khác tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng bằng

những hình thức đầu tư thích hợp.

Cùng với việc thực hiện các chính sách đầu tư, khuyến khách đầu tư hợp

lý cần tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển khai các dự án

đó trong thực tế, đảm bảo hiệu quả của chính sách đầu tư, đảm bảo đầu tư đúng

đối tượng, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực:

thất thoát, tham ô, lãng phí...

Thứ hai, tiếp tục cải cách chính sách thuế nhằm điều tiết thu nhập hợp lý.

Chính sách thuế là một trong những chính sách quan trọng trong phân

phối thu nhập, góp phần thực hiện CBXH. Thuế đã trực tiếp tham gia vào sự

phân phối thu nhập xã hội từ kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Sự

bình đẳng của chính sách thuế sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội

làm ăn có hiệu quả, có năng suất cao phải được thu nhập cao hơn. Từ đó kích

thích mọi tổ chức, cá nhân tập trung sức đầu tư phát triển hoạt động sản xuất

kinh doanh để có thu nhập cao một cách chính đáng. Đồng thời, với vai trò phân

phối, thuế còn được thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Vai trò phân phối lại

của thuế được thực hiện thông qua việc Nhà nước sử dụng tiền thuế để sản xuất

ra hàng hóa - dịch vụ công phục vụ tiêu dùng chung cho toàn xã hội. Ngoài ra,

Nhà nước còn sử dụng một phần tiền thuế để trợ cấp, thực hiện điều hòa thu

Page 128: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

123

nhập xã hội. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ

mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và

tiến tới CBXH. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu

nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia

tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu, việc giảm thuế sẽ có lợi cho người

nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại, những mặt

hàng xa xỉ, cao cấp, việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu

nhập của người giàu trong xã hội.

Hiện nay, hệ thống thuế nước ta còn phức tạp chồng chéo, chưa hợp lý, ít

khuyến khích phát triển sản xuất lại có nhiều kẻ hở dễ bị lợi dụng, gây cản trở tăng

trưởng kinh tế và thực hiện CBXH. Trong thời gian tới, cần cải cách chính sách thuế

theo hướng mở rộng cơ sở tính thuế. Thông qua mở rộng phạm vi đối tượng chịu

thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp phạm vi ưu đãi, miễn giảm thuế bằng cách giảm bớt

các miễn, giảm thuế không thiết thực, không công bằng, xóa bỏ những quy định khác

biệt về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng, tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính

sách thuế. Thực hiện ưu đãi hơn nữa về thuế với đầu tư, phát triển, với những vùng

khó khăn.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.

Chính sách phân phối thu nhập hợp lý, đảm bảo nguyên tắc công bằng giữa

cống hiến và hưởng thụ, giữa chất lượng, hiệu quả công việc với thu nhập sẽ có

tác dụng kích thích người lao động phát huy mọi khả năng, trí tuệ, chủ động, sáng

tạo, nâng cao hiệu quả công việc, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện CBXH,

PTCN. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh, đổi mới chính sách phân phối

thu nhập trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ

yếu, chú trọng phân phối theo đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào sản

xuất kinh doanh và thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Trong nguyên tắc

phân phối thì phần dành để phân phối theo lao động là chủ yếu, bởi vì, người lao

động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội để nhờ đó mới có cái mà phân phối, lợi

ích của người lao động không được bảo đảm thì tính tích cực của họ sẽ không

được phát huy ở mức cao nhất, điều đó dẫn đến sản xuất trì trệ, năng suất lao động

thấp. Phân phối theo lao động phù hợp với hoàn cảnh và trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta mặc dù có sự phát triển

hơn so với trước kia nhưng chưa phải là đủ để phân phối theo nhu cầu. Mặt khác,

Page 129: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

124

hiện nay vẫn còn sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động, điều này dẫn đến

cống hiến của mỗi người trong quá trình lao động là khác nhau. Phân phối theo

mức đóng góp vốn hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, với nhu cầu cấp bách cần thu

hút vốn, các nguồn lực khác nhau đầu tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà

trước hết là kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Phân phối thông qua các quỹ an sinh xã

hội và phúc lợi xã hội là tất yếu trong điều kiện Việt Nam, vừa thể hiện tính nhân

đạo, nhân văn của chế độ ta, vừa bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm

người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội.

Chính sách phân phối và phân phối lại phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà

nước, của người lao động và của doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động.

Những công cụ, chính sách đắc lực điều tiết quan hệ phân phối và phân phối lại là

thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, sở hữu đất đai, tài sản, thừa kế,v.v.. Sự

can thiệp này cần được thực thi bằng những hệ thống công cụ đồng bộ và hiệu lực

cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân phối lại diễn ra một cách minh bạch, lành

mạnh, tạo động lực cho quá trình phát triển như đã phân tích ở các mục trên. Các

chính sách định hướng phân phối lại thu nhập, của cải hay tài sản cần được cân

nhắc từ nhiều góc độ: một mặt, chúng tạo môi trường minh bạch và điều kiện công

bằng cho các chủ thể xã hội; mặt khác, chúng có khả năng ngăn chặn những hành vi

vi phạm pháp luật, quy tắc phân phối dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong xã hội

tương lai.

Trong chính sách phân phối, vấn đề nổi cộm nhất cần giải quyết hiện nay

chính là chính sách tiền lương. Chính sách tiền lương dù đã trải qua nhiều lần

“cải cách” nhưng vẫn chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa tạo ra động

lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương

thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham nhũng... Do

đó, cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới, cải cách chính sách tiền lương cho phù

hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo tiền lương phải phản ánh

được giá trị sức lao động, tương xứng với hiệu quả và chất lượng công việc.

Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương tối thiểu theo lộ

trình phù hợp, đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động đang

làm việc cũng như người đã nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí. Nâng cao

hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn, thực sự đại diện quyền

lợi cho người lao động, giải quyết kịp thời các tranh chấp. Thực hiện

cơ chế đối thoại và thỏa thuận về tiền lương giữa các bên, xây dựng

Page 130: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

125

quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ. Có cơ chế để công đoàn, tổ chức đại

diện cho người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động

giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể. Tiếp tục hoàn thiện

chính sách tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hệ

thống tiêu chuẩn quản lý nhân lực và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng

suất lao động [46, tr.301].

Nhà nước cũng cần kiểm soát mức độ chênh lệch thu nhập giữa các

ngành nghề, các vùng miền để có biện pháp can thiệp, điều tiết phù hợp để hạn

chế phân hóa giàu nghèo quá mức, ảnh hưởng tới hiệu quả của quá trình thực

hiện CBXH.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính xã hội đảm bảo thực hiện công bằng xã

hội cho phát triển con người.

Chính sách xã hội là sự thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà

nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn

diện con người. Ngay từ Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã khẳng định: “Chính sách

xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm

năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [31,

tr.13]. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người

trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; kết

hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, giữa đời sống vật chất và tinh thần;

giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập

thể và cộng đồng xã hội.

Chính sách xã hội tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội, tức là tác

động trực tiếp đến con người trên tất cả các khía cạnh: chăm sóc y tế, giáo dục - đào

tạo, văn hóa - thông tin, công ăn việc làm, đảm bảo xã hội... Việc giải quyết các vấn

đề xã hội một cách đúng đắn, hợp lý, kịp thời, phù hợp với trình độ và khả năng của

nền kinh tế sẽ góp phần khắc phục những khác biệt cơ bản về điều kiện sống, lao

động của mọi người; đồng thời, có thể khai thác, phát huy tối đa năng lực tiềm ẩn

của mỗi cá nhân, của cộng đồng và toàn xã hội; vừa tạo nên tấm lá chắn ngăn chặn,

hạn chế và đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, những hiểm họa về mặt xã hội có thể

xảy ra.

Trong những năm qua, hệ thống chính sách xã hội đã có tác động tích cực

đến sự phát triển xã hội, tạo ra một môi trường xã hội công bằng, bình đẳng, tạo

cơ hội và điều kiện cho sự phát triển của mỗi cá nhân, làm giảm phân hóa xã hội,

Page 131: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

126

góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Nước ta

được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực

hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều

hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục tạo ra sự phân biệt

đối xử, tạo ra những nhóm xã hội bị thiệt thòi về cơ hội hưởng thụ và cống hiến,

nhất là những nhóm người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Để đảm bảo

CBXH, các chính sách xã hội cần được hoàn thiện theo hướng:

- Tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư có cơ hội như nhau trong việc sử

dụng những điều kiện sẵn có của xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn; bình

đẳng trong việc hưởng thụ các khoản an sinh xã hội, hưởng thụ những giá trị

văn hóa.

- Điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, các vùng, miền để

giảm sự cách biệt; tạo điều kiện, cơ hội để những người nghèo, người yếu thế

trong xã hội phấn đấu vươn lên.

- Tạo điều kiện để mọi người có thể phát huy tối đa năng lực, được cống

hiến và được hưởng những thành quả tương xứng với sự cống hiến của mình.

Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần hoàn thiện các chính sách xã hội,

trong đó tập trung vào một số chính sách cơ bản sau:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách về lao động và việc làm.

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo

cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Trên phương diện phân phối, để đảm bảo

mọi người có thể cống hiến và hưởng thụ những thành quả lao động của mình thì

trước tiên phải đảm bảo bình đẳng về cơ hội việc làm. Chính sách việc làm nhằm

giải quyết thoả đáng nhu cầu việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao

động đều có cơ hội có việc làm; góp phần thực hiện CBXH, xóa đói, giảm

nghèo, đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội tạo điều kiện cho sự PTCN.

Thực tiễn cho thấy, quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập

quốc tế của nền kinh tế nước ta, ngoài những tác dụng tích cực đối với sự PTCN

cũng đã và đang gạt một bộ phận những người lao động ra khỏi guồng máy hoạt

động kinh tế. Hơn nữa, hàng năm nước ta có một số lượng lớn thanh niên đến

tuổi lao động nhưng chưa có việc làm. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm

thường xuyên của một bộ phận lao động không chỉ dẫn tới các vấn đề xã hội

thuần túy: đói nghèo, thất học, sức khỏe... mà còn là nguồn gốc nảy sinh và gia

tăng các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, lừa đảo... Yêu cầu có việc làm ổn định, tạo

Page 132: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

127

nguồn thu nhập thường xuyên là nguyện vọng chính đáng của người dân. Giải

quyết triệt để vấn đề này là biện pháp quan trọng để thực hiện CBXH, PTCN.

Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách

lao động việc làm là bảo đảm CBXH trên cơ sở Nhà nước tạo mọi điều kiện, môi

trường thuận lợi cho mọi người có cơ hội tìm kiếm việc làm; tạo việc làm với thu

nhập đảm bảo cuộc sống, tức là tạo việc làm có thu nhập và bền vững; đảm bảo

hài hòa giữa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Theo đó,

trong giai đoạn hiện nay, chính sách lao động và việc làm cần được xây dựng và

hoàn thiện theo hướng:

Cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch tổng thể về

tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. Sớm bổ sung các

chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát triển nguồn nhân lực trình độ

cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng như: Kinh tế nông nghiệp sử dụng công

nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật cũng

như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về sau khi kết thúc hợp đồng

lao động.

Ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động giải

quyết việc làm cho người lao động. Các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện, bổ

sung các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, khai thác các tiềm năng sẵn có của địa

phương, thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách thu hút vốn

đầu tư cần chú trọng vào cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh, nhất

là cải cách thủ tục đầu tư. Tích cực đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ

những trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa

mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động.

Tăng cường chính sách hỗ trợ đặc biệt ưu đãi về vốn, mặt bằng sản xuất kinh

doanh, thuế... đối với các doanh nghiệp đầu tư vào những vùng miền ít thuận lợi.

Tích cực đẩy mạnh việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề, các chương

trình quốc gia về đào tạo nghề, giải quyết việc làm đối với các đối tượng như

thanh niên, lao động nông thôn, phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn. Có

chính sách khuyến khích người lao động tự tạo việc làm và khuyến khích các

doanh nghiệp phát triển các ngành nghề cần nhiều lao động sản xuất kinh doanh,

mở rộng ngành nghề, phát triển sản xuất, thu hút thêm nhiều lao động.

Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông

nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công

Page 133: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

128

nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Xây dựng chiến lược và tăng đầu tư

mở rộng thị trường xuất khẩu lao động sang các khu vực, các nước phù hợp với

lao động Việt Nam. Đồng thời, chuẩn bị đủ nguồn lao động đảm bảo chất lượng

đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi

thuế, hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động. Cải

cách thủ tục hành chính nhằm tạo sự thông thoáng, giảm phiền hà cho người lao

động và doanh nghiệp.

Tăng quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm và sử dụng có hiệu quả quỹ đó. Quỹ

cho vay giải quyết việc làm hiện nay hoạt động với mục đích chủ yếu là cho vay để

phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo thêm nhiều việc làm mới, đi

xuất khẩu lao động và giúp các hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo bền vững. Trong

thời gian tới, Nhà nước cũng như chính quyền các địa phương cần có sự điều chỉnh

một số chỉ tiêu cho vay vốn như thời hạn cho vay vốn, quy trình thủ tục cho vay

vốn... để phù hợp hơn với tình hình kinh tế hiện nay của đất nước, không ảnh hưởng

đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đối tượng có nhu cầu vay vốn, ảnh hưởng

đến giải quyết việc làm.

Thứ hai, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội.

Trong cuộc sống không ai luôn gặp may mắn và cũng không ai luôn gặp tủi ro,

nhưng thường thì bất hạnh hay đến với những người nghèo, vùng nghèo, những

người yếu thế trong xã hội, mà khi đã gặp rủi ro, họ khó có thể tự vượt qua được. Hệ

thống cách chính sách an sinh xã hội sẽ giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ trách

nhiệm xã hội để giảm thiểu và khắc phục rủi ro khi các thành viên trong xã hội chẳng

may gặp rủi ro, từ đó tạo ổn định, đồng thuận xã hội và đó là nền tảng để thực hiện

CBXH, PTCN. Một hệ thống an sinh xã hội đầy đủ, hoàn thiện sẽ tạo cho mọi người

tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển. Khi con người có được

cơ hội tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển thì họ cũng có cơ

hội cống hiến tài năng, sức lực của mình để có được sự hưởng thụ phù hợp với sự

cống hiến đó.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,

chính sách để đảm bảo an sinh xã hội. Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung

ương khóa X nhấn mạnh: “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã

hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp trong xã hội,

nhất là nhóm đối tượng, chính sách, đối tượng nghèo” [43, tr.154]. Trên tinh thần

đó, các chủ trương, quan điểm của Đảng đã được thể chế hóa thành cơ chế, chính

Page 134: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

129

sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và vận hành của hệ thống an

sinh xã hội như: Luật bảo hiểm xã hội; Pháp luật ưu đãi người có công, về người

cao tuổi, người tàn tật; Chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo trợ xã hội...

Trong những năm tiếp theo, để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được

trong việc đảm bảo an sinh xã hội, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, góp

phần thực hiện CBXH, PTCN, chính sách an sinh xã hội cần hoàn thiện theo

hướng sau:

- Chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ

xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó

khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; bảo đảm giáo dục tối thiểu, bảo đảm y tế tối

thiểu, bảo đảm nhà ở tối thiểu, bảo đảm nước sạch, bảo đảm thông tin.

- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn

nhau, nhưng phải có trọng tâm. Chú trọng xây dựng và hoàn thiện những trụ cột

chính của nó là: Bảo hiểm xã hội, BHYT, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội để bảo

đảm tính bền vững của cả hệ thống an sinh xã hội.

Với chính sách bảo hiểm xã hội, cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm

xã hội theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách và

hiện đại hóa mô hình bảo hiểm xã hội, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội hiện

đại, chuyên nghiệp. Hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm tăng

cường khả năng tiếp cận của người lao động và phạm vi bao phủ của bảo hiểm

xã hội tự nguyện. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý quỹ bảo

hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của quỹ bảo hiểm xã hội.

Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu

vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội. Rà soát, bổ sung quy định buộc

người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy

định của pháp luật.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo. Trước mắt tiếp tục triển khai có

hiệu quả Nghị quyết số: 80/ NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về

định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết

số: 30a/2008/NQ- CP ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ về Chương trình

giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo và Chương trình mục tiêu quốc

gia giảm nghèo bền vững; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đối với hộ

cận nghèo. Đặc biệt chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo,

ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới,

Page 135: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

130

xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo,

thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Xây

dựng mức sống tối thiểu, mức sống trung bình, chuẩn nghèo, cận nghèo phù hợp

với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ làm cơ sở xác định các đối tượng và

mức chuẩn của các chính sách an sinh xã hội, từ đó tiệm cận dần đến những quy

định về chuẩn nghèo thế giới hiện nay. Giảm dần chính sách hỗ trợ cho không kém

hiệu quả, tạo sức ì, trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, chuyển dần sang

hình thức cho vay, cho mượn không lãi suất, thậm chí đến thời điểm nhất định thì

xóa nợ tạo sự năng động, sáng tạo, ý chí không cam chịu đói nghèo của chính người

dân. Xây dựng quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong nước và ngoài

nước, quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và thực sự có hiệu quả. Các giải pháp

của lĩnh vực này là tập trung nỗ lực, đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để

thực hiện xoá đói, giảm nghèo nhanh, bền vững, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và

CBXH. Tập trung vào các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ

nghèo có tư liệu và phương tiện để sản xuất, dịch vụ, bảo đảm an ninh lương thực ở

cấp hộ gia đình, nâng cao thu nhập để thoát nghèo vươn lên làm giầu chính đáng.

Tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế,

nước sạch, vệ sinh môi trường.

Để xây dựng, hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội cần phải thay đổi quan

điểm, tư duy về trợ cấp xã hội cũng như chính sách trợ cấp xã hội. Chuyển quan

điểm chính sách trợ cấp xã hội là chính sách nhân đạo, là việc của Nhà nước hoặc

chính quyền địa phương sang chính sách đảm bảo thực hiện quyền cho đối tượng

hưởng lợi, bởi con người sinh ra đều có quyền như nhau đối với các chính sách,

pháp luật của Nhà nước. Phải đảm bảo để mọi người đều có quyền được sống,

được thụ hưởng các thành quả của tăng trưởng, phát triển kinh tế, quyền được đảm

bảo an toàn, an sinh. Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng

đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội

thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối

thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện

được hưởng trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát

triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng. Khuyến khích

sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao

tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Bên cạnh đó,

cần đa dạng hóa các loại hình trợ cấp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân

Page 136: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

131

đạo, chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội hoạt động không vì mục

tiêu lợi nhuận và chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng. Tạo cơ hội và ưu tiên

cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận nguồn lực kinh tế (trước hết là người

còn khả năng lao động), dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng về giáo dục, đào tạo,

dạy nghề, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thông tin... thông qua

thực hiện các chương trình mục tiêu.

Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ thể

hiện sự tiếp nối đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của dân tộc

Việt Nam mà còn là giải pháp thực thi CBXH, góp phần vào việc ổn định chính trị

- xã hội, PTCN. Trước mắt, cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, cơ chế

pháp luật đối với người có công nhằm tiếp tục cải thiện đời sống vật chất và tinh

thần của người có công, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa

cách mạng. Xây dựng mô hình và cơ chế thích hợp trong ưu đãi về nhà ở cho thân

nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất

độc hóa học có khó khăn về nhà ở. Ưu đãi về giải quyết việc làm cho con liệt sĩ,

con của thương binh. Duy trì và phát triển các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các

chương trình xã hội khác hướng vào việc tạo cơ hội cho người có công phát triển

kinh tế, giảm nghèo, tạo việc làm.

Để mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội

đến mọi người dân, tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ

tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống cần có các chính sách

tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội. Khuyến

khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình an sinh xã hội,

các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các

đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá

nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các hoạt động

nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng

đặc thù. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các

nước trong xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo.

Chính sách giáo dục, đào tạo cần được xây dựng và hoàn thiện theo

hướng: tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên,

học suốt đời; tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào

tạo cho mọi tầng lớp dân cư; đặc biệt chú ý tạo cơ hội học tập ở bậc cao hơn (cao

Page 137: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

132

đẳng, đại học...) cho con em nông dân, các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo đáp ứng

yêu cầu giảm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư. Mở rộng

một cách hợp lý hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học, các trường bán

công, dân lập, trường công…, trong đó các trường công lập phải là nòng cốt.

Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ xứng đáng cho đào tạo giáo dục về cơ

sở vật chất như: trường học, trang thiết bị, đồ dùng học tập cho học sinh miền

núi, đồng thời có chính sách khuyến khích hơn nữa để cán bộ giáo viên có thể tự

nguyện và đảm bảo đến công tác dạy học tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số nhằm

từng bước khắc phục sự nghèo nàn, lạc hậu cả về vật chất lẫn tinh thần, sớm rút

ngắn khoảng cách giữa nông thôn miền núi và thành thị.

Thứ tư, hoàn thiện chính sách y tế.

Chính sách y tế được xây dựng và hoàn thiện cần đáp ứng yêu cầu xây

dựng và phát triển mô hình đan xen giữa y tế công và y tế tư nhân trong đó y tế

công là chủ đạo. Nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế hoạt động của bệnh viện công

theo hướng không vì mục tiêu lợi nhuận. Tiếp tục cải tiến chế độ viện phí và cơ

chế thanh toán BHYT cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Cần đầu tư hơn nữa

trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng lưới y tế kết hợp với cán bộ y tế

có tay nghề cao, thuốc men được hỗ trợ đầy đủ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

nhân dân nông thôn và miền núi có điều kiện chăm lo sức khỏe để tái sản xuất

sức lao động, đồng thời, thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện đồng bộ và có

hiệu quả các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Tiếp tục hoàn thiện chính sách

BHYT cho người hưởng chính sách xã hội, người nghèo, tiến tới thực hiện

BHYT toàn dân. Hoàn thiện các chính sách phát triển y tế công nghệ cao và

ngoài công lập, tăng số cơ sở khám chữa bệnh cho người có BHYT không phân

biệt thành phần sở hữu.

Thứ năm, hoàn thiện chính sách về văn hóa.

Tiếp tục hoàn thiện các chính sách tạo điều kiện phát triển văn hóa của các

dân tộc, các vùng miền và tạo sự bình đẳng về cơ hội, điều kiện thuận lợi cho

mọi công dân hưởng thụ và thu nhận văn hóa, nghệ thuật. Hoàn thiện các chính

sách đầu tư hợp lý, có trọng điểm và ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng văn

hóa, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng bào các dân tộc thiểu

số. Xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn vinh những tập thể, cá nhân có đóng

góp lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Hoàn thiện chính bảo vệ bản quyền

Page 138: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

133

các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật. Tạo điều kiện cho mọi người dân Việt Nam có

thể tham gia vào việc sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn học, nghệ thuật

góp phần phát triển đời sống tinh thần con người Việt Nam. Kế thừa và phát huy

giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn

hóa nhân loại, đồng thời thường xuyên đấu tranh loại trừ những hiện tượng đạo đức

hủ bại, những văn hóa mới phản tiến bộ, trái với các chuẩn mực của xã hội và thuần

phong mỹ tục của dân tộc.

Ba là, tổ chức triển khai và thực hiện chính sách.

Các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội không giải quyết một

cách riêng rẽ mà chúng phải được thực hiện đồng thời và song song cùng nhau.

Để các chính sách đi vào cuộc sống và được thực hiện đầy đủ, kịp thời và mang

lại hiệu quả thì khâu tổ chức thực hiện rất quan trọng.

Trách nhiệm và việc làm của Nhà nước, của chính quyền Trung ương, địa

phương và cơ sở.

Các cấp, các ngành cần tăng cường những biện pháp phổ biến chính sách

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thường xuyên tổ chức tập huấn cho

cán bộ cấp dưới và cán bộ cấp cơ sở để thực hiện đúng chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước. Mỗi bộ, mỗi ngành cần xây dựng chương

trình hành động, chương trình mang tính dài hạn và có các chương trình kế

hoạch ngắn hạn đi kèm. Đề cao trách nhiệm thực hiện của các tổ chức, các nhân

có trách nhiệm, có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh nhằm tạo động lực cho toàn

xã hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Tăng cường các cơ chế nhằm huy

động nguồn lực và sức mạnh của các tổ chức ngoài nhà nước, doanh nghiệp và

người dân để cùng thực hiện các mục tiêu chung: xây dựng một xã hội công

bằng, con người được phát triển toàn diện. Có cơ chế theo dõi, giám sát việc

thực hiện chính sách, tiếp thu ý kiến phản hồi từ người dân và thường xuyên

tổng kết, rút kinh nghiệm.

Trách nhiệm và việc làm của các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng lao

động, các cơ quan chuyên trách.

Về phía các doanh nghiệp. Thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc

trả lương cho người lao động theo nguyên tắc công bằng. Thực hiện nhiều hình

thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ

yếu. Đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào

kết quả sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức sử dụng lao động cần thực hiện đầy đủ

Page 139: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

134

và minh bạch các quy định về bảo hiểm xã hội, BHYT, bảo hiểm tai nạn lao

động cho người lao động. Các doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho người lao

động nâng cao trình độ, tay nghề, có kỹ năng, kỹ xảo, nâng cao năng lực nghề

nghiệp; quan tâm đến việc chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của người lao

động. Các doanh nghiệp cần thực hiện trách nhiệm của mình trong các lĩnh vực

như: Tạo công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, các hoạt động từ thiện, v.v..

Về phía các tổ chức giáo dục và đào tạo: các cơ sở giáo dục và đào tạo cần

tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân, mọi người lao động được tiếp cận với

các dịch vụ về giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá, thu hút sự

tham gia của nhiều chủ thể xã hội vào phát triển giáo dục, đào tạo. Thực hiện

miễn giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện

chính sách và học sinh giỏi. Tăng cường tính minh bạch về công tác tài chính

giáo dục để người dân có thể thực hiện chức năng giám sát một cách có hiệu quả.

Về phía các tổ chức y tế: Tăng cường chất lượng công tác khám và chữa

bệnh cho người dân. Thực hiện nghiêm túc các quy định về khám, chữa bệnh đối

với người sử dụng thẻ BHYT. Đảm bảo sự công bằng về cơ hội tiếp cận với các

dịch vụ y tế đối với mọi người dân.

4.3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện công

bằng xã hội cho phát triển con người.

Công bằng xã hội luôn là mục tiêu nhất quán của Đảng ta từ khi thành lập

đến nay. Chính nhờ giương cao ngọn cờ CBXH mà Đảng ta đã nhận được sự ủng

hộ của đông đảo nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây

và trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Vai trò của Đảng trong việc đảm

bảo thực hiện CBXH được chứng minh rất rõ qua thực tiễn nước ta trước và sau

đổi mới. Trước đổi mới, do mong muốn sớm có được CNXH, quan điểm, chủ

trương của Đảng về thực hiện CBXH có phần thoát ly thực tiễn, không phù hợp

với điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, dẫn đến những hiện tượng vi phạm

CBXH, cản trở sự PTCN. Bước vào thời kỳ đổi, với quan điểm coi con người là

mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển, tăng trưởng

kinh tế xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người. Con người chỉ

có thể phát triển tự do, toàn diện trong một xã hội công bằng. Do đó, quan điểm

Page 140: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

135

của Đảng ta là phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH. Không phải

đợi đến kinh tế phát triển cao, dân giàu lên mới thực hiện CBXH mà chúng ta

thực hiện CBXH “ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng

trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các

vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” [42, tr.77]. Với quan điểm, chủ

trương, đường lối đúng đắn của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu

trong thực hiện CBXH, góp phần vào sự nghiệp PTCN Việt Nam toàn diện.

Thực hiện CBXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là

vấn đề rất mới, có nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách

thức. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm phải đáp ứng tất cả

những đòi hỏi chính đáng của nhân dân, chăm lo xây dựng một xã hội giàu đẹp,

công bằng, con người được phải triển toàn diện. Điều này đỏi hỏi Đảng phải có bản

lĩnh chính trị vững vàng, trình độ trí tuệ ngang tầm đòi của nhiệm vụ, có năng lực

lãnh đạo mới có thể tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy

lùi nguy cơ đưa đất nước đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công

bằng, văn minh.

Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội

trong việc thực hiện CBXH thì phải thực hiện tốt những nội dung sau:

Xung quanh vấn đề lý luận CBXH hiện nay vẫn còn chưa thống nhất, đòi

hỏi Đảng phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tạo khung lý luận cơ

bản để tiếp tục thực hiện tốt công bằng xã hội trong điều kiện và tình hình mới.

Đảng phải là một lực lượng có trình độ và trí tuệ cao, phải luôn nhạy bén, năng

động và sáng tạo, vừa nắm bắt quy luật khách quan, vừa vận dụng sáng tạo

chúng, làm cho các quy luật tác động có hiệu quả vào các lĩnh vực kinh tế, xã

hội. Đảng phải đề ra đường lối, chủ trương cũng như sách lược, chiến lược để

thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta theo từng giai đoạn, trên

cơ sở vận dụng những quan điểm đắn đắn, khách quan, khoa học về vấn đề này

trong lịch sử cũng như trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước

giải quyết vấn đề này. Các chủ trương, đường lối thực hiện CBXH của Đảng

phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn, được cuộc sống kiểm định, thường xuyên

theo dõi, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời sửa chữa, sai sót, bất cập nhằm

không ngừng hoàn thiện chúng cho phù hợp với thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu

Page 141: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

136

cần của thời đại. Những chủ trương, đường lối đó phải hướng vào việc tiếp tục

đảm bảo tốt hơn nữa công bằng trong phân phối, công bằng về cơ hội và điều

kiện phát triển, đặc biệt chú ý hơn nữa các đối tượng vùng sâu, vùng xa, vùng

dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách...

Ngoài ra, để có cơ sở phát triển lý luận về công bằng, thì ngoài tổng kết

thực tiễn, còn phải nghiên cứu bài học thực hiện CBXH của những nước có

điều kiện phát triển tương tự với Việt Nam. Đồng thời, còn phải nghiên cứu

những quan điểm về thực hiện công bằng trên thế giới đang được ứng dụng vào

đời sống xã hội hiện nay.

Trên cơ sở những chủ trương, quan điểm, đường lối về thực hiện CBXH,

Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa thành các thể chế, pháp luật, các chính sách

về CBXH và tổ chức thực hiện các chính sách đó trong hiện thực. Đây là chức

năng hết sức quan trọng của Đảng cầm quyền. Đảng phải chỉ đạo, giám sát chặt

chẽ để đảm bảo các chủ trương đó nhanh chóng được các cơ quan Nhà nước cụ

thể hóa và tổ chức thực hiện. Ở đây, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, không can thiệp

quá sâu vào công việc quản lý, điều hành của Nhà nước, Đảng cũng không làm

thay công việc của Nhà nước. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước sẽ giúp nâng cao hiệu quả và hiệu lực các chính sách, biện pháp của

Nhà nước nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn CBXH cho mọi tầng lớp nhân dân.

Đảng phải nghiêm túc phê và tự phê, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả

việc phòng chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ,

đảng viên. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ

có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ trí tuệ, năng lực tổ chức thực tiễn, có

phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh nhằm thực hiện CBXH. Bởi

lẽ, mọi chủ trương, đường lối dù đúng đắn đến đâu, dù được phổ biến tuyên

truyền rộng khắp đến nhiều ban, ngành, cơ sở nhưng nếu thiếu đội ngũ cán bộ,

đảng viên có trình độ, phẩm chất đạo đức, những người trực tiếp chỉ đạo những

chủ trương đó trong hiện thực thi những chủ trương, đường lối đó sẽ chỉ là

những khẩu hiệu, những nghị quyết suông trên giấy.

Thứ hai, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện công

bằng xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển con người.

Trong quá trình thực hiện CBXH, vai trò của Nhà nước thể hiện ở sự điều

tiết, phân chia lợi ích của Nhà nước một cách hợp lý giữa chủ thể lợi ích nói

Page 142: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

137

chung bao gồm các cá nhân, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đảm bảo sao cho

mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội được hưởng những lợi ích phù

hợp với khả năng phát triển của mình, dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa cống

hiến và hưởng thụ, quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện và phân chia các

lợi ích đấy. Những nguyên tắc công bằng được thể hiện qua hệ thống chính sách,

pháp luật, sự thực thi pháp luật và sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Sự thể

hiện vai trò của Nhà nước lại tùy thuộc vào từng chế độ chính trị, từng giai đoạn

lịch sử.

Nhà nước ta là nhà nước XHCN với mục tiêu xây dựng một xã hội mà ở

đó, “con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực,

hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát

triển toàn diện cá nhân” [35, tr.29]. Mọi chính sách của Nhà nước ta đều hướng

tới việc thực hiện ngày càng tốt hơn các mục tiêu cao đẹp đó. Tuy nhiên, do nôn

nóng muốn có ngay CNXH, nhanh chóng xây dựng một xã hội công bằng mà

thời kỳ trước đổi mới chúng ta đã có những nhận thức cũng như hành động mang

tính chủ quan, vận dụng sai lệch, méo mó, giáo điều lý luận của chủ nghĩa Mác.

Từ đó đề ra một loạt các chính sách mang tính chủ quan, duy ý chí duy ý, chưa

thật phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội lúc bấy giờ. Nhà nước thực hiện quản

lý xã hội bằng cơ chế mệnh lệnh, tập trung bao cấp; thực hiện phân phối cào

bằng, bình quân theo chế độ tem phiếu, cấp phát... Do những chính sách sai lầm,

thoát ly thực tế đất nước, đi ngược quy luật khách quan đã khiến mục tiêu CBXH

không thể thực hiện được. Các điều kiện, cơ hội cho sự PTCN đều bị hạn chế.

Từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, chuyển

từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành

theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý, điều tiết của

Nhà nước. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai

những chính sách nhằm thực hiện CBXH. Nhà nước sử dụng chức năng điều tiết

của mình để chủ động thực hiện CBXH trên nguyên tắc phù hợp với từng giai

đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể khái quát vai trò của Nhà

nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc thực hiện CBXH ở những nội dung chủ

yếu sau: đảm bảo quyền làm chủ, quyền dân chủ của nhân dân; tạo điều kiện và

môi trường cho thực hiện CBXH; định hướng phát triển kinh tế, phân bổ các

nguồn lực, điều tiết thu nhập để giảm dần sự mất cân đối về điều kiện, cơ hội và

trình độ phát triển giữa các tầng lớp dân cư, giữa các ngành, các vùng, miền; ban

Page 143: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

138

hành và chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội nhằm hạn chế sự phân hóa giàu

nghèo, phân tầng xã hội; tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội ngang nhau

trong việc hưởng thụ các thành tựu văn hóa, giáo dục, y tế, tiếp cận thông tin...

Có thể thấy, Nhà nước ta thông qua chức năng quản lý xã hội và điều tiết của

mình đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện CBXH trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội, tạo cơ hội, điều kiện cho PTCN. Tuy nhiên, trong thời gian

qua, môi trường thể chế chưa hoàn thiện, bộ máy quản lý kém hiệu quả, pháp

luật yếu kém, bất cập là những trở ngại trong việc thực hiện CBXH ở nước ta

hiện nay. Để nâng hơn nữa vai trò của Nhà nước trong thực hiện CBXH, theo tôi

cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau:

* Hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện

công bằng xã hội, phát triển con người

Để Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo thực hiện

CBXH đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định.

Hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

các thành viên trong xã hội yên tâm, tích cực tham gia vào mọi hoạt động kinh tế,

xã hội. Đồng thời, thông qua pháp luật, lợi ích chính đáng của người dân được

bảo vệ, những hành vi sai trái sẽ bị trừng phạt, CBXH được thực hiện. Với thực

trạng hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay: Luật nhiều nhưng vẫn thiếu, nhiều

luật chồng chéo, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao. Mặt

khác, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã và đang đưa lại những thay

đổi nhanh chóng mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi phải có hệ

thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn đang biến đổi nhanh chóng

của Việt Nam và thế giới, phù hợp với thông lệ quốc tế càng trở nên cần thiết.

Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay là

vấn đề quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong việc

thực hiện CBXH.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay phải theo hướng đảm bảo

những tiêu chuẩn cơ bản sau: Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và ngôn

ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ

ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Căn cứ vào thực trạng hệ

thống pháp luật nước ta hiện nay, trên cơ sở những tiêu chí vừa xác định, để hoàn

thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng rà soát lại hệ thống

các văn bản, quy phạm pháp luật, đối chiếu loại bỏ những văn bản trùng lặp,

Page 144: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

139

chồng chéo, không phù hợp, cản trở quá trình thực hiện CBXH. Xúc tiến sửa đổi,

bổ sung những văn bản pháp luật đã ban hành cũng như có chiến lược ban hành

các văn bản, quy phạm pháp luật mới cho phù hợp với thực tiễn. Kết hợp các quy

định, quy tắc pháp luật trong nước với những nguyên tắc, thông lệ quốc tế chung,

tạo hành lang pháp lý thông thoáng, lành mạnh nhằm thu hút đầu tư, phát triển sản

xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho việc thực hiện

CBXH. Hệ thống pháp luật của Nhà nước phải được đổi mới, cải cách cụ thể, rõ

ràng, minh bạch để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho mọi công dân. Nhà nước

cũng kịp thời ban hành các văn bản dưới luật, pháp lệnh hướng dẫn cụ thể thực thi

những luật đó trong hiện thực, đảm bảo tính thời sự của các văn bản pháp luật

cũng như đảm bảo vận dụng, thực hiện đúng luật trong thực tiễn. Đồng thời, cần

tăng cường giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tổ chức, cá

nhân. Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong

thực tế, có chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi coi thường, làm trái pháp

luật. Đặc biệt, không để tồn tại những hiện tượng tiêu cực trong thi hành luật như

chạy án, xét xử oan, không đúng người đúng tội... Nếu thực hiện được những yêu

cầu vừa nêu mới nâng cao được vai trò của pháp luật, phát huy được vai trò của

Nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo CBXH.

* Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động của

Nhà nước làm cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện công bằng xã hội, phát triển

con người.

Thực tế hiện nay, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Nhà nước còn bất hợp lý,

cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả

thấp; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan

và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều mối

quan hệ còn bất hợp lí, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về mặt năng

lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm. Các vấn đề trên dẫn tới hậu quả là hiệu

lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước còn chưa cao, công tác quản lý đất nước còn

lúng túng, mắc nhiều sai sót, sản xuất tuy có tăng nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu,

tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt… gây cản trở thực hiện CBXH,

PTCN. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần tăng cường đổi mới, hoàn thiện

cơ cấu tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động theo hướng:

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước với các nội dung: xác định

rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

Page 145: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

140

quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; khắc phục những

chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà

nước, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện phân cấp hợp lý giữa

Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; tiếp tục thực

hiện nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trong xây dựng cơ cấu tổ chức

của Chính phủ; tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động của cơ quan hành chính nhà

nước, nâng cao chất lượng trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông

tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; thực hiện việc đánh giá

mức độ hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với các dịch vụ do cơ quan hành chính

cung cấp.

Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu

quả, minh bạch, công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính; loại bỏ

những rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho

dân. Trong công tác cải cách thủ tục hành chính, tập trung quyết liệt thực hiện

cải cách thủ tục hành chính theo các lĩnh vực trọng tâm được giao tại Nghị quyết

số: 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ

yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc

gia hai năm 2015-2016. Tiếp tục rà soát, bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần

thiết, không phù hợp, gây phiền hà, tốn kém cho cá nhân và tổ chức, vừa cản trở

các hoạt động kinh tế xã, hội vừa dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực (tham nhũng,

hối lộ). Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành

chính. Chuẩn hóa, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực

hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Công khai kết quả giải

quyết thủ tục hành chính trên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương

để giảm thời gian, chi phí thực hiện của cá nhân và tổ chức.

Cần tăng cường và cải tiến các hoạt động mang tính dân chủ cao như: chất

vấn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân

qua truyền hình và internet, thiết lập các đường dây nóng liên lạc với người dân,

đổi mới các cuộc tiếp xúc cử tri...

Nhà nước cũng cần tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

công chức nhà nước cả về nâng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu thực thi

công vụ hiệu quả. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, xử lý nghiêm những

Page 146: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

141

hành vi tiêu cực như thói hách dịch, thái độ nhũng nhiễu, gây phiền hà, tham

nhũng... của cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước.

* Phát huy vai trò của Nhà nước đối với việc mở rộng và phát huy

dân chủ làm cơ sở đảm bảo thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, phát triển

con người.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực của sự

phát triển đất nước. Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi

trọng phát huy dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động, đặc biệt là quyền làm chủ

của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Thực chất của quá

trình này là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, ý thức

chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội và tính tích cực, tự giác, sáng tạo của

các tầng lớp nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước.

Dân chủ là điều kiện tiên quyết để phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc

PTCN, bởi dân chủ đảm bảo cho mọi người đều có quyền như nhau.

Những năm qua, nhờ có quan điểm, đường lối đúng, việc xây dựng, phát

huy dân chủ ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang lại hiệu

quả thiết thực trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có ý nghĩa to lớn trong phát

triển đất nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, vai trò làm chủ của nhân

dân có lúc, có nơi chưa thật sự được coi trọng, quyền hạn của nhân dân chưa

được trao đầy đủ; tình trạng vi phạm dân chủ vẫn còn diễn ra tuy không phổ

biến, quyền lợi của nhân dân còn bị xâm phạm. Do dân chủ chưa được đảm bảo

và thực hiện đầy đủ đã dẫn đến xu hướng lạm quyền; những biểu hiện quan liêu,

tham nhũng, tiêu cực không được phát hiện và đấu tranh ngăn chặn, khắc phục

kịp thời, tạo nên những bất công trong các quan hệ xã hội, làm giảm lòng tin và

gây bất bình trong nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà

nước. Để đảm bảo quyền dân chủ, phát huy đầy đủ vai trò của các tầng lớp nhân

dân lao động qua đó tạo điều kiện để thực thi CBXH ở nước ta hiện nay cần tiếp

tục mở rộng và phát huy dân chủ.

Ngay từ khi khi hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích

chính đáng của nhân dân. Bằng mọi hình thức, giải pháp bảo đảm để nhân dân

tham gia đóng góp trí tuệ ở tất cả các khâu trước khi đưa ra những quyết định

liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.

Page 147: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

142

Tiếp tục phát huy hiệu quả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện;

thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn. Trong đó, cần chú trọng hình thức dân chủ trực tiếp, vì đây là hình

thức nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề, các công việc quan trọng mà không

phải thông qua một yếu tố trung gian nào; bảo đảm nhanh, trung thực ý chí của

nhân dân. Bảo đảm thực thi quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013 như: Bầu cử, bãi miễn đại biểu, thực

hiện quyền sáng kiến lập pháp, dân chủ ở cơ sở, quyền tham gia đóng góp ý kiến

quản lý xã hội, quản lý nhà nước và các hình thức khác, v.v.. thực hiện tốt Quy chế

dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và Pháp lệnh

thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đó là điều kiện cần thiết để phát huy

quyền làm chủ của nhân dân một cách hữu hiệu nhất, theo phương châm “dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Mở rộng và phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật.

Thực thi dân chủ mà không gắn với nguyên tắc, kỷ cương, pháp luật sẽ trở thành

dân chủ quá trớn, mất tập trung, vô tình tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi

dụng gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Dân chủ gắn liền với kỷ

luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.

Chỉ như vậy, dân chủ mới từ tư tưởng trở thành hiện thực, định hướng giá trị về

dân chủ mới định hình trong thực tế, làm cho mỗi người dân được thụ hưởng lợi

ích do dân chủ đem lại trong cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, phải xây dựng các

thể chế để đảm bảo cho nhân dân có quyền và khả năng thực tế kiểm tra, giám

sát các cán bộ và cơ quan Nhà nước nhằm ngăn ngừa và đẩy lùi tệ quan liêu,

tham nhũng, cửa quyền, vô trách nhiệm.

Phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ.

Quá trình dân chủ hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sống từ

kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần. Về kinh tế, cái cốt lõi là bảo đảm lợi ích kinh tế

của người lao động. Những lợi ích đó phải được thể chế hóa trong các quyền công

dân: sở hữu, quản lý, phân phối. Về chính trị, phải bảo đảm cho nhân dân có quyền

tham gia vào các hoạt động quản lý điều hành của nhà nước và tổ chức chính trị - xã

hội một cách trực tiếp và thông qua các đại diện ưu tú do mình lựa chọn. Phải bảo

đảm quyền dân chủ trong ứng cử, bầu cử, trong thảo luận, đóng góp ý kiến xây

dựng các dự án luật; trong sinh hoạt dân chủ ở các cơ quan dân cử, các đoàn thể xã

hội... Về văn hóa, tinh thần, phải tạo cho các tầng lớp nhân dân có quyền tự do

Page 148: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

143

hưởng thụ thành tựu văn hóa tiến bộ và tự do tư tưởng. Bảo đảm cho công dân

quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo, quyền thảo

luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa

tinh thần xã hội... Việc mở rộng và phát huy dân chủ đảm bảo xây dựng một nhà

nước trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò của nhà nước trong thực hiện CBXH,

tạo cơ sở cho sự PTCN.

Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức kinh tế - xã hội trong thực hiện

công bằng xã hội, phát triển con người.

Để đảm bảo thực hiện CBXH thì Đảng và Nhà nước giữ vai trò hết sức

quan trọng, đó chính là sự lãnh đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. Tuy nhiên,

thực hiện CBXH còn phụ thuộc vào sự hợp tác phối kết hợp nhịp nhàng của các

tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân và sự đồng thuận của toàn

xã hội.

Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò triển khai, thực hiện, cụ thể hóa

các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực cụ thể. Việc

thực hiện CBXH có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của

các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, cần phát huy vai trò của các tổ chức chính

trị - xã hội để tiến hành giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trương, đường

lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện CBXH. Sự

giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức xã hội sẽ phản ánh trực tiếp, chân

thật, đầy đủ mọi nhu cầu về CBXH của mọi tầng lớp nhân dân, giúp cho cơ quan

lãnh đạo và quản lý nắm bắt nhu cầu xã hội một cách đầy đủ, khách quan để kịp

thời điều chỉnh chủ trương chính sách, pháp luật về CBXH cho phù hợp. Đảng

và Nhà nước cần thừa nhận, đánh giá đúng mức lực lượng xã hội này, tạo điều

kiện thuận lợi nhất để cho các tổ chức xã hội này hoạt động ngày càng hiệu quả

hơn, không hành chính hoá, quan liêu hoá. Nhà nước cần ban hành Luật về hội

để tạo cơ sở pháp lý thuận tiện nhất cho các tổ chức này hoạt động. Ban hành

luật về hội là sự công nhận địa vị pháp lý và vai trò lịch sử của các tổ chức xã

hội trong quá trình quản lý xã hội, là thừa nhận sự đóng góp to lớn không thể

phủ nhận của các tổ chức xã hội đối với việc hiện thực hoá quan điểm, đường

lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về CBXH, qua đó phát huy vai trò

của CBXH đối với PTCN.

Các tổ chức thông qua các hình thức như: tài trợ, đóng góp kinh phí để hỗ trợ

cho các gia đình chính sách gặp khó khăn, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người già cả

Page 149: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

144

neo đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi cơ nhỡ, người lầm đường lạc lối... giúp họ

có điều kiện hòa nhập cộng đồng và có điều kiện phát triển kinh tế. Hỗ trợ các vùng

đặc biệt khó khăn, thiên tai lũ lụt… Đây là những việc làm tình nghĩa hết sức cao

đẹp, vừa mang tính truyền thống dân tộc, vừa góp phần tích cực vào việc xóa bỏ bất

công, thực hiện CBXH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đảng và Nhà nước cần

phối hợp với các tổ chức này nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước

thực hiện CBXH. Cụ thể, tích cực triển khai các chính sách thu hút vốn đầu tư trong

và ngoài nước cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư xây cho các dự

án phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng

kinh tế khó khăn. Kêu gọi sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước

tham gia công tác xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ nhân đạo. Đẩy

mạnh xã hội hóa công tác giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa để nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Có cơ chế khuyến khích (miễn giảm

thuế, ưu đãi về vốn...) đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh đầu tư

vào những vùng miền khó khăn.

Như vậy, thực hiện CBXH không đơn giản là công việc của một tổ chức,

một cá nhân, mà là sự phối kết hợp đồng thuận của toàn xã hội, công việc đó là

của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đó là sức mạnh tổng hợp của tinh thần

đoàn kết toàn dân tộc kiên quyết đấu tranh chống những bất công, bất bình đẳng,

thực hiện CBXH, vì mục tiêu PTCN.

4.4. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC THỰC

HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Công bằng xã hội là khát vọng ngàn đời của con người. Thực hiện CBXH

là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là điều kiện cho sự PTCN. Có chủ

trương, đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt nhưng một vấn

đề không kém phần quan trọng đó là phải nâng cao nhận thức của người dân về

thực hiện CBXH.

Ở Việt Nam hiện nay, sự hiểu biết của người dân về CBXH còn rất hạn

chế, giản đơn. Đa số đồng nhất CBXH với bình đẳng xã hội từ đó dẫn đến tư

tưởng bình quân, cào bằng. Không ít người quan niệm thực hiện CBXH là trách

nhiệm của Đảng, Nhà nước nước từ đó ỉ lại, trông chờ vào sự trợ giúp từ bên

ngoài... Do đó, cần nâng cao nhận thức của người dân về đề CBXH, giúp mọi

người hiểu rằng, phấn đấu đạt được CBXH không chỉ là quyền lợi thiết thực của

Page 150: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

145

mỗi người mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự phát triển đất nước. Khi

mọi người đều có hiểu biết đúng đắn về CBXH họ sẽ tự giác phấn đấu để đạt

được CBXH bằng chính sức lực và tài năng của mình chứ không trông chờ vào

sự trợ giúp từ bên ngoài. Để nâng cao nhận thức của người dân về CBXH cần

phải thông qua nhiều biện pháp.

Thứ nhất, hoàn chỉnh quan niệm về CBXH để không nhầm lẫn với bình

đẳng xã hội, bình quân, cào bằng. Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách

đúng đắn, sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển về CBXH để triển khai thực

hiện, giải quyết CBXH trong thực tế phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và

mục tiêu chính trị của đất nước. Vì CBXH không đồng nhất với bình đẳng xã hội

cho nên thậm chí chúng ta phải chấp nhận tình trạng có thể bất bình đẳng nhưng

vẫn là công bằng. Chúng ta cũng phải thừa nhận chênh lệch thu nhập, phân hóa

giàu nghèo ở một mức độ nào đó là biểu hiện của công bằng nhằm kích thích

mọi thành viên trong xã hội phát huy sức lực, trí tuệ, nhiệt tình, sáng tạo, vươn

lên làm giàu, phát triển bản thân, gia đình và xã hội. Chúng ta cũng cần hiểu

đúng rằng, CBXH chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở sự tăng trưởng và phát

triển kinh tế. Đối với nước ta hiện nay, quan điểm đúng đắn, khoa học, phù hợp

nhất là phải thực hiện công bằng trong và đồng thời với quá trình phát triển kinh

tế. Cần thấy CBXH có phạm vi toàn diện chứ không chỉ quy vào kinh tế, hơn

nữa chỉ ở việc phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. CBXH không chỉ trên

phạm vi hoạt động của xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa... mà còn trên cơ sở

của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội - giai cấp. Ở nước ta hiện nay với nhiều

thành phần kinh tế nên cơ cấu xã hội - giai cấp bao hàm nhiều giai cấp, tầng lớp

khác nhau. CBXH ở từng giai cấp, tầng lớp và thành phần kinh tế sẽ rất khác

nhau và cần được tìm hiểu cụ thể.

Thứ hai, cần phải có kế hoạch, nội dung, chương trình, thông qua giáo dục

chính quy bằng cách lồng ghép trong các giáo trình về kinh tế, luật, chính trị, đạo

đức, văn hóa... Tuyên truyền giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, internet; thông qua văn học, nghệ thuật:

phim ảnh, sân khấu, truyện... nhằm nâng cao nhận thức về những nội dung, chức

năng, vai trò, ý nghĩa CBXH để các tổ chức, cá nhân có thể thấy được quyền và

nghĩa vụ của mình trong việc xây dựng và thực thi CBXH. Từ đó nâng cao trách

nhiệm của các cấp, các ngành, của người dân đối với nhiệm vụ thực hiện CBXH

vì sự PTCN và xã hội.

Page 151: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

146

Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ

thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH. Đưa nội dung của

các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, về

quyền dân chủ của nhân dân, về thực hiện CBXH vào nội dung sinh hoạt cấp ủy

các cấp, thảo luận nghiêm túc. Biên soạn tài liệu, phát hành, phổ biến rộng rãi

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tài liệu khoa học, tài liệu trao đổi

kinh nghiệm cho cán bộ, công chức về CBXH. Biên soạn, bổ sung chuyên đề

thực hiện CBXH vào chương trình bồi dưỡng cán bộ của các trung tâm bồi

dưỡng chính trị. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức

đảng, cơ quan, đơn vị đối với thực hiện CBXH ngay tại địa phương, đơn vị, địa

bàn, lĩnh vực người đó phụ trách. Trách nhiệm ấy, phải được thể hiện trong

chương trình, kế hoạch hoạt động của cá nhân cán bộ và cơ quan, đơn vị hằng

quý, năm. Việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị

từ Trung ương tới cơ sở về vai trò của CBXH chẳng những góp phần nâng cao ý

thức trách nhiệm cá nhân mà thông qua đó phát huy tầm ảnh hưởng của họ để

động viên, thuyết phục, nêu gương trong thực hiện CBXH nhằm thuyết phục dư

luận xã hội.

Thứ tư, phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc góp phần giáo dục

ý thức của người dân về thực hiện công bằng xã hội.

Giá trị truyền thống được hiểu là những giá trị tương đối ổn định, những

gì là tốt đẹp, là tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, có khả năng

truyền lại qua không gian, cần phải bảo vệ và phát triển. Bàn về giá trị truyền

thống của dân tộc Việt Nam, GS Trần Văn Giàu đã tổng kết và phân tích bảy

giá trị được coi là tiêu biểu nhất trong các giá trị truyền thống của người Việt

Nam là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì

nghĩa. Có thể thấy, nội dung cốt lõi của các giá trị văn hóa truyền thống đều

hướng tới việc xây dựng và củng cố, phát triển quan hệ tốt đẹp giữa người với

người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Những giá trị văn hóa

truyền thống của dân tộc có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh và định hướng

hành vi của con người theo hướng nhân văn, lành mạnh, bình đẳng. Do vậy,

phát huy những giá trị tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc là công cụ

quan trọng để hoàn thiện quan hệ bình đẳng, nhân ái giữa người với người

trong xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người

được phát triển toàn diện. Theo đó cần:

Page 152: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

147

- Đẩy mạnh nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những truyền thống tốt đẹp

của dân tộc, góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và

tính cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Việc

bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở để giáo dục, nâng

cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng nhân cách con

người Việt Nam có ý thức cộng đồng, tinh thần tương thân tương ái, tôn trọng

nghĩa tình, luôn đấu tranh chống lại những bất công, bất bình đẳng trong xã hội.

Trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu thêm nền

văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống lại sự du nhập của các nền văn hóa độc hại,

những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền,

bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, kiếm tiền bằng mọi giá. Đây

chính là tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH.

- Xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, gia

đình văn hoá, làng văn hoá. Chúng ta đều biết, gia đình là nơi duy trì nòi giống

và giáo dưỡng tình cảm của con người. Đặc biệt, gia đình là nơi duy trì gia

phong cũng như nuôi dưỡng các giá trị văn hoá truyền thống khác của dân tộc.

Vì vậy, việc xây dựng gia đình văn hoá là hết sức cần thiết. Nội dung của các

tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá phải phản ánh đạo lý dân tộc. Bên cạnh việc

xây dựng gia đình văn hoá, cần xây dựng phong trào làng văn hoá để giáo dục,

bồi dưỡng tính cộng đồng, tính tích cực chính trị - xã hội, tinh thần văn hoá và

định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng các phong trào văn hoá quần chúng,

bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá, xây dựng hương ước và làng văn hoá mới và

các phong trào xã hội, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, xoá đói giảm nghèo,vv... có tác

dụng bồi dưỡng tính cộng đồng cho con người và phát huy truyền thống đoàn kết

cũng như tính nhân văn, lòng khoan dung, yêu lẽ công bằng.

- Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với tăng

cường giáo dục pháp luật. Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc

điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Cùng với đạo đức, pháp luật

XHCN hướng con người tới hệ giá trị chân - thiện - mỹ, trừng trị và ngăn chặn

cái ác, cái xấu nhằm làm lành mạnh hoá xã hội. Do vậy, cần phải giáo dục ý thức

pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh niên, học sinh, sinh

viên; giúp họ tránh được những hành vi phạm pháp và trở thành những công dân

sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Page 153: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

148

- Xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và quá

trình hội nhập quốc tế. Chúng ta cần tiếp cận các giá trị văn hoá của nhân loại để

hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, nhưng cũng cần phải giữ gìn, phát huy các giá

trị truyền thống để không đánh mất bản thân mình; hơn nữa, phải biến các giá trị

đó thành sức mạnh nội sinh nâng đất nước ta lên tầm cao mới. Đây là yêu cầu có

tính nguyên tắc. Chính vì vậy, chúng ta cần phải xác lập được bản lĩnh văn hóa

Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá

hiện nay để làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung các giá trị truyền thống

nhằm tạo nên nền tảng văn hoá tinh thần cho sự phát triển bền vững của đất nước

theo hướng: dân chủ, công bằng, văn minh.

Công bằng xã hội không phải từ trên trời rơi xuống, nó phụ thuộc rất

nhiều vào từng cá nhân. Phải đấu tranh, vươn tới, phải lao động đóng góp thì

mới có hưởng thụ; phải ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi thì mới có được công

bằng cho bản thân và xã hội. Thực tiễn ngày nay đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục

nhận thức mới về CBXH.

Kết luận chương 4

Thực hiện CBXH là một nội dung quan trọng trong chiến lược PTCN Việt

Nam toàn diện ở nước ta hiện nay. Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay

bên cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế cản trở việc PTCN

Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đề ra, trước mắt chúng ta cần triển khai hàng

loạt các giải pháp, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như: tiếp

tục hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn thiện

và thực thi đầy đủ các chính sách kinh tế, các chính sách xã hội đảm bảo thực

hiện CBXH; nâng cao vai trò của hệ thống chính trị trong việc thực hiện CBXH

và một giải pháp không kém phần quan trọng đó là phải nâng cao nhận thức của

người dân về thực hiện CBXH. Các giải pháp này có quan hệ mật thiết với nhau,

bổ sung, hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau. Do đó, để đạt hiệu quả tối ưu đòi hỏi hệ

thống giải pháp này phải được phối, kết hợp thực hiện một cách đồng bộ, toàn

diện, thường xuyên, liên tục.

Page 154: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

149

KẾT LUẬN

Lịch sử nhân loại là lịch sử PTCN. Trong quá trình đó, ước mơ có một

cuộc sống tự do, công bằng, dồi dào về vật chất, phong phú về tinh thần, không

ngừng được nâng cao về tri thức của mỗi người luôn được ấp ủ và theo đuổi qua

mọi thế hệ, thời đại. Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, khi

theo đuổi mục đích đó, trọng tâm và mục tiêu phát triển lại không hoàn toàn như

nhau. Phải mãi đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề giải phóng con

người khỏi xã hội có áp bức, bất công, tạo điều kiện cho con người phát triển

toàn diện mới được đặt ra như một yêu cầu tất yếu của hiện thực. Thực hiện

CBXH đã trở thành mục tiêu hướng tới của mọi xã hội muốn phát triển ổn định

và bền vững.

Đối với nước ta, CBXH là khát vọng của toàn dân, là yêu cầu cấp bách

trong chiến lược xây dựng và PTCN Việt Nam hiện nay. Thông qua thực hiện

CBXH, mà cụ thể là thực hiện công bằng trong phân phối, sẽ làm cho mọi thành

viên tham gia vào các quan hệ lợi ích thấy mình được tôn trọng, được đền bù

hợp lý, từ đó kích thích họ tự cống hiến hơn nữa để góp phần tích cực vào sự

phát triển bản thân cũng như phát triển xã hội. Thực hiện CBXH trong y tế, giáo

dục, văn hóa tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận bình đẳng với các điều kiện

phát triển, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, tạo điều kiện để mọi người

đều có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình. Thông qua việc đảm bảo các

quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hiện CBXH tạo môi trường để con

người thoải mái cống hiến, tự do sáng tạo và phát triển.

Thực tiễn 30 năm đổi mới đã ghi nhận vai trò to lớn của thực hiện CBXH

với việc PTCN ở nước ta thông qua những thành tựu mà chúng ta thu được trên

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,

môi trường chính trị ổn định, giáo dục, y tế, văn hóa thông tin phát triển... đời

sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận tầng lớp nhân dân được cải thiện, góp

phần PTCN Việt Nam cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Bên cạnh những thành tự

đã đạt được, chúng ta còn đang đương đầu với hàng loạt khó khăn, thách thức

trong quá trình phát huy vai trò của thực hiện CBXH đối với việc PTCN: phân

phối TLSX vẫn còn nhiều bất hợp lý, gây bức xúc cho các chủ thể kinh tế;

nguyên tắc đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập vẫn chưa được thực

hiện đầy đủ, chưa phát huy được tính tích cực của người lao động; những biểu

Page 155: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

150

hiện làm giàu bất chính có xu hướng tăng gây bất ổn về chính trị - xã hội; bất

công trong giáo dục, y tế, văn hóa đang làm hạn chế sự PTCN trên tất cả các

mặt: thể lực, trí lực và tâm lực.

Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp,

đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Để phát huy hơn nữa vai trò

của thực hiện CBXH với việc PTCN ở Việt Nam hiện nay cần triển khai thực

hiện hàng loạt các giải pháp. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mọi

chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn quy mô, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phù

hợp với điều kiện của mình; mọi chủ thể kinh tế đều có cơ hội nắm bắt lựa chọn

thông tin, nguồn lực phát triển và phương thức hoạt động sản xuất, kinh doanh

một cách thuận lợi nhất. Ở nước hiện nay, các chính sách kinh tế và chính sách

xã hội bên cạnh sự thống nhất cũng nảy sinh không ít mâu thuẫn cản trở quá

trình thực hiện CBXH, tác động tiêu cực đến sự PTCN. Do đó, tăng cường đổi

mới và hoàn thiện hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội là một

trong những yêu cầu nhằm thực hiện CBXH, PTCN. Một giải pháp không kém

phần quan trọng là nâng cao vai trò của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước và

các tổ chức kinh tế - xã hội trong việc thực hiện CBXH, PTCN. Cuối cùng là

nâng cao nhận thức của người dân về thực hiện CBXH. Khi mọi người đều có

hiểu biết đúng đắn về CBXH họ sẽ tự giác phấn đấu để đạt được CBXH bằng

chính sức lực và tài năng của mình. Những giải pháp này có tính định hướng

trong việc tạo dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, ở đó con người được phát

huy quyền làm chủ, luôn sáng tạo, luôn cống hiến cao nhất năng lực của mình vì

sự phát triển của bản thân cũng như sự phát triển của xã hội.

Page 156: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Bùi Thị Phương Thùy (2011), “Văn kiện Đại hội XI với vấn đề phát triển con

người”, Tạp chí phát triển nhân lực, (5).

2. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Những yếu tố cơ bản ánh hưởng đến việc thực

hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, trong Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, dân chủ hóa với bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Lê Quốc

Lý, Nguyễn Thị Nga và Phạm Anh Hùng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

3. Bùi Thị Phương Thùy (2012), “Chiến lược phát triển con người trong Văn kiện

Đại hội XI”, trong Một số vấn đề triết học trong các Văn kiện của Đảng,

Nguyễn Hùng Hậu, Trần Văn Phòng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

4. Bùi Thị Phương Thùy (Chủ nhiệm) (2012), Giáo dục, đào tạo với việc phát triển

con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Học viện

Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

5. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ đổi

mới”, Tạp chí Mặt trận, (115).

6. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối

cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (198).

7. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá

nhân và phát triển con người Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, (116).

8. Bùi Thị Phương Thùy (2013), “Giáo dục, đào tạo với việc phát triển con người

Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí phát triển nhân

lực, (3).

9. Bùi Thị Phương Thùy, Lô Quốc Toản (2013), “Vấn đề bản chất con người trong

tác phẩm “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người” của

Trần Đức Thảo”, Tạp chí Triết học, (8).

10. Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Công bằng xã hội cho người phụ nữ trong đời sống

và tư tưởng Việt Nam truyền thống”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời

sống, (3).

Page 157: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

152

11. Trần Văn Phòng, Bùi Thị Phương Thùy (2014), “Vấn đề bản chất con người

trong quan niệm của Trần Đức Thảo”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc

tế: Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo, Trường Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

12. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Bàn về khái niệm phát triển con người”, Tạp chí

Triết học, (10).

13. Bùi Thị Phương Thùy (2015), “Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công

bằng xã hội”, Thông tin Những vấn đề triết học và đời sống, (4).

14. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở

nước ta - thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, (2).

15. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức

khỏe ở Việt Nam hiện nay - Thành tựu và hạn chế”, Tạp chí Giáo dục lý

luận, (5).

16. Bùi Thị Phương Thùy (2016), “Thực hiện công bằng trong phân phối tư liệu sản

xuất ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (7).

Page 158: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc và Phạm Văn Thủy (2010), Phát triển văn

hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

2. Ngân Anh (2015), “Dân trí Việt Nam cao hay thấp”, tại trang http://vietnamnet.vn,

[truy cập ngày 09/06/2015].

3. Phạm Ngọc Anh (1995), “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).

4. Vũ Đình Bách (chủ biên), (2008), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương (2005), Báo cáo tổng kết một số

vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

6. Báo điện tử Chính phủ (2015), “Báo cáo Tổng kết công tác y tế năm 2014,

một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2015, giai đoạn 2016-

202”, tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 19/01/2015].

7. Báo điện tử Chính phủ (2014), "Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa

XI", tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 12/06/2015].

8. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Một số cách tiếp cận

phạm trù "nhân tố con người" trong lý thuyết phát triển và phương án

đo đạc”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (4).

9. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Nghiên cứu phát triển

con người (HD), chỉ số phát triển con người (HDI) ở nước ta và những

vấn đề đặt ra cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển của Thiên niên

kỷ (MDG)”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).

10. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), “Quán triệt tư tưởng Hồ

Chí Minh về con người vào việc nghiên cứu con người và phát triển con

người ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (9).

11. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2004), “Chỉ số phát triển con

người (HDI) Việt Nam trong tiến trình 15 năm (1990 - 2004) của thời

kỳ đổi mới”, Tạp chí Thông tin Khoa học và xã hội, (12).

Page 159: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

154

12. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Mạnh Cương và Trương Thị Thuý Hằng (2005),

“Chỉ số phát triển con người Việt Nam 2005 thực trạng và kiến nghị”,

Tạp chí Nghiên cứu con người, (6).

13. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2005), Chỉ số phát triển kinh tế

trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

14. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2005), Chỉ số tuổi thọ trong HDI,

một số vấn đề thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đặng Quốc Bảo, Đặng Thị Thanh Huyền (2005), Chỉ số phát triển giáo

dục trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

16. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hoá đối với việc phát huy

nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (1).

17. Hoàng Chí Bảo (1998), “Đổi mới ở Việt Nam, một số vấn đề triết học về

con người và xã hội”, Tạp chí Triết học, (10).

18. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

19. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Vấn đề phân phối và phân

hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.

20. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người

toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Lê Chi (2016), “Chỉ số cảm nhận tham nhũng”, tại trang https://towardstran

sparency.vn, [truy cập ngày 12/02/2016]

22. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), “Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội”, Tạp chí Triết học, (4).

23. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã

hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Phạm Như Cương (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

Page 160: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

155

25. Phùng Danh Cường (2014), Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt

Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Dân (2009), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Bùi Đại Dũng (2012), Công bằng trong phân phối - cơ sở để phát triển bền

vững, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.

28. Bùi Đại Dũng, Phạm Thu Phương (2009), “Tăng trưởng kinh tế và công bằng

xã hội”, Tạp chí Khoa học, Chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, (25).

29. Nguyễn Hữu Dũng (2002), “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá

trình hội nhập xét từ góc độ nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và

xã hội, (209).

30. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt

Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

31. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Anh Đào (2012), “Quyền được chăm sóc sức khỏe: Đánh giá từ

góc độ phát triển con người”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).

33. Trần Thị Tâm Đan (1996), “Phát huy và phát triển nguồn nhân lực trẻ”, Tạp

chí cộng sản, (11).

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -

xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 161: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

156

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu ban chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận

và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng nguồn

lực con người”, Tạp chí Triết học, (6).

48. Phạm Văn Đức (2000), “Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục, đào tạo

trong việc phát triển nguồn nhân lực con người”, Tạp chí Triết học, (6).

49. Phạm Văn Đức và các cộng sự (2008), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã

hội và đoàn kết xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Điều Bá Được (2015), “Tình hình quản lý và sử dụng Quỹ BHXH năm

2015”, tại trang http://baohiemxahoi.gov.vn, [truy cập ngày 4/5/2016].

51. Bắc Hà (2015), “Việt Nam xứng đáng là thành viên Hội đồng Nhân quyền

Liên hợp quốc”, tại trang http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày

18/04/2014].

52. Nguyễn Ngọc Hà (2002), “Nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng xã

hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).

53. Nguyễn Ngọc Hà (2009), “Đảm bảo công bằng xã hội vì sự phát triển bên

vững”, Tạp chí Triết học, (2).

54. Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại

hội VI đến Đại hội XI về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công bằng

xã hội”, tại trang http://dangcongsan.vn/, [truy cập ngày 12/10/2016].

Page 162: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

157

55. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ

phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về phát triển văn

hoá và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người, đối

tượng và những hướng nghiên cứu chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

60. Lương Việt Hải (chủ biên), (2008), Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công

bằng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Phạm Hảo, Võ Xuân Tiến, Mai Đức Lộc (chủ biên) (2000), Tăng trưởng

kinh tế và công bằng xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một

số tình miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Trương Thị Thuý Hằng (2007), “Tiếp cận phát triển con người trong công

tác kế hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (6).

63. Hoàng Triều Hoa (2015), “Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ

xã hội cơ bản ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (8).

64. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diện (chủ biên) (1996), Tôn trọng tri thức, tôn

trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

65. Võ Thị Hoa (2011), Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã

hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

66. Võ Thị Hoa, Vũ Hồng Sơn (2015), “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công bằng xã hội ở

Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 3 (286).

67. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1).

Page 163: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

158

68. Lê Công Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

69. Nguyễn Minh Hoàn (2007), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã

hội với tư cách thước đo trình độ giải phóng con người”, Tạp chí Triết

học, (5).

70. Nguyễn Minh Hoàn (2008), “Quan điểm triết học Mác về con người và việc

xóa bỏ sự tha hóa con người”, Tạp chí Triết học, (7).

71. Nguyễn Minh Hoàn (2009), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995),

Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

73. Lê Ngọc Hùng (2015), “Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam”,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (1).

74. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (2008), Triết học giáo dục hiện đại,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Nguyễn Quỳnh Huy (2005), “Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của

Việt Nam trong những năm gần đây”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (3).

76. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu con

người ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (8).

77. Nguyễn Văn Huyên (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển

con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Nguyễn Thị Lan Hương (Chủ biên) (2016), Thực hiện công bằng xã hội đối với

các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

79. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2012), “Tăng cường thực hiện dân

chủ ở cơ sở để bảo đảm hiệu quả hơn quyền con người ở Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).

80. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

81. Tường Duy Kiên (2011), “Các chỉ số về quyền con người - ý nghĩa và khả

năng áp dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).

82. Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất

lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh

của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6).

Page 164: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

159

83. Dương Bạch Kim (2006), “Thực trạng phát triển con người Việt Nam về

sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).

84. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn

hoá và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện công

bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Nguyễn Thị Lê (2014), "Phát triển con người trên thế giới: khái niệm và đo

lường", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).

87. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và

sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Lê Bộ Lĩnh (Chủ biên) (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở

một số nước châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Trương Giang Long (2004): “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

trong trong xu thế hội nhập hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (24).

90. Trịnh Duy Luân (2008), “Quá trình bổ sung nhận thức về công bằng xã hội và thực

hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 4 (104).

91. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. C.Mác , Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

96. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

97. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

100. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

103. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 165: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

160

107. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Mai Quỳnh Nam (chủ biên) (2012), Con người - văn hóa quyền và phát

triển, Từ điển bách khoa, Hà Nội.

109. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2012), Phát triển con người Việt Nam năm 2011,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

110. Phạm Xuân Nam (2004), “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Xã hội học, (13).

111. Phạm Xuân Nam (2004), “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (712).

112. Phạm Xuân Nam (2007), “Về khái niệm “công bằng xã hội”, Tạp chí Xã hội

học, số 1, (97).

113. Lê Nga (2015), “Trung bình mỗi người Việt Nam sở hữu 1,4 thuê bao di

động”, tại trang http://ictnews.vn, [truy cập ngày 23/01/2015].

114. Nguyễn Thị Nga (2005), “Công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - một số

thành tựu và vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

115. Nguyễn Thị Nga (chủ biên) (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và

công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp,

Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

116. Thúy Ngà (2015), “Nhắm đích 50% người lao động tham gia bảo hiểm xã

hội”, tại trang http://vietnamnet.vn, [truy cập ngày 17/10/2015].

117. Ngân hàng thế giới (2005), Báo cáo phát triển thế giới 2006: Công bằng và

phát triển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

118. Phạm Thành Nghị (2007), “Dân chủ và phát triển con người”, Tạp chí

Nghiên cứu Con người, (6).

119. Phạm Thành Nghị (2010), Phát triển con người vùng Tây Bắc nước ta, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Dương Xuân Ngọc, Nguyễn Văn Nhớn (2002), “Vai trò của nhà nước trong

việc thực hiện công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (7).

121. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý”

của nhà triết học Mỹ John Rawls, Nxb Thế giới, Hà Nội.

122. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân

lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc

tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 166: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

161

123. Vũ Thị Ngọc Phùng (Chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội

và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

124. Nguyễn Duy Quý (1998), “Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản (19).

125. Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong

quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

126. Hồ Sĩ Quý (2005), “Phát triển con người Việt Nam qua các báo cáo thường niên

về phát triển con người của UNDP”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (4).

127. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Giáo trình dùng cho

sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

128. Trần Văn Rón, Lương Việt Hải (2015), “Thực hiện công bằng xã hội với

các hình thức sở hữu vì sự phát triển con người ở nước ta hiện nay”,

Tạp chí Nghiên cứu con người, số 3 (782).

129. Jean - Jacques Rousseau (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

130. Lê Văn Sang, Kim Ngọc (chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế và công

bằng xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn "thần kỳ" và Việt Nam thời kỳ

"đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

131. Amartya Sen (2002), Phát triển là quyền tự do, Nxb Thống kê, Hà Nội.

132. Vũ Thanh Sơn (chủ biên) (2014), Phân phối bình đẳng các nguồn lực kinh tế -

tiếp cận lý luận và thực tiễn ở một số quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

133. Vũ Thanh Sơn (2011), “Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Nghị

quyết Đại hội XI của Đảng”, tại trang http://www.tapchicongsan.org,

[truy cập ngày 15/10/2016].

134. Đường Vinh Sường (2013), “Phát triển nguồn nhân lực ở nước ta ”, Tạp chí

Cộng sản, (850).

135. Lê Hữu Tầng (1993), “Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng

trong chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (2).

Page 167: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

162

136. Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã

hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

137. Vũ Minh Tâm (Chủ biên) (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

138. Mai Hữu Thực (Chủ biên) (2004), Vai trò của nhà nước trong phân phối

thu nhập ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139. Phạm Thị Tính (2009), “Dân chủ tham gia với phát triển con người”, Tạp

chí Nghiên cứu con người, (2).

140. Đặng Hữu Toàn (1997), “Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác

và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu phát triển

con người ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1).

141. Đặng Hữu Toàn (1997), “Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư

cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội, (3).

142. Đặng Hữu Toàn (2000), “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”, Tạp chí Triết học, (4).

143. Đặng Hữu Toàn (2005), “Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến

bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt

Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, (9).

144. Đặng Hữu Toàn (2008), “Con người - Chủ thể sáng tạo lịch sử”, trong Một

số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

145. Tổng cục thống kê (2015), Niên giám thống kê, tại trang https://gso.gov.vn,

[truy cập ngày 20/8/2016].

146. Tổng cục thống kê (2016), Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt

Nam 5 năm 2011-2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.

147. Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên) (2009), Những vấn đề lý luận cơ bản về công

bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

148. Anh Tuấn (2015), “Thực trạng tử vong trẻ em tại Việt Nam”, tại trang

http://m.songkhoe.vn, [truy cập ngày 09/10/2015].

149. UNDP (2011), Dịch vụ xã hội vì sự phát triển con người, Báo cáo Quốc gia

về phát triển con người năm 2011, Hà Nội.

Page 168: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

163

150. UNDP (2015), Báo cáo Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng

bao trùm - Tăng trưởng vì mọi người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

151. Nguyễn Thành Trung (2008), “Vai trò của con người và vấn đề phát huy

nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp

chí Triết học, (7).

152. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Phát triển con người: Từ

quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

153. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (2001), Báo cáo phát triển con

người Việt Nam 2001, Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. Đỗ Tư (2005), “Về vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội”, Tạp chí Tư

tưởng - Văn hóa, (9).

155. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên hiệp quốc

(2006), Báo cáo phát triển con người Việt Nam 1999 - 2004, Những

thay đổi và xu hướng chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2012), Tuyển tập Nguyễn Duy Quý, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

157. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở

Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

158. Viện Thông tin khoa học xã hội (2007), Con người và phát triển con người

ở Hòa Bình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

159. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây

dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

160. Amartya Sen (2009), The idea of justice, Harvard University press.

161. David Miller (2010), Principles of social just, Harvard University press.

162. Ira C.Colby, Catherine, N.Dulmus, Karen M.Sowers (2013), Social work

and social policy: advancing the principles of economic and social

justice, Hoboken: John Wiley & Son press.

Page 169: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

164

163. Iris Marion Young (1990), Justice and Politics of Deffirence, Princeton

University Press Oxford.

164. Jacques Bidet (1995), A Metastructural Reinterpretation of the Rawlsian

Theory: From Rawls to Machiavelli, Publisher Oxford UK and

Cambridge, USA.

165. John Rawls (2001), A theory of justice, Revised edition, The Belknap press

of Haward University Press Cambridge, Massachusetts,USA.

166. Không rõ tên (1996), "Distribute Justice", Stanford Encyclopedia of

Philosophy, tại trang https://plato.stanford.edu, [truy cập ngày

10/10/2014].

Page 170: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

165

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo

thành phần kinh tế

Đơn vị: nghìn người

Năm Tổng số Kinh tế Nhà nước

Kinh tế ngoài

Nhà nước

Khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài

2000 37.075,3 4.358,2 32.358,6 358,5

2005 42.774,9 4.967,4 36.694,7 1.112,8

2010 49.048,5 5.107,4 42.214,6 1.726,5

2013 52.207,8 5.330,4 45.091,7 1.785,7

2014 52.744,5 5.473,5 45.214,4 2.056,6

2015 52.840,0 5.185,9 45.450,9 2.203,2

Nguồn: Niêm giám thống kê các năm (2000 - 2015) [145]

PHỤ LỤC 2

Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân theo vùng

Đơn vị: nghìn đồng/tháng

1999 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014

Cả nước 295 356 484 636 995 1.387 2.000 2.637

Đồng bằng sông Hồng 282 358 498 666 1.065 1.580 2.351 3.278

Trung du và miền núi phía

Bắc 199 237 327 442 657 905 1.258 1.613

Bắc Trung Bộ và duyên

hải miền Trung 229 268 361 476 728 1.018 1.505 1.982

Tây Nguyên 345 244 390 522 795 1.088 1.643 2.008

Đông Nam Bộ 571 667 893 1.146 1.773 2.304 3.173 4.124

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (1999 -2014) [145]

Page 171: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

166

PHỤ LỤC 3

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và đóng góp của 3 khu vực kinh tế

Đơn vị: %

Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài

Nhà nước Khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài

Sử dụng

nguồn lực Đóng góp

GDP Sử dụng

nguồn lực Đóng góp

GDP Sử dụng

nguồn lực Đóng góp

GDP

2005 47,1 37,62 38,0 47,22 14,9 15,16

2010 38,1 29,34 36,1 42,96 25,8 15,15

2014 39,9 28,73 38,4 43,33 21,7 17,89

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm 2005, 2010, 2014 [145]

PHỤ LỤC 4

Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng

Đơn vị: %

1998 2002 2004 2006 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Cả nước 37,4 28,9 18,1 15,5 13,4 14,2 12,6 11,1 9,8 8,4 7,0

Thành thị 9,0 6,6 8,6 7,7 6,7 6,9 5,1 4,3 3,7 3,0 2,5

Nông thôn 44,9 35,6 21,2 18,0 16,1 17,4 15,9 14,1 12,7 10,8 9,2

Ðồng bằng sông Hồng 30,7 21,5 12,7 10,0 8,6 8,3 7,1 6,0 4,9 4,0 3,2

Trung du và miền núi phía Bắc

64,5 47,9 29,4 27,5 25,1 29,4 26,7 23,8 21,9 18,4 16,0

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

42,5 35,7 25,3 22,2 19,2 20,4 18,5 16,1 14,0 11,8 9,8

Tây Nguyên 52,4 51,8 29,2 24,0 21,0 22,2 20,3 17,8 16,2 13,8 11,3

Ðông Nam Bộ 7,6 8,2 4,6 3,1 2,5 2,3 1,7 1,3 1,1 1,0 0,7

Ðồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,3 13,0 11,4 12,6 11,6 10,1 9,2 7,9 6,5

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2010 -2015) [145]

Chú thích: Tỷ lệ hộ nghèo được tính theo thu nhập bình quân 1 người 1 tháng của hộ gia đình theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011-2015 được cập nhật theo chỉ số giá tiêu dùng như sau: - 2010: 400 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 500 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2012: 530 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 660 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2013: 570 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 710 nghìn đồng đối với khu vực thành thị. - 2014: 605 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 750 nghìn đồng đối với khu vực thành thị.

- 2015: 615 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 760 nghìn đồng đối với khu vực thành thị.

Page 172: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

167

PHỤ LỤC 5

Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm

thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành

phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng

2010 2012 2014

Nhóm

thu

nhập

thấp

nhất

(Nghìn

đồng)

Nhóm

thu

nhập

cao

nhất

(Nghìn

đồng)

Chênh

lệch

giữa

hai

nhóm

(Lần)

Nhóm

thu

nhập

thấp

nhất

(Nghìn

đồng)

Nhóm

thu

nhập

cao

nhất

(Nghìn

đồng)

Chênh

lệch

giữa

hai

nhóm

(Lần)

Nhóm

thu

nhập

thấp

nhất

(Nghìn

đồng)

Nhóm

thu

nhập

cao

nhất

(Nghìn

đồng)

Chênh

lệch

giữa

hai

nhóm

(Lần)

Cả nước 369 3.410 9,2 512 4.784 9,4 660 6.413 9,7

Thành thị 633 4.983 7,9 952 6.794 7,1 1.267 9.421 7,4

Nông thôn 330 2.462 7,5 450 3.615 8,0 565 4.641 8,2

Đồng bằng

sông Hồng 468 3.744 8,0 700 5.384 7,7 1.007 7.858 7,8

Trung du và

miền núi phía

Bắc 282 2.137 7,6 377 2.943 7,8 468 3.806 8,1

Bắc Trung Bộ

và Duyên hải

miền Trung 317 2.283 7,2 443 3.355 7,6 561 4.400 7,8

Tây Nguyên 305 2.526 8,3 421 3.626 8,6 510 4.574 9,0

Đông Nam Bộ 720 5.573 7,7 1.054 7.361 7,0 1.397 9.979 7,1

Đồng bằng

sông Cửu

Long 395 2.908,0 7,4 545,0 4.214 7,7 728 5.420 7,4

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2010 - 2015) [145]

Page 173: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

168

PHỤ LỤC 6

Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi phân theo vùng

Đơn vị: ‰

2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Cả nước 26,8 24,1 22,5 24,1 23,8 23,3 23,2 23,1 22,4 22,1

Đồng bằng sông Hồng 17,2 14,9 16,4 18,6 18,4 18,7 18,4 18,3 17,7 17,5

Trung du và miền núi phía Bắc 40,3 36,0 31,8 37,2 36,9 34,9 35,7 35,2 33,9 33,4

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 33,9 28,3 24,1 25,8 25,7 25,8 25,8 25,5 24,9 24,5

Tây Nguyên 44,0 41,2 34,9 41,6 40,9 37,0 40,2 39,8 39,5 37,7

Đông Nam Bộ 15,8 14,9 12,1 15,0 14,3 13,9 13,7 13,5 13,1 12,9

Đồng bằng sông Cửu Long 21,6 16,4 16,4 20,0 18,9 18,3 18,0 17,9 17,4 17,0

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2005 -2015) [145]

PHỤ LỤC 7

Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh phân theo vùng

Đơn vị: tuổi

2005 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Cả nước 72,2 72,8 72,9 73,0 73,0 73,1 73,2 73,3

Đồng bằng sông Hồng 74,6 74,2 74,3 74,2 74,3 74,3 74,5 74,5

Trung du và miền núi phía Bắc 69,4 70,0 70,0 70,5 70,3 70,4 70,7 70,8

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 70,7 72,4 72,4 72,4 72,4 72,5 72,6 72,7

Tây Nguyên 68,7 69,1 69,3 70,0 69,4 69,5 69,5 69,9

Đông Nam Bộ 75,0 75,3 75,5 75,6 75,7 75,7 75,9 76,0

Đồng bằng sông Cửu Long 73,4 73,8 74,1 74,3 74,4 74,4 74,6 74,7

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2005 -2015) [145]

Page 174: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

169

PHỤ LỤC 8

Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo

phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật

Đơn vị: %

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Tổng số 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 19,9

Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật .. 85,4 84,5 83,4 82,1 81,8 80,1

Dạy nghề 4,8 3,8 4,0 4,7 5,3 4,9 5,0

Trung cấp chuyên nghiệp 2,7 3,4 3,7 3,6 3,7 3,7 3,9

Cao đẳng 1,5 1,7 1,7 1,9 2,0 2,1 2,5

Đại học trở lên 5,5 5,7 6,1 6,4 6,9 7,6 8,5

Nguồn: Tổng cục thống kê các năm (2009 -2015) [145]

PHỤ LỤC 9

Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế

đã qua đào tạo phân theo vùng

Đơn vị:%

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Cả nước 14,3 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 19,9

Đồng bằng sông Hồng 18,1 20,9 20,7 21,1 24,0 24,9 25,9 27,5

Trung du và miền núi phía Bắc 12,2 13,2 13,3 13,6 14,6 15,6 15,6 17,0

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 13,1 13,5 12,7 14,4 14,9 15,9 16,4 19,4

Tây Nguyên 11,4 10,9 10,4 10,8 12,1 13,1 12,3 13,3

Đông Nam Bộ 22,5 19,6 19,5 20,7 21,0 23,5 24,1 25,3

Đồng bằng sông Cửu Long 7,8 7,9 7,9 8,6 9,1 10,4 10,3 11,4

Chú thích: Lao động đã qua đào tạo là những người đã học và tốt nghiệp ở một trường lớp đào tạo chuyên

môn kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc Hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng

trở lên (có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo).

Page 175: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CON … _ Bui Thi Phuong Thuy _gui KTKT_.pdf · Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát

170

PHỤ LỤC 10

Chỉ số HDI vác các chỉ số thành phần của Việt Nam giai đoạn 2009 - 2012

Năm Chỉ số HDI Chỉ số

tuổi thọ

Chỉ số

giáo dục Chỉ số GDP

1999 0,650 0,721 0,803 0,430

2008 0.726 0,794 0,83 0,559

2012 0.752 0,80 0.84 0,615

Nguồn: Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, 2015 [149]; [150]

và tính toán của tác giả